ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN MẠNH TƢỞNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM (HÀ NỘI) LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ, THỜI KỲ 1986 – 2005

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2006

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN MẠNH TƢỞNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM (HÀ NỘI) LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ, THỜI KỲ 1986 – 2005

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Ngô Đăng Tri

HÀ NỘI - 2006

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn đƣợc

hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Ngô Đăng Tri.

Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách

quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội ngày 30 tháng 11 năm 2006

Tác giả luận văn Nguyễn Mạnh Tƣởng

3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BCH Ban chấp hành

2. CLB Câu lạc bộ

3. CNXH Chủ nghĩa xã hội

4. GĐVH Gia đình văn hoá

5. HĐND Hội đồng nhân dân

6. HTX Hợp tác xã

7. KH Kế hoạch

8. MTTQ Mặt trận tổ quốc

9. NSVM – GĐVH Nếp sống văn minh - gia đình văn hóa

10. TDTT Thể dục thể thao

11. THPT Trung học phổ thông

12. TNCS Thanh niên cộng sản

13. UBND Uỷ ban nhân dân

14. XHCN Xã hội chủ nghĩa

4

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1

Chương 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TRONG 10 NĂM ĐẦU THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 1996)

1.1. 7

7 10

16

Huyện Gia Lâm và sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá của Đảng bộ Gia Lâm trong những năm 1986 – 1990.......................................................... 1.1.1. Đặc điểm đời sống văn hoá ở Gia Lâm trƣớc đổi mới............................ 1.1.2. Đảng bộ Gia Lâm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá trong những năm 1986 - 1990................................................................................................. 1.2. Sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá của Đảng bộ huyện Gia Lâm giai đoạn 1991 – 1996 ................................................................................................. 1.1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ Gia Lâm ........................................................... 1.1.2. Quá trình chỉ đạo ....................................................................................... Chương 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ®êi sèng v¨n ho¸ 16 20

trong thêi kú ®Èy m¹nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ (1996 – 2005) 2.1. Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về xây dựng đời sống văn hoá từ năm 1996 đến năm 2000.................................................................................. 2.1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ ......................................................................... 2.1.2. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm dƣới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện...................................................................................................... 2.2. Đảng bộ Gia Lâm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa trong những năm 2001 – 2005........................................................................................................... 2.2.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ .......................................................................... 2.2.2. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm dƣới sự chỉ đạo của Đảng bộ ................................................................................................................

Chương 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

31 31 37 52 52 55 75 75 80 84 84 88 92 95 102

3.1. Đánh giá chung về công tác lãnh đạo xây dựng đời sông văn hoá ở Gia Lâm thời kỳ 1986 – 2005...................................................................................... 3.1.1. Những thành tựu cơ bản............................................................................ 3.1.2. Các hạn chế lớn......................................................................................... 3.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra........................................................... 3.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu....................................................................... 3.2.2. Một số vấn đề đặt ra.................................................................................. KẾT LUẬN.............................................................................................................. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ PHỤ LỤC ...............................................................................................................

5

Më ®Çu

1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa, theo nghĩa rộng là bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, bao gồm

các lĩnh vực hoạt động sống của con ngƣời và các dạng thức hoạt động khác

nhau của họ. Theo nghĩa hẹp, đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã

hội và thƣờng đƣợc biểu hiện là đời sống văn hoá tinh thần. Xuất phát từ các nhu

cầu văn hoá của con ngƣời, đời sống văn hoá bao gồm toàn bộ những hoạt động

sản xuất và tiêu thụ, sáng tạo và hƣởng thụ những sản phẩm văn hoá, thông qua

các thiết chế văn hoá và các thể chế văn hoá. Từ đó tạo nên lối sống, nếp sống,

phong tục tập quán... Nhƣ vậy nói đến văn hoá là nói đến những quan hệ tƣơng

tác giữa các yếu tố nói trên.

Theo Hồ Chí Minh, văn hoá đời sống thực chất là văn hoá đời sống mới, với

ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới

đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì có dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng

đƣợc lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới lại đƣợc thể hiện trong lối

sống và nếp sống [47; tr. 197].

Hồ Chí Minh cho rằng: thực hành đời sống mới trƣớc hết là thực hành đạo

đức cách mạng, xây dựng lối sống mới là xây dựng lối sống có lý tƣởng, có đạo

đức. Biết kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá

nhân loại tạo nên lối sống văn minh, tiên tiến. Bao gồm các hoạt động của con

ngƣời nhƣ: ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc. Tính văn hoá ở đây là biết cách ăn, cách

mặc, cách ở... Con ngƣời có văn hoá trong lối sống là phải có một phong cách

sống khiêm tốn, giản dị, trừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động,

quý thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong

quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí thì cởi mở, chân thành, ân cần, tế nhị;

giàu lòng thƣơng yêu, quý trọng con ngƣời; đối với mình thì nghiêm, đối với

ngƣời thì khoan dung, độ lƣợng.

6

Còn xây dựng nếp sống mới là xây dựng nếp sống văn minh, là xây dựng

những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển đƣợc những

thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết,

cái gì mới cũng làm. Cũ mà xấu thì bỏ. Cũ mà không xấu nhƣng phiền phức thì

sửa đổi. Cũ mà tốt thì phát triển thêm. Mới mà hay thì phải làm. Phải bổ sung,

xây dựng thuần phong mỹ tục trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay, cƣới

hỏi...; đồng thời phải chống các hủ tục nhƣ cờ bạc, hút sách... Hồ Chí Minh lƣu ý

xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa đổi, nó

có sức ỳ cản trở ta. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, ngƣời ta có thể cho là xấu; cái

xấu mà quyen, ngƣời ta có thể cho là thƣờng. Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống

phải rất cẩn thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với

cái cũ, lạc hậu. Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu

khó, cẩn thận, khôn khéo, mềm mỏng... Phải dùng biện pháp nêu gƣơng: ngƣời

nêu gƣơng, nhà làm gƣơng, làng làm gƣơng. Nói đi đôi với làm, nếu không,

tuyên truyền giáo dục, xây dựng nếp sống mới khó đạt kết quả [47; tr. 198-199].

Tóm lại xây dựng văn hoá đời sống là công việc chung của cả xã hội, nhƣng

phải bắt đầu từ từng ngƣời, từng gia đình, thì mới có thể thành công.

Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của đời sống văn hoá, Đảng bộ huyện Gia

Lâm hết sức quan tâm xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn nhất là trong thời

kỳ đổi mới từ 1986 đến nay và đã đạt đƣợc một số thành tựu to lớn, tạo điều kiện

thúc đẩy văn hoá - xã hội của huyện ngày phát triển, tăng thêm lòng tin của nhân

dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, góp phần vào công cuộc xây dựng thủ đô Hà

Nội trở thành trung tâm văn hoá, chính trị của cả nƣớc, nơi tạo nên những giá trị

văn hoá cơ bản của dân tộc Việt Nam.

Đi sâu tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về xây dựng

đời sống văn hoá từ năm 1986 đến năm 2005, không những sẽ làm phong phú

thêm những trang sử vẻ vang của Đảng bộ huyện trong công cuộc đổi mới, mà

còn góp phần lý giải rõ hơn nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong xây

dựng đời sống văn hoá của thời kỳ này. Ngoài ra còn có thể đúc rút đƣợc những 7

kinh nghiệm về xây dựng đời sống văn hóa, để phục vụ nhiệm vụ này ở Gia Lâm

hiện nay.

Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ huyện

Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá thời kỳ 1986 – 2005”

làm đề tài cho bản luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng

cộng sản Việt Nam, của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Xây dựng đời sống văn hoá là nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới

đất nƣớc và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Vì vậy vấn đề này

đã đƣợc đề cập trong nhiều công trình với các góc độ khác nhau:

Về sách có: Xây dựng tƣ tƣởng đạo đức lối sống và đời sống văn hoá ở thủ đô

Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc (Nguyễn

Viết Chức chủ biên 2001); Nhận diện văn hoá Việt Nam và sự biến đổi của nó

trong thế kỷ XX (Đỗ Huy 2002); Về xây dựng môi trƣờng văn hoá cơ sở (Văn

Đức Thanh 2004); Xây dựng làng văn hoá ở đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ công

nghiệp hoá - hiện đại hoá (Đinh Xuân Dũng 2005); Văn hoá mục tiêu và động

lực của sự phát triển xã hội (Nguyễn Văn Huyên 2006)...

Về các bài trong tạp chí có: Phong trào xây dựng làng văn hóa ở huyện Đông

Anh (Nguyễn Thu Hạnh –Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội số 6 -2005); Cuộc

vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn quận Hoàn

Kiếm (Phƣơng Lan - Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội số 6 -2005); Thƣ viện

huyện Gia Lâm đổi mới phƣơng thức hoạt động, nâng cao hiệu quả phục vụ bạn

đọc (Nguyễn Văn - Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội số 6 -2005); Cuộc vận

động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn quận Hoàn

Kiếm (Phƣơng Lan- Tạp chí văn hóa thông tin Hà Nội 2005); Muốn văn hóa dân

tộc phát triển thì văn hóa Đảng phải đi đầu (Nguyễn Khoa Điềm – Tạp chí Xây

dựng đời sống văn hóa 2005)...

8

Báo cáo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về xây dựng đời sống văn hóa có: Báo

cáo thực hiện công tác văn hóa (1986-1989); Báo cáo tổng kết công tác văn hóa

– xã hội (1989-1991); Báo cáo đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI về

công tác văn hóa - xã hội (1991-1996); Báo cáo công tác văn hóa nhiệm kỳ

(1996-2001); Báo cáo tổng kết cuộc vận động toàn dân đàon kết xây dựng đời

sống văn hóa (2001-2005)...

Các tài liệu trên đều ít nhiều đề cập đến vấn đề xây dựng đời sống văn hoá

trên cả nƣớc và ở Hà Nội nói chung, Gia Lâm nói riêng thời kỳ 1986 – 2005, tuy

nhiên cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào trình bầy một cách hệ thống sự

lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về xây dựng đời sống văn hoá

một cách toàn diện, cả những thành công và những tồn tại, cũng nhƣ các kinh

nghiệm của Đảng bộ huyện Gia Lâm trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm

vụ xây dựng đời sống văn hoá thời kỳ này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

+ Làm rõ quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của Đảng bộ Gia Lâm

từ năm 1986 đến năm 2005.

+ Trình bầy các phong trào xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân Gia Lâm

dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện.

+ Nêu lên những thành tựu, hạn chế của việc xây dựng đời sống văn hóa ở Gia

Lâm thời kỳ này.

+ Rút ra những kinh nghiệm góp phần vào xây dựng đời sống văn hóa ở Gia

Lâm hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: của luận văn là các chủ trƣơng lãnh đạo của Đảng bộ

huyện Gia Lâm về xây dựng đời sống văn hóa và phong trào nhân dân Gia Lâm

xây dựng đời sống văn hóa theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện chủ yếu

là trên các mặt: xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối sống mới, xây dựng nếp

sống mới.

- Phạm vi nghiên cứu:

9

+ Về nội dung chủ yếu đề cập tới sự lãnh đạo của Đảng bộ Gia Lâm về xây

dựng đời sống văn hóa, nhất là trên các mặt xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối

sống mới, xây dựng nếp sống mới.

+ Về thời gian luận văn nghiên cứu các vấn đề trong thời gian từ 1986 đến

2005, tức là thời kỳ đổi mới, qua các Đại hội Đảng bộ từ khóa XIV (1986) đến

khóa XVIII (2005).

+ Về không gian là trên địa bàn huyện Gia Lâm, một huyện ngoại thành Hà

Nội, có vị trí khá đặc biệt về văn hóa xƣa cũng nhƣ nay.

5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:

Luận văn đƣợc tiến hành trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm đƣờng lối của Đảng cộng sản Việt

Nam về công tác văn hoá nói chung và việc xây dựng đời sống văn hoá nói

riêng, đặc biệt là quan điểm về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc.

Những cơ sở lý luận, các quan điểm nói trên là kim chỉ nam cho tác giả trong

quá trình sƣu tầm, giám định tƣ liệu và phân tích đánh giá những sự kiện, đƣa ra

các kinh nghiệm lịch sử.

- Nguồn tƣ liệu để thực hiện luận văn là:

+ Một số văn kiện của Đảng, của Thành ủy Hà Nội và các bài nói, bài viết của

Hồ Chí Minh.

+ Các văn kiện Đại hội của Đảng bộ huyện Gia Lâm từ 1986 đến 2005 và các

báo cáo thƣờng kỳ của Huyện ủy, UBND, Phòng văn hóa thông tin huyện.

+ Các sách chuyên khảo, các tạp chí, đặc biệt là các tƣ liệu phỏng vấn trực tiếp

ở địa phƣơng.

- Phƣơng pháp nghiên cứu:

Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phƣơng pháp lịch sử,

phƣơng pháp lôgíc và sự kết hợp giữa hai phƣơng pháp đó, ngoài ra còn sử dụng

một số phƣơng pháp khác. 10

6. Đóng góp của luận văn

+ Cung cấp những tƣ liệu cơ bản về quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn

hóa của Đảng bộ Gia Lâm từ năm 1986 đến 2005.

+ Trình bầy một cách có hệ thống chủ trƣơng, sự lãnh đạo của Đảng bộ Gia

Lâm về công tác xây dựng đời sống văn hoá trong thời kỳ 1986 – 2005 và những

phong trào xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân Gia Lâm thời kỳ đó.

+ Nêu lên những kinh nghiệm lịch sử góp phần vào công tác xây dựng đời

sống văn hoá hiện nay của huyện Gia Lâm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chƣơng, 6

tiết:

Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN

HOÁ TRONG 10 NĂM ĐẦU THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 1996)

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (1996 – 2005) Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

11

Chương 1

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TRONG 10 NĂM ĐẦU THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 1996) 1.1. Huyện Gia Lâm và sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá của Đảng

bộ Gia Lâm trong những năm 1986 – 1990

1.1.1. Đặc điểm đời sống văn hoá ở Gia Lâm trước đổi mới

*Đặc điểm tự nhiên

Gia Lâm là một huyện ngoại thành, nằm ở phía đông Bắc thủ đô Hà Nội,

phía tây giáp với tỉnh Hƣng Yên, phía bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh và huyện Đông

Anh. Nơi đây có hai con sông lớn chảy qua đó là sông Hồng và sông Đuống,

hàng năm lƣợng nƣớc sông lên xuống theo mùa tạo điều kiện thuận lợi cho việc thâm canh, phát triển trồng trọt, với tổng diện tích đất tự nhiên là 175,4 km2,

trong đó diện tích đất đai màu mỡ thích hợp với trồng cây lƣơng thực, tổng số

8.400 ha đất trong đó có 6.400 ha đất canh tác trong đồng và 2.000 ha đất canh

tác ngoài bãi.

Về khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết trong năm chia thành hai mùa rõ rệt:

mùa hè thì nóng, mƣa nhiều, mùa đông thì giá rét, mƣa ít, luôn biến đổi thất

thƣờng theo mùa, theo từng năm... Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 23,900c, lƣợng mƣa trung bình hàng năm vào khoảng 1,250 – 1,87mm, lƣợng

mƣa không đều trong tháng cũng nhƣ hàng năm.

Gia Lâm là một huyện có nhiều ao, hồ tự nhiên phân bố khắp các xã, thị trấn.

Hệ thống ao hồ này vừa tạo môi trƣờng cảnh quan sinh thái cho huyện vừa là nơi

tƣới, tiêu nƣớc khi mƣa và là nơi dự trữ nƣớc cung cấp cho mùa màng. Do yêu

cầu đô thị hóa nhanh, nên nhiều nơi ao hồ bị san lấp lấy đất xây dựng đã phá vỡ

cảnh quan sinh thái cũng nhƣ làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tác động đến cấu

trúc văn hóa – xã hội của cƣ dân trong huyện.

Do nằm ở trung tâm đồng Bằng sông Hồng, nên cấu trúc địa chất của Gia Lâm

không phúc tạp, đã tạo địa hình huyện tƣơng đối bằng phẳng và đơn giản hơn

12

nhiều so với các huyện khác trong thành phố. Huyện Gia Lâm có nhiều đƣờng

giao thông quan trọng đi vào thủ đô Hà Nội và từ Hà Nội đi ra cả nƣớc, tạo nên

sự giao lƣu kinh tế, văn hóa, xã hội rộng rãi.

*Đặc điểm đời sống văn hóa- xã hội

Là huyện có 31 xã và 4 thị trấn, dân số tƣơng đối đông với gần 40 vạn ngƣời

tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn. Nhân dân Gia Lâm gắn liền với sản xuất

nông nghiệp là chính. Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, tốc độ đô thị hóa

ngày càng nhanh, một bộ phận nông dân đã tham gia các hoạt động buôn bán,

dịch vụ, thủ công mỹ nghệ nhƣ; gốm Bát Tràng, dƣợc liệu Đình Xuyên, Ninh

Hiệp, nuôi bò sữa Phù Đổng, may da, dát vàng Kiêu Kỵ, nuôi tằm trồng dâu Lệ

Chi... Ngoài ra còn một số cƣ dân ở nơi khác đến làm việc trong các khu công

nghiệp, nhà máy trên địa bàn huyện với số lƣợng tƣơng đối lớn làm cho đời sống

văn hóa xã hội trong huyện Gia Lâm cũng có nhiều thay đổi. Với những điều

kiện trên đã tạo cho Gia Lâm có thêm tiềm năng lao động lớn, có khả năng đáp

ứng nhu cầu sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, từ đó cũng nẩy sinh

nhiều vấn đề phức tạp nhƣ: giải quyết lực lƣợng lao động dôi dƣ, lao động nhàn

dỗi trong nhân dân có diện tích đất canh tác phải chuyển đổi mục đích sử dụng

hay những nơi không có nghề phụ, cùng với sự giao thoa văn hóa do ngƣời lao

động ở nơi khác đến đây làm việc và sinh sống...

Đi cùng với văn hóa Thủ đô Hà Nội, văn hóa phong tục tập quán ở Gia Lâm

đƣợc hình thành trên nền tảng văn minh nông nghiệp lúa nƣớc. Trên địa bàn

huyện nhân dân chủ yếu theo tôn giáo đa thần (nhƣng phần lớn là theo Phật

giáo), ngoài ra còn có một số tôn giáo khác nhƣ đạo thiên chúa với 7 xứ họ đạo

với số giáo dân không đáng kể. Nhân dân trong huyện luôn đoàn kết, gắn bó với

nhau giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn cũng nhƣ khi gia đình hàng xóm làng

giềng có việc vui, buồn, ít có sự khác biệt với các vùng dân cƣ. Là địa bàn giàu

truyền thống lịch sử văn hóa, với những di tích lịch sử lâu đời nổi tiếng trong cả

nƣớc nhƣ; đền Gióng (xã Phù Đổng), đền Bà Tấm (xã Dƣơng Xá), khu di tích

13

đền làng Phú Thị (xã Phú Thị), chùa Báo Ân xã (Dƣơng Quang)... còn công trình

kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên do sự phát triển kinh tế gắn với truyền thống nông nghiệp lúa nƣớc

nên không thể tráng khỏi những tâm lý khép kín, thiếu chủ động, ít cởi mở trong

các quan hệ xã hội hay còn cục bộ địa phƣơng chủ nghĩa từ đó đã để lại những

hạn chế, cần khắc phục trong công tác xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của

huyện Gia Lâm.

Truyền thống hiếu học là một thế mạnh của huyện, từ xƣa đã xuất hiện nhiều

làng khoa bảng nổi tiếng cả nƣớc nhƣ làng Phú Thị (xã Phú Thị), Kim Sơn (xã

Kim Sơn), Bát Tràng (xã Bát Tràng)... đã có nhiều tiến sỹ, với tổng số 42 ngƣời

tính từ thời Lý đến thời Nguyễn. Hiện nay truyền thống hiếu học đó luôn đƣợc

nhân dân trong huyện phát huy, hàng năm số học sinh đỗ đại học, cao đẳng ngày

càng tăng, có nhiều ngƣời giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan của

Trung ƣơng và Hà Nội với trình độ thạc sỹ, tiến sỹ, phó giáo sƣ, giáo sƣ... đã góp

phần tô đậm truyền thống hiếu học của nhân dân huyện nhà.

Bên cạnh truyền thống hiếu học, nhân dân Gia Lâm còn có truyền thống yêu

nƣớc sâu sắc đã có từ hàng nghìn năm nay đƣợc phát huy trong mọi hoàn cảnh.

Gần đây nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nơi đây là an

toàn khu của xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ƣơng với địa danh tiêu biểu xã Trung

Mầu... Đó là những yếu tố tạo nên truyền thống văn hóa, niềm tự hào của quê

hƣơng, đất nƣớc góp phần phát triển huyện Gia Lâm trở thành huyện công

nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Đảng bộ huyện Gia Lâm, là Đảng bộ đƣợc hình thành từ rất sớm đã lãnh đạo

nhân dân hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng của dân tộc. Ngày 7/1//1961

Ban thƣờng vụ thành ủy Hà Nội ra nghị quyết chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ

huyện Gia Lâm gồm 25 đồng chí do đồng chí Nguyễn Nhâm làm bí thƣ. Nhân

dân Gia Lâm đã phấn khởi đi bầu cử HĐND huyện khóa I ngày 20/8/1961, tiếp

đến từ ngày 10 đến 12 tháng 1 năm 1962 huyện Gia Lâm đã tiến hành Đại hội

Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ I với 136 đại biểu... 14

Từ đó các hoạt động và tổ chức trong Đảng bộ không ngừng đƣợc củng cố và

nâng cao để chỉ đạo tập trung vào các mũi nhọn nhằm phát triển kinh tế, ổn định

đời sống văn hóa – xã hội của nhân dân trên địa bàn.

Với những điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội đã tạo nên cho Gia Lâm nhiều

thế mạnh để vững bƣớc tiến vào công cuộc đổi mới. Song còn vấp phải những

hạn chế, đặc biệt là trong công tác xây dựng đời sống văn hóa mới trên địa bàn

huyện.

1.1.2. Đảng bộ Gia Lâm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa trong những

năm 1986 - 1990

Để đƣa đất nƣớc nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng, khó khăn, Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 – 1986) đã đề ra đƣờng lối đổi

mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội. Tháng 10 năm

1986, Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ X đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ

xây dựng văn hoá mới ở Thủ đô là: “Xây dựng con ngƣời mới có trình độ giác

ngộ XHCN, có kỹ thuật và nghiệp vụ, khôi phục và phát huy truyền thống tốt

đẹp của ngƣời Hà Nội, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và quản lý kinh

tế, quản lý xã hội, xây dựng nếp sống mới, khắc phục những tiêu cực xã hội;

nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân” [19; tr. 59]

Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ƣơng và Thành phố, Đại hội đại biểu huyện

Gia Lâm lần thứ XIV đã họp từ ngày 12 đến ngày 16- 9- 1986 với 347 đại biểu

chính thức. Đại hội đã bầu 39 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ huyện. Đồng

chí Lƣơng Ngọc Cừ đƣợc bầu làm bí thƣ, đồng chí Nguyễn Thanh Vân đƣợc bầu

làm phó bí thƣ huyện uỷ.

Đại hội đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ

XIII (1983 – 1986) cho rằng giai đoạn 1983 – 1986, Đảng bộ đã đạt đƣợc một số

kết quả lớn trong lãnh đạo các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhân dân trong huyện

tin tƣởng vào đƣờng lối của Đảng, tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện,

nên đã vƣợt qua mọi khó khăn để vƣơn lên thực hiện thắng lợi các chủ trƣơng do

Đảng bộ đề ra. 15

Sau khi đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của

huyện trong nhiệm kỳ qua, Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần XIV đã đề ra

các các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của huyện là “Xây dựng huyện Gia Lâm

thành huyện tiên tiến của thủ đô, có cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, tiến tới

là huyện công – nông – nghiệp” [16; tr. 103].

Để đạt đƣợc mục tiêu chủ yếu đó, Đại hội đã nêu lên các nhiệm vụ cụ thể cần

phải thực hiện là:

+ Giải quyết việc làm cho ngƣời lao động, bảo đảm những yêu cầu cấp thiết

về đời sống, nhất là những nhu cầu tối thiểu về lƣơng thực, thực phẩm cho bữa

ăn của nhân dân, cải tiến cơ cấu bữa ăn và cách ăn uống cho hợp lý và tiện lợi.

+ Bố trí hợp lý cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện bao gồm công nghiệp, nông

nghiệp, dịch vụ và kinh tế đối ngoại.

+ Phát triển mạnh sản xuất lƣơng thực và thực phẩm, trên cơ sở bảo đảm nƣớc

tƣới tiêu, phân bón, thuốc trừ sâu; thực hiện tốt chỉ thị 100/TW của Ban bí thƣ

Trung ƣơng Đảng, hoàn thiện khoán sản phẩm đến ngƣời lao động, củng cố và

hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từng bƣớc cơ giới hoá và bƣớc đầu

điện khí hoá nông thôn, thực hiện các chính sách khuyến khích sản xuất phát

triển.

+ Đƣa ngƣời lao động đi các vùng kinh tế mới ở Lâm Đồng, giải quyết số

lƣợng lao động dƣ thừa trên địa bàn toàn huyện.

+ Nâng cao chất lƣợng hoạt động khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hoá, y tế,

thể thao, xây dựng con ngƣời mới có trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có kỹ

thuật và nghiệp vụ, khôi phục và phát huy truyền thống tốt đẹp của ngƣời Hà

Nội, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và quản lý kinh tế, quản lý xã hội,

xây dựng nếp sống mới, khắc phục những tiêu cực xã hội, nâng cao đời sống văn

hoá của nhân dân.

+ Đặc biệt Đại hội đã chú ý đến việc xây dựng các quan hệ xã hội, quan hệ

văn hoá, xây dựng nếp sống mới trong tập thể, trong lao động kỷ luật, trật tự, tôn

trọng pháp luật, tích cực đấu tranh xoá bỏ tàn dƣ văn hoá phong kiến thực dân tƣ 16

sản, bài trừ mê tín dị đoan và chống các hủ tục khác. Xây dựng quan hệ lành

mạnh có văn hoá giữa con ngƣời với nhau, giảm dần và tiến tới xoá bỏ các hiện

tƣợng tiêu cực trong xã hội.

Bƣớc vào thực hiện nhiệm vụ của mình, Đảng bộ Gia Lâm cùng cả nƣớc bƣớc

vào công cuộc đổi mới trong tình hình kẻ thù bên ngoài đang ngấm ngầm phá

hoại về nhiều mặt, còn trong nƣớc thì kinh tế – xã hội bị khủng hoảng trầm

trọng. Những hậu quả của chính sách giá - lƣơng – tiền tác động trực tiếp đến đời

sống hàng ngày đến đời sống nhân dân trên toàn huyện.

Mặc dù vậy dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, với quyết tâm đồng lòng

cùng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đã đặt ra trong kỳ Đại hội. Huyện uỷ đã

tập trung lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là trong sản xuất nông

nghiệp. Đi đôi với việc thâm canh tăng vụ, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ

thuật vào đồng ruộng, sử dụng các loại phân chuồng, phân vô cơ nhƣ đạm, lân,

Kali, NPK, bón vôi khử chua cho đất. Do đó đã có năng xuất lúa tăng từ 8-9

tấn/1ha nhƣ xã: Cổ Bi, Trâu Quỳ, Đa Tốn, Dƣơng Xá, Giang Biên.

Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XV đƣợc tiến hành từ ngày 20 đến 21

tháng 1 năm 1989 với 298 đại biểu chính thức. Đại hội đã bầu 37 đồng chí vào

Ban chấp hành Đảng bộ huyện, đồng chí Lƣơng Ngọc Cừ đƣợc bầu làm bí thƣ,

đồng chí Lê Quý Đôn đƣợc bầu làm phó bí thƣ huyện uỷ. Đại hội đã đánh giá kết

quả thực hiện văn kiện Đại hội lần thứ XIV (1986 - 1989) của Đảng bộ huyện

là: hơn hai năm qua trong hoàn cảnh phức tạp và khó khăn lớn, tình hình kinh tế

– xã hội của huyện có những chuyển biến mới và đạt kết quả tích cực. Những

thành tựu đã đạt đƣợc so với mục tiêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của

Đảng bộ huyện là rất quan trọng. Tình hình kinh tế – xã hội trong toàn huyện

đang trên đà chuyển động tích cực, an ninh chính trị và an toàn xã hội đƣợc giữ

vững, Đảng bộ Gia Lâm đã bƣớc đầu đổi mới tƣ duy và phong cách thể hiện rõ

vai trò lãnh đạo của mình, củng cố thêm lòng tin của dân đối với Đảng. Tuy

nhiên còn gặp phải những hạn chế nhƣ: công tác lãnh đạo và chỉ đạo còn nhiều

đảng viên còn chậm đổi mới tƣ duy nhất là tƣ duy kinh tế, vận dụng và ứng dụng 17

những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp chƣa tốt. Chƣa đổi mới cách làm và

phƣơng thức phục vụ sản xuất nông nghiệp nhƣ: phân bón, thuốc trừ sâu, tƣới,

tiêu, làm cho nông dân không đồng tình.

Nhƣng với sự giúp đỡ, chỉ đạo của Thành uỷ, UBND, các ban ngành, đoàn

thể Thành phố, Đƣợc sự lãnh đạo, hƣớng dẫn của Đảng bộ Gia Lâm chúng ta đã

khắc phục những hạn chế đó và thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội XIV

đề ra.

Đại hội này Đảng bộ huyện Gia Lâm đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng

sự thật để từ đó đề ra phƣơng hƣớng, nhiệm vụ, kế hoạch cho 3 năm tiếp theo

1989 – 1991 là: “Xây dựng huyện Gia Lâm có cơ cấu kinh tế nông công nghiệp

hợp lý, là vành đai thực phẩm của thành phố tiếp tục thực hiện 5 mục đích cơ

bản của Đại hội XIV nhằm giải quyết hai vấn đề cơ bản việc làm và đời sống

nhân dân” [17; tr. 104].

Trƣớc yêu cầu đòi hỏi bức thiết của công cuộc đổi mới, việc nâng cao trình độ

lý luận và chuyên môn của cán bộ chủ chốt từ huyện đến cơ sở đƣợc Huyện uỷ

đặc biệt chú trọng. Trong 2 năm 1989, 1990 huyện đã mở hai lớp bồi dƣỡng về

quản lý nhà nƣớc và pháp luật cho 205 đồng chí, hoàn thành hai lớp lý luận trung

cấp cho 233 đồng chí, cử 11 đồng chí đi học lớp bồi dƣỡng do Trung ƣơng và

Thành phố mở. Từ các hoạt động lãnh đạo, xây dựng trong thực tế, Ban chấp

hành Đảng bộ huyện từng bƣớc đổi mới nội dung và phƣơng pháp sinh hoạt,

thực hiện dân chủ công khai, nâng cao trách nhiệm cá nhân trƣớc tập thể. Nhƣng

nhìn chung, những năm này “sự vƣơn lên của đội ngũ cán bộ đảng viên, của tổ

chức chính trị xã hội, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới. Có một số cán bộ

đảng viên nhận thức chƣa đầy đủ giữa dân chủ và tập trung, giữa dân chủ và kỷ

cƣơng pháp luật; nếp nghĩ và cách làm còn bảo thủ, trì trệ, cục bộ, trong đó một

1 Báo cáo đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong 3 năm qua (1987-1989). Lƣu tại văn phòng Huyện uỷ, phòng 1, mục lục 1, HS 471.

số cán bộ lợi dụng tính công khai dân chủ kích động quần chúng, gây bè phái, mất đoàn kết... Nhiều chi bộ chƣa xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo” 1 .

18

Hệ thống chính trị của huyện đƣợc củng cố và kiện toàn, để đáp ứng yêu cầu

của công cuộc đổi mới nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo. Đảng bộ huyện Gia

Lâm đã tập trung chủ yếu vào viêc làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực và

sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đấu tranh chống tham nhũng theo chỉ thị

19 của thƣờng vụ Thành uỷ.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ năm từ 1986, UBND huyện đã tổ chức sắp

xếp thành hai loại hình chi bộ gồm; chi bộ không trực tiếp sản xuất tổ chức theo

địa bàn cụm dân cƣ, gồm các đảng viên phi sản xuất nông nghiệp. Chi bộ trực

tiếp sản xuất gồm các đảng viên trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1989,

phong trào này đã phát triển đạt đƣợc nhiều kết quả nhƣ: có 131 cơ sở Đảng,

trong đó có 35 cơ sở Đảng bộ xã và thị trấn với 469 chi bộ; 49 cơ sở Đảng bộ cơ

quan xí nghiệp Trung ƣơng với 393 chi bộ; 16 cơ sở Đảng bộ xí nghiệp thành

phố với 55 chi bộ; 31 chi bộ, Đảng bộ cơ quan thuộc huyện. Sau 3 năm thực hiện

chỉ thị 16 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng, chỉ thị 19 của thƣờng vụ Thành uỷ,

các tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên bƣớc đầu phát huy đƣợc vai trò

lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ

huyện trong việc đổi mới cơ chế quản lý và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. “Đến

1989 trong tổng số 131 cơ sở Đảng trực thuộc thì đơn vị vững mạnh chiếm 28,2%, khá 33,5%, trung bình 35,2%, yếu kém 3,0%” 2.

Ngoài công tác xây dựng Đảng thì các đoàn thể quần chúng trong nhân dân là

công việc quan trọng luôn luôn đƣợc Đảng bộ huyện quan tâm chỉ đạo; nhƣ Mặt

trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... đã dần dần đổi mới nội dung và

phƣơng thức hoạt động. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều lúng túng, bất cập

chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới.

Do sự đình trệ của sản xuất và kinh doanh trong quá trình chuyển đổi cơ chế

đã tác động trực tiếp đến nhiều mặt văn hoá - xã hội làm cho các tệ nạn xã hội có

chiều hƣớng gia tăng, đời sống văn hoá, tinh thần của một bộ phận nhân dân bị 2 . Báo cáo đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong 3 năm qua (1987-1989). Lƣu tại văn phòng Huyện uỷ, phòng 1, mục lục 1, HS 471. 19

xuống cấp. Trƣớc tình hình đó, huyện uỷ chỉ đạo phòng văn hoá thông tin tích

cực đẩy mạnh hoạt động văn hoá đến thôn xóm thông qua đài truyền thanh

huyện với nhiều tiết mục, hoạt động văn hóa của nhân dân, những gƣơng “Ngƣời

tốt, việc tốt”, “Lao động sản xuất giỏi”, “Đoàn viên giỏi”...

Trong điều kiện kinh tế, xã hội bị khủng hoảng, sự nghiệp “trồng ngƣời” vẫn

đƣợc huyện uỷ, UBND huyện hết sức quan tâm chỉ đạo. Từ đó ngành giáo dục

huyện đã khắc phục một bƣớc khó khăn về cơ sở vật chất giảng dạy, nỗ lực phấn

đấu thi đua “hai tốt”.

Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân đƣợc huyện rất chú ý, dân số - kế

hoạch hoá gia đình là nhiệm vụ trọng tâm của huyện. Huyện đã đầu tƣ nhiều

phòng khám bệnh, mở rộng và củng cố mạng lƣới y tế cơ sở, bổ sung thêm cán

bộ y tế. Do vậy đến cuối năm 1990, tỷ lệ sinh là 2,05%, trong đó số ngƣời sinh

con thứ 3 trở lên giảm xuống 15% dƣới mức thành phố giao.

Thực hiện nghị quyết 02 của Bộ chính trị, chỉ thị 135 của Hội đồng bộ trƣởng

trong tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, việc giữ gìn an ninh, quốc

phòng cũng bị ảnh hƣởng. Đứng trƣớc yêu cầu đó Huyện uỷ đã chỉ đạo ngành

công an, quân đội giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng

quốc phòng toàn dân vững mạnh. Các lực lƣợng công an, toà án, kiểm sát, thanh

tra đã phối hợp khá đồng bộ, đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm kinh tế,

các tệ nạn xã hội; quản lý đô thị, xây dựng các cụm dân cƣ an toàn, đơn vị an

toàn trong huyện và liên kết với các tỉnh bạn ở những xã giáp ranh, phát động

phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, trật tự an toàn xã hội, thực hiện

tự quản trong các cụm liên gia ngõ xóm, tổ đội công tác.

Đảng bộ huyện Gia Lâm còn lãnh đạo xây dựng công tác bảo vệ trật tự an

toàn, bảo vệ an ninh thôn xóm. Theo quyết định số 1589 của UBND thành phố

lực lƣợng an ninh quốc phòng chuyển thành lực lƣợng dân phòng. Thực hiện chủ

trƣơng này thì huyện đã thành lập 35 tổ dân phòng đƣợc thành lập và hoạt động

ở 35 xã thị trấn, đạt đƣợc nhiều kết quả, hoạt động trấn áp tội phạm diễn ra

mạnh, thu hồi cho nhà nƣớc gần 2 tỷ đồng từ các vụ án kinh tế, tham nhũng, 20

buôn lậu. Đã xuất hiện các xã điển hình nhƣ: thị trấn Yên Viên, xã Ngọc Thuỵ,

xã Long Biên, Dƣơng Quang đƣợc thành phố đánh giá cao tại hội nghị “Phát

động quần chúng và xây dựng lực lƣợng an ninh cơ sở”.

Công tác văn hoá, xã hội là công việc thƣờng xuyên và liên tục của Đảng bộ

huyện và Đảng bộ cơ sở. Huyện uỷ đã thực hiện chỉ thị số 07 của thƣờng vụ

Thành uỷ để xây dựng phong trào nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Sau đó

phong trào này đã đƣợc xây dựng và phát triển ở 35 xã, thị trấn. Việc đầu tƣ

nâng cao mức sống và các sinh hoạt hàng ngày của nhân dân là công việc quan

trọng, huyện đã đầu tƣ 1,2 tỷ đồng đƣờng liên xã, 4 tỷ đồng đƣờng liên thôn. Bên

cạnh đó hệ thống điện cũng đƣợc hoàn chỉnh ở các xã và thị trấn đã làm cho bộ

mặt nông thôn và đời sống văn hoá của nông dân đƣợc nâng cao thêm một bƣớc.

Trong lúc này công tác xã hội trên địa bàn huyện nổi lên một vấn đề nóng

bỏng đó là vấn đề giải quyết việc làm chƣa đƣợc nhƣ nghị quyết đƣa ra, nhiều

ngƣời vẫn chƣa có việc làm, đã làm nẩy sinh nhiều tệ nạn xã hội nhƣ; cờ bạc,

rƣợu chè, mại dâm, ma túy ... đời sống của cán bộ công nhân viên, lực lƣợng vũ

trang, học sinh, sinh viên, xã viên hợp tác xã gặp nhiều khó khăn. Đứng trƣớc

tình hình nhƣ vậy Huyện uỷ, UBND chỉ đạo các cấp, các ngành, nhất là ngành

thƣơng nghiệp và thƣơng binh – xã hội vận dụng linh hoạt, kịp thời các chính

sách của nhà nƣớc và thành phố, đảm bảo phân phối đủ hàng định lƣợng và tiền

lƣơng, tiền bù giá cho công nhân viên, giải quyết tốt chính sách cho cán bộ, quân

nhân nghỉ hƣu, nghỉ mất sức hay thanh niên, những ngƣời chƣa có việc làm đƣợc

tuyển chọn vào các xí nghiệp, đi thanh niên xung phong, đi vùng kinh tế mới

Lâm Đồng, đi lao động hợp tác, vào các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp.

Sau 5 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, trong hoàn cảnh vô cùng

khó khăn, phức tạp, Đảng bộ và nhân dân Gia Lâm vẫn kiên định vững vàng, ra

sức khắc phục khó khăn, từng bƣớc đƣa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Trên chặng đƣờng đổi mới, trong bƣớc đi ban đầu, những tồn tại những yếu kém

của huyện Gia Lâm là không thể tránh khỏi. Những kết quả đầu tiên, dù còn nhỏ

21

bé song để từ đó Đảng bộ Gia Lâm rút ra những kinh nghiệm lãnh đạo nhân dân

thực hiện công cuộc đổi mới trong những năm tiếp theo.

1.2. Sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá của Đảng bộ Gia Lâm giai

đoạn 1991 – 1996

1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Gia Lâm về xây dựng đời sống văn hoá

thời kỳ 1991 – 1996

Công cuộc đổi mới đã đƣa đất nƣớc ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng

đi vào ổn định và phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng Cộng

sản Việt Nam và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XI,

Đảng bộ Gia Lâm đã lãnh đạo nhân dân tiếp tục bƣớc vào thực hiện kế hoạch 5

năm 1991-1996. Trong tình hình nền kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nƣớc vẫn

tiếp tục bị khủng hoảng, các thế lực bên ngoài đẩy mạnh hoạt động diễn biến hoà

bình trong khi Mỹ tiếp tục cấm vận. Trong nƣớc, một số phần tử phản động thừa

cơ ngóc đầu dạy chống đối chính quyền.

Trong hoàn cảnh nhƣ vậy, dƣới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Thành ủy, Đại hội

Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVI đã họp từ ngày 6 đến 9 tháng 9 năm 1991

với 248 đại biểu chính thức. Đại hội đã bầu 33 đồng chí vào BCH Đảng bộ

huyện, đồng chí Lƣơng Ngọc Cừ đƣợc bầu làm bí thƣ, đồng chí Hoàng Đạt đƣợc

bầu làm phó bí thƣ. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI mang tinh thần “trí tuệ,

đổi mới, dân chủ, kỷ cƣơng, đoàn kết”, đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết

Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ huyện nhƣ sau:

Trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp, Đảng bộ Gia Lâm tập trung chỉ

đạo theo Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, sản xuất nông nghiệp bảo đảm đƣợc

diện tích và cơ cấu cây trồng. Sản lƣợng lƣơng thực bình quân 2 năm (1989 –

1990) đạt 48.012 tấn, tăng bình quân 6,6% năm. Năm 1989 là năm đạt năng suất

sản lƣợng cao nhất: 49.467 tấn. Đã chú trọng cây vụ đông, đặc biệt là cây ngô

trên đất 2 vụ lúa, để có sản lƣợng 11.000 tấn ngô. Bình quân lƣơng thực đầu

ngƣời nông nghiệp là 349,4kg/năm. Kết quả sản xuất lƣơng thực đã đạt kế hoạch

so với mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XV đề ra. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị

22

về đổi mới cơ chế khoán tới hộ và ngƣời lao động đang đi vào thực tiễn cuộc

sống ngƣời nông dân.

Đảng bộ Gia Lâm, UBND huyện đã quan tâm đầu tƣ cơ sở hạ tầng để phục vụ

cho học sinh và nhân dân nhƣ xây 14 trƣờng phổ thông cơ sở cao tầng và sửa

chữa trƣờng lớp hết 3 tỷ 048 triệu đồng. Các xã và thị trấn củng cố nâng cấp

đƣờng giao thông liên xã dài 36 km. Sự đóng góp này kết hợp cùng với nhân dân

nhƣ Thạch Bàn, Gia Thuỵ, Cổ Bi, Trâu Quỳ, Đa Tốn, Yên Thƣờng, Thƣợng

Thanh... Trên địa bàn toàn huyện đã đầu tƣ hoàn chính hệ thống điện.

Đƣợc sự quan tâm của Đảng bộ huyện, các hoạt động đầu tƣ cho công tác văn

hoá, công tác giáo dục, y tế đƣợc đẩy mạnh. “Mức hƣởng thụ văn hoá của nhân

dân đƣợc nâng lên một bƣớc. Sự nghiệp giáo dục đã khắc phục khó khăn về cơ

sở vật chất. Số lƣợng học sinh đến lớp trên 55.000 em đảm bảo nghị quyết Đại

hội XV đề ra. Công tác y tế tập trung vào tăng cƣờng chăm sóc sức khoẻ ban đầu

cho nhân dân. Việc thực hiện chƣơng trình y tế và chƣơng trình dân số và kế

hoạch hoá gia đình là việc làm quan trọng của các cấp từ Huyện uỷ đến chi bộ từ

đó đã làm cho tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm dƣới 15%, đƣợc thành phố đánh

giá là huyện có phong trào khá. “Hoạt động văn hóa xã hội hơn hai năm qua có

nhiều tiến bộ đáng kể góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn hiện nay”[14; tr.

6].

Xây dựng Đảng là việc làm thƣờng xuyên và quan trọng của Đảng cộng sản

Việt Nam, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã thực hiện các nhiệm vụ nhƣ vậy. “Công

tác xây dựng Đảng đã bƣớc đầu thực hiện đƣờng lối đổi mới, trong tổ chức và

sinh hoạt Đảng ta phát huy dân chủ và trí tuệ của đảng viên nhất là việc bầu cử

lựa chọn đội ngũ cán bộ của Đảng”[14; tr. 17].

Đại hội lần này Đảng bộ huyện Gia Lâm đã nhìn lại những việc đã làm đƣợc

và những việc còn tồn tại, yếu kém sau khi chuyển hẳn sang hạch toán kinh

doanh XHCN để đề ra nhiệm vụ, mục tiêu phát triển trong 5 năm tiếp theo từ

1991 đến 1996: Xây dựng Gia Lâm ổn định về chính trị, phát triển đông bộ về

kinh tế – xã hội, đáp ứng xu hƣớng đô thị hoá; giữ vững và phát huy danh hiệu 23

“Đảng bộ vững mạnh” trên cơ sở phát triển sản xuất hàng hoá, phục vụ nhu cầu

tiêu dùng và xuất khẩu. “Lấy phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

giàu mạnh là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó sản xuất lƣơng thực thực phẩm là

chính” [16; tr. 119].

Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm đã đề ra các mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu

trong 5 năm 1991- 1996 là:

1. Mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu

a. Mục tiêu cơ bản: Xây dựng Gia Lâm ổn định về chính trị, phát triển đồng

bộ về kinh tế – xã hội, đáp ứng xu hƣớng đô thị hoá trong những năm tới. Giữ

vững và phát huy danh hiệu “Đảng bộ huyện vững mạnh” trên cơ sở đẩy mạnh

phát triển sản xuất hàng hoá, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Lấy phát

triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn giàu mạnh làm nhiệm vụ trọng tâm.

b. Nhiệm vụ chủ yếu: tập trung giải quyết việc làm bằng con đƣờng phát

triển sản xuất trong các thành phần kinh tế, chăm lo đời sống của nhân dân. Phát

triển nông nghiệp toàn diện theo hƣớng thâm canh tăng vụ, tăng nông sản hàng

hoá, đẩy mạnh kinh tế gia đình theo hƣớng VAC và phát triển nghề thủ công.

Phát triển phong phú các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đẩy mạnh các hoạt

động của các ngành văn hoá, xã hội nhằm nâng cao dân trí trong nhân dân. Làm

tốt nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Xây dựng cơ qua, xí nghiệp thôn xã, thị trấn

vững mạnh về chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đổi mới và tăng cƣờng sự lãnh

đạo của tổ chức đảng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ đảng viên, phát huy hiệu lực

quản lý nhà nƣớc về quyền làm chủ của nhân dân. [14; tr. 19].

2. Công tác xây dựng Đảng

Tiếp tục đổi mới tƣ duy, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính

trị, đổi mới một bƣớc cơ bản nội dung và phƣơng thức lãnh đạo của Đảng bảo

đảm dân chủ, giữ gìn kỷ cƣơng, tăng cƣờng đoàn kết thống nhất trong Đảng làm

trong sạch và nâng cao chất lƣợng, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, khắc

phục có hiệu quả các hiện tƣợng tiêu cực, tệ tham nhũng và nâng cao lòng tin

của nhân dân với Đảng. 24

Đi vào thực hiện cùng các nhiệm vụ trên, Đảng bộ Gia Lâm rất quan tâm chú

trọng đến các lĩnh vực khác nhƣ; xây dựng và phát triển kinh tế, lƣu thông hàng

hóa, an ninh quốc phòng... để hỗ trợ cho công tác xây dựng đời sống văn hóa

mới trong thời gian này.

Đặc biệt, Đảng bộ huyện rất quan tâm lãnh đạo công tác văn hoá - xã hội của

nhân dân trên địa bàn nhƣ: chăm lo hƣớng dẫn để mọi ngƣời tự giải quyết việc

làm, chú trọng các đối tƣợng chính sách, bằng cách tổ chức những lớp dạy nghề

của huyện, khuyến khích ngƣời có nghề nghiệp chuyên môn giỏi tổ chức lớp học

để thu hút thanh niên học nghề và tự tìm việc làm.

Đa dạng hoá các hoạt động của các ngành văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,

sự nghiệp truyền thanh phải bám sát nhiệm vụ chính trị hƣớng đƣợc nội dung

hoạt động vào việc nâng cao dân trí, xây dựng và phát triển gia đình có nếp sống

văn hoá mới, chống các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, tệ nạn xã hội trong nhân

dân. Chống văn hoá phẩm đồi truỵ.

Tăng cƣờng công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân, động viên nhân dân tập

thể dục. Tổ chức tốt câu lạc bộ thể dục tuổi già cho các đồng chí cán bộ hƣu trí ở

các xã và thị trấn. Rèn luyện thân thể đi đôi với việc đẩy mạnh công tác vệ sinh

phòng bệnh. Đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện sinh đẻ có kế hoạch trên cơ

sở làm tốt 3 biện pháp (giáo dục, hành chính, kinh tế) để năm 1995 tỷ lệ sinh đạt

1,7%.

Đảng bộ huyện Gia Lâm rất coi trọng công xây dựng Đảng, xây dựng hệ

thống chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tinh thần làm chủ của

quần chúng. Để từng bƣớc nâng cao dân trí, đời sống tinh thần, vật chất của nhân

dân ngày càng khấm khá hơn.

Mặc dù tình hình kinh tế – xã hội trong nƣớc cũng nhƣ tình hình của huyện

Gia Lâm thời kỳ này còn gặp không ít khó khăn, nhƣng với sự năng động, sáng

tạo, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo Huyện uỷ, UBND huyện Gia Lâm đã lãnh

đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội XVI Đảng bộ huyện

đã đề ra. Nhất là trong công tác xây dựng đời sống văn hoá mới đã đạt đƣợc kết 25

quả đáng mừng, đánh dấu bƣớc đi vững chắc của ngành văn hoá Gia lâm sau đổi

mới.

1.2.2. Quá trình chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá của Đảng bộ Gia Lâm

từ 1991 – 1996

Bƣớc vào thời kỳ 1991 – 1996 chúng ta có nhiều thuận lợi do kết quả bƣớc

đầu của công cuộc đổi mới của Đảng mang lại. Các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã

hội của đất nƣớc và thủ đô đã có bƣớc phát triển. Đại bộ phận quần chúng nhân

dân tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với những thuận lợi ấy thì chúng

ta cũng gặp không ít những khó khăn. Do sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mới. Từ

đó mà đời sống của nhân dân cũng gặp những khó khăn trong một số bộ phận

nhƣ: công nhân viên chức, các đối tƣợng chính sách.

Với tinh thần tự lực tự cƣờng, đặc biệt đƣợc sự chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ

và sự hỗ trợ trực tiếp của Thành phố, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã lãnh đạo nhân

dân vững bƣớc đi trên con đƣờng đổi mới, hoàn thành tốt các mục tiêu chủ yếu

về kinh tế – văn hoá , xã hội mà Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI đề ra.

Từ những chuyển biến và thành tựu của nền kinh tế, là nhân tố cơ bản tạo nên

sự khởi sắc của đời sống văn hoá xã hội của nhân dân Gia Lâm trong thời gian từ

1991 đến 1996.

Công tác xây dựng Đảng: các cấp uỷ từ huyện đến cơ sở luôn đặt nhiệm vụ

đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Chi bộ yếu kém đƣợc

tập trung củng cố, khắc phục bằng những biện pháp cụ thể, chi đảng bộ khá trở

thành chi đảng bộ vững mạnh. Những đảng viên sai phạm nguyên tắc điều lệ

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc bị xử lý nghiêm minh, trong 5 năm

1991-1995, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã xử lý, kỷ luật 458/461 đảng viên sai

phạm; khiển trách 176 ngƣời, cảnh cáo 195 ngƣời, cách chức 21 ngƣời, khai trừ

66 ngƣời ra khỏi Đảng. Bên cạnh đó Đảng bộ huyện Gia Lâm luôn chú trọng mở

các lớp bồi dƣỡng lý luận, pháp luật, chuyên môn cho các cán bộ, đảng viên từ

huyện đến cơ sở, nhất là đảng viên ở các xã để nâng cao trình độ, năng lực lãnh

đạo.

26

Chất lƣợng tổ chức cơ sở Đảng đã đƣợc nâng cao hơn trƣớc, đảng viên loại 1

và 2 tăng lên, đảng viên loại 3 và 4 giảm từ 16,8% năm 1991 xuống 6% năm

1995, số chi đảng bộ vững mạnh năm 1995 chiếm 27,7%.

Công tác cán bộ là một việc làm quan trọng, để xây dựng một xã hội mới, thì

yếu tố cán bộ đã đƣợc Đảng bộ Gia Lâm đặc biệt chú trọng. Nhằm từng bƣớc trẻ

hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu của

Đảng. Thực hiện chỉ thị 24/CT-TƢ của Thành uỷ, việc phát triển đảng viên của

các cơ sở đảng ở Gia Lâm có tăng lên. Năm 1995, số đảng viên mới tăng gấp 2,8

lần 1991, đạt mục tiêu Đại hội XVI đề ra.

Uỷ ban nhân dân từ huyện tới cơ sở đã phát huy vai trò điều hành và tổ chức

thực hiện có kết quả nghị quyết của Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án cải cách

hành chính, sắp xếp kiện toàn tổ chức các phòng ban thuộc UBND huyện đƣa

nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc vào thực tiễn của huyện cho phù

hợp, đạt hiệu quả trên nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội. Đặc biệt các đoàn thể quần

chúng của huyện cũng đổi mới nội dung và phƣơng thức hoạt động theo tinh

thần nghị quyết 8B của Ban chấp hành Trung ƣơng (khoá VI), thực hiện đƣờng

lối đổi mới của Đảng. Đảng bộ Gia Lâm luôn gắn liền việc phát triển văn hoá với

kinh tế, chính trị và công bằng xã hội.

Hoạt động văn hóa – xã hội: Trƣớc năm 1991, cơ sở vật chất của trƣờng học

trong huyện vẫn còn đơn sơ, các phòng học cấp 4 là chủ yếu. Tình trạng học 3 ca

hầu nhƣ vẫn có ở tất cả các trƣờng trong huyện, đã ảnh hƣởng không nhỏ tới chất

lƣợng dạy và học của giáo viên và học sinh. Thực hiện nghị quyết của Huyện uỷ,

HĐND, UBND quyết tâm xoá bỏ tình trạng trên. Cùng với sự đầu tƣ giúp đỡ của

Thành phố và sự đóng góp của nhân dân trong huyện để xây dựng cơ sở vật chất

phục vụ cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn ngày một tốt hơn. Tính bình quân 5

năm (1991 -1995), số vốn đầu tƣ của huyện về xây dựng trƣờng lớp chiếm

24,3% trong tổng số vốn xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện, 57% phòng học

đƣợc xây dựng và trang bị tốt hơn. Cuối năm 1995 huyện đã hoàn toàn phổ cập

đƣợc cấp I, 17 xã, thị trấn phổ cập cấp II làm cho chất lƣợng giáo dục đƣợc nâng 27

lên. Huyện Gia Lâm là huyện duy nhất của Thành phố đƣợc nhà nƣớc tặng

“Huân chƣơng lao động” về thành tích giáo dục, 52 trƣờng đƣợc công nhận là

trƣờng tiên tiến, 284 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện và

thành phố. Ngành giáo dục huyện có 4 giáo viên đƣợc nhà nƣớc tặng danh hiệu

Nhà giáo ƣu tú là: Lƣu Văn Thanh, Nguyễn Văn Lợi, Bùi Văn Tuyên, Hoàng Thị

Quý. Đạt đƣợc kết quả nhƣ trên là do có sự phấn đấu không ngừng của Đảng bộ

và nhân dân Gia Lâm trong việc thực hiện chủ trƣơng chính sách của Đảng và

Nhà nƣớc góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục của Thủ đô.

Trƣớc 1991, các cơ sở văn hoá trên địa bàn huyện còn nhiều thiếu thốn,

không đảm bảo cho các sinh hoạt tập thể, đời sống của cán bộ làm văn hoá còn

nhiều khó khăn, các phong trào hoạt động văn hoá mang tính tự túc, tự nguyện

nên chƣa phát huy đƣợc yếu tố tích cực của nhân dân vào việc xây dựng các

phong trào văn hoá thành phong trào xây dựng đời sống văn hoá. Mức đầu tƣ

cho các hoạt động văn hoá còn ít, hầu nhƣ các xã không có điểm văn hoá, bƣu

điện văn hoá xã, các câu lạc bộ không đủ sức thu hút sự tham gia của quần chúng

nhân dân, nhiều tệ nạn xã hội còn tồn tại nhƣ; mê tín, dị đoan, cờ bạc, mại dâm...

đã là những vấn đề nhức nhối đối với Đảng bộ và chính quyền trên địa bàn Gia

Lâm.

Thực hiện nghị quyết của Thành uỷ lần XI, Huyện Gia Lâm lần XVI, công tác

xây dựng văn hoá mới đã có nhiều thay đổi. Đến cuối 1995 có 100% số xã, thị

trấn có điện thoại, bƣu điện khu vực, văn hoá - văn nghệ truyền thống đƣợc khôi

phục và khởi sắc, nhiều phong trào đã có đóng góp lớn tạo nên những hoạt động

mang tính tập thể thu hút nhiều ngƣời tham gia, điển hình là phong trào thi “Hát

ru” của Hội phụ nữ huyện. Huyện đã xây dựng đƣợc các trung tâm văn hoá, các

cụm văn hoá liên kết trở thành nòng cốt trong các hội thi của huyện và thành phố

nhƣ: Đức Giang, Gia Lâm, Yên Viên, Ninh Hiệp, Đa Tốn, Dƣơng Xá, Dƣơng

Quang... Từ việc hình thành các cụm văn hoá, các trung tâm văn hoá đã giúp cho

việc nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, nâng cao trình độ nhận thức, giúp

28

cho công tác tuyên truyền các chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nƣớc đƣợc thuận lợi và dễ dàng hơn.

Việc xây dựng đời sống văn hoá mới là công việc chung của toàn xã hội,

nhƣng phải bắt đầu từ từng ngƣời, từng gia đình. Huyện đã thực hiện chủ trƣơng

của Thành uỷ là “xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa”, “xây dựng gia

đình văn hoá mới” đƣợc triển khai xuống cấp cơ sở, coi đó là nhiệm vụ trọng

tâm và rất quan trọng vì “... gia đình có ý nghĩa rất quan trọng góp phần phát

triển lực lƣợng sản xuất ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hoá

dân số, giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức, văn hoá tốt đẹp của dân tộc”

[5; tr. 8].

Với vị trí, vai trò quan trọng nhƣ vậy phong trào xây dựng nếp sống văn minh,

gia đình văn hoá, xây dựng nông thôn mới, tích cực bài trừ mê tín dị đoan, tệ nạn

xã hội, mại dâm... làm trong sạch đời sống của khu dân cƣ, khu phố, làng xóm là

việc làm thƣờng xuyên và liên tục của nhân dân trên địa bàn huyện. Đến cuối

năm 1995 có tới 66% gia đình trong huyện đạt danh hiệu “gia đình văn hoá”,

80% đƣờng giao thôn nông thôn huyện đƣợc cải tạo và nâng cấp, đƣờng làng,

ngõ xóm đƣợc “bê tông hoá” góp phần tạo cho bộ mặt nông thôn huyện ngày

một khang trang, đổi mới.

Với sự phát triển năng động về kinh tế, là cửa ngõ phía bắc đi vào thủ đô Hà

Nội, nên số lƣợng ngƣời đến địa bàn huyện Gia Lâm sinh sống và đi lại ngày

một đông, các tệ nạn xã hội có chiều hƣớng phát triển nhƣ: ma tuý, mại dâm, cờ

bạc... đã đang len lỏi vào ngõ xóm của từng gia đình. Đặc biệt là tệ nghiện hút, tệ

mại dâm đã làm sói mòn đạo đức, suy thoái xã hội, phá vỡ những giá trị văn hoá

truyền thống, gây tác hại sấu đối với xã hội. Đứng trƣớc vấn đề đó Huyện uỷ đã

có sự chỉ đạo đối với ngành công an tăng cƣờng vận động, tuyên truyền, lập hồ

sơ đƣa những đối tƣợng nghiện ma tuý đi cai nghiện, ký cam kết đối với hộ gia

đình đây cũng là một tiêu chuẩn để xây dựng gia đình văn hoá. Đối với tệ nạn

mại dâm chủ yếu phát triển trên khu vực thị trấn Yên Viên, Đức Giang, Gia

Lâm, đƣờng Nguyễn Văn Cừ, đã đƣợc chính quyền, các ngành đoàn thể tổ chức 29

các buổi họp để ký cam kết không tổ chức, môi giới mại dâm đối với các nhà

hàng, nhà nghỉ, các bến xe... bên cạnh đó ngành công an còn thực hiện việc kiểm

tra thƣờng xuyên các hoạt động của nhà hàng, nhà nghỉ đƣa hàng trăm đối tƣợng

gái mại dâm đi bồi dƣỡng nhân phẩm, giáo dục để trở thành ngƣời có ích cho xã

hội. Trong 5 năm (1991-1995) huyện Gia Lâm thực hiện chỉ thị 135/HĐBT với

13 đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm có 2.423 đối tƣợng bị bắt giữ, hàng

chục chủ chứa gái mại dâm, nghiện hút, cờ bạc bị xử lý. Phong trào quần chúng

bảo vệ an ninh tổ quốc gắn với việc thực hiện 9 giải pháp phòng ngừa theo

chƣơng trình 05 của Thành uỷ, với phong trào thực hiện nếp sống văn minh, gia

đình văn hoá, triển khai thực hiện pháp lệnh “bảo vệ bí mật nhà nƣớc”, có 35

cụm liên kết an toàn trong huyện với các huyện của tỉnh bạn, các hộ an toàn và

khu liên gia an toàn tiếp tục đƣợc duy trì hoạt động có hiệu quả. Mô hình tự quản

“Tổ liên gia an toàn” ở xã Ngọc Thuỵ đƣợc mở rộng ra toàn huyện do đó có

64.000 bản đăng ký “Gia đình an toàn” đƣợc phát cho các gia đình trong huyện.

Hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã thành công nhƣng cũng để lại

hậu quả nặng nề đối với đất nƣớc. Huyện Gia Lâm là huyện có đối tƣợng chính

sách thuộc loại cao trong cả nƣớc. Thực hiện chủ trƣơng của Thành uỷ, Đảng bộ

và chính quyền rất quan tâm đầu tƣ cho các đối tƣợng này, các hoạt động thiết

thực nhƣ; nhận phụng dƣỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, bố mẹ liệt sĩ,

thƣơng binh, ngƣời già neo đơn... ngoài ra huyện đã đầu tƣ cho công tác xã hội

nhằm xoá bỏ tình trạng không có nhà để ổn định đời sống của nhân dân.

Công tác chăm sóc gia đình thƣơng binh, liệt sĩ, ngƣời có công với nƣớc,

ngƣời già cô đơn, tàn tật, trẻ mồ côi... luôn đƣợc huyện uỷ chỉ đạo các cấp, các

ngành quan tâm thực hiện. Trong 5 năm (1991 – 1995) đã có 6 xí nghiệp và 8

HTX thủ công nghiệp, dịch vụ nhận đỡ đầu, chăm sóc 25 bố mẹ liệt sĩ, cô đơn, 5

thƣơng binh nặng và 118 con liệt sĩ neo đơn, phụng dƣỡng suốt đời 21 bà mẹ

Việt Nam anh hùng, 74 gia đình liệt sĩ neo đơn đƣợc cấp nhà, nhiều thƣơng binh

đƣợc cấp nhà. Huyện đã xây dựng 91 ngôi nhà trị giá gần 1,9 tỷ đồng và trao số

30

tiết kiệm trị giá gần 4 tỷ đồng cho thƣơng binh, thân nhân liệt sĩ và các đối tƣợng

chính sách xã hội khác.

Hoạt động xây dựng đời sống văn hoá mới có vai trò rất lớn đối với cá nhân,

Huyện Gia Lâm là huyện có phong trào thể dục, thể thao mạnh. Các phong trào

này là hoạt động vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội sâu sắc. Tập trung

hoạt động chủ yếu là các buổi sáng và các ngày nghỉ nhƣ; câu lạc bộ cầu lông,

câu lạc bộ dƣỡng sinh, câu lạc bộ bóng đá, câu lạc bộ bóng bàn... thu hút đông

đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Do sản xuất phát triển, nhiều ngành nghề đƣợc mở rộng, đến 1995 về cơ bản

đã ổn định đƣợc việc làm cho công nhân viên, xã viên, Huyện uỷ chỉ đạo các

cấp, các ngành giải quyết đƣợc trên 5.000 lao động trong độ tuổi.

Hoạt động của các đoàn thể nhân dân: dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ

huyện Gia Lâm, UBND huyện. Hội nông dân huyện Gia Lâm vận động nông dân

thực hiện có kế hoạch các phong trào thi đua sản xuất giỏi, xoá đói, giảm nghèo,

xây dựng nông thôn mới. Hội giúp nông dân vay vốn từ quỹ quốc gia, vay vốn

ngân hàng đầu tƣ để phát triển kinh tế VAC, kinh tế hộ gia đình với các ngành

nghề mới trong nông thôn; trồng dâu nuôi tằm, nuôi bò sữa, cá lồng, lợn nạc, chế

biến dƣợc liệu, phát triển nghề thủ công truyền thống mang tính hàng hoá ngày

càng cao.

Đƣợc sự chỉ đạo của Đảng bộ, UBND xã, Hội nông dân huyện Gia Lâm, Hội

nông dân xã Dƣơng Quang đã giúp đỡ cho vay vốn để sản xuất, nâng cao đời

sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm tăng thu nhập cho các hộ xã viên. Các

hộ nông dân vay tiền đầu tƣ chủ yếu để; làm đậu, phát triển chăn nuôi lợn, nuôi

gà công nghiệp là chính. Từ chỗ những gia đình phải đi vay của Hội nông dân xã

đều thuộc hộ có kinh tế khó khăn đến chỗ đời sống ổn định và bắt đầu phát triển,

đã trả đƣợc vốn đúng thời hạn cho nhà nƣớc. Song song với việc cho vay vốn

của nhà nƣớc nhân dân trong xã còn giúp nhau vay vốn để mở rộng sản xuất, thể

hiện tình làng nghĩa xóm, quan hệ cộng đồng sâu đậm. Từ đó đã tạo nên một

31

phong trào xây dựng, phát triển sản xuất và các quan hệ tình cảm trƣớc kia đƣợc

đổi mới và kế thừa truyền thống.

Dƣới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, Hội phụ nữ huyện đã có nhiều hoạt động

tham gia góp ý cho cấp uỷ và chính quyền, đảm bảo cho phụ nữ tham gia quản lý

Nhà nƣớc ở các ngành, các cấp. Thực hiện quyết định số 163/HĐBT Hội phụ nữ

huyện đã vận động chị em thực hiện tốt chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của

nhà nƣớc nhƣ; kế hoạch gia đình, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3, luật hôn nhân và gia

đình, chính sách hậu phƣơng, quân đội, tham gia tích cực các phong trào; mẹ

khoẻ, con ngoan, hat ru, đền ơn đáp nghĩa, giúp nhau giống, vốn làm kinh tế...

Hội phụ nữ xã Dƣơng Quang đã cho chị em vay vốn để đầu tƣ, phát triển sản

xuất, chủ yếu đầu tƣ cho phát triển các nghề phụ nhƣ; chăn nuôi, làm đậu để gia

đình hội viên dần ổn định cuộc sống, góp phần đáng kể vào việc xoá đói giảm

nghèo trên địa bàn xã. Hoạt động của Hội phữ nữ xã đƣợc sinh hoạt định kỳ

hàng tháng để vận động chị em tham gia nhƣ; câu lạc bộ chăm sóc sức khoẻ gia

đình, câu lạc bộ gia đình văn gia đình văn hoá mới... Hàng quý có những buổi

nói chuyện của các chuyên gia về vấn đề giới và chăm sóc sức khoẻ chị em.

Với sự quan tâm của Đảng bộ huyện, nhiều trạm xá xã đã đƣợc xây dựng và

cung cấp trang bị, cử bác sỹ đa khoa đến làm việc, hàng tháng đều có các đợt

tiêm chủng cho trẻ em từ 0 đến 5 tuổi. Kết hợp Hội phụ nữ từ huyện, Hội phụ nữ

các xã đã rất quan tâm đến công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, coi đó là

yếu tố quyết định tới việc nâng cao chất lƣợng cuộc sống của các thành viên

trong gia đình và cụm dân cƣ.

Mặt trận Tổ quốc là cơ quan đoàn thể của quần chúng, dƣới sự lãnh đạo của

Đảng bộ huyện, Mặt trận Tổ quốc đã đổi mới tổ chức và hình thức hoạt động để

phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, hƣớng các đoàn thể và hội viên gắn

việc chăm lo lợi ích chính đáng của mỗi ngƣời vào chƣơng trình kinh tế, xã hội.

Các hình thức tập hợp nhân dân đƣợc đa dạng hoá. Từ đó đã tạo ra trên địa bàn

toàn huyện có hàng trăm câu lạc bộ, Hội và Hiệp hội hoạt động có hiệu quả thu

32

hút đông đảo quần chúng đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng khối đoàn

kết toàn dân theo con đƣờng đổi mới của Đảng.

Theo sự vận động của MTTQ nhiều phong trào đã có tác dụng rất lớn, đã đi

sâu vào trong chúng nhân dân. Đặc biệt sau Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt

Nam, đất nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, công

nghiệp có bƣớc phát triển đó là những thuận lợi quan trọng để đƣa nền kinh tế

nƣớc ta ra khỏi khủng hoảng. Song nó lại đặt ra cho nƣớc ta nhiều thách thức và

nguy cơ mới. Nhƣ lối sống công nghiệp đang đƣợc thiết lập, quan hệ truyền

thống trƣớc đây ngày càng mai một, quan hệ trong cộng đồng dân cƣ đƣợc thay

thế bằng các quan hệ kinh tế, quan hệ công việc, mất dần đi sự gắn kết của cộng

đồng trƣớc đây.

Đứng trƣớc những thách thức đó, MTTQ Việt Nam đã ra thông tri số 04 ngày

03/5/1995 hƣớng dẫn cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hoá ở khu dân cƣ tức là: Đoàn kết giúp đỡ nhau về kinh tế, huy động nhiều

nguồn vốn để phát triển sản xuất, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sát

hợp ... .Đoàn kết phát huy truyền thống tƣơng thân, tƣơng ái có nhiều hoạt động

nhân đạo, tình nghĩa. Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cƣơng, mọi ngƣời

sống và làm việc theo pháp luật. Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trƣờng, bảo đảm mọi gia đình đều

sống hoà thuận, quan hệ xóm giềng tốt đẹp, không có nhà tranh vách đất dột nát,

đƣờng làng ngõ xóm phong quang và đều trải vật liệu cứng, có điểm giải trí vui

chơi công cộng, mọi hộ gia đình đều dùng nƣớc sạch, phần đông số hộ có điện

dùng trong sinh hoạt và có phƣơng tiện nghe nhìn. Đoàn kết chăm lo sự nghiệp

giáo dục, nâng cao dân trí và thực hiện tốt chƣơng trình chăm sóc sức khoẻ ban

đầu cho mọi ngƣời.

Đề cao vai trò của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, chính là tạo điều

kiện cho để nhân dân làm chủ và kiểm tra các hoạt động văn hoá ở cộng đồng,

xây dựng một đời sống văn hoá vật chất lành mạnh phù hợp với sự tiến bộ chung

của toàn xã hội. 33

Hƣởng ứng cuộc vận động của Uỷ ban MTTQ, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã

chỉ đạo Uỷ ban MTTQ huyện xây dựng và phát triển nhiều phong trào xây dựng

của cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ.

Nhƣ thị trấn Gia Lâm, Việt Hƣng, Trâu Quỳ, Dƣơng Xá, Dƣơng Quang... góp

phần tuyên truyền các chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc.

Xoá bỏ những bất đồng không đáng có ở khu dân cƣ, xây dựng đƣợc mối quan

hệ gắn bó “ý Đảng – lòng dân” chặt chẽ hơn.

Sau Đại hội XVI của Đảng bộ Gia Lâm, dƣới sự lãnh đạo của Huyện uỷ,

UBND, phòng văn hoá thông tin huyện, đời sống văn hoá của nhân dân đã có

nhiều thay đổi, công cuộc xây dựng con ngƣời mới để đáp ứng đƣợc thời kỳ

công nghiệp hoá hiện đại hoá đã có nhiều tiến bộ. Nhiều phong trào đƣợc xây

dựng có ý nghĩa rất lớn trong các sinh hoạt cộng đồng của nhân dân nhƣ: xây

dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hoá mới. Thực hiện các chủ trƣơng đó cuộc vận động xây dựng gia đình văn

hoá đã đạt kết quả nhất định, có 66% số gia đình trong huyện đƣợc công nhận

gia đình văn hóa. Nhiều cụm dân cƣ văn hoá đƣợc hình thành và phát triển góp

phần đáng kể vào việc thực hiện các chủ trƣơng chính sách của nhà nƣớc có kết

quả, góp phần xã hội hoá các hoạt động của mình.

* * * Công cuộc đổi mới đất nƣớc ta đã đặt ra các yêu cầu cơ bản vừa cấp bách là

giải phóng sức sản xuất, bồi dƣỡng và phát huy nhân tố con ngƣời trên cơ sở

pháp luật hoá và xã hội hoá đời sống kinh tế, xã hội, đẩy mạnh tới một bƣớc

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc, thực hiện Nghị quyết Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, nghị quyết Đại hội lần thứ XIV, XV, XVI

của Đảng bộ huyện Gia Lâm, nhân dân Gia Lâm đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to

lớn trên nhiều lĩnh vực.

34

Với quan điểm lãnh đạo là phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là

then chốt, nhiều hoạt động của tổ chức Đảng ở Gia Lâm đã không ngừng đƣợc

nâng cao, Đảng bộ đã chỉ đạo tập trung vào các vấn đề mũi nhọn và kết hợp giải

quyết những nhiệm vụ cấp bách trƣớc mắt để tạo sự phát triển toàn diện theo

từng bƣớc ổn định vững chắc. Từ đó làm cho đời sống của nhân dân ngày càng

ổn định, cải thiện, trật tự an toàn xã hội đƣợc giữ vững, hiệu quả quản lý của các

cấp chính quyền, hoạt động của các đoàn thể nhân dân có hiệu quả. Nhiều phong

trào đã trở thành nền nếp trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân trong huyện

nhƣ: “Gia đình văn hóa”, “Xã văn minh”, “Tƣơng thân, tƣơng ái”...

Mƣời năm đó Đảng bộ huyện Gia Lâm đã nắm chắc chủ trƣơng, phƣơng

hƣớng và đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc và các chỉ thị, nghị quyết của Thành

uỷ, UBND Thành phố để triển khai toàn diện, đƣa nhanh các chủ trƣơng, chính

sách của Đảng vào cuộc sống. Nắm vững quan điểm, nhiệm vụ xây dựng Đảng

là then chốt theo tinh thần Nghị quyết TW 3 khoá 7, Đảng bộ đã tập trung vào

nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ

sở Đảng, bồi dƣỡng giáo dục nâng cao chất lƣợng và sức chiến đấu của đội ngũ

đảng viên, phát triển đảng viên mới, coi trọng công tác đào tạo, bố trí, sắp xếp

cán bộ theo hƣớng tiêu chuẩn hoá, nâng cao kiến thức và năng lực, khả năng

hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.

Đảng bộ huyện luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ

bản trong tổ chức và sinh hoạt, trong lãnh đạo và chỉ đạo. Đây là tiêu chí để đánh

giá ý thức tinh thần, trách nhiệm là nhân tố tạo nên sức mạnh của Đảng, phát huy

hiệu lực của cơ quan Nhà nƣớc và ý chí, quyền làm chủ của nhân dân.

Phát huy dân chủ mọi mặt của quần chúng nhân dân và mở rộng khối đại đoàn

kết toàn dân, nên đã tranh thủ nhiều ý kiến đóng góp vào các lĩnh vực kinh tế –

xã hội vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, các đoàn thể nhân

dân. Những ý kiến đó từng bƣớc đƣợc nghiên cứu xây dựng thành những biện

pháp thực hiện tạo ra đƣợc niềm tin và phong trào hành động thiết thực.

35

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện; công tác xây dựng Đảng, ổn định về

chính trị, giữ vững an ninh và trật tự an toàn xã hội là nhân tố cơ bản để phát

triển các mặt ở từng ngành, từng xã, thị trấn. Do đó các vấn đề nhƣ: mâu thuẫn

trong nhân dân, các vụ việc tồn động lâu ngày, các vƣớng mắc trong nội bộ lãnh

đạo ở một số cơ sở, quan hệ tiếp dân, an ninh an toàn ở địa bàn... đƣợc tập trung

giải quyết tích cực, nhiều vụ việc đƣợc giải quyết dứt điểm có ý nghĩa ngăn chặn

và phòng ngừa, tạo thể ổn định để phát triển kinh tế – xã hội.

Mƣời năm đổi mới dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân Gia Lâm

đã khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của mình trong quá trình đô thị

hóa- hiện đại hóa. Kết quả đó là tiền đề để Gia Lâm cùng cả nƣớc bƣớc vào sự

nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc.

Những thành tựu đó là cơ sở xây dựng nên đời sống văn hóa mới ngày càng

cao ở Gia Lâm, tạo điều kiện cho Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong huyện bƣớc

vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, trong lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá

từ 1986 đến 1995 ở huyện Gia Lâm, còn tồn tại một số khó khăn sau:

Mạng lƣới cán bộ văn hoá ngày càng đƣợc mở rộng và phát triển ở cơ sở, song

chất lƣợng và số lƣợng chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, làm giảm tác dụng trong

việc vận động nhân dân tham gia các phong trào văn hoá mới.

Đảng bộ các cấp chƣa thực sự quan tâm nhiều đến việc đầu tƣ cơ sở vật chất,

từ huyện đến xã cho công tác văn hóa. Công tác xây dựng các phong trào văn

hoá cộng đồng đã đƣợc các cấp chính quyền và các đoàn thể quan tâm song chƣa

cụ thể, còn chƣa tƣơng xứng so với mục tiêu phát triển kinh tế của của huyện.

Chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác văn hoá chƣa đƣợc các cấp uỷ

uỷ, chính quyền quan tâm đúng mức, chủ yếu công tác văn hoá là kiêm nhiệm

nhiều công việc để có thu nhập ổn định đời sống. Nhiều khi cán bộ văn hoá xã

phải chuyển công tác khác sau một nhiệm kỳ bầu cử cơ quan chính quyền nên

không tạo cho họ tâm lý ổn định để công tác.

36

Tất cả những thành tựu và hạn chế trên đã góp phần tạo ra những kinh nghiệm

của Đảng bộ và chính quyền huyện, lãnh đạo nhân dân vƣợt qua những chặng

đƣờng dài tiếp theo trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, phát triển Gia Lâm tƣơng

xứng với vai trò và vị thế ở cửa ngõ phía bắc Thủ đô Hà Nội.

37

Chương 2

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (1996 – 2005)

2.1. Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về xây dựng đời sống văn

hoá từ năm 1996 đến năm 2000

2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ

Thực hiện chủ trƣơng chính sách của Nghị quyết Đại hội VII (1991) của Đảng

Cộng sản Việt Nam, nghị quyết XII của Đảng bộ thành phố Hà Nội. Đảng bộ

huyện Gia Lâm đã tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng bộ

huyện lần thứ XVII.

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVII tiến hành trong hai

ngày từ ngày 6 và 7 tháng 5 năm 1996 với 245 đại biểu. Đại hội đã khẳng định

những thành tựu to lớn, quan trọng của Đảng bộ và nhân dân huyện Gia Lâm

trong 5 năm 1991 -1995 và đề ra phƣơng hƣớng, mục tiêu đến năm 2001, đẩy

mạnh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn huyện. 35 đồng chí

trúng cử vào BCH, đồng chí Lê Quý Đôn lại đƣợc tín nhiệm bầu làm bí thƣ,

đồng chí Hoàng Đạt, đồng chí Trần Đức Hiền đƣợc bầu làm phó bí thƣ.

Đại hội đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ

XVI (1991 – 1995), và nhận định “ Năm năm qua, cùng với sự phát triển của

Thủ đô và cả nƣớc, thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân

Gia Lâm đƣợc sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thƣờng xuyên của Thành uỷ,

UBND Thành phố, đã nắm vững và thực hiện đúng đắn đƣờng lối, chủ trƣơng,

chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, phát huy thuận lợi, khai thác có

hiệu quả tiềm năng thế mạnh của một huyện đang đô thị hoá nhanh, đã và đang

đem lại những kết quả quan trọng, đạt và vƣợt nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội do

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI đề ra. Đời sống nhân dân từng bƣớc đƣợc

cải thiện, trình độ dân trí đƣợc nâng lên, an ninh chính trị, trật an toàn xã hội

đƣợc giữ vững, hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền có hiệu quả hơn, vai

38

trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chất lƣợng đội ngũ đảng viên, hoạt động của

các tổ chức cơ sở Đảng không ngừng đƣợc nâng cao, tạo đƣợc niềm tin với nhân

dân.

Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt đƣợc, chúng ta cũng gặp không ít khó

khăn phức tạp nhƣ; các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội bằng âm

mƣu “diễn biến hoà bình”, tác động của mặt trái cơ chế thị trƣờng, cùng với cơ

chế chính sách của nhà nƣớc chƣa đồng bộ thiếu kịp thời, những yếu kém về

nhận thức, về năng lực lãnh đạo trong quản lý, điều hành của một số cán bộ đảng

viên và các ban ngành từ huyện đến cơ sở làm hạn chế sự phát triển chung của

toàn huyện. [18 ; tr. 3-4].

Nhƣng đƣợc sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, sự phối hợp giúp đỡ

có hiệu quả của các ngành, các cấp, các đoàn thể trong Thành phố và các địa

phƣơng bạn, mặt khác Đảng bộ nhân dân Huyện Gia Lâm đã phát huy tinh thần

tự lực, tự cƣờng nên đã thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội XVI đề ra.

Hoàn thành vƣợt mức các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế – xã hội của

huyện nhà giai đoạn 1991 – 1995.

Tuy nhiên trong thời kỳ phát triển 1991 -1995 còn đặt ra cho Đảng bộ và nhân

dân Gia Lâm những tồn tại sau:

Về kinh tế: quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chậm đổi mới so với yêu cầu

đòi hỏi của lực lƣợng sản xuất cho nên còn nhiều HTX đang là hình thức, quản

lý kém hiệu quả. Sự liên kết hợp tác giữa quốc doanh và tập thể với kinh tế tƣ

nhân chƣa đạt đƣợc hiệu quả.

Về xã hội: Đảng bộ huyện đã có nhiều biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã

hội nhƣ: cờ bạc, rƣợu chè, tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, mại dâm, nghiện hút

phát triển song tiêu cực, tham nhũng, không công bằng chƣa đƣợc ngăn chặn có

hiệu quả đang gây bất bình trong nhân dân. Lao động đến tuổi thiếu việc làm,

văn hoá phẩm chƣa đƣợc kiếm soát chặt chẽ, công tác giáo dục đào tạo, khám

chữa bệnh chƣa yên tâm về chất lƣợng. Vấn đề đạo đức, lối sống đang có một bộ

phận cán bộ đảng viên và nhân dân xuống cấp. 39

Vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn huyện: Có nhiều nơi

còn bộc lộ những mặt hạn chế và yếu kém trong việc xây dựng nghị quyết và

kiểm tra thực hiện nghị quyết, trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ

và chế độ sinh hoạt, nhất là một số chi bộ nông thôn và một số chi bộ doanh

nghiệp Nhà nƣớc có điểm lƣu động, phân tán do nhiệm vụ sản xuất và kinh

doanh.

Công tác quản lý đảng viên còn lỏng lẻo, bộ phận đảng viên thiếu rèn luyện,

xa sút về phẩm chất, lối sống, bất cập về trình độ và kiến thức.

Công tác cán bộ thiếu quy hoạch và tiêu chuẩn hoá để đáp ứng với yêu cầu

nhiệm vụ, một bộ phận cán bộ hiện có, tuy có nhiều cố gắng nhƣng thiếu cán bộ

giỏi, cán bộ đầu đàn.

Hoạt động của các đoàn thể nhân dân: đã có nội dung, phƣơng thức thích hợp

để thu hút, tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên song sinh hoạt tổ, phân chi hội

còn tẻ nhạt, chƣa thực sự là nơi rèn luyện và giáo dục, chƣa giải quyết tốt lợi ích

thiết thực của quần chúng nhân dân.

Năm năm qua, trong điều kiện khó khăn, phức tạp nhƣng với quyết tâm và nỗ

lực của Đảng bộ huyện Gia Lâm nên kết quả đạt đƣợc trên nhiều mặt là cơ bản,

có ý nghĩa quan trọng tạo tiền đề bƣớc vào thực hiện nhiệm vụ chính trị trong

những năm (1996 – 2001).

Đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ huyện đã đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ

cụ thể trên các lĩnh vực nhƣ sau:

Chỉ tiêu kinh tế: phấn đấu tăng trƣởng kinh tế của huyện trên phạm vi lãnh thổ

từ 16,5 – 17% năm. Thu nhập bình quân đầu ngƣời đến năm 2000 trên phạm vi

lãnh thổ của huyện đạt 700 USD.

Công tác xây dựng Đảng: đƣợc Đại hội lần thứ XVII đã đề ra các nhiệm vụ và

biện pháp chủ yếu để xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh. Vấn đề đặt ra là phải

giữ vững định hƣớng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của

Đảng để nắm chắc thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đƣa sự nghiệp cách mạng

tiến lên. Vì vậy công tác xây dựng Đảng vẫn là nhiệm vụ then chốt của toàn 40

Đảng bộ. Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc, với tƣ cách là hạt nhân lãnh đạo chính trị

Đảng bộ huyện Gia Lâm tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng bộ, đoàn kết thống nhất, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, giữ

vững và phát huy danh hiệu Đảng bộ huyện vững mạnh, xây dựng Đảng bộ trí

tuệ trong sạch, vững mạnh trên cả 3 mặt: chính trị, tƣ tƣởng, tổ chức. Quán triệt

sâu sắc nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, nghị

quyết Đại hội Đảng thành phố lần thứ XII.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Gia Lâm đã đề cao và phát huy tính

dân chủ của các đoàn thể, MTTQ. Nhiệm vụ đặt ra từ nay đến năm 2000, phải

phát huy vai trò làm chủ và động viên mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đi đôi với phát triển kinh

tế, cần coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội và chăm lo bồi dƣỡng đào tạo con

ngƣời.

Cấp uỷ Đảng, chính quyền phải thƣờng xuyên quan tâm, tạo điều kiện để các

đoàn thể hoạt động có hiệu quả, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào

cách mạng của quần chúng phát triển.

Hoạt động của các đoàn thể nhân dân: mặt trận tổ quốc và các thành viên

phải coi trọng công tác của mình là đoàn kết, động viên và tổ chức các tầng lớp

nhân dân hăng hái thi đua phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hoá -

hiện đại hoá (nhất là trong nông nghiệp và nông thôn); phối hợp tốt hoạt động

của các thành viên đẩy mạnh các cuộc vận động và phong trào quần chúng trên

địa bàn; mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền vững

mạnh trong sạch nhằm củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Liên đoàn lao động phải tăng cƣờng đổi mới nội dung và hình thức hoạt động

phù hợp, đáp ứng lợi ích thiết thực của công nhân lao động; chăm lo xây dựng

giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân phát triển về số lƣợng và chất

lƣợng theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đa dạng về ngành nghề, giác

ngộ về giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có học vấn và tay nghề, tiếp thu 41

công nghệ mới, lao động có kỷ luật, kỹ thuật năng động, sáng tạo nhằm nâng cao

năng suất, chất lƣợng và hiệu quả.

Phải tích cực tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh

thần đối với công nhân lao động. Tập trung củng cố tổ chức công đoàn cơ sở,

thành lập tổ chức công đoàn ngoài quốc doanh.

Đoàn TNCS HCM cần thƣờng xuyên chăm lo giáo dục truyền thống, lý tƣởng

cho đoàn viên thanh niên góp phần làm hạn chế dần tình trạng sống buông thả,

thực dụng của thanh niên; đi đầu trong tiếp thu ứng dụng khoa học kỹ thuật và

công nghệ mới, thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, công tác an ninh trật tự, an toàn

xã hội, cuộc vận động dân số – kế hoạch hóa gia đình; thực hiện có hiệu quả

phong trào “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nƣớc” trong sự nghiệp công

nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc.

Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh phải hƣớng mạnh hoạt động về

cơ sở, tìm ra những nội dung, hình thức hoạt động thích hợp, nhằm thu hút đông

đảo đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào, chƣơng trình nhƣ: phát triển

kinh tế, xoá đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, giải quyết việc làm, yêu

thƣơng đùm bọc nhau trong khó khăn hoạn nạn; thực hiện “Đền ơn đáp nghĩa,

uống nƣớc nhớ nguồn”, phòng chống các tệ nạn xã hội và kế hoạch hoá gia đình.

Mọi hoạt động phải đáp ứng lợi ích thiết thực của đoàn viên, hội viên; thông qua

đó bồi dƣỡng nhận thức chính trị, tƣ tƣởng, chính sách pháp luật cho đoàn viên,

hội viên trên cơ sở đó gƣơng mẫu thực hiện chủ trƣơng chính sách pháp luật của

Đảng và Nhà nƣớc. Thực hiện sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Góp

phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh.

Công tác văn hóa – xã hội: Đại hội lần thứ XVII đã khẳng định: công tác văn

hoá - thông tin - tuyên truyền – thể dục thể thao đƣợc Đảng bộ huyện tập trung

chỉ đạo thực hiện tốt, công tác tuyên truyền, cổ động, đẩy mạnh các hoạt động

văn hoá, thể dục thể thao, du lịch, tăng cƣờng các hoạt động văn hoá, văn nghệ,

tổ chức lễ hội ... thực hiện có 100% gia đình đăng ký thực hiện nếp sống văn

42

minh, gia đình văn hoá và có trên 70% hộ đạt tiêu chuẩn, đẩy mạnh phong trào

quần chúng rèn luyện thể dục thể thao.

Xây dựng đời sống văn hoá mới không thể thiếu việc giải quyết việc làm do

đó Đảng bộ huyện đã xác định đây là trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, các

tổ chức kinh tế, của mọi nhà, mọi ngƣời lao động cùng quan tâm. Những năm tới

đây, phải phát triển các hình thức dạy nghề, đa dạng hoá các hình thức việc làm,

gắn sử dụng lao động với sắp xếp bố trí lại lao động, phát triển ngành nghề, có

chính sách tạo vốn, cho vay vốn để giải quyết việc làm tích cực hơn.

Bằng kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội, cấp uỷ chính quyền,

các tổ chức kinh tế – xã hội cùng toàn dân phải chăm lo tạo điều kiện để đảm bảo

cho các đối tƣợng thƣơng binh, gia đình liệt sĩ, ngƣời có công với cách mạng, có

đời sống cao hơn hoặc bằng mức sống trung bình của cƣ dân. Chăm lo thực hiện

tốt chính sách với ngƣời về hƣu, bảo trợ tốt ngƣời tàn tật, ngƣời già cô đơn, trẻ

mồ côi, hỗ trợ ngƣời nghèo phát triển kinh tế, thực hiện có kết quả việc giảm hộ

nghèo tăng hộ giàu. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Kiên quyết tấn công

triệt phá cơ bản các ổ nhóm tiêm chích, nghiện hút ma tuý, mại dâm...

Gắn việc xây dựng đời sống văn hoá đi liền với công tác dân số – kế hoạch

hóa gia đình: Thực hiện tốt chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, đảm bảo tiêm

chủng mở rộng đạt 100%. Coi trọng phòng chống dịch bệnh cho nhân dân, hạ tỷ

lệ trẻ em suy dinh dƣỡng xuống dƣới 20%.

Giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 1%. Tỷ lệ sinh hàng năm giảm 0,05% để đến năm

2000 chỉ còn dƣới 1,5%. Xây đƣợc phòng học cấp I + II kiên cố có mái bằng cao

tầng 100%. Nâng cấp các phòng khám bệnh viện huyện và 100% các trạm y tế

xã đƣợc xây dựng kiên cố và nâng cấp trang thiết bị đủ điều kiện sơ cứu, chăm

sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Phấn đấu phổ cập cấp II đạt 100% xã, thị

trấn. Phấn đấu đạt 100% hộ dùng nƣớc sạch. Phấn đấu căn bản các xã đạt tiêu

chuẩn nông thôn mới.

Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ y tế, thực hiện mỗi xã, thị trấn, trạm y tế

có ít nhất một bác sỹ đã khoa, từng bƣớc nâng cao chất lƣợng thiết bị y tế, hoàn 43

thành cải tạo nâng cấp trạm y tế, phòng truyền thông dân số, phấn đấu giảm tỷ lệ

sinh hàng năm 0,05% để đến năm 2000 tỷ lệ chỉ còn dƣới 1,5%, tỷ lệ sinh con

thứ 3 chỉ còn 4,5%.

Giáo dục và đào tạo đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta xác định là quốc sách hàng

đầu, do vậy vị trí của giáo dục đƣợc Đảng bộ huyện lần XVII, Đảng bộ Gia Lâm

rất coi trọng, thông qua giáo dục để xây dựng con ngƣời phát triển toàn diện, có

đầy đủ nhân cách và trình độ để đáp ứng đƣợc thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại

hoá.

Tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lƣợc con ngƣời trên cả 3 mặt: nâng cao dân

trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài. Tiếp tục tăng quy mô phát triển, thực

hiện 75 - 80% các cháu ở độ tuổi mẫu giáo ra lớp, các cháu 5 - 6 tuổi ra lớp

100%, thỏa mãn tối đa nhu cầu học trung học cơ sở.

Không ngừng nâng cao giáo dục mầm non, giáo dục phô thông, đảm bảo học

sinh lên lớp và tốt nghiệp 96-98%, tỷ lệ học sinh giỏi đạt 7,5 – 85,%; chú trọng

bồi dƣỡng nhân tài, nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, giáo dục pháp luật

trong nhà trƣờng, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục.

2.1.2. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm dưới sự chỉ đạo

của Đảng bộ huyện trong những năm 1996 – 2000

Xây dựng đời sống văn hoá mới là nhiệm vụ của toàn xã hội. Đảng ta xác định

từ năm 1996 đến năm 2000 là: “Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, trong đó chú

trọng vấn đề gia đình văn hoá, làng bản văn hoá, nếp sống văn minh đô thị” [17;

tr. 578].

Bƣớc vào giai đoạn mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm, đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã có nhiều thay đổi, công tác xây dựng

đời sống văn hoá đƣợc triển khai tới các cấp, các ngành trên địa bàn huyện.

Tiếp thu sự chỉ đạo của cấp trên, Huyện uỷ, UBND, HĐND huyện Gia Lâm

đã lãnh đạo các ban ngành trong toàn huyện hƣởng ứng cuộc vận động “Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ” do Uỷ ban Trung ƣơng

44

MTTQ Việt Nam phát động. Đây là một phong trào lớn có sức thu hút cả về bề

rộng và chiều sâu đã lôi cuốn đƣợc mọi tầng lớp nhân dân tham gia.

Cơ sở để xây dựng đời sống văn hoá là hoạt động kinh tế, Đảng bộ Gia Lâm

rất chú trọng nâng cao đời sống kinh tế cho nhân dân, để tạo ra cơ sở vững chắc

trong công tác văn hoá sau này. Do đó dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ Gia Lâm

nền kinh tế trong huyện đã đạt đƣợc một số kết quả đáng phấn khởi sau:

Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng với những chính sách mới và việc thực

hiện nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ huyện cơ cấu kinh tế trên toàn huyện

đã có nhiều thay đổi. Huyện có nhiều khu công nghiệp lớn của Trung ƣơng và

Hà Nội, bên cạnh đó còn có các khu công nghiệp vừa và nhỏ của huyện đang

đƣợc xây dựng và đi vào hoạt động có hiệu quả thu hút một số lƣợng nhân công

làm nông nghiệp trƣớc đây vào sản xuất công nghiệp, từ đó đã làm cho nhân dân

chuyển hƣớng kinh tế sang làm nghề dịch vụ- thƣơng mại, công nghiệp, chăn

nuôi là chính. Từ chuyển biến đó ta có bảng chuyển dich cơ cấu ngành nghề của

huyện sau:

% CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN GIA LÂM NHỮNG NĂM 1996- 2000 [16; tr. 66].

1996

1997

1998

1999

2000 Mục

tiêu

ĐH 17

A

1

2

3

4

5

6

1. Giá trị sản xuất một số ngành

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

kinh tế chủ yếu huyện quản lý

(giá TT):

Chia ra:

39,65

41,02

40,29

41,06

41,80

43-45

- Công nghiệp-tiểu thủ công

nghiệp-xây dựng cơ bản

25,20

27,70

28,17

29,35

30,45

29-31

- Thƣơng nghiệp-dịch vụ

35,15

31,28

31,54

29,59

27,75

26-34

- Nông lâm-thủy sản

2. Giá trị sản xuất nông nghiệp

100,00

100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

45

66,54

63,23

61,57

60,17

60,96

50-55

Chia ra: Trồng trọt

Chăn nuôi

33,46

36,77

38,43

38,83

39,04

45-50

Đảng bộ huyện Gia Lâm đã lãnh đạo công tác phát triển kinh tế đạt đƣợc kết

quả khá toàn diện.

Sản xuất công nghiệp: do quy hoạch của Trung ƣơng và Thành phố thu hút

vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài, công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân hàng năm

26,2%, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho ngƣời lao động,

hoàn thành nghĩa vụ với nhà nƣớc, tích cực tham gia thực hiện chính sách xã hội

và phối hợp bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn.

Với truyền thống của huyện trên địa bàn huyện có nhiều làng nghề, sản xuất

các mặt hàng phục vụ cho tiêu dùng nhƣ gốm sứ Bát Tràng, may da Kiêu Kỵ,

chế biến dƣợc liệu Ninh Hiệp ... Đƣợc sự lãnh đạo của Đảng bộ nên các địa

phƣơng đã mở rộng và phát triển ngành nghề, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng.

Nhiều HTX sản xuất đã đƣợc hình thành kinh doanh các ngành nghề truyền

thống.

Đảng bộ Gia Lâm đã coi, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, xây dựng nông

thôn mới có ví trí quan trọng cho công tác công nghiệp hoá- hiện đại hoá.

Do sản xuất phát triển, đời sống của nhân dân từng bƣớc đƣợc cải thiện. Năm

2001, số hộ nghèo giảm xuống còn dƣới 1%, số hộ giàu tăng lên 36% (theo tiêu

chí cũ). Toàn huyện đã có 28/31 xã đƣợc công nhận đạt tiêu chuẩn “nông thôn

mới”.

Hoạt động dịch vụ: phát triển đa dạng khắp trên địa bàn, đáp ứng phục vụ nhu

cầu và đời sống của nhân dân trong huyện.

Quan hệ sản xuất tiếp tục đƣợc củng cố và tăng cƣờng: nhìn chung sau khi

thực hiện cổ phần hoá, các công ty cổ phần đã nâng cao trách nhiệm quản lý, sử

dụng vốn và tài sản có hiệu quả.

Việc chuyển HTX theo luật đƣợc triển khai tích cực, bảo đảm đúng luật, giữ

vững ổn định, đóng góp kinh nghiệm cho sự chỉ đạo chung của Thành phố. Đến 46

hết năm 1998, toàn huyện có 31 HTX quy mô toàn xã đã chuyển đổi 28 HTX sản

xuất nông nghiệp chuyển là HTX dịch vụ sản xuất, còn 3 HTX giải thể, các HTX

và tổ hợp công nghiệp – thủ công nghiệp chuyển đổi thành các HTX theo hƣớng

HTX cổ phần và ra đời thêm 9 HTX mới. Đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của các cấp

trong huyện, huyện đã mở những lớp học quản lý nhằm nâng cao trình độ cho

cán bộ các HTX. Vì vậy sau 3 năm đi vào hoạt động, các HTX đã cơ bản ổn

định, chất lƣợng đƣợc nâng lên, giá thành dịch vụ giảm;

Công tác quản lý tài chính – ngân sách cũng đƣợc Đảng bộ quan tâm chỉ đạo:

nên tổng thu ngân sách hàng năm đã tăng cao 5% tức là từ 58- 60 tỷ đồng, hoạt

động của các kho bạc, ngân hàng có nhiều cố gắng đáp ứng yêu cầu cho sản xuất

và kinh doanh đã góp phần tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội trên địa

bàn;

Đầu tƣ xây dựng cơ bản: huy động đƣợc số vốn lớn 3.081 tỷ đồng, tăng 54%

so với nhiệm kỳ trƣớc, trong đó nhân dân đóng góp 17,7%. Góp phần hoàn thành

nâng cấp, cải tạo cơ bản hệ thống đƣờng liên thôn, liên xã, xây mới 334 phong

học, nâng cấp và cải tạo 70 trạm xá nhà truyền thông dân số, cải tạo hệ thống

điện ở các xã...

Công tác quản lý và xây dựng đô thị đƣợc cải tiến, từng bƣớc quản lý theo qui

hoạch. Cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nƣớc, chỉnh trang đƣờng phố, lắp đặt hệ

thống chiếu sáng nhƣ: phố Nguyễn Văn Cừ, Gia Lâm, Nguyễn Văn Linh, Đức

Giang, Yên Viên... đặt số nhà cho các xã gần trung tâm Hà Nội.

Việc quản lý đất đai và giải phóng mặt bằng: Huyện đã lập hồ sơ quản lý đất

đai theo chỉ thị 245/CP của chính phủ, giải quyết bàn giao phân định theo quyết

định 364 về danh giới địa chính. Hoàn thành và bàn giao hồ sơ tổng kiểm kê đất

đai đúng tiến độ, đã thực hiện quy hoạch xong 3 thị trấn là Yên Viên, Gia Lâm,

Trâu Quỳ, 6 xã ven trục đƣờng 1, và đƣờng 5 là Dƣơng Xá, Trâu Quỳ, Thạch

Bàn, Sài Đồng, Gia Thuỵ, Thƣợng Thanh... cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất theo nghị định 64/CP cho 16 xã đến nay đã giải quyết cơ bản.

47

Đảng bộ huyện đã coi công tác giải phóng mặt bằng là khâu đột phá cho đầu

tƣ công nghiệp phát triển. Nên đã thu hút các nhà đầu tƣ vào các khu công

nghiệp nhƣ: Hanel, Sài Đồng A, B, Đài Tƣ... đảm bảo đúng tiến độ.

Đặc biệt thời kỳ này, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa đƣợc Đảng bộ tiếp tục

quan tâm lãnh đạo với nhiều chủ trƣơng biện pháp tích cực. Bên cạnh đó Đảng

bộ Gia Lâm nhận thấy công tác xây dựng đời sống văn hoá mới không thể thiếu

sự tham gia của các ngành, các cấp, từ huyện đến cơ sở. Cùng với nó là công tác

của Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội ngƣời cao tuổi, Mặt trận

Tổ quốc, Đoàn thanh niên... Mỗi ngành hoạt động góp phần phát triển phong

trào, tạo ra sự phong phú hơn trong sinh hoạt thƣờng ngày của nhân dân.

Công tác văn hóa- xã hội và hoạt động các đoàn thể nhân dân: đƣợc sự lãnh

đạo của Huyện uỷ, Mặt trận Tổ quốc huyện đã nhận thấy vai trò của mình trong

công tác vận động quần chúng. Theo sự hƣớng dẫn của MTTQ Việt Nam qua

thông tri số 04 ngày 3.5.1995 về hƣớng dẫn cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cƣ, Đảng bộ đã lãnh đạo Mặt trận, các

đoàn thể trong huyện quán triệt, phổ biến chủ trƣơng xây dựng đời sống văn hóa

ở khu dân cƣ theo 5 nội dung của Hội nghị lần thứ 2 uỷ ban Trung ƣơng MTTQ

Việt Nam (khoá IV) bao gồm: “Thứ nhất đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh

tế, huy động đƣợc nhiều nguồn vốn để phát triển sản xuất, tạo việc làm, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế sát hợp... Bảo đảm ở mỗi khu dân cƣ có số đông hộ khá giả,

không còn hộ đói, giảm hẳn hộ nghèo, tăng hộ giàu.

Thứ hai: Đoàn kết phát huy truyền thống tƣơng thân, tƣơng ái, có nhiều hoạt

động nhân đạo, tình nghĩa. Bảo đảm cho những ngƣời có công với nƣớc, gia đình

liệt sĩ, thƣơng binh, ngƣời già cô đơn, trẻ em mồ côi và những ngƣời bất hạnh

trong cuộc sống đều đƣợc chăm sóc chu đáo bằng việc thực hiện đầy đủ các

chính sách của nhà nƣớc và sự giúp đỡ của cộng đồng dân cƣ.

Thứ ba: Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cƣơng, mọi ngƣời sống và

làm việc theo pháp luật và quy ƣớc cuộc sống. Bảo đảm ở mỗi khu dân cƣ không

còn các tệ nạn xã hội, trật tự an toàn xã hội đƣợc giữ vững, hoà giải đƣợc những 48

mâu thuẫn nội bộ tại chỗ, cảm hoá đƣợc những ngƣời lầm lỗi không có những

biểu hiện vi phạm quyền công dân, mọi ngƣời đều tích cực tham gia xây dựng

nền quốc phòng toàn dân.

Thứ tƣ: Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc và thuần phong mỹ tục trong nhân dân, bảo vệ môi trƣờng, bảo đảm

mọi gia đình đều sống hoà thuận, quan hệ xóm giềng tốt đẹp, không còn nhà

tranh vách đất dột nát, đƣờng làng ngõ xóm phong quang và đều trải vật liệu

cứng, có điểm giả trí vui chơi công cộng, mọi hộ gia đình đều dùng nƣớc sạch

phần đông số hộ có điện dùng trong sinh hoạt và có phƣơng tiện nghe nhìn.

Thứ năm: Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí và thực hiện

tốt chƣơng trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho mọi ngƣời. Bảo đảm mọi ngƣời

dân trong độ tuổi đều biết chữ, mọi trẻ em đến trƣờng đúng độ tuổi và thực hiện

phổ cập tiểu học, học sinh nghèo đƣợc giúp đỡ, học sinh giỏi đƣợc bảo trợ,

không có ngƣời sinh con thứ ba, mọi trẻ em đƣợc tiêm phòng đúng lịch.”[7;

tr.281– 282].

MTTQ huyện đã tuyên truyền tới từng đoàn, hội của mình, tới tất cả 35 xã, thị

trấn. Ngoài ra MTTQ huyện đã có tiêu chí để kiểm tra, hoạt động của các đợt

phát động. Sau 5 năm hoạt động (1996-2001) uỷ ban MTTQ phối hợp với

UBND huyện đã tổng kết và đánh giá kết quả là:

Có 5 xã bình xét là đạt đƣợc cả 5 nội dung là: Dƣơng Quang, Lệ Chi, Kim

Sơn, Đa Tốn, Dƣơng Xá. Có 7 xã đạt đƣợc 4 nội dung là: Kiệu Kỵ, Bát Tràng,

Trâu Quỳ, Cổ Bi, Đông Dƣ, Đặng Xá, Phú Thị. Còn lại là các xã, thị trấn đạt

đƣợc 3 chỉ tiêu. Trong tổng kết cũng đánh giá cuộc vận động này muốn đạt kết

quả cao thì phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự phối kết hợp chặt chẽ giữa mặt

MTTQ với chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Trong cuộc vận động ủng hộ từ thiện: đây là một việc làm tƣơng thân, tƣơng

ái đƣợc Đảng bộ huyện hết sức quan tâm. Nên khối Đảng bộ năm 1996 đã trích

quỹ và ủng hộ 10 triệu đồng ủng hộ đồng bào sông Cửu Long bị lũ lụt. Bên cạnh

đó Đảng bộ huyện còn chỉ đạo MTTQ các xã tổ chức thực hiện công tác ủng hộ 49

đồng bào sông Cửu Long đƣơc 50.000.000 đồng, ủng hộ nhân dân Cu Ba đƣợc

35.000.0000 đồng, năm 1999 ủng hộ đồng bào miền Trung lũ lụt đƣợc 30 triệu

đồng...Tổng số đã nộp về ban chỉ đạo huyện là 110.000.000 đồng. Trong cuộc

vận đồng này đã có nhiều cá nhân và tập thể tham gia ủng hộ rất tích cực theo lời

kêu gọi của MTTQ huyện;

Ngoài ra Đảng bộ huyện còn lãnh đạo nhân dân xây dựng quỹ vì ngƣời nghèo

đƣợc các cơ quan, trƣờng học, đơn vị ủng hộ 79.000.000 đồng giúp những gia

đình khó khăn, ngƣời cô đơn không nơi nƣơng tựa. Thực hiện cuộc vận động

giúp đỡ ngƣời nghèo không có tết, hội chữ thập đỏ đã phối hợp với ngành

thƣơng binh – xã hội tặng quà tết cho 232 nhân khẩu trị giá 25.000.000 đồng.

Đƣợc sự giúp đỡ của hội chữ thập đỏ huyện đã tổ chức xây dựng 72 nhà tình

nghĩa, 31 nhà tình thƣơng ...đặc biệt ngành lao động xã hội đã trợ cấp hàng tháng

cho những ngƣời già cô đơn không nơi nƣơng tựa mỗi cụ 150.000đ/tháng.

Đảng bộ huyện xây dựng chƣơng trình phòng chống tội phạm theo nghị quyết

09 của chính phủ: trong quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá trên địa bàn

huyện đã xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội. Đảng bộ huyện đã chỉ đạo UBND,

HĐND, các ban ngành, đoàn thể cùng tham gia chƣơng trình “toàn dân đoàn kết

phòng chống tội phạm”. Huyện ủy đã thành lập Ban chỉ đạo 197 từ huyện đến cơ

sở, đã chỉ đạo các xã, thị trấn đấu tranh phát hiện tội phạm trên phạm vi mình

quản lý do vậy qua đợt kiểm tra này. Toàn huyện đã phát hiện 105 đối tƣợng ma

tuý, 55 đối tƣợng mại dâm, trong đó có 33 đối tƣợng đáng lƣu ý. Qua giáo dục

đối tƣợng mại dâm đã từ bỏ, số nghiện ma tuý, công an huyện đã lập hồ sơ đƣa

đi cai nghiện 97 đối tƣợng, số còn lại đƣợc sự giúp đỡ của phòng lao động

thƣơng binh xã hội đã có 6 đối tƣợng cai nghiện tại nhà đến thời điểm hết hạn

qua 2 lần xét nghiệm kết quả cả 6 đối tƣợng đã hết chất ma tuý trong ngƣời.

Qua sàng lọc xã Dƣơng Quang đã đƣa 15 đối tƣợng cờ bạc ra kiểm điểm trƣớc

dân có mời cả gia đình đến chứng kiến. Qua việc làm này các đối tƣợng này đã

nghiêm khắc kiểm điểm và hứa sửa chữa, kết quả thu đƣợc 15 đối tƣợng đã tiến

bộ và không tái phạm. Ban công an kết hợp với Đảng uỷ, UBND, HĐND đƣa 50

20 đối tƣợng vào quản lý giáo dục tại cộng đồng một mặt giao cho khu dân cƣ,

một mặt giao cho các đoàn thể giáo dục cụ thể nhƣ sau:

Giao cho Hội nông dân 4 đối tƣợng, Hội phụ nữ 3 đối tƣợng, Hội cựu chiến

bình 3 đối tƣợng, Đoàn thanh niên 10 đối tƣợng. Kết quả đã có 12 đối tƣợng tiến

bộ đƣợc xã Dƣơng Quang quyết định công nhận.

Trong công tác xây dựng môi trƣờng sƣ phạm: Đảng bộ huyện đã chỉ đạo

UBND, HĐND, phòng giáo dục huyện thực hiện nhiều phong trào thi đua nhƣ

phong trào “hai tốt” thi đua dạy tốt và học tốt, giao cho phòng giáo dục xây

dựng các trƣờng đạt tiêu chuẩn quốc gia, giao cho đoàn thanh niên tổ chức các

hoạt động nhằm thu hút học sinh trong các trƣờng học vào các hoạt động bổ ích.

Sau 5 năm từ 1996- 2001 huyện đã đạt tỷ lệ học sinh lên lớp và đỗ tốt nghiệp

trung học cơ sở đạt từ 90% trở lên, tiểu học đạt 99% trở lên, số học sinh giỏi đạt

bình quân 15%. Đặc biệt duy nhất trên địa bàn huyện trƣờng tiểu học Dƣơng Xá

đạt chuẩn quốc gia. Công tác xã hội hoá giáo dục đƣợc Đảng bộ Gia Lâm đẩy

mạnh nên số trƣờng dân lập tăng lên góp phần nâng cao dân trí và bảo vệ trật tự

an ninh cho địa phƣơng.

Đƣợc sự lãnh đạo của Huyện uỷ, UBND nhiều trƣờng dân lập đã ra đời nhƣ:

Trƣờng THPTDL Lý Thánh Tông, THPTDL Vạn Xuân, THPTDL Lê Văn

Thiêm, THPTDL Tô Hiệu, THPTDL Bắc Đuống, THPTDL Lê Ngọc Hân các

trƣờng này đã thu hút đƣợc số học sinh ngày càng đông và đƣợc sự ủng hộ của

gia đình học sinh. Nhƣ Trƣờng Lý Thánh Tông đƣợc thành lập từ 1996 có số

lƣợng học sinh khoá đầu là 72 đến năm 2001 lên 733 học sinh. Để có kết quả đó

cán bộ giáo viên nhà trƣờng không ngừng nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ và

phƣơng pháp sƣ phạm xây dựng môi trƣờng sƣ phạm, nhà giáo sƣ phạm mẫu

mực, nhà trƣờng luôn phải có sự liên hệ thƣờng xuyên giữa gia đình và nhà

trƣờng vì các em vào đây là những em có học lực yếu, hạnh kiểm còn hạn chế

nên nhà trƣờng đã mất nhiều thời gian làm công tác giáo dục tính chuyên cần, kỷ

luật, ý thức tổ chức... Đoàn thanh niên là bộ phận gắn bó mật thiết với học sinh

luôn tƣ vấn giúp đỡ, giải đáp những thắc mắc của các em trong cuộc sống hàng 51

ngày. Ngoài ra Đoàn thanh niên của trƣờng còn tham gia các phong trào văn hoá,

thể thao do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội phát động và đều đƣợc giải.

Đảng bộ Gia Lâm còn lãnh đạo ngành lao động thƣơng binh – xã hội, hội

ngƣời cao tuổi và nhân dân thực hiện các chính sách xã hội: trong việc vận động

chƣơng trình đền ơn đáp nghĩa, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã lãnh đạo các ban

ngành nhƣ MTTQ, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Phòng văn hóa thực hiện tốt công

tác này. Tại 35 xã, thị trấn và các đoàn thể đều phát động phong trào đền ơn đáp

nghĩa, vận động hội viên nhận chăm sóc và giúp đỡ các gia đình có công với

nƣớc. Trao tặng 3.057 số tiết kiệm với tổng trị giá trên 1 tỷ đồng, xây dựng 32

nhà bia tƣởng niệm các liệt sĩ, nâng cấp 3 nghĩa trang liệt sĩ huyện, nhận nuôi

dƣỡng 14 bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống.

Ngành lao động huyện trong 5 năm 1996 - 2001 đã giải quyết đƣợc việc làm

cho 22.000 lao động. Ngành ngân hàng đã cho 10.000 lƣợt hộ vay với số vốn lên

gần trục tỷ đồng.

Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phong trào “đền ơn đáp nghĩa,

uống nƣớc nhớ nguồn” đã thu hút đƣợc các ngành các cấp cùng toàn thể nhân

dân trong huyện tham gia. Hàng năm lãnh đạo huyện, xã đã thƣờng xuyên thăm

hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, ngƣời có công với nƣớc, gia đình cô đơn

vào các dịp lễ, tết.

Thực hiện chƣơng trình dân số: chƣơng trình này đƣợc Đảng bộ hết sức quan

tâm và coi trọng vì tỷ lệ tăng dân số quyết định rất nhiều tới chỉ tiêu phát triển

kinh tế - xã hôi trên toàn huyện. Do vậy cần làm tốt công tác tuyên truyền dân

số - kế hoạch hoá tới từng gia đình. Các ngành y tế, hội phụ nữ, ban dân số đã

tiến hành tuyên truyền vận động hội viên thực hiện chƣơng trình dân số và kế

hoạch hoá gia đinh đạt đƣợc các kết quả là: tỷ lệ sinh hàng năm giảm bình quân

0,5‰, năm 1999 tỷ lệ sinh còn 15,4‰, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm còn 5%. Toàn

huyện đã có 5 xã và 115 thôn không còn ngƣời sinh con thứ 3.

52

Ngoài ra ngành y tế còn phối hợp với Hội phụ nữ, Hội nông dân thực hiện

chƣơng trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. 100% số cháu đƣợc tiêm

chủng đủ số mũi và phòng 6 bệnh cơ bản, các cháu trong độ tuổi đƣợc uống

vitamin A, chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đƣợc tiêm phòng uốn ván ...

Ngành y tế chuẩn bị đủ số thuốc chữa bệnh cho nhân dân, không để dịch bệnh

xẩy ra.

Bên cạnh đó công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em đƣợc quan tâm thƣờng xuyên.

Tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng năm 1996 là 28% đến năm 2001 giảm xuống còn

19%. Các cháu lang thang cơ nhỡ đƣợc giúp đỡ kịp thời. Các lớp học tình

thƣơng đƣợc sự quan tâm của toàn xã hội.

Về công tác ngƣời cao tuổi: hội ngƣời cao tuổi là một tổ chức xã hội và là

thành viên của MTTQ, hội có 1.356 ngƣời sinh hoạt ở 35 chi bộ cơ sở, có một

ban chấp hành gồm 35 thành viên. Hội đã tổ chức làm thẻ hội viên cho 960 cụ.

Hội vận động xây dựng quỹ để có bình quân 5.000 đồng/hội viên năm 1996. Đến

năm 2001 quỹ hội có bình quân 7.000 đồng/hội viên, tăng 50% so với năm 1996,

hội đã thành lập đƣợc 3 câu lạc bộ có 500 hội viên tham gia. Nội dung sinh hoạt

phong phú theo tháng về sức khoẻ, thể thao, thơ ca góp phần nâng cao sức khoẻ

và tuổi thọ cho hội viên. Năm 2001 hội đã phân loại và bình trọn đƣợc 1.500 hội

viên đạt danh hiệu ngƣời cao tuổi mẫu mực, bằng 47% tổng số cụ. Trong 35 chi

hội có 14 chi hội suất sắc và 21 chi hội khá, không có chi hội trung bình và yếu

kém.

Về thực hiện xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn minh

trong việc cƣới, việc tang, lễ hội: Đảng bộ Gia Lâm đã luôn xác định cuộc vận

động xây dựng gia đình văn hoá, khu dân cƣ, thị trấn văn hoá... là một chủ

trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta. Cuộc vận động nhằm duy trì và phát huy

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa, tạo

điều kiện cho mọi công dân đƣợc hƣởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần.

Nâng cao trách nhiệm góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, từng

bƣớc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội của địa 53

phƣơng. Từ đó góp phần cùng cả nƣớc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nƣớc

mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

Ngày 6 tháng 7 năm 1996 UBND thành phố Hà Nội có công văn số

452/VHTT-HD về việc hƣớng dẫn xây dựng quy ƣớc làng văn hoá bao gồm các

quy định nhƣ: quy định về xây dựng gia đình văn hoá theo 4 nội dung là: “Gia

đình hòa thuận hạnh phúc tiến bộ, đoàn kết tƣơng trợ xóm phố, thực hiện kế

hoạch hóa gia đình, thực hiện nghĩa vụ công dân...”; bốn nội dung quy định về

nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt hàng ngày “Quy định về xây dựng nếp ăn ở

đi lại, lao động, ứng xử trong các quan hệ xã hội trong thôn làng phải kính già,

yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, tƣơng thân tƣơng ái, đùm bọc yêu thƣơng giúp đỡ lẫn

nhau, giáo dục mọi ngƣời loại bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội...”;

quy định về việc cƣới, việc tang, giỗ, lễ hội “tổ chức cƣới văn minh tiến bộ, giản

dị, tiết kiệm, tổ chức tang cần nghiêm trang, gọn nhẹ, tiết kiệm hợp vệ sinh,

không cỗ bàn linh đình, lễ hội phải đƣợc sự đồng ý của cấp chính quyền...”.

Đảng bộ đã chỉ đạo UBND huyện Gia Lâm tổ chức thực hiện trên địa bàn huyện.

Đảng bộ đã chỉ đạo MTTQ huyện phối hợp với ngành văn hoá xây dựng bản

quy ƣớc nếp sống mới ở địa phƣơng. Bản quy ƣớc gồm 3 phần với 25 điều đã

đƣợc Hội đồng nhân dân huyện phê duyệt có hiệu lực thực hiện tại kỳ họp lần

thứ 12 HĐND khoá 7 ngày 27.8.1997. Quy ƣớc đã đƣợc nhân dân đồng tình ủng

hộ, bài trừ các thủ tục lạc hậu trong việc cƣới, việc tang và trong lễ hội, chống

mê tín dị đoan.

Ngày 25- 5-1998 thực hiện chủ trƣơng của Thành ủy, Huyện ủy, UBND,

Phòng văn hóa thông tin huyện đã tập trung chỉ đạo trên địa bàn 35 xã, thị trấn

trong huyện và đạt đƣợc nhiều kết quả. Đặc biệt thôn Yên Mỹ xã Dƣơng Quang

tiến hành xây dựng quy ƣớc làng văn hóa với quy định trên và phù hợp với điều

kiện ở địa phƣơng (xem phụ lục 3). Sau khi thực hiện trên toàn thôn đã đạt nhiều

thành tựu nhƣ; không có học sinh bỏ học giữa trừng, không có phát sinh tệ nạn

xã hội, đời sống nhân dân ngày càng phát triển, đƣờng làng ngõ xóm sạch sẽ, an

ninh trật tự đƣợc giữ vững... 54

Thực hiện các chủ trƣơng của Đảng, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá

ở Gia Lâm đã đạt đƣợc nhiều thành tựu song chính nó cũng đặt ra những tồn tại

cần phải giải quyết. Đảng bộ đã tổ chức học tập Chỉ 27/CT- TW năm 1998 của

Bộ chính trị, quy định về việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc

tang, lễ hội và những định hƣớng quan trọng là: “Thứ nhất: bảo tồn có chọn lọc,

cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; loại bỏ dần

trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây dựng và hình

thành dần những hình thức văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá

dân tộc trong việc cƣới, việc tang, lễ hội;

Thứ hai: lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu;

Thứ ba: chống khuynh hƣớng kinh doanh, vụ lợi;

Thứ tƣ: xoá bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan.”[4; tr. 11].

Thực hiện cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc

tang, lễ hội của Bộ chính trị, Đảng bộ Gia Lâm đã chỉ đạo UBND phối hợp với

phòng văn hoá xây dựng quy chế cƣới trong nhân dân và đƣa ra lấy ý kiến với

bản quy định này. Bản quy định gồm 4 phần 20 điều đƣợc Hội đồng nhân dân

huyện thông qua ngày 26- 12-1998 đã góp phần to lớn trong việc xây dựng đời

sống văn hoá của nhân dân trong huyện.

Bản quy chế đã đƣợc mọi tầng lớp nhân dân hƣởng ứng, các cấp, các ngành

tham gia để thay đổi các hủ tục lạc hậu cần phải xóa bỏ trong thời kỳ công

nghiệp hoá hiện đại hoá.

Kết quả thực hiện cuộc vận động này đến năm 1999 toàn huyện đã có 71.000

hộ tham gia tăng 3.000 hộ so với năm 1998. Tỷ lệ hộ đăng ký đạt danh hiệu gia

đình văn hoá là 52.400 hộ đạt 78,5% số hộ đăng ký, tăng 3,5% so với 1998.

Toàn huyện có 27/35 xã đạt tiêu chuẩn “Nông thôn mới” tăng 4 xã so với năm

1998.

Cuộc vận động xây dựng NSVM- GĐVH đƣợc triển khai đến các xã và thị

trấn, các cơ quan xí nghiệp, trƣờng học, đã góp phần nâng cao nhận thức về vị trí

quan trọng của gia đình trên địa bàn huyện, nó khơi dạy truyền thống đoàn kết, 55

tƣơng thân, tƣơng ái xóm phố, để nhân dân hiểu biết đƣợc vai trò vị trí của gia

đình trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá.

Tiếp đến, để hƣởng ứng cuộc thi “Gia đình văn minh- hạnh phúc” lần thứ 2

của thành phố Hà Nội, có 100% các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã tham gia

với số lƣợng 350 hộ gia đình. Huyện đã tiến hành cuộc thi cụm để tuyển chọn

đƣợc 12 gia đình dự thi cấp huyện sau đó chọn 2 gia đình thi cấp thành phố,

đƣợc UBND thành phố tặng cờ đơn vị có phong trào xuất sắc.

Đảng bộ huyện rất quan tâm đến công tác xây dựng làng văn hoá, vì làng là

đơn vị hành chính tồn tại ở nông thôn từ rất lâu, bƣớc vào thời kỳ công nghiệp

hoá- hiện đại hoá, văn hoá làng cũng có nhiều thay đổi. Huyện chỉ đạo xây dựng

làng văn hoá - xã văn minh trong toàn bộ 35 xã thị, trấn. Đã có 27 xã xây dựng

xong dự thảo hƣơng ƣớc làng văn hoá, tổ chức họp lấy ý kiến của nhân dân để

chỉnh sửa áp dụng vào địa phƣơng.

Kết quả thu đƣợc năm 1999 có 10/27 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn khu dân cƣ

văn hoá đạt 37%. Năm 2000 có 22/27 khu dân cƣ đạt danh hiệu khu dân cƣ văn

hoá bằng 81% số khu dân cƣ đăng ký.

Năm 1999 huyện Gia Lâm tiếp tục thực hiện quy chế cƣới “Trang trọng –

lành mạnh – tiết kiệm” của UBND thành phố trong năm 1998 có 210 đám cƣới

đến tháng 11-1999 có 198 đám cƣới, đến năm 2000 có 210 đám cƣới đạt tỷ lệ

78% tổng số đám cƣới của huyện trong năm .

Việc tang là công việc có ý nghĩa tâm linh của mỗi gia đình. Để thay đổi

những tập tục vốn có từ trƣớc thì đòi hỏi mỗi gia đình phải nhận thức đƣợc vai

trò trong việc xây dựng nếp sống mới. Đƣợc sự lãnh đạo của huyện Gia Lâm,

UBND huyện đã triển khai thí điểm đám tang “trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm,

hợp vệ sinh, không cỗ bàn linh đình” ở 3 xã: Ninh Hiệp, Văn Đức, Dƣơng Xá để

sau đó rút kinh nghiệm và nhân rộng ra toàn địa bàn huyện.

Thực hiện Chỉ thị số 34/CT-TU ngày 26-3-1998 của Thành uỷ Hà Nội về quy

chế cƣới “Trang trọng –lành mạnh- tiết kiệm” và hƣớng dẫn thực hiện nếp sống

văn minh trong lễ cƣới, lễ tang, lễ hội của UBND huyện Gia Lâm, Ban chỉ đạo 56

NSVM - GDVH xã Dƣơng Quang đã xây dựng quy chế tổ chức lễ cƣới, lễ tang,

lễ hội của mình. Đảng uỷ cùng với UBND và MTTQ, ban văn hoá tiến hành

soạn và đƣa ra lấy ý kiến trong toàn bộ nhân dân. Kế hoạch này gồm có 2 phần,

phần 1 nêu lên mục đích yêu cầu, phần 2 nêu lên nội dung và thời gian thực hiện

(xem phụ lục 2).

Kế hoạch triển khai chỉ thị 27/CT-TW của Bộ chính trị và hƣớng dẫn của

UBND huyện về lễ cƣới, lễ tang, lễ hội đƣợc UBND xã và ban chỉ đạo nếp sống

văn minh – gia đình văn hóa, thực hiện một cách nghiêm túc đúng yêu cầu, đƣợc

các đoàn thể, các cấp uỷ, chi bộ, trƣởng các thôn xóm thực hiện, hàng tháng có

báo cáo về thƣờng trực ban chỉ đạo nếp sống văn minh – gia đình văn hóa xã để

tập hợp báo cáo với ban chỉ đạo của huyện.

Sau khi thực hiện kế hoạch xây dựng nếp sông văn minh trong việc cƣới, việc

tang, lễ hội trên địa bàn xã Dƣơng Quang đã thu đƣợc một số kết quả sau:

Số đám cƣới thực hiện năm 1998 có 25 đám, năm 1999 có 50 đám, năm 20001

có 70 đám tính trung bình đạt 88% trong tổng số các đám cƣới diễn ra trên toàn

xã. Số đám tang, cải cát năm 1998 có 15 đám, năm 1999 có 30 đám, năm 2001

có 55 đám chiếm tổng số 91% tổng số đám ma, cải cát trên địa bàn xã.

Về mặt tổ chức lễ hội thực hiện đúng hƣớng dẫn của cấp trên, trong toàn xã ở

8 thôn tất cả đều có ban tổ chức lễ hội lập ra chịu sự quản lý của chi bộ và chịu

trách nhiệm trƣớc UBND xã vì vậy không có các hiện tƣợng tiêu cực xẩy ra.

Trong lễ hội nhƣ là một dịp nhân dân phấn khởi sinh hoạt đời sống cộng đồng và

tâm linh, con em làm ăn các nơi tụ họp về làng tạo thành nếp sinh hoạt văn hoá

đặc sắc. Tiêu biểu là làng Yên Mỹ vào các dịp 13/3 âm lịch hội chùa đƣợc tổ

chức, ngày mùng 8/4 âm lịch hội đình, nhân dân trong thôn sinh hoạt cộng đồng

có 2 phần lễ và phần hội; phần lễ nhiều gia đình và bà con làm ăn ở nơi xa đã về

chùa để dâng hƣơng tƣởng nhớ công lao của thần thành hoàng làng hiệu là

Quảng Đồ Đại Vƣơng đƣợc phong làm Bản Châu Thái Thú có công dẹp giặc

thời Hai Bà Trƣng sau khi ông mất dân làng lập miếu và thờ ông lấy ngày 13/3

hàng năm để tổ chức lễ hội. Về phần hội đƣợc chính quyền thôn tổ chức rất chu 57

đáo nhƣ nghiêm cấm các trò chơi ăn tiền, cờ bạc, rƣợu chè... các gia đình trong

dịp này cũng là nơi đón tiếp khách nơi xa về quê dự hội.

Đảng bộ huyện Gia Lâm còn tổ chức nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng

Đảng, xây dựng chính quyền. thông qua Hội đồng nhân dân đã có tổng số 2.050

lƣợt ngƣời tham gia và có 230 ý kiến đóng góp. Mọi ý kiến đều nói lên tình hình

của huyện nhà nhƣ: kinh tế trên địa bàn huyện phát triển chƣa bền vững, chuyển

dịch cơ cấu còn chậm, nguồn lực, nội lực chƣa đƣợc khái thác triệt để, vai trò

quản lý của nhà nƣớc, công tác quản lý đất đai, quản lý xây dựng cơ bản, quản lý

đô thị có những sơ hở thiếu chặt chẽ cần đƣợc chấn chỉnh, cán bộ tham nhũng

chƣa gƣơng mẫu trong sinh hoạt thƣờng ngày... Những ý kiến đó đã giúp Đảng

bộ Gia Lâm hoàn thiện hơn tổ chức và chủ trƣơng của mình, từ đó có các biện

pháp khắc phục những hạn chế và thực hiện có kết quả trong các hoạt động thực

tiễn;

Công tác chính trị tƣ tƣởng đƣợc triển khai tích cực có hiệu quả: thực hiện

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII (1996), Đảng bộ đã đặc biệt

coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời sâu rộng đến cán bộ, đảng viên

và nhân dân các chủ trƣơng của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nƣớc, coi

trọng việc nắm bắt tâm tƣ, nguyện vọng diễn biến của nhân dân. Tăng cƣờng

công tác giáo dục truyền thống, gắn với việc đẩy mạnh phong trào thi đua, phát

huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Công tác đào tạo cán bộ là khâu quyết

định, nhận thức đƣợc nhƣ vậy nên trong 5 năm (1996-2001) Huyện uỷ đã chỉ đạo

UBND và các ngành tuyển chọn và cử 45 đồng chí đi học cao cấp lý luận, mở 2

lớp đào tạo trung cấp lý luận cho 214 đồng chí, bồi dƣỡng đào tạo đƣợc 29.096

lƣợt cán bộ, đảng viên;

Công tác tổ chức - cán bộ: đƣợc Huyện uỷ quan tâm thƣờng xuyên, củng cố

và kiện toàn tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ

sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Hầu hết các tổ chức cơ sở Đảng đã khẳng định

đƣợc vị trí, vai trò lãnh đạo trên các lĩnh vực công tác, từng bƣớc đổi mới

phƣơng pháp ra nghị quyết và thực hiện nghị quyết, công tác phát triển đảng viên 58

mới có tiến bộ. Từ 1996 đến 2001 toàn huyện đã kết nạp đƣợc 1.636 đảng viên

mới. Nhƣng đảng viên mới kết nạp này đều là những thanh niên ƣu tú, gƣơng

mẫu làm tăng thêm sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Bên cạnh đó Đảng bộ huyện

cũng mạnh dạn sắp xếp, bố trí, luân chuyển cán bộ. Trong 5 năm 1996 – 2001

huyện đã điều động, luân chuyển 72 lƣợt cán bộ, đề bạt bổ nhiệm 52 trƣởng phó

ban, ngành của huyện;

Đảng bộ huyện Gia Lâm rất quan tâm tới việc kiểm tra Đảng: kiểm tra việc

chấp hành điều lệ Đảng, chấp hành các chỉ thị nghị quyết của Đảng và chính

sách pháp luật của Nhà nƣớc. Trong 5 năm 1996-2001 Huyện uỷ đã kiểm tra

đƣợc 246 lƣợt đảng viên và 147 lƣợt tổ chức Đảng chấp hành điều lệ Đảng và

thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, đồng thời tăng cƣờng kiểm tra theo chuyên đề.

Thông qua việc kiểm tra đã phát hiện những sai phạm của đảng viên và tổ chức

đảng. Tính đến hết quí III năm 2001, Huyện uỷ đã kỷ luật 143 đảng viên với các

hình thức nhƣ: khiển trách 31, cảnh cáo 62, cách chức 12, khai trừ ra khỏi Đảng

37; khiển trách 2 Ban chấp hành Đảng bộ cơ sở;

Công tác dân vận đƣợc tiếp tục đổi mới: Huyện uỷ đã ra nghị quyết chuyên đề

về tăng cƣờng sự lãnh đạo của cấp uỷ với công tác dân vận, tiến hành củng cố

kiện toàn ban dân vận huyện, tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới nội dung và

phƣơng thức hoạt động của công tác dân vận. Tăng cƣờng nắm bắt tình hình tƣ

tƣởng, nguyện vọng của nhân dân, góp phần giải quyết những vƣớng mắc nẩy

sinh. Thƣờng xuyên tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chủ trƣơng,

chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, tham gia thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ

chính trị ở địa phƣơng;

Sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ XVII, Đảng bộ đã giữ vững

“Đảng bộ huyện trong sạch vững mạnh”. Từ đó vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu

của các cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, đảng viên đƣợc nâng lên. Số chi, đảng bộ đạt

trong sạch vững mạnh bình quân hàng năm đạt 58,4% trong đó đảng viên loại 1

và loại 2 bình quân hàng năm đạt 98-99%.

59

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVII từ

năm 1996 đến năm 2001, các cấp, các ngành và các đoàn thể ở Gia Lâm đã thực

hiện và đạt đƣợc nhiều kết quả đáng trân trọng. Đời sống của đại bộ phận nhân

dân đƣợc cải thiện và tăng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu ngƣời trên địa bàn

huyện đạt 8 triệu đồng/năm, tăng gấp 3 lần so với năm 1991. Điều kiện sống và

sinh hoạt của đại bộ nhân dân ngày càng đƣợc nâng cao. Trong công tác văn hoá

- giáo dục, huyện đã hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, số gia đình

đạt tiêu chuẩn văn hoá đạt 80% số hộ tham gia đăng ký, có 160/315 khu dân cƣ

(tổ dân phố, thôn, xóm) đạt danh hiệu văn hoá. Chính trị ổn định, trật tự an toàn

đƣợc giữ vững. Từ đó Đảng bộ có thêm những kinh nghiệm mới ngày càng vững

vàng và trƣởng thành. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc đƣợc

nâng cao.

Tuy nhiên trong quá trình lãnh đạo Đảng bộ Gia Lâm còn bộc lộ những tồn tại

và hạn chế cần phải khắc phục trong nhiệm kỳ tới. Kinh tế tuy có bƣớc phát triển

khá nhƣng chƣa vững chắc, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng và thế mạnh của

huyện. Việc giải quyết một số vấn đề cấp bách còn chậm, kết quả chƣa cao.

Công tác xây dựng Đảng còn có những hạn chế chƣa ngang tầm với yêu cầu

nhiệm vụ. Hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp còn một số lĩnh

vực chƣa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân còn hạn chế về nội dung, phƣơng thức thu hút, tập hợp đông đảo đoàn viên,

hội viên. Một số hoạt động còn dừng lại ở cấp trên cơ sở. Nhiều phong trào đã

đạt đƣợc kết quả cao song không đƣợc duy trì và giữ vững hay các cấp, các

ngành chƣa thƣờng xuyên kiểm tra, đánh việc thực hiện các phong trào trong

nhân dân. Một bộ phận cán bộ đoàn thể cơ sở chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu trong

tình hình mới.

2.2. Đảng bộ Gia Lâm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa trong những

năm 2001 – 2005

2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ

60

Thực hiện chỉ thị số 54/TC – TW ngày 22 – 5- 2000 của Bộ chính trị Ban chấp

hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam về “Đại hội Đảng các cấp, tiến tới

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng”, Đại hội điểm Đảng bộ xã Phù

Đổng đã vinh dự đƣợc đón đồng chí Tổng bí thƣ Lê Khả Phiêu về dự và phát

biểu chỉ đạo. Từ đó các tổ chức cơ sở Đảng thuộc huyện uỷ Gia Lâm đã tổ chức

Đại hội cấp xã đạt kết quả tốt.

Vào ngày 22/6/2001 Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVIII đã diễn ra

tại hội trƣờng Huyện uỷ. Tham dự Đại hội có 178 đại biểu ƣu tú là đại biểu

đƣơng nhiên và đại biểu đƣợc bầu từ Đại hội Đảng cơ sở đại diện cho hơn 13

ngàn đảng viên của Đảng bộ huyện. Đại hội nhiệt liệt trào mừng đồng chí Trần

Văn Tuấn uỷ viên Trung ƣơng Đảng, phó bí thƣ thƣờng trực Thành uỷ, đồng chí

Phạm Lợi phó bí thƣ Thành uỷ và các đồng chí uỷ viên Thƣờng vụ Thành uỷ Hà

Nội, các đồng chí lãnh đạo các ban Đảng, các ngành của Thành phố, các đồng

chí trong tổ công tác chỉ đạo Đại hội của Thành uỷ Hà Nội, những đồng chí

thƣờng xuyên quan tâm chỉ đạo Đảng bộ và nhân dân Gia Lâm về dự và chỉ đạo

Đại hội.

Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVIII diễn ra trong không khí của

Thủ đô Hà Nội cùng cả nƣớc vừa kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội.

Trong niềm vui Hà Nội đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu cao quý:

“Thủ đô anh hùng”. Đại hội này có ý nghĩa lịch sử trọng đại, Đại hội của thời

điểm bƣớc vào thiên niên kỷ và thế kỷ mới.

Với tinh thần “trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, Đại hội lần thứ XVIII có

nhiệm vụ tổng kết đánh giá toàn diện tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,

an ninh quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị của nhiệm kỳ 1996 – 2001,

khẳng định những kết quả và tiến bộ nổi bật, nghiêm túc chỉ ra những yếu kém,

khuyết điểm, rút ra phƣơng hƣớng, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu

cho giai đoạn 2001 – 2005.

Đại hội XVIII của Đảng bộ huyện đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị

quyết Đại XVII và cho rằng; “Tốc độ phát triển kinh tế có xu hƣớng chậm lại, 61

việc giải quyết các vấn đề cấp bách nhƣ; việc làm, phòng chống tệ nạn xã hội

chƣa đạt kết quả cao, chất lƣợng giáo dục đào tạo chƣa vững chắc, chất lƣợng

khám chữa bệnh chƣa cao, một số chi bộ giảm sút về vai trò lãnh đạo và sức

chiến đấu...” [15; tr. 32-33].

Từ những tồn tại trên, Đại hội lần thứ XVIII của Đảng bộ huyện Gia Lâm đã

vạch ra phƣơng hƣớng chung để lãnh đạo nhân dân đi đến những thắng lợi mới.

Đó là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy tối đa nội lực, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hƣớng: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- nông nghiệp- dịch

vụ; khuyến khích mở rộng sản xuất và đầu tƣ từ bên ngoài, đẩy mạnh liên doanh,

hiệp tác, đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học- kỹ thuật nâng cao chất lƣợng

sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, tập

trung vốn đầu tƣ cho sản xuất mở rộng ngành nghề. Thực hiện vững chắc chủ

trƣơng cổ phần hoá doanh nghiệp, tích cực nâng cao chất lƣợng hoạt động và

hiệu quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của kinh tế hợp tác. Phát triển kinh tế phải

đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao hiệu lực quản lý của các cấp chính

quyền và hiệu quả hoạt động của các đoàn thể nhân dân, xây dựng hệ thống

chính trị, xây dựng Đảng bộ trong sạch. Để hoàn thành các chỉ tiêu đề ra Đảng

bộ huyện Gia Lâm luôn quan tâm công tác xây dựng đời sống văn hoá trên địa

bàn, từ xây dựng kinh tế để phát triển văn hoá và công tác xã hội. Đòi hỏi các

ngành, các cấp và toàn thể nhân dân cố gắng khắc phục khó khăn để thực hiện

thắng lợi các nghị quyết mà Đại hội XVIII đề ra.

Ngoài việc coi trọng phát triển kinh tế, thì Đảng bộ huyện còn rất quan tâm

đến việc xây dựng đời sống văn hoá - xã hội. Vì nếu muốn có sự phát triển bền

vững về kinh tế thì yếu tố con ngƣời – gia đình có ý nghĩa quyết định tác động

trở lại sự phát triển kinh tế. Đại hội XVIII của Đảng bộ huyện đã đề ra các chỉ

tiêu kinh tế, văn hoá - xã hội cụ thể là:

62

Kinh tế: tốc độ phát triển kinh tế trên phạm vi lãnh thổ huyện 14-16%. Tốc độ

phát triển kinh tế thuộc huyện quản lý tăng từ 10-12%. Giá trị sản xuất trên 1 ha

canh tác: 55-60 triệu đồng.

Xã hội: giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn dƣới 4% (theo tiêu chí mới).

Giảm tỷ lệ sinh hàng năm là 0,3%. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng dƣới 15%.

Tạo và giải quyết việc làm cho 6.500 – 7.000 lao động/năm

Văn hoá: số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới là 100%. Số gia đình đạt tiêu

chuẩn gia đình văn hoá từ 85% trở lên. Số thôn xóm, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn

cụm dân cƣ văn hoá từ 40- 50%. Số trƣờng đạt chuẩn quốc gia (cấp tiểu học +

Trung học cơ sở) đạt 15%. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp tiểu học đạt 100%,

Trung học cơ sở đạt trên 90%. [15; tr. 39 – 40].

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị: tăng cƣờng, củng cố

Đảng về mọi mặt, nhất là về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức nhằm tạo sự thống

nhất đoàn kết chặt chẽ với nhân dân nâng cao năng lực và sức chiến đấu của

Đảng bộ. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các

cấp ủy Đảng thƣờng xuyên lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của MTTQ và các đoàn

thể nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua “Ngƣời tốt, việc tốt”, “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, “Lao động giỏi”...

Trên đây là những chủ trƣơng mà Đại hội XVIII của Đảng bộ Gia Lâm đã đề

ra để xây dựng phát triển kinh tế, đời sống văn hoá của nhân dân trên địa bàn.

Việc xây dựng đời sống văn hoá đƣợc thực hiện khá toàn diện trên nhiều khía

cạnh nhƣ kinh tế- chính trị- văn hoá - xã hội- an ninh- quốc phòng. Chủ trƣơng

trên là nhiệm vụ nặng nề mà cán bộ nhân dân huyện đã thực hiện và đã đạt đƣợc

một số thành tựu cơ bản, cũng từ đó còn nhiều tồn tại vƣớng mắc phải giải quyết

trong quá trình thực hiện.

2.2.2. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm dưới sự chỉ đạo

của Đảng bộ huyện giai đoạn 2001 – 2005

Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở

khu dân cƣ” do Uỷ ban Trung ƣơng MTTQ Việt Nam phát động ngày 63

12/6/2001. Cuộc vận động này đƣợc thống nhất từ cuộc vận động “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cƣ” với phong trào “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa” mà MTTQ Việt Nam phát động trƣớc đây.

Cuộc vận động này dƣới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, có sự phối kết hợp của

UBND do uỷ ban MTTQ chủ trì phối hợp thống nhất hành động. Cuộc vận động

này đƣợc thực hiện với khẩu hiệu: hƣớng mạnh về địa bàn dân cƣ và hộ gia đình,

giúp cơ sở xây dựng địa bàn dân cƣ có cuộc sống ấm no, an toàn, văn minh và

hạnh phúc. Thực hiện mỗi khu dân cƣ là một mặt trận, đoàn kết, thống nhất,

phấn đấu vì dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Động

lực của cuộc vận động là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở lấy lợi ích

chung của cộng động dân cƣ là điểm tựa. Tƣ tƣởng chỉ đạo của cuộc vận động là

“lấy sức dân xây dựng cuộc sống cho dân”. Đây là cuộc vận động lớn diễn ra

trên toàn quốc với 6 nội dụng sau: “thứ nhất, đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển

kinh tế, phát huy các thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế huy động

đƣợc nhiều nguồn lực, tạo nhiều việc làm để phát triển sản xuất, xoá đói giảm

nghèo. Bảo đảm ở mỗi khu dân cƣ ngày càng có số đông hộ khá giả, không có hộ

đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu hợp pháp.

Thứ hai: Đoàn kết phát huy truyền thống “Uống nƣớc nhớ nguồn”, “Tƣơng

thân tƣơng ái”, có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa và nhân đạo từ thiện, bảo

đảm cho các gia đình liệt sỹ, thƣơng binh và những ngƣời có công với nƣớc có

mức sống cao hơn mức sống trung bình ở khu dân cƣ. Ngƣời già cô đơn, trẻ em

tàn tật, những nạn nhân của chất độc hoá học và những ngƣời bất hạnh trong

cuộc sống đều đƣợc chăm sóc chu đáo bằng việc thực hiện đầy đủ các chính sách

của Nhà nƣớc và bằng sự hỗ trợ giúp đỡ của cộng đồng dân cƣ.

Thứ ba: Đoàn kết phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cƣơng, mọi ngƣời sống và làm

việc theo pháp luật, theo quy ƣớc, hƣơng ƣớc của cộng động; thực hiện tốt quy

chế dân chủ. Bảo đảm ở khu dân cƣ không có tệ nạn xã hội và tội phạm, trật tự

an toàn xã hội đƣợc giữ vững, hoà giải tại chỗ những mâu thuẫn nội bộ, cảm hoá

64

đƣợc những ngƣời lầm lỗi, mọi ngƣời tích cực tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc

và xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Thứ tƣ: Đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc và thuần phong mỹ tục cho nhân dân, bảo vệ các di tích lịch sử – văn

hoá, di tích cách mạng, các khu bảo tồn thiên nhiên, xây dựng môi trƣờng văn

hoá lành mạnh. Bảo đảm ở mỗi khu dân cƣ thực hiện tốt nếp sống văn minh

trong việc cƣới, việc tang, lễ hội và trong quan hệ ứng xử; có điểm giải trí vui

chơi công cộng sạch sẽ; mọi hộ gia đình sống hoà thuận, quan hệ xóm giềng tốt

đẹp, không còn nhà dột nát, phần đông số hộ có điện, có nƣớc sạch dùng trong

sinh hoạt, có phƣơng tiện nghe nhìn, bảo vệ cây xanh nơi công cộng và khuyến

khích mọi nhà trồng cây xanh, xây dựng vƣờn hoa, cây cảnh. Có nhiều gia đình

đạt tiêu chuẩn văn hoá.

Thứ năm: Đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khoẻ ban đầu

phát triển thể dục thể thao và chƣơng trình dân số – kế hoạch hoá gia đình. Bảo

đảm ở khu dân cƣ, mọi trẻ em đến trƣờng đúng độ tuổi và không có trẻ em bỏ

học, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập tiểu học, học sinh nghèo đƣợc giúp đỡ,

học sinh giỏi đƣợc khuyến khích, mọi trẻ em đƣợc bảo vệ, chăm sóc chu đáo và

tiêm chủng đúng lịch, không có ngƣời sinh con thứ ba.

Thứ sau: Đoàn kết xây dựng cơ sở chính trị vững vàng gắn bó mật thiết với

nhân dân trong khu dân cƣ. Động viên và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân

phát huy dân chủ, xây dựng, giám sát hoạt động cơ quan nhà nƣớc, đại biểu dân

cử, cán bộ công chức nhà nƣớc và đòi hỏi sự gƣơng mẫu của cán bộ, đảng viên

trong rèn luyện tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống, góp phần xây dựng Đảng, chính

quyền, các đoàn thể và Ban công tác mặt trận, mở rộng lực lƣợng nòng cốt làm

công tác mặt trận ở khu dân cƣ” [7; tr. 288-289].

Với những nội dung thiết thực trên đây cuộc vận động đã đƣợc nhân dân đồng

tình ủng hộ. Đây là cuộc vận động lớn, nên Đảng bộ huyện Gia Lâm hết sức coi

trọng, quan tâm đƣa cuộc vận động này vào chƣơng trình công tác của mình.

65

Cuộc vận động này đã gắn vào các mục tiêu là xây dựng khu dân cƣ văn hoá và

gia đình văn hoá.

Kết hợp thực hiện nghị quyết của về phát triển kinh tế với cuộc vận động toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ, Đảng bộ đã lãnh đạo

chính quyền, các đoàn thể, nhân dân Gia Lâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu

đặt ra:

Kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và tăng trƣởng khá: giai đoạn 2001-2003

trƣớc khi thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh địa giới hành chính theo nghị quyết

132/2003/NĐ-CP của chính phủ với sự nỗ lực phấn đấu và quyết tâm cao của

Đảng bộ và nhân dân Gia Lâm, 8/12 chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội đã đạt và

vƣợt chỉ tiêu Đại hội XVIII đề ra, trong đó chỉ tiêu phát triển kinh tế đã cơ bản

hoàn thành; tốc độ tăng trƣởng kinh tế do huyện quản lý tăng bình quân 13,1%,

nông nghiệp tăng 4%. Giá trị sản xuất trên 1ha canh tác năm 2003 đạt 56,7 triệu

đồng (theo tiêu chí cũ).

Giai đoạn 2004-2005, trong điều kiện có nhiều khó khăn nhƣng hầu hết các

chỉ tiêu về phát triển kinh tế vẫn giữ mức ổn định, tăng trƣởng cao hơn giai đoạn

trƣớc và cơ bản đạt chỉ tiêu đề ra.

Đến năm 2003 ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản

chiếm 46,38%; thƣơng mại - dịch vụ chiếm 32,41%; nông nghiệp chiếm 21,21%.

Đến năm 2005 công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản chiếm

53,50%; nông nghiệp chiếm 23,40%; thƣơng mại – dịch vụ chiếm 23,10%. Các

ngành nghề truyền thống đƣợc mở rộng và phát triển, ngày càng chiếm tỷ trọng

cao trong cơ cấu nội bộ ngành, trong đó sản phẩm xuất khẩu tăng khá, sản phẩm

chế biến cũng chiếm vị trí quan trọng. Các dự án phát triển khu công nghiệp,

cụm công nghiệp tập trung đang đƣợc triển khai thực hiện tích cực: khu công

nghiệp vừa và nhỏ Phú Thị, khu công nghiệp thực phẩm Haprô (xã Lệ Chi), cụm

công nghiệp Ninh Hiệp, làng nghề Bát Tràng, Kiêu Kỵ và các dự án khác đang

đi vào hoạt động có hiệu quả.

66

Hoạt động thƣơng mại- dịch vụ đƣợc đẩy mạnh, văn minh thƣơng mại có

chuyển biến; một số vùng sinh thái từng bƣớc đƣợc nghiên cứu và triển khai, tạo

thế phát triển dịch vụ – du lịch- sinh thái cho những năm tới nhƣ Phù Đổng,

Dƣơng Xá. Mạng lƣới các chợ đƣợc phê duyệt 9 dự án với tổng số vốn lên đến

14 tỷ đồng nhƣ khu chợ Keo (xã Kim Sơn), Sủi (xã Phú Thị), Ninh Hiệp (xã

Ninh Hiệp)... để phục vụ nhu cầu đời sống hàng ngày của nhân dân địa phƣơng.

Đảng bộ huyện thƣờng xuyên lãnh đạo rà soát, củng cố, kiện toàn nâng cao

trình độ quản lý, hiệu quả kinh doanh - dịch vụ của các HTX; trong tổng số 37

HTX (16 HTX phi nông nghiệp) đã có 58% HTX hoạt động ổn định, 27 HTX

hoạt động khá trở lên, nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp bƣớc đầu đã thích hợp

với cơ chế hoạt động, từng bƣớc nâng cao chất lƣợng hiệu quả một số khâu dịch

vụ.

Huyện uỷ chỉ đạo phòng tài chính, kho bạc huyện tăng cƣờng quản lý nguồn

thu ngân sách, chống thất thu, đảm bảo nhu cầu chi thƣờng xuyên, phục vụ

nhiệm vụ chính trị của huyện đến cơ sở; tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng

năm 8-10%; thu ngân sách huyện theo phân cấp hàng năm 5-6%.

Đã hoàn thành một số công trình trọng điểm nhƣ; hệ thống lƣới điện nông

thôn, hệ thống đèn chiếu sáng ở các thị trấn và các trục đƣờng chính, nâng cấp

cải tạo một bƣớc cơ sở vật chất cho các trƣờng học, trạm y tế. Đƣờng giao thông

nông thôn đƣợc quan tâm đầu tƣ 43 km đƣờng giao thông liên xã, hệ thống thuỷ

lợi đƣợc nâng cấp cải tạo 45km kênh tƣới trong đó kênh loại II đã kiên cố hoá

đƣợc trên 30km. Xây dựng 4 trạm cấp nƣớc sạch (Bát Tràng, Phù Đổng, Ninh

Hiệp, Kim Lan). Hoàn thành và đƣa vào sử dụng nhà thi đấu phục vụ Sea games

22...

Thực hiện chƣơng trình 06 của Huyện uỷ khoá XVIII về “Quản lý đô thị và

xây dựng giai đoạn 2001-2005”, công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch đƣợc Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Từ 2001 - 2005 đã thu hồi 10.594m2 đất và cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 443.704 giấy cho nhân dân.

67

Hoạt động của các tổ chức hội nhân dân: trong chƣơng trình xây dựng đời

sống văn hoá Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội ngƣời cao

tuổi... đã giúp nhau làm kinh tế gia đình, xây dựng quê hƣơng, phát triển các

phong trào có tính chất cộng đồng, mở mang nhiều ngành nghề để giúp nhau làm

ăn...

Đối với các đoàn thể nhân dân, Đảng bộ huyện coi MTTQ và các đoàn thể

nhân dân là lực lƣợng chính để tuyên truyền giáo dục vận động đoàn viên, hội

viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trƣơng chính sách của Đảng

và Nhà nƣớc. Hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế - văn hoá - xã hội mà Đảng bộ

đề ra. Nhờ vậy mà phong trào ở các đoàn thể nhân dân đã giấy lên một cách sôi

nổi.

MTTT huyện là đơn vị đi đầu trong các phong trào xây dựng khối đại đoàn

kết toàn dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nƣớc. Uỷ ban MTTQ huyện đã

phát động phong trào; xây dựng ngƣời tốt việc tốt, toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hoá ở cơ sở. Các phong trào này góp phần rất lớn vào công tác xây

dựng đời sống văn hoá trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Hội phụ nữ huyện: nêu cao khẩu hiệu “vì môi trƣờng trong sạch, phụ nữ và

nhân dân thủ đô không đổ giác và phế thải ra đƣờng” hay phong trào “tiết kiệm

vì phụ nữ nghèo”. Ngoài ra chị em còn giúp nhau làm kinh tế gia đình, thực hiện

sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, phòng chống các tệ nạn xã

hội nhƣ ma tuý, mại dâm, phòng chống HIV... Hội phụ nữ huyện đứng ra tín

chấp với ngân hàng nông nghiệp huyện Gia Lâm giúp chị em vay vốn để phát

triển sản xuất, với tổng số tiền lên đến 400 triệu đồng. Hội còn giúp đỡ 4 bà mẹ

Việt Nam anh hùng ở Dƣơng Quang, Lệ Chi hàng trăm ngày công. Vận động

chị em mua công trái giáo dục, đóng góp quỹ khuyến học, quỹ nhân đạo...

Những ngày lễ lớn nhƣ quốc tế phụ nữ 8/3, ngày thành lập hội phụ nữ Việt Nam

20/10 hội đều tổ chức mít tinh, liên hoan văn nghệ. Một số chị em còn tham gia

các cuộc thi nhƣ: thi công tác dân vận khéo, thi tuyên truyền viên giỏi, thi công

tác hoà giải... đạt kết quả cao. Hội phụ nữ có phong trào chị em giúp đỡ nhau 68

làm kinh tế gia đình, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khoẻ, dạy con

ngoan, phòng chống các tệ nạn xã hội nhƣ ma tuý, mại dâm, phòng chống HIV,

đăng ký nhận các đoạn đƣờng tự quản, phát động chị em thực hiện phong trào

“Vì môi trƣờng trong sạch”... Nhờ đổi mới nội dung và phƣơng thức hoạt động

nên số hội viên tham gia vào hội ngày càng đông. Năm 2001 có 1.200 hội viên

đến năm 2005 có 2.500 hội viên sinh hoạt ở 35 hội phụ nữ cơ sở. Với nhiều hoạt

động tích cực hội phụ nữ huyện Gia Lâm đã đƣợc thành phố và huyện tặng bằng

khen và giấy khen.

Hội cựu chiến binh: luôn phát huy bản chất anh bộ đội cụ Hồ. Dƣới sự lãnh

đạo của Đảng bộ huyện, sự vận động của MTTQ, hội luôn chấp hành chủ trƣơng,

chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, cùng hỗ trợ giúp nhau xây dựng kinh tế gia

đình. Ngoài ra, hội cựu chiến binh còn vận động hội viên ủng hộ, giúp đỡ hội

viên nghèo. Từ 2001 đến 2005 hội cựu chiến binh đã tổ chức xoá nhà tạm cho 19

hội viên mỗi hội trị giá 7 triệu đồng. Đến cuối năm 2005 hội cựu chiến binh

huyện có 567 hội viên tham gia ở 22 cơ sở.

Hội ngƣời cao tuổi: với phong trào “Phụ lão mẫu mực con cháu thảo hiền”

và phong trào này đƣợc cụ thể hoá thành 4 nội dung thi đua trong tổ chức Hội

ngƣời cao tuổi ở cấp huyện là: không có con cháu bỏ học, không có con cháu

trộm cắp, không có con cháu mại dâm, không có con cháu nghiện hút. Ngoài ra

Hội còn thành lập câu lạc bộ thơ ca, câu lạc bộ dƣỡng sinh giúp cho các cụ sống

vui, sống khoẻ, sống có ích.

Đƣợc sự chỉ đạo của Huyện uỷ, hội ngƣời cao tuổi huyện Gia Lâm đã tích cực

tham gia các phong trào nhƣ: xoá đói, giảm nghèo, tham gia quỹ khuyến học,

xây dựng dòng họ có con cháu hiếu học, xây dựng gia đình văn hoá, khu dân cƣ

văn hoá. Nhờ những hoạt động tích cực mà số hội viên tham gia hoạt động ngày

càng đông. Năm 2001 có 4.500 cụ đến năm 2005 con số tăng lên 10.000 cụ tham

gia. Những hoạt động và đóng góp của các cụ xứng đáng với 18 chữ vàng mà

ban chấp hành Trung ƣơng Đảng tặng “tuổi cao trí càng cao, nêu gƣơng sáng vì

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. 69

Hội nông dân huyện: còn tổ chức cho các hội nông dân cơ sở vay tiền để làm

kinh tế, xoá đói, giảm nghèo đƣa hội viên thoát khỏi tình trạng khó khăn. Số vốn

vay này giúp ích lớn cho hội viên và nâng cao mức sống của gia đình mình, đặt

biệt đến kỳ hạn thanh toán các hội viên nông dân đều thanh toán đầy đủ cho hội

nông dân cơ sở đạt 99%.

Thực hiện chỉ thị số 59/CT-TW và thông tri số 25TT/TW về tăng cƣờng sự

lãnh đạo của Đảng với hội nông dân Việt Nam, Đảng bộ huyện Gia Lâm luôn coi

trọng, giúp đỡ tạo điều kiện cho hội nông dân phát triển. Hội nông dân huyện đã

hƣớng dẫn và tổ chức cho hội viên đi tham quan học hỏi những mô hình làm

kinh tế giỏi, mở lớp tập huấn khoa học kỹ thuật, hƣớng dẫn cho hội viên cách

trồng trọt, chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Sau khi có kỹ thuật Hội nông

dân huyện lại giúp đỡ thêm vốn, nội dung để hội nông dân cơ sở phát triển kinh

tế trang trại, tiến lên làm giàu chính đáng. Những hoạt động thiết thực của hội đã

góp phần lớn trong chƣơng trình xoá đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng nông

thôn mới, cải thiện đời sống trong nhân dân. Từ 2001 đến 2005 hội kết nạp thêm

5.000 hội viên, nâng tổng số hội viên tham gia là 15.460 hội viên với quỹ hội là

130 triệu đồng. Ngoài ra hội nông dân còn thực hiện phong trào hội nông dân

văn hoá, giáo dục con cháu chăm ngoan, học giỏi, phấn đấu trở thành ngƣời có

ích trong xã hội.

Thực hiện nghị quyết Đại hội trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đƣợc sự

quan tâm của Huyện uỷ, UBND, hội nông dân huyện đã mở các lớp tập huấn

chuyển giao công nghệ, kỹ thuật trong trồng, chăm sóc cây, con cho nông dân.

Công tác khuyến nông, khuyến ngƣ, bảo vệ thực vật đƣợc chú trọng. Các loại

giống lúa mới đƣợc đƣa vào sản xuất chiếm tỷ lệ cao nhƣ X22, X23, khang dân;

các giống ngô lai P11, P60, VN20, DK880...

Đối với Đoàn thanh niên: hƣởng ứng các phong trào lớn mà Đảng bộ phát

động là “thanh niên lập nghiệp” và “tuổi trẻ giữ nƣớc” hay “lao động giỏi”.

Đoàn viên thanh niên đã tích cực làm thuỷ lợi, làm đƣờng nông thôn, dạy tin học

cho thanh niên cơ sở... Nhiều đoàn viên thanh niên đã mạnh dạn tiếp thu những 70

tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới nhận thức, thay đổi cách làm ăn cũ bằng cách

làm ăn mới, xây dựng các mô hình kinh tế tƣ nhân ở địa phƣơng. Các đoàn viên

chi đoàn trong huyện đã tích cực hƣởng ứng với nhiều hoạt động thiết thực nhƣ:

tham gia học tập để năm lấy trí thức tự vƣơn lên trong cuộc sống, ứng dụng tiến

bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất hay đoàn viên thanh niên sẵn sàng lên

đƣờng tham gia nhập ngũ bảo vệ tổ quốc, huyện đoàn đã phát động tới các

trƣờng trung học phổ thông trên địa bàn huyện với phong trào tặng quà cho chiến

sỹ khi lên đƣờng tham gia nhập ngũ. Để thanh niên hiểu rõ vai trò và trách nhiệm

của mình đối với đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới.

Kết hợp với các phong trào của phụ nữ, nông dân, hội cựu chiến binh, hội

ngƣời cao tuổi, đoàn viên thanh niên cùng lao động giúp đỡ các gia đình chính

sách, gia đình neo đơn. Tính đến hết năm 2005 số đoàn viên trong huyện đã tăng

lên 3.000 đoàn viên. Hàng năm Huyện Đoàn đều đƣợc Thành đoàn Hà Nội tặng

bằng khen, giấy khen động viên, cũng hàng năm Huyện đoàn đã tặng giấy khen

cho các chi đoàn cơ sở.

Những việc làm có ý nghĩa trên đã đƣợc Đảng, chính quyền, cấp trên đánh giá

cao. Năm 2003 MTTQ huyện Gia Lâm đƣợc Trung ƣơng MTTQ Việt Nam tặng

bằng khen, thành tích ấy là nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ huyện.

Những kết quả trên cho thấy Đảng bộ huyện Gia Lâm đã chỉ đạo kịp thời

xuống cơ sở, là nguồn cổ vũ động viên cho nhân dân huyện vững tin vào chủ

trƣơng lãnh đạo của Đảng, góp phần to lớn vào công tác xây dựng đời sống văn

hoá của Huyện uỷ, UBND huyện và nhân dân đạt đƣợc nhiều thắng lợi sau này.

Công tác xây dựng Đảng dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm đã

góp phần đáng kể vào việc xây dựng đời sống văn hoá mới trong nhân dân nhất

là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Với việc xây dựng văn hoá trong Đảng theo

tinh thần kết luận TW 10 (khoá IX), Đảng bộ huyện đã làm tốt công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ tƣơng xứng với thời đại. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của tổ chức Đảng cơ sở, trong đó trọng tâm là tập trung chỉ đạo đƣa

cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi vào chiếu sâu, giữ vững nguyên tắc 71

tập trung dân chủ, thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê

bình, không ngừng củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tổ chức nghiên

cứu, quán triệt kịp thời, nghiêm túc, chặt chẽ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,

chính sách pháp luật của nhà nƣớc, nhất là việc nghiên cứu, học tập, tìm hiểu về

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên và nhân dân, 100% cấp uỷ cơ sở đã

triển khai thực hiện với 90-95% đảng viên tham gia. Thông qua các hoạt động

phong phú, công tác tƣ tƣởng đã góp phần khơi dậy đã phát huy truyền thống của

dân tộc và địa phƣơng; tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận

trong xã hội; củng cố niềm tin của cán bộ đảng viên và nhân dân; đấu tranh có

hiệu quả chống “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch về tƣ tƣởng, văn

hoá.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, công tác xây dựng Đảng nằm trong

phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đƣợc quan tâm hàng

đầu. Do vậy đảng viên thực hiện tốt nghĩa vụ của nhà nƣớc và vai trò của mình

trong khu dân cƣ. Đối với Đảng uỷ cấp cơ sở hàng năm đều tiến hành bình bầu

phân loại chi bộ. Những chi bộ, cá nhân đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc

biểu dƣơng, khen thƣởng. Những đảng viên vi phạm kỷ luật, tuỳ theo mức độ mà

phê bình, khiển trách, cảnh cáo, đƣa ra khỏi Đảng. Đảng bộ cơ sở luôn chú trọng

đến phát triển đảng viên mới. Các cấp uỷ Đảng, chi, Đảng bộ thƣờng xuyên

chăm lo phát triển đảng viên, nâng cao chất lƣợng đội ngũ đảng viên, chất lƣợng

sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt Đảng bộ, củng cố chi, Đảng bộ yếu kém. Phấn đấu

hàng năm kết nạp từ 300 đến 320 đảng viên. Bên cạnh đó Đảng bộ huyện cũng

kiên quyết xử lý, kỷ luật những đảng viên vi phạm. Đến hết quý I năm 2005 các

cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra Huyện uỷ đã quyết định thi hành kỷ luật 118 đảng

viên, 2 tập thể đảng uỷ cơ sở, 2 cấp uỷ chi bộ.

Các chi, Đảng bộ thƣờng xuyên chăm lo, nâng cao chất lƣợng sinh hoạt chi

bộ, sinh hoạt chi bộ phải có nội dung chính trị, tƣ tƣởng sâu sắc, thiết thực dân

chủ trong thảo luận để làm rõ đúng sai, sáng tỏ vấn đề, đề ra giải pháp cụ thể.

Huyện uỷ có các chƣơng trình hành động, biện pháp cụ thể cho đảng viên và 72

thƣờng xuyên kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ. Đối với các đảng viên vi

phạm, cấp uỷ chi bộ cần có kế hoạch giáo dục và xử lý đảng viên vi phạm chính

sách pháp luật,vi phạm đạo đức lối sống làm ảnh hƣởng đến danh dự, uy tín của

Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng.

Chấp hành chỉ thị số 30/CT-TW và nghị định số 29/CP về thực hiện “quy chế

dân chủ ở cơ sở” theo kế hoạch của Huyện uỷ, Đảng bộ cấp cơ sở đã tổ chức

cho toàn thể cán bộ đảng viên, nhân dân học tập, nhằm phát huy hơn nữa quyền

làm chủ của nhân dân. Qua việc học tập chỉ thị 30 của Trung ƣơng Đảng nhân

dân đã góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền,

làm cho chính quyền ngày càng thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Năm năm qua, Đảng bộ huyện tiếp tục giữ vừng và phát huy danh hiệu Đảng

bộ trong sạch vững mạnh. Vai trò, chất lƣợng, hiệu quả công tác tham mƣu, chỉ

đạo của các ban Đảng trong huyện uỷ đƣợc nâng lên. Năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, các cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, đảng viên

đƣợc tăng cƣờng. Hàng năm có từ 65-70% số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch

vững mạnh, 98,6% số đảng viên đủ tƣ cách hoàn thành nhiệm vụ trở lên.

Đảng bộ huyện Gia Lâm lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc vận động toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ. Thực hiện nghị quyết

Trung ƣơng 5 (khoá VIII) của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt

Nam về việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc, chỉ thị số 53/CT-TƢ ngày 24/3/2000 của Thành uỷ Hà Nội về tăng

cƣờng công tác giáo dục truyền thống xây dựng ngƣời Hà Nội văn minh – thanh

lịch- hiện đại và kế hoạch số 24KH/UB ngày 17/5/2000 của UBND thành phố

Hà Nội về việc triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hoá ở khu dân cƣ”.

Cùng với sự lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, Đảng bộ huyện còn lãnh đạo

công tác giáo dục, y tế, xã hội góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng đời

sống văn hoá trên địa bàn huyện.

73

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ công tác giáo dục của huyện đƣợc đặc biệt

quan tâm. Huyện uỷ đã xây dựng và chỉ đạo triển khai có hiệu quả chƣơng trình

09 về “tiếp tục nâng cao chất lƣợng giáo dục - đào tạo, tập trung giải quyết một

số vấn đề xã hội bức xúc giai đoạn 2001 – 2005”. Qui mô giáo dục tiếp tục đƣợc

giữ vững và có bƣớc phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Chất

lƣợng dạy và học ở các cấp học, bậc học đƣợc nâng lên, trong đó số trƣờng đạt

tiên tiến xuất sắc, số giáo viên dạy giỏi, số học sinh giỏi đều tăng; tỷ lệ học sinh

lên lớp và đỗ tốt nghiệp đều đạt và vƣợt chỉ tiêu đề ra: hàng năm, tỷ lệ học sinh

cấp tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt bình quân 96-98%, trung học phổ

thông đạt bình quân 95%; các trung tâm giáo dục thƣờng xuyên có bƣớc phát

triển. Nguồn lực cho phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo đƣợc tăng cƣờng,

trong đó đội ngũ giáo viên đƣợc quan tâm bồi dƣỡng về kiến thức, nghiệp vụ

chuyên môn; công tác quản lý từng bƣớc đi vào nền nếp; cơ sở vật chất trang

thiết bị phục vụ dạy và học đƣợc ƣu tiên đầu tƣ, đến hết 2005 có 8 trƣờng đạt

chuẩn quốc gia; công tác xã hội hoá giáo dục đƣợc quan tâm. Số trƣờng dân lập

(chủ yếu là trung học phổ thông) ngày càng phát triển góp phần đáng kể vào

công tác nâng cao dân trí và giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn huyện. Đặc biệt

là trƣờng THPT DL Lý Thánh Tông năm học 2005 – 2006 số học sinh của

trƣờng là 1296 em. Với sự phát triển nhƣ vậy nhà trƣờng đã đƣợc Thành phố

đánh giá là 1 trong 10 trƣờng dân lập mạnh nhất của Thủ đô.

Công tác y tế, dân số gia đình và trẻ em cũng đƣợc Đảng bộ huyện hết sức coi

trọng. Do vậy chất lƣợng của công tác phòng chống dịch bệnh và khám chữa

bệnh cho nhân dân đƣợc nâng lên; mạng lƣới y tế trong toàn huyện đƣợc tăng

cƣờng; cơ sở vật chất thiết bị y tế đƣợc quan tâm đầu tƣ, đến 2005 đã có 18 xã

đạt chuẩn quốc gia về y tế, chiếm 82%. Công tác dân số – gia đình và trẻ em

đƣợc quan tâm thƣờng xuyên, đến năm 2005 tỷ lệ sinh giảm 1,58%, tỷ lệ trẻ em

suy dinh dƣỡng giảm còn dƣới 17,2%, 100% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đƣợc

các cấp các ngành quan tâm giúp đỡ.

74

Bên cạnh đó Đảng bộ huyện còn rất quan tâm đến công tác chính sách - xã

hội, từ đó chỉ đạo phòng lao động thƣơng binh xã hội, MTTQ huyện xây dựng

các chƣơng trình để chăm lo thực hiện tốt các chính sách đối với thƣơng binh,

gia đình liệt sỹ, ngƣời có công; vận động xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”

đƣợc gần 4 tỷ đồng, xây dựng 26 nhà tình nghĩa, sửa chữa 30 nhà hộ gia đình

chính sách; tặng 323 sổ tiết kiệm cho đối tƣợng chính sách có hoàn cảnh khó

khăn; tặng quà, trợ cấp các gia đình chính sách nhân ngày lễ, tết với tổng số tiền

2,8 tỷ đồng. Quan tâm thiết thực đến các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó

khăn, trong đó vận động và xây dựng đƣợc 125 “Nhà đại đoàn kết”, sửa chữa 20

nhà cho hộ nghèo, góp phần xoá cơ bản nhà hƣ hỏng, dột nát trên địa bàn, đƣợc

uỷ ban MTTQ tặng bằng ghi công.

Đứng trƣớc quá trình công nghiệp hóa nhanh trên địa bàn toàn huyện đã hình

thành nhiều khu công nghiệp mới nên đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị

thu hẹp lại, cùng với nó là một số lƣợng lớn ngƣời lao động dôi dƣ (chủ yếu là

lao động nông dân không có tay nghề). Do vậy Đảng bộ huyện Gia Lâm đã coi

đây là nhiệm vụ quan trọng, cần phải giải quyết kịp thời và ngay tức khắc. Đảng

bộ huyện đã lãnh đạo các ban ngành trong huyện nhƣ là Phòng lao động- thƣơng

binh xã hội, công đoàn huyện, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân... đẩy

mạnh tìm việc làm và tự tạo việc làm cho các hội viên. Đến 2005 toàn huyện đã

tạo việc làm mới cho 37.960 lao động, trong đó số lao động có việc làm ổn định

chiếm 37%; phòng lao động huyện đã tổ chức và dạy nghề cho 2.376 lƣợt ngƣời

(trong đó tập huấn bồi dƣỡng nghề cho 1.238 lƣợt ngƣời, đào tạo nghề ngắn hạn

cho 540 ngƣời, đào tạo nghề dài hạn cho 598 ngƣời), tỷ lệ hộ nghèo giảm còn

dƣới 0,85%; không còn hộ nghèo chính sách; công tác đấu tranh phòng chống

các tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, mại dâm đạt nhiều kết quả.

Có thể thấy đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu. Vì

vậy xoá đói giảm nghèo đang là một vấn đề trở thành một vấn đề chung của toàn

xã hội. Việt Nam là một trong những nƣớc nghèo, kinh tế chậm phát triển, chiến

75

tranh kéo dài, thiên tai khắc nghiệt. Vì vậy xoá đói giảm nghèo đang là một vấn

đề bức bách và thách thức lớn đối với toàn Đảng ta.

Thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá, Đảng bộ huyện Gia

Lâm đã hƣởng ứng cuộc vận động “ngày vì ngƣời nghèo” do MTTQ Việt Nam

phát động. Việc chia sẻ khó khăn và tự nguyện đóng góp giúp đỡ ngƣời nghèo là

tình cảm, là đạo lý của ngƣời Việt Nam và cũng là trách nhiệm của xã hội, tích

cực tham gia ủng hộ để giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho ngƣời nghèo vƣợt

qua những khó khăn thiếu thốn để vƣơn lên xây dựng cuộc sống ấm no hạnh

phúc.

Trong 5 năm thực hiện tổng số quỹ thu đƣợc là 500 triệu đồng, với số tiền này

Đảng bộ huyện đã xoá đƣợc 30 nhà tạm trị giá 150 triệu đồng, tặng 90 sổ tiết

kiệm cho gia đình chính sách mỗi sổ từ 300 đến 500 nghìn đồng.

Năm 2004, chia sẻ với nhân dân các nƣớc Châu Á bị sóng thần, Đảng bộ các

cấp trong huyện đã phát động nhân dân tham gia ủng hộ, cuộc vận động này

đƣợc nhân dân hết lòng ủng hộ.

Nhằm giúp nhân dân phát triển mùa màng, nâng cao năng xuất, công tác thuỷ

lợi cũng đƣợc chú ý. Hệ thống thuỷ lợi đƣợc cấp uỷ chính quyền tu sửa thƣờng

xuyên, đảm bảo nƣớc tƣới tiêu đủ và đúng thời vụ của nông dân.

Với sự đô thị hoá nhanh trên địa bàn huyện, vấn đề bảo vệ môi trƣờng đang

đặt ra cho chúng ta những yêu cầu cấp bách cần phải giải quyết. Đảng bộ huyện

Gia Lâm đã lãnh đạo nhân dân thực hiện “công tác vệ sinh môi trƣờng” đƣợc

mọi ngƣời hết sức hƣởng ứng. Nhiều xã đã tổ chức cho thu gom rác thải và chôn

lấp, xử lý trƣớc khi đƣa ra môi trƣờng. Từ đó góp phần là sạch sẽ môi trƣờng

sống, đảm bảo nâng cao hơn ý thức, trách nhiệm của ngƣời dân trong công tác

bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ cộng đồng và cuộc sống của mỗi gia đình khu dân cƣ.

Bên cạnh những hoạt động trên công tác an ninh quốc phòng cũng đƣợc

Huyện uỷ, UBND hết sức quan tâm. Là một địa bàn có nhiều phức tạp xẩy ra

nhiều vụ vi phạm pháp luật nên công tác an ninh quốc phòng tại huyện là hết sức

cần thiết. 76

Đảng bộ huyện Gia Lâm quán triệt nghị quyết 08/BCT về tăng cƣờng bảo vệ

an ninh quốc phòng. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ

quốc. Phấn đầu xây dựng 100% xã, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp đơn vị an toàn.

Chống “diễn biến hoà bình”, đạp tan các âm mƣu phá hoại của các thể lực thù

địch. Tích cực chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bài trừ tệ nạn

xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Đảng bộ huyện Gia Lâm đã lãnh đạo ngành công an thực hiện tốt phong trào

quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, phòng ngừa và tấn công tội phạm. Để làm tốt

công tác này Huyện Gia Lâm đã tổ chức các gia đình đăng ký cam kết không có

tội phạm, không mắc tệ nạn xã hội. Phát động phong trào toàn dân tố giác tội

phạm bằng các hình thức gặp gỡ trực tiếp, lập hòm thƣ tố giác... ngoài ra còn tiến

hành tuyên truyền trên hệ thống lao truyền thanh huyện.

Sau 5 năm toàn huyện đã khám phá 768 vụ án ma tuý, 83 vụ mại dâm, lập hồ

sơ đƣa đi cai nghiện 1.444 ngƣời (cai nghiện tập trung 212 ngƣời, cai nghiện ở

cộng đồng 270 ngƣời) hoà giải 1.800 vụ mâu thuẫn nhỏ góp phần đảm bảo an

ninh chính trị, trật tự trên địa bàn huyện.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện sau 5 năm thực hiện đồng bộ liên tục,

với sự nỗ lực chung của các cấp các ngành trong huyện, sự giúp đỡ nhiệt tình của

ban chỉ đạo Thành phố Hà Nội, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá ở khu dân cƣ trên địa bàn huyện đã thu đƣợc kết qủa rất đáng khích

lệ, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy hoàn

thành các mục tiêu kinh tế xã hội của huyện.

Tại các thôn làng, tổ dân phố đều có ban công tác mặt trận tổ quốc để tổ chức

tuyên truyền vận động quần chúng. Công tác xây dựng gia đình văn hoá góp

phần củng cố mái ấm gia đình – tế bào của xã hội, thông qua 4 nội dung nhƣ: gia

đình hoà thuận hạnh phúc tiến bộ, kế hoạch hoá gia đình, đoàn kết xóm phố, xây

dựng gia đình có kinh tế ổn định và phát triển. Hàng năm các ban chỉ đạo huyện

luôn củng cố và kiện toàn về tổ chức để đáp ứng yêu cầu của công tác đề ra. Trên

cơ sở kế hoạch hƣớng dẫn của thành phố, ban chỉ đạo huyện đã cụ thể hoá các 77

nội dung tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, phân phát tài liệu

rộng rãi để nhân dân biết và thực hiện.

Nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng GĐVH nên hàng

năm ban chỉ đạo huyện đã có văn bản hƣớng dẫn các xã, thị trấn, các ban ngành

đoàn thể của huyện tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân đăng ký tham gia

xây dựng GĐVH. Số gia đình đăng ký năm sau cao hơn năm trƣớc: năm 2001 có

79.000 hộ đăng ký, đến năm 2005 có 43.500 hộ đăng ký (đã tách quận huyện)

đạt bình quân hàng năm xấp xỉ 96%.

Từ việc đăng ký đồng đến số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá cũng

tăng cao: năm 2001 có 70.900 hộ đạt GĐVH, đến năm 2005 có 31.700 hộ đạt

GĐVH (đã chia tách quận huyện). Đạt tỷ lệ bình quân hàng năm 86% tổng số hộ

đăng ký.

Đƣợc sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ các cấp, sự phối kết hợp của MTTQ

huyện đến cơ sở, trong 5 năm đã có 450 gia đình văn hoá tiêu biểu đƣợc UBND

thành phố Hà Nội, UBND huyện Gia Lâm tặng giấy khen. Đã xây dựng đƣợc 3

câu lạc bộ GĐVH tại 3 xã; Đa Tốn, Yên Thƣờng, Dƣơng Quang với hơn 200

hội viên sinh hoạt thƣờng xuyên dƣới sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng. Các

hình thức sinh hoạt câu lạc bộ gia đình thể thao cũng phát triển rộng khắp thu hút

8.000 hộ gia đình trong huyện tham gia.

Cùng với công tác xây dựng GĐVH huyện đã tổ chức các cuộc thi khác nhƣ;

bé khoẻ, bé ngoan, nữ công gia chánh, thi trƣởng thôn tài năng... thu hút hàng

ngàn thành viên gia đình tham gia. Đặc biệt trong cuộc thi “Gia đình văn minh

hạnh phúc” lần thứ 3 do thành phố phát động huyện Gia Lâm đã có 100% số xã,

thị trấn tổ chức thành công hội thi cấp cơ sở thu hút 100 gia đình văn hoá tiêu

biểu tham dự. Thông qua cuộc thi góp phần tuyên truyền để mỗi ngƣời dân trong

huyện thêm quan tâm yêu mến gia đình, giữ gìn để gia đình mình luôn văn minh

hạnh phúc.

78

Từ thực tế công tác tổ chức thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn

hoá ở khu dân cƣ có thể thấy các xã làm tốt công tác xây dựng GĐVH là: Dƣơng

Quang, Đa Tốn, Kiêu Kỵ, Đông Dƣ, Yên Viên...

Đƣợc sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm, hàng năm ban chỉ đạo xây

dựng đời sống văn hoá của huyện đều tổ chức hội nghị với lãnh đạo các xã, thị

trấn, trƣởng các thôn làng, tổ dân phố phát động xây dựng làng văn hoá, tổ dân

phố văn hoá.

Để tạo điều kiện hoàn thiện mô hình làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá huyện

Gia Lâm đã chỉ đạo các ban ngành đoàn thể, các xã, thị trấn thực hiện nhiều

chƣơng trình, đề án kinh tế – xã hội nhằm; cải tạo hệ thống giao thông nông

thôn, xây chợ đầu mối, cải tạo hệ thống lƣới điện, nâng cấp trƣờng học, xây

dựng các thiết chế văn hoá, thể thao nhƣ: nhà văn hoá, câu lạc bộ, thƣ viện, xây

dựng sân thể thao, tu bổ di tích lịch sử văn hoá.

Trong 5 năm từ 2001- 2005 huyện đã đầu tƣ 110 nhà văn hoá thôn làng, 21

sân vận động, 485 sân thể thao mini, 22 điểm bƣu điện văn hoá xã, 99 điểm vui

chơi giải trí, 22 đài truyền thanh, 400 lao truyền thanh, 25 thƣ viện thôn làng, 70

đội văn nghệ, 80 sân khấu gạch, đáp ứng một phần nhƣ cầu sinh hoạt của nhân

dân trong huyện. Phong trào đăng ký xây dựng làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá

đã lan nhanh và thu hút ngày càng nhiều các thôn làng, tổ dân phố tham gia.

Năm 2001 có 47 thôn làng, tổ dân phố, đến năm 2005 có 35 thôn làng, tổ dân

phố đăng ký đạt 100% (do tách quận huyện).

Cùng với việc xây dựng đời sống văn hoá trong huyện, công đoàn huyện cũng

góp phần tham gia phong trào; xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp, thu hút

nhiều cơ quan, xí nghiệp tham gia nhƣ thi đua lao động sản xuất giỏi, thi đua học

tập trao đổi kiến thức của tổ chức công đoàn huyện.

Phong trào xây dựng làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá đã thúc đẩy tăng

trƣởng kinh tế của huyện phát triển. Số hộ giàu tăng lên từng năm, số hộ nghèo

giảm đi. Năm 2000 tỷ lệ hộ nghèo dƣới 1% (theo tiêu chí cũ) đến 2005 số hộ

nghèo còn dƣới 0,85% vƣợt kế hoạch nghị quyết Đại hội XVIII của huyện. 79

Làng văn hoá gắn liền với công tác xây dựng hƣơng ƣớc văn hoá, quy chế nếp

sống văn hoá mới gắn với thực hiện quy chế dân chủ đƣợc các thôn làng, tổ dân

phố tham gia. Từ 2001 đến 2005 toàn huyện có 70 thôn làng, tổ dân phố xây

dựng đƣợc hƣơng ƣớc, quy ƣớc văn hoá, 92 cơ quan, đơn vị có quy ƣớc sống văn

hoá.

Công tác xây dựng làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá góp phần thực hiện tốt

chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình của nhà nƣớc. Từ năm 2001 đã hạn chế

tỷ lệ tăng dân số ở mức cho phép. Số ngƣời sinh con thứ 3 giảm so với năm

trƣớc (riêng năm 2004 tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng). Nhƣng cũng có nhiều thôn

làng, tổ dân phố không có ngƣời sinh con thứ 3; năm 2001 có 81 thôn làng, tổ

dân phố, năm 2002 có 54, năm 2003 có 75, năm 2004 có 85, năm 2005 có 97.

Trong đó có những thôn làng, tổ dân phố trong 10 năm liền không có ngƣời sinh

con thứ 3 là: Trân Tảo (Phú Thị), Chu Xá (Kiêu Kỵ), Thuận Phú (Đông Dƣ).

Năm 2002 đợt bình xét công nhận làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá toàn

huyện có 14 thôn làng, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hoá cấp huyện trong đó có 6

thôn làng đƣợc công nhận làng văn hoá thành phố. Năm 2003 có 21 thôn làng, tổ

dân phố, cụm dân cƣ trong đó có 8 thôn làng đạt danh hiệu làng văn hoá cấp

thành phố. Năm 2004 có 10 thôn làng, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hoá trong đó có 6 thôn làng đạt danh hiệu làng văn hoá cấp thành phố. Một số thôn làng

liên tục 3 năm giữ vững danh hiệu làng văn hoá cấp thành phố nhƣ: thôn Chu Xá

(xã Kiêu Kỵ), Liên Đàm (xã Đa Tốn)... Đây thực sự là điểm sáng trong phong

trào xây dựng làng văn hoá, tổ dân phố văn hoá của huyện xứng đáng nêu gƣơng

cho các địa phƣơng học tập.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm, việc thực hiện nếp sống văn

minh trong việc cƣới, việc tang và lễ hội. Đây là việc làm trong thời kỳ đổi mới,

hiện tƣợng tiêu cực trong các đám cƣới, đám tang, lễ hội có chiều hƣớng phát

triển. Nhiều khi các hiện tƣợng này trở nên khá phổ biến trong xã hội, gây nên

những vấn đề ganh đua, để lại nhiều hậu quả về sau, hay lợi dụng nó để trục lợi

cho gia đình và cá nhân. 80

Thực hiện chỉ thị số 27/CT-TW của Bộ chính trị, Đảng bộ huyện Gia Lâm đã

lãnh đạo các ngành các cấp thực hiện thành công và đạt kết quả tích cực thay đổi

lại các tập tục cũ và xây dựng nó thành một nếp sống văn minh hơn. Dƣới sự chỉ

đạo của Huyện ủy, UBND, Phòng văn hóa – thông tin huyện phong trào đã đạt

đƣợc nhiều kết quả nhƣ:

Về cƣới: sau khi thành phố ban hành quy chế cƣới theo nếp sống mới. Ban chỉ

đạo huyện đã mở hội nghị tọa đàm giữa các ban ngành đoàn thể trong huyện và

đại biểu các xã, thị trấn thảo luận thực hiện quy ƣớc cƣới “Trang trọng-Lành

mạnh-Tiết kiệm”, không hút thuốc, không đánh bạc, hạn chế dùng bia rƣợu, tổ

chức đám cƣới phù hợp với hoàn cảnh. Toàn huyện có 22 xã, thị trấn thực hiện

tốt việc trao giấy chứng nhận kết hôn theo chỉ thị 46/CT-UB của UBND Thành

phố Hà Nội, mỗi năm toàn huyện có từ 1.200 đến 1.600 đôi nam nữ tổ chức

cƣới, trong đó theo nếp sống mới chiếm 80% số đám cƣới trong huyện. Nhân

dân đã hiểu ra và thực hiện tốt các công việc của nhà mình và luôn nhắc nhở

nhau cố gắng thực hiện. Kết hợp với các ngàng, đoàn thể tổ chức công việc của

thôn làng cho nó tốt hơn. Nhiều địa phƣơng đã làm tốt công tác này nhƣ: xã

Ninh Hiệp, Đa Tốn, Bát Tràng, Đặng Xá, Dƣơng Quang...

Cùng với việc cƣới, việc tang đã đƣợc nhân dân trong huyện thực hiện tốt,

công việc tang là việc làm quan trọng của mỗi gia đình đối với ngƣời chết, các

làng đều có ban lễ tang kết hợp giúp đỡ gia đình lo tang lễ cho ngƣời mất. Đây

cũng là một tiêu chuẩn đƣợc đƣa vào việc xây dựng làng văn hoá. Từ đó 100%

các xã thực hiện tang theo nếp sống mới theo hƣớng dẫn của chỉ thị 27/CT-TW.

Huyện Gia Lâm là huyện có nhiều lễ hội nổi tiếng cả nƣớc vào mùa xuân hàng

năm nhƣ hội Gióng (Phù Đổng), hội Bà Tấm (Dƣơng Xá), hội Lệ Mật (Lệ

Mật)... ngoài ra còn nhiều lễ hội của các thôn làng để tƣởng nhớ công ơn của các

thành hoàng làng trong địa phƣơng mình. Dƣới sự lãnh đạo của Huyện uỷ,

UBND, phòng văn hoá thông tin huyện các lễ hội này đƣợc thực hiện tốt hơn.

100% các xã thị trấn khi tổ chức lễ hội đều phải báo cáo kế hoạch tổ chức với cơ

81

quan chức năng. Từ đó luôn đƣợc thành phố đáng giá và tặng nhiều giấy khen

động viên.

Từ việc thực hiện chỉ thị 27/CT-TW đã làm cho các quan hệ văn hóa mới

đƣợc xây dựng trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Các công việc dù to

hay nhỏ cũng đã trở thành nề nếp nhƣ; việc cƣới, việc tang, lễ hội, vệ sinh môi

trƣờng không đổ rác ra đƣờng, không gây nói tục bừa bãi, ăn mặc phù hợp với

truyền thống của dân tộc... Tất cả điều này đã tạo nên một nếp sống mới trong

thời kỳ đất nƣớc tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nhiều làng đã xây

dựng đƣợc những quy ƣớc, “hƣơng ƣớc” trong thời kỳ này để thực hiện trong

nhân dân, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa mới và tạo nên sự phát triển kinh

tế – xã hội ở địa phƣơng.

* * * Sau 10 năm từ 1996- 2005 thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại

hoá, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân Gia Lâm đã đạt đƣợc nhiều

thành tựu quan trọng trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá ở khu dân cƣ”.

Đảng bộ Gia Lâm đã tổ chức nhân dân thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng

bộ huyện lần thứ XVII, XVIII đạt nhiều kết quả nhƣ: cơ cấu kinh tế của huyện

đã có sự chuyển dịch đúng hƣớng theo công nghiệp hoá- dịch vụ- thƣơng mại,

đời sống của nhân dân đƣợc tăng lên, chính trị an ninh trên địa bàn ổn định, nhân

dân thực hiện tốt chính sách của Đảng và nhà nƣớc.

Đặc biệt dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, UBND, phòng văn hoá thông tin

huyện, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân

cƣ” có nhiều kết quả: số gia đình đạt chuẩn gia đình văn hoá ngày càng cao, năm

sau cao hơn năm trƣớc, số làng, xóm đạt tiêu chuẩn làng văn hoá tăng, hoàn

thành chƣơng trình xây dựng nông thôn mới ở 22/22 xã, thị trấn (đã chia tách

quận huyện) và nhiều nơi đã xây dựng đƣợc quy chế, gia đình văn hoá, làng văn

hoá cùng với nó là hoạt động xây dựng nếp sống văn minh trong việc cƣới việc

82

tang, lễ hội là việc làm thƣờng xuyên của các địa phƣơng và nhân dân, để từ đó

làm thành những phong trào để nhân dân hƣởng ứng.

Nhiều phong trào của nhân dân đã phát triển mạnh cả bề rộng lẫn chiều sâu,

thu hút đƣợc nhân dân tham gia hƣởng ứng, góp phần xây dựng quê hƣơng ngày

càng giàu đẹp. Nhƣ phong trào “Ngƣời tốt, việc tốt”, đƣợc Đảng bộ huyện nhân

rộng phát triển trên toàn địa bàn, ở hầu khắp các lĩnh vực đều có những gƣơng

điển hình ngƣời tốt việc tốt. Từ đó góp phần vào công tác xây dựng đời sống văn

hoá mới ở khu dân cƣ, làm khơi dậy truyền thống nhân văn sãn có của con ngƣời

Gia Lâm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nƣớc.

Tất cả những kết quả trên là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Gia Lâm,

sự hƣởng ứng của các ban ngành, các cấp và nhân dân. Từ đó đã làm cho các

chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc thấm vào từng ngƣời dân tạo nên

sự ý thức về việc làm của mình, từ bỏ các hủ tục lạc hậu, các thiết chế rƣờm rà

trƣớc đây, tiếp thu những cái tiến bộ, văn minh trong thực tế để xây dựng đời

sống ngày càng văn minh - thanh lịch - hiện đại ở những chặng đƣờng tiếp theo.

Quá trình lãnh đạo này cũng để lại cho Đảng bộ Gia Lâm một số kinh nghiệm

quan trọng nhƣ: công tác xây dựng đạo đức cho cán bộ đảng viên phải đƣợc làm

thƣờng xuyên và kịp thời. Các phong trào nhân dân và đoàn thể cần phải đem lại

lợi ích cho nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, nhân rộng những điển hình

văn hoá để toàn dân đƣợc biết để học tập. Đảng bộ huyện cần phải quan tâm coi

công tác xây dựng văn hoá mới là một lĩnh vực có liên quan mật thiết tới việc

phát triển kinh tế- xã hội của Gia Lâm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa –

hiện đại hóa.

83

Chương 3

ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.1. Đánh giá chung về công tác xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm

thời kỳ 1986 – 2005

3.1.1. Những thành tựu cơ bản

Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc của Đảng cộng sản Việt

Nam, Đảng bộ Gia Lâm đã lãnh đạo nhân dân đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to

lớn, toàn diện, đúng định hƣớng XHCN trên các lĩnh vực, tạo sự chuyển biến cơ

bản trong đời sống xã hội của huyện, chính trị – xã hội của huyện luôn ổn định,

đời sống văn hoá trên địa bàn huyện có nhiều thành tựu, niềm tin của nhân dân

với Đảng, với sự nghiệp đổi mới đƣợc củng cố.

Một là, đã lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt đƣờng lối, chính sách kinh tế- xã

hội của Đảng và Nhà nƣớc, tạo điều kiện cho việc xây dựng đời sống văn hóa

mới của huyện đi lên.

Thực hiện đúng đắn chủ trƣơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo

định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong đó các doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa bàn

huyện tiếp tục phát huy và giữ vững vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể mà nòng cốt

là các hợp tác xã, các thành phần kinh tế khác đƣợc tạo điều kiện phát triển, nhất

là kinh tế hộ.

Công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện đã đạt đƣợc kết quả đáng

mừng. Trên địa bàn huyện đã hoàn toàn xoá đƣợc hộ đói, giảm hộ nghèo còn

dƣới 0,85%, không còn hộ nghèo trong diện chính sách; xoá cơ bản nhà hƣ hỏng,

dột nát. Điều kiện sống sinh hoạt của đại bộ phận nhân dân trong huyện đƣợc cải

thiện và nâng lên.

Các lĩnh vực kinh tế của huyện phát triển ổn định và có mức tăng trƣởng khá,

bình quân hàng năm tăng 12-15%, giá trị sản xuất năm 2005 ƣớc đạt 1.539 tỷ

đồng, tăng 3,5 lần năm 1985. Xu thế phát triển kinh tế theo hƣớng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ngày càng rõ hơn, trong đó cơ cấu kinh tế đƣợc chuyển dịch

đúng hƣớng, tỷ trọng ngàng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ 84

bản, thƣơng mại - dịch vụ năm 2005 chiếm 77% (năm 1985 tỷ trọng tƣơng ứng

30%). Cơ sở vật chất kỹ thuật đƣợc tăng cƣờng, trong đó hệ thống điện, giao

thông, thuỷ lợi, trƣờng học, trạm y tế cơ bản đƣợc đầu tƣ xây dựng ngày càng

đồng bộ. Mức thu nhập của nhân dân bình quân đầu ngƣời năm 2005 là 6,4 triệu

đồng/ngƣời/năm, tăng 3,2 lần so với năm 1985.

Hai là, công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn

thể có chất lƣợng, hiệu quả hơn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng

cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân là một nội dung

quan trọng của xây dựng đời sống mới.

Đƣợc xác định là nhiệm vụ then chốt trong các hoạt động của Đảng bộ huyện,

hàng năm Huyện uỷ đều có chƣơng trình kiểm tra, đánh giá kết quả trong công

tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể từ đó rút kinh nghiệm

cho để chỉ đạo những năm sau.

Đảng bộ huyện luôn quán triệt tới các đảng viên trong huyện việc học tập chủ

nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thƣờng xuyên và liên tục,

việc học tập này luôn đi liền với việc xây dƣng, triển khai các chƣơng trình hành

động cụ thể.

Bên cạnh đó chủ trƣơng chính sách pháp luật đƣợc tăng cƣờng, tạo đƣợc sự

nhất quán trong nhận thức và hành động của Đảng cũng nhƣ nhân dân, củng cố

niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Huyện uỷ thƣờng xuyên nắm

bắt tƣ tƣởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phục vụ cho việc lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đƣợc đúng hƣớng.

Công tác vận động quần chúng đƣợc Đảng bộ rất coi trọng và tăng cƣờng toàn

diện đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,

giữ vững ổn định chính trị xã hội. Đảng bộ đã đổi mới phƣơng thức và tăng

cƣờng sự lãnh đạo của mình đối với công tác vận động quần chúng. Hàng năm

huyện uỷ đã chỉ đạo các đoàn thể xây dựng kế hoạch, chƣơng trình cụ thể để

hoạt động. Triển khai nghiêm túc và vận dụng sáng tạo những chủ trƣơng của

Đảng về công tác dân vận vào điều kiện cụ thể của địa phƣơng, tạo đƣợc sự nhất 85

quán trong chỉ đạo và hoạt động của cả hệ thống chính trị. Trong khi thực hiện

các công tác quy chế dân chủ luôn đƣợc tăng cƣờng, phát huy quyền làm chủ của

nhân dân. Việc triển khai thực hiện các chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc đến nhân dân đƣợc sự thống nhất trong việc tăng cƣờng khối đại đoàn kết

toàn dân. Đảng bộ huyện và các đoàn thể nhân dân tích cực đổi mới nội dung,

phƣơng thức hoạt động, bám sát cụ thể hoá nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội

thành các chƣơng trình hành động, thi đua của đơn vị, thực hiện các chủ trƣơng

đúng pháp luật. Vận động thực hiện có hiệu quả chƣơng trình xoá đói, giảm

nghèo, xây dựng các điển hình tốt, các phong trào thi đua sản xuất giỏi, lao động

sáng tạo, làm giàu chính đáng, giúp nhau lập nghiệp, phát triển kinh tế, vƣợt đói

nghèo xây dựng gia đình hạnh phúc.

Thông qua các phong trào và hoạt động quần chúng đã tăng cƣờng khối đại

đoàn kết toàn dân ngay từ các khu dân cƣ làm nền tảng vững chắc cho công tác

xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng các phong trào văn hoá góp

phần tăng trƣởng kinh tế, ổn định chính, xã hội, đời sống văn hóa mới trên địa

bàn huyện.

Ba là, đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt cuộc

vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ có kết quả,

nâng cao chất lƣợng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đƣợc đẩy

mạnh có 86% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, đến 2005 có 8 thôn

làng, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hoá cấp huyện và thành phố. Thực hiện chỉ

thị số 27/CT-TW xây dựng nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang và lễ

hội có nhiều tiến bộ, nhiều địa phƣơng đã xây dựng đƣợc quy chế để phổ biến

cho nhân dân thực hiện. Công tác quản lý, bảo tồn di tích lịch sử văn hoá, các lễ

hội truyền thống đƣợc quan tâm, góp phần giáo dục và phát huy truyền thống của

từng địa phƣơng.

Phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng đã có nhiều chƣơng trình hấp dẫn

và đạt kết quả cao trong các hội thi, hội diễn các cấp. Hoạt động thể dục thể thao 86

phát triển rộng khắp, tỷ lệ ngƣời luyện tập thƣờng xuyên hàng năm đạt 26,5%,

thể thao thành tích cao đạt trên 900 huy chƣơng các loại.

Công tác y tế, dân số, gia đình và trẻ em đƣợc Đảng bộ huyện và các cấp quan

tâm đầu tƣ trang thiết bị, đội ngũ y bác sỹ hầu khắp các xã đều có bác sỹ đa khoa

để khám bệnh kịp thời cho nhân dân. Mọi trẻ em trong huyện đều đƣợc tiêm

chủng phòng 6 loại bệnh nguy hiểm nhƣ: sởi, uốn ván, viêm não Nhật Bản, viêm

gan B... Số trẻ em suy dinh dƣỡng từ 1 đến 5 tuổi còn 15%, tỷ lệ phát triển dân

số tự nhiên là 0,7%.

Bên cạnh cuộc vận động trên, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo chính quyền, MTTQ

vận động các ban ngành, đoàn thể thực hiện những cuộc vận động lớn nhƣ: xây

dựng quỹ “ngày vì ngƣời nghèo”, vận động phong trào “đền ơn đáp nghĩa”,

thực hiện chƣơng trình “quốc gia phòng chống tội phạm”, các chƣơng trình

nhân đạo, từ thiện... tạo thành một nghĩa cử cao đẹp trong cuộc sống của toàn

dân.

Trên toàn địa bàn các xã trong huyện việc trang bị các loa truyền thanh đạt

100%, làm cho công tác tuyên truyền các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và

Nhà nƣớc đến nhân dân đƣợc thuận tiện. Hàng ngày đài truyền thanh huyện phát

vào 2 buổi sáng 6h30 phút, chiều 5h30 phút, các bài viết tập trung chủ yếu vào

việc nêu lên các lĩnh vực nhƣ: kinh tế, giáo dục, xây dựng Đảng... nhằm tuyên

truyền các điển hình tiêu biểu với những gƣơng “Ngƣời tốt, việc tốt”.

Trong công tác giáo dục, đã nâng cao trình độ dân trí của nhân dân, giữ vững

đƣợc kết quả xoá mù, hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở tiến tới

phổ cập trung học phổ thông, 17% trƣờng tiểu học và trung học cơ sở đạt chuẩn

quốc gia. Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân có tiến bộ, 82% xã, thị trấn

đạt chuẩn quốc gia về y tế. Chất lƣợng và mức hƣởng thụ văn hoá, tinh thần của

nhân dân đƣợc nâng cao. Các vấn đề xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc đã tập

trung giải quyết đạt kết quả tích cực.

Bốn là, đã lãnh đạo phát động nhiều phong trào xây dựng đời sống văn hoá

đạt kết quả cao hình thành nếp sống hàng ngày của nhân dân. 87

Trƣớc đây việc thực hiện xây dựng đời sống văn hoá còn nhiều khó khăn và

hạn chế, chƣa có các phong trào thực sự lớn mạnh của nhân dân nên những hoạt

động của nhân dân chỉ mang tính chất tự phát thiếu đồng bộ.

Với nhiều hoạt động đã đi vào cụ thể nhƣ phong trào xây dựng gia đình văn

hoá, phong trào xây dựng làng văn hoá, phong trào thực hiện nếp sống văn minh

trong việc cƣới, phong trào biểu dƣơng “ngƣời tốt, việc tốt” đều đã có nhiều kết

quả đáng mừng.

Từ năm 1998 phong trào xây dựng làng văn hoá đƣợc Đảng bộ huyện phát

động tới các xã và có nhiều thành tựu. Công tác đăng ký làng văn hóa, tổ dân

phố văn hoá trên địa bàn huyện năm sau cao hơn năm trƣớc. Năm 2000- 2001 có

47 thôn làng, tổ dân phố đăng ký. Năm 2002 đợt đầu bình xét có 14 thôn làng, tổ

dân phố đạt danh hiệu làng văn hóa, tổ dân phố văn hoá cấp huyện và thành phố.

Năm 2003 có 21 thôn làng, tổ dân phố đạt danh hiệu làng văn hóa, tổ dân phố

văn hóa cấp huyện và thành phố. Năm 2004 có 35 thôn làng, tổ dân phố đăng ký

(do tách quận huyện) trong đó 08 thôn làng, tổ dân phố đạt làng văn hóa, tổ dân

phố văn hóa cấp huyện và thành phố nhƣ thôn: Chu Xá, Liên Đàm, Tiền Phong,

Yên Mỹ... là những điểm sáng trong phong trào xây dựng làng văn hóa, tổ dân

phố văn hoá của huyện Gia Lâm.

Công tác xây dựng gia đình văn hoá: hàng năm tỷ lệ gia đình đăng ký gia đình

văn hoá đạt 96% tổng số hộ dân, trong đó 86% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia

đình văn hoá. Toàn huyện triển khai nhiều cuộc thi về chủ đề gia đình, thu hút

hàng trăm gia đình tham gia. Nhiều xã thị trấn đã làm tốt công tác vận động,

đăng ký, bình xét gia đình văn hoá nhƣ: Phú Thị, Văn Đức, Dƣơng Quang, Đa

Tốn...

Việc thực hiện nếp sống văn minh trong lễ cƣới, lễ tang, lễ hội đã đạt kết quả

lớn. Các xã, thị trấn đều thực hiện tốt và có phòng trao giấy chứng nhận kết hôn

theo chỉ thị số 46/CT-UB thành phố Hà Nội. Từ năm 2001 đến 2005 mỗi năm

toàn huyện có từ 1.200 đến 1.600 đôi nam nữ tổ chức lễ cƣới theo nếp sống mới.

100% các xã, thị trấn các thôn làng, tổ dân phố đều có ban tổ chức lễ tang để 88

giúp đỡ gia đình tang chủ. Hầu hết các đám tang không tổ chức ăn uống, không

hút thuốc lá, không cờ bạc, rƣợu chè... Trong lễ hội nhân dân và ban quản lý lễ

hội đã đƣợc các đoàn kiểm tra của Bộ Văn hoá Thông tin và Sở Văn hoá Hà Nội

ghi nhận Gia Lâm là địa phƣơng tổ chức tốt lễ hội truyền thống.

Từ kết quả đạt đƣợc có thể nhận thấy công tác xây dựng đời sống văn hoá mới

đã đƣợc nhân dân toàn huyện đồng tình ủng hộ, trở thành chỉ tiêu phấn đấu của

các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở, đã phát huy đƣợc truyền

thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, huyện Gia Lâm phấn đấu cùng Thủ đô trở

thành trung tâm văn hoá chính trị của cả nƣớc trên con đƣờng hội nhập.

3.1.2. Một số hạn chế lớn

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ Gia Lâm về

xây dựng đời sống văn hóa thời kỳ từ năm 1986 đến năm 2005, còn gặp phải một

số hạn chế nhƣ:

Một là: việc xây dựng cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho hoạt động xây dựng

đời sống văn hoá, thông tin còn hạn chế.

Kinh tế của huyện đã có bƣớc phát triển quan trọng góp phần đáng kể vào sự

nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa Thủ đô. Tuy vậy sự đầu tƣ cho các hoạt

động xây dựng đời sống văn hóa của Đảng bộ huyện Gia Lâm còn nhiều bất cập,

chƣa tƣơng xứng với tiềm năng và thế mạng của huyện.

Hầu nhƣ các thôn làng, tổ dân phố không có nhà văn hóa, sân thể thao, trang

thiết bị để nhân dân sinh hoạt góp phần rèn luyện sức khỏe, tinh thần cho nhân

dân. Thiếu cơ chế đánh giá khen thƣởng đối với những cá nhân có thành tích

xuất sắc do không đƣợc cấp kinh phí thƣờng xuyên làm ảnh hƣởng đến các

phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới của nhân dân.

Phong trào xây dựng khu dân cƣ văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn

minh trong việc cƣới, tang, lễ hội đã đƣợc tổ chức triển khai đến cơ sở, song

nhiều phong trào chƣa có chiều sâu, chƣa thƣờng xuyên.

89

Hệ thống lao truyền thanh trên địa bàn huyện chƣa đƣợc đầu tƣ phát triển

đồng bộ, rộng khắp vì vậy rất hạn chế trong công tác tuyên truyền các chủ

trƣơng của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nƣớc.

Bên cạnh đó các cấp lãnh đạo, triển khai thực hiện cũng chƣa thấy hết đƣợc

tầm quan trọng của phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới, hoạt động nhiều

khi mang tính hình thức không đồng bộ, thiếu sự động viên khen thƣởng để thu

hút các thành viên trong mỗi gia đình, mỗi khu dân cƣ... cán bộ làm công tác văn

hoá còn phải kiêm nhiệm nhiều để tăng thu nhập dẫn tới hiệu quả công việc chƣa

cao, chƣa đáp ứng đƣợc trình độ yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.

Các trạm y tế, cấp cơ sở còn thiếu thốn cán bộ, trang thiết bị, không theo kịp

sự phát triển của nhu cầu khám chữa bệnh trong nhân dân. Cho nên nhiều trƣờng

hợp khám chữa bệnh thông thƣờng phải chuyển lên tuyến trên gây tốn kém, lãng

phí cho nhân dân.

Trƣờng học các cấp còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho nhiệm vụ “dạy và học

của thầy và trò”, hạn chế công tác thi đua “Hai tốt” mà ngành giáo dục phát

động.

Tuy những đầu tƣ cơ sở vật chất cho công tác xây dựng đời sống văn hóa còn

thiếu và chƣa đồng bộ nhƣng không phải là yếu tố quyết định để Đảng bộ và

nhân dân Gia Lâm không thể, đạt đƣợc các chỉ tiêu đặt ra.

Hai là, trong xây đạo đức mới còn nhiều cán bộ đảng viên vi phạm quy chế,

điều lệ của Đảng nhƣ: tham lũng, lãng phí, sống xa hoa, không thực hiện đầy đủ

các phong trào đã phát động.

Việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh chƣa đƣợc

quan tâm chú trọng nên thƣờng chỉ các đảng viên biết còn nhân dân không thể

biết để thực hiện và kiểm tra đƣợc.

Với câu nói cửa miệng trong nhân dân là “Đảng viên làm trƣớc, làng nƣớc

theo sau”, cán bộ đảng viên phải là ngƣời sống gƣơng mẫu trong công việc cũng

nhƣ cuộc sống thƣờng ngày ở khu dân cƣ nơi mình sinh sống để nhân dân học

tập và noi theo. Trong giai đoạn cơ chế thị trƣờng này nhiều địa phƣơng đã xuất 90

hiện những cán bộ, đảng viên suy thoái về đức, lợi dung địa vị của mình để làm

lợi cá nhân trong tổ chức cƣới, tang... nhƣ tổ chức ăn uống linh đình, mời khách

với số lƣợng đông gây nên dƣ luận không tốt trong nhân dân.

Nhiều chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đời sống văn hoá tuyên truyền, vận

động còn mang tính hình thức, chƣa đạt hiệu quả cao mà chỉ nằm trong các cấp

ban ngành quản lý hoặc còn để đảng viên nhận thức không đầy đủ. Việc tổ chức

học tập nghị quyết của Đảng bộ huyện Gia Lâm trong nhân dân chƣa sâu rộng,

nhiều chi bộ chƣa thực hiện nghiêm túc công tác phê bình và tự phê bình trong

cán bộ đảng viên. Các hoạt động chỉ đạo của Đảng và chính quyền về xây dựng

đời sống văn hoá mới ở xã, phƣờng, thị trấn còn chƣa đƣợc thƣờng xuyên quan

tâm để xây dựng kế hoạch cụ thể phát triển văn hoá ở cơ sở.

Trình độ, đạo đức của cán bộ làm công tác văn hoá ở cơ sở chƣa đồng đều trên

toàn huyện, dẫn tới những hạn chế về kết quả chung. Đặc biệt đã làm hạn chế kết

quả của các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu

dân cƣ” của nhân dân.

Việc xây dựng đạo đức mới phải đƣợc làm thƣờng xuyên của Đảng bộ Gia

Lâm nhƣng phải có định hƣớng cho nhân dân học tập và noi theo, để trở thành

một cuộc vận động lớn trong Đảng bộ nhƣ việc“xây dựng văn hóa trong Đảng”.

Ba là, lề lối sinh hoạt của các tổ chức: Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội

phụ nữ... còn nhiều hạn chế, lúng túng, nặng về hình thức, chƣa phù hợp với thời

kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Lối sống trong nhân dân thời kỳ đổi mới đã có nhiều thay đổi đáng kể để phù

hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhƣng các tổ chức quần chúng

còn có những hạn chế trong lề lối sinh hoạt nhƣ:

Đoàn thanh niên là một tổ chức năng động nhƣng chủ yếu sinh hoạt vào các

dịp hè, với các phong trào, chủ trƣơng của Thành Đoàn; Huyện Đoàn chƣa có

những phong trào thƣờng xuyên để động viên, giáo dục thanh niên tham gia lao

động và học tập của riêng mình. Nội dung sinh hoạt còn tẻ nhạt, ít bổ ích trong

sinh hoạt còn nặng về các phong trào phát động mà thiếu đi tính chủ động của 91

Ban chấp hành chi đoàn. Năng lực tổ chức triển khai của các Bí thƣ đoàn xã còn

nhiều hạn chế về trình độ, chuyên môn, công tác. Do vậy chƣa tập hợp đƣợc

đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia, nhiều thanh niên còn thờ ơ không muốn

tham gia, chƣa chủ động trong phòng trào chống các tệ nạn xã hội, chống tội

phạm. Vì vậy số ngƣời vi phạm tệ nạn xã hội, trộm cắp trong độ tuổi thanh niên

còn chiếm tỷ lệ cao, thanh niên tham gia vào chi đoàn chiếm số lƣợng còn hạn

chế.

Hội nông dân: chƣa trở thành một lực lƣợng mạnh trên địa bàn huyện, chƣa tổ

chức lãnh đạo nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả, việc vay vốn

còn gặp khó khăn trong khâu phải có ngƣời bảo lãnh hoặc có của thể chấp.

Nhiều địa phƣơng hầu nhƣ Hội nông dân không hoạt động mà tồn tại chỉ là hình

thức.

Hội phụ nữ: đã có nhiều hoạt động giúp đỡ nhau làm kinh tế, vận động chị em

sinh đẻ có kế hoạch, tổ chức cho chị em cách chăm sóc con nhỏ, xây dựng làng

văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sông văn minh trong lễ cƣới, lễ tang, lễ hội... song

chƣa đạt hiệu quả cao. Hội phụ nữ huyện thƣờng xuyên hoạt động song ở các

thôn làng, tổ dân phố hầu nhƣ không có Hội phụ nữ hoạt động hoặc hoạt động

chỉ mang tính hình thức vào các đợt đại hội nhiệm kỳ hay các buổi sinh hoạt có

cán bộ phụ nữ huyện, Thành phố về triển khai.

Ngoài ra công tác phối kết hợp của các đoàn thể trong quản lý hoạt động văn

hoá chƣa chặt chẽ (nhƣ hoạt động của các nhà hàng Karaoke, Internet, khu vui

chơi giải trí...), việc tuyên truyền giáo dục cho các chủ của hàng này chƣa đƣợc

thƣờng xuyên và nghiêm túc, mới chỉ là hình thức.

Bốn là, nếp sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn chuyển

biến chậm gây trở ngại cho việc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hầu

nhƣ các cuộc vận động trên đã đi vào cuộc sống góp phần tạo nên các phong trào

văn hóa mới trong nhân dân có nhiều tiến bộ hơn so với trƣớc. Tuy vậy việc thực

hiện cuộc vận động nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội chƣa

đƣợc đồng bộ ở các xã, thị trấn còn có hiện tƣợng mạnh ai ngƣời đó làm, không 92

quan tâm đến phong trào chung của toàn huyện. Nhiều quy định cấm ở xã này

nhƣng lại đƣợc phép ở xã khác nhƣ; việc cấm hút thuốc, cờ bạc, rƣợu chè trong

việc cƣới, việc tang, lễ hội... dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong thực hiện chủ

trƣơng của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc nên kết quả thu đƣợc chƣa cao.

Công tác xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa đã phát triển mạnh song

còn nhiều khó khăn trong việc duy trì để thực hiện sau các cuộc phát động đã

không thƣờng xuyên, thiếu tuyên truyền nêu gƣơng điển hình và tổ chức nhân

rộng. Tiêu chuẩn đánh giá xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa chƣa chuẩn

xác, chƣa thiết thực, trong các hoạt động văn hóa nhiều khi mang động cơ tuyên

truyền, thiếu cụ thể để cho nhân dân thực hiện. Trong gia đình, khu dân cƣ nhiều

nơi tệ nạn xã hội đã lại phát triển nhƣ: mại dâm, nghiện hút, buôn bán ma túy, vi

phạm luật pháp, đánh cãi chửi nhau... dẫn đến các danh hiệu đạt đƣợc (nhƣ làng

văn hóa, gia đình văn hóa) không còn giá trị, nhƣng danh hiệu văn hóa này chƣa

đƣợc tƣớc bỏ hoặc bổ sung cho cụm dân cƣ, gia đình văn hóa khác, làm cho các

phong trào trên kết quả cao.

Hầu nhƣ các nếp sống văn hóa mới sau các đợt phát động ít thấy trong nhân

dân qua hoạt động hàng ngày trên địa bàn huyện, đôi khi chính những cán bộ

đảng viên không gƣơng mẫu thực hiện, làm ảnh hƣởng rất nhiều đến ý thức của

ngƣời dân.

3.2.Một số kinh nghiệm và các vấn đề đặt ra

3.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu

Xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm là công việc của toàn dân, dƣới sự lãnh

đạo của Đảng bộ Gia Lâm do sự chủ trì của MTTQ huyện. Nhìn lại chặng đƣờng

20 năm với những thành tích đã đạt đƣợc và cả những khuyết điểm thiếu sót

trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng đời sống văn hoá ở

địa phƣơng, có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau:

Một là: lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới phải xuất phát từ lợi ích của

nhân dân, phải thông qua hoạt động của các tầng lớp nhân dân, do đó phải phát

huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tăng cƣờng khối đại 93

đoàn kết toàn dân, động viên tối đa sức mạnh của toàn xã hội, hƣớng mọi hoạt

động về cơ sở, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân. Mọi chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng bộ phải xuất phát từ lợi ích của nhân

dân, đƣợc nhân dân đồng tình uỷ hộ. Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân,

mọi công việc phải đƣợc bàn với dân, tìm hiểu tâm tƣ nguyện vọng của quần

chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng không đƣợc xa rời

quần chúng, mọi biểu hiện quan liêu, hách dich, mệnh lệnh cửa quyền đều trái

với nguyên tắc của Đảng. Tất cả cuộc vận động mà Đảng bộ huyện phát động

đều nhằm hƣớng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, phát huy những nghĩa cử cao

đẹp của quần chúng. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” là thể hiện sự biết ơn tới

những ngƣời đi trƣớc đã ngã xuống cho độc lập tự do của tổ quốc, họ đã hy sinh

cả tính mạng và xƣơng máu cho Tổ quốc thì thân nhân họ cần nhận đƣợc sự

quan tâm của toàn xã hội, cần có cuộc sống tốt hơn mà họ đang có. Trong phong

trào “ngày vì ngƣời nghèo” nhằm phát huy tinh thần tƣơng thân tƣơng ái tƣơng

ái của nhân dân với đạo lý “lá lành đùm lá rách”. Việc ủng hộ không chỉ giúp

đỡ nhau về tiền bạc, nhiều khi giúp đỡ nhau bằng cách làm ăn, tổ chức sản xuất

cùng với sự giúp đỡ vốn ban đầu, không những giúp họ thoát nghèo mà còn có

thể vƣơn lên làm giàu chính đáng.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ”

nhằm phát hiện, xây dựng, biểu dƣơng những gia đình văn hoá, khu dân cƣ văn

hoá. Để đạt đƣợc danh hiệu đó thì gia đình, khu phố cần thực hiện tốt chính sách

của Đảng về dân số, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nếp sống mới, bài trừ những

hủ tục, thực hiện vệ sinh môi trƣờng... Tất cả các phong trào này đều hƣớng tới

nhân dân, thiết thực muốn nâng cao chất lƣợng, đời sống nhân dân cả về kinh tế

và văn hoá- xã hội. Các phong trào cũng thể hiện sự quan tâm toàn diện của

Đảng không những trên tất cả các lĩnh vực mà còn trên mọi đối tƣợng nhân dân

nhƣ: ngƣời già cô đơn, ngƣời có hoàn cảnh khó khăn, ngƣời già chính sách... cho

đến những ngƣời dân bình thƣờng nhất. Xuất phát từ những tƣ tƣởng đó, hoạt

động vì mục đích đó thì các phong trào mới có thể đứng vững đƣợc trong nhân 94

dân. Do vậy khi phát động phong trào không nên chỉ hô hào chung chung mà cần

phải phân tích, giải thích rõ cho quần chúng hiểu mọi hoạt động này là vì họ và

có làm tốt hay không là do họ.

Hai là: lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa là việc rộng lớn, song phải có

trọng tâm, trọng điểm, do đó phải chỉ đạo tập trung, coi trọng nhiệm vụ cơ bản,

chọn khâu đột phá, mũi nhọn để thực hiện có hiệu quả, đồng bộ, quyết liệt; phải

phân công cụ thể, rõ ngƣời, rõ việc, rõ quyền hạn và trách nhiệm, phát huy tính

chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành.

Trƣớc hết trong nội bộ Đảng bộ phải có tinh thần đoàn kết thống nhất. Mỗi

đảng viên phải biết tôn trọng, đặt lợi ích của Đảng, lợi ích của tập thể của nhân

dân lên trên lợi ích của bản thân.

Công tác xây dựng đời sống văn hoá cần phải có sự chỉ đạo tập trung thống

nhất của Đảng bộ huyện đối với các ban ngành trong huyện cùng kết hợp hƣởng

ứng thì mới có hiệu quả. Các ngành nhƣ; thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu

chiến binh, ngƣời cao tuổi... đều có những phong trào của mình, song đều hƣớng

vào mục tiêu chung phải góp phần tích cực vào cuộc vận động xây dựng đời

sống văn hoá mới ở cơ sở.

Đảng bộ, UBND huyện Gia Lâm phải quan tâm phân công rõ trách nhiệm tới

từng cá nhân, cấp ủy, từng ngành trong huyện. Nhƣ đã cử đồng chí phó chủ tịch

UBND huyện làm Trƣởng ban chỉ đạo cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ. Cuộc vận động này do MTTQ Việt Nam

phát động nên việc chỉ đạo, chủ trì là của MTTQ huyện là lực lƣợng chính. Mặt

trận Tổ quốc huyện phải chỉ đạo các thành viên của mình từ huyện đến xã, thị

trấn, thôn làng để thực hiện. Mặt trận tổ quốc còn phải giữ vai trò chủ đạo trong

các hoạt động tập hợp nhân dân thành một khối để hƣớng dẫn, tổ chức đƣa nhân

dân vào các cuộc vận động nhƣ “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá

ở khu dân cƣ”, “ngƣời tốt việc tốt”, “phong trào thanh niên lập nghiệp”...để các

hoạt động này ngày càng thấm sâu vào trong nhân dân.

95

Ba là: từ sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung Đảng bộ huyện phải coi trọng

xây dựng đời sống văn hóa mới trên địa bàn. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ

huyện công tác xây dựng đời sống văn hoá ở Gia Lâm đã đạt đƣợc những thành

tựu quan trọng, nhiều hoạt động phát triển trở thành các phong trào, nhƣ xây

dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc

tang, lễ hội... nhƣng bên cạnh mặt tích cực dƣờng nhƣ những hoạt động thật sự

phù hợp với kinh tế – xã hội riêng của huyện chƣa đƣợc quan tâm chú trọng

đúng mức nên nhiều nơi hiệu quả chƣa cao, thậm chí làm cho có phong trào, chỉ

dừng lại ở những việc làm chung chung, thiếu tính tự giác của nhân dân.

Phải coi văn hóa cũng là một lĩnh vực quan trọng tƣơng đƣơng với phát triển

kinh tế, có làm tốt công tác văn hóa này thì sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,

an ninh ... phát triển. Mới có thể xây dựng đƣợc các thiết chế xã hội, thiết chế

kinh tế, thiết chế an ninh... làm cho văn hóa thấm sâu vào tiềm thức trong quần

chúng nhân dân.

Công tác xây dựng đời sống văn hóa là việc làm thƣờng xuyên của các cấp,

các ngành muốn duy trì nó thì nội dung tổ chức và hình thức sinh hoạt phải

phong phú, đa dạng, không gò bó để phù hợp với điều kiện của mỗi địa phƣơng.

Bốn là: muốn lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới thành công phải chú

trọng làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệtphải

quan tâm chăm lo công tác tổ chức- cán bộ, phát huy dân chủ đi liền với kỷ luật,

kỷ cƣơng, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận

trong xã hội, giữ vững ổn định để phát triển kinh tế, xã hội nói chung đời sống

văn hóa nói riêng.

Đảng bộ huyện đã luôn xác định phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa

Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở nắm vững nguyên tắc cần vận

dụng một cách sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện cụ thể của địa phƣơng. Mỗi một

đảng viên luôn phải trau dồi, tu dƣỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, học tập

tấm gƣơng của Hồ Chí Minh “cần-kiệm-liêm-chính, chí công vô tƣ” biết đặt lợi

ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Đảng bộ luôn chú trọng đến công tác 96

củng cố, kiện toàn và phát triển Đảng viên, xây dựng Đảng bộ ngày càng vững

mạnh, kiên quyết chống những biểu hiện tiêu cực; những đảng viên vi phạm kỷ

luật, vi phạm điều lệ Đảng đều bị đƣa ra khỏi Đảng. Từ đó đã tạo ra sự đoàn kết

thống nhất trong Đảng, làm cho Đảng vững mạnh cả về chính trị- tƣ tƣởng- tổ

chức, uy tín của Đảng ngày càng đƣợc nâng cao, nhân dân tin tƣởng vào sự lãnh

đạo của Đảng. Đảng có trong sạch vững mạnh mới đủ sức điều hành các cơ

quan, tổ chức của mình, nhƣ Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,

MTTQ, ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hoá ở khu dân cƣ”. Làm sao để mỗi cán bộ, đảng viên phải là ngƣời vừa có đức

có tài, lại hăng hái nhiệt tình trong công việc, biết phát huy tính sáng tạo làm sao

để đƣa các nghị quyết, chính sách của Đảng đến nhân dân một cách tốt nhất.

Không chỉ tuyên truyền đến nhân dân một cách khô cứng từ Nghị quyết mà phải

biến nó thành hoạt động thực tiễn, thành phong trào, thành những hành động cụ

thể mà mỗi ngƣời dân đều có thể tham gia làm cho nghị quyết, chính sách đó

thực sự đi vào cuộc sống. Trong mỗi công tác, hoạt động thì ngƣời cán bộ không

những là ngƣời phát động, hƣớng dẫn thực hiện mà khi ngƣời dân tiến hành thì

cần có mặt nêu gƣơng, từ đó khuyến khích phong trào trong toàn dân.

Chính quyền, với chức năng thực hiện các chủ trƣơng đƣờng lối, chính sách

của Đảng phải biết vận dụng các chính sách ấy vào điều kiện cụ thể ở địa

phƣơng. Chính quyền có mạnh thì mọi chỉ thị, nghị quyết mới đƣợc nhanh chóng

thâm nhập vào quần chúng nhân dân, đƣợc nhân dân thực hiện. Do đó Đảng bộ

huyện Gia Lâm phải chăm lo xây dựng củng cố chính quyền. Những cán bộ nắm

giữ những chức vụ chủ chốt ở xã đến huyện đều phải đƣợc nâng cao trình độ,

chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng để đủ sức đảm đƣơng và

hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.

Chính quyền có mạnh có năng lực thì mới lãnh đạo đƣợc nhân dân, mới đƣa

đƣợc các phong trào vận động đến kết quả cao. Chính quyền mạnh phải biết vận

động sức dân, biết làm việc cho dân và vì lợi ích tập thể mới đƣa đƣợc chủ

trƣơng đi vào cuộc sống. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống 97

văn hoá” ở xã Đông Dƣ, Dƣơng Quang, Dƣơng Xá chẳng hạn đƣợc thành phố

đánh giá cao có một phần quyết định là do chính quyền mạnh, cán bộ có trách

nhiệm cao, có năng lực tốt, năm 2001 – 2002 xã Đông Dƣ đƣợc thành phố tặng

bằng khen, năm 2004 đƣợc thành phố tặng cờ thi đua và huân chƣơng lao động

hạng ba cũng là xã đƣợc huyện, Thành phố đánh giá cao về xây dựng hệ thống

chính quyền trong toàn xã.

3.2.2. Một số vấn đề đặt ra

Qua việc xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn huyện Gia Lâm dƣới sự lãnh

đạo của Đảng bộ huyện có thể nêu lên một số vấn đề cần giải quyết tiếp nhƣ sau:

Thứ nhất: xây dựng đạo đức mới cần chú trọng công tác xây dựng Đảng,

chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng cần làm tốt hơn nữa trong việc “Phê bình và tự phê

bình” của chi bộ, Đảng bộ. Nhiều bí thƣ trong chi bộ còn né tránh phê bình các

vi phạm của đảng viên, trong buổi họp thƣờng đƣa ra những ý kiến chung chung

“dĩ hòa vi quý”, chƣa nêu lên đƣợc khuyết điểm của cá nhân hay các biện pháp

để quyết.

Nhiều cán bộ đảng viên chƣa thực hiện nghiêm túc các chủ trƣơng của Đảng

và pháp luật của Nhà nƣớc dẫn tới không gƣơng mẫu để làm cho nhân dân noi

theo, hạn chế trong các phong trào, đặc biệt là cuộc vận động xây dựng đạo đức

mới, lối sống mới, nếp sống mới.

Thiếu sự đồng bộ trong việc thực hiện giữa các ban ngành đoàn thể trong xã,

làng, xóm... trong thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá sẽ dẫn tới

nhiều chủ trƣơng về văn hoá của Đảng và Nhà nƣớc không đƣợc tuyên truyền

phổ biến rộng rãi trong nhân dân, gây khó khăn trong chỉ đạo làm hạn chế tác

dụng của các phong trào. Cần tạo điều kiện cho mọi ngƣời dân ở địa phƣơng

tham gia đầy đủ các hoạt động văn hoá, để từ đó làm cho nhân dân đƣợc sinh

hoạt tập thể và nhận thấy vai trò, trách nhiệm của mình đối với địa phƣơng nơi

mình đang sinh sống. Chính quyền các cấp cần tuyên truyền sâu hơn nữa các chủ

98

trƣơng, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc để nhân dân biết và thực

hiện đạt kết quả cao hơn.

Tăng cƣờng công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, cần phối hợp với

MTTQ và các đoàn thể để nắm bắt tình hình tƣ tƣởng của quần chúng nhân dân,

chủ động tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trƣơng, chính sách

pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc. Để tăng cƣờng công tác tuyên truyền, vận

động thu hút đoàn viên, hội viên vào hoạt động trong các tổ chức đoàn thể phải

đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nƣớc của quần chúng nhân dân đặc biệt là

phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ”. Mặt

khác cần tăng cƣờng công tác tham gia giám sát của nhân dân với các hoạt động

của Đảng và Nhà nƣớc, đẩy mạng công khai dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân

chủ ở cơ sở, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân

chủ, văn minh”.

Thứ hai: xây dựng lối sống mới phải xây dựng các cá nhân điển hình, nhân

rộng thi đua ngƣời tốt việc tốt, động viên khen thƣởng kịp thời.

Cần tuyên truyền, triển khai các phong trào thi đua noi gƣơng ngƣời tốt việc

tốt. Đƣa phong trào này vào đời sống hàng ngày của nhân dân, để nhân dân phấn

đấu học tập và làm theo. Nhất là trong các cuộc vận động của Đảng và Nhà nƣớc

nhƣ: làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn minh... trở thành việc thƣờng

xuyên của cấp ủy, chính quyền và các đòan thể.

Kết quả của việc xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, xã văn minh ... cần

đƣợc thƣờng xuyên khích lệ để đƣa phong trào đó đi vào cuộc sống nhất là việc

quan tâm những gƣơng điển hình về “ngƣời tốt việc tốt”, “quỹ đền ơn đáp

nghĩa”, “xây dựng nhà tình nghĩa” “quỹ vì ngƣời nghèo” ...

Huyện cần thƣờng xuyên tổ chức các cuộc thi tuyên truyền gƣơng “Ngƣời tốt

việc tốt”, gƣơng xây dựng phong trào đời sống văn hóa ở cơ sở... để từ đó giáo

dục nhân dân tham gia thực hiện đầy đủ hơn các phong trào xây dựng gia đình

văn hóa, làng văn hóa, nếp sống văn minh...

99

Công tác thi đua khen thƣởng có tác dụng tích cực, góp phần động viên nhân

dân kịp thời tham gia vào các phong trào. Từ đó cũng phát hiện các điển hình,

các hoạt động mẫu để nhân rộng trong nhân dân góp phần đƣa các chủ trƣơng đó

đi vào cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân.

Hàng tháng cần tổ chức, kiểm tra đôn đốc các làng, xã, khu dân cƣ làm tốt hơn

công tác xây dựng đời sống văn hoá. Cần công khai nội dung sinh hoạt và tiêu

chuẩn đƣợc công nhận và tƣớc bỏ danh hiệu làng văn hoá, gia đình văn hoá, xã

văn hoá... để cho quần chúng nhân dân đƣợc biết và thực hiện biến nó thành thói

quyen hàng ngày và trở thành một nếp sống mới.

Thứ ba: muốn tạo đƣợc nếp sống mới Đảng bộ Gia Lâm phải thƣờng xuyên

quan tâm phân cấp, đi vào chiều sâu để cán bộ đảng viên và nhân dân ở cơ sở

thực hiện. Đảng bộ huyện cần phân rõ trách nhiệm đối với cán bộ làm công văn

hóa và cán bộ phong trào, phải kiểm tra thƣờng xuyên việc thực hiện các cuộc

vận động để đánh giá sát việc thực hơn.

Đảng bộ, UBND, phòng văn hoá huyện Gia Lâm cần thƣờng xuyên kiểm tra

và nắm tình hình, từ đó phát hiện và thúc đẩy các nhân tố tích cực; cần quan tâm

hơn nữa đối với cán bộ làm công tác văn hoá cơ sở, tránh để cán bộ văn hoá cơ

sở phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác do phải đảm bảo cuộc sống. Thƣờng

xuyên tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ văn

hoá xã để họ yên tâm vững vàng trong công tác của mình, tránh bị động trƣớc

mọi tình huống xẩy ra. Không nên cử cán bộ, ngƣời làm công tác văn hoá ở nơi

khác về mà không phải là ngƣời địa phƣơng, để tránh hiện tƣợng cán bộ văn hoá

xã không hiểu phong tục tập quán của nhân dân trong xã mà vận dụng vào chỉ

đạo các hoạt động làm hạn chế phong trào của địa phƣơng.

Huyện cần đầu tƣ hơn nữa các thƣ viện xã, thôn để nhân dân có chỗ sinh hoạt

thƣờng xuyên từ đó nâng cao dân trí, trình độ của ngƣời dân. Để nhân dân lĩnh

hội tri thức phục vụ cuộc sống và sản xuất.

Đƣa cuộc vận động đến từng gia đình, từng khu dân cƣ để xây dựng trong

nhân dân thì đòi hỏi phải có những cán bộ có tâm huyết, có tài, có đức mới hoàn 100

thành đƣợc nhiệm vụ đƣợc giao. Cần quan tâm đầu tƣ thƣờng xuyên, động viên

cán bộ văn hóa ở thôn, làng cả về mặt vật chất và tinh thần để họ yên tâm với

nhiệm vụ đƣợc giao.

Muốn xây dựng đƣợc nếp sống mới đòi hỏi phải có sự đồng thuận nhất trí của

toàn Đảng, toàn dân phải có sự tự giác của từng cá nhân trong xã hội thì mới đƣa

nếp sống mới đi vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân huyện.

101

KẾT LUẬN

1. Quá trình nhận thức và chỉ đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về công tác

xây dựng đời sống văn hóa thời kỳ 1986 – 2005 gồm hai giai đoạn: giai đoạn thứ

nhất từ 1986- 1996 (10 năm đầu đổi mới) và giai đoạn thứ hai từ 1996-2005

(giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa). Trong hai giai đoạn đó

Đảng bộ huyện Gia Lâm luôn nhận thức rõ công tác văn hóa và xây dựng đời

sống văn hóa có vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế –

xã hội trên địa bàn huyện. Với sự nhận thức đúng đăn đó, Đảng bộ huyện Gia

Lâm đã luôn chỉ đạo kịp thời các công tác xây dựng đời sống văn hóa từ đó tạo

điều kiện thúc đẩy phong trào xây dựng và bảo vệ địa phƣơng.

2. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở Gia Lâm dƣới sự lãnh đạo của

Đảng bộ thời kỳ 1986 – 2005 đã giành đƣợc nhiều thành tựu to lớn nhƣ: giúp

giảm hộ đói nghèo, nâng cao số hộ giàu, đời sống văn hóa xã hội đƣợc cải thiện

trên các mặt; giáo dục, y tế đƣợc chăm lo phát triển; an ninh quốc phòng đƣợc

giữ vững; vận động đƣợc nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền, giúp cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, chính quyền đƣợc củng cố,

mọi ý kiến và quyền lợi của nhân dân đều đƣợc quan tâm giải quyết, thông qua

việc lãnh đạo nhân dân tham gia vào các phong trào nhƣ: cuộc vận động “Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ”, cuộc vận động “Quỹ vì

ngƣời nghèo”, “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, vận động nhân dân tham gia “phòng

ngừa tấn công tội phạm”, thực hiện tinh thần tƣơng thân tƣơng ái, lá lành đùm lá

rách, ủng hộ đồng bào lũ lụt, ủng hộ CuBa, ủng hộ các nạn nhân sóng thần Đông

Nam Á... Đảng bộ Gia Lâm đã khơi dậy đƣợc những truyền thống tốt đẹp của

dân tộc đã có từ rất lâu.

Các phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, xã văn minh, xây

dựng nếp sống văn hóa mới... đã trở thành phổ biến và thành thói quyen có sức

sống trên toàn địa bàn huyện đã thúc đẩy những nhân tố tích cực, hạn chế và loại

bỏ những nhân tố lạc hậu, bảo thủ để Gia Lâm thực hiện thắng lợi công cuộc

công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc, Thủ đô và Gia Lâm trong thời kỳ này. 102

3. Tuy nhiên công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa thời kỳ 1986 –

2005 của Đảng bộ huyện Gia Lâm cũng còn có một số hạn chế, nhƣ sự đầu tƣ cơ

sở vật chất chƣa tƣơng xứng với vai trò của nó, tƣ duy chuyển biến chậm trong

nhận thức của cán bộ, nhân dân nên chƣa trở thành hoạt động tự giác hàng ngày

của mình. Bên cạnh đó ở một số cuộc vận động, các phong trào thi đua chất

lƣợng hiệu quả còn chƣa cao. Nhiều phong trào lớn mới chỉ bề rộng chƣa thực sự

đi vào chiều sâu. Họat động của các phong trào quần chúng chƣa tòan diện và

liên tục, tỷ lệ thu hút nhân dân tham gia còn hạn chế.

Nhiều tệ nạn xã hội xuất hiện và có chiều hƣớng phát triển nhƣ: mại dâm,

nghiện hút, mất an ninh trật tự...Trong giáo dục còn sự giao chỉ tiêu đối với giáo

viên và chƣa đánh giá thực chất các khả năng của từng học sinh. Công tác xây

dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể còn bộ lộ những thiếu sót

một bộ phận cán bộ, đảng viên, đoàn viên suy thoái về đạo đức, lối sống. Công

tác kiểm tra chƣa đi sâu thƣờng xuyên xuống cơ sở nên không nắm bắt đƣợc hết

nguyện vọng của nhân dân, năng lực của một số cán bộ còn hạn chế. Tất cả

những hạn chế trên, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến kết quả của phong trào xây

dựng đời sống văn hóa mới.

4. Sau 20 năm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa mới Đảng bộ Gia Lâm đã

để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị nhƣ: phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân,

thông qua hoạt động của quần chúng nhân dân tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn

dân để huy động sức mạnh của toàn xã hội; phải xác định đƣợc nhiệm vụ trọng

tâm, trọng điểm để có bƣớc đột phá; phải coi trọng công tác xây dựng đời sống

văn hóa tƣơng xứng với phát triển kinh tế – xã hội; phải quan tâm hơn nữa tới

công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền để tăng cƣờng sức mạnh của hệ

thống chính trị.

5. Để công tác xây dựng đời sống văn hóa trong thời gian tới ở Gia Lâm đạt

kết quả tốt hơn, cần lƣu ý giải quyết một số vấn đề sau: xây dựng đạo đức mới

cần chú trọng công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể; xây dựng

lối sống mới phải xây dựng các cá nhân điển hình, nhân rộng thi đua ngƣời tốt 103

việc tốt và động viên khen thƣởng kịp thời; muốn xây dựng nếp sống mới Đảng

bộ Gia Lâm phải thƣờng xuyên phân cấp, đi vào chiều sâu để cán bộ đảng viên

và nhân dân ở cơ sở thực hiện.

Với những thành tựu đã đạt đƣợc và trên cơ sở kinh nghiệm đã qua, tin tƣởng

rằng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở Gia Lâm dƣới sự lãnh đạo của Đảng

bộ huyện sẽ đạt đƣợc những thành tựu mới trong thời gian tới, góp phần đƣa Gia

Lâm cùng Thủ đô và cả nƣớc tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa-

hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn

minh”.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-xây dựng-đời sống văn hóa”

xã Đông Dƣ, Báo cáo tổng kết 5 năm cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-xây

dựng đời sống văn hoá” 2000-2005 xã Đông Dƣ.

2. Ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-xây dựng-đời sống văn hóa”

xã Dƣơng Quang, Báo cáo tổng kết 5 năm cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-

xây dựng đời sống văn hoá” 2000-2005 xã Dƣơng Quang.

3. Ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-xây dựng-đời sống văn hóa”

xã Dƣơng Xá, Báo cáo tổng kết 5 năm cuộc vận động “Toàn dân-đoàn kết-xây

dựng đời sống văn hoá” 2000-2005 xã Dƣơng Xá.

4. Bộ văn hoá-thông tin, cục văn hoá-thông tin cơ sở(1998), Hỏi đáp về xây dựng

làng văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn hóa, tổ chức và quản lý lễ hội

truyền thống, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ văn hoá-thông tin, cục văn hoá-thông tin cơ sở(1997), Sổ tay công tác văn

hoá thông tin, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

6.Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hƣng (2004), Giáo dục Việt Nam hƣớng tới

tƣơng lai; vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Minh Châu (2006), Cẩm nang công tác mặt trận, Nxb văn hóa thông tin, Hà

Nội.

8. Nguyễn Viết Chức (2001), Xây dựng tƣ tƣởng đạo đức lối sống và đời sống

văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá

đất nƣớc, Viện văn hoá và Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội.

9. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (1994), Kinh nghiệm tổ chức và quản lý

nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hoá làng xã Việt Nam trong lịch

sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Đinh Xuân Dũng (2005), Xây dựng làng văn hoá ở đồng bằng Bắc Bộ thời

kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

105

12. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -

thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 – 2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng bộ thành phố Hà Nội, ban chấp hành Đảng bộ Gia Lâm, Dự thảo báo

cáo chính trị trình tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XIX

nhiệm kỳ (2005-2010).

14. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Ban chấp hành Đảng

bộ huyện Gia Lâm; báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Gia Lâm tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVI, tháng 9-1991.

15. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Ban chấp hành Đảng

bộ huyện Gia Lâm, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ

XVIII tháng 2-2001.

16. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Gia Lâm – Hà

Nội, Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Gia Lâm- tập II (1954-

1995).

17. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (đại hội

VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng Sản Việt Nam, thành uỷ Hà Nội, Văn kiện Đại hội Đại biểu

Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XVII tháng 1-1996.

19. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội (1987), Văn kiện Đại

hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ X, Xí nghiệp in báo Hà Nội mới, Hà

Nội.

20. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội (1991), Văn kiện Đại

hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XI, Xí nghiệp in báo Hà Nội mới, Hà

Nội.

21. Đảng Cộng Sản Việt Nam, thành uỷ Hà Nội, Văn kiện hội nghị Đại biểu giữa

nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố Hà Nội khoá XI(29,31-3-1994).

22. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội (1996), Văn kiện Đại

hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XII, Xí nghiệp in báo Hà Nội mới, Hà

Nội. 106

23. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội (2001), Văn kiện Đại

hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XIII, Xí nghiệp in báo Hà Nội mới, Hà

Nội.

24. Đảng Cộng Sản Việt Nam, thành uỷ Hà Nội (2005), Dự thảo đề cƣơng báo

cáo chính trị Đại hội lần XIV Đảng bộ thành phố Hà Nội, công ty in báo Hà Nội

mới, Hà Nôi.

25. Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- uỷ ban nhân dân xã Đa Tốn (2003), Lịch sử

cách mạng Đảng bộ và nhân dân Đa Tốn (1930-2000), công ty in Bƣu Điện, Hà

Nội.

26. Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- uỷ ban nhân dân xã Trâu Quỳ, Lịch sử cách

mạng Đảng bộ và nhân dân xã Trâu Quỳ (1930-2000).

27. Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- uỷ ban nhân dân xã Đông Dƣ, Lịch sử cách

mạng Đảng bộ và nhân dân xã Đông Dƣ (2003), công ty in thƣơng mại Hà Nội,

Hà Nội.

28. Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- uỷ ban nhân dân xã Dƣơng Quang (2000), Lịch

sử cách mạng Đảng bộ và nhân dân xã Dƣơng Quang (1930-1996), Nhà in khoa

học và công nghệ, Hà Nội.

29. Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- uỷ ban nhân dân xã Dƣơng Xá (2004), Lịch sử

cách mạng Đảng bộ và nhân dân xã Dƣơng Xá (1930-2000), Công ty in Bƣu

Điện, Hà Nội.

30. Nguyễn Tấn Đắc (2003), Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

31. Nguyễn Khoa Điềm (2005), Bàn về văn hoá Đảng và xây dựng văn hoá

trong Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Bùi Xuân Đính, Nguyễn Viết Chức (2004), Các làng khoa bảng Thăng

Long– Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Lê Mậu Hãn (2000 ), Các cƣơng lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

107

34. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hoá và xây

dựng con ngƣời thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

35. Tô Duy Hợp (2003), Định hƣớng phát triển làng xã đồng bằng sông Hồng

ngày nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

36. Hội liện hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội, Ban thƣờng vụ hội liên hiệp phụ nữ

huyện Gia Lâm, Hƣớng dẫn thực hiện, Kế hoạch 46/KHĐCT “Xây dựng, củng

cố tổ chức cơ sở Hội phát triển hội viên trong các gia đình chƣa có hội viên và

xây dựng hội viên nòng cốt”.

37. Đỗ Huy (2002), Nhận diện văn hoá Việt Nam và sự biến đổi của nó trong thế

kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Đỗ Huy (2005), Văn hoá và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hoá mục tiêu và động lực của sự phát triển

xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Huyện ủy Gia lâm (1989), Báo cáo công tác thực hiện phát triển văn hóa

(1986-1989).

41. Huyện ủy Gia Lâm (1991), Báo cáo tổng kết công tác văn hóa – xã hội

(1989-1991).

42. Huyện ủy Gia Lâm (1996), Báo cáo đánh giá thực hiện nghị quyết Đại hội

XVI về công tác văn hóa từ (1991- 1996)

43. Huyện ủy Gia Lâm (2001), Báo cáo công tác văn hóa nhiệm kỳ (1996-

2001).

44. Huyện ủy Gia Lâm (2005), Báo cáo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ”.

45. Huyện ủy – HĐND – UBND huyện Gia Lâm (2003), Ngƣời tốt, việc tốt

huyện Gia Lâm. In tại công ty in Thƣơng mại, Bộ Thƣơng mại, Hà Nội.

46. Nxb Chính trị Quốc gia (2004), Đề cƣơng văn hoá Việt Nam chặng đƣờng 60

năm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

108

47. Nxb Chính trị Quốc gia (2006), Giáo trình tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2004), Góp phần tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về văn hóa.

49. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2002), Hƣớng dẫn dạy học một số chuyên

đề về lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.

50.Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (2000), Trên hành trình 990 năm hƣớng tới

1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Xƣởng in tạp chí than Việt Nam, Hà Nội.

51. Sở văn hoá thông tin Hà Nội (1998), Một số vấn đề về công tác văn hoá -

thông tin cơ sở ở Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Sở văn hoá thông tin Hà Nội (1996), Văn bản về tăng cƣờng quản lý các

hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội

nghiêm trọng, Xí nghiệp in Tổng hợp, Hà Nội.

53. Tạp chí Thông tin Unesco (11-1988), Trang 5.

54.Tạp chí, Văn hoá thông tin, Hà Nội, số 6 (2005).

55. Tạp chí, Xây dựng đời sống văn hoá, số 12 (2005).

56. Tạp chí, Xây dựng đời sống văn hoá, số 16 (2001).

57. Tạp chí, Xây dựng đời sống văn hoá, số 2 (1-2005).

58. Tạp chí, Xây dựng đời sống văn hoá, số 7 (3-2005).

59. Tạp chí, Văn hóa thông tin cơ sở, số 131 (5-2004).

60. Tạp chí, Văn hóa thông tin cơ sở, số 139 (9-2004).

61. Tạp chí, Văn hóa thông tin Hà Nội, số 6 (2005).

62. Thăng Long – Hà Nội ngàn năm, số 13 (3-2003), In tại xƣởng in, Nxb nông

nghiệp, Hà Nội.

63. Thăng Long – Hà Nội ngàn năm, số 28 (2005), In tại xƣởng in, Nxb Văn hoá

dân tộc, Hà Nội.

64. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Tổng hợp,

thành phố Hồ Chí Minh.

109

65. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trƣờng văn hoá cơ sở, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Trần Dân Tiên (2001), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí

Minh, Nxb Văn học, Hà Nội.

67. Nguyễn Phú Trọng (2005), Phát huy hào khí Thăng Long – Hà Nội xây dựng

thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, Nxb Hà Nội.

68. UBND huyện Gia Lâm, phòng văn hoá thông tin huyện, số 10/BC-VH, Báo

cáo tổng kết hoạt động văn hoá thông tin năm 1995 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ

văn hoá thông tin năm 1996.

69. UBND huyện Gia Lâm, ngành văn hoá thông tin, số 94/BC-VHTT, Báo cáo

tổng kết công tác văn hoá thông tin năm 2000.

70. UBND huyện Gia Lâm, số 15/CT-UB, Chƣơng trình triển khai thực hiện

nghị quyết Trung ƣơng V (khoa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá

Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” từ nay đến năm 2000.

71. UBND huyện Gia lâm, phòng VHTT & TDTT, số 33/BC-VHTT & TDTT,

Báo cáo tổng kết thực hiện chỉ thị 35/CT-TW của bộ chính trị về đổi mới công

tác thi đua khen thƣởng trong giai đoạn mới.

72. UBND huyện Gia Lâm, ngành văn hoá thông tin, số 10/BC – VH, Báo cáo

thành tích công tác văn hoá thông tin huyện Gia Lâm năm 1999

73. UBND huyện Gia Lâm, Ban chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hoá”, Báo cáo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hoá” huyện Gia Lâm (2000-2004). Đánh giá khái quát

kết quả 6 tháng đầu năm 2005.

74. UBND thành phố Hà Nội, sở văn hoá và thông tin, số 452/VHTT – HD,

Hƣớng dẫn xây dựng qui ƣớc làng văn hoá.

75. UBND huyện Gia Lâm, phòng văn hoá thông tin và thể dục thể thao, Báo

cáo kết quả hoạt động công tác văn hoá thông tin, thể dục thể thao huyện Gia

Lâm (2001-2005).

110

76. Viện Mác – Lênin (1980), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1 (1920-1925), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

77. Viện Mác – Lênin (1984), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1947), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

78. Viện Mác – Lênin (1985), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1948-1950), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

79. Viện Mác – Lênin (1986), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 (1951-1954), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

80. Viện Mác – Lênin (1987), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1954-1957), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

81. Viện Mác – Lênin (1989), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 (1961-1964), Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

111

PHỤ LỤC

112

Hµ Néi, ngµy 12-1-1998

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƢƠNG Sè 27-CT/TW

PHỤ LỤC 1 CHỈ THỊ 27-CT/TW

CHỈ THỊ Về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội

Từ nhiều năm qua, cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh- gia đình văn

hóa đã đƣợc thực hiện trong cả nƣớc. Nhiều tỉnh, thành phố đã có những việc

làm thiết thực đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn ấp văn hóa;

bƣớc đầu hình thành một số nghi thức mới trong việc cƣới, việc tang, lễ hội, cải

tạo phong tục tập quán lạc hậu, phát huy truyền thống đạo lý uống nƣớc nhớ

nguồn, hiếu thảo, thủy chung của dân tộc.

Những năm gần đây, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị

trƣờng, chúng ta đã có phần buông lỏng chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực

văn hóa – xã hội, xem nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống, thiếu sự hƣớng

dẫn kịp thời về phong tục, thiếu những quy định cụ thể của nhà nƣớc đối với

việc cƣới, việc tang, lễ hội nên đã phát sinh nhiều hiện tƣợng không lành mạnh

trong xã hội. Nhiều gia đình, trong đó có cả những cán bộ có chức quyền, vì

động cơ hiếu danh vụ lợi, tổ chức đám cƣới, đám tang linh đình, phô trƣơng có

những trƣờng hợp thực chất là “bán cỗ thu tiền”. Mê tín dị đoan cùng nhiều hủ

tục mới hình thành do thói quyen đua đòi và do cách học theo nƣớc ngoài thiếu

sự phê phán, chọn lọc, đang có khuynh hƣớng phục hồi và phát triển khá phổ

biến ở nhiều nơi ...

Những hiện tƣợng trên trở thành những vấn đề xã hội nhức nhối, làm xói mòn

các giá trị đạo đức truyền thống, lối sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, phá hoại

thần phong, mỹ tục, ảnh hƣởng xấu tới đời sống tinh thần vật chất của nhân dân,

ngày càng bị những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên án, không đồng tình.

113

Trƣớc tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc vận động sâu rộng trong

toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh – gia đình văn hóa,

trong đó có việc thiết lập nếp sống lành mạnh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội

thoe những định hƣớng:

-Bảo tồn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của

dân tộc; loại bỏ dần trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên

cứu xây dựng và hình thành dần những hình thức văn minh, vừa giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc trong việc cƣới, việc tang, lễ hội.

-Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu.

-Chống khuynh hƣớng kinh doanh, vụ lợi.

-Xóa bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan.

Để thực hiện chủ trƣơng trên cần làm tốt các công việc sau đây:

1. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải thực sự quan tâm, có kế hoạch

cụ thể chỉ đạo xây dựng nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội, coi

đó là một nhiệm vụ quan trọng của địa phƣơng ngay trong dịp tết và Xuân Mậu

Dần này.

2.Phát động phong trào quần chúng rộng rãi, nêu cao vai trò làm chủ, ý thức

tự giác của nhân dân, xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn về nếp sống văn

minh- gia đình văn hóa.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đòan thể chính trị, tổ chức xã hội đóng vai

trò nòng cốt phối hợp kế hoạch tiến hành cuộc vận động từ cơ sở xã, phƣờng, lôi

cuốn mọi ngƣời, mọi lực lƣợng tham gia, tạo ra dƣ luận xã hội mạnh mẽ phê

phán những biểu hiện cổ hủ, xa hoa lãng phí, hiếu danh, vụ lợi trong cƣới xin,

ma chay, tế lễ không phù hợp với yêu cầu cuộc sống văn minh.

3.Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nhân viên

nhà nƣớc và cán bộ chiến sĩ lực lƣợng vũ trang nhân dân phải gƣơng mẫu chấp

hành những quy định của nhà nƣớc, quy ƣớc của địa phƣơng, cơ quan, đơn vị về

nếp sống văn minh, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, cổ hủ, xa hoa lãng phí, vụ lợi

trong việc cƣới, việc tang, lễ hội, coi đây là một tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, 114

đảng viên, đoàn viên. Nghiêm khắc phê bình và sử lý kỷ luật thích đáng đối với

những đảng viên, đoàn viên, cán bộ và chiến sĩ vi phạm nếp sống văn minh.

4.Ngành văn hóa- thông tin có trách nhiệm xây dựng và hƣớng dẫn những

nghi thức phù hợp trong việc cƣới, việc tang, lễ hội; kiến nghị nhà nƣớc bổ sung

luật lệ và quy định về lĩnh vực này theo các định hƣớng đã nêu ở trên; các địa

phƣơng dựa vào các quy đinh này mà cụ thể hóa và vận dụng thích hợp với điều

kiện của từng vùng, miền và đồng bào các dân tộc.

5.Các cơ quan truyền thông đại chúng, văn hóa, nghệ thuật có nhiệm vụ

thƣờng xuyên tuyên truyền về cuộc vận động này, nêu gƣơng những điển hình

tiên tiến, những mô hình làm tốt về nếp sống văn minh – gia đình văn hóa, giữ

gìn thuần phong mỹ tục; hình thành những tập quán mới tiến bộ, khắc phục các

tập quán lạc hậu.

6.Các cấp ủy Đảng, cơ quan chính quyền tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo có kế

hoạch cụ thể để đảm bảo thực hiện thắng lợi cuộc vận động.

Ban Tƣ tƣởng – văn hóa Trung ƣơng, Ban cán sự đảng các ngành, các cấp

theo dõi, kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và có báo cáo

việc thi hành chỉ thị này.[4; tr. 9-14].

(Đã ký)

T/M. Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt

115

PHỤ LỤC 2

THỰC HIỆN NẾP SỐNG VĂN MINH TRONG VIỆC CƢỚI, VIỆC TANG, LỄ HỘI Ở XÃ DƢƠNG QUANG – GIA LÂM – HÀ NỘI

ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ DƢƠNG QUANG SỐ 19/KH-UB

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC

DƢƠNG QUANG, NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1998

KẾ HOẠCH Triển khai thực hiện chỉ thị 27/CT-TW của Bộ chính trị, hƣớng dẫn của

UBND huyện Gia Lâm về nếp sống văn minh trong lễ cƣới, lễ tang, lễ hội và qui

ƣớc cƣới của thành phố Hà Nội.

Thực hiện chỉ thị 27/CT-TW ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị ban chấp hành

Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ thị số 34/CT-TW ngày 26/3/1998 của

Thành ủy Hà Nội, kế hoạch số 07/KH-UB ngày 28/3/1998 của UBND thành phố

Hà Nội thực hiện quy đinh cƣới: “Trang trọng – lành mạnh – tiết kiệm” và

hƣớng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong lễ cƣới, lễ tang, lễ hội của UBND

huyện Gia Lâm, UBND, Ban chỉ đạo NSVM – GĐVH xã đề ra kế hoạch triển

khai cụ thể nhƣ sau:

I.Mục đích yêu cầu

Tổ chức thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng NSVM- GĐVH góp

phần thực hiện nếp sống văn minh gia đình đình văn hoá trong tổ chức lễ cƣới, lễ

tang, lễ hội. Để phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong, mỹ tục dân tộc, xây

dựng những thói quyen tiến bộ, văn minh, lành mạnh trong sinh hoạt xã hội, tạo

dƣ luận rộng rãi trong nhân dân. Để mọi ngƣời tích cực hƣởng ứng và tự giác

chấp hành đấu tranh phê phán các hủ tục lạc hậu, xa hoa tốn kém tiền bạc, phô

trƣơng hình thức, trục lợi.

116

Kết hợp mọi biện pháp tuyên truyền, vận động để nhân dân nhận thức và thực

hiện đúng mục đích ý nghĩa cuộc vận động xây dựng NSVM trong lễ tang, lễ

cƣới, lễ hội kết hợp cuộc vận động gắn với các phong trào khác để tạo thành sức

mạnh của toàn xã hội. Kế hoạch này đƣợc triển khai góp phần làm lành mạnh

hoá môi trƣờng sinh hoạt văn hoá ở địa phƣơng.

II.Nội dung, thời gian thực hiện

Coi trọng và xây dựng nếp sống văn minh trong lễ tang, lễ cƣới, lễ hội là nội

dung trọng tâm của cuộc vận động xây dựng NSVM- GĐVH và đƣợc triển khai

trong nhiều năm. Trƣớc mắt gắn vào kế hoạch công tác giai đoạn 1998 – 2000,

tập trung công tác tuyên truyền vận động vào quí I và quý IV hàng năm, nhƣ quý

IV năm 1998 và quý I năm 1999. Căn cứ vào kế hoạch của ban NSVM – GĐVH,

MTTQ xã và các ngành đoàn thể trong xã xây dựng kế hoạch cụ thể của ngành

mình xong trƣớc ngày 5-12-1998.

UBND xã - Ban chỉ đạo nếp sống văn minh – gia đình văn hóa sinh hoạt gắn

với nội dung thiết thực cùng với việc tuyên truyền chỉ thị 27 của Bộ chính trị, qui

ƣớc cƣới “Trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm”. Mỗi thôn hình thành một tiểu ban

nếp sống văn minh – gia đình văn hóa, cùng với việc tuyên truyền còn trực tiếp

đến vận động tới từng gia đình có việc cƣới, việc tang. Đến quý II năm 1999 kết

hợp với công tác sơ kết cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh – gia đình

văn hóa các thôn, các ngành tổng hợp tình hình và những kiến nghị thực hiện chỉ

thị 27 của Bộ chính trị, quy ƣớc của thành phố và kế hoạch hƣớng dẫn của

UBND huyện Gia Lâm.

1.Thực hiện nếp sống văn minh trong tổ chức lễ tang, cải cát

Cụ thể Đảng bộ xã Dƣơng Quang đã chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể, nhân dân

trong xã xây dựng đời sống văn hóa mới trên các mặt sau:

Tang là sự đau thƣơng, mất mát của gia đình, dòng họ và cộng đồng. Với

truyền thống, đạo lý văn hoá của dân tộc “Nghĩa tử là nghĩa tận” nhân dân ta

luôn chăm lo chu đáo cho ngƣời quá cố đƣợc thực hiện bằng tình cảm gắn bó sâu

lặng, tiếc thƣơng vô hạn của ngƣời đang sống với ngƣời đã khuất. Bên cạnh mặt 117

tích cực trong tang lễ vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục đó là: nhiều gia

đình tổ chức tang lễ còn ăn uống linh đình, một số gia đình còn mê tín xem giờ

nhập quan, khâm liệm. Có thôn còn buông lỏng việc tổ chức tang lễ và nghĩa

trang để tang chủ chiếm dụng đất công xây bia mộ cao to mang tính ganh đua.

Nội quy nghĩa trang chƣa đƣợc xây dựng, vấn đề ô nhiễm môi trƣờng nghĩa

trang chƣa đƣợc giải quyết kịp thời.

Để đƣa việc tổ chức lễ tang, cải cát đi vào nền nếp góp phần gìn giữ thuần

phong mỹ tục, đảm bảo vệ sinh môi trƣờng, vừa thể hiện đƣợc tình cảm sâu nặng

của ngƣời sống với ngƣời đã khuất, vừa có ý nghĩa giáo dục ngƣời đang sống

góp phần giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Tang lễ cần đƣợc tổ chức trang nghiêm, lành mạnh, tiết kiệm theo những quy

định sau:

* Việc tang

+ Phải báo tử kịp thời cho UBND xã

+ Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong lễ tang: không đội mũ rơm, không

đốt vàng mã, những ngƣời chết vì nguyên nhân thông thƣờng thì sau khi tắt thở

từ 8 – 10 giờ phải đƣợc nhập quan và phải chôn cất trƣớc 48 giờ. (còn đối với

ngƣời mắc các bệnh dễ lây lan phải đƣợc chôn cất trƣớc 24 giờ). Ngƣời chết ở

ngoài với nhiều lý do không đƣợc đƣa vào trong làng.

Ban MTTQ thôn phối hợp với chính quyền và các đoàn thể quần chúng có

trách nhiệm tổ chức chu đáo lễ tang cho ngƣời quá cố theo các nghi thức sau:

Nghi thức nhập quan, khâm niệm ngƣời quá cố (do gia đình làm)

Nghi thức viếng: đội nhạc hiếu hoặc dùng băng nhạc hiếu không quá 23 giờ,

ghi sổ tang (nếu có).

Nghi thức truy điệu: đọc điếu văn, mạc niệm lời cảm ơn của gia đình tổ chức

đƣa tang và chôn cất (khuyến khích hoả táng).

* Cải táng

+ Thời gian cải táng ít nhất 36 tháng

118

+ Gia đình tổ chức cải táng cho ngƣời quá cố phải liên hệ với quản trang để

đƣợc hƣớng dẫn xây dựng bia mộ theo qui hoạch, diện tích xây bia mộ không vƣợt quá 1m2/mộ.

+ Sau khi cải táng phải thu dọn đồ tuỳ táng của ngƣời chết vào nơi quy định

và san lấp lỗ gọn gàng.

+ Không tổ chức ăn uống linh đình

Tổ chức thực hiện: xã khuyến khích các thôn thành lập ban nhạc hiếu theo quy

định. Mỗi nghĩa trang thôn phải có ngƣời quản trang, xây dựng nội qui nghĩa

trang và chế độ cho ngƣời quản trang.

MTTQ đóng vai trò nòng cốt cùng các ngành đoàn thể hƣớng dẫn kiểm tra

việc thực hiện của các thôn xóm.

Mỗi cán bộ đảng viên, Đoàn viên TNCS HCM và nhân dân nghiêm chỉnh

chấp hành những qui định về lễ tang và cải táng (coi đây là nội dung để xem xét,

nhận thức của cán bộ, đảng viên, đoàn viên là tiêu chuẩn xếp loại gia đình văn

hoá).

2.Thực hiện nếp sống văn minh trong tổ chức lễ cƣới

Chăm lo hạnh phúc cho con cái là trách nhiệm của hai bên gia đình và xã hội.

Trong những năm gần đây tình hình tổ chức lễ cƣới đã thực sự thu hút sự quan

tâm chú ý của nhiều cấp, nhiều ngành và của toàn xã hội. Việc tổ chức lễ cƣới

theo các nghi thức truyền thống đã phát huy tích cực trong đời sống xã hội mang

ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tôn vinh cái đẹp, tôn vinh hạnh phúc và tình yêu lứa

đôi. Là dịp để mọi ngƣời bƣớc vào đời hiểu biết thêm bổn phận, nghĩa vụ của

mình đối với gia đình, quê hƣơng đất nƣớc. Nhiều gia đình đã giảm bớt thủ tục

phiền hà trong tổ chức lễ cƣới, lễ cƣới đảm bảo vui tƣơi, lành mạnh, trang trọng,

gọn nhẹ, tiết kiệm.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực trong tổ chức lễ cƣới còn bộ lộ những

hạn chế cần sớm có biện pháp khắc phục đó là: có những gia đình còn tổ chức

cƣới còn mang tính phô chƣơng, ganh đua dẫn tới tốn kém, lãnh phí.

119

Để đƣa việc tổ chức lễ cƣới đi vào nề nếp, thực hiện chỉ thị của Bộ chính trị,

chỉ thị số 34/CT-TU ngày 26-3-1998 và thực hiện nếp sống văn minh trong lễ

cƣới và qui ƣớc cƣới của thành phố. UBND xã Dƣơng Quang thực hiện công văn

hƣớng dẫn của UBND huyện Gia Lâm về việc cƣới:

+ Hình thức tổ chức cƣới: lễ trao giấy chứng nhận kết hôn đƣợc tiến hành

trang trọng tại UBND xã, khuyến khích tổ chức viếng đài tƣởng niệm sau khi

nhận giấy chứng nhận kết hôn.

Lễ cƣới tại gia đình phải đƣợc tổ chức trang trọng- lành mạnh- tiết kiệm, sau

khi đã đƣợc chính quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian tổ chức gọn

trong vòng một ngày. Hạn chế và tiến tới không hút thuốc lá trong tiệc cƣới,

nghiêm cấm tệ đánh bạc.

Lễ cƣới có thể áp dụng một trong các biện pháp sau:

- Tổ chức tiệc trà mời chung mọi ngƣời

- Bạn bè quyen biết dùng hình thức báo hỷ

- Tổ chức tiệc trà hoặc mời cơm họ hàng và bạn bè gần nhất.

+ Trang phục cƣới: cần đẹp, dản dị phù hợp, khuyến khích cô dâu mặc áo dài

dân tộc.

+ Âm nhạc trong lễ cƣới: sử dụng những cá khúc có nội dung lành mạnh, vui

tƣơi, sôi nổi ca ngợi tình yêu lứa đôi, ca ngợi quê hƣơng đất nƣớc, chú ý âm

lƣợng và thời gian không quá 23 giờ đêm.

+ Việc chụp ảnh, quay phim và phƣơng tiện đi lại: cần đảm bảo thiết thực

không phô trƣơng hình thức.

* Tổ chức thực hiện:

Ban văn hoá thông tin phối hợp với đài truyền thanh làm tốt công tác tuyên

truyền chỉ thị của Bộ chính trị, chỉ thị của Thành uỷ, quy ƣớc cƣới của thành

phố, hƣớng dẫn của UBND huyện Gia Lâm và kế hoạch triển khai của UBND

xã. Nêu gƣơng điển hình những gia đình thực hiện NSVM trong việc tổ chức lễ

cƣới, phê phán những đám cƣới phô chƣơng, trục lợi, lãng phí.

120

MTTQ đóng vai trò nòng cốt vận động hội viên, đoàn viên, các tổ chức, mọi

lực lƣợng tham gia thực hiện tốt chỉ thị của Bộ chính trị, quy ƣớc cƣới của thành

phố, hƣớng dẫn của UBND huyện Gia lâm, nhất là trực tiếp vận động những gia

đình chuẩn bị có lễ cƣới cho con cái.

Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, hội viên các ngành phải gƣơng mẫu

thực hiện trƣớc, coi đây là nội dung để xem xét nhận thức hành động của đảng

viên, đoàn viên, hội viên.

3. Thực hiện quy chế lễ hội

Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống có từ lâu đời đã trở

thành phong tục, là nhu cầu sinh hoạt tinh thần chính đáng của nhân dân có sức

cuốn hút đông đảo ngƣời tham gia do đó lễ hội là một sản phẩm văn hoá tinh

thần cực kỳ quý báu của dân tộc cần đƣợc các thế hệ bảo vệ, giữ gìn và phát triển

tốt. Hơn nữa, bản chất lễ hội là tích cực, là lành mạnh, cần đƣợc khuyến khích,

phát huy và lấy đó làm nền tảng cơ sở cho việc giáo dục đạo đức, nếp sống ...

truyền thống, khơi dạy trong nhân dân nhất là lớp trẻ tình yêu quê hƣơng, đất

nƣớc và niềm tự hào về sức sống mãnh liệt, ý trí quật cƣờng của dân tộc Việt

Nam.

Ở các thôn trong xã ta nhìn chung đều có đình, chùa là di sản văn hoá từ lâu

đời để lại, xã đã có nhiều di tích lịch sử đƣợc xếp hạng. Các di tích trong xã đều

thờ những vị có công với dân với nƣớc hoặc là nơi hoạt động của các nhà cách

mạng. Hàng năm từ trung tuần tháng 2 đến đầu tháng 4 âm lịch các thôn trong xã

đều mở hội lễ trong vòng 1 ngày để nhân dân đến dâng hƣơng, cúng lễ tƣởng

nhớ công ơn, nhớ về cội nguồn. Nhìn chung việc tổ chức đã đi vào nề nếp và

theo đúng quy chế lễ hội do Bộ văn hoá thông tin và UBND thành phố ban hành.

Song chúng ta cũng cần thống nhất những điểm chính khi tiến hành tổ chức và

quản lý lễ hội đó là:

-Khi tổ chức lễ hội nhất thiết phải thành lập ban tổ chức lễ hội để chịu trách

nhiệm và điều hành các mặt, sử lý mọi hoạt động trong quá trình diễn biến của lễ

hội. Ban tổ chức phải do UBND xã cử ra và chịu trách nhiệm trƣớc cấp trên và 121

UBND về tổ chức lễ hội. Trong ban tổ chức phải có sự phân công trách nhiệm cụ

thể cho từng thành viên để tạo sự phối kết hợp giữa các ngành, các đoàn thể các

tổ chức xã hội. Tại thôn có lễ hội cần hết sức chú trọng đến các hệ thống thông

tin đại chúng tại các địa phƣơng.

- Việc mở lễ hội phải xin phép cấp có thẩm quyền theo quy định của nhà

nƣớc. Tuyệt đối tránh tình trạng (khoán trắng) công tác chuẩn bị và tổ chức lễ

hội cho bất kỳ một tổ chức, đoàn thể nào nhƣ.

- Tổ chức lễ hội phải chú ý đến sự cân đối giữa phần lễ và phần hội. Phần lễ là

rất cần thiết không thể thiếu, nhƣng không nên phục nguyên hoàn toàn mà nên

có sự cải tiến nhất định, nhất là thời gian hành lễ nên có tiết tấu phù hợp với cuộc

sống hiện đại, văn tế không nên bê nguyên xi nhƣ văn tế cũ (nghiêm cấm việc

dạy tế, thuê tế).

- Phần hội cần nghiên cứu bổ xung những trò chơi văn minh, hiện đại bên

cạnh những trò chơi truyền thống lành mạnh, khuyến khích các nghi thức diễn

xƣớng tái hiện lịch sử hay thể hiện sự tích, truyền thống dân gian vốn có của lễ

hội nghiêm cấm tổ chức các trò chơi có tính chất ăn thua cờ bạc, tránh bày vẽ ăn

uống rƣợu chè. Không để kẻ xấu lợi dụng chính sách tôn trọng tự do tín ngƣỡng

của Đảng và nhà nƣớc để hoạt động mê tín dị đoan (bói toán, sóc thẻ gọi hồn).

- Nhất thiết phải có qui hoạch mặt bằng khi tổ chức lễ hội, bố trí hợp lý các

khu vực, đảm bảo trật tự vệ sinh giữ gìn tốt cảnh quan môi trƣờng xung quang,

có phƣơng án bảo vệ an toàn cho mọi ngƣời tham gia lễ hội.

III. Biện pháp thực hiện

1. Công tác tuyên truyền: tập trung tuyên truyền chỉ thị 27 của Bộ chính trị,

quy ƣớc cƣới của thành phố, cùng với việc tuyên truyền trên hệ thống loa truyền

thanh, in và phát hành kế hoạch triển khai thực hiện nếp sống văn minh trong lễ

tang, lễ cƣới, lễ hội của UBND xã Dƣơng Quang.

Kết hợp vận động chỉ thị và quy ƣớc cƣới vào các nội dung khác nhƣ xây

dựng gia đình văn hoá trong sinh hoạt các đoàn thể, tổ chức xã hội, câu lạc bộ.

122

Đƣa mục tiêu chỉ thị 27 và quy ƣớc cƣới của thành phố, gắn kế hoạch triển

khai nếp sống văn minh trong lễ tang, lễ hội, lễ cƣới vào nội dung xây dựng

hƣơng ƣớc làng văn hoá và xây dựng nông thôn mới.

2. Kết hợp công tác tuyên truyền trên hệ thống lao truyền tranh, thông qua các

đoàn thể tổ chức triển khai cuộc vận động đến các hội viên đặc biệt đến các gia

đình có đám cƣới, đám tang.

IV. Tổ chức thực hiện

Ban chỉ đạo nếp sống văn minh- gia đình văn hóa xác định và hƣớng cho các

ngành đoàn thể coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chƣơng trình công tác của

mình. Cần cụ thể hoá kế hoạch này thành kế hoạch của mỗi ngành và mỗi cụm

dân cƣ. Chú ý xây dựng mô hình điểm từ đó có biện pháp nhân rộng tạo dƣ luận

đồng tình ủng hộ.

Từng thời gian nhất định, nhất là sau mùa cƣới, mùa lễ hội chú ý lắng nghe dƣ

luận, tổ chức đáng giá rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện qui ƣớc phù hợp với

điều kiện cụ thể của từng thôn, xóm.

1. Trách nhiệm của các thành viên thuộc các đoàn thể:

*Uỷ ban MTTQ là lực lƣợng nòng cốt tuyên truyền vận động các đối tƣợng

phụ lão, hƣu trí, các thành viên của mặt trận nhắc nhở con cháu thực hiện qui

ƣớc. Đây là đối tƣợng quan trọng có tiếng nói quyết định về qui mô hình thức và

nội dung tổ chức các việc lớn trong gia đình.

*Hội phụ nữ: tuyên truyền vận động các bà, các chị hiểu và vận dụng gia đình

thực hiện chỉ thị, qui ƣớc và kế hoạch triển khai hƣớng dẫn của UBND huyện xã.

*Đoàn TNCS HCM: xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, thƣờng xuyên tổ

chức sinh hoạt theo chủ đề giới thiệu nội dung và qui mô hình thức cƣới cho

đoàn viên của mình hoặc cùng tham gia tổ chức việc cƣới.

*Hội cựu chiến binh: đây là những công dân gƣơng mẫu thực hiện các chủ

trƣơng chính sách của Đảng, nhà nƣớc có uy tín ở địa phƣơng và gia đình, hội

xây dựng kế hoạch và vận động thực hiện trong các hội viên.

123

*Hội nông dân: kết hợp triển khai thực hiện qui ƣớc và kế hoạch triển khai

hƣớng dẫn của UBND huyện, xã gắn với nội dung xây dựng làng văn hoá, xây

dựng nông thôn mới, phê phán các hủ tục lạc hậu trong lễ tang, lễ cƣới.

2. Trách nhiệm các ngành

Ngành văn hoá thông tin triển khai công tác tuyên truyền về nội dung kế

hoạch của qui ƣớc, hƣớng dẫn thực hiện trên địa bàn xã, chủ động phối hợp với

các ngành để đảm bảo việc triển khai đạt kết quả cao. Sƣu tầm viết tin bài giới

thiệu những mô hình cƣới, tang, hội văn minh lành mạnh đồng thời phê phán

những đám cƣới, đám tang không phù hợp với chỉ thị, qui ƣớc và hƣớng dẫn của

UBND huyện, giúp ban chỉ đạo nếp sống văn minh – gia đình văn hóa tổng hợp

tình hình, bổ sung để có những giải pháp nhằm thực hiện tốt trong lễ tang, lễ

cƣới, lễ hội.

Ngành tƣ pháp: trƣớc mắt có kế hoạch kiểm tra, tìm hiểu điều kiện, nội dung

tổ chức lễ trao giấy chứng nhận kết hôn tại UBND xã theo chỉ thị 46/CT-UB

ngày 25-1-1993 của UBND thành phố Hà Nội. Hƣớng dẫn việc thực hiện luật

hôn nhân gia đình, qua thực tế từng bƣớc hoàn thiện việc tổ chức trao giấy chứng

nhận kết hôn có nội dung phong phú, đúng luật.

Trên đây là kế hoạch triển khai chỉ thị 27/CT-TW của Bộ Chính trị và hƣớng

dẫn của UBND huyện về lễ cƣới, lễ tang, lễ hội của UBND xã Dƣơng Quang và

Ban chỉ đạo NSVM – GĐVH xây dựng kế hoạch triển khai yêu cầu các ngành,

các đoàn thể, các cấp ủy, cho bộ, trƣởng các thôn xóm nghiêm túc triển khai thực

hiện kế hoạch hƣớng dẫn, hàng tháng báo cáo về thƣờng trực ban chỉ đạo NSVM

– GĐVH của xã để tập hợp báo cáo với ban chỉ đạo huyện.

Nơi gửi -Ban chỉ đạo NSVM – GĐVH huyện (BC) -Đảng ủy, HĐND xã (BC) -Các ngành, các thôn xóm (thực hiện) Lƣu UBND xã

T/M. UBND xã Dƣơng Quang KT. Chủ tịch PHÓ CHỦ TỊCH Ngô Văn Nghiêm (§· ký)

124

HỤ LỤC 3

TỜ TRÌNH Đăng ký xây dựng làng văn hóa thôn Yên Mỹ xã Dƣơng Quang huyện Gia Lâm – Hà Nội Thực hiện hƣớng dẫn số 22/HD-VH ngày 13/5/1998 về việc đăng ký xây dựng

làng văn hóa – xã văn minh. UBND xã Dƣơng Quang thống nhất đăng ký: Thôn

Yên Mỹ – thuộc xã Dƣơng Quang xây dựng làng văn hóa.

I.Đặc điểm cơ bản của thôn Yên Mỹ

Thôn Yên Mỹ nằm cuối huyện Gia Lâm giáp danh với hai xã Xuân Lâm và

Song Liễu của hai tỉnh Hƣng Yên và Bắc Ninh. Thôn có diện tích canh tác là

100ha với 3200 nhân khẩu, chiếm 1/3 diện tích và dân số của xã.

Theo truyền thuyết thôn Yên Mỹ có cách đây khoảng 2.000 năm và đƣợc hợp

thành từ làng Duyên Khánh và ấp Thuần Khang, trƣớc cách mạng tháng Tám

năm 1945 thôn Yên Mỹ thuộc xã Chiến Thắng huyện Thuận Thành tỉnh Bắc

Ninh. Năm 1961 xã Chiến Thắng thuộc huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội. Từ

năm 1965 thôn Yên Mỹ thuộc xã Dƣơng Quang huyện Gia Lâm thành phố Hà

Nội.

Nhân dân trong thôn sớm có lòng yêu nƣớc, cần cù trong lao động, sản xuất ở

đây cũng là nơi xuất hiện chi bộ Đảng đầu tiên của xã từ năm 1928 -1930, nhƣ

ông Trần Xuân Doanh, Đào Bình Luống (tức Nguyễn Đức Quỳ) ... Năm 1938

chi bộ đầu tiên vùng Liễu Ngạn (Bắc Ninh) đƣợc thành lập do đồng chí Doanh

làm bí thƣ chi bộ. Trong những năm 1940 các đồng chí Trƣờng Chinh, Hoàng

Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt và một số đồng chí lãnh đạo khác của Đảng đã lấy

thô Yên Mỹ làm cơ sở lui tới hội họp những công việc của Đảng, điểm thƣờng

xuyên lui tới là gia đình bà Cấn (vợ đồng chí Luống; tức Nguyễn Đức Quỳ) đƣợc

cấp bằng gia đình có công với nƣớc.

125

Nhân dân thôn Yên Mỹ đã có nhiều đóng góp sức ngƣời, sức của cho hai cuộc

kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc.

Trong kháng chiến chống Pháp nhân dân thôn Yên Mỹ có 21 ngƣời con của

quê hƣơng hy sinh đƣợc công nhận là liệt sỹ, có 2 gia đình đƣợc công nhận là gia

đình có công với nƣớc. Hiện nay còn 3 đồng chí cán bộ tiền khởi nghĩa, 1 đồng

chí cán bộ lão thành cách mạng.

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, Yên Mỹ có 200 thanh niên lên đƣờng

tham gia quân đội, chiến đấu trên khắp mọi miền của tổ quốc, có 23 ngƣời đã hy

sinh, vĩnh viễn không trở về quê hƣơng.

Hiện nay thôn có 64 đảng viên sinh hoạt trong một chi bộ.

Trong những năm gần đây nhân dân thôn Yên Mỹ đã đóng góp nhiều công

sức, tiền của đề xây dựng quê hƣơng nhƣ:

III. Quá trình thực hiện và kết quả

1.Đã sửa sang, tu bổ đình làng và chùa làng thêm tôn nghiêm, thực hiện tốt

những quy định về quản lý di tích.

2.Đảng bộ và chính quyền thôn đã tiến hành xây dựng hội trƣờng và thƣ viện

thôn tại khu trung tâm. Xây dựng sân chơi cầu lông đảm bảo đáp ứng một phần

nhu cầu văn hoá, thể thao của nhân dân nhất là các cụ cao tuổi và thanh thiếu

niên.

Lớp mẫu giáo đƣợc xây dựng lại khang trang để nuôi và giữ trẻ em trong thôn,

cải tạo một gian nhà cấp 4 để làm địa điểm sinh hoạt câu lạc bộ tuổi già.

3. Đƣờng làng ngõ xóm phong quang sạch sẽ, hội phụ nữ, đoàn thanh niên tổ

chức nhân dân quýet dọn vào sáng chủ nhật hành tuần để cải tạo môi trƣờng

sống.

4. Trong thôn không có hiện tƣợng mê tín, dị đoan. Không có số ngƣời tàng

chữ và sử dụng ma tuý mới, các đối tƣợng nghiện ma tuý đều đƣợc đƣa đi cai

nghiện bắt buộc hoặc cai nghiện tại nhà.

126

5. An ninh, trật tự trong thôn đƣợc giữ vững, nhân dân luôn thực hiện đúng

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc nhƣ; đóng thuế, ủng bộ đồng

bào khó khăn, kịp thời.

6.Trong thôn không có hộ thiếu ăn, 98% số hộ gia đình có phƣơng tiện nghe

nhìn. Công tác giáo dục đƣợc đặc biệt quan tâm, số thầy cô làm, công tác trong

ngành giáo dục chiếm số đông trong toàn xã góp phần vào việc phổ cập giáo dục

trong địa phƣơng.

7.Hệ thống đƣờng làng đƣợc đầu tƣ lát gạch 100%, hệ thống lƣới điện đƣợc

nâng cấp 100%, thôn có 1 trạm biến áp độc lập 180 KWA đủ lƣợng điện cung

cấp cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, đƣờng làng có hệ thống chiếu sáng

vào ban đêm.

8.Có tỷ lệ gia đình văn hóa cao nhất trong xã ở nhiều năm

9.Thôn đƣợc Huyện ủy, UBND khen thƣởng nhiều năm 1992, 1996- 1997.

10. Thôn đã xây dựng và đƣa ra thảo luận trong chi bộ thôn và nhân dân quy

ƣớc xây dựng nông thôn mới.

Với truyền thống và sự cố gắng của nhân dân trong thôn. UBND xã Dƣơng

Quang chúng tôi thống nhất lập tờ trình đăng ký thôn Yên Mỹ xây dựng làng văn

hóa.

Kính mong Ban chỉ đạo NSVM- GĐVH và làng văn hóa huyện hết sức giúp

đỡ để thôn trở thành làng văn hóa. Sau này nhân rộng ra địa bàn tòan xã.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !

Nơi gửi -Phòng văn hóa- thông tin (báo cáo) -Thôn Yên Mỹ (thực hiện) -Lƣu văn phòng

Dƣơng Quang, ngày 25/5/1998 T/M. UBND xã Dƣơng Quang Chủ tịch Nguyễn Văn Bính (Đã ký)

127

PHỤ LỤC 4 TÀI LIỆU PHỎNG VẤN

1. Ông Nguyễn Văn Khang phó chủ tịch UBND xã Đa Tốn- phụ trách

công tác văn hóa thông tin xã.

“Xã Đa Tốn là một xã có phong trào xây dựng đời sống văn hóa mạnh, hai

thôn Khoan Tế và Ngọc Động đạt danh hiệu làng văn hóa cấp thành thố. Trên địa

bàn toàn xã có nhiều hoạt động nhƣ; cầu lông, bóng truyền hơi nam nữ, câu lạc

bộ ngƣời cao tuổi ... thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa nhân dân trong xã đã tham gia với nhiều phong trào, có 5 thôn

đƣợc công nhận là làng văn hóa cấp huyện là; Ngọc Động, Lê Xá, Đào Xuyên,

Thuận Tốn, Khoan Tế. Từ đó tạo nên phong trào văn hóa mới phát triển mạnh

trên toàn xã”

2. Ông Nguyễn Văn Trung thị trấn Trâu Quỳ – trƣởng ban văn hóa xã.

“Sau khi thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa đến cuối năm

2005 số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa đạt 95%, trong tổng số 12 tổ dân

phố, có 1 tổ dân phố đạt danh hiệu tổ dân phố văn hóa cấp thành phố 4 năm liền,

một tổ dân phố đạt danh hiệu cấp thành phố 1 năm, 3 tổ dân phố đạt danh hiệu

cấp huyện, còn lại chƣa đạt. Có 12/12 tổ đội văn nghệ xung kích góp phần đáng

kể giáo dục tuyên truyền các hoạt động văn hóa văn nghệ và các chủ trƣơng

chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trên địa bàn thị trấn”

3. Ông Nguyễn Trung Kiên phó chủ tịch UBND xã Kim Sơn – phụ trách

văn hóa xã.

“Toàn xã có 5 thôn, trong đó có 2 thôn đạt danh hiệu làng văn hóa cấp thành

phố là thôn Kim Sơn và Linh Quy bắc. Những thôn này nhân dân tham gia đầy

đủ các chủ trƣơng chính sách pháp luật của nhà nƣớc và không phát sinh mới các

tệ nạn xã hội. Từ đó nhân dân phấn khởi xây dựng quê hƣơng làm cho bộ mặt xã

có nhiều thay đổi tích cực góp phần xây dựng nông thôn mới”.

4. Bà Nguyễn Thị Hằng trƣởng ban văn hóa thông tin xã Lệ Chi.

128

“Xã Lệ Chi là một xã đời sống kinh tế chƣa phát triển, song nhân dân tham gia

xây dựng gia đình văn hóa chiếm số lƣợng đông (90%), hầu hết các gia đình đều

ký cam kết để xây dựng gia đình văn hóa, làng xóm văn hóa, tổ chức nếp sống

văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội... góp phần thực hiện tốt các chủ

trƣơng chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc đƣợc tốt hơn”

5. Ông Đào Bình Hế phó chủ tịch MTTQ xã Dƣơng Quang.

“MTTQ xã đã làm tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa ở khu dân cƣ, kết hợp với các ban ngành xây dựng chƣơng trình, kế hoạch,

quy chế ... để thực hiện. Qua cuộc vận động đạt đƣợc nhiều kết quả đáng mừng,

nổi bật lên là thôn Yên Mỹ nhân dân trong thôn đã có nhiều biện pháp kết hợp

giữa các phong trào để thực hiện công tác xây dựng làng văn hóa, gia đình văn

hóa đặc biệt là nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội đến nay thôn

đã có 95% số gia đình đạt danh hiệu văn hóa cấp huyện. Bên cạnh đó hoạt động

Đoàn thanh niên thôn phát triển mạnh, góp phần định hƣớng và giáo dục thanh

niên có kết quả. Hội khuyến học xã ra đời đã góp phần quan trọng vào việc xây

dựng các phong trào học tập của con em nhân dân ở địa phƣơng”.

6. Bà Nguyễn Thị Cúc phó chủ tich UBND xã Kiêu Kỵ cho biết.

“Sau cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ , đƣợc nhân dân

xã nhiệt tình ủng hộ. Với các hoạt động thiết thực của các ban ngành và các hội

nhƣ; nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên... đã đƣa cuộc vận động này đạt đƣợc

nhiều kết quả có 90% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 5/6 thôn đạt

danh hiệu làng văn hóa cấp huyện, trên địa bàn xã không phát sinh thêm ngƣời

nghiện mới, không có hộ chính sách nghèo, nhiều gƣơng “ngƣời tốt việc tốt”

xuất hiện. Đã thúc đẩy tinh thần tự giác của nhân dân, thực hiện tốt chính sách

của xã và huyện”.

7. Bà Nguyễn Thị Thơ hiệu trƣởng trƣờng THCS Dƣơng Quang cho biết.

“Nhà trƣờng đã đƣợc phòng giáo dục và MTTQ huyện hƣớng dẫn tham gia

cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cƣ”

trƣờng đã phát động trong thầy cô giáo và học sinh thực hiện thi đua “học tốt, 129

dạy tốt” hàng năm có 98% số học sinh tốt nghiệp, học sinh khá giỏi chiếm 34%,

số học sinh kém chiếm 0,4%, từ đó đã tạo ra đƣợc lòng tin của nhân dân và

UBND xã đối với trƣờng. Nhờ đó mà đƣợc phòng giáo dục đánh giá cao và tặng

nhiều bằng khen”

7. Ông Trần Văn Nghĩa 67 tuổi thôn Báo Đáp xã Kiêu Kỵ cho biết.

“Thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa là cuộc vận động lớn

của toàn xã hội, gia đình tôi luôn nhắc nhở con cháu và các thành viên thực hiện

đúng đƣờng lối chủ trƣơng chính sách, pháp luật của nhà nƣớc, thực hiện nếp

sống văn hóa mới của thôn trong việc cƣới, việc tang, lễ hội”.

8. Bà Nguyễn Thị Tý 47 tuổi thôn Yên Mỹ xã Dƣơng Quang cho biết.

“Trƣớc khi thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng đời sống của nhân dân trong

thôn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhƣng sau khi tiến hành đổi mới nhân

dân trong thôn đã có đời sống khá hơn có nhiều phƣơng tiện sinh hoạt và thông

tin nghe nhìn. Nhƣng do tốc độ đô thị hóa nhanh đã kéo theo nhiều vấn đề xã hội

cần phải giải quyết nhƣ tệ nạn; mại dâm, nghiện hút, đua đòi ở các làng quê. Đến

khi thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa thì các tệ nạn đó bị hạn

chế và có chiều hƣớng đi xuống”.

10. Em Nguyễn Văn Tùng học sinh lớp 7A trƣờng THCS Dƣơng Quang cho

biết.

“Với học sinh bọn em thực hiện tốt việc học tập và ý thức kỷ luật là góp phần

đáng kể vào công tác xây dựng văn hóa ở địa phƣơng. Cùng nhau thi đua thực

hiện “học tốt” để làm vui lòng ông bà cha mẹ, mai này xây dựng quê hƣơng, đất

nƣớc. ”.

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá là một hoạt động lớn, dƣới sự lãnh

đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm nó ngày càng đi sâu vào cuộc sống. Góp phần

to lớn vào phát triển kinh tế, ổn định trật tự, an ninh, chính trị trên địa bàn huyện.

Đƣợc mọi tầng lớp nhân dân tham gia, các ngành các cấp ủng hộ và thực hiện

nghiêm túc và đạt đƣợc kết quả cao, giúp cho chính quyền cơ sở thực hiện tốt

130

hơn công tác của mình ở địa phƣơng. Làm cho nó trở thành đạo đức, nếp sống,

thói quyen trong sinh hoạt hàng ngày của nhân dân địa phƣơng.

TT

ƣớc

KH

KH

KH

KH

KH

Tốc độ

Đơn

thực

2001

2002

2003

2004

2005

P. Triển BQ

PHỤ LỤC 5 GIA LÂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XVIII VỀ CÔNG TÁC VĂN HÓA

Chỉ tiêu chính

vị

hiện

1996-

2001-

tính

2000

2000

2005

C

Di

A B 4 5 2 3 6 1 7 8

tích

1 Số di tích lịch

sử đã xếp hạng 95 100 105 110 120 125

Di

(tính đến năm)

tích

2 Số di tích lịch 2 5 4 4 5 4

Tỷ lệ hộ đăng ký

sử đƣợc tu bổ

%

NSVM – GĐVH

3

Tỷ lệ hộ đạt TC

96 97 98 98 99 100

%

NSVM – GĐVH

4

83 84 85 87 88 90

Điểm

5 Số điểm vui

chơi cho trẻ em 21 28 30 31 33 35

(đến năm)

Đội

6 Số đội thông tin

Nhà

tuyên truyền 35 35 37 38 40 42

CLB

7 Số nhà văn hoá 315 320 330 350 360 380

8 Số câu lạc bộ 250 260 280 290 300 310

131

Đội

9 Số đội văn nghệ 260 280 295 300 310 315

(Theo Văn kiện đại hội Đảng bộ Gia Lâm lần XVIII [15; tr. 77].

132

KH

KH

KH

KH

Tèc ®é

Đơn vị

Ƣíc

T

2001

2002

2003

2004

2005

P. TriÓn BQ

thùc

tính

T

PHỤ LỤC 6 THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XVIII VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO CỦA HUYỆN GIA LÂM KH

Chỉ tiêu chính

1996-

2001-

hiÖn

2000

2000

2005

2

6

7

8

3

4

5

C

A

B

1

1 Khối mầm non

28,0 29,0 29,5 30.0 30,5

0,9

0,5

%

-Tỷ lệ các cháu đi

nhà trẻ

%

76,5 77,0 78,0 79,0 80,5

0,3

0,9

-Tỷ lệ các cháu đi

27,5

mẫu giáo

75,5

2 Khối phổ thông

a Tiểu học

Trƣờng

40

40

40

41

42

-Số trƣờng

Lớp

800

802

805

808

810

-Số lớp

40

Phòng

743

752

781

820

877

+43

+8

-Số phòng học

798

Phòng

631

662

706

785

877

+40

+40

+ Kiên cố

739

Phòng

112

662

706

785

0

-2

-15

+ Cấp 4

577

-Số HS đầu năm học

HS

30500

31590

31100

30800

30600

30590

%

20,5 20,9 21,1 21,5

22

0,6

0,3

-Tỷ lệ HS giỏi

162

%

100

100

100

100

100

100

-Tỷ lệ HS tốt nghiệp

20,0

b Trung học cơ sở

Trƣờng

38

38

38

39

39

-Số trƣờng

100

Lớp

550

551

552

550

553

-Số lớp

38

Phòng

615

648

640

680

765

+14

+30

-Số phòng học

545

Phòng

537

580

640

680

765

+24

+40

+ Kiên cố

595

Phòng

78

68

49

42

0

-8

+10

+ Cấp 4

487

-Số HS đầu năm học

HS

21519

21520

21525

21500

21450

21600

+0,4

+0,1

108

133

%

15,5 15,5 15,7 15,8

16

-Tỷ lệ HS giỏi

%

90,0 90,5 90,5 91,0 91,5

-Tỷ lệ HS tốt nghiệp

15.0

c Ngành giáo dục

84,7

thƣờng xuyên

Trƣờng

5

5

5

5

5

-Số trƣờng

Lớp

70

100

78

82

92

-Số lớp

5

Phòng

35

38

36

37

38

-Số phòng học

62

Phòng

21

31

22

25

29

+ Kiên cố

31

Phòng

14

7

14

12

9

+ Cấp 4

13

-Số HS đầu năm học

HS

2500

2850

2900

3060

3400

3650

%

0,8

1,0

1,0

1,1

1,2

-Tỷ lệ HS giỏi

18

%

95

95,0 95,0

95

95,5

-Tỷ lệ HS tốt nghiệp

0,4

91

3 Khối THPT

+ Quốc lập

Trƣờng

5

5

5

5

5

-Số trƣờng

Lớp

195

195

197

199

201

+2

+1

-Số lớp

5

-Số học sinh

HS

9704

9744

9745

9820

9890

9960

+12

+48

194

(Theo Văn kiện đại hội Đảng bộ Gia Lâm lần XVIII [15; tr. 73-74].

134

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT XVIII VỀ THỂ DỤC - THỂ THAO CỦA HUYỆN GIA LÂM

TT

Đơn

ƣớc

KH

KH

KH

KH

KH

Tốc độ

vị

thực

200

200

200

200

200

P. Triển BQ

PHỤ LỤC 7

Chỉ tiêu chính

tính

hiện

1

2

3

4

5

1996-

2001-

2000

2000

2005

3

4

5

6

7

8

A B

C

1

2

1

Số câu lạc bộ

CLB

273

303

320

350

370

400

TDTT

Sân

48

53

60

65

75

80

2

Số sân bóng đá

Đội

572

582

600

620

650

680

3

Số đội bóng đá

Sân

305

315

320

330

335

345

4

Số sân bóng

chuyền

5

Số đội bóng

Đội

190

200

240

260

285

300

truyền

Ngƣời

6

Số vận động

4900

540

600

650

700

800

viên đào tạo

0

0

0

0

0

7

Tỷ lệ ngƣời tập

%

13.7

14,

15,

15,

16,

17,

TDTT

0

5

0

0

0

(Theo Văn kiện đại hội Đảng bộ Gia Lâm lần XVIII [15; tr. 79].

135

PHỤ LỤC 8 MỘT SỐ CHỈ TIÊU TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM LẦN XIX (2005-2010)

- Tốc độ phát triển kinh tế trên phạm vi lãnh thổ tăng bình quân: 15-16%

- Tốc độ phát triển kinh tế thuộc huyện quản lý tăng bình quân: 14-15%

Trong đó:

+ Công nghiệp- TTCN: 17-18%

+ Nông nghiệp – Thuỷ sản: 3,5-4%

+ Thƣơng mại- Dịch vụ: 15 – 16%

- Cơ cấu kinh tế thuộc huyện quản lý đến năm 2010 là: Công nghiệp – xây dựng

cơ bản chiếm 55,52%; thƣơng mại – dịch vụ chiếm 28,99%; nông nghiệp chiếm

15,49%

- Giá trị sản xuất NN- TS trên 1 ha đất NN-TS đến năm 2010: 60-65 triệu đồng.

- Cơ bản hoàn thành xây dựng kiên cố kênh tƣới loại III ở những vùng sản xuất

nông nghiệp ổn định.

1. Kinh tế- thương mại- xây dựng

- Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 20101 (theo tiêu chí hiện hành): Dƣới 0,5%

- Tỷ lệ xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đến năm 2010: 100%

- Tỷ lệ sinh đến năm 2010 còn dƣới 1,45%

- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng đến 2010 còn dƣới 14,5%

- Tỷ lệ trƣờng đạt chuẩn quốc gia đến năm 2010: 35-40%

- Xoá phòng học cấp 4 bậc mầm non: 100%

- Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học trên 95%

- Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn GĐVH bình quân: 86-88%

- Số thôn, tổ dân phố có nhà văn hoá hoặc điểm vui chơi đến năm 2010: 100%

- Tạo và giải quyết việc làm hàng năm: 7500-8000 lao động

2. Văn hóa xã hội, giáo dục, y tế

- Tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh hàng năm: 97-98%

- Số đảng viên đƣợc kết nạp hàng năm: 150-160

3. Công tác xây dựng Đảng

136

(Theo văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ XIX nhiệm kỳ 2005-2010, [13; tr. 15] ).

137

PHỤ LỤC 9

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU VỀ PHONG TRÀO THI ĐUA “NGƢỜI TỐT, VIỆC TỐT” CỦA HUYỆN GIA LÂM NHỮNG NĂM 2001- 2005

138