VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƢU XUÂN LƠ
CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY
TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở THÀNH PHỐ
LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 8.76.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. TIÊU THỊ MINH HƢƠNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất kỳ chương trình nghiên cứu nào trước
đây. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
Lƣu Xuân Lơ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ
TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ
METHADONE ................................................................................................. 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài .............................................................. 12
1.2. Lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy ........................... 23
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các Cơ sở điều trị Methadone .................................................................. 28
1.4. Một số lý thuyết ứng dụng trong đề tài ........................................................ 34
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ CAI
NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở
THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI ................................................... 38
2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu .................................................. 38
2.2. Thực trạng hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai, tỉnh Lào Cai .................................. 44
2.3. Thực trạng một số yếu tố ảnh hưởng đến Công tác xã hội trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai ........................... 56
Chƣơng 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CTXH
TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ
METHADONE ................................................................................................. 70
3.1. Nhóm giải pháp về cải thiện hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy ..................................................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện Công
tác xã hội. ........................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 78
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNMT Cai nghiện ma túy
CSĐT Cơ sở điều trị
CTXH Công tác xã hội
NNMT Sử dụng ma túy
NVCTXH Nhân viên Công tác xã hội
Từ viết tắt Dịch nghĩa
TVV Tham vấn viên
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Thời gian thành lập các Cơ sở điều trị Methadone trên địa bàn tỉnh
Lào Cai......................................................................................................... 39
Bảng 2.2: Đặc điểm khách thể trong nghiên cứu (ĐVT: %).......................... 40
Bảng 2.3. Bảng tình hình điều trị của NNMT (n=196) ................................. 43
Bảng 2.4. Lý do bỏ trị của NNMT giai đoạn 2013 - 2016 ............................. 53
Bảng 2.5. So sánh kết quả hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone .................................................................................. 55
Bảng 2.6. Đặc điểm nhân viên công tác xã hội tại các cơ sở điều tri
methadone .................................................................................................... 61
Biểu đồ 2.7. Mức độ hài lòng của NNMT về dịch vụ ................................... 62
Biểu đồ 2.1: Thời gian điều trị tham gia điều trị Methadone. ........................ 42
Biểu đồ 2.2: Lũy tích số lượt tham vấn ......................................................... 45
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ sử dụng Heroin của NNMT trong 30 ngày qua ................ 46
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ NNMT bỏ điều trị theo từng năm .................................... 54
Biểu đồ 2.5: Động cơ NNMT tham gia điều trị Methadone .......................... 57
Biểu đồ 2.6. Tình trạng việc làm của NNMT trước và sau khi tham gia điều trị
Methadone ................................................................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Hơn 20 năm qua, công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma
túy đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo chỉ đạo, bố trí nguồn lực…
Tuy nhiên, công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy đang gặp
nhiều khó khăn, thách thức… Số người nghiện có hồ sơ quản lý tăng gần 4
lần trong 20 năm qua, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, giống nòi dân tộc và trật tự
an toàn xã hội" đó là những câu nhận định mở đầu cho Nghị Quyết số 98/NQ-
CP của Chính Phủ ngày 26 tháng 12 năm 2014 về tăng cường chỉ đạo công
tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Thực
vậy, nghiện ma túy đã và đang là một gánh nặng về kinh tế và tinh thần rất
lớn cho xã hội, nhất là đối với chính bản thân người nghiện và gia đình họ nếu
tình trạng nghiện kéo dài. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua, nhiều đường
dây mua bán ma túy lớn, với số lượng hàng tấn ma túy bị phát hiện; nhiều vụ
việc nghiệm trọng, gây thiệt hại lớn về người và của do người sử dụng ma túy
gây ra như giết người hàng loạt, lái xe sử dụng ma túy gây tai nạn chết nhiều
người, học viên trại cai nghiện phá trại tập thể…
Trong bối cảnh đó, Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy đã được
phê duyệt tại Quyết định số 2596/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27
tháng 12 năm 2013 có đề ra phương hướng cho công tác cai nghiện ma túy tới
năm 2020 là "cai nghiện đa chức năng, thân thiện và dễ tiếp cận cho người sử
dụng ma túy". Do vậy, ở nước ta hiện nay không chỉ có hình thức cai nghiện
bắt buộc tại các trung tâm, cơ sở cai nghiện của nhà nước như trước đây, mà
đã xuất hiện các hình thức cai nghiện khác như cai nghiện tự nguyện tại các
cơ sở cai nghiện tư nhân, hình thức cai nghiện bằng liệu pháp tâm lý tình cảm
tại Viện nghiên cứu tâm lý người sử dụng ma túy và phương pháp điều trị
nghiện bằng thuốc thay thế (Methadone) là một phương pháp nổi bật, trải qua
10 năm kể từ khi triển khai năm 2008 đến nay đã điều trị cho hơn 54 nghìn
người và được đánh giá là thân thiện, tiết kiệm chi phí với hiệu quả đem lại
1
khả quan.
Tại Lào Cai, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế
(Methadone) đã được tỉnh ủy, hội đồng nhân nhân, ủy ban nhân dân quan tâm
chỉ đạo thực hiện từ năm 2013. Từ 1 cơ sở điều trị ban đầu, đến nay đã có 15
cơ sở điều trị và điểm cấp phát thuốc phân bố đều tại thành phố và các huyện
trong tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho NNMT có nhu cầu dễ dàng tham gia
điều trị.
Công tác xã hội tuy là một ngành, nghề rất mới và còn non trẻ ở nước ta
hiện nay. Nhưng đối tượng trợ giúp của công tác xã hội là những người yếu
thế trong xã hội, trong đó có người nghiện ma túy. Từ khi triển khai, các
CSĐT Methadone ở Lào Cai luôn chú trọng phát triển đội ngũ nhân viên
Công tác xã hội, mỗi CSĐT luôn có ít nhất 1 nhân viên Công tác xã hội làm
nhiệm vụ tham vấn tâm lý, hỗ trợ NNMT trong quá trình điều trị, giúp họ
phục hồi, dự phòng tái nghiện và tiếp cận các dịch vụ y tế, xã hội khác.
Trên thế giới và tại Việt Nam đã có một vài nghiên cứu về hiệu quả của
chương trình điều trị Methadone, sự thay đổi của NNMT sau khi tham gia
điều trị Methadone… để làm căn cứ tiếp tục phát triển, mở rộng chương trình
điều trị Methadone nhưng các nghiên cứu vẫn chưa làm rõ được vai trò của
nhân viên CTXH tại các CSĐT Methadone và hiệu quả các hoạt động CTXH
tại đây. Chính vì lý do trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Công
tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị Methadone ở
thành phố Lào Cai – tỉnh Lào Cai”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, sau khi đề án phát triển nghề CTXH theo quyết định số
32/2010/QĐ-TTg có hiệu lực, CTXH ngày càng được khuyến khích tham gia
nhiều hơn vào các khía cạnh xã hội như việc chăm sóc và điều trị cho những
người sử dụng ma túy. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn có rất ít thông tin về
hiệu quả của các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và CTXH
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone thì lại càng ít cả trên
2
thế giới cũng như Việt Nam.
2.1. Trên thế giới
Trong nghiên cứu “Kiến thức và nhận thức của nhân viên công tác xã hội
về hiệu quả và khả năng chấp nhận điều trị hỗ trợ bằng thuốc trong điều trị rối
loạn sử dụng chất” [16] của tiến sĩ Brian E.Bride và các cộng sự đã điều tra
kiến thức của nhân viên xã hội, nhận thức của họ về hiệu quả và khả năng
chấp nhận điều trị hỗ trợ bằng thuốc (gọi tắt là MAT) trong các trung tâm
điều trị rối loạn sử dụng chất gây nghiện dựa vào cộng động tại Mỹ (gọi tắt là
SUD). Theo nghiên cứu, điều trị duy trì bằng Methadone là một trong những
lựa chọn điều trị được sử dụng thường xuyên nhất cho sự lệ thuộc thuốc phiện
do chi phí thấp và hiệu quả đã được chứng minh trong việc giảm sử dụng ma
túy, các hành vi tội phạm, tỷ lệ nhiễm HIV và phục hồi chức năng nên đa
phần các nhân viên CTXH nắm được các kiến thức về hiệu quả của
Methadone, trong khi tỷ lệ này với naltrexone và buprenorphin. Nghiên cứu
cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của việc tiếp xúc với MAT của nhân viên xã
hội để họ có khả năng phát triển một nền tảng kiến thức liên quan đến hiệu
quả của thuốc hỗ trợ, nghiên cứu nhấn mạnh nhận thức của nhân viên xã hội
sẽ ảnh hưởng tới việc chấp nhận điều trị hỗ trợ thuốc của những người nghiện
ma túy tại các SUD. Tuy nhiên, nghiên cứu này tác giả chưa đưa ra các kết
quả các hoạt động của nhân viên xã hội tại các SUD trong việc tham vấn cho
người nghiện ma túy chấp nhận điều trị bằng thuốc hỗ trợ.
Trong nghiên cứu “Kết quả thực hành điều trị Methadone cho người
nghiện thuốc phiện được điều trị tại các phòng khám ma túy trong thực tế nói
chung: kết quả từ Nghiên cứu Kết quả Điều trị Quốc gia” [20] của M Gossop,
J Marsden, D Stewart, P Lehmann và J Strang đã trình bày kết quả điều trị sáu
tháng cho những NNMT được điều trị bằng Methadone tại cộng đồng trong
phòng khám chuyên khoa hoặc phòng khám đa khoa tại Vương quốc Anh.
Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra những cải thiện của người điều trị trong các
vấn đề liên quan đến thuốc, sức khỏe và chức năng xã hội. Kết quả này đã
chứng minh tính khả thi của việc điều trị người nghiện chất dạng thuốc phiện
3
bằng methadone trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu và cho thấy kết
quả điều trị cho những NNMT này có thể hiệu quả như đối với NNMT tại các
phòng khám chuyên khoa. Nghiên cứu này cũng chưa chỉ ra được tác động
của các bác sĩ gia đình (nhân viên xã hội) đối với người sử dụng ma túy có
vấn đề.
Trong nghiên cứu “Nhân viên xã hội và phương pháp điều trị tâm lý dựa
trên bằng chứng cho người rối loạn sử dụng chất” [17] do tiến sỹ
ELIZABETH A. WELLS và cộng sự tiến hành, kết quả của nghiên cứu cung
cấp một cái nhìn tổng quan về phương pháp điều trị cho người bị rối loạn sử
dụng chất (cách gọi khác của người nghiện ma túy) bằng phương pháp tâm lý
xã hội đã đạt hiệu quả. Nghiên cứu đã mô tả các phương pháp điều trị, đánh
giá việc hỗ trợ theo kinh nghiệm, tập hợp các phương pháp điều trị được biết
là có hiệu quả và các vấn đề gặp phải khi thực hiện.
Qua kết quả của các nghiên cứu, có thể thấy những người nghiện ma túy
hoặc người gặp các vấn đề rối loạn sử dụng chât đã trở thành “thân chủ” phổ
biến của các nhà CTXH trên thế giới và nhân viên xã hội sẽ đóng một vai trò
quan trọng trong tiến trình hỗ trợ cai nghiện ma túy.
2.2. Tại Việt Nam
Tại nước ta, ma túy cũng như cai nghiện ma túy rất được Đảng, Nhà
nước quan tâm chỉ đạo trong những năm qua, nên các công trình nghiên cứu
về vấn đề này đã có rất nhiều tác giả đề cập tới.
Tác giả Phan Thị Mai Hương, Trong nghiên cứu “Thanh niên nghiện ma
túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” [6] của đã đề cập đến cách tiếp cận mới
về từ góc độ của tâm lý học với nhóm thanh niện nghiện ma túy. Nghiên cứu
đã phân tích và hệ thống hóa những lý luận và đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh
xã hội và sự ảnh hưởng của chúng trong việc nghiên cứu hành vi của người
nghiện và quan điểm về việc giải quyết chính trong thực tiễn. Tác giả chỉ ra
rằng việc ngăn ngừa hành vi nghiện ma túy và quá trình cai nghiện ma túy ở
thanh niên cần phải kết hợp giữa tri thức và các biện pháp của tâm lý học.
4
Mặc dù nghiên cứu này nhấn mạnh đến vai trò của tâm lý học trong trợ giúp
thanh niên nghiện ma túy nhưng chưa được làm rõ vai trò của tham vấn tâm
lý đối với thanh niên.
Một trong những giáo trình dạy về CTXH với người nghiện ma túy là
“Giáo trình Tham vấn Điều trị nghiện ma túy” [8] của tác giả Bùi Thị Xuân
Mai và các cộng sự. Tài liệu như là cầm tay chỉ việc cho những nhà tham vấn,
với việc cung cấp gần như đầy đủ các kiến thức, kỹ năng cùng các ví dụ minh
họa, lời khuyên trong những tình huống thực tế gặp phải trong quá trình can
thiệp, trợ giúp người nghiện ma túy. Đối với từng nhóm nghiện ma túy khác
nhau sẽ có những cách tham vấn cụ thể, các vai trò của CTXH và các hoạt
động của nhân viên CTXH đều được giáo trình đề cập tới. Có thể nói đây là
một công trình nền tảng đối với nhân viên CTXH làm việc trong lĩnh vực hỗ
trợ cai nghiện ma túy. Trên cơ sở này, tác giả đã thực tiễn hóa vào đề tài
nghiên cứu của mình các hoạt động của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
tại các CSĐT Methadone.
Trong nghiên cứu “Các yếu tố liên quan đến NNMT ra khỏi chương
trình điều trị nghiện bằng Methadone tại Tp Hồ Chí Minh, 2015 – 2017”[1]
của tác giả Đỗ Văn Dũng và cộng sự đã xác định được tỷ lệ người bỏ trị
Methadone tại các CSĐT Methadone trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời tìm hiểu một số nguyên nhân NNMT bỏ trị và xác định các yếu tố
liên quan đến việc ra khỏi chương trình. Trong đó có nguyên nhân NNMT
thiếu hiểu biết về chương trình điều trị, thiếu sự tham vấn trong quá trình điều
trị chiếm tỷ lệ khá cao. Qua nghiên cứu có thể thấy rằng, việc tham vấn cho
NNMT điều trị Methadone là rất quan trọng, vai trò của nhân viên CTXH là
rất quan trọng.
Thời gian gần đây, tại những trường đào tạo chuyên ngành Công tác xã
hội cũng có một số nghiên cứu về người nghiện ma túy và điều trị nghiện
bằng thuốc Methadone trong đó tiêu biểu có một số nghiên cứu sau:
Tác giả Đỗ Thanh Huyền với nghiên cứu: “Hoạt động hỗ trợ xã hội cho
người sau cai nghiện ma túy tại Thành phố Hòa Bình – Tỉnh Hòa Bình” [5] đã
5
đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ cho người sau cai nghiện ma túy trong các
lĩnh vực: Hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng, hỗ trợ phòng, chống tái nghiện, hỗ
trợ học nghề, hỗ trợ có việc làm và tạo việc làm và một số yếu tố ảnh hưởng
đến công tác hỗ trợ cùng với vai trò của nhân viên CTXH. Luận văn này cũng
đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy nhưng còn chưa tập trung và chưa đi sâu phân tích chi tiết trong quá
trình trợ giúp, chưa có kết quả các hoạt động của nhân viên CTXH trong trợ
giúp người nghiện ma túy sau cai.
Tác giả Tạ Hồng Vân trong nghiên cứu “Hoạt động công tác xã hội trong
hỗ trợ điều trị nghiện cho người nghiện ma túy tại cộng đồng (Nghiên cứu
trường hợp tại Cơ sở điều trị Methadone thuộc Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS thành phố Nam Định)”[12] đã chỉ ra nhân viên xã hội có vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình trợ giúp người nghiện ma túy của thành
phố Nam Định tham gia điều trị, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng đồng.
Nghiên cứu cũng nêu ra một số hoạt động của CTXH tuy nhiên lại tập trung
quá nhiều vào hoạt động tham vấn/tham vấn mà lướt qua những hoạt động
khác của CTXH trong quá trình hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT
Methadone.
Tác giả Nguyễn Thị Hằng với nghiên cứu “Vai trò của nhân viên công
tác xã hội trong việc trợ giúp người nghiện ma túy tham gia chương trình
Methadone (Nghiên cứu tại cơ sở điều trị methadone quận Nam Từ Liêm)”
[7]đã chỉ ra một số vai trò của nhân viên CTXH trong quá trình trợ giúp người
nghiện đang tham gia chương trình điều trị nghiện thay thế bằng thuốc
Methadone, cùng với phân tích các hoạt động hỗ trợ người nghiện ma túy
đang tham gia chương trình Methadone tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tuy
nhiên, những đánh giá của nghiên cứu vẫn mang tính chủ quan của tác giả khi
nghiên cứu người nghiện ở vùng đô thị.
Qua quá trình tổng quan tài liệu cho thấy, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về chủ đề CTXH đối với người nghiện ma túy ở trên thế giới và Việt
Nam, những năm gần đây người nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone đã
6
dần được quan tâm hơn. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu tập trung về đánh
giá chương trình điều trị Methadone, đánh giá về tuân thủ điều trị trong
chương trình Methadone, hoặc sự cải thiện của người nghiện sau khi tham gia
điều trị Methadone; còn rất ít nghiên cứu đánh giá CTXH trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị Methadone. Chính vì vậy, nghiên cứu này
thực hiện nhằm tìm hiểu sâu hơn về lý luận cũng như đưa ra kết quả hoạt
động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT methadone ở TP
Lào Cai, tỉnh Lào Cai với đặc thù là tỉnh miền núi với nhiều cửa khẩu quốc tế
và người nghiện có một phần không nhỏ là người dân tộc thiểu số tham gia
điều trị Methadone, người nghiện di biên động lớn... Trên cơ sở đó, đánh giá
và khuyến nghị cải thiện hiệu quả CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đánh giá thực trạng CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các
Cơ sở điều trị Methadone và một số yếu tố ảnh hưởng. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao, cải thiện hoạt động Công tác xã hội trong hỗ
trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone ở Tp Lào Cai – T. Lào Cai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác xã hội, ma túy, người nghiện
ma túy, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế (Methadone) và
công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị
Methadone.
Đánh giá thực trạng hoạt động Công tác xã hội và một số yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ
sở điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả CTXH trong hỗ
7
trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị
Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- 196 người nghiện ma túy
- 05 thân nhân NNMT (cha, mẹ, vợ/chồng/bạn tình, anh/chị/em ruột…)
- 06 Cán bộ hỗ trợ trực tiếp (tham vấn viên; bác sĩ điều trị)
- 02 Cán bộ quản lý cơ sở điều trị
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tại CSĐT Methadone số 01
và CSĐT Methadone số 02 trực thuộc Sở Lao động – TBXH tỉnh ở thành phố
Lào Cai, tỉnh Lào Cai
- Phạm vi thời gian: 01/01/2019 – 30/06/2019
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung đánh giá thực trạng hoạt động
CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone và các yếu tố
ảnh hưởng, cụ thể: Hoạt động tham vấn tâm lý, hoạt động hỗ trợ vay vốn, việc
làm, hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, hoạt động kết nối dịch vụ,
nguồn lực, hoạt động biện hộ, vận động chính sách và đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTXH trong
hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ thực trạng CTXH trong
hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone và đánh giá một số yếu tố
ảnh hưởng tới CTXH trong hỗ trợ cai nghiện tại các CSĐT Methadone ở
thành phố Lào Cai, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã
8
hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone ở Tp Lào Cai.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những
lý thuyết có liên quan trực tiếp tới đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như
công tác xã hội cá nhân, CTXH nhóm, phát triển cộng đồng, quản lý trường
hợp trong hỗ trợ cai nghiện ma túy; hệ thống chính sách xã hội đối với người
cai nghiện ma túy và NNMT điều trị bằng thuốc Methadone; Chủ trương đổi
mới công tác cai nghiện ma túy trong tình hình mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tôi chủ yểu yếu sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin từ các nguồn như: các
văn bản pháp luật, báo cáo, tạp chí, sách tham khảo, báo cáo khoa học… để
tổng hợp thông tin, phân tích tài liệu, tìm hiểu các số liệu liên quan đến công
tác cai nghiện ma túy, cũng như công tác xã hội với người cai nghiện ma túy
nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu, xác định được một số
khái niệm chính trong đề tài như: Ma túy, nghiện ma túy, người nghiện, người
cai nghiện ma túy, phương pháp điều trị nghiện bằng thuốc thay thế
(Methadone), công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy…
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
Sử dụng phương pháp này để tiến hành tìm hiểu, thu thập các thông tin
cần thiết từ khách thể điều tra làm luận cứ khoa học cho sự đánh giá của đề
tài. Đề tài đã thực hiện điều tra bảng hỏi với 196 NNMT đang ở giai đoạn duy
trì liều trên 3 tháng, với mỗi phiếu khảo sát, sử dụng các câu hỏi đóng và câu
hỏi mở để khai thác thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, kết quả điều trị
Methadone, đánh giá về các hoạt động CTXH và một số yếu tố ảnh hưởng
đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy… trên cơ sở đó, đề tài đánh giá
thực trạng của Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và một số yếu
tố ảnh hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các cơ sở điều trị
Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
9
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp này tác giả phỏng vấn sâu 5 NNMT đang điều trị,
05 người nhà của NNMT để thu thập thông tin về sự tiến bộ trong điều trị của
NNMT, đánh giá hiệu quả, ý nghĩa, tầm quan trọng của CTXH trong hỗ trợ
cai nghiện ma túy; Phỏng vấn sâu 05 nhân viên Công tác xã hội về một số yếu
tố ảnh hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện; Phỏng vấn sâu 02 bác sỹ phụ trách y tế -
điều trị và 02 cán bộ lãnh đạo Cơ sở điều trị Methadone về đánh giá chất
lượng các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và một số yếu tố
ảnh hưởng.
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các thuật toán để xử lý số liệu, kết quả khảo sát bằng thống kê
toán học; tóm tắt, tổng hợp dữ liệu và trình bày dữ liệu dưới dạng biểu bảng;
Phân tích dữ liệu, tính toán các tham số thống kê và diễn giải kết quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài khái quát hóa các lý luận về CTXH, ma túy,
nghiện ma túy, người nghiện ma túy, cai nghiện ma túy, điều trị nghiện bằng
thuốc thay thế (Methadone)… trên cơ sở đó khái niệm về Công tác xã hội
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài nghiên cứu là một trong số ít các nghiên cứu
về CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở
Tp Lào Cai. Hiện nay chủ trương đổi mới công tác cai nghiện đang được đẩy
mạnh thực hiện, đặc biệt là việc nâng cấp các CSĐT Methadone thành các
CSĐT đa chức năng theo quy hoạch mạng lưới cơ sở cai nghiện ma túy đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số
1640/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 18 tháng 8 năm 2016 thì việc
đánh giá, xem xét hiệu quả CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy là một việc
làm rất quan trọng và cần thiết để được nhận một vai trò xứng đáng trong
10
tương lai.
Ngoài ra, các kết quả của đề tài có thể là tài liệu tham khảo đối với người
làm công tác cai nghiện ma túy hoặc hỗ trợ người nghiện ma túy như gia đình
người SDMT, nhân viên các CSĐT nghiện ma túy.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu, Danh mục từ
viêt tắt, các Phụ lục thì luận văn gồm có 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các Cơ sở điều trị Methadone
Chương 2: Thực trạng Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các Cơ sở điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao Công tác xã hội
11
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ
CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm ma túy
1.1.1.1. Khái niệm
Ma túy được đông đảo người dân hiểu và nghĩ gắn liền với một số chất
gây nghiện nguy hiểm như: thuốc phiện, cần sa và đặc biệt là heroine. Tuy
nhiên, đây chỉ là cách hiểu chưa đầy đủ, đôi khi chúng ta cũng sử dụng ma túy
để gọi những chất gây nghiện hợp pháp khác như là: café, rượu, bia… Theo
Luật Phòng, Chống ma túy năm 2000, ma túy được định nghĩa như sau:
“Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành” [10]. Cụ thể hơn, trong Bộ luật Hình
sự có hiệu lực năm 2000 định nghĩa về ma túy như sau: “Ma tuý bao gồm
nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, lá, hoa, quả cây cần sa, quả thuốc
phiện khô, quả thuốc phiện tươi, heroine, cocaine, các chất ma tuý khác ở thể
lỏng hay thể rắn” [11].
Trên thế giới, ma túy được Liên hợp quốc định nghĩa là: "Ma túy là
chất hóa học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể
con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người,
làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho
từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử
dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật và
chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật" [12]. Theo Tổ chức Y Khoa
Thế Giới (WHO), ma túy là “chất hoa học sau khi được hấp thu sẽ làm thay
đổi chức năng thực thể và tâm lý của người sử dụng”.
Từ định nghĩa về ma túy của pháp luật Việt Nam và Liên hợp quốc ta có
thể hiểu về Ma túy là các chất khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác
12
dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người sử dụng, nếu lạm
dụng ma túy, người sử dụng sẽ bị lệ thuộc vào nó và gây tổn thương, nguy hại
cho chính người sử dụng và cộng đồng xung quanh.
1.1.1.2. Phân loại
Ma túy được phân chia thành nhiều loại dựa những căn cứ khác nhau
như: mức độ tác động lên hệ thần kinh, nguồn gốc, mục đích sử dụng… Tuy
nhiên, việc phân loại này cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi vì việc sử
dụng các chất ma túy luôn luôn biến đổi khôn lường, hàng năm đều có thêm
nhiều loại ma túy và tiền chất mới được tội phạm ma túy nghiên cứu. Trong
khuôn khổ đề tài, liệt kê ra đây 02 cách phân loại phổ biến như sau:
* Phân loại theo nguồn gốc
Theo tiêu chí này, ma túy được phân chia thành 3 loại: Ma túy có nguồn
gốc tự nhiên, ma túy bán tổng hợp và ma túy tổng hợp.
- Ma túy tự nhiên: Đây là các sản phẩm ma túy sớm nhất được con người
sử dụng, bắt nguồn từ các cây trồng tự nhiên và các chế phẩm của chúng như
thuốc phiện, cần sa và cocain.
- Ma túy bán tổng hợp: Đây là các chất ma túy được con người chế từ ma
túy tự nhiên với một số chất phụ gia khác, có tác dụng mạnh hơn chất ma túy
ban đầu. Ví dụ: Heroin là một loại ma túy bán tổng hợp được chiết xuất từ cây
thuốc phiện, bằng cách chế thuốc phiện với các hóa chất để tạo ra morphine
và sau đó kết tủa thành heroin dạng thô.
- Ma túy tổng hợp: Đây là các loại ma túy mới được biết đến những năm
gần đây, chúng được điều chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học toàn phần
từ hóa chất như: thuốc lắc, ma túy đá...
* Phân loại theo tác dụng của chất ma túy lên người sử dụng
Cách phân loại này dựa trên tác dụng chủ yếu của chất ma túy đến hệ
thần kinh trung ương của con người, có thể chia thành 3 loại:
- Nhóm thuốc an thần, ức chế hệ thần kinh trung ương: Thuốc phiện,
những chất chế ra từ thuốc phiện (heroine, morphine, cocaine, methadone và
13
pethidine) và thuốc ngủ (lumiau, valium, seconau phenobacbital, serepax,
mogadon, seduexen…). Tác động chủ yếu khi sử dụng là buồn ngủ, an thần,
yên dịu, giảm nhịp tim, giảm hô hấp…
- Nhóm các chất gây kích thích: Bao gồm amphetamine và các dẫn xuất
của nó; có tác dụng làm tăng sinh lực, gây hưng phấn, tăng hoạt động của cơ
thể, tăng nhịp tim, hô hấp…
- Nhóm các chất gây ảo giác: điển hình gồm LSD (Lysergic Acid
Diethylamide) hay còn gọi là ma túy gây ảo giác, ecstasy (thuốc lắc). Việc sử
dụng các chất này với lượng lớn có thể làm thay đổi nhận thức về hiện tại, về
3 môi trường xung quanh; khiến cho người dùng có thể nghe thấy, nhìn thấy
những sự việc không có thật (ảo thanh, ảo giác).
1.1.2. Khái niệm nghiện ma túy
Trước hết, cần phải hiểu rằng thuật ngữ nghiện không chỉ đề cập đến sự
phụ thuộc vào các chất ma túy như là heroin hay cocaine. Theo Angres DH,
Bettinardi-Angres K có nói rằng Nghiện là sự lặp lại liên tục của một hành vi
bất chấp hậu quả xấu hoặc theo American Society for Addiction Medicine
(2012) có nói về nghiện là sự rối loạn thần kinh để dẫn đến những hành vi bất
chấp hậu quả. [14]
Viện nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ về lạm dụng ma túy (NIDA) cho rằng
nghiện là hình thức nghiêm trọng nhất của một loạt các rối loạn sử dụng chất
gây nghiện, và là một bệnh nội khoa do lạm dụng nhiều lần một chất hoặc các
chất. NIDA sử dụng thuật ngữ Nghiện như sau: “Nghiện là một rối loạn mãn
tính, tái phát đặc trưng bởi tìm kiếm ma túy bắt buộc, tiếp tục sử dụng bất
chấp hậu quả có hại và những thay đổi lâu dài trong não[23].
Định nghĩa về nghiện ma túy trên thế giới cũng như Việt Nam đã có
nhiều quan điểm. Theo tổ chức Mayo Clinic, nghiện ma túy được định nghĩa
như sau: “Nghiện ma túy còn được gọi là rối loạn sử dụng chất gây nghiện, là
một bệnh ảnh hưởng đến não và hành vi của một người và dẫn đến việc không
thể kiểm soát việc sử dụng thuốc hoặc thuốc hợp pháp hoặc bất hợp
pháp. Các chất như rượu, cần sa và nicotine cũng được coi là ma túy. Khi
14
bạn nghiện, bạn có thể tiếp tục sử dụng thuốc bất chấp tác hại của nó.”
Quan điểm mới về nghiện cho rằng: Nghiện là một bệnh tái phát mạn
tính của bộ não và tái phát như các loại bệnh tiểu đường, hen, viêm khớp và
tim mạch.
Trên cơ sở những luận điểm trên, có thể hiểu về nghiện ma túy là là sự
phụ thuộc (hoặc lệ thuộc) của con người vào các chất ma túy, việc đưa một
lượng ma túy nhất định vào cơ thể là một nhu cầu thường xuyên và bắt buộc,
nó luôn có xu hướng tăng dần liều sử dụng, khi ngừng sử dụng hoặc giảm
đáng kể liều lượng sẽ xuất hiện hội chứng cai rất khó chịu, thúc ép con ngưởi
phải sử dụng ma túy.
1.1.3. Khái niệm người nghiện ma túy
1.1.3.1. Khái niệm
Khai thác thông tin từ website sức khỏe tâm thần HealthyPlace, người
nghiện ma túy là người lạm dụng và phụ thuộc về thể chất và tinh thần vào
ma túy
Theo GS Jon Currie, Giám đốc Viện Nghiên cứu Y học về nghiện và sự
biến đổi hệ thần kinh, Bệnh viện Thánh Vincent, Australia trong một phát
biểu tại Việt Nam rằng: “Phần đông người ta đều coi lạm dụng ma tuý và
nghiện là các vấn đề xã hội, cần giải quyết bằng các giải pháp mang tính xã
hội, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự. Người ta cũng thường cho rằng,
người nghiện ma tuý là những người yếu ớt, người xấu, không tự rèn luyện
đạo đức hoặc không làm chủ được các hành vi của bản thân”.
Tại Việt Nam, Pháp luật đã quy định rất rõ ràng rằng: Người nghiện ma
tuý là người sử dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ
thuộc vào các chất này. [11]
1.1.3.2. Đặc điểm sinh, tâm lý- xã hội của người nghiện ma túy
Cuộc sống của những người nghiện ma túy bị chi phối bởi nỗi ám ảnh
của việc sử dụng ma túy. Nỗi ám ảnh này thường dẫn đến người nghiện thất
nghiệp, nghèo đói và vô gia cư. Khi ở trong trạng thái này, họ thường chuyển
sang phạm tội để có được chất ma túy. Cũng bởi vì dùng ma túy và phạm tội,
15
cuộc sống của một người nghiện ma túy thường với trung tâm cai nghiện và
nhà tù. Người nghiện ma túy cũng có xu hướng gặp các vấn đề sức khỏe mãn
tính khác, như viêm gan hay nghiêm trọng hơn là HIV. Có quan điểm cho
rằng, con người là tổng hòa của 3 yếu tố quan trọng là: Sinh lý, tâm lý và xã
hội. Một người nghiện ma túy thì cả 3 yêu tố trên đều bị ảnh hưởng.
Nếu xem xét con người là một sự tổng hòa của thể chất, tâm lý và xã hội.
Phần lớn người nghiện ma túy bị tổn thương ở cả ba phương diện trên. Cụ
thể:
Về sinh lý - thể chất: Người sử dụng ma túy sẽ bị suy giảm sức khỏe,
mắc các bệnh như là Viêm gan B, viêm gan C và chiếm đa số trong những
người nhiễm HIV/AIDS là người sử dụng ma túy.
Về tâm lý: Người nghiện ma túy thường có tâm trạng thất thường (lo
âu/trầm cảm, lo lắng về tương lai/hoảng loạn); đôi khi khó hoặc thậm chí
không có khả năng để thích ứng với những căng thẳng hoặc cơn giận giữ; có
một số người còn có tâm lý sợ hãi bị trả thù, bị truy sát, bị ngược đãi; hoang
tưởng, ảo giác; dễ rơi vào trầm cảm và tăng nguy cơ tự hủy hoại bản thân/tự
tử.
Về xã hội: Một số người sử dụng ma túy cho biết rằng họ rất tự ti về bản
thân mình, ngại không dám giao lưu với những người không sử dụng ma túy
và nhiều người nghiện ma túy bị gia đình, bạn bè xa lánh, cộng đồng xung
quanh kỳ thị, nhiều người do sử dụng ma túy mà bị mất công việc, vợ chồng
ly hôn…
Cuộc sống của một người nghiện ma túy có xu hướng “xoắn ốc” xuống
cho đến khi tình trạng nghiện ma túy nghiêm trọng khiến người nghiện chạm
“đáy”. Đó là khi cuộc sống của người nghiện trở nên tồi tệ, họ không cảm
thấy nó có thể trở nên tồi tệ hơn. Thông thường, chỉ đến lúc này, những người
nghiện ma túy mới cân nhắc nghiêm túc việc điều trị nghiện ma túy của mình.
1.1.4. Khái niệm cai nghiện ma túy
1.1.4.1. Khái niệm
Cai nghiện ma túy hay điều trị nghiện ma túy, đôi khi được gọi là liệu
16
pháp hành vi, đây là phương pháp điều trị lạm dụng ma túy được sử dụng phổ
biến nhất. Điều trị lạm dụng thuốc có nhiều hình thức, với các kỹ thuật và
mục tiêu khác nhau. Tham vấn nghiện ma túy có thể thực hiện với cá nhân,
với cặp đôi hoặc trong một môi trường nhóm.
Cũng theo GS Jon Currie, điều trị nghiện ma tuý nên có 3 trụ cột quan
trọng là não, hành vi và bối cảnh xã hội. Trong đó, phải tính đến các yếu tố
gia đình, dịch vụ hướng nghiệp, tài chính, dịch vụ y tế, giáo dục, phòng chống
HIV/AIDS, tham vấn pháp luật, nhà ở, đi lại… Theo ông, cai nghiện ma tuý
không phải như cắt ruột thừa hoặc điều trị gãy xương, chỉ một lần điều trị sẽ
không giúp ích gì. Do đó, không bao giờ được coi cắt cơn, giải độc là một giải
pháp điều trị thực sự với cai nghiện ma tuý, mà đó chỉ đơn giản là việc làm
đầu tiên và quan trọng để khởi đầu cho một quá trình điều trị cai nghiện lâu
dài, liên tục.
Theo Liên hợp quốc, Cai nghiện ma túy là thông qua phương pháp điều
trị được xây dựng dựa trên nhu cầu của mỗi người bệnh, những người nghiện
ma túy có thể học được cách kiểm soát tình trạng nghiện của họ và sống một
cuộc sống bình thường, có ích [11].
Theo Chính Phủ, Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các hoạt động điều
trị, tham vấn, học tập, lao động, rèn luyện nhằm giúp cho người nghiện ma
túy phục hồi về sức khỏe, nhận thức, tâm lý và hành vi, nhân cách để trở về
tình trạng bình thường.[2].
Theo quan điểm của Y học cổ truyền, đại diện là Việt Y cổ truyền, quan
niệm rằng: Cai nghiện ma túy bản chất là phục hồi các tế bào chuyên tiết ma
túy nội sinh (Enkephalin) cho cơ thể để cơ thể không còn cần đến ma túy
ngoại nhập[11].
Như vậy, có thể hiểu về cai nghiện ma túy là việc giúp người nghiện
không bị lệ thuộc vào CDTP, giảm tác hại, tái phục hồi chức năng thể chất,
tâm lý và xã hội; xây dựng lối sống không cần chất gây nghiện. Có sự tham
gia tích cực của toàn xã hội, kế hoạch điều trị hợp lý, kết hợp chặt chẽ giữa
17
thầy thuốc, gia đình và cộng đồng.
Dù vậy, chúng ta cần biết rằng khi đã hồi phục hay “cai nghiện thành
công”, tình trạng tái nghiện là khá phổ biến, nhưng điều này không phải là
điều trị thất bại. Mặc dù tái nghiện là điều không được khuyến khích, nhưng
không nên coi đó là một thất bại. Bởi vì, cai nghiện ma túy là một quá trình
suốt đời và “trượt” là bình thường.
1.1.4.2. Một số biện pháp cai nghiện ma túy
Các phương pháp cai nghiện ma túy ngày nay rất đa dạng, cùng với sự
phát triển của nền khoa học, hiệu quả đã ngày càng được nâng cao.
Trên thế giới, có một số biện pháp cai nghiện ma túy đã được chứng
Trị liệu hành vi nhận thức (CBT) - giải quyết các hành vi liên quan
nhận bởi Viện lạm dụng ma túy (Mỹ) [824]:
đến nghiện bằng cách xác định chúng và học các kỹ năng để sửa đổi
chúng. Tự nhận thức và tự kiểm soát là điều quan trọng trong biện pháp này.
Phƣơng pháp tiếp cận củng cố cộng đồng (CRA) - tập trung vào
việc cải thiện các mối quan hệ, học tập kỹ năng nghề nghiệp và tạo ra một
mạng lưới quan hệ xã hội mới. Cùng với việc xét nghiệm ma túy thường
xuyên, theo đó các lần xét nghiệm có kết quả âm tính được thưởng bằng các
chứng nhận và giải thưởng có giá trị. CRA đã được chứng minh là làm tăng
sự tham gia của NNMT trong tham vấn nghiện ma túy và tăng thời gian cai
nghiện ma túy.
Liệu pháp tăng cƣờng động lực (MET) - tập trung vào việc tăng
động lực bên trong đối với việc điều trị và thay đổi hành vi nghiện. Một kế
hoạch cho sự thay đổi được tạo ra. MET thành công nhất trong việc tăng sự
Mô hình Ma trận - một hệ thống đa phương pháp được xây dựng
tham gia của NNMT trong điều trị và điều trị nghiện ma túy.
dựa trên việc thúc đẩy lòng tự trọng của NNMT, giá trị bản thân và mối quan
hệ tích cực giữa nhà trị liệu và NNMT. Nhà trị liệu được xem như một giáo
viên - huấn luyện viên và sử dụng mối quan hệ của họ để củng cố sự thay đổi
18
tích cực. Liệu pháp điều trị nghiện ma túy theo Mô hình ma trận gồm có các
hướng dẫn chi tiết, bảng tính và các bài tập trị liệu từ các biện pháp trị liệu
khác.
Liệu pháp tạo thuận lợi 12 bƣớc (FT) - được thiết kế để tăng khả
năng người nghiện tham gia cai nghiện và tham gia vào các nhóm 12
bước. Ba khía cạnh chính của loại tham vấn nghiện ma túy này là: chấp nhận
việc nghiện ma túy; chấp nhận chính mình với một sức mạnh cao hơn; tham
gia tích cực vào các hoạt động 12 bước.
Tại Việt Nam, có thể phân loại các phương pháp cai nghiện ma túy thành
2 nhóm là cai nghiện có dùng thuốc và cai nghiện không dùng thuốc. Trong
Đề tài giới thiệu một số biện pháp cai nghiện phổ biên hiện nay, cụ thể như
sau:
Nhóm các phương pháp cai nghiện không dùng thuốc
- Phương pháp cai khô hay cách gọi khác là cai chay, cai bo hay cắt
ngang, bằng cách cô lập NNMT, không cho tiếp xúc với môi trường bên
ngoài, ngừng hoàn toàn việc sử dụng các chất ma túy. Sau thời gian khoảng 7-
10 ngày các hội chưng cai sẽ giảm dần và mất đi, nhưng di chứng kéo dài 2-3
tháng, người cai nghiện mệt mỏi, mất ngủ, đau nhức cơ xương kéo dài hàng
tháng.
- Phương pháp phẫu thuật thùy trán: Đã có một số trường hợp ở Trung
Quốc thực hiện thành công. Theo đó, người bệnh sẽ được tiến hành phẫu
thuật nhằm phá hủy một số điểm ở thùy trán của não liên quan đến đoạn trí
nhớ về cảm giác thèm muốn ma túy, làm cho người bệnh không còn cảm thấy
cần ma túy nữa. Tuy nhiên biện pháp này vẫn còn nhiều nhược điểm như chi
phí cao, người bệnh sau phẫu thuật thường bị ảnh hưởng tới phân biệt phương
hướng…
- Phương pháp điện châm: Hay còn gọi là phương pháp sốc điện, số
lần điện châm của mỗi người là không giống nhau, nó phụ thuộc vào số lần
lên cơn thèm thuốc của người bệnh. Nhân viên điều trị sẽ dùng dòng điện gây
co giật làm mất cơn vật vã. Người nghiện quên chất ma túy và có cảm giác
19
kinh sợ khi trông thấy chúng.
Nhóm các phương pháp cai nghiện có dùng thuốc
- Phương pháp dùng thuốc đối kháng: Phương pháp này sử dụng
naltrexone – một loại thuốc có tác dụng ức chế các chất dạng thuốc phiện (cần
sa, heroin, cocain…) để điều trị duy trì hỗ trợ chống tái nghiện các chất dạng
thuốc phiện, đã được áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung
Quốc...
- Phương pháp điều trị bằng chất thay thế: Là phương pháp dùng các
chất gây nghiện cùng nhóm nhưng có tác dụng kéo dài hơn và có độc tính
thấp hơn các chất để điều trị thay thế như Methadone, bupronorphine…
- Dùng các thuốc hướng tâm thần: Phương pháp này đã được Bộ Y tế
ban hành và áp dụng từ năm 1995, bằng cách dùng các thuốc giải lo âu, thuốc
an thần kinh, các thuốc chống trầm cảm cắt cơn trong vòng 7- 10 ngày.
- Dùng thuốc Đông y: Các loại thuốc Đông y có nguồn gốc từ thảo
dược, an toàn, ít độc và ít tác dụng phụ, có hiệu lực trong hỗ trợ cắt cơn
nghiện ma túy, quá trình cắt cơn êm dịu, thuốc có khả năng bình ổn các triệu
chứng của hội chứng cai, như là triệu chứng dị cảm và thèm ma túy. Thuốc
đông y mới được nghiên cứu thành công gần đây có tên khoa học là
CEDEMEX đã có kết quả thử nghiệm lâm sàn khá tốt và đang được xem xét
mở rộng trong thời gian sắp tới.
1.1.5. Khái niệm về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế Methadone
Theo Bộ y tế, các chất dạng thuốc phiện như thuốc phiện, morphin,
heroin là những chất gây nghiện mạnh (gây khoái cảm mạnh); thời gian tác
dụng nhanh nên người bệnh nhanh chóng xuất hiện triệu chứng nhiễm độc hệ
thần kinh trung ương; thời gian bán hủy ngắn do đó phải sử dụng nhiều lần
trong ngày và nếu không sử dụng lại sẽ bị hội chứng cai [3].
Cũng theo Bộ Y tế, Methadone là một CDTP tổng hợp, có tác dụng dược
lý tương tự như các CDTP khác (đồng vận) nhưng không gây nhiễm độc hệ
thần kinh trung ương và không gây khoái cảm ở liều điều trị, có thời gian bán
20
huỷ dài (trung bình là 24 giờ) nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong 1 ngày là đủ để
không xuất hiện hội chứng cai. Methadone có độ dung nạp ổn định nên ít phải
tăng liều khi điều trị lâu dài [3] Hơn nữa, Methadone không có tính dung nạp
cao như heroin nên có thể không gây tăng liều nếu được kiểm soát tốt và sau
thời gian điều trị ổn định, người bệnh có thể giảm dần liều Methadone để kết
thúc điều trị.
Phương pháp điều trị bằng thuốc thay thế (Methadone) được triển khai ở
Việt Nam từ năm 2008 đã chứng minh hiệu quả rất tốt, đến nay đã được mở
rộng trên phạm vi toàn quốc. Bộ Y tế đã đưa ra khái niệm “Điều trị thay thế
nghiện các CDTP bằng thuốc methadone” là một điều trị lâu dài, có kiểm
soát, giá thành rẻ, được sử dụng theo đường uống, dưới dạng siro nên giúp dự
phòng các bệnh lây truyền qua đường máu như HIV, viêm gan B, C đồng thời
giúp người bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập
cộng đồng [3].
Khái niệm về cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone (gọi tắt là cơ sở điều trị Methadone) đã đuọc chính phủ nêu ra tại
Nghị định 90/2016/NĐ-CP quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế, đó là đơn vị điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc thay thế cho người nghiện chất dạng thuốc phiện, bao gồm cả việc
cấp phát thuốc điều trị thay thế
1.1.6. Khái niệm về Công tác xã hội
Dựa trên các cách tiếp cận khác nhau đã có nhiều khái niệm về CTXH
được nhiều tổ chức, cá nhân đưa ra. Trong đó có một số khái niệm được đông đảo
mọi người chấp nhận như:
Định nghĩa của Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp Quốc tế (IFSW) thông
qua tại Đại hội Montreal, Canada năm 2000: “CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ của
con người và sự tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc
sống của họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi
21
con người và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở các điểm tương tác giữa con
người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc
căn bản của nghề CTXH” [15].
Vào tháng 7 năm 2014, Đại hội đồng Hiệp hội Nhân viên CTXH Quốc tế
(IFSW General Meeting) và Đại hội đồng Hiệp hội quốc tế các trường đào tạo
CTXH (IASSW General Assembly) đã thống nhất toàn cầu về định nghĩa nghề
CTXH như sau: “CTXH là một ngành khoa học và là nghề thực hành thúc đẩy
nâng cao năng lực, sự tự do, liên kết xã hội, thay đổi xã hộ và phát triển. Nguyên
tắc chủ đạo của CTXH là tôn trọng sự đa dạng, trách nhiệm tập thể, quyền con
người và công bằng xã hội. Trên nền tảng lý thuyết CTXH, khoa học xã hội,
kiến thức bản địa và nhân văn, CTXH kết nối nhân dân và tổ chức để bày tỏ
những thách thức trong cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống.”
Tại Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về CTXH.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010): “CTXH là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao
năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy
môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia
đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo
an sinh xã hội.” [8].
Theo Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 – 2020 đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 32/2010/QĐ-TTg thì CTXH
được định nghĩa như sau: “CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn, được
thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân,
gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư trong việc giải quyết các vấn đề
của họ. Qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến
bộ xã hội.”
Theo Viện Khoa học Lao động (2013), CTXH là một chuyên nghành
để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc
thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm
đạt được các mục tiêu đó. Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội,
22
giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải
phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái,
dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội,
Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của
họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề.
Định nghĩa về CTXH của Nguyễn Hồi Loan tại Hội thảo quốc tế của
APASWE tổ chức tại Melbourne (2014) như sau: “CTXH là một hoạt động
thực tiễn xã hội, được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp nhất
định và được vận hành trên cơ sở văn hóa truyền thống của dân tộc, nhằm trợ
giúp cá nhân và các nhóm người trong việc giải quyết các nan đề trong đời
sống của họ, vì phúc lợi và hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội.”
Từ những định nghĩa và quan điểm trên đây, đề tài tiếp cận với khái
niêm CTXH theo nghĩa sau đây: CTXH là một nghề hướng đến trợ giúp cho
cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng phát triển kỹ năng, hoàn thiện bản thân,
phát huy và sử dụng các nguồn lực để giải quyết vấn đề phát sinh trong cuộc
sống. Đồng thời, CTXH là một hệ thống các giá trị, các lý thuyết và kỹ năng
thực hành chuyên nghiệp, nhằm giải quyết vấn đề và làm thay đổi tình trạng
hiện tại. Các nhân viên CTXH sẽ là những tác nhân tích cực của sự thay đổi,
kể cả những thay đổi của xã hội và những thay đổi ở mỗi cá nhân, gia đình và
cộng đồng.
1.2. Lý luận về công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
1.2.1. Khái niệm Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
Từ những khái niệm và định nghĩa về CTXH, nghiện ma túy, cai nghiện
ma túy, có thể đưa ra một cách hiểu về CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
như sau: CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy là việc sử dụng các giá trị, các
lý thuyết và kỹ năng chuyên nghiệp của CTXH để trợ giúp cho thân chủ là
người nghiện ma túy phát triển bản thân, nâng cao năng lực, phát huy và sử
dụng các nguồn lực của họ để làm thay đổi tình trạng nghiện ma túy.
23
1.2.2. Nguyên tắc của Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
Để thực hiện CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy có hiệu quả, trước
hết cần tuân thủ các nguyên tắc của nhân viên CTXH, cũng như các nguyên
tắc của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy. Cụ thể như sau:
1.2.1.1. Nguyên tắc tự nguyện
Đó là việc người nghiện ma túy tự giác, tự nguyện đến với nhân viên
CTXH cũng như sẵn lòng cam kết thực hiện một công việc nào đó. Nhân viên
CTXH chỉ giúp họ tìm ra một giải pháp phù hợp trong quá trình thảo luận với
họ chứ không được bắt buộc họ phải làm bất cứ một điều gì.
1.2.1.2. Nguyên tắc bảo mật
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất mà nhân viên CTXH
cần phải đảm bảo thực hiện. Mọi thông tin mà người nghiện chia sẻ với nhân
viên CTXH cần được đảm bảo kín đáo. Nhân viên CTXH không được tiết lộ
những thông tin liên quan về người nghiện với những người khác khi chưa có
ý kiến chấp thuận của người nghiện. Điều này cũng được qui định rất rõ ràng
trong các quy điều đạo đức của nghề CTXH.
Bảo mật nghĩa là không trao đổi những thông tin về người nghiện ma túy
với người khác trừ khi là với đồng nghiệp vì lí do chuyên môn, và chỉ được
khi có sự đồng ý của người nghiện. Bảo mật còn được thể hiện trong việc lưu
trữ hồ sơ dữ liệu thông tin của người nghiện ma túy, trong việc sắp xếp không
gian của phòng tham vấn và thể hiện trong buổi tham vấn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt khi người nghiện tự làm hại
bản thân hay gây hại cho người khác thì nhân viên CTXH có thể trao đổi với
những cơ quan hay cá nhân có liên quan (theo quy định của pháp luật)
1.2.1.3. Nguyên tắc không phán xét
Là việc nhân viên CTXH không có thái độ hay lời nói thậm chí là suy
nghĩ chỉ trích hành vi, suy nghĩ của người nghiện dù cho những điều mà họ
làm là không đúng, cách suy nghĩ hoặc cảm nhận là không hợp lý.
24
1.2.1.4. Nguyên tắc tôn trọng
Nhân viên CTXH trong khi hỗ trợ cho người nghiện cần phải đối xử
công bằng với tất cả các người nghiện bất kể tuổi tác, giới tính, hình thức, địa
vị xã hội và khả năng tài chính của họ.
1.2.1.5. Nguyên tắc an toàn
Điều kiện tiên quyết khi thực hiện tham vấn là phải An toàn, điều này có
nghĩa là: An toàn cho người nghiện và an toàn cho nhân viên CTXH. An toàn
cho người nghiện là sự đảm bảo an toàn thông tin của họ, an toàn về tài sản
của người nghiện, an toàn cho môi trường xung quanh; an toàn cho người
tham vấn - đây là một điều cần chú ý, đặc biệt trong những tình huống người
nghiện tỏ ra hung hăng, không hợp tác và họ có thể gây tổn thương/thương
tích cho nhân viên CTXH. An toàn về bệnh tật cũng cần đề cập đến ở đây.
Đối với một số bệnh lây truyền qua đường hô hấp như lao phổi, cảm cúm,
thậm chí là HIV/AIDS… thì nhân viên CTXH cần phải thực hiện các biện
pháp để bảo đảm an toàn khi tiếp xúc.
1.2.1.6. Nguyên tắc gắn kết với dịch vụ
Một người nhân viên CTXH tại Cơ sở điều trị nghiện không thể giải
quyết được hết những vấn đề của người nghiện như việc làm, nơi ở hay những
vấn đề liên quan đến sức khỏe như HIV, chăm sóc điều trị và những khó khăn
ấy có thể gây ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả điều trị của người nghiện. Vì
thế, nếu người nghiện đang tham gia tham vấn điều trị nghiện được giới thiệu
tới các cơ sở cung cấp dịch vụ thiết yếu và sẵn có đối với họ thì hiệu quả điều
trị nghiện sẽ cao hơn và mang tính bền vững hơn. Do đó, kết nối giữa nhân
viên CTXH điều trị nghiện với các dịch vụ y tế và dịch vụ an sinh xã hội hỗ
trợ khác là nguyên tắc vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo CTXH trong hỗ trợ
cai nghiện ma túy hiệu quả và chất lượng.
1.2.2. Các hoạt động của Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
CTXH đóng góp quan trọng cho xã hội bằng các hoạt động chuyên môn
của nghề CTXH để cải thiện cuộc sống của cá nhân, gia đình và các nhóm.
Vai trò chính xác của CTXH phụ thuộc vào môi trường làm việc của nhân
25
viên CTXH, khi đó họ cung cấp một loạt các dịch vụ/thực hiện hoạt động để
giúp đỡ những người có nhu cầu. Trong môi trường là các CSĐT Methadone,
để hỗ trợ cai nghiện ma túy cho các NNMT, các nhân viên CTXH cung cấp
các dịch vụ tham vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại (với gia đình) giúp mọi
người đối phó với các vấn đề liên quan đến cai nghiện ma túy, dịch vụ hỗ trợ
vay vốn tạo việc làm, hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, dịch vụ kết
nối nguồn lực và dịch vụ biện hộ, vận động chính sách cho người nghiện ma
túy. Cụ thể như sau:
1.2.2.1. Hoạt động tham vấn tâm lý
Có thể hiểu về tham vấn cho người nghiện ma túy theo Bùi Thị Xuân
Mai như sau: “Tham vấn cho người nghiện cũng là quá trình tương tác giữa
nhà tham vấn dựa trên nguyên tắc nghề nghiệp và kỹ năng chuyên môn với
thân chủ là người nghiện ma túy, giúp họ hiểu về những khó khăn, vấn đề do
nghiện ma túy, từ đó nâng cao năng lực giải quyết vấn đề của người nghiện”.
[8, p. 15]
Mục đích của tham vấn trong điều trị bằng thuốc Methadone đó là hỗ trợ
tâm lý, giải đáp thắc mắc về chương trình điều trị, từ đó giảm bớt lo lắng của
NNMT và củng cố động cơ điều trị. Đồng thời, cung cấp các kỹ năng dự
phòng tái nghiện giúp NNMT tuân thủ điều trị và xây dựng lối sống lành
mạnh.
Tham vấn cho người ngiện ma túy trong quá trình cai nghiện là một hoạt
động vô cùng quan trọng, phục vụ trực tiếp nhu cầu của người nghiện ma túy
thông qua quá trình tương tác giữa nhân viên CTXH dựa trên nguyên tắc nghề
nghiệp và kỹ năng chuyên môn với người nghiện ma túy, trợ giúp cho những
người nghiện ma túy có vướng mắc hoặc khó khăn trong khi điều trị vượt qua
được sự căng thẳng, khủng hoảng duy điều trị, không bỏ dở giữa chừng.
1.2.2.2. Hoạt động hỗ trợ vay vốn, việc làm
Người nghiện ma túy đã và đang bị cộng đồng xung quanh kỳ thị, nên
nhiều người nghiện ma túy không thể tự tìm kiếm việc làm cho mình hay tiếp
cận với các nguồn vốn vay ưu đãi. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp, tổ chức có
26
thái độ e dè khi nhận lao động hoặc không nhận lao động là người sử dụng ma
túy hoặc đã từng sử dụng ma túy và người đang điều trị Methadone. Tương tự
như vậy, việc cho một người nghiện ma túy vay vốn gần như là không thể.
Điều này dẫn tới tình trạng người nghiện không có việc làm, thu nhập thấp
nên vi phạm pháp luật để có tiền SDMT gây mất ổn định xã hội và sâu xa hơn
chính là xã hội mất đi một lao động, đồng thời phải tốn kinh phí để nuôi
dưỡng họ trong những trung tâm cai nghiện hoặc nhà tù. Chính vì vậy, hoạt
động hỗ trợ cho người nghiện có việc làm, là người kết nối của nhân viên
CTXH giúp cho người nghiện ma túy được tiếp cận với các nguồn vốn vay
chính sách, các việc làm tạo thu nhập là rất quan trọng.
1.2.2.3. Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức
Có nhiều cách hiểu khác nhau về hoạt động truyền thông, có thể hiểu về
truyền thông là quá trình truyền đạt thông tin bằng cách sử dụng ngôn ngữ,
chữ viết và hình ảnh, màu sắc nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tư
duy suy nghĩ của đối tượng mà chúng ta muốn hướng đến. Hoạt động truyền
thông của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy là việc
cung cấp kiến thức, nâng cao năng lực cho cá nhân, gia đình và cộng đồng về
tác hại của ma túy và lợi ích của điều trị nghiện bằng thuốc Methadone thông
qua các buổi tuyên truyền, tập huấn nhằm mục đích vận động cộng đồng hiểu
về ma túy, các chất gây nghiện, từ đó giảm tỷ lệ mắc phải tệ nạn ma túy và
các tác hại do ma túy gây ra. Đồng thời, giảm bớt hành vi kỳ thị, phân biệt đối
xử của cộng đồng đối với người nghiện ma túy.
1.2.2.4. Hoạt động kết nối dịch vụ, nguồn lực
Nhân viên CTXH là người nắm bắt được những thông tin về các chính
sách, dịch vụ đối với NNMT và giới thiệu cho NNMT biết về các chính sách,
dịch vụ, nguồn tài nguyên đang có sẵn để NNMT tiếp cận với những nguồn
lực, chính sách và dịch vụ, giúp cho họ có thêm sức mạnh trong từ bỏ ma túy,
giải quyết vấn đề. Ví dụ như nhân viên CTXH là người kết nối, giới thiệu
người nghiện ma túy tiếp cận tới các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
27
khỏe, trị liệu tâm lý… hoặc giới thiệu cho NNMT biết các chính sách họ được
hưởng và giúp họ tiếp cận với chính quyền địa phương nơi họ sinh sống để
đưa ra nhu cầu và quyền lợi của mình.
1.2.2.5. Hoạt động biện hộ, vận động chính sách
Nhân viên CTXH khi là người biện hộ sẽ là người bảo vệ quyền lợi cho
NNMT để họ được tiếp cận và được hưởng những chính sách, dịch vụ, quyền
lợi của mình. Đặc biệt là trong nhiều trường hợp thực tế, người nghiện ma túy
bị bắt do sử dụng ma túy trái phép, đôi khi họ phải chịu những hình phạt nặng
hơn pháp luật quy định hoặc bị đưa đi cai nghiện bắt buộc không đúng quy
định. Trong trường hợp này, nhân viên CTXH cần biện hộ, đấu tranh bảo vệ
quyền lợi của người nghiện ma túy trước các cơ quan chức năng để NNMT
được hưởng những quyền lợi của mình.
Trong trường hợp các nguồn lực từ chính sách hoặc tại cộng đồng chưa
có sẵn, nhân viên CTXH còn đóng vai trò là người vận động nguồn lực từ các
cá nhân, cơ quan, tổ chức để trợ giúp người nghiện ma túy giải quyết vấn đề.
Ví dụ như khi phát hiện những vấn đề bất hợp lý hoặc không phù hợp trong
điều kiện hiện tại của địa phương, nhân viên CTXH sẽ là người vận động
chính sách giúp bảo vệ quyền lợi cho người nghiện ma túy để họ được hưởng
những dịch vụ, chính sách, quyền lợi của họ đặc biệt trong những trường hợp
họ bị từ chối những dịch vụ, chính sách mà họ là đối tượng được hưởng.
1.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone
1.3.1. Một số yếu tố chủ quan
Với phương châm thân chủ là trọng tâm của CTXH nên các yếu tố từ
người nghiện ma túy sẽ là những yếu tố chủ quan, mang tính quyết định tới
CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy. Trong khuôn khổ đề tài sẽ nêu đến một
vài yếu tố mà tác giả cho rằng phổ biến và có tác động mạnh mẽ tới CTXH
trong hỗ trợ cai nghiện ma túy, như sau:
1.3.1.1. Động cơ tham gia điều trị Methadone
Có thể hiểu động cơ là một cơ chế tâm lý bên trong con người, thúc giục
28
mạnh mẽ họ thực hiện một hành động nào đó [26] Động cơ tham gia điều trị
Methadone của người nghiện ma túy được hiểu là lòng ham muốn thực hiện
hành vi tham gia điều trị Methadone để có thể từ bỏ ma túy hoặc đạt được
một mục đích nào đó như trốn tránh đi cai nghiện bắt buộc hoặc đáp ứng yêu
cầu của người thân...
Một người nghiện ma túy bị ép buộc tham gia điều trị Methadone sẽ ảnh
hưởng tiêu cực tới hiệu quả của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy cho họ.
Một số lý thuyết đã chỉ ra rằng một người chỉ sẵn sàng thực hiện một việc khi
họ có động cơ; họ hiểu nhiệm vụ cần phải thực hiện và có năng lực để thực
hiện vai trò của mình [3]. Do vậy, động cơ tham gia điều trị Methadone của
NNMT là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới kết quả của CTXH trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone.
1.3.1.2. Tình trạng việc làm của người nghiện ma túy
Việc làm có vai trò rất quan trọng với mỗi người chúng ta và đối với
người nghiện ma túy nó còn có những ảnh hưởng vô cùng quan trọng ảnh
hưởng tới cả thể chất, tâm lý và xã hội. Cụ thể, khi NNMT có việc làm họ
phải lao động, cơ thể có sự vận động, trao đổi chất thường xuyên hơn thay vì
ngồi yên một chỗ cả ngày để xem điện thoại hoặc ti vi. Ngoài ra có việc làm
thì có thêm thu nhập, NNMT và gia đình có thêm kinh phí để mua sắm thức
ăn, thuốc bổ cho NNMT phục hồi sức khỏe, cũng như đưa NNMT tham gia
các chương trình cai nghiện ma túy có chất lượng mà phải đóng phí; về mặt
tâm lý, khi đi làm và có thêm thu nhập sẽ giúp NNMT có sự tự tin hơn khi
giao tiếp với các thành viên trong gia đình bởi vì họ đã không những không
còn là gánh nặng chỉ biết “ăn không ngồi rồi”, lấy tiền của gia đình để đi mua
ma túy, mà bây giờ đi làm và tự tạo ra thu nhập đóng góp cho gia đình. Đồng
thời, khi có việc làm cũng giúp cho NNMT tham gia vào các dịch vụ xã hội
tích cực và có trách nhiệm hơn; Về mặt xã hội, NNMT có việc làm sẽ tự làm
ra tiền để mua ma túy thì sẽ không cần phạm tội như trộm, cắp, cướp giật…
để có kinh phí mua ma túy như trước kia nữa. Ngoài ra, có việc làm người
29
nghiện ma túy sẽ có ít thời gian rảnh rỗi để ngồi nghĩ tới việc sử dụng ma túy
hoặc không còn nhiều thời gian, cơ hội để tụ tập giao lưu với bạn nghiện giúp
NNMT giảm thiểu nguy cơ SDMT.
1.3.2. Một số yếu tố khách quan
1.3.2.1. Nhân viên Công tác xã hội
Các nhân viên CTXH hay còn gọi là nhân viên tham vấn, tham vấn
viên… phải đạt chuẩn yêu cầu về trình độ chuyên môn như là đúng chuyên
nghành và đạt trình độ cử nhân hoặc cao hơn mới đủ điều kiện để ứng tuyển
vào vị trí việc làm Tham vấn viên trong các CSĐT Methadone. Ngoài ra, sau
khi được tuyển chọn và trước khi làm việc trực tiếp thì những nhân viên tham
vấn phải hoàn thành khóa tập huấn về tham vấn điều trị nghiện ma túy để hiểu
và thực hành được mới có thể vào làm việc với NNMT. Các yếu tố khác
thuộc về nhân viên tham vấn ảnh hưởng tới CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy như: kiến thức chuyên môn và xã hội, đạo đức nghề nghiệp, thái độ làm
việc, kỹ năng nghề nghiệp. Cụ thể:
- Kiến thức chuyên môn của nhân viên tham vấn: Đó không chỉ là những
kiến thức về công tác xã hội như phương pháp công tác xã hội cá nhân,
CTXH nhóm, CTXH gia đình hay các thuyết về hành vi con người, học
thuyết tâm lý nói chung, mà còn gồm cả kiến thức về các loại ma túy, cơ chế
gây nghiện của chúng và đặc biệt quan trọng trong quá trình làm việc là
những kiến thức về người nghiện ma túy.
- Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên tham vấn: Đến nay, đã có thông tư
01/2017/TT-BLĐTBXH về việc quy định tiêu chuyển đạo đức nghề nghiệp
đối với người làm CTXH làm quy chuẩn để những nhân viên tham vấn tuân
thủ trong quá trình làm CTXH.
- Thái độ trong khi làm việc của nhân viên CTXH: Một nhân viên tham
vấn cần phải tránh thái độ phán xét hoặc kỳ thị người nghiện ma túy vì điều
này rất dễ tạo ra những rào cản trong tiến trình trợ giúp của họ. Thay vào đó,
cần có thái độ tích cực như thân thiện, nhiệt tình từ đó tạo ra mối quan hệ tốt
30
với NNMT trong quá trình tương tác, giúp NNMT thoải mái và tự tin trao đổi
thông tin với nhân viên tham vấn, đồng thời tích cực tham gia vào tiến trình
giải quyết vấn đề mà tham vấn viên và NNMT đã cùng nhau đề ra.
- Kỹ năng nghề nghiệp: Nhân viên tham vấn cần có những kỹ năng thiết
yếu như là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tham vấn cơ bản (gồm các kỹ năng lắng
nghe, kỹ năng thấu cảm, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng phản hồi cảm xúc, kỹ
năng khơi gợi…) và những kỹ năng tham vấn chuyên biệt khi làm việc với
NNMT (gồm các kỹ năng tham vấn dự phòng tái nghiện, kỹ năng phỏng vấn
tạo động lực).
Trong một môi trường làm việc có thể coi là áp lực cao tại các CSĐT
Methadone, làm việc trực tiếp với những thân chủ là người nghiện ma túy (có
nguy cơ nhiễm các bệnh truyền nhiễm, sự đe dọa từ những NNMT hung hăng,
phê thuốc…), đòi hỏi người làm CTXH luôn phải cập nhật kiến thức, kỹ năng
cho hoạt động thực tiễn của mình, đồng thời biết cách phối kết hợp linh hoạt
chúng trong các tình huống khác nhau.
1.3.2.2. Yếu tố cơ sở điều trị Methadone
Như đã trình bày ở trên về khái niệm Cơ sở điều trị Methadone hiện nay
gồm có 2 hình thức là cơ sở điều trị (là cơ sở có chức năng tham vấn, khám,
điều trị và cấp phát thuốc cho NNMT) và cơ sở cấp phát thuốc (chỉ có chức
năng cấp phát thuốc Methadone). Để một cơ sở điều trị Methadone được hoạt
động phải có quyết định thành lập và được công bố đủ điều kiện hoạt động
(gồm các điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện về nhân sự), do vậy hiệu quả
vận hành của CSĐT Methadone phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như:
- Chính sách, sự quan tâm chỉ đạo của đơn vị quản lý CSĐT Methadone
và năng lực, trình độ quản lý của ban lãnh đạo cơ sở.
- Điều kiện về cơ sở vật chất: như là các trang thiết bị phục vụ cho
chuyên môn, các phòng làm việc, phòng tiếp đón, kho bảo quản thuốc… phải
đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định và yêu cầu của thực tế hoạt động.
- Nhân sự: Theo quy định của Bộ Y tế, mỗi CSĐT Methadone sẽ đảm
bảo có ít nhất 01 bác sỹ làm việc toàn gian, 01 nhân viên làm công tác hỗ trợ
31
khám bệnh, chữa bệnh;01 nhân viên làm nhiệm vụ hành chính, có trình độ
trung cấp trở lên; 02 nhân viên cấp phát thuốc có trình độ trung cấp dược sỹ
trở lên; 01 nhân viên làm nhiệm vụ xét nghiệm có trình độ trung cấp một
trong các ngành y, sinh học, xét nghiệm trở lên và đặc biệt là, có ít nhất 01
nhân viên làm nhiệm vụ tham vấn có trình độ trung cấp trở lên thuộc các
ngành Y, dược hoặc xã hội trở lên.
- Số lượng NNMT đang tham gia điều trị tại cơ sở: Theo quy định, khu
vực dân cư có trên 250 người nghiện ma túy sẽ thành lập một CSĐT
Methadone, các CSĐT Methadone cũng được thiết lập các điều kiện, công
suất phục vụ là 250 NNMT. Do đó, số lượng nhiều hay ít NNMT tham gia
điều trị tại CSĐT Methadone có thể ảnh hưởng đến việc đảm bảo tần suất,
quy trình tham vấn của nhân viên tham vấn.
CSĐT Methadone chính là địa điểm các hoạt động công tác xã hội được
diễn ra thường xuyên, do vậy một số yếu tố thuộc về cơ sở điều trị có những
ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy.
1.3.2.3. Yếu tố gia đình người nghiện
Vai trò của gia đình được thể hiện ngay từ khi bắt đầu và xuyên suốt quá
trình tham gia chương trình điều trị của NNMT tại CSĐT Methadone. Gia
đình tác động tới người nghiện ma túy ở một số khía cạnh như:
- Sự hỗ trợ về vật chất: Do dịch vụ điều trị Methadone là một dịch vụ có
tính phí (một số nơi vẫn miễn phí hoặc miễn phí với một số đối tượng bảo trợ
xã hội) nên gia đình có ảnh hưởng khá lớn trong việc chi trả cho NNMT tham
gia điều trị, cùng với đó gia đình còn là nơi hỗ trợ NNMT những nhu yếu
phẩm hàng ngày hay thậm chí là tiền để mua ma túy do phần lớn NNMT
không có việc làm, hoặc có việc làm nhưng thu nhập không ổn đinh.
- Sự tin tưởng của các gia đình đối với sự thay đổi của người nghiện: Bởi
vì gia đình không chỉ là nơi NNMT nhận được sự giúp đỡ về mặt vật chất mà
còn là nguồn động viên, chỗ dựa tinh thần của NNMT. Nên sự tin tưởng của
gia đình với NNMT có thể giúp cho NNMT có thêm động lực tham gia cai
32
nghiện tích cực. Ngược lại, nếu gia đình xa lánh, trách mắng, bỏ mặc không
quan tâm hay không tin tưởng vào nỗ lực của người nghiện thì mọi hoạt động
hỗ trợ từ cộng đồng, nhân viên CTXH sẽ không đạt được hiệu quả mong
muốn, đôi khi gây ra phản ứng ngược, làm tăng nguy cơ tái nghiện.
- Sự phối hợp của gia đình với CSĐT Methadone: Sự liên lạc thường
xuyên giữa gia đình và CSĐT để cập nhật thông tin điều trị của NNMT hoặc
tiếp nhận các khuyến nghị của tham vấn viên.
Trong điều trị nghiện ma túy, sự động viên và hỗ trợ của gia đình là rất
cần thiết ngay từ trước khi người nghiện tham gia cai nghiện ma túy. Sự tin
tưởng và ủng hộ của gia đình trong quá trình điều trị sẽ giúp cho người nghiện
có quyết tâm cao hơn trong việc từ chối sử dụng ma túy và giảm tái nghiện
ma túy.
1.3.2.3. Yếu tố chính sách, pháp luật về cai nghiện ma túy
Có thể hiểu về Thể chế, chính sách là tập hợp các chủ trương, chính sách
và hành động về phương diện nào đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu
mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó.
Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế
- văn hóa – xã hội – môi trường.
Chính sách, pháp luật đối với người nghiện ma túy là nền tảng, cơ sở cho
các hoạt động hỗ trợ cai nghiện ma túy, trong đó có hoạt động CTXH trong
hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone. Điều này được thể hiện ở
một số phương diện sau:
- Tạo hành lang pháp lý, nguồn lực, chế tài cho việc triển khai điều trị
nghiện bằng thuốc thay thế (Methadone), mở rộng mạng lưới các CSĐT
Methadone và ứng dụng CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT
Methadone.
- Quy định chuẩn mực đạo đức, nhiệm vụ, chức năng của nhân viên
CTXH cũng như các chế độ đãi ngộ cho nhân viên CTXH trong quá trình làm
33
việc.
- Quy định các chương trình, chính sách, chế độ hỗ trợ người nghiện
và gia đình người nghiện ma túy tham gia điều trị bằng thuốc thay thế
(Methadone).
1.4. Một số lý thuyết ứng dụng trong đề tài
Có rất nhiểu cách tiếp cận khác nhau trong CTXH, tuy nhiên đối với lĩnh
vực CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone, đề tài
chủ yếu tập trung vận dụng 3 lý thuyết tiếp cận cơ bản và gắn liền nhất với
việc giải quyết các vấn đề người nghiện ma túy tham gia điều trị Methadone
là cách tiếp cận dựa trên lý thuyết nhu cầu, tiếp cận dựa trên quyền và tiếp cận
dựa trên thuyết sinh thái.
1.4.1. Tiếp cận dựa trên thuyết nhu cầu của A.Maslow
Abraham Maslow (1908- 1970), là một nhà tâm lý học người Mỹ. Ông
được chú ý nhất với sự đề xuất về Tháp Nhu Cầu. Ông được xem là cha đẻ
của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm Lý học. Trong công trình nghiên cứu của
mình, ông đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính về giao
tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng. Lý thuyết của ông nhằm
giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế
nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất
lẫn tinh thần. Theo ông, mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan
đến cấu trúc cơ thể của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền
nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và sự phát triển của con người theo một
chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ thấp đến cao. Mỗi bậc
nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó, nếu một nhu
cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước
phát triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn thì
nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu ở bậc cao hơn.
Theo thuyết nhu cầu của A.Maslow, con người là một thực thể sinh –
tâm lý xã hội, vì thế con người có nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã hội. Ông
chia nhu cầu con người thành 5 thang bậc từ thấp đến cao: (i) Nhu cầu cơ bản
34
(ăn, mặc, ở, điện, nước, nghỉ ngơi,..); (ii) Nhu cầu an toàn; (iii) Nhu cầu thuộc
vào một nhóm nào đó (được yêu thương, thừa nhận, được giao tiếp,..); (iv)
Nhu cầu được tôn trọng; (v) Nhu cầu hoàn thiện, phát triển [6, p. 165]
Với cách tiếp cận dựa vào thuyết nhu cầu này, nhân viên CTXH sẽ đánh
giá người nghiện ma túy có những nhu cầu nào và ở bậc mấy? Có những nhu
cầu nào chưa được bảo đảm, thực hiện? Từ đó, có kế hoạch can thiệp phù hợp
trong hoạt động trợ giúp họ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu của họ thông qua
các hoạt động tham vấn, kết nối nguồn lực…Nhân viên CTXH với cách tiếp
cận này cần phải luôn tin tưởng vào thân chủ (người nghiện ma túy) hoàn toàn
có khả năng tự giải quyết vấn đề của chính bản thân họ.
1.4.2. Tiếp cận dựa trên thuyết sinh thái
Lý thuyết này nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa các tổ chức nhóm và vai
trò của cá nhân trong môi trường sống. Trong lý thuyết này, tất cả các vấn đề
của con người phải được nhìn nhận một cách tổng thể trong mối quan hệ với
các yếu tố khác, chứ không chỉ nhìn nhận và tác động một cách đơn lẻ. Quan
điểm sinh thái nhìn nhận hành vi và sự phát triển của mỗi cá nhân, trong bối
cảnh của một chuỗi hệ thống các quan hệ tạo nên môi trường sinh thái của
con người ấy. Có nghĩa là, sự thay đổi hoặc xung đột trong bất kỳ lớp cắt nào
của môi trường, cũng có thể gây ảnh hưởng đến các lớp khác. Như vậy, quan
điểm hệ sinh thái nhấn mạnh rằng, hành vi và sự phát triển của con người là
hệ quả của một chuỗi các tương tác giữa các lớp cắt của môi trường. Vì thế,
khi xem xét vấn đề của đối tượng thì cần xem xét nó trong mối liên hệ với các
hệ thống tồn tại trong môi trường.
Như vậy, với cách tiếp cận dựa trên thuyết sinh thái thì nhân viên CTXH
trong quá trình hỗ trợ cho người nghiện ma túy cần phải xem xét vấn đề của
người nghiện đang gặp phải với mối liên hệ với các hệ thống trong môi
trường như gia đình, bạn bè, cơ quan luật pháp, nơi sinh sống và làm
việc…để từ đó có kế hoạch can thiệp hiệu quả, huy động sự tham gia của các
hệ thống đó trong việc giải quyết các vấn đề của người nghiện ma túy.
35
1.4.3. Tiếp cận dựa trên lý thuyết về quyền con người
Với cách tiếp cận dựa trên quyền chính được lấy nền tảng cơ bản chính
là hệ thống quyền con người đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ.
Do đó, với cách tiếp cận này, nhân viên CTXH dựa trên hệ thống công ước
quốc tế về quyền con người, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật
Việt Nam về quyền con người ở Việt Nam. Từ đó đánh giá những quyền nào
mà người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy đã được đảm bảo và
những quyền nào chưa được đảm bảo. Thông qua hoạt động đánh giá đó,
nhân viên CTXH sẽ xây dựng các phương pháp và kế hoạch thực hiện các
hoạt động trợ giúp phù hợp và hiệu quả để người nghiện ma túy được đảm
bảo những quyền mà họ đáng được hưởng.
Với cách tiếp cận này, nhân viên CTXH thực hiện vai trò biện hộ, ngay
cả khi người nghiện ma túy có hoặc chưa nhận thức được những quyền của
họ. Để thực hiện được vai trò này, người nhân viên CTXH cần phải nắm vững
các chính sách, quy định của pháp luật về quyền của những người nghiện ma
túy/người cai nghiện ma túy. Đồng thời, nhân viên CTXH cần thực hiện nâng
cao nhận thức cho người nghiện để giúp họ tự nhận ra và tự quyết định việc
tham gia với vai trò chủ động vào quá trình đòi hỏi những quyền chính đáng
của một con người, tìm kiếm sự công bằng cho bản thân và cho nhóm những
người cùng hoàn cảnh vấn đề như mình. Vì vậy, nhân viên CTXH sẽ thực
hiện hoạt động biện hộ cho người nghiện ma túy dựa trên hệ thống quyền con
người, quyền của người nghiện ma túy/cai nghiện ma túy. Đồng thời, dựa trên
những vấn đề chưa được giải quyết, nhu cầu chưa được đáp ứng của người
nghiện, nhân viên CTXH tác động đến các cá nhân, cơ quan và tổ chức có
36
quyền lực liên quan đến vấn đề và nhu cầu đó.
Tiểu kết chƣơng
Quá trình tìm hiểu, đánh giá sơ bộ về CTXH, người nghiện ma túy và điều
trị nghiện bằng thuốc Methadone cho chúng ta thấy được bức tranh tổng quát về
CTXH và điều trị Methadone ở Việt Nam. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, số
lượng người nghiện ma túy ngày một tăng cao và công tác đổi mới cai nghiện
đang được diễn ra trên cả nước theo đề án 2596 của Chính phủ. Theo đó, các
phương pháp cai nghiện mới được ứng dụng và triển khai trong thực tiễn, góp
phần đa dạng lựa chọn cai nghiện cho NNMT. Các nghiên cứu chỉ ra rằng người
nghiện ma túy vẫn có khả năng góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước và sự phát triển kinh tế hộ gia đình của người người nghiện ma túy, do
vậy hình thức cai nghiện tự nguyện, người nghiện vừa được điều trị, vẫn tham
gia lao động, sản xuất ngày càng được chú trọng phát triển và nổi bật là phương
pháp điều trị nghiện bằng thuốc Methadone, trong đó các hoạt động can thiệp
của Công tác xã hội như tham vấn tâm lý, hỗ trợ vay vốn, tìm kiếm việc làm.v.v.
là rất quan trọng, góp phần tăng thêm tỷ lệ cai nghiện thành công, giảm thiểu tác
hại của ma túy gây ra cho người nghiện ma túy.
Quá trình thực hiện các hoạt động CTXH trong hỗ trơ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone cũng bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố chủ quan và một số
yếu tố khách quan như: Động cơ tham gia điều trị, tình trạng việc làm của người
nghiện ma túy hay nhân viên công tác xã hội, yếu tố cơ sở điều trị.v.v.
Trong quá trình thực hiện hỗ trợ, nhân viên CTXH cần phải thực hiện
các nguyên tắc can thiệp của nghề CTXH. Đồng thời, căn cứ vào nhu cầu,
quyền, các nguồn lực trong môi trường xã hội xung quanh, những chính sách,
chương trình đối với NNMT để có thể trợ giúp họ đạt mục tiêu, giải quyết vấn
đề. Dựa trên những kiến thức nền tảng này, đề tài xây dựng các tiêu chí đánh
giá thực trạng của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy và một số yếu tố ảnh
hưởng đến CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone
37
trong Chương 2.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONGHỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ
ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Thành phố Lào Cai trực thuộc tỉnh Lào Cai là một thành phố miền núi
thuộc vùng biên giới, với những đặc điểm về kinh tế - văn hóa – xã hội rất đặc
trưng. Về kinh tế với nhiều mỏ khoáng sản lớn như Đồng, Apatit đã là tiền để
để phát triển công nghiệp, đồng thời có 06 cửa khẩu chính thức giao thương
với Trung Quốc và rất nhiều các cửa khẩu tiểu ngạch rải rác trên đường biên
giới nên nền kinh tế du lịch và thương mại khá phát triển. Về xã hội, có nhiều
đồng bào dân tộc sinh sống, cùng với đó là sự nhập cư của lao động từ các
tỉnh lân cận như Lai Châu, Yên Bái, Điện Biên tới làm việc. Với những đặc
điểm như vậy, đã khiến cho tình hình an ninh, trật tự xã hội diến biến rất phức
tạp, đặc biệt là tình hình tệ nạn ma túy.
Theo Báo cáo số 186/BC-UBND của UBND tỉnh ngày 21/7/2016 tính
đến tháng 6/2016 toàn tỉnh có 4.206 người nghiện có hồ sơ quản lý trong đó
86,82% sử dụng Heroin, 53,4% sử dụng ma túy bằng đường tiêm chích; đặc
biệt là trên 80% người nghiện ma túy ở độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi (độ tuổi
vàng trong nguồn lực xã hội) và 90% số người nghiện ma tuý là lao động tự
do hoặc không có nghề nghiệp. Ngoài ra còn khoảng 2.000 người nghiện di
biến động. Tỷ lệ người nghiện trên dân số là 0,065%. Tỉnh Lào Cai thuộc
Nhóm 2: Nhóm tỉnh, thành phố trọng điểm về tệ nạn ma túy.
Thực hiện Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy, trong giai đoạn
2012 đến 2017 UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành 10 Quyết Định, 08 kế hoạch
và nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành để triển khai thực hiện Dự án điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone. Kết quả là, CSĐT
Methadone đầu tiên đã được thành lập vào tháng 10 năm 2013, gồm các
38
phòng chức năng: Phòng hành chính, phòng khám bệnh, phòng tham vấn,
phòng dược cấp phát thuốc, kho bảo quản thuốc, phòng lấy mẫu phẩm xét
nghiệm và bố trì đầy đủ trang thiết bị tại các phòng, bộ phận tại cơ sở làm
việc theo đúng quy định. Sau khi đánh giá hiệu quả chương trình điều trị
Methadone trên phạm vi toàn tỉnh với những kết quả thu được tích cực, tiết
kiệm chi phí, cải thiện cuộc sống cho NNMT và gia đình họ, góp phần bảo
đảm an ninh, an toàn xã hội. Tỉnh Lào Cai đã nhân rộng mô hình điều trị
nghiện bằng thuốc Methadone, từ 01 cơ sở điều trị theo mô hình xã hội hóa
thuộc Sở Lao động – Thương binh và xã hội, đến nay đã thành lập thêm 06 cơ
sở điều trị và 9 cơ sở cấp phát thuốc tại bệnh viện đa khoa thuộc 6 huyện,
thành phố, cụ thể:
Bảng 2.1. Thời gian thành lập các Cơ sở điều trị Methadone trên
địa bàn tỉnh Lào Cai
STT Tên cơ sở 2013 2014 2015 2016
X
1 CSĐT Methadone xã hội hóa 1 2 X BVĐK H. Bát Xát
X 3 Điểm cấp phát Mường Hum
X 4 Điểm cấp phát Trịnh Tường
X 5 BVĐK H. Văn Bàn
X 6 Điểm cấp phát Minh Lương
X
X 8
X 9 7 Điểm cấp phát Võ Lao CS 3/1 Trung tâm PCHIV/AIDS BVĐK H. Bảo Thắng
X 10 Điểm cấp phát Tằng Lỏng
X
X 11 BVĐK huyện Sapa 12 Điểm cấp phát Bản Dền
X
X X 13 BVĐK H. Bảo Yên 14 Điểm cấp phát Bảo Hà 15 CSĐT Methadone xã hội hóa 2
39
(Nguồn: Báo cáo 04/BC-UBND của UBND tỉnh Lào Cai ngày 04/1/2018)
2.1.2. Đặc điểm khách thể nghiên cứu
Tính đến ngày 31 tháng 6 năm 2019, tại 02 CSĐT Methadone trên địa
bàn thành phố Lào Cai có 492 NNMT đang tham gia điều trị. Trong số đó
NNMT đang trong gia đoạn duy trì liều là 396 người. Trên cơ sở đó, Đề tài
lựa chọn 196 NNMT đang trong giai đoạn duy trì liều từ 3 tháng trở lên tại
CSĐT Methadone số 1 (126 người) và CSĐT Methadone số 2 (69 người). Cụ
thể các đặc điểm khách thể nghiên cứu thu được như sau:
Bảng 2.2: Đặc điểm khách thể trong nghiên cứu
Cơ sở nghiên cứu
Tổng số
STT
Tiêu chí
CSĐT số 1
CSĐT số 2
SL (ngƣời)
Tỷ lệ (%)
124
69
193
98,5
Nam
1
Giới tính
3
0
3
1,6
Nữ
6
2
8
4,2
<18
38
27
65
33,3
18 – 30
2
Trung bình tuổi (năm)
50
28
78
39,9
30-50
32
12
44
22,5
>50
65
46
111
56,6
3
15
8
23
11,7
Tình trạng sức khỏe
46
15
61
31,12
14
9
23
11,7
4
Trình độ học vấn
21
16
37
18,8
Đang điều trị bệnh truyền nhiễm (HIV, viêm gan A,B,C, lao… Đang điều trị bệnh không truyền nhiễm Không điều trị bệnh Trung cấp, cao đẳng, đại học, trên đại học Trung học phổ thông
40
Trung học cơ sở
56
23
79
40,3
Tiểu học
34
13
47
23,9
Chưa từng đi học
1
5
6
3
126
67
5
193
98,5
Có khả năng hiểu tiếng Kinh
34
13
47
2,9
6
68
49
117
59,9
Tình trạng hôn nhân
Ly hôn, ly thân, góa Sống với vơ/chồng
Độc thân
24
7
31
16,2
Kinh doanh
15
9
24
12,5
Nội trợ
2
1
3
1
Tự do
56
32
88
44,9
7
Nghề nghiệp
13
4
17
8,7
Công nhân/nhân viên văn phòng
Thất nghiệp
43
23
66
34
Khác
1
1
2
1
67
8
122
189
96,4
9
6.4
4.6
10
71
52
123
62,7
11
15.5
15.1
12
49.7
49.6
Có thu nhập trong 6 tháng qua Thu nhập trung bình (triệu VNĐ) % Có thẻ bảo hiểm y tế Thời gian sử dụng ma túy (năm) % Đã từng cai nghiện trước đây
(Nguồn: khảo sát 2019)
Kết quả cho thấy đa số người nghiện ma túy là nam giới, người Kinh
chiếm đa số nhưng vẫn có tới hơn 20% là người dân tộc khác tại CSĐT
Methadone số 2 và đa số ở trong độ tuổi lao động với tuổi đời trung bình là 40
41
tuổi. Trong số họ có người bắt đầu sử dụng ma túy khi còn trẻ khá đông với
thời gian sử dụng ma túy rất lâu bình quân lên tới 15 năm và Khảo sát 2019
cũng cho thấy số người đã từng đi cai nghiện trước đây khá cao với gần 50%.
Xét về hoàn cảnh gia đình, đa số người nghiện đã thành lập gia đình,
nhưng có tới 24% số người nghiện đã ly hôn và còn một số không nhỏ chưa
lập gia đình với tỷ lệ độc thân là 16,2%. Như vậy việc nghiện ma túy sẽ ảnh
hưởng tới không chỉ cha mẹ, anh em mà cả vợ/chồng và con cái của họ. Về
trình độ học vấn phần lớn người nghiện ma túy đã từng đi học nhưng vẫn có
tới 3% người chưa từng đi học, thậm chí 3,5% người nghiện ma túy tại CSĐT
Methadone số 2 không thể hiểu được tiếng Kinh. Điều này là một thách thức
cho việc giao tiếp với NNMT và trợ giúp cho họ như tạo việc làm, đào tạo
nghề, vay vốn như là một yếu tố quan trọng cho hòa nhập cộng đồng cho họ.
Methadone là thuốc được nghiên cứu là có thể dùng trong nhiều năm
liên tiếp, không có tác hại cho cơ thể và người sử dụng methadone thường
khỏe mạnh hơn so với người nghiện các chất dạng thuốc phiện bất hợp pháp
khác. Do vậy thời gian tham gia điều trị càng lâu thì càng tốt cho việc từ bỏ
50
40
ma túy.
42.7
37.6
30
20
19.7
10
0
<= 1 năm
> 2 năm
Từ 1 - 2 năm
<= 1 năm
> 2 năm
Từ 1 - 2 năm
Biểu đồ 2.1: Thời gian điều trị tham gia điều trị Methadone.
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Theo hướng dẫn điều trị Methadone của Bộ Y tế, thời gian điều trị
Methadone nên ít nhất là 2 năm để đảm bảo chất lượng điều trị. Con số
42
NNMT có thời gian điều trị trên 2 năm lên tới 43% và qua quá trình điều tra
tính toán được thời gian điều trị trung bình của các NNMT là 2,1 năm đây là
một tín hiệu rất tích cực và cũng là thành quả của rất nhiều nỗ lực.
Chu trình điều trị Methadone hiện nay bao gồm 4 bước. Bước đầu tiên
là khởi liều, NNMT cần được xét nghiệm dò tìm ma túy cũng như các xét
nghiệm sức khỏe đầu vào. Tiếp theo bước hai là dò liều, do mỗi người có độ
dung nạp Methadone khác nhau nên NNMT sẽ được khởi liều thấp, sau đó
tăng dần đến khi không còn xuất hiện hội chứng cai hoặc thấy thèm nhớ ma
túy. Tới đây, NNMT đã ổn định liều Methadone sẽ chuyển sang giai đoạn duy
trì liều và NNMT sẽ uống liều này cho tới khi được chuyển sang giai đoạn
tiếp theo là giảm liều, kết thúc điều trị.
Bảng 2.3. Bảng tình hình điều trị của NNMT (n=196)
STT Trung bình liều methadone hiện tại (mg/ ngày) 61.4
1 Tỷ lệ BN có liều methadone < 80 mg/ ngày 72.8%
2 Tỷ lệ BN đã vào giai đoạn duy trì 86.7%
3 Tỷ lệ BN tự đánh giá liều hiện tại thấp hoặc rất thấp 6.6%
4 Tỷ lệ BN đã từng bỏ trị trước đây 5.5%
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Liều tối ưu cho điều trị Methadone nằm trong khoảng 60 – 80ml, với
liều trung bình là 61,4ml và tỷ lệ NNMT duy trì đạt 86,7% là một trong
những chỉ tiêu tích cực của các CSĐT Methadone ở thành phố Lào Cai. Một
chỉ số khác cần đề cập ở đây là tỷ lệ BN đã từng bỏ trị trước đây là 5,5%, có
nghĩa là cứ 100 người bỏ trị thì có khoảng gần 6 người tham gia điều trị lại.
Điều này đã phần nào chứng minh rằng chương trình Methadone tại cơ sở là
43
có hiệu quả đối với người nghiện ma túy.
2.2. Thực trạng hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai, tỉnh Lào Cai
Để có căn cứ cho việc thúc đẩy chuyên môn CTXH và nâng cao nhận
thức về vai trò của CTXH trong can thiệp hỗ cai nghiện ma túy tại các CSĐT
methadone, nghiên cứu triển khai khảo sát những tác động và can thiệp của
chuyên môn CTXH trong các cơ sở điều trị methadone ở thành phố Lào Cai
với sự tham gia của nhân viên công tác xã hội. Kết quả cho thấy các hoạt
động chuyên môn CTXH đã có vai trò tác động rất tích cực trong thúc đẩy
chất lượng của quá trình điều trị bằng methadone cho người nghiện.
2.2.1. Kết quả thực hiện hoạt động tham vấn
Tại 02 CSĐT Methadone được điều tra, với tổng số 5 nhân viên CTXH
thường xuyên thực hiện tham vấn, giáo dục nhóm cho NNMT trước khi tham
gia điều trị thông qua các buổi giáo dục nhóm lần 1, lần 2 và lần 3 để NNMT
nắm được các thông tin liên quan đến chương trình điều trị cũng như những
nội quy, quy định của cơ sở; trong quá trình điều trị, tiến hành tham vấn rà
soát (định kì 1 lần/3 tháng đối với NNMT điều trị từ 2 năm trở lên và 1 lần/
tháng đối với NNMT điều trị dưới 1 năm); tham vấn dương tính đối với các
NNMT dương tính với heroin và tham vấn tuân thủ điều trị với các NNMT bỏ
liều không lý do; tham vấn giảm liều và theo dõi NNMT hoàn thành chương
trình (trong 6 tháng kể từ khi hoàn thành chương trình điều trị). Với tần suất
như trên, trong những năm qua đã thực hiện được trên 2.000 lượt tham vấn cá
nhân, 1.200 lượt NNMT tham dự các buổi tham vấn nhóm và đặc biệt là thực
hiện tham vấn cho những NNMT đang giảm liều và đã kết thúc chương trình
điều trị (tham vấn tại gia đình, tham vấn qua điện thoại), cụ thể thống kê như
44
sau:
1453
980
860
440
430
215
1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0
CSĐT Methadone số 1
CSĐT Methadone số 2
Tư vấn cá nhân
Tư vấn nhóm
Tư vấn giảm liều
Biểu đồ 2.2: Lũy tích số lƣợt tham vấn
(Nguồn: Báo cáo điều trị Methadone)
Nhìn số liệu bảng trên cho thấy việc tham vấn tâm lý luôn được diễn ra
liên tục, thường xuyên. Ngoài ra, có những NNMT gặp vấn đề cần phải thực
hiện việc quản lý ca thì việc tham vấn sẽ được thực hiện nhiều hơn, kết hợp
cùng với can thiệp gia đình qua gọi điện thoại trao đổi hoặc trực tiếp tới thăm
hộ để cùng tập trung trợ giúp NNMT giải quyết vấn đề.
45
Hình ảnh 2.1. Quang cảnh buổi tham vấn nhóm NNMT và gia đình
Một bố của NNMT chia sẻ: “Trước đây, nó nghiện heroin rồi thì ăn rồi
chỉ có ngủ, không làm gì, ngủ xong thì lại dậy, lại vật vã và lại đi kiếm tiền để
sử dụng. Từ khi đi uống cái này rồi thì cảm thấy khỏe ra và đi uống về thì còn
làm được việc cho gia đình, cả tôi cũng được người ta (nhân viên CSĐT) đến
tận nhà để tham vấn” (PVS_bố NNMT điều trị 3 năm).
Những hành động tham vấn tâm lý thường xuyên và kịp thời của các
nhân viên CTXH đã góp phần quan trọng trong việc giảm sử dụng ma túy
trong các NNMT theo thời gian.
60
49.0
50
37.0
40
28.4
30
20
10
0
<= 1 năm Từ 1 đến 2 năm Trên 2 năm
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ sử dụng Heroin của NNMT trong 30 ngày qua
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Để giảm hành vi sử dụng ma túy cho NNMT trong quá trình điều trị
cần có sự phối hợp của nhiều hoạt động và hoạt động tham vấn tâm lý là một
yếu tố quan trọng bởi vì nó giúp cho NNMT nâng cao năng lực giải quyết vấn
đề, qua tham vấn họ được cung cấp các kỹ năng dự phòng tái nghiện đặc biệt
46
là các kiến thức về việc đối phó với cơn thèm nhớ hay kỹ năng từ chối.
Một nhân viên CTXH chia sẻ: “Trước kia, người ta (NNMT), không quan
tâm gì đến gia đình vợ con nhưng bây giờ họ đã quay trở về trở con đi học, đưa
vợ đi làm, quay trở về cùng bố mẹ làm vườn, làm trang trại, thậm chí vay vốn
làm ăn. Chỉ có từ lúc tham gia cai nghiện bằng thuốc methadone thì người ta
mới làm được việc đấy, nếu vẫn dính đến ma tuý thì ngày hôm nay phải bằng
mọi cách, người ta đi vay, đi mượn, có thể đi trộm cắp ở đâu đấy miễn sao có
được tiền để chơi ma tuý.” (PVS_Cán bộ methadone, CSĐT số 1)
Kể cả người bệnh, họ cũng cảm nhận được sự thay đổi trong cuộc sống
của họ, các mối quan hệ gia đình và xã hội đã khác đi, dần được cải thiện hơn
kể từ khi tham gia điều trị: “Vợ anh và cả các nhân viên ở cơ sở cũng động
viên anh nhiều lắm, động viên chồng để quyết tâm uống thuốc này lâu
dài…rồi trong cuộc sống từ khi anh đi điều trị thì cũng sắm sửa cho anh
nhiều thứ…” (PVS_NNMT methadone_36 tuổi)
Sức khỏe được cải thiện, làm được nhiều điều mà lúc còn dùng ma túy
không thể làm được: “Từ cái ngày uống methadone vào thì sức khỏe của
mình nó tốt hơn nhiều, mình làm được hết công việc gia đình từ nuôi lợn, làm
nương và đi làm bốc vác thêm. Mình uống methadone thì mình không cảm
thấy vật vã, không còn thèm ma túy như trước đây nữa. Trước đây, dù mưa
gió thế nào mình cũng phải tìm cách có tiền để mua ma túy sử dụng. Rất mệt
mỏi.” (PVS_NNMT methadone, 42 tuổi)
2.2.2. Kết quả thực hiện hoạt động hỗ trợ vay vốn, việc làm
Quan sát kỹ hơn số liệu từ Bảng 2.2. tại chỉ số ở mục 7, 8 và 9, tỷ lệ
người có công việc được trả lương của các NNMT đạt tới hơn 50%, thậm chí
tỷ lệ người có thu nhập trong 6 tháng lên tới 98%, một trong các nguyên nhân
là do có khá nhiều NNMT làm các công việc thời vụ không ổn định như thợ
xây hoặc bốc vác hàng hóa tại các cửa khẩu. Thu nhập bình quân của các
NNMT cao hơn so với mức thu nhập đầu người ở nước ta lên tới 6,4
47
triệu/tháng.
Trong những năm qua, các nhân viên CTXH đã liên kết cùng với Trung
tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh để lấy
thông tin về việc làm, tạo lập “Bảng thông tin việc làm” tại cơ sở để các
NNMT được biết, cùng với đó là liên kết cùng với các doanh nghiệp trên địa
bàn để tuyển dụng NNMT đang điều trị Methadone. Thống kê từ khi triển
khai, các nhân viên CTXH đã giới thiệu việc làm được cho 193 NNMT tại cả
02 cơ sở điều trị.
Bên cạnh đó, hoạt động kết nối NNMT với các tổ vay vốn tín dụng trên
địa bàn thành phố Lào Cai để NNMT được tiếp cận với nguồn vốn theo Quyết
định 29/2014/QĐ-TTg. Trong năm 2016 và 2017, khi chương trình này được
triển khai ở thành phố Lào Cai, CSĐT Methadone đã phối hợp cùng Ngân
hàng chính sách xã hội và các UBND xã, phường của thành phố cho 25
NNMT (hộ gia đình) vay vốn thành công, mỗi hộ được vay 30 triệu đồng.
Trong suốt quá trình, các hộ gia đình đều được nhân viên tham vấn của cơ sở
hỗ trợ, hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục đích, nhiều
NNMT nhờ có số vốn này mà hạnh phúc gia đình được cải thiện, con cái
được quan tâm hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn. Cùng với đó, NNMT được
vay vốn cũng tuân thủ điều trị tốt hơn, các chỉ số kết quả điều trị đều được cải
thiện, có NNMT từng bước giảm liều và hoàn thành điều trị, được Cơ sở trao
bằng khen vì đã hoàn thành xuất sắc quá trình điều trị.
Tiểu biểu trong đó là NNMT BVC phường Bắc Lệnh, TP. Lào Cai.
Năm 2016, anh BVC được nhân viên CTXH tham vấn về việc vay vốn, sau
khi bàn bạc với gia đình, anh được hỗ trợ vay vốn thành công 30 triệu đồng,
với số tiền này gia đình anh đã dùng 20 triệu để mua 1 con bò giống. Sau
khoảng hơn 1 năm gia đình anh đã có thêm 1 con bê con và bò mẹ lại sắp đẻ
thêm lứa nữa. Còn 10 triệu đồng còn lại anh đã bàn với bố mẹ mua 100 cây
mít thái và 100 cây bưởi trồng trên căn đồi có diện tích 1 ha của gia đình. Đến
48
nay đã hơn một năm, trồng cây mít và bưởi sinh trưởng và phát triển tốt, dự
tính 2 năm nữa cây mít ra quả sẽ đảm bảo cho anh và gia đình có nguồn thu
nhập ổn định.
Hình ảnh 2.2. Quang cảnh gia đình anh BVC và buổi tham vấn gia
đình của tham vấn viên
Từ khi được vay vốn có việc làm ổn định, anh BVC cũng điều trị
methadone tốt hơn, anh đang trong giai đoạn giảm liều với sức khỏe, tinh thần
được cải thiện rõ rệt, anh đã lấy lại niềm tin của gia đình, hàng xóm, láng
giềng. Anh đã thành tấm gương tiêu biểu trong những người vay vốn cải thiện
cuộc sống, anh vinh dự được lãnh đạo Cục phòng chống tệ nạn xã hội đến
thăm hỏi và động viên.
2.2.3. Kết quả thực hiện hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức
Việc nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của tệ nạn ma túy và
lợi ích của chương trình điều trị Methadone là vô cùng quan trọng. Không
những giúp giảm số người mắc vào ma túy vì thiếu hiểu biết mà còn giúp cho
cả những người đang cai nghiện ma túy nói chung và người đang điều trị bằng
Methadone nói riêng được cộng đồng, xã hội nhìn nhận đúng đắn hơn, giảm
49
bớt kỳ thị.
Kể từ năm 2013 đến nay, các nhân viên CTXH thuộc CSĐT Methadone
đã phối hợp với Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội tỉnh đã tổ chức 94 buổi
tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho gần 40.000 lượt người nghe; phát hành
48.000 tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền về tác hại của ma túy và lợi ích của việc
điều trị nghiện bằng thuốc Methadone giúp cho quần chúng, nhân dân hiểu rõ
hơn về những loại ma túy phổ biến hiện nay, đặc điểm nhận dạng và tác hại
của chúng, qua đó giảm số người mắc nghiện mới. Đồng thời giới thiệu
chương trình điều trị bằng thuốc Methadone, vận động người nghiện các chất
dạng thuốc phiện tham gia điều trị. Tới thời điểm 31/12/2018 đã vận động
được 3.009 người nghiện tự nguyện đăng ký tham gia điều trị Methadone.
Đồng thời, CSĐT Methadone cũng thường xuyên tổ chức họp giao ban
lấy ý kiến đồng thuận với các xã, phường về triển khai dự án điều trị bằng
thuốc Methadone và tổ chức 1 buổi tổng kết cuối năm để tuyên dương NNMT
có thành tích điều trị tốt với sự tham dự của đại diện lãnh đạo xã, phường,
công an, cán bộ phụ trách cai nghiện ma túy của phường đã tăng cường sự
trao đổi thông tin 2 chiều giữa UBND các xã, phường với CSĐT về tình hình
điều trị của NNMT, nâng cao công tác phối hợp giữa CSĐT với UBND các
xã, phường và NNMT, gia đình NNMT được thường xuyên, chặt chẽ, giúp
NNMT nâng cao hiệu quả điều trị, hòa nhập cộng đồng tốt hơn.
2.2.4. Kết quả thực hiện hoạt động kết nối nguồn lực
Xuất phát từ thực tế còn một số NNMT trong quá trình điều trị vẫn còn
sử dụng ma túy, khi các lực lượng chức năng kiểm tra thì kết quả xét nghiệm
nước tiểu dương tính với ma túy nên bị đưa vào cai nghiện tại Nhà Cai nghiện
xã, phường dẫn tới chương trình điều trị bị gián đoạn. Sau khi hoàn thành thời
gian cai nghiện tại xã, phường một số người đã quay lại CSĐT Methadone để
bắt đầu điều trị lại, một số khác đã tái nghiện ma túy.
Để giải quyết vấn đề trên, dựa trên quy định mới về điều trị Methadone
50
tại Quyết định số 90/2016/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 01/7/2016 thay thế
cho nghị định 96/2012/NĐ-CP, các nhân viên CTXH đã tham mưu cho ban
lãnh đạo CSĐT Methadone trình Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh
ban hành kế hoạch số 23/KH-SLĐTBXH ngày 17 tháng 7 năm 2017 về việc
tổ chức điều trị Methadone cho người đang cai nghiện tại các nhà cai nghiện
xã, phường trên địa bàn thành phố Lào Cai. Theo đó, các nhân viên CTXH
của CSĐT Methadone cùng với Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh đã tổ
chức 16 buổi họp đồng thuận với lãnh đạo xã, phường, công an, cán bộ quản
lý nhà cai nghiện tại 16 xã, phường trên địa bàn thành phố.
Kết quả từ khi thực hiện đến nay đã tổ chức điều trị cho 48 NNMT tại
các nhà cai nghiện, trong số đó có người là NNMT đang điều trị Methadone
bị đưa vào Nhà Cai nghiện, có người là học viên Nhà cai nghiện khi biết đến
chương trình đã tự nguyện đăng ký tham gia.
Hình ảnh 2.3. Cấp phát thuốc cho NNMT tại Nhà cai nghiện phường.
Từ thành công trên, nhân viên CTXH tiếp tục tìm hiểu các văn bản quy
định của pháp luật về điều trị Methadone để áp dụng vào thực tiễn, trợ giúp
cho những NNMT đang điều trị được thuận lợi, xuyên suốt, nâng cao hiệu
quả cai nghiện ma túy.
Đến tháng 10 năm 2017, sau một sự việc thực tiễn của 1 NNMT bị tai
nạn ngã gãy chân, không thể đến CSĐT để uống thuốc. Cả NNMT và gia đình
đều rất mong muốn được tiếp tục điều trị, bởi vì biết rằng nếu không được
51
uống thuốc Methadone thì NNMT sẽ quay trở lại sử dụng ma túy. Trong hoàn
cảnh đó, các nhân viên CTXH đã thực hiện kết nối giữa CSĐT với gia đình
NNMT, chính quyền địa phương, tháo gỡ những vướng mắc để NNMT được
điều trị tại nhà, thực hiện một việc từ trước tới nay chưa từng xảy ra ở tại bất
kỳ CSĐT Methadone nào.
Để làm được điều này, đầu tiên nhân viên CTXH tiếp thu ý kiến,
nguyện vọng của gia đình NNMT. Tiếp đó, dựa trên các quy định của pháp
luật để tham mưu cho lãnh đạo Cơ sở về việc điều trị tại nhà cho NNMT. Căn
cứ vào đó, lãnh đạo Cơ sở cùng với nhân viên CTXH, bác sỹ, nhân viên hành
chính của CSĐT Methadone đã tới tận nhà NNMT cách cơ sở 17km (đường
đồi vùng cao) để khám bệnh, thẩm định điều kiện để điều trị tại nhà theo quy
định của pháp luật. Cuối cùng sau những cuộc họp, CSĐT Methadone đã thực
hiện điều trị tại nhà cho NNMT trên trong 2 tháng NNMT không thể tới Cơ
sở điều trị.
Hình ảnh 2.4. Bác sỹ CSĐT Methadone tới khám tại gia đình NNMT
Tới nay, CSĐT Methadone không chỉ hình thành các quy trình điều trị
cho NNMT tại các Nhà Cai nghiện xã, phường mà còn điều trị cho các
NNMT đang điều trị nội trú tại các Cơ sở y tế như bệnh viện tỉnh, bệnh viện
thành phố, các NNMT đang làm các công việc cần giữ bí mật điều trị
52
Methadone.
2.2.5. Kết quả thực hiện hoạt động biện hộ, bảo đảm quyền lợi của
người tham gia cai nghiện ma túy tại Cơ sở
Quyền lợi của người nghiện ma túy và những người điều trị Methadone
vần còn nhiều điểm bất cập do di chứng của quan niệm người nghiện là tội
phạm, là tệ nạn xã hội từ giai đoạn nhận thức trước đó để lại. Do vậy, dù cho
các quy định của chính phủ là: “Không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người nghiện chất dạng thuốc phiện
không vi phạm các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà tự
nguyện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện; không lập hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người
đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện” [3].
Nhưng thực tế, lý do bỏ trị thì bị bắt đi cai nghiện chiếm 13,2% đứng
thứ 4.
Bảng 2.4. Lý do bỏ trị của NNMT giai đoạn 2013 - 2016
STT Lý do bỏ trị Tỷ lệ
1 Chuyển đi nơi khác sống/ làm việc 29.6%
2 Vẫn còn sử dụng ma túy 20.4%
3 Cảm thấy không còn phụ thuộc vào ma túy 15.3%
4 Bị bắt đi cai nghiện 13.2%
5 Không đủ chi phí để tiếp tục điều trị 5.1%
6 Có vấn đề sức khỏe phải nhập viện 5.1%
7 Bị bắt đi tù 3.1%
8 Chuyển sang hình thức cai khác 2.0%
9 Không rõ/ không biết lý do 6.1%
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Mặc dù nắm được quy định của pháp luật, nhưng khi có NNMT bị bắt
53
vì khi kiểm tra xét nghiệm nước tiểu có dương tính với Heroin thì công tác
biện hộ, bảo vệ quyền lợi cho những NNMT điều trị Methadone vẫn còn gặp
rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nhân viên CTXH đã tham mưu, đề xuất với
lãnh đạo CSĐT, Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội tỉnh tổ chức các buổi họp
đồng thuận tại các xã, phường trên địa bàn thành phố; ký kết các văn bản tằng
cường hợp tác giữa UBND các xã, phường với CSĐT Methadone. Theo đó,
người tham gia điều trị Methadone dưới 3 tháng khi kiểm tra nước tiểu mà
dương tính thì sẽ không áp dụng các biện pháp cai nghiện khác để tiếp tục
tham gia điều trị Methadone, còn NNMT đã điều trị từ 3 tháng trở lên mà vẫn
còn dương tính với heroin thì sẽ áp dụng các biện pháp cai nghiện tại xã
phường hoặc lập hồ sơ đi cai nghiện bắt buộc theo quy định.
50
44.1
43.7
38.8
40
30
20
10
0
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ NNMT bỏ điều trị theo từng năm
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Kể từ đó, khi can thiệp bảo vệ quyền lợi cho NNMT Methadone, các
nhân viên CTXH đã dễ dàng hơn rất nhiều, tỷ lệ can thiệp thành công được
nâng cao. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc giảm 4,9% tỷ lệ bỏ trị
của NNMT từ 43.7% năm 2017 xuống còn 38,8% năm 2018, hiệu quả gấp
hơn 12 lần so với giai đoạn 2016 – 2017 chỉ giảm được 0,4% so với năm
54
trước.
Hình ảnh 2.6. Buổi họp của Chi cục PCTNXH tỉnh, CSĐT Methadone với
lãnh đạo, công an, cán bộ cai nghiện của UBND phường Bình Minh
Khi nhìn nhận chất lượng các hoạt động của CTXH trong hỗ trợ CNMT
tại các CSĐT Methadone từ phía người thụ hưởng, ở đây là đánh giá của
NNMT về từng hoạt động cụ thể, với mức điểm thấp nhất là 1 cho đánh giá
kém hiệu quả, 2 điểm cho hoạt động yếu, 3 điểm cho hoạt động hiệu quả ở
mức trung bình, 4 điểm cho hoạt động ở mức tốt và 5 điểm cho hoạt động ở
mức rất tốt. Thu được kết quả như sau:
Bảng 2.5. So sánh kết quả hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy tại các CSĐT Methadone
STT Tên hoạt động Điểm trung bình Thứ bậc
1 Tham vấn tâm lý 3,8 2
2 Hỗ trợ vay vốn, việc làm 4,2 1
3 Truyền thông nâng cao nhận thức 3,1 5
4 Kết nối nguồn lực 3,7 3
5 Biện hộ, bảo vệ thân chủ 3,5 4
Tổng 3,66
55
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Tất cả NNMT tại CSĐT Methadone đều được tiếp cận với dịch vụ
tham vấn tâm lý, số NNMT có nhu cầu về vay vốn hoặc việc làm thì được
tiếp cận nhiều hơn với hoạt động hỗ trợ vay vốn, việc làm của tham vấn viên
và có nhiều NNMT sau khi tiếp nhận hỗ trợ đã tìm kiếm được việc làm hoặc
được hỗ trợ để vay vốn tạo việc làm. Do vậy, NNMT đánh giá rất cao hoạt
động hỗ trợ việc làm, vay vốn với số điểm trung bình là 4,2/5. Trong khi đó,
hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức chủ yếu thực hiện tại cộng đồng
dân cư nơi NNMT đang sinh sống nên có nhiều NNMT đang tham gia điều trị
tại CSĐT Methadone chưa tiếp cận được nên được đánh giá thấp nhất 3,1/5.
Tương tự như vậy là hoạt động biện hộ bảo vệ thân chủ và kết nối nguồn lực
chỉ khi nào bệnh nhân gặp phải tình huống như bị công an bắt, gặp phải vấn
đề không thể đến uống thuốc tại cơ sở thì mới sử dụng đến 2 dịch vụ này nên
sự đánh giá của NNMT cho 2 dịch vụ trên ở mức trung bình, lần lượt là 3,5/5
và 3,7/5. Nhìn chung, NNMT đánh giá các hoạt động CTXH được tiếp nhận ở
mức trên khá với điểm số trung bình là 3,66/5.
2.3. Thực trạng một số yếu tố ảnh hƣởng đến Công tác xã hội trong hỗ
trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở Tp Lào Cai
2.3.1. Ảnh hưởng từ yếu tố chủ quan
2.3.1.1. Ảnh hưởng từ động cơ tham gia điều trị Methadone.
Một số nghiên cứu về động cơ con người thường đề cập tới hai dạng
động cơ là động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. Trong cai nghiện ma túy,
động cơ từ bên trong của người nghiện chính là những yếu tố thúc đẩy hành
vi từ bỏ ma túy xuất phát từ nhu cầu bản thân người nghiện như cải thiện sức
khỏe tự thân, thay đổi tình trạng một mối quan hệ như quan hệ vợ - chồng, bố
mẹ - con cái hay đơn giải là cải thiện hoàn cảnh kinh tế của bản thân họ. Còn
động cơ bên ngoài liên quan đến những tác động từ yếu tố bên ngoài như là sự
56
ép buộc của gia đình, người thân hay yêu cầu của chính quyền địa phương…
100
98.7
80
69.3
60
40
19.8
18.2
20
5.3
3.8
0
Tự tham gia điều trị
Theo yêu cầu của gia đình
Tránh phải đi cai bắt buộc
Do sức khỏe bị giảm sút
Do không đủ khả năng kinh tế
Theo yêu cầu của chính quyền
Biểu đồ 2.5: Động cơ NNMT tham gia điều trị Methadone
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Đa số người nghiện ma túy tham gia điều trị Methadone do nhu cầu của
bản thân chiếm tới 98.7%. Song số tham gia không tự nguyện vì các lý do ép
buộc bên ngoài cũng rất cao như là do mong muốn của gia đình chiếm tới
69,3 %, còn lại là do yêu cầu của địa phương, tránh đi cai bắt buộc... Qua đó,
thấy rằng phần lớn NNMT nhận thức được vấn đề của họ và họ sẵn sàng điều
trị sẽ thôi thúc NNMT có những hành vi cần thiết như đi uống thuốc
Methadone mỗi ngày và tham gia đầy đủ các buổi tham vấn tại cơ sở. Họ sẽ
đầu tư nhiều nỗ lực để có thể từ bỏ ma túy, sẵn sàng thay đổi công việc để tạo
môi trường xung quanh tốt hơn hay đổi số điện thoại để hạn chế giao lưu với
bạn nghiện.
“Bản thân tôi tham gia vào điều trị là hoàn toàn tự nguyện, tự bản thân
tôi mong muốn được đi điều trị chứ chẳng có bắt ép cả. Nên mình thấy nếu đã đi
uống Methadone rồi thì phải đi uống đầy đủ và không sử dụng lại ma túy nữa”.
57
(PVS Nam, 40 tuổi, CSĐT Methadone số 1)
“Kinh nghiệm thực tế làm việc 5 năm với NNMT, tôi thấy rằng phần
lớn những NNMT có động cơ, mục tiêu điều trị tốt từ khi bắt đầu tham gia
điều trị thì những người đó sẽ tuân thủ điều trị, tham gia tham vấn rất tốt, đi
uống thuốc đầy đủ, có kết quả điều trị tốt và ngược lại”
(PVS Nhân viên tham vấn, CSĐT Methadone số 1)
Chính động lực muốn từ bỏ ma túy và cải thiện cuộc sống của NNMT
sẽ thúc đẩy sự liên hệ của họ với các nhân viên CTXH, mong muốn được học
hỏi kiến thức và kỹ năng để từ nâng cao năng lực bản thân về cai nghiện ma
túy sẽ thúc đẩy hiệu quả của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các
CSĐT Methadone.
2.3.1.2. Ảnh hưởng từ tình trạng việc làm
Như đã nếu tại Bảng 2.2. về tỷ lệ NNMT có công việc được trả lương
của các NNMT đạt tới hơn 50% (được hiểu là có công việc thu nhập ổn định,
thường xuyên) và số người có thu nhập trong 6 tháng lên tới 98%. Theo khảo
sát về tình trạng việc làm trước khi NNMT tham gia điều trị Methadone và
60
52.4
44.7
50
43
35
40
25.3
30
18
20
10
0
Có việc làm ổn đinh
Không có việc làm
Có việc làm nhưng không ổn định
Trước điều trị
Sau điều trị
sau khi tham gia điều trị Methadone như sau:
Biểu đồ 2.6. Tình trạng việc làm của NNMT trƣớc và sau khi tham
gia điều trị Methadone
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Tỷ lệ bệnh nhân có việc làm sau khi tham gia điều trị tăng dần so với
58
giai đoạn trước điều trị. Nếu như trước khi tham gia điều trị Methadone, tỷ lệ
NNMT có việc làm ổn định chỉ chiếm 43% thì hiện tại tỷ lệ này đẵ tăng lên
52,4%, do sau khi tham gia điều trị sức khỏe của NNMT được ổn định hơn,
không còn vướng vào những cơn “phê” do ma túy gây ra khiến cho họ không
thể làm việc bình thường, hơn thế nữa sau khi tham gia điều trị, NNMT cũng
không còn cả ngày phải lo kiếm tiền gấp để mua ma túy. Những điều này đã
giúp NNMT tìm được những công việc làm có thu nhập ổn định như làm lái
xe, phục vụ nhà hàng, có người còn được tuyển dụng vào làm công nhân tại
những công ty lớn như Công ty Khai thác mỏ Apatit, Nhà máy Đồng Tuyển…
NNMT sau khi tham gia điều trị cũng đủ sức khỏe để tham gia làm các công
việc thời vụ như bốc dỡ hàng hóa tại các bến biên giới, nên tỷ lệ NNMT có
việc làm không ổn định cũng tăng lên từ 25,3% trước điều trị lên 44,7% hiện
tại và giảm tỷ lệ NNMT không có việc làm từ 34,7% trước điều trị xuống còn
18% hiện tại không có việc làm.
Bên cạnh đó, NNMT không có việc làm dẫn tới họ không có đủ kinh
phí để tiếp tục tham gia điều trị lên tới 5,1%. Do vậy, việc làm với NNMT
giúp họ có cơ hội nhiều hơn để tiếp cận với các dịch vụ điều trị, đồng thời
giúp họ có kinh phí để mua ma túy, giảm tỷ lệ phát sinh các hành vi vi phạm
pháp luật do ma túy gây ra như trộm cắp, cướp giật, buôn bán ma túy…
Ngoài ra, có việc làm khiến cho NNMT không có nhiều thời gian rảnh
rỗi để tụ tập, giao lưu với những bạn nghiện khác, từ đó giúp NNMT tách ra
khỏi nhóm bạn nghiện – một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi tái
nghiện. Đồng thời, giảm bớt thời gian nhàn rỗi của NNMT để họ không suy
nghĩ, nhớ tới ma túy, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc NNMT có tái sử
dụng ma túy hay không.
Một vợ của NNMT cho biết: “Từ ngày chồng em đi uống thuốc thì
cũng thấy tu chí làm ăn, không thấy tụ tập hoặc thỉnh thoảng đi đâu mất như
thời gian trước đây. Mấy tháng mới điều trị thì em biết anh ấy thỉnh thoảng
có dùng. Còn sau này thì không thấy anh ấy sử dụng. Em biết thế vì tiền hàng
59
của em dôi ra nhiều hơn” (PVS_Vợ NNMT methadone, 36 tuổi)
Việc làm có cả lợi ích kinh tế và phi kinh tế để phục hồi cho những
NNMT, bởi vì nó cho họ một cơ hội để được kết nối với xã hội và hòa nhập
với những người sử dụng ma túy, những người này có chức năng như những
tấm gương để người nghiện phấn đấu vương lên trở thành một người có vai
trò quan trọng và uy tín trong xã hội.
NNMT chia sẻ: “Trước đây khi mình đang sử dụng ma túy thì cũng có
nhiều cái miệt thị, nhiều người không ưa mình, rồi gia đình buồn. Nhưng từ
khi mình dùng methadone rồi đi làm được, có tiền mang về nhà thì mình thấy
khác đi. Gia đình mình vui vẻ hơn, rồi mình tự tin quan hệ bạn bè và mình
gần gũi với mọi người hơn”. (PVS_NNMT MMT, 33 tuổi)
Đánh giá ở chiều hướng khác, đặc biệt quan trọng đối với những người
nghiện ma túy là họ có thể bị kỳ thị và phân biệt đối xử vì lịch sử sử dụng ma
túy của họ. Hơn nữa, việc này có thể ảnh hưởng rất lớn đối với người nghiện
như cam kết điều trị và hành vi tái sử dụng ma túy.
Nhân viên CTXH chia sẻ: “Có trường hợp NNMT điều trị được 3 năm
rồi, quá trình điều trị rất tốt nên mình giới thiệu việc làm cho anh ấy cho
công ty giầy dép Bitits và được nhận vào làm vị trí thủ kho. Sau đó được 1
tháng công ty điều tra nhân thân ở phường và biết anh ta từng nghiện ma túy
thì đã buộc thôi việc anh này với lý do là quy chế của công ty. Tiếp đó, mình
giới thiệu công việc mới cho anh ấy làm bồi bàn cho một nhà hàng và được
nhận. Trong một lần tiếp khách là người quen của nhà hàng nhận ra anh này
từng là người nghiện ma túy nên đã nói chuyện với chủ cửa hàng và đuổi việc
anh này ít lâu sau đó. Khiến cho anh ta bị thất vọng, chán nản tìm sử dụng lại
ma túy.” (PVS_Nhân viên CTXH, CSĐT Methadone số 2)
2.3.2. Một số yếu tố khách quan
2.3.2.1. Sự ảnh hưởng từ nhân viên thực hiện Công tác xã hội
Tại 02 CSĐT Methadone khảo sát, có tổng cộng 05 nhân viên tham
60
vấn, cụ thể như sau:
Bảng 2.6. Đặc điểm nhân viên công tác xã hội tại các cơ sở điều tri
methadone
Tổng
STT Tiêu chí Tỷ lệ
1 2
3
Số lượng Chuyên môn Số năm kinh nghiệm Công tác xã hội Quản trị nhân lực Dưới 1 năm Từ 1 đến 3 năm Từ 3 năm trở lên CSĐT Mehadone số 1 3 2 1 0 3 CSĐT Methadone số 2 2 1 1 0 2 Số người 5 3 2 0 0 5
60 40 0 0 100 (Nguồn: Khảo sát 2019)
Các nhân viên tham vấn tại các CSĐT Methaone đều có trình độ cử
nhân và nghành học đúng với trị trí được tuyển dụng, 03 người học CTXH thì
làm tham vấn viên tâm lý, trị liệu thể chất và 02 người học quản trị nhân lực
làm tham vấn viên dạy nghề và việc làm. Với số lượng nhân viên tham vấn
như vậy đã đạt 200% số lượng tối thiểu theo quy định, tính trung bình hiện
nay mỗi nhân viên tham vấn quản lý khoảng 80 NNMT. Đồng thời, nhân viên
tham vấn ngoài làm tham vấn tâm lý còn phải thực hiện truyền thông và các
nhiệm vụ đột xuất khác theo sự phân công của trưởng cơ sở. Trong môi
trường làm việc với người nghiện ma túy khá phức tạp, lại đặc thù của đơn vị
phải làm việc 365/365 ngày trong năm nên thời gian nghỉ ngơi ít. Những điều
này khiến cho áp lực lên nhân viên CTXH tại cơ sở là rất lớn, có thể khiến
cho sức lực cũng như tâm trí của họ khi làm việc không ở mức cao nhất khiến
cho hiệu quả CTXH trong hỗ trợ cai nghiện bị ảnh hưởng. Một điểm đặc biệt
khác của CSĐT Methadone tại thành phố Lào Cai là có sự tham gia của người
dân tộc thiểu số, do vậy rào cản ngôn ngữ, văn hóa là không thể tránh khỏi.
“Thực ra lúc đầu mới lên đây thì mình không hiểu được tiếng địa
phương… tiếng của đồng bào ở đây, rồi cả tập tục văn hóa của họ nữa nên
61
người ta nói mình cũng không hiểu… Thế cho nên là đối với những NNMT mà
họ không nói được tiếng Kinh nhiều thì mình phải mời anh NNMT nào thông
hiểu tiếng phổ thông họ nói lại cho mình (phiên dịch”) (PVS_Cán bộ
methadone tại CSĐT Methaone số 2)
Tuy vậy, các nhân viên tham vấn của cơ sở vẫn đạt được sự hài lòng
của NNMT ở mức trên trung bình, điều này được minh chứng khi sử dụng
thang đo sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ (TCU Engagement in
Treatment), có kết quả như sau. [25]
50
40.9
39.7
40
34.9
30
20
10
Hài lòng về điều trị
Hỗ trợ đồng đẳng
Dịch vụ tư vấn
Biểu đồ 2.7. Mức độ hài lòng của NNMT về dịch vụ
(Nguồn: Khảo sát 2019)
Với số điểm là 40,9 điểm và 39,7 điểm của cột “Hài lòng về dịch vụ”
và “dịch vụ tham vấn” cao hơn khoảng 10 điểm điểm so với số điểm trung
bình là 30. Điều này cho ta biết rằng các NNMT khi thụ hưởng dịch vụ tham
vấn tại CSĐT Methadone đều hài lòng với dịch vụ ở mức cao vừa phải.
Có thể nói, các yếu tố của người nhân viên tham vấn có mối quan hệ
cùng tiến với sự hài lòng về điều trị của các NNMT. Điều này cho thấy ý
nghĩa vô cùng quan trọng của những nhân viên tham vấn/CTXH trong quá
trình hỗ trợ cai nghiện ma túy cho NNMT tại các CSĐT Methadone.
2.3.2.2. Sự ảnh hưởng từ năng lực đáp ứng của Cơ sở điều trị
62
* Ảnh hưởng từ cơ sở vật chất của CSĐT Methadone
02 CSĐT Methadone thuộc Sở Lao động – Thương binh và xã hội đều
là những cơ sở mới được thành lập trên cơ sở cải tạo lại các cơ quan đơn vị
cũ. Do vậy, các trang thiết bị và cơ sở vật chất tại 02 cơ sở này nhìn chung là
còn mới, đáp ứng các yêu cầu, đảm bảo công năng vận hành cung cấp dịch vụ
cho khoảng 500 NNMT với các phòng ban chuyên môn là phòng y tế điều trị,
hành chính – tổn hợp, Dược, Xét nghiệm, Văn thư – kế toán và Tham vấn –
truyền thông. Mỗi hàng tuần tổ chức họp chuyên môn từng phòng, cuối mỗi
tháng có buổi họp chuyên môn toàn cơ sở và 3 tháng sẽ họp 1 lần đánh giá
hoạt động chung của cả 2 cơ sở điều trị. Điều này giúp cho các phòng trong
cơ sở có sự liên hệ với nhau thường xuyên hơn, trợ giúp cho NNMT luôn
được xuyên suốt, nâng cao chất lượng dịch vụ của cơ sở nói chung và chất
lượng các hoạt động CTXh trong hỗ trợ cai nghiện nói riêng.
Kết quả khảo sát NNMT về mức độ hài lòng về chất lượng cơ sở cho
thấy NNMT hài lòng ở mức cao, gần như tuyệt đối về chất lượng dịch vụ của
cơ sở. Nhiều người trong số họ sẽ khuyên bạn tới cơ sở hiện tại để điều trị
hoặc quay lại cơ sở đang điều trị ngừng điều trị.
Bảng 2.7. Hài lòng về chất lƣợng cơ sở
Tự đánh giá Tỷ lệ
Cảm nhận về chất lượng chung của cơ sở điều trị 99.6 % Hài lòng & Tuyệt vời
Cảm nhận về tác dụng điều trị của Methadone 98.4% Hài lòng & Tuyệt vời
Khuyên bạn/ người có nhu cầu tới cơ sở hiện đang điều trị 99.0% Có & Chắc chắn có
Chọn lại cơ sở đang điều trị 97.5% Có & Chắc chắn có
63
(nguồn: Khảo sát 2019)
Tuy vậy, nhân lực của các CSĐT Methadone vẫn còn hạn chế khi phải
làm việc thường xuyên 365 ngày trong năm, nhiều nhân viên phải làm thêm
vượt quá 200 giờ/năm.
“Nếu như theo cái quy định của UBND tỉnh về cấp nhân sự đấy, thì chỉ
được năm cán bộ trên một cơ sở điều trị, và hai cán bộ trên một cơ sở cấp
phát thuốc. Đặc thù của điều trị methadone là mở cửa 365 ngày nên phải đào
tạo thêm cán bộ kiêm nhiệm để hỗ trợ. Tuy nhiên, một thách thức là nếu nhân
lực kiêm nhiệm thì để mà chuyên tâm mà làm thì cũng gặp rất nhiều khó khăn
vì họ quá nhiều việc.”
(PVS_cán bộ methadone 4, cán bộ quản lý chương trình)
* Ảnh hưởng từ sự quan tâm của lãnh đạo cơ sở
Được sự thấu hiểu và quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo CSĐT
Methadone và lãnh đạo Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội tỉnh (cơ quan chủ
quản) đã giúp cho các nhân viên CTXH có cơ hội được làm việc, triển khai
các hoạt động của mình.
“Lãnh đạo cơ sở mình có trình độ thạc sỹ về Công tác xã hội, nên rất
am hiểu về các hoạt động của bọn mình, tạo điều kiện cho bọn mình đi thăm
hộ hay đi truyền thông. Đôi khi, vừa là người hướng dẫn, vừa người giám sát
bọn mình… Chỉ đạo với đối tượng này phải làm cái gì, làm như thế nào luôn”
(PVS_Nhân viên CTXH tại CSĐT Methadone số 1)
Sự hiểu biết của xã hội về công tác xã hội nhìn chung là vẫn còn hạn
chế, nên trong quá trình làm việc nhiều nhân viên tham vấn còn chưa được sự
tôn trọng của NNMT, gia đình họ và cả đồng nghiệp.
“Có nhiều NNMT không biết về nhân viên công tác xã hội, khi mình
giải thích còn nghĩ mình là bác sĩ. Còn các bác sỹ của cơ sở thì lại nói với
mình là phòng Y vừa khám vừa tham vấn được, cần gì phải sang tận phòng
Tham vấn làm gì cho mất công.” (PVS_Nhân viên CTXH tại CSĐT
64
Methadone sô 1)
Chính vì vậy, sự thấu hiểu và quan tâm phát triển các hoạt động CTXH
của người lãnh đạo đối với nhân viên CTXH là rất quan trọng, có thể ảnh
hưởng mang tính quyết định tới CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các
CSĐT Methadone trong thể chế hiện tại.
Nếu không có sự thấu hiểu và quan tâm của lãnh đạo cơ sở thì rất khó
để những nhân viên tham vấn có điều kiện về thời gian và kinh phí để thực
hiện các hoạt động của mình. Thậm chí họ có thể bị căng thẳng thần kinh
hoặc “tủi thân” khi làm việc mà không được sự ghi nhận.
2.3.2.3. Sự ảnh hưởng từ gia đình của người nghiện ma túy
Trong các buổi tham vấn nhóm ban đầu, yêu cầu sự có mặt của gia đình
hoặc người thân của NNMT tham dự cùng. Tại đó, họ được cung cấp những
thông tin cơ bản về thuốc Methadone, chương trình đình trị và một số lưu ý
khi hỗ trợ cho NNMT tham dự Methadone tại gia đình. Đồng thời, gia đình
cũng tham dự các “Buổi họp mặt NNMT và gia đình NNMT” do các tham
vấn viên tổ chức khi các NNMT có kết quả xét nghiệm dương tính 2 tháng
liên tục và các NNMT có thành tích điều trị tốt trong tháng gần đây kết quả
xét nghiệm âm tính liên tục. Chưa dừng lại ở đó, trong trường hợp cần thiết
phải thực hiện quản lý ca thì tham vấn viên sẽ tổ chức tới thăm hộ, làm công
tác xã hội gia đình để giải quyết vấn đề nhằm trợ giúp NNMT điều trị tốt.
Ngoài ra, trong quá trình điều trị có NNMT nghỉ từ 3 ngày trở lên nhân viên
tham vấn sẽ gọi điện về cho gia đình để nắm bắt lý do và động viên NNMT
quay trở lại điều trị. Qua những việc làm trên, nhân viên tham vấn đã cố gắng
để huy động sự tham gia của gia đình vào việc hỗ trợ cho NNMT, giúp gia
đình hiểu về bệnh nghiện, giảm kỳ thị của các thành viên trong gia đình với
NNMT; nhân viên tham vấn còn cung cấp những lưu ý khi nói chuyện, cách
phản ứng khi phát hiện NNMT tái sử dụng ma túy để NNMT.
Sự quan tâm, động viên về cả mặt tinh thần và vật chất của gia đình đối
65
với NNMT có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhiều gia đình thời gian đầu còn
thường xuyên đi cùng NNMT tới cơ sở nhận thuốc, thời gian lên tới 2, 3 năm
cũng có.
“Cứ khi nào cháu đi uống thuốc thì hôm nào tôi cũng đi lên đây cùng,
kể cả ngày chủ nhật cháu nó bảo vẫn đi uống thuốc thì tôi cũng đi cùng với
cháu. Để cháu tự đi một mình, gia đình tôi chưa yên tâm. …thì mình cũng chỉ
biết động viên thôi, động viên khuyên bảo cháu đi uống thuốc, còn cái món
kia thì cứ bỏ từ từ thôi. Chỉ mong sao cháu uống cái này thành công, không
sử dụng ma túy nữa (PVS_Bố NNMT_67 tuổi)
Về phía NNMT, gia đình luôn là nguồn động viên tinh thần lớn lao
giúp họ vượt qua khó khăn. Đôi khi chỉ là những câu nói, hành động rất nhỏ
của các thành viên trong gia đình làm cho NNMT thấy được tin tưởng, được
an ủi cũng làm cho họ nỗ lực hơn để từ bỏ ma túy.
“Gia đình em vẫn hỗ trợ động viên tinh thần, ngoài ra nếu em có cảm
cúm, đau đầu, sốt là vẫn cho em đi khám bệnh viện. Thứ hai nữa là nhiều lúc
em nhớ, em đi uống thuốc về mệt mỏi là vẫn cho em tiền đi mua kẹo, mua quà
bánh linh tinh để quên đi. Mỗi lần như vậy, em lại tự nhủ phải cố gắng hơn để
không dính lại ma túy làm gia đình buồn” (PVS_NNMT methadone 29 tuổi)
Qua chia sẻ của NNMT, có thể thấy rằng sự động viên, an ủi của gia
đình đã cho anh ta thêm động lực, thêm cố gắng để không tái sử dụng ma túy.
Khi có niềm tin và niềm tin đó đủ lớn, nó sẽ chuyển hóa thành hành
động, đặc biệt là NNMT. Khi chúng ta cho họ đủ lý do để hành động, họ sẽ cố
gắng, nỗ lực hơn để làm được điều đó.
2.3.2.4. Sự ảnh hưởng từ chính sách, pháp luật về cai nghiện ma túy
Một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, với sự tham gia của nhiều ban
ngành vào công tác cai nghiện ma túy, thì vai trò “kim chỉ nam” của chính
sách, pháp luật là vô cùng quan trọng.
Quyết định 1008/QĐ-TTg là tiền đề cho việc triển khai, mở rộng
66
chương trình điều trị nghiện bằng Methadone ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh
Lào Cai nói riêng. Theo đó, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để triển
khai thực hiện như: Quyết định số 3889/QĐ-UBND ngày 26/12/2012 của
UBND tỉnh về việc phê duyệt dự án điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc
Methadone theo mô hình xã hội hóa, giai đoạn 2013-2020. Theo đó, CSĐT
Methadone đầu tiên của tỉnh Lào Cai đã ra đời, hoạt động và tháng 10 năm
2013. Trải qua đánh giá thực tiễn và những hiệu quả thiết thực mà dự án này
đem lại ngày 26/3/2015, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 66/KH-UBND
về việc triển khai điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone
trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2015-2020 và Kế hoạch số 167/KH-
UBND ngày 13/6/2016 về việc Kế hoạch mở rộng cơ sở cấp phát thuốc điều
trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone tỉnh Lào Cai năm 2016.
Từ đó mà 16 CSĐT, điểm cấp phát thuốc mới được triển khai đi vào hoạt
động điều trị cho hơn 2000 người nghiện ma túy trên địa bàn toàn tỉnh.
Cùng với nhiều quyết định, kế hoạch khác được UBND tỉnh ban hành
đã là cơ sở để các đơn vị liên quan phối kết hợp cùng nhau triển khai thực
hiện điều trị nghiện bằng thuốc Methadone trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó mà các
nhân viên CTXH mới được tuyển dụng và tham dự vào việc hỗ trợ cai nghiện
ma túy tại các CSĐT Methadone ở thành phố Lào Cai và các huyện khác trên
địa bàn tỉnh.
Ảnh hưởng từ Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của chính phủ tới công tác
điều trị nghiện bằng thuốc Methadone là vô cùng lớn. Nhờ có nghị định này,
các nhân viên CTXH mới có căn cứ để tham mưu với lãnh đạo cơ sở, chi cục
phòng chống tệ nạn xã hội tỉnh các chính sách, chế độ, dịch vụ cho NNMT
như: Ban hành kế hoạch 30/KH-SĐTBXH về việc triển khai điều trị
Methadone cho người bị áp dụng hình thức cai nghiện tại xã phường, rồi từ đó
tham mưu triển khai hoạt động điều trị Methadone tại nhà cho NNMT không
67
thể tham gia uống thuốc được, dịch vụ chuyển thuốc tới các cơ sở y tế như
bệnh viện đa khoa tỉnh. Thậm chí, đã thí điểm điều trị bảo mật cho những
người nghiện ma túy nhưng do tính chất công việc không thể tới cơ sở điều trị.
Không chỉ như vậy, những quy định của pháp luật về cai nghiện ma túy
còn là hành lang cho nhân viên công tác xã hội thực hiện hoạt động bảo hộ
NNMT khi bị bắt vì sử dụng ma túy trái phép. Nhờ đó, các nhân viên CTXH
mới có thể đưa ra phương thức hợp tác giữa Công an, ủy ban nhân dân các
phường, xã trên địa bàn thành phố với CSĐT Methadone trong việc hành xử
khi phát hiện người nghiện ma túy đang điều trị nghiện bằng thuốc
Methadone xét nghiệm nước tiểu dương tính với ma túy, cũng như việc phối
hợp giữa các bên để giúp đỡ NNMT tham gia điều trị bằng thuốc Methadone
tại cơ sở.
Quyết đinh 29/2014/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về chính sách hỗ
trợ vay vốn cho người nghiện ma túy hoàn thành chương trình cai nghiện và
người nghiện đang tham gia điều trị bằng thuốc Methadone là tiền đề quyết
định việc triển khai hoạt động hỗ trợ vay vốn, chuyển đổi việc làm của nhân
viên CTXH. Nhờ đó mà có cơ sở khi làm việc với ngân hàng chính sách tỉnh
để họ dự trù ngân sách để triển khai cho NNMT được vay vốn.
Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế tồn tại đến nay chưa được khắc phục
như là chế độ đãi ngộ cho nhân viên CTXH. Tiêu biểu như là phụ cấp độc hại
đối với nhân viên tham vấn chỉ là 30% (mức đối với người làm công tác hành
chính, phục vụ) trong khi các nhân viên CTXH làm việc như một người tiếp
xúc trực tiếp, nguy cơ lây nhiễm cao do thường xuyên phải tiếp xúc trực tiếp
với người nghiện, đối mặt với các bệnh như HIV hay lao có thể lây qua đường
hô hấp; những nguy hiểm tiềm ẩn khi người nghiện ma túy nóng giân, không
kiểm soát được hành vi. Điều này khiến cho nhân viên CTXH rất khó yên tâm
công tác bởi lương thấp, công việc nhiều (một người phải quản lý gần 100
68
người nghiện), mức độ nguy hiểm cao.
Tiểu kết chƣơng
Các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các Cơ sở
điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai được triển khai là:
tham vấn tâm lý, hỗ trợ vay vốn - việc làm, kết nối nguồn lực – dịch vụ,
truyền thông nâng cao nhận thức, biện hộ bảo vệ quyền lợi. Đây là những
hoạt động gắn liền với những vấn đề của NNMT đang gặp phải trong quá
trình cai nghiện tại các CSĐT Methadone. Qua quá trình điều tra và đánh
giá thực trạng đã cho thấy: Các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy đã thu được những kết quả tích cực, góp phần trợ giúp cho NNMT
tham gia điều trị nghiện bằng thuốc Methadone dần từ bỏ ma túy, xây dựng
cuộc sống mới, gia đình ấm lo và hạnh phúc; các hoạt động can thiệp của
nhân viên CTXH tại các CSĐT Methadone đã được NNMT, gia đình họ,
cùng với cộng đồng ghi nhận và đánh giá khá cao như là hoạt động tham
vấn tâm lý, hỗ trợ vay vốn – việc làm.
Trong quá trình can thiệp, hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy tại các CSĐT Methadone chịu ảnh hưởng từ một số yếu tố chủ quan và
khách quan. Những yếu tố này tác động tới hoạt động CTXH theo cả hướng
tích cực và tiêu cực. Vì vậy, người nhân viên CTXH phải nắm bắt và tận dụng
tối đa những thuận lợi mà yếu tố đó đem lại, đồng thời giảm thiểu những tác
động tiêu cực. Từ đó nâng cao hiệu quả các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai
nghiện ma túy. Bên cạnh đó, sự nhân thức của quần chúng nhân dân, thậm chí
là một số cán bộ, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức chính trị về Công tác xã hội
còn chưa cao, chưa hiểu rõ vai trò và ý nghĩa của nhân viên CTXH. Điều này
đã dẫn tới sự ủng hộ về mặt cơ chế, chính sách, điều kiện làm việc dành cho
nhân viên CTXH còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều cơ hội được phát huy,
69
phát triển.
Chƣơng 3
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CTXH TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN
MA TÚY TẠI CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE
3.1. Nhóm giải pháp về cải thiện hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ
cai nghiện ma túy
3.1.1. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động tham vấn.
Đây là một hoạt động quan trong của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma
túy. Do vậy, cần được quan tâm nhiều hơn và căn cứ từ một số thực trạng ở
chương 2 là nhân viên CTXH đang phải quản lý 80 NNMT/1 người, con số
này được tăng lên theo thời gian. Để đạt được hiệu quả tham vấn tốt, nhân
viên tham vấn cần quan tâm, đầu tư tâm sức, có những ca bệnh kéo dài hàng
năm trong khi số lượng NNMT lớn sẽ bị phân tán, không tập trung, hoặc
không làm hết việc được. Nên để nâng cao hoạt động tham vấn, không những
cần phải nâng cao trình độ chuyên môn cho nhân viên tham vấn, mà còn phải
quan tâm chú trọng đến giảm tải số lượng công việc cho họ bằng cách là giảm
bớt các công tác hành chính, không liên quan để tập trung thời gian, công sức
làm chuyên môn, thậm chí cần thiết thì tăng thêm biên chế.
Nhưng mà cái khó khăn lớn nhất hiện nay là làm thế nào có được cái đội
ngũ nhân viên công tác xã hội trong các cơ sở điều trị để thực hiện công tác
kết nối các nguồn lực, hỗ trợ tốt nhất, cung cấp được nhiều các cái dịch vụ xã
hội cho cái bệnh nhân…
(PVS_Cán bộ methadone 3, cơ sở xã hội hóa 1)
Theo ý kiến trên, việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên CTXH
chuyên nghiệp tại các CSĐT Methadone là rất cần thiết, khi đó các nhân viên
CTXH sẽ được giảm tải khối lượng và áp lực công việc, tập trung vào chất
lượng từng hoạt động CTXH, dẫn tới các dịch vụ CTXH sẽ được cung cấp tốt
70
hơn, hiệu quả sẽ được nâng cao.
Điều này không chỉ cải thiện hiệu quả của riêng hoạt động tham vấn tâm
lý mà tất cả hoạt động khác của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện tại các CSĐT
Methadone đều được cải thiện và nâng cao.
3.1.2. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động hỗ trợ vay vốn,
việc làm
Hiện tại, chương trình hỗ trợ vay vốn cho người nghiện ma túy, người
mại dâm hoàn lương, người nghiện tham gia điều trị Methadone theo quyết
định 29/2014/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ đã dừng lại từ cuối năm
2018, không còn được giải ngân. Qua những tổng kết, đánh giá chương trình
và những kết quả thiết thực mà chương trình này đem lại cho các đối tượng,
giúp họ thay đổi tình trạng hiện tại, mở ra cơ hội cho họ giải quyết vấn đề,
làm lại cuộc đời. Do vậy, trong thời gian sắp tới cần xây dựng, triển khai các
chương trình hỗ trợ vay vốn cho NNMT cũng như NNMT tham gia điều trị
Methadone theo hướng thiết thực, dễ tiếp cận, thủ tục vay đơn giản.
“Theo mình, để thực hiện tốt hơn nữa hoạt động hỗ trợ vay vốn, thì cần
phải nâng số vốn tối đa mà NNMT và gia đình họ được vay từ 30 triệu
đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ, bởi vì số tiền 30 triệu đôi khi vẫn còn chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhiều người nghiện, vốn được vay thì ít quá mà thủ tục
để được vay cũng phức tạp, phiền hà nên nhiều người nghiện họ không hào
hứng.”
(PVS_Nhân viên CTXH 1, cơ sở xã hội hóa 1)
Có thể thấy rằng, dù là khi có chính sách vay hỗ trợ, nhưng NNMT vẫn
không tiếp cận nguồn vay ưu đãi do thủ tục vay chưa thuận tiện và số vốn vay
không đáp ứng nhu cầu, giải quyết vấn đề của họ.
Bên cạnh đó, khi triển khai chương trình cần có các hoạt động truyền
thông, quảng bá chương trình hỗ trợ vay vốn trên các phương tiện truyền
71
thông đại chúng như trên truyền hình, báo đài, mạng internet và thậm chí là
phát loa truyền thanh tại các địa phương để đông đảo quần chúng nhân dân
được biết, đặc biệt là NNMT và gia đình họ.
Bên cạnh đó, do nhận thức của một số cá nhân, tổ chức về người
nghiện ma túy vẫn chưa tốt nên còn có những doanh nghiệp hay người sử
dụng lao động có những hành xử, chính sách kỳ thị, phân biệt đối xử đối với
người nghiện ma túy nói chung và người nghiện đang tham gia điều trị nghiện
bằng thuốc Methadone. Để nâng cao hiệu quả hoạt động giới thiệu việc làm
trong thời gian sắp tới, cần có sự truyền thông sâu rộng hơn nữa những kiến
thức về ma túy, người nghiện ma túy để cải thiện nhận thức của người dân về
tệ nạn ma túy và người nghiện ma túy, từ đó giúp họ có cách nhìn nhận về
NNMT một cách đúng đắn, giảm bớt kỳ thị.
Ngoài ra cần phải có chế độ, chính sách ưu đãi về thuế cho những
doanh nghiệp tiếp nhận người nghiện ma túy vào làm việc, khuyến khích
Doanh nghiệp tiếp nhận những đối tượng yếu thế. Đồng thời, triển khai các
khóa học nghề, chương trình nâng cao trình độ tay nghề cho những người
nghiện có nhu cầu. Cùng với đó là việc xây dựng cơ chế xử phạt các hành vi
phân biệt đối xử, kỳ thì với những đối tượng yếu thế là NNMT thêm phần
nghiêm minh.
Khi có sự đồng bộ, thống nhất từ chính sách của nhà nước cùng với sự
phát triển về nhận thức của cộng đồng về ma túy, người nghiện ma túy thì vấn
đề việc làm của người nghiện ma túy sẽ được gải quyết.
3.1.3. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông –
nâng cao nhận thức
Hiện tại các hoạt động truyền thông về tác hại của ma túy và lợi ích của
việc tham gia điều trị nghiện bằng thuốc Methadone tại các CSĐT Methadone
ở thành phố Lào Cai vẫn đang được nhân viên CTXH triển khai, thực hiện
nhưng do kinh phí hạn chế nên hoạt động tuyền truyền đã phải bó hẹp lại,
72
thay vì truyền thông trực tiếp cho nhiều người dân, khu vực dân cư như trước
đây, các buổi truyền thông hiện nay chỉ tập trung vào đối tượng là những người
đứng đầu xã, phường và thôn/bản như cán bộ phụ trách lao động – thương binh
xã hôi, cán bộ phụ trách cai nghiện ma túy ở xã, các trưởng thôn bản, bí thư, bảo
vệ thôn và một số gia đình người nghiện; vẫn còn chưa được triển khai rộng
khắp tới từng thôn bản, nên nhiều người dân vẫn chưa tiếp xúc được thông tin.
Do vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông cần bố trí thêm
nguồn lực để tổ chức các buổi truyền thông tới tận xã, phường và thậm chí tận
thôn, bản để người dân đến tham dự nghe truyền thông trực tiếp.
Đồng thời, triển khai thêm các hoạt động truyền thông về lợi ích của
việc tham gia điều trị nghiện bằng thuốc Methadone như: Dán các băng-rôn,
áp phích tuyên truyền tại nơi đông người qua lại tại các thôn, điểm nóng về
ma túy.
Để việc tuyên truyền được sâu rộng, cần có chính sách về việc phối hợp
giữa các đơn vị như Sở LĐTBXH với Sở Thông tin - Truyền thông trong việc
tuyên truyền tác hại của ma túy và lợi ích của việc điều trị nghiện bằng thuốc
Methadone trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài…
Bên cạnh đó, cần bố trí và tập huấn cho nhân viên CTXH các kỹ năng
truyền thông chuyên nghiệp để nâng cao chất lượng truyền đạt thông tin giúp
buổi truyền thông đạt hiệu quả hơn.
3.1.4. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động biện hộ, bảo đảm
quyền lợi của người tham gia điều trị nghiện
Hiện nay, các quyền lợi của người nghiện ma túy, người nghiện tham
gia điều trị Methadone được quy định chưa thống nhất, mỗi bộ ngành lại có
những quan niệm riêng của mình nên ban hành những quy định riêng. Điều
này khiến cho nhân viên CTXH gặp rất nhiều khó khăn khi can thiệp hỗ trợ
cho người nghiện vi phạm quy định. Do vậy, cần có sự thống nhất về chính
sách, quy định đối với người nghiện ma túy thông nhất từ trung ương tới địa
73
phương. Đặc biệt là các quy định về xử phạt với hành vi Sử dụng ma túy trái
phép và hành vi tàng trữ ma túy trái pháp, các quy định về điều kiện áp dụng
hình thức xử phạt đưa NNMT đi cai nghiện bắt buộc, các quy định về việc
NNMT tham gia điều trị Methadone sẽ không áp dụng hình thức xử phạt đi
cai nghiện bắt buộc cần được quy định rõ ràng và thống nhất trong các văn
bản. Để khi áp dụng, sẽ có sự đồng bộ, phối kết hợp hài hòa. Không xảy ra
tình trạng, ở chính sách này quy định như thế này, ở một chính sách khác lại
quy định trái lại hoặc khác đi.
Đồng thời, cần đưa việc phổ biến kiến thức về pháp luật vào việc tư
vấn, cung cấp thêm thông tin cho NNMT về quyền lợi của họ, các nguy cơ
đối vợi họ khi sử dụng ma túy để NNMT được biết và tự có năng lực bảo vệ
quyền lợi của mình cũng như có lựa chọn hành động phù hợp.
3.1.5. Một số giải pháp thực hiệu hiệu quả hoạt động kết nối dịch vụ,
nguồn lực
NNMT trong quá trình điều trị có thể gặp các vấn đề sức khỏe khác cần
phải đi bệnh viện khiến đi xa để điều trị bệnh hoặc có công việc phải đi sang nơi
khác mà không thể về cơ sở hiện tại để uống thuốc Methadone được. Vì thế việc
kết nối các CSĐT methadone với nhau là rất cần thiết. Hiện nay, chương trình
quản lý Methadone bằng hệ thống điện tử đã được triển khai góp phần tinh gọn
hồ sơ thủ tục cho NNMT khi đi chuyển gửi nhưng nhiều địa phương, đặc biệt là
các cơ sở ở vùng núi vẫn chưa được triển khai chương trình này. Do vậy, trong
thời gian tới cần phải quan tâm, đây mạnh hơn nữa việc triển khai hệ thống quản
lý điện tử, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện các NNMT điều trị
Methadone được hưởng dịch vụ một các thuận tiện.
Xây dựng các tài liệu hướng dẫn chuyển tuyến trong đó có: quy trình
chuyển tuyến, các địa chỉ hỗ trợ cho người nghiện, số điện thoại của cơ sở đó
hoặc các cá nhân, tổ chức hỗ trợ cho NNMT và NNMT tham gia điều trị
74
Methadone. Từ đó, nhân viên CTXH thành lập một mạng lưới hỗ trợ cho
NNMT một cách đồng đều, rộng khắp, cũng như giúp cho NNMT được tiếp
cận với nhiều dịch vụ, hỗ trợ hơn.
3.2. Một số giải pháp về nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thực hiện
Công tác xã hội.
Nhân viên CTXH là triển khai các hoạt động của CTXH trong hỗ trợ
cai nghiện ma túy. Trình độ và kỹ năng của nhân viên tham vấn là rất quan
trọng. Với kinh nghiệm thực tiễn, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị để nâng
cao hơn nữa chất lượng nhân viên CTXH từ đó nâng cao hiệu quả CTXH với
người nghiện ma túy nói riêng và CTXH nói chung.
3.2.1. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả đào tạo Công tác xã hội
Về tổng thể, nghề CTXH là một nghề thực hành do vậy đào tạo nghề cũng
cần chú trọng nhiều đến kinh nghiệm thực tiễn cho người học. Do vậy, cần có
thêm nhiều tài liệu và giáo trình hướng dẫn cách thực hành CTXH trong thực
tiễn với từng nhóm đối tượng riêng biệt để người học có thể tra cứu dễ dàng,
nâng cao trình độ, kỹ năng với nhóm đối tượng mà mình quan tâm.
Ngoài việc điều chỉnh số giờ học lý thuyết và thực hành theo hướng
tăng thời lượng thực hành, giảm thời lượng lý thuyết, thì cũng cần phải chú
trọng tới trình độ chuyên môn của người đào tạo (giảng viên). Giảng viên dạy
CTXH phải là người có chuyên môn, kinh nghiệm thực hành CTXH dày dặn
thì mới có thể truyền đạt được cho sinh viên của mình, để họ áp dụng được
vào thực tiễn làm việc.
Nghề CTXH làm việc với nhiều loại thân chủ từ người có công, người
khuyết tật, người già, trẻ em mồ côi… Mặc dù kỹ năng, kiến thức làm việc là
chung, bao hàm tất cả. Nhưng dù sao, họ vẫn có sự khác biệt nhất định, khiến
cho cách thức làm việc cũng sẽ có đôi chút khác nhau. Giống như nghề y, họ
có sự phân chia bác sỹ chuyên khoa Tai – mũi – họng, bác sỹ chuyên khoa
nhi… Nghề CTXH có thể học theo, phân chia chuyên khoa cho nhân viên
75
CTXH làm việc với những đối tượng đặc thù.
3.2.2. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả công tác nâng cao trình độ
người làm Công tác xã hội sẵn có tại các địa phương
Những cán bộ, người làm công việc CTXH tại địa phương là những
người có kinh nghiệm thực tế phong phú, mặc dù còn nhiều người có trình độ
học vấn chưa cao. Do vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của CTXH trong hỗ
trợ cai nghiện ma túy tại một số địa phương, cần phải tổ chức các lớp tập huấn
kiến thức về CTXH, về tác hại ma túy và cai nghiện ma túy với những giảng
viên là người làm thực tiễn, có kinh nghiệm phong phú trong lĩnh vực cai
nghiện, giảng dạy theo hướng cầm tay chỉ việc, cụ thể và chi tiết nhưng lại
phải dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Hạn chế việc để các cán bộ quản lý nhà nước đi
đào tạo nghề CTXH với những lý thuyết khô khan, thiếu đi kiến thức thực tế.
Tiểu kết chƣơng
Thực trạng CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT
Methadone ở Chương 2 kết hợp với những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
làm việc, thực hành CTXH với người nghiện ma túy tham gia điều trị nghiện
tại CSĐT Methadone của tác giả là căn cứ quan trọng để tác giả đưa ra một số
kiến nghị để nâng cao hơn nữa hiệu quả của CTXH với người nghiện ma túy
trong từng hoạt động tham vấn tâm lý, hỗ trợ vay vốn – việc làm .v.v.
Qua đánh giá yếu tố nhân viên CTXH là một yếu tố quan trong, ảnh
hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả các hoạt động CTXH. Do vậy, cần
nâng cao trình độ tay nghề của nhân viên CTXh ngay từ khi họ còn ngồi trên
ghế giảng đường là rất quan trọng. Cùng với đó, số lượng cán bộ làm việc như
nhân viên xã hội tại tuyến địa phương còn nhiều, các khóa tập huấn nâng cao
kiến thức, kỹ năng nghề CTXH cho đội ngũ này cũng được thiện hiện và đang
dần đem lại những kết quả thiết thực, góp phần vào thành công chung của
76
công tác cai nghiện ma túy.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài “Công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy tại các Cơ sở điều trị Methadone ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”
đã đạt được một số kết quả sau:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nghiện ma túy và các khái niệm liên
quan, từ đó đưa ra định nghĩa riêng về công tác xã hội trong hỗ trợ cai nghiện
ma túy.
Các hoạt động của nhân viên CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại
các CSĐT Methadone đã được thực hiện nghiêm túc và có những kết quả tích
cực, được cộng đồng ghi nhận và đánh giá cao. Qua đó, nhận thấy vai trò của
nhân viên CTXH trong các CSĐT Methadone là vô cùng quan trọng, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy theo hướng bền vững. Kết
quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nhờ có sự trợ giúp từ nhân viên CTXH đã
giúp một số người nghiện ma túy từ bỏ dần ma túy, chất lượng cuộc sống của
họ được nâng cao thông qua những can thiệp chuyên môn CTXH đã giúp
người nghiện giải quyết được những vấn đề tâm lý xã hội, từ đó giúp họ duy
trì quá trình điều trị methadone. Sự trợ giúp của nhân viên công tác xã hội
trong việc kết nối các nguồn lực, hướng dẫn, giáo dục, biện hộ, bảo vệ và hỗ
trợ NNMT trong quá trình điều trị nghiện chất bằng Methadone đã giúp
NNMT từng bước vượt qua những khó khăn, thử thách, tự tin vượt lên giải
quyết những vấn đề của bản thân. Điều đó khẳng định vai trò không thể thiếu
của CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại các CSĐT Methadone ở thành
phố Lào Cai và các cơ sở cai nghiện ma túy khác trên đại bàn tỉnh. Nghiên
cứu này cho thấy rất cần thúc đẩy việc đưa nhân viên công tác xã hội chuyên
nghiệp vào các cơ sở điều trị nghiện ma túy hiện nay trong thời gian tới,
không chỉ ở tỉnh Lào Cai mà trên cả nước nhằm tăng cường hiệu quả của quá
77
trình điều trị nghiện ma túy ở nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Văn Dũng và cộng sự, "Các yếu tố liên quan đến NNMT ra khỏi
chương trình điều trị nghiện bằng Methadone tại Tp Hồ Chí Minh,
2015 – 2017," in Hội thảo quốc gia lần IV về rối loạn sử dụng chất và
HIV, 2017
2. Chính phủ, Nghị định số 94/2010/nđ-cp quy định về tổ chức cai nghiện
ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng, Chính Phủ, 2010
3. Chính phủ, “Nghị định số 90/2016/NĐ-CP quy định về điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế,” 2016
4. Giáo trình Tham vấn Điều trị nghiện ma túy, Nxb Lao Động, 2013
5. Đỗ Thanh Huyền, "Hoạt động hỗ trợ xã hội cho người sau cai nghiện
ma túy tại Thành phố Hòa Bình – Tỉnh Hòa Bình," 2017
6. Phan Thị Mai Hương, Thanh niên nghiện ma túy nhân cách và hoàn
cảnh xã hội, 2005, Nxb Khoa học và xã hội
7. Nguyễn Thị Hằng, "Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc
trợ giúp người nghiện ma túy tham gia chương trình Methadone
(Nghiên cứu tại cơ sở điều trị methadone quận Nam Từ Liêm," Hà Nội,
2016iều trị methadone quận Nam Từ Liêm," Hà Nội, 2016
8. Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Tố Như, Tiêu Thị Minh Hường và các cộng
sự, Giáo trình Nhập môn Công tác xã hội, Hà Nội: Nxb Lao động – Xã
hội, 2010
9. Quốc hội, Luật Phòng, chống ma túy, 2000
10. Q. Hội, Bộ Luật hình sự Việt Nam, 2000
11. Tổ chức Y tế Thế giới (2008), Cơ quan phòng chống tội phạm Liên
Hợp Quốc, Tổ chức Y tế Thế giới (UNODC-WHO), "Các nguyên tắc
điều trị cai nghiện lệ thuộc ma túy.," 2008
12. Trần Hồng Vân, “Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ điều trị
78
nghiện cho người nghiện ma túy tại cộng đồng (Nghiên cứu trường hợp
tại Cơ sở điều trị Methadone thuộc Trung tâm phòng chống HIV/AIDS
thành phố Nam Định), 2016
13. UBND tỉnh Lào Cai (2018), "Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Dự
án điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone giai đoạn (2013-
2017) phương hướng 2018-2020," UBND tỉnh Lào Cai, Lào Cai, 2018
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
14. American Society for Addiction Medicine (2012) "Definition of
Addiction," 2012
15. Angres DH, Bettinardi-Angres K, The disease of addiction: origins,
treatment, and recovery, 2008.
16. Brian E. Bride PhD, Amanda J. Abraham PhD, Sara Kintzle PhD and
Paul M
17. ELIZABETH A. WELLS, PH.D., ALLISON N. KRISTMAN-
VALENTE, MSW, K. MICHELLE PEAVY, PH.D., and T. RON
JACKSON, MSW, Social Workers and Delivery of Evidence-Based
Psychosocial Treatments for Substance Use Disorders, Seattle,
Washington: Đại học Washington, 2014
18. Kieinginna, Jr. & Kleinginna AM, "A Categorized List of Motivation
Definitions, with a Suggestion for a Consensual Definition," Motivation
and Emotion, vol. 5, no. 3, pp. 263 - 291, 1981
19. L.Y. K. B. Quang, "Cai Nghiện Ma túy - Việt Y Cổ Truyền," 2019.
[Online]. Available: http://vietycotruyen.com.vn/phuong-phap-cai-
nghien-ma-tuy-da-viet-y-co-truyen. [Accessed 24 8 2019].
20. M Gossop, J Marsden, D Stewart, P Lehmann, and J Strang,
Methadone treatment practices and outcome for opiate addicts treated
in drug clinics and in general practice: results from the National
79
Treatment Outcome Research Study, 1999
21. M. C. Staff, "Mayo Clinic Healthy Living," Mayo Foundation for
Medical Education and Research, [Online]. Available:
https://www.mayoclinic.org. [Accessed 24 8 2019]
22. N. Tracy, "Drug Addiction Therapy, Drug Addiction Counseling,
HealthyPlace," 2012, January 16
23. NIDA, "National Instute on Drug Abuse," [Online]. Available:
Https://www.drugabuse.gov/publications/media-guide/science-drug-
use-addiction-basics
24. Roman PhD, Social Workers’ Knowledge and Perceptions of
Effectiveness and Acceptability of Medication Assisted Treatment of
Substance Use Disorders, Soc Work Health Care, 2013
25. Schneider, B., & Bowen, D. E, Winning the service game, Boston:
HarvardBusinessSchool Press, 1995
26. University Texas Christian, "Institute of behavioral research," Client
Evaluation of Self and Treatment at Intake., [Online]. Available:
Https://ibr.tcu.edu/forms/client-evaluation-of-self-and-treatment-cest/.
80
[Accessed 22 4 2019]
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bộ câu hỏi nghiên cứu
PHIẾU ĐIỀU TRA NGHIÊN CỨU
CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI
CÁC CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ METHADONE Ở THÀNH PHỐ LÀO CAI,
TỈNH LÀO CAI
Thông tin nghiên cứu
Tôi đang thực hiện nghiên cứu nhằm tìm hiểu hoạt động của Công tác xã
hội trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại Cơ sở điều trị Methadone ở thành phố
Lào Cai. Anh/chị được mời tham gia nghiên cứu này vì anh/chị là NNMT
hiện đang điều trị Methadone tại những Cơ sở được chọn trên địa bàn thành
phố.
Quy trình
Khi tham gia nghiên cứu, bước đầu tiên tôi sẽ tiến hành phỏng vấn riêng
những người tham gia trong khoảng 20 – 30 phút. Tiếp đó, anh/chị sẽ được
yêu cầu cung cấp nước tiểu để làm xét nghiệm tình trạng sử dụng chất của
mình. Anh/chị sẽ mất khoảng 30 – 45 phút để hoàn thành toàn bộ quy trình.
Tự nguyện tham gia
Sự tham gia trong nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện. Từ chối tham
gia phỏng vấn trong nghiên cứu này, bạn sẽ không phải chịu bất kỳ hình phạt
hoặc mất đi bất kỳ các lợi ích nào mà bạn đang được nhận. Bạn cũng có thể
ngừng, dừng cuộc phỏng vấn bất kỳ lúc nào cũng như có thể bỏ qua bất kỳ
câu hỏi nào mà bạn không muốn trả lời. Các thông tin bạn cung cấp sẽ được
chúng tôi ẩn danh và bảo đảm bí mật thông tin. Chúng tôi xin trân thành cảm
81
ơn sự tham gia của bạn!
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
Chu STT Câu hỏi Đáp án trả lời yển
B01 Anh/chị sinh năm |__| |__| |__| |__|
nào?
(Không nhớ điền
9999)
B02 Giới tính khi sinh của Nam 1
anh/chị là? Nữ 2
(Điều tra viên quan Khác (ghi rõ): ……………… 3
sát và có thể hỏi nếu
cần)
B03 Anh/chị là người dân Kinh 1
tộc nào? Thái 2
Hmong 3
Dao 4
Tày 5
Khác (ghi rõ): …………………. 9
B04 Trình độ học vấn hiện Chưa từng đi học 1
tại của anh/chị là gì? Tiểu học 2
Trung học cơ sở 3
Trung học phổ thông 4
Đang học đại học, cao đẳng, trung 5
cấp 6
Đã tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp 7
Đã tốt nghiệp đại học (Bao gồm cả
82
sau đại học)
Chu STT Câu hỏi Đáp án trả lời yển
B05 Tình trạng hôn nhân Độc thân 1
hiện tại của anh/chị là Đã kết hôn 2
gì? Li dị/Ly thân 3
Góa 4
B06 Hiện tại, anh/chị đang Bố và/hoặc mẹ 1
sống với những ai? Vợ hoặc chồng 2
(chọn tất cả đáp án Con 3
phù hợp) Anh, chị, em ruột 4
Họ hàng 5
Bạn bè 6
Người yêu/bạn tình 7
Một mình 8
Khác (ghi 9
rõ):………………………
B07 Nếu anh/chị hiện C K
đang không có việc Không đủ sức khoẻ để làm việc 1 0
làm, lí do là gì? Không xin được việc do đã từng 1 0
(đọc lần lượt từng đi trung tâm cai nghiện bắt buộc
đáp án) Không xin được việc do tiền sử sử 1 0
dụng ma tuý
Bị buộc thôi việc do tiền sử sử 1 0
dụng ma tuý
Tự thôi việc/bị buộc thôi việc do 1 0
tái sử dụng/tái nghiện
83
Không muốn làm việc do gia đình 1 0
Chu STT Câu hỏi Đáp án trả lời yển
có thể chu cấp
Khác (ghi 1 0
rõ)………………………….
B09 Hiện tại, những C K
nguồn thu nhập của Công việc được trả lương ổn định 1 0
anh/chị từ đâu? Hoạt động buôn bán/kinh doanh 1 0
(có thể chọn nhiều Trợ cấp của chính phủ (người có 1 0
đáp án) công, thương binh, khuyết tật,
lương hưu…)
Hỗ trợ của vợ/chồng, bạn tình, 1 0
bạn bè hoặc người thân
Khác (ghi 1 0
rõ)………………………….
B10 Trong 6 tháng qua, |__| |__| |__| , |__| |__| |__| , 000 VNĐ
thu nhập trung bình
một tháng của
Anh/chị là bao nhiêu?
(Tính tổng thu nhập
từ mọi nguồn)
B11 Số lần |__| |__| 0 Trong vòng 6 tháng
qua, anh/chị đã bị chuy
chính quyền/công an ển
giam giữ (kể cả tạm B17
84
giữ một vài tiếng
Chu STT Câu hỏi Đáp án trả lời yển
đồng hồ) bao nhiêu
lần vì bất ký lý do gì?
B12 Trong đó có bao Số lần |__| |__|
nhiêu lần là vì lý do
liên quan đến sử dụng
hay tàng trữ ma tuý?
II. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CHẤT GÂY NGHIỆN
ST Chuyể Câu hỏi Đáp án trả lời T n
C0 Lần đầu tiên bạn sử
1 dụng bất kì loại ma túy
nào là khi bạn bao
nhiêu tuổi?
C0 Lần đó, bạn đã sử dụng Heroin 1
2 loại ma túy nào? Morphin 2
Thuốc phiện 3
Amphetamin/ Methamphetamin 4
Thuốc lắc 5
Cần sa 6
Tài mà 7
Dorlagan 8
Phenobarbital (thuốc ngủ) 9
Benzodiazepam (Seduxen) 10
85
Khác, ghi rõ ……………………… 11
Chuyể ST Câu hỏi Đáp án trả lời n T
Có 1 C0 Khi tiêm chích ma túy,
Không 0 4 bạn đã bao giờ sử dụng
lại BKT mà người khác
đã hoặc vừa sử dụng
không?
C0 Trong 30 ngày qua, bạn Có 1
5 có sử dụng bơm kim Không 0
tiêm mà người khác đã
hoặc vừa sử dụng
không?
C0 Bạn đã bao giờ cai Có 1
6 nghiện ma túy chưa? Không 0
C0 Nếu có, bạn đã bao
7 nhiêu lần tham gia cai
nghiện ma túy?
C0 Lần gần đây nhất, bạn
8 cai nghiện là khi nào? (Tháng/Năm)
C0 Lần đó, bạn sử dụng Methadone 1
9 hình thức cai nghiện Cai nghiện tập trung tại TT06 2
nào? Cắt cơn tại cộng đồng 3
Cắt cơn tại nhà 4
Khác, ghi rõ………………………..
86
5
III. THÔNG TIN VỀ ĐIỀU TRỊ METHADONE
ST Chuyể Câu hỏi Đáp án trả lời T n
Số năm |__| |__| D01 Từ trước đến nay, Anh/chị
Số tháng |__| |__| đã điều trị methadone
được khoảng bao lâu?
(Nếu dưới 1 năm phải ghi
rõ số tháng)
D02 Từ trước đến nay, Anh/chị Số lần |__| |__|
đã từng bỏ trị bao nhiêu
lần?
(Bỏ trị khác bỏ liều)
D03 Anh/chị bắt đầu điều trị Tháng |__| |__|
methadone tại phòng khám Năm |__| |__| |__| |__|
hiện tại từ khi nào?
(Không nhớ nhập 99)
D04 Hiện nay, anh/chị đóng |__| |__| |__| , 000 VNĐ 0
tiền điều trị methadone D07
hàng tháng là bao nhiêu?
D05 Tiền chi trả việc điều trị Thu nhập cá nhân 1
methadone chủ yếu có Gia đình hỗ trợ 2
được từ nguồn nào? Bạn bè hỗ trợ 3
(chỉ chọn 1 đáp án) Khác (ghi 9
rõ):...................................
D0 Anh/chị bắt đầu vào duy Tháng |__| |__|
7 trì từ khi nào? Năm |__| |__| |__| |__|
87
D0 Trong 30 ngày qua, Số ngày |__| |__| 0
ST Chuyể Câu hỏi Đáp án trả lời T n
8 anh/chị đã bỏ liều bao D13
nhiêu ngày?
D0 Lí do bỏ liều của anh/chị C K
9 là gì? (đọc lần lượt các Bận công việc 1 0
đáp án và chọn tất cả đáp Bận việc gia đình 1 0
án phù hợp) Chỉ đơn giản là quên 1 0
Muốn giảm tác dụng phụ của 1 0
thuốc
Không muốn ai đó biết mình 1 0
uống thuốc
Cảm thấy thuốc có hại đối với 1 0
sức khoẻ
Cảm thấy buồn ngủ/ngủ quên 1 0
quá giờ uống thuốc
Cảm thấy không uống thuốc 1 0 0
một hôm cũng không sao
Lí do sức khoẻ (ốm, mệt..) 1 0 0
Khác (ghi rõ):……………… 1 0
IV. MỨC ĐỘ HÀI LÒNG DỊCH VỤ THAM VẤN
88
Hoàn Hoàn Không ST toàn Không Đồng toàn Câu hỏi chắc T không đồng ý ý không chắn đồng ý đồng
ý
Hài lòng về điều trị
Thời gian đối với tham vấn
F01 trong chương trình điều trị 1 2 3 4 5
phù hợp với bạn
Mục tiêu của buổi tham vấn
F02 là muốn bạn học tinh thần 2 3 4 5 1
trách nhiệm và kỷ luật
Buổi tham vấn này được tổ F03 2 3 4 5 1 chức và hoạt động tốt
Bạn hài lòng với buổi tham F04 2 3 4 5 1 vấn này
Nhân viên tham vấn tại cơ
F05 sở thực hiện hiệu quả công 1 2 3 4 5
việc của họ
Bạn mong muốn được tham
F06 vấn cá nhân nhiều khi điều 1 2 3 4 5
trị
Cơ sở được đặt tại địa điểm F07 2 3 4 5 1 thuận tiện cho bạn
Hỗ trợ đồng đẳng
Các NNMT khác khác tại
F08 cơ sở này quan tâm đến bạn 2 3 4 5 1
và các vấn đề của bạn
Bạn được những NNMT F09 2 3 4 5 1 khác trong cơ sở giúp đỡ
89
F10 Bạn cảm thấy giống như 2 3 4 5 1
các NNMT khác của cơ sở
này
Bạn xây dựng được các mối
F11 quan hệ bạn bè tích cực, tin 1 2 3 4 5
cậy lẫn nhau tại Cơ sở
Cơ sở điều trị khiến bạn có
cảm giác như ở trong một 1 2 3 4 5 F12 gia đình (hoặc một cộng
đồng)
Dịch vụ tham vấn
Bạn tin tưởng cán bộ tham F13 2 1 3 4 5 vấn của mình
Những điều tham vấn viên F14 2 1 3 4 5 nói dễ hiểu và dễ làm theo
Tham vấn viên của bạn là F15 2 1 3 4 5 người dễ nói chuyện
Tham vấn viên nhìn nhận
F16 những tiến bộ bạn đạt được 1 2 3 4 5
trong khi điều trị
Tham vấn viên tổ chức và
F17 chuẩn bị tốt cho buổi tham 1 2 3 4 5
vấn
Tham vấn viên nhạy cảm
F18 với hoàn cảnh và vấn đề 2 1 3 4 5
của bạn
90
Kế hoạch điều trị của bạn F19 2 1 3 4 5 đưa ra mục tiêu phù hợp
Tham vấn viên nhìn nhận
1 2 3 4 5 F20 vấn đề và hoàn cảnh của
bạn một cách thực tế
Tham vấn viên giúp bạn tự 1 2 3 4 5 F21 tin hơn vào bản thân
Tham vấn viên tôn trọng 1 2 3 4 5 F22 bạn và ý kiến của bạn
Bạn có thể tin tưởng vào sự 1 2 3 4 5 F23 hiểu biết của tham vấn viên
Chất lƣợng cơ sở
Cảm nhận chung của bạn về
chất lượng dịch vụ tại cơ sở 1 2 3 4 5 F24 điều trị methadone này là
gì?
Với kinh nghiệm của mình,
cảm nhận của anh/chị về
methadone như là thuốc 1 2 3 4 5 F25 điều
trị duy trì cho lệ thuộc
heroin là gì
Liệu anh/chị có khuyên bạn
mình (người
có nhu cầu điều trị
F26 methadone) tới cơ sở 1 2 3 4 5
hiện nay anh/chị đang tham
gia điều trị
91
không?
Giả sử anh/chị được chọn
lại cơ sở điều trị
methadone của mình,
F27 anh/chị có chọn 1 2 3 4 5
điều trị tại cơ sở mà anh/chị
đang điều trị
hiện nay không?
V. HỖ TRỢ CỦA GIA ĐÌNH
STT Câu hỏi Mã câu trả lời Chuyể
n
G01 C K N Trong 06 tháng qua,
những hỗ trợ nào sau A
đây mà anh đã nhận Khuyên đi điều trị methadone 1 0 77
được từ gia đình? Giúp chuẩn bị hồ sơ điều trị 1 0 77
(Điều tra viên đọc tất methadone
cả các lựa chọn và Hỗ trợ phương tiện đi uống 1 0 77
đánh dấu tất cả đáp thuốc hàng ngày
án phù hợp) Cùng tham gia tham vấn ở PK 1 0 77
methadone
Đi cùng hoặc đưa đến nhận 1 0 77
thuốc, khám ở cơ sở điều trị
methadone
Giữ liên lạc với bác sỹ điều trị 1 0 77
methadone
Nói chuyện chia sẻ lo lắng về 1 0 77
92
việc điều trị methadone
STT Câu hỏi Mã câu trả lời Chuyể
n
Chi trả các chi phí điều trị 1 0 77
methadone và CSSK
Mua vitamin, thuốc bổ hoặc bồi 1 0 77
dưỡng ăn uống
Chăm sóc khi nhập viện 1 0 77
Hỗ trợ học nghề 1 0 77
Hỗ trợ tìm việc làm 1 0 77
Hỗ trợ cho vay vốn làm ăn 1 0 77
Khác (ghi 1 0
rõ)……………………
Không nhận được hỗ trợ nào 1 0
G02 Bố mẹ 1 Trong 06 tháng qua,
khi muốn nói chuyện Vợ/bạn gái 2
về những vấn đề liên Các con 3
quan tới điều trị Anh chị em ruột 4
5 Cán bộ y tế methadone/sử dụng
ma túy, anh thường 6 Đồng đẳng viên
nói chuyện với ai Bạn nghiện 7
nhiều nhất? 8 Bạn cùng điều trị methadone
Bạn không nghiện và không nhiễm 9
HIV 10
Khác (ghi
rõ)………………………..
G03 Không bao giờ 1 Trong 06 tháng qua,
93
mức độ thường Một vài lần hoặc ít hơn 2
STT Câu hỏi Mã câu trả lời Chuyể
n
xuyên anh/chị nói 1 hoặc 1 vài lần/tháng 3 3 hoặc
4 ≥ 1 lần/tuần chuyện với bố mẹ, 4
vợ, con, anh chị em G05
ruột về những vấn đề
liên quan tới điều trị
methadone/sử dụng
ma túy, là?
G04 (Nếu anh không bao Tôi không muốn họ biết về vấn đề 1
giờ hoặc chỉ một vài này 2á
lần nói chuyện với Gia đình tôi không biết/ít biết về df
bố mẹ, vợ, con, anh methadone/ma túy 3a
chị em ruột về các Gia đình tôi không muốn nói đến ds
vấn đề liên quan tới chuyện này f
Tôi không còn sử dụng ma tuý nên 4á điều trị
không cần nói nữa df methadone/sử dụng
ma tuý,) lý do vì Tôi điều trị methadone đã ổn định 5a
nên không cần nói nữa df sao?
(Chọn tất cả đáp án Khác (ghi rõ)………………….. 9
phù hợp)
|__| |__| lần G05 Trong 6 tháng qua,
Từ chối trả lời 88 bố, mẹ, vợ hay anh
Không biết 99 chị em ruột đến
phòng khám
methadone cùng
94
anh/chị bao nhiêu
STT Câu hỏi Mã câu trả lời Chuyể
n
lần?
G06 |__| |__| |__| , |__| |__| |__| , 000 VNĐ Trong 6 tháng qua,
Từ chối trả lời 88 trung bình mỗi
Không biết 99 tháng gia đình anh
(bố mẹ, vợ, anh chị
em ruột) đã tiêu bao
nhiêu tiền để trả tiền
thuốc, mua thuốc bổ
và/hoặc các chi phí
điều trị cho anh/chị?
VI. TRAO ĐỔI VỚI NHÂN VIÊN THAM VẤN VÀ SỬ DỤNG
DỊCH VỤ
STT Chuyể Câu hỏi Đáp án trả lời n
I101 Trong tháng qua, anh/chị có trao Không 0
đổi với nhân viên tham vấn tại cơ Có 1
sở điều trị methadone về các vấn đề
sức khoẻ không liên quan trực tiếp
đến điều trị methadone (như liều
điều trị, tác dụng phụ của
methadone…) không?
I102 Trong tháng qua, anh/chị có trao Không 0
đổi với nhân viên tham vấn tại cơ Có 1
95
sở điều trị methadone về việc xét
STT Chuyể Câu hỏi Đáp án trả lời n
nghiệm HIV và/hoặc điều trị ARV
của mình không?
I103 Anh/chị cảm thấy thoải mái đến Hoàn toàn không thoải 1
mức độ nào khi kể cho nhân viên mái 2
tham vấn về các vấn đề sức khoẻ Không thật sự thoải mái 3
khác hoặc vấn đề tâm lý xã hội của Tương đối thoải mái 4
mình? Rất thoải mái
I106 Trong 6 tháng qua, anh đã sử dụng những dịch vụ nào trong số những
dịch vụ dưới đây? (Đọc lần lượt và chọn tất cả đáp án phù hợp)
STT Câu hỏi Không Có
a Tham vấn xét nghiệm HIV tự nguyện 0 1
b Điều trị ARV 0 1
c Điều trị lao & nhiễm trùng cơ hội 0 1
d Điều trị chuyên khoa tâm thần 0 1
e Chương trình phát bơm kim tiêm sạch 0 1
f Chương trình phát bao cao su 0 1
g Chương trình hỗ trợ sau cai 0 1
h Hỗ trợ học nghề 0 1
i Hỗ trợ tìm việc làm 0 1
j Hỗ trợ vay vốn 0 1
k Dịch vụ pháp lý 0 1
96
l Các dịch vụ khác (ghi rõ)…………………… 0 1
PHẦN J. KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM NƢỚC TIỂU
STT Câu hỏi Đáp án trả lời Chuyển
J1 Kết quả xét nghiệm Dương tính 1
nước tiểu đối với Âm tính 2
97
morphine Không xác định 3
PHỤ LỤC 2: PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
(Đối với người nghiện đang điều trị methadone)
Phiếu phỏng vấn nhằm đánh giá CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
của các nhân viên tham vấn, từ đó giúp tăng cường chất lượng dịch vụ tham
vấn tại các CSĐT Methadone. Chúng tôi cam kết giữ bí mật thông tin đánh
giá của anh/chị. Tôi rất mong anh/chị có thể trả lời một số câu hỏi sau:
Năm sinh:…………….. Giới tính:………..
Câu 1: Anh/chị hãy chia sẻ những thay đổi của bản thân mình từ khi
tham gia điều trị Methadone đến nay trong việc từ bỏ ma túy?
Câu 2: Theo anh/chị, các dịch vụ mà anh chị nhận được từ nhân viên
tham vấn tại CSĐT Methadone có quan trọng với anh/chị khi tham gia điều trị
Methadone hay không? Tại sao?
Câu 4: Có điều gì khiến cho Anh/chị chưa hài lòng về nhân viên tham
vấn hoặc các dịch vụ mà họ cung cấp tại CSĐT Methadone? Tại sao?
Câu 5: Nếu được đề xuất thay đổi một số yếu tố để cải thiện tốt hơn
nữa CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy tại CSĐT Methadone anh/chị đề
98
xuất gì?
PHỤ LỤC 3: PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
(Đối với gia đình NNMT)
Tuổi………………………….Giới tính…………………………………
Quan hệ với NNMT đang điều trị methadone:……………
Câu 1: Bạn hãy cho biết những thay đổi của người thân mình trong việc
cai nghiện ma túy từ khi tham gia chương trình điều trị Methadone?
Câu 3: Hãy cho biết những thay đổi của bản thân và các thành viên
khác trong gia đình khi được tham gia các buổi họp, giáo dục tại CSĐT
methadone?
Câu 4: Bạn nhận định như thế nào về hiệu quả của việc phối hợp giữa
bạn cùng gia đình với CSĐT methadone?
Câu 5: Bạn cảm thấy hài lòng như thế nào về nhân viên tham vấn tại
CSĐT methadone? Lý do?
Câu 2: Bạn cảm nhận như thế nào về vai trò của nhân viên tham vấn
trong điều trị nghiện ma túy trong hỗ trợ người nghiện tại các CSĐT
Methadone?
Câu 7: Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bạn và NNMT đang tham gia
99
điều trị, nhân viên tham vấn tại CSĐT methadone cần cải thiện gì?
PHỤ LỤC 4: MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN
(Đối với Trưởng CSĐTMethadone, bác sỹ điều trị và tham vấn viên)
Tuổi...................Giới tính....................
Chức vụ: ……………….......Tại CSĐT methadone.................................
Trình độ:................................................................................
Vị trí công tác.........................................................
Câu 1: Bạn hãy cho biết mức độ hài lòng của bản thân về nhân viên
CTXH trong điều trị nghiện ma túy tại CSĐT methadone? Tại sao? (bỏ qua
nếu bạn là nhân viên tham vấn)
Câu 2: Theo bạn các hoạt động CTXH trong hỗ trợ cai nghiện ma túy
tại CSĐT methadone có vai trò như thế nào?
Câu 3: Hãy cho biết đánh giá của bạn về các hoạt động CTXH trong hỗ
trợ cai nghiện ma túy tại CSĐT methadone?
Câu 4: Theo bạn có những yếu tố nào ảnh hưởng tới CTXH trong hỗ
100
trợ cai nghiện ma túy tại CSĐT Methadone? Cụ thể như thế nào?