ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------
LÊ THỊ LOAN
§¶NG Bé HUYÖN Mü §øC (Hµ NéI)
THùC HIÖN NHIÖM Vô X¢Y DùNG §¶NG
Tõ N¡M 2008 §ÕN N¡M 2014
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số : 60.22.03.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri
HÀ NỘI - 2015
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những đóng góp to lớn và vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin
đó là chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác – Lênin
cũng đặt ra yêu cầu đối với giai cấp công nhân muốn hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử của mình, đưa cách mạng đi đến thành công thì phải thành lập
được một chính đảng của giai cấp công nhân, chính đảng đó là Đảng Cộng
sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải bao gồm những người ưu tú nhất, có đủ
năng lực và phẩm chất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng chung.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng
Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang giành được những thắng lợi vĩ đại trong
đấu tranh cách mạng, giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng như trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để có được những thắng lợi vĩ
đại đó, một nhân tố không thể thiếu đó là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng
suốt của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đảng có vững,
cách mạng mới thành công”. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng cần tiến hành
thường xuyên, liên tục, kịp thời và phát huy được hiệu quả. Trong suốt quá
trình hoạt động các mạng, nhất là trước những bước ngoặt của lịch sử, mối
quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chăm lo “xây dựng Đảng”.
Ngày nay, cách mạng nước ta đang chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, càng đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
1
cách mạng của Đảng, đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn coi nhiệm vụ xây dựng Đảng
là một yêu cầu bức thiết, là nhu cầu tồn tại và phát triển không chỉ của bản
thân Đảng mà của sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Đảng ta đã có
nhiều nghị quyết cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng, coi đây là “một
nhiệm vụ then chốt”, đặc biệt, vấn đề này càng được nhấn mạnh hơn trong
thời kỳ đổi mới, thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những
điều kiện lịch sử mới. Những nghị quyết quan trọng về công tác xây dựng
Đảng như Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI),... đã đặt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất quan
trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, tư tưởng và tổ chức tốt công tác cán bộ,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên kết quả thu được là có ý
nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của Đảng ta.
Tình hình Đảng có một số những chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc
thực hiện chưa đạt được những hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, vấn đề là
phải làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh “nói phải đi đôi với làm”, phải làm cho
bằng được các nghị quyết đã đề ra. Đảng phải tự chỉnh đốn, không ngừng rèn
luyện, phấn đấu nâng cao phẩm chất và năng lực để lãnh đạo thành công sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội hơn 60 năm xây dựng và
trưởng thành đã lãnh đạo các chi bộ Đảng địa phương và nhân dân trong
huyện tiến hành sự nghiệp cách mạng chung giành được nhiều thắng lợi.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh về cả số
lượng và chất lượng đảng viên. Đảng bộ đã không ngừng được tăng cường và
củng cố. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành
được những thành tựu to lớn không chỉ trong thời kỳ đấu tranh cách mạng mà
cả trong thời kỳ đất nước đổi mới, cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa
2
xã hội hiện nay. Các cán bộ đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn phấn đấu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“giữ gìn sự trong sạch của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đặc biệt, kể từ 01/08/2008, tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào thành phố
Hà Nội, cùng với đó là sự sáp nhập về mọi mặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đã thu được những kết quả đáng tự hào, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay có một số hiện tượng cán bộ đảng
viên bị thoái hóa, biến chất, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt đảng viên
đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng lại vi phạm Điều lệ Đảng. Ngoài ra, kẻ thù
tấn công vào Đảng thông qua hình thức mua chuộc một số các cán bộ, đảng viên
không có lập trường kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, thoái hóa biến chất,
tham ô tham nhũng,…Hiện tượng “tự diễn biến” trong Đảng sẽ trở thành một
nguy cơ to lớn gây ảnh hưởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù đó chỉ là
những hiện tượng rất ít, chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng cũng phần nào
làm suy yếu Đảng, méo mó hình ảnh Đảng trong lòng nhân dân, ít nhiều làm mất
niềm tin của dân vào Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví đó là một căn bệnh, một
u nhọt có thể dẫn tới căn bệnh ung thư cho Đảng.
Trong “Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện Mỹ Đức
nhiệm kỳ 2010 – 2015” trong công tác xây dựng Đảng, đã đề cập một cách
toàn diện về công tác giáo dục chính trị; công tác củng cố tổ chức xây dựng
Đảng; công tác kiểm tra, giám sát; công tác dân vận,… Đảng bộ huyện Mỹ
Đức đã và đang triển khai thực hiện học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(12/2011)Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết số
11 của Bộ Chính trị khóa XI “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô
Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020” và 9 chương trình công tác của Ban Chấp
hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XV. Những kết quả bước đầu thu
3
được đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Mỹ Đức và hứa hẹn
những kết quả tốt đẹp, đầy triển vọng, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả chọn luận văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà
Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014” để
nghiên cứu nhằm góp phần khẳng định giá trị to lớn của sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và của Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói
riêng về công tác xây dựng Đảng giai đoạn 2008 – 2014. Đồng thời, khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng là một yêu cầu bức thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng Đảng là mảng đề tài đã được nhiều tác giả, tổ chức hoặc các
cơ quan ngôn luận nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những nội dung đã được đề
cập trước đó giúp tôi tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày vấn đề một cách hệ
thống, cụ thể hơn đối với Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội (2008
– 2014), đặc biệt là vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI (12/2011) của Đảng ta.
Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng đã được công
bố là rất nhiều và có những đóng góp quan trọng về cả lí luận và thực tiễn đối
với Đảng ta, góp phần chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta. Trong
đó không thể không kể đến những tác phẩm lí luận xuất sắc về vấn đề này của
các nhà lãnh đạo Đảng như:
Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc (2004): Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam,
kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội thảo đã khẳng định vị trí then chốt của Đảng cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới; khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng; tổng kết một bước những kinh
4
nghiệm lí luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thúc
đẩy đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đáp ứng lợi ích của
hai dân tộc. Hội thảo đặt ra yêu cầu tất yếu phải luôn kiên trì đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ, phương thức
lãnh đạo, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân trong điều kiện Đảng
cầm quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, một số vấn đề chỉ ra còn giới hạn trong phạm vi lí thuyết và
một số những biện pháp còn chưa cụ thể, thiết thực đối với Đảng Cộng sản
của mỗi nước.
Bùi Ngọc Thanh (2012): Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác
cán bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong cuốn sách này, tác giả Bùi Ngọc Thanh đã chỉ ra những vấn đề
cơ bản nhất của công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ theo tinh thần của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ
ra vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ cần nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình, phải biết lựa chọn và sử dụng cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy là “phải khéo dùng người”, và những vấn đề có tính nguyên tắc
trong công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ.
Mặc dù vậy, trong cuốn sách tác giả mới chỉ đề cập tới một vài khía
cạnh của người cán bộ đảng viên mà chưa đề cập tới một cách toàn diện, chưa
chỉ ra được những hiện tượng phức tạp của một số cán bộ đảng viên có những
hành vi vi phạm Điều lệ Đảng thì cần phải có những biện pháp gì để giáo dục
họ và tăng cường sức mạnh cho Đảng ta?
Nguyễn Phú Trọng (2012): Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn
đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đây là một cuốn sách mới được xuất bản do Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng viết. Trong tác phẩm này, đồng chí Tổng Bí
thư đã tổng kết các công tác xây dựng Đảng của Đảng ta kể từ khi ra đời cho
đến nay. Trong đó, Tổng Bí thư đã đưa ra những lí luận của các nhà kinh điển
5
của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như các lãnh tụ của các Đảng Cộng sản như
quan điểm của Mao Trạch Đông,… về xây dựng Đảng. Bên cạnh mặt lí luận
là những bài học thành công và thất bại từ thực tiễn của công tác xây dựng
Đảng của Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc cũng như của thực tiễn nước ta. Từ
đó, chỉ ra những vấn đề mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cuốn sách đề cập nhiều vấn đề phong phú về lý luận và thực
tiễn gồm bốn phần:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Phần thứ hai: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
Phần thứ ba: Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ.
Phần thứ tư: Rèn luyện đạo đức, lối sống.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các tác phẩm, các tài liệu, các công trình nghiên
cứu hay các hội thảo đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng trên những khía cạnh cụ
thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam được đăng trên các
tạp chí Thông tin lý luận, tạp chí Cộng sản, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch
sử quân sự,... Một số các bài viết như: Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt
tạo chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng của tác giả Nguyễn Đức
Hạt đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng (2006), Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị là một nhiệm vụ trong toàn bộ cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng của đồng chí Lê Khả Phiêu đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng
(1999),...
Đồng thời, có một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt NamTrường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học quốc gia
Hà Nội nghiên cứu về xây dựng Đảng như:
Đoàn Thị Khánh Hà (2002): Đảng bộ thành phố Việt Trì thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1996 – 2000.
Ngô Thị Lan Hương (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010.
6
Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công
tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2001.
Tất cả những tạp chí, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu,
luận văn, ... trên đề cập đến những vấn đề chủ yếu, cốt lõi của công tác xây
dựng Đảng. Tuy nhiên, mỗi tác giả tiếp cận ở những góc độ, khía cạnh khác
nhau và có những ý kiến riêng của mình. Đây là những tư liệu mang tính chất
nền tảng, cơ sở và chính là tài liệu quan trọng cho Đảng ta trong quá trình
thực hiện công tác xây dựng Đảng và đặc biệt giúp cho tác giả thực hiện luận
văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng
từ năm 2008 đến năm 2014”. Tuy luận văn còn có một số hạn chế nhất định
nhưng đã thể hiện một cách hệ thống những thành tựu cũng như những hạn
chế của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014, đồng thời chỉ ra những giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế đó trong giai đoạn hiện nay. Để việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng thu được những kết quả như mục tiêu đã đề ra thì
cần có sự tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo,
phù hợp ở các cấp chi bộ Đảng địa phương, ở tất cả các cấp. Mặc dù phạm vi
nghiên cứu là Đảng bộ một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng cũng đóng
góp những giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng ở các Đảng bộ các cấp
các nghành khác với những biện pháp cụ thể, linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp.
3.Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trương, biện pháp, kết quả tổ chức thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) từ năm
2008 đến năm 2014 là mục đích nghiên cứu chính của đề tài. Từ đó, nhằm
làm rõ thêm lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức thời kỳ này. Những bài học kinh
nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà
Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014 sẽ là
những kiến nghị, đề xuất, giải pháp để Đảng bộ huyện Mỹ Đức đạt được
7
những kết quả tốt hơn nữa trong lĩnh vực xây dựng Đảng thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có nhiệm vụ thu thập, bổ sung và xử lí những nguồn tư liệu về
đề tài một cách khoa học để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trình bày một
cách hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện các nhiệm vụ của
công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014. Từ đó, rút ra được những
nhận xét về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm
của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2008 đến năm 2014.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Những chủ trương, kế hoạch, biện pháp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
trong công tác xây dựng chính Đảng và những kết quả, ý nghĩa của việc thực
hiện những chủ trương trên.
4.2. Phạm vi
- Về nội dung: Tìm hiểu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; những
thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lí luận và
thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
- Về thời gian: từ năm 2008 đến năm 2014.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Mỹ Đức bao gồm 22 xã, thị trấn.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ
2008 – 2014.
* Nguồn tài liệu:
Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập; Các công trình khoa
học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề xây dựng Đảng; những văn kiện,
8
Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo chính trị của Trung ương Đảng; các chủ trương,
chương trình hành động, báo cáo của Thành uỷ Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Hội
đồng nhân dân thành phố, các Báo cáo tổng kết, Nghị quyết, kế hoạch,... của
Đảng bộ huyện Mỹ Đức, Đảng uỷ cấp cơ sở về vấn đề xây dựng Đảng. Ngoài
ra luận văn còn sử dụng tài liệu, các công trình trình bày ở trên.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp liên ngành như: Phân tích, tổng
hợp, đánh giá, thống kê, so sánh, khảo sát, điều tra...
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1:CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M
V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M
2008 Đ N N M 2010
Chương 2: CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M
V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M
2011 Đ N N M 2014
Chương 3: NH N X T V KINH N HI M
9
Chương 1
CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V
XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C
T NĂM 200 Đ N NĂM 2010
1.1 Chủ trương d ng Đảng của Đảng ộ hu ện M Đức
(2008 – 2010)
1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và t nh h nh thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng huyện Mỹ Đức đến năm 2008
* Các yếu tố tác động, chi phối đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức
Về tự nhiên: Huyện Mỹ Đức nằm ở phía tây nam của thành phố Hà
Nội, cách trung tâm Hà Nội gần 50 km; gồm 22 xã, thị trấn, trong đó có 21
xã, thị trấn đồng bằng dọc sông Đáy, một xã miền núi có dân tộc Mường.
Huyện có hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. “Phía Bắc giáp huyện
Chương Mỹ, phía Đông giáp huyện Ứng Hoà (ranh giới tự nhiên là sông
Đáy), phía Tây giáp huyện Lương Sơn, Kim Bôi và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình,
phía Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam”[07; 05].
Địa dư hành chính huyện Mỹ Đức ra đời trải qua một quá trình đấu
tranh lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ thời kỳ nghìn
năm Bắc thuộc đến cuối thế kỷ thứ XIX.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Mỹ Đức hiện nay là 23.146,93 ha,
chiếm 6,93% tổng diện tích tự nhiên của Hà Nội (trong đó đất nông nghiệp là
14.396,26ha, chiếm 62,2% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp
6.567,42ha, chiếm 28,37% so với tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng
2.183,25ha, chiếm 9,43% tổng diện tích tự nhiên). Dân số năm 2012 là 170.831
nhân khẩu (chiếm 2,65% tổng dân số của Hà Nội). Mật độ dân số trung bình là 747 người/km2. Trung tâm của huyện là thị trấn Đại Nghĩa. [13; 02].
Huyện Mỹ Đức có điều kiện thuận tiện giao lưu kinh tế - xã hội với các
10
địa phương trong và ngoài tỉnh thông qua hệ thống đường bộ và đường thủy,
khai thác thị trường Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam. Mỹ Đức là một huyện có cả
đồng bằng và rừng núi, có nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp
chế biến, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp khai thác. Hơn nữa, huyện có rừng
và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Chùa Hương, điểm du lịch Hồ Quan
Sơn. Toàn huyện có trên 200 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 67 di tích
lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Vì vậy, Mỹ Đức có nhiều điều kiện phát
triển, mở rộng dịch vụ du lịch văn hóa.
Là huyện thuần nông, thổ nhưỡng của Mỹ Đức chủ yếu là đất phù sa
không được bồi, đất vùng trũng thuộc loại đất thịt nặng, nghèo nàn. Đất đai
vùng này thích ứng cho cây lương thực, cây rau màu, cây nông nghiệp,... cho
năng suất cao, khối lượng sản phẩm lớn không thua kém các vùng có trình độ
thâm canh khá.
Về kinh tế
Người dân Mỹ Đức từ xưa tới nay luôn cần cù, giản dị, trung thực, chịu
thương, chịu khó và có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động –
sản xuất, trong chiến đấu và trong cuộc sống. Tiếp tục phát huy những kết quả
đạt được sau những năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, trong những năm qua, Đảng bộ huyện xác định phát triển kinh tế
nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù là một huyện nông nghiệp, xuất
phát điểm thấp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân trong
huyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên và giành được nhiều kết quả đáng
khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc
phòng,… Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 9,5 %. Bình quân thu nhập
đầu người năm 2008 là 5,9 triệu đồng, năm 2010 là 10,40 triệu đồng [13; 03].
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tính đến năm 2008 tỷ trọng nông-
lâm nghiệp 57,9% ; tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 18,8%; dịch vụ- du lịch là
23,3% [13; 03].
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản giao thông – thủy lợi và các công
11
trình phúc lợi xã hội phục vụ cho đời sống dân sinh, thúc đẩy cho kinh tế phát
triển được huyện chủ động và có nhiều cố gắng. Đầu tư xây dựng cơ bản tăng
bình quân 30,3%/năm. Huyện đã chủ trương tranh thủ sự hỗ trợ vốn của Nhà
nước, của thành phố và huy động nguồn lực trong nhân dân để xây dựng:
điện, đường, trường, trạm, trụ sở làm việc, nhà văn hóa thôn, công trình thủy
lợi, vệ sinh môi trường,… Các công trình này đều được đẩy mạnh và triển
khai thực hiện tốt. Đến nay hệ thống đường giao thông trong huyện, nhất là hệ
thống giao thông nông thôn đã cơ bản được bê tông hóa, nhựa hóa đảm bảo
đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển cho nhân dân.
Về chính trị
Mỹ Đức là huyện sớm có phong trào cách mạng ở phía nam thành phố,
với hai chi bộ Đốc Tín và Vĩnh Lạc từng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng trên
địa bàn huyện trong cuộc vận động giải phóng dân tộc thời kỳ 1939 - 1945.
Tháng 9/1945, Chi bộ Đảng huyện Mỹ Đức ra đời. Trong bối cảnh sau cách
mạng tháng Tám, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật, tổ chức Đảng gọi là
Hội. Giữa năm 1946, Ban cán sự Đảng bộ huyện Mỹ Đức được thành lập.
Tháng 10/1946, Ban cán sự chuyển thành Ban Huyện ủy. Đó là cơ sở để
tháng 11/1947 Đảng bộ huyện Mỹ Đức ra đời.
Xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong những
năm qua, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được các cấp ủy Đảng từ huyện
đến cơ sở thường xuyên chú trọng. Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương,
của Thành phố và của huyện đều được quán triệt đầy đủ, kịp thời tới toàn thể
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đặc biệt, trong việc
triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Hàng năm đều có kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm túc các chuyên đề theo
đúng kế hoạch chỉ đạo của cấp trên. Thông qua việc học tập, giúp cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ
bản, về những giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức cách mạng của
12
Người, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo
đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn
Đảng bộ và toàn dân.
Điều kiện chính trị xã hội ở huyện Mỹ Đức còn có những đặc thù riêng
tác động đến chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn của huyện. Đó
là một số xã ở huyện vừa có đồng bào người kinh xen lẫn với đồng bào dân
tộc, chủ yếu là dân tộc Mường, hai xã phần lớn theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy,
những vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ
cán bộ dân tộc và tôn giáo, chính sách đối với cán bộ dân tộc cần phải được
quan tâm.
Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây của huyện
Mỹ Đức đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở
huyện, tạo điều kiện cho huyện phát triển về các mặt kinh tế chính trị, văn
hóa, xã hội; đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế. Điều đó đã phản ánh qua
kết quả và những hạn chế chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn
của huyện Mỹ Đức.
Về văn hóa- xã hội, giáo dục, y tế
Sự nghiệp giáo dục – y tế được đầu tư xây dựng kiên cố, phát triển
mạnh. “Cả 22/22 trạm y tế xã, thị trấn đã đạt chuẩn quốc gia và đều có bác sỹ.
Hiện nay toàn huyện Mỹ Đức có 83 trường học các cấp (trong đó 5 trường
phổ thông trung học và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm giáo dục
thường xuyên; 23 trường trung học cơ sở, 29 trường tiểu học, và 24 trường
mầm non). Chất lượng giáo dục và chất lượng khám chữa bệnh ngày càng
được nâng cao. Năm 2000, huyện đã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2001 huyện được công nhận hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học cơ sở và đang tích cực triển khai phổ cập giáo dục bậc
trung học phổ thông. Đội ngũ giáo viên từ mầm non đến trung học phổ thông
100% đã đạt chuẩn (trong đó trên 45% vượt chuẩn). Bình quân mỗi năm Mỹ
Đức có 150 đến 200 em học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học”
13
[30; 46].Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Nghị quyết TW10
(khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc gắn với phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở
khu dân cư”, xây dựng “người Hà Nội thanh lịch, văn minh,” được các tầng
lớp nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng và đẩy mạnh.
Toàn huyện có 2820 nh hùng liệt sỹ (trong đó liệt sỹ chống Pháp 553,
liệt sỹ chống Mỹ 1906, liệt sỹ bảo vệ tổ quốc 361), ghi nhận những thành tích
to lớn đó, năm 2000, huyện vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu đơn vị
nh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8/22 xã, thị trấn trong huyện cũng đã
vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu này vì đã có công lao đóng góp to
lớn cho sự nghiệp cứu nước của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Toàn huyện có 117 bà mẹ Việt Nam được Nhà nước phong
tặng, truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam nh hùng. Hiện nay 100% số gia
đình chính sách, gia đình có công với cách mạng trong huyện đã có mức sống
khá, so với mức sống chung của nhân dân toàn huyện [30; 49].
Về An ninh- Quốc phòng
Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện
đến xã, trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội trên
địa bàn huyện luôn được bảo đảm và giữ vững, không có vụ việc lớn xảy ra.
Công tác quân sự địa phương thực hiện tốt. Lực lượng quân sự địa phương
luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Các xã, thị trấn đều có lực lượng dân quân
tự vệ và lực lượng dự bị động viên sẵn sàng ứng phó với bất kỳ tình huống
nào xảy ra. Hàng năm các xã, thị trấn đều hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân
cấp trên giao.
* Chủ trương của Đảng và tình hình xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đến
năm 2008 (bổ sung thêm chủ trương của Đảng)
Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nộinhưng là địa
phương sớm có những thanh niên tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
14
Ngay từ khi chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở khu
vực Hà Nội ra đời (1926), ở Mỹ Đức đã có những thanh niên, học sinh sống
và học tập ở các thành thị tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên học
sinh yêu nước do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ đạo. Đốc Tín
chính là chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Mỹ Đức được thành lập năm 1939.
Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng và công tác
xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ được mỗi quan hệ với Ứng Hòa, với
các cơ sở cách mạng ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Một số cán bộ ở Ứng Hòa
và Kim Bảng qua lại giúp đỡ phong trào cách mạng ở Đốc Tín và tuyên
truyền gây nhân mối ở một số các nơi khác trong địa bàn huyện.
Từ giữa năm 1939, tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp. Nguy
cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai do trục phát xít Đức – Ý –
Nhật gây ra ngày một đến gần. Chính phủ Pháp nghiêng dần về phía hữu, bọn
phản động thuộc địa của Pháp ở Đông Dương cũng ngày càng trắng trợn
khủng bố, uy hiếp phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trong tình
hình đó, Tỉnh ủy Hà Đông chỉ đạo phong trào ở vũng nam Mỹ Đức tranh thủ
điều kiện còn thuận lợi tiếp tục mở rộng Mặt trận dân chủ, tập hợp lực lượng
quần chúng, đồng thời chú ý củng cố phong trào, chuẩn bị đề phòng khi cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn thống trị sẽ trở mặt đàn áp. Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng và công tác xây dựng
Đảng ở Mỹ Đức chuyển sang thời kỳ mới. Đầu năm 1940, phong trào cách
mạng và công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức bị tổn thất nghiêm trọng do
khủng bố ở Cao Mật (Hà Nam).
Tháng 8/1941, Tỉnh ủy Hà Đông đề ra kế hoạch chỉ đạo các cơ sở thành
lập Mặt trận Việt Minh. Ban Tỉnh ủy phân công cán bộ về các vùng chỉ đạo
và giúp đỡ các cơ sở thành lập Mặt trận Việt Minh, chuyển các đoàn thể phản
đế thành các đoàn thể cứu quốc, truyền đạt Nghị quyết Trung ương lần thứ 8
và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương.
Đến giữa 1942, trên địa bàn huyện Mỹ Đức, phong trào và cơ sở cách
15
mạng đã hình thành ở cả ba khu vực: Bắc, Trung và Nam huyện. Trong đó,
Đốc Tín có chi bộ Đảng, là trung tâm của các cơ sở phía nam và khu vực
miền trung huyện. Vĩnh Lạc là trung tâm phong trào ở khu vực phía bắc.
Đối với phong trào và công tác xây dựng tổ chức chính trị của Đảng ở
Mỹ Đức, cuộc mittinh lớn dịp hội chùa Hương năm 1943 đã có ảnh hưởng
vang dội không chỉ trong địa phương mà còn lan xa ra nhiều tỉnh, động viên
mạnh mẽ niềm tin và tinh thần cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, đứng
trước sự phát triển của các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của các cơ
sở Đảng trong huyện, thực dân Pháp ráo riết theo dõi, đe dọa. Phong trào cách
mạng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đối với một số xã từ sau cuộc tuyên
truyền ở chùa Hương bị lắng xuống. Đây chính là thời điểm mà phong trào
cách mạng và công tác xây dựng Đảng phải chống phá với những luận điệu
tuyên truyền về học thuyết “máu đỏ da vàng”, “khối thịnh vượng chung” của
bọn tay sai thân Nhật.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình hình có những thay đổi, đời sống
nhân dân ngày càng khổ cực, dưới sự lãnh đạo của các cán bộ Đảng như:
đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Bùi Quang Tạo,... đã tích cực mở các lớp huấn
luyện, đẩy mạnh tuyên truyền, mở rộng địa bàn hoạt động của Đảng ta.
Tháng 5/1945, chi bộ Vĩnh Lạc đã kết nạp thêm ba quần chúng vào tổ
chức Đảng. Như vậy, phải tới 6 năm sau (từ 1939 đến 1945), phong trào cách
mạng ở huyện Mỹ Đức mới thành lập thêm một chi bộ. Phong trào cách mạng
và công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã thu được những kết quả bước
đầu. Lúc đầu trong huyện chỉ có hai chi bộ là chi bộ Đốc Tín ở phía Nam, chi
bộ Vĩnh Lạc ở phía Bắc huyện, mỗi chi bộ có một vai trò và thời điểm lịch sử
rất khác nhau, nhưng đây là hai tổ chức Đảng đầu tiên của Đảng bộ huyện Mỹ
Đức. Tiếp đó là sự phát triển của hàng loạt các chi bộ Đảng như: 10/1945,
thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Vệt Minh hay còn gọi chi bộ đội công tác
huyện do đồng chí Trương Thị Mỹ làm Bí thư. “Chi bộ cơ quan huyện ra đời
giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo mọi phong trào, trong đó chú trọng việc đào tạo,
16
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên mới và xây dựng củng cố tổ
chức Đảng trên phạm vi toàn huyện. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt
chú trọng nhất là về chính trị tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng từ huyện
đến các xã” [27; 47].
Để làm công tác phát triển Đảng, chi bộ đội công tác huyện thành lập
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở các tiểu khu, chọn lọc những quần chúng
tiên tiến, tích cực ở các thôn, xã đưa vào Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để
giáo dục, bồi dưỡng về Đảng, về đường lối và nhiệm vụ cách mạng, khi đủ
điều kiện thì kết nạp và sinh hoạt ở chi bộ ghép.
Theo phương hướng đó, những cán bộ đảng viên của chi bộ đội công
tác huyện phụ trách các tiểu khu vừa lãnh đạo phong trào, vừa làm công tác
phát triển đảng viên mới và xây dựng tổ chức Đảng. Công tác xây dựng Đảng
ở huyện Mỹ Đức trong năm 1946 được đẩy mạnh. Cho đến giữa 1946, toàn
huyện có năm chi bộ ghép tiểu khu và hai chi bộ là: Chi bộ Đội công tác
huyện và chi bộ Vĩnh Lạc.
Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 6/1946, Ban cán sự Đảng huyện
Mỹ Đức được thành lập. Chi bộ Đội công tác huyện đã hoàn thành sứ mệnh
và không giữ vai trò lãnh đạo cách mạng như trước, là chi bộ cơ quan huyện.
Tháng 9/1946, Ban Cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển thành Ban
huyện ủy. Công tác xây dựng Đảng ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy mạnh.
Huyện ủy lãnh đạo các xã, ngành tích cực làm công việc chuẩn bị kháng
chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển đảng viên mới, tiến tới mỗi xã
thành lập một chi bộ Đảng.
Công tác phát triển đảng viên mới ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy
mạnh. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Huyện ủy phát động đợt kết nạp “lớp
đảng viên kháng chiến”. Từ tháng 7/1947 đến tháng 12/1947, Huyện ủy Mỹ
Đức quyết định thành lập 14 chi bộ cơ sở gồm: Thiết Tháp, Phúc Lâm, Do Lễ,
Yên Lạc, Đục Khê, Phú Yên, n Mỹ, Lễ khê, Trinh Tiết, Hà Xá, Viêm Khê,
n Phúc. Thượng Vệ và chi bộ ghép Khảm Lâm – Yên Cốc.
17
Như vậy, kể từ năm 1939 đến 1947 là 8 năm, công tác xây dựng Đảng
của Đảng bộ huyện Mỹ Đức tiến hành trên cơ sở của nhiệm vụ cách mạng ở
các thời kỳ: iải phóng dân tộc (1939 – 1945); xây dựng củng cố và bảo vệ
chính quyền cách mạng (9/1945 – 12/1946) và năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp xâm lược. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo chính
quyền làm nhiệm vụ của nền chuyên chính dân chủ nhân dân, công tác xây
dựng Đảng ở Mỹ Đức bước vào giai đoạn mới, với phương hướng và cách đi
mới mà thời gian đầu là vai trò của chi bộ đội công tác huyện và chi bộ ghép
tiểu khu. Đây là bước đi quan trọng, là nền tảng cho sự ra đời của Ban Huyện
ủy và chi bộ Đảng ở các xã. Yêu cầu đặt ra là bầu Ban chấp hành Đảng bộ
huyện chính thức theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Điều lệ của
Đảng. Do vậy, việc Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ
nhất vào tháng 11/1947.
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, quê hương
Mỹ Đức được giải phóng (7/1954) cho đến năm 2000 là 46 năm. Đây là chặng
đường cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt của quân và dân Mỹ Đức
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Từ 1947 đến 2010, trải qua 53 năm,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã diễn ra 22 lần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện.
Kể từ khi ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở Đốc Tín – Mỹ Đức (1939) chỉ với 2
đảng viên, tiếp đó là chi bộ Vĩnh Lạc và thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Việt
Minh ban đầu chỉ có 4 đồng chí. Tuy số lượng chi bộ và đảng viên còn rất ít
nhưng đã phần nào phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân
trong huyện. Các chi bộ Đảng không ngừng được củng cố, tăng cường và mở
rộng, số lượng đảng viên và các chi bộ Đảng nhanh chóng phát triển cả về số
lượng và chất lượng.Năm 1946, Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức được thành
lập gồm 5 ủy viên. Đây được coi là một tổ chức tiền thân của Đảng bộ huyện
Mỹ Đức hiện nay. “Tháng 9/1946 Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển
thành Ban Huyện ủy, đây được coi là một mốc đánh dấu sự phát triển trong tư
18
duy của Đảng bộ huyện, một bước kiện toàn trong bộ máy chính trị Đảng của
huyện Mỹ Đức” [27; 99].
Tháng 11/1947, Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần
thứ I. Tháng 3/ 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ II.
Tiếp đó, trong các năm 1952 – 1986 đã diễn ra 15 lần Đảng bộ huyện
Mỹ Đức tiến hành Đại hội đại biểu huyện. Đến 1986, số đảng viên của đảng
bộ huyện đã lên tới 4000 đảng viên.
“Tháng 1/1989 diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ
XVIII với sự tham dự của 287 đại biểu thay mặt cho 4721 đảng viên trong
huyện. Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVIII gồm 37 ủy viên chính
thức” [28; 227].
Trong Đại hội đại biểu huyện lần thứ XVII (9/1986) chỉ đạo về công
tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng phải được tăng cường củng cố
về tổ chức và rèn luyện đội ngũ đảng viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, giáo dục đường lối,
chính sách của Đảng bằng các hình thức: học tập trung, học tại chức tại các cơ
sở và trường Đảng của huyện làm cho cán bộ đảng viên đổi mới nhận thức,
nhất là tư duy kinh tế. Biết vận dụng đường lối chính sách vào từng cơ sở và ở
từng ngành khác nhau để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng
đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến xã. Củng cố kiện toàn lại tổ chức văn hóa
thông tin, đài truyền thanh. Các cấp ủy, Đảng bộ, chi bộ cải tiến nội dung sinh
hoạt đảm bảo vai trò lãnh đạo, tính tiền phong gương mẫu ở mỗi cán bộ, đảng
viên: nói và làm theo Nghị quyết của Đảng.
Ngoài ra, trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đại hội còn chỉ
ra những yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ đảng viên, đặc biệt đề cao công tác
kiểm tra Đảng: “Công tác kiểm tra của Đảng phải được xây dựng thành
chương trình công tác của các cấp ủy” [28; 206].
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII (1/1989) đề ra
phương hướng nhiệm vụ chung về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng:
19
“Tiếp tục quán triệt nội dung tinh thần của Nghị quyết 5 của Trung ương về
công tác xây dựng Đảng và tổ chức cán bộ. Hướng tới mục tiêu: Củng cố
được lòng tin của quần chúng đối với Đảng” [28; 221].
Hội nghị Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức giữa nhiệm kỳ, khóa XIX
(4/1994) đề ra tư tưởng chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương
3, Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm
vụ then chốt” [28; 259].
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XX (3/1996) chỉ rõ:
“Cần tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, thường xuyên giáo dục cho cán
bộ, đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” [28; 281].
Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXI (11/2000),
Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 có từ 60 – 70% tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh, không còn cơ sở Đảng yếu kém.
Đại hội xác định: “Trong giáo dục chính trị, tư tưởng, phải thường
xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội
Đảng bộ tỉnh, Đại hội Đảng bộ huyện để nâng cao nhận thức chính trị, lập
trường quan điểm, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đề ra các Nghị
quyết chủ trương phù hợp, sát, đúng với tình hình địa phương”. [28; 305].
Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII (09/2005), đề ra
nhiệm vụ “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII, Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, các cấp ủy
đảng thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Chỉ đạo đánh giá,
phân loại đúng thực trạng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Thực hiện tốt
Quy định 76 của Bộ chính trị về giới thiệu đảng viên cơ quan giữ mối liên hệ
và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú [28; 321]. Đảng bộ huyện đề ra chủ
trương tăng cường lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh tuyên truyền các chỉ thị, nghị
20
quyết của Trung ương, tỉnh, huyện, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, mở nhiều lớp bồi dưỡng lí luận
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác
khoa giáo,...
Như vậy, đứng trước những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước,
dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Tỉnh ủy Hà
Tây, Thành ủy Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn đề ra những tư tưởng
chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và phù hợp.
1.1.2 Ch trương xây dựng Đảng c a Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2008 – 2010)
* Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu mới về xây dựng Đảng khi Mỹ Đức sáp
nhập vào thành phố Hà Nội
Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội.Thời kỳ triều
Nguyễn, Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Nội, sau đó thuộc tỉnh Hà Đông. Hòa bình lập
lại ở miền Bắc, năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được sát nhập thành
tỉnh Hà Tây, Mỹ Đức là một huyện của tỉnh Hà Tây.
Từ năm 1975 đến năm 1991, hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình sát nhập
thành tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, tái lập tỉnh Hà Tây, tỉnh Hòa Bình,
huyện Mỹ Đức lại thuộc tỉnh Hà Tây như cũ.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ 3, ngày
29/05/2008, từ ngày 01/08/2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mỹ Đức
sáp nhập về thủ đô Hà Nội, trở thành một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội.
Trong những năm trước 2008, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hà Tây đã nỗ lực, phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về
mọi mặt, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng. Kể từ khi sáp
nhập vào trở thành một huyện của thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở Mỹ Đức đững trước những tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu mới dưới
21
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Khi sáp nhập thành một huyện của thủ đô, Mỹ Đức có rất nhiều thuận lợi
trên con đường phát triển kinh tế - xã hội.Việc hợp nhất Hà Nội và Hà Tây cũng
là cơ hội để thành phố Hà Nội mới nói chung và huyện Mỹ Đức nói riêng thu hút
nhiều hơn các dự án đầu tư trực tiếp từ trong nước và nước ngoài. Thành phố Hà
Nội mới sẽ có thêm quỹ đất để ưu tiên phát triển các khu công nghiệp và khu
công nghệ cao, vì vậy sẽ đầu tư trực tiếp thêm nhiều dự án, nhiều khu công
nghiệp để phát triển kinh tế cho các huyện ngoại thành như Mỹ Đức, đây được
xem là một lợi thế lớn cho việc thu hút đầu tư, bởi vào thời điểm đó năm khu
công nghiệp dành cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hà
Nội đã gần như được lấp đầy.Trong khi đó, ở Mỹ Đức thời điểm đó không có
các khu công nghiệp (đến năm 2010 mới có công ty may Đại Nghĩa). Những
ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... vẫn được quan tâm đầu tư;
những lĩnh vực mới như về đô thị, dịch vụ du lịch, sinh thái Hà Nội rất có tiềm
năng. Một lĩnh vực nữa mà Hà Nội được đầu tư phát tiển đó là phát triển nông
nghiệp với công nghệ hiện đại. Thực tiễn của nền kinh tế thế giới cũng như Việt
Nam hiện nay cho thấy, chúng ta phải dành cho nông nghiệp sự quan tâm đúng
mức. Với diện tích của huyện Mỹ Đức khoảng 70% đất nông nghiệp, rất thuận
lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội nên còn gặp nhiều khó
khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội so với các quận, huyện
gần trung tâm. Tuy nhiên, Mỹ Đức khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lí, về nguồn nhân lực và giao thông, tài nguyên, môi
trường sinh thái để phát triển kinh tế; trong đó phát triển du lịch lễ hội là một
lĩnh vực được ưu tiên đầu tư và khai thác, bao gồm cả du lịch sinh thái và du
lịch văn hóa,...
Cuối năm 2008, thời tiết diễn biến bất lợi diễn ra trận đại hồng thủy gây
ra hậu quả nặng nề tới kinh tế của nhân dân, cùng với ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng không nhỏ đến đời
22
sống nhân dân trong huyện. Xuất phát điểm nền kinh tế của huyện còn thấp,
cơ sở vật chất hạ tầng còn khó khăn, bên cạnh đó, những khó khăn, hạn chế,
bất cập trong công tác quản lí, điều hành trên một số lĩnh vực như: Quản lí
quy hoạch, xây dựng, đất đai, môi trường,...là những thách thức không nhỏ
ảnh hưởng trực tiếp tới điều kiện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ
huyện Mỹ Đức.
Ngoài ra, bên cạnh những cơ hội, việc sáp nhập vào Hà Nội cũng đặt ra
những thách thức hết sức to lớn đối với huyện Mỹ Đức, nhất là trong vấn đề
văn hoá – xã hội. Khi trở thanh một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, các
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện hân hoan, tin tưởng vào khí thế mới
của Đảng, diện mạo mới của huyện. Tuy nhiên, cũng có một số những cán bộ,
đảng viên giữ tư tưởng cố hữu cho rằng việc sáp nhập này sẽ làm mất đi các giá
trị, đặc biệt là giá trị văn hóa của huyện.Đối với khu di tích thắng cảnh chùa
Hương, hiện tượng các chùa giả mọc lên hàng loạt, thủ đoạn ngày càng tinh vi
đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh bộ mặt du lịch của huyện cũng như
thuần phong mĩ tục của địa phương. Tuy nhiên, đô thị hóa là một xu thế
chung, nó không chỉ diễn ra ở riêng Hà Nội và vùng ven mà tại nhiều địa
phương trên cả nước và đó là những tác động tiêu cực đến văn hóa và những
ảnh hưởng về phẩm chất, đạo đức, lối sống là mối lo ngại từ ngày mới có
quyết định sáp nhập. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giải được bài toán
hội nhập, điều này cần sự vào cuộc của tất cả các cơ quan chức năng cũng
như sự ủng hộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức.
Mặc dù đứng trước không ít những khó khăn, thách thức nhưng Đảng
bộ huyện Mỹ Đức luôn phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, nỗ lực
phấn đấu, vận dụng sáng tạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết
của Trung ương, của Thành phố và của huyện. Nhờ vậy đã có những chuyển
biến tích cực trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh
– quốc phòng, ... cũng như việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.
*Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
23
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức không ngừng củng cố và kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong huyện cũng như chú ý tới công tác bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ đoàn viên thanh niên ưu tú là đội ngũ kế cận cho việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.
Đảng bộ huyện yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, xây dựng Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh.
Đảng bộ huyện luôn nhấn mạnh phải “tăng cường lãnh đạo công tác
chính trị, tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tỉnh, huyện,
chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và nhân dân, với
phương châm: kịp thời, sát thực tế, hình thức tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu,
dễ nhớ, lồng ghép nhiều nội dung phong phú, hấp dẫn. Ngoài ra, mở nhiều lớp
bồi dưỡng lí luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy
mạnh việc biên soạn lịch sử Đảng bộ các xã, thị trấn cũng là một trong những
nội dung được Đảng bộ huyện Mỹ Đức quan tâm, Đảng bộ huyên Mỹ Đức đặt
ra chỉ tiêu phấn đấu mỗi năm có từ hai đến ba ấn phẩm lịch sử”[28; 357].
Công tác giáo dục lịch sử truyền thống của Đảng bộ địa phương trong
các trường học cũng được tăng cường. Công tác khoa giáo toàn diện trên các
lĩnh vực phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế xã hội. Nắm bắt và xử lí kịp
thời các biểu hiện, dư luận lệch lạc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân từ cơ
sở. Củng cố và mở rộng mạng lưới báo cáo viên cơ sở, đảm bảo chất lượng
đội ngũ báo cáo viên và giảng viên kiêm chức.
Nâng cao vai trò của tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên, tích cực thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
6 (lần 2), khóa VIII, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh,...“phấn đấu kể từ 2010 có 75% tổ chức cơ sở đảng vững
24
mạnh trở lên, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém”[28; 357].
Xây dựng, bổ sung quy chế làm việc của các cấp ủy và từng chức danh,
tránh tình trạng buông lỏng, chồng chéo trong lãnh đạo. Tăng cường khối
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ gìn phẩm chất dạo đức, lối sống trong
sạch, ý chí tự lực tự cường, nêu cao cảnh giác chống âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với tham nhũng, cơ hội và
các biểu hiện tiêu cực khác. Tăng cường công tác quản lí và phân công nhiệm
vụ cho đảng viên; đánh giá phân loại và có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất
lượng đảng viên.
Chăm lo công tác phát triển Đảng, “phấn đấu mỗi năm kết nạp được
200 đảng viên trở lên” [28; 358]. Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa có đức, vừa có tài, am
hiểu thực tiễn, phong cách lãnh đạo sâu sát, ý thức trách nhiệm cao, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ theo
Nghị quyết của Bộ chính trị. Hàng năm chủ động bổ sung quy hoạch cán bộ,
có kế hoạch bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt đảm bảo dân chủ, công khai, đúng
quy trình, quan tâm đến cán bộ nữ. Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, thực
hiện tốt các Chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị và Ban Bảo vệ nội bộ chính
trị Trung ương.
Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng: Tiếp tục thực
hiện tốt Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị. Đổi mới công tác kiểm tra trên
cơ sở bám sát Điều lệ Đảng, nhiệm vụ chính trị của cấp ủy để thực hiện kế
hoạch kiểm tra. Quá trình kiểm tra đảm bảo trung thực, khách quan, đúng qui
trình, kết luận đúng sai rõ ràng, xử lí nghiêm các tổ chức cơ sở Đảng, đảng
viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Tăng cường kiểm tra tập
trung vào công tác quản lí, sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản, các nguồn tài
chính huy động từ đóng góp của nhân dân, ... Tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ
máy của ủy ban kiểm tra, quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính
trị, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
25
Tăng cường đổi mới công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng, phát huy vai
trò của quần chúng nhân dân: tiếp tục quán triệt các quan điểm, đường lối
công tác dân vận của Đảng. Thực hiện tốt các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung
ương, Tỉnh ủy về công tác dân vận, đại đoàn kết dân tộc, công tác tôn giáo,...
Làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân
vận; động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia
xây dựng Đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương,
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường chỉ đạo các cấp ủy Đảng,
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng của tổ chức,
kiện toàn bộ máy và cán bộ của hệ thống dân vận, Mặt trận và đoàn thể.
các chi bộ cơ sở, các cán bộ, đảng viên trong huyện đã và đang phấn đấu xây
dựng Đảng bộ huyện ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với truyền
thống anh hùng của quê hương trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ
Đức, tự hào về truyền thống của quê hương với bề dày lịch sử hàng ngàn năm,
các thế hệ người dân Mỹ Đức luôn xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước,
phấn đấu và tự hào được sinh ra và trưởng thành trên quê hương cách mạng.
Trong mọi hoàn cảnh dù có nhiều biến động đến đâu, tình hình phức
tạp và chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể gây ảnh hưởng đến vị trí, vai
trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã từng bước tháo gỡ
những khó khăn, vượt qua thử thách và thu được những thắng lợi to lớn.
Đứng trước những thời cơ và thách thức, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã và
đang từng bước phát huy lợi thế và khắc phục khó khăn. Đặc biệt là trong
những năm đầu kể từ khi sáp nhập vào thành một huyện của thành phố Hà
Nội.Đảng bộ huyện Mỹ Đức đưa ra quan điểm nhất quán, xuyên suốt quá
trình lãnh đạo: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, được sự chỉ đạo trực tiếp từ Thành ủy Hà Nội, trong
những năm đầu mới sáp nhập 2008 – 2010, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã coi
26
trọng và đề ra những chủ trương đúng đắn và thực hiện nghiêm túc công tác
xây dựng Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
toàn Đảng bộ.
1.2 Quá tr nh Đảng ộ hu ện M Đức ch đạo th c hiện nhiệm vụ
d ng Đảng 200 – 2010)
1.2.1 Xây dựng Đảng v ch nh tr
“Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, kể từ sau Đại hội Đại biểu Đảng
bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII (09/2005), 100% các tổ chức cơ sở Đảng đã
triển khai tổ chức, quán triệt các đợt học tập Nghị quyết và các chuyên đề của
Đảng cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập với tỷ lệ đạt 96 – 97%”[05; 03].
Công tác giáo dục lí luận chính trị cho cán bộ, đảng viên tập trung vào
quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối đổi mới của Đảng. Được các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở quan
tâm, chỉ đạo, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng.
Chỉ đạo tuyên truyền, quán triệt, học tập và xây dựng chương trình, kế hoạch
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XXI, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Thành uỷ, tuyên truyền 9
Chương trình lớn của Thành uỷ, 5 nhiệm vụ trọng tâm và 2 khâu đột phá của
Thành phố phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đảm bảo tính thiết
thực nhằm nâng cao nhận thức, tạo được sự nhất trí cao về quan điểm, tư
tưởng, đường lối đổi mới của Đảng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong nhiệm kỳ, 100% các tổ chức cơ sở Đảng đã triển khai tổ chức quán triệt
các đợt học tập nghị quyết và các chuyên đề của Đảng cho cán bộ, đảng viên
tham gia học tập.
Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được quan
tâm có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung vào quán triệt cho cán bộ, đảng
viên thấm nhuần sâu sắc về quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt
27
động tuyên giáo có nhiều đổi mới trên các lĩnh vực từ việc kiện toàn, bồi
dưỡng cho đội ngũ báo cáo viên, đổi mới phương pháp truyền đạt nghị quyết
của Đảng cho đến công tác khoa giáo, văn hoá, văn nghệ, nắm bắt dư luận xã
hội và định hướng dư luận xã hội từ huyện đến cơ sở đạt hiệu quả thiết thực
đã góp phần tích cực giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Chỉ đạo tổng kết, sơ kết nhiều Chỉ thị, Nghị quyết như: sơ kết 30 năm
thực hiện Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương và 10 năm thực hiện Thông báo
71 của Bộ Chính trị “Về công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng”; 5 năm
thực hiện Chỉ thị 50 của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với hội khuyến học Việt Nam”; 5 năm thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Chấp hành
Trung ương “Về nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử
Đảng và giáo dục truyền thống cách mạng”; sơ kết 3 năm thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,...
Công tác biên soạn lịch sử Đảng được thực hiện tích cực, đã biên soạn
hoàn thành cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện gồm 2 tập (tập I giai đoạn 1930 –
1954; tập II giai đoạn 1954 – 2000) và cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện
qua các kỳ Đại hội 1947 – 2010”; 16 Đảng bộ xã, thị trấn có ấn phẩm lịch sử
Đảng, 4 xã đang tiếp tục biên soạn. óp phần giáo dục truyền thống cách
mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân.
Công tác phát hành Báo, Tạp chí của Đảng được các cấp, các ngành
quan tâm, số lượng năm sau cao hơn năm trước, các tài liệu về Thông tin công
tác Tư tưởng, Bản Thông tin Nội bộ, các văn kiện kịp thời cung cấp tới các
đối tượng để học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt trong việc triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hàng năm đều có kế hoạch tổ chức
thực hiện cuộc vận động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm
túc các chuyên đề về tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo đúng kế
hoạch chỉ đạo của cấp trên, cán bộ, đảng viên, hội viên tham dự học tập
nghiêm túc. Kết quả, “đã tổ chức được 60 lớp cho trên 16.000 lượt cán bộ,
28
đảng viên tham dự và 190 lớp học cho trên 60.000 lượt đoàn viên, hội viên và
quần chúng nhân dân tham dự học tập” [11; 02].Tổ chức thành công hội thi kể
chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tổ chức các hội nghị toạ đàm
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ cơ sở đến cấp huyện.
Qua đó đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản, về giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách
mạng của Bác về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn
xã hội.
Đại hội XI của Đảng khẳng định, trong những năm tới cần “tăng cường
xây dựng Đảng về chính trị”, tập trung vào những vấn đề chủ yếu: kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chất các cấp;
không dao động trong bất kỳ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới,
chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên
tắc,...Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, tập trung vào
những nội dung: Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng
tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới,
không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước,... tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn
nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tuyên truyền, học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng
ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
29
trong nội bộ Đảng; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.
Đảng luôn nhấn mạnh phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, nâng cao cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều
kiện hiện nay, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo thực hiện nhằm đạt hiệu
quả cao nhất. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận giải
quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo. Nghiên cứu
lý luận theo hướng tăng cường dân chủ, tôn trọng những ý kiến cá nhân, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa khoa học và chính trị. Tiếp tục đổi mới toàn
diện công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống trường Đảng, mà trọng
tâm là đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung phương pháp học tập và giảng
dạy theo hướng nâng cao tính thiết thực hiệu quả, đa dạng, phong phú, thiết thực,
gắn với thực tiễn, với cơ sở.
1.2.2 Xây dựng Đảng v tư tư ng
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí
tuệ của Đảng. Đó là tổng hợp các tri thức chủ yếu như: lý luận chính trị, kinh tế,
khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh, khoa học xã hội và nhân văn,….
Những tri thức ấy, phải được vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Bản lĩnh
chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng quan hệ mật thiết với nhau và là một trong
những vấn đề quan trọng của xây dựng Đảng. Đảng bộ huyện Mỹ Đức thường
xuyên chỉ đạo mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị đối với các đối
tượng là Đoàn viên thanh niên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các đối
tượng thuộc khối cơ quan, đoàn thể cũng như tuyên truyền trong nhân dân về
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm định hướng và nâng cao
nhận thức của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng
được tạo nên bởi các nhân tố chủ yếu như: trình độ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đây là nhân tố cốt lõi; trình độ về các khoa học khác như:
30
các quy luật phát triển của xã hội, quy luật kinh tế, kinh tế thị trường, thế giới
đương đại, thông lệ quốc tế, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lãnh đạo,
quản lý, tâm lý học, khoa học và công nghệ, quốc phòng, an ninh,… trách nhiệm
cao cả của Đảng trước nhân dân, đất nước, dân tộc và tình thương yêu, gắn bó
mật thiết giữa Đảng với nhân dân; sự rèn luyện bền bỉ, dẻo dai của Đảng trong
thực tiễn cách mạng, sự đối mặt và vượt qua những khó khăn thách thức trong
quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. “Đảng bộ huyện Mỹ Đức tổ chức
nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhận thức lại những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chỉ ra một cách rõ ràng, khoa học, khách quan những vấn đề của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã được thực tiễn vượt qua” [46; 09]. Trong tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức quán triệt thực hiện nghiêm
chỉnh nguyên tắc tập trung dân trong chỉ đạo cụ thể hóa, thể chế hóa các nghị
quyết của Đảng và trong quá trình tổ chức thực hiện, nhất là trong xử lý những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho
các cấp, cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; thực hiện tốt việc giao nhiệm vụ,
quyền hạn đến đâu thì xác định trách nhiệm cá nhân đến đó; mọi nội dung trong
thực hiện nghị quyết của Đảng ở địa phương phải có người phụ trách và chịu
trách nhiệm cá nhân; khẩn trương xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp về thực hiện
nghị quyết của Đảng.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thành
công các hoạt động nhân kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và
Chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011).
Ngày 10/10/2008, thực hiện Chỉ thị số 30/CT – TT của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt “Đề cương các hoạt động tiến tới kỷ niệm 1000
năm Thăng Long – Hà Nội”, Ban tuyên giáo Trung ương và Ban tuyên giáo
Thành ủy Hà Nội đã xây dựng các kế hoạch tuyên truyền, quảng bá và tổ chức
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Các hoạt động được chú trognj
31
nhằm giáo dục về truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, khơi dậy
lòng tự hào dân tộc và góp phần quảng bá hình ảnh của Hà Nội, vị thế của thủ
đô đối với bạn bè quốc tế. Là một huyện ngoại thành của Hà Nội, tuy nhiên,
Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức luôn không ngừng phấn đấu để công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng phục vụ đại lễ 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội đạt được kết quả cao, góp phần vào sự thành công của toàn
thành phố.
Công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện Mỹ Đức được kết hợp với
các hoạt động giáo dục, quảng bá hình ảnh, văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao,... Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội là điểm nhấn ấn
tượng và có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống kinh tế - chính trị của thủ đô và
của cả đất nước. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục, quảng bá sự
kiện này là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa là vinh dự,
đồng thời là trách nhiệm của một huyện thuộc ngoại thành thủ đô Hà Nội. Kết
quả tuyên truyền của Mỹ Đức đã góp phần vào sự thành công của Đại lễ, cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị
văn hóa – lịch sử của thủ đô, thể hiện tình cảm, đạo lí uống nước nhớ nguồn
đối với các thế hệ đi trước. Đông đảo các tầng lớp nhân dân đã tích cực hưởng
ứng, tham gia thực hiện các hoạt động gắn với cuộc vận động thiết thực
hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội như: Cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, Xây dựng người Hà
Nội thanh lịch – văn minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, ... Vào dịp Đại lễ, Đảng bộ và nhân dân Mỹ Đức hân hoan, các tuyến
phố, đường làng ngõ xóm rợp cờ hoa, băng rôn, biểu ngữ để chào mừng ngày
hội lớn của đất nước.
Cùng với công tác tuyên truyền, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được tổ chức
thường xuyên, đặc biệt là các lớp báo cáo viên. Nội dung bồi dưỡng được tập
trung vào nhiều vấn đề như: giáo dục lí luận sơ cấp, trung cấp chính trị, bồi
32
dưỡng đối tượng Đảng, đảng viên mới, báo cáo viên, tuyên truyền tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghị quyết, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyền truyền về
Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,... Tỷ lệ cán bộ, đảng viên theo học
các lớp luôn đạt trên 90% và 100% cán bộ đảng viên theo học đều có báo cáo
thu hoạch sau mỗi khóa học. Điều này đã góp phần tích cực trong việc nâng
cao nhận thức, lập trường và tư tưởng của cán bộ, đảng viên; giữ vững và ổn
định tình hình chính trị ở cơ sở, tăng cường sức mạnh của Đảng, chính quyền,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác Dân vận trong hệ thống
chính trị, các cấp uỷ Đảng, chính quyền tổ chức quán triệt đầy đủ các Chỉ thị,
Nghị quyết của Trung ương, của Thành uỷ, Huyện uỷ về công tác Dân vận tới
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Luôn đổi mới công tác vận động quần chúng,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
dân. Chỉ đạo tổng kết, sơ kết nhiều chỉ thị, nghị quyết như: tổ chức tổng kết
10 năm thực hiện Chỉ thị 30 – CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII về “Xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ”; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về “Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh ”, về “công tác tôn giáo”; sơ kết 03 năm
thực hiện Nghị quyết 09 – NQ/TU của Thành uỷ về “Tăng cường sự lãnh đạo
công tác đoàn và phong trào thanh niên”. Quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và
thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Các xã, thị trấn, các
cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn đã xây dựng, ban hành các quy chế, quy
định, quy ước nêu rõ nội dung và hình thức thực hiện dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”. Triển khai thực hiện chuyên đề “Năm dân vận chính quyền” mô hình
“Dân vận khéo”. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò của
hệ thống chính trị, tăng cường sâu sát cơ sở, kiểm tra, đôn đốc thực hiện ngày
33
một hiệu quả, cụ thể hơn, thiết thực hơn.
1.2.3 Xây dựng Đảng v t chức
* Củng cố tổ chức
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; làm tốt công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức chính trị cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ thôn, xóm,
xã thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở địa bàn nông thôn. Chăm lo củng
cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, tập trung nâng cao hiệu quả, hiệu lực
quản lý của chính quyền cấp xã, bảo đảm đủ sức quản lý, điều hành và giải
quyết tốt những vấn đề phát sinh ở nông thôn, cơ sở. Phát huy hiệu quả hoạt
động của khối dân vận cơ sở, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố
và phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động tự quản để vận động nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình tham gia công việc chung của cộng đồng.
“Thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội, nhất là Hội Nông dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở để hướng dẫn nông dân thực hiện các
chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới, tham gia các
chủ trương hợp tác về kinh tế, các dự án, chương trình phát triển sản xuất
nông nghiệp tại địa phương”[09; 08].
Đảng bộ huyện Mỹ Đức quán triệt những tiêu chuẩn chung cho cán bộ,
đảng viên trong thời kỳ mới, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ,vị trí, vai trò
của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, ngày 02/12/2010, Ban Thường vụ
Huyện ủy Mỹ Đức ra Quyết định số 46-QĐ/HU về tiêu chuẩn cán bộ, đảng
viên và chức danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý với
những tiêu chuẩn nhất định về năng lực, trình độ lí luận chính trị cũng như
phẩm chất đạo đức,...đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó phải là những người được đào tạo,
chuẩn hóa qua hệ thống nhà trường, có trình độ chuyên môn, có trình độ lý
34
luận chính trị. Đồng thời phải trải qua thực tiễn rèn luyện để có kinh nghiệm
và trưởng thành, xứng đáng những yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ cách
mạng mới.
Kết quả tổng kết công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến 2010 cho
thấy, số tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh bình quân
tăng hàng năm của Đảng bộ là 9,9%; năm 2010 có 40/56 tổ chức cơ sở Đảng
đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, chiếm 71,4% ( trong đó xã, thị trấn 16
đơn vị; Đảng bộ, chi bộ khối các cơ quan 24); 11/56 Đảng bộ, chi bộ hoàn
thành tốt nhiệm vụ (bằng 19,6%). 5/56 tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành nhiệm
vụ (bằng 8,9%), không còn tổ chức Đảng yếu kém. Việc quản lý nâng cao
chất lượng đảng viên được các cấp ủy Đảng từ huyện tới cơ sở luôn coi trọng.
Việc duy trì sinh hoạt Đảng ở các đơn vị cơ bản thực hiện tốt.
*Công tác cán bộ và phát triển đảng viên
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường. Thực hiện
nghiêm túc các hướng dẫn, quy định về kiểm tra, giám sát, hàng năm đều xây
dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát thường xuyên theo quy định.
“Kiểm tra, giám sát theo chuyên đề đã tiến hành được 07 cuộc kiểm tra, 05
cuộc giám sát ở 22 đảng bộ, xã, thị trấn và 51 Chi bộ, Đảng bộ trực thuộc
trong việc chấp hành điều lệ Đảng, nghị quyết và chỉ thị của Đảng” [30;
15].thuộc các lĩnh vực như: kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, thực hiện
cải cách hành chính, xây dựng đường giao thông nông thôn, xây dựng làng,
cơ quan, đơn vị văn hoá, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn
kết nội bộ, việc quản lý và sử dụng đất đai, kiểm tra việc thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Ủy ban kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra được được 231 lượt tổ chức
đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và kiểm tra việc thi hành kỷ luật.
“Kết quả kiểm tra có 216/231 lượt tổ chức đảng thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm
tra, 223/231 lượt tổ chức đảng thực hiện tốt việc thi hành kỷ luật đảng. Kết
quả thực hiện nhiệm vụ giám sát đã giám sát được 175 lượt tổ chức đảng,
35
6.355 đảng viên, đảng uỷ viên và chi uỷ viên” [11; 11]. Nội dung giám sát
việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của đảng,
chính sách pháp luật nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, kết
luận của cấp uỷ cấp trên và cấp mình. Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra
được 247 tổ chức đảng và 6.235 lượt đảng viên về việc thu nộp, quản lý, sử
dụng đảng phí, qua kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện thu nộp,
quản lý, sử dụng đảng phí đúng quy định. Công tác giải quyết đơn thư tố cáo
đối với Tổ chức Đảng, đảng viên được coi trọng, tiếp nhận 21 đơn tố cáo,
trong đó thẩm quyền giải quyết 19 đơn, kết quả đã giải quyết xong 19/19 đơn
đạt 100%. “Qua kiểm tra đã xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách 01 Đảng
uỷ, cảnh cáo 01 Đảng uỷ do vi phạm ra nghị quyết để Ủy ban nhân dân xã
cấp bán đất trái quy định, vi phạm luật đất đai và luật ngân sách. Cảnh cáo 01
Chi bộ và khiển trách 02 chi bộ trực thuộc Đảng uỷ xã do ra nghị quyết cấp
bán đất trái quy định. Xử lý kỷ luật 138 đồng chí đảng viên bằng các hình
thức khiển trách 40; cảnh cáo 70; cách chức 06, khai trừ 22 do vi phạm trong
quản lý sử dụng đất đai và chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Việc thi
hành kỷ luật thực hiện công minh, khách quan, chính xác, đúng nguyên tắc
nên không có đơn thư khiếu nại về kỷ luật Đảng” [30; 12].
Quá trình kiểm tra, giám sát đảm bảo đúng quy trình, đúng nguyên tắc,
thủ tục, kết luận rõ ràng, xử lý kịp thời góp phần nâng cao chất lượng lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, đẩy
mạnh sinh hoạt theo chuyên đề, khắc phục một bước cơ bản tình trạng nghèo
về nội dung, đơn điệu về hình thức, chất lượng thấp của sinh hoạt chi bộ;
nâng cao tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ. Thường xuyên tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận. Đổi mới việc hình thành đội ngũ cấp uỷ viên các cấp, nhất
là cấp chiến lược. Đây là những cán bộ cán bộ có thẩm quyền xây dựng, ban
hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của các tổ chức đảng ở các
cấp. Những cán bộ này phải hội đủ các tiêu chuẩn đã được xác định. Trong
36
đó, cần đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh về bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ,
năng lực tư duy, kinh nghiệm tổ chức thực tiễn, phong cách làm việc khoa
học, đoàn kết nội bộ, phẩm chất đạo đức, lối sống, những cán bộ cấp chiến
lược phải có tầm nhìn và sự nhạy bén trong phát hiện và đề xuất những vấn đề
chiến lược,... Trên cơ sở tiêu chuẩn đã quy định những cán bộ này phải được
lựa chọn thật sự dân chủ; dân chủ trong giới thiệu, thảo luận tạo sự nhất trí
cao trong Đại hội Đảng các cấp.
Ti u t chương 1
Nhận thức được lời Bác Hồ đã dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay
và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không còn
trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [58; 547], trong những năm qua,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt,
trong ba năm đầu sau khi sáp nhập trở thành một huyện ngoại thành Hà Nội,
đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn, Đảng bộ và nhân dân huyện
Mỹ Đức đã không ngừng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng cùng với
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc
phòng nhằm phát huy những tiềm năng, lợi thế sẵn có của huyện để thu được
những thắng lợi to lớn. Việc đề ra chủ trương và quá trình thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng đã thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nói
chung và Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói riêng, đặc biệt trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Nhiệm vụ xây dựng Đảng được tiến
hành một cách toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm
đảm bảo phát huy cao nhất những yếu tố trong Đảng. Mặc dù mới chỉ trải qua
ba năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ
thành phố Hà Nội (2008 – 2010) nhưng Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức
đã thực hiện tốt và thu được những kết quả to lớn về mọi mặt, xứng đáng với
sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước và Thành ủy, xứng đáng là một huyện của
thủ đô Hà Nội.
37
Chương 2
CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V
XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C
T NĂM 2011 Đ N NĂM 2014
2.1 êu cầu m i và chủ trương đ mạnh nhiệm vụ d ng Đảng
của Đảng ộ hu ện M Đức (2011 – 2014)
2.1.1 u c u đ y m nh nhiệm vụ xây dựng Đảng huyện Mỹ Đức
Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức từ năm 2011
đến năm 2014 đứng trước những diễn biến tình hình thế giới và trong nước phức
tạptác động, ảnh hưởng trong và ngoài nước đến sự phát triển của huyện.
* Ảnh hưởng từ bên ngoài
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các
quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng
vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình
thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các
nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn
có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình
thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. Khối SE N tuy còn nhiều khó
khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
* Ở trong nước
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã
tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước.
38
Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng
sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách
thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục
thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước
ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.
Những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và
thách thức đan xen tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong những năm tới, trong đó có sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của
huyện Mỹ Đức.
Tháng 07/2010, Đại hội lần thứ XXII của Đảng bộ huyện Mỹ Đức được
tiến hành vào thời điểm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm kết thúc thập
niên đầu của thế kỷ XXI, trong đó có hơn 2 năm do Thành ủy Hà Nội lãnh đạo
Sau 5 năm tính đến 2011, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV,
Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức đã tập trung chỉ đạo tổ chức, triển khai
thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Thành phố
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII trong điều kiện có những
thuận lợi cơ bản và khó khăn, thách thức đan xen.
Từ những thành tựu trong công cuộc đổi mới của đất nước hơn 20 năm
qua hết sức quan trọng, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện luôn tin
39
tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, cơ sở vật chất ngày càng
được tăng cường, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao. Đảng và Nhà
nước có cơ chế chính sách ngày càng hoàn thiện hơn, việc mở rộng địa giới
hành chính Thủ đô, cùng với việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã mở ra những triển vọng lớn để
huyện Mỹ Đức phát triển nhanh, toàn diện và bền vững. Với thế mạnh nguồn
lao động dồi dào, điều kiện tự nhiên phong phú có nhiều lợi thế để khai thác
phát triển nền nông nghiệp từng bước hiện đại và bền vững, phát triển công
nghiệp nguyên liệu, du lịch sinh thái; đặc biệt có khu Di tích thắng cảnh
Hương Sơn hàng năm đón trên 1 triệu lượt khách về thăm quan, trẩy hội.
2.1.2 Ch trương đ y m nh nhiệm vụ xây dựng Đảng
* Xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng
Trong những năm từ 2011 – 2014, nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng
bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức có nhiều những thuận lợi cơ bản tác động tích
cự đến tình hình chính trị - tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
huyện. Đó là tình hình an ninh – chính trị trên địa bàn ổn định, tốc độ tăng
trưởng kinh tế được duy trì, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện cụ thể hóa thành những kế hoạch
phát triển hợp lí, phù hợp. Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu với những diễn
biến phức tạp đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng cũng như đời sống
của đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Cán bộ, đảng
viên có những băn khoăn, lo lắng trước tình trạng giá cả thị trường không
ngừng tăng, đồng lương công chức thì ít ỏi, nhân dân cũng lo lắng trước tình
trạng sản xuất gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng cao,...Chính vì vậy, Đảng bộ
huyện Mỹ Đức tập trung tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu rộng các Nghị
quyết, Chỉ thị, Chính sách của Trung ương, thành phố và huyện đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong huyện như: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII, Nghị quyết 16 của
40
Thành ủy, Kế hoạch 61 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Chỉ thị của
Trung ương về thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”,...
Huyện ủy tiến hành tuyên truyền, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn hàng
năm với các nội dung thiết thực, góp phần tích cực vào công tác giáo dục
truyền thống cách mạng như các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, Đại hội
Đảng các cấp, Đại hội các ban ngành, đoàn thể,...
Huyện ủy tiến hành tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng của thành phố, bám sát yêu cầu thực tiễn của huyện như
sản xuất, cải cách hành chính, giải phóng mặt bằng, chống tệ nạn xã hội,
phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường,...
Các hình thức tuyên truyền cũng được triển khai phong phú, đa dạng
như mittinh, gặp mặt, tọa đàm, sinh hoạt chi bộ, hội nghị, tham quan, văn
nghệ, thể dục thể thao,...
Nhờ vậy, công tác xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng trong những
năm 2010 – 2014 của Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đạt được nhiều thành tựu
nổi bật:
Huyện ủy đã tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Kể từ năm 2007, sau khi Trung ương và thành phố Hà Nội tổ chức phát
động Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
Ban thường vụ huyện ủy đã ban hành các kế hoạch nhằm phát động phong
trào thi đua, hưởng ứng cuộc vận động tới cán bộ, đảng viên và nhân dân
trong toàn huyện. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã nhận thức đúng đắn rằng mục
đích của việc thực hiện cuộc vận động là nhằm xây dựng nền tảng đạo đức và
tinh thần của xã hội, tác động trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng và góp
phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên.
“Trong giai đoạn 2011 – 2014, “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”đã được thực hiện hết sức nghiêm túc, góp phần
41
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trong huyện về vị trí, vai
trò và những giá trị to lớn, bất diệt của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Từ đó, có ý thức tu dưỡng đạo đức, có trách nhiệm trước Đảng, trước
nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên” [34; 10].
Từ việc nâng cao nhận thức, cuộc vận động đã nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đây chính là cơ sở
để đảm bảo cho việc triển khai sâu rộng, có hiệu quả cuộc vận động trong
toàn xã hội, nhất là việc chuyển trọng tâm từ “học tập” sang “làm theo”. Cuộc
vận động cũng được gắn với việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm
trong đời sống nhân dân, trong công tác xây dựng Đảng. Cũng từ cuộc vận
động này, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên ngày càng được phát huy.
Học tập và làm theo tấm gương của Bác Hồ, ở huyện Mỹ Đức ngày càng xuất
hiện nhiều tấm gương, tập thể, cá nhân tiêu biểu trong tất cả các lĩnh vực và
đời sống xã hội. Tiêu biểu như công tác tiếp dân, giải quyết các đơn thư,
khiếu nại ở các ban ngành trong toàn huyện. Tất cả các ban ngành như Hội
nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, ... đều đạt được
các kết quả đáng mừng, khen thưởng, tôn vinh các tấm gương điển hình trong
việc thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Các kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu nhưng cũng chứng tỏ
được rằng “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”đã và đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần to lớn ổn định tình hình chính trị - tư tưởng
của Đảng bộ huyện.
Công tác khoa giáo cũng được huyện ủy Mỹ Đức quan tâm. Tính đến
năm 2014, 22/22 xã đã có cuốn lịch sử cách mạng của xã. Các hoạt động
ngoại khóa trong các nhà trường cũng có sự lồng ghép các nội dung nhằm
giáo dục về lịch sử truyền thống cách mạng huyện, đồng thời, Huyện ủy cũng
chỉ đạo việc tổ chức các cuộc thi nhằm tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát
triển của Đảng bộ, về truyền thống cách mạng của huyện qua các thời kỳ.
42
Như vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai
đoạn 2011 – 2014, công tác chính trị - tư tưởng của huyện ủy đã góp phần đưa
Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo nên những phong trào cách mạng sôi
nổi trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội như các phong trào
“Xóa đói giảm nghèo”, “Xây dựng nông thôn mới”, “Đền ơn đáp nghĩa”,
“Xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”,...Dưới sự lãnh đạo của huyện ủy, các
chi, Đảng bộ, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã động viên,
đoàn kết nhân dân cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật
tự để tập trung thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng bộ huyện đề ra.
Công tác chính trị - tư tưởng đã thực sự thâm nhập vào tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện, tạo nên sự chuyển biến
về nhận thức tư tưởng trong nhân dân. Chính điều đó đã góp phần tích cực tạo
ra những thành tích trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ
Đức trong những năm 2011 – 2014.
Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị - tư
tưởng trong những năm 2011 – 2014 vẫn còn những hạn chế nhất định như
một số chi bộ còn xem nhẹ vai trò, vị trí của công tác tư tưởng – chính trị, còn
có sự thiếu đoàn kết, đồng thuận trong nhận thức và hành động của tổ chức
Đảng và nhân dân.
Chất lượng triển khai học tập và thực hiện các Nghị quyết của Trung
ương, của Thành ủy và Huyện ủy ở một số Đảng bộ cơ sở còn yếu kém, chưa
được coi trọng đúng mức nên kết quả thu được chưa cao. Các Nghị quyết,
Chương trình, Đề án của Huyện ủy chưa thực sự được các cấp, các ngành cụ
thể hóa thành kế hoạch, mục tiêu cụ thể, chính xác để áp dụng đến từng cơ sở.
Nội dung, phương thức công tác chính trị - tư tưởng chưa thực sự sát với yêu
cầu nên hiệu quả thu được còn thấp.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện vẫn còn các hủ tục cũ như ma chay, cưới
hỏi, mê tín dị đoan,... còn đang diễn biến phức tạp, đời sống của nhân dân còn
đang gặp nhiều khó khăn. Những hiện tượng tiêu cực như mất dân chủ, mất
43
đoàn kết, tham nhũng, lãng phí ở một số cơ sở chưa được quan tâm giải quyết
kịp thời,...Vì vậy, một số cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều băn khoăn,
lo lắng, thậm chí là bi quan, dao động, giảm sút lòng tin đối với Đảng.
* Xây dựng Đảng về tổ chức
Xây dựng Đảng về tổ chức, trong những năm 20011 – 2014, Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã tập trung thực hiện các nội dung sau:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.
Huyện ủy Mỹ Đức đã tiến hành rà soát, yêu cầu Đảng ủy các xã báo
cáo đề xuất việc thành lập chi bộ cơ quan của Đảng bộ mình. Tính đến 2014,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức có 56 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó xã, thị trấn có 22
Đảng bộ, 4 Đảng bộ khối cơ quan và 30 chi bộ trực thuộc huyện ủy.
Để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và
khắc phục những cơ sở yếu kém, trong những năm 2011 – 2014, Ban Thường
vụ Huyện ủy đã triển khai thực hiện tốt các Chương trình, Đề án lớn, rà soát,
hoàn thiện mô hình tổ chức và nội dung hoạt động của các loại hình tổ chức
cơ sở Đảng.
Huyện ủy đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của
các chi bộ nông thôn thuộc khối nông nghiệp,đây là loại hình chiếm tỷ lệ cao
nhất trong Đảng bộ huyện Mỹ Đức.
Các chi bộ này đã tổ chức các buổi sinh hoạt chi bộ chất lượng, hiệu
quả với nhiều nội dung như phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các nghị quyết của cấp trên liên quan đến nhiệm vụ chính
trị của đơn vị. Xen kẽ các buổi sinh hoạt nhiều nội dung là những buổi sinh
hoạt chuyên đề như chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, “ Phòng chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội”, “Xây
dựng thôn, làng văn hóa”,... Huyện ủy cũng tiến hành tập huấn, hướng dẫn,
kiểm tra, cho đại diện các chi bộ dự chéo lẫn nhau để học tập kinh nghiệm.
Qua một vài những buổi sinh hoạt chuyên đề như vậy, hiệu quả của việc sinh
hoạt chi bộ được cải thiện rõ nét.
44
Đối với các chi bộ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp như
trường học, bệnh viện,... các buổi sinh hoạt chi bộ cũng được Huyện ủy
khuyến khích nhằm đi sâu vào công tác chuyên môn của cơ quan, thảo luận
các biện pháp phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
và bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức của cán bộ, đảng viên.
Đối với các chi bộ doanh nghiệp, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng
được quy trình sinh hoạt chi bộ sau khi đã khảo sát thực tế. Các buổi sinh hoạt
trong các chi bộ cũng được xác định nội dung rõ ràng, cụ thể, đi sâu vào các
vấn đề như: vai trò của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất,
kinh doanh, tổ chức các hoạt động đoàn thể quần chúng, nâng cao đời sống và
việc làm của người lao động,...
Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, công
tác kiểm tra Đảng cũng được tăng cường, đảm bảo các yêu cầu về nội dung và
quy trình kiểm tra, góp phần duy trì kỷ luật Đảng trước những biến động của
tình hình kinh tế - xã hội. Việc kiểm tra, giám sát được Ban thường vụ huyện
ủy tiến hành trên một số lĩnh vực như: công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính, thực hiện phòng,
chống tham ô, lãng phí, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân,...
qua các đợt kiểm tra, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các
cấp được nâng lên. Thông qua kiểm tra, cấp ủy đảng đã kịp thời chấn chỉnh
những thiếu sót trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, giải quyết một
số việc phức tạp ở cơ sở, đặc biệt là trong công tác quản lí đất đai, giải phóng
mặt bằng.
Về công tác cán bộ
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra những kế hoạch cụ thể về công tác
cán bộ gắn với thực trạng về đội ngũ cán bộ ở địa phương. Công tác đánh giá
cán bộ là việc làm thường xuyên tại Đảng bộ huyện. Các đối tượng cán bộ,
đảng viên đều được đánh giá công khai, dân chủ, để từng bước nâng cao chất
lượng cán bộ, đảng viên, giúp khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong
45
công tác và sinh hoạt.
Công tác quy hoạch cán bộ được quan tâm nhằm tạo ra những bước
chuyển biến mới, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt
và lâu dài. Yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, ý thức tổ chức, kỷ luật tốt, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, có trách
nhiệm và tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Để tiếp tục đổi mới về tổ chức
bộ máy cán bộ, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đưa ra nhiều giải pháp cụ thể
nhằm chuyển biến cả về số lượng và chất lượng của cán bộ, đảng viên. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng và tuyển chọn cán bộ, đảng viên được Đảng bộ huyện
coi trọng bởi đó là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức cơ sở Đảng. Công tác quản lí và bố trí sử dụng cán bộ cũng được
Ban thường vụ thực hiện từng bước có hiệu quả. Thực hiện các Nghị quyết
của Trung ương và Thành ủy về công tác tổ chức cán bộ, công tác thanh tra,
kiểm tra Đảng. Huyện ủy cũng bám sát chủ trương, hướng dẫn của Trung
ương và Thành ủy để xây dựng và thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán
bộ. Huyện ủy đã giải quyết đầy đủ trợ cấp cũng như tổ chức thăm hỏi đối với
cán bộ lão thành cách mạng. Cán bộ đương chức được xem xét nâng lương,
thi nâng ngạch, trợ cấp ốm đau, hoàn cảnh đặc biệt,... kịp thời. Công tác quan
tâm, chăm lo đời sống tinh thần, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng
mắc về chế độ, chính sách là động lực quan trọng để động viên, khuyến khích
đội ngũ cán bộ, đảng viên phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cũng đề ra chủ trương quan tâm, tích
cực chỉ đạo, thực hiện công tác phát triển Đảng. Công tác phát triển Đảng cần
được chú trọng tăng cường về cả số lượng và chất lượng theo xu hướng trẻ
hóa đội ngũ, tăng số lượng cán bộ, đảng viên là nữ, trình độ học vấn cao hơn.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng,
hàng năm Đảng bộ đề ra chủ trương tiến hành đánh giá chất lượng các tổ chức
cơ sở và phân tích chất lượng đảng viên để từ đó tìm ra các biện pháp nhằm
tăng cường, mở rộng việc xây dựng các cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh,
46
thu hẹp diện cơ sở yếu kém, không phát huy được vai trò lãnh đạo. Đảng bộ
huyện đã xác định, xây dựng quy trình sinh hoạt chi bộ, qua đó nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ và nâng cao năng lực lãnh đạo chung của các chi bộ cơ
sở và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Do yêu cầu của giai đoạn mới, cùng với việc thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng, huyện ủy đã chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành có liên quan
để thực hiện tốt cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực
hành tiết kiệm.
Nhận thức được đúng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
huyện ủy đã luôn quan tâm, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ vừa có đức,
vừa có tài nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Đó là đội ngũ cán bộ
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức kỉ luật, luôn giữ gìn đạo đức cách
mạng, gương mẫu, giản dị trong cuộc sống, gắn bó với nhân dân, tâm huyết
với các nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đứng trước những giai đoạn lịch sử nhất định, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức luôn đề ra những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những
tồn tại trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Điều này đã góp phần không nhỏ
vào sự phát triển chung của toàn huyện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng,...
2.2 Đảng ộ hu ện M Đức ch đạo đ mạnh th c hiện nhiệm vụ
d ng Đảng
2.2.1 Xây dựng Đảng v ch nh tr
Được các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
một cách đồng bộ, kịp thời, hiệu quả đã tập trung chỉ đạo triển khai như tuyên
truyền thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước, tuyên truyền các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền các sự kiện chính trị, về biển
47
đảo, về các ngày lễ lớn của dân tộc, đất nước, của địa phương; về “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”... Việc quán triệt học tập luôn gắn
với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết. Huyện
uỷ đã xây dựng chuyên đề “Đổi mới nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2012 học tập chuyên đề: "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành
của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị". Năm 2013 học tập
chuyên đề: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong
cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm, gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp”[14; 02].Năm
2014 học tập chuyên đề:“nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá
nhân, nói đi đôi với làm”.Năm 2015 học tập chuyên đề “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân
dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
Công tác tuyên truyền đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, bằng
nhiều hình thức đa dạng, phong phú như tổ chức hội nghị, giao ban, tuyên
truyền trên hệ thống truyền thanh Panô, ápphích, cổng thông tin điện
tử,...Công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động
Tuyên giáo có nhiều tiến bộ.Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, giảng
viên lý luận chính trị kiêm chức, đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội của
huyện, chất lượng tuyên truyền được nâng lên từng bước đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.Công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ được quan
tâm chỉ đạo thực hiện. óp phần giáo dục truyền thống cách mạng của quê
hương cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác phát hành báo, tạp chí
của Đảng được các cấp các ngành quan tâm, số lượng phát hành được duy trì
ổn định; các tài liệu, tạp chí, Bản thông tin nội bộ, các Văn kiện Đại hội
48
Đảng, các hội nghị Trung ương, tài liệu học tập các chuyên đề về tư tưởng
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,…được kịp thời cung cấp tới cán bộ, đảng
viên phục vụ nhiệm vụ học tập, nghiên cứu.
Công tác tuyên truyền, công tác khoa giáo, công tác văn hóa văn nghệ,
giáo dục lý luận chính trị, nắm bắt dư luận xã hội và định hướng dư luận xã
hội được duy trì thường xuyên; kịp thời xử lý, định hướng dư luận lệch lạc
góp phần giải quyết một số vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở đảm bảo ổn
định tình hình trên địa bàn toàn huyện. Cán bộ, đảng viên và nhân dân tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương, chính sách của nhà nước và sự
chỉ đạo, điều hành, quản lý của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị:
Được các các cấp ủy Đảng triển khai thực hiện nghiêm túc, huyện ủy đã tập
trung chỉ đạo, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 03hàng
năm.Huyện ủy xây dựng kế hoạch triển khai tổ chức học tập nghiêm túc
chuyên đề các năm theo đúng kế hoạch, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội
viên tham dự học tập nghiêm túc và tham gia viết bản đăng ký phấn đấu học
tập rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. “Kết quả 4 năm
triển khai học tập các chuyên đề đã tổ chức được 102 lớp học tập cho trên
28.500 lượt cán bộ, đảng viên và 386 lớp học cho trên 82.000 lượt đoàn viên,
hội viên và nhân dân tham dự học tập” [31; 10]. Việc thực hiện Chỉ thị 03 gắn
với việc thực hiện nghị quyết TW4 (khoá XI) đượccác cấp ủy Đảng thực hiện
nghiêm túc, qua đó đã nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc trong cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên. Đặc biệt về trách nhiệm nêu gương của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp đã được nâng cao. Cán bộ, đảng viêngần dân, lắng
nghe và tăng cường đối thoại với dân, kịp thời giải quyết những bức xúc và
đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân góp phần củng cố sự đoàn kết
thống nhất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân từ huyện
đến cơ sở. Hàng năm Huyện ủy xây dựng kế hoạch chỉ đạo sơ, tổng kết việc
thực hiện Chỉ thị biểu dương, khen thưởng những tập thể điển hình, cá nhân
49
tiên tiến xuất sắc từ cấp cơ sở đến cấp huyện đạt hiệu quả thiết thực.
Công tác kiểm điểm cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết TW4
(Khoá XI) của Đảng được triển khai nghiêm túc, thực sự là đợt sinh hoạt chính
trị trong Đảng và nhân dân:Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 34
- KH/HU ngày 12/6/2012, Hướng dẫn số 09 - HD/HU ngày 12/6/2012 đồng
thời triển khai học tập, quán triệt, hướng dẫn thực hiện; Thành lập bộ phận
thường trực và tổ giúp việc. Công tác chỉ đạo kiểm điểm tự phê bình và phê
bình nghiêm túc, khách quan, dân chủ, trung thực, cầu thị. Việc tổ chức lấy ý
kiến đóng góp đối với tập thể Ban Thường vụ và cá nhân từng đồng chí Ủy
viên Ban Thường vụ Huyện uỷ theo đúng kế hoạch, hướng dẫn của Thành uỷ
Hà Nội; Công tác chuẩn bị báo cáo kiểm điểm và tiến hành kiểm điểm tập thể,
cá nhân Ban Thường vụ Huyện uỷ đảm bảo nghiêm túc, khách quan, dân chủ,
làm rõ những khuyết điểm, tồn tại, phân tích nguyên nhân. Tập thể Ban thường
vụ Huyện uỷ đã đề ra 9 giải pháp nhằm khắc phục hạn chế yếu kém. Mỗi cá
nhân sau kiểm điểm đều thể hiện cầu thị, tiếp thu nghiêm túc và có biện pháp
khắc phục tồn tại, hạn chế trong thời gian sớm nhất.
Đảng bộ 22 xã, thị trấn, 04 đảng bộ các cơ quan, 30 chi bộ trực thuộc
đã chủ động xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt tới toàn thể cán bộ đảng
viên và hướng dẫn các chi bộ trực thuộc đảng bộ tổ chức thực hiện.
Việc chỉ đạo hướng dẫn, theo dõi, dự kiểm điểm ở các Đảng ủy, chi bộ
trực thuộc Huyện ủy và các cơ quan đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, tập
trung, khoa học; Ban Thường vụ Huyện ủy đã gợi ý kiểm điểm sâu đối với 15
Đảng bộ, 04 tập thể lãnh đạo cơ quan về lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai,
công tác quy hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng, bố trí xắp xếp cán bộ; công tác cải
cách hành chính, công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm trên các lĩnh vực trật tự công cộng, an
toàn giao thông, cờ bạc, ma túy,…Các đơn vị đã thực hiện kiểm điểm nghiêm
túc, đạt yêu cầu theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy. Sau các hội nghị
kiểm điểm tự phê bình và phê bình Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung
50
lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục ngay những hạn chế, tồn tại, khuyết điểm, khó
khăn, vướng mắc. Hàng năm đều tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả khắc
phục thiếu sót, khuyết điểm. Việc thực hiện Nghị quyết TW4 (khoá XI) đã
chuyển biến mạnh trong công tác xây dựng Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.
2.2.2 Xây dựng Đảng v tư tư ng
Công tác tư tưởng là hoạt động truyền bá, bổ sung và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn đến mỗi
công dân. Công tác tư tưởng góp phần tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng,
sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy tính chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Bước vào thời kỳ mới, sự nghiệp cách mạng
đời hỏi những yêu cầu, thách thức ngày càng cao, công tác tư tưởng của Đảng
ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Lúc này, công tác
tư tưởng phải có sự thích ứng, phù hợp với mục tiêu của cách mạng, tạo nên
sự thống nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần
giữ vững, ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Xuyên suốt quá trình lãnh đạo kể từ năm 2008 đến 2014, Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nắm vững và chủ động làm tốt
công tác tư tưởng trong toàn Đảng bộ và nhân dân, tích cực đấu tranh với
những tư tưởng sai trái và mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Công tác tư tưởng đã tập trung về cơ sở và huy động được sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng, phát huy các hình thức tuyên truyền để kịp thời truyền tài
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán
51
bộ, đảng viên và nhân dân. Đảng bộ còn nhận thức rõ động lực quan trọng
góp phần giữ vững, ổn định chính trị, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa chính là tăng cường đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác
tư tưởng. Đảng bộ đã chỉ đạo các ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Ban
Tuyên giáo huyện uỷ thực hiện tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước với nhiều hình thức khác nhau, không ngừng đổi mới
về phương pháp, cách thức tuyên truyền, biện pháp giáo dục tư tưởng, chính
trị cho cán bộ, đảng viên. Định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân trước các vấn đề mới, bức xúc, nhạy cảm, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng và những biểu hiện thoái hoá, biến chất.
Tiếp tục thực hiện, nâng cao chất lượng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, thực hiện nghiêm túc việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng, xây
dựng và ban hành về văn hoá Đảng, văn hoá trong cơ quan. Đảng bộ chú
trọng nâng cao chất lượng dạy và học của Trung tâm Bồi dưỡng lí luận chính
trị huyện, chuyên môn nghiệp vụ, công tác xây dựng Đảng, chính quyền cho
các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là đoàn viên, thanh thiếu niên. “Trong nhiệm
kỳ khóa XXII, đã mở 267 lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lí luận chính trị vói
36.728 lượt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên về tham dự. Trong đó, có
18 lớp bồi dưỡng về lí luận chính trị cho 1.113 đảng viên mới và 31 lớp bồi
dưỡng cảm tình Đảng cho 1.980 đoàn viên, quần chúng ưu tú, 8 lớp sơ cấp lí
luận chính trị cho 507 học viên, 2 lớp trung cấp lí luận chính trị cho 203 học
viên” [31; 05].
Công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách mạng, truyền thống tốt
đẹp của quê hương, đất nước được Đảng bộ đẩy mạnh trong quần chúng nhân
dân thông qua việc tổ chức thành công các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm lịch sử
hướng về cội nguồn cách mạng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về
Bác Hồ, cổ vũ, nêu gương người tốt, việc tốt trong lao động, sản xuất, học
tập, chiến đấu. Đặc biệt, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã thực hiện thắng lợi
“Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Bộ
52
Chính trị phát động. Cuộc vận động đã có ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo nên sự
chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động cho toàn thể nhân dân, đặc
biệt là cán bộ, đảng viên trong toàn huyện. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện còn
chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức
các lớp bồi dưỡng chuyên đề như: Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng
Đại biểu Hội đồng nhân dân, bồi dưỡng công tác tuyên giáo cơ sở, kiến thức
về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng. Thông qua những đợt học tập và
sinh hoạt đó, đại đa số cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất, đạo đức cách
mạng, có ý thức tổ chức, kỷ luật, có lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với
nhân dân. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí và điều
hành của chính quyền các cấp, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc tuyên truyền cuộc vận
động đã góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên khắc
phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, quan liêu tham
nhũng, xa rời quần chúng. Điều này có tác dụng tăng cường ý chí và đẩy
mạnh hành động từ cơ sở đến toàn Đảng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục, tư tưởng của Đảng ta, mỗi
Đảng bộ địa phương được xác định rõ là tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục tư tưởng phải nâng cao tính chiến
đấu, tính thuyết phục, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vững vàng,
không dao động trước các trào lưu, khuynh hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa
không lành mạnh từ bên ngoài vào nước ta. Đảng bộ huyện Mỹ Đức coi trọng
giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên khắc phục những biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, quan liêu tham nhũng, xa rời quần
chúng. Điều này có tác dụng tăng cường ý chí và đẩy mạnh hành động từ cơ
sở đến toàn Đảng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa
phương.
53
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất linh hoạt và sáng tạo trong việc thực
hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tư tưởng. Thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng thông qua những chủ trương cụ thể và lãnh đạo công tác
thực hiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương. Những kết quả đạt được
trên mặt trận tư tưởng từ năm 2008 đến năm 2014 đã góp phần to lớn vào quá
trình thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở huyện Mỹ Đức.
2.2.3 Xây dựng Đảng v t chức
Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam – là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, khoa
học. Tính tổ chức của Đảng được thực hiện trước tiên, Đảng là một hệ thống
các cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cao nhất, thể hiện sự thống nhất trong tổ
chức Đảng. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, có các tổ chức cơ sở - Chi bộ
cơ sở và Đảng bộ cơ sở - lập thành nền tảng của Đảng. Trong hệ thống tổ
chức đó, mỗi cấp có vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Cấp cơ sở là nền
tảng của Đảng, của cả hệ thống chính trị: nơi trực tiếp triển khai và tổ chức
thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, biến các đường lối và nghị quyết
đó thành hiện thực.
Tăng cường xây dựng, củng cố, kiện toàn nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức đảng.Thực hiện Chương trình 01,
05 của Thành ủy, Huyện ủy đã ban hành 13 Đề án, chuyên đề trên nhiều lĩnh
vực công tác và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức Đảng, chất lượng hoạt động của Chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được nâng lên. Thực hiện Nghị quyết
09, Đề án 06 của Thành uỷ chỉ đạo thành lập được 07 tổ chức đảng và đoàn
thể trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước, kiện toàn, sắp xếp đồng
bộ 122 mô hình chi bộ, Ban công tác Mặt trận, chi hội đoàn thể thôn, tổ dân
54
phố. Sau khi củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt động, năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng, đoàn thể từng bước được nâng cao. Trong giai
đoạn 2008 – 2014 nói chung và 2011 – 2014 nói riêng, công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên đảm bảo về chất lượng và số lượng luôn được Đảng bộ huyện
Mỹ Đức chú trọng. Số lượng đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ của
Đảng bộ tăng dần về số lượng và tiêu chí đánh giá.
Thường xuyên củng cố tổ chức Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của cấp ủy đảng và hệ thống chính trị ở các tổ chức Đảng có biểu hiện
yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, nhiệm vụ chính trị đạt thấp. “Hàng năm đánh giá
phân loại chất lượng tổ chức cơ sở trong sạch vững mạnh đều đạt từ 70-75%,
đảng viên hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ đều đạt trên 85%” [31; 08].
Công tác phát triển đảng viên được quan tâm bồi dưỡng quần chúng ưu tú,
tạo nguồn để kết nạp đảng. Trong nhiệm kỳ XXII, đã mở 30 lớp bồi dưỡng kết
nạp đảng cho 2.064 quần chúng ưu tú, kết nạp được 1.141 đảng viên mới, đạt chỉ
tiêu, kế hoạch đại hội đề ra; công tác quản lý hồ sơ, quản lý cơ sở dữ liệu đảng
viên, chuyển sinh hoạt đảng, xét tặng huy hiệu đảng, cấp phát thẻ đảng viên
được đổi mới, khoa học, đảm bảo đúng quy trình, nguyên tắc, điều lệ đảng.Bên
cạnh việc chú trọng đến công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên, trong thời kỳ 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ
Đức đã rất chú trọng đến công tác phát triển đảng viên và có những chuyển
biến tích cực.
“Năm 2012 kết nạp được 285 đảng viên mới, tăng 12,6% so cùng kỳ.
Tổng số đảng viên tính đến ngày 31/12/2012 là 6.971 đảng viên, trong đó
chính thức là 6.646 đảng viên, dự bị 325 Đảng viên. Xóa tên 08 Đảng viên,
cho rút 04 đảng viên. Đề nghị tặng huy hiệu đảng cho 686 đồng chí, từ 30
năm tuổi đảng đến 65 năm tuổi Đảng” [32; 06]. Số đảng viên mới là những
quần chúng ưu tú, có trình độ, tuổi trẻ và năng động, điều này đảm bảo cho
công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức đảm bảo được tính kế
thừa và phát triển của mình.
55
Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ theo tinh
thần Nghị quyết TW 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay".Công tác đánh giá, nhận xét cán bộ đảm bảo dân chủ, khách quan,
nội dung đánh giá cụ thể, sát với nhiệm vụ cán bộ được giaolà điều kiện, cơ
sở, để bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, hiệu quả. Hàng năm chỉ đạo rà soát, bổ
sung, quy hoạch cán bộ lãnh đạo từ huyện đến cơ sở đảm bảo số lượng, chất
lượng theo quy định; được Thành ủy phê duyệt quy hoạch cho 92 đồng chí
trong Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, 21 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ
Huyện ủy và các chức danh cán bộ chủ chốt huyện, mỗi chức danh có từ 2 - 3
cán bộ dự nguồn. Ban Thường vụ Huyện ủy đã phê duyệt quy hoạch cho cán
bộ chủ chốt của huyện, xã, thị trấn. Kết quả phân loại cán bộ hàng năm các
đồng chí cán bộ chủ chốt của huyện: Ban Thường vụ Huyện ủy, các đồng chí
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân: 100% hoàn thành xuất
sắc chức trách nhiệm vụ; cán bộ là trưởng, phó các phòng ban, Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể huyện: đạt từ 85 - 96% hoàn thành xuất sắc chức trách
nhiệm vụ; cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn: đạt từ 75 - 90% hoàn thành xuất
sắc chức trách nhiệm vụ[31; 10].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt quan tâm, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong nguồn quy hoạch để nâng cao năng lực công tác, chuẩn hoá
tiêu chuẩn các chức danh cán bộ, chất lượng cán bộ được nâng lên rõ rệt.
“Triển khai nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2012, trong năm đã mở
được 73 lớp cho 9.328 học viên. Mở lớp đại học luật, lớp trung cấp lý luận
chính trị. Thực hiện công tác tuyển dụng và thi tuyển cán bộ khối đảng, đoàn
thể” [32; 05].Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện có trình độ chuyên môn trên
đại học đạt 10,8%, cao cấp, cử nhân lý luận chính trị 24,5%. Cán bộ chủ chốt
xã, thị trấn (06 chức danh)trình độ Đại học được nâng lên (năm 2008 là 21%
đến hết năm 2015 đạt trên 80%, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên
đạt 100%).
Công tác bố trí, sắp xếp, luân chuyển, điều động cán bộ được thực hiện
56
nghiêm túc đúng quy trình, nguyên tắc, đảm bảo chặt chẽ, công khai, dân chủ,
phù hợp với phẩm chất, chuyên môn, năng lực cán bộ với nhiệm vụ, công
việc được giao. Trong nhiệm kỳ đã kiện toàn, bổ nhiệm, điều động, luân
chuyển mới lãnh đạo phòng, ban của huyện 37 đồng chí, bổ nhiệm lại 25 đồng
chí, hiệp y với các cơ quan ngành dọc Thành phố bổ nhiệm 28 đồng chí. Kiện
toàn các chức danh Bí thư Huyện ủy, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; kiện toàn 03
Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, 04 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy và lãnh đạo
các cơ quan phòng, ban, các xã, thị trấn. Luân chuyển 05 đồng chí cán bộ lãnh
đạo chủ chốt xã, trường học về công tác tại huyện; 04 đồng chí Huyện ủy viên
về làm Bí thư Đảng ủy xã; 01 đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc huyện về làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; luân chuyển cán bộ, công
chức khối chính quyền sang công tác tại khối Đảng, đoàn thể. Cán bộ được bổ
nhiệm, luân chuyển, điều động đã phát huy được năng lực sở trường, đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ.
Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện tốt.Thực hiện các quy trình
nhân sự để kiện toàn chức danh Bí thư, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại một số chức danh lãnh đạo các cơ quan thuộc khối Uỷ ban nhân dân
huyện, kiện toàn Bí thư Huyện đoàn, lãnh đạo một số trường Trung học cơ sở,
Tiểu học trong huyện và thoả thuận bổ nhiệm một số chức danh lãnh đạo các
cơ quan Trung ương và Thành phố đóng trên địa bàn huyện. Thực hiện luân
chuyển 01 đồng chí cấp uỷ huyện về xã. Chỉ đạo thành công đại hội các đoàn
thể. Rà soát, bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện uỷ,
các chức danh chủ chốt của huyện nhiệm kỳ 2010 – 2015. Tổ chức hội nghị lấy
phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo, các phòng, ban, cơ quan, các xã, thị trấn.
Công tác đánh giá cán bộ: Đánh giá kết quả kiểm điểm tự phê bình và
phê bình theo nghị quyết TW4 khóa XI đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc
57
diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Chỉ đạo, hướng dẫn các Đảng bộ, chi
bộ, trực thuộc triển khai thực hiện công tác đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý
năm 2012.
Chỉ đạo đánh giá phân loại 56 tổ chức cơ sở Đảng. Kết quả phân loại
Tổ chức cơ sở Đảng như sau:
“Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh: 40/56 = 71,4%, trong đó:
xã, thị trấn: 16, cơ quan: 24 (Trong đó có 11 tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh tiêu biểu).
Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ: 11/56 = 19,6%, trong đó:
xã 05, cơ quan 06.
Tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành nhiệm vụ: 5/56 = 8,9%, trong đó: xã
01, cơ quan 04.
Không có tổ chức Đảng yếu kém” [34; 07].
Thực hiện tốt chính sách cán bộ như chế độ nghỉ dưỡng, hưu trí, tiền
lương, phụ cấp đảm bảo kịp thời, đúng chế độ. Đề nghị công nhận người hoạt
động trước Cách mạng Tháng Tám 1945 cho 03 đồng chí.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được coi trọng, đã chủ động thẩm định
hồ sơ và tiêu chuẩn chính trị cán bộ được quy hoạch các chức danh lãnh đạo
quản lý ở các phòng, ban, các xã, thị trấn đối với 410 đồng chí; xác minh
thẩm định 620 hồ sơ quần chúng ưu tú xin vào đảng,… Chỉ đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ, nắm bắt tình hình chính trị nội bộ ở các xã, thị trấn, cơ quan, cán bộ
đảng viên; thực hiện tốt việc thẩm định, kết luận chính xác, kịp thời tiêu
chuẩn chính trị đối với công tác cán bộ và công tác kết nạp đảng viên. Thực
hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ. Tăng
cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật: Ngay từ đầu nhiệm kỳ
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã rà soát, xây dựng, ban hành Quy chế làm
việc, phân công nhiệm vụ các đồng chí trong Ban Thường vụ, cấp ủy viên phụ
trách công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo
58
trong Đảng; hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết đơn thư tố
cáo, khiếu nại trong Đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng đối với các tổ chức Đảng và đảng viên.
Đảng bộ huyện đã ban hành 03 Quy chế, 03 Quy định: Quy chế làm
việc của Uỷ ban kiểm tra Huyện ủy, Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban kiểm tra
huyện ủy với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện trong lĩnh vực phòng chống
tham nhũng trên địa bàn huyện, quy chế tiếp đảng viên và công dân của Uỷ
ban kiểm tra Huyện ủy; Quy định về giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán
bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện ủy quản lý, Quy định về giám sát đảng
viên là cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện ủy quản lý, Quy định trách
nhiệm của các Ban xây dựng Đảng tham gia giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng
thuộc thẩm quyền của Ban chấp hành, Ban thường vụ Huyện ủy. Cấp ủy và
Uỷ ban kiểm tra Huyện ủy đã chủ động kiểm tra, giám sát được 83 lượt tổ
chức đảng; trong đó kiểm tra được 70 lượt tổ chức đảng (kiểm tra dấu hiệu vi
phạm 04 tổ chức Đảng và 06 cá nhân), giám sát chuyên đề đối với 23 lượt tổ
chức Đảng, 19 cá nhân thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Qua
kiểm tra giám sát đã kịp thời nhắc nhở, uốn nắn những tập thể và cá nhân
trong quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kịp thời ngăn chặn
những sai phạm nảy sinh, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, củng cố nguyên tắc
tập trung dân chủ, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và vai trò tiền phong gương
mẫu của đảng viên, góp phần đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác trên địa bàn huyện. Xem xét xử lý thi hành kỷ luật
đảng đối với 02 tổ chức đảng, 171 đảng viên (trong đó khiển trách: 100, cảnh
cáo 46, cách chức 05, khai trừ 20)vi phạm chủ yếu liên quan đến quản lý và
sử dụng đất đai, tài chính, vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình,
đạo đức lối sống,...
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng
59
viên được kịp thời, trong nhiệm kỳ đã nhận 27 đơn; (trong đó có 01 đơn tố
cáo tổ chức đảng và 24 đơn tố cáo đảng viên; 02 đơn khiếu nại kỷ luật đảng)
giải quyết xong 26/27 đơn, 01 đơn đang giải quyết. Điều này đã góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng cũng như chứng minh năng lực
lãnh đạo nhạy bén, xử lí nghiêm và kịp thời các hành vi vi phạm của cán bộ,
đảng viên, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên trong huyện.
Ti u t chương 2
Trong năm năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ 2011 đến 2014,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra các yêu cầu cụ thể và trực tiếp chỉ đạo cho
các Ban xây dựng Đảng, Đảng bộ các cơ quan, xã, thị trấn, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở đã đề ra những chương trình
hành động phương pháp phù hợp triển khai ở ngành mình gắn với việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo một phong trào thi
đua yêu nước hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra theo từng năm. Xác định
được yêu cầu phải đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng Đảng gắn với các nhiệm
vụ chính trị ở địa phương, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra các chủ trương,
biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng, căn cứ vào điều kiện thực tiễn, phù
hợp với thực tiễn. Điều này đã góp phần đem lại những hiệu quả tích cực và
toàn diện.
Thông qua việc thực hiện Nghị quyết, chúng ta thấy có sự chuyển biến
rõ rệt về nhận thức đối với công tác kiểm tra, giám sát; sự lãnh đạo, chỉ đạo
thống nhất, sâu sát, thường xuyên hơn. Hàng năm đã xây dựng được chương
trình kiểm tra, giám sát bám sát chương trình của Trung ương và tình hình địa
phương. Việc xem xét, kết luận sau kiểm tra, giám sát thể hiện đúng điều lệ,
nghiêm minh; xử lý khách quan, đảm bảo dân chủ và đúng pháp luật. Các cấp
ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng giáo dục chính trị tư
tưởng gắn với công tác tổ chức, đào tạo cán bộ,…
Trong thời gian tới, các cơ quan của Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn tiếp
tục rà soát bổ sung quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các cấp ủy Đảng;
60
các quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng ở
đơn vị, địa phương. Xác định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để chỉ
đạo kiểm tra, giám sát. Tiếp tục kiện toàn đủ số lượng, chất lượng cán bộ và
cơ quan các cấp; tham mưu, đề xuất bổ sung biên chế cho cơ sở nhằm đáp
ứng yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng trong giai đoạn mới
theo từng khu vực khác nhau.
61
Chương 3
NHẬN X T VÀ KINH NGHI M
3.1. Nhận t
3.1.1. ch trương và sự chỉ đ o
Nhìn lại chặng đường 7 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đã và đang đạt được những kết quả to lớn và có ý nghĩa trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,... Đạt được những thành tựu đó là nhờ vào
những chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng bộ thành phố Hà Nội và Đảng bộ huyện Mỹ Đức, sự thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả của các chi bộ đảng cơ sở, các cán bộ, đảng viên và sự phấn đấu
của nhân dân trong huyện.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức đã thực sự coi trọng và đề ra chủ trương xây dựng Đảng, đẩy mạnh
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng bộ hết sức coi trọng công tác
giáo dục lí luận chính trị, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước cho
cán bộ đảng viên. Những nghị quyết, chủ trương lớn về xây dựng Đảng từ cấp
trên đã trở thành cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp ủy và tổ chức đảng
trong huyện nghiên cứu, quán triệt và đề ra những chủ trương, giải pháp đúng
đắn để xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Những chủ trương đó đã
được quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ điều kiện
cụ thể, từ nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân huyện
Mỹ Đức, tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, Đảng bộ và nhân dân
huyện Mỹ Đức đã giành được những kết quả quan trọng về mọi mặt. Nhân tố
quyết định để có được những thành quả trên khẳng định là do sự lãnh đạo tập
trung sáng suốt, có hiệu quả của Đảng bộ huyện Mỹ Đức dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
62
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng là vấn đề hết sức
quan trọng đối với một Đảng cầm quyền. Công tác tư tưởng, lí luận thường
xuyên được chú trọng thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Trong đó, tập
trung vào quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm đường lối đổi mới của Đảng. Trong giai đoạn 2008 – 2014, đất
nước đang đứng trước những cơ hội mới do những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực mang lại, đồng thời
đứng trước những yêu cầu, thách thức mới trong hoàn cảnh mới. Vì vậy, mục
tiêu nhiệm vụ của công tác giáo dục, tư tưởng nặng nề hơn trước hết ở chỗ
công tác này phải thích ứng và phục vụ có hiệu quả nhất những mục tiêu lớn
của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.
Thực hiện Chỉ thị số 15 – CT/TW, Kế hoạch số 08 – KH/TW của Bộ
Chính trị, Hướng dẫn số 11 của Trung ương, Kế hoạch số 52, Hướng dẫn số
04 ngày 23/4/2012 của Thành ủy Hà Nội và các văn bản chỉ đạo của Trung
ương và của Thành ủy Hà Nội,Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch
số 34 – KH/HU ngày 12/6/2012 về kế hoạch học tập, quán triệt và tổ chức
thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI). Hướng dẫn số 09 – HD/HU
ngày 12/6/2012 về hướng dẫn tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo
nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI); thành lập bộ phận thường trực chỉ đạo thực hiện nghị quyết TW4
và tổ giúp việc bộ phận thường trực; thành lập các tổ công tác đi dự kiểm
điểm đối với Ban Thường vụ Đảng uỷ các cơ quan, các xã, thị trấn, chi bộ
trực thuộc.
Trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất chú
trọng tới việc xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng. Đảng bộ huyện Mỹ
Đức khẳng định phải thực sự coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, đảm bảo
thống nhất về tư tưởng và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, coi
việc tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng trước yêu
63
cầu mới là động lực quan trọng để góp phần giữ vững, ổn định chính trị, đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các
ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Ban Tuyên giáo huyện ủy thực hiện công
tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Đảng bộ đã tiến hành nhiều lớp
bồi dưỡng chính trị nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân về chủ trương, đường lối của Đảng.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng báo cáo góp ý kiểm điểm đối
với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, các Ban Đảng, Văn phòng Thành ủy,
Đảng ủy công an Thành phố, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Thành phố Hà
Nội, Đài phát thanh truyền hình Hà Nội và một số sở, ngành Thành phố. Ban
Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Công văn số 346 – CV/HU ngày 14/8/2012
về xin ý kiến đóng góp đối với tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy và cá nhân
các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đến 88 đơn vị trực thuộc
Huyện ủy (các tổ chức cơ sở đảng, các Ban Xây dựng Đảng và Văn phòng
Huyện ủy, các phòng, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể huyện).
Đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí Ủy viên ban Chấp
hành Đảng bộ huyện qua các thời kỳ nghỉ hưu trên địa bàn vào ngày
10/9/2012.
Việc chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, dự kiểm điểm ở các Đảng ủy, chi
bộ trực thuộc Huyện ủy và các cơ quan đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, tập
trung, khoa học; Ban Thường vụ Huyện ủy đã gợi ý kiểm điểm sâu đối với 15
Đảng bộ, 04 tập thể lãnh đạo cơ quan. Nội dung gợi ý kiểm điểm sâu về các
lĩnh vực công tác như: Công tác quản lý nhà nước về đất đai, công tác quy
hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ; công tác cải cách hành
chính, công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa,
đấu tranh với các vi phạm trên các lĩnh vực trật tự công cộng, an toàn giao
thông, cờ bạc, ma túy,… Công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách
mạng, truyền thống cách mạng của quê hương, đất nước được đẩy mạnh trong
64
quần chúng nhân dân. Thông qua việc tổ chức thành công các ngày lễ lớn,
ngày kỷ niệm đất nước, ... củng cố niềm tin trong quần chúng nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng.
*Về chính trị - tư tưởng
Đảng bộ đã triển khai học tập, sinh hoạt chính trị một cách nghiêm túc
và đầy đủ tới các Đảng bộ cơ sở.
Đảng bộ huyện luôn quán triệt Điều lệ Đảng để đảng viên rèn luyện,
học tập, nâng cao kiến thức, giữ gìn phẩm chất, nêu cao tính tiên phong
gương mẫu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
những đảng viên không còn đủ tư cách, giảm sút ý chí chiến đấu, không còn
tác dụng lãnh đạo quần chúng. Phát huy dân chủ trong Đảng, cấp ủy luôn lắng
nghe ý kiến của đảng viên, quần chúng, không thành kiến, trù dập người đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Điều
lệ Đảng, quy chế làm việc, đảm bảo kỷ cương trong Đảng, tôn trọng pháp luật
của Nhà nước.
Đảng bộ huyện coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thường
xuyên bồi dưỡng cán bộ, đảng viên nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng, vận dụng sáng tạo vào địa phương, đơn vị. Ngoài ra, Đảng bộ huyện
còn thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng
của tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đưa những người
không thiết tha với Đảng, những người không còn đủ tư cách đảng viên ra
khỏi Đảng.
Đại hội lần thứ XXII đánh giá: “Trong giáo dục chính trị, tư tưởng đã
quán triệt kịp thời các Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Nghị quyết của
Đảng bộ huyện lần thứ XXI, triển khai học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức
hội thi báo cáo viên tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng
viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [31; 05].
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03 – CT/TW
của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 18 – KH/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy
65
Mỹ Đức “Về tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Trong thực hiện gắn việc tổ chức học tập, làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”, Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ
phát triển Thủ đô giai đoạn 2011 – 2020 và9 Chương trình công tác lớn của
Thành ủy Hà Nội (khóa XV); Các chương trình, đề án của Huyện uỷ, đặc biệt
là Chương trình 01 – CTr/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Chương
trình 05 – CTr/HU của Ban Thường vụ huyện ủy Mỹ Đức về “Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng gắn với đẩy mạnh
thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết
hợp với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, địa phương,
cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ XI của Đảng, Đại hội XV của Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết Đại
hội XXII của Đảng bộ huyện Mỹ Đức.
Ban Tuyên giáo Huyện ủy – cơ quan Thường trực bộ phận giúp việc trực
tiếp đôn đốc việc tổ chức thực hiện Hướng dẫn số 05 – HD/BTGHU ngày
19/11/2011 về sinh hoạt chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người
công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng
giản dị” trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và
tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong năm 2012.
Các Ban xây dựng Đảng, Đảng bộ các cơ quan, xã, thị trấn, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở đã đề ra những chương
trình hành động phương pháp phù hợp triển khai ở ngành mình gắn với việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo một phong trào
thi đua yêu nước hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra trong năm 2012.
Có thể khẳng định rằng năm 2012 việc học tập và làm theo tấm gương
66
đạo đức Hồ Chí Minh được các cơ quan, đơn vị và từng cán bộ, đảng viên và
nhân dân tiếp tục phát huy và đã đạt được những kết quả thiết thực.
Tăng cường sâu sát cơ sở, đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể
chính trị, tích cực đôn đốc, kiểm tra giám sát. Xây dựng kế hoạch, quy chế,
phân công nhiệm vụ thực hiện chương trình số 01, 05 của Thành uỷ, Huyện
ủy; Tổ chức 04 đoàn công tác do các đồng chí Thường trực Huyện uỷ làm
trưởng đoàn để kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghị quyết Trung
ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và việc đổi mới phương thức
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, quản lý điều hành của các cấp chính quyền tại 8
Đảng bộ xã. Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đảng và các Đoàn thể nhân dân
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn huyện.
Tổ chức tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2011, triển khai nhiệm
vụ công tác xây dựng Đảng năm 2012, tổng kết việc thực hiện Quy định 123 –
QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị (khoá IX) “Quy định một số điểm
về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh
hoạt tôn giáo”.
* Về tổ chức
Nhận thức rõ vai trò của tổ chức cơ sở Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
luôn coi trọng việc củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng ở địa phương
trong thời kỳ 2008 – 2014. Trong giai đoạn này, công tác xây dựng đội ngũ
đảng viên trong sạch, vững mạnh, đảm bảo đủ về chất lượng và về số lượng
luôn được Đảng bộ huyện Mỹ Đức chú trọng. Công tác phát triển đội ngũ
đảng viên được Đảng bộ quan tâm, tăng nhanh về số lượng cũng như chất
lượng. Song song với công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên, Đảng bộ huyện Mỹ Đức còn chú trọng đến công tác
phát triển Đảng và có những chuyển biến tích cực về cả số lượng và chất
lượng.
67
Về cơ bản, Đảng bộ đã khắc phục được tình trạng nhiều chi bộ không
kết nạp được đảng viên mới. Số đảng viên mới là quần chúng ưu tú, có trình
độ nhất định, tuổi trẻ và năng động, số lượng đảng viên mới là nữ tăng. u
điểm này đảm bảo cho công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
mang tính kế thừa và phát triển.
Ngoài việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo “vừa hồng vừa
chuyên”. Hàng năm, Đảng bộ huyện tổ chức nhiều lớp học ở các lĩnh vực để
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ. Việc phân công công tác, bổ nhiệm,
điều động, luân chuyển cán bộ được đảm bảo đúng quy định, dân chủ. Đảng
bộ đã xây dựng công tác quy hoạch cán bộ cho từng giai đoạn để có đội ngũ
cán bộ kế cận. Đa số cán bộ được luân chuyển có bước trưởng thành, tiếp cận
nhanh với điều kiện và môi trường công tác mới, nâng cao được năng lực điều
hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Đảng đã ban hành nhiều chính sách đãi ngộ
nhằm thu hút lực lượng cán bộ trẻ, có trình độ về địa phương làm việc, đồng
thời phân công nhiệm vụ cho cán bộ đảng viên, đảm bảo đúng năng lực, phù
hợp với chuyên môn, phát huy cao nhất khả năng của từng cá nhân.
Để công tác xây dựng Đảng được đảm bảo phát huy tốt nhất, Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã rất chú trọng việc tăng cường kiểm tra, giám sát ngay trong
nội bộ Đảng cũng như sự giám sát của quần chúng nhân dân tới toàn bộ đội
ngũ cán bộ đảng viên. Nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện các Nghị
quyết, Chỉ thị của Trung ương, Thành uỷ, Huyện ủy đến Đảng bộ ở các tổ chức
cơ sở Đảng. Công tác kiểm tra của cấp uỷ và hoạt động của uỷ ban kiểm tra đã
phát huy ưu điểm, nhân tố tích cực, góp phần thúc đẩy quá trình tổ chức thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng và công tác xây dựng
Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức. Bên cạnh đó, những đảng viên có dấu hiệu
vi phạm cũng được Đảng bộ huyện nghiêm khắc kiểm tra, xử lý. Trong giai
đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã kiểm tra và xử lý một số trường
hợp đảng viên vi phạm tư cách với nhiều hình thức kỉ luật khác nhau, góp phần
68
làm trong sạch đội ngũ đảng viên, ngăn chặn được sự chia rẽ, mất đoàn kết,
đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc. Thực
hiện tốt việc chuyển giao, sắp xếp lại, thành lập mới một số tổ chức cơ sở đảng
để phù hợp với tình hình, nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
Như vậy, việc đề ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức được Đảng bộ huyện Mỹ Đức
thực hiện một cách nghiêm túc, sáng tạo. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn,
Đảng bộ đã đưa ra những chủ trương cụ thể, bám sát những chủ trương của
Trung ương, của Thành ủy Hà Nội phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng
được những nhu cầu cấp bách của địa phương. Việc củng cố, nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.
3.1.2 kết quả và h n chế
* kết quả
Một là, trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã
thành công trong việc triển khai thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung
ương, của Thành ủy ở địa phương và đạt được những thành tựu quan trọng.
Công tác xây dựng Đảng luôn được các cấp ủy quan tâm từ huyện đến cơ sở.
Từ 2008 đến 2014, công tác xây dựng Đảng đã có những chuyển biến rõ nét,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy và các tổ chức
cơ sở đảng là nhân tố quyết định đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối đổi
mới của Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã nhận được 84/88 văn bản đóng góp ý kiến
của các tập thể (trong đó 22 văn bản đóng góp của đảng bộ xã, thị trấn và 62
văn bản đóng góp của các chi, đảng bộ cơ quan, các phòng, ban ngành đoàn
thể của huyện) và 20 ý kiến (trong đó có 03 ý kiến tại hội nghị và 17 ý kiến
bằng văn bản) của các đồng chí nguyên là Ủy viên ban chấp hành Đảng bộ
huyện qua các thời kỳ đã nghỉ hưu đóng góp ý kiến cho tập thể Ban Thường
69
vụ và cá nhân các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy. Sau khi tiếp
thu các ý kiến đóng góp của các tập thể và cá nhân; Ban Thường vụ Huyện ủy
đã 02 lần gửi văn bản và tổ chức 02 Hội nghị họp Ban Thường vụ Huyện ủy
để tham gia đóng góp và thảo luận về các nội dung kiểm điểm tự phê bình và
phê bình đối với tập thể và cá nhân các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ
Huyện ủy theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (2011). Ban
Thường vụ Huyện ủy đã tổng hợp toàn bộ các ý kiến góp ý của tổ chức và cá
nhân đối với tập thể và cá nhân Ban Thường vụ Huyện ủy trung thực, khách
quan. Các ý kiến đóng góp cho tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy và cá nhân
các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đánh giá nghiêm túc, trách
nhiệm, có tính chiến đấu cao. Việc tham gia đóng góp ý kiến với Ban Thường
vụ Huyện ủy, lấy ý kiến rộng rãi, dân chủ theo chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội.
Các đơn vị đã thực hiện kiểm điểm nghiêm túc, đạt yêu cầu theo chỉ
đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, không có Đảng bộ, chi bộ hoặc đơn vị nào
phải tổ chức kiểm điểm lại. Song song với chỉ đạo kiểm điểm theo tinh thần
nghị quyết TW4, Huyện ủy chỉ đạo kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý cuối
năm và đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên năm 2012. Ban
Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo đôn đốc, kiểm tra các Đảng ủy, chi
bộ trực thuộc nghiêm túc kiểm điểm, đến ngày 10/01/2013 đã tổ chức kiểm
điểm xong 26 Đảng bộ, 30 chi bộ trực thuộc Huyện ủy, đảm bảo kế hoạch đề
ra; sau các hội nghị kiểm điểm tự phê bình và phê bình Ban Thường vụ
Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục ngay những hạn chế, tồn
tại, khuyết điểm, khó khăn, vướng mắc như chấn chỉnh lại kỷ luật, kỷ cương
hành chính, công tác cán bộ, quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường,…
Báo cáo kiểm điểm tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng công
phu, nghiêm túc, có chất lượng, sát với hướng dẫn của Thành ủy đảm bảo yêu
cầu đề ra. Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức kiểm điểm tập thể Ban Thường
vụ Huyện ủy và cá nhân các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy
trong 04 ngày (ngày 9,10/10/2012 và ngày 13,14/10/2012), bảo đảm nghiêm
70
túc và chất lượng. Sau hội nghị kiểm điểm Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức
hội nghị phổ biến rút kinh nghiệm để chỉ đạo hướng dẫn các Đảng ủy, chi bộ
trực thuộc, các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn huyện.
Đảng bộ 22 xã, thị trấn, 04 đảng bộ các cơ quan, 30 chi bộ trực thuộc
đã chủ động xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt nghị quyết TW4 (khóa XI)
tới toàn thể cán bộ đảng viên và hướng dẫn các Chi bộ trực thuộc đảng bộ tổ
chức thực hiện kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết TW4 (khóa XI).
Qua kiểm tra, 71/71 cơ sở Đảng đảm bảo yêu cầu, nội dung đề ra. Tổng
số đảng viên thực hiện Chỉ thị 59 đạt 97%, trong đó có 80% đảng viên đủ tư
cách, trong số đủ tư cách có 18,8% đạt tiên phong gương mẫu.
Hai là, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” đã có sức lan tỏa cả về chiều rộng và chiều sâu, làm cho nhân
dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chuyển biến rõ
nét trong nhận thức, tư tưởng về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời
biến những nhận thức đó thành hành động trong việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trải qua 10 năm thực hiện cuộc vận động, công
tác chính trị, tư tưởng đã góp phần khẳng định và nâng cao nhận thức về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên trong quần chúng. Cuộc vận
động đã đạt được kết quả tốt, gắn với nhiệm vụ xây dựng Đảng. Trong đó,
công tác sinh hoạt của các chi bộ, đảng bộ cơ sở được Đảng bộ hết sức coi
trọng. Nội dung sinh hoạt ngày càng phong phú, đa dạng, khắc phục tình
trạng giáo điều, cứng nhắc của các giai đoạn trước. Qua các buổi sinh hoạt,
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình được thực hiện và tôn
trọng ở các tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời có thể giáo dục chính trị, tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tự
do vô tổ chức, quan liêu tham nhũng, xa rời quần chúng. Điều này có tác dụng
tăng cường ý chí và đẩy mạnh hành động từ cơ sở đến toàn Đảng bộ, góp
71
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Ba là, công tác tuyên truyền và thực hiện các phong trào thi đua cũng
đạt được nhiều kết quả to lớn: được triển khai đồng bộ, thường xuyên với
nhiều hình thức phong phú như: tuyên truyền thông qua các hội nghị, các buổi
toạ đàm, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt chi bộ; thông qua các buổi sinh hoạt
của các tổ chức đoàn thể chính trị, thông qua các hoạt động văn hoá văn nghệ;
công tác tuyên truyền cổ động trực quan bằng panô, áp phích, băng rôn, khẩu
hiệu, tuyên truyền thông qua bản tin phát trên hệ thống truyền thanh huyện và
cơ sở về những tấm gương tiêu biểu, gương “người tốt, việc tốt”,… Qua đó đã
nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc hơn trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
về những nội dung tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ
đó có những việc làm cụ thể diễn ra hàng ngày, trên từng vị trí công tác.
Bốn là, công tác cán bộ và phát triển đảng viên đạt được những kết quả
tích cực về số lượng và chất lượng. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh được xác định là một nội dung trong công tác xây dựng
Đảng, để đánh giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hàng năm. Thực
hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với tập thể và cá nhân cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp và đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng
viên của Huyện ủy Mỹ Đức được thực hiện nghiêm túc. Công tác giám sát,
kiểm tra việc học tập và làm theo lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách
được giao và vai trò gương mẫu rèn luyện đạo đức lối sống trong công tác,
sinh hoạt kết hợp nhận xét của các cấp uỷ và Ban mặt trận nơi cư trú để đánh
giá phân loại cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ
luật, vi phạm phẩm chất đạo đức, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, góp phần nâng
cao ý thức trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên; đạo đức, lối sống được hoàn
thiện hơn; ý thức chấp hành thời gian làm việc, hội họp, nội quy, quy định của
cơ quan, đơn vị được thực hiện tốt hơn; ý thức đạo đức, tác phong, lề lối làm
việc từng bước được đổi mới; phong trào thực hành tiết kiệm chống tham ô,
lãng phí được mọi người hưởng ứng tích cực; trình độ chuyên môn, nghiệp
72
vụ, ý thức trách nhiệm, sự nhiệt tình trong công tác của cán bộ, đảng viên
từng bước được nâng lên, hiệu quả công việc của các cơ quan, đơn vị có
chuyển biến tích cực, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân trong huyện.
Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ huyện
Mỹ Đức trong những năm 2008 – 2014 được tiến hành đồng thời cùng với
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, có vai
trò to lớn, thúc đẩy sự phát triển của Đảng bộ huyện. Trong những năm qua,
công tác đánh giá và đào tạo cán bộ, đảng viên được Đảng bộ huyện chỉ đạo
sát sao nên đã đem lại hiệu quả cao. Việc phân công công tác, bổ nhiệm, điều
động, luân chuyển cán bộ đảm bảo dân chủ, đúng quy định. Vấn đề tạo môi
trường thuận lợi cho cán bộ hoạt động có hiệu quả cũng được Đảng bộ huyện
quan tâm. Đảng bộ đã có những chính sách thu hút lực lượng cán bộ trẻ, có
trình độ bằng nhiều chế độ đãi ngộ, ưu tiên. Đảng bộ cũng đã xây dựng quy
hoạch cán bộ cho từng thời kì để đảm bảo có đội ngũ cán bộ kế cận và đáp
ứng được nhu cầu của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa
phương. Bên cạnh những cán bộ lâu năm, có kinh nghiệm, vững vàng về
chính trị, Đảng bộ huyện cũng chú ý đào tạo và mạnh dạn sử dụng những cán
bộ trẻ, năng động, tháo vát, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, được
đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ và lí luận chính trị.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được tiến hành đồng thời với
việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên, đảm bảo phân công đúng năng lực,
chuyên môn, phát huy cao nhất khả năng của từng cán bộ, đảng viên. Đảng bộ
huyện cũng đã tổ chức nhiều lớp học nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán
bộ, đảng viên, từng bước đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Hàng năm, Đảng bộ đều tổ chức thực hiện nghiêm túc công
tác cán bộ, quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, đã kịp thời phát hiện những
biểu hiện lệch lạc, thoái hóa, biến chất, đấu tranh với những sai trái và kiên
73
quyết xử lí kỉ luật đối với những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, và từng bước thực
hiện công bằng xã hội. Phương châm kiểm tra là công minh, chính xác, kịp
thời, thận trọng, dân chủ, đúng người, đúng tội, đã góp phần quan trọng trong
việc xây dựng Đảng bộ, chính quyền trong sạch, vững mạnh, mang lại niềm
tin cho quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Như vậy, những thành tựu mà Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đạt được
trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất to lớn, có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện, quyết tâm của
toàn Đảng toàn dân, tạo đà cho sự phát triển những năm tiếp theo của công tác
này trong Đảng bộ huyện.
*Về hạn chế
Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức còn tồn tại một số hạn chế như:
Về chính trị - tư tưởng
Một là, trong chỉ đạo, lãnh đạo thiếu năng động, nhạy bén, còn bảo thủ,
việc giáo dục chình trị, tư tưởng còn đơn điệu, thiếu sắc bén, thông tin thời sự
chưa thường xuyên. Một số cấp ủy Đảng chưa chủ động sáng tạo trong việc
vận dụng các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng vào thực tiễn địa phương, đơn vị.
Việc giải quyết cơ sở Đảng còn chậm so với yêu cầu. Ý thức chấp hành Nghị
quyết ở một số cấp ủy, chính quyền xã, thị trấn chưa nghiêm.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn còn nhiều hạn chế
cần được nhanh chóng khắc phục: cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy dù còn
cồng kềnh, bất hợp lí; chức năng, nhiệm vụ chưa phân định rõ ràng, có nơi Đảng
buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay. Do vậy, đòi hỏi Đảng bộ trong
công tác chỉ đạo phải đổi mới cơ chế tổ chức, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy
trong hệ thống chính trị; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc biệt, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải
đặt trong tính đồng bộ, có tính kế thừa, có sáng tạo.
74
Mặc dù công tác xây dựng về chính trị được Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đặc biệt quan tâm, tuy nhiên, trong thời kỳ 2008 – 2014 vẫn còn tồn tại tình
trạng một số nơi cấp uỷ và tổ chức Đảng chưa thực sự coi trọng công tác
chính trị. Công tác triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa
phương chưa đồng bộ, chưa có ý chí quyết tâm cao nên hiệu quả chưa đạt
được như mục tiêu đặt ra. Một số biện pháp thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương chưa được phù hợp với thực tiễn nên trong quá
trình thực hiện không đem lại hiệu quả, gây lãng phí ngân sách. Việc triển
khai tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng thiếu nghiêm túc, nhiều chi bộ
Đảng còn lúng túng, thiếu chủ động sáng tạo, trông chờ ỷ lại vào sự giúp đỡ
của cấp trên, điều hành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thiếu biện pháp cụ
thể và cương quyết. Một số Đề án, Chương trình hành động được ban hành
nhưng khi đi vào triển khai mới chủ yếu dừng lại ở hình thức, chưa tạo ra một
phong trào rộng lớn, chưa huy động được sức mạnh của nhân dân trong huyện
tham gia. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, phân tán, chưa tạo ra được
hàng hoá nông nghiệp có giá trị cao. Các dự án đầu tư công nghiệp qui mô
nhỏ, tiến độ đầu tư chậm, chưa tiếp cận với công nghệ tiên tiến, các thành
phần kinh tế chưa mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất. Đây chính là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến kinh tế của huyện chưa phát triển tương xứng
với tiềm năng sẵn có, cơ bản vẫn là một nền kinh tế thuần nông, sản phẩm
hàng hoá chưa nhiều, công nghiệp chưa phát triển, du lịch, dịch vụ chưa được
khai thác tương xứng với tiềm năng. Các doanh nghiệp ngành công nghiệp
còn nhỏ bé, năng lực yếu, sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp.
Hai là, công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân
tham gia thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào thực tiễn ở địa
phương đơn vị mình, để đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống còn hạn chế.
Chưa sâu sát nắm tình hình cơ sở nên một số vấn đề bức xúc phát sinh thiếu
chủ động kiểm tra, giám sát, chỉ đạo giải quyết đảm bảo kịp thời, hiệu quả
chưa cao.
75
Trong công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, một số cấp uỷ chưa có
biện pháp giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên. Số ít cán bộ đảng
viên bị chi phối bởi mặt trái của cơ chế thị trường, sa sút về phẩm chất đạo
đức, cơ hội, thoái hoá, biến chất, vi phạm đạo đức, vi phạm tư cách đảng viên.
Các Chỉ thị, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở hình thức. Chưa coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn, đặc biệt là tổng kết thực tiễn về sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối
với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hơn nữa, công
tác tuyên truyền còn hạn chế, mới chỉ dừng lại chủ yếu là đối tượng cán bộ,
đảng viên ở huyện, chưa đi vào sâu rộng tới toàn cán bộ, đảng viên trong toàn
Đảng bộ. Công tác nắm tình hình tư tưởng dư luận xã hội trên địa bàn có lúc
chưa kịp thời, chưa sâu sát.
Hình thức và nội dung tuyên truyền của công tác tư tưởng chưa thực sự
phong phú. Nội dung chủ yếu là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, đôi lúc phổ biến chậm, chưa kịp thời. Hình thức tuyên truyền đơn điệu,
chủ yếu là tổ chức các lớp học, các hội nghị, … dẫn tới hiệu quả tuyên truyền
chưa cao. Việc học tập, tổ chức thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng ở một
số chi bộ Đảng chưa kịp thời, lúng túng trong việc xây dựng chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết.
Ba là, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa sâu rộng. Một số đồng
chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành chưa thường xuyên bám sát cơ sở
được phân công phụ trách.
Bốn là, công tác kiểm tra, giám sát chưa được tiến hành thường xuyên
để phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời những vi phạm trong công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng. Một số cơ sở Đảng sinh hoạt không đều, tinh thần
tự phê bình và phê bình yếu. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa triển
khai thực hiện đúng kế hoạch, chưa bao quát và thực hiện thường xuyên, chưa
kịp thời phát hiện những tiềm ẩn, những sai lệch trong quá trình tổ chức thực
hiện của cơ sở và của cán bộ, đảng viên, để có uốn nắn, khắc phục kịp thời
76
ngay từ cơ sở.
Vẫn còn tồn tại tình trạng một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa
thực sự đầy đủ về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
dẫn tới việc chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị chưa nghiêm; vi phạm nguyên tắc
quản lí tài chính gây bất bình trong nhân dân.
Từ năm 2005 đến ngày 31/10/2013, ủy ban Kiểm tra các cấp tiến hành
kiểm tra được 331 lượt tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và
việc thi hành kỷ luật; thực hiện nhiệm vụ giám sát được 275 lượt tổ chức
Đảng, 7.755 lượt đảng viên, đảng ủy viên và chi ủy viên. Qua kiểm tra đã xử
lý kỷ luật khiển trách 1 Đảng ủy, cảnh cáo 1 Đảng ủy vi phạm do ra nghị
quyết cấp bán đất trái quy định, vi phạm luật đất đai và luật ngân sách; cảnh
cáo 1 chi bộ và khiển trách 2 chi bộ trực thuộc Đảng ủy xã do ra nghị quyết
bán đất trái quy định; xử lý kỷ luật 296 đảng viên bằng các hình thức khiển
trách 50, cảnh cáo 93, cách chức 11 đồng chí, khai trừ 42 do vi phạm pháp
luật trong quản lý đất đai, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, vi phạm
quy định những điều đảng viên không được làm, vi phạm chỉ thị, nghị quyết
của Đảng,…
Về tổ chức
Việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là vấn đề được Đảng bộ huyện Mỹ
Đức coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt quá trình xây dựng Đảng từ năm
2008 đến năm 2014. Các cấp uỷ Đảng đã không ngừng củng cố, kiện toàn,
nâng cao hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng
trong sạch, vững mạnh tăng dần theo từng năm. Tuy nhiên, về mặt tổ chức
còn một số hạn chế như sau:
Một là, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn; Sự chuyển biến của tổ chức cơ sở Đảng chưa đồng đều,
có nơi chưa vững chắc.
Chất lượng đội ngũ đảng viên tuy đã từng bước được nâng lên nhưng
vẫn còn nhiều hạn chế. Công tác kết nạp đảng viên có cơ sở chưa được coi
77
trọng, bồi dưỡng kết nạp đảng viên chưa gắn với tạo nguồn cán bộ. Vai trò
tiên phong gương mẫu của một bộ phận đảng viên còn yếu. Số đảng viên vi
phạm tư cách có giảm nhưng tốc độ còn chậm. Vẫn còn tình trạng đảng viên
vi phạm chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ và nguyên tắc Đảng. Trình độ đảng viên nhìn chung còn thấp,
công tác phát triển đảng viên ở một số thôn vùng sâu, vùng xa chưa được chú
trọng, số lượng đảng viên được kết nạp còn ít.
Hai là, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nhiều đơn vị còn thiếu
nghiêm túc, hiệu quả thấp.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước ở nhiều nơi còn hạn chế,… Việc quán triệt, tổ chức thực
hiện các quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng về hoàn thiện hệ thống
chính trị chưa thực hiện kiên quyết, nể nang, thiếu nhất quán; buông lỏng
kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Chưa tiến hành đồng bộ giữa đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy với sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ công chức.
Ba là, một số đơn vị cơ sở còn có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ. Một
số cấp uỷ cơ sở còn có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, né tránh, không dám
đấu tranh thẳng thắn, người được kiểm điểm thì không chịu thành khẩn. Tính
chiến đấu trong sinh hoạt Đảng chưa cao. Dân chủ trong sinh hoạt Đảng chưa
thực sự được phát huy.
Công tác kiểm tra, giám sát có vai trò quan trọng trong toàn bộ công tác
xây dựng Đảng. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhiều vấn đề mới phát sinh; đối tượng, phạm vi, nội dung lãnh đạo
của Đảng ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp hơn thời kỳ trước. Để có
chủ trương, quyết định đúng, giải pháp thực hiện tối ưu, kịp thời phát hiện sai
sót, phát huy những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực thì công tác kiểm tra,
78
giám sát cần phải được tiến hành thường xuyên hơn nữa.
Một số cấp uỷ còn buông lỏng công tác lãnh đạo, việc khắc phục thiếu
sót còn chậm. Công tác kiểm tra cấp uỷ chưa thường xuyên, thiếu kịp thời,
một số cấp uỷ chưa chú trọng đến công tác kiểm tra. Ở một số tổ chức cơ sở
Đảng, việc phân tích chất lượng đảng viên còn chưa bám sát tiêu chuẩn, còn
nể nang, né tránh; chất lượng sinh hoạt chi bộ và tính chiến đấu của chi bộ
còn chưa cao, còn hữu khuynh trong đấu tranh tự phê bình và phê bình. Số
lượng đảng viên bị kỷ luật còn khá nhiều, thậm chí có cả những đồng chí
trong cấp uỷ có vi phạm và bị xử lí kỷ luật. Nội dung chủ yếu là làm trái qui
định của Đảng, Nhà nước, tham nhũng. Bên cạnh đó, việc quản lí đảng viên ở
nhiều tổ chức cơ sở Đảng cũng chưa được quan tâm đúng mức. Vẫn còn tồn
tại tình trạng một số cấp uỷ, chi bộ chưa tích cực bồi dưỡng, kết nạp đảng
viên ở nơi thiếu và ít đảng viên.
Bốn là, công tác quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng
đảng viên về mọi mặt còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một số cán bộ năng lực công tác, trình độ chưa đạt so với yêu cầu công
việc đặt ra, trách nhiệm chưa cao, hiệu quả công tác thấp, chưa đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một số cán bộ, đảng viên chưa tích cực
học tập nâng cao kiến thức và rèn luyên đạo đức cách mạng thậm chí còn có
những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Một
số cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở và ban ngành ở
huyện năng lực lãnh đạo, quản lý còn hạn chế, trách nhiệm cán bộ trước công
việc chưa cao. Chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị
trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Công tác đào tạo cán bộ chưa gắn liền với công tác qui hoạch, sử dụng
và luân chuyển cán bộ. Trình độ cán bộ tuy đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng
năng lực cụ thể hoá, vận dụng vào trong thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lí
và chuyên môn còn hạn chế. Có một số cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu,
nhiệm vụ của chức danh cán bộ đảm nhiệm; những cán bộ thiếu chuyên môn,
79
không có khả năng đào tạo và yếu kém vẫn chưa được bố trí, sắp xếp và có
chính sách hợp lí nên số cán bộ được đào tạo, có chuyên môn vẫn chưa được
bố trí kịp thời. Tỷ lệ cán bộ các cấp trình độ đại học, trên đại học còn ít; việc
đầu tư cho đào tạo cán bộ khoa học, cán bộ quản lí kinh tế, chuyên gia giỏi
chưa được chú ý. Việc đánh giá, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ có trường hợp còn
chậm, chưa chủ động. Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, xã, thị
trấn còn thấp. Một số chưa phát huy được vai trò của Đại biểu Hội đồng nhân
dân, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị hạn chế. Một số chưa
gương mẫu, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nguyên nhân các hạn chế
Những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện
Mỹ Đức trong giai đoạn 2008 – 2014 có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên về Chủ trương, Nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước chưa thực sự
đầy đủ.
Hai là, một số các uỷ viên, cán bộ chuyên môn thiếu kiến thức và kinh
nghiệm về công tác xây dựng Đảng.
Ba là, trình độ, năng lực thực tiễn và phương pháp công tác của một số
cán bộ cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đưa ra.
Nguyên nhân khách quan
Một là, do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, tình hình
trong nước, sự hoạt động ráo riết của các thế lực thù địch, đặc biệt là trên lĩnh
vực tư tưởng, chính trị, âm mưu “diễn biến hoà bình”; Những tác động tiêu
cực của nền kinh tế thị trường,… đã tác động không nhỏ tới công tác xây
dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ. Bên cạnh đó, xây
80
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề mới mẻ
trong cả lí luận và thực tiễn, đòi hỏi phải thận trọng, phải vừa làm vừa tổng
kết, rút kinh nghiệm.
Hai là, công tác quản lí, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số chi bộ
Đảng còn yếu, cán bộ từ huyện đến cơ sở chưa đề cao trách nhiệm, chưa
gương mẫu trong công tác thực hiện các chủ trương, chính sách; Chấp hành
kỷ luật chưa nghiêm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, thậm chí còn có
trường hợp cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền tham ô, lãng phí của công.
Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của các
cấp uỷ, chính quyền từ huyện đến cơ sở còn là khâu yếu, chậm khắc phục;
nhiều chủ trương đúng nhưng chậm được triển khai thực hiện; Sự phối hợp
giữa các cấp, ngành chức năng chưa chặt chẽ, nhịp nhàng. Công tác kiểm tra,
giám sát của cấp uỷ trong việc thực hiện công tác cán bộ chưa thường xuyên.
Tính khoa học, tính kế hoạch trong lãnh đạo,chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ của cấp uỷ, tổ chức Đảng hạn chế.
Bốn là, các chi bộ ở cơ sở, đặc biệt như ở n Phú đổi mới nội dung, hình
thức sinh hoạt chi bộ còn chậm; Trình độ, năng lực cán bộ chủ chốt còn thấp.
Tất cả các nguyên nhân trên đã có những tác động tiêu cực đến việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức. Tuy nhiên, nhận
thức được những hạn chế đó, Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã và đang
quyết tâm thực hiện giải quyết những vẫn đề còn tồn tại, hạn chế, từng bước
thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,... đã đề ra.
3.2. Một số inh nghiệm
3.2.1. inh nghiệm trong xác đ nh ch trương
* Đối với công tác chính trị, tư tưởng
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cần
căn cứ vào đặc điểm riêng của địa phương mà đề ra các chủ trương cho đúng
đắn và phù hợp. Phải coi công tác chính trị - tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng
81
hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh đã dạy
“Phải làm cho tinh thần Nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân,
làm cho mọi người thấy những thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ
khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao để mọi người vui vẻ, hăng
hái làm tròn nhiệm vụ. Khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ
vượt qua được” [58; 265].
Mỹ Đức là một huyện ngoại thành của Hà Nội, kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng có ý nghĩa quyết định đến việc
thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Qua nghiên cứu thực tiễn
công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức từ năm 2008 đến năm
2014, có thể khẳng định Đảng bộ đã thực sự quan tâm đến công tác xây dựng
Đảng, coi đây là nhân tố hàng đầu để Đảng khẳng định vai trò là hạt nhân
lãnh đạo hệ thống chính trị và là cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thực hiện được nhiệm vụ lớn nhất là
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân theo
mục tiêu, chiến lược đã đề ra, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn xác định công tác
xây dựng Đảng phải được chú trọng và tăng cường hơn nữa. Khi Đảng bộ
thực sự trong sạch, vững mạnh, các tổ chức Đảng nâng cao được năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu thì mới hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị thực
sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các
cơ sở nói riêng và của toàn huyện nói chung. Ngược lại, việc tập trung lãnh
đạo phát triển kinh tế - xã hội không những là mục tiêu mà còn là điều kiện để
đảm bảo cho sự vững mạnh của Đảng bộ huyện.
Phải chú trọng công tác tư tưởng – nhân tố quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng ở địa phương. Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm công tác tư
tưởng của Đảng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng là hoạt động truyền bá và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
82
cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn, xây dựng niềm tin và đoạ đức, lối sống
đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Đứng trước những cơ hội và thách thức trong giai đoạn mới,
công tác tư tưởng có nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đó là giáo dục kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; rèn luyện
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách
thức, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa
ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, kịp thời uốn nắn những
nhận thức, tư tưởng mơ hồ, lệch lạc. Phê phán và xử lí nghiêm minh những
đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức. Trước những nhiệm vụ nặng nề đó, đòi
hỏi Đảng bộ huyện Mỹ Đức nhận thức và có sự bứt phá đổi mới sâu sắc về nội
dung, phương pháp hoạt động đối với công tác tư tưởng.
Trong giai đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã quán triệt
nhận thức trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, đến năm 2020, về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Công tác tư tưởng phải thích ứng và phục vụ có hiệu quả cao nhất
các mục tiêu lớn đó của đất nước. Đồng thời, công tác tư tưởng phải đáp ứng
những đòi hỏi mới của quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, sau khi
Việt Nam là thành viên của WTO, nhất là yêu cầu phải bảo vệ vững chắc trận
địa tư tưởng chính trị, giữ vững bản sắc văn hoá trước sự xâm nhập ngày càng
mạnh của trào lưu, khuynh hướng tư tưởng, văn hoá từ bên ngoài. Đảng bộ đã
thực hiện đồng bộ các biện pháp: Đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đến nhân dân trong huyện; nâng cao nhận thức,
vai trò, vị trí công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay; đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp công tác tư tưởng. Thường xuyên tự phê bình và phê
83
bình, xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường tổ chức bộ máy và
lực lượng làm công tác tư tưởng, đảm bảo các điều kiện làm công tác tư
tưởng; tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với công tác tư tưởng.
Thứ hai, phải quán triệt sâu sắc quan điểm “phát triển kinh tế là trọng
tâm, xây dựng Đảng là then chốt”.Trong giai đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ
huyện Mỹ Đức đã ngày càng trưởng thành trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng,
tổ chức. Thông qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI, XXII,
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã hoạch định chủ trương, đường lối phát triển kinh
tế - xã hội. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã chú trọng tổ chức tuyên truyền chủ
trương, đường lối và xây dựng các chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết sát với điều kiện thực tế của địa phương. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ,
đảng viên ngày càng trưởng thành, phát triển cả về số lượng vả chất lượng
cũng là một nguyên nhân dẫn tới việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
ngày càng cao. Những thành tựu mọi mặt mà Mỹ Đức đạt được trong những
năm qua đã minh chứng cho sự đúng đắn trong công tác chỉ đạo của Đảng bộ
và sự nỗ lực của nhân dân trong huyện. Đồng thời, càng khẳng định vai trò
quyết định “then chốt” của công tác xây dựng Đảng đối với các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội mà Trung ương và Thành uỷ tin tưởng giao cho. Như vậy, có
thể khẳng định, bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước, bài học kinh
nghiệm cơ bản và cũng là nhiệm vụ trọng yếu của địa phương đó là phải coi
trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng là
nhân tố tiên quyết cho sự thắng lợi của các mục tiêu cách mạng.
Qua thực tiễn chỉ đạo ở địa phương, công tác tư tưởng đứng trước
nhiều thử thách, song đó cũng là thời gian công tác tư tưởng đã có nhiều đóng
góp quan trọng để đưa sự nghiệp cách mạng vượt qua những bước hiểm
nghèo, từng bước vững chắc tiến tới góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội của nước nhà. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới
cho công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trên mặt trận tư
84
tưởng là: Thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng bộ cần quan tâm đi sâu
sát vào quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng từ đó kịp thời đề ra chủ
trương, quyết sách đáp ứng nhu cầu đời sống của quần chúng nhân dân.
Không ngừng đổi mới về phương pháp tuyên truyền; cách thức tuyên truyền
sinh động, dễ hiểu với nhân dân, quan tâm tới chính sách đãi ngộ cho cán bộ
làm công tác tuyên truyền.
* Đối với công tác tổ chức
Thứ nhất, phải xác định nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng
Đảng là củng cố tổ chức cơ sở Đảng.Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở
Đảng, luôn coi các tổ chức cơ sở Đảng là những đơn vị chiến đấu cơ bản,
những tế bào của Đảng, là nền tảng trên đó Đảng được xây dựng vững chắc
và thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam; các chi bộ,
Đảng bộ cơ sở có vai trò là “nền móng” để Đảng liên hệ với quần chúng. Vì
vậy, chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng là một trong những nhân tố quyết
định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Nhận thức được vai trò quan trọng của
các tổ chức cơ sở Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn quan tâm đến công tác
củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Nhiệm vụ cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng
trong thời kỳ 2008 – 2014 được Đảng bộ chú trọng là không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Tiếp tục củng
cố những cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng thời có biện pháp khắc
phục những cơ sở Đảng yếu kém. Tiếp tục đổi mới nội dụng sinh hoạt chi bộ,
gắn liền chủ trương, đường lối của Đảng với thực tiễn địa phương, với lợi ích
thiết thực của đảng viên nhằm phát huy cao độ năng lực, tính tích cự, sáng tạo
của mỗi đảng viên, góp phần tạo nên sức mạnh cho Đảng.
Thứ hai, trong việc xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng hoạt động
có hiệu quả, kinh nghiệm thực tiễn đã chứng minh phải thường xuyên củng cố
và kiện toàn cấp uỷ. Các cấp uỷ đảng phải thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, năng
85
lực và phẩm chất của Đảng bộ, đảm bảo sự thống nhất trong cấp uỷ Đảng,
trước hết là thường vụ cấp uỷ. Cấp uỷ phải nắm vững đường lối, quan điểm
của Đảng, các nhiệm vụ chính trị được giao và chủ động chủ trì thực hiện.
Biết khơi dậy tinh thần đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch hoàn
thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Thứ ba, phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi
mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Chăm lo nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về
phẩm chất lẫn năng lực, cả về tri thức lẫn phong cách công tác là yêu cầu
thường xuyên, khách quan của Đảng nhằm làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
luôn trưởng thành, phát triển ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn cách mạng.
Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã nhận thức việc giáo dục, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên cần phải được tiến hành chủ động, thường xuyên và có
kế hoạch. Để đưa những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành
hiện thực cuộc sống đòi hỏi đảng viên phải là người đi tiên phong trong hành
động thực tiễn. Các chi bộ Đảng đã thực sự coi trọng công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên tốt, đảm bảo phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh
đó, đảng bộ còn chú trọng công tác cán bộ, bởi chất lượng đảng viên cao là
nguồn cung cấp cán bộ tốt cho Đảng. Công tác cán bộ cần đảm bảo thực hiện
đúng qui trình từ khâu qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sắp xếp và sử
dụng cán bộ.
Kết quả nổi bật trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong giai đoạn 2008 – 2014 là đa số cán bộ, đảng viên đều có lập trường
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực hoạt động thực tiễn
và phát huy tác dụng tốt ở những vị trí được giao. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
một số cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, tha hoá đạo đức cách mạng, tham
nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
luôn thấm nhuần quan điểm của Đảng “Đảng không cần con số cho nhiều, tuy
nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng
86
viên, mỗi cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để
làm đày tớ cho nhân dân”, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc chủ trương của
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI “Kiên định đường lối đổi mới, chống
giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc,…
Chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong nội bộ để khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội”.
Thứ tư, phải đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo và công tác
kiểm tra của Đảng.
Thực tiễn cách mạng đã chỉ rõ chất lượng lãnh đạo của Đảng được thể
hiện ở cả nội dung lãnh đạo đúng và phương thức lãnh đạo phù hợp. Trong
đó, phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các phương pháp, hình thức
mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng, các tổ chức nhằm thực hiện
tốt nội dung lãnh đạo. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền như ở nước ta
hiện nay, phương thức lãnh đạo của Đảng có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ
thống chính trị, phát huy vai trò, vị trí của mình. Nhận thức rõ tính chất cấp
bách của vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu
cầu to lớn của thời kỳ mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh
phải “kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”.
Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức đạt được
trong giai đoạn 2008 – 2014 có thể khẳng định do rất nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có sự tác động của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức đổi mới
phương thức lãnh đạo mà trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo đối với
hệ thống chính trị, những đổi mới này đã góp phần đảm bảo cho đường lối,
chủ trương đúng đắn của Đảng được thực hiện thắng lợi.
3.2.2 inh nghiệm trong chỉ đ o thực hiện
* Đối với khu vực nông thôn, tôn giáo và vùng dân tộc thiểu số
87
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới đó là:
“Nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; xây
dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững theo hướng hiện đại; nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất; sản phẩm nông nghiệp có
sức cạnh tranh cao; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại; xã
hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh
thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được giữ vững theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
chính trị ở nông thôn, củng cố vững chắc liên minh công nhân- nông dân- trí
thức. Xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. [61, 11-12].
Từ đó nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Đức là hết sức
nặng nề và khó khăn. Hơn nữa, nhân dân trong huyện Mỹ Đức đang đứng
trước nhiều vấn đề khó khăn, đời sống kinh tế, văn hóa còn thấp; các vấn đề
bức xúc của xã hội như công ăn việc làm của một bộ phận không nhỏ trong
con em nhân dân còn nhiều, tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác chưa
được xử lý, giải quyết dứt điểm,…Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, đảng viên phải có những kiến thức và năng lực cần thiết để lãnh đạo
và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn mình phụ trách. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực
tiễn để rèn luyện tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến
thức, năng lực đội ngũ cán bộ.
Bất cứ quốc gia nào cũng có đường lối đào tạo cán bộ, đảng viên riêng,
xây dựng đội ngũ cán bộ trung thành và có khả năng thực hiện thắng lợi mục
tiêu lý tưởng của giai cấp mình. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng phải lựa chọn đào tạo và sử
dụng những cán bộ thật trung thành với lý tưởng của giai cấp công nhân, với
88
lợi ích của dân tộc, có ý thức tổ chức kỷ luật gắn bó với người lao động, với
nhân dân. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm ý thức tổ
chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời tăng cường số cán
bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, trước hết là cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị các cấp.
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở cuối cùng gần dân
nhất, trực tiếp tiếp xúc với bà con nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở
là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để lãnh đạo bà con nhân dân phát triển
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với
nông dân - bộ phận quan trọng chiếm 67,54% dân số của cả nước; đưa chủ
trương, đường lối, quan điểm, tư tưởng của Đảng đến dân và phản ánh tình
hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Thông qua đội ngũ cán bộ, đảng
viên mà ý Đảng, lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có cơ
sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, giữ vững mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông
thôn mới hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực nông nghiệp, nông thôn
có vai trò quan trọng và nhiệm vụ xây dựng Đảng được thực hiện để lại
những bài học trong chỉ đạo thực tiễn đối với khu vực nông thôn, tôn giáo và
vùng dân tộc thiểu số như sau:
Thứ nhất, tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong xây dựng Đảng
nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng là một nhiệm vụ
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu mà Đảng ta phải thường xuyên quan tâm làm
tốt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhất là đối với khu vực nông thôn,
tôn giáo và vùng dân tộc thiểu số, trình độ dân trí còn chưa cao.
Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; làm tốt
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức
chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở.
89
Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ
chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ thôn, xóm thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn
diện ở địa bàn nông thôn.
Thứ tư, chăm lo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, tập trung
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý chính quyền cấp xã, bảo đảm đủ sức quản
lý, điều hành và giải quyết tốt những vấn đề phát sinh ở nông thôn, cơ sở.
Thứ năm, phát huy hiệu quả hoạt động của khối dân vận cơ sở, thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố và phát huy vai trò và hiệu quả hoạt
động tự quản để vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình tham
gia công việc chung của cộng đồng.
Thứ sáu, thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là Hội Nông dân tiếp tục đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở để hướng dẫn nông dân
thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới,
tham gia các chủ trương hợp tác về kinh tế, các dự án, chương trình phát triển
sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Là một huyện thuần nông, có phong trào cách mạng sớm ở phía nam
thành phố, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ Đức hầu hết xuất thân từ
các gia đình nông dân và được trưởng thành từ các phong trào ở tại cơ sở xã,
thị trấn. Do đó, trong công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên vừa phải đặc biệt chú trọng lựa chọn và cất nhắc những người thật
sự ưu tú từ những gia đình có công với cách mạng, vừa phải thường xuyên
giáo dục bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp
công nhân cho toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên tập hợp rộng rãi những
người tiên tiến, tích cực từ các thành phần khác; không định kiến với những
người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa. Đồng thời kiên
quyết ngăn chặn, xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất,
làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm lòng tin đối
với Đảng và Nhà nước.
90
Đội ngũ cán bộ, đảng viên là sản phẩm của những điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Do đó, khi nâng cao chất
lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải rà soát lại đội ngũ cán bộ,
đảng viên hiện có với đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu, từ đó phát huy những kinh
nghiệm trước đây và khắc phục những hạn chế do lịch sử để lại. Đồng thời, bổ
sung lực lượng cán bộ trẻ, có trình độ nhằm tạo ra sự chuyển biến lớn về chất
của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.
Cư dân địa bàn huyện Mỹ Đức chủ yếu là người Kinh, chỉ có một số ít
đồng bào Mường cư trú ở xã n Phú. Đạo Phật là chủ yếu ở vùng đất này. Đạo
Thiên chúa mới du nhập từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tính đến 2014,
đồng bào theo đạo Thiên chúa chiếm khoảng trên 10% dân số trong huyện.
Huyện Mỹ Đức có 2 dòng tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa
giáo. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ
sở luôn quan tâm và tạo điều kiện cho đồng bào theo đạo thực hiện quyền tự
do tín ngưỡng, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”,...Tập trung chỉ
đạo tăng cường công tác quản lí nhà nước về tôn giáo nên tình hình tôn giáo
trong huyện cơ bản ổn định, đoàn kết lương – giáo, hoạt động tín ngưỡng tôn
giáo hợp pháp, đúng chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà
nước.Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo của huyện được thành lập hoạt động
thường xuyên hiệu quả, đã xây dựng được đội ngũ cốt cán và đội ngũ cán bộ
nòng cốt ở cơ sở. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan, địa
phương trong việc giải quyết các vụ việc phức tạp, liên quan đến hoạt động
tín ngưỡng, công tác vận động quần chúng đối với người có đạo được quan
tâm, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và lễ hội đã từng
bước đi vào nề nếp, đúng pháp luật.
“Trên địa bàn huyện có xã n Phú là xã dân tộc miền núi, với 4250
người là dân tộc Mường, chiếm 59,4% tổng số dân toàn xã” [61; 85]. Được
cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, số cán bộ là người dân tộc có 3 đồng
chí cán bộ chủ chốt, 7 trưởng thôn, 8 đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ
91
2007 – 2011. Trong các năm từ 2008 đến 2010, Đảng bộ đã kết nạp được 20
đảng viên là người dân tộc Mường, nâng tổng số đảng viên lên 67/206 =
33,5% tổng số đảng viên trong đảng bộ xã. Đảng bộ xã n Phú đã triển khai
thực hiện tốt các chính sách dân tộc như: Chương trình 134, 135 của Chính
phủ, đã “đầu tư 42 tỷ 515 triệu đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các
trường học, đường giao thông, hệ thống đê bao chống lũ và xóa 21 nhà tái dột
nát, khoan 7 giếng nước ăn công cộng và 25 giếng khoan cho hộ gia đình”
[61; 83]. Chính sách dân tộc thường xuyên được quan tâm triển khai thực hiện
nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cùng với các dự án, chương trình đầu tư của Trung
ương, Thành phố và huyện với nguồn đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhằm cải
thiện cho các lĩnh vực kinh tế, giáo dục - đào tạo, y tế, ... cho đồng bào dân
tộc thiểu số xã n Phú. Huyện đã thành lập Phòng Dân tộc, chỉ đạo thành
công Đại hội đại biểu dân tộc thiểu số lần thứ nhất (2014 - 2019).
Như vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã và đang thực hiện những chủ trương
nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng đối với khu vực nông thôn, vùng dân
tộc thiểu số và đồng bào theo tôn giáo thu được những kết quả tích cực.
* Đối với khu vực cơ quan, đơn vị và thị trấn
Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị giữ vai trò quan
trọng trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở tại các cơ quan, đơn vị. Đồng thời,
đội ngũ này còn tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm
có giá trị, góp phần rất quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng
hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng ở cơ quan, đơn
vị. Đối với hệ thống tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan,
đơn vị là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực
lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ tác động quyết định
đến nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ cơ sở, đến năng
lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của
92
các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống tổ chức bộ máy ở cơ sở có hoàn
thành nhiệm vụ của mình được hay không, trước hết tùy thuộc vào đội ngũ
cán bộ đảng viên ở trực tiếp cơ quan, đơn vị đó. Chính vì vậy, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đầy đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo
đức cách mạng là yếu tố quyết định thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa- xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng ở các cơ quan, đơn vị.
Đối với phong trào ở khối cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên
không những là người dẫn dắt, định hướng các phong trào mà còn biết tổng
kết rút kinh nghiệm nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất,
công tác, chiến đấu,… nên họ rất thực tế, có tri thức và bề dày kinh nghiệm.
Cơ sở còn là môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ rèn luyện trưởng
thành. Hiện nay do chưa thấy hết vị trí chiến lược của cơ sở, nên không ít
người đã coi cơ sở là thấp kém, là không có tiền đồ; vì thế họ không phấn
khởi khi công tác ở cơ sở, thậm chí còn né tránh, thoái thác nhiệm vụ khi
được tổ chức phân công về làm việc ở một số cơ quan, đơn vị cấp cơ sở.
Có thể khẳng định đội ngũ cán bộ khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn có
tầm quan trọng về nhiều mặt ở huyện Mỹ Đức nói riêng, thành phố Hà Nội
nói chung trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, chăm lo xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn hiện nay là
yêu cầu quan trọng, vừa có ý nghĩa cấp thiết trước mắt, vừa là mục tiêu lâu
dài trong chiến lược cán bộ của Đảng ta nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị
Đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn ở huyện
Mỹ Đức hầu hết đều được rèn luyện, thử thách trưởng thành từ các phong trào
quần chúng ở địa phương, trong thực tiễn công tác và thực tiễn xây dựng kinh
tế, đặc biệt là đã trải qua hơn hai mươi năm của công cuộc đổi mới đất nước.
Đứng trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, đó là sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô (cũ) và những khó khăn về kinh
93
tế của đất nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị vẫn thể
hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo; tin tưởng vào đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Qua thực tế chứng minh đội ngũ
cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ Đức có tinh thần trách nhiệm cao đối với công
việc, luôn tìm tòi, suy nghĩ và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, thật sự làm
nòng cốt trong các tổ chức của hệ thống chính trị ở các cấp. Những thành tựu
đạt được về kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội ở địa bàn nông thôn huyện Mỹ
Đức vừa qua là có sự đóng góp không nhỏ công sức trí tuệ của đội ngũ cán
bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn. Điều đó chứng tỏ bản lĩnh
chính trị vững vàng của họ.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi về
tư tưởng chính trị, nhất là việc tìm tòi học hỏi, nghiên cứu đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như nghị quyết, chỉ
thị của cấp trên. Mặt khác, do trình độ nhận thức hạn chế, cho nên có một số
cán bộ không giữ đúng cương vị của người lãnh đạo mà còn theo đuôi quần
chúng, bị quần chúng lợi dụng. Ngoài ra, còn một bộ phận khác mất cảnh giác
trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Thứ hai, về phẩm chất đạo đức, lối sống
Trong điều kiện cuộc sống còn có những khó khăn và đứng trước tác
động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hầu hết đội ngũ cán bộ, đảng
viên ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối
sống trong sáng, giản dị, lành mạnh, gương mẫu trên mọi lĩnh vực, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao, biết đoàn kết trong nội bộ và gắn bó mật thiết với nhân
dân, được nhân dân tín nhiệm. Công tác phê bình và tự phê bình trong sinh
hoạt Đảng đã được các cấp ủy chỉ đạo chặt chẽ, nhất là đợt sinh hoạt chính trị
kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê
94
bình đã có sự chuyển biến tích cực ở nhiều mặt, nguyên tắc tổ chức của Đảng
được đề cao; ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc được chấn chỉnh một bước;
mối quan hệ công tác giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể được duy trì thực hiện tốt theo quy chế. Một số cán bộ lãnh đạo còn hạn
chế về năng lực công tác, tác phong sinh hoạt, lề lối làm việc, sau phê bình đã
có nhiều tiến bộ.
Nhiều đồng chí đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích của
bản thân, của gia đình, thật sự “là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Mặt khác, họ luôn luôn là những người tích cực nhất trong việc đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các mặt tiêu cực khác nảy sinh
trong đơn vị, địa phương cũng như ngoài xã hội. Qua điều tra cho thấy số gia
đình của đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt danh hiệu gia đình văn hóa chiếm trên
90%, tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác thi đua khen thưởng hàng
năm nhiều đồng chí được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể tặng giấy
khen, danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp cơ sở,… Điều này chứng minh một cách
rõ nét nhất về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ
Đức hiện nay.
Song, vẫn còn một số cán bộ có biểu hiện sa sút về phẩm chất đạo đức,
lối sống, tinh thần trách nhiệm chưa cao trong công việc, chưa thực sự tiên
phong gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, gây mất đoàn
kết trong nội bộ. Một số ít đồng chí vì lợi ích cá nhân và gia đình vi phạm
trong quản lý kinh tế, quản lý đất đai và nhiều vấn đề kinh tế, tài chính
khác.Rõ ràng là một bộ phận cán bộ, đảng viên đã sa sút về phẩm chất đạo
đức, điều này đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của đội ngũ cán bộ và uy tín
của Đảng và chính quyền.
Việc thi hành kỷ luật thực hiện công minh, chính xác, đúng nguyên tắc.
Quá trình kiểm tra, giám sát đảm bảo đúng quy trình, đúng nguyên tắc, thủ tục;
kết luận rõ ràng, kịp thời. Công tác giải quyết đơn thư tố cáo đối với tổ chức
95
Đảng, đảng viên được coi trọng, tiếp nhận 31 đơn tố cáo, trong đó thẩm quyền
giải quyết 29 đơn đã giải quyết 29/29 đơn đạt 100%, góp phần nâng cao chất
lượng lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng và mỗi đảng viên.
Thứ ba, về kiến thức, năng lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, đảng viên khối cơ quan,
đơn vị ở huyện Mỹ Đức đã không ngừng được nâng cao trình độ về nhiều
mặt, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực lãnh đạo và tổ chức
thực hiện trong cơ chế mới có bước trưởng thành nhanh chóng, đáp ứng được
với yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, đối với chi bộ trong doanh nghiệp
bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nước ngoài hay doanh
nghiệp tư nhân, thành tựu nổi bật của Đảng bộ huyện Mỹ Đức là đã xây dựng
được qui trình sinh hoạt chi bộ cho các chi bộ này sau khi khảo sát thực tế.
Các buổi sinh hoạt trong các chi bộ cũng được xác định nội dung rõ ràng, cụ
thể, đi sâu vào các vấn đề như: vai trò của đảng viên trong việc thực hiện sản
xuất kinh doanh, tổ chức các hoạt động đoàn thể quần chúng, nâng cao đời
sống và việc làm của người lao động. Công tác phát triển Đảng, đào tạo- bồi
dưỡng cán bộ luôn được các cấp ủy quan tâm. Từ năm 2005 đến tháng 10
năm 2013, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện đã mở được 54 lớp bồi
dưỡng kết nạp Đảng cho 4.050 đoàn viên ưu tú, quần chúng tiên tiến xuất sắc
ở các cơ sở xã, thị trấn, các ban, ngành, đoàn thể trong toàn huyện theo học;
mở 30 lớp bồi dưỡng đảng viên mới cho 2.024 đảng viên; 14 lớp sơ cấp lý
luận chính trị cho 998 đồng chí. Công tác phát triển đảng được duy trì thường
xuyên và thực hiện tốt. Từ năm 2005 đến đầu tháng 11/2013, các cấp ủy đảng
trong huyện đã xét và kết nạp được 2.143 quần chúng ưu tú vào Đảng.
Cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của
huyện, huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện còn phối hợp với trường Đào tạo
cán bộ Lê Hồng Phong Hà Nội mở 3 lớp Trung cấp lý luận chính trị cho 433
cán bộ; phối hợp với Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Trường Đại học Dân lập Phương Đông Hà Nội mở
96
3 lớp đào đạo chuyên môn nghiệp vụ: công tác xã hội, luật kinh tế, quản trị
văn phòng cho 294 đồng chí là cán bộ các xã, thị trấn và các phòng, ban của
huyện theo học,... Ngoài ra, Ban Thường vụ Huyện ủy còn chọn cử 32 đồng
chí đi học cử nhân, cao cấp lý luận chính trị ở các nhà trường, học viện theo
kế hoạch hàng năm của ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây (cũ) và Thành ủy Hà
Nội; cử 29đồng chí đi học cao học các chuyên ngành để có nguồn cán bộ chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
nông thôn mới ở huyện. Để tăng cường cán bộ cho cơ sở và đào tạo cán bộ
qua thực tế, từ năm 2008 đến 2014 huyện đã điều động 3 đồng chí cấp ủy
huyện (trong đó 1 đồng chí ủy viên thường vụ huyện ủy, 2 đồng chí huyện ủy
viên) về công tác làm bí thư Đảng ủy ở 3 xã. Cả 3 đồng chí đều hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao và trưởng thành nhiều mặt. Thời gian tới, huyện ủy đã có
kế hoạch điều động 2 – 3 đồng chí là trưởng hoặc phó các ban ngành, đoàn
thể tiếp tục xuống giúp đỡ các cơ sở, nhất là các đảng bộ yếu kém. Qua đó, có
thể khẳng định huyện đã sớm thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ và đã
có kết quả rõ rệt. Công tác cán bộ luôn được cấp ủy huyện chú trọng, xác định
là khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả hoạt động của tổ chức
Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Cán bộ không những có phẩm
chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, trình độ năng lực
hoạt động thực tiễn giỏi, mà còn có tác phong, phương pháp làm việc tốt. Đa
số cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn của huyện Mỹ Đức tác phong làm việc dân
chủ, gần dân, biết lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân; năng
động, sáng tạo trong công việc của mình, biết vận dụng những tri thức khoa
học vào công tác, cuộc sống, thích ứng với điều kiện của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trước quần chúng nhân dân. Trong công tác tuyên truyền, vận động
quần chúng tham gia các phong trào cách mạng cũng như thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đội ngũ cán
bộ, đảng viên không những là người tuyên truyền giỏi mà còn là những tấm
97
gương tiêu biểu cho các phong trào ở tại địa phương cơ sở. Nhờ vậy mà bộ
mặt nông thôn huyện Mỹ Đức những năm gần đây khởi sắc nhanh chóng.
Mặc dù vậy, vẫn còn một số đồng chí kiến thức và năng lực hạn chế
nên trong công việc thường dựa vào kinh nghiệm của mình để giải quyết, do
đó hiệu quả công việc không cao, thậm chí lại đem lại kết quả ngược lại với
mong muốn.
Kinh nghiệm là vốn quí, song nếu quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa kinh
nghiệm thì sẽ dẫn đến kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan duy ý chí. Khi đứng
trước vấn đề khó khăn phức tạp họ thiếu kiến thức sẽ bị lúng túng, thậm chí
bế tắc không có cách giải quyết. Cũng còn cả một số cán bộ, đảng viên thiếu
dân chủ, khi giải quyết công việc bị tình cảm họ hàng thân quen chi phối dẫn
đến coi thường kỷ cương phép nước. Đối với những người không phải họ
hàng thân quen thì họ mang nặng tính hành chính, mệnh lệnh sách nhiễu, gây
phiền hà, lên mặt “quan cách mạng”, không biết dân bầu ra mình để làm việc
cho dân nhưng lại cậy thế với dân.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, những kết quả đạt trong công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ
huyện Mỹ Đức từ 2008 đến 2014 có ý nghĩa hết sức quan trọng và để lại những
bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác xây dựng Đảng.
Thứ nhất, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mà trực tiếp là
Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt
là trong giai đoạn có đầy những biến động to lớn như hiện nay, Huyện ủy đã
đoàn kết, thống nhất thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tích cực, chủ
động sáng tạo triển khai, quán triệt tổ chức thực hiện Nghị quyết của Trung
ương, Thành phố Hà Nội và của huyện Mỹ Đức về xây dựng Đảng; nhất là
việc thực hiện nghị quyết TW 4 khóa XI nghiêm túc và chất lượng. Huyện ủy
đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng các cấp, thực hiện đồng bộ 4 chương trình, 4 đề án của huyện gắn với 9
chương trình công tác lớn, 5 nhiệm vụ trọng tâm, 2 khâu đột phá của Thành
98
phố Hà Nội, chỉ đạo tập trung nghiên cứu xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Đề án, Chuyên đề công tác, góp phần xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở ngày một vững mạnh,
thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, giữ vững quốc phòng,
an ninh, đảm bảo an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, đời sống nhân dân được
nâng lên rõ rệt, nội bộ Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, tăng cường sức mạnh của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết
trong toàn Đảng, toàn dân phát huy một cách tối đa sức mạnh của quần chúng
nhân dân, tăng cường vai trò, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với Đảng.
Thứ ba, góp phần thực hiện hiệu quả việc tuyên truyền, giáo dục chính
trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kiên quyết đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch tấn công từ các Đảng ở cơ sở. Chủ động ngăn ngừa, đấu tranh
phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Làm
tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. iữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014
cũng để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu. Tiếp tục đẩy mạnh
và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện, kiên định chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, vận dụng sáng tạo để đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện
một cách sát thực với tình hình địa phương.
Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, đổi mới công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật;
thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết
99
thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội.
Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm
quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, cần coi
trọng viêc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có
đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để
hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công
tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách. Đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài.
Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải phát huy
dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách đều có sự tham gia xây dựng
của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân. Cán bộ, đảng viên và công
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục
kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm
chất của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán
bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của
nhân dân, của Mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo bảo đảm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các
đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của
Đảng ở các ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị.
100
K T LUẬN
Qua nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những năm 2008 – 2014, tôi rút ra một số kết
luận như sau:
1.Từ 1946 đến nay, trải qua gần 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng
bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra những chủ trương đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh
thực tiễn của đất nước. Đặc biệt, trong những năm từ 2008 đến 2014, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng Đảng càng được
quan tâm, coi trọng hơn. Nhiệm vụ xây dựng Đảng được thực hiện một cách
đồng bộ, toàn diện, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, lí luận, chính trị
và tổ chức. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng ở địa phương, Đảng bộ huyện
Mỹ Đức chưa lúc nào lơ là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên. Trong công tác này, việc giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính giai cấp công nhân, giáo dục lòng trung thành cho đảng viên luôn là nội
dung trọng tâm. Chính vì vậy, trong khó khăn, thử thách của mọi giai đoạn
cách mạng, đảng viên của Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn là đội ngũ trung kiên,
gương mẫu, gắn bó với quần chúng. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng
đầu đối với toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng bộ.
Trong công tác xây dựng Đảng, với đặc điểm là Đảng bộ có nhiều đảng
viên người dân tộc, bên cạnh việc nâng cao giác ngộ chính trị, Đảng bộ còn
chú trọng đến trình độ văn hoá, trình độ quản lí của cán bộ, đảng viên. Chính
nhờ vậy, năng lực lãnh đạo, thực hiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên được
nâng lên rất nhiều. Đồng thời, việc nâng cao chất lượng đảng viên cũng là
một trong những vấn đề được Đảng bộ huyện Mỹ Đức đặc biệt quan tâm.
Trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất quan
tâm tới công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra tư cách cán bộ, đảng viên, kiểm
tra tổ chức cơ sở Đảng. Đảng bộ nhận thức sâu sắc kiểm tra góp phần nâng
cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn,
101
đảm bảo sự thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc
làm. Công tác kiểm tra được Đảng bộ tiến hành dân chủ, công khai, hàng năm
đều xây dựng kế hoạch, chương trình kiểm tra và tổ chức thực hiện nghiêm
túc; ngăn chặn được sự chia rẽ, mất đoàn kết, đảm bảo nguyên tắc tập trung
dân chủ được tuân thủ nghiêm túc; góp phần giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Chính những điều này đã góp phần không nhỏ vào sự thắng lợi của Mỹ
Đức trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách mạng nói chung và công tác
xây dựng Đảng nói riêng.
2. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, các chi bộ cơ
sở, các cán bộ, đảng viên trong huyện đã và đang phấn đấu xây dựng Đảng bộ
huyện ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với truyền thống anh
hùng của quê hương trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng quê hương
ngày càng giàu đẹp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tự
hào về truyền thống của quê hương với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, các thế
hệ người dân Mỹ Đức luôn xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước, phấn
đấu và tự hào được sinh ra và trưởng thành trên quê hương cách mạng.
Trong mọi hoàn cảnh dù có nhiều biến động đến đâu, tình hình phức
tạp và chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể gây ảnh hưởng đến vị trí, vai
trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã từng bước tháo gỡ
những khó khăn, vượt qua thử thách và thu được những thắng lợi to lớn.
Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ huyện Mỹ Đức
đã ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò lãnh đạo đúng đắn của mình.
Đảng bộ huyện đã huy động được sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Để có được những thắng lợi đó, Đảng
bộ huyện luôn quán triệt một cách sâu sắc thực hiện quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
từ 2008 đến 2014 đã đạt được những kết quả có ý nghĩa to lớn đối với sự phát
102
triển của huyện. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã thực hiện tốt nguyên tắc “tập trung
dân chủ”, củng cố tổ chức cơ sở của Đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân. Phương châm phát triển được Đảng bộ xác định là phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Từ hai đảng viên đầu tiên (1939), tính đến
30/10/2014, toàn Đảng bộ huyện Mỹ Đức có 7452 đảng viên, sinh hoạt ở 56 tổ
chức cơ sở Đảng (trong đó xã, thị trấn 22 Đảng bộ; 4 Đảng bộ khối cơ quan và
30 chi bộ trực thuộc huyện ủy). Không chỉ tăng lên về số lượng, chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên cũng ngày càng được nâng cao và được thứ thách, rèn
luyện bản lĩnh cách mạng qua thực tiễn. Đây là bước phát triển nhanh chóng,
hợp với xu thế đi lên của cách mạng.
4. Tuy nhiên, trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng (2008 –
2014), Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần phải
khắc phục trong thời gian tới: Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc thu hút đông đảo mọi
tầng lớp nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng, việc đấu tranh với
các biểu hiện tiêu cực còn tình trạng nể nang, né tránh, thiếu kiên quyết. Hình
thức và nội dung của công tác tư tưởng còn đơn điệu, chưa sâu sắc, có nơi
chưa bám sát thực tiễn. Việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng tuy đã đạt được
những thành tựu cơ bản nhưng chưa tạo ra được bước tiến lớn và vững chắc,
chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên nhưng vẫn còn hạn chế, đặc biệt
là trong rèn luyện đạo đức cách mạng; công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chưa
khoa học, không gắn liền với công tác qui hoạch và sử dụng cán bộ.
5. Quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã để
lại nhiều những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng và chình đốn
Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức, đặc biệt là bài học về giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Phải coi trọng công tác chính trị - tư tưởng
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình xây dựng
Đảng. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và đông đảo nhân dân
tham gia xây dựng Đảng. Phải gắn chặt việc xây dựng Đảng với thực hiện các
103
nhiệm vụ chính trị ở địa phương, coi hiệu quả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội là
thước đo kết quả của công tác xây dựng Đảng.
6. Để khắc phục được những tồn tại, yếu kém đó cần có sự góp sức của
toàn Đảng, toàn dân, cần có những biện pháp, chính sách và việc làm cụ thể.
Đó là bài toán khó không chỉ đối với các nhà lãnh đạo Đảng mà là bài toán
cần lời giải đáp từ tất cả các cấp, các ngành và của toàn dân để công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng ngày càng đem lại hiệu quả thiết thực, làm cho Đảng
bộ huyện Mỹ Đức thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách xuyên tạc, vu cáo Đảng,
đánh thẳng vào hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, chia rẽ
nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng,
chế độ ta từ gốc, từ bên trong hết sức thâm độc, nguy hiểm.Trong tình hình
ấy, nếu Đảng không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng, không thống nhất
cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống, không chặt
chẽ về tổ chức thì không thể đứng vững, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước vững
bước tiếp tục đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cần đề ra chủ trương phải tiếp tục củng
cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết hơn, mạnh
mẽ hơn nhằm mục đích tạo ra bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn
và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng
cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức
chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Muốn có được uy tín và sức mạnh thì Đảng phải tự rèn luyện, tự củng cố,
tự đổi mới, chỉnh đốn; không ai có thể làm thay được. Từng tổ chức đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành phải nhận thức đầy
104
đủ, sâu sắc về vấn đề này để tự giác làm. Các cán bộ, đảng viên cùng thực hiện.
105
DANH M C TÀI LI U THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2006), Vận dụng và phát triển tư tưởng
HồChí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội
Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội.
3. Ban Thường vụ huyện ủy Mỹ Đức, Báo cáo số 182-BC/HU, ngày 4/7/2013
về “Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, hội nghị Trung ương
lần thứ 7(khoá X) và Chương trình hành động số 02 của thành ủy Hà Nội
(khóaXIV) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Mỹ Đức”.
4. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2005, phương hướng, nhiệm vụ năm 2006, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
5. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2006), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2006, phương hướng, nhiệm vụ năm 2007, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
6. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2007), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2007, phương hướng, nhiệm vụ năm 2008, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
7. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2008), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
8. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2009), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
9. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2010, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
106
10. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2010, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
11. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2011), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ năm 2012, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
12. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2012), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
13. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2013), Báo cáo tổng kết công tác tư
tưởng tuyên giáo năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ năm 2014, lưu
tại Văn phòng Huyện ủy.
14. Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2012), Tài liệu hỏi - đáp xây dựng
nông thôn mới.
15. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Tài liệu học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minhvề phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Phan Xuân Biên (chủ biên) (2005),Một số vấn đề đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ
sở, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Lê Đức Bình (2002),Mấy vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Bộ giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Doan (chủ biên) (2006),Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Lê Duẩn (1978), Về vấn đề xây dựng Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
107
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Xây dựng, tổ chức Đảng trong sạch,
vững mạnh trong tiến trình hội nhập, thực trạng và các biện pháp thực
hiện tiết kiệm, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội
(2004), Lịch sử thành phố Hà Nội (1930 – 2000), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội
(2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà
Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội
(2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ thành phố Hà
Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2010), Các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức (1947 – 2010), Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tập I (1930 -1953) Hà Tây.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức
(2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tập II (1954 -2000) Hà Tây.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2000), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XX Đảng bộ huyện Mỹ
Đức nhiệm kỳ 2000 -2005”, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2005), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ huyện
Mỹ Đức nhiệm kỳ 2005 -2010”, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2010), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện
Mỹ Đức nhiệm kỳ 2010 -2015”, Hà Nội.
108
32. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2013), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2012, phương
hướng trọng tâm trong năm 2013”, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2014), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2013, phương
hướng trọng tâm trong năm 2014”, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ
Đức (2015), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2014, phương
hướng trọng tâm trong năm 2015”, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Giáo trình Xây dựng Đảng (1979), Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội.
38. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên, 2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh
và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Bùi Thị Thu Hà (chủ biên 2008), Biên niên công tác tổ chức – xây dựng
Đảng, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Hoàn (2002): Đảng bộ thành phố Thái Nguyên thực hiện
nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1986 – 2000, luận văn
thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
41. Ngô Thị Lan Hương (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Học viện Chính trị quân sự (2003),Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
109
43. Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam,
kinh nghiệm của Trung Quốc (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Huyện ủy Mỹ Đức (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2001, lưu tại Văn phòng
Huyện ủy.
45. Huyện ủy Mỹ Đức (2005), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005, lưu tại Văn phòng
Huyện ủy.
46. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu tại Văn phòng
huyện ủy.
47. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XX, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
48. Huyện ủy Mỹ Đức (2005), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXI, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
49. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXII, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.
50. Huyện ủy Mỹ Đức (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án đổi
mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ (2005 – 2010), lưu tại
Văn phòng Huyện ủy.
51. Trần Đình Huỳnh – Mạch Quang Thắng (1993),Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng của chúng ta, Nxb Lao động, Hà Nội.
52. V.I.Lênin (1978), Về những nguyên tắc tổ chức của Đảng vô sản,
NxbSự thật, Hà Nội.
53. V.I.Lênin (1978), Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
54. V.I.Lênin – I.V.Xtalin (1976), Bàn về tự phê bình và phê bình, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (1976),Về tự phê bình và phê bình, Nxb Sự thật, Hà Nội.
110
56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Trần Quân Nhiếp (2013), Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tạp chí báo cáo viên số .
61. Nhiều tác giả (2007), Mỹ Đức trên đường hội nhập, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
62. Nguyễn Thế Nghĩa (2009), “ Di chúc Hồ Chí Minh và con đường đổi
mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 11.
63. Lưu Quang Quân (chủ biên, 2004),Xây dựng, chỉnh đốn Đảng chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Tô Huy Rứa và các tác giả (2005): Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lí
luận của Đảng 1986 – 2005, Tập 1, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.
65. Tô Huy Rứa và các tác giả (2005),Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lí
luận của Đảng 1986 – 2005, Tập 2, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.
66. Trần Thanh Sơn (chủ biên, 2002), Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch, vững mạnh của Đảng bộ Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
67. Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công
tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2000, luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
68. Bùi Ngọc Thanh (2012), Một số vấn đề xây dựng Đảng và công tác cán
bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Thành ủy Hà Nội (2011), Chương trình số 01 – Ctr/TU “Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất lượng đội ngũ đảng
viên; Năng lực quản lí, điều hành của bộ máy chính quyền, chất lượng
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các cấp giai
đoạn 2011 – 2015”, lưu tại văn phòng huyện ủy.
111
70. Lê Đức Thọ (1996), Những nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Lê Quang Thường (1996), Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Đặng Hữu Toàn (2009), “ Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Việc cần
phải làm trước tiên trong Di chúc của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết
học, số 8.
73. Nguyễn Phú Trọng (2012), Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn
đề lí luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Tổ chức quan triệt đưa Nghị quyết X của Đảng và cuộc sống, Nxb. Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội, 2006.
75. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2000), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2000 – 2005 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện ủy.
76. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2005 – 2010 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện ủy.
77. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2010 – 2015 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện
ủy.
78. Website: www.dangcongsan.vn
112
PH L C
Phụ lục 1
K t quả các ch tiêu phát tri n inh t của hu ện M Đức từ 2005-2013
Số
ChØ tiªu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Đơn vị
TT
Lĩnh vực kinh tế
ớc
A
đạt
Tổng giá trị tăng
1
Tû ®ång 494,9 548,0 618,9 681,1 739,7 832,7 927,1 1.022,5 1.122,0
gia(1994)
Tốc
độ
tăng
2
%
9,7
10,7
12,9
10
8,6
11,2
11,3
10,4
9,7
trưởng( DP)
3
Cơ cấu kinh tế
%
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Dịch Vụ
%
23,3
24,7
29,4
32,9
35,7
34,9
35
35,6
38,2
Công
nghiệp-
%
18,8
20,2
20,2
20,8
22,2
24,5
25,5
26
27,3
Xây dựng
Nông Nghiệp
%
57,9
55,1
50,4
46,3
41,7
40,6
39,5
38,4
34,5
Triệu
Thu nhập Bình
4
đồng/người/
3,9
4,3
5,5
6,6
7,4
10,4
12
14
15,5
quân đầu người
năm
(Nguån: Chi côc Thèng kª huyÖn Mü §øc tháng 10/2013)
Phụ lục 2
Tổng hợp t quả ph n loại đảng viên từ 2005-2012
Năm
Vi
ĐTC,
Tỷ
lệ
ĐTC,
Tỷ
lệ
ĐTC,
Tỷ
lệ
phạm
Tỷ
lệ
HTXSNV
%
HTTNV
%
HTNV
%
%
tư
Đảng viênđược
cách
đánh giá/tổng số
Năm 2005
251
5,1
1.952
39,7
2.658
54,1
52
1,1
4.913/5.795
Năm 2006
362
7,0
2.154
41,6
2.640
51,0
19
0,4
5.175/6.035
Năm 2007
395
7,6
2.242
43,2
2.504
48,0
64
1,2
5.205/6.133
Năm 2008
783
14,9
3.548
67,8
842
16,2
57
1,1
5.230/6.188
Năm 2009
840
15,8
3.363
63,5
1.060
20,1
33
0,6
5.296/6.276
Năm 2010
1.045
19,1
3.560
65,0
826
15,2
41
0,7
5.472/6.514
Năm 2011
740
13,3
4.036
71,4
838
14,8
31
0,5
5.645/6.686
Năm 2012
738
12,5
4.173
63,6
966
16,3
45
7,6
5.922/6.966
(Nguån: Ban Tổ chức huyÖn ủy Mü §øc tháng 10/2013)
Phụ lục 3
B nh qu n thu nhập đầu người ở M Đức từ năm 2005 - 2013
(Đơn vị tính triệu đồng/ người/ năm)
15,5
14,0
12,0
10,4
7,4
6,6
5,5
4,3
3,9
18 16 14 12 10 8 6 4 2 0
1
2005 2008 2011
2006 2009 2012
2007 2010 Ư c đạt 2013
(Nguồn: Chi cục Thống kê Mỹ Đức tháng 10-2013)
Phụ lục 4
Cơ cấu inh t các ngành từ năm 2005- 2013
( Đơn vị tính %)
(Nguồn: Chi cục Thống kê Mỹ Đức tháng 10-2013)
Phụ lục 5
Tổng hợp t quả ph n loại tổ chức cơ sở Đảng của hu ện M Đức từ 2005-2012
Năm
TTCC
TTCC
Số
TCCSĐ
TTỷ lệ
TTCCSĐ
TTỷ
SĐ
TTỷ
lệ
SĐ
Tỷ
lệ
TCCSĐ
TSVM
%
HTTNV
lệ %
HTN
%
%
yếu
được đánh
V
kém
giá/tổng số
58
Năm 2005: 73/73
779,4
00
00
115
220,6
00
0
(tiêu biểu 16)
54
Năm 2006: 75/75
772,0
00
00
220
228,0
00
0
(tiêu biểu 18)
52
Năm 2007: 75/75
669.3
00
00
223
330.7
10
0
(tiêu biểu 19)
118,0
51
Năm 2008: 72/72
770,83
113
77
99,72
21
1,38
5
(tiêu biểu 19)
60
Năm 2009: 73/73
882,2
44
55,5
77
99,6
02
2,7
(tiêu biểu 17)
57
Năm 2010: 73/74
778,1
66
88,2
110
113,7
00
0
(tiêu biểu 18)
40
772,7
99
116,4 66
110,9
00
0
Năm 2011: 55/56
(tiêu biểu 10)
40
Năm 2012: 56/56
71,4
110
117,8 66
110,8
00
0
(tiêu biểu 11)
(Nguån: Ban Tổ chức huyÖn ủy Mü §øc tháng 10-2013)
Phụ lục 6
Số lượng đảng viên t nạp qua các năm từ 2005-10/2013
(Nguồn: Ban Tổ chức huyện ủy Mỹ Đức, tháng 10 năm 2013
LỜI CẢM N
Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam cùng các thầy giáo, cô giáo Khoa Lịch sử trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội đã trực tiếp
giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới P S.TS Ngô Đăng
Triđã tận tình chỉ bảo hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ThSĐặng Đình Thoan (Phó iám đốc Trung tâm
Chính trị huyện Mỹ Đức) đã cung cấp tư liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn gia đình,bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Tr n trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn
Lê Thị Loan
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu được nêu trong Luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
được ai công bố. Những luận điểm mà Luận văn kế thừa của những tác giả đi
trước đều được trích dẫn nguồn chính xác, cụ thể.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn
Lê Thị Loan
M C L C
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
3.Mục đích, nhiệm vụ ........................................................................................ 7
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ........................... 8
6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 9
Chương 1: CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V
XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C T NĂM 200
Đ N NĂM 2010 ............................................................................................. 10
1.1 Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2008 – 2010) ............. 10
1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở huyện Mỹ Đức đến năm 2008 ............................................................ 10
1.1.2 Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2008 – 2010) ......... 21
1.2 Quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng (2008 – 2010) ........................................................................................ 27
1.2.1 Xây dựng Đảng về chính trị ................................................................... 27
1.2.2 Xây dựng Đảng về tư tưởng ................................................................... 30
1.2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức ..................................................................... 34
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 37
Chương 2: CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V
XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C T NĂM 2011
Đ N NĂM 2014 ............................................................................................. 38
2.1 Yêu cầu mới và chủ trương đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng
bộ huyện Mỹ Đức (2011 – 2014) .................................................................... 38
2.1.1 Yêu cầu đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức ............ 38
2.1.2 Chủ trương đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng ................................... 40
2.2 Đảng bộ huyện Mỹ Đức chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ................................................................................................................ 47
2.2.1 Xây dựng Đảng về chính trị ................................................................... 47
2.2.2 Xây dựng Đảng về tư tưởng ................................................................... 50
2.2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức ..................................................................... 54
Ti u t chương 2 .......................................................................................... 60
Chương 3: NHẬN X T VÀ KINH NGHI M ............................................ 62
3.1. Nhận xét ................................................................................................... 62
3.1.1. Về chủ trương và sự chỉ đạo ................................................................. 62
3.1.2 Về kết quả và hạn chế ............................................................................ 69
3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................. 81
3.2.1. Kinh nghiệm trong xác định chủ trương ............................................... 81
3.2.2 Kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện ..................................................... 87
Ti u t chương 3 .......................................................................................... 98
K T LUẬN .................................................................................................. 101
DANH M C TÀI LI U THAM KHẢO ................................................... 106
PH L C