ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÊ VĂN SƠN ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên - năm 2011
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÊ VĂN SƠN ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên - năm 2011
ii
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, tác giả xin chân
trọng cảm ơn: Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên cùng các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý kiến
cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với
TS. Mai Thị Nhung, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả
nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè
đồng nghiệp quan tâm đến luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2011
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lê Văn Sơn
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 6 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 7 6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7 NỘI DUNG ....................................................................................................... 8 Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNHSÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN VÕ THỊ HẢO ...... 8 1.1 Truyện ngắn Việt Nam đương đại ............................................................ 8 1.1.1. Sự chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử - xã hội .................................. 8 1.1.2. Sự chuyển biến của văn học ............................................................. 10 1.1.3. Diện mạo của truyện ngắn ............................................................... 10 1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thụât của nhà văn Võ Thị Hảo ..................... 32 1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn ................................................................ 32 1.2.2. Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo ............. 32
Chƣơng 2: HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO .................................................................. 37 2.1. Cuộc sống đa chiều và số phận con người trong truyện ngắn thế sự của Võ Thị Hảo ...................................................................................................... 37 2.1.1 Cuộc sống đa chiều trong cái nhìn đậm thiên tính nữ của Võ Thị Hảo ... 37 2.1.2. Số phận con người và vấn đề đạo đức nhân sinh trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo ..................................................................... 45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2. Giá trị nhân sinh sâu sắc thời hiện đại qua màu sắc huyền thoại trong truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo ................................................................ 58 2.2.1. Truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo .................................................. 58 2.2.2. Giá trị nhân sinh sâu sắc thời hiện đại trong truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo ................................................................................................. 60 2.3. Truyện ngắn giả lịch sử và khát vọng nhân bản về cuộc sống con người của Võ Thị Hảo ............................................................................................. 64
iv
2.3.1.Truyện ngắn giả lịch sử của Võ Thị Hảo .......................................... 64 2.3.2. Khát vọng nhân bản về cuộc sống con người trong truyện ngắn giả lịch sử của Võ Thị Hảo .............................................................................. 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chƣơng 3: NHỮNG ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO .................................................................................... 70 3.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo ........................................................... 70 3.1.1. Cốt truyện kỳ ảo ............................................................................... 70 3.1.2 Nhân vật mang yếu tố kỳ ảo ............................................................. 73 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 78 3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ......................................................... 78 3.2.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lý ................................................................. 84 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ .................................................................. 89 3.3.1. Nghệ thuật sử dụng động từ mạnh tạo ấn tượng đặc biệt ................ 89 3.3.2 Nghệ thuật sử dụng tính từ với những gam màu nóng, lạnh ............ 95 3.3.3. Nghệ thuật sử dụng các phó từ mang tính chất đột biến ................. 98 KẾT LUẬN .................................................................................................. 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 104
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986), đời sống xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong
lĩnh vực văn học. Sự chuyển đổi từ thời chiến sang thời bình, với những quy
luật của cuộc sống thế sự đời tư đòi hỏi phải có sự nhìn nhận lại văn học và
vai trò của văn học. Bên cạnh đó, do nhu cầu của thời đại, văn học phải có sự
thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ mới, thị hiếu mới của công chúng. Từ đó
các phương diện của đời sống văn học như tác giả, tác phẩm, các hoạt động
sáng tác, lí luận, phê bình… đều có sự chuyển biến tích cực.
Từ sự chuyển biến tích cực ấy, văn học Việt Nam thời kỳ này đã gặt hái
được những thành công trên nhiều lĩnh vực, thể loại, đặc biệt là truyện ngắn.
Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình đã nhận ra xu hướng tìm tòi sáng
tạo, những lối viết hoàn toàn mới mẻ của những nhà văn trẻ đầy tâm huyết với
những tên tuổi không thể không kể đến như Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà,
Hồ Anh Thái, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh... Hoà chung vào dòng chảy đó, nhà văn
Võ Thị Hảo xuất hiện với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính độc đáo với
cách viết mới lạ.
1.2. Võ Thị Hảo một cái tên rất đỗi bình thường, nhưng chị đã từng gây
những ấn tượng mạnh trên văn đàn những năm 90 của thập kỷ trước với
những truyện ngắn Biển cứu rỗi, Vườn yêu, Chuông vọng cuối chiều ..và mấy
năm trở lại đây, chị lại làm cho độc giả sửng sốt và kinh ngạc với các tập
truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Goá phụ đen, hồn
trinh nữ …trong đó Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm đã đạt được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội.
2
Với những tập truyện ngắn đặc sắc của mình, nhà văn Võ Thị Hảo đã
góp phần cách tân nền văn xuôi đương đại Việt Nam, thổi vào đó hơi thở của
cuộc sống và con người với không ít những bộn bề phức tạp. Để làm được
điều này, nhà văn phải có quan niệm mới mẻ về hiện thực cuộc sống con
người, cũng như phải táo bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề... Đây là
những yếu tố quyết định làm nên những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo.
1.3. Nghiên cứu truyện ngắn của Võ Thị Hảo lâu nay đã có không ít
những công trình, nhưng đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của chị để chỉ ra những
đặc điểm nhằm nhận diện một phong cách mới mẻ đa dạng thì vẫn còn là một
khoảng trống. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc điểm truyện ngắn
của nhà văn Võ Thị Hảo”. Hy vọng đề tài sẽ góp phần nhận diện một gương
mặt văn xuôi tiêu biểu và có thể làm tư liệu cho những ai nghiên cứu, yêu
thích văn chương của chị.
2. Lịch sử vấn đề
Võ Thị Hảo đã từng làm thơ từ rất sớm và chị từng nghĩ mình sẽ trở
thành nhà thơ, tuy nhiên chị lại xuất hiện đều đặn trên văn đàn thập kỉ 90 của
thế kỷ XX ở lĩnh vực văn xuôi. Với 10 tập truyện ngắn, hai tiểu thuyết và ba
kịch bản phim, các sáng tác của Võ Thị Hảo đã và đang là mối quan tâm của
nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình và độc giả. Sự xuất hiện một gương
mặt nữ độc đáo trên văn đàn còn có rất nhiều bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn.
Với thời gian có hạn, trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ đi vào
một số khía cạnh có liên quan trực tiếp đến đề tài.
2.1. Về nội dung
Nguyễn Lương trong bài viết Gương mặt Võ Thị Hảo đã nêu những ấn
tượng tổng quát về truyện ngắn của Võ Thị Hảo. Theo tác giả, truyện của chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Mỏng manh đến điệu đà, nhạy cảm đến mức khắt khe, đó là cảm giác ban
3
đầu về nữ văn sĩ xứ nghệ này khi mới đọc, mới tiếp xúc với chị. Còn ẩn sau
những câu chữ trau chuốt là những tâm sự day dứt khôn nguôi về số phận con
người, về cuộc đời và nhân tình thế thái. Đọc truyện Võ Thị Hảo, người ta
thường buồn. Một nỗi buồn có lẫn sự ngọt ngào và cay đắng” [12].
Với sự phát hiện tinh tế, Phùng Hữu Hải trong bài viết Yếu tồ kì ảo trong
truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975 đã nhìn nhận những sáng tác của
Võ Thị Hảo ở khía cạnh cảm hứng triết luận về người phụ nữ: “Võ Thị Hảo
qua chùm truyện Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Hành trang của người đàn bà
Âu lạc tỏ ra đặc biệt hứng thú với đề tài này. Dựa vào cảnh ngộ của những
người phụ nữ mang nỗi đau của cả thế giới đàn bà, Võ Thị Hảo tìm ra những
quy luật nghiệt ngã của đời người phụ nữ”….
Bùi Thanh Truyền trong luận án tiến sỹ của mình đã chỉ ra những thông
điệp mà Võ Thị Hảo muốn gửi gắm qua các tác phẩm: “Người chăn bò thần
thánh với những chi tiết về giống bò tập thể kì lạ: Chúng không cần ăn cỏ,
không cần bài tiết, chỉ cần “nhúm môi, phồng má thổi phù một cái, thế là cả
đàn bò cứ ngoan ngoãn lừ lừ ra như một đàn bóng khổng lồ” đây chính là cái
nhìn phê phán một thời kì hợp tác không ít những non nớt, tiêu cực…người
viết phần nào lộ ra cái thế giới bí ẩn, phức tạp của tâm hồn con người hôm
nay”[ 55].
Với trái tim nhạy cảm của người cùng giới, trong bài viết Võ Thị Hảo
giữa những trang viết trang đời tác giả Lương Thị Bích Ngọc nhận xét khá
đầy đủ và toàn diện về truyện ngắn của Võ Thi Hảo: “Truyện ngắn của Võ
Thị Hảo phản ánh hiện thực một cách nghiệt ngã nhưng người đọc lại không
nhìn thấy sự cay nghiệt của một người viết. Lan toả trên những trang viết, một
tấm lòng nhân ái của một người đàn bà cầm bút hết lòng yêu cuộc sống và
con người”. Lương Thị Bích Ngọc còn nhận xét: Trong truyện Võ Thị Hảo,
cái tôi của tác giả dường chỉ thấp thoáng đâu đó, để rồi người đọc thấy được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cái tôi hiện hữu [14].
4
Nhìn chung, về phương diện nội dung, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy
những đặc sắc trong truyện ngắn Võ Thị Hảo đó là “những tâm sự day dứt
khôn nguôi về số phận con người, về cuộc đời và nhân tình thế thái”; là “cảnh
ngộ của những người phụ nữ mang nỗi đau của cả thế giới đàn bà”; là “hiện
thực...nghiệt ngã”...nhưng “lan toả trên những trang viết là một tấm lòng nhân
ái của một người đàn bà cầm bút hết lòng yêu cuộc sống và con người”. Tuy
nhiên đó mới chỉ là những nhận định khái quát nhưng vô cùng qúy báu để
chúng tôi thực hiện luận văn của mình.
2.2. Về nghệ thuật
Trên báo Thể thao văn hoá, trong bài viết Võ Thị Hảo giữa những trang
viết trang đời, tác giả Lương Thị Bích Ngọc rất tinh tế nhận xét: “Đọc truyện
chị, thấy cuốn hút cứ tưởng mình bị mê hoặc bởi lối kể truyện cuốn hút, có
duyên và lối văn vừa cũ, vừa mới, vừa quen, vừa lạ”, “một hiện thực nghiệt
ngã được chở đi trên lối văn phong ảo - thực và câu chữ ngột ngào, dịu nhẹ”.
Tác giả Quang Hải trong Nhà văn Võ Thị Hảo và những cố gắng giải
thiêng huyền sử lại dẫn dắt người đọc vào thế giới của tập truyện Những
truyện không nên đọc lúc nửa đêm. Theo tác giả, Đêm bướm ma là câu
chuyện “mang không khí huyền hoặc pha mùi cổ sử thi đọng lại rất lâu. Có
hơi hướng của Liêu trai chí dị, của Truyền kì mạn lục và dĩ nhiên nó được
cảm nhận bởi con người hiện đại…”.
Cùng với nó, người viết cũng chỉ ra sự khác biệt về nghệ thuật qua giọng
điệu của hai truyện ngắn Dệt cỏ và Người chăn bò thần thánh. Ở Dệt cỏ là
giọng văn thương cảm, xót xa. Còn Người chăn bò thần thánh là giọng giễu
nhại, phê phán.
Tác giả Đoàn Minh Tuấn đi sâu nhận xét từng tập truyện của nhà văn, trong
bài giới thiệu tập truyện Biển cứu rỗi của Võ Thị Hảo có nhận xét về đặc trưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể loại và nội dung truyện ngắn của chị: “Võ Thị Hảo đã tận dụng được đặc
5
trưng lớn nhất, tiêu biểu nhất của thể loại truyện nhỏ này. Mỗi truyện của chị là
một tia nắng chiếu vào tầm rộng và chiều sâu biển cả cuộc đời” .
Và theo Đoàn Minh Tuấn, ở tập truyện Biển cứu rỗi, chị còn tập trung
vào hai khía cạnh “Cái nhìn thứ nhất vào mặt trái của vầng trăng chiến tranh.
Cái nhìn thứ hai vào những con người nhỏ bé (số đông nhân loại) tồn tại trong
im lặng”. Qua nhận định, tác giả đã đánh giá chiều rộng, cũng như chiều sâu
phạm vi phản ánh truyện ngắn Võ Thị Hảo. Tác giả còn nhận xét “Truyện
ngắn của Võ Thị Hảo còn bộc lộ cái nhìn dung dị, bẩm sinh của những cây
bút nữ nhưng ở chị còn sâu sắc hơn bởi khi chấm dứt câu chuyện, chị đã
gióng lên trong lòng người đọc âm vang của sự lo lắng, mơ hồ về cuộc đời
biển cả” .
Đi sâu vào phương diện nghệ thuật, Đoàn Minh Tuấn nhận xét lối viết
của nhà văn nữ tài hoa này: “Lối viết trữ tình để đạt hiệu quả nhận thức- một
trong những đặc điểm của thể loại truyện ngắn hiện đại”, còn về bút pháp
trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo có những nét riêng “Cốt truyện vững chắc
với những xung đột được đẩy tới cao trào”.
Bài viết Võ Thị Hảo, vầng trăng mồ côi trên trang web http:// chim
viet.free\ tacpham1\stt1\ vothihao.html đã đặt sáng tác của Võ Thị Hảo trong
sự so sánh với các nhà văn khác: “Người đọc có thể tìm thấy trong văn phong
của Võ Thị Hảo cái tàn nhẫn, chất huyền thoại phảng phất cơn mưa Nguyễn
Huy Thiệp, bóng mây Phạm Thu Hoài”. Người viết còn cho rằng “Cay độc và
ẩn dụ trở thành phong trào, thành phong cách thời đại, dấu ấn của thế hệ này”.
Trên đây là những bài viết, những ý kiến, nhận xét, đánh giá tiêu biểu về
đặc điểm truyện ngắn của Võ Thị Hảo trên hai phương diện nội dung và nghệ
thuật. Như đã trình bày, đây mới là những nhận xét đánh giá mang tính khái
quát ở những khía cạnh khác nhau của các nhà nghiên cứu phê bình. Cho đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên biệt đặc điểm truyện ngắn của Võ
6
Thị Hảo. Chọn đề tài này, chúng tôi sẽ tham khảo những ý kiến, nhận định
của các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn, từ đó triển khai
vấn đề để làm nổi bật đặc điểm truyện ngắn Võ Thị Hảo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi vào nghiên cứu, khảo sát, phân tích lý giải đặc điểm truyện
ngắn của Võ Thị Hảo trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trên cơ sở
so sánh với một số nhà văn đương đại để khẳng định những nét riêng trong
sáng tác của nhà văn. Từ đó khẳng định những đóng góp quý báu của chị cho
nền văn xuôi đương đại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm của truyện ngắn của Võ Thị Hảo trên hai phương diện nội dung và
nghệ thuật.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề trong 10 tập truyện ngắn của Võ Thị Hảo:
Biển cứu rỗi - tập truyện ngắn, Nxb Hà Nội, 1991
Chuông vọng cuối chiều - tập truyện ngắn, Nxb Lao động, 1993
101 cái dại của đàn ông (phóng tác),Nxb Văn hoá dân tộc, 1994
Truyện ngắn chọn lọcVõ Thị Hảo, Nxb Hội nhà văn, 1995
Ngậm cười - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ,1998
Nàng tiên xanh xao - tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi,Nxb Kim Đồng,
2000
Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ,
2005
Goá phụ đen - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2005
Hồn trinh nữ - tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2005
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người sót lại của rừng cười tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2006
7
Do thời gian có hạn, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào một số truyện ngắn
đặc sắc để khái quát, phân tích.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1 Phương pháp thống kê, hệ thống
5.2 Phương pháp phân tích tác phẩm
5.3 Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học
5.4 Phương pháp khái quát tổng hợp
5.5 Phương pháp so sánh
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận
văn được triển khai trên 3 chương:
Chương 1: Truyện ngắn Việt Nam đương đại và hành trình sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn Võ Thị Hảo
Chương 2: Hiện thực cuộc sống và con người trong truyện ngắn Võ Thị Hảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chương 3: Những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo
8
NỘI DUNG Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN VÕ THỊ HẢO
1.1 Truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
1.1.1. Sự chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Mùa xuân 1975- dấu son lịch sử của dân tộc Việt Nam, đất nước hoàn
toàn độc lập, Bắc- Nam sum họp một nhà, cả dân tộc bước vào thời kỳ xây
dựng cuộc sống mới. Chiến tranh qua đi, cả dân tộc hào hứng, tự hào với tư
cách là người làm chủ đất nước, hăm hở bước vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên sau niềm vui chiến thắng, dân tộc Việt Nam phải đối
mặt với hàng loạt những khó khăn chồng chất. Đó là sự khủng hoảng sâu sắc
về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với
điều kiện mới, đòi hỏi cần phải có sự thay đổi cho phù hợp.
Nhưng sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước lại một lần nữa được thể hiện để đưa đất
nước khỏi tình thế hiểm nghèo. Đường lối đổi mới đã hình thành từ trong thực
tiễn, từ những biện pháp cụ thể để “tự cởi trói” của nhiều cơ quan công sở và
một số địa phương, đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã trở
thành cương lĩnh để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và bước
vào thời kỳ phát triển mới. Từ đây sự suy thoái kinh tế đã được chặn đứng,
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngày một cao và dần dần nền kinh tế thị
trường được hình thành. Đổi mới cũng có nghĩa là mở cửa, tăng cường giao
lưu và hội nhập quốc tế trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá...Từ
đó, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự thay đổi theo hướng tích cực, làm biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đổi sâu sắc, toàn diện hình ảnh của đất nước. Tuy còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn,
9
phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn nhưng con đường đi lên
xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp đã rõ ràng và không thể đảo ngược.
Đường lối đổi mới của Đảng được thực hiện từ năm 1986. Cùng với
sự đổi mới về cơ cấu quản lý, trong đại hội VI Đảng đã có sự nhìn nhận và
đổi mới về văn hoá, văn nghệ, cần phải có cái nhìn đúng đắn đối với văn hoá,
văn nghệ - “cởi trói tư tưởng” cho các văn nghệ sỹ. Mở đầu là lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Văn Linh với lời kêu gọi các nhà văn ủng hộ cuộc cải cách
kinh tế của nhà nước bằng cách viết về sự thật. Tháng 12 – 1986, Bộ chính trị
thông qua nghị quyết của ban văn hoá, cho phép các nhà văn được dân chủ
trong sáng tạo. Từ đây văn hoá văn nghệ đã có sự chuyển mình rõ rệt, từ nội
dung tư tưởng cho đến hình thức nghệ thuật. Các nhà văn có thể thoả sức sáng
tạo theo năng lực và sở trường ý tưởng của mình trên cơ sở của định hướng tư
tưởng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy từ 1986 tới nay, bối cảnh lịch sử của Việt Nam có nhiều sự
thay đổi. Mặc dù còn có nhiều những hạn chế, tiêu cực, nhưng về cơ bản đất
nước đã gặt hái được nhiều thành công, không chỉ phát triển kinh tế đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà đời sống nhân dân ngày một nâng cao
ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Văn hoá, văn nghệ cũng có
sự nhìn nhận, phát triển đúng đắn hoà nhập với khu vực và thế giới.
Nói tóm lại, bối cảnh lịch sử Việt Nam sau 1975 cho tới nay có nhiều
diễn biến phức tạp. Đất nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách
nhưng cũng gặt hái được không ít thành công. Tất cả những yếu tố đó đã ảnh
hưởng lớn tới đời sống văn học, đúng như nhận định của nhà văn Nguyễn
Khải: Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà
bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chứa chấp những sóng ngầm, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong
10
chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự
do và độc lập.[59]
1.1.2. Sự chuyển biến của văn học
Văn học Việt Nam trong 30 năm, từ 1945 đến 1975 đã làm trong sứ
mệnh lịch sử cao cả của một nền văn học phục vụ cách mạng, phục vụ nhiệm
vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu. Khi đất nước bước sang thời bình, nhu cầu đổi
mới văn học đã dần trở thành đòi hỏi chung của giới sáng tác lẫn công
chúng. Văn học đã hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới, trên cơ
sở đổi mới toàn diện các quan niệm về văn chương, về hiện thực, về con
người. Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của văn học trước đây vốn được xem là
những chân lý hiển nhiên, thì giờ đây cũng được xem xét lại, và trở thành
những vấn đề được tranh cãi, bàn thảo khá sôi nổi. Bên cạnh đó đường lối mở
cửa, hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội mở rộng giao lưu văn hoá, văn học giữa
nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là phương Tây. Nhờ thế mà nhiều
trào lưu, nhiều khuynh hướng hiện đại của thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc tại
Việt Nam, tác động đến sự tìm tòi, sáng tạo của nhà văn và làm biến đổi cả thị
hiếu tiếp cận của công chúng.
Cuộc đổi mới văn học vừa là hệ quả, lại vừa là một động lực thúc đẩy
công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Đó là những tiền đề quan trọng để
văn học thấy cần phải đổi mới chính mình.
1.1.3. Diện mạo của truyện ngắn
1.1.3.1 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực
Hiện thực là tất cả những gì đang diễn ra xung quanh con người. Nó
tồn tại và phát triển theo quy luật riêng của nó. Mỗi con người có sự nhìn
nhận, đánh giá riêng đối với hiện thực, tuỳ thuộc vào sự nhận biết cũng như
khả năng quan sát, mục đích tiếp nhận mà có những đánh giá khác nhau về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống hiện thực. Với những người sáng tác, hiện thực được nhận thức,
11
đánh giá theo quan niệm thẩm mĩ riêng. Theo Trần Đình Sử, quan niệm trong
nghệ thuật là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện
tầm lí giải, tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói
tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng
để trên cơ sở đó diễn ra sự lựa chọn, khái quát , nhào nặn, tạo ra hình tượng
nghệ thuật, thậm chí có thể biến đổi hình dạng sự vật hoặc miêu tả không
chính xác về đời sống.[41 ]
Như vậy, quan niệm về hiện thực thuộc về chủ thể sáng tạo nên mỗi
nhà văn có quan niệm riêng về hiện thực. Đó là sự nhận thức, đánh giá về
hiện thực đời sống theo một quan điểm thẩm mĩ nhất định. Như thế quan
niệm nghệ thuật của nhà văn về hiện thực không chỉ là nhận thức trừu tượng,
lí thuyết, chung chung. Ngược lại, đó là cách nhìn, cách cảm nhận về hiện
thực được nâng lên tầm khái quát nhưng vẫn mang hơi thở của cuộc sống và
gắn bó máu thịt với hiện thực. Quan niệm về hiện thực thể hiện sự khám phá,
lí giải, trình độ chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn. Mỗi nhà văn khi khám phá
hiện thực thường có một vùng đối tượng thẩm mĩ riêng mà ở đó ghi đậm dấu
ấn của mình.
Thời kì trước năm 1975, văn học nói chung, văn xuôi nói riêng nhất là
các tác phẩm truyện ngắn, do yêu cầu của hiện thực đất nước có chiến tranh,
vì vậy mà các tác phẩm chủ yếu là phản ánh hiện thực chiến tranh. Đó là hiện
thực của cuộc sống chiến đấu hoặc vừa chiến đấu vừa sản xuất, được bao phủ
bởi một lớp men trữ tình. Hiện thực được truyền tải vào các tác phẩm văn học
không chỉ là hiện thực của cuộc sống vốn có của nó mà còn là hiện thực của
hi vọng, ước mơ.
Sau 1975, khi hiện thực cuộc sống thay đổi, thì tư duy nghệ thuật cũng
thay đổi cho phù hợp với hiện thực và dường như biên độ phản ánh ngày càng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được mở rộng. Đó không chỉ là hiện thực về chiến tranh và công cuộc đấu
12
tranh giành lại độc lập của dân tộc, mà còn là cuộc sống của thời bình với
muôn màu muôn vẻ của nó. Cuộc sống được phản ánh vào trong tác phẩm
không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn đau của
con người phần hậu chiến, là cuộc sống với tất cả cái sôi động quyết liệt của
cuộc đấu tranh cũng như cái đời thường vừa nhân hậu ấm áp , vừa nhếch
nhác lấm lem.[57 ]
Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực là một điều tất yếu. Nó phù
hợp với quy luật và giúp nhà văn phản ánh cuộc sống một cách khái quát,
toàn vẹn, chân thực. Văn xuôi sau 1975 đã vượt qua sự lệ thuộc vào đề tài,
vào một sự định hướng trước để mở ra khả năng phong phú vô tận trong việc
khám phá và thể hiện đời sống con người. Nhà văn có thể thoả sức sáng tạo,
đi vào những góc khuất của cuộc sống con người, nơi mà trước đây họ ít có
điều kiện để khai phá. Đó là những ham muốn, những khát vọng, dục vọng
cao cả hay tầm thường của con người, trong chiều sâu của tâm tưởng, những
mặt trái của cuộc sống.
Các sáng tác văn học trước 1975, phần lớn là những sáng tác gắn liền
với cuộc chiến tranh anh dũng của dân tộc. Điểm nổi bật của các sáng tác thời
kì này là tính thời sự, và mang sức động viên cổ vũ lớn với đối với dân tộc.
Tuy nhiên sau 1975, do hiện thực cuộc sống thay đổi, văn học phải thay đổi
cho phù hợp với hiện thực, yêu cầu tái hiện lịch sử phải gắn liền với đòi hỏi
đi sâu vào số phận và diễn biến của con người; viết về cuộc chiến tranh hôm
qua phải đặt trong tương quan với những yêu cầu của cuộc sống hôm
nay.[58]
Do đặc trưng thể loại và yêu cầu của hiện thực, truyện ngắn sau 1975
vẫn tiếp tục sáng tác về đề tài chiến tranh. Viết về đề tài chiến tranh, nhưng
thời kì này cách khai thác không hoàn toàn giống trước. Mặc dù các sự kiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
về chiến tranh vẫn là trục chính để các tác giả triển khai vấn đề, nhưng sự
13
kiện lúc này chỉ là nền để nhân vật bộc lộ tính cách của mình và nhà văn bộc
lộ một tư duy nghệ thuật mới. Hoàn cảnh ngặt nghèo, bi thương của chiến
tranh vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều tác phẩm như Hai người trở lại
trung đoàn của Thái Bá Lợi, Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng… Trong đó
hình ảnh về người lính anh hùng vẫn được ca ngợi, nhưng chiến tranh là một
cuộc kiểm nghiệm vô cùng khắc nghiệt với con người, sàng lọc mọi giá trị
con người. Trong đó có những anh hùng hy sinh về nghĩa lớn, cũng có những
kẻ hèn nhát sợ chết, phản bội hay rũ bỏ tất cả để tiến lên những bậc thang
danh vọng. Nhân vật trong thời kì này đã bắt đầu được nhìn nhận một cách
khái quát, toàn diện.
Nhân vật còn được đặt vào hoàn cảnh của chiến tranh, để từ đó nhà
văn thể hiện số phận không đơn giản của con người khi viết về chiến tranh.
Âm hưởng chung của các tác phẩm này vẫn thiên về ca ngợi những con người
anh hùng, nhưng đằng sau đó còn là hình ảnh của cả dân tộc, anh dũng kiên
cường. Truyện ngắn Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng, kể về hai vợ chồng
người phóng viên phương Tây được một người lính lái xe người Việt Nam
đưa qua biên giới Campuchia. Hành trình không dài nhưng họ phải đối diện
với nhiều nguy hiểm của tàn quân Pônpốt. Chiếc xe đi qua nhiều chạm gác
nhưng tới chạm gác cuối cùng thì bị tấn công. Người lính lái xe trúng đạn,
trước lúc kẻ thù bắn quả B41 để huỷ diệt cả xe thì người lính vẫn giữ chặt tay
lái cho xe vượt qua cõi chết để cứu sống vợ chồng người phóng viên. Hành
động của anh lính khiến họ hiểu rằng một dân tộc vị tha, sống chết vì người
khác, điều đó đã trở thành một đạo lí, một nguồn năng lượng vô tận , một
nguồn sức mạnh diệu kì để vượt qua mọi gian khổ. Điều mà nhà văn hướng
tới không phải là sự mô tả chiến tranh thông thường mà là sự cắt nghĩa cội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguồn đã làm nên chiến thắng.
14
Bên cạnh đó, chiến tranh còn được nhìn ở nhiều góc cạnh khác nhau.
Nhiều truyện ngắn thời kì này lấy chiến tranh làm tấm gương để con người
soi ngắm chính mình và những người xung quanh. Trong truyện ngắn Cơn
giông của Nguyễn Minh Châu, nhà văn đã lí giải vì sao nhân vật Quang lại
chiêu hồi kẻ thù. Đó là một con người luôn luôn thèm khát dục vọng cá nhân,
khi cách mạng gặp khó khăn, y thành kẻ chiêu hồi. Nhân vật Quang đã được
nhà văn miêu tả một cách nhất quán trong việc làm và hành động của y suốt
cuộc đời. Chiến tranh lúc này là lúc y bộc lộ rõ nhất bản chất của mình.
Trong truyện ngắn Những năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như
Trang, kể về một nữ phóng viên đến với những người lính ở mặt trận Tây
Nam, chính ở đây chị đã nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Là một
phóng viên, chị luôn khao khát tìm kiếm sự mới mẻ, hoà chung vào những số
phận để tạo lên những trang viết riêng cho mình. Đến với chiến trường Tây
Nam, chứng kiến những người lính hi sinh mà trong lòng chị luôn day dứt với
câu hỏi sống như thế tôi sẽ có ích gì cho cuộc đời này? Như vậy, chiến tranh
không chỉ là thước đo giá trị con người, đồng thời cũng giúp con người nhận
thức về cuộc sống và sống có ý nghĩa hơn. Chiến tranh được nhìn từ tiêu điểm
con người với số phận cá nhân, ở đó con người vừa chịu sự chi phối của hoàn
cảnh, vừa tác động lên hoàn cảnh. Hiện thực của chiến tranh có nhiều thay đổi
so với thời kì trước. Nhà văn không chỉ giúp người đọc hiểu về chiến tranh
mà còn nhận thức sâu sắc cái giá của chiến thắng.
Song song với hiện thực chiến tranh là hiện thực về cuộc sống đời
thường sau cuộc chiến. Sau 1975, hiện thực về thế sự đời tư ngày càng chiếm
một vị trí quan trọng trong văn xuôi, nhất là thể loại truyện ngắn. Mở đầu là
nhà văn Nguyễn Minh Châu với hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành và Bến quê nhà văn đã khám phá những hình ảnh bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thường của cuộc sống đời thường vô cùng phức tạp nhưng cũng không kém
15
phần đẹp đẽ và thơ mộng. Nguyễn Minh Châu đã tìm ra những khía cạnh của
cuộc sống từ những gì nhỏ nhặt, bình thường của nhân tình thế thái, của
những số phận nhỏ bé nhưng lại là số phận chung của nhiều con người. Đúng
là ông có khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn (Lê Lựu). Mới chỉ sống ở
thời kì đầu của những năm đổi mới, nhưng Nguyễn Minh Châu đã nhìn thấy
những vấn đề khá phức tạp của thời buổi kinh tế thị trường, với sự phân hoá
của các thế hệ trong mỗi gia đình (Giao thừa), là ý chí khát vọng làm giàu của
những người nông dân (Khách ở quê ra), là lối sống phương Tây đã du nhập
vào các gia đình truyền thống (Sắm vai)…Đúng là Nguyễn Minh Châu như
một người đi biển lành nghề đã nghe thấy trong hơi gió và tiếng sóng những
điểm báo về cơn lốc mới mà ảnh hưởng của nó đến các mặt sẽ trở thành phổ
biến trong đời sống xã hội vào những năm chín mươi [57]
Cũng tiếp cận ở khía cạnh thế sự, đời tư, nhà văn Ma Văn Kháng đã
nhìn thấy những khía cạnh của cuộc sống đời thường vào những năm 80, là
một hiện thực vô cùng phức tạp, không thể biết trước, không thể biết hết, con
người vẫn đang là những điều bí ẩn cần tìm tòi khám phá. Hơn ai hết Ma văn
Kháng đã tìm thấy từ trong hiện thực ấy vẻ đẹp nhân sinh có sức lan toả, có
khả năng thuyết phục lòng người. Đó là vẻ đẹp của chú bé Kiểm, trong truyện
ngắn Kiểm- chú bé- con người. Dẫu bị thiếu thốn, vùi dập, đầy đoạ nhưng chú
bé vẫn tràn đầy lòng yêu thương nhân hậu và vị tha. Đó còn là giọt nước mắt
muộn màng, giọt nước mắt của sự chiến thắng cái trì trệ, thờ ơ, vô trách
nhiệm của con người trước cuộc sống của nhân vật ông Luyến (Mất điện).
Qua đó nhà văn đã gửi một thông điệp quý giá tới con người: Yêu thương
những kẻ ngoài huyết thống, yêu thương con người với tính cách đồng loại,
một tình yêu ấy mới thật hiếm hoi và rất cần vun đắp[56].
Sau 1975, hiện thực thay đổi với những mặt tốt và mặt trái của cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống thời bình, nhiều nhà văn như Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương,
16
Nguyễn Thị Minh Huệ... đã khai thác sâu sắc khía cạnh này. Trong tập truyện
ngắn Một chiều xa thành phố Lê Minh Khuê đã phản ánh những cơn lũ của
đời sống tiện nghi, của tâm lí tiêu dùng, của thói lãnh cảm với quá khứ, với
đồng loại của những con người thời đại. Cũng theo hướng khai thác này
Dương Thu Hương trong Ban mai yên ả, đã thể hiện một cách rõ nét hơn. Nhà
văn đã nhìn thẳng vào những mặt trái của cuộc sống, phần lẩn khuất của cuộc
sống con người mà đưa lên trang sách.
1.1.3.2. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm về con người trong văn học là quan niệm nghệ thuật được
nhà văn nhận thức và phản ánh trên cơ sở của hiện thực. Có nhiều cách quan
niệm nghệ thuật về con người được nhìn nhận và xem xét ở nhiều góc cạnh
khác nhau. Theo thi pháp học Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải,
cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hoá thân thành các nguyên tắc,
phương tiện, biện pháp, hình thức để thể hiện con người trong văn học, tạo nên
giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hiện tượng nhân vật trong đó [40]
Như vậy, tìm hiểu nghệ thuật về con người tức là tìm hiểu cách nhìn,
sự khám phá, lí giải, trình độ chiếm lĩnh của nhà văn về con người. Quan
niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tinh thần, là phương tiện hàng đầu để
xác định những đặc trưng cơ bản, xác định trình độ, tài năng, sự đóng góp của
nhà văn cho văn học và đời sống. Quan niệm về con người liên quan đến toàn
bộ quá trình sáng tác của nhà văn, đến tất cả các yếu tố nội dung và hình thức
của tác phẩm. Nó đánh dấu sự thay đổi đáng kể của hệ tư duy trong sáng tác
của nhà văn. Tuy nhiên không thể quy nó vào tinh thần đạo đức, chính trị,
nhận thức cảm tính hay tư duy lí luận của họ. Tiến trình lịch sử văn học cũng
cho thấy, sự đổi mới văn học thường gắn liền với sự đổi mới quan niệm nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuật về con người. Theo Trần Đình Sử chừng nào chưa có sự đổi mới trong
17
quan niệm nghệ thuật về con người, thì sự tái các hiện đời sống khác nhau chỉ
có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu [41]
Văn học thời kỳ trước 1975, chủ yếu nhấn mạnh tính tư tưởng của con
người và gia tăng các yếu tố xã hội. Với mỗi tác phẩm đòi hỏi phải là hiện
thực của đời sống và phải mang nội dung chính trị, xã hội, lịch sử của thời
đại. Con người trong văn học giai đoạn này được nhận thức đánh giá, khám
phá chủ yếu là góc độ chính trị, trong quan hệ giữa ta và địch. Niềm vui, nỗi
buồn của con người hoà chung trong niềm vui, nỗi lo của dân tộc, giai cấp.
Các nhà văn thường tập trung ca ngợi chiến công của cá nhân và tập thể trong
chiến đấu và sản xuất, qua đó là khẳng định tầm vóc lịch sử của con người,
của những chiến công. Hình tượng trung tâm trong văn học giai đoạn này là
những người chiến sĩ- những người xả thân vì lí tưởng, gắn bó hết mình với
sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước.
Sau 1975 khi chiến tranh kết thúc, bao khó khăn, thử thách mới đặt ra
trong đời sống hoà bình. Sự phức tạp cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra
nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau, thực tế đòi hỏi phải có nhiều tiếng nói
thể hiện nhu cầu phong phú đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh của con
người. Từ tâm lí tình cảm, đời sống riêng tư của từng cá nhân đến những khát
vọng đời thường của con người trong thời bình... Tất cả những biểu hiện của
con người trong đời sống từ đời sống kinh tế, chính trị , đạo đức xã hội phong
tục tập quán đến tình yêu hạnh phúc, đời sống tâm linh đều được các nhà văn
quan tâm thể hiện. Con người được khám phá ở nhiều chiều, nhiều hướng
khác nhau, từ các mối quan hệ cho đến thế giới nội tâm, trong đó chiều hướng
đi vào khám phá thế giới nội tâm của con người được thể hiện nội bật. Các tác
phẩm truyện ngắn sau 1975 đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh
hiện thực con người trong giai đoạn mới một cách nhanh nhậy, sắc bén hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các thể loại khác.
18
Từ một nền văn học có tính chất phản ánh con ngưòi trong quan hệ
cộng đồng, con người thường mang những phẩm chất cao đẹp, có ý chí và sức
mạnh phi thường, kết tinh của những vẻ đẹp tinh thần, lí tưởng cao cả của dân
tộc, văn học sau 1975 chuyển sang phản ánh con người cá nhân. Con người
được miêu tả trong văn học không đơn thuần là con người đại diện cho cái
chung mà là con người cá nhân trong mối quan hệ đa chiều phức tạp. Con
người được trở về với ý nghĩa nhân bản vốn có. Từ nhiều góc nhìn khác nhau,
con người được nhà văn đi sâu vào nội tâm khám phá chiều sâu của tâm
tưởng với những khát vọng cao cả cũng như tầm thường của con người, được
thể hiện sâu sắc và sinh động.
Trong truyện ngắn Việt Nam từ 1975 quan niệm về con người được
nhìn nhận một cách tổng thể và ngày càng có cái nhìn sâu sắc và mang tầm
khái quát cao. Số phận cá nhân với những bi kịch được thể hiện một cách sâu
đậm, mạnh mẽ. Con người cá nhân trong văn học giai đoạn này được giải
quyết thoả đáng mối quan hệ với cộng đồng. Con người cá nhân không phải là
sự cô lập cá nhân với cộng đồng xã hội mà đằng sau mỗi số phận cá nhân vẫn
là những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống hôm nay.
Đi qua chiến tranh, đất nước Việt Nam, con người Việt Nam không chỉ
mang trên mình những vết thương về thể xác, mà lớn hơn là vết thương về
tinh thần. Sự mất mát này được nhiều nhà văn đề cập trong nhiều truyện ngắn,
từ nhiều góc nhìn mới mang ý nghĩa nhân bản đã được đề cập. Truyện ngắn
Gió từ miền cát của tác giả Xuân Thiều đã đề cập tới mối tình tay ba giữa
Dương, Nụ và Thắm. Nhân vật Dương là một cán bộ, một đảng viên đã có vợ
là Nụ. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Dương đã yêu Thắm, một cô gái
mới lớn năng nổ, dũng cảm. Hai người đã có con với nhau, nhưng Thắm đã
chịu kỉ luật để bảo vệ Dương và đứa con của hai người. Sau khi Dương hy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sinh, Thắm đã tìm gặp Nụ nói rõ sự thật mà bấy lâu nay đã giữ trong lòng, để
19
đứa con có thể trở về với gia đình thực sự của mình. Tưởng mọi chuyện trở
lên phức tạp, rắc rối nhưng với nhìn mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, nhà văn
đã xử lí một cách thấu đáo. Nụ đã giải toả được nỗi hoài nghi, vượt qua nỗi
đau về tinh thần để tha thứ cho Thắm và nhận đứa trẻ là con. Thay đổi cách
nhìn giáo điều, khắt khe, tác giả đã đưa ra cách nhìn nhận xử lí mới, qua đó
đã thể hiện tính nhân bản vốn có trong truyền thống dân tộc.
Khám phá con người, các nhà văn hướng vào quá trình tự nhận thức
của con người. Theo Bakhtine : Trong con người bao giờ cũng có một cái gì
mà chỉ có bản thân người đó là có thể phát hiện bằng tự nhận thức tự do,
bằng hành vi ngôn ngữ, là cái mà người ta không thể xác định theo bề ngoài
và sau lưng được [34] . Như vậy chỉ có tự nhận thức, con người mới tự phát
hiện ra chính mình. Con người tự nhận thức là con người được nhìn bên
trong, con người trầm tư, nghiền ngẫm, nhận diện chính mình. Con người tự
nhận thức cũng là con người có năng lực tự ý thức về mình.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn có một số lượng lớn viết về quá trình tự
nhận thức. Nhân vật tự ý thức xuất hiện với tần số lớn, tập trung ở hai tập
truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê . Trong nhiều
truyện ngắn các nhân vật đã tự nhận thức lại chính mình. Bắt đầu bằng truyện
ngắn Bức tranh, nhà văn đã khai thác cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật với
khát vọng tìm tòi và phát hiện ánh sáng nhân tính trong khả năng tự thức tỉnh
của con người. Một hoạ sỹ đã từ chối vẽ bức chân dung anh bộ đội để gửi cho
mẹ chứng tỏ mình vẫn còn sống. Sau đó chính anh chiến sỹ này lại được giao
nhiệm vụ mang tranh giúp hoạ sỹ và anh đã cứu ông ta khỏi lũ cuốn. Hoạ sỹ
đã vẽ chân dung của anh nhưng không đem đến cho bà mẹ anh như đã hứa.
Bức tranh vẽ người chiến sỹ sau này được gửi đi dự triển lãm ở nước ngoài và
giành được giải thưởng cao. Tình cờ, người hoạ sỹ gặp lại anh chiến sỹ, bây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giờ là thợ cắt tóc và biết được bà mẹ anh đã bị loà vì không nhận được tin tức
20
của con. Nhà văn đã miêu tả sự giằng co giai giẳng giữ dội trong nhân vật hoạ
sỹ, nhà văn đã thể hiện phép thử đối với nhân vật. Các phép thử đó có giá trị
giả định về khả năng lựa chọn và phân định rạch ròi giữa các thái cực hèn
nhát và dũng cảm, cao thượng và thấp hèn. Tất cả chỉ nhằm mục đích để cho
đối tượng tự nhận thức, tự làm sáng tỏ bản chất con người.
Cả trong sự khám phá giữa con người với thế giới tự nhiên đầy bí ẩn,
tác giả cũng đã có những lý giải riêng. Truyện ngắn Một lần đối chứng là
khát vọng của nhà văn trong hành trình nhận thức và khám phá các quy luật
tồn tại của con người. Nhà văn viết: Mọi người từng thử một lần làm một sự
đối chứng với loài vật- một cuộc đối chứng giữa thiện và ác, giữa lý trí, trí
tuệ và bản năng mù quáng. Cũng là một cuộc đối chứng về mặt nhân cách và
phi nhân cách giữa cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và
khoảng bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi miếng đất nương
náu và gieo mầm của lỗi lầm và tội ác [7].
Sau chiến tranh, hướng tìm tòi khai thác của nhà văn Nguyễn Minh
Châu là những con người thường nhật. Hầu hết các truyện ngắn thời kì này
của ông là những con người nhỏ bé, bình thường. Mối quan tâm của họ chỉ là
những chuyện vụn vặt trong cuộc sống đời thường, nhưng đằng sau đó lại là
một nhân cách đạo lí, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn về triết lí cuộc sống.
Trong truyện ngắn Bến quê, nhân vật Nhĩ- một con người đã từng đi rất nhiều
nơi trên trái đất lại chưa hề bao giờ đến cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước
cửa sổ nhà mình[7], nhà văn muốn đối chứng lại quan niệm về con người
luôn luôn vượt lên mọi hoàn cảnh, chiến thắng mọi hoàn cảnh và thử thách.
Bến quê vì thế vẫn là sự trải nghiệm về cái vô hạn và cái hữu hạn khả năng
của con người.
Cũng trên nền tảng của những suy tư nghiền ngẫm có chiều sâu, nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn đem đến cho người đọc nhiều góc
21
nhìn khác về con người. Đó là người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa)
thường xuyên bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng vẫn dứt khoát lạy xin toà
đừng bắt con bỏ nó. Đi tìm cho những lí giải khó hiểu đó, nhà văn hướng
người đọc đến sự thật: Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà
để đẻ con, rồi nuôi con đến khi chúng khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái
khổ. Đàn bà ở trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được [7]. Người đàn bà ấy thực ra đã không hề cam
chịu một cách vô lí, nông nổi, ngờ nghệch mà ngược lại chị là người sâu sắc
thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ ấy có một cuộc đời lam lũ, nhưng biết chắt
chiu những hạnh phúc đời thường. Một phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch
nhưng tâm hồn đẹp đẽ vì chồng vì con. Ở chị thể hiện bóng dáng của người
phụ nữ Việt Nam đảm đang, bao dung, nhân hậu, giàu đức hy sinh và lòng vị
tha. Nguyễn Minh Châu dường như đã chạm vào chiều sâu lòng nhân bản ở
con người.
Truyện ngắn sau 1975, con người cá nhân được khám phá nhiều ở khía
cạnh tinh thần, đời sống nội tâm. Với nhiều cách khai thác tiếp cận khác nhau,
các nhà văn đã đi vào thế giới nội cảm, khám phá chiều sâu của tâm trạng,
thấy được đằng sau mỗi số phận là những cung bậc tình cảm phong phú đa
dạng của con người. Ở đó có niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi khổ đau của
kiếp người. Con người xuất hiện trong các truyện ngắn là con người trần thế
ở cõi nhân gian với tất cả chất người tự nhiên của nó : tốt đẹp- xấu xa, thiện
– ác, yêu- ghét, ánh sáng – bóng tối, cao thượng- thấp hèn…ở đó con người
đứng trên đường phân giới mỏng manh giữa hai cực vừa chối bỏ lại vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chung sống với nhau [46]
22
Như vậy, truyện ngắn sau 1975 chủ yếu đi vào từng cá thể, từng mảnh
đời, lúc trầm lắng, khi sôi động, lúc khổ đau, khi hạnh phúc…tất cả tạo nên
một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, phức tạp. Bằng nhiều cách tiếp cận
và cách thể hiện độc đáo, truyện ngắn đã bộc lộ những quan niệm mới mẻ về
con người. Mỗi nhà văn đều tìm cách đi sâu vào tâm hồn con người để thấy
được những cung bậc, những cảm xúc với tất cả bản chất người của nó. Các
nhà văn hướng tới hiện thực về con người thông qua những số phận cá nhân,
từ đó mà lật xới lên những vấn đề nhức nhối, bức xúc của con người mang ý
nghĩa nhân sinh của thời đại. Trong truyện ngắn sau 1975, nhà văn- chủ thể
của sáng tạo không còn vị trí lấn át, chi phối tất cả quá trình vận động, phát
triển của nhân vật mà bình đẳng, khách quan trước sự vận động tự thân của
họ. Trên địa hạt của truyện ngắn, nhà văn đã khắc hoạ chân dung những con
người vừa đẹp đẽ, cao thượng, vừa đời thường, trần thế, luôn khao khát cái
đẹp và hướng tới cái thiện. Đó là con người cá nhân được quan niệm như một
nhân cách, một nhân cách mới[46].
1.1.3.3. Thay đổi về đề tài và cảm hứng sáng tác
Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng phản ánh
cuộc sống đa dạng và phong phú. Đối tượng của văn học là toàn bộ thế giới tự
nhiên, đời sống xã hội, và cuộc sống của con người. Tuy nhiên hiện thực thì
vô hạn mà khả năng của con người thì hữu hạn. Vì thế trong hoàn cảnh sống
của con người, với những yêu cầu của hiện tại, vốn sống vốn văn hoá, vốn
chính trị, cùng tài năng nghệ thuật của mình, nhà văn chỉ có thể khai thác một
lĩnh vực cụ thể, xác định trong hiện thực khách quan. Phạm vi của hiện thực
phản ánh trong tác phẩm gọi là đề tài của tác phẩm đó.
Như vậy, đề tài là một phương diện nội dung của tác phẩm, nó chỉ
phạm vi hiện thực cụ thể đã được nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tác phẩm. Bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất
23
định, nó xem như một nhân tố tương ứng với đối tượng phản ánh riêng của
tác phẩm[9].
Văn học luôn song hành cùng lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc
đều có những đề tài trung tâm. Trong văn học trước 1975, Tổ quốc và chủ
nghĩa xã hội là đề tài cao đẹp. Hoà bình lập lại, khi mà chiến tranh không còn
tác động sâu sắc tới việc lựa chọn đề tài, thì phạm vi hiện thực của nhà văn đã
được mở rộng. Trong khoảng những năm đầu khi đất nước mới hoà bình,
nhưng vẫn còn chiến tranh biên giới, thì đề tài chiến tranh vẫn có một vị trí
quan trọng, nhưng mang những dấu hiệu mới, hiện thực chiến tranh được soi
chiếu một cách thấu đáo, toàn diện hơn ở cả phía ta và phía kẻ thù. Bên cạnh
đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống đời thường ngày càng trở thành đề
tài trung tâm. Mảng đề tài thế sự đời tư ngày càng có vị trí quan trọng khi con
người trở về và đối diện với những lo âu của cuộc sống thường nhật. Như
vậy, văn học sau 1975 chủ yếu tập trung vào hai mảng đề tài, đó là sự tiếp nối
của mảng đề tài chiến tranh và đề tài thế sự đời tư.
Trong chiến tranh, người cầm bút chủ yếu là những người chiến sĩ, họ
tự nguyện tham gia vào công cuộc cổ vũ, tuyên truyền cho chiến đấu. Qua các
tác phẩm của mình nhà văn muốn tham gia vào các sự kiện to lớn của dân tộc.
Chính vì thế mà các tác phẩm thời kì này giàu tính thời sự, phản ánh những
vấn đề cấp bách của đời sống chiến trận.
Sau 1975 khi mà chiến thắng đã thuộc về ta thì yếu tố cổ vũ không còn
đóng vai trò chủ chốt, nhà văn lúc này có thời gian để đào sâu vào hiện thực
của cuộc chiến đấu.Văn học viết về chiến tranh thời kỳ này đi vào khám phá
chiều sâu phức tạp và những điều chưa kịp khám phá trong hoàn cảnh có
chiến tranh. Nhà văn nhìn thấy ở đó có cả cao cả- thấp hèn, chiến thắng - thất
bại, anh hùng – hèn nhát, niềm vui - nỗi buồn… tất cả được các nhà văn nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhận và khai thác một cách triệt để. Trong cái nhìn của các nhà văn hôm nay,
24
con người không phải lúc nào cũng anh hùng cao cả. Người chiến sĩ khi đối
diện với bom đạn, chết chóc, đói khát .. cũng bộc lộ bản năng rất người: Tôi
không sao nói được và đột nhiên, bất ngờ với cả chính mình, tôi ngồi thụp
xuống, hai tay bưng lấy mặt, bật lên tiếng khóc. Nào mưa gió, nào chết chóc,
nào đói, nào khổ, nào con đường vô vọng phía trước mà lòng tôi âm thầm,
dồn nén mãi, đến bây giờ tự nhiên oà ra, tan vỡ trong một niềm thương thân
cay đắng, tủi hờn [54]. Mặc dù khai thác mặt lẩn khuất của con người trong
chiến tranh bằng cảm hứng sự thực nhưng cuối cùng thì tác giả vẫn khẳng
định lý tưởng cao đẹp của người lính.
Nhiều truyện ngắn còn đề cập tới cái giá phải trả cho chiến thắng.
Những cái giá ấy không chỉ trả ngay trong chiến tranh mà phải tiếp tục trả
nhiều năm dài sau cuộc chiến. Chiến tranh không chỉ làm cho cha mất con, vợ
mất chồng, anh mất em.. mà cuộc chiến còn để lại những vết hằn, những nỗi
đau, những âm vang của quá khứ. Truyện ngắn Mai của Thanh Quế đã để lại
nỗi xúc động trong lòng độc giả khi đi khai thác theo hướng này. Một cán bộ
đi tập kết nay được nghỉ hưu trở về thì vợ đã mất, cô con gái duy nhất đã hy
sinh. Toàn bộ câu chuyện là quá trình đi tìm hài cốt của người cha đối với con
mình. Trong cuộc tìm kiếm đó ông đã gặp biết bao người đã hy sinh anh
dũng. Qua đó nhà văn muốn nói lên tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất
khuất, sự hy sinh anh dũng của những cô gái miền Nam, trong đó cô Mai là
một đại diện. Đó là nỗi đau sẽ mãi không xoá được cho dù chiến tranh đã đi
qua xa rồi.
Trên nền tảng của cuộc chiến, thời kỳ này nhiều tác giả còn hướng
vào vấn đề đạo đức, quan niệm mới và nhân cách con người trong thời kỳ
mới. Đi vào đề tài đạo đức, các truyện ngắn sau 1975 các nhà văn đã đi vào
những mặt lẩn khuất sâu kín, các chuẩn mực đạo đức, hành vi cho cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lao động hoà bình trong chế độ mới. Trong truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn
25
Minh Châu đã thể hiện cách nhìn thông thường về chuẩn mực đạo đức đối với
con người sau chiến tranh. Một hoạ sỹ đã thành danh với bức chân dung chiến
sỹ giải phóng, sau một lần đến quán cắt tóc anh đã nhận ra tội lỗi không thể
tha thứ của mình. Do sự thất hứa của mình mà mẹ người chiến sỹ đã khóc mù
cả mắt vì tưởng con mình đã hi sinh. Bắt đầu từ đó anh sống trong sự dằn vặt
của lương tâm. Người lính năm xưa, nay là anh thợ cắt tóc đã không một lần
“tính sổ” với anh. Nhưng cũng chính vì thái độ cao thượng và tấm lòng nhân
hậu ấy đã làm cho người hoạ sỹ càng mặc cảm về tội lỗi. Ở đây nhà văn đã
đặt ra vấn đề lương tâm trách nhiệm của cá nhân một cách khá rạch ròi. Dưới
góc độ là một con người có đạo đức liệu anh có thể tự cho phép mình vô ơn
không với người đã từng cưu mang mình? Và khi biết hậu quả liệu mình có
dám đứng ra nhận trách nhiệm hay không?...
Hoà bình lập lại, mảng văn học thế sự đời tư nhanh chóng trở về đúng
vị trí của nó và ngày càng có vai trò chủ đạo trên văn đàn. Với nhiều cây bút
đã xuất hiện từ trước như Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng..
và các cây bút mới xuất hiện ở lớp sau như Dương Thu Huơng, Thái bá Lợi,
Lê Minh Khuê.. cho dù lúc mới xuất hiện các tác giả chưa có sự thống nhất
trong quá trình nhìn nhận, đánh giá nhưng về cơ bản sự xuất hiện của mảng
văn học thế sự đời tư phần nào đã đáp ứng được hiện thực của cuộc sống thời
bình.
Đất nước đi qua chiến tranh, cuộc sống của nhân dân đã trở lại thời
bình, tâm trạng và cuộc sống của nhân dân có nhiều sự thay đổi. Chính vì vậy
mà cách nhìn của nhà văn về mảng hiện thực cuộc sống cũng có nhiều thay
đổi. Trong xu hướng chung của văn học, các truyện ngắn thời kì này đã thể
hiện sự nhạy bén, gắn bó với cuộc sống của các nhà văn đương đại. Các vấn
đề của cuộc sống con người được nhiều nhà văn đề cập, nhiều vấn đề tưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chừng như nhỏ nhặt cũng được phản ánh vào các tác phẩm. Nguyễn khải sau
26
thời kì viết về chiến tranh, nay tiếp nối với các tác phẩm đi vào tâm lí con
người, với những trăn trở trước số phận con người trong cuộc sống thường
nhật. Ma Văn Kháng, Dương Thu Huơng, Lê Minh Khuê...lại đi sâu vào
những bi kịch gia đình và xã hội trước nguy cơ sụp đổ của những chuẩn mực
đạo đức bởi sự tác động của nền kinh tế thị trường. Các nhân vật được đặt
trong nhiều mối quan hệ phức tạp của cuộc sống đời thường, từ đó con người
cá nhân được nhìn nhận nhiều chiều khác nhau, vừa cao cả, vừa phi thường,
nhưng cũng có những thói hư tật xâú những khiếm khuyết. Dù là nông dân
hay tri thức, người trẻ tuổi hay người lớn tuổi, dù là người vợ hay người
chồng... tất cả đều được thể hiện phong phú, phức tạp ở đời sống tâm hồn, tư
cách sống. Các vấn đề thường chạm tới ở những tác phẩm thể loại đời tư thế
sự thường là nỗi niềm, băn khoăn về hạnh phúc cá nhân, về nhân phẩm, về
cuộc đời được thể hiện ở từng số phận riêng cá thể.
Đi sâu vào nắm bắt những mảnh đời, tâm trạng, tình huống tiêu biểu,
truyện ngắn đã tạo ra được hiệu quả cao về nhận thức. Các cảnh ngộ, những
tình huống giàu tình người đã gợi nhiều suy nghĩ cảm thương hay căn giận
phẫn uất ở người đọc. Song trong hoàn cảnh nào, cái xấu, cái ác, những tiêu
cực, mặt trái thì cuối cùng các nhà văn vẫn khẳng định những mặt cao đẹp của
con người.
Đi vào cuộc sống đời thường, nhiều truyện ngắn sau 1975 còn khai thác
nhu cầu hạnh phúc của con người cá nhân. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, khi mà vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc còn
bị đe doạ thì từng cá nhân sẽ không có hạnh phúc thực sự. Hoà bình trở lại
cũng chính là lúc con người trở về với cuộc sống bình thường, tình yêu hạnh
phúc cá nhân là mảng đề tài đáng quan tâm. Tình yêu hạnh phúc của con
người là một trạng thái tình cảm vô cùng phức tạp, thú vị mà không ít cây bút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan tâm. Trong truyện ngắn của mình Dương Thu Hương đã cho người đọc
27
thấy tình yêu chỉ thật sự đẹp khi người ta sống trọn vẹn, trung thực với nó.
Truyện ngắn Tháng ba chua chát, nhà văn đã cho nhân vật Toàn đánh đổi tình
yêu của mình để lấy một cô vợ có thể đem đến cho mình một cuộc sống đầy
đủ về vật chất, nhưng cuối cùng Toàn cũng không có hạnh phúc thực sự. Hơn
thế nữa bằng trái tim đồng điệu của người phụ nữ, nhà văn đã phát hiện ra sự
nhạy cảm của trái tim người phụ nữ trước những biến động về tình cảm trong
cuộc sống.
Viết về tình yêu hạnh phúc cá nhân là một đòi hỏi chính đáng của con
người, cũng là vấn đề bức thiết của đời sống văn học sau 1975. Trước những
biến đổi của cuộc sống hiện đại, nhiều giá trị tinh thần bị lung lay thì tiếng nói
ca ngợi tình cảm trong sáng lành mạnh như một sự thức tỉnh con người.
Chiến tranh đi qua, đất nước ta bước vào quá trình xây dựng theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc sống thời bình khá nhiều vấn đề nảy
sinh. Bằng sự nhạy cảm của người nghệ sỹ, nhiều nhà văn đã phát hiện và mổ
xẻ cái xấu, cái ác và sự tha hoá về đạo đức con người để qua đó cảnh báo
những hành vi không thể chấp nhận trong cuộc sống mới.
Trong tập truyện Một chiều xa thành phố, Lê Minh Khuê đã đặt nhân
vật vào nhiều mối quan hệ đời thường để thấy được sự thay đổi của luân lí
đạo đức. Cô Kim trong Dòng sông, cô Tân trong Một chiều xa thành phố đã
thay đổi tâm tính một cách nhanh chóng. Nếu như cô Kim chạy theo đồng tiền
với một nỗi đam mê kì lạ đến nỗi chính cô bị đồng tiền đánh ngã, thì cô Tân
lại chạy theo những người có tiếng tăm, những chuyến đi nước ngoài mà quên
đi những lời hứa, kỉ niệm đẹp đẽ với người bạn thân thiết để cuộc đời phải
đánh đổi một cái giá quá đắt.
Truyện ngắn sau 1975 đã góp tiếng nói để người đọc có một thái độ nhìn nhận
đánh giá những hiện tượng khách quan về quá khứ và cuộc sống hiện tại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.1.2.4. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ tthuật trong sáng tác
28
Cảm hứng nghệ thuật là một trạng thái của tình cảm mãnh liệt và say
đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn với một tư tưởng xác định, một sự
đánh giá nhất định, gây tác động lớn đến cảm xúc của người tiếp nhận tác
phẩm. Nó là thứ tình cảm mạnh mẽ chân thành, một tình cảm xã hội đã được
nhà văn ý thức.
Chiến tranh kết thúc, đất nước ta trở lại với cuộc sống thời bình với
nhiều mối quan hệ đa chỉều, phức tạp của cuộc sống con người. Cảm hứng
nghệ thuật trong các sáng tác cũng phải thay đổi cho phù hợp với thực tế cuộc
sống.
Nếu trước năm 1975 cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác văn học chủ
yếu là cảm hứng sử thi. Tính sử thi thể hiện ở chỗ thiên về miêu tả và ngợi ca
những con người và dân tộc Việt Nam anh hùng. Cảm hứng sử thi không chỉ
bó hẹp trong một số tác phẩm mà xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm văn
học trong chiến tranh, trong đó nổi bật là cảm hứng yêu nước và cảm hứng
anh hùng. Bằng nguồn cảm hứng này văn học đã phản ánh, ca ngợi cuộc
chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Nguồn cảm hứng này là dòng mạch
chính xuyên suốt nửa thế kỉ, tạo nên diện mạo của văn học ở thời điểm lịch sử
đặc biệt này.
Sau 1975, sự chuyển dịch này ngày càng rõ rệt, cảm hứng thế sự đời tư
dần thay thế cho cảm hứng sử thi. Với sự ra đời hàng loạt các truyện ngắn như
Những bông bần li (1981), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983),
Bến quê (1985), Ngày đẹp trời (1986)….cảm hứng thế sự đời tư thực sự đã
tạo nên những trang viết mang màu sắc hoàn toàn mới so với giai đoạn trước.
Khuynh hướng sử thi lí giải mọi vấn đề trong hệ quy chiếu là lịch sử xã hội,
mang lợi ích chung của giai cấp, cộng đồng. Khuynh hướng thế sự đời tư lại
hướng về con người cá nhân, cá thể trong mối quan hệ phong phú đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phức tạp thường ngày. Khi cảm hứng thế sự trở thành mạch cảm hứng chủ
29
đạo thì đời sống riêng tư của mỗi cá nhân trở thành đối tượng nghiên cứu
chính của nhà văn, trong đó cảm hứng đạo đức thế sự giữ một vị trí quan
trọng. Có thể thấy rất nhiều các truyện ngắn của Nguyến Minh Châu, Ma văn
Kháng, Dương Thu Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban… in đậm dấu ấn ấy.
Đọc truyện Nguyễn Minh Châu thời gian này dễ nhận thấy các hiện tượng đời
sống trong chiều sâu của triết học, trong nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại
với chính mình. Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp là những chiêm nghiệm có tính
chất tổng quát về đời người. Nhân vật Nhĩ trong Bến quê đã đi tới không xót
một só xỉnh nào trên trái đất phải tới khi sắp gần đất xa trời mới nhận ra: Con
người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những cái điều vòng vèo hoặc
chùng chình[7]. Và những cái gì rất gần gũi ngay cạnh ta nhiều khi cũng chưa
khám phá được hết vẻ đẹp của nó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa và Một lần
đối chứng lại là những suy nghĩ da diết về chân lí cuộc sống của con người
cũng như nghệ thuật. Cuộc sống mỗi con người đều có những vẻ đẹp riêng
nhưng không dễ nhận biết được nếu không đặt nó trong mối quan hệ nhiều
chiều. Người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật không đơn giản là nhìn nhận
cuộc sống ở bề ngoài mà phải thâm nhập vào những mạch ngầm của nó để
thấy hết vẻ đẹp bên trong. Thông qua mối quan hệ giữa con người và con vật
nhà văn lại thấy do nhu cầu tồn tại tưởng chừng có thể quên đi những quy luật
tồn tại của sinh vật hỗn mang đã sa vào cả quy luật giữa người với người[7].
Với Dương Thu Hương cảm hứng đạo đức sinh hoạt đã đem lại nhiều
sự mới mẻ trong truyện ngắn của chị. Đó là những giá trị tinh thần, đạo đức
được thể hiện thông qua tình yêu hạnh phúc gia đình.Trong truyện Những
bông bần li nhà văn đã thể hiện sự nhạy bén trong tâm hồn người phụ nữ. Một
khao khát cháy bỏng về tình yêu, hạnh phúc say đắm trong cuộc sống gia
đình. Ngân đã thật sự thất vọng khi nhận ra Khang - chồng chị là một người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chồng thật ích kỉ nhỏ nhen. Anh ta hờ hững với tất cả cuộc sống bên ngoài chỉ
30
lao vào những ham muốn của riêng mình. Mọi biến cố của xã hội, thậm chí cả
những mất mát của gia đình Khang đều không để tâm. Và chính tình yêu đẹp
đẽ buổi ban đầu cùng với sự hi sinh anh hùng của người yêu cũ đã đưa Ngân
vượt lên phía trước, đẩy cuộc sống tầm thường về phía sau.
Trong Ngày đẹp trời của Ma Văn Kháng lại là tiếng nói của tác giả
trước hiện thực của cuộc sống, một hiện thực với nhiều biến đổi bất ngờ với
tất cả sự phong phú và phức tap vốn có của nó. Đó là tiếng nói khẩn thiết có
tính chất thời đại trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân gia đình và
xã hội của mỗi người với cuộc sống. Nhà văn đã nhận thức được hoàn cảnh
thay đổi thì gia đình cũng thay đổi theo. Gia đình được xây dựng trên nền
tảng của những truyền thống tốt đẹp của xã hội mà mục đích cuối cùng vấn là
hạnh phúc của mỗi con người.
Trong quá trình vận động từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời
tư, văn học sau 1975 cũng đã từng bước rút ngắn khoảng cách sử thi sang
trọng, thành kính đem lại sự chân thực đời thường cho các tác phẩm văn học.
Sự chân thực của các tác phẩm càng rõ nét hơn bởi đằng sau nó là những
tiếng nói của nhà văn, những suy nghĩ của bạn đọc về cuộc sống.
Tuỳ theo sở trường mà mỗi nhà văn đi vào những phương diện khác
nhau của cuộc sống đa dạng, phức tạp. Ở đó có biết bao mảnh đời, cảnh ngộ
khác nhau, và hơn bao giờ hết họ thấu hiểu và cảm thông với từng số phận
của nhân vật. Bởi mỗi tác phẩm là tình yêu, lương tâm trách nhiệm của người
cầm bút trước con người và cuộc đời.
Như vậy, cùng với sự đổi thay của đề tài thì sự phong phú trong cảm
hứng sáng tác đã đem lại cho truyện ngắn sau 1975 có một diện mạo mới. Với
sự đan cài của nhiều mạch cảm xúc khác nhau tạo lên sức hấp dẫn cho thể loại
này trong văn học thời kỳ đổi mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.1.2.5. Thành tựu nổi bật của truyện ngắn thời kỳ đổi mới
31
Truyện ngắn là thể loại có dung lượng ngắn gọn, nó gần với thể loại
báo chí và có mặt kịp thời trước những chuyển biến của đời sống con người.
Là thể loại truyện ít quay về với quá khứ, dù có lấy đề tài quá khứ thì cũng là
cách để tiếp cận với vấn đề của cuộc sống hôm nay.
Tiếp nối những thành công trong giai đoạn kháng chiến, sau 1975
truyện ngắn vẫn tiếp tục phát triển. Và thật khó có thể thống kê một cách
chính xác về số lượng các truyện ngắn sau 1975 đã được in ấn một cách chính
xác. Chỉ nêu ra một con số thống kê trong khoảng mười năm từ 1975 đến
1986 để thấy sự phát triển mạnh mẽ của thể loại truyện ngắn. Trong đó chỉ
riêng nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội Nhà văn đã in 57 tập truyện ngắn
của nhiều các tác giả và cũng giai đoạn này tiểu thuyết chỉ có 27 cuốn, kí và
sách chuyên đề có 40 cuốn.
Thành tựu nổi bật của truyện ngắn sau 1975 được đánh dấu bằng sự
hình thành và khẳng định của phong cách cá nhân. Hơn bất cứ thể loại nào,
truyện ngắn mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Sau 1975, nhất là từ
1986 trở đi có thể thấy phong cách cá nhân của các nhà văn rất đa dạng và
phong phú. Với sự tiếp tục khẳng định mình của các nhà văn đã thành danh ở
giai đoạn trước như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Vũ
Thị Thường, Xuần Thiều, Triệu Bôn...là sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ
như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị
Hảo... đã tạo nên sự đa dạng vô cùng cho thể loại truyện ngắn và phong cách
của từng nhà văn.
Như vậy, sau 1975 văn học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội
đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của đời sống xã hội. Văn xuôi nói chung và
truyện ngắn nói riêng thời kỳ này là sự thức tỉnh của ý thức cá nhân với sự
quan tâm sâu sắc đến đời sống cá nhân của con người. Con người được mô tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tất cả tính cụ thể, cá biệt với những nhu cầu trong thời bình tạo thành
32
nét chính trong sự định hướng về giá trị của các tác phẩm văn học hôm nay
[45]. Nói một cách khác văn học sau 1975 mang đậm tinh thần dân chủ và
cảm hứng nhân bản. Trong đó điểm cơ bản dẫn đến sự đổi thay của văn học
thời kỳ này được thể hiện ở những thay đổi về đề tài, nhân vật, thể loại,
phương thức trần thuật, cách biểu hiện… của các nhà văn. Từ đây văn học
Việt Nam có một sự chuyển mình một cách nhanh chóng và phát triển lên một
tầm cao mới.
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thụât của nhà văn Võ Thị Hảo
1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn
Võ Thị Hảo sinh ngày 13 tháng 4 năm 1956 tại xã Diễn Bình, huyện
Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Chị đã tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, năm 1977 làm biên tập rồi Phó ban biên tập Nhà xuất bản
Văn hoá dân tộc. Năm 1966 chị chuyển công tác sang báo Phụ nữ Thành phố
Hồ Chí Minh. Nhiều năm chị là trưởng văn phòng đại diện báo Phụ nữ Thành
phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Chị đã từng làm thơ từ rất sớm và nghĩ mình sẽ
là nhà thơ, nhưng chị lại viết văn và thành danh với thể loại văn xuôi. Mặc dù
vào nghề viết văn chưa bao lâu nhưng Võ Thị Hảo nhanh chóng được nhiều
người đọc biết đến. Chị được đánh giá là một trong những cây bút sắc sảo và
giàu nữ tính. Bên cạnh đó nhà văn Võ Thị Hảo còn viết kịch bản điện ảnh và
hội hoạ. Với ba kịch bản phim truyện chị đã được đánh giá là nhà viết kịch
bản có khả năng thành công cao trong lĩnh vực này. Chị còn say mê vẽ tranh
và từng mở triển lãm tranh với tên gọi Đường chân trời khiến cho các nhà hội
hoạ không khỏi kinh ngạc. Giản dị trong đời thường nhưng mạnh mẽ trong
văn chương là điều dễ nhận thấy ở nhà văn này.
1.2.2. Quá trình sáng tác và quan niệm viết văn của Võ Thị Hảo
Võ Thị Hảo sinh ra và lớn lên ở mảnh đất xứ nghệ gió Lào cát trắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quanh năm, nhưng có lẽ chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây đã tạo
33
nên tính cách và con người chị - một sự chịu đựng bền bỉ và kiên cường. Vì
vậy mà khi nói tới quê hương chị nói: “ Tôi cảm ơn những kỉ niệm, mà đau
khổ nhiều hơn là hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra tôi”[7]. Chính tính cách
đó đã giúp chị dù trong hoàn cảnh nào cũng thích nghi và vượt qua. Chị là
người ham mê đọc sách từ khi còn nhỏ. Từ niềm đam mê ấy, chị đã trở thành
cô sinh viên Văn khoa trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Với những khao
khát và hoài bão văn chương, cùng với giấc mộng đẹp về tình yêu đã nuôi
dưỡng tâm hồn nhà văn trong những năm tháng tuổi xuân phơi phới. Chị từng
làm thơ từ rất sớm và nghĩ mình sẽ thành nhà thơ, thế nhưng duyên số lại đưa
chị đến với nghề báo. Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, chị về công tác tại nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc, cùng với gia đình bé
nhỏ, tổ ấm yêu thương của mình. Tuy nhiên không biết là ngẫu nhiên hay
duyên số, bắt đầu từ đây nghiệp văn như cuốn lấy chị, những trang viết bắt
đầu thao thức trong chị và luôn đồng hành với cuộc sống công chức của chị
những năm 80-90 của thế kỉ XX. Nó như một ngọn lửa cháy âm ỉ giữ cho tâm
hồn chị luôn nóng rực niềm đam mê. Vì niềm đam mê của mình mà chị luôn
trân trọng nó cho dù khi đó văn chương không đủ sức đem lại cho gia đình
chị một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Từ đây gia đình chị bắt đầu có sự bất
ổn. Chính chị đã nhận ra rằng mình để cho không khí văn chương len lỏi quá
sâu vào cuộc sống gia đình. Trong cuộc sống còn muôn vàn khó khăn những
năm bao cấp, chị vẫn luôn giữ cho mình một góc riêng để thoả mãn niềm đam
mê. Để vượt qua những năm tháng khó khăn ấy, Võ Thị Hảo đã viết rất nhiều
và dần nổi tiếng trên văn đàn. Thời gian này cũng là thời gian mà chị viết văn
không có sự đồng thuận của chồng. Chị đã cố gắng níu giữ cuộc hôn nhân bất
ổn trong suốt hai mươi năm, nhưng khi hôn nhân không còn là sự say đắm
của hai người, chị đã quyết định giải thoát cho mình và cho người. Tất cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những điều này đều để lại dấu ấn sâu đậm trong các sáng tác của chị. Trong
34
cuộc sống của mình, Võ Thị Hảo luôn có những chuyến đi- đi để tìm ý nghĩa
đích thực của cuộc sống cũng như tìm cảm hứng trong sáng tạo văn chương.
Chị từng nói: Mình không phải là người thích phiêu lưu hoặc thích thay đổi
mà là người phụ nữ viết văn, để giữ lòng tự trọng và trái tim luôn đập cho
những điều tốt đẹp trong cuộc đời. Một trái tim nhạy cảm bởi vậy mà rất dễ
ứa máu và tổn thương, nên bất cứ một sự bất tín hay cư xử quá đáng của bạn
bè đồng nghiệp hoặc những người xung quanh với mình đến độ cảm thấy
không thể chịu đựng nổi thì tốt hơn là rời bỏ để ra đi. Dẫu biết cuộc ra đi nào
cũng đầy bất trắc và lắm chông gai, người ngoài nhìn vào có thể cho mình là
điên rồ nhưng đó là cách giải quyết của mình từ trước đến nay. “ Nó làm cho
mình cảm thấy thanh thản, giữ được cái tôi của mình trước xô bồ đời sống
quá nhiều cạm bẫy và thói xấu. Sự ra đi giúp cho tâm hồn mình bị cằn cỗi tha
hoá, để cố gắng dù trong hoàn cảnh nào thuận lợi hay khó khăn, hạnh phúc
hay bi đát thì nhân cách của mình cũng không bị tha hoá. Mình sợ nếu mình ở
lại, mình thoả hiệp và sống chung với những điều mình cho là giả dối, căm
ghét thì mình sẽ bị tha hoá đi lúc nào không hay. Điều làm mình sợ nhất là
khi mình không còn tin vào chính mình nữa thì sống sao nổi, còn có thể tin
được một ai khác ” [4].
Về quan niệm nhân cách, nghĩa vụ của nhà văn và sáng tạo văn chương
Võ Thị Hảo cũng có những suy nghĩ thật nghiêm túc. Theo chị “ Thiên chức
nhà văn là tôn trọng tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sự thật. Như những con sóng
biển và gió vẫn ngày đêm cồn cào đến với đất liền. Khi nhà văn mà chối bỏ
sự thực viết dối trá và đứng ngoài nỗi đau, khát vọng cũng như khát vọng sự
thực của con người khi ấy nhà văn đó trở lên nguy hiểm cho đồng loại” [48].
Dù viết văn hay viết báo chị vẫn là một cây bút có sức viết dồi dào như một
nhu cầu tự thân được nói ra những điều mình trăn trở tâm huyết. Chị cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rằng: “ Tôi may mắn được vào đúng nghề mình đã chọn và nghiệp không trái
35
với nghề. Làm báo là nghề, viết văn là nghiệp. Hơn cả nghề nghiệp văn là cái
thứ đeo bám, ám ảnh, thậm chí chi phối số phận” [14]. Chị từng tâm sự : “
Tôi có quá ít thời gian dành cho văn chương. Đó là sự thiếu may mắn. Tôi chỉ
còn ban đêm, lúc đi đường và ngày nghỉ cuối tuần là dành cho văn chương.
Nhưng thực sự, làm báo cũng giúp nghề văn. Nhiều khi đi tìm tư liệu, khai
thác sự kiện hay họp hành, ý tưởng chợt hiện. Tôi phác hoạ chúng vào những
mảnh giấy bất kì nào đó và đem về nhà ghim lại, chờ dịp viết thành những
truyện hoàn chỉnh”[7].
Sự nghiệp văn chương của Võ Thị Hảo xuất hiện chính thức và đều đặn
vào những năm 90 của thề kỉ XX. Ngay từ truyện ngắn đầu tay Người gánh
nước thuê in trên báo năm 1989 chị đã gây được sự chú ý của người đọc.
Tiếp đến là những tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, Hồn trinh nữ, Chuông vọng
cuối chiều, Người sót lại của rừng cười, … để cho đến nay chị đã ra mắt bạn
đọc mười tập truyện ngắn và hai tiểu thuyết Giàn thiêu và Dạ tiệc quỷ. Chị đã
vinh dự được nhận giải nhì tiểu thuyết và truyện ngắn của Nhà xuất bản Hà
Nội 1993; giải thưởng 5 năm văn học Hà Nội 1990-1995.
Khi đọc các sáng tác của chị, người đọc “dễ nhận thấy trong văn chương
chị có một cái nhìn ưu ái và thiên vị đối với phái nữ. Một cô gái sa ngã ( Vũ
điệu địa ngục), một người đàn bà nhẹ dạ (Người đàn ông duy nhất) , và cả
một con điếm hết thời (Biển cứu rỗi)… bao giờ chị cũng tìm cách biện bạch
để “bắt” người đọc phải yêu và cưu mang họ”[14]. Bởi vậy mà “ chị được
xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn
bà, những con người bé nhỏ trước bão lũ cuộc đời, “những gì rất riêng tư mà
chẳng riêng tư chút nào”…là điều mà chị luôn trăn trở trên các trang viết
của mình” [13].
Hình dung về Võ Thị Hảo, người đọc sẽ thấy một người phụ nữ có số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phận không mấy may mắn nhưng đủ nghị lực để vượt qua mọi gian khó trên
36
đường đời. Một con người có tình yêu cháy bỏng với văn chương và sự nhạy
cảm sâu sắc của người phụ nữ với cuộc sống. Chị luôn khao khát thể hiện
những điều mình cảm nhận, suy ngẫm bằng sự phong phú của ngôn từ nghệ
thuật.
Khảo sát truyện ngắn của Võ Thị Hảo, người đọc có thể nhận thấy nhà
văn đã rất thành công trên 3 loại truyện: truyện ngắn thế sự, truyện ngắn kỳ ảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và truyện ngắn giả lịch sử.
37
Chƣơng 2
HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO
2.1. Cuộc sống đa chiều và số phận con ngƣời trong truyện ngắn thế sự
của Võ Thị Hảo
2.1.1 Cuộc sống đa chiều trong cái nhìn đậm thiên tính nữ của Võ Thị Hảo
Hoàn cảnh lịch sử thay đổi, thể tài thế sự đời tư phát triển mạnh mẽ và
dần trở thành thể tài chính của văn xuôi sau 1975. Có thể kể đến những tác giả
rất thành công khi viết về thể tài này như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Lê Lựu, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng …và hàng
loạt những cây bút mới nổi như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàn Diệu, Y Ban, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…
Với thể tài thế sự đời tư cho phép văn chương có khả năng đi sâu vào
ngõ ngách tâm hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất
là trong hoàn cảnh xã hội từ trong chiến tranh ba mươi năm bước sang đời
sống hoà bình đầy phức tạp và thử thách. Với thể tài này, con người bình
thường, con người đời thường được miêu tả sâu sắc. Nhiều truyện ngắn đã tập
trung miêu tả những con người bất hạnh với những bi kịch đau đớn của cuộc
đời họ. Vấn đề các nhà văn quan tâm ở đây không phải là cuộc sống chiến đấu
dũng cảm vì dân vì nước mà là cuộc sống đời thường với những lo âu toan
tính, nhân vật hiện lên với tư cách cá nhân, những mảnh đời riêng lẻ.
Cùng với hàng loạt những cây bút mới nổi vào những năm 90 của thế kỉ
XX như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàn Diệu, Y Ban, Phan Thị vàng Anh… Võ
Thị Hảo với cái nhìn đậm thiên tính nữ đã quan tâm đến cuộc sống đa diện, đa
chiều và nỗi bất hạnh, sự cô đơn, khát vọng về tình yêu và hạnh phúc, đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biệt là người phụ nữ. Đúng như Nguyễn Hằng trong bài phỏng vấn Võ Thị
38
Hảo Suốt đời chỉ là giấc mơ, đã nhận định: “Chị được xếp vào hàng những
cây bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người bé
nhỏ trước bão lũ cuộc đời, những mảnh đời riêng tư mà chẳng riêng tư chút
nào, là điều mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình” [13].
Trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo, nhà văn đã đi sâu vào
cuộc sống muôn hình vạn trạng. Ở đó chị đã cảm nhận sâu sắc bao vấn đề bức
xúc, những mặt khuất lấp qua hầu hết các nhân vật là những con người bé
nhỏ, những mảnh đời riêng trước bão lũ của cuộc sống thời hậu chiến. Qua đó
là những trăn trở suy tư của nhà văn đối với số phận con người.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng mảng đề tài về chiến tranh vẫn được nhiều
nhà văn quan tâm. Trong cái nhìn dân chủ, chiến tranh không chỉ là những
chiến công hiểm hách, những chiến thắng vang dội, những tấm huân chương
mà nó còn là những mất mát, bi kịch của con người. Điều này đã được Võ Thị
Hảo đề cập trong truyện Vầng trăng mồ côi. Không hiểu vì nguyên cớ gì mà
lão Nhát bị dân làng coi là “đồ chỉ điểm”, ném cho lão những cái nhìn kì thị
như người hủi. Không chịu được cái nhìn “gằn hắt” của dân làng lão phải lên
đồi làm bạn với con Ghẻ. Lão cô đơn lắm! Giận làng lắm! Ấy vậy mà trong
cơn say, trong lời nguyền rủa của lão, “ mắt lão vẫn ánh lên vẻ âu yếm”[16].
Trước nguy cơ làng bị huỷ diệt bởi kẻ thù đã phát hiện ra mục tiêu, tình yêu
làng trỗi dậy trong lão, không kịp suy tính thiệt hơn lão châm lửa đốt lều:
“cánh tay ông lão đỏ như huyết chập bó cỏ tranh đang cháy vào ba góc của
mái lều”[16]
Chiến tranh làm nên những người anh hùng nhưng nhiều khi lại cũng
chính nó đã giết chết những phẩm chất anh hùng. Người lái xe nhờ ánh lửa
của mái lều lão Nhát đã đưa đoàn xe tải lao qua bom đạn một cách thần kì.
Anh trở thành anh hùng một cách ngẫu nhiên, anh ngơ ngác tự hỏi “sao thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhỉ?”. Một bản thành tích có người viết sẵn. Anh được quay phim chụp ảnh,
39
thành người nổi tiếng, còn lão Nhát – người anh hùng thực sự lại vùi vào quên
lãng. Trong hành động cứu làng của lão ai là người hiểu rõ? Sự hy sinh cho
cái làng đã ruồng rẫy lão chẳng ai có thể làm nhân chứng, khiến cho người có
công không ai hay, người sẵn thụ hưởng để đạt được cái “mác” anh hùng thật
dễ dàng. Sự bất công trong cuộc đời không còn là điều hiếm thấy hoặc còn
nghi hoặc.
Chiến tranh đem lại cho con người không chỉ là nỗi đau của thân xác-
sự biến dạng của hình hài mà nỗi đau lớn hơn là nỗi đau tinh thần. Nhà văn đã
đào sâu vào sự thật nghiệt ngã để thấy hết mặt trái mà chiến tranh đem lại.
Người lính trong truyện Biển cứu rỗi, từ giã đời lính anh trở về với vợ con khi
chỉ còn một con mắt giả, thân hình tiều tuỵ nhưng vẫn khấp khởi mường
tượng ra cảnh vợ con giang tay đón mình trong ngày đoàn tụ với những giọt
nước mắt hạnh phúc sau bao năm chợ đợi mỏi mòn. Người đầu tiên anh gặp là
vợ anh, chị đã khóc tức tưởi, nhưng đó không phải là những giọt nước mắt của
hạnh phúc, mà nước mắt của bao nỗi đau khiến chị “nửa thân trên gần như đổ
về phía anh, nhưng chân cứ bị chôn chặt trong xó nhà, ngó anh trân trân rồi
sụp xuống đất, oà khoc tức tưởi”[16] . Sự xuất hiện “ba gương mặt hoàn toàn
khác nhau” của ba đứa trẻ lít nhít trong nhà “chúng không mang gương mặt
anh”[16] khiến anh không cầm được lòng anh rít lên “con tao đâu? Đồ đĩ..” .
Ngay lúc đó một đứa khác trạc mười năm tuổi, đi õng ẹo, chào chú, nhoẻn
cười. “nụ cười chưa hết sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi trác”[16]. Chiến
tranh đã lấy đi của anh một phần của cơ thể, nỗi đau này có thể khoả lấp nếu
như hạnh phúc gia đình trọn vẹn, nhưng không, chiến tranh còn lấy đi của anh
mái ấm gia đình. “Số phận không giành cho anh người đàn bà xoã tóc chờ
chồng” mà đón anh là “Những đứa trẻ khác bố”, hậu quả của Những cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần”[16] ...
40
Với những người phụ nữ, chiến tranh là nguyên nhân của những bi
kịch, bởi chính nó đã lấy đi tuổi xuân, ước mơ và hạnh phúc của họ. Trong
truyện Người sót lại của rừng cười, nhân vật Thảo là người sống sót trong
năm cô gái ở rừng Trường Sơn. Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, vẻ đẹp thanh
xuân của những cô gái nơi chiến trường. Thảo nhập ngũ với mái tóc óng mượt
dài chấm gót nhưng cũng bị dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ nơi chiến
trường vặt trụi dần như các chị mình. “Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ
còn là dúm xơ xác”. Họ bị tổn thương bởi sự cô đơn và khắc nghiệt của chiến
tranh. Với ba mùa mưa rầu rĩ và đang là mùa khô thứ tư bỏng rát, những cô
gái ngày càng sống tách biệt với đồng loại, họ trở lên hoang dã và như hoá
điên : “Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay bứt
tóc và xé quần áo. Còn một cô gái trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu đầy
tuyệt vọng”. Hình ảnh những cô gái này là nỗi ám ảnh của anh lính: “Sau chín
năm ở chiến trường, nay tôi đã nhìn thấy ở rừng cười, cái méo mó, man dại
của chiến tranh…Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng
đang cười sằng sặc như thế, giữa một khu rừng mênh mang nào đó….. Tôi sẵn
sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy”.
Võ Thị Hảo cảm nhận rõ, chiến tranh không chỉ tàn phá nhan sắc của
người phụ nữ mà còn khiến cho họ đau đớn cả tâm hồn. Thảo may mắn sống
sót và trở về từ Rừng cười Trường sơn, nơi giáp ranh giữa sự sống và cái chết
giữa trần gian và địa ngục, nhưng sự khốc liệt của chiến tranh vẫn không
buông tha mà vẫn ám ảnh, in hằn trong cuộc sống của cô. Trở về với cuộc
sống thời bình thoát khỏi nỗi cô đơn chết người nơi rừmg già Trường Sơn, cô
rơi vào nỗi cô đơn ngay giữa đồng loại mình, một khoảng cách xuất hiện trong
Thảo. Cô thường nhớ cái lần đầu gặp lại người yêu sau mấy năm xa cách: “
Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, thân hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác…. Làm anh ngỡ ngàng đến không thốt
41
nổi lên lời”. Trong cuộc sống mới, dù cô đã cố gắng hết sức nhưng Thảo
không sao thanh thản được như những bạn bè, bởi ở họ cả trong giấc mơ làn
môi luôn cười thanh thản, mặt ửng hồng, trông đáng yêu làm sao. Còn cô
thường qua đêm với hai loại giấc mơ, một là thời bé mơ nhặt được cặp ba lá
hay trứng vịt đẻ rơi, hai là giấc mơ tuổi thanh xuân: “Cô chỉ thấy tóc rụng như
chút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm và từ trong đám tóc
ấy nẩy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi
không vỡ”. Sự đối lập ngay cả trong giấc mơ đã khiến Thảo càng lạc lõng. Sự
lạc lõng đó càng sâu hơn khi thấy cô bạn gái học cùng lớp với Thành có đôi
môi mòng mọng như nũng nịu, với làn da trắng hồng, tươi mát trẻ trung nhìn
Thành với ánh mắt say mê ngưỡng mộ. Thảo biết họ thầm yêu nhau, họ đẹp
đôi quá và lại ở gần nhau. Sự mặc cảm làm cho Thảo tủi thân hơn, cô sống
khép mình và xa lánh Thành. Thời gian cô còn sống ở Rừng cười, tình yêu với
Thành là hy vọng thúc giục cô thoát khỏi cuộc sống hoang dã nơi rừng sâu.
Cô khao khát đến cháy lòng ngày được trở về và ngả vào vòng tay âu yếm của
Thành, thì giờ cô lại tự nguyện xa Thành để anh được hạnh phúc. Bởi cô hiểu
rằng Thành gắn bó với cô chỉ là nghĩa chứ không có tình. Nỗi xót xa, cay đắng
trong Thảo như dâng trào, cô không điên nơi rừng già, chiến trận mà cô như
hoá điên khi tự viết cho mình những lá thư vào tối thứ năm và rồi nhận lại nó
vào chiều thứ bẩy. Và nỗi đau đến tột cùng khi cô vừa cười vừa trong một
trạng thái gần như vô thức. Thảo là người may mắn sống sót trong chiến
tranh, nhưng trở về cuộc sống thời bình thì hạnh phúc lại không đến với cô.
Đó là thực tế nghiệt ngã mà nhà văn Võ Thị Hảo đã nhìn thấu đáo.
Thảo là nạn nhân của chiến tranh, là người trực tiếp bước ra từ cuộc
chiến khốc liệt, nhưng cuộc đời còn có biết bao hoàn cảnh tàn nhẫn khác. Nhà
văn còn thấu hiểu chiến tranh không chỉ cướp đi bao sinh mạng của những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người ra trận, mà nó còn để lại nỗi đau cho nhiều thế hệ. Trong truyện Trận
42
gió màu xanh rêu là nỗi bất hạnh của người phụ nữ có chồng ra trận. Người
đàn bà bất hạnh hai lần đón nhận nỗi đau thương để rồi chị không thể chịu
đựng nổi và đã hoá điên. Lần thứ nhất là sự đón nhận tin hi sinh của người
chồng. Lần thứ hai là hành trình đi tìm hài cốt của chồng để phải chứng kiến
một sự thật cay đắng nhẫn tâm của người đời. Cho đến lúc hoá điên, người
đàn bà đó vẫn tin “đài người ta báo nhầm đấy thôi. Làng trên chả có hai người
báo tử rồi lại lừng lững về là gì. Em biết anh còn sống mà”. Bà bỏ làng đi lang
thang khắp nơi để tìm kiếm, khiến đứa con gái mới mười sáu, mười bảy cũng
phải bỏ học đi lang thang theo mẹ. Bước chân tình cờ lại đưa bà dạt đến làng
Đẽo- cái làng mà đa số dân là đàn bà luống tuổi và khô héo, cái làng có chung
nhau một ngày giỗ cho những người chết trận. Cuộc sống thiếu vắng đàn ông
đã biến những người phụ nữ trở thành lầm lũi, hàng ngày còng lưng đẽo đá và
mong chờ một ngày giỗ chồng chung của cả làng. Không biết có bao nhiêu
người đã hi sinh và bao nhiêu cái làng Đẽo mà ở đó có những người đàn bà
với đôi tay nổi bật là to xù và sần sùi như tay đàn ông, cùng nhau chít khăn
trắng, đầu đội mâm cỗ kéo nhau tới bệ đá trước tượng đài ở chân núi để làm giỗ
chung. Chiến tranh đã để lại nỗi đau và sự mất mát quá lớn không thể bù đắp
được cho con người. Dám nhìn thẳng vào sự thật, mặt trái của chiến tranh để
phản ánh bao điều còn day dứt cũng là một cách thể hiện, một thái độ thẳng
thắn của Võ Thị Hảo. Cho dù chiến tranh đã qua đi, nhưng nhà văn hiểu rằng
đằng sau cái vẻ bình yên của cuộc sống thời bình hôm nay, có không biết bao
người đang sống trong sự giày vò của những mất mát không gì bù đắp được, nó
để lại những vết sẹo hằn sâu nơi trái tim của con người để rồi khi nhắc đến họ
lại dường như không thể chịu nổi vết thương lòng mà họ cố đào sâu, chôn chặt.
Võ Thị Hảo luôn nhìn con người, đặc biệt là người phụ nữ với cái
nhìn cảm thông chia xẻ, ngay cả khi họ mắc lỗi lầm. Trong Biển cứu rỗi, cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dù người vợ đã biến ngôi nhà thành nơi diễn ra “ những cuộc giao hoan vội
43
vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần” của những người lính
ra trận và rồi hậu quả để lại là những đứa trẻ khác bố lít nhít trứng gà trứng
vịt, chị không thể là người đàn bà chờ chồng đến bạc tóc bởi “ cả làng trắng
đàn ông, chỉ còn lại đây đó các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà
vác cày cầm súng đi lấp hố bom và bị buộc trở thành đàn ông. Trong khi đàn
bà được tạo hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây
đai thụ : Người đàn ông.” Võ Thi Hảo dường như đã thấu hiểu tâm trạng, nỗi
nhọc nhằn quá lớn của người phụ nữ. Nhà văn không chỉ hướng ngòi bút vào
việc nhìn thẳng vào sự thật trong chiến tranh mà còn thể hiện sự chia xẻ cảm
thông sâu sắc với họ. Đó là những gì thuộc về mặt trái của chiến tranh mà
trước đó văn học chưa có điều kiện nói tới.
Hiện thực của cuộc sống thời bình với nền kinh tế thị trường, với sự
xâm nhập của cái tốt- xấu và theo đó là những biến dạng, tha hoá của con
người thời hiện đại đã khiến Võ Thị Hảo đặc biệt quan tâm. Trong Miền bọt
nhà văn đã kể lại câu chuyện mà mình chứng kiến, trong đó dường như tốt
xấu đổi ngôi đang diến ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Một nhà hàng,
một phòng hát Karaoke bao gồm một chính khách hạng xoàng, một giám đốc
công ty xuất nhập khẩu, một nhà báo, Khoan – chuyên viên luật, Phan và ba
cô gái. Trong phòng vừa đủ bốn đôi. Với âm thanh nổi lên là giai điệu “Cúc
cu! Cúc cu! Chim rừng ca trong nắng...” và trên màn hình là hình ảnh của
những đôi trai gái tóc vàng đang hôn nhau. Sự va chạm của cơ thể và những
cặp chân “nần nẫn” phơi ra như khiêu khích của các cô gái khiến cho ba
người đàn ông không khỏi sượng sùng. “ Như những chú nhái bị con rắn thôi
miên, họ ôm chặt lấy các cô gái … ” Phan im lặng thở hổn hển, nàng chạy
trốn khỏi bữa tối trong sượng sùng xấu hổ “nước mắt chỉ chực trào ra”. Đó là
một phần của cuộc sống hiện đại. Theo bước chân Phan, là cuộc sống của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những cô tiếp viên sau giờ làm việc. Sau một ngày làm việc, các cô bước
44
xuống những chiếc thuyền “chòng chành, đong dưa theo nhịp sóng” và quăng
cho bà lão “những đồng tiền nhàu nát đẫm mùi mồ hôi, mùi thuốc lá và mùi
rượu”. Biển chìm vào đêm. “Đám ca pốt da người, đám ngón tay nhơn nhớt,
vỏ lon bia, vỏ những quả cam Trung Quốc, đám ruột cá, chiếc váy ngắn sũng
nước củ cô cave”, theo sóng biển xếp thành hình người khổng lồ. “Mông đàn
bà ngực đàn ông. Râu quai nón bao quanh đôi môi trái tim đỏ chót” . “Thân
thể trần truồng lấp lánh như những vỏ lon bia” gã khổng lồ bước vào phố.
Mùi than, mùi cá mắm biển, mùi mồ hôi gái điếm, mùi những gã bỉ lậu vật lộn
trên giường khách sạn, mùi nước hoa trộn vào nhau “úp chụp khắp thành
phố”. Để rồi như cái vòng luẩn quẩn, trong giấc mơ của các cô bé, cậu bé vẫn
mong mình được tuyển làm tiếp viên, làm vệ sĩ cho nhà hàng. Khi thức dậy là
tiếng hát ra từ những chuyến phà, tiếng ơi hời bế tắc không thể thoát ra của
cuộc sống con người. Với trái tim đa cảm và giàu nữ tính Võ Thị Hảo đã kể
lại câu chuyện hoàn toàn khách quan, nhưng đằng sau câu chuyện đã để lại
trong lòng người đọc nhiều trăn trở suy tư về hiện thực thời mở cửa.
Trong truyện ngắn thế sự đời tư Võ Thị Hảo cũng như các nhà văn
khác thường quan tâm đến cuộc sống đa diện đa chiều. Cuộc sống thời mở cửa
trong cái nhìn của Võ Thị Hảo còn biết bao điều nhức nhối đau thương.
Chứng kiến cảnh cô gái ngoan, học giỏi, trong tay có tấm bằng đại học chính
quy (Vũ điệu địa ngục) mà không sao xin nổi việc làm khiến lòng ta nhức
nhối. Rồi để có một việc làm, cô đã bán đi tất cả những gì thiêng liêng nhất
của đời mình- cô bán máu, bán danh dự lương tâm, bán sự trinh trắng của
người con gái để cuối cùng tay không vẫn hoàn tay không. Cạm bẫy, thủ đoạn
và sự tàn nhẫn của những ông chủ thời mới không có chút lương tâm khiến cô
chỉ còn sống trong tuyệt vọng, cuối cùng cô phải tìm đến cái chết đau thương
trong chiếc áo dài trắng là sự an ủi cuối cùng. Cũng như Nguyễn Minh Châu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Thu Huệ…những biến động của thời kì mở cửa
45
đã tác động lớn đến cách viết và từ đó các nhà văn thể hiện tư tưởng, quan
điểm cũng như nhiều bài học triết lí nhân sinh. Nếu như Nguyễn Minh Châu
trong truyện Mẹ con chị Hằng quan tâm đến vấn đề đạo đức, lối sống, con
người sống quá ích kỉ, chỉ biết đạo làm vợ, làm mẹ mà quên đi đạo hiếu làm
con; truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, con người được nhìn nhận với cả
“rồng phượng, lẫn rắn rết” như Sinh, Tốn Đoài trong Không có vua; truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đề cập đến vấn đề cuộc sống gia đình với các
mối quan hệ vợ- chồng, con cái – cha mẹ trong thời hiện đại (Hoa nở trên
trời, Của để dành)...thì truyện ngắn Võ Thị Hảo đã hướng ngòi bút của mình
đi sâu váo khám phá, lí giải đời sống trong nhiều mặt, nhiều cảnh. Đặc biệt
nhà văn quan tâm đến số phận người phụ nữ. Khảo sát các truyện ngắn của Võ
Thị Hảo thì có tới 2/3 số truyện nhân vật là người phụ nữ. Tuỳ từng truyện cụ
thể mà nhân vật được đề cập tới ở từng mức độ khác nhau. Tuy nhiên có một
điểm cơ bản là các nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ
Thị Hảo đều là người phải chịu những bi kịch của cuộc sống đời thường đầy
dẫy những lo toan và vô cùng phức tạp. Nhà văn nhìn thấu những bi kịch của
chiến tranh, bi kịch của cái nghèo, bi kịch tật nguyền, bi kịch của tình yêu
hạnh phúc.. Tuy vậy, cho dù ở hoàn cảnh nào với trái tim đa cảm và giàu thiên
tính nữ Võ Thị Hảo cũng dành cho nhân vật của mình sự cảm thông, trân
trọng và sự chia xẻ sâu sắc.
2.1.2. Số phận con người và vấn đề đạo đức nhân sinh trong truyện ngắn
thế sự đời tư của Võ Thị Hảo
2.1.2.1. Số phận con người trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo
“Văn học là nhân học”(Mácxim-Gorki), trong mọi thời đại văn học có
chức năng chủ yếu là phản ánh cuộc sống của con người. Nếu như văn học
trước 1975 chủ yếu đề cập tới quá trình đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của kẻ thù xâm lược, con người được đặt
46
chung với vận mệnh của Tổ quốc, dân tộc, thì sau 1975 con người trở về với
cuộc sống hoà bình. Con người số phận không chỉ đặt trong cái chung của
dân tộc mà mỗi con người còn được nhìn nhận trong mỗi số phận khác nhau
và được thể hiện rất sâu sắc trong văn học thời kì này.
Trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo, số phận con người được
đề cập ở nhiều góc cạnh khác nhau. Mỗi người mỗi mảnh đời, mỗi số phận họ
đều mang những bi kịch của cuộc đời nhưng trong thẳm sâu lòng họ luôn ánh
lên lòng nhân hậu, đức hy sinh, niềm tin yêu vào con người và cuộc sống.
Trước tiên là số phận của con người trong bi kịch của chiến tranh. Sau
1975, các nhà văn vẫn viết về chiến tranh nhưng chiến tranh không chỉ được
nói tới với những chiến công bi tráng mà còn được nhìn nhận ở khía cạnh
nguyên nhân dẫn đến những khổ đau cho con người. Chiến tranh qua đi nhưng
tàn tích của nó còn để lại sâu đậm trong hiện tại. Điều này được thể hiện trong
nhiều sáng tác của các nhà văn. Trong sáng tác của mình, Võ Thị Hảo nhìn
nhận chiến tranh bằng cái nhìn đa chiều. Chiến tranh là những vinh quang, là
chiến thắng nhưng cũng là những mất mát, tổn thương, cay đắng, đăc biệt là
nguyên nhân của những bi kịch của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Chiến tranh đã lấy đi của người lính (Biển cứu rỗi) hình hài và một phần thân
xác. Giã từ đời lính anh trở về với một con mắt giả, thân hình gầy còm ốm
yếu của bao ngày ăn đói mặc rét nơi chiến trường. Anh đã hi sinh tất cả kể cả
một phần cơ thể để đổi lấy độc lập cho dân tộc và hạnh phúc của mình.Trong
thân hình tiều tuỵ là niềm mong mỏi, khấp khởi mừng thầm của ngày đoàn
viên, với hình ảnh vợ con giang tay đón mình trong niềm hạnh phúc vô bờ.
Nhưng kết quả của sự hi sinh niềm mong đợi của anh, vợ anh “ nửa thân trên
gần đổ về phía anh, nhưng chân cứ bị chôn chặt trong xó nhà, ngó anh trân
trân rồi sụp xuống đất, oà khóc tức tưởi”. Anh sững sờ sửng sốt, chắc chắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đây không phải là điều anh mong đợi. Đó không phải là niềm hạnh phúc của
47
ngưòi vợ chờ chồng sau bao ngày xa cách mà ranh giới của sự sống và cái
chết chỉ trong gang tấc. Bi kịch dường như tăng lên gấp bội khi ba đứa trẻ lít
nhít trong nhà với “ba gương mặt hoàn toàn khác nhau”. “Chúng không
mang gương mặt anh”. Và ngay lúc đó , một đứa khác trạc tuổi mười năm, đi
õng ẽo, chào chú, nhoẻn cười “Nụ cười chưa hết sữa nhưng đã mang hơi
hướng đổi chác”. Anh đau đớn căm hờn và quyết định xa lánh đồng loại trên
đảo. Trên đảo, cùng với thời gian, anh đã suy nghĩ và có lẽ anh đã tìm ra
nguồn cơn của sự phản bội. Nghĩ đến vợ “anh thấy lòng se sắt”. Anh đã khóc,
trái tim anh như mềm đi và đưa bước chân anh rời đảo.
Chiến tranh còn lấy đi tuổi xuân, ước mơ và hạnh phúc của con người,
đẩy họ đến với những số phận bi kịch.Trong truyện Người sót lại của rừng
cười, nhân vật Thảo là người sống sót trong năm cô gái ở rừng Trường Sơn.
Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, vẻ đẹp thanh xuân của những cô gái nơi chiến
trường. Thảo nhập ngũ với mái tóc óng mượt dài chấm gót nhưng cũng bị
dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ nơi chiến trường vặt trụi dần như các chị
mình. “Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là dúm xơ xác”. Họ bị tổn
thương bởi sự cô đơn và khắc nghiệt của chiến tranh. Với ba mùa mưa rầu rĩ
và đang là mùa khô thứ tư bỏng rát, chiến tranh đã để lại những nỗi đau đáng
thương, những cô gái ngày càng sống tách biệt với đồng loại, họ trở lên hoang
dã và như hoá điên : “Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa
khóc, tay bứt tóc và xé quần áo. Còn một cô gái trẻ hơn đang chạy tới chạy lui
ôm đầu đầy tuyệt vọng”. Hình ảnh những cô gái này là nỗi ám ảnh của anh
lính: “Sau chín năm ở chiến trường, nay tôi đã nhìn thấy ở rừng cười, cái méo
mó, man dại của chiến tranh…Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em
gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế, giữa một khu rừng mênh mang nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đó….. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy”.
48
Chiến tranh không chỉ tàn phá đi của họ nhan sắc mà còn đem đến nỗi
đau về tâm hồn. Thảo may mắn sống sót và trở về từ Rừng cười Trường sơn,
nơi giáp ranh giữa sự sống và cái chết giữa trần gian và địa ngục, nhưng sự
khốc liệt của chiến tranh vẫn không buông tha mà vẫn ám ảnh, in hằn trong
cuộc sống của cô. Trở về với cuộc sống thời bình thoát khỏi nỗi cô đơn chết
người nơi rừmg già Trường Sơn, cô rơi vào nỗi cô đơn ngay giữa đồng loại
mình, một khoảng cách xuất hiện trong Thảo. Cô thường nhớ cái lần đầu gặp
lại người yêu sau mấy năm xa cách: “ Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, thân
hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng, qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ
xác…. Làm anh ngỡ ngàng đến không thốt nổi lên lời”. Cho dù cô đã cố gắng
hết sức nhưng không sao so bì với bạn bè những cô gái khoa văn cùng phòng,
cả trong giấc mơ họ cũng môi cười thanh thản, mặt ửng hồng, trông đáng yêu
làm sao. Còn cô thường qua đêm với hai loại giấc mơ, một là thời bé mơ nhặt
được cặp ba lá hay trứng vịt đẻ rơi, hai là giấc mơ tuổi thanh xuân: “Cô chỉ
thấy tóc rụng như chút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm và
từ trong đám tóc ấy nẩy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ
tinh, đập mãi không vỡ”. Sự đối lập ngay cả trong giấc mơ đã khiến Thảo
càng lạc lõng. Sự lạc lõng đó càng sâu hơn khi thấy cô bạn gái học cùng lớp
với Thành có đôi môi mòng mọng như nũng nịu, với làn da trắng hồng, tươi
mát trẻ trung nhìn Thành với ánh mắt say mê ngưỡng mộ. Thảo biết họ thầm
yêu nhau, họ đẹp đôi quá và lại ở gần nhau. Sự mặc cảm làm cho Thảo tủi
thân hơn, cô sống khép mình và xa lánh Thành. Thời gian cô còn sống ở Rùng
cười, tình yêu với Thành là một hy vọng thúc giục cô thoát khỏi cuộc sống
hoang dã nơi rừng sâu. Cô khao khát đến cháy lòng được trở về và ngả vào
vòng tay âu yếm của Thành, thì giờ cô lại tự nguyện xa Thành, để anh được
hạnh phúc. Bởi cô hiểu rằng Thành gắn bó với cô chỉ là nghĩa chứ không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình. Nỗi đau xót thương cảm với Thảo như dâng trào, cô không điên nơi rừng
49
già, chiến trận mà cô như hoá điên khi tự viết cho mình những lá thư vào tối
thứ năm và rồi nhận lại nó vào chiều thứ bẩy. Và nỗi đau đến tột cùng khi cô
vừa cười vừa trong một trạng thái gần như vô thức. Thảo là người may mắn
sống sót trong chiến tranh, thời bình hạnh phúc cũng không đến với cô. Thảo
là nạn nhân của chiến tranh, là người bước ra từ chiến tranh khốc liệt, nhưng
có người không trực tiếp tham gia chiến tranh mà hậu quả lại không bỏ qua
họ. Chiến tranh đã phá huỷ cuộc đời của con người, nhưng nỗi đau mà chiến
tranh để lại không chỉ cho một thế hệ mà nó còn để lại nỗi đau cho nhiều thế
hệ- chiến tranh là nỗi kinh hoàng sợ hãi của con người.
Trở lại với cuộc sống thời bình, con người phải đối mặt với cuộc sống
đời thường, những lo toan vặt vãnh của cuộc sống thường nhật cơm áo. Với
trái tim nhạy cảm và lòng nhân hậu vị tha, nhà văn Võ Thị Hảo luôn quan tâm
tới những số phận bé nhỏ của những mảnh đời bất hạnh éo le. Mỗi người một
cảnh đời một số phận khác nhau nhưng họ có chung một bi kịch đó là sự
nghèo đói gây lên. Sự nghèo đói vây hãm họ và kéo theo nhiều bất hạnh khác,
mặc dù họ tần tảo, chăm chỉ làm ăn sớm tối mà vẫn nghèo. Nhân vật Diễm
trong Người gánh nước thuê, là một người không gia đình, không con cái một
người đàn bà bé loắt choắt, sống bằng nghề gánh nước thuê và hàng ngày bà
cứ phải gánh những thùng nước trên đôi vai vốn đã còm cõi còng xuống vì
thời gian và sự vất vả khổ cực để nhận lấy những đồng tiền công ít ỏi với thái
độ khinh miệt của mọi người. Một người đàn bà mặt nhăn nheo “ gầy sạm chỉ
còn hai con mắt, bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng, chiếc đòn gánh không
bao giờ rời khỏi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp
chướng, nó và bà hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh”. Những tưởng
cuộc đời bà không còn niềm vui, hạnh phúc, đang sống trong cô đơn lẻ loi bà
gặp ông Tiếu, với khuôn mặt khắc khổ “có đến hàng vạn nếp nhăn trên khuôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mặt đó. Đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng” và nụ
50
cười luôn nở trên môi. Vợ ông Tiếu đã bị chết trong một trận bom, đứa con
gái nhỏ bị mất tích. Hai con người nghèo khổ bất hạnh cùng cảnh ngộ đã
nương tựa vào nhau sưởi ấm cho nhau những ngày cuối đời. Nhưng người đời
quá tàn nhẫn xem đó là trò cười và đem ra trêu đùa, chọc ghẹo đến độ ông
Tiếu không chịu được sự xúc phạm, ông chết trong sự tủi hờn u uất của một
người cha suốt đời gánh nước thuê mong mỏi tìm thấy đứa con bị mất tích
trong bom đạn của chiến tranh mà bao năm vẫn bặt vô âm tín. Hai con người
nghèo khổ, hai mảnh đời bất hạnh vừa mới nương tựa vào nhau để sống nốt
quãng đời còn lại, thì sự ra đi của ông Tiếu với lời trăng trối muốn tìm lại đứa
con giúp ông đã làm cho bà Diễm càng trở lên bất hạnh, cô đơn và gánh nặng
càng đè trên đôi vai gầy còm của bà.
Cái nghèo còn bám chặt và không buông tha con người, nó là nỗi kinh
hoàng sợ hãi của tất cả chúng ta. Trong truyện ngắn Ngày không mút tay, nhân
vật Ngần, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vất vả tối ngày với nghề
bán ốc luộc để nuôi chồng và một đàn con nheo nhóc. Nàng là một chiếc ruột
ốc èo uột phải cõng cả toà vỏ nặng lê đi, lê mãi không được ngưng nghỉ, cho
dù làm việc cật lực tối ngày nhưng cái nghèo, cái đói vẫn bám lấy gia đình
chị. Trước cảnh túng đói của gia đình, để cho chồng con có một ngày được ăn
thịt, chị đã phải ba tháng một lần nghỉ bán ốc luộc ra đi từ sáng đến tối mới về
với vẻ mặt mệt mỏi, bơ phờ, một xâu thịt và một nắm tiền. Đó là những lần
mà Ngần trốn chồng con đi bán máu để nuôi gia đình, cho dù bị chồng hiểu
lầm nhưng chị vẫn âm thầm chịu đựng. Cái nghèo như bủa vây lấy gia đình
bất hạnh của chị, nỗi cơ cực, vất vả như đè nặng trên đôi vai yếu gầy càng
nặng thêm khi “Thằng đầu trông hệt một củ nghệ lớn, bác sĩ bảo: Viêm gan
cấp: Bệnh này ngốn tiền như thần trùng”. Nước mắt chị đã chảy nhiều đến
giờ không còn để khóc nữa. Làm vất vả sớm tối mãi mà không đủ ăn lấy đâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ra tiền mà chạy chữa bệnh cho con, chị nhìn con, nhìn chồng trong sự tuyệt
51
vọng đau đớn. Số phận bất hạnh đã đưa chị đến mọi sự thống khổ, và giờ đây
chị chỉ còn biết bán cho hết đến giọt máu cuối cùng vì gia đình bé nhỏ của
mình. Còn chồng chị cũng không khoanh tay trước bệnh tình của con. Sau
mấy ngày suy nghĩ anh quyết định đi bán máu để có tiền chữa trị cho con.
Bằng “mánh khoé” anh đã chen qua được đám đông đang chầu bán máu, đang
chuẩn bị lấy ven thì có tiếng kêu to “Sắp xỉu rồi! Đưa ngay ra giường!.....
Chợt thấy chút quen thuộc trong cái ngoeọ đầu nhẫn nhục của người đàn bà,
hắn nhào tới đó là Ngần!” chị đang sắp lả đi vì kiệt sức nhưng vẫn cố gượng
cười cho hắn an lòng. Ngâu đã hiểu ra tất cả, thì ra bấy lâu nay Ngần đã tới
đây để cho bố con anh có một ngày không mút tay. Đó là bi kịch của cái
nghèo, miếng cơm manh áo đã ghì sát xuống đất làm cho con người không
ngóc đầu lên được. Nó là nỗi khiếp đảm của con người. Qua việc miêu tả sự
khốn cùng ấy, Võ Thị Hảo đã thể hiện sự cảm thông, thương xót tới số phận
không may mắn của mỗi đời người.
Đi vào không ít bi kịch của đời người, với cái nhìn nhạy cảm, Võ Thị
Hảo không chỉ cảm nhận nỗi khổ đau của miếng cơm manh áo, mà còn là
những bất hạnh của con người mặc cảm về hình thức không hoàn thiện, những
con người phải gánh chịu nỗi đau khi sinh ra đã là kẻ tật nguyền. Hằng trong
truyện Làn môi đồng trinh là kẻ tật nguyền - một cô gái bị mù bẩm sinh.
Chính Hằng cũng cảm nhận sâu sắc về nỗi đau và sự bất hạnh của mình:
“một đứa con gái đã hai mươi chín tuổi mà mỗi khi ra đường mẹ phải dắt. Ăn
cơm cô gái hai mươi chín tuổi ấy còn đưa nhầm thức ăn vào mũi và đã hai
mươi chín tuổi mà chưa từng biết đến một nụ hôn”. Tạo hoá đã cho cô được
làm người nhưng cũng đem đến cho cô những bi kịch, cô đã không tự làm
được những việc đơn giản như ăn, mặc của chính mình, thì làm sao cô làm
chủ được tình cảm thiêng liêng, tình yêu đôi lứa. Vì mù cả hai mắt không bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vệ được chính mình, mà có lần cô suýt bị làm nhục, để rồi sau này cô hình
52
dung về đàn ông chỉ là “ một cái gì đó bậm bịch, khen khét và thô bỉ”. Từ đó
cô khiếp sợ khi nói về đàn ông, và chỉ đến khi một lần sang xem phim ở hàng
xóm về cô không còn sợ đàn ông như trước nữa, cô thầm ao ước “Hãy mang
em đi, ban cho một lần hạnh phúc, rồi đừng quẳng em bên vệ đường, mà hãy
giết em, để em khỏi sống mù loà cả đời và trở thành gánh nặng cho mẹ”.
Trong ước mơ, nỗi đau, sự bất hạnh vẫn còn hiện hữu trong Hằng, nỗi đau
đớn dường là nỗi khiếp đảm bởi “Giờ còn ai nữa không, dám cúi xuống bên
một người tàn tật, và mang đi trên đôi cánh tay hữu hạn của mình tình yêu
cũng như nỗi đau của một kiếp khác”. Đó là mong ước của một con người bất
hạnh, nhưng đây cũng là cách của Võ Thị Hảo bày tỏ niềm thương cảm với
những con người bất hạnh, ở đó là sự thấu hiểu đến tận cùng của nỗi đau.
Cũng là nỗi bất hạnh của con người, nhân vật Tâm trong Máu của lá lại
là một cô gái tật nguyền từ khi mới sinh ra đã không lành lặn, toàn vẹn về
dung mạo và hình hài- “Cô gái nhỏ xíu chỉ cao khoảng hơn một mét. Ngực
lép, đôi mắt tròn mở rưng rưng. Làn môi trên hằn một vết sẹo trắng kéo
miệng hơi xếch về bên trái. Có lẽ đó là vết sẹo vá môi…. Môi dưới mọng đỏ
hơi lõm giữa như một lúm đồng tiền nhỏ xíu thoảng qua, chia thành đôi cánh
hoa nũng nịu…..dáng đi khập khiễng của cô khiến người ta nghĩ đến con chim
sâu đang nhẩy chon von trên đường, mỏ cắp một cành lá lệch người”. Cô cho
rằng tạo hoá đã say rượu khi nặn ra mình nên cô luôn mặc cảm và có cảm giác
là người thừa, mỗi khi có khách đến nhà cô luôn tìm cớ lánh mặt. Cô đã từng
suýt uống cạn bát nước lá trúc đào năm cô mười bốn tuổi. Bởi cô đã nhìn thấy
mình lần đầu tiên trong gương. Đằng sau thân hình tật nguyền của Tâm là
“một lương tri”, do đó mà cô đã cảm nhận sâu sắc và thấm thía nỗi đau, sự bất
hạnh của chính mình. Một người tật nguyền nhưng Tâm rất thông minh: “Thi
vào đại học đạt điểm ưu nhưng không một trường nào nhận vì lỗi hình thể”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cô đau đớn và mong mình hoá điên, vì người điên còn có lẽ sướng hơn cô,
53
bởi họ không nhận ra chính mình, nhưng cô không thể điên. Cô mong mình
được chết thì không chết được, cô đau đớn chua chát cho số phận mình, cô
đành ở nhà với những công việc bếp lúc và rảnh rỗi cô vùi đầu vào “đám tiểu
thuyết”, để đêm xuống cô có những giấc mơ khác thường. Cô nuôi dưỡng một
ảo tưởng và đã có bao chàng trai “khổng lồ” cứu giúp cô qua những bức thư
của anh Tuân, Huân, Hoàng. Cô khao khát ở phía chân trời xa tít sẽ có một
chú lùn đang đợi cô, sinh ra là để cho cô. Thế nhưng “ngay cả trong giấc mơ
cũng cắt xén của em. Trời không cho em hưởng trọn vẹn một giấc mơ nào”.
Viết về những mảnh đời tật nguyền, nhà văn Võ Thị Hảo luôn tìm thấy trong
họ những khao khát mãnh liệt mà đau thương. Những khát khao nhỏ nhoi tầm
thường mà họ cũng không có được.
Trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo còn thấu hiểu những bi
kịch tình yêu hạnh phúc. Các nhân vật đều có khát vọng cháy bỏng được sống
hết mình cho tình yêu, đặc biệt là những người phụ nữ. Họ là những con người
khổ vì yêu rút hết gan ruột ra để yêu và dám hi sinh tất cho tình yêu. Xây dựng
các nhân vật ấy, Võ Thị Hảo đã để cho họ nếm trải tất cả các dư vị khác nhau
của tình yêu. Từ những dư vị ngọt ngào đến những vị đắng chát và cả những
xót xa đau đớn, nhưng trên hết trong mỗi nhân vật đều là sự chủ động, quyết
liệt đấu tranh để giành tình yêu, họ dám sống dám hi sinh cho tình yêu.
Tình yêu đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý của con người.
Các nhân vật trong truyện Võ Thị Hảo luôn khao khát yêu thương, vì thế mà
nhiều nhân vật phải chịu khổ đau vì tình ái, nhất là những người phụ nữ.
Bi kịch tình yêu ẩn chứa trong từng cuộc đời số phận của những người
mải miết đi tìm một tình yêu đích thực mà thất bại bởi sự say mê khờ dại bị
lừa dối phụ bạc. Họ khao khát yêu thương, luôn mong muốn đem lại niềm vui
cho người mình yêu cho dù mình có phải đau thương bất hạnh. Náng Sải trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Con dại của đá là một người con gái đẹp sống và yêu tự nhiên như cây cỏ của
54
núi rừng. Nàng đã vượt qua mọi ràng buộc của tập tục buôn làng, gia đình để
đến với tình yêu. Với Sải đó là một tình yêu tự do nồng cháy, nhưng tiếc rằng
người yêu của nàng là một kẻ bạc bẽo lừa dối và xảo quyệt. Cáo Tờ Quẩy đã
mê hoặc và chiếm đoạt nàng chưa đủ hắn còn xảo trá phụ bạc và rẻ rúng nàng.
Trong đêm tân hôn với Hùng De, nàng đã vùng vẫy bỏ chạy để tìm đến với
Cáo Tờ Quẩy, hắn ném nàng cho lũ bạn làm nhục và còn định bán nàng sang
Trung Quốc. Đau đớn tuyệt vọng trước sự tráo trở, phụ bạc của người yêu Sải
đã giết chết Cáo Tờ Quẩy và kết liễu đời mình. Bi kịch của Sải là nỗi đau của
niềm hi vọng biến thành thất vọng, khi mà nỗi đam mê cuồng si biến thành sự
phấn uất và thù hận. Còn Trang trong Bàn tay lạnh không phải hi sinh mạng
sống cho tình yêu nhưng chị sống còn khổ hơn là chết. Là một cô gái xinh đẹp
lại là sinh viên khoa văn mơ mộng nhưng số phận lại bạc bẽo với chị, bởi bên
cạnh chị là hàng loạt những người bất hạnh trong tình yêu: “ Mẹ chị không
hạnh phúc, chị gái chị cũng không hạnh phúc, người hàng xóm của chị không
hạnh phúc. Vì thế chị phải hạnh phúc, chị không được mắc sai lầm”. Mặc dù
chị đã vô cùng thận trọng trong tình yêu nhưng số phận bất hạnh vẫn cứ như
sợi dây vô hình bám chặt lấy chị như một định mệnh. Đến với tình yêu, Trang
khao khát muốn thay đổi số phận, chị đã yêu say đắm và trao gửi bao hi vọng
về sự che chở gắn bó. Nhưng chị vô cùng đau đớn trong lần hò hẹn đầu tiên,
bởi người mà chị đặt hết niềm hi vọng lại là một gã sở khanh vì lời thách đố
của bạn bè mà tán tỉnh chị. Sự đùa cợt quái ác của đám bạn bè đã làm cho chị
một người phụ nữ quá nhạy cảm này đau đớn và dẫn đến bi kịch của đời chị.
“Trang như một loài cây bị gục từ những giọt sương muối đầu tiên và không
bao giờ dậy được nữa”. Nỗi đau quá lớn khi niềm tin tan vỡ, bởi đã trao lầm
cho một kẻ không xứng đáng và làm cho trái tim người con gái như đóng băng
lại Trang như “một người đàn bà cẩm thạch”. Tình yêu đầu như một nỗi ám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ảnh suốt đời chị như một vết hằn sâu trong tim không thể xoá nhoà, nó dập tắt
55
mọi ước mơ hạnh phúc của đời chị. Đau đớn hơn là băng giá trái tim và chôn
vùi con người trong cô đơn, bất hạnh, lòng căm thù và ghê tởm.
Viết về những bi kịch của con người trong tình yêu hạnh phúc, hơn ai
hết Võ Thị Hảo đã đi đến tận cùng của nỗi đau và để từ đó là sự chia xẻ, cảm
thông với những con người luôn khao khát hạnh phúc dám hi sinh cho tình
yêu nhưng cũng lại bị chính tình yêu phụ bạc. Mỗi người một cảnh đời khác
nhau không ai giống ai, nhưng đằng sau mỗi cuộc đời đau khổ ấy là một sức
sống mãnh liệt, đồng thời qua những số phận ấy nhà văn cũng muốn bày tỏ
quan niệm của mình về cuộc sống này.
2.1.2.2. Vấn đề đạo đức nhân sinh trong truyện ngắn thế sự của Võ Thị Hảo
Cuộc sống con người trong nền kinh tế thị trường vốn là sự đa dạng và
phức tạp. Trong truyện ngắn thế sự, Võ Thị Hảo đã đề cập đến nhiều số phận con
người. Mỗi người mỗi cảnh ngộ khác nhau, nhà văn đi sâu khám phá những vẻ
đẹp giản dị, đời thường; những số phận nhỏ bé khuất lấp trong cuộc đời đầy gian
khổ bất hạnh, để qua đó rút ra những bài học quý giá, những tình cảm tốt đẹp
thiêng liêng luôn cần có trong bất cứ hoàn cảnh nào giữa cuộc đời này.
Đó là vẻ đẹp được thể hiện qua những phẩm chất cao quý của mỗi con
người nhiều khi được ẩn chứa trong những việc làm mà không phải ai cũng
nhận ra.
Nhân vật lão Nhát trong truyện Vầng trăng mồ côi, bằng tấm lòng độ
lượng, vị tha cao cả, bằng tình yêu vô bờ đối với ngôi làng thân yêu, dù
không hiểu vì lý do gì mà cả làng coi lão là “đồ chỉ điểm”, khi làng gặp hiểm
nguy, không tính toán thiệt hơn, lão châm ngọn đuốc đốt lều, đánh lạc hướng
máy bay giặc cứu sống lấy cả làng, cứu cả đoàn xe vận tải trở lương thực vũ
khí. Sự hi sinh âm thầm mà cao cả của lão Nhát thật là một tấm gương sáng
vô bờ. Lão không cần khen thưởng, lập công. Cái lão cần là cả làng thoát khỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự hủy diệt của kẻ thù. Hy sinh cả tính mạng cho làng trong khi làng lại đang
56
đối xử tàn nhẫn - cô lập, xua đuổi, hiểu lầm mình, càng thể hiện sâu sắc phẩm
chất tuyệt vời của một con người sống cho mọi người và sống vì mọi người.
Hay trong Biển cứu rỗi, nhân vật người lính mặc dù đã vô cùng đau
đớn khổ sở trước cảnh người vợ không thuỷ chung, nhưng sau những ngày
trên đảo anh có dịp nhìn lại tất cả, tình yêu trong anh trỗi dậy. Nghĩ về vợ
“anh thấy lòng se sắt”, anh khóc, trái tim anh như mềm đi để đưa bước chân
anh rời đảo... Anh tha thứ cho người vợ đáng thương mà do hoàn cảnh chị đã
mắc phải không ít lỗi lầm.
Đặc biệt là với các nhân vật nữ, nhà văn nhìn thấu những phẩm chất
tiềm ẩn trong họ. Nhân vật nữ của Võ Thị Hảo thường nhận nỗi đau về mình,
dám hi sinh tất cả cho người mình yêu thương. Bích trong Khăn choàng
sương với tấm lòng vị tha bao dung độ lượng và đầy tình yêu thương nhân ái
đã chiến thắng chính mình vì cuộc sống của mọi người. Trước sự phản bội của
chồng, chị chỉ còn biết âm thầm đau khổ và âm thầm tha thứ để cảm thông
chia sẻ với người đàn bà bất hạnh khác cũng khổ đau, bất hạnh như mình.
Hay nhân vật Thảo trong Người sót lại của rừng cười mặc dù rất yêu
Thành, bởi chính tình yêu với Thành mà thời gian ở chiến trường đã giúp cô
có sức mạnh để vượt qua tất cả. Anh là “một trong những đốm lửa sáng nhất
giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng sâu”. Nhưng khi
trở về bên cạnh Thành cô xót xa nhận ra Thành gắn bó với mình vì nghĩa chứ
không có tình yêu, khiến cô tự nguyện lùi bước nhường Thành cho người con
gái khác. Bởi cô hiểu rằng trong tình yêu níu kéo nhau chỉ làm cho nhau thêm
khổ. Vì yêu, vì mong người yêu được hạnh phúc, cô đã tự nguyện hi sinh tình
yêu và nhận về mình những thiệt thòi đau đớn.
Các nhân vật nữ trong truyện ngắn thế sự đời tư của Võ Thị Hảo còn
hiện lên với trái tim trong sáng thuỷ chung cao thượng trong tình yêu. Hải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong Mắt miền tây yêu Tuấn với một tình yêu thật thánh thiện. Cô luôn quan
57
tâm chăm sóc lo lắng cho Tuấn mặc dù không ít lần Tuấn đối xử tệ bạc đánh đập
hành hạ cô. Trong mọi tình cảnh, Hải vẫn tha thứ và hi vọng có thể thay đổi con
người Tuấn. Hải còn dồn công sức về tận miền quê xa xôi của Tuấn để chụp
bằng được những bức ảnh về cha mẹ, gia đình hy vọng Tuấn hồi tỉnh. Tình yêu
không tính toán, đếm đo, tình yêu để giúp người yêu sống tốt đẹp hơn, sống có ý
nghĩa hơn, đó chẳng là một phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ?
Trong truyện ngắn thế sự, nhà văn còn nhận thấy lòng tự trọng cũng là
những phẩm chất đáng ghi nhận của người phụ nữ. Những con người tưởng
chừng xấu xa, đáng khinh bỉ bỏ đi, thế mà tiềm ẩn trong họ là lòng tự trọng
của chính mình. Cô gái điếm trong Biển cứu rỗi, mặc dù “ đã thiu, bị liệng ra
bãi thải”, nhưng trước cái nhìn khinh miệt của người đàn ông trên đảo đèn cô
gái “thấy nhục và quờ tay tìm cái nón che người”. Cô hiểu rằng bước đường
cùng, vì mong muốn tìm một nơi bấu víu cho những ngày cuối đời nên cô tự
nguyện đến hoang đảo. Khi bị anh hắt hủi, coi cô như một con bò, cô thấy thật
nhục nhã. Từ “nơi hình hài tã tượi kia vẫn còn chút lòng tự tôn của giống
người” nên cô thấy nhục. Cô nhận ra rằng, “trong đời hành nghề của thị, thị
chưa bao giờ cảm thấy đau đớn đến như thế trước sự hạ nhục của trò chăn
gối. Dường như thị đang bị cầm kìm rứt ra từng khuc ruột”.
Đi sâu khám phá phẩm chất tuyệt vời của con người, đặc biệt là người
phụ nữ, trên từng trang văn của mình, Võ Thị Hảo đã đem đến không ít những
bài học nhân sinh sâu sắc cho mỗi chúng ta. Trong cuộc đời còn nhiều chông
gai, bất trắc, phẩm chất tốt đẹp của con người chính là tài sản vô giá để chúng
ta vượt qua tất cả sống cho cuộc đời có ý nghĩa hơn. Đề cao giá trị đạo đức
văn hóa, Võ Thị Hảo đã thể hiện rõ quan điểm và trách nhiệm cao cả của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà văn chân chính vì cuộc sống, vì con người.
58
2.2. Giá trị nhân sinh sâu sắc thời hiện đại qua màu sắc huyền thoại trong
truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo
2.2.1. Truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo
Yếu tố kỳ ảo xuất hiện sớm trong văn học nhưng cho đến nay vấn chưa
có một khái niệm thống nhất, cụ thể. Dựa trên các từ điển: Từ điển giải nghĩa
của Pháp, Từ điển thuật ngữ văn học của Rumani, Từ điển Pháp-Việt có thể
xác định: cái kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, được tạo ra nhờ khả năng
suy tưởng, ở đó cái siêu nhiên chiếm ưu thế. Đó là những cái không mang tính
chân thực, dị thường, quái dị, siêu nhiên.
Tuy chưa có một khái niệm thống nhất nhưng có thể thấy nhiều trên
sách báo thuật ngữ truyện kì ảo, truyện kinh dị , truyện kì lạ xuất hiện đậm
đặc. Theo TS Bùi Thanh Truyền có thể hiểu thuật ngữ kì ảo theo ba hướng:
thứ nhất có thể hiểu đây là loại truyện nhấn mạnh đến những tính chất khác
thường không có thực, và mang chức năng giải trí cho con người là chủ yếu;
thứ hai, thủ pháp chủ yếu của thể loại truyện này là dùng yếu tố kì ảo để nhận
thức và phản ánh cuộc sống của con người; thứ ba, với các thuật ngữ truyện
huyễn tưởng, truyện huyền ảo….để chỉ những truyện kì ảo thời kì hiện đại.
Tuy khái niệm kì ảo còn chưa thống nhất, nhưng có một điểm chung của các
cách hiểu khái niệm này là sử dụng yếu tố bất thường, lạ lẫm, nửa thực nửa hư
trong quá trình phản ánh của hiện thực đời sống con người. Các nhà văn dùng
chất liệu của đời sống hiện thực để xây dựng các nhân vật theo sự phi thường
hoá của một thế giới siêu thực hoá, hư cấu hoá để thể hiện ý đồ nghệ thuật của
mình qua hình tượng sáng tạo nên. Như vậy có thể thấy, văn học kì ảo là văn
học mà ở đó các nhà văn sử dụng các yếu tố ma quái, những điều lạ lùng hay
những sự kiện, con người không có thực để thể hiện tư tưởng nghệ thuật của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình.
59
Trong văn học Việt Nam ngay từ buổi đầu sơ khai đã có những tác
phẩm sử dụng những yếu tố kì ảo, hoang đường để lí giải, phản ánh hiện thực
của cuộc sống, cho dù nó còn ấu trĩ, giản đơn. Điều này được thể hiện rất rõ
trong các tác phẩm văn học dân gian. Cùng với thời gian, văn học dân gian sử
dụng các yếu tố hoang đường, kì ảo đã thoả mãn được những khát vọng lí giải
về thiên nhiên và về chính bản thân con người mà thời kì đó đã không thể lí
giải. Và như một điều tất yếu, người đọc đã đón nhận những chuyện không có
thật, chuyện hoang đường như một yếu tố của tâm linh, lí giải những điều của
tâm linh. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của văn học, yếu tố kì ảo ngày càng
phong phú về nội dung phản ánh. Các tác phẩm mang yếu tố kì ảo đã đi vào
nhiều vấn đề của cuộc sống con người. Điều này được thể hiện trong nhiều tác
phẩm của các tác giả đương đại trong đó có nhà văn Võ Thị Hảo.
Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 là thời kì mà văn học
có sự nhìn nhận mới về quan điểm cũng như cách thức sáng tác. Các nhà văn
đã dần thoát li khỏi khuynh hướng sử thi, để mặc sức sáng tạo mang đậm dấu
ấn của riêng mình. Với sự trẻ trung, hăng hái và giàu sức sáng tạo, một loạt
những cây bút như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Võ Thị Hảo... đã tạo cho mình một cách viết riêng, sử dụng yếu tố kì ảo
trong sáng tác như một phương tiện thể hiện tư tưởng và trở thành một hiện
tượng văn học độc đáo. Thông qua yếu tố kì ảo, cuộc sống con người hiện lên
với nhiều dáng vẻ, chiều kích khác nhau. Hiện thực vừa quen, vừa lạ, hiện
thực của tâm trạng, của những điều ngẫu nhiên, bất ngờ xuất hiện. Với tần số
sử dụng yếu tố kỳ ảo trong các tác phẩm vô cùng lớn nên nó đã thành một
hiện tượng trong nền văn học đương đại. Chẳng hạn như tập truyện Hồn trinh
nữ của Võ Thị Hảo có 6/12 truyện xuất hiện yếu tố kỳ ảo; tập truyện Những
truyện không nên đọc lúc nửa đêm tất cả đều có yếu tố kì ảo; tập truyện Luân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hồi của Tạ Duy Anh có 9/12 truyện xuất hiện yếu tố kỳ ảo; tập truyện Người
60
đứng một chân của Hồ Anh Thái có 7/10 truyện xuất hiện yếu tố kỳ ảo …
Các nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo như một phương tiện nghệ thuật để phản
ánh hiện thực và gửi gắm những thông điệp đến với người đọc.
Hoà chung vào dòng chảy của văn học kì ảo Việt Nam, Võ Thị Hảo đã
thể hiện cá tính độc đáo của mình ở khả năng đưa các yếu tố kì ảo như là một
phương tiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung tư tưởng nghệ thuật của mình.
Võ Thị Hảo sáng tác loại truyện kỳ ảo nhằm thể hiện thái độ của người nghệ
sĩ trước số phận bé nhỏ của con người trong bão tố nghiệt ngã của cuộc đời.
Trong cuộc đời thực hôm nay, cho dù đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới
hơn hai thập kỷ, nhưng dưới con mắt của nhà văn nó vẫn còn nhiều điều nhức
nhối, đáng phải trăn trở. Viết truyện kỳ ảo, nhà văn gửi gắm được nhiều điều,
thể hiện được tất cả những thương đau của những số phận bé nhỏ mà vẫn có
một niềm hi vọng chan chứa vào tình yêu cuộc sống, vào mối quan hệ cao đẹp
giữa con người với con người.
2.2.2. Giá trị nhân sinh sâu sắc thời hiện đại trong truyện ngắn kì ảo của
Võ Thị Hảo
Trong truyện ngắn kì ảo của Võ Thị Hảo, hầu hết các câu chuyện đều
được xây dựng dưới dạng truyện có nguồn gốc cổ tích. Các câu chuyện ở thể
loại này thường đưa người đọc vào một thế giới hư ảo, không có thực mang
đậm mầu sắc huyền thoại. Nhưng đằng sau những câu chuyện hư ảo không có
thực đó là ý nghĩa nhân sinh sâu sắc thời hiện đại mà nhà văn gửi gắm.
Với hình thức là những câu chuyện cổ tích xa xưa nhằm lí giải các hiện
tượng của đời sống, sự vật, hiện tượng của con người, nhà văn Võ Thị Hảo đã
đi vào các khía cạnh của cuộc sống của con người hôm nay trong sự trải
nghiệm của bản thân cùng với sự nhảy cảm, khả năng sáng tạo phong phú của
một nhà văn nữ. Võ Thị Hảo quan tâm và thể hiện sâu sắc các vấn đề về người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phụ nữ, đặc biệt là những bi kịch về tình yêu và hạnh phúc của họ.
61
Tình yêu đó là một thứ tình cảm thiêng liêng cao quý không thể thiếu
của con người, nhất là đối với những người phụ nữ. Trong loại truyện kì ảo
của Võ Thị Hảo, các nhân vật được nếm trải nhiều dư vị khác nhau của tình
yêu. Từ những dư vị ngọt ngào đến những dư vị đắng chát. Họ hiện lên với
những cung bậc khác nhau của tình yêu, từ nhẹ dạ cả tin đến mạnh mẽ chủ
động trong tình yêu hạnh phúc của chính mình. Họ đã khao khát yêu và được
yêu và cũng vì thế mà họ luôn phải gánh chịu những khổ đau trong tình yêu.
Bi kịch tình yêu luôn ẩn chứa trong từng cuộc đời, từng số phận của
những người mải miết đi tìm tình yêu đích thực mà thất bại. Không ít những
con người yêu say mê, tha thiết nhưng rồi lại bị lừa dối phụ bạc. Từ những vị
thần, những nàng tiên đến những con người trần thế bé nhỏ luôn khát khao
yêu, mong muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác dẫu mình
chuốc lấy đau thương, bất hạnh.
Nhân vật nàng H‟Điêu trong Khát vọng của muôn đời là một con người
luôn khao khát yêu thương và sẵn sàng đi tìm người yêu thương không ngại hi
sinh chính bản thân mình, ngay cả cái chết vẫn không lùi bước. Với H‟Điêu
“Khi yêu, con người ta vừa như mới sinh ra và người già ngay lập tức trở
thành vụng dại như trẻ nhỏ.”. Nàng H‟Điêu đã nguyện trở về kiếp trước, biến
thành cây chanh để cứu giúp những người sau đó, những con người lỡ làng, bị
phụ bạc “chính trái cây đã làm nỗi đau trong tim họ dịu lại. Và sau đó ai ăn
trái chanh H’Điêu người đó sẽ biết quên mình và vậy là người đó biết yêu”.
Cuộc sống sẽ trở lên vô nghĩa nếu không có tình yêu. Nếu không có tình yêu
“thử hỏi thế gian này không còn ai biết mình, không còn ai si mê, không còn
tìm đâu ra một kẻ biết yêu; đàn ông và đàn bà chỉ đến với nhau, vì xác thịt, ở
trong ngực mọi người chỉ là những trái tim băng giá, chẳng còn những
H’Điêu không quản cái chết đi tìm người yêu, thì liệu có đáng còn thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
này chăng?Thế giối nhi nhúc con cháu Y Nhớt! Thật đáng sợ! ”. Trong truyện
62
nhà văn còn thể hiện rõ tư tưởng về tình yêu. Nó là thứ tình cảm không thể
thiếu của cuộc sống trong con người trần tục. Ở cuộc đời này, bất kể là ai,
người giàu sang, quyền quý hay những kẻ bần hàn họ đều mong muốn được
hưởng vị ngọt của tình yêu và khát vọng hạnh phúc. Trong tín ngưỡng của con
người, Trời được hình dung là một một nhân vật tối thượng của vinh quang,
của quyền lực và giàu sang. Nhưng Trời vô cùng buồn chán bởi nơi Trời ở
“không có tình yêu”, và những cảnh trời nhìn thấy từ trên cao rất nhiều nhưng
có một cảnh làm trời thích thú nhất- “cảnh yêu nhau”. Chính sự tò mò đã
khiến trời dấn thân vào con đường để đi tìm tình yêu nơi hạ giới. Trong hành
trình của mình trời đã gặp H‟Điêu và đã gục ngã trước người con gái đẹp, làm
nên một chuyện tình cay đắng trong tình yêu không trọn vẹn. Trái tim màu
ngọc lam lạnh như băng của Trời tan vỡ và thay vào đó là trái tim bằng máu
thịt, biết đau khổ và yêu thương. Trời vô cùng đau khổ khi không có được tình
yêu với H‟Điêu: “Trời đưa tay lên ngực. Có tiếng ngọc vỡ ra từ ngực trái của
chàng. Và lần đầu tiên trong đời. Trời nhận thấy có một cơn đau nhói …”.
Tình yêu không chỉ đem đến cho con người niềm vui sướng mà trong đó có cả
những khổ đau, nhưng nó lại là khát vọng, sự thú vị vô cùng của muôn đời ai
cũng mong đợi.
Nhân vật cô gái mồ côi, sống lẻ loi trong rừng sâu trong truyện Nàng
tiên xanh xao khiến bao trái tim người đọc phải động lòng trắc ẩn. Nàng đã
không quản hiểm nguy cứu sống một chàng trai con nhà quyền quý bị thương
nặng trong lúc đi săn. Nàng đã cứu chàng trai bằng cách truyền cho chàng một
nửa máu đang chảy trong huyết quản của mình thông qua chiếc kim kì diệu
của thần núi. Mất một nửa máu, da nàng trở lên xanh xao đến chính nàng nhìn
thấy cũng sợ hãi. Nàng cứu vớt một cuộc đời, một con người chưa từng biết
mặt biết tên để rồi gửi gắm cả tình yêu và tính mệnh của mình cho người ấy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bất chấp sự cảnh báo của thần núi “Ôi Đàn bà! Đàn bà muôn đời vẫn vậy, vẫn
63
không thoát ra khỏi dây xích của sự nhẹ dạ. Con có biết rằng, cứu chàng, rồi
đây con sẽ khổ vì chàng?”. Mặc cho lời cảnh báo của thần núi, nàng vẫn tự
nguyện đánh đổi “màu hồng rạng ngời trên má” mình để cứu chàng trai.
Được cứu sống hai người đã yêu nhau say đắm và đám cưới được tổ chức.
Nhưng hạnh phúc đã không đến được với người con gái dám hi sinh tất cả cho
tình yêu. Trong đêm tân hôn, chàng trai đã bỏ rơi nàng để vui đùa cùng những
người con gái khác, để một mình nàng trong cô đơn, đau khổ. Cay đắng trước
tình yêu bị rẻ rúng, nàng trở nên đau đớn tuyệt vọng và quyết định chạy trốn
khỏi sự thực nghiệt ngã. Sau những cuộc vui thú với các cô gái, chàng trai nhớ
tới nàng nhưng không thấy nàng đâu, chàng vô cùng ân hận vội vã đi tìm
nhưng chỉ thấy một chiếc bóng lẻ loi. Chàng chạy tới ôm và cầu xin nàng tha
thứ bằng một cách biện minh không thể chấp nhận- “đàn ông đôi khi vẫn thế”,
và nàng đã cự tuyệt. Có thể thấy đó là một định mệnh, cuộc đời đã xui khiến
họ gặp gỡ và yêu nhau, bắt cô gái phải hy sinh tất cả cho chàng, vậy mà vẫn
phải chịu số phận bất hạnh, cay đắng. Ngay trong đêm tân hôn, nàng nếm trải
cảm giác cô đơn một mình khi tân lang đi tìm thú vui với các cô gái khác.
Chính vì vậy cho dù chàng trai có thức tỉnh, muốn ôm và níu giữ, nhưng nàng
đã vùng vẫy để thoát khỏi cánh tay đó cho đến chết. Tình yêu không phải là sự
níu kéo nắm giữ mà đó là sự thương yêu trên cơ sở của sự tôn trọng lẫn nhau.
Trong màu sắc huyền thoại- linh hồn chàng trai hoá thành cái gai bảo vệ hoa
và cây lạ ấy sau này được người ta đặt tên là cây bưởi, để phần nào an ủi cho
vong linh người con gái đáng thương. Từ hình ảnh một cây bưởi gần gũi quen
thuộc với mọi người, nhà văn đã đem đến cho người đọc một sự tích đầy xúc
động, một bi kịch trong tình yêu đầy xót xa, một câu chuyện cảm động nhiều
nước mắt mà trong cuộc sống đời thường vẫn có. Sự chạy trốn của nhân vật
nàng không chỉ là sự chạy trốn của tình yêu bị phản bội mà còn là chạy trốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm giác cô đơn, lẻ loi giữa cuộc đời. Sau khi hoá kiếp, linh hồn nàng biến
64
thành những nụ hoa trắng muốt toả hương thơm ngát, nó vừa tinh khiết, vừa
quá đỗi thanh cao mà những bàn tay phàm tục của chàng trai mãi không thể
nào với tới được.
2.3. Truyện ngắn giả lịch sử và khát vọng nhân bản về cuộc sống con ngƣời
của Võ Thị Hảo
2.3.1.Truyện ngắn giả lịch sử của Võ Thị Hảo
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, loại truyện giả lịch sử không nhiều
nhưng lại thể hiện một khát vọng sâu xa về cuộc sống của con người. Các sự
kiện về lịch sử có nguồn gốc từ xa xưa được Võ Thị Hảo sử dụng như một
yếu tố cấu thành nên tác phẩm và truyền tải nội dung tư tưởng của nhà văn.
Mật độ các truyện ngắn có sự kiện lịch sử không nhiều, hướng khai thác của
nhà văn là sử dụng các sự kiện lịch sử để làm phương tiện truyền tải nội dung
tư tưởng của mình. Các chi tiết, sự kiện, nhân vật được nhà văn hư cấu nhằm
truyền tải nội dung tư tưởng của nhà văn tới người đọc.
Trong truyện Hành trang của người đàn bà âu lạc, nhà văn đã lấy tích
về nhân vật khai thiên lập địa trong mo “Đẻ Đất đẻ Nước”của người Mường,
với nhân vật Dạ Dần, nhân vật Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ trong truyền
thuyết của người Việt “Trăm trứng đẻ trăm con” như một phương tiện có ý
nghĩa phát ngôn về tư tưởng của nhà văn về nỗi vất vả bởi những gánh nặng
của đạo lí và tôn giáo đối với người phụ nữ. Các nhân vật lịch sử được thổi
vào mình những triết luận về đạo lí của cuộc sống của con người nhất là người
phụ nữ. Những gánh nặng của đạo lí và tôn giáo ở mọi thời đại luôn đè nặng
lên vai người phụ nữ. Nhưng cùng với thời gian, những giáo điều này ngày
càng nhiều hơn. Họ không có sự lựa chọn cho mình, cho dù họ cố gắng rũ bỏ
nhưng vô cùng khó khăn. Người đàn bà Âu Lạc cứ mỗi lần muốn rũ bỏ bớt đi
gánh nặng thì “Hành trang của nàng nặng hơn của Dạ Dần và mẹ Âu Cơ, vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong gánh của Dạ Dần và mẹ Âu Cơ chưa có triết lí, chưa có bình đẳng và
65
những mỹ từ”. Nhà văn mượn những nhân vật có ý nghĩa lịch sử để rồi thổi
vào đó những tư tưởng của cuộc sống hiện đại, số phận con người.
Trong Hồn trinh nữ, nhà văn mượn câu chuyện về chiến tranh thời xưa
để từ đó hư cấu câu chuyện về cuộc sống của con người, đặc biệt là số phận
người phụ nữ có chồng, người yêu đi lính. Chiến chinh đã đem lại cho người
lính những bổng lộc, niềm vinh hạnh nhưng cũng đã cướp đi sinh mạng của
họ, cướp đi tuổi trẻ, niềm hạnh phúc của con người. Hai người ra đi nhưng chỉ
một được trở về. Trở về trong niềm hy vọng chứa chan nhưng cuộc chiến đã
khiến trái tim họ quặn đau: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều
đẹp, nhưng đầu ta và ông ấy đã ngả màu sương!...”. Với các chi tiết mang
đậm dấu ấn của một thời kì lịch sử, nhà văn Võ Thị Hảo đã xây dựng nhân vật
từ sự hư cấu, từ các chi tiết huyền thoại để truyền tải nội dung về cuộc sống.
Số phận cũng như cuộc sống hạnh phúc của con người dường như chính bản
thân họ không định đoạt được, hạnh phúc sinh mạng của con người nằm trong
tay một số người, vì lợi ích cá nhân, vì quyền lực của mình mà họ sẵn sàng hi
sinh để bảo vệ cuộc sống và hạnh phúc của người khác. Những con người này
chính là thủ phạm hay nói cách khác chính chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi
quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Chiến tranh đã lấy đi tất cả của
con người sự sống, tuổi xuân, niềm hạnh phúc biến con người trở lên chai sạn,
cằn cỗi.
Vượt qua thời gian, Võ Thị Hảo đến với người lính trong chiến tranh
chống Pháp và chống Mỹ. Nhân vật chính là người lính sau chiến tranh trở về,
nhà văn đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc về người lính sau chiến tranh, để
rồi từ đó thể hiện niềm cảm thông chia sẻ. Qua đó là sự lên án chiến tranh phi
nghĩa của kẻ thù đã gây bao đau thương không chỉ về vật chất mà cả tinh thần
của con người. Trong Biển cứu rỗi, người lính sau những năm chinh chiến đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để lại nơi chiến trường một phần của cơ thể với niềm hi vong về hạnh phúc
66
gia đình. Nhưng chiến tranh đã cướp đi của anh tất cả, tình yêu, niềm hạnh
phúc gia đình. Chính trong ranh giới của sự sống và cái chết trong chiến tranh
đã cho ra đời “Những đứa trẻ khác bố. Những cuộc giao hoan vội vã thoảng
mùi chết chóc trước khi đi vào họng súng tử thần”. Anh đã chạy trốn sự thực
phũ phàng mà chiến tranh đã gây ra. Nhưng chính tình yêu đã giúp anh có cái
nhìn thấu đáo, anh nghĩ về chiến tranh, được mất, nghĩ về vợ và thấy “lòng se
sắt”. Anh đã khóc , tình yêu trỗi dậy, anh rời khỏi đảo.
Với tài năng cũng như sự mẫn cảm bản năng của người phụ nữ, nhà
văn Võ Thị Hảo đã sử dụng các chi tiết mang yếu tố của lịch sử để rồi hư cấu
tạo nên những truyện ngắn chuyển tải nội dung tư tưởng mang dấu ấn của thời
đại. Nhà văn đã thổi vào đó một luồng sinh khí mới để đồng cảm chia sẻ với
số phận của con người.
2.3.2. Khát vọng nhân bản về cuộc sống con người trong truyện ngắn giả lịch
sử của Võ Thị Hảo
Con người là trung tâm của vũ trụ. Mọi sự vật hiện tượng của cuộc
sống này đều tồn tại xung quanh con người, phục vụ cho đời sống con người
và văn học cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Truyện ngắn của Võ Thị Hảo đều lấy con người làm trung tâm, thông
qua các chi tiết lịch sử, các nhân vật lịch sử nhà văn đã hư cấu lên các nhân
vật mang đậm dấu ấn thời đại. Cuộc sống con người hiện lên muôn hình vạn
trạng từ những khát vọng cao cả, tới những ham muốn tầm thường... tất cả đều
được thể hiện qua cái nhìn sắc sảo với trái tim yêu thương nồng nàn của Võ
Thị Hảo. Với các chi tiết nghệ thuật mang đậm màu sắc lịch sử, nhà văn đã
đưa người đọc vào một thế giới xa xưa. Để từ đó nhà văn thể hiện những tư
tưởng, quan điểm thời hiện đại. Con người với những số phận khác nhau, bi
kịch khác nhau nhưng ẩn sâu trong đó là tiếng nói của sự cảm thông, chia sẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của nhà văn với nhiêù số phận. Trong truyện ngắn Hành trang của người đàn
67
bà Âu Lạc, nhà văn đã lấy tích về nhân vật khai thiên lập địa Dạ Dần “Đẻ Đất
đẻ Nước” của người Mường và truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ
“Trăm trứng đẻ trăm con” của người Việt đẻ nói về số phận của những người
phụ nữ. Người đàn bà Âu Lạc luôn mang trên vai những trách nhiệm nặng nề,
hành trang mỗi ngày một thêm trĩu nặng bởi một bên con, một bên chồng, một
bên là những triết lí, tôn giáo đạo phu thê, công dung ngôn hạnh…sự mệt mỏi
khiến nàng bao lần định dừng lại bên vệ đường để quẳng bớt đi một vài thứ
trong gánh nặng mình nhưng túi hành trang của họ còn được chất thêm những
mỹ từ của thời đai mới: “mỗi mỹ từ lại óc ách đầy những giọt mồ hôi, nước
mắt và cả máu của người đàn bà, những sợi tóc bạc, những vết nhăn nheo
trước tuổi”. Dường như nhà văn đã đặt ra những câu hỏi về số phận của người
phụ nữ, đến bao giờ họ mới bớt đi gánh nặng của số phận, của cuộc đời mà
nhiệm vụ nào với họ cũng đều quan trọng khó có thể rời bỏ? Viết về vấn đề
của người phụ nữ, nhà văn đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ. Hơn thế nữa Võ
Thị Hảo còn luôn quan tâm đến cuộc đời số phận cũng như quyền lợi của
người phụ nữ trong xã hội hiện tại. Đó là khát vọng nhân bản sâu sắc về cuộc
sống con người của nhà văn.
Trong Hồn trinh nữ, với các chi tiết mang đậm dấu ấn của lịch sử, Võ
Thị Hảo đã đưa người đọc trở về với quá khứ xa xưa, trở về với những cuộc
chiến tranh phong kiến. Để rồi từ đó mà chia sẻ cảm thông với số phận con
người cũng như tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Người con gái trong Hồn trinh
nữ đã hi sinh để chờ người yêu đi lính đến lỡ thì. Chiến tranh đã mang đi một
chàng trai bẽn lẽn, ngượng ngùng với lời ước hẹn, và sau mười bẩy năm trả về
cho nàng một người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép và mang lối sống
chiến trường. Từ lời nói, cử chỉ, hành động đến vóc dáng đều hằn sâu sự khốc
liệt của chiến tranh, đến nỗi trong đám cưới của mình anh “ không biết nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện gì khác ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc sơn hào
68
hải vị và ngập máu trong triều đình, về cung cách người ta giết nhau trong
thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay
kiếm của anh”. Nghe những câu chuyện sặc mùi máu và chết chóc của chồng
trong đêm tân hôn, người trinh nữ lỡ thì đó luôn sống trong nỗi ám ảnh và sợ
hãi về tội ác của chồng. Nàng luôn kinh hãi, co rúm người, quay mặt vào
trong cố kìm tiếng khóc bởi nàng luôn trông thấy những oan hồn và bóng ma
về đòi chồng nàng trả mạng. Nàng vô cùng đau đớn, sự chờ đợi trong mỏi
mòn suốt mười bẩy năm trời đến quá lứa lỡ thì mong chàng trai trở về những
tưởng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, nhưng niềm hạnh phúc mãi
mãi xa vời với nàng. Chiến tranh đã làm biến dạng đi một chàng trai bẽn lẽn,
ngượng ngùng, với lớp lông măng ngăm ngăm trên mép ngày nào, rồi trả về
một người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép, đôi bàn tay nhuốm máu và
không biết cười. Hơn thế nữa chiến tranh còn cướp đi niềm khao khát niềm
hạnh phúc của nàng ngay trong đêm tân hôn. Cái đêm mà với chồng nàng, đó
là sự buồn bã đau đớn tuyệt vọng để rồi gầm lên như một con thú vừa bị đâm
một nhát: “thế là hết, đêm tân hôn cũng là đêm vĩnh biệt, phần thưởng cuối
cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương”, anh xách kiếm
bỏ đi biệt xứ. Cuối cùng người trinh nữ chết trong cô đơn và luôn ám ảnh về
những gì đã qua, nàng hoá thành loài hoa trinh nữ mà mỗi bước chân đi qua
đều giật thót mình. Như vậy với các chi tiết mang dấu ấn của lịch sử nhà văn
đã thể hiện cái nhìn sâu sắc về chiến tranh cũng như những mất mát của con
người trong và sau chiến tranh. Chiến tranh không chỉ làm biến dạng con
người về hình hài mà nó còn lấy đi của họ tâm hồn trong sáng, tình yêu và
hạnh phúc cao đẹp.
Vượt qua thời gian, nhà văn Võ Thị Hảo đã đến với những người lính
của những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Mặc dù đây là cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến tranh vệ quốc, nhưng nó cũng không tránh khỏi sự khốc liệt mà chiến
69
tranh đem lại. Đằng sâu những chiến thắng oanh liệt của dân tộc là những mất
mát về hình hài, tình yêu hạnh phúc của con người trong chiến tranh và sau
chiến tranh. Người lính trong Biển cứu rỗi đã để lại một phần cơ thể của mình
nơi chiến trường. Anh mong muốn mình sẽ hạnh phúc trong ngày trở về với
gia đình, nhưng số phận đã không mỉm cười với anh. Anh chạy trốn sự thực
bằng cách rời bỏ đồng loại, rời bỏ sự thực phũ phàng. Cùng với thời gian, anh
đã nhìn lại tất cả, sự mất mát của mình cũng là sự mất mát chung của mọi
người. Đó chính là sự tàn khốc của chiến tranh, nỗi đau không của riêng ai.
Nhân vật Thảo, trong truyện ngắn Người sót lại của rừng cười cũng để
lại tuổi trẻ, vẻ đẹp thanh xuân nơi chiến trường. Hơn thế nữa nó còn để lại
những thương tích về tâm hồn trong lòng cô. Chiến tranh không chỉ tàn phá
Thảo về nhan sắc mà còn cả tâm hồn. Thảo tuy may mắn sống sót trở về
nhưng cô dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hoà nhập với chúng bạn. Cô
đau đớn tột cùng, Thảo không điên dại nơi chiến trường khốc liệt nhưng lại
dại điên trong cuộc sống thời bình. Võ Thị Hảo với trái tim đa cảm giàu lòng
yêu thương con người đã đi sâu vào nỗi đau tinh thần của con người trong
chiến tranh, đặc biệt là người phụ nữ để cảnh báo chiến tranh đã gieo những
đau thương cho con người, chúng ta phải chặn đứng chiến tranh để con người
được sống trong một thế giới hoà bình.
Hướng về cuộc sống bộn bề phức tạp hôm nay, thể hiện khát vọng hạnh
phúc muôn đời của con người là đích sáng tạo của Võ Thị Hảo. Dù viết truyện
thế sự, truyện kỳ ảo hay giả lịch sử, nhà văn vẫn đem đến cho người đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những vấn đề nóng hổi có giá trị nhân văn sâu sắc của cuộc sống, con người.
70
Chƣơng 3 NHỮNG ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO
Cái khó nhất trong sáng tác văn chương là tạo ra dấu ấn riêng cho
mình. Nó đòi hỏi người sáng tạo nghệ thuật phải có tài năng cũng như sự nỗ
lực không mệt mỏi trong suốt chặng đường. Với Võ Thị Hảo thành công của
chị ở thể loại truyện ngắn là quá trình phấn đấu kiên cường và bền bỉ trong
hướng sáng tạo mới mẻ đúng đắn. Các tác phẩm của chị dù ở thể loại nào
cũng luôn mang tới sự hấp dẫn cho người đọc không chỉ ở nội dung phản ánh
mà còn ở cả phương diện nghệ thuật, đặc biệt là truyện ngắn. Vậy trong quá
trình sáng tác, nhà văn đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật nào? Những thủ
pháp ấy đã tạo nên dấu ấn riêng cho nhà văn ra sao? Trả lời câu hỏi đó,
chúng tôi dành chương 3 để đi sâu nghiên cứu.
3.1. Nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo
3.1.1. Cốt truyện kỳ ảo
Ở thể loại truyện ngắn, cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng. Nó là
bộ xương cho toàn bộ câu chuyện. Các chi tiết, tình huống, nhân vật đều phải
tuân theo sự phát triển của cốt truyện, nếu không muốn đi ra khỏi ý đồ nghệ
thuật của tác giả. Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, cốt truyện kỳ ảo đóng
vai trò quan trọng. Nó là “xương cốt” để các chi tiết nghệ thuật, các tình
huống nảy sinh và cũng từ đó nhân vật hình thành phát triển theo ý đồ tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn. Thực chất mọi cái kì ảo đều là sự vi phạm trật
tự quen thuộc, một sự đảo lộn không thể chấp nhận được trong lòng những
quy luật bất biến của đời thường. Nhà văn Võ Thị Hảo sử dụng cốt truyện kỳ
ảo như một “điểm nhấn” trong quá trình sáng tạo để tạo dấu ấn riêng cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình. Nhà văn dùng các chi tiết kỳ ảo xây dựng các nhân vật kỳ ảo và tạo ra
71
các tình huống kỳ ảo để các nhân vật gặp gỡ yêu thương hay đấu tranh. Khi
cái kỳ ảo xuất hiện trong các tình huống câu chuyện, nó tạo ra các sự kiện
khác thường, thu hút sự chú ý của người đọc.
Để xây dựng những câu chuyện có cái cốt kỳ ảo, nhà văn đã lựa chọn
hàng loạt các chi tiết kỳ ảo và được sắp xếp một cách phi lô gíc để rồi nhân
vật xuất hiện ngẫu nhiên như nó vốn có.
Trong truyện ngắn Nàng tiên xanh xao, các chi tiết kỳ ảo được xếp đặt
đan cài cùng các chi tiết tả thực để xây dựng nhân vật nhằm thể hiện đúng ý
đồ nghệ thuật của nhà văn. Khi nhân vật không còn nhờ cậy vào các chi tiết
của hiện thực, nhà văn đã giải quyết các nút thắt bằng yếu tố kỳ ảo. Trước sự
bất lực của nàng “trải lá khô nằm đất đã ba ngày và chờ mong chàng tỉnh
lại”, nàng đã cầu cứu tới thần núi và chi tiết kỳ ảo xuất hiện “một làn khói
màu lam cuồn cuộn bốc lên từ mỏm đá. Thần núi theo làn khói bay ra, bộ râu
xanh dài chấm đất.”Nút thắt đã được giải quyết, chàng trai đã được cứu sống,
bằng cách cũng rất kỳ ảo bởi một chiếc kim dài rỗng lòng “con hãy cắm một
đầu kim vào một ngón tay con và cắm một đầu kia vào ngực chàng, máu
trong người con sẽ truyền sang chàng...chàng sẽ hồi tỉnh”. Cứ như vậy các
“nút thắt” liên tiếp được giải quyết và nhân vật được hiện lên thông qua các
chi tiết vừa thực vừa ảo. Khi tới đỉnh điểm của câu chuyện, cô gái cảm thấy
cay đắng vì chàng trai đã rẻ rúng tình yêu, cô đã chạy trốn khỏi ngôi nhà có
ánh đèn huy hoàng. Sau một hồi vui chơi thoả thích, chàng trai mới nhớ tới
người yêu và hoảng hốt đi tìm, nhưng chàng chỉ thấy chiếc bóng lẻ loi, cô
đơn. Để lí giải cho cái chết của cô gái và sự tích về loài hoa Bưởi, nhà văn
dùng đến chi tiết kì ảo. Đó là sự xuất hiện của thần núi và sự hoá thân của hai
con người thành cây Bưởi.
Từ các chi tiết nghệ thuật kỳ ảo, nhà văn còn sử dụng các tình huống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện mang đậm dấu ấn kỳ ảo. Đó là sự gặp gỡ của chàng trai và cô gái trong
72
một khu rừng rậm. Một yếu tố thực- ảo đan cài tạo ra một tình huống truyện
vừa hiện thực vừa ly kỳ. Để rồi từ đó như một định mệnh, cô gái thể hiện
được tình yêu trong sáng, dám hi sinh vì tình yêu, và đối lập là sự phụ tình
của chàng trai.
Thông qua các chi tiết kỳ ảo, tình huống kỳ ảo, cốt truyện kỳ ảo được
xây dựng để nhà văn thể hiện triết lí nhân sinh về cuộc sống con người. Đó
là bi kịch của người phụ nữ mải miết kiếm tìm tình yêu đích thực nhưng thất
bại, họ yêu say mê, tha thiết nhưng bị lừa dối, phụ bạc.
Trong Hồn trinh nữ, nhà văn lại chủ động xây dựng tình huống kỳ ảo
để cốt truyện mang đậm dấu ấn kỳ ảo. Nhà văn đã dùng cốt truyện kỳ ảo để
hữu hình hoá cái ác. Chiến tranh đã làm biến dạng đi con người, không chỉ
hình hài mà còn cả tính cách. Việc nhà văn sử dụng các chi tiết kỳ ảo như một
phương tiện nghệ thuật nhằm lột tả bản chất của chiến tranh. Sự ám ảnh về tội
ác của người chồng luôn đeo đuổi người vợ. Trong đêm tân hôn, các hình ảnh
của những kẻ đã bị chồng cô giết hại lẩn khuất về đòi nợ: “hãy trả chồng cho
ta, kẻ giết bạn kia…hãy trả cha cho năm đứa con dại của ta…”. Nhà văn sử
dụng các chi tiết kỳ ảo này như một phương thức nhằm tố cáo bản chất của
chiến tranh. Chiến tranh không chỉ mang đi một chàng trai bẽn lẽn, ngượng
ngùng mà còn trả về một người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép. Từ
hành động, cử chỉ, vóc dáng đến lời nói của anh đều hằn sâu sự khốc liệt của
chiến tranh. Anh không biết nói chuyện gì ngoài những câu chuyện sặc mùi
máu và chết chóc. Trên khuôn mặt anh luôn là “khéo miệng mím chặt khắc
nghiệt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của thần chết”. Hơn thế nữa, chiến
tranh còn cướp đi hạnh phúc của một người con gái chờ đợi người yêu suốt
mười bẩy năm trời, cướp đi niềm hy vọng sống của một con người. Nàng chết
trong nỗi sợ hãi khi mà vẫn còn trinh nữ hai tay luôn che mặt và hoá thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoa trinh nữ mà mỗi bước đi của người đời vẫn làm nàng giật thót mình.
73
Tình huống kỳ ảo của câu chuyện cũng góp phần vào việc giải quyết
các vấn đề của truyện. Việc nhà văn tạo tình huống trong đêm tân hôn, người
vợ nhìn thấy những hình ảnh của máu, những oan hồn mà người chồng đã giết
hại rất ngẫu nhiên như nó vốn có thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Sự
tàn khốc của chiến tranh như những nỗi ám ảnh luôn đi theo con người. Nó là
thủ phạm cướp đi tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc của họ. Hình ảnh người con gái
chờ người yêu suốt mười bẩy năm trời để rồi chết đi vẫn còn là một trinh nữ
và sự biến thành loài hoa trinh nữ luôn giật mình khép những cánh hoa mỗi
khi có người qua, là minh chứng cho những tội ác của chiến tranh. Qua đó là
sự cảm thông sâu sắc của nhà văn với số phận con người trong chiến tranh,
đặc biệt là người phụ nữ. Chiến tranh đã đem lại cho họ những bi kịch, những
vết hằn sâu của nỗi đau.
3.1.2 Nhân vật mang yếu tố kỳ ảo
Trong văn học, nhân vật luôn là yếu tố trung tâm, là tấm gương phản
chiếu tư tưởng và thể hiện sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Những sáng tác
truyện ngắn của Võ Thị Hảo thường gắn với yếu tố kỳ ảo, do đó mà các nhân
vật của chị cũng mang dấu ấn của sự kì lạ khác thường.
Theo nhà văn Võ Thị Hảo, “nhân vật kỳ ảo gốc là nhân vật lịch sử có
thật, hoàn toàn được biến dạng, chắp nối, đặt trong một không khí huyền ảo
phi lôgic, cũng có khi là những con người siêu nhiên được tạo ra bởi trí tưởng
tượng của nhà văn”(phỏng vấn nhà văn ngày 15/3/2009). Như vậy nhân vật
kỳ ảo là sản phẩm của người sáng tạo nhằm khái quát các phương diện của
đời sống con người.
Khảo sát các nhân vật trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, chúng tôi
thấy rất đa dạng phong phú, với nhiều kiểu nhân vật khác nhau. Đó là những
con người bình thường với bao số phận éo le, là những mảnh đời không may
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mắn, là những kẻ mang dáng vẻ của con người nhưng lòng dạ độc ác…những
74
nhân vật này hiện diện trên trang sách của nhà văn thường xuất hiện yếu tố kì ảo.
Yếu tố này được nhà văn thể hiện qua việc khai thác ở khía cạnh ngoại hình,
hoàn cảnh xuất thân, số phận nhân vật... và tất cả đều được thể hiện qua các chi
tiết cũng như hành động kì ảo, với thủ pháp phi thường và lạ hoá nhân vật.
Các nhân vật là những con người bình thường trong cuộc sống hiện thực
với sự phức tạp vốn có của nó. Bản thân các nhân vật không tự tạo ra các yếu
tố kì lạ. Yếu tố kì ảo của các nhân vật chủ yếu là do hoàn cảnh và các lực lượng
siêu nhiên mang lại. Cuộc đời, số phận nhân vật được khác hoạ qua lăng kính
kì ảo của nhà văn. Đó là Nàng ( Nàng tiên xanh xao), Nàng (Tim vỡ), H‟Điêu
(Khát vọng muôn đời), Người đàn bà Âu Lạc ( Hành trang của người đàn bà
Âu Lạc), Pạng (Chuỗi người đi trong đầm lầy), Ả Tuynh ( Dệt cỏ)...
Họ cũng giống con người trong đời thực với những suy tư, trăn trở,
niềm khao khát hạnh phúc của những con người trần thế. Trong cuộc sống
muôn hình muôn vẻ, bóng dáng nhân vật hiện lên với nhiều cung bậc, trạng
thái khác nhau. Đó là một tiểu thư khuê các chung tình, một chàng trai quyết
dứt tình riêng để trả thù nhà, hay một người phụ nữ khao khát cuộc sống bình
đẳng……Tất cả đều là những con người gần gũi với đời thực nhưng đã được
kì ảo qua lăng kính của nhà văn.
Đầu tiên là các nhân vật được xây dựng kì ảo qua hoàn cảnh xuất thân
của mình. Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật cho biết nguồn gốc của nhân vật,
các mối quan hệ với mọi người xung quanh. Trong truyện ngắn của Võ Thị
Hảo, nhân vật có yếu tố kì ảo được xây dựng trong sự pha trộn mờ ảo, ma
quái. Nhà văn sử dụng các yếu tố kì ảo đó như là phương tiện dẫn dắt người
đọc vào một thế giới khác lạ, thế giới của những bí ẩn hoang đường. Từ đó
tạo ra sự tò mò cũng như sự hấp dẫn của truyện.
Trong văn học hiện đại việc khai thác nguồn gốc xuất thân kì ảo của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân vật cũng được nhiều nhà văn sử dụng. Truyện Những đứa trẻ chết già
75
(Nguyễn Bình Phương), miêu tả nhân vật khi mới sinh ra là những người già.
Dù là trai hay gái nhưng cùng có một kết cục như nhau. Những đứa trẻ thành
người già, người trung niên hay một thiếu nữ có chửa… và cuối cùng đều chết
hay biến mất một cách kì lạ. Trong truyện ngắn Con gái thuỷ thần của
Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cũng xuất thân kì lạ. Không ai biết Mẹ Cả là
con ai, từ đâu đến và có nhiều lời kể về nguồn gốc của Mẹ Cả. Có người kể
lại đã trông thấy một cặp Giao Long trong một đêm mưa gió đã quấn lấy nhau
sinh ra Mẹ Cả dưới gốc cây Muỗm. Lại có người đồn Mẹ cả là con riêng được
cha gửi vào nhà thờ từ lúc còn bé… với đặc điểm chung của các tác phẩm này
là sử dụng yếu tố kì ảo để nói về nguồn gốc nhân vật. Tuy nhiên trong sáng
tác của Võ Thị Hảo, nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo mang sắc thái riêng- vừa
thực vừa ảo, từ đó, các nhân vật xuất hiện bất ngờ, ly kì và độc đáo.
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, các nhân vật được xây dựng từ
những chất liệu trong cuộc đời thực, những mảnh ghép của cuộc sống đời
thường, qua lăng kính của nhà văn mà chân dung nhân vật hiện lên vừa thực
vừa ảo, vừa xa lạ vừa thân quen với người đọc. Nhà văn xây dựng nhân vật
của mình qua một số chi tiết kì ảo, qua lăng kính kì ảo để rồi từ đó gửi gắm
vào nhân vật những tư tưởng thông điệp về cuộc sống, về con người hiện tại,
đặc biệt là số phận người phụ nữ. Bi kịch mà họ phải gánh chịu không có gì
đau khổ hơn là bi kịch tình yêu, hạnh phúc. Viết về vấn đề này, Võ Thị Hảo
dường như có một sự cảm thông chia sẻ sâu sắc với những người phụ nữ bị
phụ bạc trong tình yêu. Bi kịch tình yêu ẩn chứa trong từng cuộc đời, từng số
phận của những người phụ nữ mải miết đi tìm cho mình một tình yêu đích
thực mà thất bại. Họ yêu say mê tha thiết nhưng bị phụ bạc lừa dối, phụ bạc từ
những vị thần, những nàng tiên đến những con người trần thế, họ luôn khát
khao yêu, luôn muốn đem lại niềm vui, hành phúc cho người khác cho dù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình có phải gánh chịu những khổ đau. Nàng tiên xanh xao trong truyện
76
Nàng tiên xanh xao là một điển hình, nàng khao khát yêu, dám hy sinh bản
thân cho người mình yêu kể cả việc tàn phai nhan sắc. Nhà văn đã sử dụng
các chi tiết kì ảo như một phương tiện chính cho sự phát triển của các tình tiết
câu chuyện có tính chất bước ngoặt, để rồi từ đó thể hiện tư tưởng của mình
về tình yêu, hạnh phúc của con người. Nàng tiên xanh xao là một người con
gái mồ côi, sống lẻ loi trong rừng sâu. Nàng đã cứu sống một người con trai
chưa từng biết mặt, biết tên bằng nửa máu chảy trong huyết quản thông qua
chiếc cây kim kì diệu của thần núi. Dù được thần núi cảnh tỉnh nhưng nàng
vẫn đổi màu hồng rạng ngời trên má để cứu chàng trai và tổ chức đám cưới
với người yêu. Nhưng số phận đã không mỉm cười với người con gái dám hi
sinh nhan sắc của mình cho tình yêu, trong đêm tân hôn, chàng trai đã bỏ mặc
nàng để đùa vui với các cô gái trẻ đẹp khác. Đau khổ đến bẽ bàng, nàng chạy
trốn mặc dù chàng trai hết mực cầu xin. Cuộc sống khác biệt giữa hai người,
nỗi cay đắng trước tình yêu bị phụ bạc rẻ rúng, không thể khoan nhượng tha
thứ vì lí do “đàn ông đôi khi vẫn thế” khiến nàng vùng vẫy ra khỏi cánh tay
chàng trai và chết trong câm lặng với nỗi cô đơn vô bờ.
Nhà văn đã sử dụng hàng loạt các chi tiết kì ảo hoang đường như một
thủ pháp thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, để từ đó đạt hiệu quả nghệ
thuật về nhân vật cũng như tư tưởng mà nhà văn gửi gắm trong đó. Sự cứu
sống chàng trai bằng cây kim kì diệu của thần núi như một minh chứng về sự
hi sinh bản thân cho tình yêu đích thực của người con gái. Nhưng nó lại đem
đến cho chính người con gái nỗi đau thương không gì có thể bù đắp được.
Kết thúc câu chuyện là hình ảnh linh hồn chàng trai hoá thành những cái gai
bảo vệ loài hoa lạ - được người ta gọi là cây Bưởi. Từ hình ảnh cây bưởi gần
gũi quen thuộc ngoài đời, nhà văn đã đem lại một sự tích xúc động về bi kịch
của tình yêu đầy xót xa, một câu chuyện thẫm đẫm nước mắt mà ta có thể bắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gặp đâu đó ngoài cuộc đời. Sự chạy trốn của nhân vật Nàng là sự chạy trốn
77
một tình yêu dối lừa, hơn thế nữa nó còn là sự chạy trốn của sự cô đơn, lẻ loi
bị bỏ rơi trong tình yêu. Sau khi chết nàng hoá thành những nụ hoa trắng
muốt toả hương thơm ngát, nó là sự tinh khiết quá đỗi thanh cao mà bàn tay
phàm tục của chàng trai không bao giờ với tới.
Cũng là nỗi đau về tình yêu của con người, Nàng H‟Điêu trong Khát
vọng muôn đời là một người con gái khao khát yêu và sẵn sàng đi tìm người
yêu thương không ngại hi sinh bản thân mình, không quản cái chết. Nhà văn
sử dụng các chi tiết kì ảo như một yếu tố để xây dựng nhân vật. Linh hồn của
H‟Điêu sau hàng vạn năm vẫn tồn tại, biến thành cây chanh để cứu giúp
những người sau đó, những cô gái bị lỡ làng, bị phụ bạc “chính trái cây em đã
làm nỗi đau của họ dịu lại…vậy là người đó biết yêu” và cuộc sống sẽ thật vô
nghĩa nếu không có tình yêu. Nếu như thế giới này không có những H‟Điêu
đã không quản ngại kể cả cái chết để đi tìm người yêu, nếu không còn si mê
và ở trong lồng ngực mọi người chỉ còn băng giá… thì cuộc đời thật đáng sợ!
Vẫn là bi kịch của con người trong tình yêu được kì ảo hoá qua lăng
kính của nhà văn, Nàng trong Tim Vỡ được xây dựng mang đậm màu sắc
huyền thoại. Nàng được xuất hiện từ sự tích của ba trăm sáu mươi năm loài
người lại làm được một điều kì lạ. Ba người tạc, vẽ và thổi hồn vào bức tượng
và Nàng xuất hiện với vẻ đẹp mê hồn khiến cả ba đều mong muốn có được.
Cuối cùng người thổi hồn vào pho tượng gỗ đã có nàng, nhưng bên tai nàng
vẫn là những lời đòi quyền lợi. Nhưng khi nhan sắc tàn phai thân hình tiều
tuỵ, thì tất cả đều ra đi, bỏ Nàng trong nỗi cô đơn đau khổ, tuyệt vọng. Nhà
văn đã sử dụng các yếu tố kì ảo để thể hiện tư tưởng về nỗi đau của người phụ
nữ bị phụ bạc: “Ôi khốn khổ! khốn khổ thay cho đàn bà...các người cứ suốt
đời đuổi theo những cao siêu mây gió. Còn ta, và hầu hết ……thân xác đầy
lạc thú của các ngươi...”. Nàng chết trong cô đơn tuyệt vọng, trong nỗi đau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của cả thế giới đàn bà. Hình ảnh loài hoa tigôn như biểu tượng cho nỗi đau
78
ấy. Người phụ nữ khi có nhan sắc thì họ được yêu chiều, chiêm ngưỡng của
cả thế giới đàn ông, nhưng khi nhan sắc phai tàn họ lập tức bị ruồng bỏ
không thương xót. Thật là một sự bất công, phi lý đối với người phụ nữ.
Viết về con người với những nỗi đau khổ, hơn ai hết Võ Thị Hảo cảm
thông chia sẻ với số phận người phụ nữ bất hạnh và đó còn là tiếng nói nhân
bản cao cả và sâu sắc. Là người phụ nữ viết về người phụ nữ nên nhà văn
luôn quan tâm tới số phận, cuộc đời cũng như vị thế của họ trong xã hội.
Trong Hành trang của người đàn bà Âu Lạc, nhà văn đã sử dụng các yếu tố kì
ảo như một phương tiện xây dựng nhân vật và truyền tải tư tưởng. Người đàn
bà Âu Lạc luôn mang trên mình trách nhiệm nặng nề, hành trang trên vai mỗi
ngày một thêm nặng bởi những triết lí , tôn giáo…sự mệt mỏi đã bao lần
khiến nàng muốn vứt bỏ bên vệ đường. Đến thời kì giải phóng phụ nữ, túi
hành trang càng thêm nặng bởi những mỹ từ mới: “mỗi mỹ từ lại óc ách đầy
những giọt mồ hôi, nước mắt và cả máu của người đàn bà, những sợi tóc
bạc…”. Trong tác phẩm vấn đề nhức nhối được tác giả quan tâm là số phận
người phụ nữ bao giờ mới bớt đi gánh nặng cho họ?
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, nhân vật được tập trung miêu tả ở
nhiều góc cạnh khác nhau, nhiều mối quan hệ khác nhau, đặc biệt là những
chi tiết miêu tả những chi tiết đặc trưng cho nét bên ngoài của các nhân vật
như vóc dáng, khuôn mặt, đến mái tóc và ánh mắt…đó là những phương diện
dễ nhận biết nhất ở nhân vật.
Võ Thị Hảo là nhà văn có biệt tài trong việc khắc hoạ ngoại hình nhân
vật, bởi ngay từ diện mạo, nhân vật đã gây một sự chú ý, ám ảnh trong lòng
người đọc. Các nhân vật trong truyện ngắn của chị phần lớn thường để lại ấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tượng như vậy. Họ trước hết là những con người có số phận không may mắn,
79
đau khổ, hẩm hiu. Đó là dáng hình đau khổ của nhân vật bà Diễm trong người
Gánh nước thuê. Miêu tả ngoại hình nhân vật này, nhà văn lựa chọn những
yếu tố thật đắc địa: “ Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo,
gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng”. Với công
việc gánh nước thuê, nên trên đôi vai cùng cái lưng còng của bà bao giờ cũng
có chiếc đòn gánh. Nó tạo nên sự day dứt, ám ảnh khôn nguôi cho người đọc
về nhân vật cũng như sự bất hạnh luôn bám lấy cuộc đời bà: “Chiếc đòn gánh
không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một
thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng.
Ngay cả vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của
nó vậy....Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh,
hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị mưa vùi dập”.
Chỉ bằng vài nét khắc họa, cuộc đời người đàn bà bất hạnh hiện lên thật rõ nét
cùng với lòng xót xa vô cùng của tác giả. Trong tác phẩm này, nhân vật ông
Tiếu cũng không thoát khỏi số phận khổ đau, bất hạnh. Bằng vài ba nét khắc
hoạ ngoại hình, nhà văn thể hiện những trăn trở suy tư về một kiếp người.
Đây là ngoại hình nhân vật ông Tiếu: “Có đến hàng vạn nếp nhăn trên khuôn
mặt đó...Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm cười bất biến, như nó
được tạo ra trên khuôn mặt ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ như vậy đến
lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, là một nghịch lý, như là đang khóc
với một nỗi đau xé ruột...”. Miêu tả sự đối lập giữa một nụ cười bất biến trên
khuôn mặt với nỗi đau xé ruột trong lòng là một bản lĩnh xây dựng nhân vật
của Võ Thị Hảo. Nó làm cho mỗi chúng ta càng ám ảnh khôn nguôi về cuộc
đời và số phận không may mắn của họ.
Xây dựng nhân vật Ngần trong truyện Ngày không mút tay, cũng chỉ
qua một vài phác hoạ mà cuộc đời khốn khổ của người đàn bà hiện lên một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách rõ rệt. Ngần vốn “có đôi mắt đen dài lúc nào cũng nhìn xuống. Cái nhìn
80
lặng lờ như mặt giếng” như báo hiệu một cuộc đời không mấy tươi sáng. Với
tấm lưng mỏng như lá lúa và tấm thân gầy yếu, tác giả ví “nàng là chiếc ruột
ốc èo uột phải cõng cả một toà vỏ nặng lê đi, lê mãi không được ngưng nghỉ”.
Cho dù nàng có cố gắng đến đâu, bán cả dòng máu trong huyết quản của mình
cũng chỉ có được một ngày không mút tay cho lũ con mà thôi. Hoặc xây
dựng nhân vật Ả Tuynh trong Dệt cỏ, qua một vài phác hoạ đã hiện lên một
nhân vật sống động, một người đàn bà bất hạnh, cả đời vất vả lam lũ mà
nghèo đói, bệnh tật cứ đeo đuổi. Số phận bất hạnh của nhân vật như được dự
báo trước với đôi mắt ả cum cúp nhẫn nhịn… và những ngón tay cong queo,
đen đúa: “áo ngày một rách thêm, lưng còng, tóc trụi như con gà chọi già, bị
bệnh đường ruột mãn không có thuốc chữa. rồi ả Tuynh chết trên giường, gầy
khô như cá mắm.”
Như vậy với Võ Thị Hảo, số phận nhân vật dường như đã được thể hiện
ngay từ hình hài. Chỉ qua một số chi tiết miêu tả ngoại hình, cuộc đời cũng
như số phận mỗi nhân vật được hiện lên một cách rõ nét, sinh động- một
cuộc sống đầy vất vả, lam lũ, khổ đau của những kiếp người không may mắn.
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, phần lớn nhà văn ưu ái viết nhiều
về phụ nữ. Có tới 2/3 số truyện nhà văn dành cho thế giới của đàn bà, ở đó là
những nỗi đau khổ, sự bất hạnh được nhà văn đặc biệt quan tâm, chia sẻ. Khi
miêu tả nhân vật nữ, nhà văn đặc biệt quan tâm đến mái tóc của nhân vật, bởi
mái tóc đối với người phụ nữ là biểu tượng của vẻ đẹp cũng như sự mềm mại
thướt tha đầy nữ tính. Nó là biểu trưng cho vẻ đẹp tuổi xuân thì của người con
gái. Do đó khi nói về đàn bà là nói về mái tóc và “nói mãi về tóc đàn bà mà
vẫn không nhàm”. Viết về sự phai tàn của tuổi trẻ “Mỗi sợi tóc là một sợi
phiền não” cũng như sự khốc liệt của cuộc sống thì mái tóc cũng là cách nhà
văn thể hiện rõ nét và sâu sắc nhất. Vậy nên nàng (Dây neo trần gian) vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cùng xót xa khi nhìn “mớ tóc mình đang sóng sánh toả xuống cái cổ ba ngấn
81
và tuôn tràn xuống vai” nhưng giờ đây vì tình yêu, nàng đã phải bứt từng sợi
tóc sóng sánh của mình kết lại và quấn quanh tấm ảnh để níu giữ anh chốn
trần gian.
Với Võ Thị Hảo mái tóc là biểu tượng của vẻ đẹp, tuổi thanh xuân của
người con gái, do vậy mà khi miêu tả sự phai tàn của nhan sắc người phụ nữ,
nhà văn cũng đặc biệt miêu tả mái tóc. Trong Tim vỡ, nhân vật Nàng được
miêu tả với vẻ đẹp đầy nữ tính “mái tóc mượt mà đôi mắt long lanh huyền bí,
làn môi thắm đỏ và thân hình nảy nở đầy hấp dẫn”, nhưng vẻ đẹp đó chỉ
trong giây lát đã biến mất, nàng tự huỷ hoại mình “mái tóc dài trút xuống chỉ
còn cái đầu trọc nham nhở và khuôn mặt đầy nhựa cây đen nhẻm”. Hoặc khi
viết về sự khốc liệt của chiến tranh đối với con người, đặc biệt là với người
phụ nữ, thì mái tóc là biểu tượng không thể thiếu. Trong truyện Người sót lại
của rừng cười, chiến tranh không chỉ cướp đi vẻ đẹp ngoại hình, mà cướp đi
nơi mái tóc của “bốn cô gái trẻ măng ...chỉ còn một dúm xơ xác và dần dà đã
vặt trụi tóc họ”. Thảo là một trong năm cô gái sống ở rừng Trường Sơn, cô
nhập ngũ với “mái tóc óng mượt dài chấm gót”, nhưng chỉ sau hai tháng
“dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ” nơi rừng Trường Sơn đã làm mái “tóc
Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng manh, xơ xác”. Nơi rừng già với nỗi cô
đơn đặc quánh, chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian, Thảo là người sống
sót duy nhất trong năm cô gái ở Trường Sơn sau chiến tranh. Cô trở về cuộc
sống đời thường với “thân hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng qua làn
môi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác”. Thảo đã cố gắng hoà nhập nhưng “thật khó
hoà nhập”. Như vậy, chỉ qua một vài nét phác thảo về ngoại hình, đặc biệt là
mái tóc của người phụ nữ, Võ Thị Hảo đã cho thấy sự tàn nhẫn của thời gian,
cũng như sự khốc liệt của chiến tranh. Hơn ai hết nhà văn đã hiểu, cảm thông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chia sẻ với số phận con người.
82
Cùng việc miêu tả ngoại hình với những điểm nhấn là mái tóc, nhà văn
còn chú ý tới việc miêu tả cái nhìn của nhân vật. Đôi mắt là cửa sổ của tâm
hồn, nhìn vào đôi mắt người ta có thể nhận biết được nội tâm bên trong của
con người, nơi chứa đựng những tâm tư, tình cảm cũng như sự trăn trở ưu tư.
Trong Người gánh nước thuê, là “đôi mắt mờ đục” của ông Tiếu và từ trong
khoé mắt ấy chảy ra “hai giọt nước mắt như gạn lấy từ đáy mắt, như những
giọt thuỷ ngân khó nhọc lăn ra.”. Đó là đôi mắt van nài, mong muốn được
ban ơn, làm phúc của kiếp người đau khổ, bất hạnh. Cả đời ông Tiếu gánh
nước thuê, tích cóp tiền để mong tìm lại đứa con gái đã thất lạc trong chiến
tranh. Nhưng cho đến lúc chết, con người bất hạnh đó vẫn không làm được.
Niềm hy vọng mong manh được gửi cho bà Diễm, một người đàn bà bất hạnh.
Đôi mắt mờ đục của ông Tiếu như một biểu trưng cho những cuộc đời bất
hạnh khổ đau của kiếp người. Trong Dây neo trần gian, người đọc ám ảnh
nhân vật Nàng bởi “đôi mắt màu biển tối của nàng mở to đến lạc tròng để cầu
khẩn sự che chở”. Vậy mà không có một cánh tay, một người nào đam đứng
ra cứu giúp nàng. Đọc Dây neo trần gian, hình ảnh đậm sâu trong lòng người
đọc còn là ánh mắt của bà đồng “mắt bà đồng bỗng long lên sòng sọc. Lúc
này trông bà đích thực là một người điên…Đôi mắt có hàng mi dài của bà
vằn đỏ”. Đôi mắt đó như chứa đựng một nỗi đau, sự day dứt, ám ảnh khôn
nguôi về vết thương lòng sau chiến tranh khó có thể hàn gắn được, mà mỗi
khi nhắc tới nó lại quặn đau. Hay còn là “đôi mắt hình hạnh nhân với đuôi
mắt trĩu xuống che bớt những tia rực rỡ không ngừng chớp rạng dưới hàng
mi biêng biếc tím”, của người đàn bà tinh quái rắp tâm đem sóng tình khuấy
động cửa thiền trong Lửa Lạnh….Với Võ Thị Hảo tuỳ vào từng nhân vật cụ
thể, hoàn cảnh cụ thể và dụng ý nghệ thuật của mình mà nhà văn có cách khái
thác những chi tiết khác nhau để xây dựng ngân vật. Nhà văn không đi vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miêu tả tất cả chi tiết của ngoại hình nhân vật mà chỉ đi vào những điểm có
83
thể làm lên hình ảnh tiêu biểu về nhân vật. Cùng với việc miêu tả ánh mắt,
còn là sự lặp lại không nguôi của những tiếng khóc, những giọt nước mắt.
Trong Hồn trinh nữ, nhân vật Nàng sau mười bẩy năm chờ đợi không tin tức
của người yêu, thế rồi một buổi chiều, có tiếng vó ngựa ghé sát thềm, chàng
trai trở về trong niềm vui và hạnh phúc, nhất là khi chàng trai gọi cô gái bằng
giọng thân thuộc thì nàng khóc “tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thuỷ tinh
rơi”, đó là tiếng khóc của niềm vui sướng. Sau bao năm chờ đợi trong vô
vọng nay người yêu đã trở về, niềm hạnh phúc vô bờ không có gì so sánh
được. Đó còn là những giọt nước mắt giàn giụa vui sướng của Phương trong
Phiên chợ người cùi: “Ôi! Con của mẹ! Mẹ lại có con rồi! Sung sướng quá”.
Sau hai năm đi điều tri bệnh tại trại phong Quy Hoà, chị đã có giấy xuất viện,
niềm vui sướng của tình mẫu tử sau nhiều ngày xa cách đứa con gái yêu
thương, giờ đây chị tràn đầy hy vọng sẽ không phải xa con nữa. Trong quá
trình miêu tả tiếng khóc, những giọt nước mắt của các nhân vật, với những
nỗi đau thương khác nhau của con người, nhà văn Võ Thị Hảo đã rất tinh tế
khi miêu tả tiếng khóc, giọt nước mắt của các nhân vật. Mỗi con người, mỗi
số phận khác nhau và những giọt nước mắt tượng trưng cho nhiều cung bậc
tình cảm của họ. Từ những nhân vật trẻ tuổi đến những nhân vật có tuổi, từ
những người bình thường đến những người xấu xí, tật nguyền, từ những
người giàu sang quyền quý đến những tầng lớp dưới đáy của xã hội…. tất cả
họ đều bộc lộ tâm trạng bằng tiếng khóc khi khổ đau. Đó là tiếng “khóc nức
nở” của một cô gái mới lớn trong Vườn yêu khi đến với tình yêu đầu. Hay là
sự “oà khóc” của cô bé Lâm San khi lấy chồng, tiếng khóc như một sự chấm
dứt chuỗi ngày thơ bé, vô tư, một tình yêu trong sáng hồn nhiên đầu đời với
cháu lớn cồ để bước chân vào cuộc sống mới với những thăng trầm, những
bất trắc không thể lường trước. Đó còn là tiếng khóc của một cô gái lỡ dở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tình yêu của Sải (Con dại của đá). Khi bị phụ bạc, Sải đã giết chết kẻ
84
bạc tình Cáo Tờ Quẩy, nàng “ngục đầu lên hắn mà khóc” rồi về tự thú với vợ
của hắn là Giàng Gau và người đàn bà ấy cũng “rũ xuống khóc”. Có lúc là
tiếng khóc của người phụ nữ có tuổi như người mẹ của cháu- lớn - cồ. Mỗi
khi nhắc đến Lâm San bà thường “gạt nước mắt đi” vì thương Lâm San…..Đó
còn là những giọt nước mắt trong Tim vỡ của nhân vật Nàng “Nước mắt nàng
rơi lã chã trên gò má”. Hay “dòng nước mắt lặng lẽ tuôn ra” của nhân vật
Thuận trong Goá phụ đen. Và tiếng khóc đau đớn của những người phụ nữ
trong Người sót lại của rừng cười, khi “ cả bốn cô gái ôm nhau khóc cay
đắng”, những “tiếng khóc không ra tiếng”. Nhà văn còn rất tinh tế khi đặc tả
tiếng khóc của những con người không bình thường. Đó là tiếng khóc của
những con người tật nguyền – tiếng khóc của người mù trong Làn môi đồng
trinh:“khóc không ra nước mắt”, vì người mù “nước mắt chỉ chui trở vào
nghèn nghẹn trong ngực”...
Trong quan niệm của mình, Võ Thị Hảo cho rằng mỗi con người sống
trong cuộc đời này đều chứa đựng một số phận khác nhau, người may mắn, kẻ
hẩm hiu. Vì thế khi xây dựng nhân vật, nhà văn chú ý miêu tả ngoại hình và
xem mỗi hình hài đều chứa đựng những ẩn số về cuộc sống. Mỗi nhân vật,
mỗi số phận và trong thế giới nhân vật của Võ Thị Hảo hình hài của họ đã
phần nào nói lên số phận của họ rồi.
3.2.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, điều dễ nhận thấy là cốt truyện
thường có ít tình tiết và sự kiện, trong khi đó suy nghĩ của con người trước
những sự kiện đó thì rất được chú ý. Hiện thực cuộc sống không mấy khi
được miêu tả trực tiếp như nó vốn có mà được khúc xạ qua lăng kính của nhà
văn. Thông qua nhân vật, qua những suy tư trăn trở, những diễn biến phức tạp
trong thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn gửi những tư tưởng của mình về cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống bộn bề phức tạp hôm nay.
85
Võ Thị Hảo là nhà văn rất tinh tế trong qúa trình miêu tả những trạng
thái cảm xúc, những chuyển biến tâm lý của nhân vật. Tuỳ thuộc vào từng
nhân vật cũng như sự biểu lộ trạng thái tình cảm khác nhau mà nhà văn sử
dụng những cách miêu tả khác nhau. Có lúc nhà văn sử dụng cách đi sâu vào
tâm lý nhân vật nhất là những người tật nguyền để miêu tả. Tuy là những con
người không may mắn về hình hài, nhưng họ vẫn có những cảm xúc buồn –
vui, có khát khao mơ ước như những con người bình thường. Trong Làn môi
đồng trinh, nhân vật Hằng cũng ao ước được yêu với một tình yêu trong sáng:
“ Mỗi lần mưa nàng lại bước chân ra ngoài trời, mong mỏi một chút chạm
nhẹ nơi làn môi, để có cảm giác là mình cũng được hôn, những cái hôn của
nửa kia ngọt ngào”. Giống như Hằng, Tâm trong Máu của lá cũng cảm nhận
được nỗi đau của một kẻ tật nguyền, bởi “tạo hoá đã say rượu khi nặn ra em”
và mỗi khi nhà có khách đến “em thường kiếm cớ lánh mặt”, lúc thi vào đại
học em đỗ loại ưu nhưng không được nhận vào học bởi lỗi hình thể. Không ít
lần Tâm đã “cầu cho mình được chết”. Nhưng thật trớ trêu, tạo hoá đã đùa
giỡn em, đã thổi vào cái vỏ tật nguyền ấy một tâm hồn có khả năng nhận biết
nỗi đau của chính bản thân, „Mắt con bé rưng rưng nó cần những lời yêu ngọt
ngào như cần nước”. Chính vì vậy mà Tâm đã nuôi một ảo tưởng về một
chàng trai khổng lồ cứu giúp, níu kéo em với cuộc đời qua những bức thư của
Tuân, Huân, Hoàng. Nhưng rồi em cũng nhận ra là cần phải trở về với thế
giới của mình, vì “ thế giới của các anh quá rộng lớn, còn thế giới của em thì
nhỏ bé. Em phải trở về với thế giới của chính mình”. Võ Thị Hảo đã đi vào
chiều sâu tâm hồn con người tật nguyền để miêu tả nỗi khao khát sống rất đỗi
bình thường, những rung cảm, những mong ước, yêu thương của những tâm
hồn trong sáng và thánh thiện. Ở đó còn là những dằn vặt và thấm thía về nỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đau thân xác, tật nguyền.
86
Trong Dây neo trần gian, nhà văn đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm
lý trực tiếp với những độc thoại nội tâm của nhân vật để cho nhân vật tự thể
hiện trạng thái cảm xúc của mình một cách khách quan: “Một kẻ có dăm ba
chữ trong đầu mà lại đi nghe lời một con mụ điên ấy ư ? Thế thì mình cũng
điên rồ nốt”. Và nhiều lúc nhà văn gián tiếp diễn tả cảm xúc của nhân vật,
nhằm thể hiện nỗi lòng thầm kín khó nói, như một sự cảm thông với nỗi đau
khổ mà họ phải gánh chịu: “ Nàng bỗng nức lên khóc và ôm choàng lấy mái
đầu anh, như một cách người mẹ đang vòng tay che chở cho đứa con trai…
Nàng ru khuôn mặt ấy trong lòng và cảm thấy tim như muốn vỡ ra vì thương
xót”. Như vậy, với Võ Thị Hảo để diễn tả nội tâm nhân vật, nhà văn đã sử
dụng nhiều phương thức khác nhau, có lúc để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ
qua ngôn ngữ độc thoại, có lúc lại gián tiếp bày tỏ nỗi lòng nhân vật bằng
ngôn ngữ của người kể chuyện.
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, nhà văn đã dành riêng một phần
trang trọng cho người phụ nữ. Ở nhiều nhân vật họ phải nếm trải những thăng
trầm cũng như thấm thía nỗi đau đớn trong cuộc sống và tình yêu. Nhà văn đi
sâu bộc lộ tâm trạng với nhiều cung bậc ấy, khi là sự dằn vặt, nuối tiếc như
Hạnh trong Tiếng vạc đêm. Hạnh luôn sống trong sự ám ảnh với số phận bất
hạnh truyền kiếp về bản mệnh cô thần trong lòng nên lúc nào cô cũng cũng cô
đơn, lạnh lẽo. Cô luôn mặc cảm đàn ông là kẻ dối lừa, phụ bạc nên cô sợ
không dám yêu bởi cô có “trái tim tật nguyền”. Vì vậy mà sau một lần thất
bại, đổ vỡ trong tình yêu hạnh phúc, cô đã không tin sẽ có được một hạnh
phúc đích thực của cuộc đời. Hạnh luôn day dứt suy tư nuối tiếc trong tình
yêu với Thụ, bởi trong sâu thẳm trái tim người đàn bà ấy luôn khao khát có
được tình yêu đích thực: “Đáng lẽ chờ đợi thì ta lại chạy trốn. Sao ta không
thử thêm một lần. Ta cần được an ủi, được che chở. Tại sao ta cứ phải làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khổ mình ?.....Sao không vứt bộ mạt lạnh này đi. Sao không gục đầu vào ngực
87
anh, nói rằng em mỏi mệt, rằng em muốn khóc…dù ngày mai có ra sao thì
anh vẫn là người đàn ông mà em cần”, mâu thuẫn luôn giằng xé trong cô bởi
Hạnh chỉ muốn “ yêu thế thôi! giữ cho gần như giữ một ảo ảnh đẹp”, bởi cô
sợ cuộc đời sẽ làm thô bỉ, tầm thường nó. Đó là tâm trạng của những con
người tinh tế , nhạy cảm trong tình yêu, luôn có khoảng cách trong tình yêu,
để rồi phải rơi vào trạng thái cô đơn “nếm trải những cảm giác của một con
chim xa xứ dù mùa đông chưa tới song hơi lạnh đã nhấm nhẩm da thịt”.
Trong Goá phụ đen, nhân vật Thuận đã từng trải qua nhiều mối tình, từng
phải chịu những đau khổ vì đàn ông và cũng chính cô cũng đã hơn một lần
làm cho không ít đàn ông phải đau khổ vì mình. Trái tim cô gần như đã chai
sạn vì phải chứng kiến nhiều cảnh đời khổ đau của những người xung quanh:
“ mẹ nàng đã lấy phải một người chồng ti tiện, em gái nàng mang bầu với
một gã sở khanh. Người đàn bà hàng xóm đầu tắt mặt tối nuối chồng mà vẫn
bị chồng đánh đập”. Và để trả thù cho những người đàn bà đau khổ, bất hạnh,
Thuận “ chỉ thích nếm trải cảm giác vờn một đấng nam nhi để đến khi anh ta
bị thôi miêm rồi thì lại ngẩng đầu nhón gót bỏ đi không nhìn lại”. Nhưng thật
trớ trêu, mặc dù đã tôi luyện cho mình thói quen sống không cần đàn ông, vậy
mà trước Đang người thiếu phụ đã cố khép lòng mình mà không thể. Cô luôn
e thẹn, hạnh phúc ở bên Đang, vắng Đang cô thấy cuộc đời vô nghĩa, trống
vắng và nhạt nhẽo. Hai con người đã gắn bó với nhau bằng một tình yêu gần
như đau đớn, mối tình dự cảm nhiều nỗi xót xa ấy vẫn luôn là ngọn lửa sưởi
ấm cuộc sống độc thân của hai người. Trong những lúc mỏi mệt Thuận tìm
đến với Đang như một nguồn động viên an ủi, nàng ngả vào bờ vai anh: “Tôi
mệt mỏi quá cho tôi dựa vào đây, được không?”, cô dè dặt và cẩn trọng từng
bước trong tình yêu với Đang. Nhưng cuộc đời không mỉm cười với cô
“những người đàn ông yêu nàng đều không gặp may mắn”. Để rồi nàng nức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nở vỡ oà trong đau đớn khi biết tin về chiếc máy bay trở Đang đi Phần Lan
88
gặp tai nạn. Nàng cố trấn tĩnh mình với niềm tin, anh không thể chết được “
Làm sao người đàn ông nàng yêu có thể chết được”. Và ngày mai nàng sẽ
đến động Thuỷ Tiên, nơi đã khắc ghi những kỉ niệm của hai người “ Nếu
nước lũ và bùn đất làm mờ nó, nàng sẽ khắc lại. nếu người ta đã đem nung
vôi nó, nàng sẽ khắc dòng chữ khác. Ngày kia nàng sẽ may chiếc áo ngủ màu
hồng chờ anh”. Đó là niềm tin, niềm hy vọng về hạnh phúc mà Thuận đã xây
đắp nhọc nhằn giữa cuộc đời.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Võ Thị Hảo thường được biểu
hiện rất rõ ở những lời độc thoại nội tâm, những ám ảnh của nhân vật. Bởi
chính khi ấy nhân vật đối diện với chính mình, họ tự bộc bạch những suy
nghĩ, những dằn vặt, những trăn trở với những trạng thái cảm xúc thật nhất
của mình. Trong Biển cứu rỗi, người lính trong chiến tranh không chỉ chịu nỗi
đau về thể xác mà hơn thế nữa anh còn mất đi tình yêu và hạnh phúc. Anh vô
cùng đau khổ, bực tức trước sự thực phũ phàng vì những đứa trẻ khác bố hiện
diện trong ngôi nà của anh. Anh đã chốn chạy đồng loại và người vợ thân yêu
trên đảo đèn. Chính tại đảo đèn anh có thời gian nhìn lại tất cả về những con
người trong chiến tranh, trong đó có vợ, con anh. Anh nhận ra rằng chiến
tranh đã làm biến dạng đi hình hài và những chuẩn mực đạo đức lối sống của
con người “ Giữ làm gì em. Ngày mai chắc chết..”, đó là những lời của những
người lính trước khi ra trận và cũng chính trong “Những cuộc giao hoan vội
vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng súng tử thần” đã cho ra đời
“những đứa trẻ khác bố”. Nhất là khi trên đảo xuất hiện một ả gái điếm sắp
chết vì bệnh tật và đói khát, anh đã từ chối và gián tiếp giết hại một con
người...Nhận ra mọi cách đối nhân xử thế của mình, anh ân hận nghĩ về “trò
chơi của anh”. Anh nhớ tới người vợ đáng thương của mình, một nạn nhân
trong chiến tranh, chiến tranh đã làm cho cả làng trắng đàn ông chỉ còn lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ông già và trẻ nhỏ, tất cả giành cho chiến trận. Đẩy cho đàn bà những
89
gánh nặng đáng ra thuộc về đàn ông, “trong khi đàn bà được tạo hoá sinh ra
để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: Người đàn ông”,
và anh đã nhận ra tất cả...
Như vậy, cùng với sự thành công trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình
là sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Võ Thị Hảo.
Những đặc sắc nghệ thuật này đã khắc hoạ rõ nét thế giới nhân vật trong sáng
tác của chị và chính nó đã làm nên bản sắc ngòi bút Võ Thị Hảo.
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ
Trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tác văn học nói riêng,
ngôn ngữ đóng vai trò là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang đặc trưng
của văn học. “ Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá
trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; Nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên
trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm” [9]
Với tư cách là một thể loại gắn liền với những đổi thay của xã hội,
ngôn ngữ trong truyện ngắn sau đổi mới ngoài những đặc trưng vốn có, nó
còn mang đậm dấu ấn sáng tạo của từng cá nhân, và in đậm dấu ấn của một
thời kỳ văn học phát triển mạnh mẽ.
Hoà chung vào dòng chảy của văn học thời kỳ đổi mới, ngôn ngữ trong
truyện ngắn của Võ Thị Hảo đã góp phần hoàn thiện tác phẩm cũng như
khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn.
3.3.1. Nghệ thuật sử dụng động từ mạnh tạo ấn tượng đặc biệt
Trong sáng tác của Võ Thị Hảo, nhất là thể loại truyện ngắn, nhà văn
rất hay sử dụng những động từ mạnh để tạo cảm giác khác lạ trong sáng tác
của mình. Dù viết những vấn đề khác nhau bộn bề của cuộc sống, chị vẫn
luôn tạo ra sự khác biệt trong sáng tác của mình qua việc sử dụng các động từ
mạnh. Theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên (1998), động từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là “từ chuyên biểu thị hành động, trạng thái hay quá trình”. Trong truyện ngắn
90
của mình Võ Thị Hảo sử dụng những động từ như một hệ quả của hành động
mà các nhân vật thực hiện, nhưng cũng có lúc những hành động lại tự nhiên
diễn ra hay do một thế lực siêu nhiên nào đó tạo ra. Ở từng mảnh đề tài khác
nhau nhà văn sử dụng các động từ nhằm thể hiện hành động của nhân vật và
gửi gắm vào đó những tư tưởng của mình về cuộc sống và con người.
Truyện ngắn viết về đề tài thế sự đời tư, nhà văn đã đề cập đến rất
nhiều vấn đề của cuộc sống hiện tại, thời của cuộc sống hoà bình với những
cám dỗ cao cả và thấp hèn, những vấn đề số phận, sự bất hạnh của con người
trong cuộc sống cũng như tình yêu, hạnh phúc. Thể hiện vấn đề đó, nhà văn
sử dụng các động từ như những điểm nhấn có giá trị lột tả bản chất sự vật, sự
việc, con người.
Chiến tranh qua đi nhưng những gì còn xót lại không chỉ là nỗi đau về
thể xác mà hơn thế nữa là nỗi đau về tinh thần mà con người phải gánh chịu.
Nhân vật người lính trong Biển cứu rỗi là một người như vậy. Chiến tranh đã
lấy đi một phần cơ thể nhưng cũng lấy đi của anh tình yêu và hạnh phúc. Diễn
tả thái độ của người vợ đón anh sau bao ngày xa cách thật nặng nề: “vợ hốc
hác, nửa thân thân trên đổ về phía anh, nhưng chân cứ như bị chôn chặt
trong xó nhà, ngó anh trân trân rồi sụm xuống đất, oà lên tức tưởi”, và đón
anh còn là những đứa trẻ lít nhít “ Và ba đứa trẻ chạy tới, vồ vào chế phẩm
lộng lẫy trên nắp ba lô. Nhưng trước cái quắc mắt dữ dằn của anh, chúng
chùn nhụt lại, len lén nép vào một xó”. Chứng kiến những cảnh đó, anh vô
cùng đau đớn, “Anh rũ xuống nền nhà, nôn oẹ ra những bụm nước trong vắt,
giũ tuột ba lô, rồi thất thểu bỏ đi, để lại sau lưng tiếng khóc của người vợ,
đứa con duy nhất của anh không biết rằng nó vừa có bố, trong thoáng chốc
đã lại không có bố; cùng tiếng reo à à giằng nhau búp bê của lũ trẻ”. Khi
trên đảo đèn, anh có thời gian nhìn nhận ra tất cả nguồn cơn, nỗi khổ đau mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vợ con anh phải gảnh chịu “ Mỗi lần khóc, trái tim anh mềm đi một chút”,
91
anh quyết định trở về bên vợ con mình, người đã chịu nhiều khổ đau. Nhà
văn đã sử dụng hàng loạt các động từ Chôn, chạy, giũ, nôn oẹ, khóc… để điễn
tả nỗi đau của con người.
Cũng viết về chiến tranh, trong Người sót lại của rừng cười, nhà văn lại
dùng một loạt các động từ mang tính chất tạo hình để miêu tả nỗi mất mát, nỗi
đau đối với con người: “Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một
dúm xơ xác. Dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc họ”.
“Gần đến chòi canh kho, bỗng “soạt”, rồi “huỵch”- hình như có một con
vượn trắng vừa nhảy từ chòi canh xuống và lẩn vào trong đám lá. Ba người
tản ra, một người chui vào bụi đuổi theo con vượn. Anh ta đang ngơ ngác
nhìn ngược nhìn xuôi thì “phốc”- một đôi tay từ đâu đã ghì chặt lấy cổ…..vẻ
mặt bơ phờ và đang ngửa cổ cười khanh khách”. Đó còn là hình ảnh đau
thương của những người lính, những cô thanh niên xung phong hy sinh trong
nhiều tư thế khác nhau: “Một lưỡi lê cay cú đã đâm nát một bên ngực của
Thắm”. Và Huân trong lúc hấp hối “ Mắt Tuân dại lạc đi trong cơn đau giẫy
chết. Anh quằn người, cào nắm đất lẫn sỏi tống vào mồm”. Trên thực tế, khi
đối diện với những hiểm nguy nơi chiến trận, người lính dù có “dày dạn” đến
đâu cũng không tránh khỏi nỗi hoảng loạn. Miêu tả cảm giác đó, tác giả đã
lựa chọn một loạt động từ mạnh “tớ kinh hoàng gào thét, bỏ chạy. Chạy được
vài chục bước tớ vấp dúi dụi vào một bụi cây, lúc đó mới sực tỉnh, hộc tốc
chạy trở lại,ào tới, đỡ Tuân trong tay, rối rít lay gọi” ( Máu của lá).
Qua hệ thống động từ mà nhà văn sử dụng đã tạo ra những ấn tượng
không thể phai nhòa trong tâm trí người đọc. Dù viết về hiện thực bộn bề nào
hay miêu tả cuộc đời muôn màu muôn vẻ của nhân vật, động từ mạnh đã giúp
nhà văn thể hiện đúng tư tưởng nghệ thuật trên từng trang viết của mình.
Cuộc sống thế sự đời tư trong sáng tác của Võ Thị Hảo không chỉ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những mất mát trong và sau chiến tranh, mà đó còn là những mảnh đời khổ
92
đau, những cảnh nghèo hèn, những bất công còn hiển hiện trên cuộc đời này,
cũng như những vấn đề gia đình, hạnh phúc, công việc…Viết về nó, nhà văn
cũng rất có ý thức sử dụng động từ mạnh để lột tả tận cùng của sự vật, sự
việc, con người.
Trong Vũ điệu địa ngục hình ảnh ám ảnh người đọc không nguôi là cô
gái nghèo Thuỳ Châu. Do không có điều kiện kinh tế cũng như các mối quan
hệ, mà khi tốt nghiệp ra trường đã bốn năm Thuỳ Châu vẫn không thể xin
được việc làm. Cô đã dùng mọi cách, nào là bán máu để có vấn đề “đầu tiên”
đi xin việc, nào là đau đớn chấp nhận sự “thất tiết” để đổi lấy việc làm mà
cuối cùng cô cũng không thể kiếm cho mình một công việc. Cô chết trong sự
tuyệt vọng não nề, để lại nỗi đau vô bờ cho người mẹ nghèo đau khổ cả đời
thắt lưng buộc bụng nuôi con: “ Khi ấy, mẹ nàng vừa hồi tỉnh, bà chồm dậy,
chạy xổ vào chỗ nàng nằm. Cái màu đỏ rực choáng rợp ấy lập tức phủ ngợp
người bà. Bà chùn lại.
Sững sờ giây lát, rồi , bằng cú nhảy của một con báo điên, bà mẹ vọt ra
sân, mái tóc sổ tung bã bời và mười ngón tay quào lên trời”. Với các động từ
mạnh như nhảy vọt, chồm, sổ tung…nhà văn đã diễn tả thật tài tình nỗi đau
tận cùng của người mẹ nghèo tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng đến tột cùng của nỗi
đau ấy là lời tố cáo mạnh mẽ trước sự thật còn nhiều bất công ngang trái
trong cuộc đời này.
Đó còn là những vấn đề bạo lực gia đình, một vấn đề nhức nhối của
mỗi gia đình, xã hội văn minh hiện đại. Thông qua các động từ, nhà văn đã vẽ
lên bức chân dung cuộc sống bạo lực gia đình, trong đó nỗi đau khổ, sự bất
hạnh người phụ nữ luôn phải gánh chịu. Mặc dù chưa cưới hỏi nhưng ở nơi xa
xứ Hải và Tuấn (Mắt miền tây) vẫn đến với nhau như vợ chồng. Sau những
cuộc nhậu say khướt Tuấn lại đánh đập, hành hạ Hải không thương tiếc khiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho cuộc sống của cô chẳng khác nào địa ngục:“ Tuấn phá cửa xông vào.
93
Tuấn đập phá bàn thờ mẹ tôi, hương hoa và cành vàng lá ngọc” tung toé
trên mặt đất. Chị tôi bị gã đẩy ra ngoài cửa lạnh cóng suốt đêm, suýt lao đầu
từ tầng chín xuống đất”.
Các vấn đề của cuộc sống hiện tại còn được thể hiện qua các truyện
ngắn giả lịch sử của Võ Thị Hảo. Ở loại truyện này, nhà văn vẫn dùng các
động từ mạnh để miêu tả và tạo ấn tượng đối với người đọc về nhân vật,
thông qua đó là tư tưởng của nhà văn đối với cuộc sống. Người phụ nữ trong
Hành trang của người đàn bà Âu Lạc luôn phải gánh trên vai rất nhiều những
hủ tục, những tôn ti. Qua mỗi thời đại hành trang của họ ngày một thêm nặng
trĩu, cho dù ở đó luôn kêu gọi sự bình đẳng cũng như giải phóng phụ nữ.
Diễn tả nỗi nhọc nhằn của nhân vật, tác giả miêu tả: “Người đàn bà Âu Lạc
hiện đại khóc. Nàng nhấc hành trang lên vai. Hành trang của nàng nặng hơn
của bà Dạ Dần và mẹ Âu Cơ….Nàng đi nặng nhọc, lại còn đèo theo thói kiêu
hãnh. Mỗi lúc định dừng lại để giảm nhẹ hành trang, nàng lại giật mình vì
nghe tiếng:
- Đi nào! Đi nào! Người đàn bà của ta đi nào!”[12].
Đó còn là sự lạc hậu với những hủ tục, tạo điều kiện cho cái ác hoành
hành, giết chết đi sự sống của con người. Hương trong Ngậm cười là một người
con gái xinh đẹp hiền lành, chất phác, cô đã bị ép buộc với tả tướng Trịnh
Tùng. Do không nghe lời lí trưởng phá bỏ cái thai với tả tướng để lấy quan phủ,
nên cô đã bị ép đến chết. Hãy xem nhà văn miêu tả hành động dã man của
người nhà lý trưởng đối với Cam và Hương: “ Người nhà lí trưởng xông tới
nhét giẻ vào mồm Cam và trói gô chàng lại. Cam trân trối nhìn Hương.
Cô gái chỉ kịp thét:
- Anh Cam ơi! Trả thù cho em.
Bốn trai tráng túm chặt lấy người nàng, xô xuống biển. Bà đồng nhảy nhót hú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hét kêu gào. Dân làng quỳ sụp xuống lạy.
94
Gió rú rít qua cây gạo. Mặt biển cứ đầm đìa ánh trăng”[ 11].
Sử dụng động từ mạnh một cách đậm đặc, nhà văn đã khắc họa lối hành
xử táng tận lương tâm của con người với con người. Mượn hình ảnh lịch sử,
Võ Thị Hảo đã thể hiện thái độ tình cảm và gửi gắm quan điểm của mình
trong cách đối nhân xử thế giữa con người với con người.
Trong loại truyện ngắn kì ảo, nhà văn cũng sử dụng động từ mạnh để
thể hiện nội dung tư tưởng qua từng câu chuyện. Trong Tim vỡ hình ảnh
người con gái đẹp tuyệt trần được tạo ra như một sự thần kì của ba chàng trai.
Do vậy tất cả họ đều mong muốn lấy được nàng làm vợ. Để thử lòng của từng
chàng trai, nàng đã nghĩ ra một cách chứng minh tình yêu của họ với nàng:
“Sau giây lát do dự, nàng cầm lấy con dao, cạo cho mái tóc dài trút xuống,
chỉ còn cái đầu trọc nham nhở. Nàng lại lấy thứ nhựa cây đen nhẻm xát thật
dầy lên môi, lên mặt. Nàng bỏ quần áo đẹp, quấn quanh mình bằng một thứ
vỏ cây cứng quèo và rách bươm. Xong xuôi, nàng ra đứng đầu ngõ, đợi
những người đàn ông”. Thế rồi mọi việc sáng tỏ, cả ba chàng trai đều bỏ đi
trước gương mặt xấu xí của nàng.
Cũng mượn yếu tố kì ảo, hoang đường, trong Nàng tiên xanh xao, đề
cập tới sự dám hi sinh vì người mình yêu và khao khát một tình yêu thuỷ
chung không dối lừa, nhà văn đã sử dụng các động từ như là phương tiện để
thể hiện nội dung và gửi gắm tư tưởng về tình yêu. “Chàng ôm một cô gái,
hai cô vào lòng, rồi quay cuồng trong trò chơi đuổi bắt. Những đụng chạm
xác thịt càng khiến trò chơi thêm hấp dẫn.
Không chịu đựng được, người con gái bỏ chạy, nàng không ghen, nhưng cảm
thấy cay đắng vì chàng đã rẻ rúng tình yêu như vậy. Nàng cố chạy thật xa
ngôi nhà đèn nến huy hoàng rồi đứng lại. Nàng không khóc..”
Vì tình yêu Nàng tiên xanh xao đã hy sinh cả tuổi trẻ, nhan sắc để cứu người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình yêu, bất chấp lời cảnh báo trước của thần núi. Nàng đã trao gửi tất cả
95
cho chàng trai, nhưng chàng trai đã phải bội tình yêu của nàng và biện bạch
“Đàn ông đôi khi vẫn thế”. Cô gái đã không thể chấp nhận và tha thứ cho
chàng trai, đó là cách trừng phạt kẻ bội bạc một cách đúng đắn nhất.
3.3.2 Nghệ thuật sử dụng tính từ với những gam màu nóng, lạnh
Trong quá trình sáng tác truyện ngắn , nhà văn Võ Thị Hảo đã đưa vào
thế giới ngôn ngữ của mình những tính từ có gam màu nóng và pha trộn với
chất liệu màu tối. Việc sử dụng những tính từ đó góp phần xây dựng hình
tượng nhân vật mang đậm dấu ấn của nhà văn.
Tần suất tính từ miêu tả các gam màu nóng lạnh trong truyện ngắn Võ
Thị Hảo xuất hiện khá đậm đặc. Màu đỏ và màu đen là những gam màu
thường thấy trong quá trình miêu tả sự vật, sự việc, thế giới tự nhiên trong
truyện ngắn của chị. Tuy nhiên nó không đơn thuần là những gam màu của tự
nhiên thuần túy như vốn tồn tại, mà đã được qua sự trải nghiệm từ lăng kính
của nhà văn để phục vụ cho dụng ý nghệ thuật của mình. Tuỳ vào từng trường
hợp cụ thể để nhà văn lựa chọn những gam màu trong sáng tác.
Trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, hầu hết gam màu nóng xuất hiện
khi nhà văn miêu tả cảnh đời ở nhiều phương diện trong đời sống của nhân
vật. Từ những hình ảnh con người trong chiến tranh với những sự hủy diệt tàn
khốc của nó, đến những vấn đề của cuộc sống thường nhật, những khát vọng
cao cả và thấp hèn cũng như vấn đề về tình yêu hạnh phúc, những bất hạnh
của số phận con người đều được đề cập qua gam màu nóng.
Nhiều khi viết về chiến tranh, các tính từ chỉ gam màu nóng đã được
nhà văn dùng để miêu tả không gian khác lạ, báo hiệu cuộc sống không bình
yên của con người:“Mặt trận đã lùi về gần kho. Năm cô gái sống trong lo âu
mà rừng thì cứ lầm lì trải dài thảm lá rụng. Ánh đỏ của thảm là hắt lên cả
bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ”. Chỉ trong một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
câu văn nhà văn đã hai lần sử dụng gam màu đỏ. Màu đỏ ở đây không chỉ
96
màu hy vọng, tươi sáng mà là “ánh đỏ” héo úa, rơi rụng của khung cảnh rộng
lớn nơi chiến trận và sự oi bức của buổi chiều tàn. Trong không gian đó, bao
trùm lên khu rừng cũng toàn “màu đỏ”. Màu đỏ của thiên nhiên hay là dấu
hiệu về sự tàn khốc của chiến tranh nơi các cô gái đang đóng quân?
Sự tàn khốc của chiến tranh không chỉ đến với những người trên trận
tuyến mà cả ở những người nơi hậu phương. Cô gái (Hồn trinh nữ) đã chờ
người yêu vò võ suốt tuổi thanh xuân của mình để rồi đổi lại là một người
chồng có cái nhìn lạnh lẽo như thép và không biết cười không biết nói chuyện
gì. Tác giả lý giải bởi trong những năm chiến trận, anh ta không biết có
chuyện gì, “ngoài chuyện chém giết” với rất nhiều tội ác đã gây ra nhuộm đỏ
cả hai bàn tay. Đến khi trở về, nỗi ám ảnh về tội lỗi của mình không phút nào
nguôi ngoai: “Ôi kìa máu! Nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!”. Người vợ
sống trong sự ám ảnh về tội lỗi của chồng, của những hồn ma luôn đến đòi nợ
“Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm cho nàng thêm sợ hãi”. Đó còn là sự
ám ảnh của Thảo (Người sót lại của rừng cười) về nỗi đau mà chiến tranh gây
ra không chỉ trong cuộc chiến mà khi trở lại cuộc sống thời bình, nỗi đau đó
cứ ám ảnh mãi không thôi: “Anh vừa vừa nhìn thấy chao qua chao lại trước
mặt mình người con gái đã bị tước đoạt sạch trơn, đêm ngồi vò võ viết thư tự
gửi cho mình trước ngọn đèn dầu đỏ quạch”...
Viết về cuộc sống thế sự, nhiều khi Võ Thị Hảo sử dụng màu đỏ - màu
máu để tạo nên một ấn tượng đặc biệt về một sự việc không bình thường nào
đó trong cuộc sống của con người. Hãy xem nhà văn miêu tả những giọt máu
mà Ngần (Ngày không mút tay) phải dấu chồng con đi bán để đêm lại niềm
hạnh phúc nhỏ nhoi cho gia đình trong cuộc sống: “Cánh tay của người đàn
bà cũng được vén quá khuỷu như tay hắn…chỗ “ven” đang rỉ máu. Những
giọt máu đỏ thắm đánh dấu bước chân chị ta đi trên sàn gạch men
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xanh”(Ngày không mút tay). Hay cái chết thật thương tâm của một cô gái trẻ
97
Thuỳ Châu trong Vũ điệu địa ngục, một cái chết đáng để mọi người suy nghĩ
về nhân tình thế thái hôm nay: “Trước mắt tôi hiện ra một bồn tắm lớn đỏ rực
màu máu”. Thùy Châu đã vĩnh biệt cuộc đời trong một bồn tắm đỏ rực màu
máu của mình như thế!
Trong lĩnh vực tình yêu, gam màu đỏ thường để biểu trưng cho hạnh
phúc của con người, nhưng khi tình yêu tan vỡ, hạnh phúc không đến với họ
thì nó chỉ là những ảo ảnh không mang giá trị tự thân: “Thảo thấy ngọn dầu
nhòe dần, và đung đưa trước mắt cô một quả cà chua chín đỏ lịm hình trái
tim, chập chờn, chập chờn. Cô đưa tay bắt hình cà chua vỡ ra, chạy dọc theo
cánh tay vào tận ngực. Thứ nước đỏ nhờn nhợt như máu loãng”(Người sót lại
của rừng cười).
Như vậy với việc sử dụng gam màu nóng đặc trưng- màu đỏ, nhà văn
đã làm nổi bật nhiều cung bậc trong đời sống và lĩnh vực tình cảm của con
người. Đó là số phận con người trước chiến tranh tàn khốc, là sự phá huỷ của
chiến tranh đối với tình yêu hạnh phúc. Đó còn là các vấn đề của cuộc sống
thời bình với nỗi bất hạnh đè nặng lên thân phận những con người bé nhỏ...
Không chỉ sử dụng gam màu nóng, trong sáng tác của Võ Thị Hảo gam
màu lạnh - màu đen cũng được nhà văn quan tâm để làm phương tiện đi vào
các phương diện khác nhau của đời sống con người, vào “Sự khắc nghiệt của
số phận con người cùng sự ảm đạm, nỗi buồn đau và những linh cảm xấu
trước hiện thực tàn khốc” [2]
Trong Phiên chợ người cùi hình ảnh nhân vật Phương xinh đẹp lùi dần
vào quên lãng khi chị rơi vào một căn bệnh nam y- bệnh hủi. Với sự nghiệt
ngã của số phận cùng sự xa lánh của người chồng, một nỗi buồn cô độc xót xa
xâm chiếm cả tâm hồn và thể xác, khiến “Gương mặt chị mới sáng bừng lên
lúc nãy bây giờ như có một đám mây đen che phủ”. Đó còn là sự thật nghiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngã mà Huân trong Máu của lá phải gánh chịu - một chàng trai hai mươi bốn
98
tuổi, đẹp trai, tiến sĩ y khoa mà bỗng chốc mắc phải căn bênh ung thư dạ dày.
Nỗi thất vong quá lớn khi chính anh chữa trị cho người khác nhưng lại không
cứu nổi bản thân mình. Anh nghĩ “Rồi đây anh trắng tay. Cả đến một câu
chửi tục cũng không còn khả dĩ khuấy động thế giới đen ngòm mà anh sắp
bước vào" thể hiện sự đau đớn bế tắc của con người, sự bất lực trước số phận.
Trong truyện ngắn Võ Thị Hảo, gam màu đen còn biểu tượng cho nỗi
buồn thương, cô đơn, lạnh lẽo của con người trước cuộc đời. “Tôi không chọn
mây hồng mây tím mà chọn đám mây đen để hoá thân. Tôi nói mây đen xấu xí
nhưng chỉ có mây đen mới đủ sức cõng những đám mây khác, vì mây đen to
khoẻ”(Tình yêu mây trắng). Đó là suy nghĩ của hai con người hai số phận,
nhưng giữa họ là một tình cảm trong sáng trẻ thơ. Chỉ vì một chút quan hệ dây
mơ rễ má mà cháu lớn Cồ mây đen không thể cõng dì mây trắng suốt mãi mà
phải trao dì mây trắng cho người khác trong nỗi buồn, nuối tiếc nghẹn ngào.
Như vậy, cùng với các thủ pháp nghệ thuật khác, khả năng sử dụng các
tính từ với gam màu nóng, lạnh khác nhau Võ Thị Hảo đã thể hiện sự sáng tạo
độc đáo trên từng trang viết của mình. Chính những gam màu đó đã tạo nên
những ấn tượng đặc biệt trong sáng tác của chị.
3.3.3. Nghệ thuật sử dụng các phó từ mang tính chất đột biến
Khảo sát truyện ngắn của Võ Thị Hảo, chúng tôi còn nhận thấy nhà
văn sử dụng nhiều các phó từ có tính chất đột biến với tần suất dày đặc để
diễn tả số phận từng nhân vật. Nhờ nó mà sự phức tạp của đời sống hiện thực
cũng như đời sống tâm hồn con người được miêu tả như nó vốn có. Các phó
từ dày đặc xuất hiện trong truyện ngắn Võ Thị Hảo như: bỗng, bỗng nhiên,
chợt...đã thể hiện sự bất thường, phức tạp của sự vật hiện tượng, tạo cảm giác
mạnh, bất ngờ với người đọc về diễn biến câu chuyện, số phận nhân vật.
- Đó là sự biến đối bất thường của thiên nhiên, như dự báo một điều không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tốt lành hoặc niềm nuối tiếc với con người:
99
“Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua”[11]
“Bỗng một con sóng to lừng lững ập đến, thè lưỡi khổng lồ liếm vào
bãi cát rồi rút ra ngoài xa ngay trong thoáng chốc”[11]
“Ngoài biển kia, dưới ánh trăng, sóng bỗng cuộn lên, đỏ lộng cả một
vùng”[11]
- Đó là sự xuất hiện kì lạ của con người hay một sự việc:
“ Bỗng có một bước chân nhẹ nhàng bước tới, và giọng nói trầm ấm
ngọt ngào cất lên”[11]
“Ngài bàng hoàng dụi mất, bỗng thấy gốc cây dưới đầu ngài rùng
mình…Từ trong mài lá xum xuê, một người con gái xinh đẹp tuyệt vời khoác
hờ một tấm áo choàng rộng kết bằng những chuỗi hoa trắng xanh nhỏ bé yểu
điệu bước ra”[11]
“Trên đám lá đó bỗng phủ rực rỡ một vầng dây tơ hồng vàng tha
thướt”[16]
“ Nhìn xung quanh, thấy bốn chị gái tôi đang đi xa bỗng dưng cũng từ
lúc nào, về đây đông đủ cả”[11]
“Bỗng đám cỏ dưới chân họ động đậy. Một vệt lấp loáng xuất hiện. Và
êm như ru, một con thằn lằn có da xám xanh biếc trườn rất êm như đang trôi
vào tấm vải nhựa có đặt bát cơm trên mộ”[16]
“Bỗng có mùi cháy xộc đến từ sau lưng khiến cậu bé quay ngoắt
lại”[16]
- Hay là sự biến đổi kì lạ trong tâm hồn con người:
“Nhưng thấy nàng bỗng chốc đã thành đen đủi xấu xí, họ bỏ đi
thẳng”[11]
“Bỗng nhiên ăn diện đẹp mà không có lời giải thích nào khả dĩ”
“Như có phép lạ, các cô gái đang cười sằng sặc bỗng im bặt, bàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàng rồi sực tỉnh, vơ lấy súng”[16]...
100
Như vậy với việc sử dụng các phó từ mang tính chất đột biến, nhà văn
Võ Thị Hảo đã diễn tả thành công các sự vật hiện tượng cũng như số phận
con người một cách đầy bất ngờ. Nó mang tới một thông điệp cho mỗi chúng
ta: trong cuộc đời đầy bất trắc này, con người luôn phải đối mặt với những
hiểm nguy rình rập, hãy vững tin để làm chủ mọi tình huống có thể xảy ra.
Qua đó thể hiện một trái tim nhân hậu, một trách nhiệm cao cả trước con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người và cuộc sống hôm nay của một nhà văn nữ đầy cá tính - Võ Thị Hảo.
101
KẾT LUẬN
1.Văn học Việt Nam sau 1975, nhất là sau thời kì đổi mới 1986 - thời kì
mà văn học được “tự cởi trói” cho mình khiến diện mạo của một nền văn học
thực sự thay đổi. Thay đổi từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực, con người
đến thay đổi cả về đề tài và cảm hứng sáng tác...Chính sự thay đổi đó đã tạo
nên những thành tựu nổi bật của truyện ngắn nói riêng và các thể loại văn học
nói chung. Đây là thời kỳ mà có sự “nở rộ” không chỉ về số lượng tác giả, tác
phẩm cũng như các khuynh hướng sáng tác mà còn nở rộ cả phong cách sáng
tác của không ít nhà văn. Chỉ trong một thời gian ngắn đã xuất hiện rầm rộ
nhiều cây bút và tạo được ấn tượng mạnh đối với người đọc như Nguyễn Bình
Phương, Lê Minh Khuê, Phan Thị vàng Anh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo…Mỗi người một giọng điệu, một cách sáng tạo
riêng nhưng tất cả đều làm nên một diện mạo mới cho nền văn học dân tộc
thời kì đổi mới. Trong đó không thể không kể đến sự thành công của các cây
bút nữ mà Võ Thị Hảo là một đại diện xuất sắc.
2. Ở thể loại truyện ngắn, Võ Thị Hảo đã sáng tác với ba loại loại
truyện cơ bản: truyện ngắn thế sự, truyện ngắn kỳ ảo và truyện ngắn giả lịch
sử. Ở loại truyện nào chị cũng thể hiện một cái nhìn đậm thiên tính nữ - nhận
hậu và đầy cá tính.
Trong truyện ngắn thế sự của mình, Võ Thị Hảo đã đi sâu khám phá
cuộc sống và con người trong nhiều phương diện tồn tại và góc cạnh của hiện
thực. Nhà văn không ngần ngại phơi bày lên trang sách những vấn đề nhức
nhối mà mỗi người có lương tri đều phải trăn trở quan tâm. Đó là hậu quả tàn
khốc của chiến tranh; là những mảnh đời, những số phận khổ đau chìm nổi; là
bao cảnh thương tâm mà cơ chế của nền kinh tế thị trường đem lại.... Đề cập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tới nhiều khía cạnh của cuộc sống và con người, đặc biệt là những vấn đề có
102
tính nhân loại mà cả xã hội quan tâm chứng tỏ trách nhiệm cao cả của nhà văn
trước cuộc sống, con người.
Truyện kỳ ảo của Võ Thị Hảo là một sáng tạo độc đáo mang tới một
diện mạo mới cho thể loại truyện ngắn của chị. Loại truyện này, các câu
chuyện hầu hết được nhà văn xây dựng dưới dạng truyện có nguồn gốc cổ
tích. Từ thế giới hư ảo, nhà văn đem đến cho người đọc những câu chuyện
xúc động, những bài học nhân sinh sâu sắc, những ý nghĩa giá trị đích thức
cho con người.
Truyện giả lịch sử của chị đều được viết với những chi tiết lịch sử,
nhân vật lịch sử để từ đó nhà văn xây dựng nhân vật mang đậm dấu ấn thời
đại. Với các chi tiết nghệ thuật mang đậm màu sắc lịch sử, nhà văn đã đưa
người đọc vào một thế giới xa xưa để từ đó lại thể hiện những quan điểm và
tư tưởng mới mẻ của thời đại.
Trong các loại truyện ngắn của mình, nhà văn đã dành một phần không
nhỏ những trang viết cho người phụ nữ, Điều nhà văn quan tâm đặc biệt là
vấn đề về hạnh phúc, tình yêu của họ. Những nhân vật nữ trong truyện ngắn
Võ Thị Hảo, dù ở loại truyện nào, cũng có chung những phẩm chất khát vọng
hạnh phúc. Họ đấu tranh quyết liệt để dành giữ tình yêu, sự bình đẳng trong
tình cảm cũng như khẳng định giới mình. Đó là những con người hiền lành,
dịu dàng, sẵn sàng hy sinh những gì mình có để đi đến hạnh phúc. Đó cũng là
những con người khi yêu rất nhẹ dạ, cả tin vì vậy mà nhiều khi không tránh
khỏi một cuộc đời bất hạnh. Thế giới nhân vật nữ của Võ Thị Hảo còn hiện
diện bao số phận nhọc nhằn, kém may mắn. Những nỗi đau của cuộc đời luôn
bám lấy họ mà không buông tha, đó là cái nghèo, là sự tật nguyền, là những
kỳ dị không đáng có trong cuộc đời này....Tuy vậy họ vẫn ánh lên niềm tin
vào cuộc sống. Đó là những điều đáng trân trọng mà nhà văn đã thể hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành công trong truyện ngắn của mình.
103
3. Để xây dựng các loại truyện ngắn của mình, Võ Thị Hảo đã sử
dụng rất thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc: nghệ thuật sử dụng
yếu tố kỳ ảo, nghệ thuật xây dựng nhân vật, và đặc biệt là nghệ thuật sử dụng
ngôn từ.
Sử dụng yếu tố kỳ ảo Võ Thị Hảo đã dụng công xây dựng cốt truyện kỳ
ảo, trong đó nổi bật là cách lựa chọn sắp xếp các chi tiết kỳ ảo, tình huống kỳ
ảo, sự kiện kỳ ảo...Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Võ Thị Hảo còn thể hiện ở
việc xây dựng thế giới nhân vật. Thế giới nhân vật của chị yếu tố kỳ ảo được
thể hiện qua hoàn cảnh xuất thân, những tình tiết ly kỳ tạo sự khác thường
trong bản chất của từng nhân vật để từ đó nhà văn gửi gắm những bài học
nhân sinh sâu sắc.
Xây dựng thế giới nhân vật, Võ Thị Hảo rất chú ý miêu tả ngoại hình
và miêu tả tâm lý. Khi miêu tả ngoại hình, nhà văn cũng ảnh hưởng sâu sắc
lối miêu tả truyền thống- “trông mắt mà bắt hình dong”. Những số phận nhân
vật thường hiện diện rất rõ nét qua hình hài, dáng điệu. Nét đặc sắc khi miêu
tả ngoại hình nhân vật của chị là chị rất tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết.
Nhiều khi chỉ một vài phương diện ngoại hình mà đã đem đến cho người đọc
những ấn tượng không thể phai mờ. Ấn tượng về nhân vật của Võ Thị Hảo
không chỉ là ngoại hình mà còn là đời sống nội tâm. Miêu tả tâm lý nhân vật
cũng là một điểm mạnh trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của chị.
Sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo có những đặc sắc
riêng. Nhà văn sử dụng rất ấn tượng những động từ mạnh, những tính từ, những
phó từ...Tất cả đã làm nên đặc sắc riêng trong văn chương của Võ Thị Hảo.
4. Với những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của
mình, Võ Thị Hảo đã thể hiện bản lĩnh của một cây bút nữ đầy cá tính. Sự
thành công thể hiện ở ba loại truyện ngắn khẳng định sự sáng tạo, bản sắc văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chương không thể lẫn của một nhà văn nữ tài hoa Võ Thị Hảo.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hà (2005), Nhà văn Võ Thị Hảo – Tôi thích những nhân vật nữ nổi
loạn, Báo Truyền Hình HN.
2. Cao Thị Thu Hoài (2009), Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo ( Qua
tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc
nửa đêm), Luận văn thạc sĩ khoa học, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
3. Lương Thị Bích Ngọc (2004), Võ Thị Hảo giữa những trang viết trang đời,
Báo Thể thao và Văn hoá.
4. Bảo Ninh (1991), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn.
5. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn hay 2001, Nxb Hội nhà văn.
6. Đặng Anh Đào (19910), Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện
hiện nay, Tạp chí văn học số 6.
7. Nguyễn Minh Châu(2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
8. Nguyễn Hoàng Đức (2000), Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ, Nxb Văn học
Dân tộc.
9. Hà Minh Đức (Chủ biên)(2000), Lí luận văn học .Nxb Giáo dục, Hà
Nội.(Tái bản lần thứ 6).
10. Võ Thị Hảo(1991), Biển cứu rỗi, Nxb Hà Nội.
11. Võ Thị Hảo(2005), Hồn trinh nữ, Nxb Phụ Nữ.
12.Võ Thị Hảo(2005), Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ.
13.Võ Thị Hảo(1993), Chuông vọng cuối chiều, Nxb Lao động.
14.Võ Thị Hảo(2005), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nxb Phụ nữ.
15.Võ Thị Hảo(1998), Ngậm cười, Nxb Phụ nữ.
16. Võ Thị Hảo(2006), Người sót lại của rừng cười, Nxb Phụ nữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học sư pham.
105
18. Đoàn Minh Tuấn (1993), Lời giới thiệu Biển cứu rỗi( Võ Thị Hảo), Nxb
Hà Nội
19. Đinh Thị Thu (2007), Báo cáo khoa học: Cảm thức cô đơn trong tập
truyện ngắn Goá phụ đen của Võ Thị Hảo, trường Đại học sư phạm Hà Nội.
21. Phương Lựu chủ biên (2003), Lý luận văn học, Nxb GD.
22. Thụ Nhân, Toạ đàm về sáng tác Võ Thị Hảo, Vietnamnet.
23. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb GD.
24. Võ Thị Hảo(2004), “Nhà văn mà nhẵn nhụi thì mất duyên”, VN Epress.
25. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD(Tái bản lần 2).
26. Nhiều tác giả(2002), Lý luận văn học tập 1, Nxb Đại học sư phạm.
27. Nhiều tác giả (1997), Việt Nam nửa thế kỉ văn học, Nxb Hội nhà văn.
28. Châm Khanh (2000), Phụ nữ và văn chương, Tạp chí Việt, Tienve Org.
29. Nguyễn Vi Khanh(2002), Bài viết “Tản mạn về dục tính và nữ quyền”.
30. Vi Thuỳ Linh(7/10/2005), Những cơn bão tuổi 25 và sự thay đổi, Trang
Vietnamnet.
31. Phạm Thị Ngọc Liên ( 25/1/2007), Nhục cảm văn chương, Trang weo
www e van. Com.vn.
32. Phương Lựu chủ biên (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục.
34. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (1993), Hà Nội
35. Vương Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn học
số 6.
36. Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí
văn học số 2.
37. Nghĩ về truyện ngắn (1994), Phỏng vấn các nhà văn, Văn nghệ quân đội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số 2.
106
38. Khánh Phương (2003), Là hạt muối tôi phải mặn ( trò truyện với Võ Thị
Hảo), Báo thể thao văn hoá số 53.
39.Trần Đình Sử ( 2001), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học
Việt Nam thế kỉ XX, Tạp chí văn học số 8.
40. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Trần Đình sử, “ Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết”
(1991), Tạp chí Văn học, (1)
42. Bùi Việt Thắng (2001), Tuyển chọn giới thiệu, Truyện ngắn bốn cây bút nữ
Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb Văn học.
43.Bùi Việt Thắng (1993), Khi người ta trẻ, tản mạn về truyện ngắn của
những cây bút trẻ, Báo văn nghệ số 43.
44.Nguyễn Thành Thắng (2004), Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn
đương đại và sự góp mặt của một số cây nữ, Tạp chí Văn thành phố Hồ Chí
Minh số 7.
45. Bích Thu (1995), “ Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm
1975 qua hệ thống môtíp chủ đề”, Tạp chí Văn học(4).
46. Bích Thu (1996), “ những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí
Văn học, Hà Nội.
47. Còn điều chi em mải miết đi tìm (6/2005), Báo An ninh Thế giới.
48. Bùi Thanh Truyền(2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam, Luận văn tiến sĩ ngữ văn.
49. Nguyễn Thị Như Tươi (2007), Giàn Thiêu của võ Thị Hảo, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
50. Đỗ Phương Thảo (2006), Nhân vật nữ trong tác phẩm văn xuôi của Ma
Văn Kháng, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 7.
51. Dương Quỳnh Trang (1994), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của một cây bút nữ. Văn nghệ quân đội số 6.
107
52. Trần Thị Vượng (1986), Nhân vật phụ nữ trong sáng tác Nguyễn Minh
Châu, Luận văn thạc sĩ khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
53. Trần Thị Bích Vân (2009), Nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo, Luận
văn thạc sĩ khoa học, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
54. Bảo Ninh( 1987), Trại bảy chú lùn( Tập truyện), Nxb Hà Nội.
55. Bùi Thị Thuỷ, Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam đương đại,Hội
nhà văn
56.Ma Văn Kháng(1986), Ngày đẹp trời ( Tập truyện), Nxb Lao động, Hà Nội.
57. Tôn Phương Lan (2005), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn ( Đồng chủ biên- 2006), Văn học Việt
Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 – 1995, Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Tổng
hợp Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giáo dục, Hà Nội.