ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
SÙNG THỊ HƯƠNG ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thái Nguyên, năm 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
SÙNG THỊ HƯƠNG ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh
Thái Nguyên, năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu “Đặc sắc tản văn Y Phương” dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tôi. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đều được tác giả
trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm Luận văn và Nhà trường về
sự cam đoan này.
Thái Nguyên, tháng 8, năm 2013
Tác giả
Sùng Thị Hương
Xác nhận của người hướng dẫn khoa học Xác nhận của khoa chuyên môn
TS. Cao Thị Hảo
PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên; Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Ban chủ nhiệm Khoa Sau đại học
và các cán bộ Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học cũng
như hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… đã khích lệ,
động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Sùng Thị Hương
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn ...................................................................................................... i
Lời cam đoan ................................................................................................. ii
Mục lục ......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4
4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................ 5
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 5
7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 6
8. Cấu trúc luận văn .............................................................................................. 6
Chương 1. VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM
HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG ................................................... 7
1.1. Vài nét về tản văn .......................................................................................... 7
1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại ............................................... 7
1.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Y Phương. ........................................... 15
1.2. Tản văn của Y Phương................................................................................. 19
1.21. Bản sắc văn hóa Tày - miền thương nhớ sâu thẳm nhất trong Tản văn
của Y Phương. .................................................................................................... 19
1.2.2. Những kỉ niệm thân thương với người thân, bạn bè gắn bó cùng quê
hương miền núi................................................................................................... 23
1.2.3. Những trải nghiệm trong cuộc đời của Y Phương. .................................... 25
Chương 2. ĐẶC SẮC NỘI DUNG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG .................... 28
2.1. Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người miền núi trong cái nhìn hoài niệm. 28
2.1.1. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa dữ dội trong tản văn của Y Phương.... 28
2.1.2. Hình ảnh con người miền núi trong tản văn của Y Phương. ...................... 32
2.2. Cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương........................................... 37
iii
2.2.1. Cảm hứng ngợi ca và khát vọng bảo tồn bản sắc văn hóa Tày trước
“mặt trái” của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa. ..................................... 37
2.2.2. Cảm hứng chiêm nghiệm - triết lí về lẽ sống ở đời, về mối quan hệ giữa
văn hóa và nhân cách, về số phận của con người. ............................................... 41
Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG.............. 49
3.1. Kết cấu tự do, linh hoạt với sự kết hợp nhiều phương thức, phương tiện
nghệ thuật. .......................................................................................................... 49
3.1.1. Kết cấu liên tưởng - đồng hiện trong dòng hoài niệm của nhân vật
người trần thuật. ................................................................................................. 50
3.1.2. Kết cấu “Vòng sóng đồng tâm”................................................................. 53
3.2. Kiểu nhân vật người trần thuật ngẫm ngợi, chiêm nghiệm và tự biểu hiện ... 56
3.2.1. Kiểu nhân vật người trần thuật “tha hương – hồi cố” mà chiêm nghiệm
về quê hương...................................................................................................... 56
3.2.2. Kiểu nhân vật người trần thuật thi sĩ đi tìm chất thơ mang đặc trưng
miền núi trong hồi ức.......................................................................................... 59
3.3. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương ......................................... 63
3.3.1. Bút pháp chấm phá khắc hoạ bức tranh thiên nhiên và xã hội miền núi
hiện về trong hồi ức. ........................................................................................... 64
3.3.2. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương với chân dung con
người miền núi hiện về trong hồi ức ................................................................... 65
3.4. Cấu trúc câu đặc biệt và hệ thống từ láy mới mẻ đầy sáng tạo trong tản văn
của Y Phương. .................................................................................................... 69
3.4.1. Cấu trúc câu đặc biệt trong tản văn của Y Phương .................................... 69
3.4.2. Hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ, đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương ... 77
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 89
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bộ phận văn học thiểu số có bản sắc
văn hóa riêng và có đóng góp to lớn vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà.
Trong bộ phận văn học thiểu số Việt Nam hiện đại, nhà thơ Y Phương có một vị trí
đặc biệt. Ông không chỉ là một nhà thơ tài năng từng đạt nhiều giải thưởng cao của
thơ ca Việt Nam hiện đại mà còn là tác giả của những tản văn đặc sắc, chiếm được
tình yêu và sự mến mộ của đông đảo độc giả. Hai tập tản văn của Y Phương “Tháng
giêng - tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu” đã mang lại cho
tên tuổi Y phương một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới.
Thể loại tản văn ở Việt Nam ngày càng có một vị trí đặc biệt trong hệ thống
các thể loại văn học của nền văn học Việt Nam hiện đại. Đã có rất nhiều tác giả
thành công với thể loại văn học vừa mang đặc trưng của tác phẩm ký văn học vừa
giầu chất thơ này. Ví dụ như: Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn,
Nguyễn Ngọc Tư... và Y Phương với sự kết tinh bản sắc văn hóa Tày độc đáo, có sự
giao thoa - tiếp biến với bản sắc văn hóa Việt đã mang lại một “hương sắc riêng”
không thể lẫn với tản văn của các nhà văn khác.
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận hợp thành của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu sáng tác của Y Phương nói chung, tản
văn của Y Phương nói riêng không chỉ góp phần nhận diện thành tựu văn học, cá
tính sáng tạo độc đáo, và đóng góp của Y Phương vào thành tựu chung của nền văn
học thiểu số Việt Nam hiện đại, mà còn qua đó chỉ ra hành trình vận động, phát
triển ở phương diện cấu trúc thể loại của thể tản văn trong hệ thống thể loại văn học
Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu tản văn của Y Phương, chúng ta nhận ra bản sắc văn hóa Tày
đặc sắc như một “tầng vỉa” nằm sâu thẳm trong mạch nguồn cảm hứng của Y
Phương. Bằng tác phẩm của mình, Y Phương không chỉ biểu hiện tình yêu và
lòng tự hào, ý thức bảo lưu, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình mà còn
1
gián tiếp chứng minh cho một chân lí: - Không có một nghệ sĩ lớn nào ở bất cứ
loại hình nghệ thuật nào lại không được nuôi dưỡng và lớn lên từ “dòng sữa”
ngọt ngào là truyền thống văn hóa mang tính dân tộc của anh ta. Chính truyền
thống văn hóa đặc sắc của từng dân tộc sẽ trở thành “hộ chiếu” văn hóa để mỗi
nhà văn đi ra thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh “toàn cầu hóa” hôm nay, đứng
trước cuộc “xâm lăng” văn hóa từ các quốc gia phát triển tràn vào các quốc gia
chậm phát triển và đang phát triển, chúng ta càng thấm thía và hiểu sâu sắc hơn
một châm ngôn tưởng chừng rất giản dị mà hệ trọng, liên quan đến sự sống còn
của mỗi dân tộc mất văn hóa là mất tất cả! Tản văn của Y Phương cũng đã góp
một tiếng chuông báo động về tình trạng mai một về văn hóa dân tộc, đã và
đang diễn ra trên khắp đất nước ta và từ sự tha hóa về văn hóa ấy sẽ dẫn đến
một hệ quả tất yếu là sự mất mát trong nhân cách con người. Tản văn của Y
Phương đã phản ảnh thực trạng ấy, và qua đó đã gửi gắm những thông điệp văn
hóa khẩn khiết tới bạn đọc cả nước.
Đã có một số bái báo giới thiệu và phân tích, đánh giá về tản văn Y
Phương, nhưng đó mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu có tính sơ lược về tản
văn của nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc này. Một công trình nghiên cứu toàn diện,
sâu sắc về tản văn của Y Phương vẫn còn vắng bóng. Đây là lí do khiến chúng
tôi thực hiện đề tài “Đặc sắc tản văn của Y Phương”. Nếu công trình nghiên
cứu được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo
bổ ích cho công tác dạy và học chuyên đề văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại trong trường đại học, hệ cử nhân và thạc sĩ văn học nói riêng, và cho
những ai yêu mến muốn tìm hiểu nghiên cứu về sáng tác của các nhà văn dân
tộc thiểu số Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ của Y Phương sớm thu hút sự quan tâm của bạn đọc và đặc biệt của giới
lí luận phê bình, nghiên cứu văn học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo,
luận văn thạc sĩ tìm hiểu và đánh giá về thơ của Y Phương - nhà thơ được tôn vinh
là một trong những gương mặt thơ Tày sáng giá nhất của thơ Việt Nam hiện đại.
Nhưng với tản văn của Y Phương, do thời gian công bố tác phẩm còn rất mới mẻ,
2
số lượng các công trình nghiên cứu về nó còn rất khiêm tốn.
Bài viết “Dấu ấn văn hóa Tày qua Tản văn của Y Phương” của tác giả Trần
Công Văn là bài viết không dài nhưng đã bao quát một vấn đề lớn: những biểu hiện
của bản sắc văn hóa Tày trong Tản văn của Y Phương. Tác giả đã triển khai ba vấn
đề trong bài viết của mình: Văn hóa ẩm thực của người Tày trong Tản văn của
Y Phương; văn hóa tâm linh của người Tày trong Tản văn của Y Phương; khát
vọng bảo tồn văn hóa dân tộc trong Tản văn của Y Phương. Trong từng tiểu
mục kể trên, Trần Công Văn đã phân tích, chứng minh các ví dụ cụ thể trong
Tản văn của Y Phương để đi tới một kết luận khoa học: “dấu ấn văn hóa Tày
trong Tản văn Y Phương không chỉ biểu hiện ở ẩm thực, lễ tết, tâm linh mà còn
in đậm trong phương thức thể hiện, từ ngôn ngữ, giọng điệu cho đến hình ảnh
đều mang dáng dấp, lối tư duy của người vùng cao (...). Tháng giêng - tháng
giêng một vòng dao quắm của Y Phương nhẹ nhàng mà tinh tế, giản dị mà sâu
sắc, chứa chan tình nhân ái, hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái
thiện, cái rất thực, rất tự nhiên mang hồn cốt của người Tày [51].
Không bao quát một vấn đề lớn rồi luận giải kĩ lưỡng như bài viết của Trần
Công Văn, tác giả Tuy Hòa trong bài viết “Một sự công nhận dành cho thể loại Tản
văn” Nguồn: (tonvinhvanhoa.doc.vn), chỉ khái lược về Tản văn của Y Phương như
một bài điểm sách được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2010 [52].
Tuy vậy, trong bài viết ngắn này, Tuy Hòa đã chỉ ra một vài nét đặc sắc của
Tản văn Y Phương: có một không gian văn hóa Tày độc đáo của vùng núi Cao
Bằng; mạch nguồn cảm hứng của Tản văn Y Phương là nỗi nhớ quê hương của một
người con xa xứ “Chuyển về Hà Nội sinh sống, Y Phương như một cánh chim khắc
khoải đêm ngày nhớ nhung gió chuyển, mây bay” [52]; chất thơ trong Tản văn Y
Phương “Tản văn của Y Phương không chinh phục người đọc bằng ánh mắt sắc sảo,
mà bằng cái nhìn âu yếm. Có lúc Y Phương cao hứng, tung tẩy ý tứ theo bút pháp
nhà thơ”. Điều đáng tiếc là trong bài viết này, tác giả khẳng định nhiều mà ít chứng
minh cho các kết luận khoa học của mình.
Trong bài viết “Tản văn - thể loại không dành cho người viết trẻ?” (Nguồn:
phongdiep.net), tác giả Nguyễn Hồng Nga dành nhiều công sức để giới thuyết về
thể loại tản văn, giới thiệu một số tác giả trẻ đã thành công với thể loại văn học này,
3
và trong đó tác giả đã dành cho tản văn của Y Phương lời chào đón trân trọng: “chỉ
kể riêng trong một vài năm gần đây, người đọc đã đón nhận nhiều tập tản văn của
thế hệ nhà văn đã định hình tên tuổi chào đời. Đó là Y Phương, một nhà thơ Tày đã
đến và chinh phục những người yêu tản văn với Tháng giêng - tháng giêng một
vòng dao quắm”[53]. Quả thực, nếu xét ở cương vị nhà thơ, Y Phương là một nhà
thơ không còn trẻ và đã thành danh trên thi đàn Việt Nam hiện đại, nhưng ông lại là
một nhà văn trẻ khi đột ngột xuất hiện bằng hai tập tản văn được người đọc yêu
mến và tìm đọc.
Tìm hiểu, đánh giá toàn diện cả hai tập Tản văn của Y Phương với cái
nhìn sâu sắc, nhà phê bình Văn học Dân tộc Thiểu số Việt Nam hiện đại Lâm
Tiến, với bài viết “Vẫn cứ xanh một màu rừng” đã mang lại cho chúng ta ấn
tượng sâu đậm nhất. Trong bài viết này, Lâm Tiến đã đề cập đến nhiều nét đặc
sắc của Tản văn Y Phương, nhưng nổi bật nhất là: qua tản văn Y Phương đã vẽ
“chân dung tâm hồn” mình chân thật nhất: “ít ai viết tản văn mà lại thể hiện
con người mình rõ ràng và thực đến vậy” [34]. Đó là hình ảnh quê hương và
con người vùng cao Co Xàu đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó là chiều sâu
văn hóa Tày trong tản văn Y Phương: “Mỗi tản văn của Y Phương như một lát
cắt, một tầng vỉa làm lộ dần chiều sâu văn hóa của quê hương, của dân tộc (...),
Y Phương viết tản văn với một tầm nhìn chủ động, áp đảo, với một màu xanh
của rừng không thể nào pha lẫn” [34]
Như vậy, qua khảo sát, tìm tòi, chúng tôi mới chỉ thấy có một số bài viết
bước đầu tìm hiểu, đánh giá về Tản văn của Y Phương, điều đó không tương xứng
với giá trị đặc sắc của hai tập tản văn này. Bởi vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc
sắc tản văn của Y Phương” để thực hiện luận văn của mình. Là một người con của
đồng bào dân tộc thiểu số vùng cực Bắc, chúng tôi đã tìm thấy bóng dáng quê
hương và con người dân tộc mình ít nhiều qua Tản văn của Y Phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
trong hai tập tản văn của Y Phương. “Kungfu người Co Xàu” – NXB. Hội Nhà văn,
4
2010, “Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm” – NXB. Phụ Nữ, 2009..
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát, phân tích, đánh giá hai tập tản văn của Y Phương là
“Tháng giêng – tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu”. Ngoài
ra chúng tôi còn mở rộng so sánh tản văn Y Phương với tản văn của những nhà văn
khác như tản văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Nguyễn Ngọc Tư...
Những công trình nghiên cứu về văn hóa Tày cũng được sử dụng làm tư liệu
nhằm góp phần làm nổi bật đối tượng nghiên cứu của luận văn.
4. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá những đặc sắc ở một số phương
diện nội dung và nghệ thuật của Tản văn Y Phương chúng tôi chỉ ra những mạch
nguồn cảm hứng và bản sắc văn hóa Tày đậm nét trong từng trang viết của Y
Phương, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo cùng đóng góp của Y Phương cho văn
xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng, và cho nền văn học Việt Nam
hiện đại nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thống kê, phân tích, đánh giá lí thuyết về tản văn nói chung, từ đó “soi
chiếu” vào tản văn của Y Phương. Từ cơ sở lý thuyết ấy, chúng tôi khảo sát, đánh
giá một số phương diện đặc sắc nhất như cảm hứng nghệ thuật, kết cấu, nhân vật
người trần thuật, ngôn ngữ, bức tranh thiên nhiên xã hội và hình ảnh con người
miền núi... trong tản văn Y Phương, qua đó khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị
nghệ thuật đặc săc của mảng sáng tác độc đáo này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học...).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê – phân loại.
5
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính toàn diện về tản văn của
Y Phương. Thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá một số nét đặc sắc ở cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật của tản văn Y Phương, chúng tôi không chỉ
khẳng định tài năng, tâm huyết và cá tính sáng tạo của nhà văn mà còn từ đó khẳng
định thành tựu của văn học thiểu số Việt Nam hiện đại. Chúng tôi muốn góp phần
làm sáng tỏ hơn những đặc trưng thể loại của tản văn trong đời sống thể loại văn
học Việt Nam đương đại.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần thư mục tại liệu tham khảo, luận văn
có cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về tản văn và những mạch nguồn cảm hứng trong tản văn
của Y Phương.
Chương 2: Đặc sắc nội dung tản văn của Y Phương.
6
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật tản văn của Y Phương.
Chương 1
VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN
CẢM HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG
1.1. Vài nét về tản văn
1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại
1.1.1.1. Khái niệm tản văn.
Ở Việt Nam cách gọi tản văn đến nay còn chưa được thống nhất về mặt nội
hàm của khái niệm. Còn nhiều ý kiến khác nhau khi định danh về thể loại văn học
này. Khái niệm tản văn ở Trung Quốc được dùng với ba cấp độ: tản văn theo nghĩa
là văn xuôi; tản văn theo nghĩa là những thể loại ngoài truyện, thơ và kịch; tản văn
là một thể loại văn học.
Đầu thế kỉ XX, trong quan niệm của nhiều người, tản văn vẫn được hiểu theo
nghĩa là văn xuôi, “là lối văn không đối nhau và không có vần” [8,118]. Hầu như tất
cả các thể loại văn xuôi đều có chung cách gọi là tản văn để phân biệt với văn vần,
theo cách hiểu này trong tản văn bao gồm cả Tựa, Truyện, Ký, Bi, Luận (theo cách
chia của Bùi Kỷ); luận thuyết, văn sách, sử ký, tiểu thuyết, biện thuyết, kịch bản,
giáo khoa, thơ từ (theo cách chia của Nguyễn Ứng). Hiện nay cách hiểu này không
còn thông dụng nữa [8].
Ở một số Từ điển, ngoài cách hiểu là “văn xuôi” thì tản văn còn được hiểu là
các loại văn gồm các thể ký và các thể văn khác ngoài truyện, thơ và kịch [8]
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tản văn được dùng để chỉ một thể loại văn
học xác định. Trong các cuốn Từ điển Thuật ngữ Văn học, Năm bài giảng thể loại
tản văn được dùng như một thuật ngữ chỉ tên thể loại văn học.
Xét thực tiễn sáng tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại, qua những tác phẩm
được gọi tên là tản văn của những cây bút có tên tuổi như Tản Đà, Nguyễn Tuân,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Mai Văn Tạo, Nguyễn Khắc
Phê, Hoàng Minh Thắng, Thảo Hảo... Chúng ta thấy khái niệm tản văn không chỉ
được hiểu là văn xuôi như trước mà đã được dùng để chỉ những sáng tác văn xuôi
7
ngắn, bộc bạch trực tiếp cảm xúc, tỉnh cảm, tư tưởng của người viết, trực tiếp bày tỏ
chính kiến, bàn luận về vấn đề xã hội nhân sinh, có cốt truyện rõ ràng hoặc cốt
truyện “mờ”... nhưng xoay quanh tên gọi tản văn vẫn còn có những ý kiến khác
nhau chưa phải đã thống nhất. Bởi vậy, chúng tôi cố gắng đưa ra cách hiểu của
mình về thể loại tản văn như sau: tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn,
hàm xúc có hoặc không có cốt truyện. Tản văn biểu hiện rõ nét “cái tôi” tác giả bởi
mỗi tản văn sẽ vẽ lên một chân dung tâm hồn tự họa của người viết. Kết cấu của tản
văn phóng khoáng, không có tính quy phạm chặt chẽ bởi được xây dựng theo dòng
cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ với những liên tưởng bất ngờ, hồi ức gần và xa cùng sự
luận giải các vấn đề nhân sinh - xã hội đậm tính chủ quan của người cầm bút. Với
một nội dung như thế tản văn có phương thức biểu hiện tự do, giọng điệu đa thanh
và ngôn ngữ đa sắc thái, kết hợp linh hoạt các bút pháp nghệ thuật khác nhau (tự sự,
trữ tình, huyền ảo...), dung nạp cả chất thơ và chất văn xuôi. Có thể nói tản văn là
một thể loại văn học nằm ở giữa truyện ngắn và ký văn học. Bởi vậy, chúng tôi
chọn khái niệm về tản văn trong Từ điển Thuật ngữ Văn học để từ đó có cơ sở triển
khai đề tài của mình: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình,
tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của
tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp,
nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân.
Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã
hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác
giả.”[49,293]
1.1.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của tản văn
Thứ nhất Tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc
không có cốt truyện.
Tản văn là những tác phẩm văn xuôi thường có dung lượng không lớn, phổ
biến là những bài văn ngắn ngọn, hàm xúc, có thể là những tiểu phẩm được trình
bày dưới dạng một mẩu truyện nhỏ nhằm vẽ lại một vài nét chân dung của ai đó,
hoặc kể lại một vài kỷ niệm từng ám ảnh trong ký ức, hay trở về theo dòng hoài
niệm, hoặc miêu tả một ấn tượng sâu đậm nào đó dành cho một sự vật, sự kiện, con
8
người có thực trong cuộc đời...
Sự ngắn gọn của tản văn trước hết có được là do tản văn thường xây
dựng kết cấu xoay quanh một tín hiệu thẩm mĩ trung tâm nào đó (Ví dụ như
một hình ảnh, sự kiện, một tình huống, một nhân vật...), trong tản văn “Ăn cháo
Tiều” của Lý Lan, hình ảnh bát cháo trắng ăn với củ cải muối là một tập quán
quen thuộc của người Hoa gốc Triều Châu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung
tâm, mọi cảm xúc và suy tư của người viết đều được khêu gợi từ tín hiệu này,
để cuối cùng nỗi thương nhớ cố hương là tư tưởng nghệ thuật, là cảm hứng
chính của tản văn này. Trong tản văn “Chim Huyền Hạc” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, nhà văn đã chọn hình ảnh chim Huyền Hạc là tín hiệu thẩm mĩ trung
tâm - là biểu tượng cho nhân cách cao đẹp và khát vọng không thành của người
chí sĩ. [28]
Như vậy, cấu trúc của tản văn thường chọn “hạt nhân” là một tín hiệu thẩm
mĩ trung tâm - một biểu tượng, một hình ảnh có tính tượng trưng để rồi xoay quanh
nó mà “dệt” những trường liên tưởng, đan cài cảm xúc và suy tư. Chính lí do này
khiến tản văn có quy mô nhỏ gọn, không dàn trải và thường đạt được sự hàm xúc. Ở
đặc trưng này, tản văn có nét tương đồng với thơ.
Tản văn có thể có hoặc không có cốt truyện. Ví dụ như: trong tập
“Kungfu người Co Xàu” của Y Phương, tản văn “Tiếng ve cay đắng”, “Trảy
khu tư”, “Nhúng xuống thành phố” không có cốt truyện, nhưng tản văn “Bắt
khách” lại có cốt truyện tương đối rõ ràng, tuy nhiên cốt truyện trong tản văn
không có vai trò và ý nghĩa như cốt truyện trong truyện ngắn và tiểu thuyết. Nó
chỉ là cái cớ để người viết trực tiếp bộc bạch tâm trạng và suy nghĩ của mình về
một vấn đề nhân sinh nào đó. Trong tản văn, hình ảnh và chi tiết nghệ thuật
mới là yếu tố quan trọng nhất, là hạt nhân cơ bản nhất. Người đọc có thể quên
đi cốt truyện nhưng sẽ còn ám ảnh mãi với những hình ảnh, những chi tiết nghệ
thuật có giá trị như những “thi nhãn” trong thơ. Đọc tản văn “Uống rượu trong
lòng tháp Mỹ Sơn” của Thanh Thảo chúng ta bâng khuâng mãi với hình ảnh
một viên gạch Chăm [28]. Đọc tản văn “Tập hát Quan họ” của Nguyễn Phan
Hách, người đọc không thể không bâng khuâng với sự âm vang, lan tỏa từ một
9
câu hát “huê tình” xứ Kinh Bắc.[28]
Thứ hai Tản văn bộc lộ rõ nét “cái tôi” của tác giả.
Nếu như trong truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, “cái tôi” của tác giả luôn “giấu
mình” để cho câu chuyện tự nói lên tất cả, nếu như trong thơ “cái tôi” thường tự bộc
lộ rõ nét về mình nhưng chỉ là bộc lộ thế giới tâm trạng của anh ta (còn các yếu tố
về tiểu sử, nghề nghiệp, gia đình, tính cách... của anh ta luôn bị xóa mờ), thì tản văn
là thể loại duy nhất cho ta biết tỉ mỉ, chân xác về “cái tôi” tác giả của nó, ở cả
phương diện tâm hồn, tư tưởng, đến các chi tiết xác thực về đời tư của tác giả.
Nguyên tắc tự biểu hiện đã khiến tác giả của tản văn lấy ngay “cuộc sống của chính
mình theo cách hiêu rộng nhất của từ này, làm “chất liệu” để xây dựng tác phẩm.
Đặc điểm này khiến tản văn vừa gần gũi với ký văn học, vừa gần gũi với thơ, chẳng
hạn qua tản văn “Tờ hoa” của Nguyễn Tuân, chúng ta như nhìn thấy chính chân
dung tự họa của nhà văn ở cả hai phương diện đời sống tâm hồn và đời sống sinh
hoạt thường ngày của ông, hay trong tản văn “Tắc kè nhớ núi” của Y Phương, trước
hết người đọc hiểu biết rõ quá trình đi học của nhà văn cùng số bạn bè và thày cô có
thật của Y Phương, như nhà giáo làm thơ Nguyễn Đức DZụ rồi người bạn Nguyễn
Tuấn, nhà thơ Trần Hùng v v...
Thứ ba Tản văn viết về người thật, việc thật và sử dụng hư cấu có hạn chế
trong nhưng phạm vi và mức độ nhất định.
Do tản văn thường viết về nhưng kỉ niệm máu thịt, những ấn tượng sâu đậm
của chính tác giả trong dòng hoài niệm về một quá khứ đã qua của chính cuộc đời
mình: viết về quê hương, về người thân, về những nét đẹp văn hóa của dân tộc mà
bản thân thường chiêm nghiệm... Đặc biệt, tản văn miêu tả thế giới và con người
qua “đôi mắt”, “trái tim”, “trí tuệ” đậm tính chủ quan của chính người viết - người
viết trở thành nhân vật người trần thuật chiếm vị trí trung tâm trong tác phẩm, tham
gia trực tiếp vào câu chuyện. Đặc trưng này khiến tản văn rất gần gũi với tác phẩm
ký văn học ở nguyên tắc viết về người thật, việc thật, chẳng hạn như tản văn:
“Hương sắc ô môi” của Mai Văn Tạo đã khắc họa hình tượng trung tâm - cũng là tín
hiệu thẩm mĩ trung tâm là cây ô môi, một loài cây không có gì đặc biệt: “Quả dài
thậm thượt, sần sùi, gút mắc, cong cong, đen đúa, cứng đờ như thanh gỗ”[28], và
đây cũng không phải là loại cây có giá trị kinh tế khiến người ta phải lo chăm bón
10
nâng niu. Nhưng hoa ô môi lại là hình ảnh có thật, là vẻ đẹp riêng của vùng sông
nước An Giang khiến cho tác giả say mê, ám ảnh trước vẻ đẹp dân dã của loài hoa
nở vào dịp cuối xuân này: “Nở đỏ bờ kênh, gò đất, làm đẹp xóm làng, làm vui bờ
kênh vắng vẻ”[28]. So sánh vẻ đẹp của hoa ô môi với vẻ đẹp của hoa đào, người
con của sông nước An Giang ấy bộc bạch tâm tư tình cảm của mình với bao kỷ
niệm gắn bó cùng loài hoa thân thuộc của quê hương.
Trong tản văn “Sử thi buồn” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên tắc tôn
trọng “người thật, việc thật” trong tản văn không phải là “chụp ảnh” nguyên xi hiện
thực, mà là cái cớ để từ đó người viết mở rộng trường liên tưởng của mình về quá
khứ mờ xa, đào sâu nhằm phát hiện nhưng ý nghĩa văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính
trị từ những “người thật việc thật” ấy. Trong “Sử thi buồn”, hình ảnh sông Hương
trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung tâm, để từ đó, nhà văn mở rộng trường liên tưởng
tới sông Hoàng Hà trong thơ Lý Bạch, đến những người bạn văn chương của nhà
thơ từng xao xuyến với sông Hương như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán, để cuối
cùng nhà văn mở rộng suy tư khi liên tưởng dòng sông Hương với dòng sông lịch
sử - dòng sông văn hóa đã chảy qua kinh thành Huế mà phù sa trầm tích lại là bao
tác phẩm văn chương nghệ thuật đã ra đời trên mảnh đất đế đô này: “Có một chiều
sương sa, sông Hương mịt mù như cả con sông Ngân Hà đang xuống trần và trôi
qua trước mắt tôi. Chợt hiện ra một vệt lửa lung linh tiến dần về phía tôi (...) tôi giật
mình kêu lên con thuyền Phan Bội Châu...”[54]
Nếu như truyện ngắn, tiểu thuyết sử dụng hư cấu tự do thì cả tản văn và ký
văn học, dù vẫn tôn trọng nguyên tắc tái hiện “người thật việc thật”, nhưng vẫn sử
dụng hư cấu có hạn chế trong những phạm vi và ở những mức độ nhất định. Hư cấu
có hạn chế được sử dụng trong tản văn ở một số phương diện sau đây:
Sự thật trong đời sống như một tảng đá hoa cương xù xì thô nhám, người viết
tản văn như một nghệ sĩ điêu khắc phải biến tảng đá xù xì kia thành một pho tượng
tuyệt mĩ. Cũng chỉ là đá hoa cương kia thôi, nhưng người viết tản văn đã phải “đục
đẽo” loại bỏ những gì thừa thãi, không cần thiết, sửa sang, gọt rũa, để biến khối đã
thành pho tượng. Công việc ấy đã là hư cấu nghệ thuật rồi. Trong tản văn “Ở Đà Tẻ
tôi có một que tăm”, Y Phương kể chuyện về một người cháu gái gọi nhà văn là cậu
ruột tên là Hoàng Thị Đăm nhà văn không kể lại toàn bộ số phận của người cháu gái
11
này mà chỉ nhấn mạnh đến quãng đời xa xứ của người cháu gái và niềm vui gặp gỡ
đến trào nước mắt: “Cháu tôi như một cây phong lá đỏ, ở gần nhà ông bà. Cây
phong hớn hở chạy như lao ra, ôm chầm lấy tôi. Nó thì cười hết cỡ, còn tôi thì khóc.
Khóc mà không thành tiếng. Khóc thầm trong ruột” [13]
Hư cấu có hạn chế trong tản văn còn được sử dụng để tái hiện lại những bức
tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội đã một đi không trở lại cùng thời gian. Nhà
văn chỉ có thể làm sống lại những hình ảnh chỉ còn trong kí ức bằng hư cấu. Đây là
“Tết quê” hiện về trong hồi ức của Trọng Bảo và cũng nhờ bức tranh vẽ bằng hoài
niệm ấy, thế hệ trẻ hôm nay mới biết tết quê ngày xưa có những gì mà làm bao
người đọc lại nhói lòng đến vậy: “Ngày tết năm xưa có bao nhiêu trò chơi như bịt
mắt đập niêu, đi xe đạp đốt pháo, kéo co, đánh vật, chơi cờ tướng... Tiếng trống
mùa xuân hội làng nghe náo nức. Bây giờ về quê...”[55]
Hư cấu có hạn chế trong tản văn được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả
nhất so với kí văn học. Ở đây, “người thật việc thật” được chọn làm “tâm điểm” để
từ đó mở ra bao nhiêu vòng sóng “đồng tâm” - Những dòng sóng liên tưởng, tưởng
tượng có sự hòa nhuyễn của cả cảm xúc và suy tư, để từ hiện tại trở về quá khứ
nghìn năm trước hay mơ tới tương lai trăm năm sau. Từ một bát phở Việt mà
Nguyễn Tuân suy ngẫm và tôn vinh giá trị của văn hóa ẩm thực Việt.[28]. Từ một
bát cháo ăn liền đựng trong một chiếc cốc giấy, tác giả Lưu Dung trong tản văn
“Bát cháo của cha” cũng trở về với quá khứ 57 năm trước, sử dụng hư cấu để tái
hiện chân dung người cha cùng bát cháo nghèo. [28]
Trong tản văn, hư cấu có hạn chế còn được sử dụng khi đặt sự vật, sự việc
và con người vào những trường liên tưởng có tính “lạ hóa”, nhằm tạo ra những vẻ
đẹp mới, giá trị mới cho những đối tượng không mới, để sự vật, sự việc quen
thuộc ấy vẫn là nó mà không chỉ là nó, độc đáo hấp dẫn và mới mẻ lạ thường.
Chúng ta hãy nghe Y Phương miêu tả nước mắt của người chị xa quê trong tản
văn “Chị em”: “Không thấy bóng dáng người anh chị em ruột thịt. Không biết
nói tiếng Tày cùng ai. Vậy nên nước mắt tan chảy dưới làn da mặt. Nước mắt
không sao thoát nổi ra ngoài. Nước mắt ngấm qua từng chân tóc. Làm cho chúng
khô ròn như nướng”[13]. Hoặc là hư cấu được sử dụng trong tản văn “Rơm” của
Tạ Duy Anh: nhân vật trần thuật xưng “tôi” nhớ lại một đêm nằm trong ổ rơm
12
mà nghe tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước: “Tôi cuộn tròn trong ổ rơm nghe tiếng
thì thầm từ kiếp trước: Rơm hy vọng cho tương lai” [ 55]. Tiếng nói của rơm thật
kỳ diệu, có được nhờ hư cấu nghệ thuật (bởi nếu chỉ tả người thật, việc thật thì
làm sao nghe được tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước đã gợi liên tưởng đến những
câu thơ có suy tư gần gũi với ý tưởng của Tạ Duy Anh:
“Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng hơi ấm nồng nàn như lửa
Từ những cọng rơm xơ xác gầy gò
Cái vị ngọt nên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”
(Nguyễn Duy - Hơi ấm ổ rơm)
Đặc biệt hư cấu có hạn chế được người viết tản văn sử dụng để tái hiện tâm
trạng vốn mơ hồ của nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong tản văn “Sử thi
buồn”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng hư cấu có hạn chế để tái hiện chân dung
và tâm trạng bà Trần Thị Nữ - người chèo đò cho cụ Phan Bội Châu suốt 15 năm ở
Huế: “Hơn 40 năm sau ngày cụ Phan qua đời, tôi được gặp bà Trần Thị Nữ, người
chèo đò cho cụ Phan suốt 15 năm ở Huế. Được biết trong bấy nhiêu năm, bà đã như
quên hết chuyện đời, chỉ giữ lại một tấm lòng cô trung với nhà yêu nước vĩ đại. Bà
kể lại với mọi người đến thăm vô vàn những kỷ niệm về cụ Phan, và nhiều đêm như
người mộng du bà quanh quẩn giữa cây lá trong vườn, ngâm vang “Hải ngoại huyết
thư” trong tiếng đại bác dội vào thành phố”.[54]
Thứ tư Tản văn sử dụng phương thức nghệ thuật tự do linh hoạt - đa bút pháp.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, trong tản văn, chúng ta bắt gặp chất thơ
cùng sự cô đọng hàm xúc, những hình ảnh mang tình biểu tượng rất giống với đặc
trưng của tác phẩm trữ tình, sự dồn nén dung lượng hiện thực tối đa vào phạm vi
câu chữ ngắn ngọn, cùng ý tứ, cốt truyện của truyện ngắn, viết về “người thật, việc
thật” và nguyên tắc tự biểu hiện của cái “tôi” tác giả giống như tác phẩm ký văn
học...Với thế mạnh này, tản văn là thể loại có thể dung hòa mọi phương thức nghệ
thuật như tự sự, trữ tình, ký, nghị luận chính trị xã hội. Và tương ứng với phương
thức nghệ thuật tự do linh hoạt này là sự đa dạng của các bút pháp nghệ thuật. Đây
13
là một nhận định có tính khái quát chung cho thể loại tản văn. Còn ở mỗi tản văn
riêng lẻ thường chỉ sử dụng một bút pháp nghệ thuật, tô đậm một sắc thái thẩm mĩ
mà thôi. Chẳng hạn như một số tản văn của Phùng Tất Đắc, nghèo chất thơ nhưng
lại giàu chất văn xuôi, gắn với sự xù xì, thô nhám của đời thường đa tạp. Ông dùng
bút pháp của thể văn nghị luận chính trị, xã hội để mổ xẻ, phân tích, lí giải về những
“ung nhọt” của xã hội Việt Nam trước 1945. Trong tản văn “Lời người bán cám”,
nhà văn tái hiện một cảnh tượng bi thảm xuất hiện ở một chợ thuộc tỉnh Nam:
“Nhân khi ngồi trong một hàng bán cám ở tỉnh Nam, tôi thấy mấy người nhà quê
đang cúi lom khom trên mấy nong cám, lấy tay vốc một chút bỏ vào mồm, nếm ra
vẻ ngon lành lắm”. Thì ra đó là những người đói ăn giả vờ đi mua cám, lấy cớ nếm
cám để kiếm chút thức ăn cho qua cơn đói khát. Từ việc nếm cám kể trên, nhà văn
bàn luận tới số phận khốn khổ của người dân quê Việt Nam trong giai đoạn lịch sử
đầy máu và nước mắt này: “Thời buổi văn mình vật chất mà có người cơ cực về vật
chất còn hơn loài cầm thú”[28]. Để rồi sau khi phân tích, luận giải về thảm cảnh
trên, nhà văn kín đáo mỉa mai các chính sách hà khắc của thực dân phong kiên đã
đẩy đồng bào ta đến bước đường cùng.
Ngược lại với bút pháp hiện thực, cùng những yếu tố của thể văn nghị
luận chính trị xã hội xuất hiện trong tản văn của Phùng Tất Đắc, chúng ta gặp
chất thơ và bút pháp trữ tình trong tản văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
“Sương mù là một nét phong vận riêng của sông Hương, xuất hiện khoảng cuối
xuân đến đầu hạ vào tinh mơ, cuối chiều và những đêm trăng lạnh; cũng nhiều
khi ghé lại bất ngờ như một gã lãng du. Nhiều tháng dài thành phố hư ảo trong
sương, dòng sông mịt mù trôi trong cơn mê dại, chỉ còn ánh lửa thuyền chài lay
động ý thức giữa cõi thực và cõi mộng”[54]
Còn đây là bút pháp tả thực với giọng điệu bông đùa, suồng sã rất gần gũi
với thể ký “bám sát” người thật việc thật: “Truyện tranh vào Việt Nam từ năm
1992, cuốn Doremon của nhà xuất bản Kim Đồng. Chú Nguyễn Thắng Vu một lần
tình cờ đi công tác ở Nhật, bất ngờ “chộp” được một bộ Doremon, thế là chú đem
về Việt Nam in rồi bán thật thà hơn đếm. Mà chú ấy là giám đốc nhà xuất bản Kim
Đồng mới gớm, cũng may chú Thắng ngây thơ như thế, thì mình mới có Doremon
mà đọc, chứ chú mà đàm phán bản quyền thì chắc giá bản quyền sẽ làm chú ngất
14
lên ngất xuống, mà mình sẽ chắng có đếch truyện gì mà đọc” [56]
Nếu như hàng loạt tản văn của Băng Sơn đều giàu chất thơ và sử dụng bút pháp
trữ tình như “Quả thu”, “Hoa xuân”, “Chim thành phố”... thì tản văn của Nguyễn Ngọc
Tư lại gần gũi với truyện ngắn và ký: “Sư tử không ăn cỏ” có sự “pha trộn” trong bút
pháp vừa tự sự vừa trữ tình, vừa có chút trào phúng: “Ờ, bản chất siêu nhân là đánh
nhau, không thì năm anh em đó thành lập ban nhạc chớ làm siêu nhân chi? Mà kẻ xấu
lộng hành vậy siêu nhân không đánh thì ai đánh???”[55]. Như vậy, dù thể loại tản văn
ở nước ngoài và ở Việt Nam vẫn còn những định nghĩa khác nhau, và điều đó là tất yếu
bởi thực tiến sáng tác của tản văn thì phong phú sinh động và đang biến đổi không
ngừng trong sự giao thoa - tiếp biến với các thể loại văn học khác, mà lý thuyết được
sử dụng để định danh tản văn thì ít nhiều vẫn có sự hạn hẹp, tính quy phạm, cùng sự
“chậm chạp” của nó. Tuy nhiên, qua khảo sát hàng loạt tản văn xuất hiện ở Việt Nam
từ đầu thế kỷ XX đến nay, qua một loạt tên tuổi tiêu biểu đã “vang bóng một thời” như
Tản Đà, Nguyễn Tuân, Phùng Tất Đắc, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, đến những cây bút
viết tản văn tiêu biểu gần đây như Băng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc
Tư, Y Phương... Chúng tôi mạnh dạn đưa ra cách hiểu còn hạn hẹp của mình về khái
niệm tản văn và khắc họa một số đặc trưng cơ bản của thể loại văn học có cấu trúc thể
loại chưa hoàn kết này. Chúng ta sẽ bắt gặp một số đặc trưng của truyện ngắn, ký, thơ,
văn nghị luận trong tản văn. Bởi vậy mà có sự “chung sống hòa bình” của rất nhiều
phương thức nghệ thuật khác nhau, bút pháp nghệ thuật khác nhau trong thể loại văn
học tưởng chừng rất nhỏ bé và khiêm tốn này.
1.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Y Phương.
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước. Ông sinh 24/12/1948 tại
Trùng Khánh - Cao Bằng hiện đang sinh sống tại Hà Nội. Ông nhập ngũ năm 1968,
sau đó ông học trường Điện Ảnh Việt Nam khóa 1976 - 1979 rồi chuyển ngành
(1981). Y Phương theo học trường viết văn Nguyễn Du khóa 1983 - 1985. Ông từng
đảm nhiệm chức Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cao Bằng, là chủ tịch
hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, từng là ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam
khóa 6, và hiện đang công tác tại Hội nhà văn Việt Nam.
Y Phương bắt đầu làm thơ và có sáng tác đăng báo từ khi còn là một chiến sĩ bộ
15
đội đặc công. Ông đến với thơ, và gắn bó với thơ như một duyên nghiệp và lẽ sống.
Ông là một nhà thơ xuất sắc với sự nghiệp văn chương đáng khâm phục, là
tác giả của sáu tập thơ và hai tập tản văn, và đã đạt nhiều giải thưởng về văn học
nghệ thuật.
Các tác phẩm tiêu biểu:
Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986)
Lời chúc (thơ, 1987)
Đàn then (thơ, 1996)
Thơ Y Phương (thơ, 2000)
Thất tàng lồm (Ngược sóng, thơ song ngữ Tày - Việt, 2006)
Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm (Tản văn), 2009
Kungfu người Co Xàu (chân dung và tản văn 2010)
Giải thưởng:
Giải A Hội nhà văn Việt Nam, 1987 (Tiếng hát tháng giêng - thơ)
Giải A Hội nhà văn Việt Nam, 1992 (Lời chúc - thơ)
Giải B (không có giải A) Bộ quốc phòng, 2000 (Chín tháng - Trường ca)
Giải Nhất cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1984 (Chùm thơ:
Phòng tuyến Khau Liêu, Tên Làng, Nói với con)
Và nhiều giải thưởng khác của Tuần báo Văn nghệ.
Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật (3 tập thơ Tiếng hát tháng
giêng, Chín tháng, Lời chúc)
Hồn thơ Y Phương là sự kết tinh từ khả năng nghệ thuật thiên phú, từ một
quá trình lao động nghệ thuật gian khổ và đã trở thành lẽ sống, từ vốn văn hóa sâu
rộng được khởi nguồn từ nền văn hóa Tày đặc sắc. Và sâu thẳm hơn cả là một tình
yêu lớn dành cho quê hương đất nước của Y Phương.
* Vài nét về thơ của Y Phương
Y Phương là một gương mặt xuất sắc của nền thơ Tày hiện đại, bên cạnh
Dương Thuấn, Mai Liễu. Thơ ông đã có một vị trí danh dự trên thi đàn Việt
Nam đương đại. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, luận văn tìm
hiểu về thơ của Y Phương. Chúng tôi muốn khái lược một số nhận xét về thơ Y
16
Phương của một số nhà nghiên cứu - phê bình văn học, nhà thơ, nhà văn nổi
tiếng, để từ đó có thêm hiểu biết toàn diện về cá tính sáng tạo độc đáo của Y
Phương - một “chìa khóa” quan trọng để “mở cánh cửa” ngôi nhà nghệ thuật
gồm cả thơ và tản văn của nhà thơ này.
Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã ví tập thơ “Tiếng hát tháng Giêng” của Y
Phương như “đóa hoa đầu mùa” hứa hẹn một mùa hoa rực rỡ sẽ xuất hiện sau đó:
“câu thơ anh tự do phóng khoáng như một bản nhạc của núi rừng (...) Y Phương là
nhà thơ, một nhà thơ miền núi mới mẻ, thơ anh vừa dân tộc, nhưng có cái gì hiện
đại, hôm nay và mai sau” [12,246]. Sau nhận xét này của Tế Hanh, nhà thơ Phạm
Hổ cũng dành cho “Tiếng hát tháng Giêng” của Y Phương những tình cảm yêu
mến, trân trọng: “đọc thơ hay tôi thường bàng hoàng và sửng sốt (...) tôi đã trân
trọng và yêu quý thơ anh ngay từ đầu” [12,248].
Nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn lại chỉ ra những triết lý nhân sinh
không “đại ngôn” mà trầm lắng, ẩn kín vì được chắt lọc từ “những vị đời anh từng
nếm trải trên những bước đường ấy” [12,259]. Chu Văn Sơn còn phát hiện ra “chất
suy tư” và giọng điệu trữ tình chủ đạo trong thơ của Y Phương: “cái điềm tĩnh của
suy tư, không phải lối sôi nổi giãi bày cảm xúc, kể lể lại sự kiện cho đã, cho thỏa
mãn cái tôi, tất cả đã lắng vào suy tư, suy tư lắng vào những câu gọn, chắc ngỡ chỉ
thuần duy lí, ngỡ khước từ tất cả những vần nhạc thông thường” [15,268]. Đặc biệt,
Chu Văn Sơn nhấn mạnh sự kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố truyền thống và hiện đại
trong thơ của Y Phương: “Yếu tố hiện đại đã tìm thấy một cơ chế kết hợp hợp lí nào
đó với yếu tố truyền thống, điều khiến cơ chế ấy không thể là gì khác hơn lòng thiết
tha với quê hương xứ sở, dân tộc” [12,269].
Tập thơ “ Lời chúc”của Y Phương là tiếng hát mới của Y Phương, vẫn giọng
điệu ấy nhưng ngân xa và trầm sâu hơn: “không bằng lòng với cách diễn đạt cũ, cố
gắng tìm cách nhìn, cách nói mới với những chuyện vốn là muôn thuở, có được
những bài, những câu như vậy trong tình hình thơ hiện nay thật quý” [12,201]. Nhà
thơ Trúc Thông lại phát hiện một năng lực văn hóa hiếm có của Y Phương: không
chỉ tái hiện bản sắc văn hóa Tày của mình mà còn tiếp tục khám phá về văn hóa dân
tộc mình: “Y Phương căng thẳng xuyên sâu vào những tầng vỉa vô hình của đời
17
sống dân tộc anh (...) Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng chất
dân tộc. Qua tất cả những cảnh, hướng sinh hoạt vật chất và tinh thần hiện thực,
những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng không sao nói hết và sự thật
cuộc đời...Y Phương tiếp tục phát hiện về dân tộc mình” [12, 273].
Tập thơ “Đàn then” của Y Phương ra đời và tiếp tục nhận được sự yêu quý
trân trọng của độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình văn học: “bằng bút pháp điêu
luyện, ngôn ngữ chọn lọc, giữ được sự tinh tế của tình cảm pha lẫn cái dung dị mộc
mạc đầy chất núi rừng” [12,287]
Nhà văn Tạ Duy Anh lại có cách ví von độc đáo để đánh giá về thơ Y
Phương: “như rượu ngon, thơ ông càng để lâu càng ngấm thời gian, có điều
kiện để thanh lọc những tạp chất, trở nên tinh khiết; ông biết nhấn xuống cái ồn
ào của bề mặt cuộc sống tìm đến cái tinh chất thơ ngọt ngào chắt ra từ tâm hồn
Y Phương, đúng hơn là nó tự trào ra khỏi tâm hồn ông, lại được nấu từ thứ men
đắng của cuộc đời ông” [12,291].
Đánh giá trường ca “Chín tháng” của Y Phương, nhà thơ Đỗ Trung Lai viết: “Y
phương là một giọng điệu riêng trộn lẫn hài hòa lối nghĩ, lối nói của dân tộc anh với
khả năng biểu cảm của tiếng Việt không bị rơi vào cảnh “xếp hàng một phía sau” trong
việc viết trường ca như nhiều người làm trường ca khác”[12, 302]. PGS.TS Trần Thị
Việt Trung đã đánh giá thơ Y Phương một cách toàn diện trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật, đặc biệt khẳng định sự kết hợp cả tinh thần dân tộc và tinh thần
hiện đại trong thơ ông: “Có thể khẳng định Y Phương đã vươn tới sự hài hòa giữa tính
dân tộc và tính hiện đại trong sáng tác của mình” [37,217]. Có thể nói nhận định này
không chỉ đúng với thơ mà còn đúng với tản văn của Y Phương.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã chỉ ra cái “thần” của thơ Y Phương – cũng là
mặt mạnh nhất, đặc sắc nhất của thơ ông: “bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất
mà còn he hé lộ thiên, lặng lẽ mà bùng nổ, nhẩn nha như chính cuộc đời ông, con
người ông. Gặp thoáng qua bằng tay xã giao, đọc thoáng qua bằng cặp mắt xa lạ sẽ
thấy anh này thơ nhàn nhạt, lạnh lẽo, tửng tưng, cứ nhấp nha nhấp nhổm những núi
cùng non. Nhưng nếu dùng tấm lòng để gặp, để đọc Y Phương và thơ anh sẽ không
còn thấy nhàn nhạt, lành lạnh nữa mà lại âm ấm, mằn mặn, mặn mòi như thể những
18
câu thơ của ông như thể cũng biết ứa nước mắt vậy” [12, 302].
Những câu thơ “biết ứa nước mắt” là cách nói hình ảnh của Trần Mạnh Hảo
nhằm khẳng định nét đặc sắc nhất của thơ Y Phương: tình yêu thương thành thực và
mãnh liệt dành cho con người, cho quê hương, đất nước và dân tộc mình. Nếu thiếu
đi tình yêu thương thành thực và mãnh liệt ấy, mọi kĩ xảo ngôn từ là vô nghĩa.
Có thể nói những nhận định về thơ của Y Phương đã gợi ý rất nhiều cho
chúng tôi khi tìm hiểu tản văn của Y Phương. Có thể ví phong cách nghệ thuật Y
Phương là một gốc cây vững chãi, đầy sức sống đã sinh ra hai nhánh cây mạnh
khỏe là thơ và tản văn của ông. Tuy mang đặc trưng thể loại khác nhau nhưng giọt
máu nào chảy ra từ một trái tim chẳng đỏ thắm?! Những gì ông không nói hết được
bằng thơ thì gửi vào tản văn (và ngược lại).
1.2. Tản văn của Y Phương
Với hai tập tản văn “Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm” (2009);
“Kungfu người Co Xàu” (2010), Y Phương đã in một dấu ấn mới, thành công mới
trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Chúng tôi thấy có những “mạch nguồn” cảm hứng sau đây trong Tản văn của
Y Phương.
1.21. Bản sắc văn hóa Tày - miền thương nhớ sâu thẳm nhất trong Tản văn của
Y Phương.
Có thể nói, cảm hứng nghệ thuật đóng vai trò trọng tâm trong Tản văn là cảm
hứng hoài niệm, là nỗi nhớ về những cảnh, những người, những sự kiện đã qua -
những đối tượng thẩm mĩ có khả năng lay động và ám ảnh mạnh mẽ trong hồi ức
của người viết. Rồi từ nỗi thương nhớ tưởng chừng rất riêng tư ấy, khi nó đạt tới
tính điển hình, người đọc sẽ ít nhiều tìm thấy bóng dáng tâm hồn và cuộc đời mình
trong đó. Và đó mới là những tản văn hay, đủ sức neo đậu lâu dài trong trái tim độc
giả. Tác giả có thể trực tiếp hoặc gián tiếp khái quát những triết lí nhân sinh, những
bài học đạo lí cho con người, hoặc chiêm nghiệm về một hiện tượng xã hội nào đó
rồi rút ra kinh nghiệm để người đọc cùng chia xẻ, tâm đắc. Tản văn của Y Phương
đã đạt được hiệu quả nghệ thuật ấy. Cảm hứng hoài niệm trong Tản văn của Y
Phương được khơi nguồn từ nhiều đối tượng thẩm mĩ. Nhưng đối tượng thẩm mĩ
19
trung tâm nhất là bản sắc văn hóa Tày. Nói bản sắc văn hóa Tày chứ không phải là
truyền thống văn hóa Tày là bởi vì trong dòng văn hóa Tày mênh mông ấy, nhà văn
chỉ chọn lựa những nét văn hóa đặc sắc nhất đã kết tinh thành bản sắc, đã trở thành
đối tượng thẩm mĩ để mình thương nhớ không nguôi. Trong bản sắc văn hóa ấy, tản
văn của Y Phương là những tiếng gọi thầm tha thiết, vọng về quá khứ, tìm về một
số phương diện văn hóa sau đây.
Thứ nhất: văn hóa ẩm thực của người Tày.
Văn hóa ẩm thực của người Tày được tái hiện trong nhiều tản văn. Trong tản
văn “Tết về làng người trời”, Y Phương tự hào giới thiệu về một đặc sản trong
nhiều văn hóa ẩm thực của quê hương Cao Bằng - vùng đất mà theo tác giả: “Tôi
thấy người Cao Bằng sành ăn vào loại nhất nhì nước Nam mình. Bởi nơi đây, từng
tiếp thu hai luồng văn hóa ẩm thực lớn. Đó là nguồn văn hóa của người Hán và
người Việt. Cộng với bản địa làm nên một vùng văn hóa lưỡng, tam hợp tiếp biến
độc đáo” [13, 86]. Để chứng minh cho nhận định ấy, nhà văn đã giới thiệu về “Giò
Mục Mã” với bao vui sướng tự hào: các công đoạn làm giò, cách thức ăn giò của
người sành ăn... và thú vị nhất là cái ngon của giò Mục Mã - một sản phẩm văn hóa
ẩm thực của quê hương: “Bóc giò ra ta thấy có màu trắng pha màu hồng nhạt. Mặt
ngoài rỗ như tăm châm. Giò có mùi thơm, vị ngọt. Cắn ngập cả hai hàm răng nghe
tiếng rốp chen tiếp rập. Nước miếng tứa ra kẹp chặt lấy cùi giò” [13,86]. Bên cạnh
đó, bằng thủ pháp so sánh liên tưởng độc đáo, nhà văn thương nhớ về rượu và hơi
rượu nồng nàn của vùng đất biên thùy này: “Hơi rượu trong sương lan nhanh ra hai
mép sông. Nước sông len lén trôi chỉ sợ mùi rượu thức (...) Hạt rượu lăn tới đâu, ta
yêu người xưa người xa tới đấy” [13,88]. Hình như đấy không chỉ là rượu nữa mà là
một phần “hồn vía” của vùng quê này.
Đặc biệt tản văn “Rau tập tàng quê ngoại” kể về chuyện ẩm thực mà không
phải để nói về ẩm thực. Bát canh rau tập tàng trong bữa ăn nghèo của một tuổi thơ
xa lắc lại mang một vẻ đẹp kì diệu, vẻ đẹp của tình yêu thương cha mẹ dành cho
con khiến bát canh rau Tập Tàng lung linh huyền ảo:“ Bát canh xanh như một bể
nước con. Bể nước lúc nào cũng nghi ngút bốc khói. Khói bò lan ra miệng bát, rồi
vòng vèo trèo lên mâm cơm. Từ mâm cơm khói trèo lên đầu người (...) Nhờ có
hương thơm rau tập tàng bay ra lan tỏa, làm cho mâm cơm nhà tôi đẹp một cách lạ
20
lùng. Cha mẹ nhìn nhau qua làn khói trắng đục, mỏng như sữa và mỏng tang...”
[13,141]. Người đọc nghĩ nhà văn sẽ từ bát canh rau tập tàng ấy mà ôn nghèo kể
khổ, mà ngợi ca tình yêu thương của cha mẹ dành cho con, sẽ biến bữa cơm nghèo
thành bữa cơm tình nghĩa. Nhưng không! Cấu tứ của tác phẩm đột ngột chuyển
hướng bởi một liên tưởng bất ngờ: ăn nhiều rau thì người thiện, ăn nhiều thịt thì
người dễ ác hơn: “Nhờ ăn cơm ăn rau nên trí tuệ con người thông mình sáng láng,
tính tình người nhu mì hiền lành. Còn loài thú chỉ biết ăn thịt. Nên chúng ngu ngốc,
dốt nát và cực kì hung ác (...) hễ ai cả đời nghiện thịt, đôi khi họ cũng nổi khùng
lên, tính ác gần như loài thú” [13,142 - 143].
Thứ hai: Nỗi thương nhớ những phong tập tập quán đặc sắc của người Tày
như cưới hỏi, văn hóa chợ, lễ tết, ma chay...
Y Phương thương nhớ về những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình
đang mai một dần trước “cơn bão” của văn minh đô thị, mặt trái của cơ chế thị
trường. Tản văn “Áo tân thời bước vào cửa vóng” được cấu tứ từ tâm trạng vừa hoài
niệm về cái đang phôi pha, vừa bứt rứt về cái mới hình như không hề ăn nhập với
tâm hồn Tày - văn hóa Tày truyền thống - nó như cái áo tân thời của người Kinh
đang bước qua cửa ngôi nhà sàn cổ kính của người Tày. Để từ sự trớ trêu ấy, nhà
văn như bay ngược thời gian, tìm về với lễ cưới hỏi truyền thống của người Tày:
“Vẫn còn đâu đó cảnh gồng gánh chăn hồng thêu thổ cẩm. Vẫn còn đâu đó cảnh cho
nồi nhôm vào tủ, chậu đồng dùng cho vào dậu. Vẫn còn đâu đó cảnh khiêng vác
hòm xiểng bằng gỗ thông Bảo Lạc. Cả đám quá cưới cồng kềnh xanh xanh đỏ đỏ
theo cô dâu về nhà chồng (...) bóng dáng mẹ ta, chị ta, em gái ta trong sắc áo chàm
ở các lễ hội và cưới xin” [13,122-123]. Và còn rất nhiều phong tục tập quán của
người Tày đã được tác giả tái hiện với bao thương nhớ và có phần ngậm ngùi tiếc
nuối: Tết Anh cả, Thanh minh trong tiết tháng ba, Còn một cái tết vía trâu, Khai
pác Kin gò, Tết về làng người trời, Bản nhạc mùa thu... Tất cả những phong tục tập
quán ấy như “Phù sa” ngọt lành bồi đắp cho tâm hồn tác giả.
Thứ ba: Văn hóa tâm linh của người Tày.
Trong hàng loạt tản văn của Y Phương, văn hóa tâm linh của người Tày đã
trở thành “Điểm tựa giá trị”, thành cội nguồn cho cảm hứng sáng tạo. Đó là các tản
21
văn “Ánh sáng đêm giao thừa”, “Nháo nhào ma xay thóc”, “Về làng Đá”...
Trong tản văn “Người bé nhỏ, hồn nó lớn”, Y Phương tái hiện quan niệm về
“Hồn” mà người Tày gọi là “Khoăn”, về mẹ Hoa và bàn thờ mẹ Hoa trong các gia
đình người Tày, quan niệm “ Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá” không chỉ của
người Tày mà của cả cư dân ở châu Á (“Về làng Đá”). Đặc biệt, trong tản văn
“Nháo nhào ma xay thóc”, Y Phương miêu tả thật sinh động quan niệm về một loại
“ma” chỉ có trong văn hóa tâm linh của người Tày: “Ma xay thóc là linh hồn của
những đứa trẻ chẳng may mà chết. Chúng nó đùa nghịch hơn thuở còn trên dương
thế. Trời đất quay cuồng trong tiếng hét hú. Trong guồng chân chạy. trong vòng tay
cấu véo. Làm ma nên chúng chẳng coi ai ra gì” [13,81].
Thứ tư: Tiếng Tày và dân ca Tày.
Ít có nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam nào viết về tiếng nói của dân tộc
mình một cách ngưỡng mộ và thương mến như Y Phương. Tiếng Tày không chỉ
còn là ngôn ngữ - một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà là máu, nước
mắt, sự sống của nhà văn: “Khi tới bến xe Mỹ Đình, xuống xe, bà cụ nháo nhào
tìm gặp tôi (...) cụ nói với tôi bằng tiếng Tày Quảng Nguyên rành rọt. Tôi nghe
thân thiết như mẹ đẻ, như chị gái. Tiếng mẹ mình xuất hiện ở một nơi xa lạ, tự
nhiên tôi nổi hết da gà” [13,39]
Với tản văn “Vẫn còn một nơi sạch sẽ”, tiếng Tày được ví với tiếng quê
hương ngọt lành đang tha thiết gọi những đứa con xa trở về: “Chú Bình (...) vồn vã
chào hỏi tôi bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi nghe xúc động buốt nhói tận buồng tim lá gan.
Vì đã khá lâu, anh em tôi mới được hàn huyên chuyện trò bằng tiếng Tày (...). Nghe
như có tiếng róc rách con suối dòng thác ven rừng. Như tiếng đồng cỏ dưới chân núi
Hoa (...) Ôi! Thân thương da diết dâng lên mùi hương đồng quê ta” [13,182]
Chính tiếng Tày ấy là chất liệu để hình thành dân ca Tày - con thuyền mộc
mạc mà tinh tế, chở tâm hồn Tày từ quá khứ, qua hiện tại và đến tương lai. Tản văn
“Bản nhạc mùa thu” đã làm sống lại phong tục hát đối đáp bằng các điệu hát Lượn:
“Hôm nay đi chợ trời tối rồi
Khắp làng hỏi trọ mãi không thôi
Chủ nhà thương tình mới cho trọ
22
Giờ này chủ bản hỏi gì tôi
Cuộc hát bén lên. Họ cò cưa từ đầu hôm tới sáng” [13,107]. Chính dân ca
Tày nói riêng, văn học dân gian Tày nói chung đã trở thành chất liệu văn hóa cho
sáng tác của nhà văn, là “dòng sông” ân tình để tâm hồn nhà văn đi về, “ngụp lặn”
trong đó mà nhận lại cho mình bao tinh túy ngọt lành.
Thứ năm: Văn hóa võ thuật và truyền thống anh hùng của người Tày.
Tản văn “Kungfu người Co Xàu” là tản văn đặc sắc nhất. Nó lôi cuốn người
đọc trước hết bởi cái lạ: - người Tày có Kungfu?
Sau chút hoài nghi và bỡ ngỡ, chúng ta say mê cùng tác giả trở về với văn
hóa võ thuật và truyền thống anh hùng của người Tày ở Co Xàu. Đó là những thế võ
– những vũ khí độc đáo chưa gặp ở bất cứ dân tộc nào: chiếc khăn mặt nhúng nước
hoặc nhúng nước vôi, ớt bột thì sẽ trở thành một vũ khí đặc biệt: “Chiếc khăn cuộn
chặt lấy vòng cổ, vòng tay, làm đối phương đánh rơi dao kiếm” [13,72]. Đó còn là
“Miếng công lực bí truyền” đánh địch bằng khí công. Nhưng kì lạ nhất là người Co
Xàu huấn luyện trâu, bò, dê, ngựa hợp sức tấn công kẻ cướp, huấn luyện Hổ và thu
phục chúng bằng thuốc phiện để chúng giết giặc. Tiếp nối truyền thống cha ông
đánh đuổi kẻ cướp, giặc Cờ Đen, Cờ Vàng, người Co Xàu trong chống Pháp cũng
đã lập một sự tích anh hùng: năm 1947, ông Hứa Văn Khả đã làm ra khẩu đại bác
hoàn toàn bằng gỗ nghiến, đặt tên là Sàng Là: “Khẩu súng Sàng Là nện xuống đầu
giặc Pháp khi chúng đang hành quân qua đèo” [13,76]
1.2.2. Những kỉ niệm thân thương với người thân, bạn bè gắn bó cùng quê
hương miền núi.
Có rất nhiều tản văn của Y Phương được khơi nguồn cảm hứng từ những kỉ
niệm máu thịt này: Thư gửi bạn chăn trâu, Chị em, Ở Đà Tẻ tôi có một que tăm,
Tắc Kè nhớ núi, Lớp vỡ lòng...
Kỉ niệm với những người thân đã cách biệt cùng tác giả đã trở thành đối
tượng thẩm mĩ để gợi thương gợi nhớ. Điều đặc biệt để những người thân ấy trở
thành nhân vật văn học trong Tản văn của Y Phương là họ đều gắn bó máu thịt với
văn hóa Tày, trở thành một “sắc màu” đẹp đẽ trong bức tranh văn hóa Tày đa sắc
thái. Nhân vật người chị trong “Chị em” là một nhân vật như thế: “Quê hương tươi
23
rói hiện lên nét mặt người kể. Chiều đến góc nào cũng thấy người chị tôi rơn rớn
xanh. Một màu xanh cỏ cây, sông suối, núi non hiền hòa. Một màu xanh non tươi
tận tụy. Một màu xanh chịu đựng và gắng gỏi. Quê hương phập phồng lên hơi thở.
Thở càng sâu quê hương càng xa” [13,15]. Người chị ấy đã hóa thành quê hương,
thành biểu tượng cho vẻ đẹp tinh thần “hiền hòa”, “chịu đựng và gắng gỏi” của
người phụ nữ Tày. Chỉ kể một câu chuyện nhỏ về người chị của mình, tác giả cho
người đọc thấy cả vẻ đẹp văn hóa của quê hương và vẻ đẹp ở cả ngoại hình cũng
như trong tâm hồn người phụ nữ dân tộc mình. Tài năng và tâm huyết của nhà văn
được thể hiện qua từng chi tiết, con người tưởng chừng rất nhỏ bé ấy. Thì ra một tác
phẩm văn học hay không phụ thuộc vào dung lượng của nó lớn hay nhỏ, vài trang
hay vài nghìn trang, kể về điều vĩ đại hay điều bình thường. Tản văn đặt cạnh tiểu
thuyết thì chỉ như một “giọt nước” đặt cạnh “đại dương”. Nhưng qua “giọt nước” ấy
ta sẽ thấy cả “bầu trời”!
Viết về bạn bè thân thiết, Y Phương cũng đã có những trang việt thật xúc
động. “Thư gửi bạn chăn trâu” làm sống lại một thời thơ ấu thơ trong trẻo và lung
linh. Những kỉ niệm nghịch ngợm tuổi học trò, thủa chăn trâu đốt lửa nướng khoai
trên đồng, được tái hiện gắn với những nét đặc trưng riêng của miền núi, được đặc
tả bằng bút pháp vừa tự sự vừa trữ tình, tạo ra một “hương vị” riêng chỉ có trong tản
văn Y Phương: “Mùi khoai nướng đánh thức các cơ quan khứu giác, vị giác, đồng
loạt lổm ngổm đòi ăn. Trời ơi! Nhai cái thứ này ngọt từ kẽ răng ngọt xuống đến gót
chân. Thơm từ vải áo chàm đến chiếc móng tay (...) Hai dái tai rung rinh sáng như
hai nụ điện. Ngon qua. Ngon đến mức cắt hai màng tai rơi ra mà không biết đau”
[13,12]. Còn biết bao chân dung bạn bè, đặc biệt là bạn văn chương của nhà văn
được tái hiện qua cái nhìn nghệ thuật vừa đằm thắm nghĩa tình, vừa có phần tinh
nghịch, hài hước: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Pờ Sảo Mìn, Trần Đăng Khoa,
Cao Duy Sơn, Hoàng Quảng Uyên, Trần Hùng... Đọc những tản văn ấy, chúng ta
không chỉ thấy các đối tượng trần thuật mà còn gặp nhân vật người trần thuật vừa
nhân ái, tình nghĩa, vừa hóm hỉnh và có phần tinh quái: “Úi trời! Cái chỗ ý rắn
đanh, nhọn hoắt như một con ốc núi. Con ốc núi vừa ăn no phè lè. Nó chình ình ra
cả ba chiều bốn mặt. Con ốc núi bèn nghiêng bên này, lắc bên kia (...). Giời ạ. Thế
24
có phí của tôi không? Cho em xin tí thần đồng đi...Khoa” [13,235].
1.2.3. Những trải nghiệm trong cuộc đời của Y Phương.
Y Phương từng là một anh giải phóng quân vào miền Nam chiến đấu, làm
nghề tự do, chủ tịch Hội Văn nghệ Cao Bằng, nhà thơ, nhà văn... Những trải
nghiệm có cả ngọt ngào và đắng cay đã trở thành “Nguồn sống” để từ đó dòng
sông cảm hứng chảy say đắm theo hai nhánh: thơ và tản văn. Trong tản văn, Y
Phương nhớ về đồng đội và những gian khổ hi sinh ở chiến trường (“Trảy Khu
Tư”), nhớ về những ngày tháng bao cấp đói khổ, làm đậu phụ và nấu rượu bán
(“Tiếng ve cay đắng”), rồi nỗi xót xa ngậm ngùi khi chứng kiến mặt trái của cơ
chế thị trường như cơn lũ cuốn phăng bao điều tốt đẹp trong truyền thống văn
hóa của quê hương (“Bắt khách”, “Bơm kim tiêm rải trắng nương ngô”, “Áo tân
thời bước vào cửa Vóng”, “ Giỏ nhà ai”...)
Trong những trải nghiệm của một cuộc đời nhiều va đập, giàu vốn sống có
một “mảng” đời sống được nhà văn dành nhiều tâm huyết nhất, nó đã trở thành “Cái
nôi” để “ru” nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn: đó là nỗi cô đơn, có phần bơ vơ
lạc lõng của một con người miền núi tha hương đang từng giờ, từng ngày vọng cố
hương. Hàng loạt tản văn của Y Phương đã ra đời từ “ngọn nguồn” này: Nhúng
xuống thành phố; Tiếng ve cay đắng; Núi non chất ngất; Những người đàn bà hút
Sục Dín; Vẫn còn một nơi sạch sẽ...vv..
Ngay trong phong trào thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945, chúng ta đã bắt gặp
nỗi nhớ “Nhà quê” của Nguyễn Bính:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê”
(Nguyễn Bính)
Gần đây, Đồng Đức Bốn dù đã “Ra tỉnh” khá nhiều mà vẫn không thôi
thương nhớ cảnh quê, người quê, tình quê:
“Chăn trâu cắt cỏ trên đồng
Rạ rơm thì ít gió dông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai cháy để cả chiều thành tro”
25
(Đồng Đức Bốn)
Và còn có rất nhiều truyện ngắn, ký văn học viết về nỗi thương nhớ đồng quê
của những đứa con nông dân đã trở thành người của đô thị phồn hoa.
Cũng nỗi nhớ thương ấy, nhưng trong tản văn của Y Phương, chúng ta gặp
một cường độ mãnh liệt hơn của cảm xúc, tình cảm, một khát vọng trở về cháy
bóng và thành thực hơn: “Hà Nội đây thực sự là một rừng buồn (...). Bốn chục năm
tôi nhưng cá xa sông, như ong xa rừng. Nhớ về quê, lòng tôi như ngày mưa ám
khói. Đang từ một nơi vắng vẻ, tôi đến chốn thị thành nhộn nhịp. Từ vách đá treo
leo, tôi đến ở những tòa nhà đông đúc. Bạn biết không, tôi như que thử. Nhúng
xuống thành phố mà tôi vẫn cứ xanh một màu rừng” [13,32]. Có nhiều người con
của nông thôn lên thành phố đã đổi thay, hoặc cố đổi thay để thích nghi với đời
sống đô thị. Họ vẫn ít nhiều thương nhớ bờ tre mái rạ, giếng nước, gốc đa, nhưng
hỏi họ có trở về nơi ấy? Không thể! Vì nơi ấy không có nước máy và điều hòa nhiệt
độ. Điều ấy cũng không xấu! Nhưng Y Phương không thể thay đổi để thích nghi,
bởi sau cái “vỏ” con người thị thành là vẹn nguyên một tâm hồn miền núi mãi mãi
“Xanh một màu rừng”. Bởi vậy, nhà văn mới có thể diễn tả nỗi cô đơn, lạc lõng của
mình nơi thành phố qua một chi tiết nghệ thuật đắt giá: những củ khoai lang từ Cao
Bằng xuống Hà Nội đang ngơ ngác, thui thủi trên nền đá hoa: “Những củ khoai lạ
lẫm, ngơ ngác. Củ nào cũng im thin thít không dám thở (...). Tôi biết chúng đang
nhớ đất, nhớ làng” [13,13]
* *
*
Như vậy, các cảm hứng nghệ thuật trong tản văn của Y Phương có sự “cắm
rễ” sâu xa vào các “mạch nguồn” cơ bản như đã trình bày ở trên: bản sắc văn hóa
Tày là miền thương nhớ sâu thẳm nhất, những nét đẹp văn hóa ấy được biểu hiện
qua các phương diện văn hóa ẩm thực, văn hóa tâm linh, các phong tục tập quán tốt
đẹp như cưới hỏi, lễ hội, lễ tết, văn hóa chợ của người Tày vừa có nét riêng vừa
mang đặc điểm chung của văn hóa vùng cao, tiếng nói và dân ca Tày với các điệu
hát Sli, hát Lượn , nhưng đẹp đẽ nhất là tâm hồn Tày với sự nhân hậu, tình nghĩa
26
thủy chung, sóng đôi với sự dũng cảm, mưu trí, anh hùng.
Sau “mạch nguồn” bản sắc văn hóa Tày là những kỉ niệm thân thương với
người thân và bạn bè. Những kỉ niệm ấy vừa “lạ” vừa “quen”. “Lạ” vì gắn với bản
sắc văn hóa Tày độc đáo. “Quen” vì người đọc ở dân tộc nào cũng sẽ tìm thấy bóng
dáng cuộc đời và tâm hồn mình trong đó, để từ đấy muốn sống nhân nghĩa, thủy
chung và dũng cảm hơn.
Những trải nghiệm cá nhân trong cuộc đời của Y Phương cũng đã trở thành
“cội nguồn” của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Để từ đó nhà văn lí giải một số hiện
tượng xã hội, hoặc đúc rút những triết lí nhân sinh vừa đậm tính chủ quan vừa mang
tính phổ quát cho mọi người.
Trong chương 1, sau khi giới thiệu về thể loại tản văn, một thể loại có
cấu trúc thể loại chưa hoàn kết, có sự giao thoa - tiếp biến về đặc trưng thể
loại với nhiều thể loại văn học khác như: thơ, kí văn học, truyện siêu ngắn,
văn nghị luận..., chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm về tản văn và phân tích
một số đặc trung cơ bản của tản văn theo cách hiểu còn nhiều hạn hẹp của
mình. Phần giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác gồm thơ và tản văn của Y
Phương là tiền đề để chúng tôi đi sâu tìm hiểu những “mạch nguồn” cảm
hứng trong tản văn của Y Phương - Những “mạch nguồn” này sẽ “chảy” thành
những “dòng sông” cảm hứng nghệ thuật, một nội dung quan trọng mà chúng
tôi sẽ đi sâu phân tích, đánh giá ở chương 2. Những đặc trưng cơ bản của tản
văn được trình ở chương 1 cũng sẽ là cơ sở lí thuyết để chúng tôi thực hiện
vấn đề nghiên cứu ở chương 3: - Những đặc sắc ở phương diện nghệ thuật
27
trong tản văn của Y Phương.
Chương 2
ĐẶC SẮC NỘI DUNG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG
2.1. Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người miền núi trong cái nhìn
hoài niệm.
Truyện ngắn và tiểu thuyết, do sự quy định của đặc trưng thể loại, có thể mặc
định “cái được kể là cái đang xảy ra”, để đặt đối tượng phản ánh vào thời hiện tại
còn dang dở bề bộn, chưa hoàn kết. Ngược lại với nguyên tắc nghệ thuật này, đối
tượng phản ánh của tản văn bao giờ cũng ở thời quá khứ, từ đó cái nhìn hoài niệm
xuất hiện. Mà trong dòng chảy hồi ức, tản văn dù bám sát người thật việc thật bao
giờ cũng chỉ chọn lọc, tái hiện những gì là máu thịt, từng ghi dấu ấn sâu đậm vào
trái tim nhà văn. Bút pháp “chấm phá” trở thành một đặc trưng của tản văn là bởi
nguyên nhân sâu xa kể trên. Cũng vì thế, hình ảnh thiên nhiên và con người miền
núi xuất hiện trong tản văn của Y Phương cũng được miêu tả bằng bút pháp nghệ
thuật ấy và đây là một trong những đối tượng thẩm mĩ trung tâm mà Y Phương
phản ánh trong tản văn của mình.
2.1.1. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa dữ dội trong tản văn của Y Phương.
Quê hương Cao Bằng của Y Phương là một vùng biên ải - nơi “đầu sóng
ngọn gió” trong các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược trải dài suốt hàng
ngàn năm. Nhưng khi tái hiện vùng đất quê hương ấy, tản văn của Y Phương đã
đặt đối tượng thẩm mĩ này vào trong phạm vi thế sự - đời tư, rất ít khi nhà văn
miêu tả nó trong phạm vi lịch sử - dân tộc. Với cái nhìn nghệ thuật bình dị ấy,
bức tranh thiên nhiên vùng cao ấy xuất hiện với hai sắc thái thẩm mĩ trái ngược
nhau, nhưng bổ sung cho nhau, để cuối cùng mang đến cho chúng ta một vẻ
đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn.
2.1.1.1. Bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng và đượm buồn
Thiên nhiên gắn bó máu thịt với con người miền núi. Không thể miêu tả con
người miền núi tách khỏi thiên nhiên vì đấy là “ngôi nhà” chung, là sự sống của họ.
Trong tản văn của Y Phương, khi dòng hoài niệm đưa nhà văn trở về quê hương,
28
mọi kỉ niệm được tái hiện bao giờ cũng gắn bó với thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên
miền núi ấy bao giờ cũng là bức tranh “tâm cảnh”, cũng thấm đẫm mọi vui buồn
của nhà văn. Nếu chỉ có vậy thì thiên nhiên trong tản văn của Y Phương sẽ chẳng
khác gì thiên nhiên trong sáng tác của bao nhà văn khác? Đọc tản văn của Tạ Duy
Anh, Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cũng bắt gặp điều ấy. Điều khác biệt lớn nhất là:
thiên nhiên trong tản văn của Y Phương in đậm cá tính sáng tạo độc đáo của nhà
văn. Chỉ có Y Phương mới “nhìn” và “tả” thiên nhiên sống động, cựa quậy, có “linh
hồn” như thế. Một dấu ấn phong cách cá nhân “đóng dấu” vào bức tranh thiên nhiên
này. Ngay cả với truyện ngắn và tiểu thuyết của Cao Duy Sơn - nhà văn cùng quê
và là bạn thân của Y Phương, thiên nhiên vùng đất Co Xàu nói riêng, Cao Bằng nói
chung cũng hiện lên với sắc thái và dáng vẻ hoàn toàn khác. Chỉ có những tài năng
đích thực mới làm được điều đó.
Một điều độc đáo nữa: bức tranh thiên nhiên trong tản văn của Y Phương,
thường không tìm đến những cảnh tượng kì vĩ và dữ dội. Chúng ta chỉ gặp những
“tiểu cảnh” với một vài chi tiết vừa tạo hình, vừa biểu cảm tột cùng và thường
phảng phất buồn.
Rộng lớn nhất là hình ảnh quê hương trở về trong thương nhớ, xuất hiện
hàng loạt động từ và tính từ để diễn tả sự sống xôn xao trong vẻ đẹp thanh bình: “
Quê hương Cao Bằng, Bắc Kạn hiện lên bằng người thật. Nghe như có tiếng róc
rách con suối dòng thác ven rừng. Như tiếng đồng cỏ dưới chân núi Hoa. Nơi có
những bày chim sáo đen, chim ri nâu, chim sẻ xám đang ríu rít vui đùa nhảy nhót.
Lại nghe như tiếng út ò, tiếng nghé ọ của đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ. Ôi!
Thân thương da diết dâng lên mùi hương đồng quê ta” [13.182]
Còn đây là cảnh mùa đông hiu hắt vùng sơn cước lúc chiều tàn: “ Đó là một
buổi chiều nằng nặng muà đông. Sương rơi lộp độp ngoài mái gianh. Ánh sáng
hoàng hôn đang nhợt nhạt tím. Hình ảnh núi non, cây rừng, nhà cửa, con người
chìm vào bóng tôi. Vài ngọn lửa le lói lọt qua khe cửa. Còn gió thì nhiều vô kể. Gió
thổi nghiêng lắc cả núi. Bạt cả rừng cây. Há cả miệng hang trong lòng núi” [13,173]
Ngoài hai “tiểu cảnh” kể trên, hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong cái nhìn
khái quát, có một quy mô rộng lớn, chỉ xuất hiện một lần nữa trong tản văn “Về quê
29
nghe người nói”, nhưng hình ảnh quê hương được so sánh với người già, càng ngày
càng nhỏ bé đi và đáng buồn hơn: “Quê hương tôi bây giờ đã khác xưa. Khác từng
ngày. Lần nào về cũng thấy nó khác trước. Khác từ con đường đến con người. Khác
từ cây lúa cây ngô đến con tôm con tép. Con suối, ngọn núi, chân rừng cũng khác
xưa. Có vẻ như chúng héo mòn, nhỏ bé đi cùng năm tháng. Chúng giống như người.
Càng về già thì người nhỏ bé lại”.[13,153]
Ngoài ba hình ảnh có quy mô rộng lớn hơn cả kể trên, chúng ta chỉ gặp trong
tản văn những chi tiết của thiên nhiên miền núi được miêu tả bằng bút pháp “chấm
phá” và nguyên tắc “thơ mộng hóa”. Đó là hình ảnh “Mương nước” và “Trăng”
[13,18], sông Hiến sông Bằng [13,57], gió [13,67], phố xá Cao Bằng [13,84], các
loài hoa [13,166]...Ấn tượng nhất là hình ảnh “Bùn” trong tản văn “Thư gửi bạn
chăn trâu”: “đã một thời từng tắm cả một cánh đồng bùn. Đấy mới là đại yến tiệc.
Bùn là quê hương, là gốc gác nông trang của loài người. Tuy rằng bùn bốc mùi ngai
ngái, nhưng trên mặt bùn, váng nổi đẹp như vân gỗ Cẩm Lai. Váng bùn tự do bơi đi
đi, tự do xoay lại, lại tự do leo đậu, tự do kết dính. Nên bùn có vẻ đẹp tự nhiên. Đẹp
như những đứa con hoang. Da chúng nâu. Tóc chúng đen. Cơ bắp chúng chắc khỏe
như dân cày” [13,11],
Không thể chỉ là người con của nông thôn mới viết được những câu văn như
thế, người con ấy phải yêu quê hương, yêu đồng bãi quê mình sâu nặng đến nhường
nào mới có thể đặc tả “Bùn” đẹp vẻ đẹp hoang dại, tự do đến vậy, mới có thể nhìn
ra “chất thơ” trong một đối tượng vốn không thơ ngoài đời thực.
Cũng như thế, một mương nước ngoài đồng tắm ánh trăng vốn dĩ chẳng thơ
mộng hay tuyệt mĩ, nay vào tản văn của Y Phương, người đọc thấy mương nước
hóa thân thành một dòng thơ, còn ánh trăng thì ngọt ngào như mật: “Có con mương
chảy qua sau lưng nhà. Nó trườn đi như con trăn gió. Mương nước chảy êm đềm
như giọt sương trên lá non. Con mương nước óng ánh trăng bàng bạc. Trăng chảy
mượt mà như nhung như lụa. Nhưng khi nhúng ngón tay xuống làm trăng vỡ. Ta
đưa ngón tay lên mút. Trăng ngọt ngào trên lưỡi ta. Còn con mương kêu hù hù như
hát” [13,18]. Ví dụ này không chỉ góp phần làm sáng tỏ tình yêu quê hương và cá
tính sáng tạo độc đáo của Y Phương, nó còn là một minh chứng cho đặc trưng “Hư
30
cấu có hạn chế” của tản văn. Dù viết về người thật việc thật, nhưng nếu không sử
dụng hư cấu, Y Phương cũng sẽ không thể có được hình ảnh “Mương nước” và
“Trăng” độc đáo và ám ảnh đến như vậy.
2.1.1.2. Bức tranh thiên nhiên miền núi có sắc thái dữ dội.
Trong tản văn của Y Phương sắc thái thẩm mĩ thơ mộng được tô đậm hơn, sắc
thái dữ dội có “nhạt” màu hơn. Phải chăng với tư thế của một nhà thơ viết tản văn, Y
Phương dành tình cảm yêu mến nhiều hơn cho những đối tượng giàu chất thơ?!
Bức tranh thiên nhiên miền núi có sắc thái dữ dội xuất hiện trong một số ít
tản văn của Y Phương: “Ở Đà Tẻ tôi có một que tăm”, “Kungfu người Co Xàu”,
“Ánh sáng đêm giao thừa”, “Lãng đãng ơi, nghiêng nghiêng đi đâu đấy”...vv...
Đây là hình ảnh đèo cao, vực sâu và con đường chênh vênh đi qua mây và
cây, khiến nhiều người đi qua mà phải rùng mình, run rẩy: “Mây nằm nghỉ ở lưng
chừng đèo. Người và xe trôi đi trong miên man mây và cây. Tiếng nói rơi ra khỏi
miệng, nghe hẫng hụt như sắp sửa rơi xuống vực sâu. Nhiều hành khách nắm chặt
lấy thành ghế mà run” [13,54].
Còn đây là cảnh đất trời giao hoan kĩ vĩ trong khoảng khắc giao thừa kì
diệu: “Ông trời ôm chặt lấy bà đất. Bà đất ghì riết lấy lưng ông trời. Hơi thở hai
ông bà phả ra, làm mờ hết cả ba trăm sáu tư huyệt. Trừ huyệt thông thiên địa.
Đấy là huyệt cấm. Râu tóc ông Blời lòa xòa trộn lẫn với mái tóc xanh mượt của
bà đất” [13,136].
Cũng như ở bức tranh thiên nhiên thơ mộng và đượm buồn, ở sắc thái
thẩm mĩ này, Y Phương ít vẽ “đại cảnh” mà thường vẽ “tiểu cảnh”, ít miểu tả
cái toàn thể mà chỉ đi sâu vào cái bộ phận, chăm chút kí họa những chi tiết đắt
giá làm “cái đinh” treo “bức họa” tản văn của mình. Đây là hình ảnh “Gió mùa
đông bắc” - một “đặc sản” dù không thích, người Cao Bằng cũng phải đón
nhận đầu tiên, sau nữa mới đến các tỉnh khác ở miền Bắc: “Trời ơi!Cái gió mùa
Đông Bắc khi nó tràn tời. Gió thổi tới rạc cả đá núi, bạc cả nước sông, mốc
meo cả da người. Thổi mệt mỏi những đám lau lách. Thổi đến nỗi bãi bờ khô
xác. Hai chữ khô xác ôm đủ, lãnh trọn một hiện thực thiên nhiên nơi đây nghiệt
31
ngã đến chứng nào” [13,251]
Trong tản văn của Y Phương, bức tranh xã hội cũng được khắc họa khá
nhiều qua hình ảnh làng bản, nhà cửa, phố phường nhưng không thật đặc sắc, chưa
in đậm dấu ấn văn hóa Tày và cá tính sáng tạo của nhà văn. Bức tranh ấy cũng
phảng phất bức tranh xã hội ở vùng cao trong sáng tác của Cao Duy Sơn, Triệu Ân.
Nhưng tài năng và tấm lòng của nhà văn dành cho quê hương thể hiện rõ nhất ở bức
tranh thiên nhiên mang hai sắc thái thẩm mĩ đối lập nhau, bổ sung cho nhau để tạo
ra sự hài hòa cho khung cảnh núi đá, rừng cây, sông suối chốn biên thùy này. Phải
chăng hai sắc thái thẩm mĩ ấy cũng tượng trưng cho hai phẩm chất của người Tày
Cao Bằng nói riêng, của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao nói chung: vừa dịu
dàng trầm lắng vừa dữ dội quyết liệt; dù dữ dội đến đâu thì ở “đáy sâu” tâm hồn
vẫn là sự nhân hậu, giàu yêu thương?!
2.1.2. Hình ảnh con người miền núi trong tản văn của Y Phương.
Trong hai tập tản văn của Y Phương, chúng ta đã bắt gặp biết bao gương
mặt, bao số phận, bao tâm tư của con người miền núi và chính nhân vật người kể
chuyện xưng “tôi” cũng là một con người miền núi điển hình. Họ khác nhau rất
nhiều ở tính riêng - cá thể hóa sinh động. Nhưng họ có sự tương đồng ở tính chung -
khái quát hóa cao độ. Chính bởi sự tương đồng ấy, vận dụng cái nhìn loại hình học,
chúng tôi tạm phân chia theo tiêu chí phẩm chất xã hội một số loại hình con người
miền núi sau đây.
2.1.2.1. Những con người miền núi nhân hậu, giàu yêu thương, thủy chung, tình nghĩa.
Trong tản văn “Chị em”, tình nghĩa chị em không được bộc lộ ồn ào như
người miền xuôi mà lắng vào trong sự ít lời, nói bằng im lặng. Sau phút mững
rỡ hỏi thăm ngắn ngủi, những con người miền núi sống nội tâm nên để tình cảm
tha thiết của mình như mạch nước ngầm chảy trong lòng đá lạnh: “Ngoảnh lại
nhìn không thấy bóng dáng núi non, sông suối nơi quê hương. Không thấy bóng
dáng người anh em ruột thịt. Không biết nói tiếng Tày cùng ai. Vậy nên, nước
mắt chỉ lan chảy dưới làn da mặt. Nước mắt không sao thoát nổi ra ngoài. Nước
mắt ngấm qua từng chân tóc, qua từng lỗ chân lông. Làm cho chúng khô giòn
32
như nương” [13,17].
Trong tản văn, Y Phương đã nhiều lần viết về nước mắt. Nhưng thật lạ lùng,
đó chỉ là nước mắt của những lần khóc thầm, hoặc khóc không thành tiếng. Tình
cảm càng dồn nén càng đằm sâu, nước mắt của những con người sống hướng nội
hình như mặn hơn - như hạt muối kết tinh từ nước biển?
Bởi vậy, sau khi chia tay với người chị thân thương, nhà văn (qua nhân vật
người kể chuyện xưng “tôi”) đã độc thoại nội tâm rất dài, để rồi từ tình chị em mà
đúc kết về tình cảm của con người miền núi “Thế đấy. Cái tình người ở miền núi
sao nó thắm thiết, sâu sắc đến cỏ cây cũng hôi hổi ấm tính người” [13,19]
Trong tản văn “Bắt khách”, sau khi bàn vệ sự sáng tạo ngôn ngữ sinh
động của người Việt, nhà văn miêu tả hai cảnh “bắt khách” của lái xe và phụ xe
trên các chuyến xe khách xuất phát từ Cao Bằng về Hà Nội. Có xe “bắt khách”
thật tàn nhẫn bởi những kẻ nhiều tiền ít chữ. Nhưng xe đi từ Co Xàu thì “bắt
khách” thật văn hóa và tình nghĩa. Nơi ấy còn “sót” lại tình người vùng cao đẹp
đẽ, chưa bị tha hóa bởi đồng tiền: “Người dân quê tôi quen nếp sống chan hòa,
thân ái. Chả cứ quen biết thân sơ, hễ là người đang đứng trên đất Co Xàu, thì
không còn là khách lạ nữa. Họ tự nhiên cảm thông và chả bao giờ cáu gắt. Họ cứ
chân mộc mà xưng hô. Chân mộc mà tiếp đãi” [13,35]
Nếu trong tản văn “Chị em”, nhân vật “tôi” đã khóc thầm thì trong “Ở Đà Tẻ
tôi có một que tăm”, anh ta đã để nước mắt tuôn rơi trong in lặng, khi ôm đứa cháu
vào miền Nam kiếm sống: “Nó thì cười hết cỡ. Còn tôi khóc, khóc mà không thành
tiếng. Khóc thầm trong ruột. (...) Nước mắt không cầm được nữa, nó đã bục ra chảy
vòng quanh, rớt xuống ướt hai bờ vai áo cậu cháu” [13,35]
Không chỉ với người ruột thịt, người miền núi thủy chung tình nghĩa với bạn
bè xiết bao: “Cách đây chưa lâu, tôi viết” “Bạn cũ quý hơn thuốc”... Bạn đúng là
viên thuốc quý. Bạn chữa lành nỗi buồn xa xứ cho mình đấy Chính ạ” [13,15].
Y Phương còn khắc họa hàng loạt chân dung bạn bè là các văn nghệ sĩ với bao
trân trọng, thương mến: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Bế Thành Long, Cao Duy
Sơn...Qua chân dung hàng loạt nhà văn, nhà thơ là người con của miền núi, ta không
chỉ nhận ra bao yêu thương tình nghĩa, thủy chung mà họ dành cho Y Phương, cho
cuộc đời mà còn thấy chính tâm hồn nhà văn Y Phương là “tấm gương” phản chiếu vẻ
33
đẹp văn hóa của bạn bè – và tỏa sáng vẻ đẹp của chính Y Phương.
2.1.2.2. Những con người miền núi dũng cảm, thượng võ, giàu lòng tự trọng và
bất khuất.
Không chỉ một lần, Y Phương trực tiếp “tuyên ngôn” về tính cách bất khuất,
chính trực của con người miền núi: “Tôi thì cứ phải sống thẳng băng như đường
mực. Người làng dạy tôi như vậy. Bà nội dạy tôi như vậy. Mẹ dạy tôi như vậy. Nhất
định không bao giờ quỳ gối và nói lời cong để lấy lòng mọi người. Trên đầu chỉ có
một mặt trời duy nhất. Trên trán mình chỉ có hồn ông bà cha mẹ trú ngụ. Tôi chẳng
thờ ai ngoài những người ruột thịt” [13,29].
Hay là: “Không chịu được cái cảnh cúi rạp mình xuống để xin cho con: Trên
đầu người miền núi chỉ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mặt trời. Cúi mình trước người
khác vì cái này cái nọ cho riêng mình thì quyết không bao giờ” [13,14].
Tản văn “Kungfu người Co Xàu” miêu tả con người miền núi dũng cảm,
thượng võ, mưu trí, bất khuất trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Người
dân Co Xàu có kungfu của riêng mình với chiếc khăn mặt nhúng nước làm vũ khí,
có khí công khiến kẻ thì co rúm như bị điện giật, biết huấn luyện dê, bò, trâu, ngựa
và cả hổ dữ để đánh kẻ cướp. Đặc biệt, có ông Hứa Văn Khải đã sáng tạo ra khẩu
đại bác làm toàn bằng gỗ nghiến. Năm 1947, khẩu đại bác kì lạ ấy đã lập công khi
nã đạn xuống đầu giặc Pháp.
Truyền thống anh hùng của cha ông trong quá khứ đã được con em người
miền núi hôm nay tiếp nối xứng đáng, trong đó có Y Phương. Khi nhà văn còn là
anh giải phóng quân cầm súng và làm thơ, Y Phương đã tự hào khẳng định bản thân
mình và đồng đội đã trở thành biểu tượng cho một dân tộc Việt Nam vừa nghệ sĩ
vừa anh hùng: “Hình ảnh người lính trẻ đột mũ sắt, vai đeo túi thơ, trở thành biểu
tượng của cả dân tộc đi vào kháng chiến. Kháng chiến và làm thơ. Hai hình thái tuy
đầy mâu thuẫn, nhưng vô cùng hồn nhiên và thống nhất. Kháng chiến và thi ca.
Buộc nhân loại nhìn vào dân tộc mình, mà tỏ lòng kính phục và quý trọng” [13,45]
Y Phương vừa cầm súng vừa sáng tác và một trong những bài thơ đầu tiên
ông viết ở chiến trường mang cảm hứng anh hùng của cả thời đại chống Mĩ: cuộc
đời ông chính là minh chứng cho lời ông khẳng định kể trên về lẽ sống cao đẹp của
con người miền núi, một lẽ sống được bộc lộ bằng hành động cụ thể nhiều hơn là
34
bằng lời nói.
“Bây giờ tốc tác hạt mưa
Đồng đội dậy rào rào cuốn võng
Chỗ mặt trận lên ì ầm tiếng súng
Giặc bắn từ ban mai nhằm chúng cơn mơ”
(Y Phương - Cơn mưa ban mai)
Y Phương đã chọn cây nghiến làm biểu tượng cho con người miền núi kiên
cường bất khuất: “Nghiến là loài cây thân gỗ, cứng cáp và bền chắc hơn sắt thép
không bao giờ bị gỉ, mối mọt. Người dân quê tôi dùng nó làm nhà và các vật dụng
khác. Hàng trăm năm dùng không hề suy chuyển. Nghiến chỉ phù hợp với vùng núi
đá. Chúng mọc kham khổ từ tấm bé. Rễ cây cứ bám chắc vào núi đá. Nó hút mùn từ
xác lá mẹ. từ tầng tầng địa y. Nó uống sương ăn nắng từ trời. Nghiến sống đời hàng
ngàn năm tuổi” [13,195]
2.2.1.3. Những con người miền núi tài hoa, khẳng khái, trọng nghĩa khinh tài.
Tính cách con người hình thành từ những điều kiện nào? Có nhiều điều kiện
nhưng có lẽ quan trọng nhất là do môi trường văn hóa mà anh ta được thụ hưởng.
Tính cách, phẩm chất của con người miền núi cũng thế. Môi trường văn hóa của
vùng đất Cao Bằng được tạo ra từ vị trí địa lí, truyền thống văn hóa, đặc điểm về
lịch sử nhiều “dông bão” đã tạo ra những phẩm chất đặc biệt của con người sống
cheo leo nơi vách đá, đại ngàn. Y Phương từng diễn tả giản dị và chính xác về điều
này: “Hai phần đất một phần đá. Đá và đất tác động hình thành tính cách người.
Cương nhu là hai mặt đối lập, nhưng thống nhất. Chúng bổ sung và tương hỗ cho
nhau” [14,35].
Bởi vậy, người miền núi vừa hiền hòa nhân hậu vừa kiên cương bất khuất,
vừa tài hoa nghệ sĩ vừa rắn rỏi, trọng nghĩa khinh tài, sự im lặng nhã nhặn bề ngoài
và đời sống nội tâm dữ dội, sôi sục bên trong.
Ở phẩm chất loại hình thứ ba của con người miền núi này, chúng ta gặp gỡ
chúng trong hàng loạt tản văn: “Cây nghiến xanh trong lòng Hà Nội”, “Nhà thơ
Bàn Tài Đoàn: Tiếng cười ngỡ tiếng suối reo”, “Nhà thơ Pờ Sảo Mìn: chiếc lá ngọt
35
dần lên đỉnh”, “Nhà văn Hoàng Quảng Uyên: Cơm nhan”... vv..
Qua hàng loạt chân dung văn học (một tiểu loại của thể tản văn), Y Phương
đã “chấm phá” thành công hình ảnh con người miền núi tài hoa, có khí phách, trọng
nghĩa khinh tài, dấu “lõi nghiến” cứng cỏi thật sâu trong vẻ mềm mại, hồn nhiên.
Đó là nhà thơ Bàn Tài Đoàn - một “đỉnh núi” của thơ ca dân tộc Dao, thích
uống nước lã chảy ra từ đầu nguồn, ăn cơm với trám đen, sống giản dị khiêm
nhường, đón tiếp bạn bè bằng tiếng cười nồng hậu. Nhà thơ viết thơ tình cho các đôi
trai gái và đặc biệt không bao giờ lấy tiền: “Thỉnh thoảng lại thấy có đôi trai gái trẻ
măng người Dao Tiền rọt rẹt vào nhà. Khách bước đến mép bàn. Chủ nhà hỏi” Lấy
mấy bài? Khách bảo: Hai. Thấy đôi trai gái lục xục túi áo, bác Đoàn dủng dẳng:
Mai lủng xèn, không cần tiền” [13, 210]
Đó còn là nhà thơ Pờ Sảo Mìn – nhà thơ duy nhất của dân tộc Pa Dí (một dân
tộc chỉ có hai ngàn người). Đây là một nhà thơ rất giỏi võ nghệ: “Vắt áo chàm lên vai,
lão chờn vờn đi như nắng trên đường Hà Nội. Có lúc nhớ nhà quá, lão bèn vừa đi vừa
múa quyền. Hai tay lão liên tiếp ra đòn. Khiến những chiếc lá vàng rơi không sao tiếp
đất. Tay phải chém tay trái gạt (...) khiến cho đám lá vàng bị nát bươm” [13,213].
Chính Pờ Sảo Mìn từng tự họa chân dung mình trong thơ:
“Mẹ sinh ra tôi trên đỉnh đá tai mèo
Uống nước nguồn trong veo (...)
...Con trai người Pa Dí
Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng
Dáng ngang tàng vẻ quấy đạp trần gian”
Tản văn của Y Phương đã chỉ đúng cái “thần” của con người miền núi tài
hoa, trọng nghĩa khinh tài mà nặng tình nặng nghĩa với quê hương gian khó:
“Pờ lặng lẽ ngồi xuống, tay phải bật nắp bầu rượu, tay trái thành kính rót cho
đá một miếng, rót cho mình một miếng. Cứ như thế. Pờ và quê hương trò
chuyện hỏi han” [13, 218].
Cuộc rượu kì lạ ấy kéo dài “từ giờ thìn của ngày hôm trước kéo sang tận giờ
mùi của ngày hôm sau”, có biết bao thương nhớ, trân trọng trong những giọt rượu
rót mời đá núi quê hương ấy?! Nếu ai đó không biết yêu quê hương của mình thì
36
cũng sẽ không biết yêu bất cứ điều gì trên thế gian này. Pờ Sảo Mìn ngang tàng,
giỏi võ, thơ và hát rất hay, lúc nào cũng cười tưởng vô tư đến vô tâm. Nhưng
không, ẩn bên trong quả núi ngẩng cao đầu ngạo nghễ ấy là một nguồn nước yêu
thương tràn trề ngọt lành.
Chúng ta còn gặp những phẩm chất tương đồng như thế trong các bức chân
dung con người miền núi khác như Bế Thành Long, Cao Duy Sơn, Trần Hùng, Từ
Ngàn Phố... Tất cả hợp lại thành hình ảnh con người miền núi vừa anh hùng vừa
nghệ sĩ, vừa giàu yêu thương vừa quật cường trong im lặng thẳm sâu , như chính
quê hương Cao Bằng của Y Phương vậy.
2.2. Cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương.
Cảm hứng chủ đạo được Từ điển Thuật ngữ Văn học định nghĩa: “Trạng thái
tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc của người tiếp
nhận tác phẩm (...) biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình
yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [49,44,45]
Cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương cũng là một tình yêu đắm say,
lòng tự hào mãnh liệt dành cho quê hương và con người miền núi. Tình cảm, cảm xúc
ấy gắn bó với một tư tưởng xác định: Hãy bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc
mình, quê hương mình. Hãy làm tất cả để quê hương và con người miền núi không bị
biến đổi theo chiều hướng tiêu cực trước mặt trái của cơ chế thị trường!
Cảm hứng chủ đạo ấy trở thành “linh hồn” trong tản văn của Y Phương, chi
phối, quyết định diện mạo mọi cấp độ nội dung và hình thức của tác phẩm. Qua
khảo sát và đánh giá ,chúng tôi phân chia cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y
Phương thành một số kiểu loại sau đây.
2.2.1. Cảm hứng ngợi ca và khát vọng bảo tồn bản sắc văn hóa Tày trước “mặt
trái” của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa.
Bản sắc văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa Tày nói riêng là toàn bộ
các thuộc tính văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành, phát triển và “sàng
lọc” qua ngàn đời để trở thành phẩm chất văn học - “Hộ chiếu văn hóa” của
từng dân tộc để đối thoại với thế giới, là “chiếc neo” kì diệu neo giữ những
giá trị văn hóa tốt đẹp của từng cộng đồng dân tộc. Trong thời đại “Toàn cầu
37
hóa” với sự “xâm lăng văn hóa” của các nước phát triển với các nước đang
phát triển như Việt Nam, trong cơn lốc xoáy từ “mặt trái” của cơ chế thì
trường, văn hóa Tày nói riêng (và văn hóa Việt Nam nói chung) đang đứng
trước nguy cơ bị “bào mòn” và bị làm mai một dần những giá trị tốt đẹp.
Cũng như các nghệ sĩ chân chính khác, trong tản văn của mình, Y Phương đã
gióng lên “tiếng chuông báo động” khẩn thiết về tình trạng “xuống cấp” về
văn hóa trong thế hệ trẻ hôm nay.
Trong cảm hứng nghệ thuật này, chúng ta gặp hai tư tưởng nghệ thuật song
hành - hô ứng với nhau: ngợi ca những phẩm chất văn hóa tốt đẹp bao nhiêu thì phê
phán các hiện tượng “xuống cấp” về văn hóa bấy nhiêu, bởi đó là hai mặt của một
vấn đề, tương tự như câu thơ mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết: “Bởi chưng hay ghét
cũng là hay thương”.
2.2.1.1. Yêu quý, tự hào và ngợi ca những phẩm chất văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Tày nói riêng, của đồng bào miền núi nói chung.
Trong hai tập tản văn của Y Phương, chúng ta được gặp gỡ với rất nhiều
biểu hiện cụ thể của phẩm chất văn hóa ấy. Bằng cái nhìn yêu mến, trân trọng,
tự hào, Y Phương đã làm sống dậy, hiện hữu như bằng xương bằng thịt những
nét đẹp văn hóa ngàn đời của dân tộc mình: Tết Thanh minh linh thiêng mà gần
gũi, trang phục của người con gái Tày với màu chàm bền bỉ, tấm vải “Rằm
khấu” chú rể biếu mẹ vợ trong ngày cưới để tỏ lòng biết ơn, thành ngữ “Rễ
người dài” thật sâu sắc của người Tày, văn hóa ẩm thực độc đáo với bánh cuốn,
rượu ngô, rau tập tàng bánh Áp chao..., văn hóa tâm linh nhắc nhở cháu con
nhớ công ơn tổ tiên ông bà, văn hóa võ thuật, dân ca với các điệu Lượn làm say
đắm lòng người...Y Phương từng khái quát thật cô đọng về vẻ đẹp, sức mạnh
của văn hóa dân tộc truyền thống; và nỗi bất hạnh khủng khiếp khi mất đi
truyền thống văn hóa ấy: “Truyền thống văn hóa là cả một quá trình tiếp nối
nhiều thế hệ. Trải qua hàng trăm hàng ngàn năm mới hình thành, ổn định và
phát triển. Với văn hóa không thể đi tắt đón đầu. Kẻ nào coi thường, khinh rẻ
truyền thống văn hóa dân tộc, thì kẻ đó lãnh đủ nỗi bất hạnh (...) Nỗi bất hạnh
không rõ hình thù. Không có màu sắc. Không tỏa mùi vị. Nỗi bất hạnh sẽ xui
38
khiến con cái cháu chắt họ nhuốm đầy tội ác” [131, 148]
Trong cảm hứng ngợi ca và tự hào này, Y Phương sung sướng giới thiệu
về văn hóa ẩm thực đặc sắc của người Tày: “Các món ăn của người Cao Bằng
có nhiều loại, nhiều kiểu ăn. Nhưng không thể không nhắc đến vịt quay, phở
chua, bánh áp chao, xôi ngũ sắc, chân giò hầm hạt dẻ, thịt bò xào rau dạ hiến,
thịt ba chỉ nặm khau...”[14, 57]. Nếu chỉ miêu tả cái khéo của cách chế biến,
cái ngon của món ăn thì văn hóa ẩm thực ấy chưa thật đặc sắc, bởi dân tộc nào
chẳng có những món ăn ngon của mình? Đọc tùy bút của Nguyễn Tuân, kí của
Vũ Bằng, chúng ta từng gặp bao món ăn ngon và cách ăn ngon?! Nhưng tản
văn của Y Phương, khi miêu tả về văn hóa ẩm thực của Cao Bằng, còn đem đến
một điều thú vị khác: người bán hàng cẩn trọng, nâng niu và nồng hậu như
muốn trao gửi tình cảm của mình vào món ăn đang chế biến: “Lá bánh cuốn cất
tiếng thở khoan thai như người. Khi cánh tay cô chủ quán nhịp nhàng trải bánh
ra, đặt nhân thịt vào, người nghe thấy bột gạo kêu thóp thép. Cô chủ quán đặt
cái bánh nhẹ nhàng như cắm bông hoa vào lọ” [14,58]. Và người ăn đâu chỉ ăn
bánh mà còn là nhận tình nhận nghĩa, “ăn” cái tình cảm của những con người
phúc hậu nơi quê hương trao gửi cho mình.
Sau văn hóa ẩm thực, Y Phương cũng miêu tả thật tài hoa những lễ tết hội
hè, chợ búa của người Tày ở Cao Bằng. Điều kì diệu là trong tất cả những sinh hoạt
văn hóa cộng đồng ấy, tình người nhân ái dành cho thiên nhiên, cho đồng loại, cho
muôn loài luôn thắm thiết đậm đà. Đi chợ không phải để mua bán mà để ngắm
nhau, tìm nhau cho đỡ “Đói người”: “Đi chợ khắc có tiền. Vung tay khắc có bạn.
Họ đi chợ là để tiêu buổi tâm tình. Uống với nhau bát rượu gạo. Nhìn thấy mặt nhau
là đỡ khát” [14,9].
Trong rất nhiều cái tết của người Tày, có một cái tết đặc biệt tên là
“tết Vía trâu”, cái tết thể hiện lòng biết ơn của con người miền núi với con vật đã
vất vả để mang lại no ấm cho mình, nhân văn và ân tình xiết bao, con người đối xử
với con trâu còn thế, đối xử với đồng loại sẽ tốt đẹp hơn nhiều: “Tết vía trâu gợi cho
con người lòng biết ơn sâu sắc. Tất thảy những ai giúp đỡ mình qua cơn đói khát,
39
giúp làm tan nỗi buồn phiền, đều phải biết ơn” [14,67].
Có một phong tục đẹp đẽ mà nhiều dân tộc không có, một phong tục thể hiện
tầm văn hóa rất cao, sâu sắc và tinh tế, vừa nhân văn vừa mang ý nghĩa giáo dục to
lớn: trong ngày cưới, chú rể sẽ dâng tặng mẹ vợ một tấm vải “Rằm khấu”, sính lễ
nhỏ bé, không có giá trị kinh tế cao nhưng lại vô cùng quý giá bởi vì: “một tấm vải
mà ai xin dứt khoát không cho. Ai nài mua, dứt khoát không bán! Mọi người chỉ
được ngắm nhìn, bình phẩm, nghĩ ngợi liên tưởng thôi. Một tấm vải mà ta cầm vào,
như cầm trong tay một dòng sông. Dòng sông ân đức” [13, 125]. Tấm vải ấy do tự
tay người mẹ chú rể dệt, nhuộm để thể hiện, không chỉ sự tri ân với bà thông gia,
cũng không chỉ gửi gắm lòng biết ơn của chú rể với người mẹ thứ hai đã sinh thành,
nuôi dạy và trao cho mình một “Bông hoa rừng” xinh đẹp, nết na, tấm vải và hành
động trao tặng ấy còn tượng trưng cho một cuộc “Bàn giao thế hệ” giữa mẹ chồng
với nàng dâu. Để từ đấy nàng dâu sẽ tiếp bước mẹ chồng thực hiện sứ mệnh cao
quý và cũng là trách nhiệm nặng nề: làm vợ, làm mẹ. Người Việt có châm ngôn
“Phúc đức tại mẫu” cũng mang ý nghĩa tương tự như vậy. Y Phương đã ngợi ca và
tự hào về những phẩm chất văn hóa của dân tộc mình, nhưng đồng thời, nhà văn
cũng thảng thốt lo âu về sự “xuống cấp” văn hóa đang diễn ra trên quê hương mình,
phê phán những hiện tượng lệch lạc, tiêu cực về văn hóa cũng là một phương thức
bảo tồn văn hóa.
2.2.1.2. Cảm hứng phê phán các hiện tượng tiêu cực về văn hóa đang xuất hiện
ngày càng nhiều trên quê hương miền núi.
Trong hàng loạt tản văn, bằng thủ pháp tương phản, Y Phương luôn đặt
các phương diện văn hóa vào thế đối xứng “xưa” và “nay” để tiếc nuối vẻ đẹp
văn hóa một thời đã mất, phê phán những hiện tượng tiêu cực về văn hóa đang
hiện diện trong hiện tại. Đây là sự đổi thay làm mất mát về văn hóa qua hình
ảnh một cái “Giếng chàm”: xưa - giếng đông vui tấp nập, nơi nhuộm những tấm
vải chàm thân thương ngàn đời của người Tày, nay: “Dù cả đời im lặng, giếng
chàm thăm thẳm hun hút mà hiểu được con người. Chả hiểu vì sao, ngày nay
người làng tôi ít chỉnh trang, sửa sang lại giếng chàm (...) bây giờ không còn
làm vải, trồng chàm để làm gì! Trông kìa ở đáy giếng nước đọng đỏ hoe như
40
khóc. Giếng chàm ơi”[14,37].
Đó là sự đổi thay đáng ghê sợ trong “Bắt khách” khi đồng tiền lên ngôi:
“Đồng tiền biến con người xuống thành quỷ” [13,36]. Trong “Áo tân thời bước vào
cửa Vóng”, ta gặp sự biến mất những phong tục tốt đẹp trong lễ cưới, để hiện diện
những nghịch cảnh bi hài. So sánh áo tân thời hở hang của cô dâu người Tày
hôm nay, được tác giả gọi là “dâu tây”, bao tiếc nhớ vẻ đẹp của văn hóa truyền
thống được gửi vào dòng hoài niệm: “ Ngày cuối cùng của đời thanh nữ, cần
phải mặc trang phục cổ truyền của dân tộc. Đó là niềm tự hào chính đáng. Những
người phụ nữ Tày mặc áo Tày, họ không chỉ đẹp một cách dung dị, chân
phương, mà còn thiêng liêng cao quý. Thiêng liêng vì nó là sản phẩm sáng tạo
của tổ tiên ông cha giống nòi người Tày để lại. Cao quý vì là sản phẩm tự tay
mình trồng bông dệt vải” [13, 123].
Đáng buồn hơn, cũng đau đớn hơn là tệ nạn nghiên hút ma túy đã hoành
hành tận nơi bản xa rừng vắng.: “Cái chết trắng” đã gieo rắc bao thảm cảnh: “Ông
già bẩy tám mươi lầm lũi khiêng đòn. Họ vừa ôm bụng ho vừa còng lưng mang vác
con cháu mình đi chôn” [13,96]
Trong hành trình “Đổi mới” của dân tộc, kinh tế và văn hóa là “đôi cánh” để
dân tộc “bay lên”. Nếu kinh tế gắn với sự đổi thay chóng mặt thì văn hóa gắn với sự
bảo tồn bản sắc song song với học tập tinh hoa của văn hóa ngoại nhập. Nhưng quá
trình bảo tồn và học tập ấy đang diễn ra với nhiều bất cập đáng lo ngại. Đó chính là
“thông điệp” mà Y Phương muốn gửi gắm tới bạn đọc, đặc biệt với thế hệ trẻ của
dân tộc mình.
2.2.2. Cảm hứng chiêm nghiệm - triết lí về lẽ sống ở đời, về mối quan hệ giữa
văn hóa và nhân cách, về số phận của con người.
Trong tác phẩm văn học, bắng phương thức gián tiếp hay trực tiếp, các nhà
văn đều gửi gắm vào sáng tạo nghệ thuật của mình những triết lí nhân sinh sâu sắc.
Với tản văn, do nguyên tắc tự biểu hiện trực tiếp của “cái tôi” tác giả, những triết lí
nhân sinh được trình bày cô đọng trong hoặc sau mỗi câu chuyện kể. Nhà văn Băng
Sơn đã đúc rút một triết lí nhân sinh trong tản văn “Hoa xuân”: “Người ta thường
nói “người là hoa của đất” ta còn có thể hiểu: Đất nở hoa cũng là nở ra những đóa
41
hoa tâm hồn cho con người sống thêm tốt đẹp” [55]. Nguyễn Ngọc Tư lại triết lí
trong “Sư tử không ăn cỏ”: “Lúc cuộc sống khắc nghiệt buộc người đi chênh vênh
giữa lằn ranh tử tế và không tử tế, họ bước chệch choạc cũng là chuyện tự nhiên. Có
ở dưới ao mới biết không cách nào không ướt áo”.[51]
Với nguyên tắc nghệ thuật tự biểu hiện trong tản văn, Y Phương cũng hay
triết lí sau bao chiêm nghiệm ngọt ngào thì ít đắng cay thì nhiều của mình. Chỉ có
một điểm khác biệt giữa Y Phương với nhiều nhà văn viết tản văn khác: Y Phương
thường kín đáo gửi gắm các triết lí nhân sinh của mình qua các hình ảnh mang tính
biểu tượng, hoặc qua các hình ảnh được đặt vào thế đối sánh hay so sánh liên tiếp.
Trong những câu văn mang tính khẩu ngữ tự nhiên và sinh động, các hình ảnh mang
tính biểu cảm và tạo hình cao xuất hiện, trong đó hàm chứa các triết lí nhân sinh
mới đọc qua tưởng lời nói bâng quơ, hoặc lời độc thoại của nhân vật người trần
thuật. Chính bởi đặc điểm này, các triết lí nhân sinh của Y Phương không mang tính
bác học mà mang tính bình dân, giản gị, gần gũi, dễ đi vào lòng người. Các triết lí
nhân sinh ấy hướng vào một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Chiêm nghiệm và triết lí về lẽ sống thuần hậu của con người miền núi.
Trong “Thư gửi bạn chăn trâu”, Y Phương đã triết lí về đức tính “nhường nhịn”
của người Tày và coi đó là một phẩm chất văn hóa cao quý: “Nhường nhịn là đức tính tốt
đẹp từ đời ông tổ. Chả thế mà ngày nay còn có cánh đồng mang tên tổng Nhượng bạn.
Có đám ruộng mang tên Nà Slâm. Nà Slâm nghĩa là đám ruộng có trái tim. Trái tim biết
phải trái, biết đến đâu là đù. Cái ngưỡng của lòng người chỉ bấy nhiêu thôi” [13, 9]. Phải
có nhân cách lớn, bản lĩnh lớn mới có được đức tính “nhường nhịn” ấy.
Khi bàn về việc gìn giữ bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc trong thời
đại “Thế giới phẳng”, Y Phương viết thật ngắn gọn, thật hình ảnh: “Muỗi. Tôi
không nghĩ thế. Cơm tính đằng cơm. Rượu tính đằng rượu. Khác đường khác tính.
Người miền núi chúng tôi vẫn nói vậy. Rượu dẫu có hấp dẫn và ngon, nhưng không
thay thế được cơm. Và ngược lại” [13, 21]
Qua thủ pháp so sánh ngầm với hai hình ảnh có tính biểu tượng là “Cơm” và
“Rượu”, nhà văn đã triết lí thật đúng và hay: văn hóa nhân loại dẫu hay đến mấy nhưng là
của nhân loại. Văn hóa của mỗi dân tộc được ví như “Cơm”, dù “rượu” kia ngon đến mấy
cũng không thay thế “Cơm” được. Và “cơm” cũng không thể thay thế cho “Rượu”. Cách
42
nói bằng hình ảnh của Y Phương tưởng mộc mạc nôm na mà sâu sắc, thâm thúy đến vậy.
Khi triết lí về sự lựa chon “con đường” lẽ sống cho mỗi người, Y Phương
cũng sử dụng cách viết giàu hình ảnh và thật hàm súc kể trên – và đây cũng là một
đặc điểm trong ngôn ngữ giao tiếp của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi.
“Tôi nhớ mãi lời của một người thày. Cha mẹ cho ta một cái kho. Nuôi nhốt con gì
là do mình chọn.... Đời người là cái túi ấy”. [13,84] Qua hai hình ảnh có tính biểu
tượng cho cuộc đời mỗi con người là “cái kho” và “cái túi”, tác giả nhấn mạnh sự
lựa chọn của mỗi cá nhân cho cuộc đời của mình: đựng vào đó “tiền bạc” hay “tâm
hồn”? Sự lựa chọn ấy sẽ quyết định con đường cuộc đời cũng như đặc điểm nhân
cách của mỗi người.
Cũng ở kiểu loại cảm hứng chiêm nghiệm – triết lí này, Y Phương còn có
những đúc kết bằng hình ảnh thật đặc sắc: “Bạn cũ quý hơn thuốc” [13, 10]; “Cơn
mơ của người miền núi thường rất đẹp và thơ. Nhưng đời mơ ngắn lắm” [13,84];
“Tiếng gọi những bậc sinh thành làm ra quả ngọt. Hết thảy loài người chúng ta trên
hành tinh này đều mang ơn họ” [13,163]; “Thế mới biết “bần hàn bất năng di” là
sao. Việc gì phải học tận đâu xa. Hãy nhìn hoa mua và sống như nó. Nhưng chắc gì
học được. Con người vốn có máu tham như tóc. Nhưng lại lười như hòn đá nằm.
Vậy nên, nhìn hoa mà cả then.” [13, 169]...
Qua những chiêm nghiệm và triết lí này, hình ảnh con người miền núi hiện ra
với cách nghĩ và lối sống thuần hậu, sâu sắc, luôn tự soi xét “gột rửa” mình để trở
nên cao đẹp hơn. Những triết lí nhân sinh của Y Phương cũng khiến người đọc giật
mình để rồi tự “thanh lọc” nhân cách của mình.
Thứ hai: Chiêm nghiệm – triết lí về mối quan hệ giữa văn hóa vói nhân cách,
với hạnh phúc và bất hạnh của con người.
Có thể nói, trong hai tập tản văn này của Y Phương, chủ đề trung tâm nhất và
cũng là nỗi trăn trở băn khoăn lớn nhất của nhà văn là số phận của văn hóa dân tộc
Tày cùng số phận con người miền núi trước biến thiên dữ dội của đời sống xã hội.
Y Phương đã đi tìm câu trả lời cho chủ đề trung tâm kể trên bằng nhiều cách, gửi
gắm câu trả lời vào hệ thống nhân vật, hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ và giọng
điệu, cảm hứng và đề tài, chủ đề... Nhưng câu trả trực tiếp và lắng kết sâu xa nhất
43
lại kết tinh trong các triết lí nhân sinh giàu hình ảnh, xuất hiện rải rác trong các tản
văn của nhà văn. Suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn hóa với nhân cách con người, Y
Phương viết: “Có tiền mà văn hóa lùn, khác gì giao cho thằng điên một khẩu súng
AK, nạp đầy đạn” [13,95]. Trong mỗi con người, khi giàu có tiền bạc tỉ lệ nghịch
với sự nghèo nàn về văn hóa thì sự sa chân vào tội ác chỉ còn là gang tấc.
Khi bàn về ý thức gắn bó với cội nguồn dân tộc – một phẩm chất văn hóa đặc
biệt cao quý, nếu thiếu vắng nó thì con người ấy không xứng đáng là một con
người, Y Phương đã phân tích một thành ngữ “Rễ cây ngắn rễ người dài” của người
Tày để rồi đúc kết: “Khi con người ý thức sâu sắc cội rễ của mình thì trong họ đầy
lòng tự tin. Đức tính tự tin được biểu hiện trong quan hệ giữa mình với mọi người
xung quanh. Tự tin giúp cho con người luôn luôn tự làm chủ bản thân mình ở mọi
nơi mọi lúc...” [13,159]
Cũng theo “mạch” triết lí về ý thức cội nguồn, về mối quan hệ giữa văn hóa với
những buồn – vui, hạnh phúc hay bất hạnh cho mỗi con người, Y Phương viết những
câu văn đẹp như thơ: “Nhìn vào đáy mắt nhau, ta lại thấy xanh rờn những hạt ngô,
những cánh đồng lúa. Thấy phít phát rực vàng nắng chín như người. Thấy trập trùng
mây mây mây trắng bay chúng nắm tay nhau thành đàn thành lũ. Mây trắng ơi sao em
che mờ hết đi cả thế, không nhìn thấy núi đồi đâu nữa. Không còn núi đồi thì ta biết
sống ở đâu bây giờ” [13,182]. Khi là một người con miền núi xa quê về thành phố, khi
nỗi nhớ thương cháy trong tim từng phút và chảy trong nước mắt nuốt vào trong, quê
hương và văn hóa dân tộc Tày nằm ở núi đồi xa tít tắp kia. Câu hỏi da diết dành cho
“mây trắng” kia đã gián tiếp gợi tả ánh mắt của nhà văn vợi vợi đi qua ngàn trùng
ngóng về quê hương, về nguồn cội văn hóa của dân tộc mình: thiếu vắng những gì máu
thịt ấy thì con người dù sống giữa thủ đô, làm sao có hạnh phúc đích thực?!
Trong tản văn “Cây nghiến xanh trong lòng Hà Nội”, từ một sự kiện rất nhỏ
là xếp hàng chờ khám bệnh, Y Phương đã bàn rất sâu sắc về văn hóa với hành vi
ứng xử của con người nơi công cộng. Ngắm nhìn một số “ông bà” có chức quyền
mà lại ứng xử phản văn hóa, so sánh họ với anh kéo xe than nghèo khó nhọc nhằn “
Hơi thở là tài sản duy nhất mà anh có. Nhưng anh cũng không dám thở nhiều. Sợ
tốn. Anh xe ơi”, tác giả viết: “Sướng mãi quen rồi, khổ một chút bằng móng tay là
không chịu nổi. Người được sướng chẳng bao giờ biết nỗi nhọc nhằn khổ ải của
44
người khác. Nếu biết chút ít qua qua, họ thả một câu hiu hắt. Tất cả đều do ông trời
sắp đặt. Ai sướng được sướng, ai khổ phải chịu. Không đúng. Tất cả đều do thói
quen rèn luyện. Rèn luyện để trở thành một con người biết cảm thông với con
người” [13,198]. Thì ra, người có trình độ văn hóa cao và chức vụ lớn chưa chắc đã
có hoặc đã biết ứng xử có văn hóa, mà ứng xử có văn hóa nhất theo Y Phương là
“Con người biết cảm thông với con người”.!
Nói đến bản sắc văn hóa của một dân tộc thì không có gì tiêu biểu hơn là nói
đến con người văn hóa của dân tộc ấy – con người văn hóa trong tính lịch sử của nó.
Bởi con người văn hóa đã kết tinh những tinh hoa trong bản sắc văn hóa của mỗi
dân tộc. Trong cảm hứng chiêm nghiệm – triết lí này, ở khía cạnh chiêm nghiêm –
triết lí về mối quan hệ giữa văn hóa với nhân cách và số phận của con người miền
núi, bên cạnh các phương diện đã trình bày ở trên, chúng tôi còn thấy Y Phương
trực tiếp và gián tiếp triết lí bằng các phương thức khác nhau, đặc biệt qua các chân
dung con người văn hóa tiêu biểu của miền núi. Các chân dung ấy rất đa dạng, từ
những người chị, người mẹ nghĩa tình cho đến các văn nghệ sĩ là con người miền
núi. Dù cho có tên hay không tên, bình dị, vô danh hay nổi tiếng, tất cả đều gặp
nhau ở một điểm: họ mang trong mình những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân
tộc mình. Dù số phận của họ khác nhau, nhưng với sự tỏa sáng của những giá trị
văn hóa mà họ mang trong nhân cách, biểu hiện qua hành động ứng xử, tất cả đã đi
tới hạnh phúc chân chính bằng những con đường riêng của mình.
Trong tản văn “Chị em” nhân vật “người chị” vô danh ấy đã trở thành một
con người văn hóa – điển hình cho vẻ đẹp văn hóa của người phụ nữ Tày: nghĩa tình
sâu nặng với người thân “chịu đựng và gắng gỏi” trong cuộc sống, hồn nhiên chân
thật trong ứng xử, chính vì thế mà nhà văn đã ví “chị” như quê hương, hay những
giá trị văn hóa của quê hương đã hóa thân thành chị: “Quê hương tươi rói hiện lên
nét mặt người kể. Chiều đến góc nào cũng thấy người chị tôi rơn rớn xanh. Một
màu xanh cỏ cây, sông suối, núi non hiền hòa. Một màu xanh non tươi tận tụy. Một
màu xanh chịu đựng và gắng gỏi (...) Quê hương lại cười trên gương mặt chị...”
[13,19]. Có một người chị như thế, người em là một người hạnh phúc và ngược lại.
Hơn thế nữa, bản sắc văn hóa của quê hương không cao xa mà hiện diện ngay trong
45
mỗi con người chúng ta, nếu chúng ta biết gìn giữ nó.
Bản sắc văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Mỗi con người văn
hóa trong tản văn của Y Phương lại đẹp lặng thầm một vẻ đẹp riêng – gắn với một
số phẩm chất nào đấy của bản sắc văn hóa Tày. Nhân vật “người chị” trong tản văn
“Chị em” mang vẻ đẹp điển hình của người phụ nữ Tày: cao đẹp trong sự thầm
lặng, gắng gỏi và chịu đựng, dù xa quê hương bao nhiêu thì văn hóa miền núi
vẫn đậm đà, bền bỉ như màu xanh của núi rừng không bao giờ phai nhạt. Còn
nhân vật Giáo sư Bành Khiu trong “Cây nghiến xanh trong lòng Hà Nội” lại
mang một vẻ đẹp văn hóa khác: tài năng và đức độ, đặc biệt có lòng yêu thương
mênh mông với bệnh nhân. Người con của đất Co Xàu, ấy dù xa quê vẫn không
hề thay đổi phẩm chất văn hóa tốt đẹp của một người con miền núi, đã mang
bản sắc văn hóa Tày của mình hòa nhập, làm phong phú thêm bản sắc văn hóa
Việt Nam: “điều quan trọng ở con người này, không phải bắt đúng bệnh, dùng
đúng thuốc. Tâm đắc nhất là ở tấm lòng. Một tấm lòng nhân hậu vị
tha”[13,195]. Giáo sư Bành Khiu đã trở thành một con người hạnh phúc vì đã
mang lại hạnh phúc cho bao nhiêu người.
Qua hàng loạt chân dung những con người tiêu biểu của miền núi khác, Y
Phương muốn gửi gắm một triết lí nhân sinh sâu sắc: bản sắc văn hóa không cao
siêu, xa lạ và không thể học nó chỉ bằng lí trí, với những nhân vật Nông Quốc Chấn,
Bế Thanhg Long, Cao Duy Sơn..., bản sắc văn hóa Tày nói riêng, văn hóa miền núi
nói chung, như cơm ăn, nước uống, như không khí để thở, sẽ thẩm thấu tự nhiên và
làm nên “tầm văn hóa” của mỗi người. Và họ thật sự là những con người hạnh phúc
khi lặng lẽ sống thanh cao, lặng lẽ cống hiến và làm rạng danh cho dân tộc mình,
quê hương đất nước mình. Đó là nhà thơ Nông Quốc Chấn được người học trò Y
Phương dâng tặng tình cảm kính yêu, ngưỡng mộ nhất: “Mười năm rồi kể từ ngày
thầy cưỡi con hạc trắng lên đường về miền cực lạc. Người đã bỏ lại nụ cười hiền
hậu, ánh mắt bao dung, tình yêu con người rộng lớn cho cháu con, cho học trò và
bạn bè”[13,207]. Đó là nhà thơ Pờ Sảo Mìn – một chiếc lá ngọt dần lên đỉnh, theo
cách nói của Y Phương: “Một con người an nhiên tự tại, tự tin, đến mức bão táp với
mưa sa không làm lão mảy may nhụt chí. Đấy là một ứng xử đầy bản lĩnh, một tinh
46
thần văn hóa sâu xa của dân tộc”[13,216].
Và còn đây là nhà văn Cao Duy Sơn – đứa con của vùng đất Co Xàu đã đạt
nhiều giải thưởng trong nước và khu vực ASEAN, khi nhận tin được trao giải
thưởng thì “chỉ lim dim ngồi nghe như ông Cáu, ông Ké, dùng hai tay đan vào với
nắng” [13,267 - 268]. Chỉ cần một chi tiết nhỏ ấy, Y Phương đã nói được bao điều
với người đọc về một tài năng lớn nhưng khiêm nhường, về sự lặng lẽ mà thẳm sâu
của con người văn hóa này. Cao Duy Sơn và bao con người miền núi khác, bằng
sức mạnh của tài năng, tâm huyết và lao động, đã chọn văn hóa làm “cây cầu” để đi
tới vinh quang và hạnh phúc một cách khiêm nhường.
* *
*
Những đặc sắc trong nội dung tản văn của Y Phương được biểu hiện ở nhiều
phương diện, nhưng do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung
tìm hiểu ở một số phương diện sau: đặc sắc ở bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con
người miền núi, đặc sắc ở cảm hứng nghệ thuật.
Ở phương diện bức tranh thiên nhiên miền núi, tản văn của Y Phương
thường không khắc họa các “đại cảnh” mà chỉ “chấm phá” những “tiểu cảnh”, ít có
những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đồ sộ mà chỉ có những bức tranh nhỏ xinh,
được chọn lọc để tô đậm ở một vài khía cạnh mà vẫn làm nổi bật cái “thần” của
toàn cảnh. Cách miêu tả này có những nét tương đồng với cách vẽ “chấm phá” của
tranh Thủy Mặc phương Đông. Thiên nhiên trong tản văn của Y Phương có hai sắc
thái thẩm mĩ nổi bật: thơ mộng trong sáng song hành với dữ dội khắc nghiệt. Hai
sắc thái thẩm mĩ tiêu biểu và đặc trưng cho thiên nhiên của vùng đất Cao Bằng -
quê hương của tác giả.
Hình ảnh con người miên núi xuất hiện trong tản văn của Y Phương rất
phong phú, đa dạng. Bằng thao tác loại hình, chúng tôi tạm phân chia hình ảnh con
người miền núi gắn với một số phẩm chất sau đây: con người miền núi nhân hậu,
giàu yêu thương và thủy chung nghĩa tình, con người miền núi dũng cảm, thượng
võ, mưu trí, bất khuất và vị tha; con người miền núi tài hoa mà khiêm nhường, ít
nói, sông nội tâm, trọng nghĩa khinh tài. Hình ảnh con người miền núi đẹp đẽ, cao
thượng là hình ảnh trung tâm trong tản văn của Y Phương, được nhà văn khắc họa
47
với bao nhiêu yêu mến, tự hào và trân trọng.
Đặc sắc thứ hai trong tản văn của Y Phương là đặc sắc ở phương diện cảm
hứng nghệ thuật. Có hai cảm hứng nghệ thuật chủ đạo song hành gắn kết như sông
Hiến – sông Bằng nơi quê hương của tác giả: đó là cảm hứng ngợi ca, tự hào và
khát vọng bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Tày; đó là cảm hứng
chiêm nghiệm – triết lí về số phận của con người miền núi, về mối quan hệ giữa văn
hóa với nhân cách, với hạnh phúc và bất hạnh của mỗi con người. Hai cảm hứng
chủ đạo này trở thành “linh hồn” của tác phẩm, nó quy định mọi cấp độ nội dung và
hình thức của tản văn Y Phương ở bình diện đặc điểm và sắc thái thẩm mĩ, như đề
tài và chủ đề, kết cấu, nhân vật, hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ và giọng điệu nghệ
thuật. Các phương diện nội dung kể trên sẽ tìm đến gắn bó mật thiết với các phương
diện hình thức nghệ thuật tương thích với nó. Và việc tìm hiểu, đánh giá các
48
phương diện trong hình thức nghệ thuật này sẽ là nội dung của chương 3.
Chương 3
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG
Tản văn của Y Phương cuốn hút người đọc bởi sự đặc sắc ở cả phương diện
nội dung và nghệ thuật. Ở phương diện nghệ thuật trần thuật, chúng tôi nhận thấy ở
rất nhiều bình diện như kết cấu, nhân vật người trần thuật, bút pháp chấm phá, hệ
thống biểu tượng, ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật..., nhà văn đều in đậm vào đó
dấu ấn sáng tạo độc đáo của riêng mình. Đây chính là biểu hiện rõ nét của tài năng,
và nhờ đó, tản văn của Y Phương có sức sống lâu bền trong tình yêu và kí ức của
bạn đọc.
3.1. Kết cấu tự do, linh hoạt với sự kết hợp nhiều phương thức, phương tiện
nghệ thuật.
Trong Từ điển Thuật ngữ Văn học, kết cấu được định nghĩa như sau: “Toàn bộ
tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm (...) nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể
của tác phẩm (...) bao gồm: tổ chức, hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không
gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thểb của các thành
phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện,... sao cho toàn
bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [ 49, 156-157].
Đây là định nghĩa chung cho kết cấu trong tác phẩm văn học. Còn kết cấu
trong tản văn, do đặc trưng thể loại của nó, bên cạnh cái chung ấy còn có một số đặc
điểm loại biệt. Bởi cấu trúc thể loại của tản văn không “thuần nhất’ như thơ, truyện
ngắn, kịch..., nó liên tục vận động, biến đổi trong sự kết hợp với đặc trưng của
nhiều thể loại văn học khác: có cốt truyện như truyện ngắn, viết về người thật việc
thật như kí, tự do như tùy bút, giàu chất thơ như tác phẩm trữ tình, luận bàn lí giải
như văn nghị luận... Bởi vậy, kết cấu của tản văn vừa đa dạng, mềm dẻo, phức tạp
vừa khó có thể đưa vào một “Khuôn vàng, thước ngọc” nào, nó chống lại tính quy
phạm và cái nhìn tuyệt đối.
Với cái nhìn tương đối và khái quát nhất, chúng tôi thấy tản văn của Y
Phương có hai loại kết cấu tiêu biểu sau đây – những kiểu kết cấu luôn ở trạng thái
49
“Động” và “Mở”.
3.1.1. Kết cấu liên tưởng - đồng hiện trong dòng hoài niệm của nhân vật người
trần thuật.
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của tản văn là nguyên tắc “Hồi cố”
- tức nhớ lại những gì đã qua. Mỗi tản văn dung chứa một dòng hoài niệm tuôn
chảy mà trong đó, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật bao giờ cũng thuộc
thời quá khứ, những chuyện cũ người xưa được tái hiện lại hoặc để nhà văn gửi gắm
một triết lí nhân sinh, hoặc để phản ánh, trả lời câu hỏi của một hiện tượng xã hội
đang “nổi cộm” trong hiện tại. Kết cấu liên tưởng - đồng hiện xuất hiện trong tản
văn của Y Phương vừa là hệ quả của đặc trung kể trên, vừa là kết quả của sáng tạo
nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Vậy kết cấu liên tưởng - đồng hiện là gì? Trong Từ
điển Tiếng Việt, liên tưởng là: “Nhân sự việc hiện tượng nào đó mà nghĩ tới sự việc
hiện tượng khác có liên quan” [47,568]. Còn khái niệm “đồng hiện” mượn của Điện
ảnh có nghĩa là xuất hiện đồng thời.
Sự biểu hiện cụ thể của kết cấu này trong tản văn của Y Phương là: từ A
“móc xích” sang B bởi một sự tương đồng, gần gũi nào đó về bản chất, về ý nghĩa
hoặc chỉ vì chúng có một mối liên hệ gần hoặc xa trong dòng hoài niệm của nhà
văn, để rồi thủ pháp “đồng hiện” của điện ảnh được vận dụng để A và B cùng xuất
hiện bên nhau trong các kiểu quan hệ nhân quả, bổ sung ý nghĩa, thậm chí là tương
phản. Trong hai tập tản văn của Y Phương, chúng tôi gặp hàng loạt phạm trù A và B
được liên kết với nhau trong kiểu kết cấu này: gần và xa, ngoài và trong, hiện tại và
quá khứ, vật và con người, bản thân và người khác, thiên nhiên và xã hội...vv...
Trong truyện ngắn, tiểu thuyết, kí cũng có kiểu kết cấu này nhưng thường chỉ xuất
hiện trong các bộ phần ở tầm “vi mô”, xuất hiện như các chi tiết trong một bộ máy
khổng lồ, bên cạnh nó còn có hàng loạt các yếu tố ngoài cốt truyện khác. Chỉ có
trong tản văn, kiểu kết cấu này mới là “độc tôn”, là kết cấu của toàn bộ tác phẩm.
Khảo sát hàng loạt tác phẩm trong hai tập tản văn của Y Phương, chúng tôi
đều bắt gặp kiểu kết cấu có tính phổ quát này. Trong tản văn “Thư gửi bạn chăn
trâu”, chúng tôi thấy xuất hiện 14 sự kiện trong dòng hoài niệm của tác giả - đồng
nhất với nhân vật trần thuật xuất hiện ở đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít: “Tôi”.
Các sự kiện thuộc thời gian – không gian quá khứ ấy được đồng hiệu, và liên kết
50
với nhau bằng ba kiểu quan hệ cơ bản. Sự kiện 1: Nhớ về thủa chăn trâu; Sự kiện 2:
Trò chơi đánh trận giả; Sự kiện 3: Chuyện trâu bản mình hiền lành có tính nhường
nhịn; Sự kiện 4: Từ sự kiện 3 liên tưởng đến chuyện người thành phố coi “nhường
nhịn” là dại dột; Sự kiện 6: Thương trẻ con thành phố thiệt thòi, không được chăn
trâu, cắt cỏ, đốt lửa đánh trận giả… , sự kiện 7: Nhớ chuyện trẻ chăn trâu tắm bùn;
Sự kiện 8: Từ kỉ niệm tuổi thơ đi chăn trâu tắm bùn liên tưởng đến dịch vụ tắm bùn
hết sức nhạt nhẽo ở một số tụ điểm du lịch; Sự kiện 9: Hồi tưởng “Đại yến tiệc” của
“chúng ta” thủa trước: Được tắm trong một “Cánh đồng bùn” – bùn đẹp và như có
linh hồn; sự kiện 10: chợt chuyển ý đột ngột: Nhớ chuyện trẻ chăn trâu đắp “Hỏa
lò” nướng khoai và mùi vị tuyệt trần của khoai nướng; sự kiện 11: Từ quá khứ xa
vời của tuổi thơ trở về quá khứ gần: liên tưởng đến chuyện mang khoai lang từ quê
nhà xuống thành phố: Khoai buồn khiến “Tôi” tủi thân; sự kiện 12: Cách đánh giá
con người một cách lạnh tanh và căn cứ vào bề ngoài của người thành phố; Sự kiện
13: Nỗi buồn khổ của người dân nghèo” “mật khoai, rỉ ra” là “nước mắt của người
nhà quê”; sự kiện 14: Khẳng định tình yêu và nỗi nhớ của “Tôi” và “Bạn” dành cho
quê hương nghèo của mình.
Đây là tản văn có số trang nhiều nhất trong tập “Kungfu người Co xàu”. Các
sự kiện hoặc thuộc thời quá khứ xa hoặc thuộc quá khứ gần đồng hiện trên mặt
trang sách, trong một cốt truyện hay trong một tình huống nhất định, nằm kề bên
nhau trong một trường liên tưởng rất rộng, rất phóng khoáng, tự do của tác giả.
Chúng liên kết với nhau hầu hết bằng kiểu quan hệ nhân – quả (có nỗi nhớ thủa
chăn trâu thì mới xuất hiện các kỉ niệm của tuổi thơ như đánh trận giả, nướng khoai,
tắm bùn…); quan hệ bổ sung ý nghĩa cho nhau (đám khoai lang mang từ quê nhà
xuống thành phố nằm im thin thít, ngơ ngác, tội nghiệp trên sàn gạch hoa và thân
phận người dân quê miền núi xuống thành phố là như nhau…); quan hệ tương phản
(người quê mình đánh giá con người qua cách sống tình nghĩa, người thành phố
đánh giá con người qua quần áo, xe ôtô và các thú chơi “sành điệu”). Sự chuyển ý
trong “mạch” trần thuật của tản văn này không cần đến câu văn chuyển ý hiện diện
trực tiếp trên trang sách, tức là không cần đến liên kết ngữ nghĩa mang tính lôgíc thể
hiện trong câu văn, đoạn văn như trong truyện ngắn, tiểu thuyết. Sự chuyển ý này
nằm trong “mạch ngầm” văn bản tổ chức theo nguyên tắc liên tưởng giữa các sự vật
51
hiện tượng gần gũi hoặc xa cách nhau của tác phẩm, chi phối nguyên tắc liên tưởng
ấy là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Nguyên tắc liên tưởng tạo thành kết cấu này
có nét tương đồng với kết cấu “bề sâu” của tác phẩm trữ tình.
Để làm sáng tỏ hơn cho kiểu kết cấu được xây dựng dựa trên nguyên tắc
liên tưởng này, tản văn “Tiếng ve cay đắng” sẽ là một minh chứng sáng rõ.
Trong tản văn này, 11 sự kiện đồng hiện trong tưởng tượng của người đọc, được
liên kết với nhau bằng sự liên tưởng rất “xa” và rất “sâu” – và chỉ tác phẩm thơ
mới sử dụng sự liên tưởng như thế:
Sự kiện 1: Hà Nội – những ngày nắng nóng – mất điện - bức bối; sự kiện 2:
Về quê, xe ngược gió; xuôi đèo qua chênh vênh bờ vực; sự kiện 3: Hồi tưởng “thủ
tục” xin phép vợ về quê; sự kiện 4: Nhớ gió mát ở Cao Bằng; sự kiện 5 (chuyển ý
bất ngờ): Sự khác biệt giữa tiếng ve của Hà Nội với tiếng ve ở “quê tôi”; sự kiện 6
(chuyển ý bất ngờ): Băn khoăn vì việc cắm cột mốc Km 800 ở đầu thị xã Cao Bằng;
Sự kiện 7: Ngã ba – nơi có tiếng ve cay đắng; sự kiện 8: Hồi tưởng “Ngày ấy” căn
lều của “gia đình tôi” ở sát hàng rào Đoàn Địa chất 105; Sự kiện 9: Nhớ hình ảnh cô
con gái mới vào lớp 1 ngồi bán đậu phụ và mua chịu mấy viên kẹo vừng kẹo lạc, Sự
kiện 10: Nỗi đói khổ của toàn xã hội trong thời Bao cấp: nấu rượu, làm đậu phụ,
nuôi lợn. Sự kiện 11: So sánh hôm qua với hôm nay để không quên “những ngày
đói rách vĩ đại”. Các sự kiện trong tản văn nói chung và trong tản văn này của Y
Phương nói riêng, không mang ý nghĩa, chức năng như sự kiện trong truyện ngắn,
tiểu thuyết. Chúng gần gũi với hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện trong các bài
thơ Tự sự: chỉ là cái “Cớ” để khơi gợi cho tác giả bộc bạch tâm trạng chủ quan và in
đậm cá tính sáng tạo độc đáo của mình. Nguyên tác liên tưởng “gần” hoặc “xa” liên
kết chúng với nhau, thủ pháp đồng hiện đặt những sự kiện hoặc thuộc những
“vùng” không – thời gian khác nhau bên nhau, hoặc đặt các sự kiện “hướng ngoại”
bên các sự kiện “hướng nội” nằm kề bên nhau một cách hết sức dễ dàng. Chẳng hạn
như, tác giả đang nhớ và miêu tả những cơn gió màu xanh ở Cao Bằng bỗng chuyển
ý sang miêu tả sự khác nhau giữa tiếng ve ở Hà Nội và tiếng ve ở “quê tôi”, rồi đột
ngột hơn, từ tiếng ve bỗng chuyển sang băn khoăn về việc cắm cột mốc km 800 ở
đầu thị xã? (“mạch ngần văn bản” ở đây là: chuyến xe chở tác giả về quê đã đến đầu
52
thị xã, dù tác phẩm không hề thông báo về sự kiện này. Người đọc chỉ dùng tưởng
tượng, liên tưởng mà suy đoán qua các hình ảnh kế tiếp nhau xuất hiện trong sự
quan sát của tác giả - qua “điểm nhìn” di chuyển từ xa đến gần thị xã mà thôi)…
Trong tản văn “Những người đàn bà hút Sục dín” có 9 sự kiện xuất hiện
trong dòng hoài niệm của tác giả. Chúng tôi thấy 8 sự kiện đầu mang tính hướng
ngoại (hình ảnh người đàn bà hút Sục dín, hình ảnh thuốc Sục dín, cách hút, túi
đựng thuốc, điếu hút, mùi khói thuốc, người đàn bà trong buổi chiều mùa đông
hoang lạnh: hoàng hôn, núi, rừng cây, nhà cửa, con người… ) thì sự kiện thứ 9 xuất
hiện trong 5 đoạn văn lại mang tính “hướng nội” (tác giả sử dụng hư cấu để tái hiện
dòng hồi ức về một thời thiếu nữ, về người yêu cũ… của một người đàn bà hút Sục
dín từng thân thiết với tác giả, đang ngồi bất động và im lặng nhìn ra ngoài trời).
Các sự kiện vốn rất khác nhau ấy được đồng hiện để khắc họa cả ngoại hiện và nội
tâm, nhân vật bằng bút pháp “chấm phá” và hư cấu có hạn chế. Như vậy, trong kiểu
kết cấu liên tưởng – đồng hiện này, mỗi tản văn là một nỗi nhớ, trật tự của các sự
kiện xuất hiện trong nỗi nhớ ấy không tuân theo một lôgíc chặt chẽ sáng rõ, chúng
liên kết với nhau bằng liên tưởng, xuất hiện bên nhau như các hình ảnh được đồng
hiện trong một bộ phim nào đó. Nhìn qua kết cấu này tưởng như lộn xộn, không
tuân theo trình tự, lớp lang chặt chẽ. Nhưng không, nỗi nhớ (về cái gì? Nhớ như thế
nào?) đã “xâu chuỗi” các sự kiện lại thành một hệ thống, mà trong đó, ta gặp sự tự
do, ngẫu hứng, bởi trong khi nhớ, có ai nhớ một cách chặt chẽ, lôgíc, khoa học đâu?
Sự độc đáo, hấp dẫn của tản văn một phần được tạo ra từ đặc điểm này.
3.1.2. Kết cấu “Vòng sóng đồng tâm”
Trong từng tản văn của Y Phương, chúng tôi đều gặp kiểu kết cấu liên tưởng
- đồng hiện. Nhưng xét cả hai tập tản văn của nhà thơ người Tày viết tản văn này,
chúng tôi lại thấy xuất hiện một kết cấu tổng thể mà kết cấu của từng tản văn là kết
cấu bộ phận nằm trong chỉnh thể của nó. Hay nói một cách khác, kết cấu của từng
tản văn là chi tiết nằm trong hệ thống ấy. Trong tác phẩm của mình, Y Phương là
môt con người miền núi xa quê, đang thương nhớ về muôn vàn kỉ niệm máu thịt
nhưng các kỉ niệm ấy, dù phong phú đa dạng đến đâu thì cuối cùng đều châu tuần
về một đối tượng thẩm mĩ trung tâm sau: Quê hương miền núi - Con người miền núi
chất phác nghĩa tình, bản sắc văn hóa Tày và văn hóa miền núi. Có thể ví von rằng,
53
kí ức của Y Phương như một dòng sông tĩnh lặng, thương nhớ mãnh liệt như viên
đá ném xuống dòng sông ấy làm lan tỏa bao vòng sóng. Nhưng đó là những vòng
sóng đồng tâm, vì dù có lan tỏa bao nhiêu thì tâm điểm của chúng vẫn nỗi thương
nhớ sâu nặng – và đấy là “tâm chấn” tạo ra những “vòng sóng” cảm xúc và suy tư
kia. Bởi vậy, chúng tôi tạm gọi kết cấu tổng thể của hai tập tản văn này là kết cấu
“Vòng sóng đồng tâm”. Với 67 tản văn và 12 chân dung văn học (thực ra, chân
dung văn học cũng là một tiểu loại của thể tản văn), Y Phương đã viết về rất nhiều
vấn đề khác nhau, và đó cũng là muôn vàn kỉ niệm xuất hiện trong nỗi thương nhớ
hay căm giận, phê phán của nhà văn. Nhưng tất cả đều như những “vòng sóng” lan
tỏa mênh mang từ một “tâm điểm” là tình cảm dành cho quê hương – con người và
văn hóa miền núi. Kết cấu này khiến cho hai tập tản văn của Y Phương đa dạng,
phong phú mà thống nhất về tư tưởng nghệ thuật. Tản văn của Y Phương như một
bản nhạc, dù được triển khai, được diễn tấu phức tạp đến đâu thì vẫn có một chủ âm
xuyên suốt làm “xương sống” cho nó.
Trong hai tập tản văn này, chúng tôi thấy tất cả các tản văn trong đó đã “đan
dệt” nên bức tranh quê hương của Y Phương - một bức tranh Cao Bằng có sắc mầu
và hương vị riêng, không thể lẫn với bất cứ bức tranh quê hương nào khác. Trong
bức tranh quê hương này, con người miền núi gắn bó với bản sắc văn hóa Tày nói
riêng, với văn hóa miền núi nói chung là hình tượng nghệ thuật trung tâm, được
khắc họa ở muôn vàn phương diện cụ thể. Chỉ cần kể tên các tản văn cụ thể, chúng
ta cũng sẽ thấy rõ điều đó: Dân Co Xàu hát woàng dzà; Chuyện Ma gà; Giếng
chàm xanh như ngọc; Lận đận tình… đuôi cong; Phong slư, máu và lửa; Còn có
một cái tết Vía trâu; Lão Mòn đi đâu rồi?; Thanh Minh trong tiết tháng Ba…vv...
Đọc “Thanh Minh trong tiết tháng ba”, nhà văn viết về lễ Tảo mộ rất riêng
của người Tày, dù người Việt cũng đi tảo mộ vào ngày mồng ba tháng ba hàng năm.
Với người Tày, tết tảo mộ là quan trọng nhất. Con cháu đi làm ăn nơi xa có thể
không về quê vào tết Nguyên Đán nhưng phải trở về vào cái tết thiêng liêng này.
“Cả năm có một ngày gặp lại tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thế mà chẳng thấy tăm hơi
đâu” [14,90]. Chúng ta còn gặp văn hóa dân gian của người Tày với thơ tình yêu
Phong slư, văn hóa ẩm thực của người Tày với phở chua, bánh cuốn Cao Bằng,
bánh Áp chao, hạt dẻ, cốm… Y phục và cách nhuộm vải chàm qua “Giếng chàm
54
xanh như ngọc”, kiến trúc cổ truyền của người Tày qua “Đình chợ Co Xàu”, tiếng
nói của người Tày với phương ngữ đặc sắc ở từng vùng miền qua “Giọng nói người
Cao Bình”... Tất cả hợp thành một không gian văn hóa Cao Bằng với rất nhiều
phương diện văn hóa được tái hiện, đa dạng mà thống nhất vì có chung một tên gọi
là “Quê hương”. Trong không gian văn hóa ấy, con người miền núi, trong quá khứ
và trong hiện tại (hiện tại cũng chỉ là một quy ước thay thế cho “Quá khứ gần” được
hoài niệm) như sống dậy, đi lại, nói năng trong các sinh hoạt văn hóa ngàn đời
truyền lại, có sinh hoạt văn hóa được bảo lưu như viết Phong Slư, hội Tung còn, tết
Thanh Minh, có sinh hoạt văn hóa chỉ còn là “Vang bóng một thời”, nay nhớ tiếc
trong ngậm ngùi như kĩ thuật dệt, nhuộm vải Chàm , nghề đóng móng ngựa, vá
chảo hàn nồi ở chợ Co Xàu… vẫn biết văn hóa của một dân tộc như dòng sông liên
tục vận động, loại bỏ và tiếp biến. Nhiều nét đẹp văn hóa của người xưa nay không
còn xuất hiện vì không phù hợp với thời đại mới (ví dụ như áo Chàm của người
Tày, áo the khăn xếp của người Việt). Cái đáng giữ mà mất mát thì đau lòng trong
nhớ tiếc, cái đáng thay đổi nay mất đi thì ngậm ngùi mà thương nhớ như khi chúng
ta nhớ về tuổi thơ của mình vậy.
Nếu “Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm” chỉ xây dựng một
không gian văn hóa miền núi thuần nhất với con người miền núi “tắm gội” “hít thở
văn hóa” và hoạt động trong các sinh hoạt văn hóa của mình thì trong “Kungfu
người Co Xàu”, không gian văn hóa ấy đã được “chia đôi” bằng nguyên tắc phân
tuyến - song hành. Xuất hiện hai không gian văn hóa có quan hệ chính - phụ, không
gian văn hóa “quê hương” là chính và thuộc thời quá khứ, không gian văn hóa
“thành phố” là phụ và thuộc thời hiện tại. Để rồi, nhà văn hóa thân vào nhân vật
người trần thuật vời vợi thương nhớ quê hương - mà trong quê hương ấy, con người
miền núi và văn hóa miền núi là đối tượng thương nhớ trực tiếp, máu thịt nhất. Dù
con người miền núi là bạn chăn trâu trong “Thư gửi bạn chăn trâu”, là người chị xa
quê trong “Chị em”, người cháu li hương trong “Ở Đà Tẻ tôi có một que tăm”…,
đến những con người văn hóa nổi tiếng đất Cao Bằng như giáo sư Bành Khiu (“Cây
Nghiến xanh trong lòng Hà Nội”), nhà thơ Bế Thành Long (“Lãng đãng ơi,
nghiêng nghiêng đi đâu đấy”), Nhà văn Hoàng Quảng Uyên (“Cơm nhan”), nhà
thơ Trần Hùng, nhà thơ Hữu Tiến… tất cả đều gắn bó và có những biểu hiện cụ thể
55
của văn hóa miền núi trong họ: lối sống thiên về nội tâm, nói ít và làm nhiều, nhân
ái trong tâm hồn và văn hóa ứng xử, tôn thờ cái đẹp, cái thiện một cách nhiệt thành,
trong đó có cả ý thức và cả vô thức. Lắng lại sâu thẳm trong hình tượng những con
người miền núi ấy là cái tình của người miền núi mộc mạc mà tài hoa, dữ dội mà
sâu lắng, đẹp một cách hồn nhiên như đại ngàn, cánh đồng, thác nước kia.
Cả hai tập tản văn Y Phương nằm trong một kết cấu tổng thể “vòng sóng
đồng tâm”. Người đọc ngắm nhìn từng “vòng sóng” để rồi tìm đến “tâm điểm” của
bao nhiêu “vòng sóng” mang những vẻ đẹp khác nhau ấy: Tất cả đều đi tới một mục
đích cuối cùng là bộc lộ tình cảm và suy nghĩ của nhà văn dành cho quê hương, con
người và văn hóa miền núi, xuất hiên trong dòng hoài niệm.
3.2. Kiểu nhân vật người trần thuật ngẫm ngợi, chiêm nghiệm và tự biểu hiện
Tản văn là thể loại biểu hiện rõ nét, trực tiếp “cái tôi” của tác giả. Trong tản
văn, nhà văn là chủ thể lời nói và “Nhập vai” một cách tự nhiên, tất yếu vào nhân
vật người trần thuật xưng “Tôi”; “Ta” hoặc “chúng ta”. Dù sử dụng đại từ nhân
xưng nào thì trong tản văn, chúng ta gặp chính cuộc đời, tâm hồn, lời nói của nhà
văn trong tác phẩm. Cuộc đời của nhà văn trở thành “Nguyên liệu” duy nhất để làm
nên tác phẩm. Bởi vậy, nguyên tắc tự biểu hiện trở thành nguyên tắc nghệ thuật
quan trọng, qua đó, chúng ta đọc tản văn không chỉ gặp đối tượng được trần thuật
mà còn gặp người trần thuật về các đối tượng ấy. Đây chính là nhân vật người trần
thuật đặc thù – một hóa thân gần như chính xác đến tuyệt đối của nhà văn. Khi nhân
vật người trần thuật xuất hiện lặp đi lặp lại thành mô típ nhân vật trong nhiều tản
văn của một nhà văn, chúng ta có một kiểu nhân vật trần thuật in đậm cá tính sáng
tạo độc đáo của nhà văn ấy.
Trong hai tập tản văn của Y Phương, qua khảo sát, phân tích, đánh giá,
chúng tôi phân loại thành hai kiểu nhân vật người trần thuật sau đây:
3.2.1. Kiểu nhân vật người trần thuật “tha hương – hồi cố” mà chiêm nghiệm
về quê hương
Có thể nói trong 2 tập tản văn này, tính “Hồi cố” với điểm nhìn quá khứ hiện
diện đậm nét. Nếu cuộc đời nhà văn là “nguyên liệu” làm nên tác phẩm thì mọi biến
động, đổi thay của cuộc đời ấy đều “âm vang” vào tác phẩm. Khi viết hai tập tản
văn này, Y Phương đã chuyển về Hà Nội công tác và sinh sống. Vì thế, mỗi tản văn
56
trong 2 tập tản văn này là một tiếng gọi da diết của đứa con miền núi tha hương, cứ
hướng về quê hương Cao Bằng mà tìm gọi, thương nhớ. Từ đó, dòng hoài niệm
tuôn chảy, đưa tác giả trở về với vùng biên ải, sống lại tuổi thơ cùng bè bạn, tái
hiện lại những nét đẹp văn hóa của người miền núi, để cuối cùng chiêm nghiệm,
ngẫm ngợi về những buồn – vui, được mất của đời người trong dòng chảy thời gian
nghiệt ngã, trong những biến thiên của thời đại. Với đặc điểm này, thủ pháp “phân
thân” được sử dụng để nhân vật người trần thuật tách làm hai: “Mình” trong hiện tại
đang nhớ, ngẫm ngợi tha thiết và đằm sâu về chính “Mình” trong quá khứ gần hoặc
quá khứ xa. Từ điểm nhìn nghệ thuật này, bao chiêm nghiệm của một con người
từng trải, có tình yêu quê hương thắm thiết đã xuất hiện rồi được đúc kết thành
những triết lí nhân sinh sâu sắc. Nếu không phải là “con người tha hương” sẽ không
có điểm nhìn nghệ thuật ấy, không có tâm thế “Hồi cố” và chiêm nghiệm ấy. Bởi
con người chỉ thương nhớ da diết về những gì đã qua, đã mất mà thôi. Nhân vật
người trần thuật “tha hương – hồi cố” trong tập tản văn này đã trực tiếp tự biểu hiện
thế giới tâm hồn của mình. Các chi tiết về ngoại hình, gia đình, nghề nghiệp chỉ
được giới thiệu thoáng qua chủ yếu bằng điểm nhìn gián tiếp, thông qua cảm nhận
của một nhân vật được trần thuật nào đó. Trong tản văn “Chị em”, qua lời nói của
nhân vật “người chị”, chúng ta bắt gặp ngoại hình của người trần thuật với vài nét
vẽ sơ lược: “cầm cái khăn mà đi rửa cái bản mặt cho nó sạch, Gớm! râu với ria
trông đến phát khiếp” [13, 18].
Bằng giọng điệu tự trào hài hước, nhân vật trần thuật này giới thiệu từng là
công chức thời bao cấp, phải nuôi lợn, nấu rượu để mưu sinh trong “Tiếng ve cay
đắng”, từng là quan chức ở Hội Văn học nghệ thuật tỉnh có xe con đưa đón trong
“Bắt khách” và cuối cùng nghề nghiệp là nhà văn, về Hà Nội công tác và sinh sống
mà thấy mình giống như củ khoai lang của quê hương, lạc lõng nơi phố thị. “nhìn
những củ khoai lạ lẫm ngơ ngác, củ nào cũng im thin thít, không dám thở, khoai
làm tôi tủi thân [13,13].
Nếu như phương diện ngoại hiện của nhân vật người trần thuật sơ lược bao
nhiêu thì thế giới tâm hồn của anh ta phong phú và giàu có bấy nhiêu. Mỗi tản văn
tái hiện một tâm trạng “tha hương – hồi cố” của nhân vật này. Để qua đó, chúng ta
biết anh ta cô đơn giữa Hà Nội phồn hoa, không chỉ vì đây là cảnh xa đất lạ người
57
dưng, mà còn bởi “Hà Nội đây thực sự là một rừng buồn. Người sát cánh, chen vai
nhau mà không bao giờ hỏi han” [13,32], và còn bởi buồn hơn thế khi tình người
lạnh lẽo: “Hơi nước xoắc quện vào nhau mà thành tiếng khóc câm. Đây là nơi đất
lạ. Ta cắm chân một lúc, hoặc vài năm thì được. Chứ hít thở cả đời sao nổi. Bụi với
khói lơ lửng từ nhà lên đến trời. Người với người nhìn nhau đúng bắng sắt thép xi
măng gạch đá (…) Chắc gì tổ tiên theo ta mà về thành phố” [13, 183]. Chính với
những nỗi niềm thăm thẳm của con người tha phương này, người trần thuật luôn
“Hồi cố” mà đối tượng trung tâm nhất, da diết nhất để nhớ thương là “quê hương
phập phồng lên hơi thở. Thở càng sâu quê hương càng xa… [13,14]. Trong nỗi nhớ
quê hương ấy, sâu đằm nhất là nỗi nhớ về tình người miền núi, đó cũng là thứ thiếu
thốn nhất khi về thành phố: “cái tình người ở miền núi sao nó thắm thiết sâu sắc
đến cỏ cây cũng hôi hổi hơi ấm tình người” [13,19]. Sau nỗi nhớ khái quát ấy, nhân
vật người trần thuật nhớ về từng đối tượng cụ thể, nhớ để chiêm nghiệm, cắt nghĩa,
lí giải về thân phận con người với bao buồn vui, sướng khổ, được mất trong dòng
chảy vô tình của thời gian, trong sự xô đẩy của bao sóng gió trên dòng sông cuộc
đời. Sau khi so sánh tính hiền lành nhường nhịn của người quê mình với quan niệm
sống của người thành phố, nhân vật người trần thuật rút ra kinh nghiệm đắng chát:
“ở thành phố lâu ngày, tôi mới ngộ ra. Hầu hết mọi người xem cái sự nhường nhịn
là dại dột. Nhường nhịn là đức hi sinh mù quáng. Đắng chát thật”[13,19].
Liên tục sử dụng nguyên tắc phân tuyến – đối lập giữa xưa và nay, giữa quê
nhà và thành phố như thế, người trần thuật “Hồi cố” để mà đối sánh, từ đó chiêm
nghiệm về lẽ đời, về tình người đang đổi thay trước “mặt trái” của cơ chế thị trường
và trong quá trình đô thị hóa: “phố thị Cao Bằng như một ngôi làng nguời trời.
Người trời đang từ từ đang ròa ròa tỉnh giấc. Những cơn mơ điệp điệp thoát ra khỏi
ngực người. Mơ lại trở về làm rừng làm trắng muốt làm cong cong những cánh hoa,
làm núi xanh lam. Cơn mơ không chỉ có chân mà con có cả đôi cánh biết bay…
Cơn mơ người miền núi thường rất đẹp và thơ nhưng đời mơ ngắn lắm [13,84].
Cũng từ những chiêm nghiệm như thế, người trần thuật xót xa khi chứng
kiến những giá trị văn hóa cổ truyền đang mất dần (“Giếng chàm xanh như ngọc”,
Áo tân thời bước vào cửa Vóng”), căm phẫn lên án những thói hư tật xấu xuất hiện
ngày càng nhiều nơi bản xa rừng vắng (“Bơm kim tiêm rải trắng nương ngô” “Giỏ
58
nhà ai”) …, nhưng rất may, những tản văn chất chứa chất buồn đau này không
nhiều, người trần thuật dành phần lớn thương nhớ, tự hào cho những nét đẹp của
quê hương. Ở nơi thành phố ngột ngạt này, anh ta nhớ nhung về những “đặc sản”
của quê hương như để tìm niềm an ủi trong hồi ức. Đặc biệt, chất thơ trong tản văn
của Y Phương là chất thơ mang đặc trưng miền núi đậm nét, và được miêu tả trong
cái nhìn nghệ thuật mang cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
3.2.2. Kiểu nhân vật người trần thuật thi sĩ đi tìm chất thơ mang đặc trưng
miền núi trong hồi ức
Bên cạnh kiểu nhân vật người trần thuật “tha hương - hồi cố”, chúng ta còn
gặp trong tản văn của Y Phương kiểu nhân vật trần thuật thi sĩ đi tìm chất thơ mang
đặc trưng miền núi trong hồi ức. Kiểu nhân vật trần thuật này đã ngược dòng thời
gian, bằng thương nhớ tìm về với một số đối tượng thậm mĩ có sự giao thoa chất thơ
và chất văn xuôi sau đây: Bức tranh thiên nhiên miền núi, Bức tranh làng bản, phố
thị miền núi, hình tượng con người miền núi, nét đẹp văn hoá miền núi. Điều đặc
biệt ở đây là: chất thơ gây ấn tượng mạnh mẽ, ám ảnh với người đọc, toả sáng từ
những đối tượng nên thơ hoặc không nên thơ, bằng nguyên tắc lãng mạn hoá, lí
tưởng hoá, thậm chí phi thường hoá.
Thứ nhất, Đi tìm chất thơ mang đặc trưng miền núi trong bức tranh thiên
nhiên của quê hương.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi có thiên nhiên hùng vĩ: núi cao, vực sâu, đại
ngàn, sông suối v.v… Tất cả đã được tái hiện trong tản văn của Y Phương với vẻ
đẹp thơ mộng. Nhưng Y Phương là một nhà thơ viết tản văn, bởi vậy, chất thơ trong
tản văn của Y Phương vừa “đậm đặc” vừa ánh lên những sắc thái sắc riêng, sắc thái
của một tâm hồn thơ mang bản sắc văn hoá Tày. Trong bức tranh thiên nhiên được
nhân vật người trần thuật tái hiện bằng thương nhớ, chất thơ xuất hiện vừa mang
đặc trưng riêng của vùng đất Cao Bằng vừa biểu hiện được cách cảm, cách nói in
đậm dấu ấn văn hoá miền núi.
Đây là bức tranh thiên nhiên sống động, đa dạng sắc màu, rộn rã âm thanh
chỉ có ở miền núi: “Quê hương Cao Bằng, Bắc Kạn hiện lên bằng người thật. Nghe
như có tiếng róc rách con suối dòng thác ven rừng. Như tiếng đồng cỏ dưới chân núi
Hoa. Nơi có bầy chim sáo đen, chim ri nâu, chim sẻ xám đang ríu rít vui đùa nhảy
59
nhót. Lại nghe như có tiếng út ò, tiếng nghé ọ của đàn trâu bò đang ung dung gặm
cỏ. Ôi! thân thương da diết dâng lên mùi hương đồng quê của ta” [13,182]. Xa cách
quê hương là thế, vậy mà người trần thuật vẫn nhìn thấy bao hình ảnh màu sắc,
nghe thấy âm thanh náo nức, đặc biệt còn dùng khứu giác để cảm nhận được
“hương đồng quê” thân thương. Những câu văn giàu tính nhạc ấy như con thuyền
chở cả thiên nhiên nơi quê nhà, về cập bến một trái tim đang bồi hồi mong đợi, chất
thơ biểu hiện ở cái nhìn “lãng mạn hoá” với đối tượng thương nhớ này.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy, gió, sông, rừng cây, trăng, cánh đồng, bùn
đất… đều ngời lên một vẻ đẹp trữ tình, để trở thành những sinh thể có linh hồn đang
cất lên tiếng hát đặc sắc chỉ có ở quê hương miền núi. Những cơn gió ở Cao Bằng có
màu xanh mát lạnh: “Cùng thời gian này ở Cao Bằng chỉ có một thứ gió mát. Trời ơi!
nó mát lạnh, mát xanh. Gió từ núi đá gió thở ra. Từ lòng sông suối gió hả lên. Từ
rừng cây xanh toả xuống. Thời tiết đẹp mê hồn như cuối thu đầu đồng” [13, 67].
Đến cả bùn đất ở nơi đây cũng “đẹp” lạ lùng, nếu không yêu thương cháy
lòng với nó, làm sao có thể tìm thấy chất thơ trong một đối tượng vốn không thơ
này: “Với bọn ta đã một thời từng tắm cả một cách đồng bùn. Đây mới là đại yến
tiệc. Bùn là quê hương (…). Tuy rằng, bùn bốc mùi tanh tanh ngai ngái nhưng trên
mặt bùn, váng nổi lên đẹp như vân gỗ cẩm lai” [13, 11].
Còn đây là những loại hoa dại mọc nơi quê núi, để người con xa quê ngóng
về xa tít, chỉ thấy trong hồi ức một giấc mơ hoa rực rỡ: “Hoa nhiều như sao trên mặt
đất. Những hoa là hoa. Tôi tha thẩn chơi với hoa cả ngày. Đêm về, các màu hồng,
màu vàng, màu trắng, màu tím… dính chặt từ gót chân lên hai bên má tôi. Chúng
cũng ngủ vùi và mơ màng như người. Những sắc màu thiên nhiên đan cài vào nhau
làm thành giấc mơ hoa kì lạ” [13,166].
Và đây là bức tranh thiên nhiên được miêu tả qua con mắt và trái tim của một
con người miền núi, một thi sĩ miền núi có cá tính sáng tạo độc đáo: “Mỗi lần trâu
cười, tôi thấy vui cả rừng cây con suối. Rừng lao xao hát. Suối rì rào kể. Hình như
khi trâu cười, đất đai mộp mạp thở. Cỏ xanh lóc léc tươi. Và lòng người hoàn toàn
lâng lâng nhẹ nhõm” [14, 66].
Chất thơ đã toả sáng từ một thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên như con người
miền núi, và bao giờ cũng đượm buồn, vì đây là hình bóng thiên nhiên về trong
60
hoài niệm của nhân vật người trân thật.
Thứ hai: Chất thơ trong bức tranh làng bản phố xá ở miền núi hiện về trong hồi ức.
Trong tản văn “Đình chợ Co Xàu”, những phiến đá lát nền đình đã được “thơ
hoá”, để mang trong nó cả tâm hồn của quê hương, để có một vẻ đẹp thâm trầm mà
mơ mộng, chỉ có được khi đã được “soi chiếu” bằng bút pháp lãng mạn. “Có phiến
lên nước xanh như ngọc. Có phiến màu đen tuyền. Có phiến tiết ra muôn ngàn con
suối nhỏ. Tôi nghe như có tiếng cá quẫy. Tiếng róc rách. Tiếng lá thu rơi. Tiếng
người hổn hển vừa chia tay nhau ban chiều” [14,97].
Còn đây là ngôi nhà của người miền núi hoà vào thiên nhiên, lẫn vào sương
mây, lồng lộng gió núi, ngôi nhà hoá thành một vũ trụ thu nhỏ, trong đó, con người
như có thể thầm thì trò chuyện cùng thiên nhiên: “Nhà mình đơn sơ trong sương
mây. Ngôi nhà đứng giữa bốn bề gió núi (…). Ngôi nhà có cầu thang bằng gỗ xẻ, ván
bắc ra làm sàn. Sàn chẳng đựng gì, chỉ dùng để phơi nỗi buồn tháng Chạp. Trong nhà
lúc nào cũng có thiên nhiên vì thế (…). Ngôi nhà sàn như được làm bằng trẻ con”…
[13,31]. Trong hình ảnh này, các biện pháp chuyển nghĩa vốn thường dùng trong thơ
được sử dụng liên tục, tạo ra hiệu quả “lạ hoá” nếu chúng ta so sánh ngôi nhà sàn này
với những ngôi nhà sàn vẫn gặp trong đời thực. Cùng với các biện pháp chuyển nghĩa
quen gặp trong thơ ấy, người trần thuật nhớ và miêu tả thị xã Cao Bằng: “Phố thị Cao
Bằng như một ngôi làng người trời. Người trời đang nằm co trong chăn ấm mà nghe
sương chín” [13,83]. Và những con đường của thị xã ấy cũng đẹp và lạnh như những
câu thơ buồn: “Con đường cong cong óng ánh như nước chảy trên lá sen. Con đường
co lại cho ấm, vì ngoài trời lạnh quá. Sông suối cũng cong cong (…). Tiếng nước buổi
sớm vừa thanh vừa giòn”… [13, 87]. Những chi tiết trong bức tranh xã hội miền núi
này đã được “lãng mạn hoá”, thậm chí “phi thường hoá” để tạo ra một chất thơ đặc biệt
của Y Phương. Các nhà văn cùng quê Cao Bằng với Y Phương như Cao Duy Sơn,
Hoàng Quảng Uyên không miêu tả một chất thơ như thế.
Có khi chỉ với một chiếc chiếu trúc giản dị của quê hương được thấm đẫm
chất thơ, đã hoá lòng mẹ dịu dàng, đã cất lên tiếng nói của quê hương thân thương:
“Nằm hay ngồi lên chiếu, ta như được xà vào lòng mẹ. Những chiếc nan óng mượt,
ôm ấp lấy da thịt mình như người thân. Ta nằm nghiêng, áp tai mà nghe chiếu nói.
Tiếng nói quê hương có màu rơm vàng. Có làn nắng non, có hoa bjoóc phón. Có
61
tiếng suối róc rách chảy. Có tiếng nghé ọ, có giọng bà ru cháu…” [14, 147].
Thứ ba, Chất thơ thắm đượm trong chân dung con người miền núi trở về
trong hồi ức.
Có rất nhiều chân dung con người miền núi trong tản văn của Y Phương
được miêu tả bằng nguyên tắc lãng mạn hoá, lí tưởng hoá của chất thơ. Đó là những
con người mang vẻ đẹp kín đáo ở cả hai phương diện ngoại hình và tâm hồn. Y
Phương đã “nhập vai” nhân vật người trần thuật để tái hiện những vẻ đẹp lí tượng ấy,
trực tiếp ngợi ca tự hào về những con người đáng yêu, đáng quý của dân tộc mình.
Đây là hình ảnh những nàng dâu mới: “Thỉnh thoảng, thấy người đẹp, môi
hồng, da trắng như bột nếp, tóc đen như đuôi gà (…). Họ đích thực là mùa xuân của
mùa xuân. Mùa xuân trong mùa xuân. Chiếc áo chàm mới tinh mặc trên người
không che kín làn da non và ánh mắt dao cau. Ít khi nghe họ nói họ cười. Họ đi đi,
họ về về trong im lặng. Họ ở đâu, ngồi chỗ nào cũng lấp lánh sáng” [14, 14].
Còn đây là hình ảnh người chị trong “Chị em” – một hoá thân của quê hương,
tình nghĩa sâu đậm bền bỉ của người miền núi đã toả sáng một vẻ đẹp vô hình, phải
“nhìn” bằng trái tim yêu thương mới thấy: “Quê hương lại cười trên gương mặt người
kể. Chiếu đến góc nào cũng thấy người chị tôi trắng sáng. Trắng sáng này là tia nắng
non (…).Ánh sáng viền lên tóc lên bờ vai chị, ánh sáng ấy làm chị tôi trẻ lại hàng
chục tuổi. Trong chị tôi xinh đẹp như hồi còn để tóc đuôi gà” [13,19].
Nhưng trong các bức chân dung ấy, đẹp nhất là hình ảnh và tấm lòng người
mẹ. Nếu tản văn “Chắp tay con gọi mẹ” tìm thấy chất thơ từ sự hi sinh cao cả của
người mẹ thì “Mẹ mưởn hay là mây mùa thu đang bay” lại tái hiện một chất thơ
khác: Tiếng con gọi mẹ là những vần thơ tuyệt vời của thế giới này. Đây là tiếng
gọi làm xuất hiện sự sống với cái đẹp: “.tưởng chừng âm thanh kia truyền đi đã tắt.
Nhưng kì thực những tiếng gọi da diết ấy còn lưu lại trên cây. Nó đã ghim vào lá.
Ghim vào vỏ làm thành những nốt sần (….). Những nốt sần đó chính là những tiếng
tha thiết gọi mẹ. Về sau nó lớn lên và thành quả ngọt, tiếng gọi những bậc sinh
thành làm ra quả ngọt” (13,136).
Có chất thơ biểu hiện trực tiếp trong những hình ảnh trên. Nhưng chất thơ
còn biểu hiện gián tiếp, bộc lộ kín đáo trong nhân cách và hành động cao đẹp của
con người miền núi. Đó là chất thơ trong tấm lòng nhân ái hết lòng thương yêu
62
người bệnh của Giáo sư Bành Khiu, trong cách sống đôn hậu trọng tình nghĩa của
nhà thơ Nông Quốc Chân, Bàn Tài Đoàn, trong hớp rượu rót xuống mời đá núi
quê hương của Pờ Sảo Mìn, trong tâm hồn trong trẻo, trọng nghĩa khinh tài của
nhà thơ Bế Thành Long..v..v…Nhân vật người trần thuật đã “Xuyên qua” chất
văn xuôi, thô nhám đời thường để tìm đến, khám phá chất thơ kín đáo, lặng
thầm sâu thẳm của con người miền núi, chất thơ ấy như mạch nước ngầm ẩn
sâu, trong lòng núi đá mộc mạc thô tháp, không phải ai cũng có thể cảm nhận
được vị ngọt ngào của nó.
3.3. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương
Bút pháp chấm phá là một thuật ngữ mượn của Hội hoạ Cổ điển phương
Đông, chỉ cách vẽ đặc biệt của tranh Thuỷ Mặc, không quá chi tiết, tỉ mỉ, toàn diện
về đối tượng mà chỉ bằng vài nét vẽ phóng khoáng, chọn đúng một vài chi tiết điển
hình mà “lột tả” được “cái thần” của đối tượng. Đây là bút pháp nghệ thuật mang
tính đặc trưng của tản văn, bởi một số nguyên nhân sau: Thể tản văn thường ngắn
gọn, hàm xúc nên không thể miêu tả toàn vẹn, tỉ mỉ, đầy đặn về đối tượng cần miêu
tả. Đối tượng được miêu tả trong tản văn bao giờ cũng thuộc thời quá khứ, là đối
tượng thương nhớ được tái hiện lại từ ký ức. Trong muôn vàn đối tượng, kỷ niệm
được sắp xếp chồng lấp nên nhau trong trí tưởng tượng và “kho” kí ức của nhà văn,
chỉ có những gì từng gây ấn tượng mãnh liệt, được lưu giữ qua một vài chi tiết,
đường nét có tính điển hình cho bản chất của chính nó, có khả năng “đóng đinh”
vào kí ức nên không bị “bụi” thời gian phủ mờ như bao đối tượng khác. Chính vì
thế, những đối tượng đặc sắc này, khi xuất hiện trong tản văn, cũng sẽ chỉ được và
chỉ cần phải miêu tả bằng bút pháp chấm phá.
Đọc tản văn của Y Phương, chúng tôi thấy nhà văn thường chọn một
hoặc một vài hình ảnh, chi tiết làm hình tượng trung tâm, để rồi từ hình tượng
trung tâm đó mà tạo thành cấu từ của tác phẩm theo một số phương pháp sau
đây: Quy nạp, diễn dịch, hoặc hình tượng trung tâm ấy đảm nhận vị trí là “mặt
trời” ở trung tâm tác phẩm, các chi tiết, hình ảnh khác như các “hành tinh”
xoay quanh mặt trời, “sức hút” từ “mặt trời” giữ chúng xoay quanh quỹ đạo
chính là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Từ các kiểu cấu tứ kể trên, mối quan
hệ liên tưởng giữa các hình ảnh và sự luận giải của cá nhân người cầm bút sẽ
63
tạo thành tác phẩm.
Với những nguyên tắc nghệ thuật cụ thể kể trên, bút pháp chấm phá trong tản
văn của Y Phương đã được sử dụng để khắc hoạ một số đối tượng thẩm mĩ sau đây:
3.3.1. Bút pháp chấm phá khắc hoạ bức tranh thiên nhiên và xã hội miền núi
hiện về trong hồi ức.
Trong tản văn “Thư gửi bạn chăn trâu”, bức tranh thiên nhiên xã hội của quê
hương tác giả được phác hoạ để tạo thành “toàn cảnh”: “Hình ảnh bơi cực chậm.
Màu sắc hình khối chảy về khi tối khi sáng” [13,7]. Để rồi sau đó, thiên nhiên chỉ
xuất hiện trong vài nét vui tươi, ngộ ngĩnh bằng cái nhìn của trẻ thơ: “Núi rừng
đang ngút ngứt ngủ say, bỗng chốc phải bừng tỉnh giấc vì chúng mình mải mê đùa
nghịch (…)Núi ôm roà lấy khăn bông mây mà lau mặt”[13,8].
Trong tản văn dài nhất này, bút pháp chấm phá tập trung khắc họa hai hình
tượng trung tâm là “Bùn” và “Khoai lang”, chúng gắn kết với toàn bộ các hình ảnh
khác trong tác phẩm bằng liên tưởng, cùng cảm nhận, luận giải của tác giả, tạo thành
chỉnh thể tác phẩm. Hình tượng “Bùn” xuất hiện trong kỉ niệm tắm bùn của trẻ chăn
trâu, từ đó tác giả liên tưởng đến việc tắm bùn chữa bệnh “hết sức vớ vẩn” ở một số
khu du lịch, rồi từ “bùn” mà mở rộng liên tưởng, suy ngẫm “Bùn đất” là “bài ca sinh
sôi. Bùn là bài ca no ấm của loài người. [13,11]. “Khoai lang” là hình tượng trung tâm
thứ hai có quan hệ mật thiết với bùn đất, từ bùn đất mà mọc lên rồi ra củ. Nhưng hình
tượng “Khoai lang” còn nằm trong một trường liên tưởng rộng lớn hơn: từ củ khoai
nướng trong các “Hỏa lò” trên cánh đồng của trẻ chăn trâu đến những củ khoai lang
“im thin thít” khi xuống thành phố, khoai là biểu tượng cho thân phận con người miền
núi tha hương. Rồi còn xa hơn thế, khoai lang thành biểu tượng “người nhà quê”, và
thật buồn khi mà bây giờ, thấy mật khoai rỉ ra, “Tôi bảo đấy là nước mắt người nhà
quê. Người nhà quê chẳng có gì ngoài nước mắt. Củ khoai khóc bởi cái sự giàu nghèo
xứ mình đang ngày càng dài xa (…) khóc ở trong lòng nên khoai nó ngọt” [13,14] . Bút
pháp chấm phá đã phát huy hiệu quả khi chỉ cần qua hình tượng “Bùn” đã gợi nên bao
điều về kỉ nịêm tuổi thơ, về quê hương, cũng chỉ cần qua hình tượng “Khoai lang”,
thân phận người nông dân miền núi và vấn đề “khoảng cách” giàu nghèo trong xã hội
đã được trình bày. Những vấn đề lớn lao ấy, trong truyện ngắn và tiểu thuyết, có lẽ phải
viết rất nhiều trang sách. Ở đặc điểm này, hình tượng trung tâm trong tản văn giống với
64
hình tượng nghệ thuật trong các bài thơ hay: Tả ít gợi nhiều.
Hình tượng “Giếng chàm” trong “Giếng chàm xanh như ngọc” đã trở thành
hình tượng trung tâm, biểu tượng cho một giá trị văn hoá truyền thống của người
Tày đang mai một dần trước văn minh đô thị thời hiện đại. Hình tượng “Giếng
chàm” xuất hiện ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm, sau khi giới thiệu về kỹ thuật
ngâm cây chàm lấy cao chàm để nhuộm vải, tác giả đã miêu tả “Giếng chàm” bằng
bút pháp chấm phá ở hai phương diện sau: từ thành giếng bằng đá mà suy ngẫm về
“Tâm hồn” của đá nơi quê hương: “Hãy sờ tay lên đá. Tay lần đi theo ròi theo rãnh
mà nghe đá nói. Đừng nghĩ đá khô cứng, thô nhám, lạnh lùng. Đá tự hào không ai
yêu làng này bằng mình. Người có chân đi đông, đi tây. Đá không chân, đá nằm, đà
ngồi, đá quỳ, đá chồng lên, đá đứng lại (…). Đá mong chờ ngươi thân” [14,34]. Đá
còn có tình nghĩa như thế, làm sao con người miền núi ở làng quê này không tình
nghĩa?! “Giếng chàm” mang trong nó cả văn hoá tâm linh của người miền núi: “Cha
tôi nói. Con thử gõ lên bờ đá giếng chàm làng mình mà xem. Nếu nghe tiếng kêu nó
đục, biết ngày mai mưa. Nghe tiếng trong, ắt ngày kia sẽ nắng. Nghe tiếng thanh
biết trong làng mình sắp có người sinh em bé. Nghe tiếng trầm có người già ốm
nặng, nay buộc phải về trời” [14,37]. Giếng chàm trở thành biểu tượng của văn hoá
quê hương, nơi chất chứa tâm hồn và trí tuệ của một cộng đồng dân tộc. Vậy mà
trong hiện tại, giếng chàm đang khóc vì đã bị lãng quên. “Trông kìa ở đáy giếng,
nước đọng đỏ hoe như khóc. Giếng chàm ơi”[14,37] .
3.3.2. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương với chân dung con
người miền núi hiện về trong hồi ức
Bút pháp chấm phá đã chỉ “điểm đến” những chi tiết đắt giá nhất, có khả năng
vừa lột tả được nét đặc sắc chỉ có ở vùng cao, vừa làm cho đặc sắc vùng cao ấy nổi bật
lên nhờ sự độc đáo chỉ có được khi “Đôi mắt” và “Trái tim” của Y Phương in dấu ấn cá
tính sáng tạo của riêng mình vào đó. Vì thế, ở đối tượng thẩm mỹ này, dù cùng miêu tả,
tái hiện quê hương Cao Bằng, chúng ta thấy thiên nhiên và bản làng vùng biên thùy ấy
không giống với bất cứ sự miêu tả, tái hiện của một nhà văn nhà thơ khác.
Thứ nhất: Bút pháp chấm phá khắc họa chân dung con người miền núi.
Với chân dung của con người miền núi, bút pháp chấm phá cũng chỉ tìm đến,
khắc hoạ một vài chi tiết có tính điển hình, để qua đó làm sáng tỏ tính cách và bản
65
chất xã hội của nhân vật này. Với giáo sư Bành Khiu trong “Cây nghiến xanh giữa
lòng Hà Nội”, nhà văn tập trung vào hai chi tiết: Mái tóc bay bồng bềnh và đặc biệt
những ngón tay của ông. Nếu mái tóc của nhân vật chỉ nói lên sự từng trải “Cái màu
toát lên vẻ từng trải. người ta thường thấy ở những vị thầy thuốc danh tiếng xua
nay” [13,194] thì hình ảnh những ngón tay tài hoa của nhận vật lại được tả rất kĩ
lưỡng. Trước hết đó là những ngón tay của con người có phẩm chất làm nghệ thuật:
“Khi ngắm nhìn những ngón tay thon dài như búp măng, tôi đã đem lòng yêu mến
bác. Tôi thầm nghĩ, đấy là những ngón tay sinh ra để làm nghệ thuật. Những ngón
tay từng nhào nặn cỏ cây hoa lá vô tri, thành người” [13,194]. Sau nữa, hình ảnh
những ngón tay ấy được miêu tả trong sự gắn bó với một tấm lòng nhân ái cao cả:
“Trên mỗi ngón tay, từng có hàng trăm hàng ngàn con bệnh được bác cứu sống
.(…). Điều quan trọng ở con người này, không chỉ là bắt đúng bệnh, dùng đúng
thuốc. Tâm đắc nhất là ở tấm lòng. Một tấm lòng nhân hậu vị tha…” [13, 195],
Với chân dung nhà thơ Bàn Tài Đoàn, nhan đề của tản văn đã “định hướng”
kín đáo về vẻ đẹp nhân hậu, bao dung, hồn nhiên và trong trẻo của tâm hồn thơ này:
“Tiếng cười ngỡ tiếng suối reo”. Đọc tác phẩm người đọc có thể quên hết câu chữ
để chỉ nhớ hai chi tiết đã thể hiện đúng phẩm chất văn hoá của nhà thơ Bàn Tài
Đoàn. Đó là dáng ngồi tĩnh tại, đôi mắt lim dim, ít nói và nói rất ngắn nhưng trong
đó ẩn dấu sự thông tuệ, lịch lãm, thâm trầm: “Bác Đoàn lim dim như ngọn lửa (…)
khuôn mặt giãn nở, cặp mắt hơi hiếng, bác hủm hỉm…” [13, 210].
Những tiếng cười mới là chi tiết tiêu biểu nhất, chỉ cần qua nó cũng đã hiểu được
bản chất của con người này: “Nhà thơ Bàn Tài Đoàn bỗng phá lên cười. Tiếng cười
như đứa trẻ bị ai cù vào nách [13, 208] và: “Thơ à bác? ờ! Thơ tán gái. Mỗi phiên chợ
bác viết mấy bài? Còn tuỳ. Yêu nhiều viết nhiều. Rồi bác cười, tiếng cười bác Đoàn
nghe sướng tai”. [13, 211]. Nhà thơ hàng đầu của dân tộc Dao ấy có dáng ngồi suy tư
của núi đá vùng cao, có tiếng cười trong vắt của suối, có thói quen, và cũng là “nghề
tay trái” thật thú vị của một nghệ nhân dân gian: Viết thơ tình hộ cho trai gái người
Dao “tán” nhau mà không bao giờ chịu nhận tiền của họ. Chỉ ít ỏi một vài chi tiết thôi
mà chân dung nhân vật này đã toát lên vẻ đẹp chỉ có ở những người nghệ sỹ vùng cao.
Còn trong tản văn “Lãng đãng ơi….Nghiêng nghiêng đi đâu đấy”, một nhan
đề đã gợi liên tưởng về chân dung và tâm tình của nhân vật, nhà thơ Bế Thành Long
66
được khắc hoạ chân dung qua một vài chi tiết đắt giá. “Giọng đọc thơ hút hồn, đầy
bóng dáng ma mỵ”, đẹp trai, tóc xoăn. học hành giỏi, e thẹn và hay xấu hổ: “Tất cả
toát lên vẻ đẹp thuần khiết của người miền núi”. Nhưng chi tiết lột tả được cái
“Thần” của nhân vật này lại là: “Sông Bằng mải miết vô tư, lấp loá trăng vàng. Còn
Bế Thành Long thì lại âm thầm vầy nước. Anh nói nhỏ: Sông nhỉ, khi nào, lắng hết
bùn, người sẽ nhìn thấy cát” (13, 247). Có lẽ chỉ cần có thế, nhà văn đã nói được
bao nhiêu điều về tâm tư sâu kín của nhân vật này.
Thứ hai: Bút pháp chấm phá đặc tả các trạng thái, cảm xúc, suy tư của nhân
vật người trần thuật.
Trong tản văn, chúng ta luôn gặp “cái tôi” tự do của tác giả, tự do bộc lộ cảm
xúc tình cảm, giãi bầy suy ngẫm, bầy tỏ chính kiến của mình. “Cái tôi” tác giả hoá
thân thành nhân vật người trần thuận, một nhân vật trung tâm của tác phẩm. Những
do sự quy định của đặc trưng thể loại, nhân vật trần thuận với nguyên tắc tự biểu
hiện cũng chỉ được khắc họa bằng bút pháp chấm phá về chân dung ngoại hình và
đời sống nội tâm. Trong tản văn của Y Phương, đời sống nội tâm của nhân vật
người trần thuật, với bao cung bậc cảm xúc, suy tư cũng được vẽ lại bằng một vài
nét vẽ sơ lược mà tinh tế.
Đây là tình yêu quê hương và lòng tự hào về bản sắc văn hoá của đồng bào
Vùng cao: “Quê hương phập phồng lên hơi thở. Thở càng sâu quê hương càng xa”
[13,15] và “Bốn chục năm tôi như cá xa sông, như ong xa rừng. Nhớ về quê hương,
lòng tôi như ngày mưa ám khói” [13,32]. Còn đây là nỗi đau và sự phẫn nộ khi
chứng kiến bản sắc văn hoá của dân tộc mình ngày càng mai một tình người đầm
ấm ít nhiều bị lạnh giá bởi sức mạnh của đồng tiền, không cần nhiều lời, chỉ với đôi
ba dòng chữ đã cho ta gặp một dòng sông tâm trạng cuồn cuộn trên mặt trang sách:
“Đồng tiền làm biến dạng con người nhanh chóng thật kinh khủng. Đang từ một
người nông dân hiền lành, thật thà, trở thành một kẻ hung hăng dối trá, tàn ác. Đồng
tiền làm mờ mắt không nhìn ra người thân thuộc, người cùng máu mủ ruột rà”
[13,36]. Hay là: “Ông bà bẩy tám mươi lầm lì khiêng đòn. Họ vừa ôm bụng ho vừa
còng lưng mang vác con cháu mình đi chôn. Bà già bảy tám mươi còn mỗi chiếc
răng, mở mắt là tất bật chân tay làm lụng nấu nướng. Rặt đàn bà con gái phải nai
lưng mà nuôi mấy cái miệng bô lô ba la vô tích sự. Thật không thể hiểu nổi. Thời
67
này là thời gì” [13,96].
Hai tình cảm yêu thương và căm phẫn ấy đã được “Chấm phá” để kiệm lời mà
hàm xúc, lời ít mà ý nhiều, lời dừng lại mà ý còn lan toả mãi, tạo ra sự “dư ba” cho
đời sống nội tâm được đặc tả này. Các biểu hiện cụ thể của hai tình cảm kể trên,
trong muôn vàn tình huống đa dạng của cuộc sống, cũng được gợi tả bằng bút pháp
nghệ thuật ấy.
Miêu tả tình cảm thương nhớ sâu nặng của người chị dành cho nhân vật xưng
“Tôi” trong “Chị em”, tác giả cũng chỉ tô đậm một vài chi tiết: “Chị tôi tươi cười.
Tươi cười thật sự. Nhưng nhìn kĩ ở đuôi con mắt của người đàn bà gần bẩy mươi,
lấp ló hai giọt nước. Hai giọt nước trong vắt lăn xuống cằm, trông như hai giọt
ngọc” [13,20]. Ở đây tác giả đã sử dụng thủ pháp “Vẽ mây nẩy trăng”: Cảm nhận
thật tinh tế tình cảm của “chị” đầm đìa trong hai giọt nước mắt, người em xưng
“tôi” kia đâu có thể là người vô tình?!. Tình cảm mà nhân vật “tôi” dành cho người
cháu trong “Ở Đà Tẻ tôi có một que tăm” cũng được gợi tả qua hai tiếng khóc: Một
tiếng khóc thầm cố nén trong lòng và một tiếng khóc để nước mắt yêu thương ùa vỡ
ra ngoài, Hình như có một biển khơi tình cảm bị “gói chặt” vào trong cân chữ: “Nó
thì cười hết cỡ còn tôi thì khóc. Khóc mà không thành tiếng. Khóc thầm trong ruột
(…) Tôi ôm cháu vào lòng. Nước mắt không cầm được nữa, nó đã bục ra và chảy
vòng quanh, rớt xuống ướt hai bờ vai áo cậu cháu” (13,55).
Còn khi về quê, chứng kiến sự đổi thay có cả hay và dở của quê hương, nhà
văn tự biểu hiện tâm trạng của mình thật ngắn và cũng thật đúng: “Tôi về quê,
không chỉ một lần, mà có đến vài chục lần. Lần nào tôi cũng có tám chín niềm vui
và mười một nỗi buồn, vui buồn lẫn lộn như trong cơm có sạn” [13,153]. Cách nói
giàu hình ảnh ấy tạo ấn tượng mạnh. Có bao người từ thành phố về thăm quê cũng
đã gặp lòng mình trong tâm trạng của Y Phương?!
Cũng vẫn cách miêu tả tâm trạng đầy hình ảnh nhưng luôn luôn tỉnh lược tối
đa các chi tiết thừa, chỉ tô dậm một vài chi tiết tiêu biểu có tính khơi gợi mạnh mẽ,
nhà văn tả tâm trạng mình khi gặp gỡ trò truyện với người cùng dân tộc Tày giữa
thủ đô: “Chú Bình, chúng tôi vẫn xưng hô theo kiểu người Tày, vội vã chào tôi
bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi nghe xúc động buốt nhói tận buồng tim, lá gan (…) Hơi
68
nước xoắn quyện vào nhau mà thành tiếng khóc câm…[13,182, 183].
Với nỗi lòng của một người con tha hương nhưng không bao giờ quên mình là
người Tày, và cũng không bao giờ đánh mất bản chất tốt đẹp vốn có của mình nhà
văn tâm sự về điều đó thật đặc biệt. “Mẹ tôi nói: Tốc đin ra mạ lấc, Tốc đin than mạ
me. Nghĩa là tại đất mình thành ngựa đực. Sống ở nơi người là ngựa cái Ngựa đực
luôn ở thế thượng phong chủ động. Muốn gì được lấy, còn ngựa cái chỉ cần để cho
người ta cưỡi (…). Nhưng bốn mươi năm kể từ ngày xa nhà tôi chưa bao giờ cảm
thấy mình là ngựa cái. Dù sống ở chân trời nào, tôi vẫn là một con ngựa đực. Một
con ngựa đực đàng hoàng” [14,41].
Chính vì điều đó “Nhúng xuống thành ghế”, Y Phương vẫn có thể kiêu hãnh
khẳng định: “Bạn biết không tôi như que thử. Nhúng xuống thành phố mà vẫn cứ
xanh một màu rừng” [13,32].
Như vậy, bút pháp chấm phá trở thành một đặc trưng quan trọng của tản văn, một
nét đặc biệt trong nghệ thuật trần thuật của thể loại văn học này. Nhà văn viết truyện
ngắn, tiểu thuyết còn có khao khát xây dựng những “Đại cảnh” hoành tráng, những bức
tranh thiên nhiên và xã hội rộng lớn, và “đan cài” vào đó là những đoạn triết luận hay trữ
tình ngoại đề mà số lượng gần như không bị hạn định. Nhà văn viết tản văn chỉ chăm chú
kí họa những “Tiểu cảnh” bằng bút pháp chấm phá. Lời tác giả dẫn dắt, bình luận hay
bộc lộ cảm xúc, suy tư, triết lí cũng thật ngắn, hàm súc, giàu tính gợi tả như lời thơ vậy.
Dù là cảnh, người, sự kiện hay tâm trạng cũng chỉ hiện lên thấp thoáng, với cái “Thần”
của nó được “Đóng đinh” vào trí nhớ bạn đọc bằng các chi tiết đắt giá. Tản văn của Y
Phương cũng sử dụng bút pháp nghệ thuật này và đã đạt được hiệu quả nghệ thuật đặc
sắc. Bức tranh thiên nhiên và xã hội, hình ảnh con người miền núi nơi quê hương, bức
tranh tâm trạng của tác giả chỉ được “Chấm phá” mà như đã được “Chạm khắc” thật ấn
tượng, để lại bao yêu mến và trân trọng trong lòng người đọc.
3.4. Cấu trúc câu đặc biệt và hệ thống từ láy mới mẻ đầy sáng tạo trong tản
văn của Y Phương.
3.4.1. Cấu trúc câu đặc biệt trong tản văn của Y Phương
Ngôn từ là chất liệu đặc thù, là phương tiện thứ nhất của văn học. Nhờ có
ngôn từ, nhà văn tái hiện cả thế giới hữu hình và vô hình, đặc biệt, ngôn từ biểu
hiện rõ nét và sinh động mọi trạng thái cảm xúc, tình cảm, suy tư vốn rất mong
69
manh, mơ hồ của người viết. Tuy ngôn từ là chất liệu chung cho mọi nhà văn xây
dựng tác phẩm, nhưng với những tác giả tài năng, ngôn từ bao giờ cũng in đậm cá
tính sáng tạo của họ, tạo ra sự đặc sắc, độc đáo, không thể bị nhầm lẫn vào sáng tác
của bất cứ tác giả nào khác. Với tản văn của Y Phương cũng thế! Ngôn từ trong tác
phẩm của ông, bên cạnh những đặc điểm chung của ngôn từ nghệ thuật trong tác
phẩm văn học như tính hình tượng, tính phi vật thể, tính “Lạ hoá”, tính phổ thông,
tính vạn năng thì còn có những đặc điểm riêng làm nên “hương vị miền núi” của
riêng Y Phương. Khảo sát hai tập tản văn của nhà văn này, chúng tôi thấy nổi bật
một số đặc điểm trong tổ chức cấu trúc câu sau đây.
3.4.1.1. Kiểu cấu trúc câu ngắn - liệt kê - tăng cấp.
Chúng tôi thấy trong tản văn của Y Phương xuất hiện một kiểu cấu trúc câu có
tính phổ biến: đó là kiểu cấu trúc câu rất ngắn, mỗi câu chỉ có vài từ hoặc được tạo
thành bằng một vài mệnh đề rất ngắn thậm chí không có chủ ngữ hoặc chủ ngữ
“ẩn”. Trong những đoạn văn bao gồm hàng loạt câu đơn này, hàng loạt hình ảnh
xuất hiện liên tiếp với thủ pháp liệt kê và cách nói tăng cấp (hay còn được gọi là thủ
pháp “Bồi thấn”). Cách nói tăng cấp này kết hợp với hoặc thủ pháp so sánh hoặc thủ
pháp cường điệu nhằm tới hai hiệu quả nghệ thuật: vừa liên tiếp “Tô đậm” hơn tính
chất, trạng thái của sự vật hiện tượng được miêu tả vừa nhiều lần khắc sâu hơn tình
cảm, suy nghĩ, luận giải chủ quan của người viết. Kiểu cấu trúc câu đặc biệt này
hướng tới việc tái hiện một số đối tượng thẩm mỹ sau đây: Con người, loài vật, đồ
vật.v..v…và kèm theo đối tượng thẩm mĩ ấy là tâm trạng chủ quan của nhà văn.
Thứ nhất: Kiểu câu đặc biệt tái hiện các trạng thái nhân sinh của con người
trong tản văn Y Phương.
Khi tái hiện hình ảnh lũ trẻ chăn trâu ăn khoai nướng và cái ngon kì lạ của
khoai nướng, tác giả viết: “Trời ơi! Nhai cái thứ này ngọt từ kẽ răng ngọt xuống đến
gót chân. Thơm từ vai áo chàm đến chiếc móng tay. Ăn từ từ thôi kiểu bỏng rát, kẻo
méo cả mồng lẫn miệng. Dặn thì dặn thế những kia kìa, nó đã bỏng lên hai dái tai.
Hai dái tai rung rinh sáng lên như hai nụ điện. Ngon quá. Ngon đến mức cắt hai
màng tai rời ra mà không biết đau” [13,12]. Đoạn văn gồm 8 câu văn liệt kê các
hình ảnh gắn với vị ngọt, mùi thơm, động tác “ăn” khoai nướng và tác động từ
cái “ngon” của khoai nướng đến con người. Cách nói tăng cấp qua thủ pháp
70
cường điệu đã đẩy cái “ngon” của khoai nướng lên tới đỉnh điểm: Ngọt từ kẽ
răng xuống đến gót chân, thơm từ vai áo chàm đến chiếc móng tay. Đặc biệt thủ
pháp cường điệu kết hợp với thủ pháp so sánh đã cực tả cái “Ngon” của khoai
nướng đến mức phi thường, “Hai dái tai rung rinh sáng lên như hai nụ điện (…).
Ngon đến mức cắt hai màng tai ra mà không biết đau”. Qua kiểu cấu trúc câu
này, cả cái “Ngon” của khoai nướng và tình cảm của tác giả dành cho kỉ niệm
tuổi thơ đều được tô đậm tới tột cùng.
Còn trong “Trảy Khu Tư”, hồi ức về đồng đội của một thời trận mạc đã trở về
sống động trong hàng loạt câu văn và các hình ảnh liệt kê, các hình ảnh được thủ
pháp cường điệu và so sánh “tô đậm” nhiều lần, tạo ra một vẻ đẹp vừa hiện thực
vừa lãng mạn: “Người tìm cọc mắc võng. Người tìm nước nấu cơm, Cơm được nấu
bằng bếp Hoàng Cầm lâm râm dưới trời mưa bụi. Nên cơm oi khói. Người cũng oi
khói. Đoàn quân ngúc ngắc đứng lên như khói” [13,45].
Họp chợ đã trở thành văn hoá chợ của vùng cao. Cũng bằng kiểu câu đặc biệt
này, hình ảnh người miền núi đi chợ không phải vì mua bán mà vì tình vì nghĩa đã
hiện nên thật độc đáo: “Chơ Hàng Toán là ngày vui tưng bừng từ sáng đến tối
mịt. Người lớn tìm người lớn, trẻ con tìm trẻ con. Người già tìm người già. Mặt
hướng vào nhau mà cười, mà nói, mà kể, kể chuyện nhà, chuyện mùa màng thóc
lúa. Chuyện dựng vợ gả chồng (….). Trai gái tìm nhau, thấy nhau. Toàn thân họ
lục bục sôi như cơm. trái tim hình ngọn lửa hừng hực cháy”. [13,49 – 50]. Có
biết bao nhiêu yêu mến nhớ thương của tác giả dành cho những con người của
quê hương miền núi này?
Còn đây là cảnh “Tết về làng người Trời”, với hàng loạt câu văn ngắn có tiết
tấu gấp gáp, tái hiện liên tiếp các hình ảnh liệt kê, nhà văn đã miêu tả cảnh dân làng
thịt lợn ăn tết thật náo nức. “Người ta chọc tiết. Rồi phanh ngực, mổ bụng, moi gan.
Bới tìm lục phủ ngũ tạng. Người ta chia nhỏ xương một bên, thịt một bên. Lòng già,
lòng non, tim gan phổi phèo mỗi thứ một tí..(…). Họ vừa làm vừa suýt xoa kêu rét.
Cái rét cứ như kim nhọn đâm chọc lên khắp người” [13,38].
Nhưng đặc sắc nhất có lẽ là chân dung người mẹ già gian khó suốt đời mà vẫn
bao dung, nhân hậu, tác giả không chỉ khắc họa thành công chân dung cùng tấm
lòng của mẹ mà còn gián tiếp bộc lộ tình cảm sâu nặng của người con dành cho
71
đấng sinh thành: “… trước mắt tôi hiện về một gương mặt hiền lành, nhân hậu. Một
đôi mắt cực sáng trong vắt. Một nụ cười cay cay thơm thơm nồng nàn mùi trầu. Một
màu áo chàm sờn bạc. Những sợi vải thô mộc bị lồi ra, bị bào mòn bởi mưa nắng và
mồ hôi của mẹ. Mồ hôi muối loang thành vết trắng. Chúng tụ lại như những đám
mây mùa thu trên lưng áo mẹ” [13,126]. Số từ “một” được điệp lại bốn lần để khắc
hoạ 4 hình ảnh vừa phúc hậu vừa biển hiện về một cuộc đời vất vả, 4 hình ảnh ấy
được liệt kê liên tiếp để khắc sâu tới bốn lần vẻ đẹp giàu đức hi sinh của mẹ, và tình
cảm kính yêu pha lẫn xót thương mỗi ngày một sâu thẳm hơn của tác giả.
Thứ hai: Kiểu câu đặc biệt tái hiện hình ảnh đồ vật trong tản văn của Y Phương.
Khi miêu tả kiến trúc pha tạp của các ngôi nhà tại thành phố Vinh, tác giả viết:
“Một tí Pháp. Một tí Mỹ. Một tí Nhật. Một tí Trung Hoa. Một tí Trung Đông tháp
vuốt củ hành…đúng là kiểu tư duy bày biện của người Việt. Một dúm kim khâu,
kim băng, vài cái cúc bấm. Mấy cuộn chỉ mầu. Dăm tập giấy. Vài cuốn vở, linh tinh
lang tang như rừng nhiệt đới” [13,43].
Cũng với cấu trúc câu ngắn – liệt kê – tăng cấp này, nhà văn miêu tả núi đá ở
Cao Bằng thật sinh động và có hồn: “núi con đứng trên vai núi bố. Núi cháu đứng
trên vai núi bà. cứ thế đá núi chồng đè nên nhau chọc thủng trời mây.(…) bạn sẽ
thấy núi gái kéo tai núi trai. Núi đực ôm eo núi cái. Chúng dan díu thành hàng đàn,
hàng lũ…” [13,15].
Thủ pháp nhân hoá đã biến đá núi vô tri thành những sinh thể có tâm hồn. Thủ
pháp liệt kê phối hợp với cách nói tăng cấp khiến cho hình ảnh đá núi hiện ra ngày
một ngộ nghĩnh đáng yêu: một đại gia đình đá núi đang cựa quậy và có những sinh
hoạt thường nhật của con người.
Khi tả “nắng non” nơi quê nhà, tình yêu thắm thiết dành cho thiên nhiên ở nơi
đây đã khiến tác giả như không thể kìm nén nổi lòng mình, cảm xúc tình cảm cứ
như con sóng liên tiếp dâng trào: “Kia là nắng non. Nắng tươi non lọt qua khe liếp,
qua cửa trăng. Nắng tươi non chiếu nghiêng nghiêng, rơi chênh chếch lọt hẳn vào
trong lòng nhà. Nắng tươi non vào sưởi ấm căn buồng gái đẻ…” [14,164] Điệp từ
“Nắng tươi non” lặp lại ba lần và cũng ba lần thủ pháp liệt kê phát huy hiệu quả cao
của nó. Màu nắng đặc biệt ấy được cách nói tăng cấp “tô đậm” hơn cho vẻ đẹp
72
trong trẻo thanh bình.
Cũng với cấu trúc câu đặc biệt này, nhà văn miêu tả ánh trăng nơi nhà sàn quê
núi thật đặc sắc: “Đêm nay trăng lên, trăng chiếu sáng xanh cả vườn vầu rừng trúc.
Cả cánh đồng lúa. Cả tiếng mõ trâu lốc cốc trong chuồng. Cả ngọn đèn dầu lạc, cả
chòm râu ông già ngồi im phăng phắc. Trăng chiếu lên muôn người muôn vật, làm
cho nỗi buồn bớt lạnh” [14,177]. Đoạn văn gồm 7 câu, hình ảnh “Trăng” được liệt
kê trực tiếp và gián tiếp trong cả 7 câu, trở thành một chi tiết nghệ thuật đắt giá,
cách nói tăng cấp khiến cho vẻ đẹp của trăng, sự kì diệu của ánh trăng hiện diện
trong một kết cấu trùng điệp, có sức lan toả và ám ảnh kì diệu.
Thứ ba: Kiểu câu đặc biệt tái hiện hình ảnh loài vật trong tản văn của Y Phương.
Bên cạnh hình ảnh con người và hình ảnh đồ vật, chúng tôi bắt gặp sự xuất
hiện khá phổ biến cấu trúc câu đặc biệt này được sử dụng để miêu tả loài vật. Và
đây cũng là một nét đặc sắc trong ngôn từ nghệ thuật của tản văn Y Phương, trong
đó xuất hiện hàng loạt hình ảnh được liệt kê, nằm trong cách nói tăng cấp, “Tô
đậm” nhiều lần các tính chất, trạng thái, hoạt động, mầu sắc….của đối tượng thẩm
mỹ được miêu tả.
Đây là hình ảnh đàn bò được miêu ta thật độc đáo khi đặt vào khung cảnh núi
rừng lúc chiều về: “Kế đó là tiếng Út ò gọi đàn. Tiếng đàn con bê… ề.., tìm mẹ.
Tiếng mõ trâu lốc cốc vang từ cửa rừng vang ra. Cả một đàn bò đi nghiêng nghiêng
như sắp rơi xuống vực. Thế mà con nọ lại húc vào mông con kia chạy đuổi nhong
nhong như múa. Có con khác lại ngửa cổ lên trời rằng ối ôi cuộc đời ơi sao mà
sướng thế” [13,63].
Đọc đọan văn, chúng ta tưởng như đang nhìn thấy những hình ảnh mang
những âm thanh mộc mạc, ngộ nghĩnh đang nối đuôi nhau vui sướng di chuyển về
với bản làng. Hàng loạt động từ xuất hiện liên tiếp như đẩy tốc độ di chuyển của
đàn bò ngày một nhanh hơn, hình ảnh của đàn bò ngày một rõ nét hơn trong điểm
nhìn dịch chuyển từ xa lại gần.
Cũng bằng phương thức tổ chức câu và từ ngữ ấy, nhà văn miêu tả một hình ảnh
ngộ nghĩnh và đáng yêu và cũng hàm ẩn một triết lí nhân sinh sâu sắc: Trâu khổ thế mà
còn được cười. Tạo hóa thật công bằng Người có khổ đến đâu cũng đừng chỉ có biết
73
khóc?!: “không hiểu sao, trâu tự làm mất tiếng. Trâu chỉ biết cười thôi. Mỗi khi nhớ đồng
bọn, nó ngửi vào mùi nước đái. Thế là trâu ngửa mặt lên trời. Trâu cười. Mỗi lần trâu
cười tôi thấy vui cả rừng cây con suối (…. Khổ như trâu mà còn được cười”. [14,66]
Trong tản văn “Tết Slíp Sli ăn thịt vịt”, khi tự hào kể về một phong tục cổ
truyền của người Tày, tác giả viết: “Ngoài bánh gai Tết rằm tháng Bảy chúng tôi
còn mổ vịt (…) nghĩa là tháng Bảy ăn thịt vịt. Chọn những con vịt béo nhất đàn.
Một con dành để cúng tổ tiên. Một con cúng hồn ruộng lúa. Một con cúng vía trâu
bò. Một con dành hẳn cho trẻ chăn trâu, mang theo ra đồng cỏ…” [14, 113].
Cấu trúc câu đặc biệt này của Y Phương đã liệt kê liên tiếp các hình ảnh cùng
loại với số từ “một” được điệp lại bốn lần, nhịp điệu dồn dập gấp gáp như đã tượng
hình cho một món ăn là “thịt vịt” liên tiếp được xuất hiện, và nó còn gợi liên tưởng
cho niềm vui náo nức trong ngày Tết Rằm tháng bảy nơi quê núi này.
3.4.1.2. Thủ pháp “Điệp cấu trúc” gợi liên tưởng đến cấu trúc thơ trong tản văn
của Y Phương.
Trong một số tản văn của Y Phương, chúng tôi thấy xuất hiện một hiện tượng khá
thú vị: Có những câu văn được điệp lại nguyên vẹn hoặc điệp lại trong trạng thái bị tỉnh
lược dần, hình thành cách tổ chức văn bản có vận dụng thủ pháp “Điệp cấu trúc” câu văn.
Hiện tượng này vừa tạo ra những “âm vang” cho câu chữ, những “khoảng lặng thẩm mĩ”
nằm giữa các câu văn, vừa là “dấu tích” cho sự “xâm nhập” của thơ vào văn xuôi.
Trong thơ, chúng ta cũng từng gặp thủ pháp “điệp cấu trúc” xuất hiện trong
khá nhiều bài thơ.
“Ta biết người buồn chiều hôm trước (…)
“Ta biết người buồn sáng hôm nay” (Thâm Tâm – Tống biệt hành).
Hay là: “Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cũng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son….”
74
(Tố Hữu – Việt Bắc)
Với một số tản văn của Y Phương, một nhà thơ viết tản văn, “dấu tích” của thơ
không chỉ xuất hiện trong hình ảnh, ngôn ngữ giàu “chất thơ” mà còn hiện diện
trong một số trang văn sử dụng thủ pháp “điệp cấu trúc” để “khắc sâu” nhiều lần
một phẩm chất nào đó của đối tượng thẩm mĩ, qua đó bộc lộ tư tưởng và tình cảm
chủ quan của người viết.
Trong tản văn “Chị em”, hình ảnh “quê hương” đẹp và đầy ắp thương nhớ
được kết tinh vào hình tượng “người chị”, nó xuất hiện ba lần, mở đầu cho ba đoạn
văn với những biến thể tuy khác nhau ít nhiều về câu chữ, nhưng vẫn có chung một
sắc thái thẩm mĩ là cái đẹp và cái cao cả: “Quê hương tươi rói hiện lên nét mặt
người kể (…). Quê hương phập phồng lên hơi thở (…). Quê hương lại cười trên
gương mặt người kể…” [13, 19].
Cũng tương tự như thế, trong tản văn “Nhúng xuống thành phố”, để diễn tả nỗi
cô đơn giữa phố phường Hà Nội, một câu văn được điệp lại hai lần, mà lần điệp lại
thứ hai đã chất nỗi buồn trĩu nặng lòng người hơn lần thứ nhất: “Hà Nội đúng là
một rừng người (…) Hà nội đúng là một rừng buồn” [13, 30 – 32]. Nhưng thủ pháp
điệp cấu trúc xuất hiện rõ nét nhất, phát huy hiện quả cao nhất trong một số tác
phẩm sau đây của Y Phương.
Trong tản văn “Những người đàn bà hút Sục dín”, câu văn miêu tả trạng
thái bất động về thân thể, hồi cố trong tâm trí của một người đàn bà hút Sục
dín đã được điệp lại bốn lần một cách nguyên vẹn cả về từ vựng và cú pháp:
“Lúc này. Bà muốn nhớ ai thì nhớ. Bà muốn gặm ai thì gặm. Tay bà cầm que
hương dí gần sát mặt mình (…). Lúc này. Bà muốn nhớ ai thì nhớ. Muốn gặm
ai thì gặm. Tâm hồn bà là chú ngựa hoang (...). Lúc này. Bà muốn nhớ ai thì
nhớ. Muốn gặm ai thì gặm. Ống điếu Sục dín cầm lỏng trên tay (...). Lúc này.
Bà muốn nhớ ai thì nhớ. Muốn gặm ai thì gặm. Đời người hết khô là đến
ướt…” [13, 174 – 175]. Cấu trúc câu được điệp lại bốn lần này không chỉ khắc
vào không gian, thời gian, tâm trí người đọc một hình tượng người đàn bà hút
Sục dín mà như còn muốn đồng hiện hình tượng ấy trong bốn thời điểm mang
bốn tâm trạng khác nhau, chảy trôi trong dòng hoài niệm. Tất cả toát lên một
nỗi buồn chiêm nghiệm, khi thân xác bất động ở đây mà tâm trí ngược dòng
75
thời gian, tìm về quá khứ đầy ắp vui buồn “hết khô là đến ướt”.
Độc đáo hơn nữa, ở đoạn kết của tác phẩm, một câu văn được điệp lại tới sáu
lần, mỗi lần lại tỉnh lược đi một vài từ:
“Tôi không phải đàn bà hút sục dín. Tại sao trong lòng lúc này ngả nghiêng
những lọn khói bạc màu.
Tôi không phải là người đàn bà hút sục dín
Tôi không phải là người đàn bà
Tôi không phải là người
Tôi không
Không (…) ” [13, 175-176]
Thủ pháp tỉnh lược đã rút gọn dần câu văn, sau sáu lần chỉ còn lại một từ
“không ” đứng độc lập ở một dòng. Cấu trúc câu được điệp lại và rút gọn này mang
tính mơ hồ đa nghĩa. Nhưng từ sự định hướng của chủ đề tác phẩm, chúng ta có thể
đưa ra một số giả thiết về ý nghĩa của nó: Sau mỗi lần cấu trúc câu được rút gọn là
thời gian đời người lại ngắn đi một ít. Những kỉ niệm lặng lẽ rơi để “kho” kí ức vơi
dần. Hình ảnh người đàn bà hút Sục dín càng đi về quá khứ trong hồi ức thì càng
cách xa hiện tại. Tác giả ở thời hiện tại đang nhìn theo hình bóng ấy trong tưởng
tượng và chỉ thấy người đàn bà ấy xa dần, mờ dần rồi biến mất sau “lớp bụi” thời
gian. v.v… Những giả thiết này phần nào trở thành minh chứng cho một cấu trúc
thơ bất chợt xuất hiện trong tản văn của Y Phương.
Thủ pháp điệp cấu trúc còn xuất hiện trong khá nhiều tản văn khác của Y
Phương, tạo ra một sức gợi mạnh mẽ, cùng những lớp nghĩa hàm ngôn được khai
thác tưởng như không bao giờ cạn kiệt. Đó là cấu trúc văn bản với ba lần điệp lại
câu văn mở đầu cho ba đoạn văn: “Phố thị Cao Bằng như một ngôi làng người trời”
[13, 82 -83], hay câu văn “Đêm đầu tiên ngủ tại nhà mình” [13, 99-100] được điệp
lại bốn lần. Những cấu trúc câu được điệp lại nhiều lần này còn tạo ra tính nhạc rất
độc đáo trong tản văn của Y Phương. Đây là âm nhạc vô thanh đang tấu lên trong
tâm tưởng của nhà văn. Nếu có thể ví mỗi tản văn của Y Phương như một bản nhạc
tâm hồn mà văn hóa Tày là phím đàn, thương nhớ là dây đàn, kỉ niệm là những nốt
nhạc thì những cấu trúc câu được điệp lại nhiều lần với những biến thể của nó là
những nốt nhạc chủ đạo, được láy đi láy lại nhiều lần, trở thành chủ âm cho từng
76
bản nhạc nhỏ xinh này.
Bên cạnh đó, thủ pháp điệp cấu trúc còn hỗ trợ cho bút pháp chấm phá để khắc
họa một vài nét điển hình của chân dung nhân vật. Tản văn “Cơm nhan” đã khắc
họa chân dung nhà văn Hoàng Quảng Uyên bằng cấu trúc “mới hôm nào…” với ba
lần điệp lại. Còn trong tản văn “Chắp tay con gọi mẹ”, hình ảnh và tấm lòng người
mẹ cũng được tái hiện qua điệp khúc: “Nhìn tấm vải để…..” [13, 128], xuất hiện 3
lần trong tác phẩm.
3.4.2. Hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ, đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương
Trong hai tập tản văn của Y Phương, chúng tôi bắt gặp rất nhiều từ ghép, từ láy do
nhà văn sáng tạo ra. Và đây là một trong những nét đặc sắc nhất trong ngôn từ nghệ thuật
của tản văn Y Phương. Những từ ghép, từ láy chưa từng xuất hiện trong Từ điển Tiếng
Việt, vừa biểu cảm vừa tạo hình, vừa có khả năng gợi liên tưởng mạnh mẽ cho người
đọc. Sau đây là bảng thống kê về hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ ấy.
Bảng 1.
Số Các từ ghép mới trong TT Tên tản văn lượng Các ví dụ tiêu biểu tản văn từ
Mây râu sương móc, nhọc
nhạch, ngút ngứt, ôm ròa, “Trẻ trâu là quãng đời Thư gửi bạn nhả nhùng, roàn roạt roàn thủm thẳm ngấu mùi bè 1. 11 chăn trâu roạt, cầm thua, hăn hắt bạn” [13,15] buồn, lốm ngốm, lóp cóp,
thủm thẳm
“Chiều đến góc nào Nhồn nhột, lủm nhủm, rơn 2. Chị em 4 cũng thấy người chị tôi rớn, nhay nhay chạy rơn rớn xanh” [13,19]
Những người Nhòm nhèm, cà rệch cà “Chỉ tổ cho người ta
3. đàn bà hút sục tang, nháp nhắng, lẹp phẹp, 5 nhòm nhèm thèm
dín mùm mím thuồng” [13,171]
77
“Nói về lều canh Chõng tre lều 4. Áp ấp, nhóc nhách 1 nương nhóc nhách nương sướng đến thế” [13,17]
Xọt xẹt, phít phát, út ò, “ít nữa có tiền thù lao Vẫn còn một 6 5. thăm thắp, thóp thép, lủm tha hồ mà xọt xẹt bia nơi sạch sẽ loảm bọt” [13,181]
“Mụ ngồi một mình
6. Lớp vỡ lòng Bọp bẹp, thổn thển 2 (…) phát ra tiếng bọp
bẹp xì xầm” [13,189]
“Da thịt chúng hồng Ánh sáng đêm Màu giao thừa, khe re, khừ 5 7. hào một màu giao thừa giao thừa rừ, nhí nhó, pọp pẹp líu ríu” [13,136]
Bãi kỉ niệm vui, nhùm “Nhưng tại đây tôi có Rau tập tàng 8. nhìm, cốp cáp, nhóc nhách, 5 cả một bãi kỉ niệm vui” quê ngoại [13,139] lóa xóa
“Quê hương roà roà tan Về quê nghe 9. 1 vào trong xương thịt” Ròa ròa người nói [13,139]
Nháo nhào “Bóng của ma nhọp 2 Nhọp nhẹp, rơn rớn 10. ma xay thóc nhẹp lởn vởn” [13,77]
Nụ điện, phi pho phì phò, “ánh sáng toả ra từ Tết về làng 5 11. mùi thàu, tùm tum, sương những nụ điện yếu ớt” người trời [13,82] chín
“Đống quặng trước nhà Bơm kim tiêm Đánh ròa đánh oạch, khoản là khoản tiền cởi truồng 2 12. rải trắng tiền cởi truồng nằm đó” [13,90] nương ngô
Núi non chất “Mây bồ kết bay ra 13. 2 Mây bồ kết, kít két ngất trắng đục [13,98]”
“Tiếng mỡ nổ tí tóp Tiếng chảo Loát xoát, ruối nhảy, tí tóp 3 14. tưng bừng” [13,103] kêu loát xoát
78
“Những người bạn Bản nhạc mùa Mó mé, roác khoác, út hút, 15. 5 khác giới mó mé tìm thu bâu người, lọp đọp đến” [13, 107]
“Bàn thờ nhà mình Đục oùn, oai oách, phjóp 16. Dọa ma 3 phjóp phjép nở những phjét bông hoa” [13,114]
Áo tân thời “Dâu Tây noóng neéng Nhúng nhính, noóng neéng, 17. 4 bước vào cửa chèo lên thang tre” [13, tho lo, túng tính tùng tình vóng 121]
“Nhất định không bao Nhúng xuống 18. Nhả rầy, nói lời cong 2 giờ quỳ gối và nói lời thành phố cong” [13,29]
Thã thượt, bùng biềng, lăng “Cứ bùng biềng ngân
19. Trẩy khu Tư lắc, nhóc nhéc, lào thào, 6 nga… như hò sông
giòn nẩy Mã” [13, 41]
Tắc kè nhớ Thóm thèm, lơ lớ xanh, sủa “Bốn mùa nước sông lơ 4 20. khăng khẳng, đăm đẳm lớ xanh” [13,57] núi
“Cô ấy mới thò thè Tiếng ve cay Sóng ngọt, thò thè, hắc hoải 3 21. bước thấp bước cao vào đắng cửa làm dâu” [13,70]
“Nôn xanh xao héo hắt Kung fu 22. Nôn xanh xao cả ruột gan” [13,74] người Co xàu
“Thời gian say bét 1 23. Tiếc hoa Bét nhét, sợi thời gian nhét” [14,207]
Hằng hà sa sợi tóc, lum
cum, lủm củm, eo éo xồ “Tiếng các bếp lửa nhà Đi chợ nhìn hàng eo éo xồ xòa” 24. xòa, phi pho thở, nhày 8 người nhạy, nhùm nhìm, nhúm [14,156]
nhím
D3ương eng, “Vẻ mặt ai cũng nhoóc
25. Nhoóc nhéc, thúc thắc 2 tục thăm gái nhéc một nụ cười ruồi”
79
đẻ [14,163]
Ngồi ghế rơm “Từ khi còn là những
26. Lung leng, pón pén, ló lé 3 uống trà “khỉ cái măng ló le”
nốc” [14,143]
Trám cũng “Nhìn dáng cây bờ phờ Bờ phờ 27. 1 mang thai mệt mỏi”[14, 181]
Biêng biêng “Còn trâu bò lợn gà thì 28. lày cỏ bạn Túm tím 1 túm tím cười”[14, 195] mình ơi
Ông d3ang “Nhà Dượng có vài
29. Nho nhe, thì thùng 2 tâng hương đám lúa nho nhe”
đèn [14,144]
Chiếu trúc “Chúng đang đang lin 30. Lin lít, rộng rênh 2 nhìn ta lít ngủ đông” [14,144]
“Người nghe thấy bột
31. Ăn cái tình Thóp thép 1 gạo kêu thóp thép” [14,
49]
“Chúng vừa gặm cỏ Còn có một Rồ ròa, nọc nạch, tung tinh, 32. 6 vừa nghe suối rừng rồ cái tết vía trâu lay nhay, thi thóp, mộp mạp ròa tự hát” [14, 162]
“Lão thận trọng đưa cả Lão Mòn đi 33. Lúng lắng, phá lá 2 hai chân lúng lắng” đâu rồi? [14,82]
Thanh minh “Sợi đất dài rùm ròa
34. trong tiết Rùm ròa 1 làm râu ông Báo đông”
tháng Ba [14, 93]
“Những đám lông Tết Slíp sli ăn 35. Nhin nhít, loóng leéng 2 loáng léng bay như thịt vịt bướm ” [14, 115]
80
“Lòng dạ người già Phình phàng, nhí nháo, nhin 36. Tết Anh cả 3 nhin nhin như lá chuối nhin buồn” [14, 11]
“Mới thoạt nhìn, đã đú Khai pác kin 37. Cười rò rè, đú đí 2 đí sướng cái mắt” gò [14,23]
“Mỗi khi có người nhà Dân Co xàu ra đóng mở, chúng kêu 38. hát woang Kột kạt, khít khao 2 kột kạt, một cách đĩnh d3à đạc, trầm hùng” [14, 7]
Trong khá nhiều tản văn của Y Phương, chúng tôi thấy xuất hiện phần lớn là
từ láy trong hệ thống từ ghép mới ấy. Những từ láy khác âm nhưng đồng nghĩa
hoặc gần nghĩa với các từ láy đã được đưa vào từ điển Tiếng Việt. Sau đây là bản
thống kê những từ láy được cấu tạo theo phương thức ấy.
Bảng 2
Từ láy mới xuất hiện Từ láy có trong Từ Gần nghĩa hoặc STT trong tản văn của Y điển Tiếng Việt đồng nghĩa Phương
1 - Tí Tóp - Tí tách - Gần nghĩa
2 - Bọp bẹp - Bem bép - Đồng nghĩa
3 - Mó Mé - Mò mẫm, rụt rè - Gần nghĩa
4 - Bùng Biềng - Bồng bềnh - Đồng nghĩa
5 - Lơ lớ xanh - Lờ lờ xanh - Gần nghĩa
6 - Thò Thè - Thẹn thùng, thỏ thẻ - Gần nghĩa
7 - Bét nhét - Đồng nghĩa - Bét nhè
8 - Ló Lé - Gần nghĩa - Lấp ló
9 - Bờ phờ - Đồng nghĩa - Bơ phờ
10 - Lin Lít - Gần nghĩa - Thin Thít
11 - Rùm roà - Đồng nghĩa - Xùm xoà
12 - Lóong léeng - Loáng Thoáng - Gần nghĩa
81
13 - Kột kạt - Cộc cạch - Gần nghĩa
Trong những từ ghép mới xuất hiện trong tản văn của Y Phương, chúng tôi
thấy đại đa số là từ láy (như bản thống kê đã trình bày). Các từ láy độc đáo này vừa
có tác dụng nhấn mạnh hơn tính chất, phẩm chất hoạt động của đối tượng được
miêu tả, vừa có khả năng gợi liên tưởng của người đọc về hình dáng, trạng thái của
đối tượng ấy. Các từ láy kể trên đều là tính từ nhưng luôn có xu thế kết hợp với
danh từ, đặc biệt với động từ để tái hiện sự vật hiện tượng trong trạng thái “động”
của nó: Y Phương đã sáng tạo hàng loạt từ láy mới bằng cách biến âm, biến nghĩa
các từ láy đã có để tái hiện một số phẩm chất, hoạt động sau đây của đối tượng thẩm
mĩ được phản ánh.
Thứ nhất: Những từ láy được tạo thành nhờ cách biến âm - biến nghĩa các từ
láy quen thuộc.
Bên cạch các cặp cặp từ láy đồng nghĩa nhưng có sự biến âm ít nhiều như
“Tí tóp - Tí tách”, “Bùng biềng – Bồng bềnh”, “lơ lớ - lờ lờ”, “Bét nhét - bét nhè”,
“Bờ phờ - bơ phờ” …v..v.., chúng tôi chú ý đến các cặp từ láy gần nghĩa khác âm,
và ở đây sự sáng tạo của Y Phương thể hiện rất rõ. Trong tản văn “Bản nhạc mùa
thu” tác giả viết: “…khi đi đâu xa, đành ngủ lại nhà người. Đêm đó ắt sẽ có người
bạn khác giới mó mé tính đến làm quen” [13,107]. Từ láy “Mó mé” là một sáng tạo
của Y Phương khi nó diễn đạt được nghĩa của hai từ láy khác nhau kết hợp lại, đọc
nó, chúng ta không chỉ tưởng tượng đến sự rụt rè mà còn có cả hành động lân la,
thăm dò làm quen của người khác giới với nhân vật “đành ngủ lại nhà người”. Cũng
tương tự như thế, từ láy “Thò thè” xuất hiện trong hoàn cảnh: “đây là bài học đầu
tiên, mẹ tôi khuyên nàng dâu. Khi cô ấy mới thò thè bước thấp bước cao vào cửa
làm con” [13,70]. Từ láy “Thò thè” trong văn cảnh kể trên gần nghĩa với “thẹn
thùng” nhưng không chỉ có thế, không chỉ có “then thùng – một trạng thái tinh thần,
tính từ “Thò thè” còn được “động từ hoá” để gợi tả bước chân rụt rè, líu ríu, cách ăn
nói thỏ thẻ của cô dâu mới, lần đầu tiến bước qua ngưỡng cửa nhà chồng.
Với từ láy “Loóng léeng” trong tản văn “Tết slíp sli, ăn thịt vịt”, chúng ta
gặp văn cảnh xuất hiện của nó: “áo quần, đầu tóc ai cũng dính chút lông vịt. Những
82
đám lông loóng leéng bay như bướm” [14,115]; trong Từ điển Tiếng Việt, chúng ta
gặp từ “loáng thoáng” và “chấp chới” gần nghĩa với từ láy kể trên. Nhưng từ
“Loóng Léeng” còn vừa gợi tả chuyển động thật nhẹ, chấp chới của lông vịt vừa
mang lại cho đối tượng này chút dịu dàng và bẽn lẽn. Chính những từ láy biểu cảm
và tạo hình của Y Phương đã góp phần đem lại sự đặc sắc cho ngôn ngữ từ nghệ
thuật trong tản văn của nhà văn.
Thứ hai: Những từ láy là sáng tạo độc đáo của riêng Y Phương.
Đó là các từ láy: Thăm thắp, rơn rớn, nhóc nhách, xọt xẹt, eo éo xồ xoà,
nhoóc nhéc, pón pén, đú đí, nhin nhin…v..v…những từ láy độc đáo này phải đặt
vào trong ngữ cảnh của nó thì mới có thể xác nhận định được nghĩa và sắc thái biểu
cảm mà từ láy ấy biểu hiện.
Đây là những từ láy hoàn toàn mới của Y Phương, chưa từng xuất hiện trong
các Từ điển Tiếng Việt cũng như trong các tác phẩm văn học khác. Các từ láy này
là tính từ kết hợp với động từ, với danh từ, có khả năng tượng hình và tượng thanh
rất cao, người đọc như đang nhìn thấy hình dáng, nghe thấy âm thanh, cảm nhận
được phẩm chất hay tính cách của sự vật hiện tượng ấy.
Trong tản văn “Thư gửi bạn chăn trâu” tác giả viết: “Trẻ trâu là quãng
đời, thủm thẳm ngấu mùi bè bạn”, [13,15] từ láy “Thủm thẳm” không chỉ diễn
tả mùi bùn gắn với trẻ chăn trâu tắm bùn mà nhà văn gọi là “Một đại yến tiệc”
của tuổi thơ, đây còn là mùi kỉ niệm đã thuộc về quá khứ. Phải chăng hai từ láy
“thum thủm” và “thăm thẳm” đã được kết hợp độc đáo để tạo ra từ láy “thủm
thẳm” của Y Phương?
Có hai từ láy rất đặc sắc là “Rò rè” và “Đú đí” đã xuất hiện trong văn cảnh
sau: “được dịp là Mú trẻ khẽ ngả người, nằm vào chỗ còn trống. Cười rò rè, thày
cho em xin tí sái ba (…) Cái chỗ giống đực và giống cái, tự chúng nó tìm đến nhau
dính liền chặt chẹt. Mới thoạt nhìn, đã đú đí sướng cái mắt” [14, 23].
Đây là tản văn “Khái pác Kin gò” miêu tả những sinh hoạt văn hoá của
người Tày vào dịp tết như: Viết chữ và bán chữ: Xướng hoạ và cả hút thuốc phiện.
Đoạn văn kể trên tái hiện những chuyện “bên lề” của việc hút thuốc phiện, người
phụ nữ lân la xin thầy đồ hút “Tí sái ba” đã “Cười rò rè”. Từ láy “Rò rè” vừa tượng
thanh cho tiếng cười ngượng ngập, có chút khê nồng của người phụ nữ, vừa tượng
83
hình cho động tác thăm dò, để tìm cách nằm xuống cạnh thầy đồ vừa hút xong điếu
thuốc phiện. Còn từ láy “Đú đí”, trong câu văn “Mới thoạt nhìn đã đú đí sướng cái
mắt” không chỉ diễn tả được ánh mắt lẳng lơ, khêu gợi mà còn gợi tả về đôi mắt
đang húp híp lại, gắn với tiếng cười “rò rè” kể trên.
* *
*
Như vậy, trong chương ba “Đặc sắc nghệ thuật tản văn của Y Phương”,
chúng tôi đã tìm hiểu và trình bày một số phương diện đặc sắc trong nghệ thuật
trần thuật của tản văn Y Phương. Đó là kết cấu đặc sắc với hai kiểu loại: kết
cấu liên tưởng - đồng hiện và kết cấu “Vòng sóng đồng tâm”. Đó là hình tượng
nhân vật trần thuật đặc sắc với hai kiểu dạng: Nhân vật trần thuật “Tha hương
hồi cố” và nhân vật trần thuật thi sĩ đi tìm “chất thơ” mang đặc trưng miền núi
trong hồi ức.
Bên cạnh đó, bút pháp chấm phá đã trở thành bút pháp nghệ thuật chủ yếu
trong tản văn nói chung và trong tản văn của Y Phương nói riêng. Bút pháp nghệ
thuật ấy đã phát huy hiệu quả nghệ thuật của nó khi tả bức tranh thiên nhiên, xã hội
và con người miền núi, đặc biệt là bức tranh tâm trạng của chính nhân vật người
trần thuật. Trong những bức tranh và hình ảnh này, chúng ta gặp gỡ với cả chất thơ
và chất văn xuôi, hình ảnh quê hương và tấm lòng thắm thiết dành cho quê hương
của Y Phương.
Phương diện nghệ thuật đặc sắc thứ tư là cấu trúc câu đặc biệt cùng hệ thống
từ láy mới mẻ, đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương. Đó là cấu trúc câu ngắn -
liệt kê – tăng cấp và cấu trúc câu lặp lại trong thủ pháp điệp cấu trúc. Thủ pháp điệp
cấu trúc đã mang lại chất thơ và nhạc tính vô thanh rất đặc biệt cho văn bản ngôn từ
nghệ thuật này của Y Phương. Trong hệ thống từ láy mới mẻ do nhà văn sáng tạo có
hai bộ phận: Bộ phận từ láy được tạo ra với sự biến âm, biến nghĩa từ các từ láy
quen thuộc, bộ phận từ láy độc đáo chỉ có trong tản văn của Y Phương. Tất cả hợp
thành ngôn từ nghệ thuật - biểu cảm, tượng thanh và tượng hình, in đậm cá tính
sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Nghệ thuật trần thuật đặc sắc trong tản văn của Y Phương gắn bó mật thiết,
song hành – hô ứng với các phương diện nội dung trong tản văn của tác giả, tạo ra
những tác phẩm vừa in đậm bản sắc văn hoá miền núi vừa ghi được dấu ấn phong
84
cách nghệ thuật của nhà văn.
KẾT LUẬN
1. Nhà thơ Y Phương là một trong những gương mặt xuất sắc của nền văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, bên cạnh các tên tuổi khác như Lò Ngân
Sủn, Pờ Sảo Mìn, Mai Liễu…v..v…Việc nghiên cứu thơ của Y Phương đã được
tiến hành từ lâu với rất nhiều bài báo, công trình nghiên cứu, luận văn và luận
án…nhưng với tản văn của Y Phương thì công việc ấy mới chỉ là bắt đầu với một
vài bài báo. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi là công trình nghiên cứu toàn diện đầu
tiên về tản văn của Y Phương, qua mảng sáng tác đặc sắc này của ông, chúng tôi
không chỉ muốn khảo sát, đánh giá những giá trị tiềm ẩn của hai tập tản văn này mà
còn mong muốn khẳng định cá tính sáng tạo, đóng góp của nhà văn vào thành tựu
chung của văn học dân tộc thiểu số, Việt Nam nói riêng của nền văn học Việt Nam
hiện đại nói chung.
2. Tản văn là một thể loại văn học trẻ trung và năng động ở Việt Nam, với
cấu trúc thể loại chưa hoàn kết, vẫn đang vận động – tiếp biến với đặc trưng của
một số thể loại văn học khác như thơ, truyện ngắn, kí, văn chính luận…. Đã có
nhiều tên tuổi lớn thành công với thể loại văn học này như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng,
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạ Duy Anh…, Nhưng tản văn của Y Phương mang một
“hương vị” riêng và dù mới xuất hiện đã đủ sức cuốn hút bạn đọc. “Hương vị riêng”
ấy là sắc thái miền núi hoà quyện với bản sắc văn hoá Tày, được thể hiện bằng nghệ
thuật trần thuật đa sắc thái…: Chất thơ và chất văn xuôi, truyền thống và hiện đại,
hiện thực và lãng mạn...vv...
3. Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ, với đề tài “Đặc sắc tản văn của Y
Phương”, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu, khảo sát, đánh giá toàn bộ tản
văn của Y Phương ở mọi phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của nó.
Chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu và làm sáng tỏ một số phương diện đặc sắc nhất
trong tản văn của Y Phương. Ở chương một, việc chỉ ra những mạch nguồn cảm
hứng trong tản văn của Y Phương có ý nghĩa khảo sát một số tiền đề quan trọng cho
việc hình thành cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương - một phương diện
nội dung quan trọng sẽ được tìm hiểu kĩ ở chương hai. Trong chương hai, chúng tôi
85
tập chung nghiên cứu hai phương diện nội dung đặc sắc nhất trong tản văn Y
Phương, đó là hình ảnh con người miền núi và thiên nhiên miền núi xuất hiện trọng
dòng hoài niệm của tác giả. Với hình ảnh con người miền núi, chúng tôi phân tích
hình ảnh những con người cao đẹp ấy được Y Phương khắc hoạ trong một số phẩm
chất sau: nhân hậu, giầu yêu thương, thuỷ chung, tình nghĩa; dũng cảm, thượng võ,
giầu lòng tự trọng và bất khuất; tài hoa, khẳng khái, trọng nghĩa khinh tài. Những
phẩm chất cao quý và mang đặc trưng của con người miền núi được biểu hiện trong
các nhân vật có tên và không tên, là người nông dân bình dị hay những con người
miền núi nổi tiếng cả nước.
Đặc biệt, những phẩm chất ấy kết tinh ngay trong nhân vật người trần thuật -
một hoá thân của chính tác giả. Còn với bức tranh thiên nhiên miền núi trong tản
văn của Y Phương, chúng tôi bắt gặp hai sắc thái thẩm mĩ vừa đối lập vừa song
hành với nhau: thơ mộng và dữ dội. Đây cũng chính là hai vẻ đẹp mang tính đặc
trưng cho quê hương Cao Bằng nói riêng, cho miền núi nói chung. Đặc trưng ấy còn
gợi liên tưởng đến hai nét tính cách tiêu biểu của con người miền núi: “Cương và
Nhu”, mềm mại, trầm lặng, giàu yêu thương và bất khuất kiên cường.
Ở nét đặc sắc thứ hai, chúng tôi đi sâu tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong tản
văn của Y Phương. Trong dòng cảm hứng ấy, một số “Mạch” cảm hứng xuất hiện,
chảy xuyên suốt hai tập tản văn trong trạng thái giao thoa với nhau. Nhưng chúng tôi
vẫn nhận thấy có một số “Mạch” cảm hứng chủ yếu sau đây: Cảm hứng ngợi ca và
khát vọng bảo tồn bản sắc văn hoá Tày trước “mặt trái” của cơ chế thị trường và quá
trình đô thị hoá. Trong “mạch” cảm hứng này, chúng ta thấy xuất hiện hai bình diện
song hành – hô ứng với nhau: càng yêu quý tự hào ngợi ca những phẩm chất văn hóa
tốt đẹp của người Tày bao nhiêu thì càng phẫn nộ phê phán các hiện tượng tiêu cực về
văn hoá đang xuất hiện ngày càng nhiều trên quê hương miền núi bấy nhiêu.
Sau “mạch” cảm hứng ngợi ca tự hào này, chúng ta sẽ gặp “mạch” cảm hứng
thứ hai: Cảm hứng chiêm nghiệm, triết lý về lẽ sống ở đời, về mối quan hệ giữa văn
hoá và nhân cách, về số phận của con người. Ở cảm hứng này, bằng cách nói giầu hình
ảnh trong những câu văn mang tính khẩu ngữ tự nhiêu và sinh động, triết lí trong tản
86
văn của Y Phương mang tính bình dân giản dị, gần gũi, dễ đi vào lòng người.
Chính hai phương diện nội dung đặc sắc kể trên đã cho chúng ta thấy không
chỉ bức tranh thiên nhiên và xã hội miền núi, con người và văn hoá miền núi, mà
còn bộc lộ tấm lòng tràn trề yêu thương của nhà văn dành cho con người cùng quê
hương của mình.
4. Ở chương ba: “Đặc sắc nghệ thuật tản văn của Y Phương”, chúng tôi thấy
có một số phương diện nghệ thuật trần thuật nổi bật sau đây: đó là phương diện kết
cấu với hai kiểu loại, kết cấu “ Liên tưởng - Đồng hiện” và kết cấu “Vòng sóng
đồng tâm”; đó là kiểu nhân vật người trần thuật với hai biểu hiện: kiểu nhân vật
người trần thuật “Tha hương - Hồi cố”, kiểu nhân vật người trần thuật thi sĩ đi tìm
chất thơ mang đặc trưng miền núi trong hồi ức. Do đặc trưng thể loại của tản văn,
nhân vật người trần thuật là nhân vật trung tâm của tác phẩm (dù các chi tiết ngoại
hiện “mờ” đi để đời sống tâm hồn của nhân vật trở thành nội dung chủ yếu nhất),
mọi đối tượng thẩm mĩ khác như thiên nhiên, làng bản, con người,… đều được “soi
chiếu” và tái hiện qua “Lăng kính” tâm hồn của nhân vật này. Tản văn của Y
Phương đã khắc họa gián tiếp chân dung tâm hồn của chính tác giả - một con người
miền núi cao đẹp mang tính điển hình.
Phương diện nghệ thuật đặc sắc thư ba trong tản văn của Y Phương là bút
pháp chấm phá, bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng lấy bộ phận để nói chỉnh
thể, qua chi tiết nghệ thuật đắt giá để phản ánh cái “thần” của đối tượng thẩm mĩ
được miêu tả. Trong tản văn của Y Phương, bút pháp chấm phá với đặc trưng ấy đã
vừa đặc tả bức tranh thiên nhiên, xã hội và hình tượng con người miền núi, vừa gợi
tả chính bức tranh tâm trạng của nhân vật người trần thuật.
Phương diện nghệ thuật đặc sắc thư tư trong tản văn của Y Phương là cấu
trúc câu đặc biệt cùng hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ đầy sáng tạo của nhà văn.
Đó là kiểu cấu trúc câu ngắn - liệt kê - tăng cấp vừa đặc tả con người, loài vật, đồ
vật vừa bộc lộ cảm xúc suy nghĩ chủ quan của người viết. Đó là thủ pháp điệp cấu
trúc trong tổ chức văn bản, tạo ra chất thơ với những “Âm vang” của ngôn từ,
“khoảng lặng thẩm mĩ” nằm giữa từ ngữ và các câu văn, để tạo ra “ý tại ngôn
ngoại”. Đặc biệt, Y Phương đã sáng tạo ra một lượng từ mới không nhỏ, trong đó đa
phần là từ láy vừa biểu cảm vừa tạo hình. Đại đa số từ mới do Y Phương sáng tạo ra
87
là các tính từ chỉ các tính chất, phẩm chất của sự vật hiện tượng. Sự đặc sắc ở đây là
các tính từ ấy luôn có xu thế kết hợp với danh từ và động từ để tạo ra kết hợp từ loại
vô cùng phong phú độc đáo, tính - danh từ khắc họa được cả hình dáng và phẩm
chất của đối tượng, tính - động từ gợi tả đối tượng trong hoạt động gắn với những
phẩm chất đặc thù của nó. Chính hệ thống từ mới này của Y Phương góp phần làm
cho đối tượng được miêu tả nổi hình khối, rực sắc màu, vang âm thanh, cựa quậy đi
lại trong tiếp nhận của người đọc.
5. Việc nghiên cứu đề tài “Đặc sắc tản văn của Y Phương “đã góp phần làm
sáng tỏ giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của những tác phẩm in đậm cá tính sáng
tạo độc đáo của tác giả - một cá tính sáng tạo mang đậm bản sắc văn hoá Tày trong
sự giao thoa - tiếp biến với văn hoá Việt. Hơn thế nữa, cá tính sáng tạo ấy chỉ có thể
hình thành và toả sáng không chỉ nhờ tài năng và còn nhờ có “cội rễ” sâu chắc là
tấm lòng yêu thương thắm thiết với quê hương, con người miền núi của tác giả.
Không có tấm lòng ấy, dẫu có tài năng văn học cũng chỉ như có một thân cây không
có rễ, không thể có được sức sống mãnh liệt như tản văn của Y Phương trong lòng
người đọc.
6. Việc nghiên cứu tản văn của Y Phương còn góp phần làm sáng tỏ hơn
những đặc trưng đang vận động linh hoạt của thể loại tản văn trong văn học Việt
Nam đương đại. Bởi đây là một thể loại văn học có số lượng câu chữ ngắn, phản
ánh một dung lượng hiện thực có độ hàm xúc cao, có xu thế tiếp biến mạnh mẽ với
đặc trưng của các thể loại văn học khác, không bị gò bó trong những “khuôn vàng
thước ngọc” như một số thể loại văn học có cấu trúc thể loại đã hoàn kết. Vì những
lí do ấy, tản văn rất thích hợp với con người hiện đại và cuộc sống hiện đại. Tản văn
của Y Phương là một minh chứng cho đặc trưng và sức mạnh của tản văn trong đời
sống văn học hôm nay.
7. Nghiên cứu tản văn của Y Phương mới chỉ có những bước đi đầu tiên và
kết quả còn khiêm tốn. Nếu như tiếp tục được tìm hiểu về tác phẩm của Y Phương ở
những cấp độ nghiên cứu cao hơn, chúng tôi thấy còn hàng loạt vấn đề cần tiếp tục
khám phá: Bản sắc văn hoá Tày trong tản văn của Y Phương. Tính truyền thống và
tính hiện đại trong tản văn của Y Phương. Hư cấu nghệ thuật và hệ thống biểu
88
tượng trong tản văn của Y Phương..v..v…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ Văn học, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập Văn học dân tộc và miền núi, NXB. Văn
hóa Dân tộc
3. Phạm Đức Dương (2002), Từ Văn hóa đến Văn hóa học, NXB Văn hóa Thông tin
4. Hà Minh Đức (1993), Lí luận Văn học, NXB. Giáo Dục.
5. Phương Lựu (2006), Lí luận Văn học, NXB. Giáo Dục
6. Phương Lựu (1979). “Tính dân tộc là thuộc tính hay là phẩm chất của Văn
nghệ” Tạp chí NCVH nghệ thuật, số 6
7. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, NXB.Văn hóa
8. Lê Trà My (2002), Bước đầu tìm hiểu tản văn Việt Nam thời kì “Đổi mới”,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội
9. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong
cách, NXB. Trẻ, TPHCM.
10. Phùng Quý Nhâm (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa, văn nghệ NXB. Văn học.
11. Y Phương (1996) Đàn Then, NXB. Tác phẩm mới
12. Y Phương (2002), Thơ Y Phương
13. Y Phương (2010), Kungfu người Co Xàu, NXB, Hội Nhà Văn
14. Y Phương (2009), Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm, NXB.Phụ Nữ
15. Y Phương (1986), Tiếng hát tháng giêng, Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng
16. Vũ Tú Nam (2000), Đọc Tản văn của Mai Văn Tạo, Báo Văn nghệ, tháng 4
17. Nguyễn Ánh Ngân (Biên soạn), (2003), Tạp văn Vũ Bằng. NXB. Hội Nhà Văn
18. Phương Ngân (Biên soạn) (2003), Nguyễn Tuân – Cây bút tài hoa và độc đáo,
NXB. Văn hóa Thông tin.
19. Nguyên Ngọc (2001), Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường: Rượu Hồng Đào chưa
nhấm đã say, NXB. Đà Nẵng
20. Phan Ngọc (1994), Tìm hiểu phong cách Tản Đà Tạp chí Văn học tháng 5.
21. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994), NXB. Văn học Văn hóa Truyền thông các
dân tộc ở Việt Bắc, NXB. Văn hóa dân tộc.
89
22. Cao Duy Sơn (1994), Cực Lạc, NXB. Hà Nội
23. Cao Duy Sơn (1996), Những chuyện ở Lũng Cô Sầu, NXB. Quân Đội Nhân dân
24. Cao Duy Sơn (2006), Đàn Trời, NXB, Văn hóa Dân tộc
25. Cao Duy Sơn (2008), Hoa bay cuối trời, NXB. Thanh Niên
26. Cao Duy Sơn (2009), Ngôi Nhà xưa bên suối
27. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình – Lí luận Văn học tập 1, NXB. Đại học Sư
phạm Hà Nội
28. Lê Trà My (Sưu tầm, tuyển chọn), 2011, Tản văn Hiện đại Việt Nam. NXB.
Hải Phòng.
29. Trần Đình Sử (2007), Giáo trình Lí luận Văn học tập 2, NXB.ĐHSP Hà Nội
30. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hóa các dân tộc ở Việt Nam..
NXB. Văn hóa Dân tộc
31. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc Thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB. Văn
hóa Dân tộc
32. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, NXB. Văn hóa Dân tộc
33. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận Văn học dân tộc Thiểu số, NXB. Văn hóa – Thông tin
34. Lâm Tiến (2012) Vẫn xanh một màu rừng, Báo Văn Nghệ số 44.
35. Lâm Tiến, Vấn đề phát triển văn học hiện đại dân tộc thiểu số Việt Nam, Tạp
chí Hội Nhà văn, số 2, 2012.
36. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn học, NXB.
Chính trị Quốc gia.
37. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ các DTTS Việt
Nam hiện đại, NXB. Đại học Thái Nguyên.
38. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại – Một số đặc điểm, NXB.Đại học Thái Nguyên
39. Nguyễn Thành Thi (2000), Thạch Lam, từ quan niệm về cái đẹp đến những
trang văn Hà Nội 36 phố phương, Tạp chí Văn học, tháng 10
40. Trần Lê Văn (2000), Chất thơ trong văn xuôi, “Nước Việt hồn tôi” của Băng
Sơn “Thú ăn chơi người Hà Nội” (Băng Sơn), NXB. Văn hóa Thông tin.
41. Trần Quốc Vượng (2000), Cơ sở Văn hóa Việt Nam. NXB Giáo dục,
42. BCH Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Hội Nhà văn
90
Việt Nam.
43. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (1999), Văn học các
Dân tộc – Từ một diễn đàn, NXB. Văn hóa Dân tộc
44. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (2003), Nhà văn các
Dân tộc thiểu số - Đời và Văn, NXB. Văn hóa dân tộc
45. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam (2007), Văn học Nghệ
thuật các Dân tộc Thiểu số Thời kì đổi mới, NXB. Văn hóa dân tộc
46. Nhiều tác giả (1998), Nhà văn Dân tộc Thiểu số Việt Nam hiện đại
47. Nhiều tác giả (2005), Từ Điển Tiếng Việt, NXB. Khoa học Xã hội
48. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống dân tộc Tày – Nùng, NXB. Văn hóa
Dân tộc
49. Nhiều tác giả (1998) Từ Điển thuật ngữ Văn học, NXB. Giáo dục
50. Nhiều tác giả (1981), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam – Văn học các Dân tộc thiểu
số ít người.
51. Bài của Trần Công Văn, nhavantpham.com.vn/chandung – phong van
52. Tuy hòa Tonvinhvanhoadoc.vn
53. Nguyễn Hồng Nga phongdiep.net
54. Baolamdong.vn/vhnt/tanvan/201207/chieucomay-2176697.
55. vnhau.edu.vn/null/Ebook/tacgia-tacpham/hoangphungoctuong.htm
91
56. ngovanminh.wordfress.com