ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
DƯƠNG NGỌC MINH
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CÁI TRỐNG THIẾC CỦA GÜNTER GRASS VÀ TIỂU THUYẾT NHỮNG ĐỨA TRẺ CHẾT GIÀ CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ôn Thị Mỹ Linh
THÁI NGUYÊN - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích
một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả
này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Người cam đoan
Dương Ngọc Minh
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Ôn Thị Mỹ Linh đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại
học – trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập nghiên cứu tại trường.
Tôi xin cảm ơn gia đình, toàn thể bạn bè đã giúp đỡ và động viên khuyến
khích tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khoá học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Dương Ngọc Minh
ii
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan ................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................... 8
1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại ...................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 8
1.1.2. Đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại ...................................................... 10
1.2. Nhà văn Günter Grass và Nhà văn Nguyễn Bình Phương .............................. 12
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Günter Grass (1927-2015) .... 12
1.2.2. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Bình Phương (1965) .... 15
Chương 2. KẾT CẤU ĐA ĐIỂM NHÌN ................................................................. 19
2.1. Giới thuyết về điểm nhìn, đa điểm nhìn .......................................................... 19
2.2. Đa điểm nhìn trong Cái trống thiếc và Những đứa trẻ chết già ..................... 20
2.2.1. Sự đối thoại giữa các điểm nhìn bên trong .............................................. 20
2.2.2. Sự đối thoại giữa các điểm nhìn bên ngoài .............................................. 28
Chương 3. HIỆN THỰC HUYỀN ẢO .................................................................... 45
3.1. Khái niệm “hiện thực huyền ảo’’ .................................................................... 45
3.2. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức không- thời gian ......................... 45
3.2.1. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức không gian .......................... 45
3.2.2. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức thời gian .............................. 57
3.3. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................. 66
3.3.1. Sự pha trộn của yếu tố bình thường và dị thường trong ngoại hình ........ 66
3.3.2. Sự pha trộn của yếu tố bình thường và dị thường trong tâm lý, tính cách .... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 83
iii
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 85
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lịch sử văn học thế giới đã trải qua những trào lưu văn học gắn với những thời
đại lịch sử cụ thể. Từ văn học cổ Hy Lạp đến văn học Phục hưng, văn học Cổ điển,
văn học Ánh sáng, văn học lãng mạn- hiện thực. Và đến thế kỉ XX, người ta không
thể không nhắc đến văn học hậu hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trường phái
văn học có khả năng hướng dẫn sáng tạo cho toàn bộ những ngành nghệ thuật ngày
nay và tất nhiên trong đó có văn học. Trên thế giới, hậu hiện đại xuất hiện cách đây
khoảng 40 năm và nó cùng với những biểu hiện cụ thể trong các sáng tác văn học đã
trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu cũng như
độc giả.
1.2. Văn học Đức thế kỉ XX không chỉ là một trong những đại diện tiêu biểu của văn
học Châu Âu mà còn được coi là một bộ phận quan trọng cấu thành nên diện mạo văn
học thế giới ở thế kỉ này với nhiều tên tuổi lớn trong đó có Günter Grass- người được
coi là lương tâm của nước Đức. Tên tuổi của nhà văn lỗi lạc này gắn liền với tiểu
thuyết Cái trống thiếc.
Günter Grass sinh năm 1927 ở Danzing- Langfuhr, trong một gia đình có cha
mẹ làm nghề buôn bán nhỏ. Quê hương và những năm tháng tuổi thơ là nguồn cảm
hứng cho nhiều tác phẩm của G.Grass. Trước khi đến với sự nghiệp văn chương, ông
từng học hội họa và điêu khắc ở Viện nghệ thuật Dusseldorf (1948- 1952). Sau đó
tiếp tục học tại Đại học Mỹ thuật Berlin (1953- 1956). Từ năm 1956 đến năm 1959,
ông tham gia hoạt động điêu khắc, hội họa và viết văn ở Paris, sau đó ở Berlin. Trong
thời gian này, những tác phẩm đầu tiên của ông ra đời: bài thơ đầu tiên được xuất bản
năm 1956, vở kịch đầu tiên viết năm 1957 nhưng phải đến năm 1959 với cuốn tiểu
thuyết đầu tay Cái trống thiếc, tên tuổi của ông mới thực sự được nhìn nhận. Và cùng
với tiểu thuyết này, G.Grass đã được trao giải Nobel văn học năm 1999.
1.3. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu còn tranh cãi nhiều về việc có tồn tại hay không
chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu, giới
phê bình, sáng tác đều đồng thuận khi cho rằng văn học hậu hiện đại thế giới đã có
1
nhiều ảnh hưởng tới sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam đương đại, gợi cảm
hứng cho các nhà văn, nhà thơ Việt Nam cách tân cách viết, lối viết. Cảm quan hậu
hiện đại và các thủ pháp hậu hiện đại đã được sử dụng trong nhiều tác phẩm văn học
Việt Nam từ sau năm 1986.
Độc giả yêu mến văn chương nói chung, văn học hậu hiện đại nói riêng chắc
hẳn không còn xa lạ với những cái tên như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà,
Đặng Thân, Phạm Thị Hoài... và đương nhiên không thể không nhắc tới Nguyễn Bình
Phương với những tác phẩm mang đậm dấu ấn hậu hiện đại. Một trong số những sáng
tác ấy là tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già.
1.4. Nếu nhà văn Đức Günter Grass làm chấn động thế giới với cuốn tiểu thuyết kinh
điển Cái trống thiếc thì ở Việt Nam, Những đứa trẻ chết già cũng gây được tiếng
vang lớn trong giới phê bình cũng như độc giả yêu mến văn chương. Mặc dù ra đời
ở hai đất nước cách xa nhau về mặt địa lý, được viết bởi hai nhà văn khác nhau nhưng
hai tác phẩm này lại có những điểm tương đồng thú vị bên cạnh những nét dị biệt.
1.5. Nghiên cứu “Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Günter
Grass và tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương” để thấy được
giá trị của những cuốn tiểu thuyết này, đồng thời giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện
và sâu sắc hơn về những đặc trưng hậu hiện đại trong văn học thế giới cũng như văn
học Việt Nam.
Từ những lí do trên mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về “Đặc trưng chủ
nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Günter Grass và Những đứa
trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Cái trống thiếc
Günter Grass được coi là một trong những cây đại thụ của nền văn học Đức.
Ông nổi tiếng với tiểu thuyết Cái trống thiếc xuất bản năm 1959 tại Đức. Với tác
phẩm này Günter Grass đã nhận được giải thưởng Nobel về văn học năm 1999. Hiện
nay, tiểu thuyết này được dịch ra gần 50 thứ tiếng. Trên thế giới, từ khi tiểu thuyết
này ra đời nó được xem như một hiện tượng và nhận được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Mặc dù được ra đời từ khá sớm và lập tức được đánh giá như tiếng trống
2
đánh thức nền văn học Đức sau cơn mụ mị hậu chiến, và dù cho trên thế giới đã có
hàng chục công trình và hàng trăm bài viết về tác phẩm ấy thì Cái trống thiếc và tác
giả của nó ở Việt Nam vẫn còn là lời “bỏ ngỏ”. Có một số bài viết về tác phẩm này
của Grass nhưng đa phần chỉ mang tính chất giới thiệu, điểm qua về đặc điểm nội
dung và nghệ thuật, chưa có một công trình nào thực sự xứng đáng với tầm vóc của
tác giả và tác phẩm đạt giải Nobel văn học năm 1999 – người được coi là “lương tâm
của nước Đức”. Ở Việt Nam, độc giả được tiếp cận cuốn tiểu thuyết này khá muộn so
với thời điểm mà nó ra đời thông qua bản dịch của dịch giả Dương Tường. Có lẽ vì
điều đó mà rất ít những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết này.
Trong lời giới thiệu có tựa đề Cái trống thiếc trong nền văn học hiện đại Đức,
dịch giả Dương Tường cũng giới thiệu với độc giả Việt Nam những nét cơ bản nhất
về tiểu sử của Günter Grass, những đánh giá của dịch giả về tiểu thuyết Cái trống
thiếc trên cả phương diện nội dung cũng như bút pháp nghệ thuật. Đây cũng có thể
coi là một bài nghiên cứu có tính chất giới thiệu về Grass và tiểu thuyết của ông.
Năm 2002, khi tiểu thuyết Cái trống thiếc được dịch ở Việt Nam, dịch giả
Dương Tường đã mở cuộc hội thảo về tiểu thuyết Cái trống thiếc của Günter Grass tại
viện Goethe, Hà Nội vào ngày 23.11.2002. Cuộc hội thảo đã nhận được sự quan tâm
của đông đảo các nhà nghiên cứu, các dịch giả cũng như độc giả yêu mến văn chương.
Lê Huy Bắc trong Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học
Sư phạm 2013, khi viết về khuynh hướng huyền ảo trong văn chương hậu hiện đại đã
nhắc đến đặc trưng này trong Cái trống thiếc của Günter Grass. Bài biết của nhà
nghiên cứu Lê Huy Bắc có tính chất định hướng cho các công trình nghiên cứu về đặc
trưng hậu hiện đại nói chung và tiểu thuyết Cái trống thiếc nói riêng.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huyền Trang, Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, năm 2012 đã nghiên cứu về Huyền thoại trong tiểu thuyết Cái
trống thiếc của Gunter Grass. Trong công trình nghiên cứu của mình, người viết đã
đi sâu phân tích tính huyền thoại được biểu hiện trong cuốn tiểu thuyết này với
những yếu tố huyền thoại về nội dung và thi pháp huyền thoại hóa. Đây được xem
là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính chuyên sâu về tiểu
3
thuyết Cái trống thiếc.
Năm 2014, trong luận văn tốt nghiệp đại học của Vũ Thùy Dung trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, Cái trống thiếc trở thành đối tượng nghiên cứu của luận văn với tên
gọi Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Gunter Grass. Một lần
nữa, tiểu thuyết Cái trống thiếc lại được xem là đối tượng của các nhà nghiên cứu.
Với một lịch sử vấn đề như thế, chúng tôi hy vọng luận văn này sẽ là
một trong những công trình có tính chất thử nghiệm nghiêm túc và chuyên sâu về
một tác phẩm kiệt xuất và tác giả của nó – nhà văn được coi là một trong
những người khổng lồ của văn chương thế kỷ XX.
2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương và Những
đứa trẻ chết già
Trên văn đàn văn học Việt Nam đương đại, Nguyễn Bình Phương là một trong
những nhà văn tiêu biểu. Có rất nhiều những công trình nghiên cứu về Nguyễn Bình
Phương và tiểu thuyết của ông.
Nhắc đến những nghiên cứu về tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già không thể
không nhắc đến nhà nghiên cứu phê bình Thụy Khuê- một trong những người đầu
tiên quan tâm đến các sáng tác của Nguyễn Bình Phương và có những công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tác giả này. Những công trình nghiên cứu ấy được đăng tải
trên trang web http://thuykhue.free.fr/. Với “Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong
tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già”, “Tính chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiểu
thuyết Người đi vắng”, “Những yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy
tàn”… đã mang đến cái nhìn toàn diện hơn về những sáng tác của Nguyễn Bình
Phương. Nghiên cứu về các sáng tác của Nguyễn Bình Phương , Thụy Khuê nhấn
mạnh đến những yếu tố mới trong tiểu thuyết của ông. Thụy Khuê đánh giá cao sự nỗ
lực tìm tòi và những đổi mới trong kĩ thuật viết của Nguyễn Bình Phương: “…có thể
đọc xuôi, đọc ngược, đọc từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, đều “được” cả! Cấu
trúc lắp ghép, cắt dán hội họa, cho phép mỗi độc giả có thể sáng tạo ra một lối đọc
riêng. Và vì có thể có nhiều “sự đọc” khác nhau cho nên có nhiều cách hiểu khác
nhau và do đó tác giả đã tạo ra một mê hồn trận”. Cùng với Thụy Khuê, Đoàn Ánh
Dương cũng là tên tuổi gắn liền với những bài nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương
4
như “Vào cõi, Những đứa trẻ chết già: tiểu thuyết-(trong) tiểu thuyết”; Nguyễn Bình
Phương, “Lục đầu giang” tiểu thuyết”; “Người đi vắng: Tiểu thuyết huyền- sử”;
“Trí nhớ suy tàn: Tiểu thuyết- thơ- nhật kí”… Qua các bài viết này, nhà nghiên cứu
đã khái quát lên hai đặc trưng cơ bản trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương: huyền thoại và thi pháp kết cấu.
Đoàn Cầm Thi cũng là một trong những nhà nghiên cứu rất quan tâm đến tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu phải kể đến
như “Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên, Người đàn bà nằm:Từ thiếu nữ ngủ ngày
đến Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương”. Đoàn Cầm Thi chủ yếu tiếp nhận tác
phẩm của Nguyễn Bình Phương từ cái nhìn phân tâm học với những thái cực của con
người: giữa vô thưc và hữu thức, tỉnh táo và điên loạn, hiện thực và ảo mộng… Nhà
nghiên cứu này cũng chỉ ra nét độc đáo trong cách thức đi sâu vào đời sống, con
người của nhà văn Thái Nguyên qua việc liên hệ với các hình tượng trong sáng tác
của Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử.
Nếu Đoàn Cầm Thi tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn
phân tâm học thì với Nguyễn Chí Hoan, lại đặc biệt quan tâm đến kĩ thuật viết trong
các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Các bài viết như “Cấp độ hiện thực và sự
hão huyền của ý thức trong Thoại kỉ thủy”, “Những hành trình qua trống rỗng” là
những công trình tiêu biểu của Nguyễn Chí Hoan về Nguyễn Bình Phương cũng như
tiểu thuyết của ông. Nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế trong sáng tác của
Nguyễn Bình Phương: “…bị kĩ thuật kết cấu kéo căng ra quá mức, khiến cho tham
vọng luận đề của một cuốn sách trở nên giống như một tham vọng khái quát bằng kĩ
thuật dựng truyện hơn là những hoa trái của một trải nghiệm thực sự”.
Bên cạnh đó, có không ít những khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ
lấy tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương làm đối tượng nghiên cứu. Hồ Bích Ngọc
trong luận văn thạc sĩ năm 2006 (ĐHSP Hà Nội) với “Nguyễn Bình Phương với việc
khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hóa tiểu thuyết” đã tập trung điểm nhìn
nghiên cứu vào khía cạnh ngôn ngữ trong những tác phẩm của Nguyễn Bình
Phương. Từ đó, cho thấy những cách tân, đổi mới trong nghệ thuật cầm bút của
5
Nguyễn Bình Phương.
Nguyễn Ngọc Anh (ĐHSP Thái Nguyên) với luận văn thạc sĩ “Yếu tố kì ảo
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” cũng chỉ ra những yếu tố kì ảo trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương trên các phương diện không gian, thời gian, nhân vật…
Ngoải ra, những khóa luận tốt nghiệp, luận văn nghiên cứu về Nguyễn Bình
Phương có thể kể đến như luận văn thạc sĩ văn học của Vũ Thị Phương ,trường Đại
học Khoa học và Xã hội Nhân văn năm 2008: “Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương”, khóa luận tốt nghiệp “Cốt truyện và nhân vật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” của Nguyễn Thị Thúy Hằng, khoa văn học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2010…
Những công trình nghiên cứu nói trên là tiền đề quan trọng, giúp chúng tôi có
cơ sở để tiếp tục đào sâu những đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu
thuyết Cái trống thiếc và Những đứa trẻ chết già ở đề tài nghiên cứu này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết
Cái trống thiếc và tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Günter Grass qua bản dịch của Dương Tường
dịch từ bản tiếng Anh của Ralph Manheim được xuất bản năm 2002 và tiểu thuyết
Những đứa trẻ chết già xuất bản năm 2013.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là hướng đến việc làm sáng rõ những đặc
trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết Cái trống thiếc và tiểu thuyết
Những đứa trẻ chết già. Từ đó, giúp độc giả cảm nhận được nét độc đáo về nội dung
và nghệ thuật của hai tiểu thuyết này, đồng thời thấy được tài năng, vị trí của Günter
Grass đối với lịch sử văn học Đức nói riêng và văn học thế giới nói chung, thấy được
những nét đặc sắc trong ngòi bút của Nguyễn Bình Phương, vai trò, vị trí của Nguyễn
Bình Phương trong nền văn học Việt Nam đương đại. Qua nghiên cứu so sánh, phát
hiện những điểm tương đồng và dị biệt trong đặc trưng hậu hiện đại của hai cuốn tiểu
6
thuyết này.
4.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích và đánh giá
các đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong hai cuốn tiểu thuyết này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng lý thuyết phê bình hậu hiện đại
vào nghiên cứu, kết hợp với các thao tác nghiên cứu như khảo sát, thống kê, phân
loại, tổng hợp, phân tích, khái quát, so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp phần
mang đến cho mọi người cái nhìn toàn diện hơn về chủ nghĩa hậu hiện đại và những
đặc trưng của nó.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn này của chúng tôi
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Đa điểm nhìn
7
Chương 3. Hiện thực huyền ảo
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại
1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển văn học nhân loại phát triển trải qua những thời kỳ mà ở đó
tồn tại những khuynh hướng, những trường phái, những trào lưu khác nhau. Và hậu
hiện đại chính là một trong số đó. Hậu hiện đại là một trào lưu hết sức rộng lớn, ảnh
hưởng đến hầu hết các lĩnh vực, trong đó có văn học.
Cuối thế kỉ XIX, nhà nghiên cứu người Đức Frietzsche tuyên bố “Chúa đã
chết” gây chấn động thế giới. Đến thế kỉ XX, nhân loại sửng sốt khi các nhà nghiên
cứu cho rằng “Con người đã chết”. Con người rơi vào nỗi hoang mang khi mà cả chỗ
dựa vật chất và tinh thần đều không còn tồn tại. Tương tự thế, các nhà văn đưa ra một
loạt cái chết nữa trong sáng tác văn chương: cái chết của chủ thể, cái chết của người
đọc, cái chết của ngôn từ... nhưng thực tế, không hề có cái chết nào cả. Tất cả những
tuyên bố ấy đều nhằm mục đích đi tìm căn nguyên, nguồn gốc của con người và vũ
trụ. Và chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời trong hoàn cảnh đó- vào những giai đoạn lịch sử
loài người lâm vào khủng hoảng, là hệ quả tất yếu của thời kì trước đó.
Theo Francois Lyotard, hậu hiện đại và chủ nghĩa hiện đại thế kỉ XX có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Ông cho rằng hậu hiện đại là “xử lí lại một số đặc điểm
của hiện đại nhất là tham vọng của nó trong việc đặt cơ sở cho đề án giải phóng toàn
bộ nhân loại bằng khoa học kĩ thuật” [21,tr.15]. Cũng theo nhà nghiên cứu này, hoàn
cảnh hậu hiện đại là “sự hoài nghi đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của
sự tiến bộ của các khoa học; nhưng sự tiến bộ này đến lượt nó lại tiền giả định sự hoài
nghi đó. Tương ứng với sự già cỗi của cơ chế siêu tự sự trong việc hợp thức hóa là sự
khủng hoảng của nền triết học siêu hình học, cũng như sự khủng hoảng của thiết chế
đại học phụ thuộc vào nó” [21, tr.54].
Để có được cơ sở lí thuyết hậu hiện đại là kết quả của rất nhiều nhà nghiên cứu
lớn của thời đại. “Hậu hiện đại là khái niệm dùng để chỉ một giai đoạn phát triển kinh
tế, khoa học kĩ thuật, nghệ thuật cao của nhân loại. Nó ra đời khi các chủ thuyêt hiện
8
đại trở nên già cỗi, đã trở thành những đại tự sự” [12, tr.23].
Chủ nghĩa hậu hiện đại là “một từ ngữ phức tạp bao hàm một hệ thống tư
tưởng được giới nghiên cứu đại học tiếp nhận, khai triển từ những năm giữa thập niên
1980 đến nay. Rất khó có một định nghĩa thật chính xác và hàm súc về chủ nghĩa hậu
hiện đại, vì khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện trên nhiều lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau, bao gồm nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, phim ảnh, văn chương, chính
trị, xã hội, truyền thông, khoa học kỹ thuật và ngay cả thời trang hay các phương tiện
giải trí thường ngày như Disneyland chẳng hạn” [31]. Đó là quan niệm của giáo sư
Mary Klages được trích lại từ bài nghiên cứu “Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái
niệm căn bản” của tác giả Nguyễn Minh Quân.
Khái niệm hậu hiện đại là kết quả của một quá trình nghiên, của nhiều nhà
nghiên cứu hợp lại. Mặc dù khái niệm này không còn quá xa lạ với người Việt Nam
nhưng để hiểu nó một cách cụ thể, chính xác lại không hề đơn giản. Giáo sư Lê Huy
Bắc trong công trình nghiên cứu của mình đã đưa ra cách hiểu về chủ nghĩa hậu hiện
đại như sau: “bắt đầu từ cuối thập niên 1910 với thơ Đa Đa (1916), văn xuôi Franz
Kafka (Biến dạng, 1915) và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi ở Godot, 1952) chủ
nghĩa hậu hiện đại đã tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên
1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở đi. Đây là khuynh hướng đối nghịch với
chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ chấp nhận tình hư vô, hỗn độn, trò chơi và liên
văn văn bản của tồn tại, hòng giải quyết những vướng mắc của chủ nghĩa hiện đại với
tham vọng dùng khoa học để giải phóng tối đa con người thoát khỏi cuộc sống và
những tín điều tăm tối. Chủ nghĩa hậu hiện đại gắn với sự bùng nổ của cuộc cách
mặng công nghệ thông tin, của sự phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật vượt bậc, của
thành tựu đô thi hóa,... được thể hiện ở cả ba phương diện thơ, kịch, văn xuôi với các
đặc điểm chính: đa trị, huyền ảo, lắp ghép mảnh vỡ, cực hạn, phi trung tâm, phi mạch
lạc, hạn chế tôi đa vai trò thống trị của người kể chuyện, không quan tâm đến côt
truyện, kịch và văn xuôi mang nhiều đặc điểm của thơ...” [12, tr.32]
Như vậy, có thể thấy sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại là kết quả tất yếu
của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử loài người nói riêng. Hậu hiện đại ra đời có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực trong đó có văn học. Hậu hiện đại
9
không chỉ là phương tiện, cách thức mà còn thể hiện ở nội dung của tác phẩm. Hậu
hiện đại cùng với những đặc trưng của nó sẽ góp phần đắc lực vảo việc phản ánh hiện
thực xã hội với đầy những biến động.
1.1.2. Đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại
Với tư cách là một trào lưu, một khuynh hướng văn học, hậu hiện đại cũng
giống như các trào lưu văn học khác đều có những hình thức đặc trưng vô cùng
phong phú và đa dạng có thể kể đến nổi bật như: chủ nghĩa hiện thực huyền ảo,
mảnh vỡ, cực hạn, nhại, giả trinh thám, mờ hóa, mã kép, đa điểm nhìn, nghịch lí, hỗn
độn,... Một tác phẩm hậu hiện đại không chỉ được sáng tác theo một đặc trưng mà là
sự kết hợp của nhiều đặc trưng để tạo ra nó. Sau đây, chúng tôi xin tổng hợp các khái
niệm của một số đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo: theo các nhà nghiên cứu, hiện thực huyền ảo ra
đời thực chất là khẳng định tính chất của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XX, một hiện
thực trở thành cái bóng không đủ sức ám ảnh mà trở thành hiện thực có sự kết hợp
của những yếu tố huyền ảo để phản ánh xã hội, con người. Huyền ảo phát triển mạnh
mẽ trên thế giới, đặc biệt là khu vực Mĩ Latinh từ những năm 60 của thế kỉ trước, thế
nhưng, kì ảo lại là yếu tố có nguồn gốc từ rất lâu trước đó. Các nhà văn sáng tác theo
khuynh hướng này thường sử dụng những yếu tố hoang đường trong phản ánh hiện
thực có thể kể đến một số tên tuổi của thế kỉ XIX như Ban dắc, Poe... Tuy nhiên,
trong hiện thực huyền ảo của hậu hiện đại, các yếu tố ma quái, yếu tố kinh dị đã được
hạn chế đến mức tối đa, không gây tâm lí sợ hãi cho độc giả. Thay vào đó, các tác giả
hậu hiện đại sử dụng các hình ảnh siêu nhiên, phi thường gắn với các thành tựu khoa
học kĩ thuật và đương nhiên chúng gần gũi hơn với con người. Các nhà văn đặt các
yếu tố siêu nhiên bên cạnh các yếu tố hiện thực của đời sống để nâng một sự việc,
một hiện tượng lên tầm huyền thoại.
Mảnh vỡ là khuynh hướng sáng tác tiêu biểu của chủ nghĩa hậu hiện đại. “Mảnh
vỡ là bản thể của hiện tồn hậu hiện đại, khi người ta thôi không còn tin vào những cái
tròn trịa, đầy đặn, dễ nắm bắt...thì “vỡ” là tiêu chí bản chất của sự vật” [12, tr.76]. Với
tư cách là một kĩ thuật, mảnh vỡ xâm nhập vào tất cả các khuynh hướng sáng tác khác
và được khai thác trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Kết cấu mảnh vỡ phản
10
ánh hiện thực mảnh vỡ, hình thức mảnh vỡ chứa đựng nội dung mảnh vỡ.
Cực hạn hay còn gọi là chủ nghĩa tối giản hoặc nghệ thuật cực hạn xuất hiện
vào những năm 60 của thế kỉ trước trong hầu hết các lĩnh vực thuộc phạm trù nghệ
thuật như điêu khắc, hội họa, âm nhạc và văn học. Đây là trào lưu văn học ra đời
nhằm chống lại sự thái quá của chủ nghĩa ấn tượng trừu tượng của nghệ thuật hiện
đại. Cực hạn có thể hiểu là đơn giản hóa nghệ thuật một cách tối đa, thậm chí khiêm
tốn trong trần thuật. Bản chất của cực hạn trong văn học được hiểu là nói được nhiều
từ cái ít. Tác giả không tham vọng bao quát mọi vấn đề hoặc hướng đến một luận triết
học có trước mà chỉ phản ánh chân thật những gì đang diễn ra xung quanh một cách
chính xác nhất, không hề bày tỏ thái độ trước vấn đề sự kiện được đề cập. Các tác giả
cực hạn tôn trọng nguyên tắc ngẫu nhiên của tồn tại mà không hề can thiệp, hoài
nghi, định hướng và không đưa ra kết luận cuối cùng. Nổi bật của lối viết này là nhà
văn chủ trương hủy bỏ cốt truyện truyền thống. Một tác phẩm không chỉ có một cốt
truyện duy nhất mà có nhiều cốt truyện đan xen, cùng nhau phát triển.
Nhại trong văn học là một hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức chế
giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách, bút pháp của một nhà văn hoặc một
nhóm nhà văn để nhấn mạnh đến sự non yếu của nhà văn ấy hoặc những quy ước bị
lạm dụng của trường phái ấy.
Mờ hóa “là toàn bộ các thủ pháp được sử dụng trong nghệ thuật một cách có
chủ định nhằm tạo ra một hiệu quả thẩm mĩ, qua đó đối tượng được miêu tả hiện lên
không rõ ràng, cụ thể như ngoài đời hoặc như chúng ta chưa từng gặp trong sáng tạo
nghệ thuật. Người viết cố tình xóa mờ các đường viền (lịch sử, quan hệ...), các đặc
điểm cá biệt của đối tượng nhằm tạo cho độc giả cảm giác về sự mơ hồ, tối nghĩa.
Muốn hiểu người đọc phải dụng công, phải tích cực tham gia vào quá trình nghệ thuật
để chiêm nghiệm, đề xuất cách hiểu của riêng mình” [12, tr.97].
Đa điểm nhìn là cách kể có thể kết hợp cả điểm nhìn bên ngoài lẫn điểm nhìn
bên trong. Đa điểm nhìn xuất phát từ nguyên tắc phi trung tâm hóa trần thuật, phá vỡ
các đại tự sự, tạo nên tính dân chủ, đa trị trong nghệ thuật kể chuyện nhằm khách
quan hóa trần thuật, nắm bắt được bản chất tồn tại của con người.
Như đã khẳng định ở trên, đặc trưng của hậu hiện đại rất đa dạng. Do hạn chế
11
về thời gian nên ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số đặc trưng cơ bản nhất của chủ
nghĩa hậu hiện đại cũng như cách hiểu về những đặc trưng ấy một cách đơn giản nhất
làm tiền đề để khai thác nội dung đề tài này.
1.2. Nhà văn Günter Grass và Nhà văn Nguyễn Bình Phương
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Günter Grass (1927-2015)
Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay
là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề
buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã
là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho
quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông
được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS. Vào ngày 8 tháng
5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho
đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng
ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới
công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà
văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và
sau đó được gọi đi lính.
Trong thời gian 1947- 1948 ông thực tập tại một xưởng đá ở Düsseldorf.
Chính những năm tháng lao động này đã cho ông nhiều kinh nghiệm quý và ảnh
hưởng đến những tác phẩm của ông sau này.
Trước khi chuyển sang viết văn, ông đã học hội họa và điêu khắc ở Viện Nghệ
thuật Düsseldorf (Kunstakademie Düsseldorf) từ năm 1948 cho đến 1952 và tiếp tục
học tại Đại học Mỹ thuật Berlin (Universität der Künste Berlin) từ năm 1953 đến
năm 1956, là học trò của nhà điêu khắc Karl Hartung. Sau đó ông sống tại Paris cho
đến năm 1959. Năm 1960, ông lại chuyển về Berlin-Friedenau và sống ở đó đến
năm 1972. Từ 1972 đến 1987 ông sống tại Wewelsfleth ở bang Schleswig-Holstein.
Năm 1954 ông kết hôn với bà Anna Schwarz. Từ đầu năm 1956 cho đến đầu
năm 1960 ông cùng vợ sống tại Paris, nơi bản thảo của quyển Cái trống thiếc ra đời.
Năm 1957, vợ chồng ông chào đón sự ra đời của hai anh em sinh đôi Franz và Raoul.
12
Năm 1961, sau khi trở về Berlin, vợ ông sinh con gái Laura, năm 1965 sinh con trai
Bruno và năm 1974 là con gái út Helene. Cuộc hôn nhân của Grass với Anna
Schwarz tan vỡ năm 1978. Năm 1979 ông kết hôn với Ute Grunert và sống với bà
ở Ấn Độ.
Từ 1956 đến 1959, ông tham gia hoạt động điêu khắc, hội họa, viết văn
ở Paris, và sau đó là ở Berlin. Trong thời gian này, những tác phẩm đầu tiên của ông
đã ra đời: bài thơ đầu tiên được xuất bản năm 1956 và vở kịch đầu tiên ông viết
năm 1957. Thế nhưng, phải đến 1959, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên – Cái trống
thiếc (Die Blechtrommel), ông mới thực sự được sự nhìn nhận từ văn đàn thế giới.
Cũng với tác phẩm này, ông được trao Giải Nobel Văn học năm 1999 – tuy hơi muộn
nhưng nó mang một ý nghĩa đặc biệt bởi nó rơi vào năm bắc cầu giữa hai thế kỷ
20 và 21.
Vào năm 1955, ông tham gia Nhóm 47 (Gruppe 47) do Hans Werner
Richter và Alfred Andersch sáng lập ở München năm 1947 và giải tán năm 1977, với
khuynh hướng dân chủ, đấu tranh khắc phục những hậu quả chiến tranh do phát xít để
lại.
Năm 1960, ông tham gia vào Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) ở Đức và trở thành
một nhân vật quan trọng của đảng này. Ông đã tham gia vào chiến dịch tranh cử của
đảng và là người phát ngôn của đảng cũng như của Willy Brandt – người lãnh đạo
đảng. Trong thời gian này, ông đã có nhiều bài phát biểu cũng như bài bình luận
chính trị để ủng hộ cho một nước Đức thoát khỏi sự cuồng tín, cũng như những tư
tưởng chuyên chế. Thế nhưng ông cũng thường làm mất lòng trong nội bộ của đảng
SPD vì những quan điểm của mình. Năm 1992 Grass rút ra khỏi đảng SPD nhưng vẫn
tiếp tục hoạt động chính trị và ủng hộ cho những tư tưởng của Đảng Dân chủ Xã hội.
Từ 1983 đến 1986, ông giữ chức giám đốc Học viện Nghệ thuật Berlin. Trong
thời gian 1989–1990, ông đã có những quan điểm phản đối sự chia cắt nước Đức
thành hai phần.
Ông đã được trao nhiều giải thưởng, trong đó có thể kể như Giải Georg
Büchner năm 1965, Giải thưởng Fontane năm 1968, Giải thưởng Premio
Internazionale Mondello năm 1977, huy chương Alexander-Majakowski ở Gdansk
13
năm 1979, Giải thưởng Antonio Feltrinelli năm 1982, Huy chương Hermann
Kesten năm 1995... và đặc biệt nhất là Giải Nobel Văn học năm 1999 cho tác
phẩm Cái trống thiếc của ông.
Ông cũng là giáo sư danh dự của Đại học Kenyon và Đại học Harvard.
Günter Grass được coi là người phát ngôn cho một thế hệ của Đức bị bầm dập
còn lại sau chủ nghĩa Đức quốc xã. Ông biết rất rõ những chấn thương tinh thần cũng
như những bệnh lý còn sót lại ở xã hội Đức sau thời kỳ Đức quốc xã.
Hầu hết các tiểu thuyết của ông đều là những câu chuyện ngụ ngôn hiện đại,
nhưng cười ra nước mắt. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Cái trống thiếc - ở đây
dưới con mắt của nhân vật chính là Oskar - một con người chỉ cao 94 cm, với vẻ bề
ngoài của một đứa trẻ mãi mãi lên ba, nhưng có sự già dặn trong trí tuệ của người
trưởng thành, một thế giới nhố nhăng kệch cỡm mà bí hiểm với những con người bị
vùi lấp dưới đổ nát của lịch sử đã hiện ra rõ ràng.
Tình yêu đối với thành phố quê hương Danzig cũng được ông đưa vào tác
phẩm của mình. Danzig - một thành phố đã mất, một thành phố bị tranh giành giữa
các nước láng giềng - đã được ông miêu tả với những dòng không mảy may bi lụy,
nhưng vẫn thấy rõ Danzig là nỗi đau của ông. Ông đã viết hẳn một bộ truyện dài 3
tiểu thuyết về Danzig với Cái trống thiếclà phần đầu và sau đó là Mèo và Chuột (Katz
und Maus - 1961) và Những Năm Chó (Hundejahre - 1963).
Và gần đây nhất là Bò Ngang (Im Krebsgang - 2003) cũng là một câu chuyện
về quá khứ. Sau Cái trống thiếc một thời gian dài, thì Bò Ngang là cuốn tiểu thuyết
được xem là thành công thứ hai. Câu chuyện trong Bò Ngang kể về con tàu Wilhem
Gustloff bị bắn chìm, một con tàu du lịch chuyển sang chuyên chở dân tị nạn. Con tàu
này bị tàu ngầm Liên Xô bắn chìm vào tháng 1 năm 1945. Chín nghìn người chết
chìm dưới đáy biển Baltic là một thảm họa đường thủy lớn nhất trong lịch sử.
Cuốn Bò Ngang là câu chuyện kể rất quyến rũ người đọc về tấn bi kịch trên
biển, qua đó thể hiện cách nhìn hiện nay các thế hệ người Đức về quá khứ mà không
một chút sợ hãi.
Vào năm 2015, nhà xuất bản của Günter Grass cho biết, ông qua đời tại một
bệnh viện thuộc thành phố Lubeck của Đức. Với hơn 80 năm cuộc đời, G.Grass đã có
14
những đóng góp vô cùng to lớn với nền văn học Đức nói riêng và văn học thế giới nói
chung với hơn 70 tác phẩm và được dịch ra 40 ngôn ngữ trên toàn thế giới. Với
những đóng góp to lớn ấy, ông thực sự trở thành “người khổng lồ” của văn học Đức.
1.2.2. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Bình Phương (1965)
Nguyễn Bình Phương tên thật là Nguyễn Văn Bình. Sinh năm 1965 tại thị xã
Thái Nguyên, nay là thành phố Thái Nguyên. Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Bình Phương
đã theo gia đình sơ tán về miền quê nghèo Linh Nham của huyện Đông Hưng (nay là
huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên). Có lẽ vì thế nên tâm hồn của nhà văn sinh ra ở phố
thị này rất thấm đượm hồn quê dân giã, mộc mạc.
Phải đến năm 1979, nhà văn mới quay trở lại quê hương. Năm 1985, sau khi
học xong trung học phổ thông, Nguyễn Bình Phương ra nhập quân ngũ và cũng bắt
đầu đến với sáng tác văn chương. Nguyễn Bình Phương thi vào trường viết văn
Nguyễn Du năm 1989. Tốt nghiệp trường Nguyễn Du khóa IV, từng nhiều năm công
tác tại biên giới phía Bắc. Nguyễn Bình Phương được phân về đoàn kịch nói Tổng
cục chính trị sau đó làm công việc biên tập tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hiện
tại, Nguyễn Bình Phương đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Những tác phẩm của Nguyễn Bình Phương được cho ra mắt từ giữa những
năm 80 của thế kỉ XX. Nhà văn đã rất thành công trong việc sáng tạo nghệ thuật,
đồng thời thể hiện rõ cá tính văn chương độc đáo của mình.
Mặc dù rất thành công với các tác phẩm tự sự nhưng Nguyễn Bình Phương lại
bén duyên với nghệ thuật trước hết bằng những vần thơ. Bài thơ đầu tiên của anh
được đăng trên báo Văn nghệ. Người nghệ sỹ ấy từng tâm sự: “ Dạo ấy in được ở báo
Văn nghệ là oách chiến, mà người chọn in là nhà thơ Trần Ninh Hổ. Tôi đọc đi đọc
lại bài thơ in trên báo Văn nghệ và thấy mình viết cũng hay, thế là lao vào viết và gửi
tiếp. Sau đó thì nhà thơ Nguyễn Đức Mậu chọn in bài của tôi ở Văn nghệ quân đội.
Hai cú huých ấy làm tôi phấn khích bước vào con đường văn chương” [42]. Tập
trường ca đầu tay Khách của trần gian (1986) của Nguyễn Bình Phương đã thổi vào
làng thơ đương đại Việt Nam một làn gió mới đầy lạ lẫm đến huyễn hoặc. Có thể coi
đó là lời chào mở đường cho một loạt những bài thơ đặc sắc của ông sau đó như Lam
Chướng (1992), Xa Thân (1997), Từ chết sang trời biếc, Buổi câu hờ hững và gần
15
đây nhất là tập thơ Xa xăm gõ cửa ra mắt độc giả năm 2015.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Bình Phương đến với thơ ca đầu tiên và đạt được
không ít thành tựu. Thế nhưng những sáng tác văn xuôi của ông mới thực sự được
đánh giá cao và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, nhất là thể loại tiểu thuyết.
Khi nhận xét về Nguyễn Bình Phương, Hồng Thanh Quang cho rằng: “ Chính những
tác phẩm văn xuôi mới tạo cho Nguyễn Bình Phương một dấu ấn khác lạ đến chấn
động” [29]. Trong thời gian không quá dài, khoảng hơn mười năm, Nguyễn Bình
Phương đã cho ra đời tám cuốn tiểu thuyết: Bả Giời (1991), Vào cõi (1991), Những
đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỷ thủy
(2005), Ngồi (2006), Mình và họ (2014). Hầu hết các tiểu thuyết này đều gây tiếng
vang lớn trên văn đàn nhưng đặc biệt, với tiểu thuyết Mình và họ, Nguyễn Bình
Phương đã được nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam trong lĩnh vực văn xuôi.
Năm 2017, Nguyễn Bình Phương tiếp tục cho ra mắt tiểu thuyết Kể xong rồi đi, nhận
được sự đón nhận của độc giả. Nhà văn Bảo Ninh từng khen “Mình và họ” của
Nguyễn Bình Phương là “tuyệt tác”, nay anh tiếp tục khẳng định: văn Phương không
những rất hay, còn rất khác thường. Tác giả “Nỗi buồn chiến tranh” đánh giá tiểu
thuyết đã vượt qua lối nghĩ của thế hệ anh. Nhà văn giải thích thêm: thế hệ tôi chỉ bàn
chuyện đúng sai, phải trái, trong khi các bạn bây giờ chiêm nghiệm về cái chết. Anh
cho rằng, “Kể xong rồi đi” là đối tượng cho một nền phê bình mới, và “Nguyễn Bình
Phương xứng đáng”. Nhà văn Uông Triều khi nói về thói quen viết của Nguyễn Bình
Phương đã từng kể rằng: Nguyễn Bình Phương có thói quen tiết kiệm, bản thảo của
anh thường sửa nhiều lần, mỗi lần dùng một màu mực khác nhau để đánh dấu. “Sửa
nhoe nhoét” cho đến khi kín đặc trang giấy, cho nên ai xin bản thảo Nguyễn Bình
Phương cũng không cho bởi anh ý thức rất cao về chữ của mình.
Nhà phê bình Hoàng Đăng Khoa cũng cho rằng: truyện của Nguyễn Bình
Phương đọc để cảm chứ không phải để hiểu. Rằng rất khó để tóm tắt tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương bởi anh “viết” chứ không phải “kể” nội dung!
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đánh giá Nguyễn Bình Phương là nhà văn
Việt Nam đương đại “được yêu thích” và rằng đọc văn anh phải kiên nhẫn, không thể
thẳng tuột được. Ông Nguyên chia sẻ thêm: Nguyễn Bình Phương là trường hợp duy
16
nhất cho đến nay đoạt cả hai giải thưởng thơ và văn xuôi của Hội Nhà văn Hà Nội:
giải thơ cho tập “Buổi câu hờ hững” (2012), giải văn xuôi cho tiểu thuyết “Mình và
họ” (2015).
Hầu hết các cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đều mang hơi hướng
của chủ nghĩa hậu hiện đại. Hay nói cách khác, ảnh hưởng được thể hiện qua cả chủ
đề, đề tài và phương thức biểu hiện. Sự ảnh hưởng của trào lưu văn học hậu hiện đại
đến hành trình sáng tác của Nguyễn Bình Phương được thể hiện ở cả bình diện nội
dung và nghệ thuật. Về mặt nội dung, điều đầu tiên là các dạng thức con người trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, dù làm công chức hay nông dân đều là những hình
ảnh chung cho con người hiện đại trong guồng quay của cỗ máy kinh tế đang vận
hành dữ dội. Xây dựng những nhân vật điển hình cho những con người thời đại,
Nguyễn Bình Phương đã đẩy những nhân vật của mình vào thế bế tắc tận cùng trong
tư tưởng. Trong tâm hồn họ, cuộc sống hiện đại gấp gáp làm nảy sinh nhiều mâu
thuẫn và càng mâu thuẫn, càng bế tắc. Cuộc sống của các dạng thức con người đó
luôn bị dằn vặt với những mối bận tâm về công việc, tình yêu, tiền bạc hay tình dục…
Nói cách khác, các nhân vật của Nguyễn Bình Phương luôn ngập chìm trong sự u mê
tăm tối vì những ám ảnh huyễn hoặc, họ bị cuốn vào những ảo tưởng mơ hồ mà đôi
khi không nhận ra được đâu là thế giới thực của mình. Nguyễn Bình Phương thường
pha trộn các tuyến nhân vật tưởng chừng như không liên quan vào trong cùng một
cuốn tiểu thuyết, khiến cho những bạn đọc thông thường thật khó tiếp cận với ý nghĩa
tư tưởng mà tác phẩm muốn truyền đạt, điều đó lý giải vì sao, tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương luôn kén độc giả và người đọc thì luôn phải vật lộn với chữ nghĩa của
nhà văn để xem xét đâu là mối quan hệ giữa chúng và các nhân vật. Bên cạnh đó, một
đặc điểm nghệ thuật rất rõ cho thấy sự ảnh hưởng của trào lưu văn học hậu hiện đại
thế giới trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương chính là việc nhà văn chọn cho
mình cách viết nội dung thay vì kể lại nội dung. Đây cũng là một xu hướng của văn
xuôi hậu hiện đại nói chung và tiểu thuyết hậu hiện đại nói riêng. Nguyễn Bình
Phương cũng từng chia sẻ quan điểm của mình, nhà văn muốn mình là người kể
chuyện chứ không muốn mình chỉ đơn giản là người kể ra một câu chuyện, việc kể ra
một câu chuyện tức là trong đầu của chủ thể đã có khuôn khổ của câu chuyện ấy rồi,
chỉ việc kể ra, còn người viết nội dung thì phải cân nhắc chọn từ ngữ nội dung của
17
câu chuyện. Câu chuyện cứ trôi đi theo tình tiết sự việc và hành động nhân vật, nhà
văn không biết trước chuyện gì xảy ra, cứ để thực tại diễn ra như nó vốn có, không tô
vẽ màu mè. Nguyễn Bình Phương thường hướng ngòi bút của mình vào những mảnh
vỡ của hiện thực, mỗi tác phẩm là những mảnh vỡ nhỏ khiến cho độc giả khó tiếp cận
với nội dung và càng khó hơn khi tóm tắt các tiểu thuyết đó. Đọc Người đi vắng,
Thoạt kì thủy, Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn, Ngồi, nếu là người đọc hời
hợt sẽ dễ nhận thấy những vòng xoáy, những mảnh chắp nối của kí ức hay thời gian
mà thôi. Nếu cứ cảm nhận theo một trật tự quen thuộc, chúng ta sẽ không thể thấy
một mạch truyện đang chảy ngầm bên trong, câu chuyện cứ trôi đi và nhà văn cứ kể
như người cầm một tấm gương lớn kéo dọc cuộc sống và chụp lại một cách sinh
động, chân thực những gì đang diễn ra trong cuộc sống ấy, không bình luận, không
thêm bớt, tất cả cứ để người đọc tự cảm nhận và rút ra kết luận. Lối viết này của
Nguyễn Bình Phương cũng ít nhiều ảnh hưởng từ lí thuyết chung của văn học hậu
hiện đại trên thế giới. Bên cạnh đó, việc xây dựng cốt truyện trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương cũng chịu ảnh hưởng từ trào lưu văn học hậu hiện đại, đó là sự
phân rã cốt truyện rất rõ nét, hay nói cách khác là cốt truyện lỏng lẻo, hiện thực trong
tác phẩm là những mảnh vỡ, cấu trúc phi đơn tuyến, lối kể nhảy cóc, lời thoại rời
rạc… Những kĩ thuật ấy được Nguyễn Bình Phương sử dụng một cách tài tình khiến
cho tất cả những tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đều có cốt truyện đặc sắc.
Có thể thấy, Nguyễn Bình Phương là người không chỉ thầm lặng cống hiến mà
còn vô cùng tâm huyết với sự nghiệp văn chương. Những đóng góp của ông, đặc biệt
ở thể loại tiểu thuyết đã mang đến cho nền văn học Việt Nam những thành tựu không
nhỏ trên tất cả các phương diện cả ở nội dung và hình thức. Phản ánh những khía
cạnh mới, những góc khuất mới được khám phá trong cuộc sống con người. Với lối
viết tiểu thuyết đa chiều, phức tạp cùng những kết cấu mảnh ghép, hỗn độn, hay sự
huyễn hoặc, huyền ảo đã làm nên sự mới mẻ, thổi một làn gió mới vào văn đàn văn
học Việt Nam đương đại. Những sáng tác của Nguyễn Bình Phương ngày càng được
đánh giá cao và tên ông cũng ngày càng được khẳng định trên văn đàn. Nguyễn Bình
Phương không ngừng nỗ lực cách tân những sáng tác của mình đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển, đổi mới của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Điều đó đã mở
ra một hướng đi mới cho văn học Việt Nam, tiến gần hơn với các nền văn học lớn
18
trên thế giới.
Chương 2
KẾT CẤU ĐA ĐIỂM NHÌN
2.1. Giới thuyết về điểm nhìn, đa điểm nhìn
Tác phẩm văn xuôi tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng được cấu thành bởi
ba yếu tố: truyện, kết cấu và diễn ngôn. Một tác phẩm hoàn chỉnh không chỉ phụ
thuộc vào cốt truyện, việc sắp xếp tổ chức ngôn từ mà còn phụ thuộc vào việc tổ chức
kết cấu tác phẩm một cách hợp lý, sinh động. Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động của tác phẩm’’[18, tr,156], là phương tiện cơ bản, quan trọng của khái
quát nghệ thuật. Bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, cấu trúc hợp lí hệ thống tính
cách, tổ chức điểm nhìn trần thuât của tác giả... là chức năng mà kết cấu đảm nhận.
Tổ chức điểm nhìn trần thuật cũng là một trong những chức năng của kết cấu, là vấn
đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Khái niệm điểm nhìn là công cụ cho việc đọc kĩ văn
bản văn xuôi, là một trong những khái niệm then chốt của phê bình mới.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm điểm nhìn được khái quát là:
“Vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có
nghệ thuật nếu không có điểm nhìn bởi nó thể hiện sự chủ ý, quan tâm và đặc điểm
của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật...Điểm nhìn nghệ thuật có thể hiểu là
điểm rơi của cái nhìn vào khách thể’’[18, tr.113].
Định nghĩa về điểm nhìn nghệ thuật, nhà nghiên cứu Cao Kim Lan trong bài
nghiên cứu “Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R.Scholes và R. Kellogg’’ cho rằng:
“ Điểm nhìn chính là một mánh khóe thuộc về kĩ thuật, một phương tiện để chúng ta có
thể tiến đến cái đích tham vọng nhất, sức quyến rũ của truyện kể’’ [22, tr.26].
“ Điểm nhìn là vị trí, điểm quan sát của người kể chọn để nhìn hiện thực và kể
lại câu chuyện của mình cho người đọc. Khi tiếp xúc với tác phẩm người đọc sẽ được
dẫn dắt từ một điểm nhìn nhất định’’ [13, tr.149].
Từ lâu, các nghệ sĩ bậc thầy và các nhà phê bình đã lưu ý đến vai trò của điểm
nhìn trong kết cấu: “ Bêlinxki đã từng nói rằng, khi đứng trước một phong cảnh đẹp
thì chỉ có một điểm nhìn làm cho ta thấy toàn cảnh và chiều sâu của nó... Nhà điện
ảnh Xô Viết Puđôpkin ví việc xác định điểm nhìn để tái hiện đời sống như mở một
con đường đi vào rừng rậm. Xác định đúng tạo cho người đi cái thế nhìn sâu trông xa,
19
đưa họ đến cái điểm nhận thức và cảm thụ mà nhà văn muốn đạt đến’’[22, tr.310].
Tóm lại, điểm nhìn là vị trí của người kể chuyện khi tái hiện hiện thực trong
tác phẩm văn học. Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật có vai trò vô cùng quan trọng
trong kết cấu của văn bản.
Có nhiều cách phân loại điểm nhìn nhưng phổ biến nhất các nhà nghiên cứu
phân loại điểm nhìn theo hai cách. Cách thứ nhất là xét về trường nhìn trần thuật,
người ta chia điểm nhìn thành hai loại gồm trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân
vật. Cách thứ hai xét về bình diện tâm lí, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong
và điểm nhìn bên ngoài. Ở đề tài này chúng tôi đi theo hướng phân loại thứ hai, tức là
chia điểm nhìn thành hai dạng chính: điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài.
Trong sáng tác, hai loại điểm nhìn trên không tách biệt nhau mà đan xen vào nhau, bổ
sung cho nhau để làm tăng tính khách quan cho câu chuyện. Nhà văn đã sử dụng biện
pháp gửi điểm nhìn sang các nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác tạo nên
hiện tượng đa dạng hóa điểm nhìn trong tác phẩm.
Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc đưa ra khái niệm đa điểm nhìn như là một đặc
trưng của văn học hậu hiện đại, “cách kể có thể kết hợp cả điểm nhìn bên ngoài lẫn
điểm nhìn bên trong’’ [12, tr.149]. Đa điểm nhìn hậu hiện đại xuất phát từ nguyên tắc
phi trung tâm hóa trần thuật, nhằm khách quan hóa trần thuật. Đa điểm nhìn là hệ
thống các điểm nhìn trong tác phẩm, các điểm nhìn này đặt cạnh nhau, đối thoại với
nhau, tương tác với nhau, góp phần đắc lực vào việc thể hiện tư tưởng nghệ thuật của
nhà văn.
2.2. Đa điểm nhìn trong Cái trống thiếc và Những đứa trẻ chết già
Trong Cái trống thiếc của Günter Grass và Những đứa trẻ chết già của
Nguyễn Bình Phương đã trần thuật theo một hệ điểm nhìn, thể hiện rõ tính khách
quan, đa chiều và đối thoại của hậu hiện đại. Tính chất đối thoại không chỉ bộc lộ ra
trong mối quan hệ giữa các điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài mà còn bộc
lộ ngay ở một điểm nhìn bên trong.
2.2.1. Sự đối thoại giữa các điểm nhìn bên trong
Điểm nhìn bên trong xuất hiện khi người kể đi sâu vào đời sống nội tâm nhân
vật vì thế thường mang tính chủ quan và được kể theo ngôi thứ nhất. Trong tiểu
20
thuyết Cái trống thiếc, G. Grass đã đặt điểm nhìn trần thuật phần lớn ở điểm nhìn bên
trong, tác giả đã sử dụng thủ pháp kể chuyện từ ngôi thứ nhất, giao trách nhiệm trần
thuật cho nhân vật chính Oskar xưng tôi, cậu bé trưởng thành ngay từ khi mới sinh và
cự tuyệt lớn lên về thể xác từ năm ba tuổi. Trong Cái trống thiếc, tính chất đa điểm
nhìn thể hiện ở tính chất đối thoại ở điểm nhìn bên trong Oskar xưng Tôi và tính chất
đối thoại được tạo ra bởi sự dịch chuyển các điểm nhìn bên trong.
Tôi vừa là một nhân vật trực tiếp hòa mình vào câu chuyện, tham gia vào các
sự kiện, biến cố của cốt truyện, vừa giữ vai trò dẫn dắt, kể lại câu chuyện. Người kể
chuyện có điều kiện bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình, làm tăng thêm chất
trữ tình và tạo nên sắc thái tự truyện, gây được cảm giác tin cậy hơn cho câu
chuyện.Với điểm nhìn bên trong như vậy, người kể chuyện vừa dễ dàng thuật lại
những diễn biến khách quan của tình tiết, sự kiện, vừa thâm nhập được vào thế giới
tâm hồn nhân vật để biểu hiện cảm xúc, tâm trạng. Người kể chuyện và nhân vật là
một, tôi tự kể chuyện của mình, kể những gì liên quan đến mình.
Mở đầu tác phẩm, nhân vật tôi xuất hiện hết sức bất ngờ: “Ờ phải: tôi đang
nội trú ở một bệnh viện tâm thần” [36, tr.1]. Không có lời giới thiệu, không có những
câu văn dẫn dắt, tôi tự mình kể lại toàn bộ câu chuyện, tự kể lại cuộc đời mình với
những sự kiện, những con người gắn bó với anh ta: “Thế là cái giường kim loại của
tôi thành một vế so sánh. Đối với tôi, nó còn hơn thế nữa: cái giường của tôi, đó là
mục tiêu, rốt cuộc, đã đạt, là niềm an ủi của tôi, và đó có thể là tôn giáo của tôi nếu
như ban quản trị bệnh viện chấp nhận cho sửa đổi đôi chỗ: tôi muốn nâng cao chấn
song sắt lên để trốn mọi tiếp xúc” [36, tr.1]. Đó là những lời Oskar nói về suy nghĩ
của mình trong cuộc sống hiện tại nơi bệnh viện tâm thần.
Ở mỗi chương, qua lăng kính của Oskar, những biến cố trong cuộc đời con
người, lịch sử dân tộc, lịch sử thời đại hiện lên chân thực, lạ lẫm hơn. Oskar kể cho
độc giả về chiếc váy ụp của bà ngoại “Bà tôi không chỉ mặc một, mà những bốn cái
váy chồng lên nhau. Không phải bà mặc một chiếc váy dài và ba chiếc váy ngắn;
bà mặc bốn cái váy dài như nhau, cái nọ đỡ cái kia; bà mặc váy theo một hệ thống
riêng, mỗi ngày lại đổi trật tự chồng váy. Cái hôm qua mặc ngoài cùng, hôm nay cho
vào trong, dưới một lớp, cái thứ hai thành cái thứ ba. Cái thứ ba hôm trước giờ ôm sát
21
người. Cái váy bữa qua tiếp xúc với da thịt bà tôi giờ phô ra họa tiết, nghĩa là chẳng
có họa tiết gì: những chiếc váy của bà ngoại Anna Bronski đều thuần một sắc thái
khoai tây như nhau. Hắn là cải sắc thái này hợp với màu da bà” [36, tr.4]. Qua lời kể
của tôi, chiếc váy được mô tả thật đặc biệt và có gì đó khác thường. Chính chiếc váy
kì lạ ấy đã cứu vớt sinh mạng của một con người, sau này người ấy trở thành ông
ngoại của Oskar. Nhà văn cũng để cho nhân vật tự ý thức về lời kể của mình “Tôi sẽ
bắt đầu từ thời điểm khá lâu trước khi có tôi; bởi vì chẳng ai nên mô tả đời mình mà
không chừa thời gian trước cuộc tồn sinh của chính mình để tưởng niệm nửa số
ông bà nội ngoại” [36, tr.4]. Nhân vật xưng tôi kể cho độc giả về người ông của mình
“Ông ngoại tôi, như một khúc củi rều, cứ thế trôi tuột ra biển, được mấy người dân
chài vùng Bohrsack vớt lên rồi giao cho một tay đánh cá khơi người Thụy Điển
ở ngoài vùng ba hải lý quy định. Sau đó, như thể do một phép mầu,ông bình phục và
tới được Malmo, vân vân và vân vân” [36, tr.25].
Oskar tự kể lại cuộc đời mình từ khi sinh ra “Xin nói ngay lập tức: tôi thuộc
loại trẻ sơ sinh rất thính tai, với độ phát triển tâm lý hoàn chỉnh từ lúc lọt lòng” [36,
tr.35]. Đến những sự kiện có tính chất bước ngoặt liên quan đến cuộc đời cũng như
con người Oskar “Chính vào thời điểm đó tôi đã tuyên bố, đã quyết định, đã nhất
quyết không bao giờ làm chính trị trong bất kỳ hoàn cảnh nào, càng không thèm làm
anh lái buôn tạp phẩm, mà chỉ dừng lại đây thôi, mãi mãi vẫn nguyên xi như thế này-
và tôi đã thực hiện đúng như thế; trong bao năm, tôi không chỉ giữ nguyên tầm vóc
này mà cả bộ trang phục này nữa”[36, tr.51] hay “Để tránh cái máy thu ngân, tôi bám
riết lấy cái trống của tôi và từ lần sinh nhật thứ ba trở đi, không chịu lớn thêm lên một
đốt tay nào nữa” [36, tr.51].
Xưng tôi, Oskar kể lại chi tiết, tỉ mỉ cuộc đời mình “Vào dịp sinh nhật lần thứ
ba, bé Oskar của chúng tôi bị ngã xuống cầu thang hầm kho, xương cốt tuy nguyên
vẹn, nhưng không lớn được nữa” [36, tr.54]. Oskar hồi tưởng lại tuổi thơ của mình
khi sinh nhật 3 tuổi, tại thời điểm ấy, tai nạn xảy ra và cậu bé không thể lớn được
nữa. Oskar ý thức rất rõ điều đó, cậu hiểu và chấp nhận tình trạng của mình mà không
hề phản kháng, không hề chối bỏ. Cậu đón nhận nó, chập nhận nó thậm chí vui vẻ, tự
hào vì nó. Cùng với cái trống thiếc- món quà mẹ hứa tặng khi lên 3 tuổi, Oskar đã trải
22
qua những năm tháng tuổi thơ đầy bất thường: “Ngay từ tiếng thét đầu tiên còn kiềm
chế, dè dặt, tôi đã phá toang cái tủ kính trong đó Hollatz lưu giữ những của lạ gớm
chết của ông ta và làm văng một ô kính gần như vuông xuống sàn nhà lót vải nhựa, ở
đó nó tan thành muôn mảnh mà vẫn giữ nguyên hình cũ [36, tr.60]. “Giờ đây,
trên đỉnh tháp, tôi cất tiếng thét mặc dầu cái trống của tôi không hề bị đe dọa, kể cả
từ xa”[36, tr.94]. “Bởi vậy chả có gì lạ là vào mùa hè năm 1934, tôi bắt đầu vỡ mộng
về Đảng - mà hoàn toàn không phải vì cuộc đảo chính Roehm” [36, tr.107]. Nhân vật
tôi cứ thế tự bộc lộ mình từ đầu cho tới cuối tác phẩm.
Không chỉ kể về chính mình, Oskar còn đánh giá, nhìn nhận thế giới xung
quanh. Thông qua điểm nhìn bên trong của nhân vật tôi này trước các đối tượng
khách quan khác nhau, nhà văn thể hiện một sự đối thoại ở ngay trong một điểm nhìn.
Trước hết, điểm nhìn bên trong của tôi hướng tới quan sát mối quan hệ bất
thường, loạn luân giữa người mẹ Agnès và người bác họ Jan Bronski của Oskar. Có khi,
tôi coi mối quan hệ đó là mối tình đầy lãng mạn, thơ mộng giữa một chàng thanh niên
yếu ớt nhưng đẹp trai và một cô gái xinh đẹp, phù phiếm.
Oskar đã tưởng tượng và quan sát về mối tình này, khởi đầu đầy thơ ngây, lãng
mạn bởi sự chung sống gần gũi dưới cùng một mái nhà, “chuyện huê tình của họ hẳn
đã bắt đầu khi hai mái đầu trẻ kề bên nhau cùng xem những cuốn album tem, cùng
ngắm nghía đường răng cưa và hình soi của những chiếc tem quý” [36, tr.31]. Tình
cảm thơ ngây phát triển thành tình cảm yêu thương chân thành, sâu sắc, “khi, sau
ngót một tiếng đồng hồ, gã thanh niên tuyển-lính-bốn-lần-không-đắt ra khỏi cổng
quân khu, lao xuống các bậc thềm và ôm chầm lấy cổ mẹ tôi mà thì thầm cái câu rất
êm tai hồi đó: “Đằng trước đằng sau đều không đạt. Trả về. Cho hoãn một năm!” thì
“lần đầu tiên mẹ tôi ghì chặt Jan Bronsski trong vòng tay và tôi không chắc có
bao giờ họ hạnh phúc hơn thế trong vòng tay nhau” [36, tr.31]. Dưới cái nhìn của
Oskar, mối tình ấy thật đẹp, thật lãng mạn bất chấp đó là mối tình loạn luân không
được sự chấp nhận của của xã hội.
Thế nhưng vẫn từ điểm nhìn bên trong ấy, có khi tôi lại nhìn mối quan hệ đó
đậm màu tính dục, ghen tuông, bệnh hoạn. Đó là mối tình vụng trộm nhưng lại được
ghi lại qua tấm ảnh mà Oskar được nhìn thấy và tưởng tượng ra “tuy vậy, tôi
23
vẫn thích cái buồn tẻ được ghi lại trên ảnh ấy hơn tấm hình chớp nhoáng “mô-ve-gu”
của những năm sau trong đó người ta thấy mẹ tôi ngồi trên lòng Jan ở trong Rừng
Oliva gần Freudental; vì tấm ảnh cuối này với tính chất tục tĩu của nó - bàn tay của
Jan biến mất dưới váy mẹ tôi – chỉ nói lên nỗi đam mê cuồng dại của cặp uyên ương
bất hạnh này, chìm dắm trong ngoại tình ngay từ ngày đầu cuộc hôn nhân của mẹ tôi”
[38, tr.46]. Đó là màu sắc dục vọng trơ trẽn mà Oskar quan sát được “thế là mẹ tôi
liền xích lại gần bàn hơn và Jan bỏ qua một lá bài Matzerath vừa đánh ra, dùng ngón,
chân nâng gấu váy mẹ lên để luồn cả bàn chân (trong chiếc tất mới thay sáng nay)
vào khoa khoắng giữa hai đùi mẹ” [36, tr.59].
Những ngày thứ 5, mẹ Oskar thường gửi cậu lại hàng trống của Makus để đi
gặp gỡ với người anh họ Jan Bonski và cũng là người tình của mẹ cậu. Với trí tuệ
không giống với dáng vẻ bề ngoài của một đứa bé lên ba, Oskar biết hết những gì xảy
ra với mối tình vụng trộm của mẹ cậu và người anh họ. Qua khe hở của chiếc tủ quần
áo trong phòng ngủ, Oskar nhìn thấy “Tiếng rì rầm bặt dần, Jan vào phòng ngủ. Hồi
III: Bác đứng cạnh giường, hết nhìn mẹ lại nhìn nàng Madeleine sám hối, rón rén
ngồi xuống mép giường, đưa tay vuốt ve lưng và mông mẹ - chả là mẹ đang nằm sấp
mà - nói với mẹ những lời êm ái vỗ về bằng tiếng Kashubes - và cuối cùng, khi lời nói tỏ
ra vô tác dụng, luồn tay vào dưới váy cho đến khi mẹ thôi thút thít và bác thì có thể rời
mắt khỏi nàng Madeleine-nghìn-ngón-tay. Đó là một cảnh bõ xem lắm” [36, tr.139].
Như vậy, cùng là một điểm nhìn bên trong- Oskar xưng Tôi, mối quan hệ giữa
người mẹ của Oskar và bác Jan đã được đánh giá từ nhiều góc độ. Hiện thực đã được
tạo lập đa dạng, nhiều chiều. Qua những mảnh ghép khác nhau, bức tranh về mối tình
si mê đến trắng trợn, dùng Oskar để tạo bình phong; mối tình hạnh phúc nhưng cũng bất
hạnh, đau khổ vì tồn tại trong bí mật, dối trá; mối tình thơ ngây buổi đầu và nhuốm đầy
sắc màu dục vọng sau này.
Sử dụng điểm nhìn bên trong, người viết không chỉ để một nhân vật xưng tôi
kể lại câu chuyện mà ở đó tác giả còn có sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn bên trong.
Tôi không chỉ là Oskar mà tôi còn được thể hiện qua những nhân vật khác. Đó chính
là sự dịch chuyển điểm nhìn bên trong. Chẳng hạn ở chương Ngôi nhà bằng quân bài,
khi vị tướng Pan Kichot nói với quân sĩ, thì tôi ở đây không phải là Oskar nữa “Hỡi
24
các bạn, những người Ba Lan cao quý trên lưng ngựa, kia không phải là những chiến
xa thép, mà chỉ là những cái cối xay gió hoặc một đàn cừu, tôi mời các bạn hãy hôn
tay người đẹp” [36, tr.229]. Hay khi Matzerath nói với khi Greff-Rau-Quả và
Gretchen định chọc ông về Maria thì điểm nhìn lại được chuyển sang Matzerath “thì
chính tôi đã thuê con bé và đào tạo nó chứ ai vào đây” [36, tr.239]. Ngược lại, cũng
có khi người xưng tôi lại là Greff “Cố nhiên, anh nói hoàn toàn đúng, Alfred. Lina
nhà tôi quả có phần buông thả. Nhưng tất cả chúng ta ai chả có khuyết tật… Anh có
thể đúng ở một số điểm, nhưng Lina cơ bản rất tốt bụng. Tôi hiểu Lina của tôi.” [36,
tr.252]. Điểm nhìn bên trong lại có khi do Maria thể hiện khi cô nói với Oskar sau
chuyến đi lưu diễn của anh ta sau một năm “Anh đã ở những đâu. Bọn tôi - và cả
cảnh sát nữa - đã tìm anh như điên khắp mọi nơi; thậm chí bọn tôi đã phải ra tòa thề
rằng đã không thủ tiêu anh. Thôi được, giờ anh đã về đây, đội ơn Chúa. Nhưng anh
đã gây cho chúng tôi bao nhiêu rắc rối và sắp tới sẽ còn tiếp tục phiền toái nữa; bởi vì
chúng tôi sẽ phải báo cáo là anh đã trở về. Tôi chỉ hy vọng họ đừng bắt anh vào một
trại cải huấn. Mà có thế cũng đáng kia, ai bảo trốn biệt chẳng nói một lời!". Như vậy,
ở đây tác giả đã tạo nên sự linh hoạt trong điểm nhìn bên trong của nhân vật, không
để một nhân vật quan sát đánh giá sự việc mà những nhân vật khác cũng hóa thân
thành nhân vật tôi để tham gia vào diễn biến của câu chuyện. Điều này được thể hiện
rõ nét nhất ở chương Phát triển trong toa hàng, ở chương này, người viết không để
Oskar xưng tôi mà để cho người bạn đồng hành, cũng là người chăm sóc anh trong
bệnh viện thay anh kể tiếp câu chuyện, qua đó thể hiện cái nhìn của Bruno đối với
sự việc mà anh được nghe kể lại từ Oskar “Tôi, Bruno Münsterberg, quê ở Altena
vùng Saerland, chưa vợ chưa con, là y tá ở khu riêng của bệnh viện tâm thần địa
phương, ông Matzerath, điều trị tại đây từ hơn một năm nay, là bệnh nhân của tôi”
[36, tr.359]. “Ngày 12 tháng 6 năm 1945, vào khoảng 11 giờ trưa, ông Matzerath
rời khỏi Danzig, mà hồi đó đã được đổi tên thành Gdansk. Cùng đi với ông, có bà
góa Maria Matzerath, mà bệnh nhân của tôi gọi là người tình cũ của mình, và Kurt
Matzerath, mà bệnh nhân của tôi cho là con trai mình” [36, tr.360].
Với sự dịch chuyển điểm nhìn bên trong một cách linh hoạt trong Cái trống
thiếc, Günter Grass đã phá bỏ nguyên tắc trung tâm hóa trong trần thuật truyền thống,
25
thể hiện rõ nét tính chất dân chủ, phi trung tâm của trần thuật hậu hiện đại. Trao
quyền năng trần thuật cho tất cả các nhân vật, nhà văn muốn hướng tới tính chất
khách quan của hiện thực, tái tạo hiện thực trong trạng thái hỗn độn, mơ hồ, đa chiều
như nó vốn có. Qua lăng kính của một Oskar trẻ thơ, Oskar trưởng thành, có khi lại là
một Oskar già, nhà văn nhắc lại hiện thực của một giai đoạn tàn bạo bị lãng quên của
nước Đức.
Các điểm nhìn bên trong hòa quyện, đan vào nhau xuyên xuốt câu chuyện.
Điểm nhìn bên trong là cái nhìn của tôi với tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống của
cậu ta. Oskar hướng cái nhìn của mình đến tất cả những nhân vật xuất hiện trong cuộc
đời cậu. Grass không để điểm nhìn bên trong đơn điệu là điểm nhìn của một mình
Oskar tự bộc lộ về mình mà ngay trong điểm nhìn của cậu cũng có sự đối thoại khi
cùng nhìn nhận, đánh giá về một sự việc nào đó. Điểm nhìn bên trong tiểu thuyết Cái
trống thiếc không chỉ có tính chất đối thoại mà còn có sự di chuyển linh hoạt. Không
chỉ Oskar kể chuyện, nhà văn để cho các nhân vật khác kể chuyện với tư cách của điểm
nhìn trần thuật ngôi thứ nhất. Điều đó làm tăng độ khách quan cho diễn biến cốt truyện,
đồng thời giúp các nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tình cảm một cách chân thực nhất.
Đến với Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương lại là một câu
chuyện khác, với những số phận và cuộc đời của các nhân vật khác. Tuy không sử
dụng ngôi kể thứ nhất cố định là một nhân vật trong việc triển khai diễn biến truyện
như Cái trống thiếc của Günter Grass nhưng nguyễn Bình Phương đã sử dụng nhiều
hệ điểm nhìn ở ngôi kể thứ nhất. Nhà văn cho các nhân vật tự nhìn nhận về một vấn
đề, một con người nào đó. Điểm nhìn trần thuật bên trong không bất biến cố định từ
đầu đến cuối mà có sự di chuyển linh hoạt từ nhân vật này sang nhân vật khác. Điều
đó vẫn đảm bảo việc khai thác tối đa hiệu quả sử dụng của ngôi kể thứ nhất. Tác giả
giới thiệu về gia đình Trường hấp nhưng khi để mụ Sinh lùn nhận xét về cái nhìn của
thằng Liêm thì tác giả lại chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật Sinh để mụ tự cất
lên tiếng nói của mình “ Giá lão già nhà tôi có đôi mắt như nó cuộc đời có phải khác
đi không!” [27, tr.10]. Từ cái nhìn của mụ Sinh ánh lên những ham muốn đầy dục
vọng của mụ với một thằng bé. Không chỉ mụ Sinh mà ngay cả Trường hấp trong lời
nói với con trai, Trường hấp trực tiếp quát mắng “thằng động đực, thằng chết dầm,
26
ông sẽ cho mày biết tay. Ông sẽ lấy cho mày một con vợ nửa điên nửa dại xem mày
có bỏ được cái thói đòi của nữa hay không” [27, tr.11]. Sự tức giận của người cha đã
khiến Trường thốt lên những lời nói cục cằn dành cho con lão. Thế nhưng xuất phát
từ điểm nhìn của người cha, dù cho có là quát mắng thậm chí nguyền rủa thì trong
sâu thẳm tâm can, Trường vẫn rất thương con. Bởi lẽ, nếu không thương, không lo
cho con thì có lẽ ông ta đã không tức giận đến vậy.
Đặc trưng hậu hiện đại trong Những đứa trẻ chết già còn nổi bật ở kết cấu
mảnh ghép, khi mà trong một cuốn tiểu thuyết có hai mạch truyện song song tồn tại.
Bên cạnh những chương truyện viết về công cuộc tìm kiếm kho báu của gia định cụ
Trường là những phần “Vô thanh” kể về cuộc hành trình của những con người bí ẩn
trên chuyến xe trâu hư ảo. Sử dụng điểm nhìn trần thuật bên trong, Nguyễn Bình
Phương không hoàn toàn hóa thân vào các nhân vật mà chủ yếu thể hiện khi bộc lộ lời
nói trực tiếp. Ở cả hai mạch truyện, điều đó đều được thể hiện rõ nét. “Tôi” không cố
định ở một nhân vật cụ thể nào mà có sự hoán đổi liên tục. Nhân vật “tôi” có thể là bất
kì ai. Ông Trình khi trò chuyện cùng đám học trò cũng xưng tôi “ Tôi hỏi các cậu một
câu. Học võ để làm gì”[27, tr.37]. Điểm nhìn của ông Trình là điểm nhìn của người
thầy đối với học trò của mình. Thằng Hải cũng xưng tôi trong lời đáp lại với bố nó “Tôi
làm gì mà bố đòi đánh? Rõ rởm” [27, tr.57]. Lời đối thoại ấy thể hiện rõ sự hỗn láo
thậm chí có chút coi thường của thằng con bất trị với cha nó. Hay cả cuộc đối thoại
giữa lão Liêm và Lanh, sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn cũng được bộc lộ rõ nét:
“- Con tôi không chơi với đĩ!”
“- Đĩ, ừ thì vậy. Tôi không làm đĩ với ông, tôi làm đĩ với con trai ông đấy. Giỏi
thì cứ lao vào… Bố sư thằng già này. Bà thì kẹp cho vỡ bẹp cả đầu. Bà không tha cho
con mày đâu!” [27, tr.59]. Sự thay đổi liên tục ngôi kể trong các lời đối thoại của lão
Liêm với con trai, giữa lão và Lanh, không hề có sự phân biệt vai vế hay quan hệ xã
hội. Mọi giá trị đạo đức đều bị đảo lộn hết cả, nhỏ nhất là trong gia đình, rộng hơn
chút nữa là trong xóm Trại và hơn cả là ngoài xã hội. Đó phải chăng chính là hiện
thực mà nhà văn muốn thể hiện.
Ngôi kể thứ nhất người kể không chỉ xưng “tôi” mà đôi khi các đại từ xưng hô
khác cũng được sử dụng rất phong phú. Sau cuộc cãi vã qua lại với Lanh, lão Liêm
27
nảy ra ý định lấy vợ cho con trai với hi vọng trị được cậu con trai lão “Tao sẽ hỏi nó
làm vợ mày. Câm mõm, đừng có cãi lại. Ngần này tuổi đầu rồi, phải chí thú vào mà
làm ăn. Con bé cũng tốt nết đáo để. Khoan, định bỏ đi đấy phỏng. Hừm… Ngay sáng
mai tao sẽ sang nhà bà ấy” [27, tr.60].
Phản ứng lại với bố, Hải đáp “Bố đem con ấy về đây, tôi đấm nó chết ngay tại
cổng” [27, tr.60].
Khi bị nhà trường đuổi học, bản chất nhân vật Loan cũng phần nào được bộc
lộ qua lời nói với ông hiệu trưởng “Tôi gí cứt vào sách vở” [27, tr73]. Ngôi kể thứ
nhất có sự thay đổi liên tục mà không dừng lại ở một nhân vật nào. Mặc dù không
phải ngôi kể chính trong toàn bộ diễn biến câu chuyện thế nhưng việc sử dụng kết
hợp ngôi kể thứ nhất với sự di chuyển linh hoạt các điểm nhìn đã mang lại sự chân
thực, tin cậy cho câu chuyện. Tác giả đặt điểm nhìn ở nhiều nhân vật khác nhau vừa
giúp họ thể hiện chính xác cảm xúc tâm trạng nhưng đồng thời cũng bộc lộ phần nào
bản chất, tính cách nhân vật ấy trước độc giả mà không cần tô vẽ, nhào nặn quá
nhiều. Tất cả đều được bộc lộ ở ngay trong lời nói của các nhân vật. Từ đó giúp
người đọc tự cảm nhận, tự hình dung đồng thời phản ánh phần nào bộ mặt xã hội hỗn
loạn, rối ren với những quy tắc chuẩn mực bị đảo lộn.
Triển khai cốt truyện ở điểm nhìn bên trong, cả Grass và Nguyễn Bình Phương
đều sử dụng ngôi kể thứ nhất với sự đối thoại giữa các điểm nhìn bên trong và sự di
chuyển linh hoạt điểm nhìn ở ngôi thứ nhất. Nếu như Cái trống thiếc của G.Grass,
ngôi kể thứ nhất Oskar xưng “tôi” là ngôi kể chủ yếu xuyên suốt tác phẩm làm nên
tính chân thực cho toàn bộ câu chuyện thì Những đứa trẻ chết già Nguyễn Bình
Phương lại chủ yếu vận dụng sự di chuyển linh hoạt giữa các điểm nhìn bên trong.
Nhà văn không để nhân vật chính giữ vai trò dẫn chuyện mà để ngôi kể thứ nhất phát
huy tác dụng khi các nhân vật tự bộc lộ về mình hay đánh giá về nhân vật, sự việc
khác thông qua các lời đối thoại hoặc độc thoại nội tâm. Đó là sự khác nhau cơ bản
trong việc lựa chọn điểm nhìn bên trong của hai tác phẩm.
2.2.2. Sự đối thoại giữa các điểm nhìn bên ngoài
Điểm nhìn mà tác giả khai thác chủ yếu là điểm nhìn bên trong, tuy nhiên bên
cạnh đó Günter Grass còn sử dụng điểm nhìn bên ngoài nhằm thể hiện được tính
28
khách quan tối đa cho trần thuật. Điểm nhìn bên ngoài là vị trí quan sát khách quan
của người kể. Ở vị trí này, người kể thường kể chuyện theo ngôi thứ ba không can
thiệp vào hiện thực. Günter Grass là một trong những nhà văn có những cách tân táo
bạo về phương diện trần thuật, việc ông sử dụng nhiều điểm nhìn trong phản ánh hiện
thực là cách đề cao tinh thần dân chủ trong tự sự của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong
tiểu thuyết Cái trống thiếc, tác giả đã sử dụng kết hợp giữa điểm nhìn bên trong và
điểm nhìn bên ngoài mà chính xác là “một hệ điểm nhìn bên ngoài’’ [12, tr149] của
các nhân vật phi trung tâm. Nếu như ở điểm nhìn bên trong, tác giả để nhân vật tôi tự
kể lại câu chuyện, qua đó để người đọc cảm nhận về hiện thực một cách gián tiếp thì
đến với điểm nhìn bên ngoài, độc giả tự mình hòa vào nhân vật để trực tiếp thấy được
hiện thực mà tác phẩm phản ánh, vừa phát huy được sự chủ động, vai trò đồng sáng
tạo của độc giả với nhà văn vừa thể hiện được yếu tố khách quan của hiện thực đó.
Đối tượng được nhìn ở đây từ điểm nhìn bên trong và bên ngoài là Oskar
Marzerath. Oskar tự nhìn mình và kể lại cuộc đời mình cho độc giả như là một cậu bé
dị thường, cự tuyệt lớn lên về thể xác vì trí tuệ và cảm xúc đã là người trưởng thành
từ khi mới lọt lòng. Oskar nhiều mưu mẹo, tự tạo ra cú ngã nhằm đánh lừa người
khác về nguyên nhân cơ thể ngừng lớn, cú ngã đã khiến ông bố Marzerath bị trách
lầm suốt cuộc đời. Oskar sử dụng khả năng đặc biệt, tiếng thét cắt thủy tinh nhằm dụ
dỗ ăn cắp. Oskar giễu cợt, phỉ báng đức tin và chúa Jesus bằng cái nhìn đầy trải
nghiệm. Oskar ý thức rõ về bản thân mình. Cậu ta chủ động đón nhận sự bất thường
trong cơ thể mình như một điều đương nhiên.
Oskar không chỉ được nhìn từ cái nhìn bên trong, Oskar còn được nhìn bằng
một hệ điểm nhìn bên ngoài. Qua con mắt nhìn của Bruno, người y tá chăm sóc Oskar
tại bệnh viện tâm thần, Oskar là một bệnh nhân tâm thần nhưng vô hại nhất, “Tôi,
Bruno Münsterberg, quê ở Altena vùng Saerland, chưa vợ chưa con, là y tá ở khu
riêng của bệnh viện tâm thần địa phương, ông Matzerath, điều trị tại đây từ hơn một
năm nay, là bệnh nhân của tôi. Tôi còn có những bệnh nhân khác mà tôi không thể
nhắc đến ở đây. Ông Matzerath là bệnh nhân vô hại nhất của tôi. Ông không bao giờ
lên cơn dữ dội mức tôi phải gọi các y tá khác đến giúp. Hôm nay, để cho những ngón
tay làm việc quá sức của ông được nghỉ, ông đã yêu cầu tôi viết hộ ông và ngừng việc
29
tạo hình bằng nút của tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn trữ sẵn một số dây trong túi và trong khi
ông kể câu chuyện của ông, tôi sẽ bắt đầu hai chi dưới của một nhân vật mà, dựa theo
câu chuyện của ông Matzerath, tôi sẽ gọi là "Người tỵ nạn từ phương Đông". Đây
không phải là nhân vật đầu tiên mà tôi mượn ý từ những câu chuyện do bệnh nhân
của tôi kể trong cuốn tiểu thuyết này [36, tr358]. Ngoại diện của Oskar được Bruno
miêu tả với nhiều chi tiết, “cao một mét hai mươi mốt xăng-ti-mét. Ông ta mang giữa
đôi vai một cái đầu mà ngay cả với người tầm vóc bình thường cũng là quá to, trên
một cái cổ ngắn đến nỗi tưởng như không có. Mắt ông xanh lơ, sảng lấp lánh, lanh lợi
thông minh, thi thoảng mang một vẻ mơ mộng ngây ngất. Tóc nâu sẫm, rậm, hơi lượn
sóng, ông thích phô hai cánh tay lực lưỡng so với phần còn lại của cơ thể và hai bàn
tay mà ông tự khen là đẹp” [36,tr.366].
Oskar hiện lên trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Người kể
chuyện ở ngôi thứ 3 vẫn giấu mặt nhưng dường như đã được chuyển vào lăng kính
của những nhân vật khác, qua đó bộc lộ thái độ, tình cảm của nhân vật. Chẳng hạn
như khi Oskar sinh ra đời, người cha của cậu nói “Một đứa con trai. Lớn lên, nó sẽ
thay chúng ta trông nom cửa hàng” [36, tr.39]. Trong cái nhìn của một người cha,
Oskar hiện lên la một đứa bé “ vốn xưa nay được xem là đứa bé lặng lẽ, hầu như quá
ngoan là đằng khác”[36, tr.60].
Lần đầu tiên đến trường, Oskar dưới cái nhìn của bạn bè “Khi mẹ dẫn tôi
vào phòng, đám dân đen cười ồ lên và đám mẹ dân đen cũng cười theo [36, tr68]. Bạn
bè nhìn Oskar với cái nhìn của sự giễu cợt. Còn cô giáo Spollenhauer sau khi dẫn
Oskar vào lớp thì “Cô quan sát đôi tay tôi và cặp dùi trống hồi lâu, thậm chí không có
vẻ gì là khiếm nhã cả; với một nụ cười lơ đãng như thể quên cả mình đang ở đâu, Cô
vỗ tay hòa theo nhịp trống của tôi. Trong một lúc, Cô trở thành một cô gái luống tuổi
không đến nỗi khó coi, quên phắt chức trách chuyên môn sư phạm của mình và giàu
tính người, có nghĩa giống như trẻ thơ, tò mò, phức tạp và vô luân.” [36, tr.69]. Thế
nhưng khi Oskar cất tiếng thét hủy diệt để bảo vệ cái trống thì cô giáo hình như phủ
nhận tất cả những gì trước đó để cất lên rằng: “Mày là một thằng bé Oskar độc ác,
con ạ." [36, tr.70].
Còn với Jan, người có thể là cha ruột của Oskar, người duy nhất không có ý
30
định phản đối nó gõ trống, qua lời kể của người dẫn chuyện giấu mặt cũng cho thấy
cái nhìn của ông với đứa trẻ này “Còn Oskar - bao giờ bác Jan cũng khẽ thở dài mỗi
khi nói " Oskar" - nó cũng sáu tuổi như Stephan; đành rằng nó nói chưa được sõi lắm,
nhìn chung, nó có chậm phát triển so với tuổi, còn về tầm vóc của nó... dào, nói mãi
rồi, nhưng dù thế nào đi nữa cũng cứ nên thử, nói cho cùng, giáo dục là cưỡng bách -
miễn là ban giám hiệu nhà trường không phản đối” [36, tr.70]. Khi quyết định cho
Oskar đi học, cách nhìn của Jan về Oskar hiện lên rõ hơn, dù ông cũng nhận thấy sự
không bình thường ở đứa bé này nhưng dường như ông cũng chấp nhận nó, chấp
nhận sự bất thường để đưa Oskar đi học như một đứa trẻ bình thường.
Từ góc nhìn của một bác sĩ, Hollatz dù biết rõ tình trạng của Oskar, thậm chí
còn có bài nghiên cứu về cậu bé được in trên “ đăng trên tạp chí Thế giới Y học một
bài về tôi, “Oskar M, đứa bé có giọng diệt thủy tinh” [36, tr.65]. Thậm chí bài viết ấy
“đã thu hút được sự chú ý của giới y học ở cả Đức lẫn các nước ngoài và dẫn đến một
loạt bài của các chuyên gia, người tán thành kẻ phản đối” [36, tr.65]. Vậy mà ông vẫn
khẳng định Oskar “là một đứa trẻ khỏe mạnh tuy về hình thể chỉ bằng đứa lên ba và
dù nói chưa được tốt lắm, nhưng ngoài ra, trí khôn của tôi không kém một đứa 5-
6 tuổi bình thường” khi nhà trường yêu cầu phải có giấy chứng nhận của bác sĩ mới
được đến trường.
Điểm nhìn của Matzerath là điểm nhìn của người cha đối với đứa con, dù đứa
con ấy có dị dạng, khiếm khuyết thì với tình yêu thương của mình ông vẫn bỏ qua tất
cả. Điểm nhìn của Jan cũng là điểm nhìn của một người cha, nhưng khác với
Matzerath, Oskar trong suy nghĩ của Jan vẫn là một đứa bé dị dạng, ông biết điều đó
nhưng dường như với ông đó là việc hết sức bình thường, ông đối xử với Oskar như
với những đứa trẻ bình thường khác. Đây không chỉ là thái độ của một mình Jan mà
hầu như tất cả mọi người từ bà ngoại Oskar, mẹ Oskar, và cả những người gặp gỡ tiếp
xúc với Oskar cũng vậy. Họ có cùng một điểm nhìn thấy rằng Oskar là một con người
bình thường dù cho cậu ta có suy nghĩ và trải nghiệm của một người trưởng thành
nhưng lại mãi mãi không chịu lớn, mãi mãi tồn tại dưới hình dáng của môt đứa trẻ lên
ba với cái trống thiếc của mình. Còn với bác sĩ Hollatz, điểm nhìn của ông là điểm
nhìn của một nhà khoa học. Ông nhận ra sự khác thường trong con người Oskar về
31
hình dáng, về tiếng thét kinh hoàng thế nhưng ông cũng không biết lí do tại sao Oskar
lại trở nên như vậy. Vị bác sĩ ấy sẵn sàng lừa dối người cần biết sự thật bằng lời
chứng nhận của mình là “Oskar là một đứa trẻ bình thường”. Dưới góc nhìn của
người nghệ sĩ Bebra thì Oskar như một người bạn, người cùng hoàn cảnh với ông vì
người nghệ sĩ này cũng “Đến kỳ sinh nhật thứ mười, ta mới quyết định thôi lớn.
Muộn còn hơn không” [36, tr.110]. Điểm nhìn của Sigismund Markus- một người
bán trống lại là cái nhìn cảm thông, chia sẻ đối với đứa trẻ mãi không chịu lớn Oskar
hay chính xác hơn là cái nhìn thông cảm với mẹ của cậu bé khi quyết định “ Tôi xin
em, Agnès. Chúng ta sẽ mang nó theo đến Luân Đôn. Nó sẽ sống như một hoàng tử
nhỏ" [36, tr.104] dù biết rằng “ cái thằng bé Oskar! Nó đánh mấy tiếng trống mà điên
đảo cả Nhà Hát" [36, tr.104].
Bên cạnh việc đặt điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng tôi, tác giả còn đan
xen với người kể chuyện ở ngôi thứ ba giấu mặt. Điều này không chỉ giúp cho câu
chuyện kể ra có cảm giác chân thực mà còn thể hiện tính khách quan khi nhìn nhận,
đánh giá sự việc. Ở mỗi chương, sự đan xen hòa quyện giữa hai ngôi kể đều thể hiện.
Với tư cách là người kể chuyện ở ngôi thứ ba, hiện thực trong Cái trống thiếc
hiện lên một cách khách quan, chân thực “Rồi Ba Lan bị chia ba. Người Phổ không
mời mà đến; trên tất cả các cổng thành, họ vẽ con chim biểu trưng của họ đè lên con
đại bàng Ba Lan. Nhà giáo dục Johannes Falk vừa kịp viết bài hát Nô-en nổi tiếng "O
Du frohliche (ôi đêm vui vẻ)"... thì người Pháp xuất hiện. Tướng của Napoleon tên là
Rapp và sau một cuộc bao vây khốn khổ, nhân dân Danzig phải vét cho đủ hai mươi
triệu france nộp cho ông ta. Thời kỳ Pháp chiếm đóng thật khủng khiếp, điều đó khỏi
phải nghi ngờ, song chỉ kéo dài có bảy năm. Rồi người Nga và người Phổ đến, nã
pháo đốt cháy Đảo Kho. Đây là sự cáo chung của Bang Tự Do mà Napoléon đã mơ
tưởng. Một lần nữa, người Phổ lại có dịp vẽ con chim của mình lên tất cả các cổng
thành. Sau khi làm vậy với tất cả tính triệt để đặc thù Phổ, họ tiến hành lập một doanh
trại đồn trú cho Trung đoàn Bộ binh 4, Lữ đoàn Pháo binh 1, Tiểu đoàn Công binh 1
và Trung đoàn Khinh kỵ-Cận vệ 1. Trung đoàn Bộ binh 30, Trung đoàn Bộ binh 18,
Trung đoàn Bộ binh Cận vệ 3, Trung đoàn Bộ binh 44 và Trung đoàn Khinh binh 33
chỉ thi thoảng mới đồn trú ở thành phố và không bao giờ đóng lâu. Nhưng Trung
32
đoàn Bộ binh 138 khét tiếng thì mãi đến năm 1920 mới rời đi. Để cho trọn vẹn, có lẽ
cũng nên nhắc thêm rằng trong thời kỳ Phổ chiếm đóng, Lữ đoàn Pháo binh 1 đã
phình ra, bao gồm thêm Tiểu đoàn Pháo binh Pháo đài 1, Tiểu đoàn Bộ binh 2, Trung
đoàn Pháo binh Đông Phổ và Trung đoàn Pháo-bộ Pomerania 2, về sau thay bằng
Trung đoàn Pháo-Bộ Đông Phổ 16. Kế tục Trung đoàn Khinh kỵ-Cận vệ 1 là Trung
đoàn Khinh kỵ-Cận vệ 2. Trung đoàn Uhlan 8 chỉ ở nội thành một thời gian ngắn, còn
Tiểu đoàn Hậu Cần Đông Phổ 17 thì đóng bên ngoài, ở khu ngoại ô Langfuhr [36,
tr.340]”. Đó là đoạn văn mà người viết ẩn mình đi để có thể khách quan nhìn nhận,
đánh giá về hiện thực lịch sử.
Độc giả có thể dễ dàng nhận thấy khi tôi đang tự mình thuật lại câu chuyện thì
lại có những đoạn là lời của tác giả, vẫn là lời của nhân vật nhưng lại được kể thông
qua tác giả tạo cho người đọc cảm giác mơ hồ về người kể chuyện. Cả khi nhân vật
tôi là người kể lại toàn bộ câu chuyện tình yêu của mẹ mình là Agnès Koljaiczek với
người anh họ Jan Bonski thì cũng có khi nhân vật biến mất mà thay vào đó lời kể của
người kể chuyện ở ngôi thứ ba “ Chuyện huê tình của họ hẳn đã bắt đầu khi hai mái
đầu trẻ kề bên nhau cùng xem những cuốn album tem, cùng ngắm nghía đường răng
cưa và hình soi của những chiếc tem quý. Trong thực tế, nó bùng nổ khi Jan bị gọi
tuyển lính lần thứ tư.” [36, tr.33]. Khi kể về người chồng của mẹ sau này, cũng có
những đoạn là lời kể của ngôi thứ ba “ Khi vết thương lành, Alfred, ở lại Danzig và
kiếm ngay được chân đại diện cho một hãng văn phòng phẩm lớn ở Rhine vìông đã
làm việc ở đó từ hồi trước chiến tranh” [36, tr.35]. Hay ở chương Cuốn album ảnh,
khi tôi đang tự kể lại những sự kiện có liên quan đến nhưng bức ảnh và việc cậu
không trở thành người lớn nữa mà cứ mãi mãi ở tuổi lên 3 thì người kể chuyện ở ngôi
thứ ba lại xuất hiện một cách hết sức tự nhiên: “Nào, mau mau sang sề thật mùi mẫn
vào: Ôi con người giữa những tấm ảnh chụp chớp nhoáng, những tấm ảnh căn
cước! Ôi con người dưới ánh đèn “flash”, ôi con người đứng thẳng bên tháp
nghiêng Pisa. Ôi con người photomaton phải vểnh cái tai ải lên nếu muốn xứng
đáng được một tấm ảnh căn cước! Và... mà thôi, tắt giọng mùi mẫn được rồi. Có thể
cái địa ngục này còn khả dĩ chịu được bởi vì những tấm hình tồi tệ nhất mới chỉ là
trong mơ chứ chưa được chụp, hoặc giả nếu chụp rồi thì cũng chưa được rửa ra ảnh”
33
[36, tr.39]. “Oskar không bao giờ tặng ảnh cho cô phục vụ ở quầy hoặc cô gái tóc đỏ
bê khay thuốc lá; cho phụ nữ ảnh chả phải là một ý hay hớm gì, bởi lẽ ai mà biết được
họ sẽ dùng nó vào việc gì. Nhưng gã Klepp béo tròn, hồn nhiên, có thể là mồi ngon
cho phái đẹp, tính nó lại cởi mở đến khờ dại, chỉ cần có mặt phụ nữ là xổ hết gan ruột
ra, chắc hắn đã giấu tôi đem cho cô ả thuốc lá một tấm ảnh; bằng chứng là hắn đã
đính hôn rồi sau đó cưới cô ả chỉ vì hắn muốn lấy lại tấm ảnh đó” [36, tr.42] hay “còn
có cả một tá ảnh chụp Oskar hồi một tuổi, hai tuổi và hai tuổi rưỡi, cái nằm, cái ngồi,
cái bò toài, cái chạy lon ton” [36, tr.50].
Ở hầu hết các chương đều có sự kết hợp giữa điểm nhìn bên trong và điểm
nhìn bên ngoài. Sự di chuyển linh hoạt giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên
ngoài đã làm nên sự phong phú trong tổ chức điểm nhìn của cuốn tiểu thuyết này. Đó
chính là sự đối thoại giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài của tác phẩm.
Ở đây, người kể chuyện giấu mặt, đứng ở một vị trí đâu đó trong không gian và thời
gian, bao quát hết thảy mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra trọn vẹn và thuật
lại với độc giả. Mặc dù người kể chuyện không xuất hiện, chúng ta không biết
diện mạo, tư cách của người đó ra sao nhưng trước sau câu chuyện vẫn được kể lại
từ điểm nhìn của anh ta.
Các điểm nhìn hướng về Oskar cùng thể hiện một thái độ đó là chấp nhận sự
tồn tại bất thường của cậu bé như môt điều hiển nhiên bình thường, không ai phản
kháng, không ai tìm cách chống lại hay ít nhất cũng là tìm hiểu nguyên nhân. Nếu
như khi đặt điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ nhất, người kể xưng tôi cho thấy sự chủ
động, sự tư ý thức của nhân vật về tình trạng của mình thì với hệ thống điểm nhìn bên
ngoài, tất cả mọi người đều thấy bình bình thường với sự bất thường đó. Cuộc sống
của con người hậu hiện đại, họ chấp nhận những điều bất thường như môt sự bình
thường, điều này từng xuất hiện trong những sáng tác của F.Kafka mà cụ thể là
truyện ngắn Biến dạng. Nhân vật chính bỗng nhiên một ngày biến thành bọ nhưng
bản thân anh ta lại chấp nhận nó, những con người gần gũi, thân cận với anh ta dù
cho lúc đầu có tỏ ra sợ hãi nhưng rồi cuối cũng bỏ qua nó như một sự đương nhiên để
rồi cuối cùng anh ta chết trong sự thờ ơ, ghẻ lạnh thậm chí vui mừng của những
người thân xung quanh. Nếu như Samsa trong chuyện của Kafka bị biến thành bọ thì
34
Oskar trong Cái trống thiếc lại là người tồn tại trong hình dạng của một đứa trẻ ba
tuổi. Đó đều là sự bất thường trong cuộc sống hàng ngày. Nếu như những người thân
xung quanh Samsa dù không đáng kể nhưng ít nhiều vẫn có thái độ phản kháng trước
thực tại bất thường thì những người xung quanh Oskar lại không hề có một chút phản
ứng nào đối với sư bất thường của cậu bé. Nếu như tác điều đó trong tác phẩm của
Kafka cho thấy xã hội rối ren đẩy con người ta đến sự tha hóa cả về thể xác lẫn tâm
hồn, về mối quan hệ giữa con người với con người cùng tồn tại trong xã hội ấy thì
cách nhìn nhận của mọi người đối với Oskar trong tiểu thuyết của G.Grass lại cho
thấy tình trạng của đất nước và con người Đức thời kì hậu chiến với những chấn
thương tinh thần cùng những di hại bệnh lý - xã hội, không tiệt nọc với tư tưởng của
chủ nghĩa quốc xã.
Trong tác phẩm tự sự, khi trần thuật lại câu chuyện, một nhà văn tài năng
không bao giờ sử dụng điểm nhìn trần thuật một cách cứng nhắc bởi như thế sẽ tạo
cho tác phẩm một sự đơn điệu, xơ cứng và nhàm chán mà luôn có sự di chuyển điểm
nhìn một cách linh hoạt, đầy biến hóa. Günter Grass trong tác phẩm của mình cũng
vậy. Ông luôn có ý thức di chuyển điểm nhìn trần thuật giữa các nhân vật, tạo nên
tính chất đối thoại giữa các điểm nhìn để tạo nên một cái nhìn đa diện về hiện thực,
con người. Việc kết hợp linh hoạt giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài,
đối thoại ngay trong một điểm nhìn và giữa các điểm nhìn góp phần tạo nên sự đa
dạng hóa điểm nhìn trong tiểu thuyết Cái trống thiếc.
Đa điểm nhìn trong tiểu thuyết Cái trống thiếc thực chất chính là sự đối thoại
giữa điểm nhìn bên trong, đối thoại giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài
và sự đối thoại giữa hệ những điểm nhìn bên ngoài. Việc xây dựng một kết cấu đa
điểm nhìn trong tác phẩm góp phần thể hiện hiện thực được phản ánh trong tác phẩm
một cách khách quan, chân thực nhưng cũng không kém phần sinh động. Cho thấy
cái nhìn đa chiều, nhiều góc độ về con người, về cuộc sống trong tác phẩm. Lời văn
qua đó mà trở nên khách quan, có sức hấp dẫn người đọc. Điều đó cũng góp phần làm
cho tư tưởng, chủ đề tác phẩm sinh động, gợi nhiều liên tưởng ở người đọc, phát huy
vai trò đồng sáng tạo ở độc giả. Qua đó đã chứng tỏ được tài năng của Günter Grass
trong việc kể chuyện, dẫn chuyện, và đặc biệt là khả năng thâm nhập sâu vào đời
35
sống nội tâm của nhân vật để phản ánh được cả những góc khuất của nó.
Đặc trưng đa điểm nhìn trong Những đứa trẻ chết già được thể hiện ở sự đối
thoại giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Cũng giống như Cái trống
thiếc của Günter Grass, Những đứa trẻ chết già chủ yếu sử dụng điểm nhìn bên
ngoài. Nếu như ở Cái trống thiếc, cậu bé Oskar là đối tượng hiện lên trong mắt những
người xung quanh thì ở Những đứa trẻ chết già, gia đình Trường hấp với những bí
mật dòng họ mới là đối tượng nhận được sự quan tâm của người dân làng Phan.
Trước hết, điểm nhìn bên ngoài được thể hiện qua cái nhìn của dân làng đối
với các thành viên trong gia đình Trường hấp. Mở đầu truyện, Nguyễn Bình Phương
đưa người đọc đến với những hình dung về gia cảnh của Trường hấp dưới con mắt
của dân làng “Cách đây khá lâu, dân làng Phan thấy Trường "hấp", gã trai không cha,
không mẹ, không họ hàng, dẫn một người đàn bà từ mạn Trại Cau về. Người đàn bà
này cả ngày không nói một câu, cũng chẳng ra khỏi nhà” [27, tr.5]. Người ta không
chỉ thấy, người ta còn hướng cái nhìn của mình vào mọi sinh hoạt của vợ chồng
Trường “Ban ngày, Trường "hấp" đem dao, cuốc lên đồi hùng hục phát cây cỏ, chẳng
cả nghỉ ăn trưa. Đêm, trong căn lều tồi tàn đến mức sắp ụp xuống, người ta thấy bóng
hai vợ chồng thấp thoáng diễu qua diễu lại bên cửa sổ méo xệch” [27, tr.5]. Qua con
mắt của dân làng, cuộc sống, sinh hoạt của Trường và gia đình hắn hiện lên cụ thể
đến từng chi tiết để rồi họ lấy đó làm chủ đề cho những xì xào bàn tán, thậm chí đưa
ra những phỏng đoán mang đầy tính chủ quan. Dưới cái nhìn cùng với sự phỏng đoán
của cụ Cung, cụ tuyên bố “vợ Trường hấp là cháu nhiều đời của Liêm Quận công,
một tướng chết trận trong cuộc loạn Thái Nguyên thời Giáp Ngọ” [27, tr.6]. Dưới con
mắt đầy màu dục vọng của mụ Sinh, mụ nhìn thằng bé Liêm khi nó năm tuổi để rồi
mụ ước “Giá lão già nhà tôi có đôi mắt như nó, cuộc đời có phải khác đi không!”
[27,tr.10]. Người dân làng Phan đều hướng cái nhìn của mình vào gia đình lão Liêm.
Người ta để ý, quan sát mọi sự thay đổi trong gia đình cụ Trường hay nói cách khác,
các thành viên trong gia đình cụ Trường là đối tượng mà các nhân vật hướng cái nhìn
của mình vào đó. Mọi hành động, cử chỉ của những con người trong gia đình ấy đều
được dân xóm Trại tái hiện từ những khía cạnh khác nhau. Từ cụ Trường, vợ chồng
lão Liêm đến thằng Hải, cái Loan. Điểm nhìn có sự di chuyển từ nhân vật này sang
nhân vật khác, chủ thể của cái nhìn cũng không cố định ở một nhân vật. Ông Trình
36
trên con đường thực hiện lời trăn trối của dòng họ, tìm kiếm hạnh phúc cho gia đình
mà quan trọng hơn là danh dự gia tộc đã phải từ bỏ vợ con, một mình sống trong túp
lều giữa xóm Trại. Ông âm thầm thực hiện âm mưu của mình. Từ việc dạy võ cho
đám thanh niên cho đến tiếp cận Hải đều thấp thoáng ý đồ của ông. Dưới điểm nhìn
của nhân vật ông Trình, Hải hiện lên đầy hoang dã, bản năng giống như một con thú
của núi rừng “Ở Hải ông nhận ra nét gì đấy giống mình hồi trẻ. Cũng cục tính, cũng
có khiếu học võ và điều quan trọng nhất, Hải bao giờ cũng giữ được bản lĩnh của
mình.” Hải ám ảnh ông ngay cả trong giấc mơ “Đêm, ông mơ thấy anh ta mỉm cười
chế giễu mình. Ông tỉnh dậy, bàng hoàng, trong lòng dội lên sự nuối tiếc, sợ hãi. Ông
vắt óc nghĩ lại, cho đến khi thốt thành tiếng rên. Giờ đây, đối với người thanh niên
đó, ông gần như hết vốn. Ông đau khổ nguyền rủa mình, tại sao lại hồ đồ như vậy.
“Sẽ đến lúc mình và nó không tránh khỏi gặp nhau!”. Ông lường trước được chuyện
gì sẽ xảy ra giữa ông và cậu học trò cưng.
Dọc theo các chương truyện, mặc dù xuất hiện với tần suất không nhiều nhưng
đôi khi ta vẫn bắt gặp những điểm nhìn được thể hiện ở các nhân vật khác với cụ
Trường. Không giống với dân làng Phan coi Trường là hấp, nhân vật cụ Chẩn sau khi
được vị chủ nhà nhờ vả một trọng trách cao cả là ngủ với vợ hắn thì Chẩn nhận ra
“chủ nhà rõ ràng là cố ẩn mình bằng cái vẻ ngờ nghệch hâm hấp” [27, tr.169]. Dù
không thể lí giải lí do tại sao nhưng người thợ đào ao thuê ấy đã phần nào nhận ra con
người thật ẩn sau vẻ bề ngoài “hấp” của Trường.
Như vậy, dưới con mắt của những người xung quanh, gia đình Trường hấp
hiện lên có gì đó rất mơ hồ, không rõ ràng. Sự tồn tại của gia đình cụ Trường đối với
dân xóm Trại chỉ toàn là điều ngờ vực, nghi hoặc. Không ai biết chính xác những gì
đang xảy ra trong ngôi nhà ấy. Mọi người tiếp cận gia đình họ đều vì theo đuổi mục
đích riêng của mình. Có lẽ vì thế mà mỗi người lại nhìn nhận gia đình họ ở một góc
độ khác nhau. Điều đó càng làm tăng thêm sự hoang mang, mơ hồ trong lòng độc giả.
Nguyễn Bình Phương đã rất thành công trong việc khai thác điểm nhìn bên ngoài để
từ đó phác họa nên gia đình Trường hấp một cách đa diện, nhiều chiều không hề áp
đặt. Quan trọng hơn, cuối cùng chính từ những điểm nhìn khác nhau ấy giúp độc giả
có thể tự cảm nhận về nguồn gốc, về các mối quan hệ trong gia đình cụ Trường. Và
37
đương nhiên, điều đó không hề dễ dàng!
Trong Những đứa trẻ chết già, Nhà văn Nguyễn Bình Phương không chỉ
dừng lại ở việc khai thác điểm nhìn ở ngôi thứ ba thông qua việc đặt điểm nhìn ở các
nhân vật, để các nhân vật tự chiêm nghiệm về các sự kiện của câu chuyện. Đặc trưng
đa điểm nhìn còn được tác giả khai thác ở chỗ để cho chính các nhân vật trong gia
đình cụ Trường tự nhìn nhận, tự đánh giá lẫn nhau. Một gia đình ba thế hệ cùng
chung sống, cùng cất giấu bí mật của dòng họ. Cụ Trường là người cao tuổi nhất
trong nhà, thế nhưng dường như rất ít khi cụ nhận được sự kính trọng của con cháu.
Bị dân làng gọi là Trường hấp bởi cái vẻ ngoài ngộc nghệch, cụ vẫn vui vẻ chấp nhận
nó như một lẽ tất yếu. Cụ lẳng lặng sống trong bí mật dòng họ mà đời trước đã truyền
lại. Thằng Hải là con trai thứ hai của lão Liêm và là cháu nội Trường hấp. Dưới con
mắt của dân làng, Hải hiện lên là một đứa tre bướng bỉnh, vô sừng vô sẹo. Gã thanh
niên bất trị ấy mang trong mình vẻ hoang dã mà đến bố nó cũng phải nhận xét “Nó
hơn mình ở cái trán” [27, tr.27].
Không ít lần lão Liêm cáu bẳn với cậu con trai, lão không chấp nhận cái bản
tính ngang ngược của cậu con quý tử với tư cách của một người cha. Ấy vậy mà trước
sự xấc láo của Hải lão dường như cũng đành bất lực “lão sấn sổ lao đến, khi nhìn tấm
lưng cuồn cuộn của thằng con, lão chùn lại, lạch bạch chạy ra ngoài” [27, tr.29]. Dưới
cái nhìn của ông, của bố, Hải hiện lên là đứa con bất trị, hỗn láo. Rồi đến cả cô con
gái út Lê Loan, một cô bé tưởng như dễ bảo nhất nhà. Cô bé có thể ngồi hàng giờ
nghe ông kể về đủ thứ chuyện của dân làng Phan ấy cuối cùng cũng không thoát khỏi
số phận bất hạnh mà chính cố tự chuốc lấy. Loan càng lớn càng thích ăn diện khiến
lão Liêm “nhìn mắt con gái lão không yên tâm ngay từ lúc nó còn bé. Mắt lúc nào
cũng ươn ướt, lại thừa hưởng ở lão cặp môi dày hơi cong, eo nó thon, đi uyển chuyển
như lưng báo gấm”[27, tr.31]. Hay chính cụ Trường khi ngắm đứa cháu cũng phải
thốt lên “gay đấy” [27, tr.31]. Với điểm nhìn của ông, của bố, nhân vật Loan hiện lên
với diện mạo, tính cách phần nào báo trước được tương lai sau này của cô.
Không chỉ có những người xung quanh nhìn nhận, đánh giá về gia đình
Trường hấp. Như đã nói ở trên, chính các thành viên trong gia đình ấy cũng tự nhìn
38
nhận và đánh giá về nhau. Nguyễn Bình Phương thể hiện tất cả những điều đó ở ngôi
thứ ba vừa mang lại sự khách quan cho việc kể chuyện nhưng đồng thời cũng thể hiện
sự chân thực, làm tăng mức độ tin cậy cho sự diễn đạt.
Đặc trưng đa điểm nhìn không chỉ được thể hiện ở sự di chuyển linh hoạt các
điểm nhìn của nhân vật mà nhà văn khi lựa chọn kể chuyện ở ngôi thứ ba cũng có sự
di chuyển điểm nhìn linh hoạt. Bên cạnh việc để các nhân vật nhìn nhận mọi việc, tác
giả cũng đã nhìn nhận về các nhân vật, các sự việc thông qua lăng kính của mình, làm
tăng thêm độ khách quan cho câu chuyện. Lựa chọn điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ
ba, tác giả giấu mình kể lại toàn bộ câu chuyện. Hầu hết mọi sự việc đều hiện lên qua
lời kể chuyện của tác giả. Tác giả giấu mình kể về gia đình Trường hấp kể từ khi gã
còn trai trẻ cho đến khi thành một ông lão chỉ đợi ngày về với tổ tiên. Mọi việc liên
quan đến gia đình Trường hấp đều được tái hiện một cách hết sức khách quan. Từ
việc Trường hấp lấy vợ, sự giàu lên nhanh chóng của gia đình Trường cho đến khi vợ
chồng họ chào đón đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất. Tất cả đều hiện lên
qua lăng kính của nhà văn và qua điểm nhìn của các nhân vật khác . Nhà văn thể hiện
cái nhìn của mình đối với từng nhân vật, từng sự kiện thông qua ngôi kể thứ ba giấu
mình. Dưới ngòi bút của nhà văn, Liêm hiện lên cụ thể ở từng thời điểm khác nhau “
Được năm tuổi thằng Liêm đi thơ thẩn khắp làng, gặp ai nhất là đám đàn bà con gái
nó cũng giương đôi mắt một mí lên nhìn vẻ vừa thông minh, láu lỉnh, vừa dâm đãng”
[28, tr.10]. “Thằng Liêm lên cấp hai, người vạm vỡ hẳn. Dáng hơi gù, trán ngắn trằn,
tóc cứng, mắt nó xếch ngược với đôi mày đen mượt, rậm rì như một gã trung niên.
Đến giữa cấp ba, chân thằng Liêm to bè, bố mẹ tìm khắp thị trấn mà không mua được
đôi dép nào vừa chân nó” [27, tr.11]… Liêm hiện lên đầy đủ không chỉ về ngoại hình
mà về cả tính cách. Cũng giống như Liêm, cả vợ Liêm hay thằng Hải và Loan- con
lão Liêm cũng được nhà văn giới thiệu rất chi tiết. Qua lăng kính của nhà văn “Vợ
Liêm tốt tính, ít nói, hay làm, đặc biệt chưa bao giờ hàng xóm thấy cãi lại bố chồng
cũng như chồng một câu nào. Ả vốn là dân Thái Bình lên thị trấn làm thuê cho hiệu
phở lão Lịch” [27, tr.13]. Từ điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ ba, nhà văn tự do lách
ngòi bút của mình vào mọi ngóc ngách trong đời sống vật chất, tâm hồn của hầu hết
các nhân vật. Mỗi chương, Nguyễn Bình Phương lại mang đến cho độc giả những
39
thông tin liên quan đến một nhân vật nào đó. Tuy không phải nhân vật chính nhưng
lại có ý nghĩa quan trọng trong triển khai cốt truyên. Nhân vật ông Trình hiện lên
không chỉ dưới sự ngưỡng mộ, nể phục bởi tài năng võ nghệ của đám học trò, không
chỉ là những ham muốn dục vọng mang tính bản năng của mụ Quản hay nỗi nghi ngờ
đề phòng của lão Liêm cũng là chưa đủ. Phải đến điểm nhìn của nhà văn, độc giả mới
có cái nhìn toàn diện về nhân vật này về gia thế cũng như bản chất con người ông.
Trong tác phẩm, nhà văn viết “Gia thế nhà ông Trình khá phức tạp. Cụ ông là người
Phổ Yên, lấy hai vợ, một bà ở quê, một bà ngay tại Võ Nhai. Hai bà sinh cho cụ được
bốn con trai cả thảy. Theo lệ, một năm cụ lên ở với mỗi bà vài tháng rồi đi phiêu dạt
ở đâu đó, chẳng ai biết. Cuối đời cụ bỏ thói giang hồ, về ở hẳn với bà hai tại Võ Nhai.
Bố ông Trình có hai anh em sinh đôi. Chẳng hiểu sao một dạo cả nhà dọn vào Trại
Cau ở. Sau đó ông nội chuyển về Phổ Yên, còn bố ông cùng với hai ông bà già quay
lại đóng đô ngay chùa Phủ Liễn. Năm hai mươi tuổi, vì gia đình neo người, ông Trình
lấy vợ để có người săn sóc cha mẹ lúc đau yếu. Ông sinh được ba người con thì hai
đứa đầu chết đuối một ngày ngay tại hồ trước chùa, năm đó chúng nó mới tám tuổi.
Nhà ông chỉ còn độc đứa con gái út” [27, tr.102]. Hay “từ bé ông Trình nổi tiếng là
người có khiếu học võ. Mười tuổi ông đã thành thạo hàng chục bài thái cực quyền,
mời ba tuổi, đứng đầu khắp vùng trong các cuộc tỉ thí. Mười bảy tuổi, thầy dạy đã
phải cúi đầu nhường bước cho ông sải cánh đến ban võ khác” [27, tr.102]. Gia thế có
chút phức tạp, cuộc đời ông cũng phải nếm trải bao nỗi đau đớn, tủi nhục. Người đọc
hoàn toàn có thể cảm nhận được những mất mát, bất hạnh trong cuộc đời ông Trình.
Có gia đình nhưng ông Trình không được sống cùng vợ con như những người đàn
ông khác. Ông giấu vợ, giấu con, xa gia đình vào sống ẩn mình ở xóm Trại để âm
thầm thực hiện lời dặn dò của dòng dõi để rồi khi về nhà đau khổ bắt gặp “vợ mình
đang ngủ với một gã con trai lạ kém bà dễ đến hai chục tuổi” [27, tr.103]. Ông đã
từng có ý nghĩ từ bỏ tất cả để trở về với gia đình thế nhưng cũng giống như gia đình
cụ Trường, có một uy lực thiêng liêng nào từ lời trăng trối của dòng họ đó bắt ông ở
lại, lời trăng trối đó phải được thực hiện không chỉ vì hạnh phúc của gia đình ông mà
còn cả danh dự cho dòng tộc nữa.
Không chỉ có một mình ông Trình hiện lên qua lăng kính nhà văn. Ở chương
40
sáu của tác phẩm, chỉ với một vài nét phác thảo, nhân vật Trung vẩu cũng hiện lên
trước mắt độc giả. Trung vẩu là “ân nhân” của Loan “tính Trung vẩu chậm chạp
nhưng rất cẩn thận. Trung vốn là bộ đội giải ngũ, ngày trước hắn ở tận Phú Bình, ra
quân liền thuê cửa hàng để làm nghế. Giờ thì hắn đủ tiền mua đứt cả cửa hàng đó,
nghiễm nhiên biến nó thành căn hộ xinh xắn, gọn gàng”[27, tr.159]. Cùng với tính
cách, ngoại hình nhân vật này cũng hiện lên rất chân thực “Trung mê Loan từ dạo ở
trường Sư phạm nhưng cô chê hắn nhếch nhác, xấu trai. Mà Trung xấu thật. Mặt
như quả đu đủ ngược, chân tay lòng khà lòng khòng, đã thế răng lại vổ cả hàm trông
rất hãm tài” [27, tr.160]. Thế nhưng ở Trung vẩu cũng có những ưu điểm riêng “cái
gì hắn cũng bắt chước được, không những thế còn bắt chước nhanh và chính xác”
[27, tr.160].
Rồi cả Bằng đen cũng được nhà văn miêu tả với đầy đủ những nét về ngoại
hình, tính cách chỉ với một vài dòng văn không dài. “ Bằng đen giàu có, nhà hắn buôn
vàng và xe máy… Hắn kiệt sỉ, chẳng cho cô thứ gì ngoài chiếc ô đi mưa, chiếc ô đó
lại do một người đem đến tặng” [27, tr.162]. Đó là hai trong số những người đàn ông
đi qua cuộc đời Loan. Mặc dù không phải nhân vật chính, lại chỉ với vài trang văn ít
ỏi thế nhưng qua ngòi bút của nhà văn, đã mang đến cho người đọc những hình dung
cụ thể về các nhân vật, từ đó có những nhìn nhận, đánh giá của riêng mình. Ở điểm
nhìn trần thuật ngôi thứ ba, như đã nói ở trên, Nguyễn Bình Phương tái hiện diễn biến
tâm trạng của hầu hết các nhân vật. Không chỉ ngoại hình, tính cách mà cả những suy
nghĩ sâu thẳm bên trong mỗi con người cũng được nhà văn bộc lộ. Cũng giống như
rất nhiều nhân vật khác trong tác phẩm, có thể nói bà Trình là một trong những nạn
nhân của lời trăn trối gia tộc. Là phụ nữ, bà phải sống xa chống, một mình nuôi con.
“Càng nghĩ, bà Trình càng buồn. Đối với bà, cuộc đời trở nên mù mịt kể từ khi làm
vợ ông Trình. Chồng bà là người đàn ông cục mịch, không bao giờ có một biểu hiện
tình cảm với vợ. Ông coi bà như một người đàn bà quanh năm ngày tháng chỉ có
nghĩa vụ thỏa mãn bà trên giường. Ngay cả việc ấy ông cũng rất khô khan, chỉ chăm
chăm làm cho xong nghĩa vụ bản thân. Đấy chính là nguyên nhân bà Trình phải đi
tìm kiếm người đàn ông khác. Bà cần những cử chỉ âu yếm, vuốt ve. Bà cần tình yêu
thực sự” [27, tr.126]. Nhân vật bà Trình hiện lên chân thực, cụ thể. Ở người đàn bà
41
ấy, người ta thấy bà vừa đáng trách nhưng cũng rất đáng thương. Có lẽ đó chính là
biệt tài của Nguyễn Bình Phương khi xây dựng nhân vật. Ở nhân vật nào, nhà văn
cũng tìm ra những điểm tốt, điểm đáng thương bên cạnh những điểm xấu, điểm đáng
trách. Một cuốn tiểu thuyết với số lượng nhân vật tương đối lớn, thế nhưng dường
như không một nhân vật nào tốt toàn diện. Các nhân vật luôn được xây dựng chủ yếu
ở những hạn chế, thế nhưng trong sâu thẳm ngòi bút của mình, nhà văn vẫn cố gắng
tìm kiếm ở họ một nét đẹp nào đó trong tâm hồn, phản ánh đúng bản chất con người,
luôn luôn tồn tại cả thiện và ác.
Cả cuốn tiểu thuyết là công cuộc đi tìm kiếm kho báu đầy những mơ hồ, ảo
mộng của các nhân vật chính để rồi cuối cùng đổi lại là sự mất mát, đổ vỡ, đau
thương bởi kho báu ấy chỉ là “quần áo rách và thóc lép” [27, tr.279]. Mọi người ngỡ
ngàng trước kho báu mà họ dành tâm huyết, công sức cả đời để tìm kiếm, tranh
giành. Cuối cùng họ bá vai nhau than lên: “Hão cả!” [27, tr.286].
Nguyễn Bình Phương đã rất thành công trong việc kể chuyện ở ngôi thứ ba.
Nhà văn giấu mình kể lại toàn bộ câu chuyện, thể hiện đầy đủ, chân thực lời nói, hành
động của nhân vật cũng như đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lí của họ. Tác giả khai
thác triệt để hiệu quả của việc kể chuyện ở ngôi thứ ba, mang đến sự nhìn nhận thấu
đáo cho độc giả cũng như làm tăng thêm độ khách quan cho tác phẩm của mình. Thế
nhưng không vì thế mà nhà văn áp đặt ý đồ nghệ thuật của mình cho độc giả. Kể
chuyện với tư cách là người kể chuyện biết hết nhưng Nguyễn Bình Phương đã rất tài
tình khi tạo tâm lý hoang mang cho độc giả khi mà họ cũng bị cuốn vào mạch truyện
phức tạp, khó hiểu. Nhà văn vẫn để cho người đọc những khoảng trống để họ tự suy
ngẫm, tự cảm nhận mà đôi khi khoảng trống ấy thực sự rất mơ hồ. Có thể nói, tính
chất đa điểm nhìn mà cụ thể là sự di chuyển linh hoạt giữa điểm nhìn bên trong và
điểm nhìn bên ngoài đã góp phần quan trọng làm nên thành công của tác phẩm cũng
như truyền tải tư tưởng của nhà văn. Một cuộc sống đầy tù túng, quẩn quanh của
những con người nơi vùng quê nghèo đã được nhà văn tái hiện sinh động, cụ thể,
phản ánh một thực trạng xã hội với những ham muốn, dục vọng, cám dỗ của vật chất
tầm thường hủy hoại con người ngay từ khi mới sinh ra. Cuộc sống ấy sẵn sàng biến
42
con người “chết già” ngay từ khi còn là những đứa trẻ nếu không đủ bản lĩnh.
Cả hai cuốn tiểu thuyết cùng sử dụng đa điểm nhìn là một thủ pháp nghệ thuật
trong việc khai triển nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, ở Cái trống thiếc của G.Grass và
Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương, chúng ta vẫn thấy sự khác biệt rõ
rệt. Nếu như trong Cái trống thiếc, nhà văn người Đức chủ yếu kể chuyện ở ngôi thứ
nhất để cho nhân vật xưng “tôi” tự kể về cuộc đời mình, tự kể về những biến cố xảy
ra với bản thân, trong gia đình và cả nước Đức. Mặc dù đặc trưng hậu hiện đại thể
hiện rất rõ trong tính chất đa điểm nhìn giữa sự đối thoại ở điểm nhìn bên trong và sự
di chuyển linh hoạt giữa điềm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài thế nhưng ngôi
kể chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm lại là ngôi kể thứ nhất với sự đối thoại trong
ngôi kể này. Ngược lại, với Những đứa trẻ chết già, nhà văn Nguyễn Bình Phương lại
chủ yếu sử dụng điểm nhìn trần thuật ở ngôi kể thứ ba. Ngôi kể thứ nhất cũng được
nhà văn khai thác thế nhưng nó chỉ là yếu tố phụ trợ, làm tăng thêm độ chân thực cho
câu chuyện mà nhà văn viết nên mà thôi. Tính chất đa điểm nhìn trong tiểu thuyết Cái
trống thiếc, mọi cái nhìn đều hướng đến nhân vật trung tâm là Oskar. Các nhân vật
khác ở những vị trí, vai trò khác nhau mà có những đánh giá khác nhau với Oskar. Và
đương nhiên, dưới con mắt của cậu bé mãi mãi tồn tại trong hình dáng của đứa trẻ lên
ba, mọi sự kiện, hành động, biến cố xảy ra xung quanh cuộc sống của cậu được thể
hiện chân thực hơn bao giờ hết dưới điểm nhìn của ngôi kể thứ nhất xưng “tôi”. Ở
Những đứa trẻ chết già lại khác, nhà văn không đặt điểm nhìn cố định ở một nhân vật
nào. Điểm nhìn thay đổi liên tục, tác giả không để các điểm nhìn tập trung vào một
đối tượng mà có sự di chuyển linh hoạt đối tượng của điểm nhìn. Điều đó tạo nên cái
nhìn đa chiều có chút phức tạp giống như các mối quan hệ của họ vậy.
Cả hai nhà văn đều đạt được mục đích của mình khi sử dụng các hệ điểm nhìn
để xây dựng cốt truyện, mang lại hiệu quả biểu đạt cao trong việc thể hiện tư tưởng
thẩm mĩ của nhà văn. Mặc dù mỗi nhà văn lựa chọn triển khai tính chất đa điểm nhìn
theo những cách khác nhau nhưng đều phản ánh được hiện thực xã hội trần trụi mà ở
đó cuộc sống con người rơi vào bế tắc, quẩn quanh do chính họ tạo ra. Nhờ đặc trưng
đa điểm nhìn mà nhân vật chính Oskar trong Cái trống thiếc của Günter Grass hiện
lên dưới nhiều góc nhìn. Oskar chủ động đóng chặt cánh cửa tâm hồn cậu trước thế
43
giới đầy rẫy sự hỗn loạn. Sự bất thường ấy hiện lên hết sức bình thường trong suy
nghĩ, tình cảm của không chỉ Oskar mà của cả các nhân vật khác xung quanh cậu.
Những đứa trẻ chết già lại khác, Nguyễn bình Phương không để một nhân vật nào là
trung tâm của điểm nhìn trần thuật có lẽ bởi hiện thực mà nhà văn muốn thể hiện
không chỉ là sự bất thường của một nhân vật mà là sự rối ren của cả một gia đình, một
dòng họ, một xã hội. Chính sự khác nhau ấy đã làm nên sức cuốn hút riêng cho từng
44
tác phẩm.
Chương 3
HIỆN THỰC HUYỀN ẢO
3.1. Khái niệm “hiện thực huyền ảo’’
Chủ nghĩa huyền ảo phát triển mạnh mẽ ở khu vực Mĩ Latinh vào những năm
60 của thế kỉ trước. Nhà văn sáng tác theo khuynh hướng này thường sử dụng yếu tố
hoang đường trong phản ánh hiện thực. Mặc dù huyền ảo hậu hiện đại ít nhiều có
nguồn gốc từ cái kì ảo xuất hiện từ trước đó thế nhưng điểm khác nhau cơ bản giữa
chúng là ở chỗ “yếu tố ma quái, yếu tố kinh dị bị giảm thiểu đến mức tối đa và chúng
không hề gây tâm lí hoang mang sợ hãi trong lòng người đọc. Thay vào đó, các nhà
hậu hiện đại thường sử dụng các hình ảnh siêu nhiên gắn với các thành tựu khoa học
kĩ thuật, gần gũi hơn với đời sống con người” [12, tr.69].
Các nhà nghiên cứu trên các phương diện khác nhau đã đưa ra những khái
niệm về hiện thực huyền ảo nhưng tựu chung lại có thể hiểu hiện thực huyền ảo thực
chất là sự đan xen, kết hợp giữa hiện thực và các yếu tố siêu nhiên, hoang đương, kì
ảo… để phản ánh một hiện thực bất thường nhưng ở đó con người vẫn chấp nhận nó
như một lẽ đương nhiên vốn có. Hiện thực kết hợp với những yếu tố hoang đường kì
ảo kia góp phần phản ánh thực trạng xã hội hiện đại với những mối quan hệ giữa
người này với người kia và thậm chí là cả mối quan hệ trong chính bản thân con
người. Có thể coi hiện thực huyền ảo như một trào lưu văn học, một khuynh hướng
văn học. Và trong đề tài này, chúng tôi xét hiện thực huyền ảo là một đặc trưng của
văn học hậu hiện đại biểu hiện trong hai tiểu thuyết Cái trống thiếc và Những đứa trẻ
chết già.
3.2. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức không- thời gian
3.2.1. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức không gian
Không gian nghệ thuật là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Để
hiểu được khái niệm này một cách cơ bản và khái quát chúng ta nên hiểu không gian
nghệ thuật là một phạm trù thuộc hình thức nghệ thuật là “Phương thức tồn tại phát
triển của thế giới nghệ thuật” [25, tr.42]. Không gian nghệ thuật giữ vai trò quan
45
trọng trong tác phẩm bởi lẽ: “Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới
nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có nhân
vật nào không có một nền cảnh nào đó” [34, tr.88].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật được định nghĩa như
sau: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất
phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ
thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách
quãng, tiếp nối, cao thấp, xa gần, rộng, dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không
gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, mang tính chủ quan. Ngoài không
gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập
tương đối, không được quy định vào không gian địa lý” [8, tr.160].
Như vậy không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới. Không
gian vừa tồn tại như một hình tượng nghệ thuật độc lập, vừa như một phương diện
cấu thành hình tượng nhân vật bởi không có nó thì hình tượng nhân vật không thể tồn
tại được. Không gian nghệ thuật là một phương diện quan trọng của tác phẩm giúp ta
biết được quan niệm thẩm mĩ và ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của G.Grass mang đậm
dấu ấn của không gian hiện thực huyền ảo, nó được thể hiện ở sự pha trộn giữa các địa
danh cụ thể và mờ hóa địa danh và lắp ghép không gian sinh hoạt đời thường và
không gian hồi ức, tưởng tượng.
Trước hết, không gian nghệ thuật trong tác phẩm của Günter Grass là sự pha
trộn giữa địa danh cụ thể và địa danh mờ hóa. Địa danh đề cập trong tác phẩm là một
trong những yếu tố của không gian nghệ thuật. Hiểu một cách đơn giản, địa danh ở
đây chính là nơi diễn ra các sự kiện trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết Cái trống thiếc,
địa danh được miêu tả là địa danh hiện thực của cuộc sống con người, rất gần với
nhân vật. Tuy nhiên, không gian ấy lại thường được xác định một cách không rõ ràng.
Bên cạnh những địa danh cụ thể là những địa danh đã mờ hóa. Đây cũng là một trong
những đặc trưng thuộc về chủ nghĩa hậu hiện đại, là một trong những biểu hiện của
hiện thực huyền ảo. Theo định nghĩa của Lê Huy Bắc thì “Mờ hóa (declearisation) là
46
toàn bộ các thủ pháp (dòng ý thức, khoảng trống, mảnh vỡ, huyền ảo, nhại,..) được sử
dụng trong nghệ thuật một cách có chủ định nhằm tạo ra một hiệu quả thẩm mĩ, qua
đó đối tượng được miêu tả hiện lên không rõ ràng, cụ thể như ngoài đời hoặc như
chúng ta từng gặp trong sáng tạo nghệ thuật. Người viết cố tình xóa mờ các đường
viền (lịch sử, quan hệ…), các đặc điểm cá biệt của đối tượng nhằm tạo cho độc giả
cảm giác về sự mơ hồ, tối nghĩa. Muốn hiểu, người đọc phải dụng công, phải tích cực
tham gia vào tiến trình nghệ thuật để chiêm nghiệm, đề xuất cách hiểu riêng của
mình” [12, tr.97]. Như vậy, mờ hóa được xem như một phương tiện để người viết
miêu tả thế giới đa chiều. nó tạo nên tính mở trong kết cấu tác phẩm, kích thích khả
năng đồng sáng tạo của độc giả.
Trong tiểu thuyết Cái trống thiếc, không gian nghệ thuật không được tác giả
miêu tả nhiều. Tuy nhiên, người viết đã khái thác một cách triệt để thủ pháp mờ hóa
trong việc tổ chức không gian nghệ thuật. Dù nhà văn chỉ đích xác một địa danh cụ
thể nhưng lại luôn tạo ra cảm giác mơ hồ, khiến độc giả nghi ngờ tính chính xác của
nó. Ban đầu tác giả đưa ra những tên gọi rất xác thực, thậm chí miêu tả rất kĩ lưỡng
về nó tạo cảm giác vô cùng chân thực. Thế nhưng, ngay sau đó, ông lại lập tức đưa
các chi tiết khiến người đọc cảm thấy ngỡ ngàng và buộc phải hồ nghi về sự tồn tại
của các địa danh tưởng chừng xác thực ấy. Nhờ sự hòa trộn giữa thực và ảo đó mà
những địa danh ấy lẽ ra rất bình thường, quen thuộc trở nên khác thường, xa lạ.
Mở đầu tác phẩm, nhân vật tôi xuất hiện trong một bệnh viện tâm thần “Ờ
phải: tôi đang nội trú ở một bệnh viện tâm thần”[36, tr.1]. Đây là không gian mà nhân
vật tồn tại, bệnh viện tâm thần là địa danh được xác định tưởng như rất rõ ràng thế
nhưng ở đây người viết lại không có bất kì một sự miêu tả cho tiết nào về không gian
ấy. Rõ ràng, một địa danh tưởng chừng được xác định một cách cụ thể nhưng thực ra
lại rất mơ hồ, trừu tượng. “Bà tôi đang ở giữa xứ sở người Kashubes gần Bissau,
nhưng đúng ra là về bên phía nhà máy gạch”[36, tr.4]. Địa danh tưởng như rất chân
thực, gần gũi nhưng thực ra lại rất khó xác định. “Xứ người Kashubes gần Bissau” đó
là những địa danh có thực thế nhưng cuối cùng người viết vẫn đưa nó quay lại với
không gian chung chung, không xác định của “ nhà máy gạch”. Người đọc chỉ biết
nhân vật đang ở một nơi nào đó giữa xứ người Kashubes gần Bissau mà không hề xác
47
định được một địa danh cụ thể nào. Không gian tưởng như rất đỗi thân thuộc gần gũi
“Và trong những căn nhà tranh đó, những chiếc chiến xa nhỏ xinh mơ đến một ngày
sẽ tới khi cả chúng cũng có thể xông ra góp mặt vào bức tranh, đằng sau những con
đê của sông Vistula, như bày ngựa con tung tăng giữa đoàn siêu kỵ” [36, tr.18] nhưng
người viết lại cố tình không xác định nó một cách rõ ràng. Và hình như không gian ấy
chỉ tồn tại đối với nhân vât mà thôi, không gian ấy hoàn toàn nằm trong suy nghĩ của
nhân vât, được nhân vật miêu tả một cách chân thực thế nhưng đối với độc giả thì lại
hoàn toàn xa lạ. Người đọc phải tư tưởng tượng ra không gian ấy dựa trên lời miêu tả
của nhân vật. “Và cậu sẽ đi đâu nếu không phải là châu Mỹ, nơi mà người ta có thể
tìm thấy lại mọi thứ, kể cả một người ông bị mất tích!” [36, tr.28] hay “Chuyện xoay
ra một hướng sàm tục khi mẹ tôi theo tôi đến phố Kleinhammerweg dự buổi học của
chúng tôi trong căn phòng phía trên cửa hiệu bánh mì” [36, tr.81]. Những địa danh
mà người viết đề cập trong tác phẩm là những địa danh có thật trong cuộc sống, thế
nhưng không giống như không gian trong các tác phẩm văn học khác thường được
miêu tả một cách chi tiết, cụ thể thì địa danh mà G.Grass miêu tả ở đây rất không xác
định và ông cũng không có ý định miêu tả nó rõ ràng.
Việc đưa ra những địa danh cụ thể mà không có bất kì miêu tả cụ thể nào về
địa danh ấy khiến cho người đọc có cảm tưởng có thể bắt gặp kiểu không gian như
vậy ở bất cứ đâu nào trên thế giới. Điều này khiến cho người đọc dễ bị cuốn vào thế
giới liên tưởng, tưởng tượng, hồi ức mà nhân vật đắm chìm chứ không còn ở thế
giới thực tại nữa. Đây chính là cách mà nhà văn tạo ra sự mơ hồ về không gian cho
câu chuyện.
Như vậy, nhờ việc sử dụng kết hợp đan xen giữa địa danh cụ thể và mờ hóa
địa danh mà Günter Grass đã pha trộn được một cách hài hòa giữa yếu tố hiện thực và
huyền ảo. Yếu tố huyền ảo được nhà văn sử dụng không quá nhiều khiến cho tính xác
thực của câu chuyện không bị mất đi hoàn toàn và ngược lại hiện thực được đề cập
đến trong tác phẩm lại trở nên mơ hồ, lôi cuốn người đọc. Sự mờ hóa địa danh còn
khiến cho không gian trong tiểu thuyết của Günter Grass trở nên rộng lớn hơn, nó
cho phép người đọc tượng tượng theo cách riêng của mình.
Bên cạnh sự pha trộn giữa các địa danh cụ thể và mờ hóa địa danh, trong tác
48
phẩm của Grass còn có sự lắp ghép giữa không gian sinh hoạt đời thường và không
gian hồi ức, tưởng tượng. Mang đặc trưng của văn học hậu hiện đại, không gian trong
tiểu thuyết Cái trống thiếc của Günter Grass không bao giờ là một khối đơn nhất, mà
nó luôn luôn là sự lắp ghép của nhiều mảng không gian khác nhau. Trong tiểu thuyết
Cái trống thiếc, tác giả không miêu tả những gì xa xôi, lạ lẫm mà luôn luôn miêu tả
những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất trong đời sống của con người. Chính vì vậy
mà mảng không gian sinh hoạt đời thường luôn chiếm ưu thế lớn nhất trong tác phẩm
của ông. Không gian đó đôi khi chỉ bó hẹp trong một căn phòng, dưới gầm bàn hay
trong một cái tủ quần áo.
Ngay cả khi không gian được xác định cụ thể là ở “trong những căn nhà tranh
đó” thì độc giả vẫn rất mờ hồ vì ko biết cụ thể đó là căn nhà nào. Không gian của
những ngôi nhà gần gũi, thân thuộc nhưng ẩn bên trong đó lại là sự hồi tưởng, tưởng
tượng của nhân vật “những chiếc chiến xa nhỏ xinh mơ đến một ngày sẽ tới khi cả
chúng cũng có thể xông ra góp mặt vào bức tranh, đằng sau những con đê của sông
Vistula, như bày ngựa con tung tăng giữa đoàn siêu kỵ” [36, tr.18]. Đây là một sự lắp
ghép hoàn hảo tạo nên một không gian đa chiều. Giữa không gian sinh hoạt đời
thường là những hình dung tưởng tượng mang đậm màu sắc huyền ảo của nhân vật.
Không gian trong Cái trống thiếc là không gian diễn ra trong sinh hoạt của
cuộc sống đời thường. Không gian ấy thường là không gian nhỏ hẹp, tù túng chẳng
hạn như “Căn phòng nhỏ - trống vắng từ khi ông thợ làm thuốc súng chết” [36,
tr.30]. “Căn hộ kề liền cửa hiệu đành rằng cũng chật chội và thiết kế vụng” [36,
tr.34]. “Căn hộ kề liền cửa hiệu đành rằng cũng chật chội và thiết kế vụng” [36,
tr.34]. “Ngoài cái hành lang dài, hơi xệch xẹo, thường xuyên chất đống những hòm
xà-phòng mảnh, còn có một gian bếp rộng cũng ngổn ngang các loại hàng như
đồ hộp, bột mì, hạt lúa mạch” [36, tr.34]. Những không gian ấy gây cho người ta cái
cảm giác ngột ngạt, qua đó người đọc có thể phần nào thấy được hiện thực cuộc sống
nhỏ hẹp, tù túng vây hãm con người. Bên cạnh không gian hiện thực đời thường ấy là
không gian của những hồi ức tưởng tượng của nhân vật “Bởi vì tôi phải thoát ra
khỏi cả một rừng bóng đèn bằng cách nện trống thật rền không khoa tay múa dùi và
phải quên đi hàng ngàn nguồn sáng mà tôi đã nhóm, lên hay tắt đi, mới quay về được
49
với những ánh quang của phòng ngủ nhà chúng tôi ở Labesweg” [36, tr.35]. Không
gian này hiện lên từ suy nghĩ của nhân vật, hiện lên qua sự hồi tưởng của Oskar về
những việc mà cậu đã trải qua “Vào thời kỳ ấy, căn hộ đã trở nên quá nhỏ đối với tôi,
phố phường trở nên quá dài hoặc quá ngắn đối với cái tuổi mười bốn của tôi” [36,
tr.153]. Không gian sinh hoạt đời thường tồn tại xuyên suốt tác phẩm, gắn liền với sự
vận động và phát triển của nhân vật. Nhưng ngay trong không gian ấy còn có sự đan
cài của không gian hồi ức tưởng tượng làm tăng thêm tính chất hiện thực huyền ảo
của cuốn tiểu thuyết. Ở chương Ngôi nhà bằng quân bài, không gian hiện lên qua lời
kể lại của Oskar sau khi trở thành kẻ phản bội dẫn đến cái chết của người cha hờ “Jan
đã sang tận cái vương quốc vĩnh cửu của những ngôi nhà và lâu đài bằng quân bài ở
Tây Ban Nha, nơi đó con người tin ở hạnh phúc, trong khi bọn cảnh vệ và tôi - vì lúc
đó Oskar kể như mình đang ở trong hàng ngũ cảnh vệ - đứng giữa những bức tường
gạch, trong những hành lang đá, dưới những trần nhà với những gờ xtuých-cô xoắn
xuýt với những tường và vách ngăn nhằng nhịt đến nỗi có thể một ngày kia điều tệ
hại nhất sẽ xẩy ra khi mà, do một sự cố nào đó, toàn bộ cái sự chắp vá mà ta gọi là
kiến trúc này sẽ bong ra, rơi rụng lả tả” [36, tr.31]. Hiện lên ở đây là sự đối lập giữa
không gian hiện thực mà Oskar đang đứng và không gian mà cậu ta tưởng tượng ra cho
Jan. Có thể thấy nếu như không gian thực tại ngột ngạt, chật hẹp, tù túng bao nhiêu thì
không gian trong tưởng tượng lại rộng rãi, phóng khoáng và đầy chất thơ bấy nhiêu.
Không gian trong tác phẩm còn có một điều đáng chú ý đó là những không
gian tồn tại và có ý nghĩa đối với nhân vật chính Oskar, trước hết là dưới gầm bàn.
Đó là không gian an ủi của Oskar mỗi khi cậu suy sụp: “Dưới gầm bàn, Oskar ngồi
với cái trống xác xơ, cố chắt nốt dăm ba nhịp thoi thóp cuối cùng” [36, tr.58]. “Tôi
cảm thấy dễ chịu dưới gầm bàn, trong sự che chở của tấm khăn bàn” [36, tr.63]. Hay
“lặng lẽ chui vào một góc tối dưới gầm bàn mà không ai nhìn thấy hoặc nghe thấy”
[36, tr.199]. Ngoài ra còn có không gian trong tủ áo là nơi cậu hay trốn vào đó để
chứng kiến mọi việc qua khe tủ hở. Với Oskar thì tủ quần áo chính là nơi chốn lí
tưởng “Tôi để hé cửa phòng ngủ và hài lòng nhận thấy là không có ai gọi tôi lại. Tôi
phân vân một lúc không biết nên trốn xuống gầm giường hay chui vào tủ quần áo. Tôi
ưng tủ quần áo hơn vì nếu chui gầm giường sẽ bẩn bộ đồ lính thủy xanh lơ hào
50
nhoáng” [36, tr.137]. “Thật tuyệt vời làm sao lại có cái tủ ở đây với những đồ len dạ
dày dặn quây kín khiến tôi có thể tập trung tư tưởng hầu như hoàn toàn để buộc
những ý nghĩ thành một bó đem tặng cho một nàng công chúa trong mơ đủ thông
minh để nhận món quà của tôi với một niềm thích thú vừa trang nghiêm vừa kín đáo”
[36, tr.138]. Và không thể không kể đến đó chính là không gian của chiếc váy ụp bốn
tầng của bà ngoại Anna Koljaiczek của cậu. Chiếc váy kì lạ ấy không chỉ là nơi khởi
đầu cho mối tình của bà và ông ngoại cậu mà còn là nơi cậu tìm đến mỗi khi thất bại.
Cái mùi hăng hăng của bơ mà cậu cảm nhận trong chiếc váy đó chính là liều thuốc
cứu dỗi tâm hồn cậu bé! “Quý vị sẽ hỏi: Oskar tìm kiếm cái gì dưới những cái váy
của bà ngoại nó? Nó muốn bắt chước ông ngoại Koljaiczek của nó và giở trò
luông tuồng với bà lão chăng?Hay nó tìm sự quên lãng, một mái ấm, một cõi Niết
Bàn tối hậu?” [36, tr.113].“Dưới những cái váy của bà tôi, bao giờ cũng là mùa hè,
ngay cả vào thời điểm phải thắp nến trên cây Nô-en hoặc đi lùng những quả trứng
cho ngày lễ Phục sinh, ngay cả vào dịp Lễ Các Thánh” [36, tr.114].
Với việc lắp ghép hai mảng không gian hiện thực và tưởng tượng trong sự đối
lập đã cho thấy hiện thực cuộc sống của con người tù túng, chật hẹp đồng thời thể
hiện được nỗi khát vọng tìm kiếm sự tự do, tìm kiếm bản ngã của con người của tác
giả. Trong không gian thực tại con người bị bó hẹp vào những khuôn khổ cứng nhắc,
mặc dù đầy đủ về vật chất nhưng thiếu thốn về tinh thần, họ bị rơi vào trạng thái cô
độc tuyệt đối. Bởi vậy họ luôn muốn được sống với bản ngã đích thực của mình. Hoà
vào không gian trong tưởng tượng họ tìm thấy mình, tìm thấy sự tự do, thanh thản
cho tâm hồn của chính mình, để được sống đúng với con người mình.
Mỗi nhà văn đều chọn cho mình một mảnh đất riêng làm nơi thỏa sức sáng tác
cho ngòi bút của mình. Mảnh đất đó thường là nơi sinh ra, lớn lên hoặc đã từng gắn
bó máu thịt với các nhà văn. Nguyễn Bình Phương cũng là một trong những nhà văn
như thế. Ông đã chọn mảnh đất Thái Nguyên là nguồn cảm hứng trong những sáng
tác của mình. Bằng tình yêu và sự am hiểu sâu sắc về đất và người Thái nguyên, nhà
văn đã đưa mảnh đất ấy vào trong sáng tác của mình một cách rất tự nhiên. Trong hầu
hết các sáng tác của mình, những địa danh của Thái Nguyên xuất hiện tạo nên tính hệ
thống và trở thành nỗi day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả. Tiểu thuyết Những đứa trẻ
51
chết già, nhà văn đưa độc giả đến với những không gian mang đậm tính hiện thực.
Thế nhưng ở đó, tác giả luôn kết hợp với những yếu tố huyền ảo làm cho người đọc
luôn có cảm giác hoài nghi về tính hiện thực của không gian. Nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Thạch từng nhận xét “Trong một ý nghĩa nhất định, tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương hiện thực một cách tuyệt đối” [39].
Tính chất hiện thực trong miêu tả không gian trước hết được thể hiện ở việc
miêu tả những địa danh có thực của mảnh đất Thái Nguyên. Nhà văn lấy đó làm bối
cảnh diễn ra câu chuyện của mình. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đưa người đọc đến với
gia đình Trường hấp một cách rất tự nhiên, mộc mạc như một lẽ đương nhiên khi bắt
đầu kể một câu chuyện “ Cách đây khá lâu, dân làng Phan thấy Trường hấp, gã trai
không cha, không mẹ, không họ hàng, dẫn một người đàn bà từ mạn Trại Cau về”
[27, tr.5]. Chỉ với một câu văn, hai địa danh đã được nhà văn nhắc tới. Đó đều là
những địa danh có thực ở Thái Nguyên. Những địa danh có thực ấy được nhà văn lặp
đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm tạo thành một hệ thống. Không gian có khi đơn
giản chỉ là cái ao trước nhà Trường hấp “Cái ao to, rộng, vuông vức nằm bên trái nhà,
có một rãnh nhỏ thông ra sông Linh Nham, ngay sát chân cầu” [27, tr.6]. Đặc biệt,
hình ảnh dòng sông Linh Nham được nhà văn coi như một biểu tượng thiên nhiên vừa
hoang dã nhưng cũng lại chứa đựng một điều gì đó rất khó lí giải “Dòng Linh Nham
lầm lì chuyển động , tiếng nước lục bục lúc lúc bị át đi bởi tiếng xe ô tô lao qua” [27,
tr.26]. Hay một loạt những địa danh khác nữa cũng xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết
này. Không chỉ làng Phan, xóm Trại, không chỉ dòng sông Linh Nham mà những
không gian như Trại Cau, Phổ yên, Định Hóa… đều là những địa danh có thực.
Không giống như G.Grass, Nguyễn Bình Phương không có ý định mờ hóa không
gian. Tất cả những địa danh xuất hiện trong tác phẩm đều được nhà văn xác định rất
cụ thể làm cho người ta tin câu chuyện đó là có thực ở mảnh đất rừng thiêng nước
độc ấy. Hẹp hơn trong tác phẩm, những mảng không gian khác là nơi tồn tại của các
nhân vật. Cái ao cạnh nhà cụ Trường là nơi lão Liêm tìm đến sau những lần cãi vã với
con trai “lão Liêm uất nghẹn vác cuốc ra ao khơi rãnh, được mấy nhát thấy người
mệt rũ, mắt hoa lên. Bỏ ra chỗ cây táo ngồi, đầu óc lão ong ong như có hàng ngàn con
ruồi bay trong đó” [27, tr.29]. Hay đó là không gian mang đậm màu sắc núi rừng của
52
thung lũng Cắc, nơi mà hàng ngày Hải và lũ bạn cùng trang lứa vào đó học võ của
ông Trình “Trong khi đó Hải đi thẳng vào thung lũng Cắc với mấy thằng bạn để tập
võ. Thung lũng nằm ngay giữa dãy đồi, vây bên ngoài là rừng rậm” [27, tr.36]. Đó
cũng là nơi ông Trình chọn làm nơi trú thân để âm thầm thực hiện âm mưu của mình.
Không gian Nguyễn Bình Phương miêu tả rất chân thực, cụ thể. Nhà văn viết “Tại
làng Trại, khu Bò Đái, trong căn nhà cuối làng, ông Trình chăm chú dở một tờ giấy
nhàu nát ra xem” [27, tr.39]. Miêu tả không gian từ xa đến gần, Nguyễn Bình Phương
tạo cho độc giả cảm giác chân thực đến đáng kinh ngạc nơi mà mọi hành động của
con người diễn ra. Có thể thấy, không gian thực trong Những đứa trẻ chết già được
nhà văn miêu tả rất chi tiết, cụ thể. Sự xuất hiện với mật độ dày đặc những địa danh
có thực xuyên xuốt từ đầu đến cuối tác phẩm làm tăng thêm độ tin cậy cho câu
chuyện của nhà văn, làm cho người đọc tin rằng câu chuyện ấy đã, đang hoặc sắp
diễn ra ở một miền quê nào đó. Không gian ấy rất đời thường, bình dị, thậm chí có
chút khép kín nhưng lại là nơi con người sống và tồn tại, lại là nơi sản sinh ra những
con người có chút kì dị về cả ngoại hình cũng như tính cách.
Không chỉ có không gian làng quê được nhà văn miêu tả, tính chất hiện thực
của không gian còn được thể hiện ở mảng không gian rộng lớn hơn. Đó là không gian
phố thị. Không gian phố phường hiện lên qua cảm nhận của Hải “Khá lâu hắn chưa
xuống đây, quả là thành phố có thay đổi. Nhà hai tầng mọc lên chen chúc nhau bóp
đường phố thành hình hộp thẳng đuỗn. Người ta dựng giữa đường tròn một chiếc
đồng hồ to có bốn mặt. Chợ thành phố mở sớm, khi Hải đến đã đông người. Quần áo,
đài đóm bày la liệt, hoa cả mắt” [27, tr.33]. Không gian ấy khác hẳn với vẻ hoang sơ
của không gian làng quê, cụ thể là không gian ở làng Phan trước đó. Có gì đó ồn ào,
nào nhiệt hơn thế nhưng vẫn không thoát khỏi sự tù túng, bức bối. Mặc dù là không
gian phố xá, nhưng phố xá trong Những đứa trẻ chết già được nhà văn chủ tâm xây
dựng là không gian nhỏ hẹp, trầm buồn và có vẻ như không thực sự thân mật, gần gũi
với con người. Đó là khối không gian tối tăm, tù túng, tẻ nhạt được gói gọn trong
những căn phòng: “Ông bước vào căn phòng ọp ẹp, cũ kỹ. Mọi thứ đều chật cứng, tối
mờ. Mùi ẩm mốc lảng vảng khắp nơi” [27, tr.21 ], “Trong túp lều tối ẩm, ông lắng
nghe tiếng mọt nghiến ken két, tiếng nước ầm ì và tiếng gió lật mái gianh” [27, tr.42
53
], hay đó là căn nhà nghèo xơ xác của gia đình lão Hạng “Căn nhà nhỏ chật cứng
những đồ đạc rẻ tiền, bẩn thỉu” [27, tr.45]. Ngay cả căn nhà của Tiến quắt- nơi mà
Loan ở cũng được nhà văn miêu tả không khá hơn những không gian khác trong tác
phẩm là mấy “Hải nhìn căn nhà thấy ọp ẹp, tối lờ mờ, đồ đạc sơ sài vất bừa bộn, hắn
khịt khịt mũi” [27, tr.74]. Chỉ bấy nhiêu thôi ta cũng đủ thấy được sự tù túng của
không gian. Tác giả tái hiện một hiện thực đầy phũ phàng khi miêu tả không gian
thực trong tác phẩm. Đó đều là những không gian hỏ hẹp, bức bối, ngột ngạt, tối tăm.
Ấy vậy mà hình như con người tồn tại trong không gian ấy lại không hề cảm nhận
được sự tù túng. Phải chăng, chính tâm hồn họ cũng đã bị hủy hoại trong không gian
ấy? Phải chăng sự tù túng, ngột ngạt ấy là từ trong chính tâm hồn họ mà ra?
Như vậy, không gian mang tính chất hiện thực đã được nhà văn miêu tả thông
qua những địa danh cụ thể, có thực trong đời sống tạo nên sự tin cậy trong việc triển
khai cốt truyện. Yếu tố hiện thực trong tổ chức không gian được nhà văn sử dụng rất
hiệu quả. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì có lẽ bất kỉ nhà văn nào cũng có thể làm
được. Điều đặc biệt làm nên sức cuốn hút trong những sáng tác của nhà văn quân đội
này là ở chỗ ông đã kết hợp những yếu tố thuộc về hiện thực với những yếu tố mang
đậm màu sắc kì ảo. Đây là một trong những đặc trưng tiêu biểu của chủ nghĩa Hậu
hiện đại.
Bên cạnh những không gian thực, nhà văn đã tạo nên sự kì ảo trong miêu tả
không gian. Trên nền tảng của dòng sông Linh Nham, một địa danh có thực, Nguyễn
Bình Phương đã vẽ nên những nét vẽ có phần kì ảo. Không ít lần, dòng sông Linh
Nham hiện lên với vẻ ma mị, bí hiểm “Đang trưa, tự dưng dòi đất bồi dưới chân cầu
Linh Nham nứt toác, sâu thẳm, không ai dám đến gần. Từ kẽ nứt đó có tiếng vọng lên
ầm ì như sấm” [27, tr.11], “Dòng Linh Nham ì ầm ì ầm trong tiếng xạc xào mơ hồ
của những khu bụi lau. Khắp làng những đốm sáng hắt ra từ ô cửa sổ bập bùng như
mắt đàn hổ” [27,tr.32]. “Dòng Linh Nham bốc hơi trắng xóa suốt ngày đêm. Sương
túa ra từ đất, từ kẽ nứt của ba ngọn đồi dày đặc, người đi cách nhau ba bốn bước
không thể nhìn thấy. Cái lạnh nghiến ngấu vò xé cơ thể con người và súc vật thành
một đống nhầu nhĩ, ủ dột” [27,tr.129]. “Bầu trời xám ngoét, nặng võng xuống. Dòng
Linh Nham ì ầm ì ầm chảy, những cơn gió mang hơi lạnh phả vào làng. Con chim
54
đen lầm lũi lượn những vòng ngoắt ngoéo trên đỉnh đồi. Trời càng chuyển sang chiều
càng rét tê tái” [27,tr.206]. Dòng sông Linh Nham như một nhân vật tồn tại từ đầu
đến cuối tác phẩm để rồi cuối cùng, sau những biến cố, sau những vấp ngã của con
người “Chỉ có rừng vẫn trầm ngâm bạt ngàn. Chỉ có dòng Linh Nham vẫn ầm ì, ầm ì
chảy mang theo toàn bộ sức lực cường tráng, thất thường của mình” [27,tr.289].
Những đứa trẻ chết già được xây dựng bởi hai mạch truyện cùng song song
tồn tại. Một là câu chuyện về gia đình Trường hấp và cuộc sống của người dân làng
Phan, hai là cuộc hành trình không có điểm bắt đầu cũng không có kết thúc của ba
nhân vật cùng gã đánh xe trên chuyến xe trâu hư ảo. Vì thế, tác phẩm có sự đan xen,
kết hợp giữa thực và ảo. Hai thế giới âm- dương, sống- chết song song vận động.
Tưởng như không liên quan gì đến nhau thế nhưng chúng lại hòa quyện vào nhau tạo
nên một chỉnh thể. Dẫu cho chỉnh thể ấy có méo mó, dị dạng. Ở phần Vô thanh là thế
giới người chết tiếp tục sống cuộc đời không có âm thanh thì sự mất âm kì quái diễn
ra ở thế giới người sống trong các Chương lại là sự xâm nhập của cõi âm vào cõi
dương tạo nên màu sắc kì bí, huyền ảo cho không gian truyện. Những mảng không
gian luôn luôn tồn tại với cả tính hiện thực và màu sắc huyền ảo. Tác giả đã tạo nên
tính chân thực thông qua việc gọi tên các địa danh có thật, nhưng bên cạnh đó màu
sắc huyền ảo cũng được vẽ lên song song với nó. Không chỉ có dòng sông Linh
Nham, không khí u ám bao trùm lên cả làng Phan “Đêm nay trời đen kịt, gió ít.
Không gian ì ầm mơ hồ” [27,tr.15]. Làng Phan hiện lên “co mình dưới ánh sáng lờ đờ
uể oải. Những ngôi nhà thưa thớt, mái cũ kỹ bị tốc lên trông như tóc kẻ đi ngược
gió”[27,tr.34]. Ngay cả trong cái thực, nhà văn cũng để cho nhân vật tự phủ nhận tính
chất hiện thực của nó. Trong lời của người ông nói với đứa cháu của mình thể hiện rất
rõ điều đó “Làng ta ở xa lắm cháu ạ. Đó là cái làng toàn ma quỷ với những chuyện lạ
lùng. Nó gần như không có thực” [27,tr.78]. Đến ngay cả những con người tồn tại
trong ngôi làng ấy còn phủ nhận sự tồn tại của nó thì làm sao độc giả không khỏi mơ
hồ, hoài nghi?
Cả câu truyện bao trùm bởi không gian u ám, huyền ảo. Bất kì chương nào,
phần nào của truyện ta cũng bắt gặp kiểu không gian này. Từ những quả đồi “Những
quả đồi phập phồng chạy chéo nhau, xa hơn chút nữa rừng núi tím thẫm, còn dưới
55
chân lão, sông Linh Nham ẩn hiện chẳng khác gì con rắn khổng lồ đang trườn giữa
rừng cây um tùm” [27,tr,21] đến những khu rừng “Ban ngày khu rừng im ắng, lầm
lụi. Sáng nào ông cũng dậy thật sớm để ngắm nó. Những làn sương trắng xanh, mỏng
tang dâng lên từ chân rừng, loãng dần, bốc qua ngọn cây lẫn với bầu trời chưa có ánh
sáng” [27,tr.64], “ Khu rừng như chiếc quan tài đen lập lờ giữa màn sương run rẩy
huyền bí. Xung quanh im ắng. Gió chạy tít trên những tầng trời” [27,tr.105] hay cả
những con đường “ Hai bên đường, những ngôi mộ xám xịt trải dài hết tầm mắt. Bầu
trời xanh lơ hắt vào cửa kính” [27,tr.123] đều nhuộm một màu huyền bí. Không gian
hiện thực huyền ảo còn được thể hiện ở ngôi miếu thờ quanh năm khói hương nghi
ngút của dì Lãm, không gian huyền bí dưới gốc si già đêm đêm rì rầm những lời trò
chuyện của những hồn mà và là nơi trở về của những xác chết tha hương một cách kì
lạ mà không ai có thể giải thích nổi.
Sử dụng kết hợp không gian hiện thực và không gian huyền ảo kì bí, Nguyễn
Bình Phương đã viết nên một câu chuyện ở cuộc sống đời thường với những hiện
thực trơ trụi đến phũ phàng với cuộc sống buông thả đầy những dục vọng và mong
muốn phi lý của con người trong xã hội hiện đại. Trong không gian ấy, con người tự
rơi vào tù túng, bế tắc trong chính cuộc sống mà họ tạo ra, trong chính gia đình, quê
hương mà họ sinh ra và trưởng thành. Những yếu tố huyền ảo làm cho câu chuyện trở
nên hư hư thực thực. Ranh giới giữa cái thực và cái ảo bị xóa nhòa. Chúng hòa
quyện, lan thấm vào nhau. Không gian ấy hiện hữu rất gần gũi, chân thực nhưng cũng
rất xa vời, hư ảo. Nó là tấm gương phản chiếu đầy đủ cuộc sống hiện tại và thế giới
tinh thần đầy bí ẩn và phức tạp của con người. Phải chăng nhà văn muốn khẳng định
sự quái dị, kì bí vốn dĩ là một phần không thể thiếu trong cuộc sống con người, bền bỉ
và ăn sâu vào tiềm thức con người như một yếu tố thuộc về tâm linh vẫn tồn tại hàng
bao đời nay trong tâm hồn người Việt.
Hiện thực huyền ảo trong tổ chức không gian nghệ thuật đều được thể hiện rõ
nét trong sáng tác của Günter Grass và Nguyễn Bình Phương. Hai nhà văn đều sử
dụng hiện thực huyền ảo như một công cụ đắc lực trong việc sắp xếp, tổ chức không
gian nghệ thuật. Không gian hiện thực trong Cái trống thiếc là không gian tù túng,
chật hẹp của những gì gần gũi nhất xung quanh các nhân vật thì không gian hiện thực
56
trong Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương cũng vậy. Cuộc sống của con
người trong hai tác phẩm dù là ở hai đất nước khác nhau, với những nền văn hóa khác
nhau nhưng lại gặp nhau ở sự cô đơn, lạc lõng trong chính gia đình, chính quê hương
của mình. Cùng lấy chất liệu hiện thực của không gian đời sống thường ngày nhưng
khi khai thác chất liệu huyền ảo trong tổ chức không gian, hai nhà văn lại có cách tiếp
cận khác nhau. Nếu như không gian trong Cái trống thiếc, ngay ở những mảng không
gian thực, nhà văn sử dụng thủ pháp mờ hóa tạo cho người đọc cảm giác mơ hồ ngay
trong chính không gian tưởng như có xác định, có thực ấy. Còn hiện thực trong
Những đứa trẻ chết già chỉ đơn giản là hiện thực, nhà văn dừng lại ở việc tạo sự chân
thực cho câu chuyện của mình. Mọi sự hồ nghi chỉ xuất hiện khi những yếu tố huyền
ảo xuất hiện. Điểm khác biệt thứ hai trong nghệ thuật tổ chức không gian là Günter
Grass khi miêu tả không gian huyền ảo, nhà văn không sử dụng quá nhiều những yếu
tố hoang đường, kì ảo. Cái kì ảo chỉ được thể hiện qua sự mờ hóa những địa danh cụ
thể và sự lắp ghép giữa không gian sinh hoạt đời thường và không gian tưởng tượng
của các nhân vật. Còn huyền ảo trong Những đứa trẻ chết già là huyền ảo theo đúng
nghĩa đen của nó. Nguyễn Bình Phương sử dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để
lí giải, khám phá sâu sắc hiện thực đời sồng. Qua đó, thể hiện quan điểm,cách nhìn
nhận của các tác giả với hiện thực và cuộc sống con người. Đọc Cái trống thiếc, độc
giả cảm nhận sự mơ hồ trong việc lắp ghép các mảng không gian còn với tiều thuyết
của Nguyễn Bình Phương không chỉ sự hoài nghi, mơ hồ mà còn có chút ám ảnh, sợ
hãi. Chính sự khác nhau ấy đã làm nên sự độc đáo riêng của hai tác phẩm khi xây
dựng không gian nghệ thuật.
3.2.2. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật tổ chức thời gian
Cùng với không gian, thời gian nghệ thuật là hình thức giúp cho con người
cảm thụ về thế giới và về chính bản thân mình. Đó cũng là một phạm trù không thể
thiếu của nghệ thuật. Cũng như không gian, thời gian nghệ thuật được coi là một
phương thức tồn tại của vật chất, không có một sự vật nào có thể tồn tại ngoài thời
gian. Trong tác phẩm văn học thì thời gian lại càng triử nên quan trọng. Bởi lẽ, thông
qua thời gian ấy, nhân vật có thể bộc lộ tính cách của mình. Cùng với không gian,
thời gian nghệ thuật là môi trường để nhân vật tồn tại trong tác phẩm. Thời gian nghệ
57
thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của nhà văn bằng các phương tiện
nghệ thuật nhằm làm cho người đọc hoặc hồi hộp đợi chờ, hoặc thanh thản vô tư,
hoặc chìm đắm vào quá khứ của nhân vật.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội
tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian
nghệ thuật, sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ
một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra
trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời
gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới
nghệ thuật. Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian
nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi,
có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo chốc lát thành
vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại
đều đặn các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa
này, mùa khác…, tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Như vậy, thời gian nghệ thuật
gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Khi nào ngòi bút của người
nghệ sĩ chạy theo diễn biến của sự kiện thì thời gian trôi nhanh, khi nào dừng lại miêu
tả chi tiết thì thời gian trôi chậm lại” [18, tr.322].
Còn theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì “Thời gian nghệ thuật là thời gian
mà ta có thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của
nó, với nhịp độ nhanh hay chậm với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay tương
lai” [37, tr.61]. Thời gian nghệ thuật do người nghệ sĩ sáng tạo ra nên mang tính chủ
quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế, có thể
đảo ngược hay vươn tới tương lai hoặc dừng lại để phục vụ ý đồ sáng tác của tác giả.
Là một hình thức nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của thi pháp học, bởi nó thể hiện thực chất sáng tạo của người nghệ sĩ.
Nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc có thể kể nhanh hay chậm, có thể kể
xuôi hay ngược, có thể chọn độ dài một khỏanh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc
đời. Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, bởi vì văn học là nghệ
thuật tổ chức, sắp xếp thời gian cho nên “Thời gian là đối tượng là chủ đề là công cụ
miêu tả – là sự ý thức về cảm giác và sự vận động và đổi thay của thế giới trong các
58
hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học” [34, tr.210].
Việc sắp xếp không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Cái trống thiếc được
Günter Grass tổ chức theo nhiều phương thức khác nhau. Trong đó để làm nổi bật
được hiện thực huyền ảo thì nhà văn đã tổ chức thời gian theo hướng cơ bản là kết
hợp giữa thời gian thực- mờ hóa thời gian.
Thời gian được tác giả miêu tả trong cuốn tiểu thuyết này là sự kết hợp
giữa thời gian thực và thời gian ảo. G.Grass đã sử dụng rất thành công thủ pháp mờ
hóa trong việc tổ chức thời gian nghệ thuật. Cụ thể ở đây người viết đã tiến hành mờ
hóa thời gian thực trong tác phẩm, khiến cho nó trở nên mơ hồ và bị hòa lẫn vào thời
gian ảo. Từ đó tạo nên hiện thực huyền ảo trong tác phẩm. Trước hết, có thể khẳng
định thời gian mà G. Grass miêu tả trong tiểu thuyết Cái trống thiếc chủ yếu là thời
gian thực. Tác phẩm là chuỗi những kiện diễn ra ở Danzig từ 1924 đến 1950. Nhà văn
sử dụng những mốc thời gian cụ thể mà ở đó cuộc đời nhân vật diễn ra “Dạo ấy
vào năm 1899” [36, tr.4]. Hay “Vào cái buổi chiều tháng mười năm một ngàn tám
trăm chín chín ấy” [36, tr.12]. Đó hoàn toàn là những mốc thời gian cụ thể hiện thực.
Trong chương Dưới gầm bè nhân vật chỉ ra rất rõ thời gian mà mẹ mình ra đời đó là
vào “ Vào cuối tháng sáu năm một chín không không - bấy giờ vừa có sắc lệnh
tăng gấp đôi chỉ tiêu đóng tàu biển, loại thiết giáp hạm - mẹ tôi ra đời dưới chòm sao
Nhân Sư chiếu mệnh” [36, tr.12]. Khi kể lại biến cố xảy ra với người ông ngoại của
Oskar, người viết đặt sự việc trong mốc thời gian cụ thể “ Sự cố bắt đầu vào tháng
8/1913, khi Koljaiczek, như thường lệ hàng năm vào dịp cuối hè, áp tải một bè gỗ lớn
từ Kiev theo các sông Priper, Bug, Modlin xuôi về đến sông Vistula” [36, tr.17].
Thậm chí, người viết còn sử dụng mốc thời gian liên quan đến các sự kiện lịch sử:
“Năm 1920, khi Marszalek Pilsudski đánh bại Hồng quân trước cửa ngõ Vacxava, cái
phép thần kỳ mà ông Vincent Bronski cho là do Đức Mẹ Mary Đồng Trinh, còn các
chuyên gia quân sự thì gán cho tướng Sikorski hoặc tướng Weygand, phải, vào cái
năm rất đậm nét Ba Lan ấy, mẹ tôi đính hôn với Matzerath, công dân của Đế chế
Đức”[36, tr.32]. Thời gian trong cuốn tiểu thuyết chủ yếu là thời gian của hiện thực
gắn liền với những mốc cụ thể. Từ đầu tới cuối tác phẩm, ở mỗi chương nhà văn lại
sắp xếp các sự kiện ở những mốc thời gian khác nhau. Thời gian ấy được miêu tả một
cách rất rõ ràng chẳng hạn như ở chương Bướm và đèn nhân vật khi kể về ngày sinh
59
nhật thứ năm của mình cũng chỉ ra rất rõ ràng “Ít lâu sau lần sinh nhật thứ Năm của
tôi vào năm 1929’’ [36, tr.59]. Chương Khán đài thời gian hiện thực được miêu tả
“Mãi đến mùa hè 1933, tôi mới có dịp trở lại nhà hát” [36, tr.99]. “Điều này được
thực thi vào mùa xuân năm 1934” [36, tr.102]. “Từ tháng 11/1936 đến tháng
3/1937 khi Đại tá Koc thành lập một Chính phủ Mặt trận Dân tộc ở Vacxava, sáu
mươi tư vụ trộm hụt và hai mươi tám vụ trộm thành công đã được thống kê” [36,
tr117]. “Đêm mười tám tháng giêng năm 1937, một đêm mưa tuyết tỏa ra cái mùi như
dự báo tuyết còn tiếp tục rơi, một đêm thuộc loại dành cho ai muốn đổ thừa cho
tuyết phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì có thể xảy ra” [36, tr.120]. Đến những
chương cuối, Günter Grass vẫn miêu tả thời gian thực bằng những chuỗi sự kiện đươc
đánh dấu bằng những mốc thời gian cụ thể “Ngày 12 tháng sáu - sớm hai tuần so với
tính toán của tôi - Kurt con trai tôi ra đời, cầm tinh Song Nam chứ không phải Bắc
Giải như tôi dự đoán” [36, tr.255]. Đó là thời gian mà con trai của Oskar với Maria
chào đời, rồi khi cậu bé ấy tròn một tuổi “Giữa tháng 6/1942, Kurt con trai tôi tròn
một tuổi” [36, tr.270]. “Tháng 10-1942, Greff, chủ hiệu rau quả, tự treo mình trên
một cái giá được chế tác thần tình đến nỗi từ đó trở đi, tôi, Oskar đây, luôn luôn coi
tự vẫn là một trong những hình thức chết cao quý nhất. Tháng giêng 1943, khắp thành
phố xôn xao bàn tán về Stalingrad” [36, tr.270]. Thời gian thực được nhà văn miêu tả
một cách cụ thể tạo cho người đọc cảm giác chân thực trong diễn biến câu chuyện,
tạo sức tin cậy cho lời của nhân vật. Những mốc thời gian cụ thể ấy hiện lên rõ ràng
làm cho người đọc cảm giác như đang đọc cuốn nhật kí của nhân vật. Qua thời gian
ấy, hiện thực hiện lên một cách chân thực, rõ ràng. Cùng với việc miêu tả cụ thể thời
gian thực, điểm đáng chú ý trong khai thác thời gian nghệ thuật của Günter Grasslà ở
chỗ ông đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực và thời gian đã bị mờ hóa. Mặc dù trong
tác phẩm, thời gian thực xuất hiện với tần xuất dày đặc nhưng không phải lúc nào nhà
văn cũng sử dụng thời gian thực mà ở đó nhà văn đã làm mờ hóa thời gian, tạo cảm
giác rất mơ hồ về thời gian thực. “Mỗi tuần một lần, ngày thăm bệnh nhân quấy
rối cõi yên tĩnh trong đó tôi sống đằng sau những chấn song kim loại màu trắng. Vào
ngày đó, kéo tới những người muốn cứu vớt tôi, những người tìm tiêu khiển trong
việc yêu thương tôi, những người cần đến tôi để tự trân trọng, tự tôn vinh, tự biết
mình” [36, tr.2]. “Tôi sẽ bắt đầu từ thời điểm khá lâu trước khi có tôi; bởi vì chẳng ai
60
nên mô tả đời mình mà không chừa thời gian trước cuộc tồn sinh của chính mình
để tưởng niệm nửa số ông bà nội ngoại” [36, tr.4]. “Nhưng vì không nhớ ra ai đã
từng ở khu ấy, nên tôi chỉ có thể kết luận là tấm ảnh đã được chụp vào một ngày
mà song thân tôi đến đấy thăm một vài người nào đó mà sau này chúng tôi không bao
giờ, hoặc rất ít khi, gặp lại” [36, tr.50]. Thời gian mà nhà văn thể hiện ở đây là những
khoảng thời gian không rõ ràng. Mỗi tuần một lần là thời gian rất mơ hồ, người ta
không biết thời gian ấy cụ thể là bao lâu và như thế nào? Thời gian không được xác
định cụ thể. Đó là thời gian thực nhưng đã được nhà văn mờ hóa. “Suốt ngần ấy năm,
tôi chưa bao giờ ăn một cái gì như thế, cái vị của nó còn lưu cữu mãi trong cổ họng
tôi”[36, tr.88]. “Vào một trong những buổi chiều ấy” [36, tr.91]. “Ngay từ thời kỳ đó,
đã có quá nhiều trẻ con” [36, tr.98]. “Những biến cố chính trị xảy ra trong những năm
sau đó xác nhận những lời tiên tri của ông: thời kỳ của những cuộc rước đuốc và diễu
hành qua khán đài đã bắt đầu” [36,tr.104]. “Được, tôi sẽ phải mang theo cái ngáp tao
nhã của Goethe cách đây hàng thế kỷ” [36, tr.274]. “Tiết mục của tôi đi theo tuyến
lịch sử, bắt đầu bằng những đồ thủy tinh thời Louis XIV và, cũng giống như bản thân
lịch sử, tiếp tục với đồ thủy tinh thời Louis XV. Với nhiệt tình cách mạng, tôi tấn
công những cốc tách của ông vua Louis XVI bất hạnh cùng bà vợ không đầu Marie
Antoinette của ông” [36, tr.279]. “Từ hồi tôi còn thơ ấu, Matzerath đã muốn tôi sau
này sẽ kế nghiệp ông trông nom cửa hàng” [36, tr.299]. “Thời kỳ ấy để lại trong tôi
một thói quen hay một thói xấu: cứ đến giáo đường, kể cả những nhà thờ lớn nổi
tiếng, là tôi bắt đầu ho, ngay cả những lúc sức khỏe tôi tốt nhất” [36, tr.310]. “Không,
không phải hễ tim đầy tràn thì tất yếu mắt phải lã chã giọt châu, một số người không
bao giờ nhỏ được một giọt nước mắt, nhất là ở thế kỷ của chúng ta, cái thế kỷ mà bất
luận mọi đau buồn và thống khổ, chắc chắn sẽ bị hậu thế coi là thế kỷ ít nước mắt
nhất” [36, tr.444]. “Cách đây bao năm, khi chú còn thích đương đầu với thế giới từ
cái tầm cao ba tuổi của chú, ta đã chẳng nói: những người như chúng ta không thể
mất nhau đó sao?”[36, tr.468]. Những khoảng thời gian ngỡ như rất thực nhưng thực
chất lại hoàn toàn không xác định, rất mơ hồ. Nhà văn viết về thời gian ấy nhưng lại
không chỉ ra cụ thể mà chỉ dừng lại ở việc miêu tả những khoảng thời gian rất chung
chung. Ranh giới thời gian thực và ảo bị phá vỡ, thời gian thực mất đi tính chính xác
khi nó hòa trộn với thời gian ảo. Người viết sử dụng kết hợp cả thời gian thực và thời
61
gian ảo. Thời gian thực mang lại sự chân thực của hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm. Thời gian ảo tạo cho ta cái cảm giác mơ hồ không xác định được cụ thể diễn
biến câu chuyện diễn ra vào khi nào, hiện thực được thể hiện trong thời gian ấy có
chính xác hay không? Sự mâu thuẫn ấy có lẽ cũng chính là sự mâu thuẫn của con
người trước hiện thực cuộc sống, giữa những điều có thực và những điều mơ hồ tồn
tại trong đầu óc con người mà cụ thể ở đây là nhân dân Đức trong thời kì hậu chiến.
Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Cái trống thiếc được tác giả xây dựng
linh hoạt dựa trên sự kết hợp của thời gian hiện thực và thời gian mờ hóa. Điều này
không chỉ làm cho thời gian trong tác phẩm trở nên đa dạng mà còn góp phần thể
hiện đặc trưng của hiện thực huyền ảo một cách khá trọn vẹn.
Trong Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương luôn tồn tại hai trục
thời gian: thời gian thực và thời gian huyền ảo. Giống như Cái trống thiếc, thời gian
thực bao giờ cũng được bắt đầu bằng những mốc thời gian cụ thể, chính xác đến từng
giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm tạo tính chân thực, tin cậy cho câu chuyện mà
nhà văn đang kể. Nhà văn sử dụng dày đặc hình thức chép sử biên niên từ đầu đến
cuối tác phẩm làm cho cuốn tiểu thuyết như một cuốn nhật kí, ghi lại tất cả những gì
ông được chứng kiến, tham gia.
“Ngày mùng 7 tháng 6 giờ Dậu, dân làng thấy trong đáy ao nhà Trường hấp
bốc lên một cột khí trắng hình con rắn” [27, tr.9].
“Ngày 9 tháng đó, phía Tây có đám mây màu đỏ xuất hiện, hình dáng không
khác gì người đàn ông cụt đầu, tay cầm dao quắm”[27, tr12].
“Tháng 11, vợ Trường hấp ốm, nằm liệt giường” [27, tr17].
“Tháng 8 ngày mùng 10, làng bị mưa tơi bời” [27, tr18].
“Mùa đông, tháng 11 ngày mùng 9 giờ Tý, cả làng Phan giật mình vì tiếng hổ
gầm ngay cánh rừng bên cạnh. Ngày 23, sao chổi xuất hiện phía Tây, trông như dải
lụa trắng” [27,tr.20].
“Ngày 17, dòng Linh Nham bị sạt lở một bờ hàng chục mét” [27,tr.34].
“ Gần sáng 18, người ta thấy trong làng xuất hiện vết chân thú lạ, y như vết
chân từng in lên mặt sân đá nhà cụ Cung” [27, tr.44].
“Ngày 20, giờ Dậu, có mây hình bàn tay, đỏ rực như máu. Cũng ngày hôm đó,
dưới thành phố, một đứa trẻ bốn mắt ra đời ở bệnh viện, sau đó chết nhưng mắt vẫn
62
mở” [27, tr.154].
Các sự kiện diễn ra trong một mốc thời gian cụ thể. Nhà văn chỉ ra chính xác
thời gian tồn tại của nhân vật. Mọi việc diễn ra như những gì vốn dĩ phải thế. Bên
cạnh những khoảng thời gian thực, người đọc vẫn cảm nhận được sự mơ hồ, huyễn
hoặc. Bởi lẽ, cũng giống như Grass Nguyễn Bình Phương đã sử sụng thủ pháp mờ
hóa thời gian bên cạnh thời gian thực. Thời gian chính xác là thế đấy thế nhưng đâu đó,
người đọc vẫn không xác định được cụ thể thời gian ấy là khi nào. Nhà văn sử dụng kết
hợp các danh từ chỉ thời gian với các từ phiếm chỉ không xác định. Mở đầu tác phẩm là
sự xuất hiện của vợ chồng Trường hấp. Nhà văn không chỉ rõ đó là thời gian nào mà
chỉ kể rằng “Cách đây khá lâu, dân làng Phan thấy Trường "hấp", gã trai không cha,
không mẹ, không họ hàng, dẫn một người đàn bà từ mạn Trại Cau về” [27,tr.5]. Người
đọc cũng như người dân làng Phan không biết chính xác ngày mà Trường dẫn người
đàn bà ấy về là khi nào, chỉ biết đó là khoảng thời gian rất lâu trước đó. Thời gian mờ
hóa làm cho sự xuất hiện của nhân vật cũng trở nên không xác định. Hay trên hành
trình của chuyến xe trâu, nhân vật “ông” khi nhớ lại câu chuyện đã từng được nghe
cũng không xác định được thời gian chính xác mà chỉ có thể nhớ rằng “Cách đây lâu
lắm rồi, ông nghe một câu như vậy ngay trên chuyến xe như thế này. Ngày đó xe cũng
có ba người, ba bố con ông, chỉ có điều ông và em gái thay chỗ hai thanh niên kia, còn
bố ông ngồi đúng chỗ ông bây giờ. Bố ông cũng mặc chiếc áo đại cán bạc phếch”
[27,tr.16]. Mọi sự việc, nhân vật, bối cảnh đều được ghi lại chính xác nhưng thời gian
thì không xác định được. Không ai biết câu nói ấy diễn ra khi nào, kể cả nhân vật cũng
tồn tại trong thời gian bị mờ hóa ấy. Thời gian mờ hóa xuất hiện xuyên suốt, song hành
cùng với thời gian thực từ đầu đến cuối tác phẩm.
“Đấy là lần cuối cùng ông gặp nó. Sau này, ông nghe tin nó về làng và chết ở
dưới gốc cây si như những người khác. Nó chết, trong bụng nó vẫn cựa quậy đứa
con” [27,tr.23].
“Cùng thời gian đó, quả đồi sau nhà lão có con chim đen to bằng con gà tây
đến ở. Con chim chiều nào cũng lượn những vòng ngoằn ngoèo hình số tám”
[27,tr.32].
“Đêm đó ông trở thành kẻ có gia đình. Ông làm chồng, làm bố. Sau này, khi
cô ta chết, ông đến với người đàn bà thứ hai, bà này sắc sảo hơn, to béo hơn, nhưng
63
không cho ông một đứa con, một kỷ niệm nào cả” [27,tr.25].
“Cùng dạo đó, ông quen người đàn bà thứ hai. Cô ta phiêu bạt từ xuôi lên và
tự nguyện theo ông về làm vợ. Ngay buổi đầu, cô ta đã véo tai bắt thằng Tĩnh đi kiếm
cành khô về làm củi đun” [27, tr.43].
“Ông không biết mình được sinh ra vào giờ nào. Nhưng ông được nghe mẹ
bảo rằng lúc ấy đang mùa thu” [27, tr.56].
Thời gian được coi là chính xác nhất, ấy vậy mà ngay trong cái tưởng như
không thể sai được ấy cũng không phải lúc nào cũng có thể xác định được. Đó chính
là ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Bên cạnh sự đan xen giữa thời gian thực và thời gian mờ hóa, một biểu hiện
khác của hiện thực huyền ảo trong tổ chức thời gian của tiểu thuyết Những đứa trẻ
chết già đó là sự lắp ghép thời tưởng tượng và thời gian của những giấc mơ. Ở phần
Vô thanh II, thời gian tưởng tượng được thể hiện qua những suy nghĩ của nhân vật
“ông”: “Ông tưởng tượng một lúc nào đó, thằng Tĩnh, thằng con trai duy nhất trong
đời ông, trở về. Nó rẽ nước mà lên, mắt to lồi nhìn ông. Nó sẽ cất giọng như ngày
nào. Cái giọng ngọng líu, dính liền nhau mà chỉ ông mới nghe và giải mã nổi”
[27,tr.41]. Nỗi nhớ mong thằng con bé bỏng, đáng thương đã khắc sâu trong tâm trí
ông để rồi không chỉ tưởng tượng, nỗi nhớ ấy trở thành nỗi ám ảnh xuất hiện trong
giấc mơ của ông “Đêm ấy, ông mơ thấy nó. Nó lặng lẽ vuốt tay ông, thỉnh thoảng lại
cười phô ra mấy chiếc răng sún” [27,tr.41]. Những tình cảm, suy nghĩ thầm kín nhất
của con người được bộc lộ qua thời gian của những giấc mơ. Không những thế, giấc
mơ còn thể hiện những lo lắng, dự cảm về tương lai của nhân vật. Lão Liêm cũng
từng “Mấy tháng gần đây, trong mơ lão hay thấy vết chân lạ vô hình in quanh hai
ngôi mộ của bà mẹ và cậu con trai cả lão” [27,tr.58]. Có thể thấy, giấc mơ có một vai
trò vô cùng quan trọng trong tổ chức thời gian nghệ thuật của tác phẩm này. Thời
gian trong giấc mơ xuất hiện khá nhiều trong Những đứa trẻ chết già. Nó trở thành
nỗi ám ảnh của nhân vật “ông”: “có một giấc mơ mà mãi đến hôm nay ông vẫn đặt
phần lớn niềm tin vào đó với tâm trạng nửa buồn, nửa sợ. Trong mơ, ông thấy một
người đàn bà điên dẫn mình đi qua bao nhiêu đồi núi, đến một gốc cây mục um tùm
cỏ tranh, người đàn bà điên chỉ vào đó nói rin rít:
64
- Kiếp trước của mày đấy!
Rồi bà ta bỏ đi. Ông quỳ xuống, bới cỏ thấy một bộ xương trắng nhởn, bên
cạnh có con dao găm han gỉ. Giấc mơ đẩy ông vào cảm giác nhẹ nhàng, mơ hồ”
[27,tr.124]. Hay trong những khoảng thời gian hồi tưởng về quá khứ, thời gian giấc
mơ cũng được thể hiện qua nhân vật bố ông “Đêm qua tôi mơ thấy một ông già cưỡi
rồng bay qua làng!” [27,tr.181]. Ngay cả Bào mù cũng được thể hiện sự dị thường
của mình trong những dự cảm qua những giấc mơ “Trong giấc mơ cuối cùng lúc
thiếp đi, Bào thấy thấp thoáng hình ảnh một chiếc xe trâu lao vùn vụt qua những dải
sương màu tím nhạt. Trên chiếc xe có một đứa bé con và ba người đàn ông. Tay đứa
bé thọc vào túi áo đại cán bạc phếch, tuồng như nó đang mân mê vật gì đó”
[27,tr.239]. Từ giấc mơ kì lạ của mình, Bào mù mơ hồ đoán được những sự tưởng
như vô lí sẽ diễn ra ở tương lai.
Đó là thời gian trong khoảng vô thức của con người, cũng có khi là thời gian
mà ở đó con người bộc lộ những gì sâu kín nhất luôn đeo đẳng, bám riết lấy họ. Kiểu
thời gian ấy xuất hiện trong dòng hồi tưởng của cụ Chẩn trước khi cụ qua đời “Ngôi
làng trống hoác hiện ra… rồi cụ cắp sách đến trường… cụ lén lút đi giữa đêm để bắt
gà hàng xóm… cụ nhập vào đám người đào ao thuê… Những quả đồi, căn nhà…
chiếc ao toàn đá… Người vợ run rẩy trong đêm chồng vợ đầu tiên… Hình ảnh thi
nhau đập vào mắt cụ, lần lượt, đều đặn tựa hồ cuốn phim quay chậm. Khi chính cụ
nhìn thấy mình đang nằm trên giường thì tự dưng cuốn phim quay ngược trở lại, nó
lướt rất nhanh cho đến cảnh một căn nhà xây hiện ra, căn nhà đó tựa lưng vào quả đồi
căng mọng tràn trề sức sống, phía trước nó, dòng sông um tùm lau lách rì rào chảy”
[27,tr.137]. Từ dòng chảy ý thức, từ màn sương mờ ảo của vô thức, tiềm thức, tất cả
đã khắc họa chân thực suy nghĩ, tình cảm của nhân vật. Kiểu thời gian này gắn liền
với những hoài niệm, những kí ức của các nhân vật. Trường hấp, lão Liêm, ông
Trình, bà Trình, Tiến quắt, cụ Chẩn, Hải… đều có những khoảng lặng đầy ám ảnh về
cuộc đời, về quá khứ, về kho báu mà họ luôn tìm kiếm.
Thời gian trong Những đứa trẻ chết già là thời gian mang đậm màu sắc hiện
thực huyền ảo. Sự hòa quyện giữa thời gian thực và thời gian mờ hóa, sự đan cài thời
gian thực và thời gian tâm lý thể hiện qua những giấc mơ của nhân vật đều thấm
65
đượm màu huyền ảo. Điều đó tạo nên bức tranh đa chiều về hiện thực cuộc sống và
con người. Ở đó, con người tồn tại trong một thế giới mà ranh giới giữa thực và ảo trở
nên khó xác định hơn bao giờ hết. Con người trở nên mơ hồ, hoài nghi về chính thế
giới mà mình đang sống.
Günter Grass và Nguyễn Bình Phương đã gặp nhau trong việc sắp xếp thời
gian nghệ thuật. Trong hai cuốn tiểu thuyết, độc giả đều nhận thấy sự giống nhau
trong nghệ thuật xây dựng thời gian. Cả hai tác phẩm đều là sự đan xen, kết hợp của
thời gian thực và thời gian đã được mờ hóa. Tuy nhiên, với Những đứa trẻ chết già
của Nguyễn Bình Phương, độc giả lại thấy xuất hiện một kiểu thời gian khác cũng
mang màu sắc hiện thực huyền ảo. Đó là thời gian tâm lý, đây là điều Günter Grass
không sử dụng trong tác phẩm của mình.
3.3. Hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.3.1. Sự pha trộn của yếu tố bình thường và dị thường trong ngoại hình
Dấu hiệu của hiện thực huyền ảo trong cách xây dựng nhân vật của Günter
Grass thể hiện rất rõ ở sự pha trộn của yếu tố bình thường và dị thường trong ngoại
hình và tâm lí, tính cách của nhân vật. Ở đây, hiện thực huyền ảo qua nghệ thuật xây
dựng nhân vật tập trung chủ yếu ở nhân vật chính Oskar.
Bằng bút pháp hiện thực huyền ảo, Günter Grass đã xây dựng thành công kiểu
nhân vật đa diện, đa màu sắc. Trước hết thể hiện ở ngoại hình của nhân vật. Ngoại
hình nhân vật không chỉ được khắc họa với những chi tiết bình thường mà còn luôn
chứa đựng những nét dị thường, siêu nhiên khiến cho chân dung nhân vật hiện lên vô
cùng sinh động, hấp dẫn. Điều này có lẽ chỉ được thể hiện trong nhân vật chính
Oskar. Tác giả xây dựng Oskar không phải kiểu nhân vật ma quỷ, quái thú. Oskar là
con người nhưng lại được xây dựng trên sự trộn lẫn giữa yếu tố bình thường và dị
thường, là con người nhưng lại mang những đặc điểm kì lạ, siêu nhiên, khác với
những người bình thường khác. Qua đó cho thấy những ý nghĩa, thông điệp vô cùng
sâu sắc về cuộc sống và con người của nhà văn.
Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của Oskar Matzerath, như tường thuật của
chính anh ta thì anh ta đang ở tại một bệnh viện tâm thần, mà chính xác hơn là anh ta
đang bị giam lỏng tại đó “Ờ phải: tôi đang nội trú ở một bệnh viện tâm thần [36,
66
tr.1]”. Nguồn gốc ra đời của Oskar cũng là một sự mơ hồ đối với độc giả. Trong tác
phẩm, Oskar được miêu tả là con trai của Alfred Matzareth và Agnès Koljaiczek thế
nhưng chính bản thân cậu cũng không biết chính xác mình là con của ai? Con của
Alfred Matzareth hay con của Jan Bonski? Đây không chỉ là thắc mắc của độc giả mà
còn là câu hỏi lớn theo suốt cuộc đời Oskar. Hoàn cảnh Oskar sinh ra đời được nhà
văn miêu tả hết sức đặc biệt qua lơi kể lại của chính cậu ta “Vậy đó, ánh sáng đầu tiên
đón tôi ra đời là hai ngọn đèn điện sáu mươi oát” [36, tr.35]. Cậu bé Oskar ấy được
sinh ra bình thường như bao đứa trẻ khác, nhưng theo lời nhận định của mình thì cậu
“thuộc loại trẻ sơ sinh rất thính tai, với độ phát triển tâm lý hoàn chỉnh từ lúc
lọt lòng” [36, tr.35]. “Trong khi bề ngoài, tôi la khóc và vào vai một đẻ sơ sinh đỏ
hỏn, trong bụng tôi đã quyết định chối bỏ mọi dự định của cha tôi, nghĩa là tất cả
những gì liên quan đến cửa hàng, mà sẽ ưu tiên xem xét kế hoạch của mẹ tôi vào
đúng lúc, cụ thể là vào dịp sinh nhật lần thứ ba của tôi” [36, tr.37].
Như vậy ngay từ lúc chào đời, dù giống với những đứa trẻ khác về hình dáng
nhưng suy nghĩ của Oskar lại có cái gì đó khác thường “Chỉ có viễn cảnh về cái trống
mới ngăn được tôi khỏi bộc lộ mạnh mẽ hơn niềm khao khát muốn lộn trở về bào
thai” [36, tr.38]. “Tôi biết, nếu quả có một ngày chúng ta phải nếm mùi địa ngục, một
trong những tội hình ác độc nhất sẽ là nhốt vong hồn trần truồng vào một căn
phòng với những tấm ảnh đóng khung thuở sinh thời của hắn” [36, tr.39]. Như đã nói
ở trên, ngoại hình Oskar trước khi lên 3 tuổi thì cậu vẫn là một đứa trẻ bình thường về
ngoại hình, thậm chí cậu còn nhận thấy “Tôi là một đứa bé xinh trai” [36, tr.49]. Tuy
nhiên ẩn sau cái vẻ bề ngoài bình thường ấy lại là sự dị thường. Ngay từ khi còn là
một đứa trẻ sơ sinh, cậu bé Oskar đã có quyết định đáng kinh ngạc đó là ngừng lớn.
Điều làm nên sự dị thường ở ngoại hình của Oskar so với những đứa bé khác được
Oskar chỉ rõ qua những bức ảnh “Quý vị có thể nói: một tấm ảnh trẻ sơ sinh bình
thường như mọi tấm ảnh trẻ sơ sinh khác. Xin hãy thử nhìn kỹ đôi bàn tay mà xem.
Quý vị sẽ phải thừa nhận rằng tấm chân dung đầu tiên của tôi khác hẳn tất thảy
những kiểu ảnh chỉ có tác dụng ghi lại những mẩu đời xinh xẻo mà quý vị có thể thấy
trong các album gia đình ở khắp nơi trên thế giới. Quý vị thấy hai bàn tay tôi nắm
chặt. Quý vị không thấy những ngón tay nhỏ xinh mũm mĩm đùa nghịch với những
67
túm lông như bất giác tuân theo một thôi thúc mơ hồ của bản năng thai nhi. Những
nắm tay nhỏ xíu của tôi lơ lửng ngang tầm đầu tôi, với vẻ rất tập trung, sẵn sàng nện
xuống. Nện xuống cái gì? Cái trống chứ còn cái gì nữa!” [36, tr.49]. Đây chính là dấu
hiệu đầu tiên cho thấy sự bất thường trong con người Oskar. Thế nhưng điều dị
thường trong hình dáng Oskar phải kể từ thời điểm sinh nhật thứ 3 của cậu. Vào thời
điểm đó, Oskar đã quyết định không lớn nữa “Chính vào thời điểm đó tôi đã
tuyên bố, đã quyết định, đã nhất quyết không bao giờ làm chính trị trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, càng không thèm làm anh lái buôn tạp phẩm, mà chỉ dừng lại đây thôi,
mãi mãi vẫn nguyên xi như thế này - và tôi đã thực hiện đúng như thế; trong bao năm,
tôi không chỉ giữ nguyên tầm vóc này mà cả bộ trang phục này nữa” [36, tr.51].
“Để tránh cái máy thu ngân, tôi bám riết lấy cái trống của tôi và từ lần sinh nhật thứ
ba trở đi, không chịu lớn thêm lên một đốt tay nào nữa” [36, tr.51]. “Tuy nhiên - ở
đây, Oskar phải thừa nhận một sự phát triển nào đó - có một cái gì đang lớn lên thật
(và không phải lúc nào cũng theo chiều hướng có lợi cho tôi), cuối cùng vươn tới
những tầm vóc Cứu thế; nhưng vào thời buổi ấy có người lớn nào thèm để tai lắng
nghe Oskar, thằng bé đánh trống mãi mãi ba tuổi?” [36, tr.52]. “Để tránh khỏi phải
đứng sau một quầy hàng, Oskar đã đứng hơn mười bảy năm sau khoảng một trăm cái
trống đồ chơi trẻ con sơn đỏ-trắng” [36, tr.347]. Oskar ý thức rất rõ tình trạng của
mình, cậu tự nguyện chấp nhận nó: “Nếu mày thôi lớn một cách rõ rệt, họ sẽ bảo là
mày chậm phát triển; họ sẽ mang tiền theo, lôi mày tới hàng tá bác sĩ và, nếu không
phải tìm cách điều trị, thì cũng là một lời giải thích, cho khiếm tật của mày. Do vậy,
để giới hạn các cuộc khám bệnh trong phạm vi có thể chịu đựng được, tôi cảm thấy
mình buộc phải cung cấp một nguyên cớ khả dĩ nghe lọt tai để cắt nghĩa tại sao tôi
thôi lớn, trước khi một ông bác sĩ nào đó kịp đưa ra lời giải thích của mình” [36,
tr.52]. Cậu bé tinh quái ấy tìm cách qua mắt mọi người với dáng vẻ của một đứa bé
lên ba và cứ thể, cơ thể cậu ngừng lớn thật mặc dù tâm hồn và suy nghĩ của cậu đang
không ngừng phát triển.
Nguyên nhân mà người ta cho rằng cậu không lớn được nữa là bởi “Vào dịp
sinh nhật lần thứ ba, bé Oskar của chúng tôi bị ngã xuống cầu thang hầm kho, xương
cốt tuy nguyên vẹn, nhưng không lớn được nữa” [36, tr.54]. Thế nhưng không ai biết
68
rằng, lí do thực sự để cậu không lớn thêm nữa là ở ngay chính bản thân cậu. Đó chính
là quyết định khác thường của Oskar. Nhờ quyết định ấy mà Oskar suốt bao nhiêu
năm trời tồn tại dưới hình dáng của một đứa trẻ lên ba, chỉ cao có 94cm mà thôi.
Oskar ý thức rất rõ về bản thân vì thế cậu che đậy sự thật về con người mình bằng
cách “Còn như giả đò ngu dốt có nghĩa là che giấu sự tiến bộ nhanh chóng của mình,
là tiến hành một cuộc đấu tranh thường xuyên với niềm tự hào trí tuệ mới chớm”
[36, tr.80] hay “Tôi không chịu trả lời, lẩn tránh một cách ranh ma đằng sau cái lá
chắn tạo nên bởi cái trống và trạng thái chậm phát triển của đứa trẻ mãi mãi ở tuổi
lên ba” [36, tr.118].
Suốt những năm tháng sau đó, cùng với cái trống thiếc- món quà sinh nhật
được tặng khi sinh nhật ba tuổi, Oskar nhìn cuộc đời từ tầm cao chín mươi tư xăng-ti-
mét của mình, một khoảng cách từ gần sát mặt đất, đưa con mắt nhìn dọc theo chiều
dài lịch sử như một tấm gương làm méo hình, Oskar, dưới bề ngoài của một đứa bé
mãi mãi lên ba, nhưng với sự già dặn trí tuệ của người trưởng thành, làm nảy ra từ cái
trống đồ chơi một thế giới nhố nhăng, kệch cỡm và bí hiểm, một nhân loại bất lực với
thân phận con người ê chề vùi lấp dưới những đổ nát của lịch sử. Trong suốt thời kì
thế chiến cho đến thời hậu chiến, Oskar vẫn giữ vóc dáng của một đứa trẻ. Đây có thể
xem là cách ngụy trang để tồn tại của Oskar trước thực tại đầy rẫy những điều bất
công, phi lí, lạ thường, Oskar ngụy trang để trốn tránh cuộc sống ấy mà không hề biết
rằng bản chất của sự ngụy trang ấy chính là điều bất thường.
Nếu như Cái trống thiếc tập trung miêu tả Oskar với sự pha trộn của yếu tố
bình thường và dị thường trong ngoại hình thì Những đứa trẻ chết già không tập
trung miêu tả một nhân vật nào cả. Các nhân vật được miêu tả đầy đủ những nét vẽ về
ngoại hình bằng những tính từ tượng hình rất cụ thể. Nhân vật nào cũng hiện lên
thông qua ngòi bút tả thực nhà văn. Trường hấp được nhà văn miêu tả có “Dáng hơi
gù, trán ngắn trằn, tóc cứng, mắt nó xếch ngược với đôi mày đen mượt, rậm rì như
một gã trung niên” [27, tr.7]. Vậy là chỉ với một câu văn miêu tả, ngoại hình Trường
hiện lên đầy đủ với những đặc điểm đặc trưng nhất về ngoại hình. Hay khi miêu tả cái
chết của vợ Trường, Nguyễn Bình Phương cũng miêu tả hết sức chân thực hình dáng
của mụ trước khi chết “Trước khi chết, mụ vợ Trường hấp cho gọi con trai vào thều
69
thào điều gì đó rồi nghẹo đầu, mắt trợn ngược, thân hình còm cõi co rúm lại”
[27,tr.12]. Hai nhân vật thanh niên xuất hiện trên chiếc xe trâu cũng vậy, mặc dù
không biết họ là ai, họ tên gì, họ đến từ đâu nhưng người đọc có thể hình dung ra
hình dáng của họ thông qua những câu văn miêu tả ngoại hình “Người thứ nhất có
thân hình lực lưỡng, mái tóc húi cua cứng queo và đôi mày xếch chạy thành hai vệt
đen bằng ngón chân cái. Người này mặc chiếc áo đen, cáu ghét, nứt nẻ, đôi giầy ba ta
rách mõm của anh ta phả ra mùi hôi nồng nặc. Người thứ hai có vẻ trẻ hơn, chiếc
quần thụng như váy đàn bà bị gió tạt chéo hằn lên cặp đùi ống sậy dài ngoẵng. Anh ta
đeo kính cận, tóc xòa xuống che nửa vầng trán rộng mốc thếch” [27,tr.15]. Hay thằng
Tĩnh cũng được nhà văn miêu tả chỉ bằng vài nét vẽ “Nó ngọng nghịu, đôi mắt lồi ra,
mũi chảy thành hai dòng đặc quánh xuống môi. Nó gầy nhỏng, đen xạm” [27,tr.25].
Thằng Hải hiện lên mang dáng dấp của một thanh niên miền quê mười tám tuổi “Ở
tuổi mười tám, người Hải cao, hơi xương xương, hai cánh tay đen xạm vì nắng nổi
lên từng múi cơ thon dài, chắc chắn. Quai hàm hắn bạnh sang hai bên, sống mũi
khoằm, gồ ghề bướng bỉnh”[27,tr.27]. Ngay cả ở ngoại hình, phần nào tính cách của
nhân vật cũng được hé mở. Bào mù không phải nhân vật chính trong truyện thế
nhưng hắn lại có vai trò kết nối các nhân vật khác, hình dáng của hắn cũng ít nhiều
được nhà văn nhắc đến “Bào mù năm nay trạc ba mươi, đầu cắt trọc lốc. Anh ta
không cha mẹ, sống độc thân với cây gậy. Bào nổi tiếng là người bí hiểm, cả về
nguồn gốc lẫn tính nết và cách sinh hoạt. Bị mù bẩm sinh nhưng Bào có đôi tai thính
hơn mức bình thường, có thể nghe được cả những bước chân rón rén cách mình hàng
cây số”[27, tr.107]. Trung vẩu cũng vậy “Mặt như quả đu đủ ngược, chân tay lòng
khà lòng khòng, đã thế răng lại vổ cả hàm trông rất hãm tài” [27,tr.159]. Hay bà Cẩm
hiện lên cũng mang những hình dáng thể hiện phần nào tính cách cũng như công việc
của mụ “Bà Cẩm ục ịch như con lợn sề. Lưng bà ta chẳng khác gì tấm phản, tính
đồng bóng”[27,tr.182] . Như vậy sự bình thường trong ngoại hình của các nhân vật
được nhà văn miêu tả hiện lên rất cụ thể, chân thực. Mỗi người có một đặc điểm riêng
biệt làm nên con người họ. Cả cuốn tiểu thuyết với rất nhiều nhân vật nhưng không ai
giống ai, mỗi người có một đặc trưng riêng trước hết ở ngoại hình.
Bên cạnh những nét vẽ bình thường trong ngoại hình, thế giới nhân vật trong
70
Những đứa trẻ chết già còn được xây dựng bằng những yếu tố dị thường. Trước hết,
điều đó được thể hiện ở sự biến dạng về ngoại hình. Kiểu nhân vật này không còn xa
lạ với độc giả yêu mến văn chương. Người ta có thể bắt gặp nhân vật biến dạng trong
Biến dạng của F.Kafka hay Cụ già với đôi cánh khổng lồ, Trăm năm cô đơn của
G.Marquez… Kiểu nhân vật này cũng xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của các nhà
văn Việt Nam đương đại. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bình Phương xây
dựng các nhân vật thường có một sự khuyết tật, không bình thường nào đó trên cơ
thể. Điều này xuất hiện ở cả những nhân vật đang sống và nhân vật đã chết. Đó là
những nhân vật sinh ra với những khiếm khuyết bẩm sinh như Bào mù, Tiến quắt,
Trung vẩu, Sinh lùn, Quý cụt, Bồi què…Những khiếm khuyết trên cơ thể ấy trở nên
dị dạng và gắn liền với cuộc sống của họ, thậm chí còn trở thành cái tên phân biệt họ
với những người bình thường khác.
Ngoại hình biến dạng làm nên tính chất huyền ảo trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật của Nguyễn Bình Phương. Không dừng lại ở đó, tính chất huyền ảo còn
được thể hiện ở nhữn nét vẽ ngoại hình đầy kì quái của các nhân vật. Bồi còng sợ
hãi khi thấy vợ Trường hấp sau sinh để rồi hắn kể với mọi người “Mắt thị xanh lè,
tóc xoã sượi, da mặt xám ngoét. Lưng còng sát đất, lão Bồi khum khum tay che mặt,
thẽo thợt:
- Nó cười, eo ơi, trông như một con ma, các bác ạ!” [27,tr.9]. Dân làng Phan
kinh ngạc trước sự ra đời của những đứa trẻ con bà giáo. Vừa chào đời, những đứa trẻ
ấy đã mang trên mình những hình dáng kì lạ đến đáng sợ. Cha mẹ sinh ra chúng thế
nhưng chúng lại không giống như những đứa trẻ khác. Đứa con đầu lòng của bà giáo
“Vừa ra đời, đứa trẻ đã gây sự kinh ngạc khắp làng. Nó là trai. Người ta phát hiện ra
rằng con bà giáo có râu. Không những thế, ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng. Đứa
trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét”
[27,tr.51]. Mọi sự hi vọng của gia đình bà giáo dồn vào đứa con thứ hai thế nhưng
đứa trẻ ấy vừa mới sinh ra tóc đã bạc, răng đã ố vàng “ nó ở độ tuổi già của người ba
nhăm, bốn mươi gì đó” [27,tr.52]. Đến thứ con thứ ba cũng không khác hai đứa đầu
là mấy. Nó là con gái nhưng nó vẫn mang bộ mặt già trước tuổi “Lọt lòng được hai
71
ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám” [27,tr.54].
Không chỉ những người trên trần thế được miêu tả bằng bằng pháp huyền ảo
mà ngay cả người chết cũng méo mó, biến dạng đầy ma quái. Đó là cái cái chết của
lão Hạng, lão Biền. Hình ảnh lão Hạng khi chết luôn là nỗi ám ảnh trong lòng độc giả
“Lão đã chết. Khi gỡ lão ra, người ta thấy ngực lão có một vết rạch rộng bằng gang
tay, chỗ rạch ấy áp vào thân cây, cũng đúng chỗ vỏ bị rạch một vết tương tự, khi đặt
lão Hạng xuống đất, người ta phát hiện ra người lão xanh dần, xanh dần như lá cây
già” [27,tr.53]. Hay hình ảnh của lão Biền cũng đầy ma quái, kinh dị “Tại sao chân
lão lại thế này. Lông. Không, chân lão đen tuyền. Nó mọc đầy tóc. Tóc dài lắm. Dài
đến mức rũ xuống và bện thành một lớp dày bọc lấy ống chân. Lão đưa nốt chân kia
lên kiểm tra. Rồi đưa hai cảng tay lên dí sát mắt. Lão rên lên khe khẽ, tuyệt vọng”
[27,tr.110]. “Có một người đàn bà chầm chậm đi từ xa đến. Bà ta bước trên những
mớ tóc, áo người đàn bà đó trắng toát. Bà ta tiến dần đến phía lão. Không phải bà ta
bước nữa, mà nhẩy lóc cóc từng đoạn một. Hai chân bà ta bị bó chặt bằng vải liệm.
Người đàn bà đến trước mặt lão và lão rú lên kinh hãi. Người đàn bà không có mặt.
Mặt bà ta chỉ là một khoảng rỗng đen ngòm. Mớ tóc lòa xòa bay lật phật lật phật”.
“Lão chết, người mọc đầy tóc, không ai nhận ra mặt lão nữa vì tóc đã phủ kín”
[27,tr.113]. Không ai lí giải được tai sao cơ thể lão Biền lại có sự biến đổi kinh di về
hình dáng đến thế? Phải chăng đó là cái giá phải trả cho những lỗi lầm lão gây ra khi
còn sống?
Sự dị thường trong hình dáng còn thấp thoáng ẩn hiện trong những câu thơ
nhại ca dao được cất lên tù những nhân vật kì bí trên chuyến xe trâu:
“ Tráng sĩ lên ba râu dài chấm ngực
Phi con ngựa trắng bạch màu than
Cầm thanh gươm sáng loáng đời han gỉ
Chặt cây cổ thụ mới mọc mầm” [27,tr.81]
Hay cả trong những câu hát của cô gái mà ông ngoại của nhân vật “ông” từng
yếu say đắm, khi bỏ làng vào rừng cô cất lên lời hát buồn thê thảm:
“Ta có người yêu màu đen
Mắt người yêu ta đỏ thẫm
72
Ngón tay chàng tím như hoa dại
Người yêu ta không màu
Người yêu ta trong veo
Ta có người yêu màu đen” [27,tr.127]
Kiểu nhân vật bị biến đổi hình dáng, từ con người bình thường biến thành hình
thù của những thứ khác tồn tại khá nhiều trong tác phẩm. Cô gái bỗng nhiên biến
thành con rắn, hay từ già biến thành trẻ là điều xảy ra hết sức tự nhiên trong Những
đứa trẻ chết già. Mọi chuyện tưởng như hoang đường, khó tin nhưng nó lại thực sự
đang diễn ra trong câu chuyện của nhà văn làm nên màu sắc hiện thực huyền ảo. Bên
cạnh đó, sự pha trộn giữa yếu tố bình thường và dị thường trong ngoại hình còn được
nhà văn xây dựng trên kiểu nhân vật bóng ma. Đó là những hồn ma trở về từ cõi chết.
Hình ảnh người đàn bà đã chết trở về trước cái chết của lão Biền không chỉ là nỗi ám
ảnh của riêng lão “Có một người đàn bà chầm chậm đi từ xa đến. Bà ta bước trên
những mớ tóc, áo người đàn bà đó trắng toát. Bà ta tiến dần đến phía lão. Không phải
bà ta bước nữa, mà nhẩy lóc cóc từng đoạn một. Hai chân bà ta bị bó chặt bằng vải
liệm. Người đàn bà đến trước mặt lão và lão rú lên kinh hãi. Người đàn bà không có
mặt. Mặt bà ta chỉ là một khoảng rỗng đen ngòm. Mớ tóc lòa xòa bay lật phật lật
phật”[27,tr. 87]. Những bóng ma cũng trở về đón cụ Chẩn trở về thế giới bên kia
“Những bóng người chập chờn, họ kiên nhẫn nhìn cụ, không tỏ thái độ xa lạ hay thân
thiết. Những bóng người xếp thành hàng dài, lặng lẽ trôi qua trước mắt cụ. Đầu tiên là
bố cụ, sau đó đến mẹ, rồi hàng loạt anh em khác trong gia đình. Tất cả đều mờ mờ
sau lớp sương trắng trôi vùn vụt” [27, tr.115]. Không chỉ một nhân vật chứng kiến sự
xuất hiện của những hồn mà, dân làng cũng đã từng thấy “hàng đoàn người cụt đầu,
cụt tay đi lén lút khắp các nhà. Những người đó mặc quần áo trắng toát, kẻ có đầu thì
mắt xanh lè, kẻ còn tay thì tai dài thõng thượt” [27, tr.126]. Hay cái bóng của thằng
bé quái dị ở bờ sông Cầu cũng khiến cho Phán và Loan hồn bay phách lạc bởi “Cái
bóng của thằng bé không có mặt. Ở đó chỉ là một cái hốc tối được viền bằng mớ tóc
bám đầy rong rêu” [27,tr.178]. Cuối tiểu thuyết, kiếp trước của Loan trở về với ngoại
hình đầy ma mị với ngón tay trong suốt.
Nhân vật trong Những đứa trẻ chết già được xây dựng bằng bút pháp hiện thực
73
huyền ảo. Thông qua việc miêu tả ngoại hình, Nguyễn Bình Phương đã xây dựng một
hệ thống nhân vật vừa có tính hiện thực lại vừa thể hiện đặc trưng huyền ảo. Người
sống và người chết tồn tại song hành, những điều tưởng như bình thường lại trở nên
dị thường, những thứ dị thường lại được con người chấp nhận như một sự thực vốn
có làm nên một hiện thực cuộc sống phức tạp, hỗn độn.
Cũng giống như Cái trống thiếc của Günter Grass, Những đứa trẻ chết già của
Nguyễn Bình Phương biểu hiện rất rõ đặc trưng hiện thực huyền ảo trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật mà trước hết là sự pha trộn giữa yếu tố bình thường và dị thường.
Thế giới nhân vật trong hai tác phẩm đều được khắc họa bởi cả những điều bình
thường của hiện thực và những điêu dị thường của tưởng tượng. Nếu như Günter
Grass để cho một mình cậu bé Oskar tồn tại bất thường với những điều vô lí ở ngoại
hình không chịu lớn và suy nghĩ của một người trưởng thành thì Nguyễn Bình
Phương lại dựng nên cả một hệ thống những nhân vật dị thường. Điều đó thể hiện cá
tính riêng của hai nhà văn trong việc phản ánh hiện thực.
3.3.2. Sự pha trộn của yếu tố bình thường và dị thường trong tâm lý, tính cách
Oskar không chỉ có một ngoại hình khác thường mà ngay cả suy nghĩ và hành
động của cậu cũng rất khác thường. Oskar có giọng hát diệt-thuỷ-tinh “Tôi có cái
khiếu hủy hoại thủy tinh bằng tiếng hát. Tôi thét vỡ bình hoa. Tôi hát nổ ô kính cửa
sổ cho gió lùa mặc sức” [36, tr.54]. “Ngay từ tiếng thét đầu tiên còn kiềm chế, dè dặt,
tôi đã phá toang cái tủ kính trong đó Hollatz lưu giữ những của lạ gớm chết của ông
ta và làm văng một ô kính gần như vuông xuống sàn nhà lót vải nhựa, ở đó nó tan
thành muôn mảnh mà vẫn giữ nguyên hình cũ” [36, tr.60]. Với khả năng phi thường
ấy, đôi khi tiếng thét kia được dùng làm phương tiện cám dỗ con người vào vòng tội
lỗi. Chương Thời gian biểu, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng duy nhất đến trường,
để ngăn không cho cô giáo lấy đi cái trống của mình, Oskar đã “phóng tiếng thét diệt-
thủy-tinh, phá tan những ô kính trên cùng của ba cái cửa sổ to quá khổ của lớp học.
Tiếng thét thứ hai xóa sổ hàng ô kính ở giữa” [36, tr.72]. Tiếng thét của Oskar chính
là nguyên nhân của biết bao vụ việc xảy ra “Đã đến lúc Oskar phải can thiệp, định vị
cái nguồn sáng ác độc kia và, tiêu diệt nó chỉ bằng một tiếng kêu tầm xa duy nhất,
thậm chí còn trầm hơn cả tiếng vo ve dai dẳng của đàn muỗi” [36, tr.102]. Cùng với
74
tiếng trống quậy phá, tiếng thét của Oskar bao lần làm xáo đảo những cuôc mít tinh “
tôi và cái trống của tôi đã bỏ ối thời gian nấp dưới các khán đài, quan sát những cuộc
biểu tình thành công hoặc không mấy thành công, phá vỡ một số cuộc mít-tinh, làm
cho nhiều diễn giả điên đầu, biến những bài hát ngợi và hành khúc thành cácđiệu van-
xơ và fôc-xt’rốt” [36, tr.111]. “Phải, công cuộc của tôi là hủy hoại. Và những gì cái
trống của tôi không thắng nổi thì giọng tôi diệt nốt” [36, tr.113]. Tiếng thét ấy mở
đầu cho những cám dỗ, tạo điều kiện để con người bị cuốn vào những ham muốn lầm
lạc, trở thành kẻ trộm “Dụ dỗ ăn cắp. Bằng tiếng kêu vô thanh nhất của mình, tôi cắt
một đường tròn trên mặt kính cửa hàng ngang tầm với ngăn bên dưới, gần món hàng
yêu thích. Rồi bằng một nhấn giọng cuối cùng, tôi hích nhẹ cho khoanh kính tròn vừa
cắt rơi vào phía bên trong tủ bày hàng với một tiếng lanh tanh nhanh chóng tắt lịm,
tuy nhiên đó không phải là tiếng thủy tinh vỡ. Oskar đứng ở quá xa không nghe thấy
cái âm thanh đó. Nhưng người thiếu phụ mặc chiếc măng-tô nâu đã sờn và
quàng khăn lông thỏ thì nghe thấy và đồng thời trông thấy cái lỗ tròn; nàng giật thót
người làm chiếc khăn choàng lông thỏ rung rung và sắp sửa định bước đi qua lớp
tuyết nhưng rồi lại đứng sững, có lẽ vì tuyết đang rơi dày hơn và mọi sự đều được
phép khi tuyết đang rơi miễn là tuyết rơi dày. Tuy nhiên,nàng vẫn nhìn quanh,
hoài nghi những bông tuyết, như thể đằng sau những bông tuyết, không phải chỉ
là những bông tuyết khác mà còn có một cái gì khác nữa. Và nàng vẫn còn nhìn
quanh khi rút bàn tay phải ra khỏi chiếc bao tay cũng bằng lông thỏ. Thế rồi nàng thôi
không nhìn quanh nữa và thò tay qua cái lỗ tròn, gạt khoanh kính, vừa rớt trên đối
tượngthèm muốn, và lần lượt rút từng chiếc một của đôi giày da lộn màu đen qua cái
lỗ mà không làm xước gót hoặc cứa tay vào cạnh thủy tinh sắc. Một cái bên trái,
một cái bên phải, đôi giày biến vào trong túi áo măng-tô của nàng” [36, tr.115].
“Thuật dụ dỗ của tôi không phải bao giờ cũng thành công rõ rệt như vậy. Một
trong những tham vọng của tôi là biến một cặp tình nhân (hay vợ chồng) thành
một cặp kẻ trộm” [36, tr.116]. Chính tiếng thét kinh dị của Oskar đã chỉ đường
cho những tội lỗi của con người, trở thành phương tiện cám dỗ con người vào
vòng tội lỗi.
Trong tác phẩm, thái độ, hành động, cách ứng xử của Oskar đối với mọi việc
75
đều cho thấy sự bất thường. Những hành động, thái độ ấy có tác động, chi phối đến
toàn bộ con người cậu mà trước hết không thể không nhắc đến đó chính là thái độ của
Oskar đối với cuốn Rasputin. Oskar không đến trường học như những đứa trẻ cùng
trang lứa, cuốn sách duy nhất mà cậu tôn thờ chính là cuốn Rasputin “Nhưng thôi ta
hãy trở lại với Rasputin. Với sự trợ giúp của Gretchen Scheffler, ông đã dạy tôi cả
vần chữ cái lớn lẫn vần chữ cái nhỏ, dạy tôi biết ân cần với đàn bà và an ủi tôi những
khi Goethe xúc phạm tôi” [36, tr.76]. Cuốn sách ấy như có ma lực lôi cuốn Oskar,
cậu tôn sùng nó hơn bất cứ quyển sách nào khác trên đời. "Với cuốn sách không đóng
của mình, Oskar rút về căn gác xép ở tầng áp mái hoặc nấp sau những khung xe đạp
trong hăng-ga của ông già Heiland, đảo trộn những tờ rời của Rasputin và Những ái
lực chọn lọc như đảo bài tây, tạo thành một cuốn sách mới. Nó ngồi đọc cuốn sách
đặc biệt đó và mỉm cười ngỡ ngàng nhìn theo nàng Ottilie khoác tay Rasputin, yểu
điệu dạo gót qua những khu vườn ở miền Trung nước Đức trong khi Goethe ngồi
cạnh một tiểu thư quý tộc, nàng Olga phóng đãng, phóng xe trượt tuyết qua St.
Peterburg mùa đông, từ cuộc truy hoan này sang cuộc truy hoan khác”[36, tr.80].
Giữa Rasputin và Goethe thì Oskar nghiêng hẳn về phía Rasputin bởi một suy nghĩ
hết sức kì quặc “Nếu mày, Oskar, sống và chơi trống vào thời Goethe, hẳn ông ta sẽ
nghi là mày phản tự nhiên và lên án mày là hiện thân của phản tự nhiên; còn về cái
bản chất tự nhiên quý giá của ông mà, về cơ bản, mày vẫn luôn ngưỡng mộ và cố noi
theo mặc dầu đôi khi nó trương ra những bộ điệu hết sức phản tự nhiên - ông nuôi
dưỡng nó bằng bánh mật ong và nếu ông có để mắt đến mày, đồ quỷ con tội nghiệp,
thì chỉ là để nện lên đầu mày mấy nện bằng cuốn Faust hoặc một cuốn bự trong bộ Lý
thuyết về màu sắc của ông mà thôi” [36, tr.80].
Không chỉ đặt niềm tin một cách thái quá đến kì lạ vào Rasputin. Tính cách dị
thường của Oskar còn thể hiện ở chỗ, cậu ta phủ định hoàn toàn đức tin của con
người vào thiên chúa giáo “Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà thờ này từ buổi lễ rửa tội cho
tôi: đã có tí tranh cãi về cái tên tục người ta đặt cho tôi, nhưng cha mẹ tôi nhất quyết
chọn Oskar và Jan, với tư cách là cha đỡ đầu, cũng tán đồng. Thế rồi Cha Wiehnke
thổi vào mặt tôi ba lần - thấy bảo là để đuổi quỷ Xatăng ra khỏi tôi. Người ta làm dấu
thánh giá, áp bàn tay, rắc muối và thực hiện nhiều biện pháp khác chống Xatăng. Đến
76
miếu đường rửa tội, cả đoàn lại dừng. Tôi đứng yên trong khi người ta đọc kinh
Credo và Cha chúng ta cho tôi. Sau đó, Cha Wiehnke thấy cần phải nói thêm một lần
nữa: Vade retro Satanas (Cút đi, Xatăng) và chạm tay vào mũi, vào tai tôi, những
tưởng làm như thế tức là khai mở các giác quan cho thằng bé Oskar, trong khi nó đã
biết tỏng mọi sự ngay từ đầu. Rồi Cha muốn nghe tôi lớn tiếng trả lời một lần cuối và
Cha hỏi: "Con có khước từ Xatăng không? Và mọi việc làm của nó? Và mọi vẻ lộng
lẫy bề ngoài của nó?" Trước khi tôi kịp lắc đầu – bởi lẽ tôi không hề có ý định khước
từ - bác Jan đã thay tôi nói ba lần: "Con xin khước từ." Mặc dù tôi không nói gì để cắt
đứt quan hệ với Xatăng, Cha Wiehnke vẫn xức dầu thánh lên ngực và giữa hai bả vai
cho tôi. Bên bồn nước thánh, lại kinh Credo một lần nữa, rồi cuối cùng, người ta
nhúng tôi vào nước ba lần, xức dầu thánh lên da đầu tôi, quấn tôi vào một chiếc áo
dài trắng để lấy vết, ban cho bác Jan cây bạch lạp phòng những ngày tăm tối, rồi tiễn
chúng tôi ra về. Matzerath trả tiền, Jan bế tôi ra bên ngoài nhà thờ nơi chiếc taxi đang
đợi trong thời tiết từ quang đến có mây và tôi hỏi tên Xa tăng trong tôi: "Mọi sự ổn cả
chứ?" Xatăng nhảy tâng tâng và thì thào: "Cậu thấy các cửa kính nhà thờ ấy chứ?
Toàn bằng thủy tinh hết, toàn thủy tinh!" [36, tr.124]. Ngay từ đầu, Oskar đã chọn
phe Xa-tăng, níu giữ Xa-tăng lại trong mình như một bản ngã thứ hai của sự tồn tại.
Khi nhìn thấy bức tượng chúa Jêxu trong nhà thờ, Oskar nghĩ “ Bỏ qua cái trò chơi
trẻ con ấy, tôi nhìn kỹ Jêxu và nhận ra hình ảnh của chính mình. Đây có thể là anh em
sinh đôi của tôi: kích thước bằng nhau, chim cũng hệt như nhau hồi ấy chỉ làm độc
một chức năng vòi tưới. Chúa hài đồng nhìn thế giới bằng cặp mắt xanh cô-ban của
tôi (cũng là của Bronski) và - đây là điều làm tôi cáu nhất - bắt chước đúng những cử
chỉ của tôi” [36, tr.225].
Với Oskar, gia đình, tình yêu, tín ngưỡng, tôn giáo đều trở thành đối tượng để
hắn mang ra châm chọc, giễu cợt. Cả những người thân gần gũi với hắn nhất cũng trở
thành đối tượng cho những toan tính của hắn. Người mẹ hắn yêu chỉ vì đã tặng cho
hắn cái trống vào sinh nhật ba tuổi, không ngăn cấm hắn chơi trống, sẵn sàng mua
trống mới cho hắn, rồi hai người cha giả định là Alfred Matzerath và Jan Bronski đều
là những người thân cận, gần gũi với Oskar thì cuối cùng cũng chết vì sự phản bội
của cậu ta. Oskar sẵn sàng bán đứng người thân, bạn bè để thoát thân, thỏa mãn nhu
77
cầu của mình. Phản bội và lật lọng là bản tính của Oskar, điều này được biểu hiện cụ
thể ở chương Băng quét bụi. Oskar dẫn các chiến hữu của mình “bắt đầu thu gom các
tượng về đề tài Giáng sinh từ khắp các nhà thờ trong vùng” [36, tr.323]. Thế nhưng
khi bị cảnh sát bắt thì vị thủ lĩnh ấy lại “vào luôn vai một thằng bé lên ba khóc thút
thít vì bị bọn găngxtơ dụ dỗ. Tôi chỉ muốn được dỗ dành và che chở” [36, tr.327] mặc
cho băng nhóm của mình bị giải đi. Ngay cả khi ở tòa, trong khi những người thuộc
băng quét bụi lần lượt nhảy cầu thì duy nhất chỉ có Oskar “Tôi không nhảy và quý vị
sẽ không bao giờ bắt gặp tôi nhảy hoặc lao đầu xuống từ một tháp nhảy cầu” [36,
tr.331]. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ chững minh cho bản tính tráo trở, lật lọng, phản
bội của Oskar rồi.
Nếu như tiếng thét hủy diệt của Oskar làm nên sự kì lạ đến phi thường thì cái
trống cũng gần như vậy. Cái trống thiếc là món quà Oskar nhận được khi sinh nhật ba
tuổi, cậu đặc biệt thích thú món quà đó- món quà theo cậu suốt cuộc đời. Cái trống
của Oskar chính là nguyên nhân của mọi vấn đề và nó cũng vô cùng đặc biệt. Vì cái
trống mà Oskar quyết định không lớn nữa, vì bảo vệ cái trống mà Oskar phát hiện ra
mình có tiếng thét hủy diệt thủy tinh và cũng cái trống ấy đã gợi lên tất cả những kí
ức mỗi khi cậu gõ vào. Cái trống thiếc ấy đối với Oskar không chỉ là một thứ đồ chơi
bình thường mà nó như một thế lực thần bí tồn tại bên cạnh Oskar và chi phối những
hành động của cậu “Hôm nay tôi đã khua trống suốt cả buổi sáng, hỏi nó xem những
bóng điện trong phòng ngủ nhà tôi là bốn mươi hay sáu mươi oát. Đây không phải lần
đầu tiên tôi đặt ra cho bản thân,cũng như cho cái trống của mình, cái câu hỏi cực kỳ
quan trọng này đối với tôi” [36, tr.35]. Mỗi khi gõ trống có thể khiến Oskar nhớ lại
điều gì đó “Tôi đã phải lấy trống và dùi ra gõ để cố gợi lại trong tâm tưởng hình ảnh
cái bộ ba chỉ thấy lờ mờ trên mảnh giấy cứng hình chữ nhật màu nâu dã phai” [36,
tr.45] bởi lẽ cái trống kia gắn liền với cuộc đời Oskar như một nhân chứng cho cuộc
đời cậu. “Tôi, tôi tìm Ba Lan trên cái trống của tôi. Và đây là lời trống của tôi: Ba
Lan mất nhưng không phải là mãi mãi, tất cả đã mất nhưng không phải mất mãi mãi,
Ba Lan không vĩnh viễn mất” [36, tr.98]. “Thỉnh thoảng tôi mới đánh trống, nhưng đã
đánh, thì đánh to dữ dội, để phản kháng những người qua đường, phần lớn là nữ, cứ
thích dừng lại nói chuyện với tôi, hỏi tên tôi và đưa bàn tay nhơm nhớp mồ hôi vuốt
78
mái tóc ngắn nhưng đẹp và hơi lượn sóng của tôi” [36, tr.170]. “Tôi nhấc, cái trống ra
khỏi bụng mình để cho Jêxu đánh thử. Thận trọng, không làm xước lớp thạch cao
sơn, tôi đặt cái trống sơn đỏ-trắng của Oskar lên cặp đùi hồng của cu cậu. Nhưng lần
này đơn thuần là trò tinh nghịch, tôi đã mất niềm tin ngu xuẩn vào những phép màu,
tôi chỉ muốn cho cu cậu biết tay thôi” [36, tr.307]. “Tôi gõ vài nhịp trống linh họat
nhằm xua tan những suy nghĩ u ám của ông Fajngold” [36, tr.343]. “Điều Oskar
muốn - và đây là chỗ yếu trong lôgích của tôi - là biến Kurt thành một thằng bé đánh
trống mãi mãi ba tuổi, cứ như thể, đối với một thiếu niên có triển vọng, việc tiếp nhận
một cái trống thiếc còn đỡ tởm lợm hơn là thừa kế một cửa hàng tạp hóa có sẵn vậy”
[38, tr.300]. Ngay cả khi đã quyết định chôn cái trống cũng vời người cha giả định
của mình thì cuối cùng Oskar cũng “Tôi mơ về cái kích thước ba tuổi đã mất của
mình. Tôi lại muốn cao chín mươi tư xăng-ti-mét một lần nữa, thấp hơn bạn và thày
Bebra của tôi, thấp hơn Roswitha yêu quý đã ra đi. Oskar nhớ cái trống của mình”
[36, tr.370].”
Cuối cùng, cùng với hình dáng, tiếng thét và cái trống, cuộc đời Oskar được
tóm gọn thành “Tôi còn phải nói thêm gì nữa: ra đời dưới hai bóng điện, chủ tâm
không lớn nữa từ tuổi lên ba, được tặng cái trống, hát vỡ thủy tinh, ngửi mùi va- ni,
ho khù khụ trong nhà thờ, quan sát kiến, quyết định lớn, chôn trống, di tản sang miền
Tây, bỏ miền Đông, học nghề khắc đá, làm mầu vẽ, bắt đầu trở lại đánh trống, thị sát
bê-tông, kiếm tiền, lưu giữ ngón tay, cho đi ngón tay, cả cười mà trốn chạy, lên thang
cuốn, bị bắt, bị kết án, bị tống vào nhà thương điên, chẳng bao lâu nữa sẽ được trắng
án, hôm nay kỷ niệm sinh nhật lần thứ ba mươi và vẫn còn sợ mụ Phù Thủy Đen”
[36, tr.498]. Cuộc đời ấy của Oskar chứa đựng đầy những điều bất thường mà cụ thể
là sự bất thường trong chính con người Oskar.
Như vậy với việc pha trộn giữa yếu tố bình thường và dị thường trong tâm lí,
tính cách của nhân vật Oskar đã phản ánh được một cách sâu sắc hiện thực cuộc sống,
đặc biệt là hiện thực con người trong chiến tranh và sau chiến tranh. Oskar từ chối lớn
lên, muốn quay ngược trở lại bào thai là tiếng nói mạnh mẽ cự tuyệt thế giới xung
quanh giả dối, bạo lực, tàn nhẫn. Oskar lớn lên trong sự bất thường với tư tưởng giễu
cợt đức tin, giễu cợt Jesus, và tôn sùng tư tưởng độc tài Rasputin. Hình ảnh Oskar là
79
hiện thực của tư tưởng nước Đức những năm hậu chiến của thế kỉ 20, dù thua trận, dù
mang vết nhơ của phát xít Hitler, ở nước Đức vẫn xuất hiện những mầm mống đáng
sợ của tư tưởng độc tài mà Grass thấy cần phải ngăn chặn, loại bỏ.
Tương tự như thế, ở tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình
Phương, bên cạnh những nhân vật có sự pha trộn giữa yếu tố bình thường và dị
thường trong ngoại hình còn có sự xuất hiện của kiểu nhân vật mang trong mình sự
bình thường và dị thường trong tâm lí tính cách. Những nhân vật ấy có sự dị thường ở
tâm lí, tính cách kéo theo đó là những suy nghĩ, hành động khó lí giải. Nhân vật trong
Những đứa trẻ chết già là những nhân vật dị dạng về tâm lí, tính cách. Nó thể hiện
ngay ở cái cách mà người ta gọi tên nhân vật. Đó là những người kiểu như Trường
hấp, Sinh lùn, mụ Quản hâm… Chỉ với tên gọi đã phần nào thấy được tính cách của
các nhân vật có gì đó không bình thường.
Trường hấp là gã không cha, không mẹ, không họ hàng. Hắn lấy một người
đàn bà không rõ gốc tích. Dưới con mắt của mọi người “Thi thoảng người ta mới thấy
Trường hấp ra chợ thị trấn mua các thứ lặt vặt, có kẻ hỏi chỉ cúi đầu, cắn môi, cười
ngượng nghịu. Bản tính hắn thế, cái gì cũng chr cười, nụ cười có duyên như con gái
đang gặp trai lơ” [27,tr.6]. Có lẽ, đó chính là lí do mà mọi người cho hắn là hấp.
Trước những lời đồn đại của dân làng, trái với suy nghĩ và hành động của một người
bình thường “Trường hấp không phản ứng trước những lời đồn đại xung quanh. Trái
lại hắn còn phởn chí cuốc bộ ra chợ mua hẳn một cút rượu với nửa cái đùi chó về. Hai
vợ chồng trải chiếu ra sân, mở nhạc cùng nhau uống” [27,tr.8]. Ngay từ khi mới xuất
hiện ở đầu tác phẩm, nhân vật Trường đã hiện lên với sự không bình thường trong
tính cách, tâm lí. Càng về sau, sự không bình thường ấy càng bộc lộ rõ khi nhà văn để
cho độc giả biết được lí do Trường lấy vợ, người vợ là ai? Và thằng Liêm ra đời như
thế nào? Nếu là một người bình thường không bao giờ lại đi lấy em họ của mình làm
vợ. Nếu là người bình thường không ai chấp nhận cho vợ mình ngủ với người khác.
Vậy thì chắc chắn, tâm lí Trường có vấn đề. Gã vì kho báu huyễn hoặc mà bất chấp
tất cả để rồi khi về già, lão phải sống cảnh cô đơn trong chính gia đình mà lão một tay
gây dựng khi mà không được sự lắng nghe và thông cảm từ những người thân trong
gia đình. Cô cháu gái là nguồn động lực duy nhất của cụ vì Loan hay giành đồ ăn cho
80
cụ, lắng nghe những câu chuyện của cụ. Ấy vậy mà, điểm tựa tinh thần cuối cùng ấy
cũng sụp đổ khi càng lớn, Loan càng chán ghét những câu chuyện vô vị của cụ.
Những ngày cuối đời, cụ phải sống trong sự lạnh nhạt, thơ ơ của con cái và sự khinh
bỉ của những đứa cháu.
Hay như nhân vật Sinh lùn lại gây được sự chú ý của độc giả bởi bản tính
chẳng giống ai “Vốn hám hơi đàn ông, thấy ai vừa mắt mình là mụ Sinh cứ lăn xả
vào bằng được… Cũng cần nói thêm, mụ Sinh có thói quen ra sông Linh Nham tắm
bất kể đông hay hè. Mụ cứ nồng nộc vốc nước vã lên người coi thiên hạ như mà hết
cả [27,tr.7]. Mụ Quản hấp cũng được dân làng biết đến là người đàn bà không bình
thường. Mụ là người “phải cái tính hơi dưn dứt, động tid là cười, động tí là khóc. Đôi
khi đang giảng cho bọ trẻ mụ lại ngồi phệt xuống đấtcười nói huyên thuyên làm bọn
trẻ bỏ học hết… Cái tính hâm của mụ cứ theo tuổi tác mà tăng dần” [27,tr.66].
Không chỉ có sự dị thường trong tâm lý, hành động của một số nhân vật trong
Những đứa trẻ chết già cũng thể hiện rõ đặc trưng hiện thực huyền ảo của chủ nghĩa
hậu hiện đại. Đọc tiểu thuyết, chắc hẳn độc giả không thể quên được hình ảnh nhân
vật Bào mù. Bào không may mắn như người khác vì mới sinh ra đã bị mù. Thế nhưng
ở Bào lại có khả năng đặc biệt, đó là có thể cảm nhận cuộc sống qua thính giác.
Chính vì khả năng đặc biệt ấy, Bào đã giúp lão Liêm tránh khỏi bao phen sóng gió.
Bằng đôi tai của mình, Bào đã chỉ cho lão Liêm biết “Đây còn biết đích xác cái kể
đang nhăm nhe âm mưu vào cái làng này” [27,tr.200]. Bào cũng có những cảm nhận
về sự trở về của chuyến xe trâu “Tiếng bánh xe nghiến trong đầu anh ta ngày một
rõ… Bào thấy thấp thoáng hình ảnh một chiếc xe trâu lao vùn vụt qua những dải
sương màu tím nhạt. Trên chiếc xe đó có một đứa bé con và ba người đàn ông…”
[27,tr.23]. Hay Lình cũng là một nhân vật được xây dựng bởi màu sắc huyền ảo. Là
một cô gái bình thường thế nhưng chỉ sau một trận ốm vật vã hai ngày, khi tỉnh dậy
Lình kể “hai ngày đó toàn nghe thấy tiếng xe trâu lạo xạo bên tai mình” [27,tr.194].
Lình cũng thấy “một người đàn ông giống ông Trình như đúc ngồi trên xe với hai
thanh niên trông rất lạ” [27,tr.194].
Bằng lối kể chuyện tự nhiên nhưng cũng không kém phần hài hước, Nguyễn
Bình Phương đã thể hiện được sự dị thường trong tâm lí, tính cách của các nhân vật
81
một cách sinh động và hết sức chân thực, hợp lí. Các nhân vật được bao phủ một màu
sắc bí ẩn. Họ chứa đựng một năng lực kì lạ có thể nhìn thấy những việc mà người
thường không không thể thấy, đồng thời diễn giải nó bằng những tiên đoán đầy mơ
hồ, ma mị.
Có thể thấy, hiện thực huyền ảo được biểu hiện rõ nét trong tiểu thuyết Cái
trống thiếc của Günter Grass và Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương.
Hiện thực huyền ảo được thể hiện đầy đủ thông qua nghệ thuật tổ chức không gian,
thời gian và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Đó là sựu kết hợp của nhiều kiểu không
gian, thời gian khác nhau tạo nên sự đa chiều, đa diện cho tác phẩm. Nhân vật được
xây dựng chủ yếu bằng bút pháp hiện thực huyền ảo với sự thể hiện qua ngoại hình,
qua tính cách khác thường, dị biệt tạo cho tác phẩm sức hấp dẫn, lôi cuốn. Những yếu
tố hiện thực huyền ảo ấy đã góp phần truyền tải ý đồ của nhà văn đó là phản ánh thế
giới với những nhố nhăng, kệch cỡm, bí hiểm và sự bất lực của con người trong thế
82
giới ấy.
KẾT LUẬN
1. Günter Grass là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học hậu hiện
đại Đức nói riêng và nền văn học hậu hiện đại thế giới nói chung. Ông là người có
công lao to lớn đối với nền văn học Đức cũng như văn học thế giới. Bằng tài năng và
những rung cảm sâu sắc trước cuộc đời và con người, G.Grass đã góp phần khẳng
định vị trí và đưa nền văn học hậu hiện đại đạt đến đỉnh cao của văn học nhân loại,
trở thành một trong những nền văn học lớn của thế giới. Nguyễn Bình Phương là một
trong số những nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại Việt Nam. Nguyễn Bình
Phương thông qua những sáng tác của mình đã mang lại làn gió mới cho văn chương
nghệ thuật, đồng thời đưa nên văn học đương đại nói riêng, văn học Việt Nam nói
chung đến gần hơn với các nền văn học lớn trên thế giới.
2. Tiểu thuyết Cái trống thiếc là môt trong những kiệt tác của G.Grass nói
riêng và của nền văn học thế giới nói chung. Tiểu thuyết này ra đời không chỉ khẳng
định tài năng của Grass mà còn góp phần tạo nên thành tựu to lớn của nền văn học
hậu hiện đại thế giới. Với cuốn tiểu thuyết này, một lần nữa Günter Grass đưa nền
văn học Đức đến gần hơn với độc giả trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Là một
trong những kiệt tác của nhân lọai, tiểu thuyết Cái trống thiếc không chỉ phản ánh giá
trị nội dung sâu sắc mà còn là sự thể hiện bậc thời của Günter Grass về bút pháp nghệ
thuật. Về nội dung, cuốn tiểu thuyết này phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống,
hiện thực con người Đức trong thời kì thế chiến và hậu chiến. Đó là hiện thực với đầy
rẫy những điều bất công, vô lý, ê chề, bất lực của con người trước những biến cố lớn
lao của lịch sử. Về nghệ thuật, có thể coi tiểu thuyết Cái trống thiếc là biểu hiện mẫu
mực cho bút pháp nghệ thuật của đặc trưng hậu hiện đại mà cụ thể là ở kết cấu đa
điểm nhìn và hiện thực huyền ảo. Chính những giá trị về nôi dung và nghệ thuât ấy đã
góp phần làm nên thành công của tiểu thuyết Cái trống thiếc cũng như thành công
của tác giả.
Những đứa trẻ chết già là tác phẩm nổi bật của Nguyễn Bình Phương, chưa
đựng nhiều giá trị hiện thưc và nhân đạo sâu sắc khi phản ảnh hiện thực cuộc sống
nhỏ bé của con người hiện đại. Nhà văn đã sử dụng đắc lực những đặc trưng của hậu
83
hiện đại làm nên sự độc đáo, đặc sắc cho tác phẩm của mình.
3. Kết cấu đa điểm nhìn trong tiểu thuyết Cái trống thiếc và Những đứa trẻ
chết già là một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại. Qua tác
phẩm của mình, cả Günter Grass và Nguyễn Bình Phương đã thể hiện thành công đặc
điểm nổi bật của chủ nghĩa hậu hiện đại ấy. Đặc trưng này là một trong nhưng yếu tố
làm nên thành công của hai tác phẩm, giúp cho hai cuốn tiểu thuyết trở thành biểu
hiện mẫu mực về đặc trưng nghệ thuật của nền văn học hậu hiện đại nói riêng và văn
học thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam.
4. Cùng với đa điểm nhìn, hiện thực huyền ảo là đặc trưng được biểu hiện rõ
nét trong hai tác phẩm. Chính sự pha trộn hài hòa giữa yếu tố hiện thưc và yếu tố
huyền ảo của đặc trưng này đã tạo nên sự lôi cuốn, sức hấp hẫn của cuốn tiểu thuyết
đối với độc giả. Đồng thời, hiện thực huyền ảo trong Cái trống thiếc và Những đứa
trẻ chết già đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Có thể nói, tiểu thuyết Cái trống thiếc thành công trước hết là bởi thành công của tác
giả trong việc khai thác thành công đặc trưng hiện thực huyền ảo của chủ nghĩa hậu
hiện đại được thể hiện trong tiểu thuyết này. Tương tự như thế, Những đứa trẻ chết
già sở dĩ gây được tiếng vang lớn trong giới phê bình văn học cũng như để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả có lẽ cũng bởi nhà văn đã sử dụng rất tài các đặc
trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại.
5. Mặc dù ra đời ở hai nền văn học khác nhau, được sáng tác bởi hai nhà văn
khác nhau nhưng Cái trống thiếc và Những đứa trẻ chết già có những điểm tương
đồng khá thú vị khi hai tác giả đều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong
sáng tác văn học. Bên cạnh những điểm giống nhau là sự khác biệt trong nội dung
cũng như cách lựa chọn, sắp xếp các chi tiết, nhân vật làm nên nét độc đáo trong
84
phong cách của Günter Grass và Nguyễn Bình Phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), “Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương”, http://doan.edu.vn/do-an/yeu-to-ki-ao-trong-tieu-thuyet-nguyen-binh-
phuongg-3873/.
2. Thái Phan Vàng Anh, “Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn hậu
hiện đại”, http://phongdiep.net.
3. Thái Phan Vàng Anh, “Trần thuật từ điểm nhìn bên trong ở tiểu thuyết Việt Nam
đương đại”, http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/.
4. Đào Tuấn Ảnh (chủ biên), (2002), Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề
lí thuyết, Nxb Giáo dục.
5. Đào Tuấn Ảnh (2005), Quạn niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện
đại, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8
6. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
7. Lê Huy Bắc (chủ biên) (2003), Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, Nxb Hội Nhà
văn.
8. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Franz Kafka, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Lê Huy Bắc (2009), Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Huy Bắc (2010) “Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo: Đặc điểm, tác giả, tác phẩm”,
http://www.doko.vn/luan-van/khuynh-huong-chu-nghia-hien-thuc-huyen-ao-
116612, trích dẫn 16/2/2015.
11. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
12. Lê Huy Bắc… (tuyển chọn) (2013), Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và thực
tiễn, Nxb Đại học Sư phạn, Hà Nội.
13. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, NxbGiáo dục, Hà Nội.
14. Đoàn Ánh Dương (2008), “Nguyễn Bình Phương- “Lục đầu giang” tiểu thuyết”,
85
Nghiên cứu văn học (4), tr.63-82.
15. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb
Giáo dục.
16. Hoàng Cẩm Giang, Lý Hoài Thu (2013), “Một cách nhìn về tiểu thuyết hậu hiện
đại Việt Nam”, https://phebinhvanhoc.com.vn/mot-cach-nhin-ve-tieu-thuyet-hau-
hien-dai-o-viet-nam/
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Trương Thị Ngọc Hân (2006), “Một số điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương”.
19. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
20. Jean- Francois Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch), Nxb
Tri thức.
21. Cao Kim Lan (2008), “Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R.Scholes và R.
Kellogg’’, Nghiên cứu văn học, (số 10), tr.26-37.
22. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb ĐHSP Hà Nội.
23. Phương Lựu (Chủ biên, 2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
24. Phương Lựu (2011), Lí thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
25. Petrescu Liviu (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại (Lê Nguyên Cẩn dịch),
Nxb ĐHSP, Hà Nội.
26. Đào Cư Phú (2015), “Ảnh hưởng của trào lưu văn học hậu hiện đại Thế giới đến
hành trình sáng tác Nguyễn Bình Phương”, http://vietbao.vn/The-gioi-giai-
tri/Anh-huong-cua-trao-luu-van-hoc-hau-hien-dai-The-gioi-den-hanh-trinh-sang-
tac-Nguyen-Binh-Phuong/2147588519/372/
27. Nguyễn Bình Phương (2013), Những đứa trẻ chết già, Nxb Trẻ.
28. Hồng Thanh Quang (2013), “Bản chất văn học là kí ức”,
http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Ban-chat-van-hoc-la-ky-uc-315377/
29. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới- những vấn đề lý thuyết, Nxb
86
Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (Một số vấn đề lí luận và lịch sử), Nxb ĐHSP
Hà Nội
31. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
32. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2008), Tự sự học phần II, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
34. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2007), Tự sự học phần I, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
35. Trần Đình Sử ( 2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Đh Thái Nguyên.
36. Dương Tường (2002), Cái trống thiếc, Nxb Hội nhà văn.
37. Phạm Xuân Thạch (2006), “Tiểu thuyết như là trạng thái tìm kiếm ý nghĩa của
đời sống”, báo Văn nghệ số 45.
38. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng (2013), Văn học hậu hiện đại: Diễn
giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
40. Phùng Gia Thế (2008), “Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình phương”, Báo Văn nghệ
Trẻ (2&3).
41. Nguyễn Thị Huyền Trang (2012), Huyền thoại trong tiểu thuyết Cái trống thiếc
của Gunter Grass, http://dl.vnu.edu.vn/bitstream/11126/1181/1/02050000863.pdf
42. Nguyễn Quỳnh Trang (2013), “Nguyễn Bình Phương, lặng lẽ như chưa từng xuất
hiện”, http//thethaovanhoa.vn
43. Hoàng Nguyên Vũ (2006), “Một lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương”,
87
http//nld.com.vn/169477poc 1020/mot-loi-di-rieng-cua nguyen-binh-phuong.htm.