BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
---------------------------
VŨ TRẦN DUY
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU ĐƢỢC SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU CHIẾT TÁCH TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số ngành: 60420201
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng năm
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
---------------------------
VŨ TRẦN DUY
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU ĐƢỢC SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU CHIẾT TÁCH TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số ngành: 60420201
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng
TS. DS. Trần Văn Bảo
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng năm
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
Cán bộ hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng
Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Công nghệ TP. HCM
ngày 11 tháng 11 năm 2017
Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm:
TT Họ và(cid:13)tên Chức danh Hội đồng
GS. TSKH. Nguyễn Trọng Cẩn Chủ tịch 1
TS. Dương Thị Hồng Diệp Phản biện 1 2
TS. Nguyễn Hoài Hương Phản biện 2 3
TS. Hồ Viết Thế Ủy viên 4
TS. TRịnh Thị Lan Anh Ủy viên, Thư ký 5
Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được
sửa chữa (nếu có).
Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ TP. HCM CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TP. HCM, ngày 31 tháng 08 năm 2017
NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ tên học viên: VŨ TRẦN DUY Giới tính: Nam
Ngày, tháng, năm sinh: 26.04.1984 Nơi sinh: Dồng Nai
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học MSHV: 1541880002
I- Tên đề tài:
Đánh giá chất lượng tiểu cầu được sản xuất từ máu toàn phần và tiểu cầu chiết tách trên
máy tách tế bào tự động tại bệnh viện Chợ Rẫy.
II- Nhiệm vụ và nội dung:
Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng và chất lượng của KTC được sản xuất từ máu
toàn phần và từ máy tự động.
Nghiên cứu sự thay đổi của các chỉ số huyết học, sinh hoá trong túi TC từ đó
đánh giá được chất lượng của túi TC sau thời gian bảo quản.
III- Ngày giao nhiệm vụ: 15.12.2017
IV- Ngày hoàn thành nhiệm vụ: 31.08.2017
V- Cán bộ hƣớng dẫn: PGS. TS.Nguyễn Tiến Thắng
TS. DS. Trần Văn Bảo
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH
(Họ tên và chữ ký) (Họ tên và chữ ký)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này do chính tôi thực hiện, đây là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của riêng tôi. Những thông tin tham khảo trong luận văn đều được
trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự thực
hiện, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả
này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Học viên thực hiện luận văn
Vũ Trần Duy
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 08 năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất đến tập thể giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Thực phẩm – Môi trường,
trường đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng tận tình chỉ dạy, truyền
đạt kiến thức cho tôi trong suốt qúa trình học tập tại trường thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng
và TS. DS. Trần Văn Bảo – người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ và động
viên cá nhân tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Với những kiến
thức này làm nền tảng cho chúng tôi vận dụng vào công việc và cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của toàn thể gia đình, bạn
bè trong suốt quá trình hoàn thành luận văn, cũng như trong suốt quá trình học tập vừa
qua.
Vì thời gian hạn hẹp và vốn kiến thức còn hạn chế nên cuốn báo cáo này sẽ
không thể tránh những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo và đóng góp của quý thầy cô và
các bạn để cuốn báo cáo này hoàn thiện hơn.
Xin kính chúc quý Thầy, Cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào tạo
những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Vũ Trần Duy
Học viên thực hiện luận văn
TÓM TẮT
Hiện nay máu và các chế phẩm máu được sử dụng ngày càng nhiều. Trong các
chế phẩm máu thì khối tiểu cầu (KTC) được sử dụng phổ biến. Hiệu quả truyền tiểu
cầu trên bệnh nhân phụ thuộc nhiều vào chất lượng khối tiểu cầu. Vì vậy tiến hành
nghiên cứu đánh giá chất lượng chế phẩm KTC được sản xuất tại bệnh viện Chợ Rẫy
theo hai phương pháp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 40 KTC điều
chế từ máu toàn phần bằng phương pháp Buffy‐coat và 160 KTC gạn tách từ máy tách
tế bào tự động tại bệnh viện Chợ Rẫy; phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến
cứu in vitro tại 1, 3, 5 ngày lưu trữ. Kết quả và kết luận:
Khối tiểu cầu (KTC) điều chế từ đơn vị máu toàn phần và KTC gạn tách từ
người hiến máu bằng máy tách tế bào tự động đạt tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam tại
thông tư 26/2013/TT-BYT hướng dẫn hoạt động truyền máu.
Các thay đổi về các chỉ số huyết học và sinh hoá của KTC: Số lượng tiểu cầu,
nồng độ glucose giảm và có mối tương quan thuận với sự thay đổi của chỉ số pH KTC
theo ngày bảo quản. Độ pH giảm tuy nhiên vẫn trong giới hạn cho phép. Nồng độ LDH, ion Ca TP, K+, Na+ tăng theo ngày bảo quản.
ABSTRACT
Nowadays, blood and blood products are more useful. Especially, the platelet
concentrates is commonly used. Efficiency of platelet transfusions depends on
plateletconcentrate„s quality. Therefore, we conducted a study to evaluate the quality of
platelet concentrate manufactured at Cho Ray Hospital. Study design and methods: 40
units Buffycoat platelets and 160 units platelet concentrate separated from donor‟s
bloodbyautomated cell separator (plateletpheresis) at Cho Ray Hospital. Research
method cross-sectional study, prospective study in vitro buffycoat platelets function
after storage at 1, 3, 5 day. Result and conclusion:
The platelet concentrate separated from donor‟s whole blood and by automatic
cell separators (plateletpheresis) achieved Vietnam‟s standard quality according to
Circular No. 26/2013 / TT-BYT (guidelines for blood transfusion operation).
Some hematology, biochemical indexes of platelet concentrates were changed:
decreasing number of platelets,Concentration of glucose during preserving time. pH was decreased within limits, Concentration of LDH, ion Ca TP, K+, Na+ Increase by day of
storage.
1
MỞ ĐẦU
Truyền máu là một liệu pháp điều trị rất có hiệu quả trong nhiều bệnh lý và đã
góp phần hỗ trợ quan trọng trong điều trị và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Do đó truyền
máu cần phải được sử dụng đúng, hợp lý để phát huy tối đa hiệu quả và hạn chế tai
biến truyền máu. Nguyên tắc cơ bản của truyền máu hiện đại là chỉ truyền các thành
phần máu mà người bệnh cần. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự hiểu biết đầy
đủ về mặt miễn dịch học, người ta đã có thể tách riêng từng thành phần của máu: hồng
cầu (HC), tiểu cầu (TC), bạch cầu (BC) hạt trung tính, huyết tương tươi, tủa lạnh yếu tố
VIII, các yếu tố đông máu,… Việc sử dụng các chế phẩm vừa mang lại hiệu quả về lợi
ích kinh tế cho bệnh nhân (BN) vừa truyền đúng thành phần mà cơ thể thiếu giúp tránh
lãng phí và hạn chế được tai biến xảy ra trong truyền máu.
Trong các dạng chế phẩm máu thành phần, chế phẩm TC được sử dụng nhiều để
truyền cho những BN cần truyền TC. Bởi TC đóng vai trò quan trọng trong tất cả các
giai đoạn đông cầm máu và góp phần vào quá trình làm lành vết thương. Sự khiếm
khuyết của TC về số lượng hay chất lượng đều có thể đưa đến các phản ứng với các
mức độ từ nhẹ đến nặng khác nhau, hoặc không hiệu quả nhiều khi đe dọa đến tính
mạng của BN (xuất huyết não, đường tiêu hóa, thận,...). Truyền khối tiểu cầu (KTC) là
một liệu pháp điều trị thay thế quan trọng giúp BN tạm thời có đủ số lượng TC cần
thiết để ngăn chặn quá trình chảy máu. Với sự hiểu biết về tầm quan trọng của việc
truyền máu theo đúng các thành phần thì một yêu cầu đưa ra cho các Trung tâm truyền
máu là phải cung cấp đầy đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng của KTC cung cấp
cho BN.
Ngoài sản xuất TC theo các phương pháp truyền thống từ các túi máu toàn phần
hiện nay có khá nhiều các hãng sản xuất máy chiết tách TC tự động từ một người cho
như: Haemonetic, Nigale, Trima,… phần nào đáp ứng được nhu cầu sử dụng ngày càng
tăng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Việc đánh giá chất lượng của mỗi loại KTC
cũng có những tiêu chuẩn khác nhau. Có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng TC
2
như người hiến máu, quá trình điều chế, điều kiện bảo quản. Việc đánh giá được chất
lượng TC được sản xuất từ máu toàn phần và từ người hiến TC trên máy tự động sẽ
giúp các thầy thuốc lâm sàng cho chỉ định chính xác, phù hợp với nhu cầu sử dụng của
BN, cũng góp phần làm tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm chi phí cho BN. Vì vậy thí
nghiệm được tiến hành nghiên cứu đề tài: “ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU
ĐƢỢC SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU CHIẾT TÁCH
TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY” nhằm hai
mục tiêu:
1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng và chất lượng của KTC được sản xuất từ máu
toàn phần và từ máy tự động.
2. Nghiên cứu sự thay đổi của các chỉ số huyết học, sinh hoá trong túi TC từ đó
đánh giá được chất lượng của túi TC sau thời gian bảo quản.
3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm và chức năng của tiểu cầu (TC)
Tiểu cầu là một trong những tế bào (TB) máu có kích thước nhỏ, đường kính TC 3 – 4 µm, số lượng trong máu ngoại vi khoảng từ 150 – 400x109/L máu. TC đóng vai
trò quan trọng trong cơ chế đông máu, nhất là giai đoạn cầm máu ban đầu.
1.1.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh sản của tiểu cầu
1.1.1.1. Nguồn gốc
Một vài mẫu TC được tìm thấy trong túi noãn hoàng vào tuần thứ 6 – 7 của thai
kỳ. Sau đó chúng phát triển trong gan, lách và cuối cùng là ở tủy xương vào tuần 13.
TC được hình thành từ sự vỡ ra của bào tương các mẫu TC theo cơ chế nội phân bào.
Tuần hoàn mao mạch phổi cũng là nơi phóng thích TC từ những mẫu TC trưởng thành
đã đi vào vòng tuần hoàn. Một giả thuyết khác lại cho rằng TB mẫu TC duỗi dài một
phần bào tương sau đó chít hẹp lại từng đoạn và tách ra để tạo nên các TC (Bertolini et
al, 1993).
1.1.1.2. Yếu tố điều hòa sinh tiểu cầu
Theo nghiên cứu của Bertolini và cộng sự (1993) có rất nhiều cytokine tham gia
vào việc điều hòa quá trình sinh TC, các chất này có thể tác động vào nhiều giai đoạn
như tăng sinh, trưởng thành của mẫu TC và sự tạo thành TC. Các cytokine có thể được
chia thành 4 nhóm chính dựa theo hoạt tính sinh học như sau:
Nhóm tác động ở giai đoạn sớm: SCF (Stem cell factor), LIF (Leukemic
inhibitory factor), IL-6, IL-11. Trong đó, SCF có tác động làm tăng sinh mẫu TC; LIF,
IL-6 và IL-11 làm mẫu TC trưởng thành biểu hiện ở tăng kích thước TB, tăng sự phân
múi của nhân.
Nhóm có tác động nhiều dòng: IL-3, GM-CSF (Granulo – mono colony
stimulating factor), cả hai chất này đều có tác động kích thích sự tạo dòng mẫu TC,
nhưng riêng IL-3 có tác dụng mạnh hơn.
4
Nhóm tác động ở giai đoạn muộn: erythropoietin (EPO), thrombopoietin
(TPO). Trong đó, EPO có tác động trong quá trình trưởng thành của mẫu TC. TPO có
nguồn gốc từ gan; có 2 vai trò quan trọng: kích thích tăng sinh số lượng các mẫu TC,
kích thích tăng tốc độ trưởng thành bào tương của mẫu TC (AABB, 1997) và tốc độ
giải phóng của TC. Hiện nay nhiều công trình đã nghiên cứu việc sử dụng TPO điều trị
cho các BN giảm TC như là một biện pháp thay thế.
Nhóm có tác động ức chế: IL-4, interferon (IFN), TGF (Transforming growth
factor), yếu tố TC 4 (PF-4) và thromboglobulin (TG). Trong nhóm này, PF-4, TG có
nguồn gốc từ TC và IL-4, IFN có nguồn gốc từ ngoài TC. Các chất này có tác động ức
chế quá trình nội gián phân của mẫu TC.
1.1.1.3. Đặc điểm sinh sản của tiểu cầu
Quá trình sinh TC là quá trình sinh sản và biệt hóa từ TB gốc vạn năng theo sơ
HSC
CFU-GEMM
Tiểu cầu
MTC có hạt sinh TC
Nguyên MTC MTC có hạt ưa mẫu TC chưa (CFU-Meg) base sinh TC sinh TC
đồ sau:
Hình 1.1. Sơ đồ sinh tiểu cầu
(HSC: hemopoietic stem cells, MTC: mẫu tiểu cầu, TC: tiểu cầu)
Quá trình này diễn ra trong một vi môi trường phức tạp của tủy xương. Mẫu TC
là TB đầu dòng của TC và là TB máu lớn nhất trong các TB máu ở tuỷ xương với nhân
to và chia nhiều múi, bào tương rộng chứa nhiều nhóm hạt, mỗi nhóm có khoảng 10 –
12 hạt ái kiềm. Tủy xương có thể tái tạo 108 mẫu TC mỗi ngày. Mỗi mẫu TC có thể
sinh được từ 1.000 đến 5.000 TC (Nguyễn Trường Sơn, 2000; Bertolini et al, 1993).
5
Thời gian sống của TC trung bình từ 8 – 12 ngày. Sự thay đổi của TC gắn liền
với sự lão hoá. Tuy nhiên có một phần nhỏ TC có tình trạng tiêu huỷ ngẫu nhiên, đó là
các TC tham gia vào quá trình đông máu sinh lý. Nhìn chung khoảng 10% TC chết và
được thay thế mỗi ngày.
1.1.2. Hình thái và cấu trúc tiểu cầu
TC mang hình ảnh là các mảnh TB nhỏ, hình dạng không nhất định, thường là
dạng hình đĩa, không nhân, đường kính 2 – 4 µm và thể tích khoảng 6 – 7 fl. Ở trạng
thái nghỉ, bề mặt TC trơn nhẵn; khi được hoạt hóa chúng sẽ nhanh chóng tạo ra các giả
túc hình gai.
Hình 1.2. Cấu trúc tiểu cầu
Dưới kính hiển vi quang học TC có một siêu cấu trúc phức tạp gồm lớp màng,
các hạt, hệ thống vi ống, hệ thống các kinh mở và được chia thành các vùng sau:
Vùng ngoại vi: là màng TB có nhiều chỗ lõm rất sâu, màng gồm 3 lớp:
Màng bào tương: màng này được cấu tạo bởi ba lá, hai lá ngoài có bản chất là
phospholipid, còn lá giữa chứa cholesterol, glycolipid và glycoprotein. Lớp màng này còn chứa bơm Na+/K+ -ATPase đóng vai trò kiểm soát môi trường ion của TC (Nguyễn
Trường Sơn, 2000). Phospholipid là nguồn của các chất trung gian hoạt hoá TC và hỗ
trợ cho cơ chế đông máu. Các glycoprotein màng đóng vai trò như các thụ thể bề mặt.
6
Bảng 1.1. Các thụ thể bề mặt chính của tiểu cầu
Glycoprotein thụ thể Chức năng/ chất liên kết
Thụ thể của fibrinogen, vWF, fibronectin GPIIb/IIIa
GPIa/Iia Collagen
GPIb/IX/V vWP
GPVI Collagen
Hệ thống các ống dẫn bề mặt: tương ứng với sự lồng vào của màng bào tương
ngoại vi vào bên trong TC. Khi có sự hoạt hoá TC, các TC thay đổi hình dạng, hệ
thống ống dẫn bề mặt cũng cho phép gia tăng đáng kể bề mặt trao đổi giữa môi trường
bên ngoài và bào tương. Hơn nữa nó làm cho sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các hạt nội TC
với màng bề mặt.
Hệ thống ống dẫn đậm đặc: hệ thống ống dẫn đậm đặc tương đương với lưới cơ
tương của cơ trơn. Đó là nơi chính dự trữ calcium ion hoá mà các chuyển động nội bào
tương đương của nó kiểm soát sự hoạt hoá TC. Nó có sự liên quan mật thiết với hệ
thống ống dẫn bề mặt.
Bào tƣơng
Ở trạng bình thường, TC có dạng đĩa được bao quanh bởi một vòng các vi ống
tạo thành một hệ ống đa trùng hợp đóng vai trò bộ khung TB đó là sườn vi ống. Trong
quá trình hoạt hoá TC, hệ vi ống tự giải trùng hợp và TC thay đổi hình dạng. Hiện
tượng tương tự xảy ra khi TC ở trong môi trường có chất loại bỏ calcium mạnh như
EDTA. TC có chứa nhiều protein cơ giúp TC thay đổi hình dạng, mọc giả túc, di động
và tiết các hạt. Hai protein chính của hệ thống co rút là actin và myoisin và cũng có
một hệ thống điều hoà phức hợp liên quan đến nhiều protein khác.
Các hạt nội TC: phân biệt 3 loại hạt TC: hạt đậm đặc, hạt α và các hạt tiêu thể.
Các hạt đậm đặc: thường ít, số lượng từ 1 đến 10/TC, tương tự hệ thống ống
đậm đặc chúng có chứa các calci cũng như serotonin và các hạt nucleotid. Các hạt
nucleotid đại diện là ATP, và nhất là ADP. ADP và serotonin là các chất trung gian
7
hoạt hoá TC, hơn nữa serotonin có tác động trên tính vận mạch. Cuối cùng ATP và
ADP khác với các nucleotid bào tương không thể được tiết ra và là nguồn chuyển hoá
của TC.
Các hạt α: loại hạt chiếm tỷ lệ cao nhất trong TC, mỗi TC có khoảng 50 – 80
hạt α, hạt này chứa một lượng phong phú các protein đóng nhiều vai trò khác nhau
trong quá trình cầm máu, đông máu và sự lành vết thương (phục lục 1) (Nguyễn
Trường Sơn, 2000).
Các hạt tiêu thể: các tiêu thể TC chứa nhiều enzyme. Sự tiết các thành phần của
chúng cho thấy sự hoạt hoá TC tối đa. Các enzyme được phóng thích từ lúc đó dễ làm
tổn thương thành mạch.
1.1.3. Đặc tính chính của tiểu cầu
1.1.3.1. Khả năng hấp phụ và vận chuyển các chất
TC có khả năng hấp phụ các chất trong huyết tương để tạo ra một lớp khí quyển
bao xung quanh. Nhờ đó các chất thiết yếu cho quá trình cầm máu nói chung và đông
máu nói riêng được vận chuyển đến những nơi cần thiết.
Ví dụ như TC có khả năng hấp thụ adrenalin, noradrenalin và các yếu tố đông
máu của huyết tương.
1.1.3.2. Khả năng kết dính của TC
TC có khả năng dãn ra và dính vào một số bề mặt. Trong cơ thể thì TC không
dính vào lớp TB nội mạc nhưng lại có thể dính rất nhanh với tổ chức dưới nội mạc, đặc
biệt là với collagen. Dính là sự khởi đầu cho sự bài tiết phóng thích các chất hoạt động,
là hiện tượng vật lý do lực hút tĩnh điện giữa TC với cơ chất. TC còn có thể dính vào
các bề mặt lạ như thuỷ tinh, lam kính,... Các thành phần tham gia vào hiện tượng dính:
Collagen: là chất quan trọng để TC bám dính, kích thích TC ngưng tập.
Collagen tồn tại ở vùng gian bào mạch máu.
GPIb: giúp cho hoạt động của chức năng dính.
vWF: gắn với TC qua GPIb như cầu nối TC với một lớp nội mô bị tổn thương.
8
Các yếu tố khác bao gồm: fibronectin, thrombospondin, ion Ca2+.
1.1.3.3. Khả năng gây ngƣng tập TC
Đây là hiện tượng tiểu cầu dính với nhau thành từng đám (nút tiểu cầu). Hiện
tượng dính hoạt hoá tiểu cầu, tạo điều kiện cho hiện tượng ngưng tập (aggregation) xảy
ra. Một số chất có khả năng gây ngưng tập tiểu cầu là: ADP, thrombin, adrenalin,
serotonin, acid arachidonic, thromboxan A2, collagen, ristocetin,... trong đó ADP đóng
vai trò quan trọng nhất. Cơ chế ngưng tập là qua trung gian của liên kết fibrinogen
GPIIb/GPIIIa đã được hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài bào tương.
Cơ chế gây ngưng tập phải qua trung gian liên kết của fibrinogen với GPIIb/IIIa
đã được hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài bào tương. Fibrinogen được xem như cầu nối
những GPIIb/IIIa của các TC với nhau và do đó tạo ra được sự ngưng tập của TC. Điều
kiện để TC ngưng tập phải là màng TC phải nguyên vẹn không bị tổn thương và có mặt
một số yếu tố huyết tương, đặc biệt là fibrinogen.
1.1.3.4. Khả năng thay đổi hình dạng và phóng thích các chất
Khi được hoạt hóa (sau khi kết dính), TC có khả năng thay đổi hình dạng và bài
xuất ra các chất.
1.1.4. Sinh hoá của tiểu cầu
TC được tạo ra từ sự phân mảnh của bào tương mẫu TC. Các TC không có
nhân, vì vậy chúng không tổng hợp protein. Hai quá trình chuyển hoá chính của TC lúc
nghỉ là sự ly giải đường hay glycogen và sự phosphoryl hoá. Các quá trình này tăng lên
rõ rệt khi TC bị hoạt hoá, ngoài ra các quá trình sinh hoá khác cũng xảy ra khi TC bị
kích thích như sự dịch chuyển của ion calci, sự phosphoryl hoá protein, sự giải phóng
các arachidonate,…
1.1.4.1. Chuyển hoá của TC khi nghỉ ngơi
TC sử dụng năng lượng từ ATP, chất này có thể được thành lập qua sự thoái
giáng của glucose, acid béo, acid amin từ huyết tương hay môi trường nuôi dưỡng và
từ glycogen của TC (Nguyễn Trường Sơn, 2000).
9
Chuyển hoá Carbohydrate của TC
Sự ly giải glucose và glycogen là con đường chuyển hoá chính của TC để tạo
năng lượng. Quá trình này phụ thuộc vào nồng độ glucose ngoại bào và oxy.
Sự ly giải đường yếm khí là quá trình chuyển hoá glucose-6-phosphate thành
lactate, glucose-6-phosphate được hình thành từ 2 đường: (1) sự phosphoryl hoá của
glucose được vận chuyển qua màng TC bởi hexokinase và (2) được chuyển hoá từ
glucose-1-phosphate, sản phẩm ly giải từ glycogen. Glucose-6-phosphate cũng được
chuyển hoá bởi con đường hexose monophosphate, quá trình này tạo thành CO2 và
NADPH, chất này được dùng để tổng hợp acid béo (Nguyễn Trường Sơn, 2000). Sự ly
giải đường trong điều kiện ái khí sẽ tạo ra pyruvate, chất này bị oxy hoá thành CO2 và
H2O ở trong ty thể của TC. Enzyme đầu tiên của quá trình này là pyruvate
dehydrogenase đóng vai trò trung tâm trong hiệu ứng Crabtree, Pasteur và đóng vai trò
quan trọng trong sự biến đổi số lượng ATP được tạo thành bởi sự oxy – phosphoryl
hoá trong điều kiện khác nhau của số lượng và phương cách phân lập TC.
Chuyển hoá lipid của TC
Acid béo được biến đổi thành acyl CoA qua enzyme acyl CoA synthetase, nhóm
acyl được ester hoá tạo thành acid lipophosphatidic và sau đó tạo thành acid
phosphatidic. Chất này được dephosphoryl hoá tạo thành diglycerid. Diglycerid là tiền
chất của nhóm diacyl – glycerol trong thành phần của các phospholipid như
phosphatidyl cholin, phosphatidyl ethanolamin và phosphatidyl serine.
Các acid arachidonic được giải phóng từ glycerophospholipid. Dưới tác dụng
của các enzyme cyclo – oxygenase và lipooxygenase, acid arachidonic tự do sẽ chuyển
hoá thành các sản phẩm eicosanoid. Các sản phẩm này có thể là chất ức chế hay kích
thích mạnh đối với TC.
10
Hình 1.3. Chuyển hóa của acid arachidonic
Trong TC một phần nhỏ PGH2, sản phẩm của sự tương tác cyclooxygenase –
arachidonate, được chuyển hoá thành các prostaglandin ổn định (PGE2, PGD2, PGFα),
trong khi đó phần lớn sản phẩm chuyển thành thromboxane A2 dưới tác dụng của
thromboxane synthetase.
Qua con đường lipoxygenasse, acid arachidonic được chuyển hoá thành 12-
HPETE và 12-HETE
1.1.4.2. Hoạt hóa TC
Khi TC đến khu vực mạch máu bị tổn thương, chúng được kích hoạt bởi một
loạt chất chủ vận bao gồm ADP, thrombin, thromboxanes,… tương tác với các thụ thể
xuyên màng. Kết quả cho phép kích hoạt các enzyme tham gia vào chuyển hóa, đặc
biệt phosphatidyninositol 3-kinase và phospholipase C. Kết quả quá trình hoạt động chuyển hóa trong nồng độ cao của Ca++ bào tương và phosphoryl hóa các protein bề
mặt mang lại thay đổi hình dạng TC, giải phóng các chất trong hạt α và hạt đặc, kích
thích phospholipase A2 và giải phóng thromboxan A2 (TXA2), cảm ứng một bề mặt
gây đông máu và kích hoạt thụ thể GPIIb/IIIa.
11
TXA2 được tổng hợp bởi TC kích hoạt từ acid arachidonic thông qua con đường
cyclooxygennase (COX), sau khi hình thành TXA2 khuếch tán qua màng TB và kích
hoạt TC khác. Ở các TC TXA2 liên kết với các thụ thể G-protein (Gq, G12, hoặc G13) tất
cả đều kích hoạt phospholipase C (PLC). Enzyme này chuyển hóa phosphoinositide
màng, ví dụ biphosphate 4,5 phosphatidylinositol (PIP2) thành tín hiệu truyền tin thứ
hai inositoltriphosphate (IP3) và diacylglycerol (DAG). DAG gây kích hoạt protein kinase C nội TB (PKC) gây phosphoryl hóa protein. IP3 làm tăng nồng độ Ca++ từ hệ
thống ống đậm đặc vào bào tương.
ADP được giải phóng từ TC và HC, TC trình diện ít nhất hai thụ thể của ADP là
P2Y1 và P2Y12 chúng kết cặp với Gq và Gi tương ứng. Hoạt hóa của P2Y12 ức chế
adenylate cyclase làm giảm AMP vòng (cAMP: Cyclic adenosine monophosphate), hoạt hóa P2Y1 là nguyên nhân của sự gia tăng Ca++ nội bào. Thụ thể P2Y12 là thụ thể chính để khuếch đại và duy trì hoạt hóa của TC đáp ứng với ADP.
Thrombin nhanh chóng được tạo ra tại các điểm tổn thương của mạch máu từ
protrombin lưu hành, là trung gian tạo fibrin, đại diện cho khả năng mạnh nhất của TC
hoạt hóa.
1.1.4.3. Ức chế TC
Kích hoạt TC được tạo ra bởi quá trình sinh hóa, để suy yếu hoặc ngăn chặn nó,
chất sinh lý tối quan trọng là cAMP, nó được sản xuất trong TC là kết quả của một tín
hiệu ngoại bào mà một phần lớn có nguồn gốc ngoài TC (ví dụ TB nội mô sản xuất
PGI2). cGMP (cyclic guanosine monophosphate) là chất truyền tin thứ hai ức chế TC.
cGMP: TC có chứa guanylyl cyclase, nó hoạt động sau khi TC hoạt hóa,
chuyển GTP thành cGMP. Kích hoạt sinh lý của guanylyl cyclase là do acid béo không
bão hòa nguồn gốc từ TC bao gồm cả acid arachidonic hoặc có thể bởi các phân tử
khác có nguồn gốc từ các mạch máu. EDRF ức chế chất chủ vận gây ra kích hoạt TC,
thông qua kích hoạt chọn lọc của guanylyl cyclase TC. Trong điều kiện sinh lý cGMP
làm giảm các phản ứng của TC với chất chủ vận.
12
cAMP: tổng hợp của nó được điều tiết bởi adenylyl cyclase. cAMP ức chế TC
bằng nhiều cách, có thể ảnh hưởng tới cả hai khởi đầu và duy trì một phản ứng kích
thích. Nhiều bước riêng lẻ trong con đường chuyển tải tín hiệu ban đầu của chất chủ
vận bị ảnh hưởng bởi cAMP. cAMP làm giảm liên kết thrombin tới TC, điều này ức
chế hình thành một tín hiệu phức tạp. cAMP ức chế PLC, ảnh hưởng đến tín hiệu DG
để kích hoạt PKC làm tăng chuyển hóa của nó tới phosphoinositides nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của PKC. Quan trọng nhất cAMP đối kháng Ca++ thông qua sự đa dạng các cơ chế, ảnh hưởng đến giải phóng và hấp thu của Ca++ từ hệ thống
ống đậm đặc của TC.
Kích hoạt của TC là một mạng lưới phức tạp của các quá trình sinh hóa phụ
thuộc lẫn nhau, có chức năng tạo một nút TC tại vị trí của mạch máu bị tổn thương. Sự
cân bằng giữa kích hoạt và ức chế TC được xác định bằng sự phối hợp dẫn truyền của
các tín hiệu ngoại bào thông qua các con đường liên hệ với nhau trong TB và các tín
hiệu thứ hai.
1.1.5. Miễn dịch tiểu cầu
1.1.5.1. Các kháng nguyên tiểu cầu
Glycoprotein (GP) của TC: là thành phần chủ yếu của màng TC và đóng một vai
trò quan trọng trong các chức năng của TC. Cho đến nay người ta đã xác định có ít
nhất 50 loại GP khác nhau, tuy vậy chỉ có khoảng 12GP được nghiên cứu kỹ lưỡng về
tính KN.
Về cấu trúc các GP này có sự khác nhau: 4 GP (Ib, Ic, IIb, αv) bao gồm một tiểu
đơn vị lớn (chuỗi nặng) gắn đồng hóa trị với một tiểu đơn vị nhỏ (chuỗi nhẹ) bằng các
cầu nối disulfua; 3 GP (Ia, IIa, IIIa) bao gồm một chuỗi polypeptide và nhiều cầu nối
disulfua nội chuỗi: 5GP (IV, V, IX, chuỗi nặng HLA, β2-microglobulin) có một chuỗi
polypeptide đơn.
13
1.1.5.2. Di truyển Kháng nguyên của tiểu cầu
KN đầu tiên được Moulinier phát hiện năm 1957. Phần lớn các KN này được
biểu hiện trên các phân tử dính thuộc họ Integrin. Các KN biểu hiện trên integrinβ3 (GP
IIIa) cũng được xác định trên bề mặt TB nội mô, TB cơ trơn và TB sợi. Các KN biểu
hiện trên integrinα2 (GP Ia) cũng được tìm thấy trên TB lympho T hoạt hóa và TB nội
mô. Ngược lại, các KN định vị trên integrin αIIb và trên GP Ibα và GP Ib β (thuộc nhóm
GP giàu leucin) thì thật sự đặc hiệu cho TC. Các KN này đóng vai trò rất quan trọng
trong sinh bệnh học của bệnh xuất huyết giảm TC do nguyên nhân miễn dịch (Cesar et
al., 1994). Cho đến nay người ta đã phát hiện nhiều KN đặc hiệu cho TC (phụ lục 2).
1.1.5.3. Kháng nguyên khác của tiểu cầu
Các KN khác của TC được chia ra làm hai nhóm chính: các KN hệ ABH và các
KN hệ HLA.
Các KN nhóm máu: TC biểu hiện các KN nhóm máu ABH, P, Ii và Lewis.
Tuy nhiên sự biểu hiện các KN này trên TC không mạnh mẽ và thường xuyên như trên
HC. Một số KN được sản xuất nội sinh trong TC (ABH, Ii, P), một số được hấp phụ từ
huyết tương (Lewis, ABH).
Các KN hệ HLA: TC chỉ biểu hiện các KN HLA lớp 1 (Ali et al., 1994). Các
phân tử HLA lớp 1 trên TC về số lượng tương đối giống như trên các TB lymphocyte.
Các phân tử này có nguồn gốc nội sinh do chính bản thân TC tổng hợp thành, tuy vậy
một số tác giả khác cho là TC có thể hấp phụ một số phân tử HLA từ huyết tương một
cách thụ động. Sự biểu hiện các phân tử HLA trên TC của mỗi cá thể có thể thay đổi
khác nhau và các KN HLA-C đều biểu hiện rất kém trên TC (Nguyễn Trường Sơn,
2000).
14
1.2. Sơ lƣợc về tình hình sử dụng và các phƣơng pháp sản xuất tiểu cầu trên thế
giới và tại Việt Nam
1.2.1. Tình hình sử dụng tiểu cầu
Việc bảo quản KTC được bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 50, Minor và
Burnett đã dùng chai thuỷ tinh tráng silicon để chứa máu và tránh các TC bám dính,
việc sản xuất KTC lúc này vẫn theo hệ thống hở. Walter và Murphy đã sử dụng túi
nhựa chứa máu bằng PVC giúp cho việc lưu trữ và ly tâm tách các thành phần máu
được dễ dàng. Từ thập niên 70, việc sản xuất KTC được dựa trên hệ thống kín với hệ
thống 3 hay 4 túi chất dẻo được làm bằng tay hay máy tách TB máu bán tự động. Hiện
nay, các nước tiên tiến đã áp dụng các loại máy tách TB máu tự động giúp cho việc thu
thập được một SLTC lớn từ một người cho máu (Murphy et al., 1996).
Ở nước ta, việc sản xuất KTC đậm đặc được bắt đầu từ năm 1994 tại Viện huyết
học truyền máu và theo quy trình hở. Hiện nay ở các Trung tâm truyền máu và Trung
tâm truyền máu bệnh viện Chợ Rẫy đã có máy tách TB máu tự động, nhu cầu sử dụng
TC chiết từ máy ngày càng cao hơn (Hà Thị Anh, 2009; Đỗ Trung Phấn, 2006). Số
lượng kit TC sản xuất từ máy tự động trung bình một năm tại bệnh viện Chợ Rẫy là
11.000 đơn vị năm 2015 tăng lên 15.000 năm 2016 và đến tháng 6 năm nay lượng TC
sản xuất cung cấp cho nhu cầu truyền máu của bệnh viện Chợ Rẫy và các bệnh viện
trong năm tỉnh miền Đông Nam Bộ tăng lên đáng kể (8.000 đơn vị). Đặc biệt vào các
thời điểm dịch bệnh sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản lượng TC sử dụng tăng lên rất
nhiều. Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy và bệnh viện Huyết học truyền máu thành phố
là hai nơi cung cấp lượng TC chính cho khu vực phía Nam.
1.2.2. Các phƣơng pháp sản xuất khối tiểu cầu
1.2.2.1. Ly tâm điều chế các chế phẩm tiểu cầu
Ly tâm là phương pháp thông dụng để điều chế các chế phẩm máu. Việc lựa
chọn các chế độ ly tâm tuỳ theo mục đích điều chế và yêu cầu đặc tính các thành
phẩm được điều chế. Việc lựa chọn bước ly tâm đầu tiên quyết định loại chế phẩm
được điều chế trong các bước sau cũng như ảnh hưởng đến các đặc tính chính của chế
15
phẩm (Trần Văn Bé, 1999; Loos et al., 1997).
Vận tốc di chuyển của các TB tuân theo công thức của Svedberg:
Trong đó: V: vận tốc lắng (m/s)
W: vận tốc góc của tay quay r: bán kính TB (m)
R: khoảng cách từ TB đến tâm tay quay (m)
Như vậy về mặt lý thuyết, trạng thái cân bằng tỉ trọng nổi có thể đạt được sau
khi ly tâm tùy theo tỉ trọng của từng loại TB được sắp xếp theo thứ tự từ dưới lên trên:
HC, bạch cầu hạt, lymphocyte, monocyte, TC và huyết tương (Loos et al., 1997).
Khi trạng thái cân bằng tỉ trọng nổi không đạt được, sự tách các thành phần máu
được xác định bởi sự khác biệt giữa tốc độ lắng của các TB và tốc độ hướng tâm của
dòng huyết tương, chủ yếu là do sự thay thế huyết tương bởi một lượng lớn HC đang
lắng xuống. Tốc độ lắng được xác lập bởi bình phương bán kính TB, TC có bán kính
đủ nhỏ để cho phép chúng có một chuyển động theo dòng chảy hướng tâm của huyết
tương (Loos et al., 1997; Murphy et al., 1996).
1.2.2.2. Sản xuất KTC từ huyết tƣơng giàu tiểu cầu (HTGTC)
Phương pháp HTGTC được sử dụng đầu tiên vào thập kỷ 60 và cho đến nay vẫn
được áp dụng rộng rãi tại Bắc Mỹ và một phần Châu Âu. HTGTC có thể được tách bởi
một lần ly tâm nhẹ, sau đó HTGTC được ly tâm mạnh lần thứ hai để tách được huyết tương nghèo tiểu cầu và KTC bị vón lại ở đáy túi. Sau khi để ở nhiệt độ 20 – 24oC từ
60 – 120 phút, KTC có thể được sử dụng cho BN hay được bảo quản. Để tách được
tiểu cầu, tốc độ và thời gian ly tâm cần được tính toán sao cho đạt hiệu xuất cao nhất
mà vẫn duy trì được sự sống và chức năng của TC (Murphy et al., 1996).
Phương pháp HTGTC có ưu điểm là không bị mất HC trong quá trình sản xuất
do đó đảm bảo số lượng HC sử dụng cho người nhận, đạt hiệu suất tách TC cao từ 60 –
70% (Murphy et al., 1996). Tuy nhiên phương pháp này cũng có các nhược điểm là
16
giảm hiệu suất thu thập huyết tương. Số lượng BC còn trong KTC cao hơn so với
phương pháp buffy coat. Một phần lớn BC nằm trong khối HC vì vậy ảnh hưởng tới
việc bảo quản khối HC do các chất phóng thích từ BC và thời gian sản xuất lâu hơn
(Rebulla, 1998).
1.2.2.3. Điều chế khối tiểu cầu từ lớp buffy coat
KTC điều chế theo phương pháp buffy coat từ những năm đầu thập kỷ 70 của
thế kỷ XX. Khi các nhà khoa học nhận thức được vai trò bất lợi của các bạch cầu còn
dư lại sau khi điều chế các chế phẩm máu (Murphy et al., 1996). Đơn vị máu toàn
phần lưu trữ không quá 24 giờ ở nhiệt độ 20 – 24oC, ly tâm mạnh để TC lắng chủ
yếu ở lớp buffy coat cùng với bạch cầu. Lớp buffy coat được tách ra tiếp tục xử lý để
có một KTC Lớp buffy coat được ly tâm nhẹ HC, bạch cầu lắng ở đáy túi, TC ở phía
trên với plasma được tách ra. Các nhà khoa học đã có nhiều cải tiến kỹ thuật nhằm đạt
hiệu suất tách TC cao và loại bỏ càng nhiều bạch cầu càng tốt khi điều chế. Phương
pháp buffy coat có những ưu điểm là hiệu quả loại bỏ bạch cầu cao hơn, các TC được
điều chế không bị vón cục sau lần ly tâm thứ nhất, do đó chúng không bị hoạt hoá
trong quá trình bảo quản. Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ nhược điểm như
mất một lượng HC trong quá trình điều chế, về hiệu suất tách TC, phương pháp buffy
coat thường đạt hiệu suất thấp hơn so với phương pháp huyết tương giàu tiểu cầu.
Ứng dụng: KTC pool là KTC tiếp nhận từ 4 – 6 người hiến máu toàn phần.
Khối tiểu cầu này có thể được điều chế trực tiếp từ buffy coat (đây là phương pháp hay
được lựa chọn), thường 4 – 6 buffy coat tương thích nhóm máu được gộp lại một cách
vô trùng, sau đó ly tâm nhẹ, tiểu cầu được chuyển vào một túi bảo quản phù hợp. Điều
chế từ các túi tiểu cầu đơn: 4 – 6 đơn vị (ĐV) khối tiểu cầu đơn chuẩn bị bằng phương
pháp huyết tương giàu tiểu cầu gộp lại. Bảo quản tối đa 5 ngày, khi pool trong hệ thống
hở phải sử dụng trước 6 giờ.
17
1.2.2.4. Gạn tách khối tiểu cầu bằng máy tách tiểu cầu tự động
Apheresis là một thuật ngữ Hy-lạp có ý nghĩa là gạn tách. Máy gạn tách thành
phần máu sẽ lấy máu ra khỏi cơ thể, trộn với chất chống đông và đưa vào hệ thống ly
tâm, phân tách ra các lớp và gạn tách thành phần theo yêu cầu và trả lại cơ thể các
thành phần còn lại một cách tự động dựa trên phần mềm của máy tách tự động đã được
lập trình (Harmening Denise M.(ASCP), 2005). Các thành phần được phân tách và thu
hồi gồm: HC, huyết tương, TC, BC.
Căn cứ vào kỹ thuật ly tâm dòng chảy liên tục hay không người ta phân thành
hai loại máy:
Máy sử dụng kỹ thuật ly tâm dòng chảy không liên tục: máu được xử lý theo
nhiều chu kỳ, mỗi chu kỳ hoạt động bao gồm: lấy ra một thể tích máu nhất định, ly tâm
phân tách máu ra các thành phần khác nhau (HC, BC, huyết tương,…), lấy ra một
thành phần rồi sau đó trả các thành phần còn lại về cho người hiến máu. Các chu kỳ lặp
lại cho đến khi đạt được lượng thành phần gạn tách theo yêu cầu. Những thế hệ máy
này có thể lấy máu tại một hoặc hai vị trí tĩnh mạch, tuy nhiên kỹ thuật sử dụng với
một vị trí tĩnh mạch thường được áp dụng hơn (Harmening Denise M.(ASCP), 2005).
Các loại máy phổ biến như Haemonetic, Nigale,...
Hình 1.4. Nguyên lý kỹ thuật ly tâm dòng chảy không liên tục
1.Đường máu vào; 2. Lớp huyết tương; 3.Lớp Buffycoat; 4.Lớp hồng cầu;
5.Đường trả về
Máy sử dụng kỹ thuật ly tâm dòng chảy liên tục: máy sử dụng kỹ thuật này thực
hiện đồng thời liên tục các hoạt động gồm: lấy máu ra từ một vị trí tĩnh mạch, ly tâm
18
phân tách các thành phần khác nhau, gạn tách một thành phần theo yêu cầu và trả lại
các thành phần còn lại về một vị trí tĩnh mạch khác nhờ hệ thống bơm cho từng đường
đi của các thành phần máu. Các loại máy phổ biến như Cobe Spectra, Trima, Comtec,
Fenwal CS 3000 Plus,…(Harmening Denise M.(ASCP), 2005).
1.2.2.5. Ứng dụng kỹ thuật gạn tách (apheresis) trong gạn tách các thành
phần máu bằng máy tách TB tự động
a) Gạn tách khối tiểu cầu (Platelepheresis)
Truyền TC được chỉ định cho BN bị chảy máu hoặc BN tăng yếu tố nguy cơ
chảy máu thứ phát do giảm SLTC trong máu hoặc do tiểu cầu mất chức năng. Trong
trường hợp này có thể truyền TC pool (TC được tách ra từ nhiều ĐV máu toàn phần)
hoặc tiểu cầu apheresis. Trong chương trình TC apheresis, tách tiểu cầu và một phần
huyết tương từ người cho còn hồng cầu, bạch cầu, phần lớn huyết tương sẽ được trả lại
người cho, các thành phần tách ra được bảo quản trong túi dẻo đặc biệt. Sản lượng của
KTC phụ thuộc rất lớn vào SLTC trước gạn tách của người cho, hiện tại tiêu chuẩn SLTC trước cho của người hiến TC lớn hơn hoặc bằng 200x109 TC/l, SLTC trong KTC là 3x1011 đối với đơn vị TC 250 ml, và 6x1011 đối với đơn vị 500 ml, vì được
thực hiện trong một chương trình khép kín vì vậy thời gian bảo quản là 5 ngày, nhiệt độ bảo quản từ 20 – 24oC và phải được lắc liên tục (Hà Hữu Nguyện, 2012), độ pH là
6,4 – 7,4 (Council of Europe Publishing, 2004).
b) Gạn tách huyết tương (Plasmapheresis)
Huyết tương có thể gạn tách bằng phương pháp này, huyết tương sau gạn tách
được sử dụng làm huyết tương tươi đông lạnh (fresh frozen plasma: ffp), một số ngân
hàng máu còn sử dụng huyết tương này để truyền cho BN và sản xuất các sản phẩm
của huyết tương như albumin hay globulin. Chương trình này có thể thu được huyết
tương miễn dịch để điều trị BN bị ức chế miễn dịch hoặc BN bị nhiễm thủy đậu, herpes
(Hà Hữu Nguyện, 2012; Harmening Denise (ASCP), 2005).
19
c) Gạn tách bạch cầu (Leukopheresis)
Gạn tách BC đa nhân trung tính truyền cho BN giảm BC nặng do nhiễm trùng
hoặc điều trị bằng hóa chất. Việc thu nhận số lượng lớn BC là cần thiết, tuy nhiên lại
gặp một số vấn đề đối với người hiến. Trong gạn tách HC, tiểu cầu là dễ hơn vì ta có
thể tăng thể tích trong lòng mạch hoặc giảm khả năng tiêu thụ hằng ngày. Việc lựa
chọn sản phẩm này không phổ biến vì thiếu những dữ liệu ý nghĩa cho việc sử dụng
bạch cầu trung tính trong lâm sàng, cộng với những phản ứng phụ có thể xảy ra (Hà
Hữu Nguyện, 2012; Harmening Denise (ASCP), 2005).
d) Gạn tách hồng cầu (Erythrocyte apheresis)
Những tiến bộ trong kỹ thuật của gạn tách giúp ta có thể được khối hồng cầu.
Thông thường người ta thường tiến hành tách một đơn vị khối hồng cầu và một đơn vị
huyết tương cho mỗi lần gạn tách. Tuy nhiên giá thành của khối hồng cầu được gạn
tách bằng phương pháp này còn khá cao so với khối hồng cầu được sản xuất từ túi máu
toàn phần (Harmening Denise (ASCP), 2005).
1.3. Bảo quản và sử dụng KTC
Bảo quản KTC là phương pháp nuôi dưỡng TC trong huyết tương hay môi
trường nhân tạo, đảm bảo cho tiểu cầu vẫn duy trì được sự sống và các chức năng cần
thiết khi truyền vào cơ thể BN. Nhiều yếu tố có thể tác động đến việc bảo quản KTC
như nhiệt độ, độ pH, môi trường, phương thức lắc,… (Bode et al., 1994; Holme et al.,
1994; Moroff et al., 1994). Các yếu tố này tạo nên sự thay đổi về cấu trúc, sinh hóa và
miễn dịch của các tiểu cầu trong quá trình bảo quản KTC.
Chất lượng KTC được đánh giá bằng cách sử dụng các thông số SLTC, thể tích
KTC, số lượng HC, BC và độ pH cho mỗi đơn vị KTC. Tuy nhiên các chỉ số đánh giá
chất lượng KTC phụ thuộc yêu cầu của từng quốc gia (phục lục 4, 5).
Theo tiêu chuẩn của Hiệp hội các ngân hàng máu Hoa Kỳ (AABB), khối tiểu cầu điều chế từ đơn vị máu toàn phần có số lượng tiểu cầu ≥ 5,5x1010 TC/đơn vị, pH ≥
6,2 tại thời điểm cuối của bảo quản, ít nhất 90% số đơn vị khối tiểu cầu phải đáp ứng
yêu cầu.
20
Khối tiểu cầu gạn tách từ người hiến máu bằng máy có số lượng tiểu cầu ≥ 3,0x1011 TC/đơn vị, pH ≥ 6,2 tại thời điểm cuối của bảo quản, ít nhất 90% số đơn vị
khối tiểu cầu phải đáp ứng yêu cầu.
Tiêu chuẩn chất lƣợng KTC quy định tại thông tƣ 26/2013/TT-BYT cụ thể
nhƣ sau:
KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần
KTC được điều chế từ đơn vị máu toàn phần bảo quản ở nhiệt độ từ 20oC đến
24oC trong 24 giờ kể từ khi lấy máu.
Tiêu chuẩn chất lượng:
Thể tích đơn vị: thể tích từ 40 ml đến 60 ml điều chế từ mỗi đơn vị máu toàn
phần có thể tích từ 250 ml trở lên.
Đếm SLTC (số lượng tiểu cầu): có tối thiểu 13 x 109 TC/đv khối tiểu cầu điều
chế từ mỗi thể tích 100 ml máu toàn phần. Có ít nhất 75% số đơn vị được kiểm tra phải
đạt tiêu chuẩn này.
Đếm SLBC (số lượng bạch cầu) trong mỗi đơn vị KTC + Ít hơn 0,05 x 109 bạch cầu đối với KTC điều chế bằng phương pháp tách lớp
BC – TC. Có ít nhất 75% số đơn vị được kiểm tra phải đạt tiêu chuẩn này.
+ Ít hơn 0,2 x 109 bạch cầu đối với KTC điều chế bằng phương pháp huyết
tương giàu TC. Có ít nhất 75% số đơn vị được kiểm tra phải đạt tiêu chuẩn này.
+ Độ pH phải đạt từ 6,4 đến 7,4 khi đo ở 22oC ở cuối thời gian bảo quản.
+ Xét nghiệm nuôi cấy phát hiện vi khuẩn phải có kết quả âm tính.
21
Khối tiểu cầu gạn tách từ người hiến máu
KTC gạn tách là KTC lấy trực tiếp từ người hiến máu bằng máy tách TB tự
động.
Tiêu chuẩn chất lượng
Thể tích mỗi đơn vị không dao động quá 15% thể tích ghi trên nhãn.
Mỗi đơn vị KTC gạn tách (250 ml) có SLTC tối thiểu 300 x 109, trong trường
hợp KTC gạn tách có thể tích 120 ml đến dưới 250 ml có SLTC tối thiểu 150 x 109.
Nồng độ TC phải thấp hơn 1500 G/l.
Độ pH phải đạt từ 6,4 đến 7,4 và nuôi cấy phát hiện vi khuẩn phải âm tính vào
cuối thời gian bảo quản.
Điều kiện bảo quản và hạn sử dụng: theo khuyến nghị của nhà sản xuất túi lấy
tiểu cầu, nhưng không quá 5 ngày kể từ ngày gạn tách tiểu cầu khi bảo quản ở nhiệt độ
từ 20oC đến 24oC, kèm lắc liên tục.
1.3.1. Các điều kiện ảnh hƣởng đến chất lƣợng KTC
1.3.1.1. Ảnh hƣởng của hệ thống sản xuất
KTC có thể được sản xuất theo qui trình kín hay hở. Đối với qui trình kín, KTC
có thể bảo quản đến 5 ngày, trong khi đó KTC chỉ có thể bảo quản 3 ngày khi được sản
xuất theo qui trình hở do nguy cơ nhiễm trùng tăng lên (AABB, 1997). Theo Ricardi
thì các khối tiểu cầu được sản xuất bằng phương pháp BC hay HTGTC được bảo quản
hơn 3 ngày đều làm tăng các phản ứng truyền máu (Nguyễn Trường Sơn, 2000).
Tốc độ và thời gian ly tâm cũng ảnh hưởng đến quá trình bảo quản KTC, theo
Solberg C. thì sử dụng qui trình ly tâm với tốc độ cao và thời gian ngắn sẽ đạt hiệu suất
cao hơn, đồng thời sự mất tiểu cầu trong quá trình bảo quản cũng thấp hơn so với tốc
độ chậm và thời gian dài (Solberg et al., 1988).
22
1.3.1.2. Ngƣời hiến máu
Số lượng tiểu cầu trong đơn vị KTC được truyền, ảnh hưởng đến tiểu cầu phục
hồi trong BN và cho phép kéo dài khoảng cách giữa các lần truyền. Xác định các yếu
tố của người hiến máu ảnh hưởng đến sản lượng của tiểu cầu thu hoạch được như thế
nào giúp cho việc lựa chọn người hiến, để có được sản lượng tiểu cầu cao nhất và kết
quả lâm sàng do đó tốt hơn. Tối ưu hoá sản lượng tiểu cầu là một vấn đề đang nổi lên
trong các dịch vụ truyền máu. Chaudhary (2006) nghiên cứu các yếu tố từ người hiến
máu ảnh hưởng tới sản lượng khối tiểu cầu máy trên hai hệ thống dòng chảy liên tục và
không liên tục đã kết luận: có một mối quan hệ trực tiếp giữa số lượng tiểu cầu người
hiến và SLTC thu được, không có sự tương quan như vậy với Hb người hiến, không có
sự tương quan giữa giới tính, tuổi và cân nặng của người hiến với SLTC thu được.
1.3.1.3. Ảnh hƣởng của quá trình điều chế khối tiểu cầu
Ảnh hưởng của phương pháp điều chế tới chất lượng khối tiểu cầu
Nguyễn Trường Sơn (2000), so sánh hai phương pháp điều chế khối tiểu cầu từ
lớp buffy coat và huyết tương giàu tiểu cầu thấy hiệu suất thu hoạch tiểu cầu cao hơn
ở phương pháp huyết tương giàu tiểu cầu, lượng bạch cầu còn lại trong khối tiểu cầu
thấp hơn đáng kể so với phương pháp sản điều chế từ lớp buffy coat.
Một số nghiên cứu khác lại chứng minh rằng KTC được điều chế từ máu toàn
phần theo phương pháp buffy coat có chất lượng cao hơn so với điều chế bằng phương
pháp huyết tương giàu tiểu cầu, chất lượng tốt hơn trong thời gian bảo quản. Vì vậy
điều chế khối tiểu cầu theo phương pháp buffy coat đã được sử dụng ở châu Âu trong
hơn hai thập kỷ qua. Tuy nhiên KTC điều chế bằng phương pháp buffy coat lại có tỷ lệ
nhiễm khuẩn cao hơn. Hiện nay với các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn tốt từ
khâu thu gom, điều chế cùng với các phương pháp bất hoạt vi khuẩn, làm giảm nguy
cơ nhiễm khuẩn KTC. Những lợi thế của phương pháp điều chế KTC bằng lớp buffy
coat đã thuyết phục các dịch vụ truyền máu Canada thực hiện theo phương pháp này.
Khối tiểu cầu gạn tách từ người hiến máu bằng máy tương đương với 6 – 10 đơn vị (3 – 5x1011 TC) khối tiểu cầu điều chế từ đơn vị máu toàn phần hiện giờ trở thành
23
một nguồn tiểu cầu chính ở nhiều quốc gia, do sự bất đồng miễn dịch thấp và khả năng
lây truyền bệnh truyền nhiễm qua đường truyền máu giảm, do giảm tiếp xúc với
nhiều người hiến máu, việc kiểm soát chất lượng tốt hơn.
Hiện nay có nhiều loại máy tách TB khác nhau. Tenorio và cộng sự (2002) đã so
sánh ngẫu nhiên chất lượng KTC gạn tách bằng bốn loại máy Amicus, Spectra,
CS3000+ và MCS plus. Chất lượng của tất cả các KTC thu được đều được chấp nhận,
xu hướng sản lượng TC thu được từ máy tách Spectra cao hơn. Các máy tách TB
Amicus và Spectra có hiệu quả cao.
Tác giả Col Swrup (2009) cho rằng SLTC tốt hơn khi dùng máy tách TB Baxter CS 3000, nhưng hiệu quả thu được tốt hơn với Haemonetics MCS+. Số lượng BC còn lại nhiều hơn ở KTC gạn tách bằng máy MCS+. Kết hợp với một số yếu tố khác: thời
gian chạy máy, sự thoải mái của người hiến TC, chi phí,… tác giả kết luận, Haemonetic MCS+ là sự lựa chọn tốt hơn Baxter CS 3000.
Strasser (2005), nghiên cứu chất lượng khối tiểu cầu gạn tách bằng máy cho kết
quả các thiết bị thế hệ mới (Comtec, Trima) cho sản lượng tiểu cầu tốt, số lượng bạch
cầu còn lại trong khối tiểu cầu đáp ứng rất tốt tiêu chuẩn đề ra.
Bảo quản tiểu cầu dưới dạng đơn hay pool, các tác giả nghiên cứu có những
đánh giá khác nhau. Nhiều tác giả cho rằng nên bảo quản tiểu cầu dưới dạng túi đơn để
tránh nhiễm trùng. Theo nghiên cứu của Heddle (2005) có khác biệt về một số chỉ tiêu
trong khối tiểu cầu đơn và pool trong thời gian bảo quản. Ngày bảo quản thứ năm độ
pH thấp hơn đáng kể ở khối tiểu cầu pool so với khối tiểu cầu đơn. Ngày bảo quản
thứ bảy sự khác biệt đáng kể đã được ghi nhận với pH, pCO2, sốc trương lực thấp
với khối tiểu pool trong khi pO2, lactate và điểm hình thái cao hơn. Tuy nhiên
khối tiểu cầu pool bảo quản đến 5 ngày cho kết quả chỉ số CCI sau 24 giờ không
thấp hơn so với khối tiểu cầu đơn.
24
Sweeney (2004), thấy không có bằng chứng sự suy giảm chất lượng và sự trộn
lẫn các lymphocyte của các cá thể khác nhau cũng không kích thích phản ứng miễn
dịch ở khối tiểu cầu pool bảo quản trong 7 ngày.
1.3.2. Thay đổi một số yếu tố trong thời gian bảo quản
Một thách thức lớn cho các ngân hàng máu là thời gian bảo quản tiểu cầu hạn
chế trong điều kiện ngân hàng máu tiêu chuẩn. Có hai lý do chính mà khối tiểu cầu có
thời hạn sử dụng ngắn đó là nguy cơ nhiễm khuẩn, tuy nhiên lý do này có thể được
giảm thiểu bằng cách kiểm tra vi khuẩn của sản phẩm hoặc sử dụng các quá trình bất
hoạt tác nhân gây bệnh. Lý do thứ hai về hạn dùng của tiểu cầu là trong khoảng thời
gian bảo quản tiểu cầu cho thấy bằng chứng của sự suy giảm chất lượng, liên quan đến
thay đổi một số yếu tố trong quá trình bảo quản.
1.3.2.1. Thay đổi độ pH trong thời gian bảo quản
Độ pH là một thông số quan trọng và có giá trị cho đánh giá chất lượng của các
khối tiểu cầu, theo hướng dẫn của châu Âu, Hoa Kỳ yêu cầu đo pH như là một tham số
cần thiết kiểm soát chất lượng khối tiểu cầu. AABB đã khuyến cáo các khối tiểu cầu có
độ pH < 6,2 không được sử dụng, qui định độ pH của khối tiểu cầu > 6,4 và không
truyền khối tiểu cầu khi độ pH > 7,6.
Tiểu cầu sử dụng năng lượng chủ yếu từ sự tiêu thụ glucose theo con đường
Embden – Meyerhoff. Trong túi chứa TC, do điều kiện yếm khí nên sự chuyển hóa
glucose sẽ tạo thành lactate. Sự tích tụ lactate trong KTC là nguyên nhân chính gây ra
độ pH giảm. pH đảm bảo cho việc bảo quản KTC được duy trì từ 6,5 – 7,4 một số tiêu
chuẩn chỉ đòi hỏi > 6,2. Theo Kilkson, nếu pH giảm thấp hơn 6,8 thì TC sẽ bị trương
lên và chuyển dạng từ hình đĩa sang hình cầu, những thay đổi này có thể hồi phục nếu
có TB được đưa trở lại với pH sinh lý. Khi pH giảm xuống dưới 6 thì toàn bộ TC sẽ
chuyển dạng hình cầu không hồi phục, các TB tạo nên các tua cứng từ bào tương và
dần dần mất khả năng tiêu thụ oxy (Kilkson et al., 1984). Theo nghiên cứu của
Bertolini và cộng sự (1993) cũng đã cho thấy khi pH < 6,3 thì TC bị mất hình dạng đĩa
và chức năng, nếu pH từ 6,4 – 6,6 thì chỉ có sự biểu hiện GP Ib trên bề mặt bị giảm
25
trong khi các chức năng khác không có sự khác biệt với nhóm đối chứng. Từ đó tác giả
cho rằng không phải chỉ có lactate là nguyên nhân gây ra các thay đổi của TC trong
quá trình bảo quản.
1.3.2.2. Thay đổi nồng độ glucose và lactate
Tiêu thụ glucose là chuyển hóa chính của TC, 85% nhu cầu năng lượng của
chúng có được nhờ chuyển hóa hiếu khí, trong đó glucose trải qua quá trình đường
phân, tiếp theo là oxy phosphoryl của các sản phẩm tạo ra CO2 và H2O, một số acid
béo tự do và các acid amin cũng tham gia quá trình này. 15% nhu cầu năng lượng còn
lại được đáp ứng bởi đường phân kỵ khí, trong đó glucose được chuyển đổi thành
lactate. Việc chuyển hóa glucose tạo ra ATP theo cơ chế oxy hóa hiệu quả gấp 18 lần
so với đường phân kỵ khí. Larry và cộng sự (2003), cũng như Tulika (2011), trong
nghiên cứu của mình đã đề cập việc suy giảm nồng độ glucose trong thời gian bảo
quản, sự tiêu thụ glucose có mối tương quan thuận với sự tạo thành lactate, dẫn tới suy
giảm chất lượng khối tiểu cầu.
1.3.2.3. Hoạt độ Lactate dehydrogenase
Lactate dehdrogenase (LDH) là một enzyme xúc tác phản ứng biến đổi từ lactate
thành pyruvate. LDH có trong thành phần TB chất của TC, khi TC bị tổn thương nó sẽ
phóng thích enzyme này vào môi trường (Holme et al., 1994). Các nghiên cứu đều cho
thấy hoạt động của LDH thường tăng dần từ ngày 1 đến ngày 5 trong quá trình bảo
quản.
1.3.2.4. Biến đổi hình thái tiểu cầu trong quá trình bảo quản
Những thay đổi sinh hoá, cấu trúc và chức năng của TC trong quá trình bảo
quản trong điều kiện ngân hàng máu, được gọi chung là tổn thương bảo quản TC. Gần
đây các chỉ số tiểu cầu như SLTC, mean platelet volume (MPV), platelet distribution
width (PDW), platelet larger cell ratio (P-LCR) đã được sử dụng đánh dấu cho việc
kiểm soát chất lượng của KTC. PDW là một dấu hiệu của sự thay đổi kích thước tiểu
cầu, có thể là dấu hiệu của tiểu cầu kích hoạt, các tác giả đã quan sát thấy PDW tăng ở
ngày thứ 7 của thời gian bảo quản. Tuy nhiên Beyan và cộng sự (2006), cho rằng trong
26
đánh giá chức năng tiểu cầu chỉ số tiểu cầu một mình là không phù hợp, cần kết hợp
với các phương pháp đánh giá khác.
Nếu độ pH của KTC giảm xuống dưới 6,0 hoặc lên trên 7,4 sẽ làm thay đổi hình
thái tiểu cầu, từ dạng hình đĩa sang hình cầu, mất đáng kể khả năng phục hồi trong cơ
thể khi được truyền. Phép đo các chỉ số tiểu cầu có tiềm năng lớn đánh giá chất lượng
của khối tiểu cầu, đặc biệt là khi phân tích kết hợp với độ pH.
1.4. Vai trò có hại của bạch cầu trong bảo quản và truyền KTC
Trong suốt một thời gian dài BC được coi là một thành phần tự nhiên trong máu
toàn phần và chế phẩm máu, vì vậy người ta không có ý định loại trừ chúng ra khỏi các
chế phẩm máu. Các nghiên cứu đầu tiên về vai trò có hại của BC được biết đến từ năm
1957 khi Brittingham và Chaplin ghi nhận vai trò của BC và TC trong phản ứng lạnh
tim khi truyền máu. Sau này nhiều nghiên cứu khác đã chứng minh vai trò của bạch
cầu trong việc gây ra các phản ứng bất lợi như sốt lạnh run, gây miễn dịch khác allele,
truyền các virus hướng bạch cầu,... (Meryman, 1989; Ali et al., 1994; Sirchia et al.,
1997)
Skinnider nghiên cứu về nguồn gốc các bạch cầu trong các KTC được sản xuất
bằng phương pháp HTGTC hay máy tách tự động tiểu cầu cho thấy thành phần
lymphocyte T, B, CD4 và CD8 trong KTC cũng tương tự như máu ngoại biên. Ở các
chế phẩm máu đã được lọc bạch cầu thì tỉ lệ bạch cầu còn lại theo thứ tự là CD4, CD8,
lymphocyte B, bạch cầu hạt và monocyte (Nguyễn Trường Sơn, 2000).
Sau này, cùng với sự phát triển của các nghiên cứu về sinh học phân tử sinh hoá,
miễn dịch của bạch cầu, người ta càng nhận thấy vai trò có hại của bạch cầu trong
truyền máu và càng hoàn thiện các kỹ thuật nhằm loại bỏ hay bất hoạt các bạch cầu để
ảnh các phản ứng có hại cho người nhận (Sirchia et al., 1997).
27
Vai trò có hại của bạch cầu trong truyền máu:
Phản ứng sốt lạnh run (PƢSLR) không do nguyên nhân tán huyết
Phản ứng sốt lạnh run do truyền máu chiếm khoảng 1% khi truyền các chế phẩm
máu, phản ứng này có thể xảy ra ở mức độ nhẹ như tăng thân nhiệt ít, có thể ở mức độ
nặng hơn như lạnh run, sốt cao hay rất nặng như hội chứng suy hô hấp cấp, có thể dẫn
đến tử vong nếu không điều trị kịp thời.
Vai trò của BC trong PƯSLR cho đến nay đã được thừa nhận, tuy nhiên cơ chế
nào mà bạch cầu tác động lên cơ thể để gây ra phản ứng này vẫn đang được nghiên
cứu. Có tác giả cho rằng PƯSLR xảy ra khi có sự tương tác giữa kháng thể chống HLA
của người nhận với BC của người cho và đưa đến sự giải phóng các chất trung gian hoá
học.
Nhiễm Cytomegalovirus (CMV)
CMV là một virus DNA thuộc họ Herpes virus, nó thường tạo nên các nhiễm
trùng tiềm ẩn. CMV ở trạng thái tiềm ẩn thường ở trong các BC, đặc biệt là BC hạt và
TB mono. Virus này gây ra các thể vùi trong nhân và trong TB chất các tế bào bị
nhiễm. Tình trạng nhiễm CMV trong các người cho máu khá cao, từ 60 – 100% mang
kháng thể chống CMV dương tính, do đó muốn chọn máu để truyền cho một cá thể có
CMV(-) sẽ gặp nhiều khó khăn (Nguyễn Trường Sơn, 2000). Vì vậy một số nghiên cứu
cho rằng loại bỏ BC càng nhiều càng tốt cũng là một biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa
tình trạng nhiễm CMV (Sirchia et al., 1997).
Ức chế miễn dịch
Truyền máu khác allele cùng loài có thể tạo ra các sự thay đổi về chức năng
miễn dịch trong cơ thể người nhận (Nguyễn Trường Sơn, 2000).
Có nhiều giả thuyết giải thích cơ chế của hiện tượng ức chế miễn dịch. Theo
thuyết "lựa chọn" thì truyền máu là một biện pháp giúp phân loại BN thành hai nhóm:
các cá thể có đáp ứng và các cá thể không đáp ứng. Các cá thể không đáp ứng được coi
là dễ dung nạp với KN ghép, vì thế đời sống của mảnh ghép được kéo dài hơn. Một giả
thuyết khác cho rằng sự điều biến miễn dịch sau truyền máu có thể do sự hoạt hoá của
28
TB lympho T ức chế, mặc dù không xuất hiện một quần thể TB lympho T ức chế đặc
hiệu nhưng cũng có các bằng chứng cho thấy có sự ức chế không đặc hiệu qua trung
gian đại thực bào, TB mono và TB lympho T. Một giả thuyết khác là thuyết "diệt clon”
được đề xuất bởi Terasaki, tuy nhiên giả thuyết này cho đến nay ít được chấp nhận.
Một số tác giả cho rằng có sự thành lập kháng thể chống idiotype, kháng thể này đóng
vai trò như một kháng thể cạnh tranh với KN lạ tại thụ thể của TB lympho T giành cho
KN. Một số nghiên cứu cho thấy vai trò của các prostaglandin, đặc biệt là
prostaglandin E2 (PGE2), PGE có thể ức chế sự đáp ứng miễn dịch qua trung gian TB
nồng độ cao.
Gần đây, Dzik W.H. cho rằng cơ chế tự ức chế miễn dịch sau truyền máu khác
allele có thể được giải thích bằng giả thuyết microchime. Theo thuyết này, sau khi
truyền máu khác allele vào trong cơ thể người nhận, các TB tua, các TB này là TB
trình diện KN mạnh nhất, của người cho sẽ tồn tại dai dẳng, sự tồn tại này sẽ làm giảm
tính kích thích của các TB lympho T đang ở trong trạng thái nghỉ và các TB này kém
phản ứng với các KN đặc hiệu khác allele.
Trong lâm sàng, hiện tượng ức chế miễn dịch này có thể đóng vai trò có lợi
trong các cuộc ghép nhưng đồng thời nó cũng biểu hiện nhiều phản ứng bất lợi cho
người nhận, các nghiên cứu gần đây cho thấy truyền máu nhiều lần có thể dẫn đến tình
trạng tăng nguy cơ nhiễm trùng cũng như là tăng khả năng phát triển các khối u.
Tóm lại, vai trò bất lợi của bạch cầu trong thực hành truyền máu cho đến nay đã
được làm sáng tỏ. Nhằm mục đích tránh các phản ứng bất lợi các BN, các nhà khoa học
phải nghiên cứu các biện pháp nhằm giảm thiểu số lượng bạch cầu cũng như các chất
sinh học được phóng thích từ chúng trong chế phẩm máu.
29
1.5. Nhiễm khuẩn của khối tiểu cầu
Nhiễm khuẩn các sản phẩm máu làm lây truyền vi khuẩn khi truyền máu là một
tai biến truyền máu đe dọa tính mạng người bệnh, do điều kiện bảo quản thuận lợi cho
phát triển của vi khuẩn. Tai biến nhiễm khuẩn thường thấy trong truyền TC, điều này có thể được lý giải do KTC được bảo quản ở nhiệt độ 22oC, điều kiện nhiệt độ thích
hợp thúc đẩy sự tăng trưởng của vi khuẩn, thậm trí với một số lượng vi khuẩn rất nhỏ.
Khả năng KTC bị nhiễm khuẩn phụ thuộc vào loại và thời hạn sử dụng của các
sản phẩm TC. Nghiên cứu của Ness P. và cộng sự (2001) báo cáo một tỷ lệ nhiễm
khuẩn của KTC điều chế từ máu toàn phần gấp 5 lần so với tiểu cầu gạn tách bằng máy
từ một người hiến. Tỷ lệ tăng của các bệnh nhiễm trùng liên quan đến truyền tiểu cầu,
liên quan trực tiếp với thời gian bảo quản của các đơn vị được truyền, chính vì vậy
FDA đã yêu cầu giảm thời gian bảo quản tiểu cầu từ 7 ngày xuống còn 5 ngày. Năm
2004, AABB đề xuất các tiêu chuẩn mới để giảm thiểu truyền các đơn vị TC bị nhiễm
khuẩn, các ngân hàng máu hoặc dịch vụ truyền máu phải có phương pháp để hạn chế
và phát hiện nhiễm vi khuẩn trong tất cả các KTC.
Nguyên nhân gây nhiễm khuẩn KTC, thường là kết quả của nhiễm vi khuẩn từ
da người hiến máu tại thời điểm lấy máu tĩnh mạch và ít hơn từ người hiến máu bị
nhiễm trùng không triệu chứng hoặc trong quá trình điều chế. Một loạt các vi khuẩn có
thể phát triển trong các sản phẩm tiểu cầu và đạt đến mức độ nguy hiểm trong suốt thời
gian bảo quản. Những vi khuẩn này phần lớn gram dương là tác nhân gây bệnh của hệ
vi sinh vật da, ví dụ tụ cầu khuẩn (Staphylococci), Corynebacteria, và các loài thuộc
chi Bacillus. Trong khi đó nhiễm các vi khuẩn gram âm ít gặp hơn, kết quả hầu như
gây tử vong.
1.6. Các xét nghiệm kiểm tra, đánh giá chất lƣợng khối tiểu cầu
Các xét nghiệm cần thiết theo quy định của Thông tư 26/2013/TT-BYT như xét
nghiệm sàng lọc virus: HbsAg, Anti-HIV, Anti-HCV, ký sinh trùng sốt rét, xoắn khuẩn
giang mai đều âm tính. Xét nghiệm sinh học phân tử NAT viêm gan B, C và HIV phải
30
âm tính, sàng lọc kháng thể bất thường âm tính. Các tiêu chuẩn về số lượng, thể tích, số
lượng bạch cầu,… theo đúng thông tư.
Độ pH phải đạt từ 6.4 đến 7.4 và nuôi cấy phát hiện vi khuẩn phải âm tính vào
cuối thời gian bảo quản.
Điều kiện bảo quản và hạn sử dụng: theo khuyến nghị của nhà sản xuất túi lấy
tiểu cầu, nhưng không quá 5 ngày kể từ ngày gạn tách tiểu cầu khi bảo quản ở nhiệt độ từ 20oC đến 24oC, kèm lắc liên tục (Bộ Y Tế, 2013).
Các phƣơng pháp đánh giá chức năng của tiểu cầu:
Đánh giá hình thái học của tiểu cầu và các chỉ tiêu sinh hoá của khối tiểu cầu:
đối với tiểu cầu bảo quản các thử nghiệm trong ống nghiệm của tiểu cầu thường không
tương quan tốt với hiệu năng của tiểu cầu trong cơ thể. Tuy nhiên mức ATP, glucose,
lactate của KTC cung cấp một số dấu hiệu hoạt động của TC. Sự sụt giảm SLTC với
gia tăng lactate dehydrogenase trong môi trường có thể được sử dụng như một thước
đo của phá vỡ TB. Độ pH của KTC trên 7,6 và dưới 6,2 vào cuối thời gian bảo quản
tương quan với giảm chức năng của tiểu cầu trong cơ thể.
Chức năng tiểu cầu được đánh giá bằng độ ngưng tập tiểu cầu với ADP,
collagen, epinephrine,...
Hiệu quả cầm máu trên lâm sàng: hiệu quả của truyền tiểu cầu trong cơ thể
được chứng minh là rất khó khăn để xác định. Trước đây thời gian máu chảy được coi
như là một thử nghiệm về hiệu quả của tiểu cầu, nhưng nhiều nghiên cứu được công bố
đã chứng minh thiếu sự tương quan giữa chảy máu trong phẫu thuật và thời gian chảy
máu, có sự thay đổi của thời gian chảy máu ngay cả với một BN duy nhất. Hiện nay để
đánh giá hiệu quả truyền tiểu cầu, người ta quan sát sự biến đổi của SLTC (thường >20.000/mm3) sau khi truyền TC. Tính chỉ số CCI (Corrected Count Increment).
CCI =
Khi CCI sau truyền 10 đến 60 phút ≥ 5000 truyền tiểu cầu có kết quả.
31
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm truyền máu bệnh viện Chợ Rẫy trong
thời gian từ 2/2017 tới 8/2017
Đối tượng nghiên cứu:
Tiểu cầu sản xuất từ máu toàn phần 350 ml: 40 KTC
Tiểu cầu chiết tách từ một người từ máy chiết tách tế bào tự động, máy
Haemonetic và máy Nigale: 160 KTC
2.2. Các trang thiết bị, hóa chất, dụng cụ sử dụng trong quá trình nghiên cứu
Máy sàng lọc các bệnh nhiễm trùng: hiệu Architect 2: i2000 SR, hiệu Diasorin:
Eti_Max 3000
Hệ thống máy sàng lọc sinh học phân tử NAT
Kỹ thuật sinh học phân tử dựa trên nguyên lý phản ứng khuyếch đại nhân lên
gấp bội các vật liệu di truyền có nguồn gốc từ các virus gây bệnh và tăng khả năng phát
hiện khi lượng virus này quá ít trong máu. Việc áp dụng NAT đã góp phần ngăn ngừa
hữu hiệu nguy cơ lây truyền virus do người hiến máu nhiễm tác nhân gây bệnh ở giai
đoạn cửa sổ. Kỹ thuật này cho phép rút ngắn thời gian cửa sổ từ 90 ngày xuống còn từ
30 đến 40 ngày đối với viêm gan C, từ 60 ngày xuống còn 20 đến 30 ngày đối với viêm
gan B. Đặc biệt, NAT có thể phát hiện HIV chỉ 11 ngày sau khi nhiễm bệnh, trong khi
với xét nghiệm điện hóa phát quang phải cần tới 20 ngày. Bên cạnh đó, kỹ thuật NAT
còn có thể phát hiện những trường hợp nhiễm virus thể ẩn, tức là những người đã
nhiễm bệnh một thời gian dài, nhưng virus chỉ tồn tại tiềm tàng trong các tế bào và cơ
thể người nhiễm không sản sinh ra kháng thể, do đó không thể phát hiện được bằng các
xét nghiệm gián tiếp.
32
Máy miễn dịch huyết học Galileo NEO xác định nhóm máu và kháng thể bất
thường của hãng Immucor.
Hình 2.1. Máy miễn dịch huyết học hãng Immucor
Máy phân tích huyết học tự động: Backman Coutlter
Nguyên lý của máy: trong buồng đếm có đặt một khe đếm có lỗ đủ nhỏ cho tế
bào máu đi qua. Các tế bào máu được tạo thành dòng và đưa vào khe đếm. Trong
buồng đếm có đặt hai bản điện cực dương và âm giữa hai bên của khe đếm và buồng
đếm. Ngoài ra trong buồng đếm còn đặt một bộ phận tạo áp suất, mỗi khi có áp suất
thay đổi thì tế bào máu sẽ đi qua khe đếm ngay lập tức sẽ thay đổi trở kháng của dòng
điện một chiều, làm xuất hiện xung điện. Số lượng xung điện tỷ lệ với số lượng tế bào
máu đi qua khe đếm. Tuỳ kích thước của tế bào mà xung nhận được cao hay thấp. Dựa
vào đó người ta biết được kích thước của tế bào.
Hoá chất xét nghiệm: bao gồm bốn hoá chất cơ bản
Coulter DxH Diluent: dung dịch pha loãng.
33
Coulter DxH Cell Lyse: Dung dịch ly giải hồng cầu, để đo tổng số bạch cầu
và HGB.
Coulter DxH Diff Pak: Hóa chất dùng để đo các thành phần bạch cầu.
Coulter DxH Cleaner: dung dịch rửa
Hình 2.2. Máy phân tích huyết học tự động: hiệu Excel 22
Máy sinh hoá Architech c16000 (a3600)
Nguyên lý máy: sử dụng kỹ thuật hoá phát quang miễn dịch tự động
(chemiluminescent automated immunoassay CMIA) xét nghiệm với giao thức linh hoạt
được gọi là CHEMIFLEX. Kỹ thuật hoá phát quang dựa trên nguyên lý kháng nguyên
(chất có trong mẫu bệnh phẩm) kết hợp với kháng thể (chất có trong thuốc thử) nhờ
34
chất đánh dấu có khả năng phát quang mà người ta có thể định lượng các chất có nồng
độ rất thấp hoặc các chất bất thường trong cơ thể với độ chính xác cao.
Xét nghiệm glucose dựa trên nguyên lý: glucose được phosphoryl hóa bởi
adenosine triphosphate (ATP) dưới sự hiện diện của hexokinase. Glucose-6-phosphate
hình thành bị oxy hóa dưới sự hiện diện của glucose-6-phosphate dehydrogenase, gây
ra sự khử nicotinamide adenine dinucleotide (NAD) thành nicotinamide adenine
dinucleotide (NADH) (1, 2). Độ hấp thu của NADH được đo như một phản ứng điểm
cuối ở bước sóng 340/410 nm.
Hình 2.3. Máy sinh hoá Architech c16000 (a3600)
Thử nghiệm ADVIA Chemistry Glucose Hexokinase_3 (GLUH_3) sử dụng một
thuốc thử hai thành phần. Mẫu thử được thêm vào thuốc thử 1, vốn chứa dung dịch
đệm, ATP và NAD. Độ hấp thu của mẫu thử trong thuốc thử 1 được đọc và sử dụng để
hiệu chỉnh các chất nhiễm chéo trong mẫu thử. Thuốc thử 2 được bổ sung, kích hoạt
việc chuyển đổi glucose và làm thay đổi độ hấp thu ở bước sóng 340/410 nm. Khác
biệt độ hấp thu giữa thuốc thử 1 và thuốc thử 2 tỉ lệ với nồng độ glucose.
35
Phương trình phản ứng:
Hexokinase
Glucose + ATP G6P + NAD+ G6PD G6P + ADP 6 Phosphogluconate + NADH + H+
Đơn vị đo glucose mmol/l.
Xét nghiệm Lactat dehydrogenase (LDH) dựa trên nguyên lý: đo sự hoạt động
của LDH theo phản ứng sau:
LDH
L – lactate + NAD+ Pyruvate + NADH + H+
Đo LDH dựa vào tốc độ phản ứng trên, LDH đóng vai trò xúc tác, phản ánh qua
sự hấp thụ ở bước sóng 334 – 365nm. Đơn vị đo U/L.
pH, Na+, K+, CaTp được xác đinh bằng nguyên lý của điện cực chọn lọc ion.
Đơn vị đo của Na+, K+, CaTp là mmol/l
Máy tách TB tự động Haemonetics MCS+:
Hình 2.4. Máy tách TB tự động Haemonetics MCS+
Đặc tính kỹ thuật của máy Haemonetics MCS+:
36
Kích thước: 56,5 cm (W) x 38,5 cm (D) x 44 cm (H)
Trọng lượng: 28,5 kg
Điện áp: 220 – 240 VAC (+/- 10%), 50 – 60 Hz
Dòng điện: ~ 2,5 A
Cầu chì: 2,5 A – 250 V
Tốc độ bơm: DRAW (rút máu) 20 – 100 ml/phút; RETURN (trả máu) 20 – 150
ml/phút.
Tốc độ li tâm: 4800 – 7000 vòng/phút (tùy theo protocol) (mặc định các mẫu sử
dụng trong nghiên cứu được li tâm từ NHTC là 5500 vòng/phút)
Hoá chất tiêu hao: Bộ kit 996E: kit đơn
Túi chống đông ACD 500 ml
Bộ kit 996E2: kit đôi
Túi chống đông ACD 700 ml
Nước muối sinh lý NaCl 0,9% (500 ml)
Máy tách TB tự động Nigale:
Hoá chất tiêu hao: Bộ kit P-2000IA: kit đơn
Bộ kit P-2000IB: kit đôi
Túi chống đông ACD Anticoagulant Citrate Dextrose
Solution 700 ml
Nước muối sinh lý NaCl 0,9% (500 ml)
37
Hình 2.5. Máy tách TB tự động Nigale
Máy bảo quản khối tiểu cầu hiệu Helmer
Hình 2.6. Máy bảo quản khối tiểu cầu hiệu Helmer
Máy đo pH hiệu Crison
Các môi trường để cấy KTC: môi trường hiếu khí, yếm khí và môi trường
Sabouraud để phát hiện sự nhiễm nấm.
38
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang, tiến cứu.
2.3.2. Kỹ thuật chọn mẫu: lấy mẫu theo phƣơng pháp lấy mẫu thuận tiện từ
các KTC sản xuất tại trung tâm.
- Tiêu chí loại ra: loại trừ những KTC trong quá trình gạn tách có lỗi kỹ thuật.
2.3.3. Đánh giá chất lƣợng KTC pool điều chế từ 6 đơn vị máu toàn phần thể
tích 350 ml
Tổng cộng nghiên cứu trên 40 KTC được sản xuất theo phương pháp buffy coat
từ máu toàn phần 350 ml của người hiến máu tình nguyện đủ tiêu chuẩn.
Máu toàn phần để điều chế KTC được bảo quản trong vòng 24 giờ ở nhiệt độ
22oC đến 24oC.
KTC sau khi sản xuất được kiểm tra, đánh giá chất lượng so sánh với các tiêu chuẩn
chất lượng quy định tại “Thông tư 26/2013/TT-BYT hướng dẫn hoạt động truyền
máu”, tiêu chuẩn chất lượng của Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Cụ thể bao gồm:
Thể tích đơn vị: thể tích từ 240 ml đến 340 ml, do bộ phận sản xuất kiểm tra
100% các chế phẩm điều chế.
Đếm SLTC: có tối thiểu 3×1011 TC trong đơn vị KTC pool điều chế từ 06 ĐV
thể tích 350 ml máu toàn phần. Có ít nhất 75% số ĐV máu được kiểm tra phải đạt tiêu
chuẩn này.
Đếm số lượng bạch cầu trong mỗi đơn vị khối tiểu cầu pool: ít hơn 1×106 bạch
cầu. Có ít nhất 75% số đơn vị được kiểm tra phải đạt tiêu chuẩn này.
Độ pH phải đạt từ 6,4 đến 7,4 khi đo ở nhiệt độ 20 – 24oC vào ngày đầu, và vào
ngày cuối thời gian bảo quản, đạt 100% các đơn vị được kiểm tra.
Xét nghiệm nuôi cấy phát hiện vi khuẩn phải có kết quả âm tính, đạt 100% các
đơn vị được kiểm tra.
39
2.3.4. Đánh giá chất lƣợng KTC gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy tách
TB tự động
Nghiên cứu 160 KTC sản xuất từ máy tách TB tự động của hãng Haemonetic và
Nigale trên người hiến TC đạt tiêu chuẩn của Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy.
KTC gạn tách từ người hiến máu đạt các tiêu chuẩn như sau:
Thể tích mỗi đơn vị không dao động quá 15% thể tích ghi trên nhãn.
Mỗi đơn vị KTC gạn tách (250 ml) có SLTC tối thiểu 300x109.
Mỗi đơn vị KTC gạn tách (500 ml) có SLTC tối thiểu 600x109.
Mỗi đơn vị KTC gạn tách (250 ml) có SLBC ít hơn 300x106.
Mỗi đơn vị KTC gạn tách (500 ml) có SLBC ít hơn 600x106.
Nồng độ TC phải thấp hơn 1,5x109/l.
Độ pH phải đạt từ 6,4 đến 7,4 và nuôi cấy phát hiện vi khuẩn phải âm tính vào
cuối thời gian bảo quản.
2.3.5. Nghiên cứu sự biến đổi của các chỉ số sinh hoá trong quá trình bảo quản
Chọn ngẫu nhiên 30 KTC được điều chết theo phương pháp buffy coat tại bộ
phận sản xuất chế phẩm của Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Các KTC được chọn lựa
theo tiêu chuẩn của trung tâm phù hợp với tiêu chuẩn của thông tư 26/2013/TT-BYT về hướng dẫn hoạt động truyền máu. KTC được bảo quản ở 22oC, lắc liên tục trong tủ
bảo quản TC.
Chọn ngẫu nhiên 30 KTC tách chiết từ một người cho máu bằng máy TB tự
động. Các KTC được chọn lựa theo tiêu chuẩn của trung tâm phù hợp với tiêu chuẩn
của thông tư 26/2013/TT-BYT về hướng dẫn hoạt động truyền máu. KTC được bảo quản ở 22oC, lắc liên tục trong tủ bảo quản TC.
2.3.6. Các chỉ tiêu cần đánh giá
Các chỉ số cần đánh giá chất lượng sản phẩm tiểu cầu điều chế từ máu toàn phần
và tiểu cầu tách chiết trên máy tự động:
Thể tích khối tiểu cầu
40
SLTC trong khối tiểu cầu
SLBC trong khối tiểu cầu
Nồng độ tiểu cầu
Độ pH của khối tiểu cầu.
Các chỉ số nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tiểu cầu tách
chiết trên máy tự động:
SLTC, hematocrit, MCV, SLBC người hiến máu
Cân nặng người hiến
Nhóm máu
Sự biến đổi của các chỉ số huyết học, sinh hoá trong quá trình bảo quản TC:
SLTC, SLBC tại các ngày nghiên cứu.
Chỉ số tiểu cầu MPV
Nồng độ glucose
Nồng độ LDH
Nồng độ Ca TP Nồng độ Na+, K+
Bảng 2.1. Mẫu bảng xét nghiệm theo dõi KTC gạn tách
Xét nghiệm theo dõi
Số lƣợng Ngày Đếm tế bào (ml) pH V (ml) LDH Glucose K+ CaTP Cấy VT
TC BC
1 X X X X X X X X X
3 X X X X X X X X X
5 X X X X X X X X X
41
2.4. Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học trên máy tính bằng
phần mềm SPSS 20.0 bao gồm các thông số:
Tỷ lệ %
Giá trị trung bình, độ lệch chuẩn.
So sánh từng cặp và khác cặp.
Hệ số tương quan r.
2.5. Tính ứng dụng của nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu từ mẫu có thể ứng dụng trong thực tiễn, đóng góp thêm các
nhận định về chất lượng của KTC được sản xuất theo phương pháp máu toàn phần và
phương pháp chiết tách từ máy tự động. Đánh giá được chất lượng của KTC trong các
ngày bảo quản giúp ích cho các bác sỹ lâm sàng nâng cao hiệu quả sử dụng trên bệnh
nhân sử dụng KTC.
Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp đóng góp vào y văn là tiền đề cho các nghiên
cứu kế tiếp.
42
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm nguồn nguyên liệu
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy, nghiên cứu trên
hai phương pháp sản xuất tiểu cầu đó là KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần theo
phương pháp buffy coat và tiểu cầu gạn tách từ người cho trên máy tách tế bào tự động.
Tổng cộng có 40 KTC sản xuất theo phương pháp buffy coat và 160 KTC tách
chiết từ máy tự động. Qua đó đánh giá các chỉ số: SLTC, SLBC, độ pH và thể tích
KTC.
3.1.1. Số lƣợng tiểu cầu có trong túi tiểu cầu
Số lượng tiểu cầu của KTC là chỉ số đầu tiên phải quan tâm sau khi điều chế.
SLTC phải đạt theo tiêu chuẩn của trung tâm truyền máu đưa ra.
Trong quá trình bảo quản KTC, một SLTC nhất định sẽ bị mất đi do nhiều
nguyên nhân tác động. Có thể tiểu cầu chết tự nhiên vì đời sống trung bình của tiểu cầu
chỉ kéo dài 8 – 10 ngày, có thể chết do ảnh hưởng của điều kiện bảo quản như nhiệt độ,
chế độ lắc, dung dịch bảo quản. Trong khái niệm này cần phân biệt 2 hiện tượng:
1. Tiểu cầu bị chết kèm theo hiện tượng hoại tử tế bào và phóng thích các thành
phần của tiểu cầu ra ngoài môi trường, hiện tượng này là nguyên nhân đưa đến giảm số
lượng tiểu cầu trong KTC.
2. Tiểu cầu bị mất chức năng do bị hoạt hóa và phóng thích các chất chuyển hóa
vào môi trường, do đó các tiểu cầu này vẫn giữ hình thể nhưng không thực hiện được
chức năng của nó trong quá trình đông cầm máu. Như vậy, nghiên cứu sự thay đổi số
lượng tiểu cầu ta chỉ có thể đánh giá trong khái niệm thứ nhất.
3.1.2. Số lƣợng bạch cầu trong khối tiểu cầu
Số lượng bạch cầu còn lại là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng KTC.
Bạch cầu hạt có đời sống ngắn (48 – 72 giờ), khi bạch cầu chết sẽ giải phóng ra nhiều
chất hóa học trung gian vào huyết tương và sẽ tác động lên màng tiểu cầu làm giảm
hoạt lực của tiểu cầu, bên cạnh đó khi các enzyme được giải phóng ra từ bạch cầu sẽ
43
làm thay đổi pH, gây biến đổi hình thái và cấu trúc của tiểu cầu. Từ đó làm mất hoạt
tính sinh học của tiểu cầu vậy việc giảm bạch cầu trong KTC cũng là một mục tiêu,
một tiêu chuẩn quan trọng của KTC. Ngoài ra bạch cầu còn là tế bào đích của các
virus HIV, CMV vì giảm được số lượng bạch cầu trong KTC là có thể phòng lây
nhiễm các virus này. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của bạch cầu trong KTC
sẽ đưa đến nhiều phản ứng bất lợi như tạo kháng thể chống HLA, phản ứng sốt lạnh
run, sự lây truyền các virus ẩn nấp trong bạch cầu, kể cả làm tăng độ nhiễm trùng sau
phẫu thuật và gây tái phát các ổ ung thư. Thông tư 26/2013/TT-BYT về hướng dẫn
hoạt động truyền máu quy định: SLBC trong mỗi đơn vị KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần bằng phương pháp buffy coat phải ít hơn 0,05x109 BC/đv và có ít nhất 75%
số đơn vị KTC được kiểm tra phải đạt tiêu chuẩn này.
3.1.3. Đặc điểm các đơn vị máu toàn phần điều chế KTC trong nghiên cứu
Bảng 3.1. Một số chỉ số xét nghiệm huyết học của đơn vị máu toàn phần 350 ml
Đơn vị máu toàn phần (n = 40)
Trung bình Thấp nhất Cao nhất Bình thƣờng
7,00 ± 1,30 4,05 13,80 3,60 – 10,20 SLBC WBC (109/l)
284,00 ± 45,00 220,00 410,00 152,00 – 348,00 SLTC Plt (109/l)
HST, Hb (g/dL) 13,80 ± 1,20 15,40 12,50 – 16,30 12,10
Hct (%) 40,40 ± 3,60 45,80 36,70 – 47,10 35,90
MCV (fl) 89,50 ± 4,03 103,20 73,00 – 96,20 72,00
Kết quả bảng 3.1 cho thấy: Số lượng bạch cầu trung bình của NHTC là 7,00 ± 1,30x109/l; SLTC trung bình trong đơn vị máu toàn phần để điều chế KTC là 284,00 ± 45x109/l; lượng huyết sắc tố trung bình là 13,80 ± 1,20x109/l; dung tích hồng cầu (Hct) trung bình là 40,40 ±
3,60%; thể tích trung bình hồng cầu (MCV) là 89,50 ± 4,03 fL.
44
Căn cứ theo tiêu chuẩn người hiến máu theo quy định của thông tư 26/2013/TT-
BYT 40 người hiến máu này được khảo sát đều đạt chuẩn (mức đạt: 100%).
3.1.4. Đặc điểm của ngƣời hiến máu để điều chế KTC bằng máy tách TB
Đặc điểm người hiến máu để gạn tách KTC bằng máy tách TB tự động được
trình bày ở bảng 3.2
Bảng 3.2. Đặc điểm ngƣời hiến máu để gạn tách KTC
Ngƣời hiến tiểu cầu (n= 180 )
Trung bình Thấp nhất Cao nhất Tiêu chuẩn
Chiều cao (cm) 168,0 ± 8,9 152,0 183,0
Cân nặng (kg) 75,0 ± 14,0 51,0 98,0
SLBC WBC ( 109/l) 7,2 ± 1,7 3,8 9,9 3,6 – 10,2
Hct (%) 43,6 ± 4,1 37,0 50,0 37 – 50
SLTC Plt (109/l) 307,0 ± 59,0 203,0 406,0 ≥ 200
Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy: cân nặng trung bình của người hiến máu 75 ± 14
kg. Người hiến máu có cân nặng thấp nhất 50 kg. SLTC trung bình của người hiến máu 307 ± 59x109/l, người hiến máu có SLTC thấp nhất là 203x109/l.
Bảng 3.3. Đặc điểm ngƣời hiến máu theo nhóm máu để gạn tách KTC
A B O TỔNG AB
27 49 95 180 9
15% 27% 5% 53% 100%
45
Biểu đồ 3.1. Phân bố ngƣời hiến tiểu cầu trên máy tự động theo nhóm máu
3.2. Kết quả khảo sát chất lƣợng KTC sản xuất từ 2 phƣơng pháp
3.2.1. Chất lƣợng KTC pool 6 điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml
Chất lượng KTC pool 6 điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml được trình bày
ở các bảng 3.4; 3.5 và biểu đồ 3.3
Bảng 3.4. Chất lƣợng KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml
KTC (n=40) Tiêu chuẩn chất
lƣợng VN Trung bình Cao nhất Thấp nhất
3,55 ± 0,67 5,32 2,13 ≥ 3,00 SLTC (1011/đơn vị)
94,35 ± 13,00 177,26 00 < 300 SLBC (106/đơn vị)
pH 7,15 ± 0,04 7,36 6,74 6,40 – 7,40
Thể tích 292,86 ± 0,18 354,78 239,77 240,00 – 340,00 KTC (ml)
Theo bảng 3.4: SLTC trung bình trong một đơn vị là: 3,55 ± 0,67X1011 TC, SLTC trong một đơn vị cao nhất là 5,32X1011, thấp nhất là 2,13X1011 TC. SLBC trung bình trong một đơn vị là 94,35 ± 13x106, cao nhất là 177,26x106 BC. Độ pH trung bình
là 7,15 ± 0,04 cao nhất 7,36 thấp nhất 6,74.
46
TB: 3,55±0,67
Độ xiên: 0,329
n = 40
Biểu đồ 3.2. Phân bố SLTC trong một đơn vị KTC điều chế từ máu toàn phần 350
ml
Biểu đồ 3.2 cho thấy: giá trị trung bình của SLTC là 3,55 ± 0,67x1011 TC/đv, độ
xiên (skewness) = 0,329. Số liệu phân phối tương đối đều hai phía. Độ rộng của phân phối từ 2,13x1011 đến 5,32x1011 TC/đv.
Trong nghiên cứu tại các bảng 3.4 SLTC trung bình trong một KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml là 3,55 ± 0,67x1010 TC/đv. Như vậy cho thấy các KTC
sản xuất đạt tiêu chuẩn của bệnh viện đồng thời cũng phù hợp với tiêu chuẩn của châu
Âu. Tuy nhiên trên biểu đồ 3.2 thể hiện phân bố của các KTC về SLTC/đv với độ rộng
khá cao, với độ xiên 0,329, điều này cho thấy KTC sản xuất bằng phương pháp buffy
coat có chất lượng về SLTC chưa được đồng đều. Có thể chỉ tiêu chất lượng về SLTC
trong KTC có thể bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như: SLTC trong đơn vị máu toàn
phần, thời gian từ khi lấy máu tới khi điều chế KTC, thời gian và tốc độ ly tâm,... Ảnh
hưởng của các yếu tố này được làm rõ sẽ nâng cao được chất lượng KTC.
47
Bảng 3.5. Tỷ lệ KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml đạt yêu cầu chất
lƣợng theo tiêu chuẩn Việt Nam
KTC đạt chất lƣợng KTC chƣa đạt chất lƣợng
Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)
SLTC (n = 40) 37 92,5 04 7,5
SLBC (n = 40) 40 100,0 0 0
pH (n = 40) 40 100,0 0 0
Thể tích KTC (n = 40) 40 100,0 0 0
Tiểu cầu được bảo quản trong huyết tương của người hiến máu. Túi chứa TC
cần được đảm bảo độ trao đổi khí O2 và CO2 tốt. Trong nghiên cứu, thể tích trung bình
của KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml là: 292,86 ± 0,18 ml thể tích KTC
cao nhất là 354,78 ml, thấp nhất là 239,77 ml (bảng 3.4). Như vậy thể tích của các
KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam, cũng như tiêu
chuẩn châu Âu. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Phạm Tuấn Dương và
cộng sự (2012). Một số đơn vị KTC có thể tích cao, nhưng thể tích cao hơn không có
bất kỳ ảnh hưởng có hại lên chức năng tiểu cầu và duy trì pH trong suốt thời gian bảo
quản bằng các tác dụng đệm của nó.
Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.4 SLBC trong KTC điều chế từ sáu đơn vị máu toàn phần 350 ml là 94,35 ± 13,00x106 BC/đv. Trong đó tỷ lệ đạt yêu cầu chất lượng là
100% (bảng 3.5). Như vậy chất lượng KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần hoàn
toàn đạt yêu cầu chất lượng về SLBC. So sánh với kết quả nghiên cứu của Phạm Tuấn
Dương (2012), Trần Thị Thủy (2014), thấy tỷ lệ đạt tiêu chuẩn về SLBC ở KTC điều
chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml trong nghiên cứu cao hơn (của hai tác giả lần lượt
là 87,5% và 91,7%). Vì trong phương pháp buffy coat có một bộ lọc bạch cầu để giảm
tới mức tối đa SLBC có trong KTC.
Kết quả bảng 3.5 cho thấy: tỷ lệ KTC đạt yêu cầu chất lượng về thể tích, SLBC,
độ pH là 100%. Tỷ lệ KTC đạt yêu cầu chất lượng về SLTC 92,5 %, đáp ứng được tiêu
48
chuẩn ít nhất 75% KTC được kiểm tra đạt tiêu chuẩn về SLTC. Kết quả nghiên cứu
này cũng phù hợp với các nghiên cứu của Phạm Tuấn Dương (2012). Tỷ lệ KTC điều
chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml đạt tiêu chuẩn chất lượng trong nghiên cứu này
tương đương Phạm Tuấn Dương (92,5% so với 90%).
3.2.2. Chất lƣợng KTC gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy tách tế bào
3.2.2.1. Chất lƣợng KTC gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy Haemonetic
Chất lượng khối tiểu cầu đơn (250 ml) gạn tách từ người hiến máu bằng máy
Haemonetic được trình bày ở các bảng 3.6; và biểu đồ 3.3
Bảng 3.6. Chất lƣợng KTC đơn (250 ml) gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy
tách TC Haemonetic
KTC (n = 40) Tiêu chuẩn chất
Trung bình Cao nhất Thấp nhất lƣợng VN
SLTC (1011/đv) 3,60 ± 0,52 4,50 2,70 ≥ 3,00
SLBC (106/đv) 83,57 ± 11,10 89,48 25,71 < 300,00
pH 7,15 ± 0,03 7,20 7,10 6,40 – 7,40
Thể tích KTC 242,52 ± 15,09 266,55 220,42 210,00 – 290,00
Nồng độ TC (ml) 1398,00 ± 107,00 1582,54 1231,23 ≤ 1500,00 (G/l)
Kết quả tại bảng 3.6 cho thấy: KTC có SLTC trung bình là 3,6 ± 0,52x1011
TC/đv, cao nhất 4,50x1011TC, thấp nhất 2,70x1011 TC. KTC có nồng độ TC trung bình là 1398,00 ± 107,00 G/l, cao nhất 1582,00 G/l. SLBC trung bình 83,57 ± 11,10x106 BC/đv, SLBC cao nhất 89,48x106/đv.
49
TB: 3,67 ± 0,52
Độ xiên: 0,325
n = 40
Biểu đồ 3.3. Phân bố SLTC trong một đơn vị TC đơn gạn tách bằng máy
Hamonetic
Biểu đồ 3.3 cho thấy: giá trị trung bình của SLTC là: 3,60 ± 0,52x1011 TC/đv,
độ xiên (skewness) = 0,325 số lượng tiểu cầu phân phối tương đối đều hai bên. Độ rộng của phân phối từ 2,70x1011 đến 4,50x1011 TC/đv. SLTC tập trung nhiều trong khoảng 3,20x1011 đến 3,70x1011.
Chất lượng khối tiểu cầu đôi (500 ml) gạn tách từ người hiến máu bằng máy
Haemonetic được trình bày ở các bảng 3.7; và biểu đồ 3.4.
Bảng 3.7. Chất lƣợng KTC đôi (500 ml) gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy
tách TB Haemonetic
KTC (n = 40) Tiêu chuẩn
SLTC (1011/đv)
Trung bình Cao nhất Thấp nhất chất lƣợng VN
SLBC (106/đv)
6,39 ± 0,33 7,05 5,73 ≥ 6,00
pH
209,80 ± 23,70 289,70 127,10 < 600,00
7,21 ± 0,05 7,30 7,10 6,40 – 7,40
50
Thể tích KTC
(ml) Nồng độ TC
505,60 ± 53,21 593,59 426,53 425,00 – 575,00
(G/l)
1275,00 ± 113,00 1479,00 1124,00 ≤ 1500,00
Kết quả bảng 3.7 cho thấy: KTC có SLTC trung bình là 6,39 ± 0,33x1011 TC/đv, cao nhất là 7,05x1011 TC thấp nhất 5,73x1011 TC. KTC có nồng độ TC trung bình là 1275,00 ± 113,00 G/l, cao nhất 1479,00 G/l. SLBC trung bình 209,80 ± 23,70x106 BC/đv, SLBC cao nhất 289,70x106/đv.
TB: 6,39±0,33
Độ xiên: −0,04
n = 40
Biểu đồ 3.4. Phân bố SLTC trong một đơn vị TC đôi gạn tách bằng máy
Hamonetic
Biểu đồ 3.4 cho thấy: giá trị trung bình của SLTC là 6,39 ± 0,33x1011 TC/đv, độ
xiên (skewness) = −0,04 đây là một phân phối chuẩn đều, số lượng tiểu cầu phân phối khá đều hai bên. Độ rộng của phân phối từ 5,73x1011 đến 7,05x1011 TC/đv. SLTC của KTC tập trung nhiều trong khoảng 6,20x1011 đến 6,70x1011 TC/đv.
51
Bảng 3.8. Tỷ lệ KTC đơn và đôi gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy
Haemonetic đạt yêu cầu chất lƣợng theo tiêu chuẩn Việt Nam
KTC đạt chất lƣợng KTC chƣa đạt chất lƣợng
Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)
SLTC (n = 80) 79 97,5 2 2,5
Nồng độ TC (n = 80) 80 100 0 0
pH (n = 80) 80 100 0 0
Thể tích KTC (n = 80) 80 100 0 0
Kết quả tại bảng 3.7 cho thấy: KTC gạn tách từ người hiến máu bằng máy tách
TB Haemonetic đạt yêu cầu chất lượng 100% về các chỉ tiêu nồng độ TC, độ pH và thể
tích KTC. Có 97,5% KTC đạt yêu cầu chất lượng về SLTC.
3.2.2.2. Chất lƣợng KTC gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy Nigale
Chất lượng khối tiểu cầu đơn (250 ml) gạn tách từ người hiến máu bằng máy
Nigale được trình bày ở các bảng 3.9; và biểu đồ 3.5
Bảng 3.9. Chất lƣợng KTC đơn (250 ml) gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy
tách tế bào Nigale
KTC Tiêu chuẩn chất
Trung bình Cao nhất Thấp nhất (n=40) lƣợng VN
SLTC (1011/đv)
SLBC (106/đv)
3,36 ± 0,41 4,10 2,70 ≥ 3,00
pH
60,39 ± 11,40 92,03 30,02 < 300,00
Thể tích KTC (ml) 270,42 ± 13,66
7,13 ± 0,02 7,18 7,10 6,40 – 7,40
Nồng độ TC (G/l) 1396,00 ± 117,00
268,50 222,91 210,00 – 290,00
1575,23 1216,73 ≤ 1500,00
Kết quả tại bảng 3.9 cho thấy:
52
KTC có SLTC trung bình là 3,36 ± 0,41x1011 TC/đv, cao nhất là 4,10x1011 TC
thấp nhất 2,70x1011 TC.
KTC có nồng độ TC trung bình là 1396,00 ± 117,00 G/l, cao nhất 1575,23 G/l.
SLBC trung bình 60,39 ± 11,4x106 BC/đv, SLBC cao nhất 92,03x106/đv.
TB: 3,36±0,41
Độ xiên: 0,218
n = 40
Biểu đồ 3.5. Phân bố SLTC trong một đơn vị TC đơn gạn tách bằng máy Nigale
Biểu đồ 3.5 cho thấy:
Giá trị trung bình của SLTC: 3,36 ± 0,41x1011 TC/đv, độ xiên (skewness) =
0,218, số lượng tiểu cầu phân phối tương đối đều hai bên.
Độ rộng của phân phối từ 2,70x1011 đến 4,10x1011 TC/đv.
SLTC tập trung nhiều trong khoảng 3,10x1011 đến 3,50x1011
Chất lượng khối tiểu cầu đôi (500 ml) gạn tách từ người hiến máu bằng máy
Nigale được trình bày ở các bảng 3.10; và biểu đồ 3.6.
53
Bảng 3.10. Chất lƣợng KTC đôi (500 ml) gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy
tách tế bào Nigale
KTC (n = 40) Tiêu chuẩn chất
Trung bình Cao nhất Thấp nhất lƣợng VN
SLTC (1011/đv)
SLBC (106/đv)
6,43 ± 0,41 7,27 5,78 ≥ 6,00
pH
80,95 ± 16,80 105,01 56,03 < 600,00
Thể tích KTC (ml) 504,83 ± 51,00
7,19 ± 0,06 7,23 7,10 6,40 – 7,40
Nồng độ TC (G/l) 1258,83 ± 90,00
597,36 432,53 425,00 – 575,00
1390,00 1119,00 ≤ 1500,00
Kết quả tại bảng 3.10 cho thấy:
KTC có SLTC trung bình là 6,43 ± 0,41x1011 TC/đv, cao nhất là 7,27x1011 TC
thấp nhất 5,78x1011 TC.
KTC có nồng độ TC trung bình là 1258,83 ± 90,00 G/l, cao nhất 1390,00 G/l.
SLBC trung bình 80,95 ± 16,80x106 BC/đv, SLBC cao nhất 105,01x106/đv.
TB: 6,43±0,41
Độ xiên: 0,119
n = 40
Biểu đồ 3.6. Phân bố SLTC trong một đơn vị TC đôi gạn tách bằng máy Nigale
54
Biểu đồ 3.6 cho thấy:
Giá trị trung bình của SLTC là: 6,43 ± 0,41x1011 TC/đv, độ xiên (skewness) =
0,119 đây là một phân phối chuẩn đều, SLTC phân phối khá đều hai bên.
Độ rộng của phân phối từ 5,78x1011 đến 7,27x1011 TC/đv.
SLTC của KTC tập trung nhiều trong khoảng 6,00x1011 đến 6,50x1011 TC/đv.
Bảng 3.11. Tỷ lệ KTC đơn và đôi gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng máy Nigale
đạt yêu cầu chất lƣợng theo tiêu chuẩn Việt Nam
KTC đạt chất lƣợng KTC chƣa đạt chất lƣợng
Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)
SLTC (n=80) 77 96.25 3 3.75
Nồng độ TC (n=80) 80 100 0 0
pH (n = 80) 80 100 0 0
Thể tích KTC (n=80) 80 100 0 0
Kết quả tại bảng 3.11 cho thấy: KTC gạn tách từ người hiến máu bằng máy tách
tế bào Nigale đạt yêu cầu chất lượng 100% về các chỉ tiêu nồng độ TC, độ pH và thể
tích KTC. Có 96,25% KTC đạt yêu cầu chất lượng về SLTC.
Như vậy, từ các nghiên cứu trên cho thấy các KTC đạt tiêu chuẩn VN và quy
định của châu Âu. Tỷ lệ KTC đạt tiêu chuẩn chất lượng theo thông tư 26/2013/TT-
BYT rất cao, lần lượt là 97,5% và 96,25% tương ứng với các loại máy tách tế bào
Haemonetic và Nigale. Không có sự khác biệt về SLTC thu được đối với hai loại máy
này (p > 0,05), các kết quả đều nằm trong giới hạn cho phép. KTC gạn tách từ một
người hiến với số lượng tiểu cầu như vậy đáp ứng rất tốt cho việc điều trị các trường
hợp bệnh nhân xuất huyết giảm tiểu cầu, rối loạn đông máu. Kit đơn và đôi của hai loại máy trên có độ tập trung tiểu cầu khá tốt ở khoảng kit đơn 3,0x1011 TC/đv đến 3,7x1011 TC/đv, kit đôi 6,00x1011 TC/đv đến 6,70x1011 TC/đv. Chứng tỏ phương pháp chiết
tách từ máy tự động có độ ổn định tốt hơn phương pháp buffy coat.
55
Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của một số tác giả: Bùi Minh
Đức (2010), nghiên cứu chất lượng KTC gạn tách bằng máy Haemonetic SLTC thu được là 3,76 ± 0,43x1011 TC/đv; 100% KTC thu được có SLTC cao hơn 3,00x1011
TC/đv. So sánh với nghiên cứu của Chaudhary R. (2005), SLTC trung bình trong KTC gạn tách bằng máy Haemonetic là 2,88 ± 0,75x1011 TC/đv thì kết quả của nghiên cứu
này cao hơn. Do yêu cầu SLTC của bệnh viện đưa ra là thu nhận KTC có SLTC cao hơn 3,00x1011 TC/đv.
Thể tích trung bình của KTC gạn tách từ người hiến máu bằng máy tách tế bào
trình bày tại các bảng 3.6; 3.7 và 3.11 là 242,52 ± 15,09 ml; KTC đôi 505,60 ± 53,21
ml và 270,42 ± 13,66 ml; 504,83 ± 51 ml tương ứng với các loại KTC đơn, đôi máy
Haemonetic và Nigale đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam và châu Âu. Kết quả
tại các bảng 3.8; 3.11 cho thấy 100% các KTC gạn tách từ một người hiến máu đạt tiêu
chuẩn về thể tích KTC.
Loại bỏ bạch cầu ra khỏi KTC cũng là một mục tiêu hết sức quan trọng, vì vậy
các hãng sản xuất kít gạn tách TC đã lắp thêm con sò vào bộ kít mục đích làm giảm
đến mức tối thiểu SLBC trong KTC. Trên máy Nigale có thêm một túi phụ để tách bớt
bạch cầu trong quá trình chiết tách tiểu cầu. Kết quả bạch cầu còn lại sau khi chiết tách
trên hai máy Haemonetic và Nigale thì máy Nigale có số lượng tiểu cầu thấp hơn tương
ứng 83,57 ± 11,10 (bảng 3.6); 60,39 ± 11,40 (bảng 3.9).
Độ pH là chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng KTC trong quá trình bảo
quản bởi sự thay đổi của độ pH phản ánh quá trình chuyển hóa của các tiểu cầu.
Murphy S. (1986), thay đổi hình thái tiểu cầu bắt đầu xảy ra khi pH 6,8 và đạt tối đa
khi pH = 6,0 TC thay đổi hình dạng từ hình đĩa sang hình cầu, tiểu cầu chuyển dạng
thành hình cầu và không thể hồi phục nếu pH < 6. Độ pH tăng lên mức 7,4 đến 7,6
trong các KTC, TC cũng chuyển dạng hình đĩa sang hình cầu và kết thành từng khối.
Kết quả tại bảng 3.2 và bảng 3.4 KTC được điều chế từ đơn vị máu toàn phần
350 ml có độ pH 7,15 ± 0,04 (cao nhất 7,36 thấp nhất 6,74). KTC gạn tách bằng các
máy Haemonetic, Nigale có độ pH lần lượt là 7,15 ± 0,03; 7,21 ± 0,05 và 7,13 ± 0,02;
56
7,19 ± 0,06 so sánh với tiêu chuẩn độ pH tại thông tư 26/2013/TT-BYT về hướng dẫn
hoạt động truyền máu thì 100% các KTC đạt tiêu chuẩn chất lượng. KTC sản xuất theo
phương pháp buffy coat có độ pH thấp hơn phương pháp chiết tách trên máy tự động
ảnh hưởng đến thời gian bảo quản KTC pool sẽ bị ngắn lại.
Tóm lại: KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml, cũng như KTC gạn
tách từ người hiến máu bằng máy tách tế bào tự động có độ ổn định cao, đạt được các
tiêu chuẩn của bệnh viện và Bộ y tế đưa ra.
Tóm lại: Nghiên cứu chất lượng KTC trên cơ sở các chỉ số SLTC, thể tích KTC,
SLBC còn lại và độ pH trong mỗi đơn vị thu được kết quả: KTC điều chế từ đơn vị máu
toàn phần và KTC gạn tách từ người hiến máu bằng máy tách tế bào tự động chất
lượng đều đạt cao hơn chỉ tiêu chất lượng đề ra tại thông tư 26/2013/TT-BYT về hướng
dẫn hoạt động truyền máu. Hiện nay xu hướng sử dụng KTC gạn tách bằng máy từ
người hiến máu ngày càng nhiều nhờ các ưu điểm vượt trội như hạn chế tối đa vấn đề
nhiễm trùng, SLBC còn lại ít hơn, SLTC thu được ổn định hơn. Tuy nhiên phương pháp
chiết tách từ máy cao hơn và số lượng người cho tiểu cầu còn ít nên KTC điều chế từ
đơn vị máu toàn phần vẫn nên được tiếp tục sử dụng.
3.3. Kết quả khảo sát một số yếu tố ảnh hƣởng tới chất lƣợng KTC
3.3.1. Ảnh hƣởng của thời gian bảo quản tới chất lƣợng KTC điều chế từ các
đơn vị máu toàn phần
Bảng 3.12. Kết quả biến đổi SLTC, MPV trong KTC điều chế từ đơn vị máu toàn
phần 350 ml theo ngày bảo quản
SLTC (1011/đơn vị) MPV (fl)
Ngày 1 (n = 30) 3,60 ± 0,38 7,40 ± 0,70
3,096 ± 0,47 8,15 ± 0,75
Ngày 3 (n = 30) p1-3 < 0,05 p1-3 < 0,05
2,83 ± 0,67 8,45 ± 0,85
Ngày 5 (n = 30) p3-5 >0,05 p3-5 < 0,05
57
p3-5 < 0,05 p1-5<0,05
Kết quả bảng 3.12 cho thấy:
SLTC trung bình trong KTC gạn tách trên các máy tách tế bào tự động ngày đầu tiên là 3,60 ± 0,38x1011, SLTC trung bình giảm dần từ ngày 1 đến ngày 5, ở các
ngày thứ ba, ngày thứ năm với ngày thứ nhất thấy có sự khác biệt (p < 0,05), sự giảm
SLTC chưa có ý nghĩa trong hai ngày thứ 3 và thứ 5 (p > 0,05). Tuy nhiên số lượng
tiểu cầu còn lại vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Kết quả này cũng phù hợp với kết
quả các nghiên cứu của Saira Baslir (2014), Soleimay F.A (2011).
Chỉ số tiểu cầu MPV có sự thay đổi, tăng lên theo ngày bảo quản. So sánh giữa
các ngày bảo quản ngày thứ nhất, ngày thứ ba, ngày thứ năm có sự khác nhau có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05). Singh (2003), chỉ số TC MPV phản ánh trong thời gian bảo
quản có sự thay đổi hình dạng của TC, đặc biệt là khi phân tích có kết hợp với pH. Chỉ
số TC tương quan với thay đổi độ pH bao gồm MPV có tương quan rất chặt. Bảng
3.12 chỉ số MPV tăng lên theo ngày bảo quản tương ứng là 7,40 ± 0,70 fl; 8,15 ± 0,75
fl và 8,45 ± 0,85 fl ở ngày thứ năm. MPV tăng ở ngày thứ ba và thứ năm có ý nghĩa
thống kê p < 0,05.
Bảng 3.13. Biến đổi SLBC trong KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần theo
ngày bảo quản
Kết quả Thay đổi so với P Số lƣợng bạch cầu ± SD (x106/đv) ngày 1 Thời gian
94,35 ± 63 100% Ngày 1
90,33 ± 70 95,74% 0,05 Ngày 3
p1-5 > 0,05 68,05 ± 55 72% Ngày 5 p3-5 < 0,05
58
Kết quả ở bảng 3.13 cho thấy:
SLBC ở các ngày bảo quản thứ nhất, thứ ba và ngày bảo quản không có sự khác
biệt (p > 0,05).
Ở ngày thứ 5 cuối kì bảo quản SLBC đã mất đi có ý nghĩa thống kê so với ngày
1 (giảm 28%, p < 0,05).
Số lượng bạch cầu cũng là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng
KTC, như phần bàn luận ở phần 4.1 SLBC còn lại trong cả hai phương pháp đạt tiêu
chuẩn rất cao. Số lượng bạch cầu còn lại theo các ngày bảo quản có giảm tuy nhiên sự
giảm về số lượng này là không khác biệt (p > 0,05).
Kết quả bảng 3.13 SLBC trong KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần có xu
hướng giảm theo ngày trong thời gian bảo quản, SLBC tương ứng trong ngày bảo quản thứ nhất là 94,35 ± 63,00x106/đv và 90,33 ± 70,00x106/đv; trong ngày bảo quản thứ năm là 68,05 ± 55,00x106/đv.
Bảng 3.14. Thay đổi pH, nồng độ glucose, lactate trong KTC điều chế từ đơn vị
máu toàn phần theo ngày bảo quản
Ngày 1 (n = 30) Ngày 3 (n = 30) Ngày 5 (n = 30)
6,93±0,11 6,71±0,11
pH 7,16 ± 0,10 (6,76 ÷ 7,13) (6,51 ÷ 6,93)
(6,99 ÷ 7,34) p1-3< 0,05 p1-5< 0,50
335,00 ± 45,00 p3-5< 0,50 319,00 ± 61,00
Glucose 395,00 ± 32,00 (258,00 ÷ 410,00) (209,00 ÷ 410,00)
(mg/dL) (349,00 ÷ 481,00) p1-3< 0,05 p1-5< 0,50
2500,00 ± 195,00 p3-5< 0,50 3463,00 ± 268,00
(2251,00 ÷ 2849,00) (1984,00 ÷ 3901,00)
59
LDH 1892,00±197,00 p1-3< 0,05 p1-5< 0,50
(U/L) (1613,00 ÷ 2217,00) p3-5< 0,50
Độ pH là chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng KTC trong quá trình bảo
quản bởi sự thay đổi của độ pH phản ánh quá trình chuyển hóa của các tiểu cầu.
Sự chuyển hóa đường của TC bảo quản sẽ tạo nên sản phẩm chuyển hóa là
lactate, chính chất này là nguyên nhân gây ra giảm độ pH. Một số tác giả cho rằng khi
pH giảm xuống dưới 6,5 thì TC sẽ bị chuyển dạng từ hình dĩa sang hình cầu và bào
tương của nó sẽ lồi ra các chân giả. Còn khi pH giảm dưới 6,0 thì TC sẽ bị phân mảnh
và chết. Ngược lại khi pH tăng trên 7,3 tiểu cầu cũng bị ảnh hưởng và nếu pH lớn hơn
7,5 thì tiểu cầu sẽ bị tổn hại nặng nề. Ngoài ra pH còn bị tác động bởi rất nhiều yếu tố
trong quá trình bảo quản, dung dịch bảo quản, kỹ thuật lắc, nhiệt độ môi trường,...
Điều quan trọng trong thời gian bảo quản KTC là độ pH phải nằm trong phạm vi
chấp nhận 6,4 đến 7,4 để giữ được chức năng tiểu cầu. Kết quả nghiên cứu của tôi tất
cả các KTC đến cuối thời gian bảo quản đều có độ pH trong phạm vi này.
Độ pH giảm dần theo ngày trong thời gian bảo quản, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Độ pH thấp nhất trong cả thời gian bảo quản là 6,51; cao nhất
7,34.
Đường đóng vai trò quan trọng trong quá trình bảo quản TC, nếu KTC được
cung cấp đầy đủ oxy thì đường trong KTC sẽ chuyển hóa theo chu trình Krebs, nhờ
vậy tiểu cầu sẽ được cung cấp đầy đủ năng lượng và có thể đảm bảo cho TC sống và
thực hiện các chức năng của nó. Ngoài ra sự tiêu thụ glucose này có mối tương quan tỉ
lệ thuận với sự tạo thành lactate, do đó mức tiêu thụ glucose càng cao thì sự tạo thành
lactate càng nhiều, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự giảm pH. Sự thay đổi pH làm
cho TC trong KTC phồng lên và vỡ ra, gây ra các tổn thương cho các KTC trong quá
trình bảo quản. Kết quả bảng 3.14 cho thấy nồng độ đường trung bình trong KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần bảo quản ở 20oC và lắc liên tục, ngày 1 là 395,00 ± 32,00
mg/dL, nồng độ đường trung bình giảm dần qua từng ngày bảo quản và đến ngày thứ 3
thì giảm còn 335,00 ± 45,00 mg/dL và giảm có ý nghĩa thống kê so với ngày 1 (p <
60
0,05). Các ngày sau nồng độ đường ngày càng giảm dần đến ngày thứ 5 còn 319,00 ±
61,00 mg/dL, giảm mạnh so với ngày 1 (p < 0,05). Việc theo dõi nồng độ glucose trong
KTC nhất là KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần là rất quan trọng vì glucose ngoài
việc dùng để đánh giá chuyển hoá của TC trong bảo quản, còn là một chỉ thị quan trọng
trong việc đánh giá nhiễm khuẩn của KTC. Nếu thay đổi nồng độ của glucose trong
KTC rõ ràng và đột ngột là biểu hiện của KTC đã nhiễm khuẩn.
LDH (lactate dehydrogenase) là một enzyme có trong tất cả các tổ chức trong cơ
thể bao gồm cả hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu. Trong TC, LDH nằm trong tế bào chất, có
bốn chuỗi polypeptide, 4 chuỗi này hợp thành 5 isozyme khác nhau là LDH1, LDH2,
LDH3, LDH4, LDH5. Cả 5 isozyme này đều xúc tác cho phản ứng chuyển từ pyruvate
thành lactate và ngược lại. Thông thường xét nghiệm LDH tăng trong những trường
hợp tế bào của tổ chức đã bị phá hủy. Do đó, trong quá trình bảo quản khi lượng LDH
tăng trong KTC cũng đồng nghĩa với sự phá hủy tế bào mà chủ yếu là tiểu cầu, bạch
cầu và một số hồng cầu có trong KTC. Lượng LDH tăng giải thích cho sự giảm nhanh
số lượng TC trong quá trình bảo quản. Từ kết quả bảng 3.14, nồng độ LDH trong KTC
từ máu toàn phần tương ứng ở các ngày bảo quản là 1892 ± 197 U/L, giảm xuống còn
2500 ± 195 U/L và 3463 ± 268 U/L ở ngày thứ năm. Nồng độ LDH trong KTC tăng
trong thời gian bảo quản, so sánh giữa các ngày có sự thay đổi rõ (p < 0,05), có ý nghĩa
thống kê.
61
Bảng 3.15. Mối tƣơng quan giữa pH, glucose, LDH trong KTC điều chế từ máu
toàn phần theo ngày bảo quản
pH Glucose LDH
pH r
1 30 p
n
0,275 Glucose r 1
0,155 Ngày 1 p
30 n 30
LDH r 1
-0,190 0,105 -0,138 0,525 p
30 30 30 n
1 pH r
30
0,798 Glucose 1
0,000 Ngày 3
LDH 1 p r p n r
-0,725 30 0,000 -0,560 30 0,001 p n 30 30 30
pH n r
1 30 p
0,805 Glucose 1 r
0,000 Ngày 5 p n
LDH r 1
p n 30 -0,787 0,000 30 30 -0,590 0,001 30 30
n
62
Kết quả ở bảng 3.15 cho thấy:
Độ pH và nồng độ glucose trong KTC có một tương quan cao, thể hiện rõ ở
ngày bảo quản thứ ba và thứ năm, ngày bảo quản thứ năm mối tương quan giữa độ pH
và nồng độ glucose là r = 0,805, p = 0,000.
Có mối tương quan cao theo chiều nghịch giữa độ pH và nồng độ LDH, hệ số
tương quan ở ngày bảo quản thứ ba và thứ năm tương ứng là r = -0,725, p = 0,000; r = -
0,787, p = 0,000.
Mối tương quan giữa nồng độ glucose và nồng độ LDH là r = -0,590, p = 0,001. Bảng 3.16. Thay đổi nồng độ N+ và K+ trong KTC điều chế từ đơn vị máu toàn
phần theo ngày bảo quản
Na+ (mmol/l) K+ (mmol/l)
Ngày (n = 30) 150,65 ± 1,80 6,50 ± 0,12
154,10 ± 1,23 6,30 ± 0,15 Ngày 3 (n = 30) p1-3>0,05 p1-3>0,05
165,90 ± 1,95 5,90 ± 0,14
Ngày 5 (n = 30) p1-5<0,05 p1-5>0,05
p3-5<0,05 p3-5>0,05
Kết quả ở bảng 3.16 cho thấy:
Nồng độ Na+ tăng trong thời gian bảo quản, sự khác biệt nồng độ Na+ giữa
ngày bảo quản thứ năm và ngày nhất, ngày thứ năm và ngày thứ ba có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05).
Nồng độ K+ giữa các ngày bảo quản không khác nhau (p > 0,05).
63
Bảng 3.17. Sự thay đổi về nồng độ CaTP (Calci toàn phần) trong KTC điều chế từ
đơn vị máu toàn phần theo ngày bảo quản
P Thay đổi so với ngày 1 Nồng độ CaTP ± SD (mmol/L) Kết quả Thời gian
1,90 ± 0,16 100% Ngày 1 (n = 30)
2,10 ± 0,25 105,2% >0,05 Ngày 3 (n = 30)
2,44 ± 0,79 128,4% <0,05 Ngày 5 (n = 30)
Kết quả ở bảng 3.17 cho thấy:
Nồng độ CaTP vào ngày thứ 1 là 1,90 ± 0,16 mmol/L. Nồng độ CaTP tăng dần
vào ngày 3 (không có ý nghĩa thống kê so với ngày 1, p < 0,05). Đến ngày thứ 5, sự
tăng này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
3.3.2. Ảnh hƣởng của một số yếu tố tới chất lƣợng KTC gạn tách từ ngƣời
hiến tiểu cầu bằng máy tách tế bào
3.3.2.1. Ảnh hƣởng của loại máy tách tiểu cầu tới chất lƣợng KTC
Ảnh hưởng của loại máy tách tiểu cầu tới chất lượng KTC được trình bày ở các
bảng 3.18 và 3.19
Bảng 3.18. So sánh SLTC trong KTC gạn tách từ ngƣời hiến máu bằng các loại
máy tách tế bào
Haemonetic Nigale (n = 40) p (n = 40)
SLTC (1011/đơn vị) 3,60 ± 0,52 3,36±0,41 p1-2>0,05
Nồng độ TC (G/l) 1398,00 ± 107.00 1396,00 ± 117,00 p1-2>0,05
p1-2<0,05 Thể tích KTC (ml) 242,52 ± 15,09 270,42 ± 13,66
SLBC (109/đơn vị) 53,57 ± 43,10 60,39 ± 21,4 p1-2<0,05
pH p1-2>0,05 7,15 ± 0,03 7,13 ± 0,02
64
P1 P2
Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy:
Không có sự khác biệt về SLTC trong các KTC gạn tách bằng hai loại máy
Nigale, Haemonetic (p > 0,05).
Không có sự khác biệt về nồng độ TC của các KTC gạn tách bằng hai loại máy
(p > 0,05).
KTC gạn tách bằng máy Nigale có SLBC còn lại trong KTC cao hơn KTC gạn
tách bằng máy Haemonetic. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Độ pH giữa các KTC gạn tách bằng hai loại máy Nigale, Haemonetic tương
đương (p > 0,05).
Thể tích KTC gạn tách bằng máy Nigale cao hơn thể tích khối tiểu cầu gạn tách
bằng máy Haemonetic. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
3.3.2.2. Ảnh hƣởng của thời gian bảo quản tới chất lƣợng KTC gạn tách
bằng máy tách tế bào
Theo dõi sự thay đổi SLTC trong năm ngày bảo quản có ý nghĩa trọng để đảm
bảo một lượng TC thích hợp đã được truyền vào cho bệnh nhân. Trong thời gian bảo
quản TC, một SLTC nhất định sẽ bị mất đi do nhiều nguyên nhân tác động.
Bảng 3.19. Các chỉ số tiểu cầu của KTC đôi gạn tách bằng máy tách tế bào theo
ngày bảo quản
Ngày 1 (n = 30) Ngày 3 (n = 30) Ngày 5 (n = 30)
1320 ± 315 1055 ± 223 SLTC 1398 ± 325 p1-5 < 0,5 (G/l) p1-3 > 0,05 p3-5 < 0,5
9,04 ± 0,73 9,90 ± 0,89 MPV 7,75 ± 0,45 p1-5 < 0,05 (fl) p1-3 < 0,05 p3-5 < 0,05
SLBC 80,95 ± 16,80 78,14 ± 16,25 74,13 ± 0,21
65
(x106/đv) p1-5 > 0,05 P > 0,05 p3-5 > 0,05
Kết quả ở bảng 3.19 cho thấy:
SLTC ở ngày bảo quản thứ ba giảm không có ý nghĩa với SLTC ở ngày bảo
quản thứ nhất (p > 0,05), nhưng ở ngày bảo quản thứ năm SLTC giảm mạnh so với
ngày bảo quản thứ nhất và thứ ba (p < 0,05).
Các chỉ số tiểu cầu MPV tăng mạnh ngay ở ngày bảo quản thứ ba so với ngày
thứ nhất, tiếp tục tăng ở ngày bảo quản thứ năm so với ngày bảo quản thứ ba. Sự gia
tăng các chỉ số tiểu cầu MPV có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
SLBC trong KTC ở các ngày bảo quản thứ nhất, thứ ba và ngày thứ năm không
khác biệt nhau (p > 0,05). SLBC tương ứng trong ngày bảo quản thứ nhất của KTC gạn tách từ người hiến bằng máy là 80,95 ± 16,80x106/đv; trong ngày bảo quản thứ năm là 74,13 ± 0,21x106/đv. Tuy nhiên sự giảm về số lượng này là không khác biệt (p > 0,05).
Bảng 3.20. Kết quả một số chỉ số hóa sinh của KTC gạn tách bằng máy tách tế
bào theo ngày bảo quản
Ngày 1 (n = 30) Ngày 3 (n = 30) Ngày 5 (n = 30)
6,79 ± 0,12 6,59 ± 0,20
pH 7,01 ± 0,15 p1-5 < 0,05 p1-3 < 0,05 p3-5 < 0,05
304 ± 43 255 ± 48 Glucose 383 ± 39 p1-5 < 0,05 (mg/dL) p1-3 < 0,05 p3-5 < 0,05
3026 ± 529 3349 ± 518 LDH 2232 ± 408 p1-5 < 0,05 (U/L) p1-3 < 0,05 p3-5 < 0,05
66
KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần pH cuối thời gian bảo quản cao nhất là
6,93 thấp nhất là 6,51. KTC gạn tách từ một người hiến bằng máy tách tế bào cao nhất
là 7,24 thấp nhất là 6,68. So sánh độ pH ở ngày bảo quản thứ ba và thứ năm với độ pH
của ngày thứ nhất, thấy độ pH giảm rõ rệt theo thời gian bảo quản (p < 0,05). Kết quả
này tương đương với kết quả nghiên cứu của Tulika. Harprits (2003), cũng có kết quả
tương tự độ pH của KTC giảm theo ngày trong quá trình bảo quản, ngày thứ nhất là
7,19 ± 0,12 ngày thứ ba 7,11 ± 0,31; ngày thứ năm là 6,96 ± 0,45 và ngày thứ bảy là
6,86 ± 0,51.
Độ pH giảm có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa các ngày trong thời gian bảo
quản (p < 0,05).
Với KTC gạn tách từ người hiến máu bằng máy kết quả tại bảng 3.20 cũng cho
thấy nồng độ glucose ở ngày bảo quản thứ nhất là 383 ± 39 mg/dL, nồng độ glucose
giảm mạnh ở các ngày bảo quản thứ ba và thứ năm với các giá trị tương ứng là 304 ±
43 mg/dL và 255 ± 48 mg/dL. Nồng độ glucose giảm khi so sánh kết quả ở ngày bảo
quản thứ ba so với ngày bảo quản thứ nhất, kết quả ở ngày bảo quản thứ năm với ngày
bảo quản thứ ba. Sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,05.
Tương tự đối với KTC tách từ máy: LDH trong KTC gạn tách tăng mạnh so với
ngày đầu (2232 ± 408 U/L) trong quá trình bảo quản, và tăng có ý nghĩa thống kê bắt
đầu từ ngày thứ ba 3026 ± 529 U/L, ngày thứ năm tăng 3349 ± 518 U/L.Nồng độ LDH
tăng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) khi so sánh các kết quả thực hiện tại ba thời điểm là
ngày bảo quản thứ nhất, thứ ba và thứ năm.
67
Bảng 3.21. Mối tƣơng quan giữa pH và các chỉ số tiểu cầucủa KTC gạn tách bằng
máy tách tế bào theo ngày bảo quản
Ngày 1 (n = 30) Ngày 3(n = 30) Ngày 5 (n = 30)
Chỉ số tiểu cầu SLTC MPV SLTC MPV SLTC MPV
0,875 -0,220 0,640 -0,590 0,340 -0,670 r
0,00 0,15 0,01 0,03 0,03 0,00 P
30 30 30 30 30 30 N
Kết quả ở bảng 3.21 cho thấy:
Có mối tương quan cao theo chiều thuận giữa độ pH và SLTC, hệ số tương
quan r = 0,875, p = 0,00.
Mối tương quan cao theo chiều nghịch giữa độ pH và các chỉ số tiểu cầu MPV
ở ngày bảo quản thứ năm hệ số tương quan tương ứng là -0,220; -0,590 và -0,670.
Sự biến đổi các chỉ số MPV của TC trong KTC gạn tách bằng máy từ một
người hiến tại bảng 3.19 là 7,75 ± 0,45 fl; 9,04 ± 0,73 fl và 9,90 ± 0,89 fl, kết quả tăng
ở ngày thứ ba thứ năm có ý nghĩa thống kê. Các chỉ số này có mối tương quan cao với
sự thay đổi của độ pH (bảng 3.21) nhất là ở ngày bảo quản thứ ba, chỉ số tương quan
tương ứng là r = -0,59; -0,67.
Tóm lại
SLTC giảm theo các ngày bảo quản cùng với sự tăng lên của chỉ số MPV để đạt
được hiệu quả tốt nhất cần truyền KTC trong thời gian sớm nhất.
TC trong KTC bảo quản sử dụng năng lượng chính từ chuyển hóa glucose.
Nồng độ glucose giảm tại các ngày thứ ba và thứ năm trong thời gian bảo quản. Đo
nồng độ glucose còn là một chỉ thị đánh giá nhiễm khuẩn của KTC, tuy vậy không có
sự giảm đột ngột nồng độ glucose trong thời gian bảo quản.
68
Bảng 3.22. Mối tƣơng quan giữa pH và glucose, LDH
Ngày 1 Ngày 3 Ngày 5
pH Glucose LDH Glucose LDH Glucose LDH
0,613 -0,490 0,567 -0,548 0,519 -0,765
0,001 0,005 0,001 0,002 0,003 0,000
r p n 30 30 30 30 30 30
Glucose R P N -0,117 0,539 30 -0,721 0,000 30 -0,765 0,000 30
Kết quả ở bảng 3.22 cho thấy:
Độ pH tương quan cao với nồng độ lactate trong KTC hệ số tương quan tại
các thời điểm đều > 0,5
Nồng độ LDH tương quan cao với nồng độ glucose. Hệ số tương quan cao nhất
ở ngày bảo quản thứ năm (r=-0,765, p=0,000).
Theo Dumont (2004), sự tạo thành acid lactic trong các KTC liên quan chặt với
người hiến TC, điều này giải thích một số KTC trong thời gian bảo quản có chất lượng
không tốt. Những yếu tố khác như SLTC trong túi tiểu cầu, diện tích bề mặt túi chứa
TC, cũng như đặc điểm thấm khí của túi bảo quản ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển hoá
glucose của tiểu cầu, là nguyên nhân chính dẫn đến giảm pH trong thời gian bảo quản.
Sản xuất lactate tăng trong điều kiện túi bảo quản tiểu cầu thiếu oxy, sụt giảm pH có
thể bị chậm lại nếu túi chứa tiểu cầu tăng tính thấm khí O2 và CO2. Kết quả nghiên cứu
tại bảng 3.20 và 3.22 cho thấy độ pH tương quan chặt với nồng độ glucose và nồng độ
LDH, tại các ngày bảo quản thứ ba và thứ năm hệ số tương quan r > 0,5. Biểu đồ 3.8 và
3.9 cho thấy mối tương quan giữa độ pH và nồng độ lactate là mối tương quan nghịch,
mối tương quan giữa độ pH và nồng độ glucose là mối tương quan thuận, tiêu thụ
glucose càng nhiều thì độ pH càng giảm
69
Bảng 3.23. Thay đổi nồng độ Na+ và K+ của KTC gạn tách bằng máy tách tế bào
theo ngày bảo quản
Ngày 1 (n = 30) Ngày 3 (n = 30) Ngày 5 (n = 30)
150,20 ± 1,98 160,63 ± 2,14 Na+ 146,47 ± 1,60 p1-5 < 0,05 p1-3 < 0,05 (mmol/l) p3-5 < 0,05
2,90 ± 0,45 3,54 ± 0,56 K+ 2,10 ± 0,24 p1-5 < 0,05 (mmol/l) p1-3 < 0,05 p3-5 < 0,05
Kết quả ở bảng 3.23 cho thấy:
Nồng độ Na+ tăng ở các ngày trong thời gian bảo quản, so sánh nồng độ Na+ tại
các ngày bảo quản thứ nhất, thứ ba và thứ năm khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê (p <
0,05).
Nồng độ K+ ở ngày bảo quản thứ ba tăng so với ngày bảo quản thứ nhất (p <
0,05), tiếp tục tăng lên ở ngày bảo quản thứ năm khi so sánh với ngày bảo quản thứ ba
(p < 0,05).
Một trong các biến chứng do truyền máu đó là mất cân bằng K+ có thể gặp do
máu truyền đã có tăng K+ đặc biệt khi KTC được bảo quản ở 22oC các tế bào hồng cầu,
bạch cầu có thể bị phân hủy nhanh. Trong nghiên cứu của này không có sự thay đổi
nồng độ K+ ở KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần trong thời gian bảo quản, nhưng
trong KTC gạn tách bằng máy kết quả tại bảng 3.16 cho thấy nồng độ K+ tăng tại các
ngày bảo quản thứ ba và thứ năm so với ngày bảo quản thứ nhất. Ion Na+ tăng so với
ngày bảo quản thứ nhất. Do vậy để tránh tác dụng phụ có hại cho bệnh nhân, KTC cần
được sử dụng sớm sau khi gạn tách.
70
Bảng 3.24. Sự thay đổi về nồng độ CaTP (Calci toàn phần) trong KTC điều chế từ
máy tự động theo ngày bảo quản
Nồng độ CaTP P Kết quả Thời gian Thay đổi so với ngày 1 ± SD (mmol/L)
2,50 ± 0,24 100% Ngày 1
2,67 ± 0,35 106,8% > 0,05 Ngày 3
2,87 ± 0,90 114,8% < 0,05 Ngày 5
Nồng độ CaTP ở ngày bảo quản thứ ba tăng so với ngày bảo quản thứ nhất
tuy nhiên chưa có ý nghĩa thống kê, tiếp tục tăng lên ở ngày bảo quản thứ năm có giá
trị thống kê (p < 0,05).
CaTP được phân bố trong tiểu cầu ở hai khu vực chính: 60% trong hạt sậm và
40% trong hệ thống ống sậm và trên màng huyết tương. Khi tiểu cầu được hoạt hóa tối
đa thì phóng thích ra ion Ca. Tiểu cầu chứa 2 enzyme protease là Calpain I và Calpain
II. Hai enzyme này phụ thuộc vào nồng độ Ca khi hoạt động nhưng theo hai cách khác
nhau: Calpain I được hoạt hóa bởi nồng độ ion Ca tự do thấp, chỉ cần ở mức micromol.
Trong khi đó Calpain II đòi hỏi nồng độ Ca cao, ở mức milimol, và nồng độ này có
được ở trong huyết tương. Cả hai enzyme đều đóng vai trò làm gãy các protein trong
hệ thống vi ống và các sợi actin.
Kết quả nghiên cứu sau 5 ngày bảo quản ở 22oC và lắc liên tục, nồng độ CaTP
đạt tăng rõ rệt so với ngày thứ nhất . Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Bode A.P và Weisbag V.
3.4. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn
Kết quả nuôi cấy vi khuẩn của KTC được trình bày ở bảng 3.25.
Bảng 3.25. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn, nấm trong các ngày bảo quản
Nuôi cấy vi khuẩn, nấm
Kết quả Thời gian
Âm tính Ngày 1
Âm tính Ngày 2
71
Âm tính Ngày 3
Âm tính Ngày 4
Âm tính Ngày 5
Nhận xét: Bảng 3.25 cho thấy kết quả nuôi cấy vi khuẩn, nấm trong quá trình
bảo quản của KTC gạn tách đều cho kết quả âm tính
Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy:
30 lượt nuôi cấy vi khuẩn từ KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần và 30 lượt
nuôi cấy từ KTC gạn tách từ người hiến máu ngay sau khi các KTC này được điều chế
đều cho kết quả âm tính với vi khuẩn và nấm.
60 lượt nuôi cấy vi khuẩn từ các KTC bảo quản ở ngày bảo quản thứ ba và 60
lượt nuôi cấy vi khuẩn từ các KTC bảo quản ở ngày bảo quản thứ năm đều không mọc
vi khuẩn và nấm.
Độ pH KTC bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: nhiễm khuẩn, thời gian bảo
quản khối tiểu cầu. Nghiên cứu của Thomas (2007), độ pH cung cấp một tín hiệu cảnh
báo để ngăn chặn truyền một KTC bị nhiễm khuẩn, pH trong KTC bị nhiễm khuẩn bắt đầu giảm sau khi vi khuẩn đạt đến nồng độ 106 đến 107/ml, pH tiếp tục giảm xuống 6,7
tới 6,5 sau đó bắt đầu có sự gia tăng độ pH trong KTC. Trong trường hợp nhiễm
Klebsiella pneumonie độ pH trở lại giá trị ban đầu của nó sau ba ngày bị nhiễm khuẩn
và tăng lên đến 7,3 đến 7,4 vào ngày thứ bảy của thời gian bảo quản. Theo nghiên cứu,
độ pH của KTC giảm trong thời gian bảo quản trong nghiên cứu này không bị ảnh
hưởng do nhiễm khuẩn vì không có sự giảm đột ngột giá trị pH trong kết quả nghiên
cứu, các kết quả cấy khuẩn bảng 3.25 đều âm tính.
72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Với mục đích đánh giá chất lượng của KTC gạn tách bằng máy tách tế bào tự
động thông qua các chỉ số huyết học và sự thay đổi thành phần tế bào, hóa sinh trong
bảo quản KTC qua 5 ngày bảo quản, qua kết quả nghiên cứu và bàn luận cho phép có
một số kết luận sau:
KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần và KTC gạn tách từ ngƣời hiến
máu bằng máy tách tế bào tự động đạt TCVN tại thông tƣ 26/2013/TT-BYT
hƣớng dẫn hoạt động truyền máu
KTC điều chế từ đơn vị máu toàn phần 350 ml có các chỉ số chất lượng tương
ứng là:
Thể tích/đv: 292,86 ± 0,18 ml
SLTC/đv:
SLBC/đv: 3,55 ± 0,67x1011 TC. 94,35 ± 13x106 /đơn vị.
Độ pH: 7,15 ± 0,04.
Tất cả các KTC nuôi cấy phát hiện vi khuẩn đều có kết quả âm tính.
KTC gạn tách từ người hiến máu bằng các loại máy tách tế bào Haemonetic,
Nigale có các chỉ số chất lượng tương ứng là:
Thể tích/đv: 242,52 ± 15,09 ml; 270,42 ± 13,66 ml (KTC đơn)
SLTC/đv:
SLBC/đv
505,60 ± 53,21 ml; 504,83 ± 51,00 ml (KTC đôi) 3,60 ± 0,52x1011; 3,36 ± 0,41x1011 (KTC đơn) 6,39 ± 0,33x1011; 6,43 ± 0,41x1011 (KTC đôi) 83,57 ± 11,10x106; 60,39 ± 11,40x106 (KTC đơn) 209,80 ± 23,70x106; 80,95 ± 16,80x106 (KTC đôi)
Nồng độ TC: 1398,00 ± 107,00; 1396,00 ± 117,00 G/l (KTC đơn)
1275,00 ± 113,00; 1258,83 ± 90,00 G/L (KTC đôi)
Độ pH: 7,15 ± 0,03; 7,13 ± 0,02 (KTC đơn)
73
7,21 ± 0,05; 7,19 ± 0,06 (KTC đôi)
Tất cả các KTC nuôi cấy phát hiện vi khuẩn đều có kết quả âm tính.
Một số yếu tố ảnh hƣởng tới chất lƣợng khối tiểu cầu
Ảnh hưởng bởi loại máy tách tế bào: KTC gạn tách bằng máy Nigale có SLBC
còn lại thấp hơn trên máy Haemonetic, không có sự khác biệt nhiều về SLTC, thể tích
KTC, pH giữa hai máy này.
Ảnh hưởng của thời gian bảo quản: qua năm ngày bảo có các sự thay đổi như
sau:
Nồng độ glucose giảm mạnh tại ngày bảo quản thứ ba và thứ năm so với ngày
bảo quản thứ nhất.
Sự thay đổi nồng độ Na+ ,K+ và CaTP có xu hướng tăng dần qua các ngày bảo quản. Tuy nhiên mức tăng của nồng độ K+ không có ý nghĩa thống kê qua 5 ngày bảo
quản, trong khi mức tăng của nồng độ CaTP có ý nghĩa thống kê bắt đầu từ ngày thứ ba
Nồng độ LDH tăng dần qua các ngày bảo quản, mức tăng có ý nghĩa thống kê
bắt đầu từ ngày ba.
Độ pH trong KTC gạn tách đạt tiêu chuẩn an toàn đến cuối kỳ bảo quản (6,4 –
7,4), giảm dần qua các ngày bảo quản, mức giảm có ý nghĩa thống kê bắt đầu từ ngày
thứ ba.
Kiến nghị
Máy gạn tách tế bào sử dụng trong gạn tách KTC cho hiệu suất tách TC cao, ít
có bạch cầu, hồng cầu. Đảm bảo duy trì chất lượng, tính an toàn trong truyền máu.
Xây dựng thêm các các tiêu chí đánh giá về chỉ số sinh hoá của KTC vào việc
kiểm tra chất lượng tiểu cầu tại bệnh viện.
Sử dụng KTC trước 5 ngày từ khi điều chế để đảm bảo chất lượng KTC.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
[1]. Bộ Y Tế (2013), Thông tư hướng dẫn hoạt động truyền máu, số:
26/2013/TT-BYT, Hà Nội
[2] Bùi Minh Đức, Nguyễn Duy Thăng, Nguyễn Ngọc Minh và cộng sự (2010),
“Nghiên cứu chất lượng và hiệu quả truyền khối tiểu cầu sản xuất trên máy Haemonetics
trong điều trị bệnh nhân giảm tiểu cầu nặng”, Tạp chí Y học Việt Nam, 373, trang 512 –
517.
[3] Đỗ Trung Phấn (2006), Bài giảng huyết học – Truyền máu, NXB Y học, Hà
nội, trang 287 – 395
[4] Hà Hữu Nguyện (2012), Nghiên cứu kết quả gạn tách tiểu cầu từ một người
cho trên các loại máy tách thành phần máu tự động, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại
học Y Hà Nội, Hà Nội
[5] Hà Thị Anh (2009), Kỹ thuật xét nghiệm Huyết học – Truyền máu, NXB Y
học, Hà Nội
[6] Nguyễn Trường Sơn (2000), Nghiên cứu hiệu suất tách tiểu cầu và sự biến
đổi về tế bào, sinh hóa trong quá trình sản xuất và bảo quản khối tiểu cầu, Luận án tiến sỹ
Y dược, Học viện Quân Y, Hà nội
[7] Phạm Tuấn Dương, Ngô Mạnh Quân, Nguyễn Anh Trí, 2012. Đảm bảo cung
cấp máu an toàn cho vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Một số chuyên đề Huyết học –
Truyền máu, Tập IV, 85 – 94.
[8]
Trần Văn Bé (1999), Tiêu chuẩn – kiểm tra chất lượng trong truyền máu –
huyết học, Nhà xuất bản y học, TP. Hồ Chí Minh
[9] Trần Thị Thủy, Phạm Tuấn Dương, Võ Thị Diễm Hà và cộng sự (2014),
“Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng khối tiểu cầu được điều chế tại Viện Huyết học-
Truyền máu Trung ương”, Tạp chí Y học Việt Nam, 423, trang 688 – 696
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
75
[10] AABB (1997), Apheresis, 18th Edition, pp 29 – 30
[11] Ali A.M., Warkentin T.E.,Bardossy L., Goldsmith C.H., Blajchman M.A.
(1994), “Platelet concentrates stored for 5 days in a reduced volume of plasma maintain
hemostatic function and viability”, Transfusion, Vol 34, No 1, pp 44 – 47
[12] Bertolini F., Porretti L.,Lauri E., Rebulla P., Sirchia G. (1993), “Role of
lactate in platelet storage lesion”, Vox Sang, Vol 65, pp 194 – 198
[13] Bode A.P., Knupp C.L (1994), “Effect of cold storage on platelet
glycoprotein Ib and vesiculation”, Transfusion, Vol 34, No 8, pp 825 – 827
[14] Cesar J.M., Garcia A., Monteguado J., Monteagudo J., Espinosa J.I., Lodos
J.C., Castillo R., Navarro J.L. (1994), “Von Willebrand factor availibility in platelet
concentrates stored for 5 days”, Am – J – Hematol., Vol 45, No 2, pp 109 – 111
[15] Chaudhary K. (2005), Patern of blood and product utilization in a Tertiary
care hospital in India. Vox Sanguinis vol 89, 2005,64.
[16] Col D Swarup, Brig PS Dhot, Col S Arora (2009), “Study of Single Donor
Platelet (SDP) Preparation by Baxter CS 3000 plus and Haemonetics MCS plus”, MJAFI,
Vol. 65, No. 2, pp. 137 – 140
[17] Council of Europe Publishing (2004), “Platelet recovery”, Guide to
preparation use and quality assurance of blood component, 10th edition, pp.121 – 127.
[18] Erwin F. Strasser, Marco Schuster, Kerstin Egler, Jörg Bauer, Volker
Weisbach, Jürgen Ringwald, Robert Zimmermann, Jürgen Zingsem, and Reinhold
Eckstein (2005), “Frequently used plateletpheresis techniques result in variable target
yields and platelet recruitment of donors”, Transfusion; 45: pp. 788 – 797
[19] Grace C. Tenorio, Ronald G. Strauss, Martha J. Wieland, Timothy A.
Behlke, Gerald A. Ludwig (2002), “A randomized comparison of plateletpheresis with the
same donors using four blood separators at a single blood center”, Journal of Clinical
Apheresis 17, pp. 170 – 176
76
[20] Harmening Denise M.(ASCP), CLS (NCA) (2005), “Apheresis”, Modern
blood banking transfusion practice, F.A. Davis company, Philadelphia, United State of America, 5th edition, pp. 322 – 335
[21] Heddle NM, Barty RL, Sigouin CS, Boye DM, Nelson EJ, Blajchman MA,
Kelton JG (2005), “In vitro evaluation of prestorage pooled leukoreduced whole blood –
derived platelets stored for up to 7 days”, Transfusion; 45 (6), pp 904 – 910.
[22] Holme S., Heaton W.A., Moroff G. (1994), “Evaluation of platelet
concentrates stored for 5 days with reduced plasma volume”, Transfusion, Vol 34, No 1,
pp 34 – 43
[23] Kilkson H., Holme S.,Murphy S. (1984), “Platelet metabolism during
storage at 22oC”, Blood, Vol 64, No 2, pp 406 – 414
[24] Larry J. Dumont, VandenBroeke T (2003), “Seven – day storage of
apheresis platelets: report of an in vitro study”, Transfusion, 43(2), pp. 143 – 150
[25] Loos J.A., Wautier J.L. (1997), “Leucocyte depletion: a biotechnical
transfusion story”, Transfus-Clin-Biol., Vol 5, pp 64 – 74.
[26] Meryman H.T. (1989), “Transfusion – induced alloimmunization and
immunosuppression and the effects of leucocyte depletion”, Trans – Med – Rev., Vol 3, No
3, pp 180 – 193
[27] Moroff G., Holme S., George V.M., Heaton W.A. (1994), “Effect of platelets properties on exposure to temperature below 20oC for short periods during storage at 20 – 24oC”, Transfusion, Vol 34, No 4, pp 317 – 321
[28] Murphy S., Heaton W.A., Rebulla P. (1996), “Platelet production in the old
world and the new”, Transfusion, Vol 36, pp.751 – 754.
[29] Rebulla P. (1998), “In vitro and in vivo properties of various types of
platelet”, Vox Sang., Vol 74, suppl 2, pp 217 – 222
[30] Sirchia G., Rebulla P. (1997), “Evidence-based medicine: the case of white
cell reduction”, Transfusion, Vol 37, pp 543 – 549
77
[31] Solberg C., Moen P., Little C. (1988), “Effect of centrifugation on storage
properties of platelets”, Vox Sang., Vol 55, pp 97 – 103
[32] Sweeney JD, Kouttab NM, Holme S, Kurtis JD, Cheves TA, Nelson EJ
(2004), “Prestorage pooled whole-blood-derived leukoreduced platelets stored for seven
days, preserve acceptable quality and do not show evidence of a mixed lymphocyte
reaction”, Transfusion, 44 (8), pp. 1212 – 1219
[33] Tulika Chandra, Ashish Gupta, Ashutosh Kumar (2011), “In vitro function
of random donor platelets stored for 7 days in composol platelet additive solution”, Asian
J Transfus Sci., 5(1): 11–14