ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------- NGUYỄN THỊ HẢO ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ
TRONG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- NGUYỄN THỊ HẢO ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ
TRONG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1932 - 1945
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lƣu Khánh Thơ
Hà Nội - 2014
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban
giám hiệu trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Văn
học đã giúp đỡ tôi rất nhiệt tình trong việc học tập cũng như tìm kiếm các tài
liệu, thông tin phục vụ việc học tập và làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới người hướng dẫn
PGS.TS Lưu Khánh Thơ, cảm ơn sự tận tụy, nhiệt tình mà Cô đã dành cho tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, những người đã động viên,
khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2014.
Học viên cao học
Nguyễn Thị Hảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề. ................................................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu. ........................................................................................................ 5
4. Mục đích nghiên cứu. ...................................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 5
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1932-1945 VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA THẾ LỮ. ............ 6
1.1. Thể loại truyện ngắn trong văn học giai đoạn 1932-1945 ........................................ 6
1.1.1. Dòng truyện ngắn trữ tình ........................................................................................ 6
1.1.2. Dòng truyện ngắn hiện thực ................................................................................... 10
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Thế Lữ ................................................................................. 17
1.2.1. Vài nét về con người Thế Lữ .................................................................................. 17
1.2.2. Thế Lữ, người mở đầu một trào lưu thơ ca. ......................................................... 19
1.2.3. Thế Lữ với văn xuôi ................................................................................................. 24
1.2.4. Thế Lữ với sân khấu kịch nói. ................................................................................ 29
CHƢƠNG 2: TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG ... 33
2.1. Truyện kinh dị khác thường( truyện huyễn tưởng) ................................................. 33
2.2. Truyện trinh thám. ...................................................................................................... 46
2.3. Truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn. ............................................................ 57
2.4. Truyện ngắn hiện thực gắn với số phận con người................................................. 60
CHƢƠNG 3: TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ
THUẬT .............................................................................................................................. 66
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................................ 66
3.2. Nghệ thuật kể chuyện. ................................................................................................ 71
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................................. 76
3.4. Giọng điệu ................................................................................................................... 81
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 88
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm 1932-1945, xã hội Việt Nam có những chuyển biến
mạnh mẽ, sâu sắc. Cùng với sự thay đổi đó của xã hội, văn học cũng có sự
chuyển mình to lớn và đạt được nhiều thành tựu. Công cuộc hiện đại hóa văn
học bắt đầu từ thế kỷ XX đã được tiến hành và đến giai đoạn này đã đạt được
những thành tựu hết sức to lớn. Đây cũng là chặng cuối cùng của cuộc hiện
đại hóa văn học. Văn học Việt Nam đã thay đổi từ hình thức tới nội dung với
nhiều đề tài, thể loại mới được hình thành và phát triển; thêm vào đó, chặng
đường này cũng tạo được một đội ngũ đông đảo các nhà văn sung sức và phát
triển đều trên khắp mọi lĩnh vực văn chương. Thế Lữ là một trong những đại
diện tiêu biểu đó.
Thế Lữ là một người tài hoa trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Người ta gọi ông là người khởi điểm của những “khởi điểm” bởi ông không
chỉ là người mở đầu cho phong trào Thơ mới mà còn là người khai phá nền
kịch nói Việt Nam; ông cũng là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi
mới. Ông là một trong số ít những nhà văn đầu tiên góp phần vào quá trình
hiện đại hóa văn học bằng loại truyện trinh thám và truyện kinh dị, với cách
viết riêng, một lối viết mới của văn xuôi Việt Nam 1930-1945 nói chung và
Tự lực văn đoàn nói riêng. Ở bất kỳ thể loại nào của văn chương, ông luôn
cho độc giả thấy những điều mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật để bộc lộ
vai trò người đi “tiên phong” của mình.
Sự thay đổi về thể loại đồng thời kéo theo sự thay đổi về thế giới nghệ
thuật trong các sáng tác của Thế Lữ. Nếu ở địa hạt Thơ Mới, ông thích ngao
du trên cõi tiên thì ở truyện trinh thám ông ưa mạo hiểm vào cõi đời và ở
truyện ly kỳ rùng rợn, ông lại thích phiêu lưu vào cõi âm.
Cho tới hiện tại, đã có một số công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn
1
chương của Thế Lữ, nhưng với sự say mê và cảm phục một tác giả tài hoa,
chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu một cách đầy đủ và hệ thống các sáng tác
truyện ngắn của nhà văn. Chúng tôi muốn đặt các sáng tác của ông trong sự
phát triển nhanh chóng của văn xuôi Việt Nam trong những năm 1932-1945,
trong sự phát triển đa dạng của các thể loại và đề tài, trong sự so sánh với các
nhà văn cùng thời để tìm hiểu và khẳng định vị trí, vai trò, đóng góp của Thế
Lữ trong sự phát triển của văn xuôi nói riêng và công cuộc hiện đại hóa văn
học dân tộc nói chung.
2.Lịch sử vấn đề.
Thế Lữ thuộc vào số ít những nghệ sỹ đa tài của nền văn học nghệ thuật
trước Cách mạng. Ông không chỉ là người mở đầu cho phong trào Thơ mới
mà còn là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật như
truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng… Song hoạt động
nghiên cứu về sự nghiệp văn xuôi của Thế Lữ vẫn chưa thực sự được chú ý.
Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên nghiên cứu văn xuôi của Thế Lữ. Trong cuốn
Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết : “Về thơ, người ta thấy rõ các thi cốt,
các chân tài của Thế Lữ. Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh thám ông chưa
thành công, nhưng về những loại truyện ghê sợ, ông đã chứng tỏ là một tiểu
thuyết gia có biệt tài”[3, tr.403]. Cũng trong cuốn sách đó ông cho rằng:
“Vàng và máu của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia có
biệt tài. Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ ở đây đã lên tới trình độ cao.”
Chúng ta còn thấy ý kiến đánh giá về truyện ngắn Thế Lữ trong Lời giới
thiệu tuyển tập Thế Lữ của Lê Đình Kỵ: “Loại sáng tác này cho ta thấy một
Thế Lữ có tài quan sát, óc phân tích sắc bén, có trí tưởng tượng dồi dào, cho
nên dù ít đề cập đến vấn đề gì quan trọng về xã hội và nhân sinh, nó vẫn được
đón nhận và tìm đọc một cách thích thú. Cho đến nay, trong lịch sử văn học
Việt Nam, không có tên tuổi nào đáng được xếp cạnh Thế Lữ trong loại sáng
tác khá độc đáo này”[17].
Đánh giá về văn xuôi Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn, trong cuốn Việt
2
Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm cho rằng: “Về thể văn tiểu thuyết
trong các truyện dài Vàng và máu hoặc Bên đường thiên lôi, ông thường công
kích những điều mê tín dị đoan. Muốn đạt được chủ đích ấy ông đặt những
câu chuyện có vẻ rất rùng rợn làm cho người đọc ghê sợ, rồi đến đoạn kết
ông đem các lẽ khoa học mà giải thích các việc đã xảy ra một cách đơn giản
và tự nhiên” [13, tr.469].
Nhận xét về truyện ngắn Thế Lữ, trong bài viết Những đóng góp của Thế
Lữ về truyện ngắn, Nguyễn Thành đã viết: “Nhìn chung, nghệ thuật viết
truyện trinh thám, truyện kinh dị của Thế Lữ khá chặt chẽ, hấp dẫn. Ông
thường mở đầu bằng một sự việc nào đó xảy ra đột ngột, bất ngờ gây sự chú
ý, sau đó kể nguyên nhân xảy ra sự việc thông qua quá trình tìm hiểu, dò
thám, lập mưu để khiến cho vấn đề được nhanh chóng làm sáng tỏ và thường
là có cơ sở khoa học” [32, tr.74]. Ở bài viết này, tác giả không những chỉ ra
đặc điểm nổi bật của loại truyện kinh dị và truyện trinh thám mà còn khẳng
định đóng góp lớn của Thế Lữ cho truyện ngắn hiện đại Việt Nam 1930-1945.
Trong cuốn Việt Nam văn học giản ước tân biên, tác giả Phạm Thế Ngũ
đã dành 11 trang nói về truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám của Thế
Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ mới còn
có một Thế Lữ văn xuôi đặc sắc.
Từ giữa những năm 80 tới nay, trong không khí đổi mới mạnh mẽ của xã
hội, nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, nhiều tập thơ lãng mạn được tái
bản với số lượng lớn. Trong số đó, văn xuôi của Thế Lữ nói chung cũng như
các truyện kinh dị, truyện trinh thám của Thế Lữ được đánh giá rất cao.
Báo Văn Nghệ số 23 ra ngày 3/6/1989 đăng bài Thương tiếc nhà thơ Thế
Lữ, Tế Hanh viết: “Ở nơi anh cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ ràng,
trong thơ, trong truyện, trong báo chí, trong sân khấu” [3, tr.108].
Trong lời giới thiệu bộ sách tám tập Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-
1945, Nguyễn Hoành Khung viết: “Ngôi sao rực rỡ nhất của phong trào Thơ
mới thời kì đầu cũng là cây bút văn xuôi đặc sắc, dồi dào, đề tài và bút pháp
3
khá đa dụng. Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị (…) rồi loại
truyện tình lãng mạn đường rừng (…) và nhất là loại truyện trinh thám, ông
là một trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết nước ta …” [16].
Năm 1991, trong cuốn sách Thế Lữ - cuộc đời trong nghệ thuật, tác giả
Hoài Việt có bài Thế Lữ như tôi biết, Hoài Việt đã đánh giá rất cao những
truyện quái dị của Thế Lữ so với các nhà văn cùng thời. Ông khẳng định:
“Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng ông
lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa học”[39].
Tiếp đến, trên tạp chí Văn học số 7 năm 1997, Phan Trọng Thưởng có
bài Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong. Tác giả đã khẳng định: “Với loại
truyện ly kỳ rùng rợn, Thế Lữ đã đạt đỉnh cao của loại truyện này”, chỉ sau
khi tập Mấy vần thơ ra đời được ít lâu, Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh vực văn
xuôi với hai sở trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám
như Vàng và máu (Đời nay, 1937), Bên đường thiên lôi (1936), Mai Hương
và Lê Phong (1937)… Với Vàng và máu, ông có thể được coi là tác giả đạt
đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Cũng trong bài viết này, Phan Trọng
Thưởng đã khẳng định công lao to lớn của Thế Lữ trong việc mở ra khuynh
hướng mới cho văn chương Tự lực văn đoàn: “Cùng với Lan Khai và một vài
tác giả khác chuyên viết về loại truyện đường rừng bí hiểm, văn xuôi Thế Lữ
mở ra một khuynh hướng mới của văn chương Tự lực văn đoàn” [35].
Năm 2003, trên tạp chí Văn học số 8, Phạm Đình Ân có bài viết Thế Lữ
trong Tự lực văn đoàn, trong bài viết đó, tác giả khẳng định vị trí, vai trò và
đóng góp của Thế Lữ với nhóm Tự lực văn đoàn; bên cạnh đó, tác giả cũng
viết : “Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ có một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn cho thấy
một khía cạnh đáng lưu ý ở tài năng của Thế Lữ.” [4]
Nhìn chung trong nhiều năm qua, văn xuôi của Thế Lữ được học tập và
nghiên cứu một cách đơn giản và chưa tương xứng với vị trí của nó. Trong
phạm vi nhà trường, học sinh không được tiếp cận với các tác phẩm văn xuôi,
ít được biết đến Thế Lữ ở phương diện nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nghệ sỹ
4
đa tài, nhà đạo diễn sân khấu. Ở luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu nghiên
cứu những đóng góp của Thế Lữ trong mảng văn xuôi mà đặc biệt là truyện
trinh thám và truyện kinh dị - hai thể loại mà Thế Lữ được coi là người đi tiên
phong.
3.Phạm vi nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ
thể những sáng tác truyện ngắn của Thế Lữ trong giai đoạn 1932-1945.
Những truyện này được in trong các tập Vàng và máu (1934) , Bên đường
thiên lôi (1936), Lê Phong phóng viên (1937), Mai Hương và Lê Phong
(1937), Đòn hẹn (1937), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ
Tùng Linh (1941), Thoa (truyện ngắn, 1942).
4.Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu truyện ngắn của Thế Lữ về phương diện nội dung và nghệ
thuật để thấy rõ những đổi mới trong các sáng tác của ông. Bên cạnh đó,
chúng tôi muốn làm rõ vai trò tiên phong của Thế Lữ trong loạt truyện kinh
dị, trinh thám của nước ta. Một lần nữa, chúng tôi cũng muốn khẳng định vị
trí, vai trò của Thế Lữ trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam trong
giai đoạn 1932-1945.
5.Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã tiến hành các phương pháp :
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp trần thuật
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp đối chiếu so sánh
6.Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương :
Chƣơng 1: Thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam 1932-1945
và sự nghiệp sáng tác của Thế Lữ
Chƣơng 2: Truyện ngắn Thế Lữ nhìn từ góc độ nội dung.
5
Chƣơng 3: Truyện ngắn Thế Lữ nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật.
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932-1945
VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA THẾ LỮ.
1.1. Thể loại truyện ngắn trong văn học giai đoạn 1932-1945
1.1.1. Dòng truyện ngắn trữ tình
Có thể nói dòng truyện ngắn trữ tình 1932-1945 được hình thành và phát
triển, để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ là nhờ đội ngũ đông đảo các nhà văn
có tài năng và phong cách nghệ thuật với nhiều điểm tương đồng. Trước hết là
sự góp mặt của các thành viên chủ chốt trong nhóm Tự lực văn đoàn như
Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam… Sau đó là các cây bút nổi
bật như Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Xuân Diệu, Ngọc Giao,
Thanh Châu… Sự sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của họ đã làm nên
một dòng truyện ngắn in đậm dấu ấn trong nền văn học dân tộc.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của dòng truyện ngắn trữ tình có sự
đóng góp và dấu ấn mạnh của nhóm Tự lực văn đoàn. Bởi không khó để nhận
ra rằng: dòng truyện ngắn trữ tình chỉ phát triển mạnh mẽ từ khi phong trào
Thơ mới và văn chương Tự lực văn đoàn đạt đến đỉnh cao. Như vậy, việc
truyện ngắn trữ tình ra đời muộn hơn đã giúp nó kế thừa được những thành
quả rực rỡ mà dòng văn học lãng mạn thời kì này đã đạt được. Những thành
viên trong Tự lực văn đoàn đã có công rất lớn trong việc chống lễ giáo phong
kiến, dám đấu tranh chống lại những tư tưởng cổ hủ, những quan niệm đã tồn
tại lâu đời trong xã hội. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã đưa những tư tưởng
mới, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc và cả những cái tôi của cá nhân vào văn
học. Một loạt tiểu thuyết đã ra đời với một màu sắc mới về cả tư tưởng, bút
pháp và văn phong thể hiện. Đó không chỉ là việc cách tân về nội dung mà sự
6
ra đời của thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn của nó cũng mang đầy màu sắc
mới, hai thể loại này đã mang nền văn xuôi Việt Nam hoàn thành công cuộc
hiện đại hoá một cách nhanh nhất cũng như gia nhập vào trào lưu văn học thế giới.
Tự lực văn đoàn có tám thành viên chính thức thì có đến bảy người viết
văn xuôi. Mỗi người đều mang phong cách riêng, nhưng nếu xếp vào nhóm có
phong cách gần nhau thì Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo có sự tương
đồng, sau đó là Thạch Lam và Xuân Diệu. Các tác giả thuộc nhóm thứ nhất
mà chúng ta nói đến trên đây gặt hái được nhiều thành công trong sáng tác
hơn cả: Nhất Linh với các tập Anh phải sống (1934), Tối tăm (1936), Hai buổi
chiều vàng (1937); Khái Hưng với Dọc đường gió bụi (1936), Tiếng suối reo
(1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941); Hoàng Đạo với tập Tiếng đàn
(1941). Nhìn chung văn chương của nhóm này đậm chất lãng mạn cùng
những rung cảm, sự phong phú trong tâm hồn tác giả qua những câu chuyện
về tình bạn, tình yêu, tình người, quê hương cũng như cảm nhận về sự thay
đổi trước các sự kiện, hiện tượng của cuộc sống.
Vũ Ngọc Phan đã từng nhận xét về phong cách viết văn của Nhất Linh:
là “thứ truyện tâm tình rất nhẹ nhàng và rất trong sáng”. Nhất Linh đã gửi
đến độc giả câu chuyện tình đẹp của Sư cô và Dũng trong Thế rồi một buổi
chiều để thấy được khát vọng yêu đương tưởng chừng đã bị vùi sâu chôn chặt.
Tháng ngày qua lại là một câu chuyện khẳng định sự bền bỉ của tình yêu
thương qua thời gian, khi mà nhân vật chính phải lựa chọn giữa rung động
tâm hồn với những ràng buộc, quy định của giáo lý. Về Khái Hưng, Vũ Ngọc
Phan cho rằng: “Văn Khái Hưng cho người đọc thấy được khoái lạc của mọi
việc rồi ghi lại bằng lời văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những
việc mình dàn xếp, mình làm cho khi nổi, khi chìm, chứ không phải cám dỗ
người ta bởi những thuyết mình tưởng là cao cả” [29]. Thật vậy, ở Sóng gió
Đồ Sơn, Tình Điên: tác giả đã tìm thấy vẻ đẹp với chiều sâu tâm lý trong tâm
hồn lớp thanh niên thế hệ mới, họ là những con người có tâm hồn trong sáng
có điều kiện để hưởng thụ cuộc sống như Bạch Tuyết, Thu Cúc, Văn Hải
7
(Sóng gió Đồ Sơn) hay Giao và Cúc (Tình Điên). Bên cạnh đó lại có cô Mơ
dám từ bỏ cuộc sống phong lưu để gắn bó với đời hát chèo nay đây mai đó
(Đào Mơ, Dọc đường gió bụi).
Hoàng Đạo có khác một chút so với Nhất Linh và Khái Hưng, đó là
truyện của ông có phần nghiêng về hiện thực. Ngòi bút của ông thấm đẫm
tình người khi hướng đến những số phận đói khổ, thấp hèn, đáng thương, tội
nghiệp như cô gái giang hồ trong Tiếng đàn, Mịch trong Một làn sóng, Minh
trong Tiếng pháo xuân… Dù có khác nhau về cách xây dựng nhân vật nhưng
người đọc dễ dàng nhận ra nét chung của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo
chính là: họ đều hướng về những cái đẹp thuần phác, nguyên sơ, đại diện cho
khuynh hướng lãng mạn trong thời kì đầu.
Với riêng Thạch Lam, ông đã rất xuất sắc khi kế thừa và phát huy những
điểm nổi bật của các tác giả Tự lực văn đoàn. Không những vậy, Thạch Lam
còn là người làm cho truyện ngắn trữ tình trở thành một khuynh hướng sáng
tác trên văn đàn hiện đại; để rồi sau đó tạo nên một sự phong phú về phong
cách, giọng điệu cùng với các tác giả Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Xuân
Diệu, Ngọc Giao, Thanh Châu... Số lượng truyện của Thạch Lam không
nhiều, từ năm 1936 đến 1945, ông cho xuất bản ba tập truyện là Gió đầu mùa,
Nắng trong vườn, Sợi tóc và một số truyện lẻ khác. Nhân vật của ông thuộc
nhiều tầng lớp khác nhau, nhưng có điểm chung là thể hiện được sự nhẹ
nhàng, tinh tế. Đọc truyện của ông, người ta nhận ra cái đẹp len lỏi khắp nơi:
đó là cái đẹp của tình người, tình thương đồng loại và cách cư xử rất đúng
mực của Sơn trong Gió lạnh đầu mùa, Tân trong Đứa con đầu lòng, Thanh
trong Dưới bóng hoàng lan… Tinh tế hơn, Thạch Lam đặc biệt quan tâm đến
cái đẹp sâu thẳm trong tâm hồn ở thế giới tinh thần phong phú của họ bằng
những hình ảnh hết sức giản dị.
Bên cạnh những câu chuyện mang đầy nét lãng mạn thì Thạch Lam cũng
là người rất hiện thực. Ông hiểu rằng cái đẹp không thể là cứu cánh để xa rời
hiện thực. Vì thế, hiện thực là mảng thứ hai trong các sáng tác của ông. Tác
8
giả ðã nhìn về những số phận đau khổ, thiệt thòi mà đặc biệt là phụ nữ và trẻ
em. Cái nhìn hướng về hiện thực của thể hiện qua Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén,
Hai đứa trẻ, Tối ba mươi… Với cả hai hướng trên, chúng ta có thể nói rằng:
dù là hiện thực hay lãng mạn thì Thạch Lam vẫn nổi bật.
Dòng trữ tình còn có sự đóng góp không nhỏ của Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,
Đỗ Tốn, Xuân Diệu, Thanh Châu. Thanh Tịnh được biết đến với tập Quê mẹ
xuất bản năm 1941. Mặc dù Thanh Tịnh là người rất gần với Thạch Lam
trong số các nhà văn viết truyện theo khuynh hướng trữ tình, nhưng nét đặc
biệt của ông thì không thể lẫn vào đâu được. Đó chính là nét riêng về không
gian rất riêng của Thanh Tịnh: làng Mỹ Lý. Không gian này gắn với các nhân
vật dù đó là anh trí thức tư sản, người dân quê, cô thôn nữ hay người lái đò.
Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện dưới ngòi bút của ông thật tinh tế từ tình
cảm cha con, vợ chồng hay tình quê hương. Phủ lên các sáng tác của Thanh
Tịnh là chất trữ tình sâu lắng, chất thơ bàng bạc thấm đẫm trên từng trang
viết. Chính nhờ vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo, gợi cảm đó đã ghi dấu ấn văn
xuôi Thanh Tịnh trong lòng độc giả.
Đọc văn Hồ Dzếnh, chúng ta thấy một phong cách mang nặng cảm xúc
trữ tình, thiên về kí ức, hoài cảm. Các truyện trong tập Chân trời cũ mang tính
chất tự truyện, hồi kí; mỗi câu chuyện là một đoạn lý lịch của tác giả hay
người thân trong gia đình. Mỗi nhân vật trong truyện đều mang tâm sự, nỗi
niềm riêng, cảm giác cô đơn, lạc lõng luôn đeo bám họ. Dường như nỗi buồn
đã chất chứa trong những trang văn của ông. Cũng giống như Thạch Lam và
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh đi sâu khám phá những nét đẹp bình dị trong đời sống,
đặc biệt là đời sống nội tâm. Độc giả có thể tìm thấy cảm giác bằng an trong
bể khổ cuộc đời vì “văn ông viết về thập loại chúng sinh, dẫu trong bầm dập
vẫn ánh lên vẻ đẹp cao quý của nhân phẩm”.
Bạn đọc biết đến Đỗ Tốn bằng tập Hoa vông vang xuất bản năm 1941
với ba chủ đề chính là tình yêu, tình quê hương và thân phận con người.
Truyện của ông mang đậm âm hưởng, dư vị của những tình cảm trong sáng,
9
đẹp đẽ, những rung động sâu xa trong tâm hồn con người. Từ nhân vật
Phượng Trinh và Đỗ trong Hoa vông vang, Huân (Điệu thu ca) cho đến bà
cháu (Tình quê hương) đều mang hơi hướng cảm xúc, thể hiện chất trữ tình
đặc sắc.
Bên cạnh Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn thì còn có Xuân
Diệu với tập Phấn thông vàng (1939) đến với dòng truyện ngắn trữ tình. Xuân
Diệu vốn được biết đến với thơ. Dường như cái cái ham sống trong thơ mà
người đời đã quen thuộc tạo cho văn ông một nét rất riêng, rất Xuân Diệu.
Cũng nhờ con người của Thơ đó, ông phát hiện ra cái nhàm chán, tù đọng
đang có nguy cơ hủy hoại, bào mòn tâm hồn con người. Thế nên, để thay đổi
điều đó, toàn bộ tập truyện là sự vận động của thiên nhiên, đầy cảm xúc, giàu
chất thơ.
Ngoài các tác giả của dòng truyện ngắn trữ tình đã nói ở trên, chúng ta
còn biết đến Thanh Châu, Ngọc Giao - những người đã góp phần không nhỏ
vào dòng truyện ngắn trữ tình với những truyện đong đầy cảm xúc của họ.
Có thể nói: đội ngũ sáng tác với những gương mặt kể trên đã tạo nên
một dòng truyện mang màu sắc riêng, làm cho dòng truyện ngắn trữ tình trở
thành một bộ phận quan trọng góp phần làm phong phú diện mạo của văn học
hiện đại trước Cách mạng và giúp đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc.
1.1.2. Dòng truyện ngắn hiện thực
Hiện thực đầy biến động của xã hội Việt Nam những năm 1932-1945 là
đề tài vô cùng phong phú, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn khai
thác và phản ánh vào văn chương. Nhưng nhìn hiện thực đó theo cách như thế
nào lại do từng cá nhân. Chính vì thế, ngoài dòng truyện ngắn trữ tình đã nói
trên, dòng truyện ngắn hiện thực cũng là một bộ phận không thể thiếu góp
phần hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học. Nếu như các nhà văn trữ tình
phản ánh cuộc sống bằng cái nhìn lãng mạn, kết hợp hiện thực và cảm xúc cá
10
nhân thì các tác giả hiện thực đã mang đến cho độc giả những vấn đề bức xúc,
nóng bỏng của xã hội đương thời một cách chân thực và sinh động. Những
vấn đề đó được miêu tả một cách khách quan với cảm hứng phê phán mãnh liệt.
Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định phương pháp hiện thực
phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn. Ông rất nhạy cảm với tình trạng áp bức
bóc lột, tình trạng đạo đức bị đổ nát, phá hoại giá trị truyền thống. Xu hướng
của ông là “lật mặt trái” để phơi trần cái ác, cái xấu xa của bọn giàu từ địa chủ
cường hào ở quê đến những ông chủ, bà chủ, những tiểu thư gái mới đua đòi,
hư hỏng ở thành thị: Đồng hào có ma, Sáu mạng người, Báo hiếu trả nghĩa
mẹ, Đào kép mới... Đằng sau tiếng cười giòn giã, sảng khoái của nhà văn
thường chất chứa niềm căm phẫn, thái độ căm ghét, ý thức vạch mặt sự hoành
hành của cái ác, cái xấu, cái đểu; cùng nỗi đau xót trước số phận khốn khổ
của người dân trong xã hội bất công. Răng con chó nhà tư sản, Kép Tư bền là
những truyện cho thấy sự thảm hại của người nghèo trong xã hội đồng tiền
lạnh lùng đó. Truyện của ông cho độc giả thấy: người nghèo không chỉ bị đói
rách khổ sở mà còn bị xúc phạm nhân phẩm, bị chà đạp một cách không
thương tiếc: Bữa no đòn, Thằng ăn cắp, Chị phu mỏ… cuối cùng ông lột tả
bức tranh xã hội nhố nhăng, đồi bại, bất công, áp bức, “người ăn thịt người”
thực ghê tởm (Thịt người chết).
Truyện ngắn Nam Cao đã phản ánh chân thực cảnh ngột ngạt, tăm tối của
xã hội Việt Nam trước Cách mạng; đồng thời cũng thể hiện những cảnh đời
éo le, những bi kịch đau đớn vật vã và bế tắc. Hai đề tài chính của Nam Cao
là người nông dân và trí thức nghèo. Ở đề tài trí thức nghèo nổi bật lên: Trăng
sáng, Mua nhà, Truyện tình, Cười, Đời thừa…Nhân vật chủ yếu của đề tài
này là các nhà văn, nhà giáo trường tư… sống dở vì cái nghèo, quan trọng
hơn họ luôn mâu thuẫn giữa sự sống, nhân phẩm, khát vọng sự nghiệp với cái
gánh nặng cơm áo tẹp nhẹp hằng ngày. Cuối cùng, họ trở thành những “kiếp
sống mòn” về tâm hồn và sa sút về nhân phẩm. Qua đó, nhà văn lên án xã hội
11
bóp nghẹt quyền sống, hủy hoại cả con người.
Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, Một bữa no, Một đám cưới… là những
truyện tiêu biểu viết về đề tài người nông dân. Nam Cao không phải là người
duy nhất viết về cái nghèo, nhưng chưa một tác giả nào viết về cái nghèo lại
có sức ám ảnh khủng khiếp đến thế. Nhân vật của Nam Cao bị xô đẩy đến
tình cảnh hết sức khốc liệt, có khi bị mất cả nhân tính. Nghèo đến thiếu ăn đủ
khổ rồi, họ bị biến thành lưu manh hóa còn khổ hơn. Đau đớn hơn nữa, họ
còn bị từ chối quyền làm người chỉ vì nghèo đói. Tuy vậy, với tấm lòng nhân
đạo sâu sắc, ngòi bút Nam Cao đã phát hiện, nâng niu bản chất tốt đẹp, lương
thiện ẩn sâu trong tâm hồn con người, hiểu được nguyên nhân làm cho họ bị
tha hóa.
Vũ Trọng Phụng đến với mảng hiện thực bằng quan điểm “tiểu thuyết là
sự thực ở đời”. Ông không đề cập đến những vấn đề rộng lớn của xã hội như
tiểu thuyết phóng sự nhưng những trang văn của ông đã toát lên những ý
nghĩa xã hội, nhân sinh sâu sắc lớn lao khi đề cập đến những khía cạnh bình
thường của xã hội như đạo đức, thế thái nhân tình trong cái xã hội đen tối, đảo
điên của xã hội thực dân phong kiến.
Trong Bộ răng vàng, Trúng số độc đắc, Một cái chết, Bà lão lòa nhà văn
thể hiện thái độ căm ghét thế lực và sức mạnh đồng tiền - thứ đã biến mọi
quan hệ của con người thành quan hệ mua bán khiến con người trượt dài trên
con đường tha hóa đạo đức. Tác giả cũng mỉa mai lối sống rởm đời, buông
thả, giả dối và đớn hèn; chế giễu lối sống ngông nghênh, vô nghĩa hết sức lố
bịch. Các tác phẩm của ông phanh phui, phơi bày bao nhiêu mặt trái đen tối,
những tệ nạn, thói hư tật xấu trong xã hội. Hơn tất cả, Vũ Trọng Phụng muốn
chế nhạo, báng bổ cái xấu xa, bần tiện của nhiều hạng người, đồng thời muốn
cắt bỏ ung nhọt của xã hội khốn nạn lúc bấy giờ.
Ở truyện của Nguyên Hồng, người đọc lại thấy được cuộc sống lam lũ,
cơ cực bần cùng của người lao động nghèo khổ ở các thành phố lớn như: Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định. Sự bóc lột hà hiếp ở nông thôn khiến họ phải bỏ
12
xứ ra đi; nhưng nào đã được yên ổn, họ tiếp tục bị ném vào vòng xoáy nghiệt
ngã chốn thị thành và trở thành đủ thứ loại người khác nhau. Tuy Nguyên
Hồng không miêu tả một cách trực tiếp mâu thuẫn xã hội nhưng ông lại miêu
tả một cách chân thực quá trình bần cùng hóa lưu manh hóa của dân nghèo
thành thị. Độc giả thấy xót xa, nhức nhối vô hạn của những kiếp người cùng
khổ. Có thể thấy: cảm hứng trong các sáng tác của Nguyên Hồng không
hướng đến sự phẫn nộ, lên án quyết liệt đến mức muốn thay đổi xã hội mà
ông muốn hướng tới chính là chủ nghĩa nhân đạo bằng cái nhìn đôn hậu, tươi
đẹp được thể hiện trong: Ngọn lửa, Hai mẹ con, Hơi thở tàn, Vực thẳm, Trong
cảnh khốn cùng.
Nếu như thế giới nhân vật của dòng trữ tình bao giờ cũng mang nét đẹp
bình dị, hồn nhiên, trong sáng với những cái tên nhẹ nhàng, đời sống nội tâm
phong phú, giàu có về tinh thần thì những nhà văn hiện thực xây dựng nhân
vật của mình gắn liền với bản chất giai cấp - xã hội. Nhân vật tồn tại với cái
nhìn đa chiều, trong tất cả những mối quan hệ phức tạp của cuộc đời. Chính vì
vậy, họ gần gũi hiện thực, mang hơi thở của đời sống và cũng thể hiện sự
phong phú đa dạng về con người.
Nhìn cuộc đời như một sân khấu kịch đầy rẫy sự đồi bại, Nguyễn Công
Hoan đã tái hiện xuất sắc điều đó bằng đủ mọi nhân vật với các tầng lớp khác
nhau. Ông chia nhân vật làm hai tuyến rõ rệt: tuyến chính là nhân vật thuộc
“hạng nghèo” của xã hội và tuyến phản diện là “tầng lớp trên” có quyền, tiền
và địa vị. Tuyến thứ nhất là những kiếp người cực khổ trăm đường, đói rách,
nhẫn nhục đến thê thảm (Hai cái bụng, thằng ăn cắp, Răng con chó nhà tư
bản…). Tuyến thứ hai là những ông, bà chủ hiện ra với tất cả thói hư tật xấu:
quan tham, đê tiện, dâm ô, đểu cáng, bất nghĩa vô đạo (Đồng hào có ma, Thịt
người chết, Đi giày, Mất cái ví, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Báo hiếu trả nghĩa
cha…). Mặc dù nhân vật của Nguyễn Công Hoan chưa có chiều sâu tâm lý và
có phần đơn điệu nhưng ông đã khắc họa một thế giới đông đảo mang nhiều
cá tính sinh động như: Kép Tư bền, Sáng, Anh xẩm, Thằng Quýt, Cụ chánh
13
Bá, mà tiêu biểu là nhân vật huyện Hinh trong Đồng hào có ma.
Đặt con người trong tinh thần giai cấp, con người bản năng, con người
vô nghĩa lý, nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng mang đủ màu sắc của thói
hư tật xấu. Có thể kể đến: hai anh em trong Bộ răng vàng là những kẻ bất
hiếu, khốn nạn, ti tiện, đểu cáng; sự lố bịch, giả dối, bê tha của gia đình họa
sỹ Khôi Kỳ trong Hồ sê líu, hồ líu sê sàng; mưu mô, thủ đoạn của Phách
trong Đoạn tuyệt hay ích kỉ tầm thường của nhân vật tôi trong Một đồng bạc.
Tác giả đã khắc họa tính cách nhận vật khá sắc sảo, đầy đặn và có chiều sâu
tâm lý.
Nhân vật của Nam Cao luôn đứng trước sự tấn công dữ dội, nghiệt ngã
của hoàn cảnh sống đến mức cả sự sống bị đe dọa và nhân cách có nguy cơ bị
tha hóa. Họ phải đấu tranh trong sự tuyệt vọng chỉ để tồn tại. Chính vì điều
đó, nhân vật luôn mang trong mình một tâm hồn đau đớn, dai dẳng khôn cùng
và đó cũng là bi kịch chung cho cả giai cấp, tầng lớp. Điền, Hộ tiêu biểu cho
lớp trí thức tiểu tư sản bị xã hội phong kiến bóp chết ước mơ, khát vọng về sự
nghiệp khiến họ phải “sống mòn”. Lão Hạc điển hình cho người nông dân bị
bần cùng hóa, Chí Phèo điển hình cho tầng lớp nông dân lưu manh, tha hóa.
Quả thực, nhân vật của Nam Cao đạt đến sự điển hình của tính cách, trở nên
bất hủ trong văn chương.
Cùng hướng về hiện thực cuộc sống, nhưng nhân vật của Nguyên Hồng
lại được tác giả phát hiện, nâng niu vẻ đẹp trong chính những mảnh vỡ tâm
hồn của những con người dưới đáy xã hội. Họ có thể là gái điếm, lưu manh
như Bảy Hựu, Chín Huyền trong các tác phẩm cùng tên; phu phen, thợ
thuyền: Nhân (Đây bóng tối); Những kẻ ăn mày đầu đường xó chợ: Điều, Tý
Sáu (Con chó vàng); hoặc là những người đàn bà buôn thúng, bán mẹt, hàng
cơm, hàng nước: Vịnh (Hàng cơm đêm)… Người lao động đã làm việc một
cách cực nhọc mà vẫn đói khổ, bị rẻ rúng về thân phận, chịu bao đau khổ
trước cái ngột ngạt của xã hội. Đáng thương nhất là thế hệ trẻ em nghèo côi
cút. Hình ảnh những em bé lúc nào cũng lén lút, lo sợ bởi cuộc sống quá tối
14
tăm đầy sự đe dọa của đói rét, áp bức: Thao (Giọt máu), Thằng Bùng, cái Tý
(Bố con nhà lão đen) hay chính nhân vật tôi (Những ngày thơ ấu) đã làm cho
người đọc ám ảnh, suy nghĩ rất nhiều.
Xét về cốt truyện, có thể khẳng định: đây là yếu tố được đặt lên hàng đầu
tạo nên sự thành công của mỗi nhà văn. Cốt truyện trong các tác phẩm hiện
thực đều mang hơi thở của thực tế cuộc sống, thể hiện những mâu thuẫn và
xung đột trong các mối quan hệ và trong bản thân mỗi cá nhân; lồng vào đó là
cách nhìn và ý đồ sáng tác của mỗi tác giả. Điều đó tạo nên sự độc đáo của
nhà văn với những kiểu cốt truyện phù hợp với các phong cách và sở trường
khác nhau.
Cốt truyện của Nguyễn Công Hoan được xây dựng nhờ cách miêu tả
hành động bên ngoài và sự xâu chuỗi những diễn biến của sự kiện, tình huống
bất ngờ tạo nên sự ly kì, hấp dẫn và trào phúng của truyện. Ý nghĩa sâu xa và
thú vị của nội dung xuất phát từ những mâu thuẫn có tính hài hước được phát
huy cao độ trong khi tổ chức cốt truyện. Nhà văn không trình bày sự kiện một
cách phức tạp mà chủ yếu là đơn giản, cô đọng và chân thực. Ông tập trung
thể hiện quá trình phát triển tính cách trong một vài nhân vật chính hay một
đoạn trong cuộc đời nhân vật.
Nhìn chung, cốt truyện của Vũ Trọng Phụng đơn giản, gọn gàng và súc
tích nhưng vẫn mang nhiều kịch tính. Sự phong phú của cuộc sống được ông
phản ánh qua tình tiết, sự kiện được tổ chức một cách liền mạch, chặt chẽ; từ
đó tỏa ra trên bề rộng tạo nên sự phong phú của cuộc sống được phản ánh. Tự
do là câu chuyện giản dị, trong sáng, nói lên sự mong muốn được tự do của
loài chim. Như hình ảnh của hai con chim chào mào con: một con tìm lại
được tự do, về với bầu trời ca hát, một con không có cách nào thoát ra được
đành “tuyệt thực chết” . Mới đọc qua, chúng ta dễ nhầm tưởng Vũ Trọng
Phụng đề cập vấn đề môi trường và kêu gọi bảo vệ loài chim, song ngẫm kĩ
lại mới thấy cái ý nghĩa khái quát về một bài học nhân sinh: ý nghĩa của sự tự
15
do và sự tự do của chính con người.
Nam Cao xây dựng cốt truyện dựa trên sự miêu tả những đấu tranh,
xung đột nội tâm của nhân vật. Hệ thống sự kiện xuất hiện với vai trò là
nguyên nhân, nguồn gốc của những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của nhân
vật; sự vận động xảy ra ở thế giới nội tâm nhân vật. Vì thế, cách mở đầu, kết
thúc hay những sự kiện biến cố có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời nhân
vật đều thể hiện những xung đột nội tâm hay diễn biến tâm lý của nhân vật.
Ví dụ điển hình là nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên. Hắn điên
khùng và bất lực khi bị cô lập trước đồng loại, cách duy nhất để giải tỏa tâm
trạng u uất cùng cực đó là vừa đi vừa chửi ngay mở đầu thiên truyện; hành
động đó mang dấu ấn tâm lý rõ nét. Sự thay đổi nhận thức cùng những diễn
biến tâm lý của Chí Phèo là một quá trình dài: ban đầu là một nông dân lương
thiện, sau khi ở tù về thì trở thành nỗi khiếp sợ trong mắt mọi người; rồi cuộc
gặp gỡ và tình yêu với Thị Nở đã làm sống dậy những mơ ước bình dị nhất;
để rồi bị từ chối tàn nhẫn và cuối cùng là giết Bá Kiến và tự sát.
Ngoài cốt truyện, nhân vật thì ngôn ngữ, giọng điệu góp phần không nhỏ
vào sự thành công của dòng truyện ngắn hiện thực. Nét chung nhất của các
nhà văn thuộc dòng này là sự khách quan đôi khi đến lạnh lùng. Tuy vậy, mỗi
tác giả tạo dấu ấn riêng nhờ phong cách cá nhân của mình.
Nguyễn Công Hoan sử dụng ngôn ngữ quần chúng với sự chọn lọc và
nâng cao, đậm đà màu sắc cuộc sống. Giọng văn của ông có sắc thái sinh
động đặc biệt khiến người đọc có cảm giác nhà văn đang nói chuyện với
mình. Văn phong của Nguyễn Công Hoan trong sáng, linh hoạt, sống động
được biểu hiện bằng một giọng điệu trào phúng với nhiều cung bậc, sắc thái:
có cả hài hước, mỉa mai, diễu cợt, lên án… (Gái tân thời, Thật là phúc, Đào
kép mới, Đàn bà là giống yếu…).
Nhờ sự am hiểu sâu sắc về nhiều hạng người trong xã hội mà ngôn ngữ
trong truyện Vũ Trọng Phụng có sự sống động của cuộc đời. Nhà văn để nhân
16
vật phát ngôn thứ ngôn ngữ đặc trưng của từng hạng người. Giọng điệu của
ông mang sắc thái khi bi hài, khi gai góc, sắc cạnh, khi lại đầy suy tưởng triết
lý (Bộ răng vàng, Đoạn tuyệt, Lấy vợ xấu, Ăn mừng, Đời là một cuộc chiến đấu).
Ngôn ngữ của Nam Cao rất linh hoạt: lúc giàu suy tưởng triết lý, lúc lại
bình dị, gần gũi, chân thực biểu đạt ý chính xác, tự nhiên. Nhìn chung, giọng
điệu của Nam Cao có sự tổng hợp nhiều giọng điệu khác nhau được tác giả
thể hiện tùy vào đối tượng: có khi khách quan đến lạnh lùng, tàn nhẫn; khi
suy tư, lúc hài hước mang niềm chua xót buồn thương. Hơn tất cả, bằng giọng
điệu rất riêng, ông thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông cho số phận
người nông dân, trí thức phải sống trong cảnh đau khổ, bế tắc (Chí Phèo, Lão
Hạc, Đời thừa, Trăng sáng…).
Sự bao quát trên đây tuy chưa thực sự đầy đủ, nhưng chúng ta có thể
thấy được những đặc trưng cơ bản cũng như phong cách sáng tác khác nhau
của các tác giả tiêu biểu trong cả hai dòng truyện ngắn trữ tình và hiện thực.
Hơn nữa, chúng tôi cũng muốn khẳng định vị trí vai trò của hai dòng truyện
ngắn này vào công cuộc hiện đại hóa văn học nói riêng và sự phát triển của
văn xuôi hiện đại nói chung.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Thế Lữ
1.2.1. Vài nét về con người Thế Lữ
Thế Lữ sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907 trong một gia đình viên chức
nhỏ tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Ban đầu ông có tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ,
sau đó đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì là con thứ. Khi anh trai ông mất ở tuổi 11,
gia đình lấy lại tên Nguyễn Đình Lễ. Một thời gian sau ông lấy lại tên Nguyễn
Thứ Lễ, khi viết văn nói lái lại thành Nguyễn Thế Lữ, rồi rút gọn thành Thế
Lữ. Ngoài ra, ông còn dùng bút danh Lê Ta để viết báo. Lúc còn nhỏ ông
sống ở Lạng Sơn, sau đó về Hải Phòng học, đến năm 22 tuổi, ông thi đỗ dự
thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học được một năm thì bỏ.
Ông viết truyện, làm thơ từ khá sớm và bắt đầu đóng kịch từ năm 1928. Đến
17
năm 1932, ông được mời làm báo Phong hóa rồi gia nhập Tự lực văn đoàn, là
một trong những người sáng lập văn phái này. Ông là nhân vật chủ chốt cho
cả Phong hóa và Ngày nay, là cây bút có lối viết sắc sảo và tinh tế.
Trong lĩnh vực thơ ca, Thế Lữ được biết đến nhiều nhất là bài Nhớ rừng
(1934) ông đã trở thành nhà thơ tiêu biểu nhất của buổi đầu thơ mới và là
người góp phần quan trọng nhất để bắt đầu phong trào Thơ mới lúc bấy giờ.
Không chỉ thơ, Thế Lữ còn quan tâm đến nhiều ngành nghệ thuật khác nhau
như văn xuôi, kịch nói. Là thành viên Tự lực văn đoàn, ông vẫn giữ vai trò
quan trọng trong việc viết bài, biên tập, sáng tác các tác phẩm văn chương;
nhưng bên cạnh đó, kịch nói và sân khấu vẫn là một niềm đam mê. Cùng một
lúc ông đảm nhận nhiều công việc trong đoàn kịch như viết kịch bản, làm
diễn viên, đạo diễn, chỉ đạo nghệ thuật. Ông tham gia ban kịch Tinh hoa, xây
dựng ban kịch Thế Lữ, rồi ban kịch Anh Vũ. Bên cạnh đó, ông còn dịch nhiều
tài liệu nước ngoài về sân khấu và kịch các loại.
Ngay từ khi còn trẻ, Thế Lữ đã có tư tưởng tiến bộ, ông tham gia Thanh
niên cách mạng đồng chí hội khi mới hai mươi mốt tuổi. Trước Cách mạng,
khi Tự lực văn đoàn ngừng hoạt động, ông đã chỉ đạo đoàn nghệ thuật đi phục
vụ dọc miền đất nước, đưa đoàn kịch vào chiến khu để phục vụ kháng chiến.
Năm 1948, ông được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành tại Đại
hội thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam. Thế Lữ cũng là trưởng đoàn sân khấu
Việt Nam năm 1948-1949.
Cuối năm sau đó, Thế Lữ phụ trách đoàn kịch Chiến thắng, tổ chức đi
biểu diễn ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Năm 1955, ông là trưởng ban Nghiên cứu Nghệ thuật sân khấu Việt
Nam, đồng thời là trưởng đoàn Đoàn Văn công nhân dân Trung ương, tham
gia hội diễn ở Nhà hát nhân dân thành phố Hà Nội. Ông chỉ đạo đoàn Ca múa
nhân dân Trung ương đi biểu diễn ở Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan.
Từ năm 1957-1977, Thế Lữ giữ cương vị Chủ tịch Hội Nghệ sỹ sân
khấu Việt Nam từ ngày đầu thành lập. Ông là một trong những hội viên sáng
18
lập Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.
Năm 1962, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc, Thế Lữ được bầu làm Ủy
viên Ban Chấp hành.
Năm 1977, ông nghỉ hưu.
Thế Lữ lập gia đình riêng từ khá sớm, khi mới mười bảy tuổi. Ông chỉ có
con với người vợ đầu là bà Nguyễn Thị Khương. Người con cả của họ sống ở
miền Bắc, có thời gian đi theo bố, được truyền nghề cộng thêm tố chất sẵn có,
đã trở thành nhà đạo diễn kịch nói nổi tiếng Việt Nam, đó là Nghệ sĩ nhân dân
Nguyễn Đình Nghi. Nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghi đã qua đời năm 2001. Vợ
Nguyễn Đình Nghi, nghệ sỹ ưu tú Nguyễn Thị Mỹ Dung cũng theo nghiệp
sân khấu.
Cuối năm 1938, Thế Lữ kết hôn với người vợ thứ hai là diễn viên kịch
nói Song Kim, bà sinh năm 1913 tại Hà Đông. Từ đó, họ vừa là bạn đời, vừa
là bạn nghề. Do tài năng vốn có cộng với sự dìu dắt của Thế Lữ, Song Kim đã
trở thành một nghệ sỹ có tên tuổi, được phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ Nhân
dân. Bà đang sống tại Hà Nội, từng sở hữu một số tài liệu quý về sự nghiệp
sáng tác của Thế Lữ.
Năm 1979, Thế Lữ vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với người vợ đầu
và các con. Mười năm sau ông qua đời ở đó do tuổi già, hưởng thọ tám mươi
hai tuổi.
Năm 2001, Thế Lữ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
và nghệ thuật với hai tác phẩm Cụ đạo, Sư ông và Đề Thám. Đó là hai vở kịch
ông tham gia với vai trò diễn viên, đạo diễn, viết kịch bản, được công diễn
nhiều lần từ kháng chiến chống thực dân Pháp cho tới sau này.
1.2.2. Thế Lữ, người mở đầu một trào lưu thơ ca.
Thế Lữ đã ra mắt độc giả hơn 50 bài thơ, chủ yếu được sáng tác trước
năm 1945 và được in trên báo Phong hóa và Ngày nay, sau tập hợp vào hai
tập thơ: Mấy vần thơ (1935), Mấy vần thơ (tập mới, 1941). Có rất nhiều người
đánh giá vai trò của ông với thơ mới, đáng chú ý là ý kiến của Vũ Ngọc Phan
19
: “ Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến
thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho ta tin cậy ở tương
lai của thơ mới” [3, tr.171]. Một ý kiến khác của Hoài Thanh, Hoài Chân
trong Thi nhân Việt Nam: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao
đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam” [3, tr.163].
Có thể thấy, Thế Lữ là nhà thơ tiên phong mở đầu cho phong trào Thơ
mới. Ông đã mang đến cho thơ mới những sáng tác đầy giá trị. Vào buổi đầu
ấy, ông đã thổi hồn mới vào thơ mà đối với lớp người cũ người ta chỉ quen
ngâm thơ Tản Đà, Á Nam, đọc Truyện Kiều,… Bắt đầu từ Nhớ rừng, sau đó
là Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai…Trong lúc vấn đề cũ và mới
trong thơ chưa được phân định thì sự cách tân táo bạo cả về hình thức và nội
dung của Nhớ rừng đã mang lại sự thắng thế hoàn toàn cho thơ mới. Nhà phê
bình Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Thế Lữ không bàn về thơ mới, không
bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ
điềm nhiêm bước những bước vững vàng trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ” [3, tr.163]. Tiếp theo Thế Lữ là cả một thế hệ, một phong
trào thi ca sáng tạo và tân tiến như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận,…
Thế Lữ là người đi đầu trong phong trào Thơ mới. Ông đã đưa ra một
quan niệm có tính tuyên ngôn: thơ phải là cây đàn muôn điệu, phải vang lên
những khúc nhạc, giai điệu trong đời.
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ
Nét mong mang, thấp thoáng cánh hoa bay
Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy;
Thú xán lạn mơ hồ trong ảo mộng;
Chí hăng hái đua ganh đời náo động
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê
( Cây đàn muôn điệu)
Có thể nói, thơ và cuộc đời có mối liên hệ, cuộc sống là chất liệu của thơ,
nhà thơ cần biết khai thác. Nhưng với Thế Lữ, thơ không phải là sự ghi chép
tìm tòi về cuộc đời mà ông muốn tìm đến cái đẹp về vật chất và tinh thần.
Theo Hoài Thanh, vẻ đẹp thực của trần gian chính là đặc sắc trong thơ Thế
20
Lữ. Người đọc có thể tìm thấy những hình sắc và âm thanh của cuộc đời trong
thơ. Những nét gần gũi như: cảnh bên bờ suối, bình minh cây xanh, tiếng ve
ran trong bóng cây râm mát… vẻ đẹp đó vốn là của trần thế, của tự nhiên
nhưng nó dường như cũng ở trong mong ước của nhà thơ.
Đọc thơ Thế Lữ, độc giả thấy được sự khao khát sống tự do, không bị bó
buộc trong cuộc đời. Ông thích những cảnh đời rộng mở, nơi mà con người
sống với nhau bằng tấm lòng nhân hậu, không phải đề phòng, không có hận
thù. Có lẽ vì vậy, suy nghĩ đó được biểu hiện bằng nhiều cách trong thơ ca.
Không đơn giản chỉ là trốn khỏi hiện thực mà là thoát khỏi không gian chật
hẹp để đến với bao la. Dù có những bài bắt đầu từ cảnh đời chật hẹp nhưng
sau đó lại được mở rộng vút bay lên. Âm thanh trong thơ đã vút bay lên tập
chốn cao xanh:
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh
(Tiếng sáo thiên thai)
Có khi nó lại được nhà thơ dùng để giãi bày, giải tỏa nỗi u buồn và đi
tìm chân lý của cuộc sống. Điều này được thể hiện trong bài thơ Nhớ rừng,
tác phẩm để đời của Thế Lữ. Bài thơ đã thể hiện những tình cảm và khát vọng
về tự do. Đặt nhân vật của mình vào con hổ dũng mãnh bị nhốt trong vườn
bách thú chật hẹp, tâm trạng nhớ rừng, nhớ những ngày tung hoành giữa thiên
nhiên bao trùm cả bài thơ. Trong bài thơ, ông đã tạo nên sự tương phản giữa
tự do và tù túng, cảnh đời tầm thường giả dối và thiên nhiên hũng vĩ, quá khứ
và hiện tại,… Và cuối cùng, nổi lên tâm trạng u uất, chán chường về cuộc
sống và một khát vọng tự do mãnh liệt. Hình ảnh con hổ, loài chúa sơn lâm
của núi rừng, là một biểu tượng uy nghi đối lập với cái tầm thường nhỏ bé.
Hình tượng này có sức chiếm lĩnh, làm cho giọng điệu thơ hùng tráng nhưng
không kém phần thiết tha. Chỉ một cặp câu thơ: “Nào đâu những đêm vàng
bên bờ suối/ Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”, theo nhà thơ Vũ Đình
21
Liên cũng có sức mạnh như một tuyên ngôn.
Một hình ảnh khác trong thơ Thế Lữ là người ra đi tìm lý tưởng, tìm
tương lai. Nhưng người đó cũng phải có dũng khí mới có thể rời xa quê
hương. Trải qua nhiều sóng gió, con người ấy vẫn tiếp tục bước trên đường.
Nhân vật này đã được Thế Lữ miêu tả vừa có chí hướng, vừa biết nén lòng
với những chuyện riêng tư để tiến đến lý tưởng chung:
Năm năm theo tiếng gọi lên đường
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương
Mấy lúc thẫn thờ mong trở lại
Để hồn mơ tới bạn quê hương.
Một sự đổi thay biểu hiện bắt đầu bằng một sự ra đi, sự ra đi trong thơ
mở ra hướng mênh mông thuận lợi hơn so với văn xuôi. Hình ảnh đó đã kéo
dài suốt từ thơ Thế Lữ cho đến sau này là trong thơ Thâm Tâm, Trần Huyền
Trân. Sự khác nhau ở đây chính là buổi đầu người ra đi không biết đi đâu
nhưng những người sau đó đã đi theo một định hướng, một mục đích xã hội
mà thắng lợi đã nhìn thấy được.
Thế Lữ là người mở đầu cho phong trào Thơ mới bởi trong thơ ông cũng
hội tụ đầy đủ cái mới của thơ. Điều này được thể hiện rõ trong khát vọng tự
do, chiếm lĩnh cái đẹp của cuộc sống và thiên nhiên, tôn trọng và bảo vệ
quyền sống,… Thế Lữ là người mở đường và có công đầu trong trào lưu thi
ca mới. Trong thơ ông, ta luôn tìm thấy một cách nói rất riêng của các yếu tố
hợp thành thơ mới như cái đẹp, nỗi buồn, thiên nhiên… Nếu như sau này,
trong thơ của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương người đọc nhận
thấy những yêu đương vật chất thì trước đó, trong thơ Thế Lữ dường như
chưa có mối tình nào gắn bó riêng tư nào qua những kỉ niệm mặc dù vẫn có
hình ảnh của những người đẹp đến và đi qua thơ ông.
Thiên nhiên trong thơ Thế Lữ có một vẻ đẹp rất thơ mộng, thi vị, mang
trên mình một vẻ trẻ trung, căng tràn sức sống từ bầu trời xanh, ánh trăng, gió,
tiếng chim ca,… nét đặc biệt khi miêu tả thiên nhiên của ông là cảnh bao giờ
22
cũng đẹp hơn người:
Mây hồng ngừng lại lưng đèo
Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi
Trời cao xanh ngắt. - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Dường như ngay từ thơ Thế Lữ nỗi buồn chung của các nhà thơ lãng
mạn đã xuất hiện. Tuy nhiên, nguyên nhân của những nỗi niềm này lại không
gây nên sự nặng nề, xót xa, tuyệt vọng như sau này chúng ta thường gặp trong
thơ Xuân Diệu:
Tiếng gà gáy buồn như máu ứa
Chết không gian khô héo cả hồn cao
Hay như Chế Lan Viên:
Cả quá khứ là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành,
Và hiện tại biết cùng chăng bạn hỡi
Cũng đang chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh.
Đến Huy Cận:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Cái buồn buổi đầu ấy là tâm trạng tiếc nuối thời gian, là nỗi nhớ người,
nhớ cảnh đành than thở cho riêng mình:
Tôi chỉ là người mơ ước thôi
Là người mơ ước hão! Than ôi!
Vậy nên cái buồn thực sự của ông chỉ đến khi niềm tin bị đánh mất.
Điều này có thể đúng với tất cả mọi người, khi không còn mong ước, không
còn điều gì để chờ đợi nữa thì cuộc sống trở nên thiếu ý nghĩa.
Có thể nói, thơ Thế Lữ đã đóng góp xứng đáng trong thời điểm của nó,
vào thơ Việt Nam đúng vào cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Điều đó cũng
23
thể hiện vai trò quan trọng của ông trong phong trào Thơ mới.
1.2.3. Thế Lữ với văn xuôi
Bên cạnh một nhà thơ mở đầu cho thơ mới, Thế Lữ còn được biết đến
là một nhà văn có những tác phẩm văn xuôi đặc sắc. Thế Lữ viết các loại
truyện: truyện kì ảo (hoặc truyện kinh dị), truyện trinh thám và truyện lãng
mạn và truyện hiện thực.
Về loại hình truyện kì ảo (hoặc kinh dị), loại này có nhiều tên gọi vì có
biên độ phản ánh hiện thực rất rộng. Người Việt Nam đặt tên hoặc chuyển
ngữ như sau: ly kỳ, kỳ ảo, kinh dị, rùng rợn, quái dị, huyễn tưởng, hoang
đường, truyền kỳ… Chúng tôi đồng ý với nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân
khi ông đề xuất thuật ngữ “cái huyễn tưởng”, coi nó là một phạm trù mỹ học
và lựa chọn thuật ngữ huyễn tưởng để đặt tên chung cho tất cả những truyện
có tên gọi khác nhau như trên. Theo ông, “huyễn tưởng là một hình thái nhận
thức thẩm mỹ dùng thủ pháp kết hợp hư thực để thể hiện tư tưởng của nhà văn”.
Như vậy, truyện kỳ ảo, kinh dị, rùng rợn… trên thế giới và Việt Nam,
trong đó có truyện của Thế Lữ, thuộc loại hình truyện huyễn tưởng. Những
tên gọi đồng nghĩa với loại hình huyễn tưởng là: kỳ ảo, huyễn ảo, huyền ảo,
huyễn hoặc, hoang đường, hoang tưởng, không tưởng. Những tiểu loại hình là
ma (hoặc ma quái, quái đản), kỳ lạ (hoặc ly kỳ, kỳ bí, bí hiểm), kinh dị (hoặc
rùng rợn, ghê sợ, quái dị, kỳ quái, quái đản), thần kỳ, truyện truyền kỳ, phỏng
truyền kỳ.
Ở thời hiện đại, văn học huyễn tưởng xuất hiện vào giữa thế kỉ XIX. Tuy
vậy, đây không phải là bước phát triển sau của truyện truyền kì mà lúc này nó
hóa thân hẳn vào truyền kì hiện đại, tạo ra sự biến đổi về chất. Sự biến đổi và
hóa thân này bắt đầu khi xuất hiện những sáng tác của nhà văn Đức A.
Hoffman và sau đó là nhà văn Mỹ E.A.Poe.
Truyện huyễn tưởng của Thế Lữ chịu ảnh hưởng từ các nhà văn phương
Tây, các tác giả trong nước và khu vực và nhiều nhất là từ Bồ Tùng Linh của
24
Trung Quốc (tác giả Liêu trai chí dị ).
Thế Lữ sáng tác khoảng hơn hai mươi truyện huyễn tưởng dài và ngắn,
rải rác trên các báo và sau đó in trong các tập: Tiếng hú hồn của mụ Ké, Vàng
và máu, Bên đường Thiên lôi, Trại Bồ Tùng Linh. Các truyện này được chia
làm hai loại hình nhỏ là kinh dị và kì lạ. Tiêu biểu nhất là tập truyện Vàng và
máu. Truyện này ảnh hưởng của truyện kinh dị E.A.Poe. Ngay từ khi ra đời
nó đã trở thành một hiện tượng rất mới và lạ, để lại nhiều dư âm trong những
năm sau đó. Truyện này cũng được các nhà phê bình đánh giá cao. Theo Phan
Trọng Thưởng: Vàng và máu đã đưa Thế Lữ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật của
loại truyện này, đã mang đến một khuynh hướng mới của văn chương Tự lực
văn đoàn.
Truyện huyễn tưởng của Thế Lữ có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người
đọc. Ông đã tạo nên những cốt truyện hấp dẫn với bố cục chặt chẽ cộng với trí
tưởng tượng bay bổng, óc quan sát tinh tế, sắc sảo, cách hành văn vừa khúc
chiết, mềm mại, vừa giàu hình ảnh. Trong tất cả các tác phẩm huyễn tưởng
của mình, Thế Lữ đều dựa vào khoa học hiện đại hoặc chính đời thường để
giải thích những hiện tượng kì dị, bí hiểm.
Chủ trương đưa ánh sáng vào văn học của Tự lực văn đoàn có tác động
một phần đến Thế Lữ. Nhưng trước khi gia nhập Tự lực văn đoàn ông đã sáng
tác nhiều truyện trong đó có Vàng và máu. Ông chịu ảnh hưởng của văn
chương duy lí phương Tây mà đặc biệt là những truyện kinh dị của E.A.Poe.
Cái tài của Thế Lữ là đã nhìn ra cái kinh dị, bí hiểm, kì lạ bằng con mắt khoa
học và đưa cách nhìn ấy của mình tới bạn đọc.
Truyện huyễn tưởng kì lạ của Thế Lữ không thật đặc sắc nhưng Trại Bồ
Tùng Linh thì khác hẳn, bởi nó được bạn đọc rất hưởng ứng. Sử dụng bút
pháp của Liêu trai chí dị, truyện kể về một cuộc tình kiểu tài tử giai nhân vừa
thật vừa ảo giữa chàng văn nhân với một mỹ nữ thoắt ẩn thoắt hiện. Địa điểm
hẹn hò gặp gỡ của họ chính là nơi ở của chàng văn nhân, một nơi kết hợp của
sự thơ mộng, mờ ảo và bí hiểm ma quái. Ở truyện này yếu tố kì lạ đã chiếm
25
phần của yếu tố kinh dị nhờ vào vẻ đẹp thân xác của mỹ nữ, những cuộc ái ân
được che phủ bởi hương hoa, ánh đêm mờ ảo và tâm tưởng nửa tỉnh nửa mê
của chàng trai. Phần kết thúc có chút đáng tiếc bởi cách giải thích cuối truyện
làm cho sự hợp lý bỗng trở nên gò ép. Tuy có mặt hạn chế như vậy nhưng đây
vẫn là truyện thể hiện sự ảnh hưởng của văn học phương Tây đậm nét và cũng
làm nên sự khác biệt của Thế Lữ so với các truyện truyền thống.
Truyện trinh thám và có yếu tố trinh thám hiện đại đã xuất hiện trên thế
giới khoảng 200 năm. Nhà văn Mỹ A.E.Poe được coi là người mở đầu bởi
ông có những tác phẩm hoàn chỉnh nhất sớm nhất về loại hình, đặc biệt là
hình tượng thám tử tài danh Dupin. Ở Việt Nam, thể loại này ra đời muộn bởi
không có nguồn gốc ở khu vực hay bản địa. Ngay từ khi xuất hiện, loại truyện
này đã mô phỏng phong cách phương Tây. Trong buổi đầu đó, số lượng tác
giả thành danh về thể loại này không nhiều, đáng chú ý là Thế Lữ và Phạm
Cao Củng. Với riêng Thế Lữ, thể loại này chủ yếu là truyện vừa mà xuất hiện
đầu tiên là Gói thuốc lá (1934) tiếp đến là Mai Hương và Lê Phong, Lê Phong
phóng viên, Những nét chữ và tác phẩm cuối cùng công bố trước năm 1945 là
truyện vừa Đòn hẹn (1937). Một trong những tác phẩm trinh thám được tác
giả viết và công bố muộn nhất là Tay đại bợm (1948).
Có thể nói, Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của chủ nghĩa
duy lý trong truyện trinh thám phương Tây, tập trung cao ở A.E.Poe. Truyện
phiêu lưu và huyễn tưởng của A.E.Poe nghiêng hẳn về trí tuệ thì truyện của
Thế Lữ cũng được viết trên cơ sở các nhìn duy lý về hiện thực. Tuy cả hai
loại hình này đều chứa nhiều yếu tố lãng mạn nhưng cái mà các nhà văn
hướng đến là chiếm lĩnh hiện thực ở dạng hư ảo, ở khát vọng chuyển dịch tìm
kiếm tự do, khám phá cái mới. Đến sau này, huyễn tưởng và phiêu lưu được
tiếp sức bởi chủ nghĩa lãng mạn khiến cho yếu tố duy lí được lãng mạn hóa
hoặc song song tồn tại với yếu tố lãng mạn.
Nhân vật nổi bật trong truyện trinh thám của Thế Lữ là phóng viên trinh
thám Lê Phong. Nhân vật này mang dáng dấp của hình tượng Sherlock
26
Holmes của nhà văn Anh Conan Doyle. Thế Lữ đã xây dựng một hình tượng
lý tưởng khi ông dồn hết niềm tin yêu, kỳ vọng vào nhân vật này. Lê Phong
và Mai Hương cùng những nhân vật trinh thám khác được xây dựng theo chủ
nghĩa duy lý. Thế Lữ đã dựng nên một Lê Phong hào hoa, phong nhã, tài giỏi,
tận tụy với nghề nghiệp. Ở anh vừa có cái sắc lạnh, quyết đoán, lại vừa có cái
tinh tế mơ mộng xen thêm một chút hài hước, si tình và đắm đuối người đẹp.
Lê Phong luôn sử dụng óc phán đoán với khát vọng khám phá đầu tiên để tìm
ra điều bí mật, điều đó đã giúp anh làm tốt nhiệm vụ một phóng viên trinh
thám tại một tờ báo danh tiếng nhất.
Nhân vật song đôi với Lê Phong là Mai Hương nhưng dường như người
con gái này chỉ để tô điểm cho Lê Phong, làm tấm gương để phản chiếu hình
ảnh Lê Phong. Cô cũng là một hình tượng mỹ nữ thường thấy trong các tác
phẩm của Thế Lữ. Cặp đôi này là một kiểu quan hệ tình yêu trai tài gái sắc,
thơ mộng đầy lãng mạn của thời hiện đại. Đâu đó trong cặp đôi này có bóng
dáng của mô hình tình yêu tài tử - giai nhân trong văn học truyền thống Việt
Nam và Trung Quốc mà trước đó Thế Lữ đã từng thể hiện.
Đối với thể loại truyện này, Thế Lữ đôi khi mâu thuẫn vì ông vừa muốn
hướng về lý - sự rạch ròi, rõ ràng lại vừa muốn hư thực xen vào đó. Nó trở
thành một điểm yếu và cũng là lý do khiến truyện của ông kén người đọc.
Xét chung trong dòng truyện trinh thám hiện đại, cả Thế Lữ và Phạm
Cao Củng đều non yếu trong khi thế giới đã chín muồi về nghệ thuật truyện
trinh thám. So với Phạm Cao Củng thì Thế Lữ viết ít hơn, Phạm Cao Củng có
viết thêm loại trinh thám mạo hiểm. Tuy vậy, không thể phủ nhận được
truyện Thế Lữ không mang quá nhiều màu sắc Việt Nam nhưng lại có lối kể
truyện lôi cuốn thêm nhiều yếu tố bất ngờ, các tình tiết được cấu trúc chặt
chẽ, nhấn mạnh cái duy lý, đậm đà yếu tố lãng mạn, lời văn chọn lọc, sáng
sủa, hiện đại. Nhìn tổng thể, truyện trinh thám của Thế Lữ giàu âm hưởng trữ
tình và lãng mạn đã làm thỏa mãn nhu cầu của một lớp độc giả mới muốn
27
thưởng thức một hương vị riêng, độc đáo.
Bên cạnh truyện huyễn tưởng và trinh thám, Thế Lữ còn viết một số ít
truyện lãng mạn và cuộc sống đời thường. Tám truyện ngắn trong tập Gió
trăng ngàn (1941) đã miêu tả thiên nhiên sơn cước, hoang dã và thơ mộng.
Các truyện này kể về những mối tình đẹp nhưng không trọn vẹn để lại niềm
nhớ thương, nuối tiếc giữa những chàng trai đô thị và những cô gái vùng cao.
Truyện lãng mạn của Thế Lữ được viết ra với mong muốn thoát khỏi
không gian đô thị ồn ào để trở về với thiên nhiên, trở về với tình yêu nguyên
sơ, trong trẻo ban đầu mà tác giả không thể thể hiện hết qua thơ. Nếu trong
thơ, tình yêu được gửi gắm vào người đẹp, chỉ được ngắm nhìn từ xa thì ở
trong văn lại trở nên say mê, đắm đuối. Truyện Gió ngàn kể về mối tình đơn
phương của cậu bé 12 tuổi với cô gái Thổ 17 tuổi. Đối với cô gái, cậu ta chỉ là
một đứa em được cưng chiều và cô rất yêu mến cậu. Truyện Chim đèo kể về
một nhà văn, nhà báo trẻ đã ở lại núi rừng thơ mộng với một cô gái trẻ mà ban
đầu anh chỉ định lên để nghỉ ngơi ít ngày. Hoa bên suối mang dáng dấp hoang
đường kể về một thầy giáo trẻ lên miền núi say mê một cô gái Thổ. Cô gái ấy
để lại trong anh nhiều tình yêu thương và hy vọng nhưng cuối cùng là cô đi
lấy chồng để chàng trai mãi mang một nỗi buồn trong trẻo. Một số truyện
khác nói đến những mối tình thơ mộng và có chút hão huyền giữa những cô
gái miền núi và chàng trai miền xuôi mà cuối cùng sự thiệt thòi mất mát, nhớ
nhung, nuối tiếc là của chàng trai đô thị.
Ngoài những câu truyện lãng mạn, cuộc sống đời thường cũng được Thế
Lữ đưa vào truyện. Đáng chú ý là Thoa và Một người hiếm có. Truyện Thoa
khiến người đọc xúc động khi kể về thân phận thiệt thòi về một cô gái câm.
Cô có một cuộc đời lặng lẽ, dù bị câm nhưng cô luôn mong muốn hạnh phúc
cho riêng mình. Lẽ ra cô cũng có điều đó nhưng cô lại mất đi liên tiếp những
hạnh phúc tưởng như trong tầm tay. Cô giữ lại bên mình những kỉ niệm, đến
khi cô qua đời người nhà mới phát hiện ra những vật kỉ niệm đó. Đây là một
truyện được đánh giá rất cao, có thể sánh ngang với những truyện hay nhất
28
đương thời. Ngoài Thoa, Một người hiếm có cũng là một truyện khá, nhân vật
chính của truyện tên là Lương Văn Sáng, một chàng trai tài giỏi liên tục thay
đổi nghề nghiệp và anh ta thành công trong tất cả mọi việc. Những tưởng
cuộc sống như vậy sẽ làm anh ta cảm thấy bằng lòng nhưng đến khi nguyện
vọng chiếm được người đẹp mà anh yêu tha thiết bị thất bại thì anh đã tuyệt
vọng và tự tử. Qua nhân vật này, Thế Lữ đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt
đi tìm cái đẹp đến cùng, và nếu như không được cái đẹp chấp nhận thì cách
duy nhất là không còn tồn tại trên đời, bởi nếu tồn tại mà không chiếm lĩnh
được cái đẹp thì thật là vô nghĩa.
Vượt qua những năm 1932, văn xuôi của Tự lực văn đoàn có bước
chuyển đổi sâu sắc so với trước đó. Không chỉ tác động đến các nhà văn trong
hội mà còn ảnh hưởng lớn ra bên ngoài. Sự chuyển đổi này có một phần quan
trọng của Thế Lữ bởi ông đã đưa vào truyện yếu tố lãng mạn, đằm thắm cùng
với chất thơ tươi mát, ngọt ngào. Ông xây dựng cốt truyện linh hoạt, luôn
thay đổi tạo sức lôi cuốn. Tác giả cũng đáp ứng thị hiếu bạn đọc bằng cách
xây dựng kết cấu tâm lý xen lẫn kết cấu tình tiết. Nhân vật của ông cũng rất
lãng mạn được miêu tả cụ thể và chi tiết. Các nhân vật nữ trẻ đều có nhan sắc.
Bên cạnh vẻ bề ngoài, Thế Lữ cũng rất chú ý đến nội tâm. Ngoài hình ảnh con
người, hình ảnh thiên nhiên cũng giàu chất trữ tình, đằm thắm, nhịp nhàng.
Phạm Thế Ngũ đã từng nhận xét: “Trong tất cả các nhà văn Tự lực, Thế Lữ
có lẽ là người có câu văn tinh vi, rèn giũa hơn cả” [24].
1.2.4. Thế Lữ với sân khấu kịch nói.
Vào những năm 1934-1935, sau khi đã khẳng định vị trí của mình trên
thi đàn, Thế Lữ chuyển hướng sang một lĩnh vực nghệ thuật khác: nghệ thuật
sân khấu. Từ khi là một thiếu niên 16 tuổi, Thế Lữ đã biết đến kịch nói và có
niềm say mê bộ môn nghệ thuật này. Đến năm 1928, ông cùng bạn tham gia
vở diễn Cọ vàng của Mai Phương phóng tác theo một vở kịch của một tác giả
người Pháp. Thành công đã đến với ông từ vai diễn đầu tiên đó. Ông cũng có
dịp được xem một số buổi biểu diễn của đoàn kịch Pháp từ trước năm 1932.
29
Tình yêu dành cho bộ môn nghệ thuật này ngày càng lớn trong ông. Ở thể loại
này, một lần nữa Thế Lữ trở thành nghệ sỹ tiên phong, là người đặt viên gạch
đầu tiên cho nghệ thuật biểu diễn kịch nói của sân khấu nước ta. Xét về mặt
sáng tác kịch, trước Thế Lữ đã có Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc, Nguyễn
Hữu Kim, Nam Xương, Vũ Trọng Phụng, Đoàn Phú Tứ,… Nhưng về mặt
biểu diễn, chỉ đến Thế Lữ mới có hoạt động biểu diễn sân khấu chuyên
nghiệp. Phan Trọng Thưởng đã nhận xét: “Thế Lữ là người đầu tiên đưa hoạt
động kịch nói ở nước ta trở nên chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở
thành một nghệ thuật hoàn chỉnh” [35]. Trong buổi lễ kỉ niệm 90 năm ngày
sinh của Thế Lữ, Hội nghệ sỹ sân khấu và Hội nhà văn Việt Nam đã đề nghị
suy tôn Thế Lữ là ông tổ của kịch nói. Nếu nói về sáng tác thì Vũ Đình Long
với vở Chén thuốc độc năm 1921 đã trở thành tác giả kịch nói đầu tiên ở Việt
Nam. Nhưng phải đến 15 năm sau, khi Thế Lữ xuất hiện trong hoạt động kịch
nói, nghệ thuật này mới được tổ chức thành hoạt động chuyên nghiệp mà
trước đó tuy được dàn dựng nhiều vở trên sân khấu nhưng chủ yếu lại là của
các tài tử nghiệp dư. Với riêng Thế Lữ, diễn viên kịch nói phải được tiếp xúc
với các lý thuyết tiên tiến và hoạt động theo một quan niệm nghệ thuật mới.
Như vậy, công đầu của Thế Lữ được xác định ở nghệ thuật biểu diễn kịch nói
chuyên nghiệp. Thế Lữ không những là người viết kịch bản mà còn là một
diễn viên, một đạo diễn sân khấu trong các ban kịch. Đối với lĩnh vực này,
mong muốn của Thế Lữ là “cần phải có những tác phẩm mới khác nữa của
những kịch sỹ mới, những bài học có giá trị để làm mất hẳn cái đội kịch sỹ ô
hợp, chưa hiểu thế nào là nghệ thuật mà đã tìm vinh hạnh trên kịch đài…”.
Với những quan điểm của ông, người ta thấy không chỉ tâm huyết mà
còn cả những quan niệm và tư tưởng cách tân về nghệ thuật sân khấu. Điều
này được thấy rõ nhất khi rất nhiều nhân vật đã cùng ông vào ban kịch Tinh
hoa như: Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Bình Lộc, Nguyễn Đình
Liên… Ban kịch Tinh hoa đã cho thấy sự quy củ và hướng vào mục đích nghệ
thuật thực sự của hoạt động biểu diễn kịch nói. Đoàn Phú Tứ là người viết
30
kịch bản thường xuyên cho đoàn kịch với các vở: Ghen, Gái không chồng,
Xuân tươi, Sau cuộc khiêu vũ… Với những thử nghiệm nghệ thuật đầu tiên
này, Thế Lữ đã dành được sự mến mộ của công chúng yêu nghệ thuật Thủ đô.
Tiếp sau đó, ông lại củng cố ban kịch Thế Lữ ở Hải Phòng với các vở Kim
tiền, Ông Kí Cóp, Đoạn tuyệt… cùng với các nghệ sỹ cũ và mới như Lê Đại
Thanh, Lan Sơn, Tô Ngọc Vân, Song Kim, Lê Mai, Tú Mỡ… Họ đã chinh
phục được khán giả Hà Nội, Hải Phòng và các thị xã phụ cận. Những ban kịch
có sự hiện diện của các nhà thơ, nhà văn, họa sỹ có tên tuổi đã chứng minh
cho sức thuyết phục rất lớn của ý tưởng chấn hưng kịch nghệ, đã vượt qua
những định kiến nặng nề, dai dẳng về người nghệ sỹ sân khấu.
Thế Lữ chú ý đặc biết đến tinh thần dân tộc của nghệ thuật biểu diễn
kịch nói hiện đại của dân tộc. Tuy ông rất quan tâm tới kịch nói kiểu phương
Tây nhưng vẫn chú ý đến kịch hát truyền thống. Vở diễn của ông giàu màu
sắc Việt Nam, mang đầy những cảnh sắc thiên nhiên và đầy chất thơ, ông rất
chú ý đài từ của vở diễn. Cùng một lúc ông cũng quan tâm tới nhiều hoạt
động biểu diễn khác như khán giả, tổ chức biểu diễn, nghệ thuật biểu diễn…
Điều luôn làm ông trăn trở là làm thế nào để nâng cao trình độ nghệ thuật biểu
diễn kịch nói, đưa tới khán giả những vở diễn hấp dẫn đảm bảo giá trị nghệ thuật.
Sự đóng góp lớn nhất của Thế Lữ vào sự phát triển của sân khấu kịch nói
Việt Nam nói riêng và sân khấu Việt Nam nói chung là đóng góp về mặt dàn
dựng. Ông là đạo diễn đầu tiên của sân khấu kịch nói, đã dàn dựng và tham
gia dàn dựng ngót năm mươi vở kịch, đáng chú ý nhất là những vở trước
Cách mạng tháng Tám, khi mà sân khấu kịch còn ở thời kì sơ khai. Điều này
khẳng định vai trò của Thế Lữ vào quá trình chuyên nghiệp hóa sân khấu kịch
nói Việt Nam.
Thế Lữ mang đến sự chuyên nghiệp cho kịch không chỉ trong dàn dựng
mà ông đặc biệt chú ý tới vai trò diễn viên. Trước hết, ông tự mình làm gương
qua các vai diễn, ông trau chuốt để tạo ra một lối diễn rất kỹ về động tác, cử
chỉ, ngoại hình, bước đầu có sự phân tích trong tâm lý nhân vật. Sau đó, Thế
31
Lữ trực tiếp đào tạo diễn viên sân khấu qua trường học thực hành tại chỗ,
ngay tại các ban kịch do ông sáng lập, nổi bật lên là Song Kim và Trúc
Quỳnh. Cũng có lúc, ông đào tạo một cách âm thầm, bền bỉ, dai dẳng. Nguyễn
Đình Nghi được đào tạo theo kiểu như thế, nghĩa là bất kì lúc nào, ở đâu đều
được nghe Thế Lữ dạy về cách nhìn sân khấu.
Dù gặp rất nhiều khó khăn, nếm trải nhiều vinh nhục của một hoạt động
mới mẻ, hồi hộp vừa hấp dẫn vừa cay đắng, nhưng chúng ta có thể khẳng định
rằng: Thế Lữ đã đi vào ngành kịch với tất cả niềm say mê, lương tâm nghề
nghiệp, lương tâm nghệ sỹ. Đây là yếu tố quan trọng làm nên người nghệ sỹ
chân chính.
Thế Lữ thực sự là một cây bút tài hoa trong nhiều lĩnh vực. Không chỉ
thơ, văn xuôi, kịch mà ông còn là nhà báo, nhà phê bình, dịch giả. Ở mảng
báo chí, ông từng làm việc trong hai tờ báo có ảnh hưởng lớn nhất đến công
cuộc đổi mới văn chương là Phong hóa và Ngày nay. Ông đảm nhiệm cả vai
trò sáng tác, biên tập và cả xuất bản với tinh thần cần mẫn, thẳng thắn, trung
thực, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đọc văn báo chí của Thế Lữ,
độc giả nhận ra sự dí dỏm, linh hoạt, khúc chiết và giàu hình ảnh.
Vai trò nhà phê bình của Thế Lữ gắn với báo chí, dường như báo chí và
văn chương gắn bó chặt chẽ với nhau trong ông. Ông cùng những người khác
viết và đăng các bài góp phần cho sự thắng thế của phong trào Thơ mới.
Những cây bút trẻ như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Nguyễn Bính … đều
được Thế Lữ tạo điều kiện, dìu dắt một cách tận tình. Thông thường, ông thể
hiện quan niệm về văn chương, về các tác phẩm đều được bộc lộ qua những
bài viết; nhưng chung nhất vẫn đi theo kiểu: văn chương phải bộc lộ được tư
tưởng nghệ thuật, đưa đến cái mới, cái thật, chú ý đến câu từ, phải nâng cao
tính dân tộc. Quan trọng nhất là cái đẹp trong văn chương phải là cái mới,
mới mà đẹp.
Thế Lữ còn tham gia dịch thơ và truyện, ông coi đây là công việc phụ
trợ cho sự nghiệp sáng tác của mình. Ông tham gia dịch bộ tiểu thuyết Những
người khốn khổ, Người vô hình cùng một số vở kịch.
Với tài năng và nhiệt huyết của mình, Thế Lữ đã thành công trên nhiều
32
thể loại và góp phần rất lớn vào quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà.
CHƢƠNG 2:
TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG
2.1. Truyện kinh dị khác thƣờng( truyện huyễn tƣởng)
Xét về nguồn gốc, truyện huyễn tưởng có từ xa xưa ở phương Đông và
mấy trăm năm trước ở nhiều nước trên thế giới. Riêng ở vùng Viễn Đông, cội
rễ sâu xa là truyện truyền kỳ, từng tồn tại qua nhiều thế kỉ chủ yếu là ở Trung
Quốc. Đến đầu thế kỉ XIX, huyễn tưởng hiện đại xuất hiện ở phương Tây và
có sự biến đổi hẳn về chất khi được phát triển mạnh mẽ ở thế kỉ XX.
Truyền kỳ ở Việt Nam xuất hiện muộn và chịu ảnh hưởng của truyền kỳ
Viễn Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng. Truyền kỳ phát triển rầm rộ ở
Việt Nam vào hai thế kỷ XV và XVI. Theo sự phân loại của Trần Đình Sử thì
đó là một trong năm thể loại: truyện thần quái, truyện thần kỳ, truyện diễn ca
lịch sử, truyện tiểu thuyết chương hồi và truyện thơ Hán Nôm. Thánh Tông di
thảo được coi là tập truyện ngắn truyền kỳ đầu tiên vào thế kỷ thứ XV, sau đó
là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đầu thế kỷ XVI; đến thế kỷ XVIII có
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh…
Đến đầu thế kỷ XIX, ở phương Tây mới xuất hiện văn học huyễn tưởng
hiện đại. Tuy nhiên, huyễn tưởng hiện đại không phải là bước phát triển cao
hơn theo một mạch thẳng của truyền kỳ. Phải đến đầu thế kỷ XX, khi huyễn
tưởng hiện đại xuất hiện với sự mở đầu của nhà văn Đức A.Hoffmann (1776-
1882) và sau đó là nhà văn Mỹ E.A.Poe (1809-1949) thì truyện truyền kỳ hóa
thân vào truyện huyễn tưởng hiện đại, tạo ra sự biến đổi hẳn về chất. Ngoài
hai tác giả kể trên thì ở phương Tây còn có các tác giả nổi tiếng về truyện
huyễn tưởng như: nhà văn Nga Gôgôn (1809-1852), nhà văn Pháp Hónoré de
Balzac (1799-1850), nhà văn Anh Charles Dickens (1812-1870).
Như một số nhà văn khác cùng viết truyện huyễn tưởng, Thế Lữ vừa chịu
sự ảnh hưởng trực tiếp của các nhà văn phương Tây qua các bản dịch Pháp
33
ngữ, Anh ngữ và những bản dịch khác chủ yếu là của A. Hoffmann và
E.A.Poe; vừa chịu ảnh hưởng của các tác giả trong nước và khu vực, đặc biệt
là Trung Quốc với Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị nổi tiếng.
Riêng với thể loại huyễn tưởng hiện đại Việt Nam, chúng ta có thể thấy
một phần cơ sở của nó chính là truyện truyền kỳ cổ xưa và sự tích lưu truyền
trong dân gian có chứa yếu tố thần kỳ. Cái cổ xưa đó được kết hợp với truyện
hiện đại phương Tây cho ra đời truyện truyền kỳ mới. Nguyễn Huệ Chi cho
rằng: “Nói chung, những truyện ngắn và cá biệt một đôi truyện vừa có sự
tham gia đậm nét của yếu tố kỳ ảo hoặc dùng lại motip truyện truyền kỳ quá
khứ được coi là phỏng truyền kỳ” [2, tr. 25] Tuy vậy, truyện truyền kỳ của Thế
Lữ đi theo một hướng rất riêng và không nên xếp cùng hai loại hình truyền kỳ
khác: truyền kỳ hiện đại và truyện kỳ ảo hiện đại.
Bắt đầu từ khi sáng tác thể loại này, truyện truyền kỳ của Thế Lữ được
đăng trên các báo Phong hóa và Ngày nay; sau đó in trong các tập: Tiếng hú
hồn của mụ Ké (truyện cùng tên và hai truyện khác, 1931, sau này được in lại
với tên Ba hồi kinh dị), Vàng và máu (truyện cùng tên và một số truyện khác,
1934), Bên đường Thiên Lôi (truyện cùng tên và mười truyện khác, 1936),
Trại Bồ Tùng Linh (một truyện vừa, 1941).
Truyện huyễn tưởng của Thế Lữ có thể tạm chia thành hai thể loại là
kinh dị và kỳ lạ. Truyện kinh dị chiếm đến 75%, khai thác cảnh rùng rợn đến
mức kinh hoàng, khiến người đọc vô cùng sợ hãi. Truyện kỳ lạ chiếm 25%
khai thác các cảnh hoang đường, có yếu tố hoang đường, gây sự tò mò cho
người đọc nhưng không quá nặng nề vì sợ hãi.
Xuất sắc nhất trong thể loại huyễn tưởng của Thế Lữ chính là Vàng và
máu. Truyện thuật lại một chuyến đi tìm kho báu của quan Tàu giấu trong
hang giữa rừng núi hoang vu, do quan châu Kao Lâm tổ chức cho một người
già và một người trẻ thực hiện. Đó là nơi hoang vu, rừng thiêng nước độc, ít
ai dám đặt chân đến. Hai người vừa đến nơi đã được chứng kiến cảnh kinh
34
hoàng: một xác chết được treo trước cửa hang. Trong khi người trẻ đang rất
sợ hãi thì người già quyết định liều lĩnh bước vào. Khi trở ra, ông ta mang vẻ
mặt hoảng sợ và tờ giấy có hình vẽ khó hiểu với nội dung:
Miệng có hai răng;
Ba chân bốn tay;
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Mày có sứ mạng;
Mày giàu mày chết.
Người trai trẻ chưa kịp hỏi gì thì ông già đã loạng choạng, rũ xuống rồi
tắt thở luôn. Quá hốt hoảng, người trẻ chạy một mạch về phía châu Nga Lộc
và vào thẳng nhà quan châu. Với sự hiểu biết của mình, quan châu tìm thấy
trong mảnh giấy đó có một mảnh khác với nội dung giải thích: “Hang Văn Dú
trông như cái miệng có hai chiếc răng. Ba thước nói là chân, bốn thước nói là
tay. Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở lên ba tay, thì sẽ thấy
chữ của mày tên là Thạch. Đào từ chữ thạch xuống sẽ thấy một cái hang nữa
mang những hòn đá hình nhẵn như trứng. Đá này giữ kho của đó. Nhưng
không được lấy sức mà mang vì tìm thấy vàng thì mày chết”. Tìm được lời
giải, quan châu mang theo một nhóm thuộc hạ gan dạ, bình tĩnh và khéo léo
đến hang. Mặc dù gặp bao nhiêu hình ảnh chết chóc ghê rợn, nhưng quan
châu là người can đảm, lại không có óc mê tín nên ông đã tìm được kho báu
cũng như khám phá được nguyên nhân làm nên cái chết của những người
trước đó.
Cái đặc sắc của truyện này chính là sự chủ ý đề cao óc khoa học. Mặc dù
truyện có vẻ kì quái, rùng rợn nhưng không thần bí hoang đường mà trái lại,
đề cao sự tin tưởng vào khoa học. Ông quan châu ở đây, để đối phó với thần
35
núi Văn Dú, để tìm ra vàng bạc cất giấu đã không hề nhờ đến thầy mo, thầy
cúng, không tin vào phép yểm người đọc thần chú. Ông sử dụng óc quy nạp,
thâm nhập tài liệu để dựng lại câu chuyện, óc suy diễn để giải thích hiện
tượng, óc quan sát và thực nghiệm để tìm ra nguyên nhân của sự chết người.
Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn là đưa khoa học vào văn chương có ảnh
hưởng một chút đến Thế Lữ, nhưng có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn là văn
chương duy lý phương Tây nói chung mà đặc biệt là truyện kinh dị của A.E.
Poe. Khái Hưng đã viết trong lời tựa cuốn Vàng và máu: “Tôi vẫn mong mỏi
sẽ có nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á Đông, để gây một lối
văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của văn Tàu. Nhà văn đó
ngày nay đã có: chính là Nguyễn Thế Lữ, thi sỹ trong Tự lực văn đoàn. Thực
vậy, tác giả Vàng và máu và Đêm trăng đã tỏ ra có óc khoa học của Edgar
Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh, hai nhà văn viết những truyện ghê
gớm, huyễn hoặc làm cho những độc giả yếu bóng yếu vía phải rùng mình lúc
đêm khuya. Ấy cũng nhờ có thi vị mà truyện Vàng và máu không ghê gớm, tuy
vẫn làm cho ta phải rùng mình, và nhờ có óc khoa học mà khiến truyện Vàng
và máu không huyễn hoặc chút nào, tuy đọc nhiều đoạn ta vẫn có cảm giác
như sống trong một thế giới thần tiên, ma quỷ. Truyện chỉ là một chuyện giấu
vàng của ngươi Tàu, xưa nay các cụ già thường kể cho ta sự gì xảy ra mà
không hợp lẽ, không một kết quả nào là không có nguyên nhân chắc chắn,
vững vàng” [3, tr. 416].
Ngay từ khi ra mắt, Vàng và máu nhận được rất nhiều ý kiến đánh giá
cao. Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Vàng và máu của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà
tác giả tỏ ra một văn gia có biệt tài. Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ đã
đạt đến một trình độ khá cao” [29]. Lê Huy Oanh cho rằng: “Vàng và máu là
một trong những loại truyện rùng rợn, có giá trị lớn trong kho tàng tiểu
thuyết Việt Nam (…). Vâng, chính nhờ tài kể chuyện mà tác giả Vàng và máu
đã là một tác phẩm lớn (…) có giá trị văn chương rất cao (…). Với thi phẩm
Mấy vần thơ, ông là một thi sĩ rất lớn, còn với Vàng và máu, ông đáng được
36
coi là một tiểu thuyết gia đại tài của xứ sở chúng ta” [27]. Sau này Phạm Thế
Ngũ cũng đề cao: “Tác giả rất giàu khiếu phân tích đồng thời lại giàu trí
tưởng tượng nữa. Trong Vàng và máu, những đoạn tả cảnh Văn Dú, hang
thần, những xác chết vừa có những nét tinh tế của một cây bút hiện thực, vừa
có những vật cải dạng của một con mắt thi nhân, thành tỉ mỉ mà không khó
khăn, rùng rợn và vẫn có thú vị” [24, tr. 482].
Cũng mang những màu sắc kì bí, huyền ảo mà nhân vật giáo sư Trần
Lâm - một người khó hiểu, kì bí và cô độc luôn ngồi bên cái sọ dừa và một
chồng sách dày, ngủ ngày ngủ đêm, có lần độc thoại rằng: “Có lẽ nào sự
huyền bí bao giờ cũng là huyền bí mãi? Ánh sáng khoa học lại không soi vào
được sự bí mật của vũ trụ lấy một vài phần ư? (…) Chân lý là gì? Có phải
chẳng qua chỉ là cái công việc đi tìm chân lý đó chăng… Nếu vậy, sự nghiệp
của loài người toàn là những điều hư ảo cả sao? Không! Đến nỗi thế ư?
Không ! Ta phải quyết đi tới cùng, ta phải thắng nổi những tà thuyết của phái
ngụy biện”.
Đối với truyện huyễn tưởng kì lạ của Thế Lữ, chúng ta thấy hầu hết là
chưa đặc sắc lắm. Con châu chấu tre mới đọc thì thấy rắc rối, bí hiểm nhưng
thực ra lại rất sơ lược vì chỉ nói đến một người bị chém do sự vô ý khi dùng
cái liềm; cái con châu chấu được tác giả đưa vào chỉ làm rắm rối thêm câu
chuyện. Một người lạ đơn giản nói về thói quen trong cách suy nghĩ của mọi
người là cứ thấy ai khác lại thì cho là người không tốt, cần nghi ngờ, dò xét.
Một người say rượu lại quá dài dòng trong việc con trâu đuổi người say rượu
để trả thù. Ông phán nghiện là chuyện kể về con rắn cạp nong được ông phán
chán đời nuôi và thuần hóa nhờ khói thuốc phiện; nó là sinh thể duy nhất đáng
tin cậy còn lại. Chuyện tình phụ có trong đó, nhưng xét lại vẫn không đủ để
giải thích nỗi cô độc của con người phải sống vô nghĩa trong một xã hội
không có tình thương.
Trại Bồ Tùng Linh mang một nét khác biệt làm cho nó nổi hẳn trong thể
loại này, vượt xa những truyện nêu trên. Đây là truyện có ảnh hưởng rất lớn
37
và được viết theo bút pháp của Liêu trai chí dị. Chàng văn nhân tên Tuấn tìm
một chỗ để sáng tác đã gặp giai nhân với cái tên Hoàng Lan Hương. Từ đó,
một câu chuyện tình mang đầy màu sắc lãng mạn và huyền hoặc. Cô gái là
người thoắt ẩn, thoắt hiện, không biết đến từ nơi đâu thật ra là linh hồn của
hương hoa, cây cỏ. Trại Bồ Tùng Linh chính là nơi gặp gỡ, hẹn hò và cũng
chính là nơi ở của chàng. Dần dần, tại nơi đầy thơ mộng đó, chàng trai mê cô
gái với những lần cô ở lại qua đêm, với tình yêu nồng nàn mà cô dành cho
chàng. Sau mỗi lần thức dậy, người đẹp không còn ở cạnh mà chỉ để lại đó
một bông hoa hoàng lan. Có một dạo vắng bóng nàng, chàng như người mất
hồn, mê sảng, chẳng thiết tha gì nữa. Rồi nàng trở lại chia tay Tuấn lần cuối
cùng bằng một đôi hài thêu (sáng xem ra thì thấy đó là một gói cánh hoa và cỏ
tóc tiên). Mất giai nhân, chàng trai sinh ra ngẩn ngơ như người mất trí vì
luyến tiếc nhớ thương. May thay, một người bạn đã giải thích cho chàng từ
góc nhìn khoa học để chàng hiểu; dù vậy bóng hình cô gái kì lạ vẫn mãi mãi ở
trong đầu Tuấn.
Có thể nói: trong số những truyện huyền ảo của Thế Lữ thì Trại Bồ Tùng
Linh có chất lãng mạn và trữ tình đậm đà nhất. Vẻ đẹp của giai nhân và những
cuộc hoan lạc đầy nhục cảm được tác giả phủ lên một lớp hương hoa, ánh
đêm mờ ảo và tâm tưởng hư thực chập chờn của chàng trai si tình; điều đó
làm cho yếu tố kì lạ tăng lên thế bớt chỗ của yếu tố kinh dị. So với Liêu trai
chí dị, Trại Bồ Tùng Linh đã miêu tả chuyện tình yêu trai gái một cách tỉ mỉ,
đằm thắm và giàu cảm xúc hơn.
Đọc Trại Bồ Tùng Linh, người đọc nhận ra sự tổng hợp của Bồ Tùng
Linh và E.A.Poe của Thế Lữ; bởi lẽ câu chuyện này vừa muốn mang dáng vẻ
của truyện truyền kì cổ xưa lại vừa muốn giải thích sự bí hiểm bằng con mắt
khoa học, nghĩa là kết hợp óc khoa học với tâm hồn thi nhân. Tuy nhiên sự
kết hợp đó lại làm cho câu chuyện kết thúc hơi khiên cưỡng với giả thiết có
một ngôi chùa và cô gái bị bệnh thần kinh trong đó. Và cuối cùng vẫn là cái
màn bí mật bao phủ. Tuy nhiên, như Vũ Thanh nhận xét, đó vẫn “ là câu
38
chuyện được viết bằng một bút pháp tiểu thuyết hiện đại và cũng giống như
đại đa số các tác phẩm truyền kì đời mới khác, ảnh hưởng của văn học
phương Tây thể hiện một cách khá đậm nét trong truyện của Thế Lữ và tạo
nên cho chúng những sắc điệu mới khác biệt hẳn với truyền thống” [30,
tr.635].
Cùng thể loại này, Đêm trăng là truyện có giá trị. Trong một chuyến đi
rừng, nhân vật “tôi” cùng các bạn nghỉ đêm tại căn nhà lều. Khi các bạn vào
bản chơi, anh ở lại một mình, ngắm trăng, nghe tiếng thác và ngủ thiếp đi.
Bỗng một cô gái Thổ xinh đẹp xuất hiện, đánh thức anh dậy và rủ đi chơi.
Anh đi theo cô gái lạ như đi trong mộng, ngạc nhiên, sững sờ không biết mình
đang làm gì và cái gì sẽ đến. Cô gái đưa anh qua rừng đến một thác nước, nhờ
anh kéo một người đàn ông lâm nạn mắc vào một cành cây mắc qua sườn núi.
Khi anh kéo được xác lên, cô gái Thổ mới cho biết đó là người chồng chưa
cưới bị chính cô ta giết để báo thù nhưng khi xô xuống thác lại không tới nên
phải nhờ người giúp. Tác giả kết thúc câu chuyện: “Nói xong nó đứng dậy
dạng hai cái chân ra,… cái mép váy đằng trước căng thẳng bởi hai ống chân
hơi thô và trắng, một tay nó xốc ông Ba ( kẻ thù) một tay nâng ở ngang lưng.
Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái dướn mình văng cái thây
xuống. Rồi không biết quá đà hay cố ý, cả người con gái cũng văng theo…
Mặt trăng kín đáo ẩn mình sau núi, hai cái thân người trên cao rơi xuống,
một tiếng gớm ghê trong những tiếng thác đổ ầm không ngớt”.
Đây là truyện mang đậm màu sắc liêu trai. Có chăng điểm khác biệt
chính là Thế Lữ đã nói đến người thật, việc thật, có thể xảy ra ở trong đời
thường. Yếu tố kì lạ toát lên là do không khí của truyện, không gian núi rừng
và thời gian ban đêm có ánh trăng mờ ảo. Tác giả đã miêu tả một cách tinh tế
bằng tài năng gây dựng hình ảnh, gợi âm thanh, tạo cảm giác. Nếu sự việc kia
xảy ra ban ngày, giữa không gian quang đãng có nhiều người qua lại thì cô
gái và việc giết người, quẳng xác sẽ bớt đi nhiều phần hoang đường.
Một truyện kinh dị mà thật, cảm tưởng kinh dị chỉ có lúc đầu rồi dần tan
39
nhường chỗ cho sự thật. Sự thật ở đây phảng phất một điểm huyền bí, ấy là
cái tâm hồn người con gái Thổ hiện ra bí ẩn lạnh lùng khi đã cho tác giả biết
rõ câu chuyện: “Trông con mắt long lanh của người con gái cùng với nét mặt
đanh thép kia, tôi tưởng như thấy cái khí chất núi rừng, cái tâm hồn Thổ Mán
hiện ra”. Tính cách huyền bí ấy chính là nét quyến rũ, một nghệ thuật của tác
giả. Tuy ý nghĩa là sự thật hiển nhiên dưới ánh sáng lý luận, song tác giả vẫn
muốn giữ một ít sương mù bao phủ lên câu văn hàng chữ, một không khí
huyền ảo qua bút pháp, để gây một thi vị huyền ảo. Nếu Vàng và máu vừa có
những nét tinh tế của một cây bút hiện thực, vừa có những vật ảnh cải dạng do
con mắt của thi nhân, thành ra tỉ mỉ mà không khô khan, rùng rợn mà vẫn thi
vị; thì Đêm trăng lại chuyển sang lối mô tả hướng nội, phân tích cảm giác một
cách hết sức tế nhị. Chính nhờ khả năng phân tích và giàu trí tưởng tượng của
tác giả đã làm nên thành công cho câu chuyện.
Trong giai đoạn 1932-1945, chúng ta không thể quên Lan Khai và Tchya
(Đái Đức Tuấn) - hai cây bút có cách viết truyện huyễn tưởng với những đóng
góp đáng kể và cùng chịu ảnh hưởng của Liêu trai chí dị. Nếu truyện của Thế
Lữ có thiên nhiên mà ít màu sắc về con người, phong tục tập quán, ít chất
thực tế trực tiếp của đời sống người thiểu số thì Lan Khai lại nói về chính núi
rừng, cuộc sống thật cùng người dân miền núi, về những con người ngây thơ
chất phác tiêu biểu cho số phận nghèo túng, cơ cực. Lan Khai nhìn nghiêng về
hiện thực. Vấn đề con người miền núi trong sáng tác của Lan Khai là vấn đề
đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, là mối quan hệ giữa con người với môi
trường sống, là sự gắn kết cộng đồng các dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam.là mối qu
Cũng như Thế Lữ, Lan Khai có những truyện ngắn đường rừng hấp dẫn,
trong đó loại truyền kỳ mang nhiều yếu tố hoang đường kỳ ảo và kinh dị. Các
sáng tác này được hình thành từ ba nguồn chính: Thời thơ ấu Lan Khai tiếp
thu từ kho tàng truyện cổ dân gian của người mẹ; kho tàng truyện cổ văn
chương trung đại của người cha; cùng những năm tháng sống hòa đồng với
40
đồng bào các dân tộc thiểu và các cuộc hành trình trong thế giới sơn lâm của
nhà văn. Những câu chuyện huyền hoặc dị kỳ ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu
giải trí. Chẳng hạn chân dung người phụ nữ trong truyện Người lạ được mô
tả: “Mắt như thỏ trắng, miệng cười như đốt lòng người... Răng người đâu mà
nhọn hoắt như răng mèo”. Truyện Con thuồng luồng nhà họ Ma kể về loài
vật được con người cứu giúp biết đền ơn trả nghĩa sống gắn bó với con người
trong tình mẫu tử. Truyện Con bò dưới Thủy tề kể về cơn thịnh nộ của Long
Vương dâng nước phá tan gò Yên Ngựa trả thù dân bản, khi biết những trai
bản giết con vật báu. Đôi vịt con là câu chuyện kể về người đàn ông bạc tình
bỏ về xuôi, bị người vợ yểm bùa cho tiêu mòn sinh lực rồi dẫn đến một cái
chết lạ lùng: đôi vịt con từ bụng chui qua cuống họng ra ngoài rồi biến mất...
Đó là những câu chuyện dị kỳ huyền ảo, nằm ngoài quan niệm tả thực của
Lan Khai. Vũ Ngọc Phan đã nêu ra cách hiểu: “Đọc Truyện đường rừng của
Lan Khai, ta không nên nghị luận về hư thực, không nên đứng về mặt khoa
học để bài bác, ta nên đọc với óc thơ mộng, pha chút huyền ảo của cổ nhân
như khi đọc Liêu Trai của Bồ Tùng Linh vậy” [29]. Ngoài ra, truyện truyền kỳ
của Lan Khai còn mang ý nghĩa phê phán những hành vi phá hoại môi trường,
ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên của tình yêu thương và lòng chung thủy. Bằng
những hình tượng nghệ thuật, Lan Khai đã góp phần xóa đi bức tường ngăn
cách giữa miền ngược với miền xuôi, giữa cộng đồng các dân tộc khác nhau
trên lãnh thổ Việt Nam. Nhà văn đã mang đến những trang viết của mình
nhiều phẩm chất tinh túy của thi ca nhạc họa, những câu văn nhiều ánh sáng,
màu sắc, âm thanh, gợi ra những trường cảm giác mới lạ
Tchya Đái Đức Tuấn là một trong số ít tác giả Việt Nam chuyên viết
truyện kinh dị - truyền kỳ thời trước 1945. Tác phẩm của ông thường mang
không khí rờn rợn và liêu trai của những xứ đường rừng heo hút. Bằng lối
cấu tứ lớp lang, mang tính nghệ thuật cao và bí hiểm, ông luôn đưa người đọc
đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Các tác phẩm phổ biến quen thuộc
của ông như: Ai hát giữa rừng khuya, Linh hồn và xác thịt, Kho vàng Sầm
41
Sơn, Thần hổ...
Trong đó, điển hình và độc đáo nhất chính là truyện Thần hổ, được
bạn đọc nhiều thế hệ đánh giá là "Liêu Trai" của Việt Nam.
Thần hổ là tập truyện dài gồm 3 chương, song được cấu trúc như 3
truyện ngắn biệt lập: Biệt cố hương, Ma trành, Báo phục. Nội dung cốt truyện
gần gũi với những truyện truyền kỳ trong sách cũ và nhiều mẩu chuyện ly kỳ
được lưu truyền trong dân gian các huyện miền núi Thanh Hoá mang không ít
tình tiết thần bí hoang đường.
Mở đầu câu chuyện, ở chương Biệt cố hương (về sau đặt là Thần hổ), tác
giả đã khẳng định vị trí oai linh của thần hổ trong tâm khảm người dân địa
phương. Họ đặt bàn thờ, đem cúng tế các con vật sống để hổ tha về ăn dần; họ
thờ thần hổ như một vị thành hoàng, bởi theo họ: nếu không có lễ vật thì năm
đó sẽ thiên tai, mất mùa.
Thế nhưng, đến một ngày kia, do lỡ ra tay xúc phạm, tàn hại Thần hổ mà
mấy đời gia tộc nhà Đèo Lâm Khẳng - một gia tộc lớn nhất vùng rừng Thạch
Thành (Thanh Hóa) đều có người phải làm mồi cho hổ. Cách trả thù của hổ
ứng với cách của người đã làm với hổ. Nghĩa là người nào của nhà họ Đèo đã
bị hổ bắt thì cũng bị móc mất đôi mắt và bị cắn mất hai hòn ngọc hành để
phải tuyệt đường sinh dục, truyền giống.
Xung quanh những sự kiện kỳ bí của Thần hổ như : “tai nó thường hay
vểnh lên lắng nghe thiên hạ bàn tán về nó”, “lúc là hổ nguyên hình, lúc lại
biến thành người”, “hổ đã báo thù thì trốn đi cùng trời cuối đất vẫn không
thoát”... được tác giả lý giải, đó là vì xung quanh Thần hổ luôn có một đám
yêu ma, tức “ma trành” vây quanh để điểm chỉ và mách bảo.
Ở chương Ma trành, TchyA nêu rõ: đó là loại hóa thân của những cái
chết bất đắc kỳ tử mà xưa dân gian gọi là dớp, dớp nhà, phải tìm mọi cách để
tránh lặp lại với người sau. Peng Slao chính là con ma trành, về sau thoát
được cảnh tôi tớ, hầu hạ cho Thần hổ do đã tìm được người thay thế, người
rơi vào cái dớp của kẻ trước. Slao có tiền duyên với Đèo Lâm Khẳng, nàng đã
42
quyến rũ được họ Đèo vào ngôi nhà sàn của mình để được ân ái. Cuộc ân ái
cuồng si giữa một kẻ là người và một kẻ là ma. Thế là Peng Slao được giải
thoát. Cái tình của ma mà lại đắm say thắm thiết hơn cả tình người.
Ma trành là một chương mang tính huyễn hoặc, liêu trai nhất trong tác
phẩm Thần hổ, nhưng có lẽ nó cũng là phần mang tính tư tưởng sâu sắc nhất
của truyện. Bởi lẽ, nơi đây, bạn đọc gặp gỡ xã hội ma và xã hội người chỉ là
một. Ma, thần muốn diệt người nên người muốn diệt ma, diệt thần. Có lúc ma
lại giao tiếp với người, như là ma đã bất lực trước sức sống của con người,
nên chấp nhận chung sống, hòa hoãn. Cô nàng ma trành Peng Slao chính là
lực lượng hoà giải ấy.
Ở chương Báo phục, người đọc cảm giác như Đèo Lâm Khẳng nhờ sự
giúp đỡ bởi phép thế thân của ma trành Peng Slao mà thoát khỏi nanh vuốt
định mệnh Thần hổ. Y có nhiều vợ và nhiều con trai để nối dõi tông đường.
Thế nhưng, Lâm Khẳng vẫn chưa yên lòng. Y tìm đến bên nấm mộ Peng Slao
bày tỏ: “...nó cũng sẽ chết vì tay anh, ngõ hầu mối oan nghiệt đến đấy là đoạn
tuyệt, không dây vướng mãi đời sau. Mối tử thù của anh sẽ được báo phục.
Thần hổ cũng sẽ được hoá kiếp. Như thế, sẽ tránh khỏi oan oan tương báo; sẽ
tránh khỏi vòng nghiệp chướng lưu truyền”. Cuối cùng, sau khi lùng sục qua
bao vùng rừng núi, Đèo Lâm Khẳng cũng tìm gặp Thần hổ, lúc này đã tu
luyện sắp biến thành tinh. Song tiếc thay, Lâm Khẳng không hạ thủ được con
ác thú ấy, nên y hiểu rằng, chẳng còn bao lâu nữa, mệnh y đến ngày đoạn
tuyệt...
Nhìn chung, truyện của TchyA cắt nghĩa cái kì bí chủ yếu theo hướng
triết lý phương Đông và luân lý nho giáo mà ít khi dùng khoa học của phương
Tây. Điều này khác với Thế Lữ, người luôn muốn giải thích mọi việc theo suy
đoán khoa học. Vũ Ngọc Phan đã đưa ra một vài nhận xét, chẳng hạn: “văn,
thơ ông đượm rất nhiều phong vị cổ. Ở văn, gọt giũa quá, nhiều khi tai hại...”.
Sau này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cũng có những đánh giá tương
tự về văn của TchyA: “quá nặng màu sắc thần bí và định mệnh, văn chương
43
lại xen nghị luận, giảng thuyết nên tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm không
có gì đáng kể. May mà, cốt chuyện hấp dẫn, cách kết cấu các chương khéo,
phần đuôi của câu chuyện trước lại khởi đầu cho một câu chuyện ly kỳ khác ở
chương sau”....
Tác giả Hoài Anh lại có cách nhìn khác: “TchyA muốn cho người ta tin
rằng có những việc quái đản trong thế giới loài người bằng lời nghị luận, ông
muốn đánh vào lý trí người ta, nên ông không thành công. Trái lại, Bồ Tùng
Linh hay Hoffmann đều chỉ nhằm vào cảm giác, vào chỗ xúc động, vào những
tính di truyền của người cổ sơ ở người thời nay, để vẽ vời cảnh vật bằng
những nét mập mờ, nên đọc họ, người ta thấy đầy thơ mộng mà vẫn rùng
mình sởn óc”. Theo Hoài Anh: “Ở đây, Vũ Ngọc Phan nêu hai mẫu mực của
tiểu thuyết truyền kỳ là truyện của Bồ Tùng Linh và truyện của Hoffmann.
Nhưng thực ra quan niệm về truyền kỳ của phương Đông và phương Tây có
khác nhau”.
Cũng có nhiều ý kiến bạn đọc cho rằng: “Nếu như trước đây chỉ quen
đọc truyện kinh dị của nước ngoài thì tập truyện này đem lại chút gì đó vừa
mới mẻ vừa thân quen do toàn bộ nội dung mang đặc chất Việt Nam, không
phải là loại hồ ly biến hình như trong Liêu Trai chí dị, cũng không phải là ma
cà rồng hút máu người như trong truyện phương Tây”.
Cùng với Thế Lữ, Lan Khai và TchyA, Thanh Tịnh cũng là một cái tên
được độc giả biết đến khá nhiều trong thể loại này. Bạn đọc yêu thích nhất có
lẽ là Ngậm ngải tìm trầm. Câu chuyện kể về một đôi vợ chồng nhà nghèo
nhưng rất thảo với làng nước. Do cuộc sống khốn khó, người chồng tìm cách
vào núi tìm trầm. Công việc này rất khó khăn bởi trầm rất khó tìm, có khi phải
đi hàng tháng trời, gặp rất nhiều nguy hiểm nhưng chưa chắc đã tìm được
trầm. Theo lời đồn thì muốn đi tìm trầm thì phải ngậm ngải. “Ngải là một thứ
củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải
trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn
phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong
44
đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để
lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải
bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra."
Vốn huyền bí và khó tìm như vậy nên ngải rất quý vì “Ngải lúc ấy là một
cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không
ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không
thấy mình được”. Cái khó nhất chính là “hạn trong ba tháng mười ngày phải
trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm
nanh và hóa ra hổ thật”. Bác trai vào rừng tìm trầm đã gần ba tháng mà chưa
thấy ra. Bác gái cảm thấy lo lắng quá vì những lần trước bác chỉ đi trong một
vài tháng là nhiều. Đến hạn ba tháng mười ngày đã lâu mà không thấy chồng
về, bác gái thẫn thờ mong nhớ. Đêm trăng mờ cuối thu, nghe thấy tiếng hú ảo
não, bác gái quan sát. Linh tính báo cho biết cái bóng xa xa kia là chồng
mình, nhưng mới chạy được một quãng ngắn đã lạnh người vì thấy chồng
mình đã gần hóa hổ: “cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt
trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và sáng như lửa, cằm
đã mọc râu dài và thưa”. Lần đó, bác trai bị dân làng đuổi đến ba tháng sau
mới quay lại, lúc này bác trai đã thành hổ thật. Bác muốn gặp bà vuốt ve, âm
yếm các con của mình nhưng cứ chạm tay vào là tóc con đã rụng tua tủa làm
chúng khiếp sợ. Đến bác gái cũng khiếp sợ khi “thấy chồng lông đầy người
và màu lông đã hơi vàng hai tay trước thòng chấm đất và nanh trắng nhe
ngoài môi”. Qua mùa xuân sau, chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ.
Truyện có chi tiết ly kì là chuyện một người hóa dần thành hổ nhưng
được kể một cách chậm rãi khiến người đọc thấy xót xa và gây được ấn tượng
khó quên.
Ngoài ba tác giả trên còn có một số tác phẩm có thể xếp vào loại này:
Nhất Linh với truyện Lan rừng kể về mối tình kỳ lạ và bí ẩn giữa chàng trai
Kinh với cô gái Thổ bên thác Linh Hai, trong hương lan rừng quyến rũ cùng
tình cảm tha thiết của đôi trai gái khiến người đọc bâng khuâng, thao thức
45
trước dòng chảy cuộc đời như đang chìm dần vào thế giới bí ẩn của tâm linh;
Những truyện Trên đỉnh non Tản, Cô Dó, Người tỉnh rượu đốt cháy rừng
trúc của Nguyễn Tuân lại giàu nhạc tính, khi réo rắt, lúc trầm bổng, gợi cảm
giác phiêu lãng về một thế giới mơ hồ, kỳ lạ.
Từ năm 1943 trở về sau, truyện huyễn tưởng của Thế Lữ đã bị loại
truyện yêu ngôn của Nguyễn Tuân vượt qua rất xa. Nguyễn Tuân đã rất thành
công với thể loại yêu ngôn: là loại truyện ma quỷ viết theo lối liêu trai của Bồ
Tùng Linh. Vũ Thanh đã đánh giá rất cao: “Mỗi truyện của Nguyễn Tuân quả
là một công trình tuyệt mỹ của nghệ thuật ngôn từ với những hình tượng nghệ
thuật mới mẻ. Đó chính là sự kết hợp ở mức độ nhuần nhuyễn những tinh hoa
của nghệ thuật Đông - Tây. Nếu Thế Lữ là người mở đầu cho xu hướng kết
hợp chất truyền kỳ, chí dị của phương Đông với cái kinh dị của phương Tây
thì Nguyễn Tuân chính là người hoàn thiện sự kết hợp đó”[ 31, tr.643].
2.2. Truyện trinh thám.
Truyện trinh thám và truyện đậm yếu tố trinh thám hiện đại trên thế giới
xuất hiện gần như đồng thời vào đầu thế kỷ XIX. Người được coi là mở đầu
là E.A.Poe do ông có những tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất về loại hình, gây
ấn tượng rất sâu sắc với hình tượng viên thám tử tài danh Charles Dupin.
Sau này, tiểu thuyết trinh thám rất phát triển ở Anh, tiêu biểu là nữ nhà
văn Agatha Cristie (1890-1976) với hình tượng thám tử Hoecull Poirot. Ngoài
ra, còn có nhiều tên tuổi khác như nhà văn Pháp gốc Bỉ Geoges Simenon
(1903-1989). Ngược về trước nữa, chúng ta thấy rằng dạng sơ khai của truyện
trinh thám xuất hiện từ thế kỷ XIII ở Trung Quốc, thậm chí là từ thời Hy Lạp cổ
đại với vở bi kịch Oedip làm vua của Shophocle nói đến một ông vua giết cha,
thông dâm với mẹ rồi lại đứng ra chỉ đạo cuộc điều tra tội ác của chính mình.
Ở Việt Nam, truyện trinh thám ra đời muộn bởi vì nó không có nguồn
mạch bản địa hoặc khu vực mà chỉ mô phỏng từ truyện trinh thám phương
Tây. Trước và song hành với truyện trinh thám hiện đại đích thực Việt Nam là
truyện kiếm hiệp (theo dân gian là truyện “ba xu”). Đó là tập sách văn xuôi
46
nhỏ, mỏng, xuất bản định kỳ, mỗi tập được in nhiều tập. Giá 1, 2 hoặc 3 xu
của các tác giả Trường Xuân, Ngọc Cẩm, Ngọc Bảo, Ngọc Đông,… với các
tên Dao bay, Đoàn âm binh, Mũi tên dao bầu, Man hoang kiếm hiệp, Giang
hồ nữ hiệp nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của bạn đọc bình dân. Những truyện
đó lai căng cả Tây lẫn Tàu tả cảnh đấu kiếm, đâm dao, lãng mạn hóa lối sống
của giới giang hồ hiệp khách. Tiểu thuyết phiêu lưu võ hiệp, trinh thám cũng
xuất hiện ở Nam Bộ vào những năm 20 của thế kỷ XX.
Trong bước đầu của truyện trinh thám hiện đại Việt Nam, số tác giả đích
thực thành danh không nhiều. Nhà thơ Thế Lữ, tác giả của loại hình huyễn
tưởng với các tác phẩm kinh dị có yếu tố trinh thám là Vàng và máu (1934)
lại chính là một trong hai người mở đầu loại hình văn học phiêu lưu bằng một
số truyện trinh thám hấp dẫn, với nhân vật phóng viên trinh thám Lê Phong
hào hoa, phong nhã, thông minh, tài trí gây ấn tượng tốt đẹp cho bạn đọc.
Truyện phiêu lưu dạng trinh thám của Thế Lữ cũng không nhiều và hầu
hết là truyện vừa. Ông vừa viết vừa cho in báo. Tác phẩm được in đầu tiên là
Gói thuốc lá (1934) sau đó là Mai Hương và Lê Phong, Lê Phong phóng viên,
Những nét chữ; tác phẩm cuối cùng được công bố trước năm 1945 là Đòn hẹn
(1937). Đến năm 1948 truyện ngắn Tay đại bợm là một trong những tác phẩm
trinh thám muộn nhất được Thế Lữ viết và công bố muộn nhất.
Với thể loại truyện này người đọc có thể dễ dàng nhận ra: chủ nghĩa duy
lý trong truyện trinh thám phương Tây, tập trung cao ở E.A.Poe, đã ảnh
hưởng trực tiếp và sâu sắc đến truyện của Thế Lữ; ảnh hưởng một phần đến
những nhà văn khác. Hoài Anh đã khẳng định: “Thế Lữ cả thơ và truyện đều
có hơi hướng Poe, nặng về duy mỹ mà không đau khổ đến mức bệnh hoạn,
tuyệt vọng như Baudelaire”.
Chúng ta đều biết đến E.A.Poe là ông tổ truyện trinh thám kinh dị của
văn học Mỹ và thế giới. Đó cũng là tác giả có nhiều tác phẩm được dịch ra
tiếng Việt và để lại ấn tượng sâu sắc với lớp trí thức Tây học. Sự gặp gỡ và để
lại dấu ấn của E.A.Poe trong sáng tác của Thế Lữ là điều hợp lý và rất dễ
47
nhận ra ở thể loại truyện trinh thám.
E.A.Poe không viết nhiều truyện trinh thám nhưng đã “để lại cho chúng
ta năm hình mẫu của thể loại trinh thám.” ( Theo Jorges Luis Borges). Hình
mẫu thứ nhất là Vụ án đường Morgue, hình mẫu thứ hai Con quỷ đồi bại.
Hình mẫu thứ ba là Lá thư bị mất cắp, Hình mẫu thứ tư là Con cánh cam vàng
và hình mẫu thứ năm là Bí mật của Marie Roger.
Đặc điểm chính của truyện trinh thám E.A.Poe là tính chất duy lý của
câu chuyện. Tính chất duy lý ấy thể hiện trong cách thức khám phá tội ác
được suy đoán theo logic trừu tượng chứ không phải những chứng cứ dễ dãi
hiển nhiên, những lời tố giác, sự vụng về hay lộ liễu quá mức của hung thủ.
Và nhân vật thám tử - nhà quý tộc tài ba A.Dupin của E.A.Poe đã trở thành
nhân vật được Conan Doyle yêu thích từ bé để làm nhân vật hồi sinh trong
đứa con bất tử của mình: Sherlock Holmes. Trong truyện, Thế Lữ cũng để cho
nhân vật phóng viên - thám tử Lê Phong công khai nhắc đến phương pháp điều
tra của E.A.Poe và Sherlock Holmes (Lê Phong phóng viên, Những nét chữ).
Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác
nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng
mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi E.A.Poe. Các
truyện Án mạng đường nhà xác, Bí mật của Marie Roger, Mi cũng là một con
người của E.A.Poe có những dấu vết trong các truyện Lê Phong phóng
viên, Mai Hương và Lê Phong, Gói thuốc lá của Thế Lữ qua cách tổ chức sắp
xếp các sự kiện. Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất
các truyện nêu trên của A.E.Poe.
Các truyện trinh thám của Thế Lữ cũng xây dựng cốt truyện theo mô-típ
truyện trinh thám - vụ án của A.E.Poe nhưng đã có sự pha trộn phong cách
của một số cây bút phương Tây khác, khá rõ nét như kiểu kết thúc của Agatha
Christe. Hoặc cách xây dựng cặp đôi nhà thám tử tài ba và bạn của nhà thám
tử rất quen thuộc của A.E.Poe.
Về cốt truyện, tuy xây dựng các chi tiết diễn biến vụ án gần như trùng
48
khít với truyện của A.E.Poe nhưng Thế Lữ đã bổ sung thêm những nguyên
nhân gây nên vụ án khá quen thuộc với người đọc Việt Nam thời bấy giờ. Đặc
biệt là nhân vật Aguste Dupin, hình mẫu nhà thám tử tài ba được tái hiện khá
gần gũi qua nhân vật Lê Phong, từ sự xuất hiện, cử chỉ hành động, đến cách
phá án tài tình. Bên cạnh Lê Phong cũng luôn có nhân vật “bạn của nhà thám
tử” làm trợ thủ như Văn Bình hoặc nữ thám tử xinh đẹp Mai Hương. Nhưng
tác giả đã bản địa hóa nhân vật nhà thám tử nghiệp dư này khi chú ý tính cách
hào hiệp của Lê Phong và những mối tình lãng mạn pha một chút kiểu anh
hùng mã thượng của truyện Tàu, vốn từng được yêu thích trong xã hội ta.
Gói thuốc lá là truyện tiêu biểu nhất cho sự tổng hợp cả năm hình mẫu
truyện trinh thám E.A.Poe: cái chết bất ngờ lúc nửa đêm của Đường trong căn
phòng đóng kín chỉ có một mình anh ta khi các bạn xem chớp bóng về tiếp tục
đi chơi, lời khai của các nhân chứng về giọng nói của một người Thổ trước
căn nhà của Đường trong đêm xảy ra án mạng khiến người đọc liên tưởng đến
án mạng bí mật trong đêm, chi tiết giọng nói lạ của một người ngoại quốc
trong Vụ án phố Morgue của E.A.Poe. Đối tượng bị tình nghi với nhiều bằng
chứng quá hiển nhiên: bức thư cầu cứu của Đường về mối lo sợ bị Nông An
Tăng báo thù, con dao của người Thổ đâm trên ngực Đường, cuối cùng là cái
chết của Thạc khi đuổi theo kẻ khả nghi bên cạnh tấm thiếp cũng có tên người
Thổ Nông An Tăng là kiểu E.A.Poe đã để cho “Charles già” dàn dựng
trong Mi cũng là một con người để đổ tội cho chàng trai P với một chuỗi
chứng cứ hiển nhiên khiến chàng trai bị kết tội “giết người với mức độ trầm
trọng nhất” và bị tuyên án tử hình. Nào ngờ kẻ giết người không ai khác hơn
là kẻ gần gũi nhất, thân tín nhất, thẳng thắn nhất, kẻ hăng hái cùng nhà chức
trách tham gia truy tìm hung thủ: người bạn độc ác “Charles già”. Chi tiết Lê
Phong tìm hiểu về những bức thư của Đường và các mối quan hệ của anh với
Nông An Tăng cũng là cách E.A.Poe đã làm trong Bí mật của Marie Roger:
thu thập toàn bộ thư từ của cô gái bị giết để lần ra manh mối thủ phạm chính
là một thủy thủ có nước da bánh mật, từng là người tình của cô. Còn chuyện
49
giải mã những chữ khó hiểu X.A.E.X.I.G trong tấm danh thiếp có tên một
người Thổ là Nông An Tăng mà người chết viết trước khi bị giết, hóa ra là dãy
số của một tấm vé độc đắc có lẽ đã mượn ý tưởng trong Con cánh cam vàng.
Hình mẫu truyện trinh thám Lá thư bị mất cắp của Poe cũng được Thế
Lữ sử dụng nhiều lần trong tác phẩm của mình như trong Mai Hương và Lê
Phong, Đòn hẹn, Tay đại bợm.
Thực ra, cách giải mật mã trong các câu chuyện của E.A.Poe phức tạp và
không áp dụng được trong tiếng Việt. Do đó, ở mỗi truyện Thế Lữ đều có
những đổi mới sáng tạo độc đáo dựa trên đặc điểm cấu tạo âm tiết của tiếng
Việt và cách chơi chữ quen thuộc của người Việt, đưa ra cách giải khác nhau để
độc giả không bị nhàm chán mà tò mò, hồi hộp theo dõi và đón đợi kết quả.
Truyện của E.A.Poe nghiêng hẳn về trí tuệ bởi ông chủ trương kích
thích khả năng phán đoán phân tích tư duy để truyện trinh thám thành một trò
chơi trí tuệ. Đối với Thế Lữ, truyện huyễn tưởng và truyện phiêu lưu cũng
dựa trên cơ sở cái nhìn duy lí về hiện thực. Các yếu tố trong truyện như cái
hư, cái ảo, cái phi lý, cái bí mật… một mặt gây nỗi sợ hãi, mặt khác làm nảy
sinh khát vọng truy xét, khám phá, tìm ra nguyên nhân có cơ sở khoa học
hoặc trong đời sống. Cảm hứng sáng tác của Thế Lữ cùng với tư tưởng nghệ
thuật, hình tượng nhân vật, tình tiết trong truyện đã chứng minh cho quan
niệm sáng tác đó.
Thế Lữ viết một cách cụ thể rành mạch, nhiều khi rất tỉ mỉ từ việc tả
cảnh, tả người đến nêu sự việc. Trong mấy dòng thư gửi cho Lê Phong cho
thấy sự kỳ bí, sự xét đoán tỉ mỉ và chính xác: “mấy hàng chữ này đánh máy
lúc mười giờ hai mươi sáng nay, thứ ba 13 tháng 12; đến bàn giấy nhà ông
một cách bí mật lúc mười một giờ mười lăm và đợi ông đến bây giờ vào
khoảng một giờ trưa - là lúc ông cầm lên đọc” (Đòn hẹn). Thế Lữ rất hay
dùng mô típ như chữ kí hiệu kiểu mật mã, chẳng hạn X.A.E.X.I.G được giải
thích là ám chỉ dãy số trúng thưởng độc đắc 015097 làm lệch hướng điều tra
50
kẻ giết người, mảnh giấy có hình vẽ và dòng chữ lạ tìm thấy trong hang Văn
Dú dấu của, bức thư được viết dưới dạng một bài thơ khiến người nhận kinh
hãi đến mức phải tự tử…
Nhân vật của Thế Lữ là những nhân vật tuân theo lãng mạn duy lí. Điển
hình là Mai Hương và Lê Phong. Lê Phong mang dáng dấp của thám tử danh
tiếng Sherlock Holmes trong tác phẩm của nhà văn Anh A.C.Doyle. Dường
như Thế Lữ đã đặt hết niềm tin, yêu mến và kỳ vọng vào Lê Phong khiến cho
nhân vật này trở thành một hình mẫu lý tưởng. Chàng phóng viên Lê Phong
mang những nét của một người trẻ hiện đại trong cả công việc và cuộc sống.
Trong anh có một thiên năng của người phóng viên trinh thám giúp anh làm
tốt công việc của mình nhờ óc phán đoán, khát vọng khám phá trước tiên và
một mình cái mới, khả năng tìm ra cái không bí mật không khó hiểu trong cái
bí mật, khó hiểu. Anh là người “nghĩ nhanh và làm nhanh” biết rõ “phép dò
hỏi, đường suy xét, lối lập thuyết”, dám đua tài và mấy lần thắng thanh tra
chuyên nghiệp và các thám tử tài danh hơn. Lê Phong từng nói với bạn mình
rằng: “anh thì chỉ nghe tiếng bàn nhau mới hiểu được họ làm những gì. Tôi
thì không thế, tôi trông được cả lời họ bàn nhau.” Thế Lữ đã mang đến cho
độc giả một nhân vật lãng mạn đang ở thời hiện đại nhưng lại có dáng vẻ rất
xưa như “một nhà hiệp khách của tiểu thuyết”: “Anh nhún đôi lông mày lại
trong cơn tức giận anh hùng. Tâm huyết Lê Phong còn nồng nàn những tình
cảm còn lưu truyền lại từ xưa: Sống lui lại ba bốn trăm năm, Phong có lẽ đã
thanh gươm yên ngựa, tung hoành trên đất nước với các khí phách ngang
tàng. Người con trai ấy như lạc lõng giữa thế kỷ này. Anh hành động theo
linh giác của người cổ sơ và những cử chỉ của anh, cái thái độ hùng hiệp của
anh, bởi vậy, có nhiều khi thái quá” (Đòn hẹn). Điều này được khẳng định bởi
đến ngay cả Kì Phương, thám tử danh tiếng và là đối thủ cạnh tranh của Lê
Phong, cũng phải thừa nhận tài năng của Lê Phong: “Tôi tưởng lúc này là lúc
đáng ghi nhớ nhất vì là lúc cho tôi biết chân giá trị một người sáng suốt lạ
thường. Sự bí mật đối với ông Lê Phong chỉ là một bài tính rất dễ. Khi người
51
ta đã coi là việc dễ, người ta lại đã sẵn một khiếu phán đoán sâu sắc như thế
thì người ta thường không hay mắc những cái lầm như chúng ta. Tuy vậy,
trong vụ này, cách làm việc nhanh chóng của ông Lê Phong thực quá sức
tưởng tượng. Ông đã cho ta thấy kết quả. Ta nên nhận lấy cái kết quả đó và
ngờ vực là người tỏ ra kém độ lượng, không biết phục thiện và phụ lòng
người có tài” (Gói thuốc lá).
Thế Lữ luôn đi tìm cái đẹp. Chính vì vậy nghề phóng viên trinh thám
cũng được ông xem là một nghệ thuật, là cái đẹp. Anh ta không quan tâm đến
cái gì khác ngoài làm đẹp và có nghệ thuật, càng khó về mặt nghệ thuật thì
nghề nghiệp đó có giá trị càng cao. Nhân vật Lê Phong từng tâm sự: “…Tôi
vẫn thấy đời giản dị quá, và sự bí mật có một ý nghĩa nghèo nàn đối với tôi
trong những lúc bình tĩnh này… tôi mong cho việc rắc rối gấp trăm lần mà
việc lại quá rõ ràng, quá đơn sơ để cho tôi không được vất vả…” (Gói thuốc
lá), hoặc trong Lê Phong phóng viên: “Tôi thích các anh chúc cho toàn gặp
những sự khó khăn, rắc rối, bị bắt cóc nữa càng hay”. Nỗi khao khát của Lê
Phong sắp được thỏa mãn khi “Phong hiểu rằng câu chuyện đã đến lúc quan
trọng, kẻ thù quỷ quyệt của anh đang dự bị khởi thế công. Anh rùng mình lên,
nửa vì vui mừng, nửa vì thấy mở ra trước mắt anh bao nhiêu sự kì bí ghê gớm
(Đòn hẹn). Người đọc không thấy ở Lê Phong nỗi xót xa, cảm thông trước
cảnh mất mát của người đời khi anh chứng kiến, tham gia nhiều vụ án mà chỉ
thấy niềm vui đắc thắng của một chàng trai khi khám phá được điều bí mật
giải thích được mọi thứ một cách nhanh chóng, khôn khéo và khoa học. Nhân
vật Mai Hương đã nói về Lê Phong: “Tôi biết rằng ông là một người làm báo
có tài, một nhà báo có tài trinh thám nữa, nhưng tôi lại biết rằng khi ông theo
đuổi một việc, ông chú trọng đến báo ông hơn là đến số mệnh của một người
bị nạn. Một việc ám sát đối với ông chỉ là một cái tin hay. Một việc ám sát ly
kỳ đối với ông chỉ là một tin hay đặc biệt. Có thế thôi. Ông dò xét, ông phán
đoán, ông khám phá được những việc bí mật nhất, thế là việc của ông có kết
quả rồi, báo của ông có tài liệu rồi; còn ngoài ra một tính mạng nữa có bị
52
nguy hiểm hay không ông không cần để ý đến lắm. Tôi không trách ai, nhưng
tôi tưởng người ta có thể vừa là phóng viên vừa là người trừ kẻ gian ác
được…” (Mai Hương và Lê Phong). Có thể nói, đây chính là cái phần lãng
mạn tỉnh táo của Thế Lữ được nhân vật Mai Hương nói hộ.
Nhờ có nhân vật Mai Hương, tác phẩm của Thế Lữ tăng sức lôi cuốn với
người đọc. Nhân vật này là con gái cưng trong một gia đình giàu có, là nữ
sinh trường Albert Sarraut, một tài tử diễn kịch. Dường như, Mai Hương sinh
ra là để tô điểm và làm tấm gương phản chiếu hình ảnh Lê Phong. Đây cũng
chính là một hình tượng trong hệ thống hình tượng mỹ nữ của Thế Lữ. Hai
nhân vật tài năng hào hoa - mỹ nữ là một kiểu quan hệ tình yêu tiểu tư sản
mang đậm màu sắc lãng mạn chủ nghĩa thời hiện đại. Thực ra, kiểu tình yêu
đó đã từng có và phần nào gặp gỡ với mô hình tình yêu tài tử - giai nhân trong
văn học truyền thống Việt Nam và Trung Hoa, điều mà Thế Lữ đã có dịp mô
tả trong Trại Bồ Tùng Linh và một số truyện khác.
Đôi khi, Thế Lữ đã tự mâu thuẫn trong thế phân thân nhị nguyên khi viết
truyện trinh thám, trong cái nhìn duy mĩ lãng mạn chủ nghĩa đối với hiện thực
nhiều khi cực đoan: ông vừa dùng lý vừa dùng tình, vừa soi xét một cách chi
ly lại vừa phủ màn sương huyền ảo lên sự vật sự việc. Đúng như lời nhận xét
của Phạm Thế Ngũ: “Những tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ thường có mấy
đặc điểm này có thể thành nhược điểm. Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm
truyện những điều lạ quá, làm nhân vật những người hiếm quá” [24, tr.489].
Cao ở đây tức là “cách viết săn sóc”, chải chuốt, cách lập luận khoa học tỉ mỉ,
không phổ biến trong độc giả trung bình, “lạ và hiếm” tức là “không thông
thường trong xã hội An Nam”. Thật vậy, truyện trinh thám của Thế Lữ chứa
không ít điều phi lý. Không gian và thời gian hầu hết đều hẹp và ngắn đến
mức vô lý và khiên cưỡng. Ban đầu, sự việc được bày ra một cách to tát và
khủng khiếp, vậy mà cuộc truy xét chỉ loanh quanh mấy phố ở Hà Nội. Không
gian trong truyện thì quá hẹp, không có sự giao lưu giữa vùng này và vùng
khác mặc dù quan hệ của nhân vật là rất rộng. Thành ra, nội dung thì rất đa
53
dạng nhưng lại bị gói gọn ở một không gian nghèo nàn và chật hẹp. Thời gian
cũng tương tự, nó eo hẹp tới mức khó tin. Điều này có thể dễ dàng nhận ra,
ngay từ những ngày đầu Lê Phong đến làm ở báo Thời thế, anh đã trổ tài nghề
nghiệp trinh thám bằng một việc làm ghi công khó tin đó là: trong mười phút
đã tìm ra được thủ phạm lấy cắp hai mươi đồng trong tập tiền ba trăm đồng
của một người đứng đầu nhiệm sở. Một lần khác, chỉ trong 24 giờ, anh đã tìm
ra thủ phạm trong khi tình cờ tham gia một vụ án ở vùng cao xa lạ nọ. Hơn
nữa: cuộc điều tra bề bộn mà sự việc lẽ ra phải mất rất nhiều thời gian, có thể
đến hàng tháng, ấy vậy mà tác giả cho nhân vật chính của mình giải quyết
trong hai ngày. Những điều này là hết sức vô lý. Ngay cả đối với nhân vật
Mai Hương, người đẹp này cũng làm việc không hề rõ ràng, cụ thể mà cứ lúc
ẩn lúc hiện. Anh chàng Đỗ Lăng trong truyện Những nét chữ chỉ vì muốn gần
gũi bạn gái để chiếm lấy tình cảm đã giả gái quá lâu mà anh ta lại không bị
phát hiện. Tương tự đối với Gói thuốc lá, Lê Phong chỉ giả vờ ngủ để lừa thủ
phạm đến giết mình, để có cơ hội bắt quả tang, chính là sự sắp đặt chủ quan
và quá liều lĩnh của tác giả. Lê Phong độn giấy rất dày trên ngực để chờ thủ
phạm đâm vào mà không bị thương; nhưng tác giả không hề nghĩ rằng nếu
thủ phạm đâm vào bụng hoặc giáng búa vào đầu thì nhân vật chính sẽ ra sao?
Ở một truyện khác lại xuất hiện một chi tiết gượng gạo khi bác sỹ Trần Thế
Đoàn đột ngột chết do bị bằng mũi tên tẩm thuốc độc khi các bạn đồng
nghiệp, đồng môn, giáo sư vẫn đang có mặt bên anh trong buổi lễ phát bằng
tốt nghiệp bác sỹ y khoa. Gượng gạo chính là vì: người bị nạn đã chết rồi mà
vẫn lặng thinh hướng mặt về phía trước.
Thực ra, với sự phát triển và chín muồi về nghệ thuật của truyện trinh
thám hiện đại trên thế giới thì truyện trinh thám của Thế Lữ và các tác giả
khác của chúng ta vẫn còn non yếu. Vũ Ngọc Phan đánh giá cao truyện kinh
dị của Thế Lữ, đồng thời cũng nhận xét rằng Thế Lữ chưa thành công ở
truyện trinh thám.
Nhắc đến thể loại trinh thám ở Việt Nam, độc giả không thể quên Phạm
54
Cao Củng. Mặc dù Thế Lữ là nhà văn mở đầu truyện trinh thám ở nước ta
nhưng Phạm Cao Củng được coi là “Vua truyện trinh thám Việt Nam”. Bên
cạnh những cuốn thuộc loại trinh thám suy luận, Phạm Cao Củng còn có một
số cuốn thuộc loại trinh thám mạo hiểm. Truyện của Thế Lữ có chi tiết mạo
hiểm nhưng không thuộc loại trinh thám mạo hiểm.
Nếu như Lê Phong là nhân vật hình mẫu được Thế Lữ xây dựng thì
Phạm Cao Củng lại đặt ngòi bút của mình vào hình mẫu nhân vật Kỳ Phát.
Trong số hơn 20 tiểu thuyết trinh thám của mình, Phạm Cao Củng chia làm
hai dòng rõ ràng: trinh thám suy luận và trinh thám mạo hiểm. Hai dòng này
mang đặc điểm khác nhau: series Kỳ Phát gồm có: Vết tay trên trần, Kỳ Phát
giết người, Đám cưới Kỳ Phát, Bóng người áo tím...; series Tám Huỳnh Kỳ
bao gồm: Máu đỏ lòng son, Chiếc gối đẫm máu, Bàn tay sáu ngón... Kỳ Phát
chính là nhân vật nổi tiếng trong chuỗi series có tiêu đề Trinh thám Kỳ Phát,
thường có những khung cảnh bí hiểm, những câu chuyện lắt léo rùng rợn, với
các nhân vật thám tử tài ba, trọng nghĩa khinh tài, song hành cùng có số phận
éo le... Nhân vật này mang đậm dáng dấp Sherlock Holmes. Cũng giống như
gã thám tử lừng danh người Anh Sherlock Holmes, chàng Kỳ Phát tôn thờ
phép suy luận. Trong cả cuộc đời, chàng Kỳ Phát lấy suy luận làm phương
cách phá án. Dùng trí óc để suy xét, đề cao lý trí và logic các sự kiện, tên tuổi
trinh thám của ông gắn với phép suy luận. Trong các cốt truyện trinh thám, ít
khi có xác chết ngay từ đầu, xác chết sẽ xuất hiện tình cờ để thách thức tài
năng thám tử. Các án mạng kép, những liên can ngày càng mở rộng và bí
hiểm, những câu chuyện dẫn dắt, những nghị luận về công việc trinh thám
đan xen trong tiến trình kể chuyện, đó là kết cấu phổ biến của tiểu thuyết trinh
thám phương Tây thời kỳ đầu mà tiêu biểu là Conan Doyle.
Còn series về nhân vật Tám Huỳnh Kỳ thì thường những cốt truyện
nhuốm màu rùng rợn, hành động của nhân vật mang tính cách mạo hiểm.
Nhân vật chính Tám Huỳnh Kỳ là thủ lĩnh một băng nhóm trộm cướp, đối
tượng điều tra của cảnh sát. Đây là mẫu nhân vật lưỡng diện, sẵn sàng làm
55
những việc tàn bạo nhưng trong tính cách vẫn chứa đựng nét thông minh, hào
hiệp, nghĩa khí của một trang nam tử, sẵn sàng giúp đỡ người yếu thế, trong
nhiều tình huống thật sự trở thành một thám tử, điều tra làm sáng tỏ các vụ
việc để rửa tiếng oan cho băng nhóm. Tám Huỳnh Kỳ mang dáng dấp của tên
trộm hào hoa Arsène Lupin trong văn học Pháp.
Trong tập Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà phê bình này nhắc
đến Phạm Cao Củng khá trân trọng: “Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu
thuyết trinh thám Phạm Cao Củng là những nhân vật và khung cảnh do ông
sáng tạo đều có tính chất Việt Nam, hợp với trình độ người Việt Nam ta hiện
thời, không như mấy nhà tiểu thuyết trinh thám khác đi nhặt những mẩu
chuyện ly kỳ của Tây phương rồi cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt, lai
Pháp... Nếu xét truyện trinh thám của Phạm Cao Củng trong phạm vi tương
đối, người ta thấy đến nay ở nước ta, trong loại này, tiểu thuyết của Phạm
Cao Củng vẫn là những tiểu thuyết khá hơn cả”[29].
Đồng quan điểm với Vũ Ngọc Phan là ý kiến của tác giả Phạm Tú Châu:
“tiểu thuyết trinh thám theo đúng nghĩa ban đầu của thể loại thì cho đến nay,
đáng buồn là chưa có nhà văn Việt Nam nào vượt qua được Phạm Cao
Củng”. Tác giả này cũng đưa ra nhận xét: “Cái đặc biệt mà người ta thấy ở
tiểu thuyết trinh thám suy luận của Phạm Cao Củng là tuy vay mượn một thể
loại văn học phương Tây nhưng ông đã Việt Nam hóa rất tài tình, cộng thêm
phần sáng tạo riêng có. Những nhân vật và khung cảnh trong truyện của ông
đều có tính chất Việt Nam, hợp với trình độ người Việt hiện thời, không nhặt
nhạnh những mẩu truyện ly kỳ của Tây phương và cố gò ép vào những khung
cảnh lai Việt lai Pháp”. Ý kiến của hai nhà phê bình cũng cho chúng ta hiểu
thêm lý do truyện trinh thám của Phạm Cao Củng được bạn đọc đón đọc một
cách thích thú.
Nhìn một cách khách quan, truyện trinh thám của chúng ta chưa thực sự
đạt được nhiều thành công so với các tác giả khác trên thế giới. Nhưng không
thể phủ nhận một điều: Thế Lữ đã mang đến cho độc giả nước nhà một âm
56
hưởng rất riêng, rất Việt Nam và thu hút những ai yêu thích thể loại truyện này.
2.3.Truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn.
Truyện lãng mạn là một phần khá quan trọng trong các sáng tác của Thế
Lữ. Mặc dù số lượng không nhiều nhưng ông đã để lại những trang viết hết
sức mượt mà về những cảm nhận, những câu chuyện tình của các nhân vật
thông qua tám truyện trong tập Gió trăng ngàn.
Bối cảnh chung của cả tập truyện là thiên nhiên vùng sơn cước hoang
dã và thơ mộng, mang đậm bút pháp lãng mạn, giàu chất trữ tình như những
bài thơ bằng văn xuôi. Truyện hầu hết kể về những mối tình đẹp không trọn
vẹn, để lại nhiều thương nhớ nuối tiếc giữa các chàng trai đô thị có nếp nghĩ
và lối sống hiện đại nhưng chán cảnh phồn hoa, ồn ào nơi thành phố với các
cô gái nông thôn vùng cao hồn nhiên, chất phác và có phần bí ẩn.
Chim đèo là câu chuyện của anh chàng Khôi Giang viết thư cho một
người bạn tên Văn Bằng ở Hà Nội để khoe hạnh phúc của mình từ ngày bỏ đô
thị lên thượng du, vui với cảnh và tình rừng núi. Kế đến là những câu chuyện
đánh dấu chung cho cả lý tưởng của lớp văn sỹ Phong hóa lúc bấy giờ -
chuyện tình thật sự trong cô Bụt (cô Bụt ở đây là những cô đồng trinh biết đàn
hát, biết cầu khẩn các thần linh), rồi để ý đến một trong các cô có nhan sắc
mộc mạc mà thanh tú lạ thường. Nhưng vấn đề là họa sỹ không biết tiếng
Thổ, lại nhút nhát nên không thể tỏ được tình yêu, đành chỉ đem hết cả tâm
hồn nghệ sỹ đa tình để cố ghi lấy cái nhan sắc tiên nga nhân từ kia lên mặt
giấy. Hoa bên suối, Cô Thơ là những chuyện tình mặn mà hơn mà bao giờ
cũng do cô Thổ chủ động đi trước. Các cô Thổ đến như những cô gái liêu trai,
đêm khuya đẩy cửa vào, để lại cho các chàng trai nhà nước lên làm việc ở đó
(thầy giáo, ký ga) hương vị kỳ thú của những bông hoa rừng. Đặc sắc hơn là
Trăng ngàn với nhân vật chính là thầy ký người Kinh. Anh ta giỏi tiếng Thổ,
giỏi hát; khi đi hát lượn đã ghẹo được bông hoa rừng kiều diễm là cô Thay.
Ngôn ngữ tế nhị, hoa mỹ của chàng trai văn minh đã bắt đầu làm Thay rung
động, say sưa. Nhưng khi biết chàng không phải là trai Thổ, cho là chàng làm
57
như vậy để gạt tình, Thay trở nên lạnh lùng như đá: “Em xin anh tha lỗi,
duyên ta không hợp…”. Cô quay lưng bước đi dứt khoát mặc cho anh van nài
tha thiết. Vậy là, tình cảm dường như có vẻ sẽ mặn mà lại được thay bằng sự
lạnh lùng, chia xa mà lý do chính là họ không có sự hòa hợp về tâm hồn giữa
hai giống người, có chăng chỉ là sự hấp dẫn bên ngoài. Nhân vật chính đau
xót nhận ra một điều: “Tuấn biết anh van nài nữa cũng vô ích, sự khác nhau
giữa hai giống đã quá rõ rệt, chính vì anh ðã mặc lấy bề ngoài người thượng
du. Hai trình độ, hai tính tình, anh với họ chỉ có thể gần gũi nhau trong chốc
lát trong những cuộc tình duyên chóng tàn. Có thế thôi. Thề thốt hứa hẹn
bằng những lời tha thiết của tâm tình chỉ gây nên sự thất vọng chua cay, làm
mủi lòng người ta.”
Trong truyện Gió ngàn của Thế Lữ, nhân vật cậu bé Nọng Mai, 12 tuổi
nhưng quyến luyến yêu mến Ché Sao - cô gái người Thổ 16 tuổi, thường quan
tâm chăm sóc cậu như chị em - với một tình cảm khó tả. Sau đó, cậu bé đỗ
bằng cơ thủy, về Hà Nội học. Ché Sao đi lấy chồng. Cậu bé trở thành người
thành thị, vui với cảnh thành thị nhưng không sao quên được “người sơn nữ
thật thà đã yêu mến mình một cách thật thà và vô tình gieo vào lòng mình
những nỗi thổn thức mới mẻ thắm tươi của sự thương yêu lần thứ nhất”. Vậy
là, dù cô gái chăm sóc cậu như một người chị ruột nhưng trong lòng cậu, đó là
mối tình đầu tiên vô cùng thơ ngây, lặng lẽ nhưng không kém phần lưu luyến.
Giấc mơ và A Thong là những giấc mộng mà trong đó tác giả đã xây dựng
hình ảnh cô gái sơn cước thành một nàng tiên, một con chim xanh, một nàng
Thơ, một bạn ly tao xán lạn. Điều đó đã mang đến cho người chán đời phồn
hoa vật lộn hình ảnh của một nghệ thuật nguyên trinh, nguồn vui bất tận của
nghệ sỹ.
Sở dĩ truyện lãng mạn núi rừng là một phần không thể thiếu trong các
sáng tác của Thế Lữ bởi ở những câu chuyện đó mang bóng dáng rất lớn của
tác giả. Nó là một trong những yếu tố làm nên con người ông. Dù được sinh
ra ở Hà Nội nhưng cả một thời thơ ấu, Lạng Sơn đã gắn bó như máu thịt, để
58
lại trong ông những ký ức không thể nào quên. Kỉ niệm êm đềm với cảnh, với
con người nơi đây không thể phai mờ trong tâm trí ông. Sau này, khi trở về
Hà Nội làm việc và viết văn, dấn thân vào cuộc mưu sinh đầy vất vả, nếm đầy
đủ vị chua cay ở đời bên cạnh những vinh quang, Thế Lữ càng nhớ những
ngày tháng xưa kia, nhớ hương vị của gió núi trăng ngàn, thỉnh thoảng hướng
về đó để tìm lại chút thanh thản, thư thái, lãng mạn trong tâm hồn. Tuy vậy,
ông vẫn là người không bao giờ để tình cảm che hết lý trí để đi đến môt thái
độ lãng quên hết sức dễ dàng. Nơi con người ông bao giờ cũng có khuynh
hướng tìm tòi, tìm ra những cái hợp lý theo hướng lý trí ngay cả trong những
phút rung động mãnh liệt của tâm hồn. Điều này người đọc có thể dễ dàng
nhận ra trong nhân vật Tuấn hình ảnh của Thế Lữ : “Anh thấy mình vẫn sáng
suốt để nhận thấy sự rung động của tâm hồn. Anh phân tích hoài, ngẫm nghĩ
hoài. Người trong cuộc luôn đứng ra ngoài để nhìn trở vào: Nhà tài tử đang
lúc phô diễn tự thả cho tâm trí lùi xa và tự ngắm dáng điệu mình trong sân
khấu. Tuấn thuộc vào hàng nghệ sỹ giàu tình tứ và cảm giác, muốn tận hưởng
các trạng huống của tâm trí cũng như muốn thưởng thức hết các vẻ đẹp của
phong cảnh trần gian”. Khuynh hướng của Thế Lữ là phân thân và tự quan
sát, ông là một con người vừa tài tử về cảm giác nhưng lại lãng mạn một cách
thức tỉnh, không chịu để một cảm giác nào lọt vào ý thức mà không có sự
phân tích trước đó. Vậy nên, chúng ta dễ hiểu vì sao ông là có thể là nhà diễn
kịch có tài và lại là một nhà tiểu thuyết trinh thám.
Cũng xuất phát từ những năm tháng ở xứ Lạng ấy, sau khi đọc tập Gió
trăng ngàn, độc giả có thêm những hiểu biết về miền đất thượng du, những
cảnh thiên nhiên đẹp và thi vị. Bên cạnh đó, tác giả cũng mang đến thông tin
về những phong tục thổ dân, tục hát lượn ở các chợ lớn, trò chơi đánh còn,
thói quen tắm sông của các cô gái sơn cước và đặc biệt là tâm lý các cô gái
Thổ về địa hạt tình yêu. “Em chỉ muốn hễ lúc nào em gần anh thì anh quên
em ngay. Chúng ta đừng thề thốt gì với nhau. Thỉnh thoảng em lại đến với
anh để được nghe anh nói những câu em rất thích nghe. … duyên ta em chỉ
59
muốn có thế thôi. Nhưng anh lại muốn lấy em làm vợ! Anh yêu em quá, chỉ
làm cho em thêm tủi, vì bây giờ… vì đã lâu… ( Thơ nghẹn ngào nói càng nhỏ)
vì đã lâu em đã … có chồng rồi”. Chính vì quan niệm rất khác đó, thầy giáo
Tâm cũng đừng ngạc nhiên và cảm thấy có lỗi “Bởi vì ở đây, luân lý giản dị
của người ta không coi đó là một sự ngang trái. Yêu nhau thì đến với nhau.
Và đó là lẽ tự nhiên. Tác giả cũng đã giải thích rõ quan niệm tình yêu của các
cô gái trong Cô Thơ:
“Người con gái Thổ thường khao khát những lời ngọt ngào, đẹp đẽ,
những cãi vuốt ve êm dịu, những tình tứ im lặng và những tiếng thở dài thấm
thía nồng nàn… bao nhiêu điều đó một người con gái Thổ không thấy trong
đời sống mộc mạc với chồng và phải đi tìm trong những lúc gặp gỡ tình cờ
các hội hè hoặc những cuộc tình thầm kín. Tính lãng mạn hồn nhiên là bản
tính của người đàn bà Thổ khi còn xuân sắc”.
Gió trăng ngàn thành công còn phải kể đến tài họa cảnh của Thế Lữ.
Ông đã bao phủ cả tập truyện bằng những nét mơ mộng êm đềm mà vẫn tinh
tế. Chúng ta cùng đọc một đoạn trong Trăng ngàn: “Trăng lọt dần xuống
thấp, ngự giữa hai tảng tuyết bông lớn và trắng xóa đang thong thả dồn lại,
thu hẹp một khoảng trời xanh thẳm và trong veo. Trên đỉnh đồi, chỗ khuôn
trăng thênh thang lúc trước, mây kéo đến từng đoàn từng đội, tìm nhau nối lại
từng vừng, từng cuộn và họp thành những núi bạc vĩ đại và bồng bềnh. Từng
không bỗng chốc hỗn độn những mây. Cả một cuộc phiến loạn lặng lẽ xảy ra
dưới vòm cao. Rồi cơn biến động ngừng im, trở nên bình tĩnh ôn hòa, những
đám mây tụ họp tản mạn dần rồi sau cùng, tất cả kéo về một phía rừng và tụ
họp ở đó. Bầu trời lại quang rộng, mặt trăng như qua hồi giông tố, lại hiện ra
một màu xanh ngắt cao khiết và rạng rỡ những vinh quang. Một luồng gió
vừa mới qua, đem lại những hương ruộng đất, cây rừng. Lạnh lẽo phủ lên vai
người một tấm màn sương lụa”.
2.4. Truyện ngắn hiện thực gắn với số phận con người.
Truyện ngắn hiện thực của Thế Lữ không nhiều, một số truyện có yếu
60
tố hiện thực phê phán. Đáng chú ý hơn cả là Vì tình, Mau trí khôn, Một
chuyện tình, Câu chuyện trên tàu thủy, Một người hiếm có, Thoa…Riêng hai
truyện Vì tình và Câu chuyện trên tàu thủy mang đến cho người đọc sự lôi
cuốn một cách khéo léo vì nội dung nói đến những người bị lừa một cách
ngẫu nhiên. Một anh chàng xấu trai hớn hở khi quen được người đẹp trên tàu
đã không ngại ngần xách cái túi chứa hàng cấm để rồi bị oan (Vì tình). Hay
một tên trộm chuyên nghiệp bị mắc bẫy rất dễ dàng bởi vẻ nghèo đói của một
kẻ giàu có (Câu chuyện trên tàu thủy). Ngoài ra, cách kết thúc của hai câu
chuyện khiến độc giả cảm thấy rất sảng khoái bởi tác giả đã đưa vào trang
viết chất hài hước, hóm hỉnh của mình.
Thoa thì khác hẳn. Tác giả đã đặt cho câu chuyện này một cái tên nữa:
Một đời người. Cái tên này dường như đã bao hàm nội dung của nó. Nhân vật
chính là cô gái câm suốt đời lặng lẽ đã làm người đọc suy nghĩ về thân phận
kém may mắn, buồn tủi của cô. Một đời người âm thầm như chiếc bóng đã
thiệt thòi từ khi lọt lòng mẹ, chỉ còn nhận được sự yêu thương của người mẹ
và trút vào mẹ những yêu thương dồn nén của mình. Nhưng rồi người mẹ ấy
cũng ra đi, để lại cho cô bao thương tiếc vì mất đi chỗ dựa vô cùng quan
trọng. Gượng dậy từ nỗi đau đó, cô lớn lên nhờ người chị, suốt ngày từ ngàu
nọ sang ngày kia “Thoa ngồi ở một góc nhà, cúi đầu xuống kim chỉ, và cũng
như xưa ở cùng với cha mẹ, Thoa khiến được người ta không nhắc nhở đến sự
có mặt của mình. Tháng năm qua đi, cùng với hoạt động bên ngoài, người
thiếu nữ cặm cụi vẫn ngồi mãi một nơi âm u và điểm vào những ngày lặng lờ
của nàng một đôi tiếng thở dài rất nhẹ, rất dịu. Dưới khuôn mặt kia, đẹp một
vẻ thanh tao trần tịch, ai biết được có những nỗi niềm những ước vọng gì? ”.
Độc giả những tưởng Thoa sẽ mãi mãi như vậy cho đến lúc chết, ngờ đâu
hạnh phúc cũng tới. Cô chuẩn bị lấy chồng. Một lần nữa số phận không may
dường như không rời bỏ cô khi gần đến ngày cưới thì mấy cái tang dồn dập
đến. Vốn đã quen với sự thua thiệt, cô vẫn tiếp tục chịu đựng và chờ đợi. Trớ
trêu thay, tin tức về người yêu - một viên chức tầm thường và góa vợ cũng
61
thưa dần theo thời gian và cuối cùng là mất hẳn trong khi những cái tang kia
đã mãn hạn từ lâu. Thoa vẫn chờ cho đến khi không còn gì để chờ nữa bởi
người đàn ông kia đã lấy vợ, bỏ lại cô với nỗi cô đơn, sầu bi thì cũng là lúc
cái chết đến với cô. Khép lại một cuộc đời đau buồn của cô, người nhà phát
hiện ra những kỉ vật của tình yêu trong đáy tủ, những kỉ vật đó cũng im lặng
và kín đáo như chính cuộc đời của người con gái ấy. Phải chăng cái không
may mắn ấy đến chỉ vì cô bị câm. Xây dựng nhân vật là cô gái câm với cái
cách mà cuộc đời cô là do người khác sắp đặt, Thế Lữ đã cho người đọc thấy
một cuộc đời bị hoàn cảnh xã hội xô đẩy đến phí phạm, đau xót, thảm hại,
trong đó diễn ra bao nhiêu bi kịch cá nhân, gia đình, xã hội lúc ầm ĩ, lúc dai
dẳng và có khi tồi tàn, câm lặng.
Với câu chuyện này, nhiều người đã đánh giá rất cao và dành những lời
khen, cho rằng có thể sánh ngang với các chuyện hay nhất đương thời. Xuân
Diệu đã nhận xét: “Thế Lữ là tác giả thiên truyện ngắn Thoa ( Một đời người)
mà đọc lại, tôi nghĩ ngợi bâng khuâng. Những truyện ngắn của Thế Lữ
thường biệt lập ra một lối riêng, sáng tạo trong cái kì lạ, bí ẩn ít ai ngờ đến.
Thoa là chuyện một đời người của một cô gái, một phụ nữ trong cuộc đời này
như một cái bóng luôn luôn chịu thiệt, an thường thủ phận đến cái mức là làm
cho người đọc muốn vùng lên, phá cái ngục của số phận và xã hội. Một sáng
tác rất quý, đầy chủ nghĩa nhân đạo, một chủ đề ít ai khai thác và khó viết”.
Trong một bài tiểu luận nói về văn xuôi lãng mạn Việt Nam, nhà nghiên cứu
Nguyễn Hoành Khung viết: “Thế Lữ còn có những truyện ngắn nhẹ nhõm,
vui, có không khí đời sống bình dị. Riêng truyện ngắn Thoa có một dư vị xót
xa đặc biệt. Câu chuyện về số phận buồn thảm của một cô gái câm nhu mì,
trung hậu, rất mực khiêm nhường, an phận mà kỳ thực âm ỉ một khát vọng
hạnh phúc mãnh liệt ấy, được kể lại bằng một giọng văn chân thực và thấm
thía, đã gieo vào lòng người đọc những ám ảnh khôn nguôi”.
Có thể thấy: Thoa được các nhà nghiên cứu có uy tín đánh giá rất cao.
Ở mảng hiện thực này, Một người hiếm có cũng là một truyện khá.
62
Truyện kể về chàng trai Lương Văn Sáng thông minh, tài giỏi, sống lãng tử,
luôn luôn thay đổi nghề để giành lấy chỗ đứng trong xã hội: dạy tư, thợ ảnh,
vẽ kiểu nhà, thầu khoán, thư kí cho trạng sư, đại lý độc quyền xà phòng ,
kế toán, kịch sỹ, bầu hát… “Người con trai ấy ngược xuôi ở Hà Nội trong
cảnh ồn ào, náo động, lúc nào cũng nhanh nhẹn, tháo vát, lúc nào cũng tươi
cười. Anh ta coi nhẹ việc sống ở đời như người đánh tam cúc mua vui, thua
ván này ta bày ván khác…”. Nhân vật kể lại: “Bốn tháng đóng kịch với hai
tháng làm bầu hát cũng quá đủ cho tôi được cả giọng nói lẫn dáng người.
Lần này tôi cũng đóng kịch, Lê Văn ạ, nhưng đóng một tấn kịch rất quan
trọng… Tôi cần phải quảng cáo cho phòng xem tướng này… bởi tôi muốn
gặp rất nhiều người ở đây và nhất là một người để tâm tìm kiếm mãi”. Anh ta
quả thật đã thành công khi nhờ vào thuật tướng số mà anh ta làm đã động viên
được người này, an ủi được người khác. Tiếc thay, anh ta thất bại với chính
mình khi anh không chiếm được tình cảm của người đẹp Kiều Trang. Lương
Văn Sáng đã tự tử vì điều đó. Phải chăng anh ta quyết định dừng cuộc sống
lại vì không tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mà người ta muốn, hay vì khi đã yêu
cái đẹp bằng một tình yêu mãnh liệt, quyết chí đi tìm cái đẹp và chiếm lĩnh nó
mà không được thì lối thoát duy nhất là từ bỏ sự tồn tại của mình. Nếu vì lý
do thứ hai thì Lương Văn Sáng chính là nhân vật mà Thế Lữ muốn gửi gắm
quan niệm về cái đẹp của mình.
Một chuyện ngoại tình mang đến một khía cạnh khác của cuộc sống.
Anh chồng lấy một cô gái thôn quê, mang cô vợ của mình lên và đào tạo để
trở thành gái thành phố thực sự. Trớ trêu thay, khi mục đích của anh chồng trở
thành hiện thực thì cô vợ có bồ. Biết được điều đó, người chồng trả thù bằng
cách để vợ sống trong tình trạng bán tín bán nghi, giữa những vỗ về ôm ấp
cuồng nhiệt và những lời nồng nàn âu yếm cùng sự nơm nớp chờ đợi điều
trừng phạt sẽ không bao giờ đến hoặc cũng có thể đến bất cứ lúc nào: “Một
thế giới đã khuynh loạn trong tâm thần Lan. Hai mắt đầm đìa nước mắt cô
63
chờ đợi lưỡi dao kia cắm ngập trái tim mình. Trong sự kích động bi đát của
phút nghiêm trọng cuối cùng, cô chờ đợi hình phạt kia bằng cả tâm hồn thảm
thiết, đê mê, và ngà say trong một thứ tâm can khoái lạc, thần bí”.
Cũng là miêu tả tâm trạng con người, Thạch Lam chọn một cách rất
khác. Có những truyện không hề có hành động phát triển xung đột mà chỉ toát
lên một tâm trạng, một không khí. Độc giả hẳn không quên hai chị em Liên
trong Hai đứa trẻ. Nó chỉ là một câu chuyện kể cảnh hai chị em ngồi trông
một của hàng tạp hóa nghèo nàn trong một buổi tối như bao buổi tối khác.
Bóng tối - bầu trời và những ngọn đèn, đó là điểm tựa khơi dậy trong cô bé
Liên những chuỗi liên tưởng, những kỉ niệm. Ở đây người đọc không chỉ cảm
nhận được tâm hồn đầy lãng mạn với những ước mơ đẹp đẽ của hai đứa bé
nghèo mà còn là sự cảm nhận hồn quê hương, đất nước. Truyện của Thạch
Lam đưa đến biến thái về tâm hồn, một sự chuyển hướng tâm lý. Dường như
sự biến đổi tình cảm là phần then chốt của rất nhiều chuyện Thạch Lam: Gió
đầu mùa, Một cơn giận, Tình xưa, Sợi tóc… Mặc dù không có những vang
động mạnh nhưng các nhân vật lại gợi nên bao ám ảnh về số phận con người.
Bóng tối xuất hiện trong rất nhiều truyện của ông, đó là cái tối của ngày tàn,
của hoàng hôn. Nhìn chung, các nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính
cách, chỉ bộc lộ tâm trạng, những nét tâm lý. Mỗi câu chuyện như một bài thơ
trữ tình. Số phận nhân vật gợi cho người đọc bao suy nghĩ.
Là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu cũng là
cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Ở cả thơ và văn xuôi, trái tim khao khát sự
sống cuồng nhiệt đó rất sợ lối sống nhàn tẻ, tù đọng. Tỏa nhị kiều là câu
chuyện về cuộc đời nhạt nhẽo, vô vị của hai cô gái Hà thành. Tác giả đã tách
mình ra khỏi nhân vật, xem nhân vật là đối tượng quan sát, còn tâm tình, cảm
nghĩ của người viết là khúc xạ, là kết quả của những âm vang toát ra từ hai
cuộc đời lỡ nhịp, tẻ nhạt của các cô gái: “Ngồi trong một buổi chiều rất đỗi
ngẩn ngơ, một buổi chiều triền miên của cả sự vật và của linh hồn, một buổi
chiều trong nhà và cả trong tâm lý. Tôi như cảm nghe sự mờ nhạt của cuộc
64
đời khi trông thấy hai cô”. Rõ ràng là Xuân Diệu vô cùng căm ghét cái sự
sống mòn. Nó giết chết con người ngay lúc họ còn sống. Những cô gái đang ở
tuổi thanh xuân còn như vậy thì hình ảnh bà lão nghèo lại làm Xuân Diệu xót
xa hơn: “Bà già hay là sự hiện hình của sự đau khổ? … Bà lão về đâu? Một ổ
rơm nếp bên đường, hay một cái chòi lạc giữa bụi cây?” ( Thương vay). Một
cảnh đời tủi nhục khác: “Một cậu nhỏ mười sáu tuổi, một thằng bé mười hai
tuổi, hai đứa đâu phải người lớn để sửa một cảnh đời! Chỉ có nước mắt, và
những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại”. Trong truyện Xuân Diệu, cốt truyện
chỉ như cái cớ để khơi gợi và mở ra hướng để suy tưởng, liên hệ. Mỗi câu
chuyện như có một dòng cảm nghĩ trôi chảy như con suối nhỏ róc rách đem
đến sự tươi mát cho tác phẩm. Điều ông quan tâm nhất là sự bộc lộ và giãi
bày tâm trạng. Đôi khi nét hấp dẫn chính là những đoạn so sánh, những liên
tưởng bất ngờ: “Tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh
khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây”; hay “Tôi nhớ lại khi xế trưa, khi
nắng ngã vào bếp nhà tôi. Nắng vàng phai lặng, chán ngán làm sao! Lúc ấy
mọi người đều cảm thấy nỗi mơ hồ nỗi nhạt nhẽo của ngày này tiếp ngày nọ”
( Tỏa nhị kiều).
Đối với Xuân Diệu, bút pháp trữ tình đã được ông sử dụng một cách
quá xuất sắc, gợi nên ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng: nếu như Thạch Lam mang đến cho
truyện hiện thực những cảnh đời, tình thương và lòng trân trọng người nghèo
với lối viết tâm tình, lặng lẽ, điềm tĩnh; Xuân Diệu nói đến cái mong muốn
được thoát ra khỏi cuộc đời nhàm chán bằng những câu văn mang âm hưởng
riêng, thì Thế Lữ đưa tới dòng hiện thực những suy ngẫm về số phận con
người một cách lắng đọng, có chiều sâu và hết sức cảm động.
Nhìn chung, dù ở thể loại truyện nào đi chăng nữa, Thế Lữ đều mang
đến cho người đọc những nét mới mẻ trong truyện bằng các yếu tố lãng mạn,
chất thơ tươi mát, ngọt ngào cùng giọng văn trong sáng, kết cấu truyện chặt
chẽ và lôi cuốn. Tất cả các yếu tố đó làm cho văn xuôi Thế Lữ mang một
65
phong cách rất riêng và để lại ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả.
CHƢƠNG 3:
TRUYỆN NGẮN THẾ LỮ NHÌN
TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện nối tiếp nhau một cách nghệ
thuật, phản ánh diễn biến cuộc sống và các xung đột, qua đó các tính cách
hình thành và phát triển trong mối quan hệ qua lại của chúng nhằm sáng tỏ
chủ ðề và nội dung tác phẩm.
Nhìn chung, cốt truyện của Thế Lữ khá linh hoạt, luôn đổi thay, không
tuân theo trình tự thông thường là cái gì đến trước nói trước, cái gì đến sau
nói sau. Có khi ông để cho người đọc tiếp nhận với nhân vật thứ ba, nhân vật
dẫn dắt câu chuyện; có khi để nhân vật tôi tự làm nên cốt truyện hoặc nhớ lại
sự việc, tâm trạng để dựng nên cốt truyện; lại có lúc thuật lại câu chuyện của
nhân vật khác cũng xưng tôi. Cốt truyện của Thế Lữ ít khi đi theo mạch thẳng
mà thường bị chi phối bởi ý đồ lựa chọn tình huống, sắp xếp chi tiết hay diễn
biến tâm lý nhân vật.
Trong truyện huyễn tưởng và trinh thám, cốt truyện không đơn thuần
nhằm kể việc mà tuân theo ý đồ tạo ra nỗi ngạc nhiên, nỗi kinh hoàng hoặc
niềm mong đợi cái bí mật được khám phá. Bên cạnh đó, ông đặc biệt lưu ý
đến cái logic được xây dựng theo mạch phát triển của cốt truyện. Cái logic đó
có lúc ngắn gọn, khúc chiết nhưng cũng có lúc dài dòng, song tất cả đều là
sản phẩm của lý luận trong sáng tác. Nhờ có đặc điểm đó mà văn xuôi của
Thế Lữ khác hẳn với các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn thời đó nói đến phong tục, tình cảm nhưng có khi không mang
tính logic. Với riêng Thế Lữ, truyện của ông dù hay hay dở nhưng phải chứa
sự hợp lý. Hợp lý trong từng chi tiết, tính logic trở thành một tiêu chí trong
toàn bộ sáng tác của ông. Tính logic quy định một kết cấu truyện chặt chẽ,
66
mạch truyện lôi cuốn, câu văn, lời văn minh bạch, khúc chiết.
Vàng và máu là câu chuyện mang màu sắc khoa học rõ nét. Vốn là câu
chuyện về Tàu để của ở hang Văn Dú, một nơi nổi tiếng là hang thần. Thần
núi này gây ra nhiều sự việc làm cho nhân dân xung quanh đều xa lánh. Một
hôm có hai người Thổ đi vào hang. Sau đó chỉ có một người quay ra và mang
tờ giấy về trình quan châu Nga Lộc. Nhờ mảnh giấy với những dòng chữ kì dị
đó, ông quan cùng gia nhân đã tìm ra kho báu, khám phá bí mật trong hang và
chứng tỏ rằng đó không phải do thần thánh bùa phép gì cả mà những cái chết
là do những tảng đá cuội có chứa thuốc độc.
Cái đặc sắc của truyện này chính là tính khoa học của nó. Bắt đầu câu
chuyện, người đọc đã thấy kì lạ, quái đản nhưng không thần bí hoang đường
mà đề cao tính khoa học, vào trí óc con người. Ông quan châu ở đây không
tìm thầy mo cúng bái, không tin phép yểm bùa mà sử dụng trí óc để dựng lại,
giải thích câu chuyện theo một hướng hết sức hợp lý để tìm ra nguyên nhân
cái chết của những người đi trước đó. Sự kết hợp của khoa học cộng với cách
kể giàu sức lôi cuốn đã làm cho truyện trở nên thật sự có giá trị.
Đêm trăng cũng mang lại cho người đọc sự thích thú, ly kỳ. Ở đó, bao
nhiêu rùng rợn được tác giả dàn dựng công phu, hấp dẫn kéo người đọc vào
những khung cảnh rợn người. Một cô gái Thổ, vào đêm trăng sáng, đến rủ
chàng trai người Kinh đi chơi cùng. Truyện tưởng chỉ đến thế là đơn giản.
Người trong cuộc cũng dễ ngộ nhận tính chất thơ mộng của cảnh vật và cảnh
gặp gỡ không hẹn mà nên này. Thế nhưng bên trong cảnh vật thơ mộng ấy là
nhiều điều phức tạp. Tác giả đã đưa đến người đọc bao nhiêu suy nghĩ và lúc
này cốt truyện mới được thể hiện rõ ràng khi cô gái Thổ nhờ chàng trai kéo
cái xác chết vắt ngang thân dưới cây cầu và nói cho chàng biết đó là ai. Kết
thúc truyện là cô gái cùng cái xác chết kia văng xuống nước.
Một câu chuyện kết thúc lạnh lùng và kinh dị, nhưng dường như cảm
tưởng kinh dị chỉ có lúc đầu, sau đó dần tan đi để nhường chỗ cho sự thật. Sự
hợp lý vẫn là yếu tố mà Thế Lữ hướng đến dù có khi nó được phủ lên một
67
màn sương huyền ảo để tạo sự thú vị.
Những câu chuyện khác thuộc thể loại trinh thám của Thế Lữ đã khiến
độc giả biết rõ hơn về tài xây dựng cốt truyện của ông. Vẫn dựa trên màu sắc
khoa học, ông không làm cho câu chuyện trở nên huyền bí mà sử dụng các
yếu tố khoa học trên cơ sở sự thật để tạo nên những cốt truyện ly kỳ, hấp dẫn.
Gói thuốc lá là một câu chuyện trinh thám khá nổi tiếng của Thế Lữ. Một
vụ án ly kỳ, bí hiểm với nhiều tình tiết gây bất ngờ và thu hút người đọc. Việc
xây dựng nhân vật phóng viên Lê Phong tài ba cộng với cốt truyện hấp dẫn đã
làm cho câu chuyện nổi bật hơn bao giờ hết.
Cả câu chuyện xoay quanh cái chết của nhân vật Đường. Nguyên nhân
cái chết mà mọi người nhìn thấy chính là con dao cắm ngập tới chuôi ở sau
lưng và tấm danh thiếp úp trước mặt với dòng chữ kỳ dị. Người đọc bắt đầu bị
cuốn hút và thắc mắc: ai đã giết Đường và giết để làm gì. Tác giả đã khéo léo
dẫn câu chuyện từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Một việc đáng lưu ý là trước
khi chết, Đường có gửi cho Lê Phong một bức thư với nội dung nhờ Lê
Phong giúp anh ta trả thù Nông An Tăng do mối thù ngày trước. Cùng lúc đó,
Nông An Tăng đến gặp Lê Phong và để lại danh thiếp. Tăng tỏ ra sợ hãi và
ngạc nhiên khi nghe tin Đường chết. Tăng đồng ý đi cùng Lê Phong và Bình
đến hiện trường, nhưng sau đó anh ta đấm Bình và bỏ đi khi ra ô tô.
Đọc đến đây, độc giả hầu như khẳng định người giết chết Đường là Nông
An Tăng, nhưng tác giả đã đặt tiếp cốt truyện dưới con mắt tài ba của nhà
trinh thám Lê Phong. Chàng phóng viên này đã lập một kế hoạch hành động
với sự giúp đỡ của Mai Hương và một số người đáng tin cậy khác. Một hiện
trường giả được tạo ra và hung thủ Đinh Võ Thạc - người bạn ở cùng với
Đường đã bị bắt vì giết bạn để chiếm đoạt lại vé số trúng thưởng.
Với cốt truyện hấp dẫn như vậy, cuốn sách đã được tái bản nhiều lần
trong vài năm bởi nó đã thu hút được đông đảo bạn đọc lúc bấy giờ.
Một câu chuyện khác thể hiện tài dựng cốt truyện của Thế Lữ là Những
nét chữ. Mở đầu là việc anh phóng viên Lê Phong đang chăm chú đọc các bức
68
thư của độc giả ái mộ gửi đến. Trong số đó có một lá thư giả gái với những
lời lẽ rất tình tứ. Lê Phong đã đoán ra và viết thư trả lời rất nhanh. Hai ngày
sau có một thanh niên đến gặp và nhờ Lê Phong tìm hộ nguyên nhân cái chết
của cô em gái tên Tuyết Mai mất cách đó ba năm.
Sau một thời gian tìm hiểu, Lê Phong đã khám phá ra cái chết của Mai.
Cô gái hay nói chuyện và thân với một người tên Đỗ Lăng, bạn của anh trai
Đào Văn Khương. Cô kể cho Đỗ Lăng nghe việc mình tham gia vào hội kín
cùng các bạn gái, khi không thấy hợp thì xin ra khỏi hội và rồi hội đó cũng
tan. Vấn đề là Mai luôn ám ảnh với những chuyện trả thù trên sách báo nên cô
tỏ ra rất lo sợ. Lăng luôn ở cạnh giải thích, động viên Mai. Càng gần gũi,
Lăng càng đem lòng yêu mến cô gái. Đến một hôm, Lăng viết thư cho Tuyết
Mai thú nhận mình là con trai và bày tỏ tình yêu với Mai. Cô từ chối, Mai vốn
âm thầm đau khổ vì đã yêu Khương mà không biết rằng mình chỉ là con nuôi
của bố mẹ Khương. Câu chuyện bắt đầu xoay quanh tình tiết bất ngờ khi Đỗ
Lăng nghĩ cách viết một bài thơ đặc biệt theo lối của hội kín khép Mai vào tội
phản bội và xử chết. Mai quá hoảng sợ đã uống thuốc tự tử. Sau khi nghe Lê
Phong giải thích, Đỗ Lăng biết được sự thật. Anh ta vô cùng đau khổ.
Với Những nét chữ, Thế Lữ đã đưa đến nhiều bất ngờ nhờ cách dẫn dắt
cốt truyện cuốn hút khiến cho độc giả vừa đọc vừa hồi hộp muốn biết được
câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Và cuối cùng, ông đã cho người đọc thỏa mãn
sự mong chờ của họ bằng một kết thúc hợp lý.
Ở truyện lãng mạn và thế sự của Thế Lữ, cốt truyện hầu như đơn giản
nhưng cũng rất rõ ràng, không kém phần hấp dẫn dù câu chuyện đó chỉ diễn
ra trong một thời gian rất ngắn hay xuyên suốt cả cuộc đời nhân vật. Trong
Câu chuyện trên tàu thủy diễn biến toàn bộ cốt truyện chỉ trên một chuyến
tàu. Nhân vật chính là tên trộm cắp nổi tiếng hai Nhiêu. Anh ta là người khá
đặc biệt bởi ăn cắp không phải là nghề kiếm cơm mà đó chỉ là một cách giải
trí, và anh ta cũng chỉ ăn cắp của người giàu. Hai Nhiêu cũng chưa bao giờ
hụt khi “nhắm” món nào. Thế mà anh ta lại bị đánh lừa bởi vẻ giả nhà quê,
69
nghèo đói của một kẻ rất giàu có cùng đi tàu. Khi về đến bến, tên nhà quê kia
mời cơm rượu và kể lại lý do phải giả vờ nghèo khổ khiến hai Nhiêu được
một phen choáng người vì tiếc của. Dù truyện ngắn này chỉ kể về một chuyến
đi rất ngắn nhưng khi đọc xong, độc giả cảm thấy bất ngờ xen lẫn thích thú.
Cũng trong một chuyến đi nhưng là phương tiện tàu hỏa, nhân vật anh
Văn trong Vì tình lại khiến khán giả vừa bật cười vừa đem lại cho người đọc
cái suy ngẫm về nhân thế. Một anh chàng xấu trai, thật thà, làm quen với một
thiếu nữ duyên dáng, tình tứ. Trong lòng cảm tạ sự tình cờ đã cho anh gặp
được người thiếu nữ, và trong trí đã sắp đặt cuộc tình duyên mà bấy lâu nay
anh vẫn chờ đợi. Lúc xuống ga, chàng trai lấy làm diễm phúc được xách va-li
cho người đẹp. Rồi đột nhiên, một cuộc khám xét xảy ra, cái va-li chứa đầy
thuốc phiện. Chàng trai bị bắt còn cô gái thì biến đâu mất. Cốt truyện tuy đơn
giản nhưng chứa đựng những tình huống hấp dẫn người đọc. Ban đầu, ta ngỡ
rằng đây chỉ là câu chuyện đi tàu, trai gái làm quen nhau thì nảy sinh tình cảm
là chuyện ngẫu nhiên, thế nhưng dưới ngòi bút của Thế Lữ, câu chuyện lại
hóa thành một vụ án mà người bị hại chẳng hiểu nguyên nhân mình bị bắt.
Cốt truyện của Thế Lữ có khi xuyên suốt cuộc đời của một nhân vật.
Thoa là một ví dụ. Câu chuyện được bắt đầu khi nhân vật chính được bốn
tuổi, khi người ta biết chắc rằng Thoa bị câm, cho đến khi cô từ giã cõi đời.
Toàn bộ cốt truyện đã làm nổi bật cuộc đời tưởng chừng rất bình thường lại
chứa rất nhiều nỗi buồn của một cô gái câm đã khiến độc giả suy nghĩ khôn
nguôi. Tác giả đã dùng cuộc đời nhân vật để phản ánh một phần thực tại, đưa
ra câu chuyện về một người có cuộc sống thiệt thòi trong xã hội chỉ bởi cô
mang một khiếm khuyết.
Thế Lữ cũng sử dụng kiểu cốt truyện có hai bước. Đó là kiểu cốt truyện
lồng ghép, tiếp nối trong đó bước thứ nhất là chuẩn bị, tạo đà cho bước thứ
hai là cốt truyện chính. Trong Tiếng hú hồn của mụ Ké, bước thứ nhất kể
chuyện người đàn bà vùng cao bị chồng phụ bạc, bỏ nhà đi biệt xứ khi đứa
con đầu lòng còn bế trên tay. Khi đứa con lớn lên thành một thiếu nữ xinh đẹp
70
thì oái ăm thay, số phận lặp lại người mẹ: cô bị người yêu dở thủ đoạn xấu khi
sắp đến ngày cưới. Bà mẹ vì quá tức giận đã giết hắn rồi thu xếp cùng con
trốn đi thật xa. Bước thứ hai kể về nỗi bất hạnh khi người con bị hổ vồ, dẫn
đến cuộc đấu kinh hoàng của người mẹ với hổ để trả thù cho con. Ở Một
truyện ghê gớm: bước thứ nhất của của cốt truyện kể về một người ba lần thi
hỏng đâm ra bất mãn, trở thành kẻ giang hồ, hảo hán, khi thì kết bạn với bậc
ẩn sỹ, võ nghệ cao cường khi thì đi theo bọn cướp. Bước thứ hai kể về nhân
vật này chẳng may sa vào một cái hầm tối, bị chứng kiến cảnh trả thù vô cùng
lạ lùng và man rợ, sau đó, chính ông ta phải đấu sức, đấu trí với kẻ thù đến
mức căng thẳng tột độ, suýt nữa thì mất mạng.
Tóm lại, dù là trong thể loại truyện ngắn nào, Thế Lữ đều đã xây dựng
được cốt truyện hết sức mới mẻ và độc đáo, mang một màu sắc rất riêng biệt.
Chính điều đó đã làm cho truyện ngắn của ông rất hấp dẫn và thu hút người đọc.
3.2. Nghệ thuật kể chuyện.
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, là một quá trình
sáng tạo của người nghệ sỹ. Nhưng để tạo ra được những tác phẩm có giá trị,
nhà văn không chỉ lựa chọn đề tài mà phải khám phá những phương thức,
phương tiện biểu hiện nghệ thuật một cách hiệu quả nhất. Trong truyện của
Thế Lữ, biện pháp nghệ thuật kể chuyện là một phương tiện nổi bật.
Trong truyện ngắn của Thế Lữ, ngôi kể thứ nhất được tác giả sử dụng
khá nhiều. “Tôi” vừa là người kể chuyện vừa là một nhân vật trong truyện.
Một chuyện ghê gớm là một ví dụ, nhân vật “tôi” sau khi chứng kiến và nếm
trải cảnh khủng khiếp trong cuộc đời đã kể lại những cảm giác lúc bị tên
khách hạ thủ : “Tôi thực là người trông mơ thấy mình chết. Mặt tôi nóng như
thể máu những vệt trói dắn đòn không biết đau nữa, trống ngực đập đến tức
thở, hai tai nghe muôn nghìn tiếng rất lạ. Ồ! Cái chết phi thường, cái chết tai
quái, nài gạo kia tức là một thứ đồng hồ, mà gạo trong nài tức là những giọt
nước vô cùng thảm khốc, vô cùng khắc nghiệt, mà mau chóng làm sao; gạo
tuy cứ đều đều từ từ mà rơi, nhưng thoát ra lối nào, vực nào là cái chết
71
nghiêm khẩn, khắt khe lại gần chừng ấy! Tôi bắt đầu nghĩ đến thân thể tôi,
đến quê hương tôi, đến cuộc đời của tôi đáng lẽ còn dài, còn bao nhiêu bước
hạnh ngộ tốt đẹp… Đột nhiên đến bây giờ là đoạn! là tuyệt!. Tôi phải chết,
mà chết bởi một kẻ thâm độc ở đâu chợt đến, chết vì một việc kì quái, vô
nghĩa lí, chết thầm kín, chậm chạp, giữa lúc khỏe mạnh tỉnh táo: trong giờ bi
đát không được xuôi ruỗi…; chịu để cho một luỡi dao bình yên giết hại: chết
trong lúc làm trò vui mắt cho một con quái vật nó lấy câu nguyền rủa để làm
lời tiễn tống mình. Bao nhiêu ý nghĩ chua xót thấm thía!”.
Thông qua lời kể của nhân vật, người đọc không những thấy được trạng
thái tâm lí của nhân vật “tôi” lúc cận kề với cái chết mà còn thấy được cái lối
trả thù dai dẳng dã man của người Tàu. Đồng thời câu chuyện góp thêm bằng
chứng để phanh phui tội ác của một loại người quyền thế trong xã hội Trung
Quốc ngày xưa.
Có truyện, nhân vật “tôi” lại kể câu chuyện kì quái xảy ra với những
nhân vật khác. Tôi ở đây là tôi chứng nhân vì họ chỉ là những nhân vật phụ
của truyện. Cụ thể như trong truyện Đêm trăng, nhân vật “tôi” kể về sự kì dị
của cô gái Thổ: “Tôi chỉ thấy một người con gái kì dị, đang nghiến răng và
lẩm bẩm ở trước mặt tôi. Nó vẫn xốc nách người chết để ngồi rũ dưới chân,
trông thẳng vào mặt tôi nhếch mép một cái rồi nói :
- Anh tưởng nó là tình nhân tôi hả? Không! Nó là kẻ thù của tôi. Tại
sao? Nó giết mất anh Cẩm của tôi. Anh Cẩm là người sắp lấy tôi, mà nó giết
đi, rồi quẳng xuống đây cho mất xác.
Có khi, tác giả lại để nhân vật “tôi” kể chuyện về một nhân vật “tôi”
khác. Người đó lại kể câu chuyện về một người thứ ba. Như trong Câu
chuyện trên tàu thủy: nhân vật “tôi” nghe một người xưng “tôi” kể chuyện về
người quen biết của mình - tên kẻ cắp hai Nhiêu. Sau khi nói rất chung về
nhân vật đó, người kể chuyện bắt đầu câu chuyện hai Nhiêu đã bị đánh lừa, bị
bỏ mất một vố lớn như thế nào trên chuyến tàu hôm đó. Có khi nhân vật “tôi”
là người dẫn chuyện khi họ kể chuyện về nhân vật thứ hai như trong Ông
72
phán nghiện: nhân vật “tôi” kể câu chuyện về ông phán sống một mình với
con rắn, ông ta chuyên hút thuốc phiện và con rắn cũng nghiện khói thuốc đến
mức nó không bao giờ rời bỏ ông phán. Đến lúc ông ta chết, con rắn vẫn quấn
chặt vào cổ, rúc vào mũi để tìm cái hơi thuốc phiện trong đó. Ở truyện Vì tình
nhân vật tôi kể lại câu chuyện về anh bạn Trần Văn của mình. Anh bạn Trần
Văn đó xấu trai, tốt bụng, mong muốn có được tình yêu đẹp với một người
đẹp nào đó. Điều này dẫn tới cái oan của anh ta khi xách va-li hộ người đẹp
trên tàu mà anh ta có dịp được nói chuyện, vấn đề là va-li đó chứa đầy thuốc
phiện, và anh ta bị bắt.
Thế Lữ tỏ ra là một tác giả biệt tài khi ông sử dụng cách kể chuyện kết
hợp tả cảnh để gợi sự rùng rợn trong truyện kinh dị. Giọng kể trần thuật của
Thế Lữ dùng nhiều những từ chỉ cảm giác “âm u”, “rùng rợn”, “kì dị”, “ghê
rợn”…và lối miêu tả với các cụm từ như “như âm thanh gở lạ”, “những tiếng
bí ẩn”, “tiếng quái dị như không phải của người”…xuất hiện với tần số cao có
tác dụng khơi gợi tính hiếu kì và cảm giác rùng rợn trong một thế giới nửa
thực nửa hư.
Trong Vàng và máu, tác giả đã kể lại những câu chuyện, những lời đồn
đại về Văn Dú. Trước hết là một cái tên, tiếng Văn nghe êm ái bình thường
nhưng tiếng Dú nghe thật lạ tai, gần với tiếng “rú” gợi lên cảm giác kinh
hoảng sợ hãi. Ngay cái tên đã gợi cho người nghe hoặc người đọc một cảm
giác là lạ, ơn ớn khiến họ nẩy ra một chút tò mò. Tác giả nhìn Văn Dú từ xa
“Những chiều hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía, cũng như những
ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với vẻ riêng, oai linh mầu nhiệm”. Ngay
sau đó, ông tiếp tục nói tới cái vẻ oai linh mầu nhiệm đó trong tâm tưởng
những đồng bào sơn cước sống quanh vùng: “Đối với ngọn núi lớn, người
Thổ không những chỉ có tấm lòng kính cẩn phảng phất đối với mọi cảnh bát
ngát cao cả, họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm
hại được người. Ở những miền quanh đó và trong thời bấy giờ, ai nói động
tới Văn Dú là một sự gở lạ. Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những khi tức
73
giận như mà chửi rủa hay những khi thề bồi. Một người say rượu lớn tiếng
xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho khắp cả một châu biết đến tên mình;
họ thuật lại những lời nói và cử chỉ của anh ta một cách e dè, nhưng chuyện
anh ta là chuyện họ ưa nghe ưa kể nhất”.
Một đoạn khác “Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm, lại rất độc ác và hay
nghi ngờ. Người nào hoặc vô tình, hoặc cả gan đến gần là bị thần hang bắt
và giết đi. Cho nên từ Văn Dú trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng
xác, đất hoang; người Thổ không dám đến để cày cấy”. Văn Dú còn có cái
hang thần mà những người dân sống gần đó cho biết: “có người nói rằng
thường trông thấy những hình bóng kỳ dị”. Còn trước cửa hang: “người thì
bảo có toàn đầu lâu, người thì bảo có đủ các thứ rắn rết”. Những người già
trong làng thì cho rằng: “Hang thần hóa thiêng vì trong đó chôn cất không
biết bao nhiêu thây của dân giặc khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước nam
khi trước bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dú rồi bị hãm chết đói
trong hang”. Có một thời muốn phòng những tai nạn, người ta đặt lễ tế thần
Văn Dú hàng năm: “Vật hi sinh là những người con gái đẹp. Tiếng than khóc
của những người gái trinh bị giết quăng xuống suốt nghe bi thảm.”
Thế Lữ đã đưa ra một loạt các những câu chuyện, những lời đồn đại tạo
ra một không khí huyền bí rờn rợn bao quanh hang thần và núi Văn Dú. Tác
giả đưa độc giả lại gần núi hơn nhờ hai người đàn ông: “Một buổi chiều mùa
đông, trời rét căm căm; mưa phùn bay mù mịt. Từ miền bản đông thuộc châu
Kao Lâm đến mạn Văn Dú, có hai người đàn ông Thổ đang rảo bước đi”. Từ
hai nhân vật đó, Văn Dú hiện dần lên. Tiếp đó là câu chuyện hai người đàn
ông đó vào hang tìm vàng do quan châu Kao Lâm cử đi. Rồi chuyện không
xảy ra với người đàn ông lớn tuổi khi ông ta vào hang, trở ra và bị chết.
Người trẻ quá sợ hãi, không dám về châu của mình mà sang châu Nga Lộc
cùng với tờ giấy lấy trong tay người đàn ông lớn tuổi kia. Và toàn bộ những
bí ẩn về cái hang đó đã được viên quan thông minh, có đầu óc quan sát khoa
học giải mã. Viên quan châu Nga Lộc sau khi phát hiện ra bí mật sau tờ giấy
74
đã mang một đám gia nhân vào hang tìm vàng. Kết quả là: ông ta không
những khám phá được tất cả các bí mật ở trong đó mà còn lấy được kho báu
lớn. Cách kể chuyện với những tình tiết ly kỳ dẫn người đọc từ sự hấp dẫn
này đến sự thú vị khác theo trình tự hợp lý.
Trong truyện Cái đầu lâu, nhân vật tôi đưa người đọc vào không khí rờn
rợn theo một hướng khác. Trong khi kể chuyện về cái đầu lâu mà anh ta mang
về cùng với âm thanh lạ phát ra từ đó. Tác giả để cho nhân vật của mình phát
ngôn ra những lời thoại hồi tưởng về cái đầu lâu. Nhân vật Chung cho rằng:
“Tôi vừa mới đọc xong những truyện kinh hồn hiển hiện mà anh cho mượn
ngày trước. Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc
một đoạn dật sứ về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy người kể chuyện những thủ
cấp sau ba, bốn giờ vẫn còn sống được”. Cách kể chuyện của tác giả khiến
cho các yếu tố rùng rợn sẽ tăng dần theo liên tưởng của nhân vật.
Truyện Bồ Tùng Linh đã đưa độc giả đến một không khí rùng rợn của
khu trại Bồ, người kể chuyện tạo ra không khí đó bằng cách kể lại lời đồn đại
của mọi người quanh đó “Tôi cũng có nghe thấy mấy người tôi thuê quét dọn
nói bóng gió, đến sự “bỏ không” của trại này. Hình như trong gia đình “cụ
lớn” có người chết hoặc tự tử, hoặc hóa điên không rõ lắm”. Còn người coi
Trại Bồ thì: “Nhắc đến một vài chuyện ma quái mà hắn đã có lần trông thấy
hồi hắn phải ở trong trại”. Cách dẫn đó khiến người đọc cảm nhận được sự
không bình thường, gây thêm chút hiếu kì cho người đọc, sau đó là những câu
chuyện dị thường mà mình gặp tại trại Bồ cũng như sự xuất hiện của người
đàn bà đẹp giữa đêm khuya.
Không chỉ thế, nhân vật người giúp việc là thằng Dần cũng làm cho câu
chuyện trở nên li kì hơn, bởi nó đã hỏi những người quanh đó và được biết:
“Theo lời đồn quanh quẩn thì trại Bồ vẫn có ma, khi thì mập mờ, khi thì hiện
rõ, nhưng không ai làm việc gì”. Rõ ràng, những lời đồn đó đã làm cho câu
chuyện mang màu sắc hoang đường hơn, giống như những câu chuyện chúng
75
ta đã được biết trong Liêu trai chí dị của tác giả Bồ Tùng Linh.
Đối với truyện trinh thám, Thế Lữ thường chọn lối vừa kể chuyện vừa
suy ngẫm. Ông không bao giờ chịu kể qua quýt sơ sài. Ông phân tích mổ xẻ,
lần đến tận ngọn nguồn của sự việc, hiện tượng. Thế rồi khi đã khảm được
vào tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ vụn vặt của vụ án rồi
ông nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát, vừa như là bất ngờ nhưng lại thật
hiển nhiên: “Ồ! Nó quỷ quyệt đến thế là cùng! Cái vẻ tươi cười thản nhiên lúc
đối diện với ta sao mà đóng khéo thế…tí nữa ta đã tưởng là ta nghĩ lầm, tí
nữa ta tin rằng nó chỉ là một người thiếu nữ thích mạo hiểm và để ý đến
những vụ án mạng cũng như ta… Ngờ đâu, chính nó đã đánh tráo cho hai tên
kia, nó toan giữ lại lúc ta chực đuổi chúng…” ( Mai Hương và Lê Phong).
Đọc văn xuôi Thế Lữ, chúng ta nhận nét đặc sắc rất riêng khiến cho
giọng kể đó không thể lẫn vào một tác giả khác. Dù là sử dụng giọng kể trần
thuật, cách kể kết hợp tả hay giọng suy ngẫm, Thế Lữ vẫn thể hiện được nét
nổi bật của mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu làm nên sự đặc biệt cũng
như sự thành công của tác giả.
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Để làm nên thành công trong thể loại truyện ngắn, việc xây dựng nhân
vật có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi nhân vật là nơi tác giả gửi gắm ý đồ
của mình vào đó.
Với Thế Lữ, nhân vật của ông là nhân vật lãng mạn dù đó thám tử hay kẻ
gây ra nỗi kinh hoàng. Ông miêu tả ngoại hình nhân vật khá cụ thể và chi tiết.
Tác giả luôn tạo cho nhân vật chính diện một vẻ bên ngoài rất đáng chú ý, rất
đẹp. Chúng ta hãy nhìn nhân vật Lê Phong, anh ta được nhà văn miêu tả là
một chàng trai có khổ người vừa phải, hơi gầy, khuôn mặt sáng sủa, đôi mắt
tinh ranh và ăn mặc hợp thời trang, nhanh nhẹn, tất cả toát lên vẻ hào hoa, học
thức. Những nhân vật phản diện ít khi được khai thác vẻ đẹp ngoại hình, trừ
một kẻ đối đầu với Lê Phong trong Đòn hẹn: “Đó là một người đàn ông trạc
ba mươi tuổi trở lại, mặc âu phục tím sẫm hàng sang, cắt rất khéo, đầu mượt
76
bóng, mặt trắng trẻo đều đặn, miệng mỉm một nụ cười mỏng ngạo nghễ hơn
là nhã nhặn…Từng ấy thứ tỏ ra chủ chúng là một tay sành sỏi về khoa thẩm
mỹ. Đó là người để ý đến phục sức một cách dễ dàng và trong sự chải chuốt
không biểu lộ một ý gì hợm hĩnh”. Còn lại, vì muốn đảm bảo tính khách quan
của hiện tượng, cách nhìn ngoại các nhân vật phản diện đều được miêu tả lướt
qua với thái độ trung tính. Chẳng hạn: “mặt xương xương, nước da đỏ từng
chỗ. Hai mắt nhỏ, sâu và đen láy dưới vành mũ dạ mềm. Cái miệng rộng, môi
mỏng tanh mím lại và thỉnh thoảng mấp máy như nói lẩm bẩm những tiếng
bực tức” ( Đòn hẹn).
Thế Lữ đặc biệt ưu ái cho các nhân vật người phụ nữ. Dù là ai, làm gì, ở
đâu ông cũng dành cho họ nhiều nhan sắc. Ông dùng những cụm từ: nhan sắc
đằm thắm, nhan sắc tiên nga, nhan sắc diễm lệ hiếm có, nhan sắc tuyệt mỹ,
nhan sắc lộng lẫy mê hồn, trang giai nhân tuyệt sắc, nhan sắc kì ảo… ngoài
ra còn có cách ví von so sánh nhan sắc: đẹp một vẻ thần tiên, vẻ đẹp vừa sắc
sảo vừa dịu dàng, đẹp như một vẻ hoa, vẻ đẹp vừa sắc sảo vừa dịu dàng… Họ
có những khuôn mặt tuyệt mỹ, khuôn mặt cực kỳ thanh tú, vẻ mặt cao quý
khác thường, khuôn mặt hồng tươi, nét mặt thanh và dịu…
Trong Mai Hương và Lê Phong, nhân vật Mai Hương được Thế Lữ ngợi
ca sắc đẹp đến tuyệt đỉnh: “Lê Phong nhìn người thiếu nữ từ đầu tới chân,
dáng người thanh thanh, nhưng không kém phần rắn rỏi, cô mặc cái áo màu
hồng phớt kiểu mới, giản dị nhưng trang nhã, cô đeo một cái vòng vàng có
đính mấy hạt ngọc xanh. Hai bàn tay trắng và mềm, ngón nhỏ muốt nhè nhẹ
đặt lên mép bàn và hơi run run vì cảm động quá. Khuôn mặt thì cực kì thanh
tú, tươi tắn, trẻ trung, và có một vẻ mặt cao quý khác thường. Nước da nhỏ
đánh phấn khéo đến nỗi màu đào trên hai gò má, Lê Phong không biết là màu
nâu của phấn hay màu nâu của da” ( Mai Hương và Lê Phong).
Lan trong Một chuyện ngoại tình thì có vẻ đẹp của một cô gái quê:
“Khuôn mặt Lan nét thanh và dịu, đôi mắt Lan lắng chìm một màu tình tứ kín
đáo dưới hàng mi cong và dài, cặp môi Lan đằm thắm một thứ duyên thầm
77
lặng đôi khi hé ra lóng lánh ở miệng cười răng đen”
Trong Đòn hẹn, cô gái đóng giả người chỉ huy đảng Tam Sơn để cứu Lê
Phong cũng được Thế Lữ trao cho một nhan sắc cao quý khiến Lê Phong mê
mẩn: “Hôm đó cô ta mặc áo sa tanh đen, hàng mềm như dính theo các các
đường cong thon thon của thân hình đều đặn, đôi dép nhung hồng màu vừa
vặn khít chặt lấy cái bàn chân trắng nhỏ. Hai ống quần lụa trắng bong phủ
gần kín đôi gót hồng bé tí xíu (…). Cô ta ưỡn ngực soi vào gương, đeo chuỗi
hạt vào cổ, và mơn sửa lại mái tóc ở sau gáy. Phong nghĩ ngay đến những vị
giai nhân bí mật trong truyện cổ, những thứ nhan sắc ghê rợn đắm đuối, lả
lướt trong bóng âm của cung điện và mùi thơm biếc của xạ hương”. Mỹ nữ
Hoàng Lan Hương lại mang một vẻ đẹp da thịt hiếm có: “Thân hình nàng
dưới màng áo mỏng dịu mỏng lồ lộ nét châu báu của tòa nữ sắc vô song. Cái
lầu ngà ngọc đẹp thêm một vẻ thần tiên ở trong màn sương chập chờn” (Trại
Bồ Tùng Linh). Vẻ đẹp của nàng đã khiến văn nhân Tuấn say mê đắm đuối và
không thể nào quên.
Đôi mắt và cái nhìn của nhân vật là yếu tố thường được các nhà văn rất
chú ý để làm nên hình tượng nhân vật. Thế Lữ cũng vậy. Đầu tiên, ông chú ý
đến đôi mắt và cái nhìn của thám tử tài danh trẻ tuổi Lê Phong: “Đôi mắt to
sáng linh động, khiến người ta cứ trông mắt anh cũng nhận được ra ngay
trong đám đông người (…) Anh có một cách nhìn người rất lạ lùng. Nhìn
không lâu, nhưng đôi mắt sắc sảo như hai luồng quang tuyến soi vào tận
trong tâm trí người ta. Khi anh ta mỉm cười, đôi mắt dịu dàng, thì anh có một
vẻ nhã thiệp, đáng mến, khiến cho những người lãnh đạm nhất cũng có cảm
tình với anh” ( Lê Phong phóng viên). Ông chủ kì dị của Sắc trong Bên đường
thiên lôi có đôi mắt khiến cho chú nhỏ giúp việc thấy khó hiểu, thậm chí sợ
hãi: “người ta nhìn hắn bằng đôi mắt ám khói”, hoặc “mắt ông ta nhìn thẳng
về phía hắn, mà hình như đắm vào cõi hư vô nào”.
Đối với các nhân vật nữ, đôi mắt dường như làm tăng thêm phần vẻ đẹp
cho họ. Nhân vật Mai Hương được miêu tả một loạt các từ tả đôi mắt giai
78
nhân như: đôi mắt rất tinh anh, đôi mắt ngây thơ, đôi mắt rất trong đen và sắc
sảo, đôi mắt lóng lánh, mắt hình như ngọc huyền dưới đáy hồ; cô gái giả
người chỉ huy đảng Tam Sơn có hai mắt đen biếc trong Đòn hẹn; Ché Sao với
đôi mắt đen láy và sáng trong Gió ngàn; Lan “có đôi mắt lắng chìm một màu
tình tứ kín đáo dưới hàng mi cong và dài” trong Một chuyện ngoại tình. Ngay
cả nhân vật nữ chỉ đi qua tác phẩm trong chốc lát cũng được Thế Lữ ban cho
một vẻ đẹp đáng nhớ: “Vợ Lương Duỳn có một vẻ đẹp vừa sắc sảo vừa dịu
dàng, đôi mắt sáng ra vẻ rất thông minh, trông lúc nào cũng như ẩn không
biết bao nhiêu nỗi buồn sâu xa mà cái thảm trong đêm đó đã làm tăng thêm
gấp bội” ( Lê Phong phóng viên).
Cùng với vẻ bề ngoài, thế giới nội tâm của nhân vật được Thế Lữ chú ý
khai thác. Ví dụ như đoạn sau đây: “Cuộc đời thực tế hồ như khiến Phong
không bao giờ mơ mộng. Anh chỉ có những ý nghĩ thiết thực và việc làm thiết
thực. Những tình cảm, tuy ẩn rất sâu kín, bao giờ cũng dồi dào sẵn có trong
lòng anh. Tất cả những “sự” ấy đến nay được dậy lên, như tỉnh thức bởi một
quyền lực kì bí.” (Đòn hẹn). Nội tâm nhân vật cũng được thể hiện dưới nhiều
cách khác nhau: đó là nỗi căm hận và khát vọng trả thù kỳ lạ của người mẹ
mất con trong Tiếng hú hồn của mụ Ké; tâm hồn kỳ lạ của cô gái Thổ trong
Đêm trăng; nỗi niềm yêu thương đến khắc khoải của Tuấn trong Trại Bồ
Tùng Linh; tình yêu ngọt ngào nhưng không muốn thể hiện quá nhiều của anh
chàng thám tử tài hoa Lê Phong đối với cô đồng nghiệp xinh đẹp Mai Hương
trong các truyện trinh thám; xúc cảm yêu thương thi vị tiểu tư sản của những
chàng trai miền xuôi khi gặp các cô gái Thổ xinh đẹp, tình tứ giữa cảnh vật
mơ mộng trong những câu chuyện lãng mạn.
Thế Lữ là nhà văn có đóng góp đáng kể về mặt miêu tả tâm lý nhân vật.
Tâm lý nhân được miêu tả nhiều trong các truyện huyễn tưởng và truyện trinh
thám bởi ở đó chứa những va đập nghịch lý trong quá trình thưởng thức cái
kỳ bí và tìm đến sự thật. Thường thì tâm lý là xúc cảm của mỗi người nhưng
được hướng dẫn bởi lý trí, bộc lộ thông qua những tình huống, những cuộc
79
đối thoại giữa các nhân vật với nhau. Nhân vật chính của Thế Lữ thường là
người rất giàu cảm xúc, tâm hồn dễ xúc động lại thông minh, tài giỏi, vì thế
diễn biến tâm lý của họ khá phong phú và tinh tế. Cuộc đấu trí thầm lặng
trước hoàn cảnh bất lợi, trước cái bí mật, cái ác đều thể hiện qua thái độ và
tâm lý ứng xử của nhân vật. Cách miêu tả tâm lý của người mới yêu (Lê
Phong) dưới dạng độc thoại nội tâm cũng được Thế Lữ sử dụng: “Tại sao cứ
lùi xa cái lúc cầm tay nhau nói thực nỗi lòng và kết liễu những điều mong
muốn âm thầm bằng một việc tự nhiên và êm đẹp? Đó là những nỗi éo le mà
nhà tâm lý tiểu thuyết sẽ tìm được nhiều câu văn hay để giải thích”.
Có khi Thế Lữ cũng để cho nhân vật của mình tự phân tích tâm lý. Ví dụ
tiêu biểu cho cách phân tích này là: “Anh thấy trong tâm trí cùng một lúc mà
có những cảm tưởng trái hẳn, cảm tưởng đầu tiên là sau một sự giản dị, hiền
lành của hết mọi sự mọi vật có liên lạc đến cái việc anh gọi là án mạng; một
người bị giết bởi một bọn người khôn khéo đến mức không ai tin đó là bị giết,
trừ có anh…”( Đòn hẹn).
Tương tự, nhân vật trong Trăng ngàn cũng tự diễn tả tâm lý của mình:
“Anh thấy mình vẫn sáng suốt để nhận thấy sự rung động của tâm hồn. Anh
phân tích hoài, ngẫm nghĩ hoài. Người trong cuộc luôn đứng ra ngoài để nhìn
trở vào. Nhà tài tử đang lúc phô diễn thả cho tâm trí lùi xa và tự ngắm dáng
điệu mình trong sân khấu...”.
Tâm lý người con gái miền thượng được phân tích một cách vừa nghệ
thuật vừa khoa học thông qua hướng nhìn của người nam thanh niên trí thức
tiểu tư sản thành thị thời hiện đại: “Anh hiểu sự yêu đương trong lòng người
con gái Thổ lắm. Đó là sự khao khát những lời ngọt ngào, đẹp đẽ, những cái
vuốt ve êm dịu, những tình tứ yên lặng và những tiếng thở dài thấm thía nồng
nàn…Tâm thấy nó thực thà, ngây thơ và có những thú vị man mác như cảnh
đẹp núi rừng” ( Cô Thơ).
Với những hình tượng nhân vật mới lạ cùng những đoạn miêu tả nội tâm
sâu sắc, nhân vật của Thế Lữ mang nét đặc trưng rất riêng và góp phần không
80
nhỏ vào sự thành công của các tác phẩm.
3.4. Giọng điệu
Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu
tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một
chỉnh thể. Các yếu tố tư tưởng, hình tượng chỉ được cảm nhận trong một
phạm vi giọng điệu nào đó, và nhờ đó mà thâm nhập vào thế giới tinh thần
của tác giả. Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể hiện một giọng điệu đặc
biệt, tiêu biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả, mà muốn hiểu tác phẩm,
người ta không thể bỏ qua được nó.
Trong văn học, giọng điệu giúp nhận ra tác giả. Đây là yếu tố quan trọng
tạo nên phong cách nhà văn. Mỗi tác giả tùy theo giọng điệu của mình mà có
thể tạo ra bản sắc, phong cách, cá tính sáng tạo riêng. Giọng điệu càng nổi bật
thì càng thể hiện tính sáng tạo. Chúng ta có thể nhận thấy giọng điệu của Thế
Lữ có tính đa thanh.
Trước hết, người đọc nhận ra giọng điệu cảm thương trong truyện ngắn
Thế Lữ. Niềm yêu thương, trân trọng đối với con người tạo cho giọng văn
ông một hơi thở ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái, cay nghiệt của cuộc đời,
Thế Lữ cũng luôn giữ con người đứng bên này bờ vực của sựu yêu thương
cam chịu (Ông phán nghiện, Thoa): “Thoa có nghĩ đến ngày mai của Thoa
không? Tình duyên ở đời gọi những tư tưởng gì trong lòng người xấu số? Và
những ngày dài nối tiếp nhau đi, Thoa ngồi trong câm lặng, tiếng thở dài của
Thoa dịu nhẹ, có còn mang những ước mong tha thiết nào nữa chăng?” ( Thoa).
Dường như ở Thế Lữ, ta bắt gặp một tâm hồn luôn rung động trước
cuộc đời, một trái tim trong nghìn trái tim. Có lẽ vì thế mà ông mới trải lòng
ra đón nhận những nỗi đau của cuộc đời.
Hình ảnh hai mẹ con mụ Ké trong Tiếng hú ban đêm đã để lại trong lòng
độc giả những xúc động khó quên “Đi chừng ngót một ngày nữa thì đến cánh
rừng Sam Na. Thấy gần đó có nhà cửa dân cư, nên mẹ con quyết định lấy làm
81
chỗ nương náu… Từ đó bắt đầu một cuộc sống vất vả nhưng rất sung sướng
của bà mẹ. Sáng ra đi xới vườn kiếm củi, tối về rau cháo bên ngọn mồi con.
Sự ái ân với lòng thương xót ở đời có nhẽ thấy cái hình ảnh cảm động nhất ở
trong gian nhà lúp túp ấy”…
Rồi tình yêu thương cứ lớn dần lên, bà yêu thương Mí Nàng da diết:
“Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé. Con khỏe đi, con lớn đi, con vui vẻ đi
để cho mẹ được sung sướng với con”.
Với giọng điệu cảm thương, Thế Lữ đã đánh thức vào tâm hồn người
đọc những tình cảm thiết tha nhất đối với những con người đáng thương trong
xã hội. Tất cả được triển khai trong cái nhìn đầy thông cảm và chia sẻ. Càng
thấu hiểu cuộc đời, số phận của con người, càng dành tình cảm cho nhân vật
của mình, nhà văn càng xoáy sâu vào bi kịch để người đọc hiểu sâu hơn nữa
bi kịch của con người trong cuộc đời. Đó cũng chính là tình cảm, sự cảm
thông sâu sắc của nhà văn muốn gửi tới nhân vật của mình.
Một điều đặc biệt của ngòi bút Thế Lữ là ông thấu hiểu được những
cung bậc tình cảm của con người một cách sâu sắc. Giọng văn của ông thấm
đẫm tình thương yêu. Nhà văn vừa đứng trên nhân vật, nhìn thấy tất cả những
diễn biến tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, đồng thời hòa mình, buồn vui
cùng nhân vật của mình. Vì vậy mà người đọc cũng bắt gặp trong truyện ngắn
Thế Lữ giọng điệu tâm tình yêu thương. Ta có thể thấy lời văn mượt mà, dịu
ngọt, chứa chan yêu thương trong Trại Bồ Tùng Linh:
“- Lan Hương ơi! Lòng anh chiếm được em rồi. Chúng ta đã là của nhau
rồi, mà anh chỉ biết tên của em thôi ư?
- Lan Hương ơi, em nói cho anh biết hết cả đi…
- Lan Hương ơi! Em không muốn thực hiện tình yêu nhau sao? Sao em
cứ mãi hững hờ…
Tình cảm chân thành của chàng trai thư sinh Tuấn minh chứng cho một
tình yêu trong sáng. Đoạn văn trên rất tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn.
Giọng điệu tâm tình còn thể hiện rõ trong các trang viết về thiên nhiên
82
với những con người ở miền sơn cước. Sự gặp gỡ giữa con người và thiên
nhiên, giữa tình và ý đã tạo ra một bản hòa tấu tuyệt diệu của hạnh phúc mà
anh chàng Khôi Giang trong Chim đèo đã viết thư cho bạn: “Ồ! Tình ái ở
thượng du! Thực không còn bài văn nào có những lời đẹp đẽ trong trẻo hơn
được! Tôi hiện sống quấn quýt với một thiếu nữ ở miền này, một con chim ngàn
chỉ biết có màu trời xanh riêng ở đây, chỉ ca hát với ánh sáng ở đây và tâm hồn
chất phác kia chữ ân ái mới vẽ lên những nét đê mê và bao nhiêu ý nhị…”.
Đối với thể loại truyện trinh thám, nét nổi bật của Thế Lữ là sự suy luận,
khoa học. Bày tỏ những suy ngẫm, suy tư trong cuộc đời cũng như thể hiện
niềm khao khát được khám phá và lý giải mọi phương diện cuộc sống khiến
nhiều khi những câu nói, giọng kể của tác giả, nhân vật mang đầy tính triết lý,
suy ngẫm. Đó cũng là gam giọng ưa dùng của ông.
Thế Lữ là nhà văn trực tiếp bộc lộ suy tư, suy ngẫm thông qua lời trần
thuật. Trước một tình huống, sự kiện, chi tiết, người trần thuật đưa ra lời bình
luận, khái quát có ý nghĩa chỉ dẫn cho độc giả. Những nhận xét tinh tế và hóm
hỉnh làm cho câu văn cô đọng. Lời suy luận tinh tế của Lê Phong trong Những
nét chữ là một ví dụ: “Tôi gọi ông là ông, vì tôi biết ông không phải là con
gái. Những lời ông khen tặng tôi khéo lắm, êm ái lắm, tôi rất lấy làm cảm
động và cảm ơn ông… Tôi biết rằng cô Kiều Anh ấy chính là ông và hơn thế,
tôi biết rằng ông viết thư cho tôi bằng cây bút máy ngòi xấu và cong; ông viết
được nửa trang thì hết mực, nên ngừng lại một lúc, rồi mới tiếp theo và lúc
gần xong thì trời mưa, một cơn gió thổi vào làm tờ giấy chực bay, ông phải
vội lấy tay đè lên vì ông ngồi viết gần cửa sổ”.
Và có lẽ hay hơn hết là những suy luận của Lê Phong về Mai Hương:
“Người con gái này mỗi lúc một khả nghi thêm… Nhưng đối với Đoàn, cô ta
là người thế nào? Chính cô ta đã dùng mọi cách tuyệt xảo nào ta chưa hiểu
được để giết chết Đoàn, hay cô ta chỉ là người có can thiệp đến vụ án mạng
độc nhất mà lại có người rất đẹp, rất kì dị ở trong.
Vì tình ư? Vì thù ư? Hay là một cuộc âm mưu vì tiền? Hay là hình phạt
83
của một hội đồng đảng chính trị.” ( Mai Hương và Lê Phong).
Sự đa thanh trong giọng điệu của Thế Lữ còn được thể hiện giọng hài
hước. Tác giả đã sử dụng bút pháp phóng đại để tăng thêm phần kịch tính cho
câu chuyện và góp phần lôi cuốn độc giả. Ta có thể thấy rõ giọng điệu hài
hước của nhân vật “tôi” trong Lưỡi tầm sét: “Tôi biết rằng cô ta bị sét đánh
rách hết quần áo và “gọt” hết tóc với lông mày nhưng không chết... Nhưng
“thiên lôi” gì lại đánh người một cách kì khôi thế”.
Trong Gói thuốc lá, bên cạnh giọng suy ngẫm và duy lý phù hợp với
truyện trinh thám, tác giả xen vào đó giọng hài hước khi Lê Phong nói về
Nông An Tăng: “Đây, tên ký của nó đây! Nó “ký tên” hai lần lên hai cái
quai hàm của anh Văn Bình để tháo thân, và để thú tội luôn thể”. Hay câu
“Phong quay ra lấy thuốc lá ngậm giữa nụ cười, hớn hở như đứa trẻ được ăn
bánh”. “Anh làm ơn bỏ hộ tôi cái mặt mán rừng kia đi”
Giọng hài hước còn được thể hiện sinh động trong Tiếng hú ban đêm
khi những người thợ săn đến nhà mụ Ké: “… Người bị bám lấy người kia
giục chạy. Bỗng thấy gầm lên một tiếng cực lớn, nghe rất dữ dội. Bọn con trai
không còn hồn vía nào. Họ nhảy choàng lên cùng kêu thét như bị vứt vào lửa.
Tiếng gầm kia lại rống, ngày một gần, một lớn, một gấp như vỡ trời đổ núi
bên mình. Anh nào anh nấy cũng mong thành cánh ở chân, chui vào cả cây,
đâm vào cả bụi rậm. Về đến làng xóm thì vừa hết cả sức, họ gào lên những
tiếng khản líu lưỡi lại mà gọi, đập cửa như phá rồi nằm vật vã cả xuống đất,
thở không ra hơi”
Có thể thấy, giọng hài hước đã giúp Thế Lữ mang đến cho độc giả
những giây phút thú vị, thư giãn và làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn. Nhìn
chung, giọng điệu trong truyện ngắn Thế Lữ là giọng đa thanh. Sự kết hợp
của nhiều giọng điệu mang đến sự hiện đại cho tác phẩm. Với giọng điệu đa
thanh, nhà văn đã thể hiện một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và có tính
84
sáng tạo cao.
KẾT LUẬN
Thế Lữ là một nghệ sỹ đa tài. Ông là nhà hoạt động văn hóa. Ông có
mặt ở nhiều lĩnh vực thuộc văn hóa, văn học, nghệ thật. Dù ở bất kỳ lĩnh vực
nào, Thế Lữ đều thể hiện tài năng phong phú của mình.
Ông được biết đến trước hết là một nhà thơ danh tiếng, có công mở đầu
cho phong trào Thơ mới, và bằng chính những bài thơ của mình ông đã khẳng
định sự thắng thế của thơ mới so với thơ cũ, trở thành nhà thơ tiêu biểu nhất
của thơ mới buổi đầu. Thế Lữ còn có đóng góp lớn về văn xuôi nghệ thuật bởi
ông góp phần vào việc hiện đại hóa truyện truyền kỳ, mở đầu truyện kinh dị
và cũng mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam. Ông là một nghệ sỹ có công
lớn đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước ta trở thành chuyên nghiệp theo
hướng hiện đại hóa. Thế Lữ cũng là một nhà báo, một dịch giả, một cây bút
phê bình văn nghệ.
Ở lĩnh vực văn xuôi, Thế Lữ là một trong những tác giả có đóng góp rất
tích cực tạo nên sự biến đổi về chất của văn xuôi Tự lực văn đoàn những năm
1932 trở đi. Ông đã đưa vào truyện yếu tố lãng mạn đằm thắm cùng chất thơ
tươi mát, ngọt ngào. Cốt truyện của Thế Lữ khá linh hoạt, luôn luôn đổi thay
và tạo sức lôi cuốn cao. Tác giả đã xây dựng kết cấu tình tiết đan xen kết cấu
tâm lý, đáp ứng thị hiếu bạn đọc mới. Nhân vật của Thế Lữ là nhân vật lãng
mạn, thế giới nội tâm được chú ý khai thác và diễn biến tâm lý được phân tích
một cách tinh tế. Ngoài ra, cũng như trong thơ, Thế Lữ có nhiều trang văn
xuôi khắc họa tài hoa cảnh trí thiên nhiên. Cách hành văn trong sáng tác của
Thế Lữ trong sáng, khúc chiết và hợp lý.
Với riêng truyện trinh thám, Thế Lữ đã tỏ ra vô cùng tài hoa trong việc
sử dụng ngôn ngữ, tạo tình huống giàu kịch tính, khắc họa được những diễn
biến tâm lý ẩn sâu trong tâm hồn con người. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc
của truyện trinh thám phương Tây nhưng nét nổi bật của Thế Lữ là ông đã
85
đưa vào đó các yếu tố mang đậm màu sắc Việt Nam. Điều này đặc biệt quan
trọng khi độc giả nhận thấy sự gần gũi trong truyện trinh thám với xã hội ta lúc
bấy giờ. Đó cũng là lý do thể loại này thu hút được số lượng bạn đọc rất lớn.
Đối với truyện kinh dị, ông đã tiếp thu nét hiện đại của văn chương
phương Tây và kết hợp lối viết cổ truyền của phương Đông khiến nó trở nên
phù hợp với đối tượng độc giả nước nhà. Ông muốn phản ánh lại những
truyện dị đoan, thần bí mà dòng truyện ngắn truyền kỳ đã đề cập nhưng bằng
con mắt khoa học và đưa cách nhìn ấy đến người đọc.
Ở mảng truyện lãng mạn, Thế Lữ đã mang đến cho độc giả những trang
viết hết sức mượt mà về những cảm nhận, những câu chuyện tình của các
nhân vật; đồng thời cung cấp thêm cho người đọc những hiểu biết về miền đất
thượng du với những phong tục, cách suy nghĩ, quan niệm sống của con
người nơi đó.
Truyện ngắn hiện thực của Thế Lữ gợi cho người đọc bao suy nghĩ về
số phận con người trong nhiều hoàn cảnh xã hội khác nhau. Qua đó, độc giả
nhận ra tấm lòng yêu thương con người và sự cảm thông sâu sắc của tác giả
với nhân vật của mình.
Nhìn chung, với cả hai thể loại truyện kinh dị và trinh thám, Thế Lữ đã
đóng góp lớn cho văn xuôi nghệ thuật nước nhà. Ông thật xứng đáng được gọi
là “người mở đường, đi tiên phong”, “ tiểu thuyết gia có biệt tài”. Càng khám
phá và tìm hiểu, chúng ta càng thấy nhiều điều lý thú và mới mẻ từ những câu
chuyện này mang lại.
Có thể nói: Thế Lữ là một tác gia có đóng góp quan trọng mở đầu xuất
sắc và cách tân trong tiến trình hiện đại hóa văn học, nghệ thuật Việt Nam.
Với bản lĩnh sáng tạo vững vàng, Thế Lữ sớm có tinh thần dân tộc và khát
vọng xây dựng nền văn học, nghệ thuật nước nhà theo hướng hiện đại hóa.
Cách mạng đã giúp ông xác định đúng đắn hơn, sâu sắc hơn vai trò, trách
nhiệm lớn lao và vinh quang của người nghệ sỹ kiểu mới chân chính. Thế Lữ
xứng đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật mà Nhà nước
86
đã truy tặng. Bằng các sáng tác văn chương nổi bật và bằng những hoạt động
văn hóa, văn học và nghệ thuật xuất sắc khác, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn
kịch nói, thi sỹ kiêm văn sỹ, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thế hệ sáng lập,
đạo diễn, Nghệ sỹ Nhân dân Thế Lữ có vị trí quan trọng trong tiến trình văn
87
học, nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1989), Thế Lữ một trong những người thợ cả dựng nền
móng văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại, Tạp chí Văn học, số 5
tháng 6.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm
định, Nxb Khoa học xã hội.
3. Phạm Đình Ân (chủ biên, 2007), Thế Lữ về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
4. Phạm Đình Ân (2006), Vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học Việt
Nam hiện đại, Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Viện Văn học.
5. Lại Nguyên Ân (1993), Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến
trình thơ ca tiếng Việt, Tạp chí Văn học, số 1.
6. Hoàng Minh Châu (1993), Truyện trinh thám của một nhà thơ, Sách
Bài học tình yêu, Nxb Văn học.
Nam Chi (1991), Thế Lữ, Cuộc đời và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 7.
Nguyễn Huệ Chi (2001), Truyện truyền kỳ Việt Nam, quyển 3, Nxb 8.
Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (2002), Huyễn tưởng văn học và truyện kinh dị, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 4,.
Nguyễn Dữ (1999) - Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học Hà Nội. 10.
Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, 11.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa
học xã hội.
13. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Tổng hợp
Đồng Tháp.
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ
88
văn học, Nxb Giáo dục.
15. Khái Hưng (1934), Vàng và Máu của Thế Lữ, Lời tựa cuốn Vàng và
Máu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
16. Nguyễn Hoành Khung (1983), Mấy vần thơ, Sách Từ điển văn học
(Nhiều tác giả), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Lê Đình Kỵ, Lữ Huy Nguyên (Sưu tầm và tuyển chọn, 1995), Tuyển
tập Thế Lữ, Nxb Văn học Hà Nội.
18. Huỳnh Thị Hoa Kỳ (1996), Tiểu thuyết trinh thám, Tạp chí Kiến thức
ngày nay, số 203.
19. Lê Tràng Kiều (1936), Thơ mới Thế Lữ, Hà Nội báo, số 24. 1936.
20. Bồ Tùng Linh (Thế kỉ XVIII, 1999), Liêu trai chí dị, Nxb Văn học Hà Nội.
21. Thế Lữ - truyện chọn lọc (1987), Nxb Văn hóa Hà Nội.
22. Phạm Vĩnh Lộc (1974), Đi tìm thân thế và tác phẩm của Thế Lữ, Tạp
chí Văn học Sài Gòn, tháng 10.
23. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỉ XX, Tạp chí văn học, số 5.
24. Phạm Thế Ngũ (1965), Thế Lữ, Sách Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên, tập 3, Nxb Sài Gòn.
25. Phạm Thế Ngũ, Văn xuôi Thế Lữ in trong Việt Nam văn học sử giản
ước (tập 3), Văn học Việt Nam hiện đại (1982-1945), Nxb Đồng Tháp.
26. Hoàng Kim Oanh (2009), Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám
Edgar Poe, Tạp chí Khoa học xã hội số 9 (133).
27. Lê Huy Oanh (1974), Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong Vàng và
Poe.E.A (Thế kỷ XIX, 1989), Truyện kinh dị, Nxb Lao động, Hà Nội.
Máu, Tạp chí Văn học, (SG tháng 10).
28.
Vũ Ngọc Phan (1989), Sách nhà văn hiện đại, tập 1,2, Nxb Khoa học 29.
xã hội.
30. Vũ Thanh (2001), Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trạng truyện
89
truyền kỳ Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 6.
31. Vũ Thanh (2001), Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong Văn học
Việt Nam hiện đại, Sách những vấn đề lý luận và lịch sử văn học ( Hà
Minh Đức chủ biên), Nxb Khoa học xã hội.
32. Nguyễn Thành (1997), Những đóng góp của Thế Lữ về truyện ngắn,
Tạp chí Cửa Việt, Quảng Trị, số 37.
33. Bùi Việt Thắng (2011), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực
tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
34. Bích Thu - Lưu Khánh Thơ tuyển chọn, Bùi Việt Thắng giới thiệu
(2003), Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Nxb
Văn học Hà Nội.
35. Phan Trọng Thưởng (2001), Thế Lữ, nghệ sỹ hai lần tiên phong, Tạp
chí Văn học, số 7.
36. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả, tác phẩm,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Nguyễn Đình Thi (1997), Nhớ anh Thế Lữ, Báo Quân đội Nhân dân,
ngày 14/6.
38. Trần Vượng (1962), Một giờ với Thế Lữ, Báo Văn học, số 19.
39. Hoài Việt (1991), Thế Lữ cuộc đời trong nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn.
41.
40. http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=751&so=15.
90
http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=68152.