ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LƯU THỊ TUYẾT NHUNG

ĐẶC ĐIỂM THƠ PHẠM QUỐC CA

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LƯU THỊ TUYẾT NHUNG

ĐẶC ĐIỂM THƠ PHẠM QUỐC CA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lưu Khánh Thơ

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung

thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc

thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã

được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn

Lưu Thị Tuyết Nhung

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm, động viên,

giúp đỡ từ các thầy cô, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp.

Trước hết, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Lưu Khánh Thơ, người

hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tôi trong suốt quá

trình thực hiện luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ, Nhà thơ Phạm Quốc Ca đã tận tình giúp đỡ tôi

về thông tin tư liệu và góp nhiều ý kiến quý báu để thực hiện luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu cùng toàn thể các thầy cô giáo

Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý

báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tuy đã cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quý

thầy cô, những người quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp và bạn bè tiếp tục có những

ý kiến đóng góp để luận văn được hoàn thiện.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn

Lưu Thị Tuyết Nhung

Tiến sĩ, Nhà thơ Phạm Quốc Ca

iii

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................. ii

MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 1

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 6

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6

5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................... 8

6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................... 8

7. Đóng góp của luận văn ................................................................................................ 8

NỘI DUNG…………………………………………………………….………………..9

Chương 1: THƠ PHẠM QUỐC CA TRONG DÒNG CHẢY THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG

ĐẠI .................................................................................................................................. 9

1.1. Khái quát thơ Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay ................................................. 9

1.2. Phạm Quốc Ca – cuộc đời và văn nghiệp ............................................................... 14

1.2.1.Vài nét về tiểu sử nhà thơ Phạm Quốc Ca ............................................................ 14

1.2.2. Quan niệm thơ của Phạm Quốc Ca ..................................................................... 17

1.2.3. Hành trình thơ Phạm Quốc Ca ............................................................................ 21

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 23

Chương 2: NỘI DUNG TRỮ TÌNH THƠ PHẠM QUỐC CA ..................................... 24

2.1. Thơ thể tài lịch sử dân tộc của Phạm Quốc Ca ....................................................... 24

2.1.1.Thơ sử thi giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ........................................ 24

2.1.2. Thơ tái hiện chiến tranh sau 1975 ....................................................................... 28

2.1.3.Thơ về quê hương, đất nước ................................................................................. 30

2.2. Thơ trữ tình đời tư ................................................................................................... 36

2.2.1.Thơ tình yêu .......................................................................................................... 36

2.2.2.Thơ về gia đình ..................................................................................................... 44

2.3. Thơ thế sự ............................................................................................................... 55

2.3.1. Thơ hiện thực thế sự............................................................................................. 55

2.3.2. Thơ trào lộng thế sự ............................................................................................. 62

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 65

MỤC LỤC

Chương 3: THƠ PHẠM QUỐC CA TỪ GÓC NHÌN NGHỆ THUẬT ........................ 66

3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................................... 66

3.1.1. Thời gian hiện tại ................................................................................................. 66

3.1.2. Thời gian quá khứ ................................................................................................ 69

3.1.3. Thời gian tương lai .............................................................................................. 73

3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................................ 75

3.2.1. Không gian chiến trận ......................................................................................... 76

3.2.2. Không gian làng quê ............................................................................................ 80

3.2.3. Không gian đời tư ................................................................................................ 83

3.3. Ngôn ngữ thơ .......................................................................................................... 85

3.3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh ...................................................................................... 85

3.3.2. Ngôn ngữ lạ hóa, giàu tính sáng tạo.................................................................... 87

3.4. Giọng điệu ............................................................................................................... 91

3.4.1. Giọng điệu hùng tráng ......................................................................................... 92

3.4.2. Giọng điệu cảm thương ....................................................................................... 93

3.4.3. Giọng điệu yêu thương, ngọt ngào....................................................................... 95

3.4.4. Giọng điệu suy tư, triết lý .................................................................................... 96

3.4.5. Giọng điệu cay đắng ............................................................................................ 97

3.4.6. Giọng điệu hài hước ............................................................................................ 98

3.5. Các thủ pháp nghệ thuật .......................................................................................... 99

3.5.1. So sánh ................................................................................................................. 99

3.5.2. Nhân cách hóa ................................................................................................... 103

3.5.3. Cường điệu ......................................................................................................... 106

3.5.4. Sử dụng từ láy .................................................................................................... 108

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 111

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 113

iv

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lực lượng sáng tác thơ đông đảo, nhiều thế hệ của nền thơ đương đại

Việt Nam, Phạm Quốc Ca là một trong những nhà thơ có nhiều thành tựu, được đông

đảo bạn đọc yêu mến.

Thơ Phạm Quốc Ca đằm sâu vẻ đẹp tâm hồn người lính không chỉ trong chiến

tranh mà còn trong cả cuộc sống thường ngày với bao trăn trở, suy tư, chiêm nghiệm.

Thơ ông vừa phát huy những vẻ đẹp truyền thống, vừa nỗ lực cách tân, tạo nên một

phong cách độc đáo. Đọc thơ Phạm Quốc Ca, ta bắt gặp một trí tuệ mẫn tiệp, một tâm

hồn chan chứa tình người, tình đời, một giọng thơ đa thanh, đa sắc. Có những bài thơ

của ông khiến ta lặng người, rưng rưng cảm xúc. Đến với thơ ông, người đọc cảm

thấy xốn xang như bắt gặp những suy tư, trăn trở, những cảm xúc của chính mình.

Thơ Phạm Quốc Ca giản dị, thâm trầm, sâu sắc, được chắt lọc từ chính cuộc đời người

lính, người thầy giáo, người nghệ sĩ ngôn từ.

Thơ ông được các nhà thơ, nhà phê bình có uy tín đánh giá cao, được nhiều

bạn đọc yêu quý, mến mộ. Tìm hiểu thơ Phạm Quốc Ca- thơ của một người lính

chống Mỹ, một trí thức trong giai đoạn Đổi mới sẽ có nhiều điều bổ ích và thú vị. Vì

những lẽ trên, chúng tôi chọn đề tài "Đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca" cho luận văn

Thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Thơ Phạm Quốc Ca đã được các nhà phê bình, các nhà thơ danh tiếng như: Chế

Lan Viên, Thanh Thảo, Nguyễn Bùi Vợi, Nguyễn Trọng Tạo, Lò Ngân Sủn, Trịnh Thanh

Sơn… đồng cảm, tri âm và đánh giá cao. Sau đây là những ý kiến tiêu biểu:

2.1.Về các tập thơ của Phạm Quốc Ca

Trong lời tựa tập thơ đầu tay Tiếng trầm (Sở Văn hoá- Thông tin Lâm Đồng,

1984), Nhà thơ Thanh Thảo đã tinh tế nhận ra một nét đặc điểm phong cách đáng

quý:“Thơ Phạm Quốc Ca chuộng những màu đạm, những nét thanh. Mỗi bài thơ với

2

mức độ thành công khác nhau đều là một giao tiếp chân tình, một lời thủ thỉ. Mong

thơ anh cứ như bông hoa đồng nội giản dị với hương thơm kín đáo” [5].

Nhà phê bình Trần Thanh Đạm đánh giá cao đặc điểm trữ tình nồng hậu, gây

xúc động sâu sắc của tập thơ:“Đọc thơ Phạm Quốc Ca tôi thấy những người tuyển

chọn và trao giải thưởng cho thơ anh quả là biết người, biết thơ. Tôi đã đọc một mạch

tập thơ "Tiếng trầm" và đã ngồi lặng đi hồi lâu vì xúc động…. Quả thật ở anh tôi đã

gặp một nhà thơ, một tâm hồn chân thành, nồng hậu và cao quý” [20].

Chân trời mở (Nxb Văn hoá- Thông tin, 1994) là tập thơ được Hội Liên hiệp

Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao Tặng thưởng hạng B năm 1995. Trong bài viết

“Chân trời mở từ những câu thơ”, Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã chỉ ra một số đặc điểm

đáng quý. Nổi bật hơn cả là sự hài hoà cảm xúc và trí tuệ:“Thơ Phạm Quốc Ca đằm

sâu suy tưởng, dồi dào vốn sống, bố cục chặt chẽ, câu chữ chính xác, đề tài đa dạng,

phong phú. Đó là thơ của người có tình, luôn chìm đắm trong dạt dào cảm xúc. Đó

là thơ của người có học, hiểu biết sâu rộng” [58].

Làng trong nỗi nhớ (Nxb Thanh niên, Hà Nội,1996) là tập thơ về đề tài quê

hương. Nhà thơ Vương Tùng Cương đã có nhận xét: "Với Phạm Quốc Ca, điểm xuất

phát và luôn trở về của thơ anh là làng quê ven sông Bùng, Diễn Châu, xứ Nghệ. Ta

thấy rõ bản ngã thi nhân, một người con luôn trân trọng những kỷ niệm chốn quê như

báu vật riêng mình. Chính tình cảm và lẽ sống ấy đã tạo cho tác giả nguồn cảm hứng

thi ca dồi dào”[9, tr. 8].

Tập thơ Những cánh rừng những bài ca (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004)

được trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng lần thứ I, 2013. Nhà phê bình

Trịnh Thanh Sơn đã chỉ ra đặc điểm của thơ Phạm Quốc Ca là nhiều nghĩ suy, chiêm

cảm:“Có thể thấy qua“Những cánh rừng những bài ca” một hồn thơ nhiều chiêm

cảm, mực thước mà tài hoa, rưng rưng nỗi niềm thường nhật mà suy tưởng đằm sâu.

Thơ Phạm Quốc Ca lặng lẽ đi vào lòng người, không ồn ã mà thấm thía, cẩn trọng

mà dịu dàng, minh triết mà dân dã, hồn nhiên. Thơ ấy là thơ của một người thơ thứ

thiệt, có thể đồng hành cùng thơ trong một tin cậy dài lâu”[57].

3

Phạm Quốc Ca đã có một tập thơ riêng về chủ đề tình yêu là Thơ viết trong

album (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2010). Về tập thơ này, Nhà thơ Vương Tâm đã

viết:“Phạm Quốc Ca đã bày tỏ thật nhiều điều ẩn chứa trong tim… Thơ tình của anh

vừa thanh thoát, lãng mạn dành cho tình yêu của mọi lứa đôi, vừa gần gũi tình vợ

chồng”[61].

Cơn mưa mạ vàng (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2018) là tuyển tập thơ sau gần

năm mươi năm sáng tác của Phạm Quốc Ca. Trong lời giới thiệu tập thơ, Nhà thơ

Vương Tùng Cương đã chỉ ra nét phong cách nổi bật: “ Vốn sống, vốn tri thức phong

phú, niềm đam mê và lao động sáng tạo nghệ thuật nghiêm túc đã hình thành ở Phạm

Quốc Ca một hồn thơ đa sắc, giàu nội lực… Nhưng điều quan trọng hơn cả là Phạm

Quốc Ca đã khẳng định được bản sắc riêng, cốt lõi trên con đường thơ của mình. Nói

một cách nôm na là một tạng thơ đã được xác lập- đó là bình dị mà ám ảnh”[9, tr. 6,7].

Gần đây nhất, ngày 17.10.2018, Phạm Tuấn Vũ với bút danh Tư Hương có bài

viết Một hồn thơ đằm sâu suy tưởng trên báo Bình Định.com.vn. Trong bài viết này,

tác giả đã đánh giá: "Đọc "Cơn mưa mạ vàng"ta thấy một hồn thơ rộng mở, giàu cảm

xúc nhưng cũng thật lắng sâu, đầy vẻ đẹp trí tuệ... Có thể nói "Cơn mưa mạ vàng" là

thành quả ngọt ngào của gần năm mươi năm lao động nghệ thuật nghiêm túc và đam

mê của Nhà thơ Phạm Quốc Ca. Tuyển tập thơ này có thể xem là chân dung toàn vẹn

của “một hồn thơ bình dị mà ám ảnh” [70].

Thơ hài hước của Phạm Quốc Ca chưa được in thành tập nhưng nhiều bài đã

được in trên các báo, tạp chí. Nhà thơ Hoàng Trọng Hà bất ngờ với gần trăm bài thơ

vui và chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật gây cười:“Ngòi bút của Phạm Quốc Ca hết

sức dí dỏm... Thơ hài của anh cô đọng, thường mỗi bài chỉ 4 hoặc 6 câu, mỗi câu 5,

6 từ. Mỗi bài thơ đều có cấu tứ chặt chẽ, chứa đựng sự bất ngờ. Chỉ qua mấy câu thơ

ngắn gọn, vài chi tiết và từ ngữ độc đáo, anh đã tạo được tình huống gây cười”[28].

2.2.Về những bài thơ hay của Phạm Quốc Ca

Phạm Quốc Ca có nhiều bài thơ hay, trong đó một số bài đã được trao giải

thưởng.Mỗi bài thơ hay của Phạm Quốc Ca có một vẻ riêng nhưng đều có nét chung

là cấu tứ độc đáo. Nhà thơ Chế Lan Viên trong báo cáo chung khảo Cuộc thi thơ do

4

Hội Nhà văn và Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức năm 1981 đã

nhận xét:"Từ cánh cổng hố bom" là một bài thơ có tứ hay, vì vậy viết về một đề tài cũ

mà vẫn ánh lên những vẻ đẹp mới mẻ”[ 7, tr.55].

Trên báo Người Hà Nội ra ngày 24/10/2008, Nhà thơ Lý Hoài Xuân đã nhận

xét: “Thơ Phạm Quốc Ca thấm đẫm tình yêu quê hương, tổ quốc, tình bạn và tình

cảm gia đình ruột thịt. Bài thơ nào cũng có tứ, nhiều đoạn, nhiều câu thơ hay”[72].

Đọc bài thơ“Với các em tôi", Võ Vĩnh Khuyến trên tạp chí Văn nghệ Long

An, số tháng 11- 2004, đã đánh giá cao nội lực sáng tạo của Nhà thơ Phạm Quốc

Ca: “Một năng lượng tinh thần trầm tích, chất chứa bao năm chiêm nghiệm đã tạo

nên sự thăng hoa trong cảm xúc…Bản lĩnh người lính đã tạo nên bản lĩnh ngòi bút.

Phạm Quốc Ca đã chọn riêng cho mình một cách thể hiện vừa thâm trầm vừa sâu

sắc. Nhưng trước hết và bao trùm là nhãn quan biện chứng trên cơ sở một tư duy

sắc sảo, mẫn tuệ”.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã có lời bình rất hay bài thơ Ba cây thông và

nhận xét: "Bài thơ kết cấu theo trục thời gian tuần tự nhưng thời gian nghệ thuật

được đẩy dần lên tới đỉnh điểm qua từng nấc thang rất chắc chắn và sắc bén, gây bất

ngờ cho người đọc. Bài thơ có tình thật, hình ảnh đẹp, pha thủ pháp của thơ siêu

thực, ngôn ngữ giản dị mà xúc động lòng người" (Tuyển tập Văn học dân tộc và miền

núi, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999).

2.3.Về các phương diện khác trong thơ Phạm Quốc Ca

Nhà thơ Nguyễn Trọng Bản đã có bài viết Hình tượng người mẹ trong thơ

Phạm Quốc Ca. Ông nhận xét về đặc điểm vừa cụ thể, sinh động, vừa khái quát:

"Phạm Quốc Ca đã khắc tạc bằng ngôn ngữ thơ bức chân dung rất riêng về người

mẹ của mình. Nhưng không chỉ thế. Là nhà thơ anh còn muốn vượt lên cái riêng để

nói những điều có tính chất chung ở mọi người mẹ”[4].

Về ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca, Nhà thơ Vương Tùng Cương đã nhận xét:

“ Ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca nghiêng về vẻ đẹp truyền thống dễ tiếp nhận. Sự

chuyển tải nội dung trong thơ anh rất hiệu quả do ngôn ngữ giản dị nhưng là giản dị

đầy tính nghệ thuật, sàng lọc, lựa chọn cẩn trọng. Từ ngữ trong thơ anh được đặt

5

đúng chỗ và thật đắt, mang lại hiệu quả bất ngờ, đột biến cho câu thơ, tạo dư ba, ám

ảnh trong lòng người đọc”[9, tr.11].

Trần Huyền Nhung cũng đã nhận xét: “Điều làm tôi trân trọng nhất trong thơ

anh là sự chân tình trong cảm xúc, là vẻ đẹp tinh tế đến độ tự nhiên của ngôn từ,

không phô trương, đánh bóng câu thơ”[54].

Nhà thơ Lò Ngân Sủn tâm đắc với tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ Phạm

Quốc Ca:“Những câu thơ đã nói lên được nỗi niềm của tác giả, tôi chẳng biết nói gì

thêm. Nhất là những câu thơ, những bài thơ chứa đựng trong đó nhiều tầng, nhiều

nghĩa, đa phương, đa chiều mà chính tác giả chưa chắc đã hiểu hết được thơ mình.

Bởi nếu thơ vừa đọc mà hiểu được ngay tất cả thì có lẽ chỉ là thơ bình dân chứ không

phải thơ thâm trầm, bay bổng, sâu xa…Chân trời sáng tạo của Phạm Quốc Ca đã

được mở ra từ những câu thơ như thế” [58].

Trong bài Người hoạ bức tranh quê bằng ngôn từ, Bùi Khánh Ly đã viết về

đặc điểm giàu hình ảnh trong ngôn ngữ thơ ông:"Thơ Phạm Quốc Ca đa dạng về đề

tài, phong phú về hình ảnh. Trong đó, bức tranh quê bằng ngôn từ của nhà thơ là một

giá trị nghệ thuật thật đáng yêu, đáng quý… Tất cả được thể hiện trong những vần

thơ thành bức tranh quê tuyệt đẹp"[48].

Năm 2009 Hồ Thị Hà (Trường Đại học Đà Lạt) làm Khóa luận tốt nghiệp Đại

học với đề tài "Tìm hiểu thơ PhạmQuốc Ca". Khoá luận đã đề cập tới những giá trị

nội dung cũng như nghệ thuật cơ bản nhất của thơ Phạm Quốc Ca. Luận văn có đoạn:

"Thơ Phạm Quốc Ca hay từ ý, tứ, điệu, tình. Hàng trăm bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ, bài

nào cũng có cái hay riêng với nhiều cách thể hiện đa dạng. Thơ Phạm Quốc Ca là

thơ của tâm hồn yêu cuộc sống thiết tha, dù trong hoàn cảnh nào cũng le lói ánh sáng

của niềm tin và hy vọng, tin tưởng vào tương lai cuộc đời, tương lai đất nước. Ánh

sáng đó khi như ngọn đuốc không ngừng tỏa sáng, khi như đốm than hồng âm ỉ cháy

trong đám tro tưởng chừng như nguội lạnh bên ngoài”[27].

Song khoá luận mới khảo sát 5 tập thơ, chưa có tuyển tập Cơn mưa mạ

vàng(2018). Chúng tôi nhận thấy những gì khoá luận này đã viết vẫn chưa đủ để xứng

tầm với những đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ Việt Nam đương đại.

6

Những bài viết của các nhà thơ, nhà phê bình đều thể hiện cái nhìn tinh tế, sâu

sắc và đồng cảm với thơ Phạm Quốc Ca, thống nhất đánh giá tài năng và ghi nhận

những đóng góp của thơ ông. Song đó mới chỉ là những bài báo, những bài tiểu luận

đánh giá về một bài thơ, một tập thơ, hoặc những vấn đề, đề tài cụ thể trong thơ Phạm

Quốc Ca. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống nào

về thơ Phạm Quốc Ca. Trên cơ sở kế thừa những ý kiến nhận định sâu sắc, tinh tế của

các nhà thơ, các nhà phê bình…với luận văn này chúng tôi muốn đóng góp những

cảm nhận, suy nghĩ của riêng mình về thơ Phạm Quốc Ca một cách toàn diện và hệ

thống hơn.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là thơ Phạm Quốc Ca được tác

giả tuyển chọn trong Cơn mưa mạ vàng, tuyển tập thơ 1970- 2017 (Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội, 2018).

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là chỉ ra được những đặc điểm của thơ Phạm

Quốc Ca cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, đồng thời khẳng định một phong

cách thơ giàu bản sắc, đóng góp xứng đáng vào nền thơ Việt Nam đương đại.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi cần phải đọc kỹ các tập

thơ Phạm Quốc Ca, đặc biệt là tập Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017(Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội, 2018).Các con số thống kê, phân loại dựa trên tuyển tập thơ này.

Chúng tôi cũng phải đọc hai tập tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học của Phạm

Quốc Ca: Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (2003), Thơ và mấy vấn đề văn

học (2016). Trong đó, ông có nhiều ý kiến, quan niệm về thơ rất sâu sắc, giúp soi

sáng nhiều vấn đề liên quan đến đề tài. Chúng tôi cũng cần đọc và khảo sát các công

trình nghiên cứu, các bài tiểu luận, các bài báo viết về Phạm Quốc Ca và về thơ ông.

7

Phần việc chính là tìm hiểu đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca trên phương diện nội dung

trữ tình, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…và chỉ

ra được đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ đương đại Việt Nam.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu văn hóa - lịch sử

Đây là phương pháp lấy trạng thái văn hóa - lịch sử của dân tộc trong một thời

đại nhất định để soi sáng những vấn đề văn học cần nghiên cứu. Chúng tôi sẽ vận

dụng phương pháp này để phân tích thơ viết về chiến tranh, về cuộc sống hậu chiến,

mở cửa, Đổi mới…của Phạm Quốc Ca.

- Phương pháp nghiên cứu, phê bình tiểu sử

Phương pháp nghiên cứu, phê bình tiểu sử lấy việc tìm hiểu con người tác giả

để tìm hiểu tác phẩm. Phương pháp này coi nhà văn, nhà thơ là một cá tính độc đáo,

một cái tôi sống động, hấp dẫn, thậm chí là đặc biệt. Chúng tôi sẽ vận dụng phương

pháp này để tìm hiểu, phân tích thơ Phạm Quốc Ca theo từng giai đoạn gắn với những

sự kiện trong cuộc đời nhà thơ.

- Phương pháp loại hình

Phương pháp này tập hợp các sự kiện có chung đặc điểm nào đó. Khoa học

nghiên cứu về loại hình giúp cho việc phân tích các hiện tượng phức tạp một cách

hợp lí. Chúng tôi sẽ vận dụng vào phân loại các tác phẩm theo từng nội dung trữ tình

của tác giả.

- Phương pháp thi pháp học

Thi pháp học là phương pháp nghiên cứu hình thức mang tính quan niệm của

văn học. Vận dụng phương pháp này chúng tôi sẽ chỉ ra nét riêng của thơ Phạm Quốc

Ca về phương diện nghệ thuật.

- Phương pháp nghiên cứu hệ thống

8

Đây là phương pháp tập hợp nhiều yếu tố cùng loại hoặc cùng chức năng có

quan hệ chặt chẽ với nhau để kết thành hệ thống hoàn chỉnh, nhìn các yếu tố nội dung

và nghệ thuật trong các sáng tác ở một hệ thống để có sự thống nhất thể hiện trên nhiều

cấp độ, bình diện. Từ đó thấy được nội dung trữ tình cũng như không gian nghệ thuật,

thời gian nghệ thuật, đặc điểm ngôn ngữ, giọng điệu của thơ Phạm Quốc Ca.

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là tập Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017 của nhà

thơ Phạm Quốc Ca.

Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê, phân

loại các sáng tác của Phạm Quốc Ca từ tuyển tập Cơn mưa mạ vàng.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:

Chương 1. Thơ Phạm Quốc Ca trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại

Chương 2. Nội dung trữ tình thơ Phạm Quốc Ca

Chương 3. Thơ Phạm Quốc Ca từ góc nhìn nghệ thuật

7. Đóng góp của luận văn

Với đề tài“Đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca”, luận văn của chúng tôi muốn đóng

góp một cách nhìn, cách cảm nhận mới và có hệ thống về thơ Phạm Quốc Ca trong

suốt chặng đường sáng tác gần 50 năm của nhà thơ.

Luận văn tìm hiểu, phân tích làm rõ sự vận động thống nhất của thơ Phạm

Quốc Ca trên cả hai phương diện nội dung, nghệ thuật. Từ đó góp tiếng nói khẳng

định phong cách và những đóng góp của thơ Phạm Quốc Ca đối với nền thơ đương

đại nước nhà.

9

NỘI DUNG

Chương 1

THƠ PHẠM QUỐC CA TRONG DÒNG CHẢY

THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Sáng tác của nhà văn, nhà thơ bao giờ cũng chịu sự chi phối của hoàn cảnh

văn hoá - lịch sử của thời đại và bối cảnh của giai đoạn văn học ấy. Vì vậy, trước khi

tìm hiểu đặc điểm thơ Phạm Quốc Ca cần phác họa khái quát diện mạo thơ giai đoạn

ông tham gia sáng tác để có thể "vừa thấy cây vừa thấy rừng".

1.1. Khái quát thơ Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay

Ngày 30.4.1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được toàn

thắng. Sau hơn ba mươi năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Việt Nam

được sốngtrong niềm vui thống nhất, độc lập, tự do.Đất nước bước sang trang sử mới.

Nhưng không bao lâu sau, chúng ta lại phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ

biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979).

Từ 1986 Việt Nam tiến hành sự nghiệp Đổi mới, hoà nhập với đời sống quốc tế.

Trong thời kỳ chiến tranh, mọi vấn đề của cuộc sống lùi lại nhường chỗ cho

vấn đề có ý nghĩa trọng đại của dân tộc là độc lập, tự do. Trong thời bình, những quy

luật vốn có của nó đã tác động mạnh mẽ đến lối sống, cách nghĩ, mối quan hệ nhân

sinh, xã hội của con người.

Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong lãnh

đạo. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đáp ứng thực tế

yêu cầu của cuộc sống và sự vận động khách quan của quy luật kinh tế - xã hội đất

nước ta lúc bấy giờ. Đối với lĩnh vực văn nghệ, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị nêu

rõ: “Đổi mới và nâng cao sự lãnh đạo về quản lý văn hóa văn nghệ lên một bước cao

hơn”. Đổi mới là nhu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nghị

quyết chỉ rõ cần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Bên cạnh đó, nhà nước chủ

trương mở cửa hội nhập, giao lưu rộng rãi với các nước trên thế giới. Điều đó đã tạo

điều kiện cho giới văn nghệ sĩ tự do sáng tạo. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống,

10

nhà văn và bạn đọc, tiếp nhận văn học có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Hơn ba mươi năm qua, văn học Việt Nam đã có nhiều đổi mới trên mọi bình diện,

đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi, bắt kịp với xu thế văn học thế giới. Trong

quá trình đổi mới đó,“Thơ bao giờ cũng là một thể loại mạnh, luôn chiếm ngôi vị đầu

bảng” (Đỗ Lai Thúy).

Trước hết phải nói đến sự đổi mới về tư duy thơ. Đổi mới tư duy thơ là nền

tảng, gốc rễ của mọi sự cách tân, đổi mới thơ. Sau 1975, đặc biệt là sau 1986 đã hình

thành một hệ hình nhận thức, sáng tạo mới trong thơ. Tinh thần Đổi mới tạo cơ sở

cho dân chủ hóa trong đời sống văn học. Cảm hứng thế sự và đời tư trở thành chủ

đạo, phổ biến. Văn học không chỉ là tiếng nói chung của thời đại, của cộng đồng mà

còn là phát ngôn của mỗi cá nhân. Văn học khám phá thực tại đa chiều, thức tỉnh ý

thức về sự thật, có vai trò dự báo, dự cảm. Vì thế thơ trở về cuộc sống bình dị, nhằm

tìm kiếm trong cái hằng ngày, cái đời thường một diện mạo mới, chân thực hơn. Cũng

do vậy, thơ có khả năng đi sâu vào cuộc sống với những thân phận, số phận đơn lẻ,

nhiều ẩn ức, tâm sự. Nhà thơ cũng khao khát tìm kiếm diện mạo cá nhân trong những

tương quan và chiều kích của văn hóa, lịch sử, mỹ học… Đây là lý do giải thích vì

sao thơ của thế hệ sau 1975 trở nên giàu tính tư tưởng - triết luận hơn so với trước

đó. Hiện thực trong thơ ca giai đoạn trước chủ yếu là hiện thực chiến đấu và lao động

sản xuất. Đến giai đoạn này, văn học quan niệm hiện thực chủ yếu là đời sống thế sự.

Hiện thực phải có tính chất toàn vẹn, nhiều mặt, không chỉ là cái bên ngoài dễ nhìn

thấy mà còn là cái bên trong, hiện thực của đời sống tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của

con người… Hiện thực được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều phong phú, phức

tạp chằng chịt như chính cuộc sống. Mọi ngõ ngách của cuộc sống được soi rọi và

phản ánh trong văn học.

Con người được phản ánh với những suy tư, trăn trở đời thường thời hậu chiến

với vô vàn khó khăn, thiếu thốn:

Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi

Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo

Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo

11

Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình.

(Nhà chật- Lưu Quang Vũ)

Hiện thực còn là đời sống cá nhân của con người. Con người trở thành trung

tâm phản ánh của văn học. Trong giai đoạn kháng chiến, con người được phản ánh

trong thơ là con người sử thi, con người cộng đồng. Văn học sau 1975, nhất là sau 1986

phản ánh con người ở nhiều khía cạnh trong mối quan hệ với cộng đồng, bi kịch cá

nhân hậu chiến, cả những uẩn khúc trong đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm linh. Đánh

thức tiềm lực (1982) của Nguyễn Duy, Khoảng cách giữa lời (1983) của Bằng Việt,

Bài thơ không năm tháng (1983) của Lâm Thị Vĩ Dạ, Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh,

Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi…. là những tác phẩm tiêu biểu.

Nhiều nhà thơ quan niệm thơ là tiếng nói tâm linh bí ẩn, là dòng chảy của tiềm

thức. Thế giới tâm linh của con người vốn bí ẩn và đầy phức tạp được chuyển tải qua

những ký hiệu ngôn từ đa nghĩa. Nhiều bài thơ thăm dò cõi sâu vô thức, cõi bí ẩn của

tâm linh con người.

Con người trong thơ giai đoạn này hiện lên trong nhiều vị thế, nhiều mối quan

hệ, không là nhất phiến mà là con người đa diện, đan xen tốt, xấu, "rồng phượng và

rắn rết, thiên thần và ác quỷ" (chữ dùng của Nguyễn Minh Châu). Từ quan điểm mỹ

học đó, Lê Ngọc Trà khẳng định: “Trong cuộc chạy đua ồ ạt của nhân loại về tương

lai, nhà văn không được quyền chỉ vỗ tay hoan hô mà còn phải cảnh tỉnh, không có

quyền chỉ chào đón những người anh hùng đang có đầy triển vọng mà còn phải nhìn

thấy trước và báo động về nguy cơ cái xấu đang về đích trước hay cùng lúc với cái

đẹp. Đó là nghĩa vụ xã hội độc đáo của văn học”[60].

Tác giả có giọng thơ sử thi cường tráng nhất là Tố Hữu cũng đã chuyển

dòng cảm hứng. Với giọng thơ thế sự, ông than thở tình người đen bạc, thay đổi

khôn lường. Ông băn khoăn trước lối sống thực dụng đang tràn ngập mọi hang

cùng ngõ hẻm:

Đời đâu phải thị trường nhân phẩm

Gian ác mang mặt nạ thánh hiền

Tình nghĩa cũng theo thời lạnh ấm

12

Bạc vàng đo giá trị, sang hèn?

(Chân trời mới)

Thơ sau Đổi mới thường mang âm hưởng buồn. Những nỗi buồn của con người

rất đa dạng. Chủ thể trữ tình thường tách mình ra khỏi cộng đồng, mang cảm giác cô

đơn. Cái tôi trữ tình nhận ra sự nhỏ bé của mình:

Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình

Nhân danh một chính mình tồn tại

(Thạch Quỳ)

Trong thơ còn xuất hiện những nỗi buồn rất khó gọi tên, khó diễn tả, phức tạp,

bí ẩn như:

Nhiều khi nỗi buồn của tôi như sợi len dài

Quấn xiết vào trái tim hỗn loạn

(Nỗi buồn của chiếc bóng- Phạm Thị Ngọc Liên)

Tóm lại, sau 1975 với sự chuyển biến của lịch sử xã hội, văn học nói chung,

thơ nói riêng có những đổi mới đáng kể trong tư duy về chủ thể sáng tạo cũng như

cách nhìn nhận hiện thực, con người. Điều đó đã đem đến những thành tựu mới. Mỗi

nhà thơ giai đoạn này đều khao khát tìm kiếm, thể hiện và khẳng định giọng điệu

riêng, phong cách riêng. Người cầm bút có nhu cầu tìm kiếm một lối viết mới phù

hợp với quan niệm và nhận thức mới về thơ. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ được

đề cao. Ý thức cách tân, đổi mới về hình thức nghệ thuật ở nhiều nhà thơ thật mạnh

mẽ, quyết liệt.

Trước đây, người ta thường xem thơ như là một phương tiện để chuyển tải tư

tưởng tình cảm. Nay, có nhà thơ quan niệm “Thơ là trò chơi chữ nghĩa”. Giá trị của

bài thơ nằm ở sự mới lạ về hình thức nghệ thuật. Những người nỗ lực cách tân theo

hướng thơ hiện đại là:Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Dương Tường, Hoàng Hưng,

Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn…

13

Họ không còn coi trọng vấn đề văn học phản ánh hiện thực, không quan tâm

tới nghĩa đen của câu chữ. Nhiều nhà thơ không bằng lòng với những con chữ có sẵn

xưa nay. Họ sáng tạo ra những con chữ mới, mặc cho nó vô nghĩa, lệch chuẩn, bụi

bặm… Trong bài Noel 1:

Nen ren em quen

Em về phố lặng

Lòng đổ chuông

llềnh lluềnh nước

Dương Tường sáng tạo ra một kiểu thơ có thể cảm thụ bằng nhiều giác quan.

Có nhiều từ lạ lẫm (trong từ điển tiếng Việt chưa có) để mô phỏng âm thanh của phố

xá. Cách sắp xếp độ dài ngắn các câu cũng tạo ra những ấn tượng thị giác, kích thích

trí tò mò của người tiếp nhận.

Đi đôi với việc đổi mới ngôn ngữ thơ là sự mở rộng quan niệm về thể loại

thơ. Thể thơ lục bát vẫn tiếp tục được sáng tác nhưng biến thể rất nhiều. Thể thơ

tự do được sử dụng phổ biến. Sự sáng tạo thể thơ tự do chủ yếu thể hiện ở lối vắt

dòng, ngắt nhịp và tạo hình cho bài thơ. Thơ Haiku vốn là một thể thơ truyền thống

của Nhật Bản nhưng ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã vận động

sáng tác một thể loại mới là thơ Haiku Việt. Thơ văn xuôi đã được sáng tác từ

Phong trào Thơ mới 1932-1945. Từ Đổi mới, thơ văn xuôi phát triển mạnh mẽ và

có nhiều hình thức tồn tại, rất đa dạng: Nhân chứng của một cái chết (Nguyễn

Quang Thiều), Ô mai (Đặng Đình Hưng), Bài thơ hai từ (Trần Tiến Dũng), Mười

bài tập mùa xuân (Mai Văn Phấn), Phóng đãng của trí nhớ (Nguyễn Quốc

Chánh)…

Về mặt kết cấu, phổ biến trong thơ thế hệ Đổi mới là kiểu kết cấu mở, câu chữ,

hình ảnh được lắp ghép một cách như là ngẫu nhiên, phi logic, tạo nên nhiều “khoảng

trắng” trong xúc cảm và liên tưởng. Bài thơ thường được tổ chức theo hướng vận

động của vô thức, trực giác... Đấy là một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ

chức như một cấu trúc vận động, không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như

trong kết cấu truyền thống. Tiêu biểu như: Hồi tưởng (Nguyễn Quang Thiều), Biến

14

tấu con quạ (Mai Văn Phấn), Liên bút từ sen Huế (Nguyễn Lương Ngọc), Tiếng

địch (Dương Kiều Minh), Nhẹ (Nguyễn Bình Phương), Nơi chốn trong sự ra đi (Trần

Tiến Dũng)...Một mặt, kiểu tổ chức văn bản này khiến người đọc thực sự hoang mang

khi muốn quy tụ mọi hình ảnh, câu chữ chừng như tứ tán, hỗn loạn vào một ý nghĩa

đơn nhất, khép kín. Mặt khác, nó “giải phóng” óc liên tưởng, tưởng tượng, “vẫy gọi”

những cách lý giải đa chiều về tác phẩm.

Thơ sau 1975 đã tạo nên thời gian, không gian nghệ thuật mới, vượt ra khỏi từ

trường thơ truyền thống, giúp đa dạng hóa thời gian, không gian thẩm mỹ của thơ.

Thời gian, không gian trong văn học 1945-1975 là thời gian, không gian gắn với

những sinh hoạt chung của cộng đồng nhằm nêu cao tinh thần đoàn kết tập thể, hay

thời gian, không gian chiến trận trong cuộc chiến tranh ác liệt một mất, một còn. Văn

học sau 1975 hướng vào những phạm vi thời gian, không gian nhỏ hơn thuộc về thế

giới cá nhân riêng tư của con người như thời gian, không gian của sinh hoạt gia đình,

của cá nhân. Đặc biệt không gian được mở rộng về chiều sâu - không gian tâm linh

mà văn học giai đoạn trước không có.

Nhìn chung, thơ Việt Nam sau năm 1975 đã cố gắng phá vỡ những khuôn khổ

của nền thơ sử thi. Nó đi tìm lối thể hiện mới trên tất cả các phương diện. Thơ sau

1975 là tiếng nói cá nhân đi sâu vào đời sống nội cảm của con người. Mỗi nhà thơ

đều cố gắng tạo cho mình phong cách mới mẻ, độc đáo, góp phần vào sự phát triển

của thơ.

1.2. Phạm Quốc Ca – cuộc đời và văn nghiệp

Làm thơ trong khói lửa chiến trường chống Mỹ ở Đông Nam Bộ nhưng Phạm

Quốc Ca thuộc thế hệ nhà thơ xuất hiện sau 1975 và chủ yếu góp phần vào thành tựu

của nền thơ Đổi mới.

1.2.1.Vài nét về tiểu sử nhà thơ Phạm Quốc Ca

Nhà thơ Phạm Quốc Ca sinh ngày 5 tháng 3 năm 1952 tại một vùng quê không

chỉ giàu truyền thống văn hoá, mà còn là đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân

dân giai đoạn chống Mỹ. Đó là xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Làng

Thọ Khánh quê ông là một làng nhỏ xanh mát tre, dừa bên con sông Bùng - dòng

15

sông xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Quốc Ca, dòng sông đã nuôi lớn những tâm hồn

thi sĩ: Trần Hữu Thung, Võ Văn Trực, Nguyễn Trọng Tạo…

Phạm Quốc Ca được sinh ra trong một gia đình nổi tiếng hiếu học. Ông ngoại

là thầy đồ Nho thế hệ cuối cùng. Thân sinh nhà thơ là ông Phạm Bân - một người

thông thạo chữ Nho, hiền lành, nhân hậu, mất năm 1963, hưởng dương 53 tuổi. Mẹ

là bà Trần Thị Tiếu, một phụ nữ nông dân đảm đang, một từ mẫu nổi tiếng thương

con và lao động giỏi. Chồng mất khi bà mới 45 tuổi, một mình đóng hai vai, bà đã

nuôi nấng các con trưởng thành. Phạm Quốc Ca đã làm nhiều bài thơ xúc động về mẹ

như: Hương lúa miền Trung, Bình minh con sẽ lên đường, Đêm lời mẹ ru, Bên mồ

mẹ… Mẹ của nhà thơ mất năm 1982, hưởng thọ 67 tuổi. Nhà thơ có tám anh chị em.

Anh Phạm Văn Cừ kính yêu của Nhà thơ là Liệt sĩ, hy sinh tại Tây Ninh năm 1969,

được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Ba. Bài thơ Viết trong ngày giỗ anh

của Phạm Quốc Ca được trao Giải Nhất Cuộc thi sáng tác về đề tài Thương binh, liệt

sĩ của Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh năm 1984.

Tiến sĩ, Nhà thơ Phạm Quốc Ca là một trong những học sinh cũ nêu gương

sáng học tập và phấn đấu của Trường Trung học cơ sở xã Diễn Kỷ, Trường Phổ thông

Trung học Diễn Châu 2. Phòng Truyền thống Trường Trung học cơ sở xã Diễn Kỷ

quê nhà vinh danh gia đình nhà thơ là hiếu học và thành đạt (có bốn Tiến sĩ:Phạm

Đình Thái, Phạm Quốc Ca, Phạm Tuấn Vũ, Phạm Triều Dương). Nối nghiệp gia đình,

Thạc sĩ Phạm Quang Huy - con trai Nhà thơ sẽ bảo vệ Luận án Tiến sĩ Tin học tại

Canada trong tháng 12 năm 2019.

* Tuổi học trò

Phạm Quốc Ca mồ côi cha năm 1963, năm lên 11 tuổi. Tuổi thơ phải sống

dưới bom đạn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, đồng thời chứng kiến cuộc chiến

đấu chống trả máy bay giặc ngay trên quê hương xã Diễn Kỷ anh hùng. Đây là một

vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, học sinh phải học dưới hầm thùng, nhiều

lúc phải học đêm với ánh sáng le lói của ngọn đèn phòng không.Tình yêu văn chương

ở nhà thơ tương lai được nhen nhóm dưới mái trường cấp I, cấp II, được khơi dậy từ

những tác phẩm văn học Nga, văn học Xô viết, văn học Trung Quốc… do người anh

ruột là Phạm Đình Thái từ Hà Nội gửi về và từ thầy giáo Nhà thơ Nguyễn Trọng Bản

16

mà anh kính trọng và yêu mến suốt đời. Trong một hồi ức về tuổi thơ, Phạm Quốc Ca

tâm sự: “Tôi chỉ sống một nửa với thế giới hiện thực lúc bấy giờ. Một nửa tâm trí tôi

sống trong thế giới mà các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra”.

Phạm Quốc Ca là Đội trưởng thiếu nhi xã, nhiều lần cùng các bạn nhỏ chặt lá

nguỵ trang cho bộ đội, tham gia cứu thương, cứu pháo cao xạ khi trận địa bị trúng

bom. Phạm Quốc Ca luôn dẫn đầu về thành tích học tập, tất cả các môn học đều đạt

điểm cao nhất, riêng môn Văn hai lần đoạt giải Nhất các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh

Nghệ An (1964, 1970). Năm 1965 Phạm Quốc Ca được Bác Hồ gửi tặng thưởng.

Chính tay Người viết vào cuốn sổ tay rất đẹp dòng chữ:“Phần thưởng của Bác Hồ

tặng cháu Phạm Quốc Ca”. Năm 1967, đang là học sinh lớp 7, vì thành tích học tập

xuất sắc và tham gia phục vụ chiến đấu Phạm Quốc Ca được thay mặt thiếu nhi toàn

huyện tham gia Đại hội mừng công chống Mỹ, cứu nước của Huyện đội Diễn Châu.

Phạm Quốc Ca còn được UBND tỉnh Nghệ An và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí

Minh tặng bằng khen về thành tích học tập (1970).

* Đời lính Quân giải phóng miền Nam

Ngày 21.4.1970 Phạm Quốc Ca lên đường nhập ngũ, tham gia cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước khi còn là cậu học sinh lớp 10 giàu mơ mộng, chỉ nặng 42

kg. Trong chiếc ba lô ra chiến trường, Phạm Quốc Ca lặng lẽ mang theo tập 2 bộ tiểu

thuyết Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy và ấp ủ mơ ước trở thành nhà văn,

nhà thơ. Sau 4 tháng cõng ba lô leo Trường Sơn chàng lính trẻ được bổ sung vào Tiểu

đoàn 28 Đặc công của Sư đoàn 9 Anh hùng, chiến đấu tại Campuchia và Đông Nam

Bộ. Phạm Quốc Ca đã tham gia chiến dịch Đường số 6 (Kampong Thom,

Campuchia), 1971; Chiến dịch Nguyễn Huệ (Bình Long), 1972; Chiến dịch Hồ Chí

Minh, 1975; được Sư đoàn 9 tặng danh hiệu Dũng sĩ trong Chiến dịch Nguyễn Huệ

(1972), Quân đội tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất (1975),

Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất (1984).

* Trở thành giảng viên Đại học, nhà thơ

Năm 1977, Phạm Quốc Ca được Quân đội cho chuyển ngành, học khóa 22

(1977 - 1981) Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

17

Năm 1983, Phạm Quốc Ca được nhận vào giảng dạy văn học Việt Nam tại

Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Đà Lạt. Vừa giảng dạy, nghiên cứu khoa học, ông

vừa hoạt động văn học; là nhà thơ, nhà lý luận phê bình, dịch giả Văn học Nga, hội

viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Từ 1989 đến 1990 Phạm Quốc Ca là thực tập sinh tiếng Nga tại Trường Đại

học Sư phạm Ngoại ngữ Piatygorxk, Cộng hoà Liên bang Nga. Chuyến đi thực tập

để lại ấn tượng sâu sắc để nhà thơ sáng tác những bài thơ hay về nước Nga và dịch,

giới thiệu nhiều tác phẩm thơ Nga, truyện ngắn Nga.

Năm 2003 Phạm Quốc Ca bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Ngữ văn với đề

tài Những đặc điểm cơ bản của thơ Việt Nam giai đoạn 1975-2000 tại Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.

Phạm Quốc Ca đã đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng khoa Ngữ văn Đại học Đà

Lạt, Ủy viên UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội

Văn học - Nghệ thuật Lâm Đồng. Phạm Quốc Ca hiện là Uỷ viên Hội đồng Lý luận phê

bình Hội Nhà văn Việt Nam, sống và sáng tác tại thành phố Đà Lạt.

1.2.2. Quan niệm thơ của Phạm Quốc Ca

Theo thời gian, tùy từng thời đại, từng xu hướng, từng quan niệm cá nhân mà

các nhà nghiên cứu, nhà thơ đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về thơ. Quả thật đây

là một lĩnh vực khá phức tạp. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Chả lẽ tôi hì hục làm

thơ mấy chục năm trời lại trả lời rằng thơ cũng khó định nghĩa như điện, như tình

yêu ấy. Thế thì điệu quá, làm bộ làm tịch quá. Nhưng thực ra tôi chưa hiểu hết thơ

đâu. Tôi cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi, viết hẳn hoi nhưng lần này

định nghĩa thì lần sau nắn lại. Chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung. Vẫn còn

nghĩ tiếp”[11].

Là nhà thơ, nhà lý luận phê bình Phạm Quốc Ca luôn trăn trở, mong muốn góp

phần mình vào thi học. Quan niệm thơ của ông được thể hiện tập trung trong các bài:

Thơ như tôi quan niệm,Văn chương tinh hoa và văn chương đại chúng và nhiều bài

viết khác trong Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (chuyên luận,2003), Thơ và

mấy vấn đề văn học (tiểu luận, 2016).

18

Phạm Quốc Ca quan niệm: “Viết văn, làm thơ là công việc cao quý đòi hỏi

cùng lúc cả tài lẫn tâm. Khởi đầu đó là hành động tự giải thoát những điều chất chứa

trong tâm hồn, không viết ra không được nhưng kết quả của việc sáng tác lại phải

góp phần làm giàu thêm kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Vì vậy văn chương

đồng nghĩa với sáng tạo và có vô vàn lối, vô vàn vẻ đẹp khác nhau. Tự do sáng tác

bao hàm trong đó sự tôn trọng cái khác mình nơi đồng nghiệp" [39, tr.117].

Theo Phạm Quốc Ca: “Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn từ, sáng tạo theo các

nguyên lý: Lạ hóa, có tính nhạc và sử dụng tối ưu các thủ pháp nghệthuật, nhằm chia

sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một giá trị thẩm mỹ độc

đáo”[11,tr.10].

Điều đầu tiên Nhà thơ muốn nhấn mạnh trong địnhnghĩa của mình: “Thơ là

loại hình nghệ thuật ngôn từ…Thơ muốn mang bất cứ sứ mệnh lớn lao nào thì trước

hết phải có chất thơ" [11, tr.11]. Mỗi nhà thơ phải là nhà nghệ sĩ ngôn từ. Tài năng

của nhà thơ phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Làm thơ là quá trình lao động sáng tạo

miệt mài:

Phải tốn hàng nghìn cân quặng chữ

Để thu về một chữ mà thôi.

(V. Mayacovsky)

Theo Phạm Quốc Ca, lạ hoá không chỉ là thủ pháp mà còn là nguyên lý căn

bản của thơ: “Nhà thơ là người không chịu nhìn cuộc sống theo quan niệm của số

đông, của “lẽ phải thông thường” đã trở nên quen thuộc, sáo mòn…Sứ mệnh của thơ

là sáng tạo cái mới” [11, tr.11]. Thơ ca không chấp nhận sự rập khuôn máy móc của

tư duy mà luôn đòi hỏi cái mới, gây nên sự ngạc nhiên, thú vị ở người đọc qua khả

năng tìm ra cái mới trong thế giới đã quen thuộc, khám phá những điều chưa biết

trong thế giới tinh thần của con người, mới trong cách dùng từ và các thủ pháp nghệ

thuật. Phạm Quốc Ca cho rằng: “Nhà thơ chân chính luôn là người đi trước tầm đón

nhận của công chúng bạn đọc ít nhất “nửa vành bánh xe”.

Theo Phạm Quốc Ca thơ có thể không cần vần nhưng phải có tính nhạc. Ông

viết:"Tính nhạc không chỉ phân biệt thơ với các loại hình nghệ thuật ngôn từ khác

19

mà còn làm cho mỗi bài thơ là một sinh thể nghệ thuật độc đáo, không lặp lại. Có thể

nói mỗi bài thơ hay thật sự đều có một cấu trúc nhạc tính riêng. Có thể độc giả chưa

kịp hiểu về ngữ nghĩa ngôn từ nhưng nhạc tính của thơ đã cuốn hút người đọc. Trong

thơ hiện đại, mỗi bài thơ có nhạc điệu riêng và thơ tự do là hình thức phù hợp nhất

để tạo tính nhạc độc đáo cho thơ".

Thơ trước hết là nghệ thuật ngôn từ , vì vậy các thủ pháp nghệ thuật có một

vai trò rất quan trọng đối với thơ: "Chất thơ thể hiện không chỉ ở nội dung trữ tình

mà còn ở chỗ nhà nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng các thủ pháp nào".

Trên con đường phát triển thơ vừa tích luỹ các thủ pháp nghệ thuật truyền

thống như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…, vừa không ngừng sáng tạo các thủ pháp mới

mới. Ví dụ như phong trào Thơ mới 1932-1945 đã đem đến cho thơ Việt Nam các

thủ pháp nghệ thuật mới như: Miêu tả khách thể thẩm mỹ một cách cụ thể, cảm tính

(thơ “tả chân”), tương hợp cảm giác, đặt cạnh nhau những từ xa nhau về ngữ

nghĩa…Mỗi nhà thơ phải sáng tạo nên những thủ pháp nghệ thuật mới mẻ, mang dấu

ấn phong cách riêng.

Điều cuối cùng cần nói trong định nghĩa về thơ của Phạm Quốc Ca là: Thơ

“nhằm truyền đến người đọc những thông điệp trữ tình mới mẻ trong một giá trị thẩm

mỹ độc đáo”.

Ông cho rằng: “Thơ không thể vô nghĩa lý, không có một thông điệp nào đến

người nghe, người đọc. Thông điệp ấy có thể là một cảm xúc, một tâm trạng, một suy

nghĩ có tính minh triết về cuộc sống, về con người... có chất thơ. Thông điệp ấy có

thể là một kinh nghiệm thẩm mỹ về cuộc sống, con người và về bản thân ngôn

ngữ. Vấn đề là những thông điệp trữ tình phải thực sự mới mẻ. Vấn đề cần nhấn mạnh

là những thông điệp trữ tình mới mẻ ấy phải đến với người đọc trong một giá trị thẩm

mỹ độc đáo”[11, tr. 15].

Gần đây nhất, trên báo Văn nghệ Thái Nguyên số ra ngày 29.12.2018, Phạm

Quốc Ca có bài viết: “Thử nghĩ về những yếu tố làm nên thơ hay”. Theo ông, dù đổi

mới đến đâu thì thơ cũng phải sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Thơ vốn vô cùng

phong phú. Thơ hay cũng thiên hình vạn trạng. Phạm Quốc Ca cho rằng: “Thơ hay là

20

thơ giàu chất nhân bản, có những ý tưởng minh triết về đời sống và có sáng tạo về

thi pháp. Bài thơ hay là khi “đọc thì xúc động, nghĩ thì sâu xa” với những dư âm, dư

vị không cùng”. Phạm Quốc Ca quan niệm thơ hay bao gồm những yếu tố:

-Có nội dung trữ tình giàu tính nhân bản và mới lạ.

- Có cấu trúc tứ thơ độc đáo.

- Có nhạc tính độc đáo

- Có ngôn ngữ thơ mới lạ

- Có sáng tạo về nghệ thuật

Đã có rất nhiều quan điểm cũng như cách định nghĩa về thơ. Có định nghĩa

thơ nghiêng về mặt nội dung. Có định nghĩa lại nghiêng về nghệ thuật biểu hiện.

Phạm Quốc Ca đã đưa ra quan niệm khá toàn diện và có tính khái quát về thơ, có

đóng góp đáng trân trọng cho thi pháp học.

Toàn bộ các tác phẩm thơ của ông đã chứng minh cho quan điểm trên. Nhà

thơ Phạm Quốc Ca đã mang đến thi đàn một phong cách thơ trữ tình sâu đậm. Sự đổi

mới trong thơ ông chính là biết kế thừa có sáng tạo những tinh hoa thơ dân tộc và nỗ

lực đổi mới về ngôn ngữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật…Phải chăng đó là do

Phạm Quốc Ca là một nhà giáo, luôn ưa sự mẫu mực. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đã

viết về thơ ông và thơ các nhà giáo khác: “Sự đổi mới cách tân của họ, nếu có cũng

từ từ, cẩn trọng. Nó hầu như không có sự bung phá đảo lộn dữ dội, lại càng không

đề cao cái gọi là tính dục một cách lộ liễu. Đấy là điều theo tôi, các bạn làm thơ trẻ

cần suy nghĩ, cân nhắc. Ta nên học hỏi nhiều người nhưng trước hết phải học ở những

người có học, những người “hay chữ” theo cách nói của ông cha ta ngày xưa. Thơ

phải biết cống hiến cho cái đẹp” (Báo Giáo dục và thời đại, số đặc biệt, tháng

12/2005).

Thơ Phạm Quốc Ca là thơ của con người đa cảm, chân thành, nồng hậu, dạt

dào cảm xúc. Đó là thơ của người nghệ sĩ luôn trăn trở sáng tạo:

Thầm nung nấu cho một giờ rực sáng

21

Hạnh phúc sao khi ta cháy hết mình

(Tản mạn đêm không ngủ)

Có lẽ vì thế nên dù cuộc sống có khá nhiều đổi thay khiến nhiều người không

còn mặn mà với thơ, gần năm mươi năm qua Phạm Quốc Ca vẫn bền bỉ, chung thủy

với thơ.

1.2.3. Hành trình thơ Phạm Quốc Ca

Phạm Quốc Ca bắt đầu làm thơ từ năm 1970, khi gia nhập quân đội và đã kinh

qua hai giai đoạn sáng tác thơ: Trước và sau 1975. Bài thơ đầu tiên được in là bài

Trong hầm vây ép được in trên tập san Dũng sĩ (Sư đoàn 9) năm 1972. Bài thơ có

những hình ảnh lãng mạn:

Chúng tôi ở trong hầm vây ép

Dưới mưa trời và bão giông sắt thép

Toàn thân mình đỏ đất quê hương

Nhìn nhau cười thêm gần gũi thân thương…

Có thể nói đây là giai đoạn khởi động ban đầu của một hành trình thơ. Nhiều

bản thảo thơ viết dưới tầm bom pháo trong sổ tay sẽ được sửachữa, nâng cao dưới

mái trường đại học sau ngày hoà bình, thống nhất.

Năm 1977, Phạm Quốc Ca được chuyển ngành học Khoa Ngữ văn, Trường Đại

học Tổng hợp Hà Nội danh tiếng. Học vấn, không khí văn chương và vốn sống kháng

chiến đã chắp cánh cho hồn thơ của người lính vừa hoàn thành nghĩa vụ cứu nước. Trong

bốn năm là sinh viên nhiều bài thơ của Phạm Quốc Ca đã được in trên Tạp chí Văn nghệ

Quân đội, Báo Văn Nghệ, được giới thiệu trên Đài Tiếng nói Việt Nam…

Từ năm 1983 Phạm Quốc Ca trở thành giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại

học Đà Lạt. Ông hoạt động tích cực trên ba lĩnh vực: Lý luận phê bình, dịch văn học

và sáng tác thơ. Lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu tốt đẹp. Nhiều bài

thơ Nga được ông chuyển ngữ một cách nhuần nhuyễn. Hai tập sách lý luận phê bình

22

của ông điều được tặng thưởng cấp trung ương. Nhưng sáng tác thơ là lĩnh vực Phạm

Quốc Ca gặt hái nhiều thành công hơn cả.

Đến nay, Phạm Quốc Ca đã sáng tác khoảng 250 bài thơ. Ông đã in 6 tập thơ:

1. Tiếng trầm, Sở văn hóa Thông tin Lâm Đồng, 1987.

2. Chân trời mở, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1994.

3. Làng trong nỗi nhớ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1996.

4. Những cánh rừng những bài ca, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004.

5. Thơ viết trong album, Nxb Hội Nhà văn,Hà Nội, 2010.

6. Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017, Nxb Hội nhà văn, 2018.

Ngoài ra, Phạm Quốc Ca đã hoàn thành bản thảo tập thơ hài hước Tốt! tốt gồm

100 bài, hầu hết các bài đã được in trên các báo, tạp chí.

Phạm Quốc Ca đã được tặng 12 giải thưởng, tặng thưởng văn học, trong đó có

4 giải thưởng lý luận, phê bình, 8 giải thưởng thơ. Có thể kể một số giải thưởng tiêu

biểu như:

- Giải Nhì cuộc thi thơ do báo “Tuổi trẻ” tp. Hồ Chí Minh tổ chức, 1980 (trao

cho bài thơ “ Gửi bạn bè lên biên giới Bắc”).

- Giải Nhì cuộc thi thơ do Hội Nhà văn - Thành đoàn Tp Hồ Chí Minh tổ chức

1981 (trao cho bài Từ cánh cổng-hố bom)

- Giải Nhất cuộc thi thơ do Hội Nhà văn - Sở Lao động - Thương binh - Xã

hội tp Hồ Chí Minh tổ chức năm 1984 (trao cho bài thơ Viết trong ngày giỗ anh).

- Giải Nhì (giải cao nhất) cuộc thi thơ do Sở Văn hóa Lâm Đồng tổ chức 1985

(trao cho bài thơ Gieo mùa).

- Tặng thưởng hạng B của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ

thuật Việt Nam, 1995 (trao cho tập thơ Chân trời mở).

- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng lần thứ I, 2013 (trao cho tập

thơ Những cánh rừng những bài ca).

23

Tiểu kết chương 1

Có thể khẳng định rằng, hoàn cảnh lịch sử đã ảnh hưởng lớn tới tư duy, quan

điểm sáng tác của các nhà thơ. Sau 1975, khi đất nước hòa bình, thơ ca có sự chuyển

mình mạnh mẽ cả nội dung và nghệ thuật. Với lối tư duy mới hiện đại, thơ sau 1975

quan tâm tới mọi ngõ ngách của hiện thực đời sống và thế giới nội tâm của con người

như nó vốn tồn tại. Mỗi nhà thơ đều không ngừng tìm kiếm lối đi mới và khẳng định

phong cách của riêng mình.

Với quan niệm:“Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn từ, sáng tạo theo các nguyên

lý: Lạ hóa, có tính nhạc và sử dụng tối ưu các thủ pháp nghệ thuật, nhằm chia sẻ với

người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một giá trị thẩm mỹ”[11,tr.10], nhà thơ

Phạm Quốc Ca đã vừa cẩn trọng, vừa say mê, không ngừng nỗ lực sáng tác và đã tạo

được cho mình một phong cách thơ đáng nhớ. Thơ Phạm Quốc Ca thể hiện tình yêu

tha thiết đối với tổ quốc, quê hương, tình yêu con người và cuộc sống với cảm hứng

nhân văn sâu sắc. Đồng thời, thơ ông cũng để lại nhiều ấn tượng trong cách tân nghệ

thuật.

24

Chương 2

NỘI DUNG TRỮ TÌNH THƠ PHẠM QUỐC CA

Thơ là tiếng nói nghệ thuật của đời sống tư tưởng, tình cảm con người. Nội

dung trữ tình là một trong hai phương diện cơ bản của tác phẩm văn học nói chung,

thơ ca nói riêng. Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Nội dung tác phẩm là hiện

thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà

văn. Đó là một hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào

nhau.” [29 , tr.207]

Trên cơ sở nhận thức lý luận đó chúng tôi thấy trong thơ Phạm Quốc Ca có

những nội dung trữ tình cơ bản như sau.

2.1. Thơ thể tài lịch sử dân tộc của Phạm Quốc Ca

Thơ thuộc thể tài lịch sử dân tộc là các tác phẩm có cảm hứng nghệ thuật ngợi

ca lịch sử dân tộc, đề cập tới quá trình hình thành dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với quê hương, đất nước. Thơ Phạm Quốc

Ca nổi bật lên nội dung trữ tình này do bắt nguồn từ một khát vọng sống và sáng tác

có tính định hướng tự giác. Trong một bài viết, ông cho biết từ đầu năm học lớp 5 đã

tự đổi tên mình từ Phạm Đình Ca thành Phạm Quốc Ca (đồng thời là bút danh) có ý

nghĩa là bài hát ca ngợi tổ quốc.

2.1.1.Thơ sử thi giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa

lịch sử lớn lao mang tính quyết định vận mệnh chung của cộng đồng dân tộc. Nhân

vật trữ tình là những con người tiêu biểu cho lý tưởng và phẩm chất cộng đồng mà

nổi bật lên là chủ nghĩa anh hùng. Các nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm theo

khuynh hướng sử thi, dù là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi,

thành phần dân tộc... đứng giữa thực tại đầy đau khổ, mất mát, đau thương nhưng đều

mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện tầm vóc lớn lao, kết tụ sức

mạnh, ý chí chung của cả cộng đồng, luôn vươn tới những cái lớn lao, phi thường,

luôn hướng về tương lai, về lí tưởng và tìm thấy niềm vui, sự lạc quan từ chính thực

25

tại cuộc sống. Nhà văn Anh Đức đã viết:"Nơi dòng đời chảy xiết, nơi máu đổ, nơi

tình huống khó khăn gian khổ nhưng lại là nơi có thể viết nên những trang đẹp nhất".

Cảm hứng lãng mạn mang nội dung trữ tình sôi nổi, dạt dào, hướng về lý

tưởng, hướng về tương lai. Dòng cảm nghĩ của tác giả đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ

gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Cảm hứng lãng mạn là

cách nhìn thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, đầy mơ ước. Hiện thực chiến tranh vô

cùng khốc liệt, muốn đứng vững và vượt qua hiện thực ấy cần phải có niềm tin và

cảm hứng lãng mạn. Đây là cảm hứng chi phối mạnh mẽ đến sáng tác của các nhà

thơ trong kháng chiến, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ.

Vốn đam mê thơ từ hồi còn đi học, lại được tiếp thêm nguồn cảm hứng của

thời đại, Phạm Quốc Ca đã ý thức sâu sắc trách nhiệm dùng thơ phụng sự đất nước

và nhân dân. Trực tiếp cầm súng và cầm bút vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến

chống Mỹ, Phạm Quốc Ca nhanh chóng hội nhập vào không khí chung của nền thơ,

đồng thời khắc phục được cái nhìn dễ dãi về hiện thực, những công thức, khuôn sáo

và những lời hô hào đây đó trong thơ đương thời.

Bài thơ đầu tiên được công bố của Phạm Quốc Ca là bài “Trong hầm vây ép”

in năm 1972 trên tập san Dũng sỹ của Sư đoàn 9. Khi đó người lính trẻ của Sư đoàn

9 nổi tiếng miền Đông Nam Bộ tròn 20 tuổi:

Chúng tôi ở trong hầm vây ép

Tầm tã mưa trời và mưa sắt thép

Toàn thân nhuộm đỏ đất quê hương

Nhìn nhau thêm gần gũi, thân thương…

Bài thơ khắc hoạ hình ảnh những người lính tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ

tại chiến trường Bình Long. Cảm hứng lãng mạn đã bỏ qua thực tế khốc liệt của cuộc

chiến đấu, vẽ lên chân dung tập thể những con người coi thường gian khổ, ác liệt.

Từng trải nhiều hơn những gian khổ, mất mát, hy sinh, cảm hứng lãng mạn

trong thơ Phạm Quốc Ca tìm được sự hài hoà với cảm hứng hiện thực. Bài thơ Khát

ghi lại một cuộc hành quân đêm gian khổ:

26

Xuyên dọc đêm bom

Hành quân

Khát

Cây cháy bên đường

Đỏ nghìn con mắt hồng hoang

Theo chân bạn mà đi

Dẫm lên tro lên than

Bỏng rát nỗi đau thân hình đất nước.

Hình ảnh người yêu xuất hiện trong nỗi nhớ đã làm tươi mát tâm hồn người lính:

Nhưng lúc này đây

Để không ngã khuỵ

Bởi cơn khát cháy người

Anh nghĩ về em

Ngôi sao Mai ở cuối màn đêm

Long lanh sáng

Long lanh giọt nước.

Sẽ không thể có hình ảnh người yêu và hình ảnh ngôi sao Mai long lanh sáng

giữa không gian đêm nồng nã, bỏng rát không khí chiến trường nếu tâm hồn nhà thơ

không có cảm hứng lãng mạn.

Suốt năm năm làm lính chiến trường, Phạm Quốc Ca đã nếm trải bao cảnh

tượng đạn bom khốc liệt:

Bom xới nát mặt đường 13

Đồi Tân Khai mịt mù "cửa tử"

Pháo dội đinh tai

Căn hầm nhang nháng lửa

27

Mặt trời loà

Đi trong khói đen

(Uống mưa)

Nhưng tâm hồn người lính trẻ thi sĩ vẫn có những phút giây bay bổng diệu kỳ

cùng thiên nhiên, đất trời tổ quốc:

Sáng nay tôi lên khỏi chiến hào

Sững sờ gặp lâm châm xanh lá cỏ

Tận cùng thanh sạch, tơ non

Bầu trời xanh trong màu mắt trẻ

Mây trắng mỏng như một thoáng mơ màng.

(Uống mưa)

Phải có một tâm hồn trong trẻo, một tình yêu cuộc sống sâu sắc đến nhường

nào, thi sĩ mới viết lên được những câu thơ mang vẻ đẹp thuần khiết đến vậy.

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cũng thật đậm nét trong bài Cửa

rừng:

"Giờ G rồi sẽ điểm

Đất gầm lên pháo tăng

Quân ta như thác lũ

Sẽ tràn xuống Sài Gòn"

Hình ảnh đoàn quân trong thời khắc vào chiến dịch Tổng tiến công thật kỳ vĩ.

Cảm hứng chủ đạo khi xây dựng hình tượng tập thể này là cảm hứng lãng mạn với

thủ pháp cường điệu hóa. Không gian đất nước rộng lớn tôn thêm tầm vóc vĩ đại của

đoàn quân. Bước chân của những người lính khiến cho đá phải nát, đèo núi phải

nghiêng mình. Và thật đẹp là hình ảnh giàu tính biểu tượng ở khổ kết bài thơ:

Sau lưng hoàng hôn đỏ

Trước cửa rừng trăng treo

28

Dù chiến tranh gian khổ, khốc liệt nhưng trong trái tim các chiến sĩ luôn cháy

sáng niềm tin tất thắng.

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong thơ Phạm Quốc Ca vừa

phản ánh hiện thực đời sống kháng chiến trong quá trình vận động, phát triển vừa

thấm nhuần tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Đồng

thời những vần thơ đó cũng phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người lính trẻ thi sĩ.

2.1.2. Thơ tái hiện chiến tranh sau 1975

Có thể nói một cách đơn giản cảm hứng bi tráng là sự kết hợp của cái bi với

cái hùng. Cảm hứng bi tráng trong tác phẩm văn học thể hiện ở chỗ không né tránh

hiện thực gian khổ, mất mát, đau thương. Gian khổ, đau thương nhưng không phải

là bi lụy. Cái bi được thể hiện hoà hợp với giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ,

hào hùng.

Chiến tranh qua đi, Phạm Quốc Ca thấy thật may mắn khi:“Mình được sống

ngày hòa bình, thống nhất”(Hạnh phúc). Thế nhưng, trong suốt cuộc đời mình, lòng

nhà thơ lúc nào cũng sống cùng ký ức về những ngày chiến đấu dữ dội, về sự hy sinh

của người thân và bạn bè. Cái giá của chiến thắng thật nặng nề, ghê gớm. Ngay gia

đình nhà thơ cũng đã mất người anh liệt sĩ Phạm Văn Cừ mới 21 tuổi.

Theo lời kể, ngay lần đầu nếm mùi chiến tranh Phạm Quốc Ca đã cùng hai đồng

đội chui hàng rào dây thép gai trinh sát đồn của quân Lon Non (Campu chia) tại

Kampong Thom. Không may bị lộ, ba người phải trườn dưới làn đạn đại liên rát rạt và

đạn M.79 nổ đinh tai, tung khói bụi mịt mù. Phạm Quốc Ca chỉ bị hai vết thương nhẹ

vào tay do miếng M.79, nhưng trái tim thì buốt nhói, xót xa trước sự hy sinh của đồng

đội. Người bị thương nặng là Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Đệ. Trước lúc nhắm mắt

anh đã nuối thương hết mẹ, các em, đến người yêu...Trong một trận đánh ở Bình Long

năm 1972, bạn cùng tiểu đội, chung hầm chiến đấu với anh là Viễn đã bị nguyên đầu

đạn M.79 bằng quả trứng vịt lọt vào ổ bụng. Tên địch bắn quả đạn quá gần, chưa đủ

khoảng cách để gây nổ. Ngày hôm đó anh vừa cùng đồng đội chiến đấu, đẩy lui nhiều

đợt xung phong của địch, vừa chăm sóc bạn và chứng kiến những giây phút cuối cùng

29

của người bạn lính chưa đầy hai mươi tuổi từ giã cõi đời. Có lẽ vì thế, thơ anh viết về

chiến tranh bao giờ cũng rưng rưng cảm xúc bi tráng.

Hơn bốn mươi năm về trước, Phạm Quốc Ca đã viết về cuộc ra quân vào chiến

dịch Tổng tiến công và dự cảm về cuộc chiến sắp kết thúc. Sự hy sinh của đồng đội

để mở đường thắng lợi gây nhiều xúc động cho nhà thơ:

“Hàng đi” - Giặc la hét

Trả lời: Tiếng sét bùng!

Bạn ngã trong bựng khói

Xác giặc nằm nám đen.

(Cửa rừng)

Có những người lính tuổi mười tám, đôi mươi, đến nụ hôn con gái còn chưa

biết. Hạnh phúc với họ đơn giản là được sống qua chiến tranh, là thấy đất nước thanh

bình. Vậy mà:

Bạn ngã xuống lúc bình minh ửng đỏ

Xích xe tăng đã guồng đến Long Bình

Đôi mắt khép khoảng trời khói lửa

Mộ vùi nông bao mộng ước không thành!

(Hạnh phúc)

Ở đâu, lúc nào sự hy sinh của đồng đội cũng là mất mát đau đớn nhưng có

những trường hợp thật nhói lòng:

Bờ sông bên kia đã là trạm phẫu

Mấy nhát chèo thôi mà không kịp nữa rồi!

Những giây phút ngoài tầm bạn với

Đập nhói lòng từng nhịp tim tôi.

(Ráng đỏ)

30

Nhưng sự mất mát, hy sinh trong thơ Phạm Quốc Ca không gây nên cảm xúc

bi luỵ vì được soi sáng bởi ý nghĩa: Vì sự sống muôn đời của nhân dân, tổ quốc. Đó

là sự hy sinh cao cả, vì nghĩa lớn cho nên nó không hề ủy mị hay khiến cho người ta

sợ hãi, hoảng loạn. Ngược lại, càng tiếp thêm ý chí và sức mạnh người lính. Họ bình

thản khi nghĩ đến cái chết:

Có thể mình cũng ngã

Trước cửa thềm rạng đông

Trong tay một người bạn

Nước mắt ràn đau thương.

(Cửa rừng)

Họ đã biến đau thương thành động lực chiến đấu. Cái chết đối với họ không

đáng sợ, bởi:

Mạnh hơn cả cái chết

Là những gì ta yêu!

(Cửa rừng)

Cho tới mãi sau này, theo dòng ký ức, Phạm Quốc Ca vẫn viết nhiều về người

lính, về chiến tranh. Những bài thơ hoài niệm về chiến tranh của Phạm Quốc Ca luôn

gây xúc động cho độc giả vì ở đó chất chứa bao hy sinh cao cả.

2.1.3.Thơ về quê hương, đất nước

Phạm Quốc Ca sinh ra và lớn lên ở một làng quê giàu truyền thống yêu nước,

truyền thống văn hóa. Nhà thơ tâm sự:“Làng Thọ Khánh là một phần máu thịt của

tâm hồn tôi, làm nên phần trữ tình đậm đà nhất trong thơ tôi”. Với Phạm Quốc Ca,

đó là mảnh đất nên thơ:

Làng tôi xanh dừa, xanh tre

Nghiêng xuống sông Bùng mảng hồn mát rượi.

(Làng trong nỗi nhớ)

31

Năm năm xa quê đi chiến trường, hơn ba mươi năm gắn bó với Đà Lạt nhưng

Phạm Quốc Ca vẫn mãi thao thức nỗi nhớ quê:

Dù anh đi đâu về đâu

Nửa hồn anh quê ta đó.

(Đà Lạt có em)

Nhớ quê đồng thời là nhớ về tuổi thơ, là thức dậy những nỗi niềm yêu thương

sâu kín tận đáy tâm hồn:

Tóc bạc nửa đời làm người Đà Lạt

Trong mơ còn ngụp lặn sông quê.

Nhớ bạn chăn trâu lưng trần đen cháy

Con sáo mỏ vàng tha thẩn chân đê

(Nhớ quê)

Nhớ tuổi thơ tinh nghịch chạy nhảy khắp cánh đồng làng cùng chúng bạn:

Đâu rồi chỗ tuổi thơ đốt rạ?

Chú nghé con đuổi nắng trên đồng.

Lũ bạn nhỏ hò reo đuổi chuột

Ngã lên nhau quần áo lấm bùn.

(Về lại cánh đồng)

Nhớ về những rung động của chàng trai mới lớn trước vẻ đẹp của cô gái làng

ngày chợ Tết:

Chợ Sy họp mặt người ba huyện

Anh tuổi đầu đời chẳng bán mua.

Đi chợ Tết với hồn trai mười tám

Chỉ để nhìn em

32

Để ngẩn ngơ…

(Nhớ chợ Tết)

Sau bao năm xa về thăm quê, chỉ một tiếng gà cũng làm tâm hồn thi sĩ xốn xang:

Tôi nằm nghe tiếng gà gáy ngân vang

Thức dậy tuổi thơ ngượng ngùng áo mới

Chú gà trống đỏ niềm vui đón đợi

Phiên chợ cuối năm theo quang thúng mẹ về.

(Thức với tiếng gà)

Bức tranh quê được nhà thơ tái hiện thật chân thực và sinh động, tràn đầy

đường nét, màu sắc, âm thanh. Đọc thơ Phạm Quốc Ca ta bắt gặp tuổi thơ và tình yêu

quê hương của mình trong đó.

Dù xa quê hương nhưng Phạm Quốc Ca vẫn canh cánh nỗi lo về mảnh đất phải

gồng mình chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Nhà thơ đã viết rất hay về thời

tiết, khí hậu đặc trưng của quê hương mình:

Nhớ trưa tháng Năm phừng phừng nắng lửa

Những đám mây trắng gắt lưng trời.

Rặng tre làng hiu hiu xác bạc

Bóng mỏng che người lây lất mồ hôi.

Nhớ hun hút những ngày gió bấc

Mưa bay mờ mịt cánh đồng

Cây rơm ướt bên hàng xoan trụi lá

Con bò gầy rút từng sợi mùa đông

(Nhớ quê)

Không chỉ nắng lắm, mưa nhiều mà vùng quê yên bình, nên thơ ấy từng là

trọng điểm ném bom, bắn phá của giặc Mỹ:

33

Làng tôi xanh tre trúc

Nghiêng bóng xuống sông Bùng.

Giờ đất cày nham nhở

Vườn tược sém tro than.

(Vầng trăng giao liên)

Ngay cả ngôi nhà thân thương của tác giả cũng không tránh khỏi sự tàn phá

của kẻ thù:

Giờ cánh cổng thân thương

Chỉ còn trong kỷ niệm.

Những mảnh gỗ nát tươm

Quanh hố bom sâu hoắm.

(Từ cánh cổng- hố bom)

Hạnh phúc trào dâng khi ngày chiến thắng trở về, nhà thơ được nhìn thấy quê

hương trong không khí thanh bình:

Tôi lại bước chân trần trên gốc rạ

Hạnh phúc này bình dị đến khó tin

Lúa quen mọc dưới tầm bom đạn

Lần đầu tiên thơm vị hòa bình

(Ngày trở về)

Cùng với sự nghiệp Đổi mới của đất nước, quê hương cũng ngày một ấm no,

tươi sáng:

Làng nhỏ nghìn năm rơm rạ, tre pheo

Giờ tấp nập, xôn xao phố chợ

Nhà gác, tường gương thay lam lũ, đói nghèo.

(Nhớ mẹ)

34

Những câu thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Cuộc sống hiện đại hơn, giàu

có hơn mà sao nghe có gì bùi ngùi, tiếc nuối. Phải chăng sự đổi thay cũng đã làm mất

đi bao cảnh vật thân thương đã hằn sâu trong ký ức nhà thơ:

Lứa cháu nhỏ không biết người tóc bạc

Về quê hương mà nhớ quê hương

(Về quê)

Phạm Quốc Ca luôn trân trọng những kỷ niệm về vùng quê ven sông Bùng

như báu vật của riêng mình. Dù cuộc sống biết bao điều đổi thay thì tình yêu quê

hương đã ngấm vào máu, vào phong cách sống của nhà thơ:

Xứ Nghệ quê cha chập chờn nguồn cội

Đôi lúc cười mình nửa tỉnh nửa quê

Bàn salon vàng mơ chè chát

Bạn thuốc lào nhả khói đê mê

(Nhớ quê)

Nhà văn Xô viết Ilya Ehrenburg thật có lý khi cho rằng: “ Suối chảy ra sông,

sông chảy ra đại trường giang Vonga. Vonga chảy ra biển. Tình yêu tổ quốc đã bắt

đầu từ tình yêu ngôi nhà ấm cúng và xóm làng thân thiết của mỗi con người”. Thơ

Phạm Quốc Ca đã đi theo quy luật tâm lý đó. Tình yêu đất nước trong thơ ông thật

tha thiết, đậm đà. Phạm Quốc Ca đã cùng Tổ quốc sống những ngày đau thương. Với

ông, tổ quốc là mô đất nhỏ, là mảng lục bình, là bóng mát, là lòng mẹ…là những gì

bình dị, thân thương nhất trong đời một con người:

Tổ quốc

Là trần trụi một mô đất nhỏ

Giặc lấn sang con giành lại mấy lần.

Là mảng lục bình che chở trên lưng

Lúc tàu giặc tuần tra xé nước.

35

Trưa khét nắng

Tổ quốc là bóng mát

Trước cửa hầm - một khoảng trời xanh…

Tổ quốc là những đêm không ngủ

Con yêu Người xa xót, đau thương.

(Tổ quốc)

Bằng trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ nhận ra: “Đất nước tôi hình một

thanh gươm” luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu với kẻ thù.Người đọc không ngạc

nhiên khi bắt gặp những giọt nước mắt vỡ òa hạnh phúc:

Khi cờ thắp bừng bừng trên tuyến giáp ranh

Con đã khóc trước thiêng liêng màu đỏ

(Tổ quốc)

Cũng như bao người dân Việt Nam, nhà thơ ý thức rất rõ chủ quyền biển đảo

quê hương. Kẻ thù chưa bao giờ từ bỏ dã tâm xâm lược, lấn chiếm biển đảo Việt

Nam. Bài thơ “Mẹ Việt Nam ba ngàn con hải đảo”ra đời năm 2014, vào thời điểm

nhà cầm quyền Trung Quốc cho kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển đặc

quyền kinh tế của Việt Nam. Cho đến nay bài thơ vẫn còn nguyên giá trị thời sự.

Những câu thơ phản ánh mối quan hệ ruột thịt giữa đất liền và biển đảo, đồng thời

cũng phản ánh tình yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ như lời hiệu triệu, thức dậy

ý thức chủ quyền dân tộc, khi kẻ thù đang lăm le lấn lướt:

Mẹ Việt Nam ba ngàn con hải đảo

Đảo chìm, đảo nổi, đảo chon von...

Đảo thương Tổ quốc - con thương mẹ

Đất liền thương đảo - mẹ thương con.

36

Tình yêu tổ quốc trong thơ Phạm Quốc Ca gần gũi như tình mẫu tử thiêng

liêng mà nhà thơ tự nguyện gắn bó:

Việt Nam!

Con của Người cả khổ đau, hạnh phúc

Bởi khi núm rau con gửi vào ruột đất

Con đã gửi Người một kết giao máu thịt

Trọn cuộc đời con.

(Tổ quốc)

Lịch sử dân tộc, quê hương, đất nước là nguồn cảm hứng lớn trong thơ Phạm

Quốc Ca. Dù viết về chiến tranh, người lính, sự hy sinh hay tình yêu quê hương, đất

nước thì ở nhà thơ luôn cháy bỏng một tình yêu tha thiết và một niềm tự hào sâu

sắc.

2.2. Thơ trữ tình đời tư

Thơ trữ tình đời tư phản ánh sự ý thức về đời sống cá nhân, các xúc động cá

nhân như tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, tình bạn…Sau 1975 về cơ bản xã hội ra

khỏi lối sống cộng đồng, lối sống đội ngũ, trở về với cuộc sống bình thường, trong

đó con người được sống như một cá nhân với những quyền sống cơ bản, quyền mưu

cầu hạnh phúc. Thơ cũng chuyển từ thể tài lịch sử dân tộc sang các thể tài đời tư và

thế sự. Thơ Phạm Quốc Ca cũng nằm trong sự vận động có tính quy luật đó.

2.2.1.Thơ tình yêu

Tình yêu là đề tài bất tận của nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng. Nhà thơ

Vương Trọng đã viết:“ Phương thức để thể hiện tình yêu thì mỗi thời mỗi khác, chứ

tình yêu xuất phát từ trái tim thì đừng nghĩ đời sau hơn đời trước. Phương thức tỏ

tình hiện nay có di động, chát, thư điện tử…Nhưng gốc của tình yêu đâu phải là cái

để thể hiện, mà là trái tim. Mà đã là trái tim thì đừng có nghĩ là thế hệ sau đa cảm

hơn thế hệ trước” [30, tr.22]. Đến với thơ Phạm Quốc Ca, ta bắt gặp một tâm hồn say

đắm tình yêu. Điều làm cho người đọc xốn xang, rung động là những cung bậc cảm

37

xúc tinh tế, chân thực, đa dạng của tình yêu đôi lứa đã được Phạm Quốc Ca thể hiện

trong những vần thơ giàu tính nghệ thuật.

Tình yêu trong thơ ông có nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là tình yêu

chớm nở, tình yêu học trò hồn nhiên, trong sáng với những rung động thầm kín, tinh

khôi.Thứ tình cảm đầu đời trong trẻo ấy không dễ cất thành lời:

Nhưng làm sao có thể

Bài thơ này đến em?

Tình yêu tôi ngộp thở

Trong túi ngực ngày đêm.

(Bài thơ chưa gửi)

Có lẽ cũng vì yêu thầm lặng, không dám tỏ bày nên tình cảm vô cùng mãnh

liệt. Tình yêu ấy như sóng dậy trong tim, chưa thốt được thành lời phải gửi vào âm

thanh thương nhớ:

Chưa nói được với em

Anh phổ lòng mình lên dây đàn run rẩy.

Tiếng nhớ, tiếng thương cháy lòng đến vậy

Làm sao nghe một mình anh?

….

Anh là dòng sông cuộn xoáy sóng ngầm

Là hộp đàn đầy âm thanh thương nhớ.

Tiếng sâu thẳm

Tiếng nồng nàn như lửa

Tình ca giọng trầm em nhận ra không?

(Tiếng trầm)

38

Tình yêu trong thơ Phạm Quốc Ca âm thầm, lặng lẽ nhưng vô cùng mãnh liệt: Lúc

run rẩy, lúc cháy lòng, lúc cuộn xoáy sóng ngầm, lúc lại nồng nàn như lửa…

Thơ tình Phạm Quốc Ca rất đa dạng về cung bậc cảm xúc. Vì thế, nó trở nên

gần gũi và được sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc mọi lứa tuổi. Đó là thơ xuất

phát từ những cảm xúc, rung động chân thật tự đáy lòng. Vì yêu mà nhân vật trữ

tình cảm thấy:

Dường như anh đã đánh mất hồn mình

Gặp bạn quên chào

Đi đường quên ngõ

Giấc ngủ phập phồng

Thấp thoáng hình em

(Tiếng trầm)

Đọc những câu thơ này, có lẽ nhiều độc giả bật cười vì thấy sự ngẩn ngơ của

nhà thơ khi yêu sao giống mình đến lạ.

Tình yêu trong thơ Phạm Quốc Ca thuần khiết, trong sáng, đồng thời mãnh liệt

như muốn bứt phá khỏi thân xác bé nhỏ của con người:

Anh yêu em!

Anh yêu em nóng rực

Như nhốt gió trong tim

Như cháy lửa trong người.

(Tiếng trầm)

Với tài năng thiên bẩm của một nhà thơ, không cần cầu kỳ tô vẽ, thơ Phạm

Quốc Ca đem đến cho người đọc nhiều thú vị, mới mẻ từ những gì bình dị, thân quen

nhất. Văn Cao khi “nghĩ về thơ” đã cho rằng: “Cái Mới đâu phải là những cái không

có sẵn. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo… Cái Mới

39

trước hết là cái mới trong tư tưởng, trong cảm xúc và trong cảm giác của nhà

thơ ” (Văn Nghệ 11-1993). Điều này thật đúng với Phạm Quốc Ca:

Chiều không em

Anh với bóng trên đồi

Tha thẩn gặp nỗi buồn hoa cúc dại.

Chim bay đi có lần trở lại

Có lẽ nào người héo chờ nhau?

(Gửi nhớ)

Có khi là sự hờn trách nhẹ nhàng:

Đã ước cùng nhau

Sao em không đến?

Lạnh mình anh

Lạnh cả biển trăng.

(Lạnh)

Có khi lại là niềm hân hoan, bồi hồi khi đợi người yêu. Cảm giác nôn nao, hồi

hộp thật khó tả:

Sáng ra là gặp em rồi

Còn đêm nay nữa, nằm ngồi không yên.

Giọt sao rụng bỏng đêm đen

Nôn nao gà gáy trước thềm rạng đông.

(Đợi)

Cảm giác run rẩy, hạnh phúc đến ngộp thở của đôi lứa yêu nhau trao nụ hôn đầu:

Trời xanh tuôn nắng sáng

Run rẩy những cánh đào.

Chiếc hôn đầu ta thắp

40

Ngày đất trời yêu nhau.

(Mùa xuân thứ nhất)

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Thước đo của tình yêu là nỗi nhớ.Tương

tư là trạng thái muôn đời của tình yêu. Thơ tình Phạm Quốc Ca cồn cào nỗi nhớ, nỗi

cô đơn và được thể hiện thật mới lạ:

Anh một mình ngồi đốt đêm thành khói

Tro tương tư đầy trắng gạt tàn.

(Đêm trắng)

Anh ngồi lạnh nửa phần ghế đá

Nỗi nhớ em cong nửa địa cầu.

(Nửa phần ghế đá)

Phạm Quốc Ca đã có sự liên tưởng độc đáo, mới lạ về nỗi nhớ. Đây cũng là

minh chứng cho quan niệm thơ hay của Phạm Quốc Ca. Ông cho rằng: “Thơ là nghệ

thuật ngôn từ. Nhà thơ là nghệ sĩ ngôn từ. Một nguyên lý của thơ là ngôn ngữ phải

mới lạ. Thơ không chấp nhận thứ ngôn ngữ quen thuộc đến sờn mòn".

Tình yêu là thứ tình cảm đòi hỏi sự hòa hợp cả tâm hồn và thể xác. Thơ đương

đại có không ít nhà thơ viết về tình yêu xác thịt. Điều đó không sai, vì tình dục là bản

năng của con người. Thế nhưng, nhiều lúc dung tục trần trụi đến thô thiển, đánh mất

chất thơ thì lại là chuyện không nên. Chẳng hạn cách nói sau đây thật khó chấp nhận:

-Bạn ơi giao hợp nơi đâu

Về đây gác tối sắc màu đung đưa

-Đờm dãi, thịt da, tinh khí phì phào thu hút mãi không thôi cọ xát

(Hoàng Hưng)

Những vần thơ như thế khiến người đọc phát ngượng. Dẫu thơ không ngừng

hiện đại hóa nhưng Phạm Quốc Ca vẫn luôn là con người chuẩn mực. Thơ tình Phạm

Quốc Ca không hướng về sex. Có chăng chỉ là nụ hôn, cái cầm tay, cái choàng vai,

41

ánh mắt đắm say nhau… Thơ tình yêu của Phạm Quốc Ca có vẻ đẹp thuần khiết,

trong sáng, đầy tính nhân văn giữa cuộc sống xô bồ. Phải chăng điều đó được xuất

phát từ sự chuẩn mực của một nhà giáo?

Trong thơ Phạm Quốc Ca không chỉ có thứ tình yêu mang lại hạnh phúc ngập

lòng mà còn có cả nỗi đau khổ, đắng cay:

Lời yêu chưa kịp nói

Rung trời những tiếng bom.

Trên lửa đỏ ngút làng

Một vầng trăng đẫm máu.

Người em tôi yêu dấu

Không bao giờ còn sang!

Mảnh sân nhà rạn vỡ

Trắng lạnh nỗi không em.

(Vầng trăng giao liên)

Lửa đạn chiến tranh không chỉ cắt ngang sự sống của những con người trẻ tuổi

mà còn cắt ngang những mối tình bằng biền biệt cách xa. Tình yêu thành vết thương,

thành nỗi đau theo họ suốt cuộc đời. Nỗi đau ấy chỉ nhà thơ mới hiểu:

Mười tám tuổi

Ba lô ra mặt trận

Mù mịt chiến tranh

Tan vỡ tình đầu

Trái tim yêu thổn thức ấy mãi mang theo một bóng hình:

Hình ảnh thân thương cô gái làng xưa

Trao vội chiếc khăn

42

Người ra mặt trận

Tựa gốc dừa xanh em lặng khóc thẫn thờ.

(Trái tim thổn thức)

Không phải ngẫu nhiên người ta nói “tình là dây oan”. Không chỉ có yếu tố

ngoại cảnh tác động làm cho người ta đau khổ mà bản thân tình yêu cũng như trò đuổi

hình, bắt bóng. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng bộc bạch:

Yêu là chết ở trong lòng một ít

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu

Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

Người ta phụ hoặc thờ ơ, chẳng biết

(Yêu-Xuân Diệu)

Con tim cháy bỏng tình yêu rồi lại có một ngày tình yêu ấy nguội lạnh đến

không ngờ:

Tình đầu tôi

Chim non gãy cánh

Nghẹn ngào một nỗi đơn phương

Ốm tương tư vì đôi mắt ấy

Sao bây giờ gặp lại dửng dưng?

(Hỏi)

Hạnh phúc, khổ đau, ngọt ngào, đắng chát…thật không gì phong phú, đa dạng

bằng cảm xúc tình yêu.Tình yêu rực rỡ, nồng nàn nhất là khi người ta trẻ. Thế nhưng

thơ Phạm Quốc Ca có lúc còn là tiếng lòng mặn mà khôn nguôi thương nhớ người

yêu của những trái tim khi đã xế chiều:

Trong giấc mơ anh dịu dàng dáng nhỏ

Tóc thả ngang chiều

43

Bay mềm sợi gió

Quên tuổi năm mươi râm bạc mái đầu

Anh khờ dại tìm em lần nữa

(Khờ dại)

Tình yêu trong thơ ông thường đẹp ở tình cảm chung thủy, sắt son:

Dù anh đi đâu về đâu

Nửa lòng anh quê ta đó

Có đêm trăng lược cài đầu

Em đến, bờ tre lộng gió

(Đà Lạt có em)

Trong xa cách, nhà thơ gửi trọn nỗi nhớ về phương có người con gái quê hương

cùng ông đi suốt cuộc đời:

Những - con - chữ - nhớ - thương gửi về phương ấy

Trang - thư - bầu - trời

Em đọc ra không?

(Trang thư bầu trời)

Nơi đất khách quê người, có những lúc thấy mình trống trải, cô đơn, nhà thơ

không nguôi nhớ về người vợ thân yêu:

Không có em

Anh là kẻ lạc loài trên xứ bạn

Dù hoa chiu-pan nở đỏ công viên

Những đỉnh tháp mạ vàng ánh lên hoan lạc

Thành phố chín triệu người nhưng không có em!...

(Ngày về)

44

Hạnh phúc vợ chồng từ thuở hàn vi gắn liền với tình yêu quê mẹ. Ở đó có

người vợ hiền chăm sóc mẹ già, con cái để nhà thơ theo đuổi sự nghiệp, thi ca:

Mái nhà đôi chim chung tổ

Ba gian thương nhớ của em.

Mỗi năm mấy ngày nghỉ phép

Còi tàu thảng thốt ga đêm.

Và khi chuyển đến miền đất mới, tình yêu của nhà thơ vẫn không bao giờ thay

đổi. Dù đã trải qua lửa đạn chiến tranh và bao thăng trầm của cuộc sống ồn ĩ, xô bồ

nhưng người đọc vẫn gặp tình yêu trong sáng, thủy chung. Với Phạm Quốc Ca, hạnh

phúc giản đơn chỉ là:

Anh đưa em về Đà Lạt

Thực mơ thành phố cao nguyên.

Dưới tháp sao Trường Đại học

Có căn phòng nhỏ chúng mình.

(Đà Lạt có em)

Với rất nhiều cung bậc cảm xúc, thơ tình yêu của Phạm Quốc Ca đã thắp lên

bao cảm xúc đẹp đẽ ở người đọc. Dù ở bất kì lứa tuổi nào, giai đoạn nào của tình yêu,

người đọc cũng tìm thấy sự đồng cảm với trái tim dạt dào, nồng nàn sức lửa, rạo rực

khát khao của nhà thơ.

2.2.2.Thơ về gia đình

Bên cạnh tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa thì tình cảm gia đình

chiếm số lượng lớn trong sáng tác của Phạm Quốc Ca. Tình cảm nhà thơ dành cho

ông bà, cha mẹ, anh trai, chị gái, các con đến các cháu thật giản dị, chân thành, đầy

tính nhân văn.

Từ khi cất tiếng khóc chào đời, người mà ta gắn bó yêu thương nhất chính là

mẹ. Mẹ là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân. Với phong cách riêng, Phạm Quốc

Ca đã xây dựng thành công hình tượng người mẹ. Vốn là người tinh tế, nhạy cảm,

45

Phạm Quốc Ca đã thấu hiểu những thiệt thòi của người phụ nữ rời xa gia đình, xây

dựng tổ ấm mới. Mẹ nhà thơ không phải là ngoại lệ:

Kể từ sen ngó đào tơ…

Phải duyên, đời mẹ nắng mưa quê chồng.

Chiều chiều ra đứng bờ sông

Hoàng hôn như lửa cháy lòng, mẹ ơi!

Cha con biền biệt cuối trời

Mòn đêm tiếng võng và lời mẹ thương.

(Đêm lời mẹ ru)

Hình ảnh người mẹ xuất hiện nhiều lần trong thơ Phạm Quốc Ca và gây được

xúc động sâu sắc nơi người đọc. Phạm Quốc Ca đã đưa vào thơ những chi tiết đời

thường, ít ai để ý. Hình ảnh mẹ hiện lên chân thực, gần gũi bởi vẻ đẹp có thể gặp ở

bất cứ người mẹ Việt Nam nào. Đó là hình ảnh người mẹ với tình mẫu tử vô bờ dành

cho các con:

Nơi bậc đá nhẵn trơn

Những dấu chân tần tảo

Dặn con cài khuy áo

Mẹ đi vào rạng đông

(Từ cánh cổng - hố bom)

Lời mẹ dặn con cài khuy áo thật giản dị mà biết bao xúc động. Chi tiết thơ như

câu chuyện thường ngày của đời sống ấy đã chạm vào đáy sâu tâm hồn độc giả.

Trong thơ Phạm Quốc Ca nổi bật lên hình ảnh người mẹ chịu thương, chịu khó

giàu đức hy sinh. Nhà thơ mồ côi cha từ nhỏ. Một mình mẹ tần tảo nuôi dạy con thơ:

Cha mất ngày chúng con bé lau tau

Cấy hái, cày bừa mẹ làm tất cả

Lo toan đi vào cơn mơ, giấc ngủ

46

Mưa nắng lặn vào cơn đau khớp mùa đông

(Bình minh con sẽ lên đường)

Năm năm ở chiến trường, rời quân ngũ bước chân vào giảng đường Đại học,

trở thành giảng viên Trường Đại học Đà Lạt, đi thực tập sinh ở nước Nga…dù ở đâu

Phạm Quốc Ca cũng mang theo những ký ức chan chứa yêu thương về mẹ:

- Gió bấc về những đợt đầu tiên

Quàng thêm áo mẹ quảy quang đi gặt

- Áo quần mẹ suốt ngày ướt sũng

Đôi tay gầy dầm nước nhợt da.

(Hương lúa miền Trung)

- Cây đa đơn côi

Cánh đồng nước trắng.

Tha thẩn kiếm ăn cò dẫm bóng mình.

Gió lạnh thổi cùn áo tơi, nón lá

Mẹ cắm xuống bùn dảnh mạ mong manh …

(Nhớ mẹ)

Chỉ với một câu thơ Phạm Quốc Ca đã khắc họa hình ảnh người mẹ nông dân

Việt Nam thật vĩ đại:

Mẹ cứu lúa, lưng cõng trời giông gió

(Ngày về)

Mẹ tảo tần vun trồng, nuôi dưỡng những mầm sống, để rồi khi tổ quốc cần mẹ

sẵn sàng hiến dâng, lặng lẽ chịu đựng nhớ thương, mất mát. Nhà thơ Nguyễn Trọng

Bản cho rằng:“Nét đẹp nhất ở người mẹ trong thơ Phạm Quốc Ca là phần nội tâm

sâu thẳm, thiêng liêng nhất của một trái tim đôn hậu” [4]:

Những năm con đánh Mỹ rừng sâu

47

Mẹ lạnh ướt bao mùa mưa ở đó

Dõi mắt phương con

Ì ầm tiếng nổ

Lòng mẹ ngày nào cũng bị ném bom

(Bình minh con sẽ lên đường)

Nhà thơ Nguyễn Trọng Bản nhận xét: “Câu thơ"Lòng mẹ ngày nào cũng bị

ném bom"có vẻ đẹp sáng tạo mới mẻ, vừa phi lý vừa vô cùng chân thực”[4]. Còn Nhà

thơ Vương Tùng Cương thì cho rằng: “Lòng mẹ ngày nào cũng bị ném bom. Nói có

vẻ cực đoan, song với tôi thật tâm phục và thưa rằng: Đời một thi sĩ có được câu thơ

ấy cũng đủ hạnh phúc lắm rồi"[9, tr.10].

Những bài thơ hoài niệm chiến tranh của Phạm Quốc Ca chất chứa nhiều hy

sinh cao cả và cũng thật xót xa, cảm động. Chiến tranh không chỉ khiến những người

mẹ thấp thỏm lo âu cho những đứa con nơi chiến trường xa bao năm trời mà nỗi đau

mất con còn đeo đẳng trong cả những giấc mơ:

Giờ có đêm mẹ mơ thấy anh

Rồi choàng dậy bàng hoàng bật khóc

(Viết trong ngày giỗ anh)

Những dòng thơ thương mẹ, thương anh khiến người đọc lặng đi bởi nỗi xúc

động nghẹn ngào. Hình ảnh người mẹ trong thơ Phạm Quốc Ca không phải là người

mẹ cầm súng, tham gia cách mạng mà là hình ảnh người phụ nữ nông thôn bình

thường, lặng thầm hy sinh mà thật cao cả. Nhà thơ đã viết lên những vần thơ xót xa

làm chấn động tâm hồn người đọc:

Mẹ đã khóc cha con

Tóc còn xanh tuổi trẻ

Mẹ đã khóc anh con

Mây đỏ hồn liệt sĩ….

(Bên mồ mẹ)

48

Nhà phê bình Chu Văn Sơn cho bài thơ Bên mồ mẹ của Phạm Quốc Ca "là một

trong những bài thơ hay nhất về tình mẹ trong thơ Việt Nam"

Chiến tranh qua đi, các con mẹ đã trưởng thành, mẹ lại dồn tình yêu, sự lo

lắng, chăm chút cho các cháu:

Mẹ thương cháu đêm mòn guốc võng

Đêm của mẹ đêm nào cũng rộng

Lời ru đầy khuyết vầng trăng

(Bình minh con sẽ lên đường)

Cuộc đời mẹ đầy những hy sinh, vất vả, vậy mà:

Khi cơm áo thôi là điều lo nghĩ

Mẹ của con không còn ở trên đời!

(Những ngày đông)

Xa quê, mỗi lần về thăm, Phạm Quốc Ca lại thấy bóng hình mẹ in trong dáng

núi, hình sông xứ Nghệ. Hình tượng người mẹ mãi mãi bất tử trên cõi đời này:

Mẹ như còn chợ quê tất bật

Tơi nón

Gánh gồng

Ruộng cạn

Đồng sâu…

(Tàu qua quê hương)

Với tấm chân tình, người con thi sĩ đã khái quát hình tượng mẹ thành hình

tượng của quê hương, xứ xở:

Quanh năm tấm áo nâu sờn

Rấm bếp trấu, giữ gìn ngọn lửa

Ai cho một miếng trầu cũng nhớ

49

Mẹ là miền Trung khô cằn vất vả

Vẫn ngọt lành câu ví thương nhau

(Bình minh con sẽ lên đường)

Viết về mẹ, thơ Phạm Quốc Ca tràn đầy tình yêu thương và rưng rưng xúc

động. Chừng ấy câu thơ trích dẫn đủ thấy tấm chân tình của người con thi sĩ đối với

mẹ kính yêu.

Phạm Quốc Ca mồ côi cha năm 11 tuổi. Nếu hình tượng người mẹ có nguyên

mẫu trong đời thực, thì ở bài thơ Cha, Phạm Quốc Ca dùng phương pháp điển hình

hoá để viết lên những vần thơ xúc động. Đó là hình tượng người cha gánh vác sứ

mệnh lịch sử làm lính chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến và không lúc nào ngơi

nghỉ. Đất nước có hòa bình cha lại trở về với cuộc sống mưu sinh vất vả:

Bàn tay quen dũi chiến hào đánh lấn

Vật lên từng nhát đất bờ ao

Lòng thanh thản cây chanh, cây táo

Bóng lùm tre thong thả thuốc lào.

Mỗi bận về thăm cứ cay trong mắt

Đã có ngày nào cha được nghỉ ngơi?

Năm tháng lặng thầm nhuốm đầu thêm bạc

Còn được bao lâu cha ở trên đời?

(Cha)

“Đã có ngày nào cha được nghỉ ngơi?/Còn được bao lâu cha ở trên đời?”.

Những câu hỏi đầy trăn trở của người con hiếu thảo.

Viết về tình cảm gia đình, trong ký ức của nhà thơ còn có người chị gái đương

tuổi xuân thì:

Sau buổi làm đồng

50

Chị tôi ngồi giặt áo

Có con thuyền trôi qua

Người trai chân sào buông một câu hát ghẹo

Mảnh buồm nâu bé lại phía chân trời.

(Làng trong nỗi nhớ)

Trong thơ phạm Quốc Ca, hình ảnh người chị tần tảo chịu thương chịu khó

cùng cha mẹ gánh vác chăm lo cho gia đình:

Sáng chưa tỏ mặt người ra ruộng

Chiều gánh hoàng hôn thập thững về nhà.

(Tàu qua quê hương)

Đến khi lấy chồng, như bao người phụ nữ Việt Nam, chị hy sinh tất thảy vì

con:

Tấm áo len em mua cho mẹ

Mẹ nhường cho chị, chị nhường con.

(Thăm chị)

Thương chị, nhà thơ luôn đau đáu dõi về phương có chị:

Chị lấy chồng phía mặt trời gác núi

Đường lên xa ngái dốc cùng truông.

Nhớ tuổi thơ những chiều mây sấm động

Em lại thương trên ấy mưa nguồn.

(Thăm chị)

Chỉ đến khi chị “ Dựng được nếp nhà, dư cái ăn” thì “ Một phía lòng em gió

tạm yên”. Quả thật tấm lòng của nhà thơ nhân ái biết bao, tình cảm thương yêu mà

ông dành cho những người trong gia đình thật chân thành, sâu sắc. Đặc biệt là tình

51

cảm đối với người anh trai, liệt sĩ Phạm Văn Cừ. Kỷ niệm thời thơ ấu hiện về với bao

xúc động:

Em đã lớn lên trên tấm lưng anh

Ngày cha mất anh nhường em đến lớp.

Khi trưởng thành, hai anh em lần lượt nối tiếp nhau nhập ngũ. Nhưng rồi nỗi

đau ập đến:

Em đã tìm anh suốt những cánh rừng

Chi chít dòng tên khắc vào thớ gỗ.

Anh nằm lại nơi đâu?

Bốn phương trời khói lửa

Tiếng bom nào như cũng dội nơi anh.

(Viết trong ngày giỗ anh)

Người chiến sĩ ấy đã hy sinh trên chiến trường Tây Ninh. Giờ phút cuối không

người thân bên cạnh, không kịp nói lời từ biệt. Anh ra đi để lại nỗi đau nơi những

người thân yêu. Nỗi đau ấy đã được nhà thơ thể hiện trong bài"Viết trong ngày giỗ

anh". Bài thơ vô cùng xúc động này đã đoạt Giải Nhất trong Cuộc thi thơ về đề tài

Thương binh, liệt sĩ của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 1984.

Phạm Quốc Ca còn có những bài thơ hay về ông bà. Ông bà nội mất trước khi

nhà thơ ra đời. Trong kí ức của nhà thơ chỉ có hình ảnh ông bà ngoại. Ông ngoại nhà

thơ là thầy đồ Nho thế hệ cuối cùng. Trong hồi ức của nhà thơ ông ngoại có dáng vẻ

“tiên phong đạo cốt”, thật đẹp:

Ngày cháu bé thơ

Ngoại đã phơ phơ tóc bạc

Khoan thai gậy trúc dạo vườn.

Tiết xuân tím hoa xoan, hoa khế

Áo sồi vàng vương nhị, bén hương.

(Ông ngoại)

52

Mỗi năm, tết đến, được về quê ngoại, hình ảnh bà ngoại hiền từ phúc hậu còn

in đậm trong kí ức nhà thơ:

Ngoại ngoáy trầu ăn, cười móm mém

Nhìn cháu con xa đủ mặt về.

(Quê ngoại)

Nhớ nhất là mỗi lần rời quê ngoại, hình ảnh khiến nhà thơ (lúc ấy còn là cậu

bé được mẹ cõng) lưu luyến, bịn rịn. Cậu bé ấy cũng thật tinh tế, nhạy cảm khi nhận

ra biết bao tình cảm của mẹ, của bà trong cái ngoái đầu ngoảnh lại của mẹ:

Rồi tết qua đi buồn muốn khóc

Ra về ngoại tiễn cuối thôn

Cõng tôi mẹ mấy lần ngoảnh lại

Ngoại với hàng cau nhuộm nắng hồng.

(Quê ngoại)

Khi viết về tình cảm gia đình, nhân vật trữ tình trong thơ Phạm Quốc Ca không

chỉ là cháu, là con, là em, mà còn là người cha, người ông. Nhà thơ dạy con biết trân

trọng yêu thương con người:

Bài học lớn lao, khắc nghiệt

Đổi thay cả máu trong người.

Bố từ yêu mê sách vở

Đến yêu xa xót con người.

(Con học)

Như bao người cha khác, Phạm Quốc Ca luôn là điểm tựa cho các con bước

vào đời. Các con của nhà thơ đều thành đạt dưới sự chỉ bảo của cha:

Ngàn vạn năm

Từ thuở con người vin cây, hái quả

53

Đã tạo nên thế đứng thẳng diệu kỳ

Đầu đội trời, chân đạp đất mà đi

Mắt nhìn thẳng con đường trước mặt.

Một nửa tầm nhìn hướng về phía trước

Một nửa tầm nhìn rõ bước mà đi.

(Đi đường)

Khi các con đã khôn lớn trưởng thành, nhà thơ dành phần lớn thời gian bên

các cháu. Viết về trẻ thơ, tâm hồn nhà thơ thật tươi trẻ. Dự Hội thảo Văn học thiếu

nhi- nhìn từ miền Đông Nam Bộ ngày 10.5.2012 ở Đồng Nai, trong tham luận Thơ

cho trẻ thơ mấy vấn đề góp bàn, Phạm Quốc Ca cho rằng: “Tôi cứ nghĩ thơ cho trẻ

thơ phải là thơ hợp với thiên tính tự nhiên của trẻ”. Vì thế, nhà thơ khắc họa thành

công sự ngộ nghĩnh của trẻ nhỏ bằng giọng điệu hài hước, hóm hỉnh:

Quần đẹp ống cao, ống thấp

Tương lai thập thững tập đi

Cứ hai ba bước lại ngã

Lồm cồm bò dậy

Cười khì.

Đã thế lại còn nhón gót

Hai tay vẫy như chim non…

(Tập đi)

Theo nhà thơ:“Có nhiều phương thức trữ tình nhưng trong thơ viết cho trẻ thơ

phương thức“nhập vai” vẫn là hiệu quả nhất. Nhà thơ phải dùng tưởng tượng sáng

tạo để nhập vai, cảm nhận thiên nhiên và cuộc sống con người bằng con mắt hồn nhiên

của trẻ thơ”(Tham luận:Thơ cho trẻ thơ mấy vấn đề góp bàn,10.5.2012). Với quan

điểm như vậy, Phạm Quốc Ca không chỉ có “nghệ thuật làm ông” mà còn có những

vần thơ hóm hỉnh thể hiện tình cảm ông cháu thật ấm áp:

54

Con gì cắn ông thế?

Có đau không ông ơi?

Khánh Quỳnh làm bác sỹ

Xức dầu, ông khỏi thôi!

- Cảm ơn “Bác sỹ nhí”

Ông không đau nốt ruồi!

(Bác sĩ nhí)

Nhà thơ chăm chút cho những mầm non ấy để nối tiếp cuộc đời mình:

Đời ông có cháu tiếp nối

Thế gian đẹp vẻ vĩnh hằng.

(Tiếp nối)

Nhà thơ Võ Quảng đã nói lên tâm lý sáng tạo phổ biến: “Người viết cho thiếu

nhi là một nhà văn nhưng đồng thời cũng là một nhà giáo muốn các em trở nên tốt

đẹp. Quan điểm sư phạm và văn học viết cho thiếu nhi là hai anh em sinh đôi” (Giáo

trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2009, trang 39). Đồng tình với

quan điểm đó, người ông trong thơ Phạm Quốc Ca luôn dạy các cháu biết trân trọng

sức lao động của con người cũng chính là biết yêu thương con người:

Bữa ăn không để thừa phí

Không đành bánh vụn, cơm rơi:

-"Đây đó còn bao người đói

Hạt cơm là ngọc của trời".

(Ông nội)

Có thể nói, qua thơ Phạm Quốc Ca, người đọc trân trọng hạnh phúc gia đình

tràn ngập tình yêu thương. Dù là ai, ở đâu các thành viên của gia đình cũng yêu

thương, lo lắng cho nhau.

55

2.3. Thơ thế sự

Thơ thế sự gồm những tác phẩm phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng

lớp người trong xã hội, các trạng thái ứng xử của họ, vấn đề thiện ác…Đây cũng là

mảng nội dung trữ tình Phạm Quốc Ca quan tâm và có nhiều bài thơ hay, đặc biệt là

giai đoạn sau 1975.

2.3.1. Thơ hiện thực thế sự

Từ khi còn ở lứa tuổi thanh niên, Phạm Quốc Ca đã xác định cho mình phương

châm sống: “Tránh những điều xấu xa như tránh bẩn” (Thời áo trắng). Với tình yêu

tha thiết con người và cuộc sống cùng tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ, Phạm Quốc Ca

luôn lắng nghe sự đổi thay. Niềm tin vào cuộc sống và con người hôm nay có phần

mai một bởi "Những loài sâu/ Đục khoét niềm tin" (Phần phật tiếng cờ). Ông nhìn

thấy cả mặt trái của hiện đại hoá. Lối sống nhanh là một ví dụ:

-Những phút giây vèo ngang nhau đó

Ta lướt qua giao cảm, thân thương!

Loang loáng ghét yêu

Loang loáng vui buồn

Loang loáng ấn tượng, cảm giác…

(Tốc độ)

-Thời đổi thay chóng mặt

Tráo trở thủy chung được mất khóc cười.

(Hạnh phúc)

Cuộc sống thường ngày còn tồn tại bao điều ngang trái. Phạm Quốc Ca nhận

ra rất rõ biến chuyển khách quan của cuộc sống muôn màu. Dù tồn tại nhiều nghịch

lý, cái nhìn của ông vẫn luôn hướng về phía ánh sáng:

Cô gái ăn sương ngáp bên tô hủ tiếu

Gã xì ke ghế đá ngủ say.

56

Đêm tàn rụng

Bình minh xe máy

Tương lai đến trường áo trắng bay bay.

(Ban mai)

Phạm Quốc Ca đã gửi vào thơ tình thương những cảnh đời bất hạnh và không

khỏi chua xót cho nhân tình thế thái. Khi người ta sống thực dụng, quan tâm tới vật

chất nhiều hơn thì tình người, tình đời phôi pha, mai một, sự quan tâm đến người

khác chỉ còn là cái vỏ ngụy tạo bên ngoài:

Sếp lớn gặp chị lao công

Mặt rầu rầu, da xanh dớt

- Chào cô, sức khỏe thế nào?

- Dạ, em bình thường

- Tốt, tốt!

(Tốt! tốt!)

Thơ ông không né tránh cái xấu, cái ác và sự vô cảm, ích kỉ đang tồn tại trong

xã hội. Ông chỉ ra vai trò của hoàn cảnh sống đối với cách sống của con người qua

hình ảnh có tính ẩn dụ:

Khi một bầy chim bị nhốt trong lồng chật

Những con chim dại khờ

Nghĩ các con bên làm mình khốn cực

Và chúng điên cuồng cắn rỉa lẫn nhau

(Tản mạn đêm không ngủ)

Là chuyện loài chim hay chuyện loài người? Có lẽ khi đọc những câu thơ này,

bất cứ độc giả nào cũng dễ dàng tìm cho mình câu trả lời.

57

Bằng cái cười mỉa mai nhẹ nhàng, nhà thơ đã phơi bày mối quan hệ của con

người trong xã hội vật chất lên ngôi. Day dứt nơi ông là tình trạng thật giả lẫn lộn

trong cuộc sống:

Có những viên thủy tinh

Ánh lên màu hồng ngọc

Nhưng khi cầm lên tay

Vẻ long lanh vụt tắt.

Có loài cỏ mang hình cây lúa

Hút màu mỡ nhiều hơn nên xanh tốt vượt đầu

Những cây lúa gầy gò lặng thầm làm hạt

Cỏ cũng lòe người dâng một thứ bông lau

(Tản mạn đêm không ngủ)

Bạn ta là một trong những bài thơ thành công nhất của mảng thơ thế sự. Thông

qua chân dung những người bạn, nhà thơ đề cập đến nhiều loại người trong xã hội

Việt Nam đương đại:

Bạn ta nhiều người nằm lại

Rừng xa, đất lạnh chiến trường.

Thân trẻ hoà vào đất nước

Hồn nương mây trắng Trường Sơn.

Bạn ta có người đáng nể

Hơn người sự nghiệp, chiến công.

Giữa đám chăn trâu, nghịch dại

Lớn lên thi sĩ, anh hùng…

58

Bạn ta có người phát đạt

Nên quan, nên sếp không ngờ …

Mặt sáng như đồng tiền mới

Nhà Tây, xe Nhật phởn phơ.

Bạn ta có người thơ, nhạc

Tiêu hoang năm tháng rượu, tình.

Tự đày mình vào rừng chữ

Chuyện đời u u minh minh.

Bạn ta có người chân đất

Theo trâu cắm cúi cày bừa

Nhà rách, vợ đau, con dại

Cảnh tình như thế kỷ xưa.

Bạn ta có người ảo vọng

Lăm le một chốc nên giàu,

Bán trời không hoá đơn đỏ

Ở tù, con cái về đâu?

(Bạn ta)

Không chỉ khắc hoạ chân dung bạn bè, bài thơ còn dựng nên bức tranh xã hội

lắm vẻ, mang đậm triết lý về cuộc sống con người. Điều đáng nói ở đây là nỗi niềm

trăn trở của tác giả:

Tại người hay là tại số

Bạn ta mỗi đứa một phương ?

(Bạn ta)

59

Là một trí thức, Phạm Quốc Ca thấu hiểu những mối quan hệ phức tạp của

cuộc sống. Thơ ông là thơ của một người từng trải và "là thơ của một người có học,

hiểu biết sâu rộng"(Lò Ngân Sủn). Với tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng nhân hậu, nhà

thơ không nguôi day dứt về sự phức tạp của xã hội hôm nay. Trong nhiều vấn đề thế

sự, hạnh phúc con người là vấn đề nhà thơ luôn trăn trở. Với những người lính xông

pha bom đạn:"Hạnh phúc giản đơn chỉ là được sống/Chỉ được sống thôi/ Ngoài tầm

với bao người!" . May mắn được sống khi đất nước hòa bình, đối với nhà thơ, hạnh

phúc vô cùng giản dị mà cũng thật thiêng liêng: "Hạnh phúc là thương mẹ, yêu em" .

Nhưng khi cuộc sống “đổi thay chóng mặt” nhà thơ đi tìm câu trả lời mà chẳng dễ

dàng chi:

Thời đã khác

Nghĩ suy thật khác

Hạnh phúc là chi

Trăn trở kiếp người!

(Hạnh phúc)

Sau bao nhiêu trăn trở kiếm tìm hình như nhà thơ đã có câu trả lời thỏa đáng.

Ông có bài Thơ hai câu như muốn vươn tới minh triết, đọc rất thích:

-Đúng hơn thì hạnh phúc phải tạo ra

Ta lại đi tìm trong ảo ảnh.

-Hạnh phúc con người có phải thế này không?

Sống với người mình yêu, làm công việc mình thích.

Đối với những người như nhà thơ hạnh phúc thực sự chỉ có được trong lao

động sáng tạo:

Thầm nung nấu cho một giờ rực sáng

Hạnh phúc sao khi ta cháy hết mình

(Tản mạn đêm không ngủ)

60

Phạm Quốc Ca không chỉ quan tâm tới hạnh phúc của con người cá nhân mà

ông còn quan tâm tới hạnh phúc chung của nhân loại. Sau 1975, thơ ông không ngừng

mở rộng về thể tài, vươn đến những vấn đề quan tâm của muôn người. Hoà bình là

bài thơ được bạn đọc đánh giá cao bởi tầm nhìn nhân loại:

Hòa bình mang gương mặt trẻ thơ

Ùa vào vòng tay người cha khét nồng thuốc đạn.

Hoà bình dâng trái mặt trời chí hồng mỗi sáng

Hoà bình đêm đêm dịu dàng khoả thân.

Trên ranh giới màu da, chủ thuyết, thánh thần

Hòa bình là những giây lưỡng lự cò súng.

Giữa đời một con người và mấy chục gam đầu đạn

Hòa bình gào lên tiếng khóc mẹ hiền.

Hòa bình lết đi bằng bước chân thương binh

Nhắc nhớ những cuộc đời bị đốn

Bằng những ngôn từ choáng lộn

Sáng hơn màu của đạn đồng...

Cái giá của hòa bình thật đắt. Nó được đánh đổi bằng tiếng khóc mẹ hiền và

những cuộc đời bị đốn. Là người đã từng trải bao đau thương, mất mát bởi chiến tranh,

nhà thơ luôn mong mỏi, khao khát cuộc sống bình yên, hoà bình cho nhân loại.

Là cây bút có bản lĩnh Phạm Quốc Ca không né tránh những mảng màu đen

tối cũng như không tô hồng hiện thực. Thơ ông phản ánh chân thực những gì ông

thấy, ông cảm. Chùm Thơ hai câu, ngắn gọn súc tích, thể hiện cái nhìn sâu sắc của

nhà thơ về cuộc sống và con người:

- Ngôn ngữ sinh ra vốn để biểu hiện

61

Dần dần dùng để dấu che.

- Người ta chết bởi hòn tên mũi đạn

Và nhiều khi bằng lời tụng ca.

Bài thơ “Diều giấy” bằng phương thức ẩn dụ nói đến một hiện tượng khá phổ

biến trong cuộc sống. Đó là có nhiều kẻ không xứng đáng với vị trí xã hội mà họ đã

"chạy chọt", quan hệ mà có được. Nhà thơ cũng cảnh báo kết cục chẳng hay ho gì

cho loại người đó:

Nhờ người nối dây

Lựa gió

Mang theo sáo rỗng lên cao

Diều lượn bay trong ảo giác

Cùng thế giới những vì sao.

Vi vu

Diều không tự biết:

Chỉ là một mảnh giấy bồi.

Bất chợt trở trời

Lặng gió,

Lộn nhào

Diều giấy

Rơi

Rơi.

(Diều giấy)

Điều đáng quý là dù cuộc sống có phức tạp đến mấy, nhà thơ vẫn tin vào những

quy luật muôn đời:

62

Luôn tìm cách cất lời

Xuyên bất công, vây hãm

Sự thật mãi sống còn

Cả khi nó im lặng.

(Sự thật)

Đọc Cơn mưa mạ vàng, ta thấy một hồn thơ rộng mở, luôn hướng về tương lai

tươi sáng, giàu cảm xúc nhưng cũng thật lắng sâu, đầy vẻ đẹp trí tuệ. Chất triết lý

trong thơ ông tự nhiên mà sâu sắc:

Trong đôi mắt trẻ thơ của tôi

Chân trời là nơi có dãy núi mờ tím.

Dãy núi ấy bây giờ tôi đến

Trước mắt tôi lại một chân trời.

(Chân trời)

2.3.2. Thơ trào lộng thế sự

Về cái hài các nhà triết học, mỹ học, văn học đã có những kiến giải thú vị. Karl

Marx đã nói (đại ý): “Ngày tàn của một hình thái kinh tế xã hội bao giờ cũng là tấn

hài kịch và nhân loại dùng cái cười để tống tiễn nó một cách vui vẻ”.

M. Bakhtin thì nhấn mạnh tính dân chủ của cái cười và ông cho rằng một dân

tộc biết cười là một dân tộc khỏe mạnh. Nhiều nhà mỹ học thừa nhận tiếng cười có

tác dụng thanh lọc tinh thần. Ai cũng thấy tác dụng xả stress của tiếng cười. Xuất phát

từ cảm hứng trào lộng, Phạm Quốc Ca có nhiều bài thơ thế sự phản ánh nhân tình thế

thái trong xã hội ta.

Về nội dung cái cười Phạm Quốc Ca thường lấy những khiếm khuyết của mình

ra mà tự trào, mà tha hồ phóng đại. Bài Sau cuộc nhậuvô tư chẳng hạn:

Sau cuộc nhậu vô tư bạn nằm thẳng cẳng

Vô tư kéo bễ ở giường tôi.

63

Điện thoại hỏng, đành lội đêm đến báo:

-“Ông xã nhà em… tỉu lượng… wá tồi!”…

Tia nắng chói

Chợt tỉnh trên giường bạn

Một chiếc giày bùn

Một chiếc rơi

Dần dần ông mở rộng tầm quan sát đến các tầng lớp, hạng người trong xã hội

và phát hiện ra vô vàn cái đáng cười. Thực tế cho thấy, chưa bao giờ đời sống văn

hóa, xã hội Việt Nam lại nhiều vấn đề như bây giờ. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự vô

cảm, đạo đức giả của không ít người có chức quyền trong bài Tốt! tốt!:

Sếp bự gặp nữ lao công

Mặt rầu rầu, da xanh dớt:

- Chào cô! Sức khỏe thế nào?

- Em đau dạ dày…

- Tốt! tốt!

- Thằng bé học hành ra sao?

- Chán quá! Hai năm lớp Một!

Sếp đang nghĩ tới tiệc đêm

Đầu bóng gật gù: “Tốt! tốt!”

- Thế còn sức khỏe chú nhà?

- Rõ khổ! Xe tông, chân phải bó bột!

Sếp đang nhớ cuộc massage

Mặt nở rạng ngời: “Tốt! tốt!”.

64

Bài thơ Môn chạy phản ánh một tệ nạn tiêu cực trong xã hội chưa hoàn thiện

của chúng ta dẫn đến đủ kiểu chạy chọt:

Về môn chạy dân ta giỏi nhất

Chạy thẻ thương binh

Chạy dự án giời ơi

Chạy suất mả nghĩa trang thành phố

Chạy giấy khai sinh mở mắt chào đời...

Chạy và chạy

Tít mù, lắt léo

Danh thủ Pêlê theo mướt mồ hôi.

Sao không có giải nào ở Olempic?

Trọng tài thiếu công tâm

Hay ta cử sai người?

(Môn chạy)

Để thơ có thể gây cười thì nội dung cái cười đã quan trọng nhưng nghệ thuật

còn quan trọng hơn. Thủ pháp gây cười trong thơ Phạm Quốc Ca rất đa dạng. Ông sử

dụng cả những thủ pháp đã quen thuộc như: Phóng đại, nhầm lẫn, mâu thuẫn giữa nội

dung và hình thức, giữa lời nói và hành động… Vấn đề là vận dụng một cách sáng

tạo. Nhà thơ đã cường điệu hết cỡ trong bài Quảng cáo:

Nhà máy của chúng tôi có thể

Sản xuất keo gắn tan vỡ gia đình.

Nhà thầu chúng tôi có thể

Cẩu mặt trời đặt cạnh mặt trăng.

65

Trường Quốc tế chúng tôi có thể:

Đào tạo bò lưu loát Anh văn

Thơ vui của ông ngắn gọn, có cấu tứ độc đáo, bất ngờ, có ngôn ngữ chắt lọc,

tinh quái, bắt người ta phải nhớ.

Chúng ta đang ở một thời mà cái hài là đặc điểm nổi bật do cái cũ vẫn cố bám

víu vào đời sống, còn cái mới thì không ít điều nhố nhăng. Nhu cầu thưởng thức cái

hài trong văn học nghệ thuật cũng nổi lên như một hiện tượng khiến người sáng tác

phải nghĩ đến.

Tiểu kết chương 2

Như vậy, có thể thấy, nội dung trữ tình trong thơ Phạm Quốc Ca rất phong phú.

Thơ ông hướng về những vẻ đẹp bình dị, gần gũi nhưng giàu chất thơ và có chiều sâu

tư tưởng. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ ông có sự vận động, thay đổi rõ nét. Trước

1975, thơ chủ yếu viết về đề tài chiến tranh và người lính với cảm hứng bi tráng. Sau

1975, đặc biệt từ 1986 trở đi, Phạm Quốc Ca đi sâu khai thác các chủ đề tình yêu quê

hương, gia đình và tình yêu đôi lứa, những mối quan hệ thế sự, nhân sinh. Với cách

viết giản dị, sâu lắng, với cái tôi đầy tính nhân văn, gắn bó sâu sắc với vận mệnh dân

tộc, thời đại, con người, Phạm Quốc Ca đã tạo được dấu ấn riêng của mình trong dòng

chảy thơ Việt Nam đương đại.

66

Chương 3

THƠ PHẠM QUỐC CA TỪ GÓC NHÌN NGHỆ THUẬT

Đây là phạm trù quan trọng, gắn bó mật thiết không thể tách rời với phạm trù

nội dung của tác phẩm văn học. Bàn về nghệ thuật thơ của thi sĩ nào cũng có nhiều

vấn đề. Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ, chúng tôi xin được đi sâu vào một số vấn

đề sau.

3.1. Thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật là là một phạm trù thuộc về thi pháp học. Theo Từ điển

thuật ngữ văn học: “Sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng

xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian.Và cái được trần thuật bao giờ

cũng được diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp

của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ

chỉ có trong thế giới nghệ thuật" [29, tr. 272-273].

Theo thi pháp học thời gian có ba bình diện: Quá khứ- hiện tại- tương lai.

Trong đó, thời gian hiện tại đóng vai trò chủ đạo. Đó là thời gian cảm nhận. Thời gian

quá khứ là thời gian được tái hiện lại các sự kiện, kỷ niệm qua sự hồi tưởng của nhân

vật trữ tình, tạo nên những cảm xúc, tình cảm trong thơ. Thời gian tương lai được thể

hiện qua dự kiến, mơ ước của nhân vật trữ tình. Sự phân biệt quá khứ, hiện tại, tương

lai chỉ xuất hiện trong phạm vi thời gian nhân vật, sự kiện và sự phân biệt này chỉ có

tính tương đối.

Thời gian nghệ thuật là phương tiện nghệ thuật để tác giả nhận thức và phản

ánh đời sống. Do đó, thời gian nghệ thuật chịu ảnh hưởng nhiều bởi tính chủ quan,

được thể hiện ở cách cảm nhận, miêu tả thời gian của tác giả.

Với sự kế thừa và sáng tạo quan niệm thời gian nghệ thuật của các nhà thơ, Phạm

Quốc Ca đã tạo nên nét riêng về thời gian nghệ thuật. Cụ thể như sau:

3.1.1. Thời gian hiện tại

Thời gian hiện tại là bình diện chủ yếu của văn chương nghệ thuật, là điểm

xuất phát cho cảm xúc, tâm trạng để nhân vật trở về quá khứ hay nghĩ đến tương lai.

67

Vốn yêu đời, say mê với cuộc sống, Phạm Quốc Ca luôn nhạy cảm với những biến

thái tinh vi nhất của thời gian, tạo vật:

Ngày đang mưa lay phay

Chân trời pha màu sữa.

Lúa chiêm non hớn hở

Xanh một màu tháng Giêng.

(Tháng Giêng xanh)

Trong thơ ông, ta bắt gặp sự cảm nhận tinh tế những khoảng khắc giao mùa.

Có khi đó là thời gian tiềm ẩn, không trực tiếp nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được

bước đi của nó:

- Tháng Chạp bồng bềnh mưa bụi

Chợt sáng trời

Hoa cải trắng ven sông

(Chợ Tết)

- Rơi rơi rơi…

Lá ngô đồng

Nửa vàng cuối hạ, nửa hồng chớm thu

(Thượng Hải chiều sương)

- Hạ nắng

Sáng nay len lén lạnh

(Thu)

Phải có một hồn thơ đa cảm nhà thơ mới cảm nhận được một cách tinh tế vẻ

đẹp của thiên nhiên, đất trời trong thoáng chốc như vậy. Tháng Tư năm 1975, Phạm

Quốc Ca cùng đồng đội tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trước sự hy sinh mở

đường thắng lợi của người bạn, nhà thơ đã viết những vần thơ đầy bi tráng:

68

Đường chiều nay bạn mở

Quân ta đang bươn đèo.

Sau lưng hoàng hôn đỏ

Trước cửa rừng trăng treo…

(Cửa rừng)

Người đọc như cảm nhận được sự chảy trôi của thời gian cùng với bước chân

hành quân của những người lính vào chiến dịch. Nhưng đó không còn là thời gian vật

lý vận động tự nhiên từ hoàng hôn đến lúc trăng treo mà là thời gian của niềm tin

chiến thắng đang nung nấu trong trái tim những người lính. Hoàng hôn đỏ là máu, là

đau thương mất mát bỏ lại phía sau. Vầng trăng treo phía trước là cuộc sống hòa bình,

hạnh phúc trong tương lai gần.

Trong tình yêu, Phạm Quốc Ca có cách nói về thời gian nhớ thương của những

chàng trai mới yêu lần đầu thật độc đáo:

Anh có những đêm mất ngủ đầu tiên

Những đêm mỏng như tờ giấy lụa.

Bỏ lại tuổi thơ

Anh biết buồn biết nhớ

Chợt thấy mình đang sống nửa con người.

(Tiếng trầm)

Có khi không cần đến những từ ngữ chỉ thời gian cụ thể, thơ Phạm Quốc Ca

vẫn diễn tả được thời gian thường trực trong cảnh vật:

Trên cát trắng đàn bò gặm nắng

Tháp Chàm mang dáng xương rồng hoang.

(Phan Rang)

Trong động tác của đàn bò gặm nắng, trong từ nung gắn với tháp Chàm, ta

nghe rõ tiếng thời gian nhỏ giọt nhọc nhằn trong cái khô khát của miền đất nóng.

69

Cách cảm nhận thời gian trôi chảy của Phạm quốc Ca nhìn chung rất tinh tế

và độc đáo:

Cây dừa trước ngõ lặng lẽ rơi lá vào tháng năm

Những đốt thời gian dần cao tuổi mẹ.

(Bình minh con lại lên đường)

Hoặc trong Đêm lời mẹ ru, Phạm Quốc Ca đã viết:

Cành xoan thiêm thiếp trăng tà

Lặng im một giọt sao sa cuối trời

Xếp ba lô nửa cuộc đời

Rưng rưng con gặp đêm lời mẹ ru.

Nhà thơ Anh Vũ cho rằng: “Bốn câu thơ vời vợi vẻ tự nhiên hoành tráng. Chỉ

bốn câu này đủ đứng riêng trọn vẹn một bài tứ tuyệt. Ngoài vẻ đẹp hàm súc còn cho

ta thấm thía cảm thức về thời gian bao dung và độ lượng”[69].

Với cảm thức bén nhạy về thời gian, Phạm Quốc Ca còn phát hiện ra cái vĩnh

hằng của trời đất đối lập với cái hữu hạn của đời người:

Thời gian

Màu trời xanh thăm thẳm nghìn năm

Màu tóc trên đầu lâm râm trắng.

(Những cánh rừng những bài ca)

Thời gian hiện tại là bình diện chủ yếu và là tiền đề, làm xuất phát điểm để

Phạm Quốc Ca giãi bày cảm xúc hướng về quá khứ và tương lai.

3.1.2. Thời gian quá khứ

Phạm Quốc Ca là nhà thơ giàu suy tư hoài niệm. Nổi bật trong thơ ông là thời

gian quá khứ gắn liền với những hoài niệm về chiến tranh, về quê hương, về tuổi thơ

và những người thân yêu. Trong công trình Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000,

Phạm Quốc Ca đã có nhận xét: “Hoài niệm trong thơ trung đại là hoài niệm về “tiền

70

nhân”,“tiền triều” với tư cách là những gương mẫu về xã hội thịnh trị và con người

đạo đức. Hoài niệm trong Thơ mới là hoài niệm về một thời con người còn sống hòa

hợp với thiên nhiên…là quá khứ bi tráng, là thuở “huy hoàng của Á châu” đối lập

với hiện thực tầm thường, tù hãm đương thời. Thời gian hoài niệm trong thơ trước

1975 thì hoặc là quá khứ mang truyền thống yêu nước và cách mạng, hoặc là quá

khứ đau thương của cuộc đời cũ. Thời gian hoài niệm trong thơ đương đại qua lăng

kính cá nhân thường gắn với tuổi thơ, làng quê” [10, tr.158].

Trước hết đó là thời gian lịch sử dựng nước và giữ nước. Bài thơ Hương

khói Đền Cuông nhắc đến bài học lịch sử đắt giá không một người dân Việt nào

có thể quên:

Tình Đất nước trong tôi

Từ huyền sử một ngày giặc giã

Hồn Mỵ Châu mơ màng mây trắng bi thương

Thời gian lịch sử trong thơ Phạm Quốc Ca gắn với quá khứ hào hùng của dân

tộc. Ở đó lớp lớp người đã nối tiếp nhau đứng lên bảo vệ tổ quốc:

Lịch sử cha ông in lại lối mòn

Tôi cảm nhận bằng chân đi đất

Thương người xưa măng trúc, măng mai

Thương người mặc áo vá vai

Còng lưng gieo gặt

Một sớm khói đen trời ải bắc

Nửa đêm nghe hịch lên đường

Cầm ngang ngọn giáo

Dáng tầm sừng sững núi sông

(Tuần tra trong mưa rừng)

71

Đó là thời gian của một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng

phơi phơi dậy tương lai” (Tố Hữu). Qúa khứ được ông tái hiện trong bài Viếng

nghĩa trang:

Ngày ấy tuổi đôi mươi, mười tám

Gạo, súng chung mang

Vực thẳm

Đèo cao

Họ đã sẻ chia

Sự sống, cái chết

Chia đạn, chia cơm

Chung bùn máu chiến hào.

Ký ức chiến tranh đã theo người thi sĩ - chiến sĩ đến giảng đường đại học với

những lời tâm sự cùng thế hệ trẻ hôm nay:

Chẳng tính được đâu những trận càn

Súng đói đạn và người đói gạo

Chung lứa tuổi học sinh lên đường chiến đấu

Đồng đội tôi còn đói sách ngẩn ngơ

(Với các em tôi)

Hoài niệm trong thơ Phạm Quốc Ca còn là nỗi nhớ làng quê gắn với thuở ấu

thơ nghèo khổ, vất vả:

Ôi những ngày xưa

Tuổi thơ con đó.

Cái buốt lạnh theo vào nỗi nhớ

Làng nhỏ nghìn năm rơm rạ, tre pheo

(Nhớ mẹ)

72

Thời gian quá khứ gắn với những ký ức về miền quê Nghệ An có khí hậu khắc

nghiệt:

Nhớ trưa tháng Năm phừng phừng nắng lửa

Những đám mây trắng gắt lưng trời.

Rặng tre làng hiu hiu xác bạc

Bóng mỏng che người lây lất mồ hôi.

Nhớ hun hút những ngày gió bấc

Mưa bay mờ mịt cánh đồng.

Cây rơm ướt bên hàng xoan trụi lá

Con bò gầy rút từng sợi mùa đông.

(Nhớ quê)

Thông qua những hình ảnh thiên nhiên, người đọc có thể cảm nhận được sự

chuyển dịch của thời gian. Đó là những trưa tháng năm nắng như thiêu như đốt, khiến

người và cảnh cũng như héo hon thêm. Mùa đông với những cơn gió bấc, mưa phùn.

Cây cối cảnh vật cũng trở nên trơ trụi bởi cái lạnh thấu xương, con bò gầy chỉ còn sống

với cây rơm. Những sợi rơm vàng được nhà thơ gọi là sợi mùa đông, độc đáo và thú vị

biết bao!

Thời gian quá khứ còn gắn liền những hồi ức về những người thân yêu, đặc

biệt là nhớ về mẹ:

- Gối tay nằm thức trắng đêm

Ứa thương tay mẹ ấm mềm ngày xưa

(Đêm lời mẹ ru)

- Những năm con đánh Mỹ rừng sâu

Mẹ lạnh ướt bao mùa mưa ở đó.

Dõi mắt phương con

73

Ì ầm tiếng nổ

Lòng mẹ ngày nào cũng bị ném bom.

Những năm con về lại giảng đường

Mẹ thương cháu đêm mòn guốc võng.

Đêm của mẹ đêm nào cũng rộng

Lời ru đầy khuyết vầng trăng…

(Bình minh con lại lên đường)

Thời gian đã trở thành đối tượng trực tiếp cho sự khám phá, hiện diện qua cảm

nhận của nhà thơ và được hình tượng hóa:

Những toa vô hình

Con tàu không tiếng

Lặng lẽ trôi về ga cuối không màu

Không vé khứ hồi hai lần tuổi trẻ

Sao cược đời mình vào những không đâu?

(Thời gian)

Cảm nhận thời gian như vậy đã trở thành thái độ, trách nhiệm sống của mỗi

con người trước cuộc đời: Đừng lãng phí thời gian vì những việc không đâu, vì hơi

men của những đam mê để rồi chôn vùi bao mộng ước, khi nhận ra được thì đã muộn

màng.

Phạm Quốc Ca là nhà thơ giàu suy tư hồi tưởng. Quá khứ luôn trở đi trở lại

trong nhiều bài thơ của ông. Nhất là khi xã hội hiện đại làm cuộc sống, đạo đức con

người dần xuống dốc, nhà thơ lại càng hoài niệm về những tháng ngày thơ ấu trong

trẻo, những năm tháng kháng chiến hào sảng và những mảnh đất, những con người

giàu tình nghĩa.

3.1.3. Thời gian tương lai

Vốn là người nhạy cảm với hiện tại và hay hoài niệm về quá khứ nên thơ Phạm

Quốc Ca ít nói tới thời gian tương lai. Dù vậy, khi viết về tương lai, thơ ông lại dạt

74

dào cảm xúc. Khi là người lính tham gia cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975,

chứng kiến đồng đội hy sinh, Phạm Quốc Ca có một niềm tin mãnh liệt vào tương lai

chiến thắng:

Giờ G rồi sẽ điểm

Đất gầm lên pháo tăng.

Quân ta như thác lũ

Sẽ tràn xuống Sài Gòn.

(Cửa rừng)

Những câu thơ hào sảng của một thời máu lửa, hừng hực khí thế, niềm tin.

Xương máu nhiều thế hệ con người đã được đền đáp xứng đáng bằng độc lập, tự do,

thống nhất đất nước.

Trong trường kỳ khó khăn, gian khổ, thơ ông vẫn ánh lên tinh thần lạc quan

về sự đổi mới của quê hương trong tương lai:

Rồi sẽ có miền Trung ấm no

Máy sẽ nhiều hơn đỡ bàn tay mẹ.

Mẹ rồi có tuổi già ngơi nghỉ

Say miếng trầu chắp nối ca dao.

(Mẹ miền Trung)

Về thời gian tương lai, Phạm Quốc Ca cũng có cách viết thật sáng tạo:

Ta ở nơi này

Tâm hồn chốn khác

Nhớ những ngày chưa sống khôn nguôi.

(Nhớ)

Phạm trù Nhớ thuộc về những cái đã có, đã trải qua. Thơ Phạm Quốc Ca đã bỏ

nhoè ranh giới, bình thản lấn lướt sang địa hạt không phải của mình lúc đó. Nhà thơ

Anh Vũ đã bình: “Thời gian tồn tại trong cảm thức của nhà thơ không còn là thời

75

gian tuyến tính, một chiều mà là thời gian“phí lý”, dẫu phi lý về hình thức nhưng

thực có lý trong cảm xúc thi nhân: Lòng người viết phải cởi mở rộng rãi đến thế nào

mới tự dưng hạ được một câu thơ thật rõ ngược đời, mà ngẫm ra vẫn thuận lý, thuận

tình đến thế”[69].

Phạm Quốc Ca có một hồn thơ khoẻ khoắn, lạc quan. Vì vậy khi nói về tương

lai ông thường gửi gắm ở đó niềm tin tuyệt đối:

Mỗi cuộc đời riêng có thể đi vòng

Lịch sử vặn mình tìm đường đi thẳng

Rồi đất nước sẽ có ngày tươi sáng

(Với các em tôi)

Đặc biệt, Phạm Quốc Ca đã dùng hình ảnh đoàn tàu để diễn tả sự trôi chảy của

thời gian đời người khiến cho một khái niệm trừu tượng trở nên cụ thể, sinh động:

Những toa vô hình

Con tàu không tiếng.

Lặng lẽ trôi về ga cuối không màu.

(Thời gian)

Như vậy, thời gian vừa là phương tiện thể hiện, vừa là phương thức tồn tại cho

văn chương nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng. Thời gian trong thơ Phạm Quốc

Ca gần gũi với sự cảm nhận của con người đương đại trước dòng đời, là cảm thức

chung của muôn người trước bước đi lặng thầm của thời gian. Thơ ông là sự ăn sâu

bám rễ vào hiện thực với bao trăn trở, yêu thương với cuộc đời để rồi có cái nhìn về

quá khứ và tương lai thật giàu tính minh triết và chất thơ.

3.2. Không gian nghệ thuật

Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của

thế giới nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Sự miêu tả, trần thuật trong

nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trườngnhìn nhất

định. Qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ: Cái này bên cạnh cái kia,

76

liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ

thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ

quan. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào

không gian địa lý. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô

hình hoá các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti

trật tự” [29, tr.135].

Quan niệm và cách thể hiện không gian nghệ thuật thay đổi qua các thời đại thi

ca. Chẳng hạn trong Thơ mới là không gian riêng tư, không gian mộng mơ, không gian

siêu thực…trong thơ cách mạng là không gian đất nước, không gian công cộng, không

gian con đường…Thơ Việt Nam sau 1975 nói chung và thơ Phạm Quốc Ca nói riêng

vừa kế thừa, vừa có sự đổi mới so với những giai đoạn trước đó. Bất cứ nơi đâu nhà

thơ có mặt cũng để lại những tình cảm sâu nặng. Từ vùng quê gió Lào cát trắng đến

những tỉnh, thành trong nước, đến Trung Hoa, Liên bang Nga… nơi nào cũng để lại ấn

tượng sâu sắc trong lòng thi sĩ. Nhưng nổi bật trong thơ Phạm Quốc Ca là không gian

chiến trận, không gian làng quê và không gian đời tư.

3.2.1. Không gian chiến trận

Không gian chiến trận tồn tại trong văn học giai đoạn 1945 - 1975 như một nét

đặc trưng. Bằng cảm xúc chân thành của nhà thơ từng là lính, Phạm Quốc Ca kế thừa

đặc điểm đó với những trang thơ tái hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước oanh

liệt của dân tộc. Thơ ông tái hiện những gian khổ, ác liệt của chiến tranh thật sinh

động qua những con đường hành quân, những căn hầm chiến đấu và không gian đồi

chốt. Nhiều bài thơ tái hiện không gian chiến trường đặc sắc như: Khát, Làng không

người, Uống mưa, Thấp thoáng bình minh, Cửa rừng, Viết trong ngày giỗ anh…

Đó là những con đường hành quân gian khổ trong không gian đêm chiến

tranh:

Kỷ niệm còn lạnh ướt những đêm mưa

Bốn phía giặc

Đèn dù quờ quạng.

77

Sấm sét lẫn trong bom chụp, pháo bầy

Lặng thầm quân đi trong mây

Hun hút gió lùa lạnh sắc.

(Hát trên đèo Hải Vân)

Con đường hành quân khét nồng bom đạn đâu có ngăn nổi tâm hồn lãng mạn

của những người lính trẻ. Bằng tất cả giác quan, nhà thơ cảm nhận âm thanh rộn rã

của sự sống và cả những chồi non tách vỏ, vươn lên trong không khí chiến dịch. Phải

có tinh thần lạc quan yêu đời, nhạy cảm tinh tế lắm, nhà thơ mới cảm nhận được sự

chuyển biến của thiên nhiên trong không gian chiến tranh:

Đường hành quân ríu rít tiếng chim

Lá giòn vỡ dưới bàn chân xao xác

Rừng đã rụng mùa khô xuống đất

Ngành ngạnh nảy chồi lá mướt cánh ong.

(Thấp thoáng bình minh)

Đó là không gian chật đầy áo lính của những đoàn quân ra trận:

Thượng Đồng Nai đến Vàm Cỏ Đông

Những cánh rừng chật đầy áo lính

Đường đỏ bụi những đoàn quân ra trận

(Thấp thoáng bình minh)

Trên những con đường hành quân nhà thơ đã cùng đồng đội đi qua biết bao

ngôi làng bị bom đạn Mỹ tàn phá như trong bài thơ Làng không người:

Ngổn ngang tường gạch vỡ xanh rêu

Mái ngói sập

Hố bom đào nham nhở

Mắc cỡ mùa mưa rấp dày lối ngõ

78

Áo mũ trẻ em mục ải bên đường.

Kỳ lạ và thú vị thay, nổi bật trong không gian ảm đạm thê lương của sự hủy

diệt ấy vẫn là sự sống bất tử. Với con mắt tinh tế của người nghệ sĩ, nhà thơ đã nhìn

thấy“sự sống hiện hình trong cái chết” (Nguyễn Khải):

- Không biết người đã đi

Hoa sầu riêng vẫn nở

Lác đác nụ vàng

Rụng xuống lòng mương.

- Hoa mười giờ trước sân gạch vỡ

Đỏ nhói đau ước vọng thanh bình.

Không chỉ tái hiện không gian chiến trường với những con đường hành quân,

ra trận mà Phạm Quốc Ca còn tái hiện những không gian sinh hoạt đời thường giản

dị nhưng giàu tình đồng đội của những người lính. Đó là cánh rừng với cuộc liên hoan

vào trận được tái hiện bằng cảm hứng lãng mạn:

Nơi bom dội vào giờ dọn bữa

Xô nhau xuống hầm

Xoong bát bay tung.

Ôm nhau phát cuồng mừng lành lặn cả

Chuyển lán, đào hầm, nhịn một bữa cơm…

(Về cứ cũ)

Đó còn là không gian đầm ấm tình quân dân những năm kháng chiến trong bài

Gieo mùa::

Thương về buổi ấy làng xưa

Chiến khu mùa đói đêm mưa lội rừng.

Lòng nôi của những đoàn quân

79

Quây quần bếp lửa chia từng bắp ngô.

Phạm Quốc Ca cũng đã hào hứng tái hiện không gian sôi động và đầy dự cảm

chiến thắng của cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975:

- Mùa Xuân nồng nã chờ mong

Đêm chiến trường bốn phương chớp giật

(Thấp thoáng bình minh)

Nét mới trong thơ Phạm Quốc Ca là không gian chiến trận được cảm nhận qua

lăng kính cá nhân của người lính. Không gian chiến trận không còn là không gian bên

ngoài mà đã trở thành không gian tâm tưởng. Nếu như trước đây trong không gian

công cộng của thơ cách mạng không có chỗ cho riêng tư thì trong thơ Phạm Quốc Ca

đã khắc họa thế giới nội tâm của người lính trong niềm thương, nỗi nhớ người yêu.

Tình yêu là động lực, là điểm tựa, là sức mạnh tinh thần cho người đi đánh giặc:

Giữa đội ngũ binh đoàn

Anh từng viết những câu thơ sức vóc

“Người lính cõng ba lô

Mang lịch sử nước mình”

Nhưng lúc này đây

Để không ngã khụy

Bởi cơn khát cháy người

Anh nghĩ về em

Ngôi sao Mai ở cuối màn đêm

Long lanh sáng

Long lanh giọt nước

(Khát)

Chiến tranh gắn với mất mát, đau thương. Vì vậy trong thơ Phạm Quốc Ca còn

có không gian đầy dự cảm không lành:

80

Tuổi trẻ tôi

Đêm trăng suối đá

Chia tay em về đột ấp dưới xuôi

Linh cảm vỡ mặn dòng nước mắt

Phía em đi lửa đạn đỏ trời

(Những cánh rừng những bài ca)

Không gian chiến trường với ánh mắt đau đáu kiếm tìm người anh liệt sĩ gây

bao xúc động trong lòng người đọc:

Em đã tìm anh suốt những cánh rừng

Chi chít dòng tên khắc vào thớ gỗ.

Anh nằm lại nơi đâu?

Bốn phương trời khói lửa

Tiếng bom nào như cũng dội nơi anh.

(Viết trong ngày giỗ anh)

Tóm lại, không gian chiến tranh trong thơ Phạm Quốc Ca dạt dào cảm xúc,

suy tưởng khi phản ánh, tái hiện những năm tháng gian khổ, hào hùng không thể

nào quên.

3.2.2. Không gian làng quê

Thơ Phạm Quốc Ca xuất hiện không gian đất nước, không gian của những

vùng quê tác giả đã từng đặt chân tới như Huế, Phan Rang, Đèo Hải Vân, Phú Yên,

Côn Sơn- Hải Dương, Đà Lạt, Đất Mũi, nước Nga, Trung Hoa…Song nổi bật nhất

trong thơ ông là không gian làng quê - nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ trong nỗi hoài

niệm với những hình ảnh đầy thi vị:

Làng tôi xanh dừa, xanh tre

Nghiêng xuống sông Bùng mảng hồn mát rượi.

(Làng trong nỗi nhớ)

81

Không gian làng quê được nhà thơ cảm nhận ở nhiều thời điểm khác nhau. Đó

là không khí vui tươi của những ngày chợ Tết:

Tháng Chạp bồng bềnh mưa bụi

Chợt sáng trời

Hoa cải trắng ven sông.

Người khắp ngả như về dự hội.

Chợ Tết râm ran

Khói pháo lẫn hương trầm...

(Nhớ chợ Tết)

Làng Thọ Khánh quê nhà thơ thật đẹp trong mưa xuân:

Nhè nhẹ như là chưa phải mưa

Đồng rộng làng xa trắng nhạt nhòa.

Mùa Đông nán níu làn hơi lạnh

Mưa Xuân làm rượu ấm trong ra.

(Mưa Xuân)

Không gian đồng quê được tác giả cảm nhận và miêu tả thật tinh tế với những

chuyển biến diệu kỳ của thiên nhiên. Chỉ một chút“nán níu làn hơi lạnh” cũng đủ để

cảm nhận sự chuyển mùa đông sang xuân.

Không gian làng quê trong thơ Phạm Quốc Ca còn có ý nghĩa như khoảng lặng

tâm hồn đối với người con đã từ quê ra tỉnh. Chỉ một tiếng gà cũng khiến tâm hồn

nhà thơ thấy xốn xang:

Bình minh của tôi lại thức từ làng

Có tiếng giục trâu ra đồng ngoài ngõ

Có cặm cụi dáng mẹ ngồi nhóm lửa

Chú gà trống đầy cườm đứng gáy ngọn cây rơm

(Thức với tiếng gà)

82

Miền Trung là mảnh đất hứng nhiều thiên tai. Phải chăng, chính điều kiện thiên

nhiên khắc nghiệt nơi đây đã góp phần hun đúc lên nhiều con người có bản lĩnh, tài

năng. Khi xa quê, nhà thơ vẫn thường theo dõi dự báo thời tiết và thầm lo lắng cho

quê mẹ phải oằn mình chống chọi với hờn giận của thiên nhiên. Nhà thơ đã miêu tả

rất ấn tượng không gian miền Trung mùa mưa bão:

Mưa như trút sỏi lên mái ngói

Gió rú gào

Căn nhà nhỏ rung lên.

Bão man rợ như ngày tận thế

Trút xuống loài người hờn giận thiên nhiên.

Cửa rung bật

Gió lùa lạnh buốt

Ngọn tre rũ rượi quét ngang vườn

Dừa oằn oại vươn cánh tay kiệt sức

Với lên trời gọi cứu muôn phương.

(Bão)

Cũng như bao vùng quê khác, quê hương tác giả dần thay da đổi thịt. Không

gian thành thị mọc lên khiến nhà thơ vừa vui mừng vừa có phần hụt hẫng và càng

thêm nhớ quê da diết. Ấy là cảm giác“Về quê hương mà nhớ quê hương”:

Chợ Hôm bày bán hàng điện tử

Nhà mới lên tầng cao quá ngọn tre

Đường nhoét chân trâu bê tông, láng nhựa

Quán nước đầu làng thành quán Karaoke.

(Về quê)

83

Nhìn chung, không gian làng quê trong thơ Phạm Quốc Ca là một không gian

nghệ thuật giản dị, gần gũi mà đặc sắc, nên thơ. Đó vừa là không gian thiên nhiên,

không gian văn hóa vừa là không gian tâm tưởng. Ta có thể bắt gặp hình ảnh đất

nước, những cánh rừng, những đoàn quân ra trận… nhưng cũng có thể xốn xang với

một tiếng gà gọi bình minh thức dậy. Nó cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa con người

cá nhân với con người xã hội ở nhà thơ.

3.2.3. Không gian đời tư

Nếu như văn học kháng chiến ít chỗ dành cho không gian đời tư, thì sau 1975,

trong cuộc sống thời bình, không gian nghệ thuật đời tư, trong đó chủ yếu là không

gian của tình yêu đôi lứa ngày càng phổ biến. Nổi bật trong Thơ Phạm Quốc Ca là

không gian của tình yêu. Đó là không gian của mối tình đầu:

Cả một vườn bướm trắng

Lảnh lót tiếng chim chuyền.

Đất trời tươi màu mới

Sau ánh nhìn mắt em.

(Mùa xuân thứ nhất)

Trong những bài thơ tình, Phạm Quốc Ca đã vẽ nên những không gian yêu của

đôi lứa thật nên thơ. Đó là cánh rừng thông Đà Lạt, nơi chỉ có hai người:

Thông reo ngàn lá nắng

Thoang thoảng mùi nhựa thơm

Rải vàng trong lặng lẽ

Ngàn vạn chiếc kim trơn.

(Trong rừng)

Có lúc, không gian tình yêu vời vợi nỗi nhớ, thăm thẳm cô đơn:

Đêm trong suốt

Gió thầm thì với gió

84

Những vì sao trò chuyện với vì sao.

Anh ngồi lạnh nửa phần ghế đá

Nỗi nhớ em cong nửa địa cầu.

(Nửa phần ghế đá)

Đó là không gian trong tâm tưởng vượt ra xa ngoài giới hạn của không gian

vật lý. Nhà thơ còn viết rất nhiều câu thơ hay về nỗi nhớ người yêu:

Đợi chờ em

Cỏ hồng sương tím

Trập trùng xa sóng núi cao nguyên.

Lòng anh như dã quỳ đến hẹn

Vàng rực mùa hoa chờ em.

(Hoa chờ em)

Không gian tình yêu đôi lứa còn gắn liền với không gian đầm ấm nên thơ của

hạnh phúc gia đình bên người vợ yêu dấu. Đó là ngôi nhà ở quê:

Mái nhà đôi chim chung tổ

Ba gian thương nhớ của anh.

(Đà Lạt có em)

Đến căn nhà tập thể ở Đà Lạt tràn ngập hạnh phúc riêng tư:

Dưới tháp sao Trường Đại học

Có căn phòng nhỏ chúng mình.

Thành phố như tranh trước cửa

Đầu hè chim thức bình minh.

Ta đón hoa về chung ở

Vườn xanh rau cải rau dền…

(Đà Lạt có em)

85

Không gian đời tư trong thơ Phạm Quốc Ca thật phong phú. Có được điều đó

là nhờ tấm lòng nhân hậu, giàu yêu thương của nhà thơ.

Tóm lại, không gian nghệ thuật trong thơ Phạm Quốc Ca khá đa dạng. Không

chỉ có không gian chiến trường gian khổ ác liệt với những người lính anh dũng sẵn

sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc mà còn có không gian thiên nhiên khắc nghiệt nhưng

cũng hết sức nên thơ cùng cuộc sống gian khó nhưng đầm ấm nghĩa tình của con

ngườimiền Trung. Không chỉ có không gian bên ngoài mà còn có không gian tâm

tưởng trong tâm hồn nhà thơ. Những không gian nghệ thuật ấy đã phản ánh sinh động

cuộc đời với những mảng màu khác nhau. Nó đã góp phần vào việc thể hiện tư tưởng

- thẩm mỹ của thơ đương đại Việt Nam.

3.3. Ngôn ngữ thơ

Văn hào Nga M. Gorki từng khẳng định: “Ngôn ngữ là chất liệu, là phương

tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn

ngữ”. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài

năng của người nghệ sĩ. Theo R.Jacobson:“Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm

mỹ của nó”. Vì thế, tính hàm súc, có khả năng gợi hình, gợi cảm, giàu nhạc điệu, mới

lạ …là những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ.

Phạm Quốc Ca quan niệm: “Thơ là thể loại nghệ thuật ngôn từ, sáng tạo theo

các nguyên lý: Lạ hóa, có tính nhạc và sử dụng tối ưu các thủ pháp nghệthuật, nhằm

chia sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫmtrong một giá trị thẩm mỹ”[11,tr.10].

Với quan niệm đúng đắn và sự lao động sáng tạo nghiêm túc, Phạm Quốc Ca đã cho

người đọc được cảm nhận nghệ thuật ngôn từ trong thơ ông. Có thể nhận thấy vẻ đẹp

ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca qua một số đặc điểm sau.

3.3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh

Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là tính hình tượng. Đó là khả năng tái hiện cuộc

sống một cách sinh động bằng những bức tranh gợi hình, gợi cảm. Ngôn ngữ có hình

tượng là ngôn ngữ giàu hình ảnh, tạo hình, âm thanh, màu sắc, có khả năng gây ấn

tượng mạnh mẽ vào trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc. Phạm Quốc Ca đã

sáng tạo thành công những hình ảnh khi viết về chiến tranh, những người lính hay

nhiều hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống con người ở nhiều thời điểm, nhiều địa điểm

86

khác nhau. Đáng chú ý là nhà thơ tái hiện những hình ảnh thân quen ấy bằng tất cả

các giác quan. Nổi bật trong thơ Phạm Quốc Ca là hình tượng thị giác:

Nửa sau màn mưa là làng, là bản

Lửa bếp mẹ bập bùng ấm lạnh

Góc vườn bay lên đàn mối cánh

Khói bò trên mái nhà, mái tranh

(Tuần tra trong mưa rừng)

Hình ảnh Lá tre rụng đỏ ao bèo vừa thân thuộc vừa rất đặc trưng của nông

thôn Việt Nam trong bài Làng trong nỗi nhớ. Hay:

Hoa xoan rơi đường làng

Từng trận nhặt thưa…

(Mưa xuân)

Bên cạnh hình tượng thị giác, ngôn ngữ thơ Phạm Quốc Ca còn tác động mạnh

vào thính giác người đọc. Đọc thơ ông, người đọc cảm nghe được những xao động,

âm vang của cuộc sống ngay cả những khi hành quân vất vả:

Đường hành quân ríu rít tiếng chim

Lá dòn vỡ dưới bàn chân xao xác

(Thấp thoáng bình minh)

Hay bản nhạc vui tươi vào mỗi buổi bình minh trong cuộc sống hòa bình:

Nghe hoạ mi lĩnh xướng

Chợt ríu ran vườn xanh

Chim thi nhau thánh thót

Những hạt ngọc âm thanh.

(Tiếng chim)

87

Phải là người có tâm hồn rộng mở, yêu đời nhà thơ mới cảm nhận âm thanh

cuộc sống tươi đẹp đến vậy.

Cách cảm nhận hương vị cuộc sống của nhà thơ cũng rất thú vị:

Ban mai thoảng mùi hương lúa chín

Hạnh phúc này bình dị khó tin.

Lúa gieo gặt dưới tầm đại bác

Mùa đầu tiên thơm vị hoà bình.

(Về lại cánh đồng)

Hạnh phúc thật giản đơn. Mùi lúa chín cũng là mùi vị của hòa bình. Đọc những

câu thơ ấy, người đọc rưng rưng nhớ một thời đạn bom, chết chóc, nhọc nhằn.

Nhìn chung, thơ Phạm Quốc Ca đã tái hiện sinh động, giàu chất thơ những bức

tranh cuộc sống của con người Việt Nam lúc chiến tranh cũng như thời bình. Có được

điều đó là do ngôn ngữ thơ ông giàu hình ảnh, giản dị, gần gũi với mọi người.

3.3.2. Ngôn ngữ lạ hóa, giàu tính sáng tạo

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ hiện đại là tính

lạ hóa. Lạ hóa theo “Từ điển thuật ngữ văn học” là “ toàn bộ những thủ pháp nghệ

thuật (nghịch dị, nghịch lí) được dùng để đạt đến một kết quả nghệ thuật, theo đó

hiện tượng được miêu tả hiện ra không phải như ta đã quen biết, hiển nhiên mà như

một cái gì mới mẻ, chưa quen, khác lạ” [29, tr.172].

Thơ có nhiều ngả đường sáng tạo, nhiều vẻ đẹp khác nhau. Nói thơ Phạm Quốc

Ca có vẻ đẹp giản dị là nói về nét trội trong phong cách thơ ông. Kỳ thực thủ pháp lạ

hoá đã làm nên nhiều câu thơ hay, lấp lánh vẻ đẹp sáng tạo.

Lạ hóa trong thơ Phạm Quốc Ca trước hết được thể hiện ở việc sử dụng từ ngữ

độc đáo. Phạm Quốc Ca khai thác triệt để vốn từ ngữ của dân tộc, đồng thời không

ngừng sáng tạo để đạt hiệu quả thẩm mỹ cao nhất trong thơ, để thơ có sức hấp dẫn

người đọc. Đôi khi đó là những từ ngữ thông dụng hàng ngày, được nhà thơ sử dụng

đúng chỗ tạo nên giá trị bất ngờ. Ví dụ như:

88

Em đan áo cho mùa đông biên giới

Mũi kim luồn ấm áp về anh.

(Tuần tra trong mưa rừng)

Bằng mối liên tưởng tinh vi, động từ “luồn” đã chuyển tải bao cảm xúc, tình

yêu và nỗi nhớ trong từng đường kim đan.

Đặc biệt, Phạm Quốc Ca đã dùng hình ảnh đoàn tàu để diễn tả sự trôi chảy của

thời gian đời người. Ông đã khiến những thứ trừu tượng trở nên cụ thể, sinh động:

Những toa vô hình

Con tàu không tiếng.

Lặng lẽ trôi về ga cuối không màu.

(Thời gian)

Với cách dùng từ độc đáo Phạm Quốc Ca đã làm cho những bức tranh thiên

nhiên và đời sống trở nên giàu chất thơ:

- Trưa chang chói,

Bờ tre sàng bóng nắng

(Căn nhà để lại)

- Trên cát trắng đàn bò gặm nắng

(Phan Rang)

- Những buổi hoàng hôn

Đàn trâu uống ráng chiều cháy đỏ.

(Làng trong nỗi nhớ)

- Nhớ tiếng gà như khoan vào canh khuya

(Thức với tiếng gà)

- Chân trời rách

89

Gió bấc lùa hun hút

(Nhớ mẹ)

- Xuân đi nhón gót

Hè chớm đến

Trong ánh hoàng hôn đỏ cuối ngày.

(Gửi miền gió nóng)

Những từ như: sàng, gặm, uống, khoan, rách, lùa, nhón gót...hẳn rất quen

thuộc với người đọc song dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ nó như diễn tả được sự

dịch chuyển của thời gian, cảnh vật ở những thời khắc tinh vi nhất.

Cái nóng của miền Trung nắng lửa có lẽ người nơi khác không thể nào cảm

nhận hết. Phạm Quốc Ca đã đem đến cho người đọc cái cảm giác đang đứng giữa

miền quê nóng bỏng ấy chỉ qua tính từ “trắng gắt”:"Những đám mây trắng gắt giữa

trời"(Nhớ quê). Nhà thơ, họa sỹ Anh Vũ đặc biệt đánh giá cao cách dùng tính từ

“trắng gắt”: “ Tôi là họa sỹ mà phải chịu ông với một chữ “gắt” trong câu thơ

"Những đám mây trắng gắt giữa trời” [69].

Lạ hóa trong thơ Phạm Quốc Ca còn thể hiện qua cách gọi tên các sự vật hiện

tượng. Thơ có sứ mệnh là phải sáng tạo ra cái mới ngay cả trong những gì đã trở nên

quen thuộc. Những người lính trẻ lạc quan đã vượt lên vô vàn gian khổ, tuần tra bảo

vệ biên giới. Nhà thơ đã rất sáng tạo khi nói về nụ cười của họ:

Bạn tôi cười sau cái ngã lấm bùn

Nụ cười không bao giờ bị ướt.

(Tuần tra trong mưa rừng)

" Nụ cười không bao giờ bị ướt” quả thật rất độc đáo, làm giàu cho cách diễn

đạt trong thơ Việt.

Phạm Quốc Ca còn cho người đọc thấy sự liên tưởng lạ khi viết:

Trời đang rực nắng ban trưa

90

Bóng mây loáng sáng cơn mưa mạ vàng.

(Cơn mưa mạ vàng)

Cơn mưa mạ vàng thực chất là cơn mưa bóng mây nhưng từ hình ảnh thực

mưa dưới nắng vàng, nhà thơ đã tưởng tượng và gọi bằng cái tên rất sang, rất đẹp.

Cơn mưa gợi nhớ khoảnh khắc ngọt ngào đã thành kỷ niệm lấp lánh của tình yêu

đôi lứa.

Phạm Quốc Ca nhận thức sâu sắc nguyên lý lạ hóa trong thơ. Ông viết: “ Tôi

xa lạ với thơ không cần sự hiểu nhưng xác định cho mình đối tượng hướng tới của

thơ là bạn đọc hàng đầu. Mỗi bài thơ phải là một tác phẩm nghệ thuật có tính sáng

tạo, mới mẻ” [15, tr.4]. Với quan điểm sáng tác như vậy, Phạm Quốc Ca đã sáng tạo

nên những câu thơ thật lạ, tưởng phi lý mà thật có lý:

-Ta say hát lòng ai nhân hậu

Chưa từng gặp mặt nhớ thương nhau.

(Đối ẩm với người xa)

-Sao cứ nhớ những phương trời chưa đến?...

-Sao cứ nhớ những người chưa gặp?...

-Nhớ những ngày chưa sống khôn nguôi…

(Nhớ)

Nhớ là trạng thái cảm xúc gắn với những gì đã qua. Ở đây nhớ lại gắn với

những điều thuộc về tương lai: những phương trời chưa đến, những người chưa gặp,

những ngày chưa sống…Đó là tâm hồn khát khao sống, khát khao giao cảm với đời

của tác giả.

Nguyên lý lạ hóa được Phạm Quốc Ca thể hiện nhuần nhuyễn trong bài Hòa

bình. Hòa bình được nhìn nhận theo góc độ nhân bản:

Hòa bình mang gương mặt trẻ thơ

Ùa vào vòng tay người cha khét nồng thuốc đạn.

91

Hoà bình dâng trái mặt trời chin hồng mỗi sáng

Hoà bình đêm đêm dịu dàng khoả thân

Trên ranh giới màu da, chủ thuyết, thánh thần

Hòa bình là những giây lưỡng lự cò súng.

Giữa đời một con người và mấy chục gam đầu đạn

Hòa bình gào lên tiếng khóc mẹ hiền.

Hòa bình lết đi bằng bước chân thương binh

Nhắc nhớ những cuộc đời bị đốn

Bằng những ngôn từ choáng lộn

Sáng hơn màu của đạn đồng.

Qua những ví dụ trên, Phạm Quốc Ca đã chứng minh cho người đọc thấy sự

lao động miệt mài, nỗ lực của ông trong việc lạ hóa ngôn ngữ. Nhà thơ đã góp phần

không nhỏ vào việc làm giàu đẹp cho tiếng Việt.

3.4. Giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Nó được quy định

bởi cảm hứng nghệ thuật của tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:“ Giọng điệu

là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng

được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu

tình cảm, cách cảm thụ”[29, tr.112].

Trong công trìnhMấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000, Phạm Quốc Ca

quan niệm: “Giọng điệu là một hiện tượng nghệ thuật, là phương tiện biểu hiện quan

trọng của chủ thể sáng tạo. Đồng thời còn là biểu hiện của thi pháp trong những thời

đại thi ca nhất định” [10, tr.204].

92

Với cảm hứng nghệ thuật phong phú, giọng điệu trong thơ Phạm Quốc Ca

cũng rất đa dạng. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thơ Phạm Quốc

Ca mang những giọng điệu cơ bản sau.

3.4.1. Giọng điệu hùng tráng

Với cảm hứng về chiến tranh yêu nước, về lí tưởng anh hùng cách mạng, thơ

Phạm Quốc Ca có giọng điệu hùng tráng, ngợi ca những điều cao cả. Giọng điệu hùng

tráng đã tái hiện những bước chân hành quân đạp bằng mọi gian khổ của người lính.

Trong giờ phút thiêng liêng của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975, như bao đồng

đội khác, Phạm Quốc Ca mang tâm thế, khí thế của hàng chục vạn người lính chiến

đấu vì độc lập, tự do:

"Giờ G rồi sẽ điểm

Đất gầm lên pháo tăng

Quân ta như thác lũ

Sẽ tràn xuống Sài Gòn"

(Cửa rừng)

Sự sống rất quan trọng, quý giá với bất cứ con người nào. Đấu tranh cũng là

để giành sự sống theo đúng nghĩa của nó. Nhưng khi cần những người lính sẵn sàng

hi sinh vì mục đích cao đẹp. Vì thế, đối với họ, cái chết không còn đáng sợ:

Nhưng khát về với biển

Thác đổ vỡ rừng chiều.

Mạnh hơn cả cái chết

Là những gì ta yêu!

(Cửa rừng)

Âm hưởng hào hùng còn được thể hiện qua khát vọng được dâng hiến cho sự

nghiệp xây dựng đất nước khi giang sơn đã thu về một mối. Với tình yêu nước mãnh

liệt, nhà thơ đã viết:

93

Đất nước vạn ngày đánh giặc

Chưa kịp ngắm nhìn cho thỏa khát mong.

Ước gì ta được bay trong nắng

Như chú đại bàng kia tung thả cánh bằng.

Ước gì ta được như làn gió

Choàng cả tình yêu xuống núi non.

(Hát trên đèo Hải Vân)

Viết về chiến tranh và người lính chống Mỹ là nguồn cảm hứng lớn trong thơ

Phạm Quốc Ca. Nguồn cảm hứng này đã đem đến cho thơ ông giọng điệu sử thi hùng

tráng. Giọng điệu này còn tràn sang một số tác phẩm sau 1975.

3.4.2. Giọng điệu cảm thương

Bên cạnh giọng điệu sử thi, hùng tráng, khi viết về chiến tranh và người lính,

Phạm Quốc Ca thường hoài niệm về những đau thương, mất mát của một thời bom

đạn. Điều này đã tạo nên giọng điệu cảm thương trong thơ ông:

Hoàng hôn ấy dòng Đồng Nai ráng đỏ

Bạn xuôi tay

Lạnh ướt khoang đò.

Tiếng vượn hú, tiếng gió rừng than thở

Giọng nuối thương còn xót đến giờ.

(Ráng đỏ)

Nỗi đau chứng kiến đồng đội hy sinh còn mãi ám ảnh nhà thơ. Những vần thơ

khiến người đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa. Để rồi, trong cuộc sống hòa bình nhà

thơ vẫn rưng rưng mỗi khi nhớ về tuổi trẻ với ba lô, cây súng trên vai:

Chỉ còn lại những bài ca đã hát

Thuở áo lính màu xanh làm trẻ cánh rừng.

94

Chỉ còn lại những bài thơ đã viết

Thuở hầm hào

Nhớ lại rưng rưng...

(Những cánh rừng những bài ca)

Bên cạnh những bài thơ về chiến tranh, Phạm Quốc Ca còn viết về tình cảm

gia đình, những người thân yêu với giọng điệu cảm thương. Nhất là viết về mẹ, ông

đã có những câu thơ làm thổn thức tâm hồn người đọc:

Bây giờ con khóc mẹ

Hoàng hôn đau cuối trời

Mai thành người xa xứ

Mẹ nằm trong mưa rơi.

(Bên mồ mẹ)

Hoài niệm về tình yêu đôi lứa, trái tim nhà thơ cũng thổn thức khôn nguôi.

Mối tình đầu chớm nở bị chiến tranh chia cắt. Phạm Quốc Ca đã nói hộ bao trái tim

tuổi trẻ:

Chỉ em biết

Tim tôi thổn thức

Hình ảnh thân thương cô gái làng xưa

Trao vội chiếc khăn

Người ra mặt trận

Tựa gốc dừa xanh em lặng khóc thẫn thờ.

(Trái tim thổn thức)

Phạm Quốc Ca là người giàu hoài niệm. Dù đó là nỗi nhớ về “thuở hầm hào”

hay về quê hương, về người thân, về tình yêu… thì thơ ông thường mang giọng điệu

cảm thương, da diết.

95

3.4.3. Giọng điệu yêu thương, ngọt ngào

Bên cạnh giọng điệu cảm thương là giọng điệu yêu thương ngọt ngào. Đây là

giọng điệu chủ đạo trong thơ Phạm Quốc Ca và rất thích hợp để thể hiện những cung

bậc cảm xúc của tình yêu lứa đôi:

Riêng anh có một Phan Rang đằm thắm

Nho đầu mùa

Lịm ngọt môi em

Biển Ninh Chữ một chiều sóng trắng

Đã hớp hồn anh

Cặp mắt đen.

(Phan Rang)

Thơ tình Phạm Quốc Ca luôn nồng nàn, say đắm với khát khao cháy bỏng, si mê:

Anh yêu em!

Anh yêu em nóng rực

Như nhốt gió trong tim

Như cháy lửa trong người

Biết làm sao nói cùng em được

Em thật gần

Em quá xa xôi

(Tiếng trầm)

Giọng điệu yêu thương ngọt ngào trong thơ Phạm Quốc Ca còn được thể hiện

qua những bài thơ về tình mẫu tử. Ví như:

Mẹ nhờ làn gió hát thay

Ríu ran tiếng sẻ vun đầy giấc mơ.

Bờ tre làm tiếng võng đưa

96

Con bươm bướm trắng vào ra canh chừng.

Mẹ nhờ hơi ấm ngày xuân

Thay cho lòng mẹ ủ nồng giấc hoa.

Mẹ nhờ bà hát câu ca

Gió xuân ấm áp vào nhà ru con.

(Lời ru mùa gieo hạt)

Tấm lòng nhân hậu, yêu sự sống, yêu con người đã làm nên chất giọng ngọt

ngào, đằm thắm trong thơ ông.

3.4.4. Giọng điệu suy tư, triết lý

Thơ triết lý đòi hỏi trí tuệ và cảm xúc kết hợp nhuần nhị. Phương Lựu viết:

“Bài thơ hay bao giờ cũng gói ghém bên trong một chiều sâu suy tưởng, chứa đựng

ít nhiều chân lý tinh tế của cuộc đời” [47, tr.107]. Phạm Quốc Ca có nhiều bài thơ

suy niệm về cuộc đời, về con người. Ở mảng thơ này, người đọc dễ nhận thấy giọng

suy tư, triết lý. Nó được chắt lọc từ chính kinh nghiệm, từng trải của con người sống

hết mình với đời:

Với kinh nghiệm nửa đời thành bại

Ngỡ có trong tay chìa khóa vàng mười,

Hăm hở nghĩ nửa đời phía trước

Nhưng khóa thay rồi

Mở vã mồ hôi!

(Chìa và khóa)

Giọng điệu triết lý thể hiện tư duy sắc sảo, mẫn tuệ của tác giả:

- Tri thức từ đắng cay mà kết quả

Hạnh phúc đơm hoa lại bởi ngọt lành.

- Đúng hơn thì hạnh phúc phải tạo ra

97

Ta lại đi tìm trong ảo ảnh

(Thơ hai câu)

Chắt lọc từ kinh nghiệm sống, từ sức nghĩ của một nhà thơ trí thức nên triết lý

mà không hề khô khan:

Ranh giới tự hào - thất vọng

Mong manh một cánh chuồn thôi.

(Chú bé và chuồn chuồn ớt)

Những bài thơ mang đậm giọng suy tư, triết lý như: Bạn ta, Đối ẩm với người

xa, Thơ hai câu, Tản mạn đêm không ngủ,Sự thật, Hòa bình, Chân trời…đã để lại

nhiều ấn tượng tốt đẹp nơi bạn đọc. Có thể thấy ở đây sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa

kinh nghiệm sống và học vấn ở một nhà thơ không ngừng lao động sáng tạo.

3.4.5. Giọng điệu cay đắng

Bên cạnh những giọng điệu đã nói, thơ Phạm Quốc Ca còn có giọng điệu cay

đắng. Khi nhà thơ có cảm hứng chính luận, phê phán thực tại thì thơ sẽ có giọng lên

án, tố cáo, mỉa mai, châm biếm, giễu nhại…Chất giọng này góp phần làm cho cuộc

sống được cảm nhận với chiều sâu của người từng trải. Đồng thời cũng tạo nên sự đa

thanh trong thơ. Tiêu biểu là những câu thơ:

- Người mến thương thì về cát bụi

Bám mãi đời ta đỉa vắt thù hằn.

Chiều đối ẩm cùng hương hồn bạn

Ly rượu không người

Cay đắng lên tăm

(Rượu đắng)

-Ta say hát nửa đời cay cực

Chớm tuổi năm mươi đã bạc đầu.

(Đối ẩm với người xa)

98

- Kỳ thị, thù hằn có ở khắp nơi

Thế giới chưa là mái nhà chung hạnh phúc.

(Ngày về)

Hầu hết những bài thơ mang giọng điệu cay đắng của ông đều ra đời trong

hoàn cảnh xã hội đạo đức con người xuống cấp, vật chất lên ngôi.

3.4.6. Giọng điệu hài hước

Ta đã biết một Phạm Quốc Ca hào hùng, mạnh mẽ; trữ tình sâu lắng; thâm

trầm, suy tư; cay đắng thì ta lại bất ngờ với một Phạm Quốc Ca hài hước, dí dỏm.

Những bài thơ mang giọng điệu hài hước của ông thường là những bài thơ rất cô

đọng (4 đến 6 câu, mỗi câu 5,6 từ) nhưng cấu tứ chặt chẽ, chứa đựng những yếu tố

bất ngờ khiến người đọc phải bật cười. Đối tượng gây cười của thơ ông khá phong

phú nhưng nhiều nhất vẫn là tiếng cười tự trào. Phạm Quốc Ca cười nhà thơ và công

việc làm thơ:

- Mặt dại như ma ám

Cười một mình như mơ

Không Trâu Quỳ chập mạch

Cũng Biên Hòa ngẩn ngơ!

- Phỉ phui cái mồm chị

Nhà thơ đang nghĩ thơ!.

(Nghĩ thơ)

Những thói hư tật xấu của nhiều người làm thơ cũng được Phạm Quốc Ca đưa

lên trang giấy để cười. Phải thân lắm, vui lắm, nhà thơ mới có sự dí dỏm đến vậy:

Quật đổ lít cao gạo

Thi sĩ hóa tửu đồ

Mặt đỏ như gà đá

Ngâm thơ thành quát thơ.

99

Hàng xóm vạch rào hỏi:

- Phải bên ấy mổ bò?

(Thi sĩ tửu đồ)

Thật không dễ khi nhà thơ có được nhiều chất giọng. Qua tìm hiểu giọng điệu

thơ, người đọc càng khâm phục và yêu mến tài năng thơ Phạm Quốc Ca.

3.5. Các thủ pháp nghệ thuật

Thơ trước hết là nghệ thuật ngôn từ, vì vậy các thủ pháp nghệ thuật có một vai

trò rất quan trọng: "Chất thơ thể hiện không chỉ ở nội dung trữ tình mà còn ở chỗ nhà

nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng các thủ pháp nào"[11].

Phạm Quốc Ca tâm niệm: “Các thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh,

ẩn dụ, hoán dụ…vẫn còn nguyên tiềm năng sáng tạo, nhưng các thủ pháp của chủ

nghĩa hiện đại và hậu hiện đại đặc biệt quan trọng đối với lao động sáng tạo của nhà

thơ hôm nay. Tất cả kinh nghiệm sáng tạo của thi ca nhân loại cổ kim đều có ích cho

ta. Nhưng tất cả phải trở thành cái của riêng mình” [15].

Trong tuyển tập thơ Cơn mưa mạ vàng, Phạm Quốc Ca đã sử dụng nhiều thủ

pháp nghệ thuật. Theo kết quả thống kê, tập thơ đã sử dụng phép so sánh (90 lượt),

nhân hóa (60 lượt), Ẩn dụ (30 lượt), Phép điệp (35 lượt), Phép đối (40 lượt), Câu hỏi

tu từ (23 lượt)….Ngoài ra còn có các biện pháp hoán dụ, phóng đại, liệt kê, đảo trật

tự từ… cũng được nhà thơ sử dụng đem lại giá trị nghệ thuật. Trong khuôn khổ luận

văn, chúng tôi tìm hiểu một số biện pháp tu từ sau.

3.5.1. So sánh

Đinh Trọng Lạc định nghĩa:“So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem

sự vật này đối chiếu với sự vật khác, miễn là hai sự vật có nét tương đồng nào đó, để

gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người

nghe” [40, tr.189]. Phạm Quốc Ca vừa kế thừa những đặc điểm thơ truyền thống, vừa

sáng tạo. Thủ pháp so sánh trong thơ Phạm Quốc Ca khá đa dạng. Có thể thấy các

dạng so sánh sau đây:

100

- So sánh cái cụ thể với cái cụ thể

Đây là lối so sánh giàu hình ảnh, đòi hỏi nhà thơ phải có sự liên tưởng, tưởng tượng

phong phú và tinh tế. Điều này đem đến cho thơ những hình ảnh thú vị, lãng mạn:

Sông Hương trẻ giữa minh mang ngày mới

Như tóc em xanh cài lược Tràng Tiền

(Một ngày với Huế)

Thơ Phạm Quốc Ca đem đến những khám phá mới về các sự vật, hiện tượng

vốn quen thuộc và bình dị hằng ngày nhờ quan sát tinh vi và so sánh độc đáo:

Mặt trời như chiếc đĩa trang kim.

(Đà Lạt sương)

Lấy hình ảnh chiếc đĩa trang kim để so sánh với mặt trời sau màn sương huyền

ảo Đà Lạt quả thật rất mới mẻ. Phạm Quốc Ca luôn có những liên tưởng thú vị qua

thủ pháp so sánh:

Thương mầm giống cựa mình trong cát bỏng

Tát nước lên đồng như cho trẻ uống

(Hương lúa miền Trung)

Ông có lối so sánh thật hấp dẫn khi viết về sự thân thương và thiêng liêng của

miền đất tận cùng tổ quốc:

Giang tay nhỏ tôi ôm hai biển

Đặt chân mình như đặt dấu môi hôn

(Về Đất Mũi)

Không chỉ so sánh hình ảnh với hình ảnh, nhà thơ còn so sánh âm thanh tiếng

hát với hình ảnh cụ thể:

Mỏng như tơ nhện uốn bay

(Tiếng hát)

101

Phạm Quốc Ca luôn cảm nhận sự sống bằng con mắt đa chiều và tâm hồn

rộng mở nên mới có những hình ảnh so sánh như vậy.

- So sánh cái trừu tượng với cái cụ thể

Phạm Quốc Ca đã tạo nên những câu thơ có sức hấp dẫn bởi sự mới lạ, tinh tế

khi so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể. Những đêm trằn trọc khó ngủ bởi cảm xúc

yêu đương lần đầu của nhân vật trữ tình được cụ thể hóa qua hình ảnh so sánh:

Những đêm mỏng như tờ giấy lụa

(Tiếng trầm)

Để diễn tả niềm hạnh phúc vô bờ của người đang yêu, nhà thơ ví với hoa dã quỳ vào

mùa nở rộ:

Lòng anh như dã qùy đúng hẹn

Vàng rực mùa hoa chờ em

(Hoa chờ em)

Tình yêu vốn nhiều cung bậc cảm xúc nhưng chẳng ai nhìn thấy, nghe thấy lại

được nhà thơ ví von rất cụ thể, hữu hình:

Anh yêu em nóng rực

Như nhốt gió trong tim

Như cháy lửa trong người

(Tiếng trầm)

Để diễn tả nỗi buồn vắng bạn, nhà thơ đã so sánh nỗi buồn với ngọn núi cao

nguyên cô độc:

Bạn đến rồi đi như mây trắng

Ta buồn như đỉnh Lang Bian

(Đối ẩm với người xa)

102

- So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng

Bên cạnh những hình ảnh so sánh như trên, ta còn thấy Phạm Quốc Ca so sánh

cái cụ thể với cái trừu tượng như một thao tác ngược lại, làm nên những câu thơ hay,

đầy tính sáng tạo:

- Mây trắng mỏng như một thoáng mơ màng

(Mùa xuân ở chốt)

- Hải Vân cao như chất bằng gian nan

(Hát trên đèo Hải Vân)

- Đà Lạt sang xuân

Bừng nở anh đào

Như tình yêu hồng lên gương mặt

(Sang xuân)

- Bên đường phố, công viên, đồi vắng

Vàng như nỗi buồn thương nhớ xa

(Ngân nga mimosa)

Đặc biệt khi viết về ông ngoại, nhà thơ so sánh với “một nét thơ Đường” làm

nổi bật vẻ thanh tao của một cụ đồ Nho:

Bên cửa sổ

Dáng người đọc sách

Thanh thoát như một nét thơ Đường...

(Ông ngoại)

- Lược bỏ từ so sánh

Khi so sánh, câu thơ thường xuất hiện các từ so sánh: như, bằng, hơn…Thơ

Phạm Quốc Ca một mặt kế thừa cách sử dụng quen thuộc, mặt khác phát huy một

cách cao độ những khả năng tiềm tàng của phép so sánh. Nhà thơ đã lược bỏ từ so

sánh làm nên những câu thơ đầy tính hiện đại:

103

- Cạnh nhà tôi có ba cây thông

Ba thiếu nữ tóc xanh

Bí ẩn chơi ba cây đàn gió

(Ba cây thông)

- Ngôi sao Mai ở cuối màn đêm

Long lanh sáng

Long lanh giọt nước

(Khát)

Nếu đọc không kỹ người đọc khó nhận ra những từ so sánh bị ẩn đi. Câu thơ

gọn, hàm súc mà vẫn vẹn nguyên ý nghĩa và sức gợi của ngôn từ, hình ảnh.

- Đảo ngược trật tự so sánh

Thông thường phép so sánh có cấu trúc “A so với B”, nhưng Phạm Quốc Ca

lại sáng tạo những câu thơ đảo ngược trật tự so sánh. Chẳng hạn thay vì viết: “Căn

nhà tôi có cổng/ Như tôi có lời chào” thì tác giả viết:

Như tôi có lời chào

Căn nhà tôi có cổng

(Từ cánh cổng hố bom)

So sánh kết hợp với đảo ngữ như vậy sẽ làm nổi bật đặc điểm của sự vật, hiện

tượng và đem lại âm hưởng khỏe khoắn, chắc nịch cho câu thơ.

Có thể nói, thủ pháp so sánh vốn là thủ pháp truyền thống đã được Phạm Quốc

Ca sử dụng sáng tạo, làm nên những câu thơ hay và mới. Điều đó khẳng định sự tìm

tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ trong việc làm giàu cho ngôn ngữ và các thủ

pháp nghệ thuật thơ ca.

3.5.2. Nhân cách hóa

Theo Đinh Trọng Lạc:“Nhân cách hóa là những ẩn dụ, khi chuyển đổi từ

những sự vật vô sinh sang hữu sinh, hoặc từ thế giới vật chất sang thế giới ý thức của

con người” [40, tr.199].

104

Phạm Quốc Ca vận dụng sáng tạo biện pháp nhân cách hóa. Những hình ảnh

nhân cách hóa đã làm cho sự vật vô tri, vô giác trở nên sống động, gần gũi. Vì thế,

trong thế giới của thơ ca của ông vạn vật như: mặt trăng, mặt trời, cây lúa, cây dừa,

cây thông, cơn mưa, chiếc lá, gió, khói, biển….đều có linh hồn sống. Tất cả góp phần

làm nên thế giới thơ sinh động:

- Lúa chiêm non hớn hở

(Tháng Giêng xanh)

- Rừng mưa đón chúng tôi

Mỗi chiếc lá rưng rưng nỗi niềm Đất Nước

- Khói bò trên mái lá, nhà tranh

(Tuần tra trong mưa rừng)

- Mây mù không theo kịp đoàn quân

Gặp đèo cao giá rét chồn chân

(Hát trên đèo Hải Vân)

- Con đò ngang nằm thở phập phồng

(Làng trong nỗi nhớ)

- Dừa oằn oại vươn cánh tay kiệt sức

Với lên trời gọi cứu muôn phương.

(Bão)

- Trăng bẽn lẽn thưởng trà

(Nhà người đọc sách)

- Gió thầm thì với gió

Những vì sao trò chuyện với vì sao.

(Nửa phần ghế đá)

- Mỗi buổi đi về

Thông đón chào tôi

105

(Ba cây thông)

Cây cối, vạn vật dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ như cũng có linh hồn, có

suy nghĩ, có đủ mọi cung bậc tình cảm như con người. Phải là người tinh tế và có tấm

lòng rộng mở lắm mới có cách nhìn, cách cảm như vậy.

Không chỉ những vật hữu hình mới được nhà thơ nhân cách hóa mà còn có cả

những thứ trừu tượng như tình yêu, thời gian, nhà thơ cũng khiến chúng trở nên cụ

thể, sinh động, gần gũi, thân thương với con người. Phạm Quốc Ca viết về tình yêu

chưa ngỏ không giống một thi sĩ nào:

Tình yêu tôi ngộp thở

Trong túi ngực ngày đêm

(Bài thơ chưa gửi)

Tình yêu vốn trừu tượng nhưng tác giả viết tình yêu cũng “ngộp thở” như

chính con người khiến người đọc cảm nhận cụ thể hơn.

Nhà thơ còn dùng thủ pháp nhân cách hóa để diễn tả thời gian dù đó là một

mùa hay cả một thời đại:

Mùa gieo hạt gọi mẹ ra cánh đồng

(Lời ru mùa gieo hạt)

Xuân đi nhón gót

Hè chớm đến

(Gửi miền gió nóng)

Mỗi cuộc đời riêng có thể đi vòng

Lịch sử vặn mình tìm đường đi thẳng.

(Với các em tôi)

Đặc biệt thủ pháp nhân cách hóa được sử dụng nhiều trong thơ viết cho trẻ em

bởi theo tác giả đó là cách thức tối ưu để thơ đến được với trẻ. Bài thơ Gà trống thi

bơi là ví dụ điển hình:

106

Gà trống mới biết gáy

Chưa một ngày học bơi

Vỗ cánh

Vươn cổ thách:

- Đứa nào thi qua ngòi?

Bói cá đang rỉa cánh

Lắc đầu cố nén cười.

Ngỗng già dấu mỏ ngủ:

"Chấp gì gã dở hơi".

Vịt cười tít:

- Có tớ!

Chân khuấy nhẹ mái chèo.

Gà nhảy" tũm"

Vùng vẫy

Sặc nước no căng diều.

Ngoi ngóp như chuột lụt:

- Bạn Vịt ơi! Cứu tôi!...

(Gà trống thi bơi)

Nhìn chung, thủ pháp nhân cách hóa được nhà thơ Phạm Quốc Ca vận dụng

sáng tạo làm nên những câu thơ sinh động, mới lạ, giàu sức sống.

3.5.3. Cường điệu

Cường điệu (hay còn gọi là phóng đại, khoa trương, ngoa dụ, nói quá) là

phương thức phóng đại một mức độ, tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật, hiện tượng

nhằm làm nổi bật sự vật hiện tượng, gây sự chú ý của người đọc. Phạm Quốc Ca đã

vận dụng sáng tạo thủ pháp nghệ thuật này trong thơ ông.

Niềm hạnh phúc dâng trào khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giành toàn thắng,

đất nước hoà bình, thống nhất. Phạm Quốc Ca đã diễn tả niềm vui đó chừng như có

thể làm người ta “vỡ ngực”:

107

Con đã hát niềm vui chừng vỡ ngực

(Tổ quốc)

Khi yêu người ta như quên đi thực tại, sống trong thế giới chỉ có người mình yêu:

Yêu em

Dường như anh đã đánh mất hồn mình

(Tiếng trầm)

Đó là lối nói phóng đại rất hiệu quả khi diễn tả tâm trạng mê đắm trong tình yêu.

Khi diễn tả nỗi nhớ người yêu, nhà thơ viết:

Anh ngồi lạnh nửa phần ghế đá

Nỗi nhớ em cong nửa địa cầu.

(Nửa phần ghế đá)

Nỗi nhớ người yêu bên kia đại dương đã được phóng đại và cụ thể hoá bằng

đường cong nửa quả địa cầu.

Đặc biệt, nhờ thủ pháp phóng đại, Phạm Quốc Ca đã gây ấn tượng mạnh với

hình tượng người mẹ vĩ đại. Câu thơ không chỉ làm nổi bật sự hy sinh, tần tảo mà còn

nâng cao tầm vóc ngang tầm vũ trụ của người mẹ nông dân Việt Nam:

Mẹ cứu lúa, lưng cõng trời giông gió

(Ngày về)

Biện pháp phóng đại được nhà thơ sử dụng nhiều trong thơ hài hước nhằm gây

cười. Ví dụ bài thơ Cực may:

Không khí lơ lửng bụi

Tắc thở máy điều hòa

Cả phố ho sù sụ

Ho cả tượng vườn hoa.

Người yêu tôi vẫn khỏe

108

Vì nàng nói suốt ngày.

Nói, nói không kịp thở

Hóa ra là cực may.

Nói chung, thủ pháp phóng đại trong thơ Phạm Quốc Ca làm cho người đọc

nhận ra bút lực dồi dào, tinh tế trong cách thể hiện độc đáo của nhà thơ.

Nhân đây cũng cần nói trong thơ Phạm Quốc Ca còn có thủ pháp nghịch chiều

với phóng đại, được gọi là khinh từ. Thật độc đáo khi ông quan sát thành phố từ trên

cao và thấy:

Thành phố - đồ chơi xếp hộp

Từng đàn kiến nhỏ ô tô…

Thế giới chợt thành bé tí

Lẫn vào cổ tích, vào mơ.

(Bên cửa sổ máy bay)

3.5.4. Sử dụng từ láy

Từ láy trong thơ Phạm Quốc Ca được sử dụng với mật độ khá dày và gây được

ấn tượng. Theo thống kê của chúng tôi, tuyển tập Cơn mưa mạ vàng có tới 278 lượt

sử dụng từ láy. Có những bài thơ sử dụng nhiều từ láy như: Từ cánh cổng - hố bom,

Uống mưa, Thấp thoáng bình minh, Tổ quốc, Hương khói đền Cuông, Nhớ mẹ, Làng

trong nỗi nhớ, Nhớ quê…

Phạm Quốc Ca đã sáng tạo những từ láy mới làm cho sự vật, hiện tượng được

miêu tả tinh tế, thật có duyên:

Đà Lạt sáng nay len lén lạnh

(Thu)

Mùa Đông nán níu làn hơi lạnh

(Mưa xuân)

109

Viết về cái lạnh vào những thời điểm giao mùa thật hay khi nhà thơ dùng những

từ láy: len lén, nán níu. Nó vừa thể hiện sự chính xác của không khí chuyển mùa vừa

thổi linh hồn sự sống vào tạo vật. Khó có từ nào hay hơn có thể thay thế chúng.

Viết về nắng, người ta thường dùng chói chang nhưng nhà thơ lại có cách viết

của riêng mình:

Chang chói nắng hè

Bỏng rát bàn chân.

(Về quê)

Trong thơ không chỉ có họa (khả năng tạo hình của ngôn ngữ) mà còn có nhạc.

Tính nhạc làm cho bài thơ trở thành một sinh thể nghệ thuật đồng thời làm nên tính

độc đáo của ngôn ngữ thơ. Từ láy trong thơ phạm Quốc Ca góp phần tạo nên tính

nhạc trong thơ ông. Những câu thơ Phạm Quốc Ca miêu tả cơn mưa trên chiến hào

đầy tính nhạc:

Mưa ném hạt lui phui như vào tro bếp

Mưa loong coong gõ vào sắt thép.

Mũ sắt lanh canh suốt dọc chiến hào…

(Uống mưa)

Đúng là một bản nhạc mưa đầy thú vị: lui phui, loong coong, lanh canh…Cơn

mưa mong mỏi của lính trẻ trên trận địa đồi chốt tạo nên những âm thanh thật sống động.

Ở một trường hợp khác, trong hai câu thơ ngắn, cạnh nhau mà tác giả đã sử

dụng tới ba từ láy:

Lóng lánh pha lê rào rạt tràn bờ

Vằng vặc sáng vầng trăng đúng hẹn.

(Lạnh)

Lóng lánh, rào rạt, vằng vặc không chỉ tạo nên một đêm trăng hò hẹn lung

linh, thơ mộng mà còn như có tiếng chảy của sóng trăng hay chính tiếng sóng lòng

của một người đang yêu chờ đợi người yêu.

110

Bên cạnh đó, Phạm Quốc Ca còn sử dụng cách lặp lại phần vần của tiếng trong

câu thơ đầy tính nghệ thuật:

- Dừng xe mà ngỡ ngàng yêu

Nước non Ngoạn Mục

Ngoằn ngoèo đèo sương

- Thông reo Eo Gió nắng vàng

(Trên đèo Ngoạn Mục)

- Trưa nắng trắng nón người họp chợ

(Làng trong nỗi nhớ)

Có thể thấy Phạm Quốc Ca không ngừng sáng tạo, làm mới ngôn ngữ thơ. Đó

là ngôn ngữ của người học rộng, am hiểu văn học nghệ thuật, có tài năng và tâm huyết

với nghề thơ.

Tiểu kết chương 3

Thơ hay là thơ có nội dung sâu sắc được thể hiện trong một hình thức nghệ

thuật độc đáo, hấp dẫn. Đọc thơ Phạm Quốc Ca, ta thấy nhiều bài thơ hay không chỉ

bởi nguồn cảm hứng phong phú mà còn thấy cả thế giới nghệ thuật đặc sắc. Thời gian

nghệ thuật mở ra theo ba thì quá khứ, hiện tại, tương lai. Trong đó quá khứ, hiện tại

chiếm số lượng nhiều. Không gian nghệ thuật lại càng đa dạng. Có không gian bên

ngoài, có không gian tâm tưởng,…Tất cả đều gắn bó sâu sắc với cuộc sống của nhà

thơ. Điều đáng nói ở đây là sự lao động miệt mài, sáng tạo ra hệ thống ngôn ngữ mới

lạ, độc đáo bên cạnh việc sử dụng nhuần nhuyễn vốn ngôn ngữ dân tộc. Cùng với đó,

là giọng điệu đa thanh, là sự kế thừa và sáng tạo các biện pháp tu từ. Bên cạnh đó,

thơ Phạm Quốc Ca cũng rất phong phú về cấu tứ, thể loại, hình tượng nghệ thuật…mà

trong luận văn chúng tôi chưa đề cập đến. Với những gì đã tìm hiểu, chúng ta có thể

khẳng định sự cống hiến đáng trân trọng của thơ Phạm Quốc Ca vào thế giới nghệ

thuật thơ đương đại Việt Nam.

111

KẾT LUẬN

Nhà thơ Phạm Quốc Ca coi việc làm thơ như định mệnh, như nghiệp của đời

mình. Vì thế, ông đã bền bỉ, miệt mài với công việc lao động sáng tạo vất vả nhưng

vinh quang này. Sau gần nửa thế kỷ làm thơ, Phạm Quốc Ca đã có một số lượng thơ

khá dày dặn với nhiều bài thơ hay, câu thơ hay được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng

và đọng lại trong sự yêu mến của bạn đọc. Thành công của thơ Phạm Quốc Ca không

phải ở những con số tác phẩm mà ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc cùng những cách

tân về nghệ thuật.

Đặc sắc thơ Phạm Quốc Ca trước hết ở phương diện nội dung trữ tình. Nội

dung thơ ông phong phú, đa dạng. Thơ Phạm Quốc Ca đậm đà tính nhân văn. Ông

đã viết về chiến tranh và người lính quân đội cách mạng với cảm hứng lãng mạn và

bi tráng. Đặc biệt, thơ ông phản ánh chân thực sự đổi thay của đất nước từ 1975 đến

nay. Với mảng thơ thế sự, nhà thơ không hề lảng tránh những mặt trái của đời sống

xã hội. Ở nội dung này, ta thấy ở Phạm Quốc Ca, một trí thức thâm trầm, sâu sắc,

luôn trăn trở, day dứt, khát khao những điều tốt đẹp cho cuộc đời. Ông viết về quê

hương, đất nước, về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình với những vần thơ xúc động

sâu sắc và giàu tính nhân văn. Người đọc luôn tìm được sự đồng cảm nơi thơ ông,

nhất là ở mảng thơ viết về quê hương, về mẹ. Thơ ông là thơ của con người giàu

tình đời, tình người, thơ của một trí thức có trái tim nhân hậu và ý thức cao về tính

sáng tạo.

Thơ Phạm Quốc Ca đặc sắc còn bởi ông đã tạo được cho mình phong cách

riêng, độc đáo, đa dạng về hình thức biểu hiện và giọng điệu. Trong khi thơ Việt Nam

xuất hiện xu hướng thơ theo chủ nghĩa hiện đại, thiên về hình thức, nhiều khi khó

hiểu thì thơ Phạm Quốc Ca dù có những cách tân, sáng tạo vẫn trong sáng, giàu xúc

cảm thẩm mỹ. Phạm Quốc Ca đã khẳng định mình bằng tài năng nghệ thuật, sự chiêm

nghiệm cuộc đời và thăng hoa cảm xúc trên từng tác phẩm. Thơ ông sử dụng nhiều

phương thức nghệ thuật độc đáo. Từ ngữ, hình ảnh vừa giản dị, vừa mới lạ, táo bạo,

tinh tế. Thơ ông đa dạng về giọng điệu và nhiều cung bậc cảm xúc. Lúc yêu thương,

112

ngọt ngào, khi cay đắng, xót xa, lúc trầm ngâm, suy tư, khi hài hước, dí dỏm…Thơ

Phạm Quốc Ca hay từ ý, tứ, tình, điệu. Hàng trăm bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ, bài nào

cũng có cái hay riêng với nhiều cách thể hiện đa dạng. Càng những tập thơ về sau thơ

Phạm Quốc Ca càng có nhiều sự đổi mới, hiện đại hóa nhưng luôn luôn sâu đậm chất

trữ tình, không xa rời cảm xúc. Thơ Phạm Quốc Ca có những bài dài nhưng có những

bài lại chỉ vài ba câu. Điều đó chứng tỏ sự linh hoạt, sáng tạo của nhà thơ.

Phạm Quốc Ca có những bài thơ khiến người đọc rưng rưng xúc động. Đó là

những bài thơ viết về sự hy sinh của đồng đội, của anh trai, hay viết về mẹ kính yêu

như: Cửa rừng, Ráng đỏ, Viết trong ngày giỗ anh, Bình minh con lại lên đường, Mẹ

miền Trung, Bên mồ mẹ…Có những bài thơ khiến người đọc day dứt, suy tư cùng tác

giả. Đó là những bài thơ đầy tính triết luận: Hòa bình, Thời gian, Đại bàng và rắn

độc, Diều giấy, Bạn ta…

Thơ Phạm Quốc Ca là thơ của một tâm hồn yêu cuộc sống thiết tha. Đến với

thơ ông người đọc không thấy vẻ bi quan, chán nản trước cuộc đời trần thế. Ngược

lại, dù trong hoàn cảnh nào cũng le lói ánh sáng của niềm tin và hy vọng, tin tưởng

vào tương lai cuộc đời, tương lai đất nước. Ánh sáng đó khi như ngọn đuốc không

ngừng tỏa sáng, có khi như đốm than hồng âm ỉ cháy trong đám tro tưởng chừng như

nguội lạnh bên ngoài.

Phạm Quốc Ca góp vào nền thơ đương đại một tiếng thơ dào dạt yêu thương

và đầy vẻ đẹp sáng tạo. Hy vọng nhà thơ sẽ còn cống hiến nhiều hơn nữa tài năng và

tâm huyết của mình cho sự nghiệp thi ca.

Thái Nguyên, tháng 5 -2019

113

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Arixtot (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

2. Hoài Anh (2001), Tìm hoa quá bước, tiểu luận phê bình, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Nguyễn Trọng Bản (2005), Một gia đình hiếu học và đỗ đạt,Báo Nghệ An cuối

tuần, số ra ngày 09/1.

4. Nguyễn Trọng Bản (2005), Hình tượng người mẹ trong thơ Phạm Quốc Ca,

Tạp chí Lang Bian, số 53, tháng 3.

5. Phạm Quốc Ca (1987), Tiếng trầm, thơ, Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng.

6. Phạm Quốc Ca (1994), Chân trời mở, thơ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

7. Phạm Quốc Ca (2004), Những cánh rừngnhững bài ca, thơ, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

8. Phạm Quốc Ca (2010), Thơ viết trong Album, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

9. Phạm Quốc Ca (2018), Cơn mưa mạ vàng, tuyển thơ 1970-2017, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

10. Phạm Quốc Ca(2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 - 2000, chuyên luận,

Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

11. Phạm Quốc Ca (2016), Thơ và mấy vấn đề văn học, tiểu luận, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

12. Phạm Quốc Ca (2005), Cô gái mắt xanh, truyện dịch, Doanh nhân Sài Gòn

cuối tuần, số ra ngày 06/5.

13. Phạm Quốc Ca ( 30/11/2007), Cuộc thi tài, truyện dịch, Doanh nhân Sài Gòn cuối

tuần.

14. Phạm Quốc Ca (08/07/2005),Chuyến nghỉ Đông Phương Nam, truyện dịch,

Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần.

15. Phạm Quốc Ca(2010), Thơ và vấn đề hiện đại hóa thơ Việt Nam, bài giảng,

lưu hành nội bộ, Đại học Đà Lạt.

16. Phạm Quốc Ca (2005), Những bài dân ca Di gan, (giới thiệu và dịch), Văn

học nước ngoài, số 01.

17. Phạm Quốc Ca (2005), Thơ từ những ngày thơ ở Matxcơva, (giới thiệu và

dịch), Văn học nước ngoài, số 02.

114

18. Phạm Quốc Ca (2003), Thơ, truyện ngắn và tiểu luận của I.A.Bunin, (giới thiệu

và dịch), Văn học nước ngoài, số 06.

19. Phạm Quốc Ca (2012), Thơ cho trẻ thơ mấy vấn đề góp bàn, tham luận, báo

điện tử Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh.

20. Trần Thanh Đạm (1988), Điểm hẹn của tình yêu, Đặc san Giáo dục thành phố

Hồ Chí Minh, số ra ngày 20-11.

21. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Điệp tuyển chọn (1998), Trần Đình Sử tuyển tập- Tập 2: Những

công trình lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà

Nội.

24. Nguyễn Đăng Điệp(2010), Thi pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Phạm Văn Đức (2011),Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, luận văn thạc sĩ

văn học, Hà Nội.

26. Huyện ủy - Hội đồng Nhân dân - Uỷ ban Nhân dân huyện Diễn Châu, (2007),

Diễn Châu kể chuyện 1380 năm, Nxb Nghệ An.

27. Hồ Thị Hà (2009), Tìm hiểu thơ Phạm Quốc Ca, Khóa luận tốt nghiệp Đại học

khoá 29, Trường Đại học Đà Lạt.

28. Hoàng Trọng Hà (30-7-2011), Bất ngờ với Phạm Quốc Ca hài hước, Báo Lâm

đồng cuối tuần.

29. Lê Bá Hán (chủ biên) (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

30. Tạ Thị Thu Hằng (2007), Tuyển tập thơ Ngoảnh lại của Vương Trọng, khóa

luận tốt nghiệp K27, Đại học Đà Lạt.

31. Nguyễn Thái Hòa (2005),Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

32. Cao Thị Hồng (2013), Lí luận- phê bình văn học, đổi mới và sáng tạo, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

33. Cao Thị Hồng (2017), Lí luận- phê bình văn học: một góc nhìn mới, tiểu luận

phê bình, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

115

34. Lê Anh Hiền(2002), Thơ ca ngôn ngữ tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

35. Bùi Công Hùng (1997), Qúa trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

36. Vũ Thanh Huyền(2017), Đặc điểm thơ Nguyễn Hoa, luận văn thạc sĩ ngôn ngữ

và văn hóa Việt Nam, Thái Nguyên.

37. Nguyễn Thị Thương Huyền (2016), Biểu tượng trong thơ Xuân Quỳnh và

Phan Thị Thanh Nhàn, luận văn thạc sĩ văn học, Hà Nội.

38. Nguyễn Hữu (số đặc biệt tháng 12/ 2005), Phác thảo nhỏ về những nhà thơ,

nhà giáo, Giáo dục và thời đại, Hà Nội.

39. Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Nhà văn Việt Nam hiện đại,

Hội Nhà văn Việt Nam.

40. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

41. Đinh Trọng Lạc (2001), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

42. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ (khảo luận), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

43. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

44. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện

đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

46. Phương Lựu (2004), Lý luận phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng.

47. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,

Thành Thế Thái Bình (2004), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Bùi Khánh Ly(2011), Người họa bức tranh quê bằng ngôn từ, Lang Bian, số

96,tháng 5&6.

49. Nguyễn Đăng Mạnh(1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

116

50. M.B.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của

văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

51. Nguyễn Xuân Nam(1985), Thơ- tìm hiểu và thưởng thức, Nxb Tác phẩm mới,

Hà Nội.

52. Hoàng Thị Nga (2006), Phong cách thơ Bằng Việt, luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Vinh.

53. Nhiều tác giả (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu

và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

54. Trần Huyền Nhung(2011), Đồng cảm với thơ viết trong Album, Lang Bian, số

99,tháng 5&6.

55. Nguyễn Hưng Quốc (2004), Sống với chữ, tiểu luận và tùy bút, Nxb Văn Mới,

California, USA.

56. Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ, vv và vv, Nxb Văn nghệ, California, USA.

57. Trịnh Thanh Sơn, Tỉnh cơn say chiều đã úa vàng, Văn nghệ Trẻ, số 28,

(20/07/2005).

58. Lò Ngân Sủn (1996), Chân trời mở từ những câu thơ, Văn nghệ thành phố Hồ

Chí Minh.

59. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin,

Hà Nội.

60. Lê Ngọc Trà (19.12.1987), Văn nghệ và chính trị, Văn nghệ, Hà Nội, số 51& 52.

61. Vương Tâm(17-12-2016), Phạm Quốc Ca Đà Lạt và em, Văn Nghệ, số 51.

62. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

63. Nguyễn Vũ Tiềm (2006),Đi tìm mật mã thơ, tiểu luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

64. Thanh Thanh (2006), Lời hay ý đẹp, Nxb Đà Nẵng.

65. Hoài Thanh, Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

67. Trần Thị Việt Trung (2015),Lịchsử phê bình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb

Đại học Thái Nguyên.

117

68. Trần Thị Việt Trung (2016), Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu

số, Nxb Đại học Thái Nguyên.

69. Anh Vũ (tháng 6-2018), Cảm thức thời gian trong thơ Phạm Quốc Ca, Tạp

chí Lang Bian, số 177.

70. Phạm Tuấn Vũ(2018), Một hồn thơ đằm sâu suy tưởng, Báo Bình

Định.com.vn, 17-10.

71. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72. Lý Hoài Xuân ( 24/10/2008), PhạmQuốc Ca người luôn hướng tới chân trời

mở, Người Hà Nội, số 43.