ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------

LÊ THỊ LOAN

§¶NG Bé HUYÖN Mü §øC (Hµ NéI)

THùC HIÖN NHIÖM Vô X¢Y DùNG §¶NG

Tõ N¡M 2008 §ÕN N¡M 2014

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số : 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri

HÀ NỘI - 2015

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Một trong những đóng góp to lớn và vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin

đó là chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác – Lênin

cũng đặt ra yêu cầu đối với giai cấp công nhân muốn hoàn thành được sứ

mệnh lịch sử của mình, đưa cách mạng đi đến thành công thì phải thành lập

được một chính đảng của giai cấp công nhân, chính đảng đó là Đảng Cộng

sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng

thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại

biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của

dân tộc. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải bao gồm những người ưu tú nhất, có đủ

năng lực và phẩm chất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng chung.

Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng

Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang giành được những thắng lợi vĩ đại trong

đấu tranh cách mạng, giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng như trong công

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để có được những thắng lợi vĩ

đại đó, một nhân tố không thể thiếu đó là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng

suốt của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đảng có vững,

cách mạng mới thành công”. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng cần tiến hành

thường xuyên, liên tục, kịp thời và phát huy được hiệu quả. Trong suốt quá

trình hoạt động các mạng, nhất là trước những bước ngoặt của lịch sử, mối

quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chăm lo “xây dựng Đảng”.

Ngày nay, cách mạng nước ta đang chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, càng đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần

tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư

tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo

1

cách mạng của Đảng, đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng.

Kể từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn coi nhiệm vụ xây dựng Đảng

là một yêu cầu bức thiết, là nhu cầu tồn tại và phát triển không chỉ của bản

thân Đảng mà của sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Đảng ta đã có

nhiều nghị quyết cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng, coi đây là “một

nhiệm vụ then chốt”, đặc biệt, vấn đề này càng được nhấn mạnh hơn trong

thời kỳ đổi mới, thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những

điều kiện lịch sử mới. Những nghị quyết quan trọng về công tác xây dựng

Đảng như Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6

(lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI),... đã đặt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất quan

trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, tư tưởng và tổ chức tốt công tác cán bộ,

xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên kết quả thu được là có ý

nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực

lãnh đạo của Đảng ta.

Tình hình Đảng có một số những chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc

thực hiện chưa đạt được những hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, vấn đề là

phải làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh “nói phải đi đôi với làm”, phải làm cho

bằng được các nghị quyết đã đề ra. Đảng phải tự chỉnh đốn, không ngừng rèn

luyện, phấn đấu nâng cao phẩm chất và năng lực để lãnh đạo thành công sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội hơn 60 năm xây dựng và

trưởng thành đã lãnh đạo các chi bộ Đảng địa phương và nhân dân trong

huyện tiến hành sự nghiệp cách mạng chung giành được nhiều thắng lợi.

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh về cả số

lượng và chất lượng đảng viên. Đảng bộ đã không ngừng được tăng cường và

củng cố. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành

được những thành tựu to lớn không chỉ trong thời kỳ đấu tranh cách mạng mà

cả trong thời kỳ đất nước đổi mới, cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa

2

xã hội hiện nay. Các cán bộ đảng viên thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh luôn phấn đấu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

“giữ gìn sự trong sạch của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Đặc biệt, kể từ 01/08/2008, tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào thành phố

Hà Nội, cùng với đó là sự sáp nhập về mọi mặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức

đã thu được những kết quả đáng tự hào, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm

vụ xây dựng Đảng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay có một số hiện tượng cán bộ đảng

viên bị thoái hóa, biến chất, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt đảng viên

đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng lại vi phạm Điều lệ Đảng. Ngoài ra, kẻ thù

tấn công vào Đảng thông qua hình thức mua chuộc một số các cán bộ, đảng viên

không có lập trường kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, thoái hóa biến chất,

tham ô tham nhũng,…Hiện tượng “tự diễn biến” trong Đảng sẽ trở thành một

nguy cơ to lớn gây ảnh hưởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù đó chỉ là

những hiện tượng rất ít, chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng cũng phần nào

làm suy yếu Đảng, méo mó hình ảnh Đảng trong lòng nhân dân, ít nhiều làm mất

niềm tin của dân vào Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví đó là một căn bệnh, một

u nhọt có thể dẫn tới căn bệnh ung thư cho Đảng.

Trong “Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện Mỹ Đức

nhiệm kỳ 2010 – 2015” trong công tác xây dựng Đảng, đã đề cập một cách

toàn diện về công tác giáo dục chính trị; công tác củng cố tổ chức xây dựng

Đảng; công tác kiểm tra, giám sát; công tác dân vận,… Đảng bộ huyện Mỹ

Đức đã và đang triển khai thực hiện học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị

quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI

(12/2011)Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết số

11 của Bộ Chính trị khóa XI “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô

Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020” và 9 chương trình công tác của Ban Chấp

hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XV. Những kết quả bước đầu thu

3

được đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Mỹ Đức và hứa hẹn

những kết quả tốt đẹp, đầy triển vọng, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ

xây dựng Đảng hiện nay.

Chính vì vậy, tác giả chọn luận văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà

Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014” để

nghiên cứu nhằm góp phần khẳng định giá trị to lớn của sự lãnh đạo đúng đắn

của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và của Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói

riêng về công tác xây dựng Đảng giai đoạn 2008 – 2014. Đồng thời, khẳng

định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự

nghiệp cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng là một yêu cầu bức thiết.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Xây dựng Đảng là mảng đề tài đã được nhiều tác giả, tổ chức hoặc các

cơ quan ngôn luận nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những nội dung đã được đề

cập trước đó giúp tôi tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày vấn đề một cách hệ

thống, cụ thể hơn đối với Đảng bộ huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội (2008

– 2014), đặc biệt là vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 4 khóa XI (12/2011) của Đảng ta.

Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng đã được công

bố là rất nhiều và có những đóng góp quan trọng về cả lí luận và thực tiễn đối

với Đảng ta, góp phần chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải

pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta. Trong

đó không thể không kể đến những tác phẩm lí luận xuất sắc về vấn đề này của

các nhà lãnh đạo Đảng như:

Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản

Trung Quốc (2004): Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam,

kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Hội thảo đã khẳng định vị trí then chốt của Đảng cách mạng trong sự

nghiệp xây dựng xã hội mới; khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng

cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng; tổng kết một bước những kinh

4

nghiệm lí luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thúc

đẩy đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đáp ứng lợi ích của

hai dân tộc. Hội thảo đặt ra yêu cầu tất yếu phải luôn kiên trì đẩy mạnh công

tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ, phương thức

lãnh đạo, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân trong điều kiện Đảng

cầm quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, một số vấn đề chỉ ra còn giới hạn trong phạm vi lí thuyết và

một số những biện pháp còn chưa cụ thể, thiết thực đối với Đảng Cộng sản

của mỗi nước.

Bùi Ngọc Thanh (2012): Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác

cán bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Trong cuốn sách này, tác giả Bùi Ngọc Thanh đã chỉ ra những vấn đề

cơ bản nhất của công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ theo tinh thần của

chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ

ra vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ cần nêu cao tinh thần tự phê

bình và phê bình, phải biết lựa chọn và sử dụng cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã dạy là “phải khéo dùng người”, và những vấn đề có tính nguyên tắc

trong công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ.

Mặc dù vậy, trong cuốn sách tác giả mới chỉ đề cập tới một vài khía

cạnh của người cán bộ đảng viên mà chưa đề cập tới một cách toàn diện, chưa

chỉ ra được những hiện tượng phức tạp của một số cán bộ đảng viên có những

hành vi vi phạm Điều lệ Đảng thì cần phải có những biện pháp gì để giáo dục

họ và tăng cường sức mạnh cho Đảng ta?

Nguyễn Phú Trọng (2012): Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn

đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đây là một cuốn sách mới được xuất bản do Tổng Bí thư Đảng Cộng

sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng viết. Trong tác phẩm này, đồng chí Tổng Bí

thư đã tổng kết các công tác xây dựng Đảng của Đảng ta kể từ khi ra đời cho

đến nay. Trong đó, Tổng Bí thư đã đưa ra những lí luận của các nhà kinh điển

5

của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như các lãnh tụ của các Đảng Cộng sản như

quan điểm của Mao Trạch Đông,… về xây dựng Đảng. Bên cạnh mặt lí luận

là những bài học thành công và thất bại từ thực tiễn của công tác xây dựng

Đảng của Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc cũng như của thực tiễn nước ta. Từ

đó, chỉ ra những vấn đề mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát

triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nội dung cuốn sách đề cập nhiều vấn đề phong phú về lý luận và thực

tiễn gồm bốn phần:

Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về Đảng và công tác xây dựng Đảng.

Phần thứ hai: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.

Phần thứ ba: Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ.

Phần thứ tư: Rèn luyện đạo đức, lối sống.

Ngoài ra, còn có rất nhiều các tác phẩm, các tài liệu, các công trình nghiên

cứu hay các hội thảo đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng trên những khía cạnh cụ

thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam được đăng trên các

tạp chí Thông tin lý luận, tạp chí Cộng sản, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí Lịch

sử quân sự,... Một số các bài viết như: Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt

tạo chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng của tác giả Nguyễn Đức

Hạt đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng (2006), Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ

thống chính trị là một nhiệm vụ trong toàn bộ cuộc vận động xây dựng, chỉnh

đốn Đảng của đồng chí Lê Khả Phiêu đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng

(1999),...

Đồng thời, có một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng

sản Việt NamTrường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học quốc gia

Hà Nội nghiên cứu về xây dựng Đảng như:

Đoàn Thị Khánh Hà (2002): Đảng bộ thành phố Việt Trì thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1996 – 2000.

Ngô Thị Lan Hương (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm

vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010.

6

Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công

tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2001.

Tất cả những tạp chí, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu,

luận văn, ... trên đề cập đến những vấn đề chủ yếu, cốt lõi của công tác xây

dựng Đảng. Tuy nhiên, mỗi tác giả tiếp cận ở những góc độ, khía cạnh khác

nhau và có những ý kiến riêng của mình. Đây là những tư liệu mang tính chất

nền tảng, cơ sở và chính là tài liệu quan trọng cho Đảng ta trong quá trình

thực hiện công tác xây dựng Đảng và đặc biệt giúp cho tác giả thực hiện luận

văn: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng

từ năm 2008 đến năm 2014”. Tuy luận văn còn có một số hạn chế nhất định

nhưng đã thể hiện một cách hệ thống những thành tựu cũng như những hạn

chế của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014, đồng thời chỉ ra những giải pháp nhằm

khắc phục những hạn chế đó trong giai đoạn hiện nay. Để việc thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Đảng thu được những kết quả như mục tiêu đã đề ra thì

cần có sự tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo,

phù hợp ở các cấp chi bộ Đảng địa phương, ở tất cả các cấp. Mặc dù phạm vi

nghiên cứu là Đảng bộ một huyện thuộc thành phố Hà Nội nhưng cũng đóng

góp những giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng ở các Đảng bộ các cấp

các nghành khác với những biện pháp cụ thể, linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp.

3.Mục đích, nhiệm vụ

3.1. Mục đích

Tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trương, biện pháp, kết quả tổ chức thực

hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) từ năm

2008 đến năm 2014 là mục đích nghiên cứu chính của đề tài. Từ đó, nhằm

làm rõ thêm lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức thời kỳ này. Những bài học kinh

nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà

Nội) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014 sẽ là

những kiến nghị, đề xuất, giải pháp để Đảng bộ huyện Mỹ Đức đạt được

7

những kết quả tốt hơn nữa trong lĩnh vực xây dựng Đảng thời gian tới

3.2. Nhiệm vụ

Luận văn có nhiệm vụ thu thập, bổ sung và xử lí những nguồn tư liệu về

đề tài một cách khoa học để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trình bày một

cách hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện các nhiệm vụ của

công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến năm 2014. Từ đó, rút ra được những

nhận xét về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm

của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ

năm 2008 đến năm 2014.

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Những chủ trương, kế hoạch, biện pháp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức

trong công tác xây dựng chính Đảng và những kết quả, ý nghĩa của việc thực

hiện những chủ trương trên.

4.2. Phạm vi

- Về nội dung: Tìm hiểu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; những

thành tựu, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lí luận và

thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức hiện nay.

- Về thời gian: từ năm 2008 đến năm 2014.

- Về không gian: Trên địa bàn huyện Mỹ Đức bao gồm 22 xã, thị trấn.

5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ

2008 – 2014.

* Nguồn tài liệu:

Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập; Các công trình khoa

học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề xây dựng Đảng; những văn kiện,

8

Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo chính trị của Trung ương Đảng; các chủ trương,

chương trình hành động, báo cáo của Thành uỷ Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Hội

đồng nhân dân thành phố, các Báo cáo tổng kết, Nghị quyết, kế hoạch,... của

Đảng bộ huyện Mỹ Đức, Đảng uỷ cấp cơ sở về vấn đề xây dựng Đảng. Ngoài

ra luận văn còn sử dụng tài liệu, các công trình trình bày ở trên.

* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic.

Bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp liên ngành như: Phân tích, tổng

hợp, đánh giá, thống kê, so sánh, khảo sát, điều tra...

6. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu

thành 3 chương, 6 tiết.

Chương 1:CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M

V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M

2008 Đ N N M 2010

Chương 2: CHỦ TR N V S CH Đ O TH C HI N NHI M

V XÂY D N Đ N CỦ Đ N B HUY N M ĐỨC TỪ N M

2011 Đ N N M 2014

Chương 3: NH N X T V KINH N HI M

9

Chương 1

CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V

XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C

T NĂM 200 Đ N NĂM 2010

1.1 Chủ trương d ng Đảng của Đảng ộ hu ện M Đức

(2008 – 2010)

1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và t nh h nh thực hiện nhiệm vụ

xây dựng Đảng huyện Mỹ Đức đến năm 2008

* Các yếu tố tác động, chi phối đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức

Về tự nhiên: Huyện Mỹ Đức nằm ở phía tây nam của thành phố Hà

Nội, cách trung tâm Hà Nội gần 50 km; gồm 22 xã, thị trấn, trong đó có 21

xã, thị trấn đồng bằng dọc sông Đáy, một xã miền núi có dân tộc Mường.

Huyện có hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. “Phía Bắc giáp huyện

Chương Mỹ, phía Đông giáp huyện Ứng Hoà (ranh giới tự nhiên là sông

Đáy), phía Tây giáp huyện Lương Sơn, Kim Bôi và Lạc Thuỷ tỉnh Hoà Bình,

phía Nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam”[07; 05].

Địa dư hành chính huyện Mỹ Đức ra đời trải qua một quá trình đấu

tranh lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ thời kỳ nghìn

năm Bắc thuộc đến cuối thế kỷ thứ XIX.

Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Mỹ Đức hiện nay là 23.146,93 ha,

chiếm 6,93% tổng diện tích tự nhiên của Hà Nội (trong đó đất nông nghiệp là

14.396,26ha, chiếm 62,2% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp

6.567,42ha, chiếm 28,37% so với tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng

2.183,25ha, chiếm 9,43% tổng diện tích tự nhiên). Dân số năm 2012 là 170.831

nhân khẩu (chiếm 2,65% tổng dân số của Hà Nội). Mật độ dân số trung bình là 747 người/km2. Trung tâm của huyện là thị trấn Đại Nghĩa. [13; 02].

Huyện Mỹ Đức có điều kiện thuận tiện giao lưu kinh tế - xã hội với các

10

địa phương trong và ngoài tỉnh thông qua hệ thống đường bộ và đường thủy,

khai thác thị trường Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam. Mỹ Đức là một huyện có cả

đồng bằng và rừng núi, có nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp

chế biến, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp khai thác. Hơn nữa, huyện có rừng

và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Chùa Hương, điểm du lịch Hồ Quan

Sơn. Toàn huyện có trên 200 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 67 di tích

lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Vì vậy, Mỹ Đức có nhiều điều kiện phát

triển, mở rộng dịch vụ du lịch văn hóa.

Là huyện thuần nông, thổ nhưỡng của Mỹ Đức chủ yếu là đất phù sa

không được bồi, đất vùng trũng thuộc loại đất thịt nặng, nghèo nàn. Đất đai

vùng này thích ứng cho cây lương thực, cây rau màu, cây nông nghiệp,... cho

năng suất cao, khối lượng sản phẩm lớn không thua kém các vùng có trình độ

thâm canh khá.

Về kinh tế

Người dân Mỹ Đức từ xưa tới nay luôn cần cù, giản dị, trung thực, chịu

thương, chịu khó và có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động –

sản xuất, trong chiến đấu và trong cuộc sống. Tiếp tục phát huy những kết quả

đạt được sau những năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và

lãnh đạo, trong những năm qua, Đảng bộ huyện xác định phát triển kinh tế

nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù là một huyện nông nghiệp, xuất

phát điểm thấp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân trong

huyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên và giành được nhiều kết quả đáng

khích lệ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc

phòng,… Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 9,5 %. Bình quân thu nhập

đầu người năm 2008 là 5,9 triệu đồng, năm 2010 là 10,40 triệu đồng [13; 03].

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tính đến năm 2008 tỷ trọng nông-

lâm nghiệp 57,9% ; tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 18,8%; dịch vụ- du lịch là

23,3% [13; 03].

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản giao thông – thủy lợi và các công

11

trình phúc lợi xã hội phục vụ cho đời sống dân sinh, thúc đẩy cho kinh tế phát

triển được huyện chủ động và có nhiều cố gắng. Đầu tư xây dựng cơ bản tăng

bình quân 30,3%/năm. Huyện đã chủ trương tranh thủ sự hỗ trợ vốn của Nhà

nước, của thành phố và huy động nguồn lực trong nhân dân để xây dựng:

điện, đường, trường, trạm, trụ sở làm việc, nhà văn hóa thôn, công trình thủy

lợi, vệ sinh môi trường,… Các công trình này đều được đẩy mạnh và triển

khai thực hiện tốt. Đến nay hệ thống đường giao thông trong huyện, nhất là hệ

thống giao thông nông thôn đã cơ bản được bê tông hóa, nhựa hóa đảm bảo

đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển cho nhân dân.

Về chính trị

Mỹ Đức là huyện sớm có phong trào cách mạng ở phía nam thành phố,

với hai chi bộ Đốc Tín và Vĩnh Lạc từng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng trên

địa bàn huyện trong cuộc vận động giải phóng dân tộc thời kỳ 1939 - 1945.

Tháng 9/1945, Chi bộ Đảng huyện Mỹ Đức ra đời. Trong bối cảnh sau cách

mạng tháng Tám, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật, tổ chức Đảng gọi là

Hội. Giữa năm 1946, Ban cán sự Đảng bộ huyện Mỹ Đức được thành lập.

Tháng 10/1946, Ban cán sự chuyển thành Ban Huyện ủy. Đó là cơ sở để

tháng 11/1947 Đảng bộ huyện Mỹ Đức ra đời.

Xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong những

năm qua, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được các cấp ủy Đảng từ huyện

đến cơ sở thường xuyên chú trọng. Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương,

của Thành phố và của huyện đều được quán triệt đầy đủ, kịp thời tới toàn thể

cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đặc biệt, trong việc

triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh”. Hàng năm đều có kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động

cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm túc các chuyên đề theo

đúng kế hoạch chỉ đạo của cấp trên. Thông qua việc học tập, giúp cho cán bộ,

đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ

bản, về những giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức cách mạng của

12

Người, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo

đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn

Đảng bộ và toàn dân.

Điều kiện chính trị xã hội ở huyện Mỹ Đức còn có những đặc thù riêng

tác động đến chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn của huyện. Đó

là một số xã ở huyện vừa có đồng bào người kinh xen lẫn với đồng bào dân

tộc, chủ yếu là dân tộc Mường, hai xã phần lớn theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy,

những vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ

cán bộ dân tộc và tôn giáo, chính sách đối với cán bộ dân tộc cần phải được

quan tâm.

Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây của huyện

Mỹ Đức đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở

huyện, tạo điều kiện cho huyện phát triển về các mặt kinh tế chính trị, văn

hóa, xã hội; đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế. Điều đó đã phản ánh qua

kết quả và những hạn chế chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thị trấn

của huyện Mỹ Đức.

Về văn hóa- xã hội, giáo dục, y tế

Sự nghiệp giáo dục – y tế được đầu tư xây dựng kiên cố, phát triển

mạnh. “Cả 22/22 trạm y tế xã, thị trấn đã đạt chuẩn quốc gia và đều có bác sỹ.

Hiện nay toàn huyện Mỹ Đức có 83 trường học các cấp (trong đó 5 trường

phổ thông trung học và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm giáo dục

thường xuyên; 23 trường trung học cơ sở, 29 trường tiểu học, và 24 trường

mầm non). Chất lượng giáo dục và chất lượng khám chữa bệnh ngày càng

được nâng cao. Năm 2000, huyện đã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo

dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2001 huyện được công nhận hoàn thành phổ

cập giáo dục trung học cơ sở và đang tích cực triển khai phổ cập giáo dục bậc

trung học phổ thông. Đội ngũ giáo viên từ mầm non đến trung học phổ thông

100% đã đạt chuẩn (trong đó trên 45% vượt chuẩn). Bình quân mỗi năm Mỹ

Đức có 150 đến 200 em học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học”

13

[30; 46].Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Nghị quyết TW10

(khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc gắn với phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở

khu dân cư”, xây dựng “người Hà Nội thanh lịch, văn minh,” được các tầng

lớp nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng và đẩy mạnh.

Toàn huyện có 2820 nh hùng liệt sỹ (trong đó liệt sỹ chống Pháp 553,

liệt sỹ chống Mỹ 1906, liệt sỹ bảo vệ tổ quốc 361), ghi nhận những thành tích

to lớn đó, năm 2000, huyện vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu đơn vị

nh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8/22 xã, thị trấn trong huyện cũng đã

vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu này vì đã có công lao đóng góp to

lớn cho sự nghiệp cứu nước của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và chống Mỹ. Toàn huyện có 117 bà mẹ Việt Nam được Nhà nước phong

tặng, truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam nh hùng. Hiện nay 100% số gia

đình chính sách, gia đình có công với cách mạng trong huyện đã có mức sống

khá, so với mức sống chung của nhân dân toàn huyện [30; 49].

Về An ninh- Quốc phòng

Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện

đến xã, trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội trên

địa bàn huyện luôn được bảo đảm và giữ vững, không có vụ việc lớn xảy ra.

Công tác quân sự địa phương thực hiện tốt. Lực lượng quân sự địa phương

luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Các xã, thị trấn đều có lực lượng dân quân

tự vệ và lực lượng dự bị động viên sẵn sàng ứng phó với bất kỳ tình huống

nào xảy ra. Hàng năm các xã, thị trấn đều hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân

cấp trên giao.

* Chủ trương của Đảng và tình hình xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đến

năm 2008 (bổ sung thêm chủ trương của Đảng)

Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nộinhưng là địa

phương sớm có những thanh niên tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và đường

lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

14

Ngay từ khi chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở khu

vực Hà Nội ra đời (1926), ở Mỹ Đức đã có những thanh niên, học sinh sống

và học tập ở các thành thị tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên học

sinh yêu nước do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ đạo. Đốc Tín

chính là chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Mỹ Đức được thành lập năm 1939.

Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng và công tác

xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ được mỗi quan hệ với Ứng Hòa, với

các cơ sở cách mạng ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Một số cán bộ ở Ứng Hòa

và Kim Bảng qua lại giúp đỡ phong trào cách mạng ở Đốc Tín và tuyên

truyền gây nhân mối ở một số các nơi khác trong địa bàn huyện.

Từ giữa năm 1939, tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp. Nguy

cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai do trục phát xít Đức – Ý –

Nhật gây ra ngày một đến gần. Chính phủ Pháp nghiêng dần về phía hữu, bọn

phản động thuộc địa của Pháp ở Đông Dương cũng ngày càng trắng trợn

khủng bố, uy hiếp phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trong tình

hình đó, Tỉnh ủy Hà Đông chỉ đạo phong trào ở vũng nam Mỹ Đức tranh thủ

điều kiện còn thuận lợi tiếp tục mở rộng Mặt trận dân chủ, tập hợp lực lượng

quần chúng, đồng thời chú ý củng cố phong trào, chuẩn bị đề phòng khi cuộc

chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn thống trị sẽ trở mặt đàn áp. Chiến

tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng và công tác xây dựng

Đảng ở Mỹ Đức chuyển sang thời kỳ mới. Đầu năm 1940, phong trào cách

mạng và công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Đức bị tổn thất nghiêm trọng do

khủng bố ở Cao Mật (Hà Nam).

Tháng 8/1941, Tỉnh ủy Hà Đông đề ra kế hoạch chỉ đạo các cơ sở thành

lập Mặt trận Việt Minh. Ban Tỉnh ủy phân công cán bộ về các vùng chỉ đạo

và giúp đỡ các cơ sở thành lập Mặt trận Việt Minh, chuyển các đoàn thể phản

đế thành các đoàn thể cứu quốc, truyền đạt Nghị quyết Trung ương lần thứ 8

và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

Đến giữa 1942, trên địa bàn huyện Mỹ Đức, phong trào và cơ sở cách

15

mạng đã hình thành ở cả ba khu vực: Bắc, Trung và Nam huyện. Trong đó,

Đốc Tín có chi bộ Đảng, là trung tâm của các cơ sở phía nam và khu vực

miền trung huyện. Vĩnh Lạc là trung tâm phong trào ở khu vực phía bắc.

Đối với phong trào và công tác xây dựng tổ chức chính trị của Đảng ở

Mỹ Đức, cuộc mittinh lớn dịp hội chùa Hương năm 1943 đã có ảnh hưởng

vang dội không chỉ trong địa phương mà còn lan xa ra nhiều tỉnh, động viên

mạnh mẽ niềm tin và tinh thần cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, đứng

trước sự phát triển của các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của các cơ

sở Đảng trong huyện, thực dân Pháp ráo riết theo dõi, đe dọa. Phong trào cách

mạng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đối với một số xã từ sau cuộc tuyên

truyền ở chùa Hương bị lắng xuống. Đây chính là thời điểm mà phong trào

cách mạng và công tác xây dựng Đảng phải chống phá với những luận điệu

tuyên truyền về học thuyết “máu đỏ da vàng”, “khối thịnh vượng chung” của

bọn tay sai thân Nhật.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình hình có những thay đổi, đời sống

nhân dân ngày càng khổ cực, dưới sự lãnh đạo của các cán bộ Đảng như:

đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Bùi Quang Tạo,... đã tích cực mở các lớp huấn

luyện, đẩy mạnh tuyên truyền, mở rộng địa bàn hoạt động của Đảng ta.

Tháng 5/1945, chi bộ Vĩnh Lạc đã kết nạp thêm ba quần chúng vào tổ

chức Đảng. Như vậy, phải tới 6 năm sau (từ 1939 đến 1945), phong trào cách

mạng ở huyện Mỹ Đức mới thành lập thêm một chi bộ. Phong trào cách mạng

và công tác xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã thu được những kết quả bước

đầu. Lúc đầu trong huyện chỉ có hai chi bộ là chi bộ Đốc Tín ở phía Nam, chi

bộ Vĩnh Lạc ở phía Bắc huyện, mỗi chi bộ có một vai trò và thời điểm lịch sử

rất khác nhau, nhưng đây là hai tổ chức Đảng đầu tiên của Đảng bộ huyện Mỹ

Đức. Tiếp đó là sự phát triển của hàng loạt các chi bộ Đảng như: 10/1945,

thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Vệt Minh hay còn gọi chi bộ đội công tác

huyện do đồng chí Trương Thị Mỹ làm Bí thư. “Chi bộ cơ quan huyện ra đời

giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo mọi phong trào, trong đó chú trọng việc đào tạo,

16

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên mới và xây dựng củng cố tổ

chức Đảng trên phạm vi toàn huyện. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt

chú trọng nhất là về chính trị tư tưởng và xây dựng tổ chức Đảng từ huyện

đến các xã” [27; 47].

Để làm công tác phát triển Đảng, chi bộ đội công tác huyện thành lập

Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở các tiểu khu, chọn lọc những quần chúng

tiên tiến, tích cực ở các thôn, xã đưa vào Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để

giáo dục, bồi dưỡng về Đảng, về đường lối và nhiệm vụ cách mạng, khi đủ

điều kiện thì kết nạp và sinh hoạt ở chi bộ ghép.

Theo phương hướng đó, những cán bộ đảng viên của chi bộ đội công

tác huyện phụ trách các tiểu khu vừa lãnh đạo phong trào, vừa làm công tác

phát triển đảng viên mới và xây dựng tổ chức Đảng. Công tác xây dựng Đảng

ở huyện Mỹ Đức trong năm 1946 được đẩy mạnh. Cho đến giữa 1946, toàn

huyện có năm chi bộ ghép tiểu khu và hai chi bộ là: Chi bộ Đội công tác

huyện và chi bộ Vĩnh Lạc.

Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 6/1946, Ban cán sự Đảng huyện

Mỹ Đức được thành lập. Chi bộ Đội công tác huyện đã hoàn thành sứ mệnh

và không giữ vai trò lãnh đạo cách mạng như trước, là chi bộ cơ quan huyện.

Tháng 9/1946, Ban Cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển thành Ban

huyện ủy. Công tác xây dựng Đảng ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy mạnh.

Huyện ủy lãnh đạo các xã, ngành tích cực làm công việc chuẩn bị kháng

chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển đảng viên mới, tiến tới mỗi xã

thành lập một chi bộ Đảng.

Công tác phát triển đảng viên mới ở các tiểu khu tiếp tục được đẩy

mạnh. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Huyện ủy phát động đợt kết nạp “lớp

đảng viên kháng chiến”. Từ tháng 7/1947 đến tháng 12/1947, Huyện ủy Mỹ

Đức quyết định thành lập 14 chi bộ cơ sở gồm: Thiết Tháp, Phúc Lâm, Do Lễ,

Yên Lạc, Đục Khê, Phú Yên, n Mỹ, Lễ khê, Trinh Tiết, Hà Xá, Viêm Khê,

n Phúc. Thượng Vệ và chi bộ ghép Khảm Lâm – Yên Cốc.

17

Như vậy, kể từ năm 1939 đến 1947 là 8 năm, công tác xây dựng Đảng

của Đảng bộ huyện Mỹ Đức tiến hành trên cơ sở của nhiệm vụ cách mạng ở

các thời kỳ: iải phóng dân tộc (1939 – 1945); xây dựng củng cố và bảo vệ

chính quyền cách mạng (9/1945 – 12/1946) và năm đầu của cuộc kháng chiến

chống Pháp xâm lược. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo chính

quyền làm nhiệm vụ của nền chuyên chính dân chủ nhân dân, công tác xây

dựng Đảng ở Mỹ Đức bước vào giai đoạn mới, với phương hướng và cách đi

mới mà thời gian đầu là vai trò của chi bộ đội công tác huyện và chi bộ ghép

tiểu khu. Đây là bước đi quan trọng, là nền tảng cho sự ra đời của Ban Huyện

ủy và chi bộ Đảng ở các xã. Yêu cầu đặt ra là bầu Ban chấp hành Đảng bộ

huyện chính thức theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Điều lệ của

Đảng. Do vậy, việc Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ

nhất vào tháng 11/1947.

Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, quê hương

Mỹ Đức được giải phóng (7/1954) cho đến năm 2000 là 46 năm. Đây là chặng

đường cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt của quân và dân Mỹ Đức

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Từ 1947 đến 2010, trải qua 53 năm,

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã diễn ra 22 lần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ

huyện.

Kể từ khi ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở Đốc Tín – Mỹ Đức (1939) chỉ với 2

đảng viên, tiếp đó là chi bộ Vĩnh Lạc và thành lập chi bộ cơ quan Huyện bộ Việt

Minh ban đầu chỉ có 4 đồng chí. Tuy số lượng chi bộ và đảng viên còn rất ít

nhưng đã phần nào phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân

trong huyện. Các chi bộ Đảng không ngừng được củng cố, tăng cường và mở

rộng, số lượng đảng viên và các chi bộ Đảng nhanh chóng phát triển cả về số

lượng và chất lượng.Năm 1946, Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức được thành

lập gồm 5 ủy viên. Đây được coi là một tổ chức tiền thân của Đảng bộ huyện

Mỹ Đức hiện nay. “Tháng 9/1946 Ban cán sự Đảng huyện Mỹ Đức chuyển

thành Ban Huyện ủy, đây được coi là một mốc đánh dấu sự phát triển trong tư

18

duy của Đảng bộ huyện, một bước kiện toàn trong bộ máy chính trị Đảng của

huyện Mỹ Đức” [27; 99].

Tháng 11/1947, Huyện ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần

thứ I. Tháng 3/ 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ II.

Tiếp đó, trong các năm 1952 – 1986 đã diễn ra 15 lần Đảng bộ huyện

Mỹ Đức tiến hành Đại hội đại biểu huyện. Đến 1986, số đảng viên của đảng

bộ huyện đã lên tới 4000 đảng viên.

“Tháng 1/1989 diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ

XVIII với sự tham dự của 287 đại biểu thay mặt cho 4721 đảng viên trong

huyện. Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVIII gồm 37 ủy viên chính

thức” [28; 227].

Trong Đại hội đại biểu huyện lần thứ XVII (9/1986) chỉ đạo về công

tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng phải được tăng cường củng cố

về tổ chức và rèn luyện đội ngũ đảng viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng

và tổ chức. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, giáo dục đường lối,

chính sách của Đảng bằng các hình thức: học tập trung, học tại chức tại các cơ

sở và trường Đảng của huyện làm cho cán bộ đảng viên đổi mới nhận thức,

nhất là tư duy kinh tế. Biết vận dụng đường lối chính sách vào từng cơ sở và ở

từng ngành khác nhau để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng

đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến xã. Củng cố kiện toàn lại tổ chức văn hóa

thông tin, đài truyền thanh. Các cấp ủy, Đảng bộ, chi bộ cải tiến nội dung sinh

hoạt đảm bảo vai trò lãnh đạo, tính tiền phong gương mẫu ở mỗi cán bộ, đảng

viên: nói và làm theo Nghị quyết của Đảng.

Ngoài ra, trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đại hội còn chỉ

ra những yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ đảng viên, đặc biệt đề cao công tác

kiểm tra Đảng: “Công tác kiểm tra của Đảng phải được xây dựng thành

chương trình công tác của các cấp ủy” [28; 206].

Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII (1/1989) đề ra

phương hướng nhiệm vụ chung về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng:

19

“Tiếp tục quán triệt nội dung tinh thần của Nghị quyết 5 của Trung ương về

công tác xây dựng Đảng và tổ chức cán bộ. Hướng tới mục tiêu: Củng cố

được lòng tin của quần chúng đối với Đảng” [28; 221].

Hội nghị Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức giữa nhiệm kỳ, khóa XIX

(4/1994) đề ra tư tưởng chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương

3, Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm

vụ then chốt” [28; 259].

Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XX (3/1996) chỉ rõ:

“Cần tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, thường xuyên giáo dục cho cán

bộ, đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên

định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” [28; 281].

Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXI (11/2000),

Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 có từ 60 – 70% tổ chức cơ sở

Đảng vững mạnh, không còn cơ sở Đảng yếu kém.

Đại hội xác định: “Trong giáo dục chính trị, tư tưởng, phải thường

xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội

Đảng bộ tỉnh, Đại hội Đảng bộ huyện để nâng cao nhận thức chính trị, lập

trường quan điểm, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đề ra các Nghị

quyết chủ trương phù hợp, sát, đúng với tình hình địa phương”. [28; 305].

Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII (09/2005), đề ra

nhiệm vụ “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII, Nghị quyết

Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, các cấp ủy

đảng thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Chỉ đạo đánh giá,

phân loại đúng thực trạng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Thực hiện tốt

Quy định 76 của Bộ chính trị về giới thiệu đảng viên cơ quan giữ mối liên hệ

và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú [28; 321]. Đảng bộ huyện đề ra chủ

trương tăng cường lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh tuyên truyền các chỉ thị, nghị

20

quyết của Trung ương, tỉnh, huyện, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới

cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời, mở nhiều lớp bồi dưỡng lí luận

chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác

khoa giáo,...

Như vậy, đứng trước những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước,

dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Tỉnh ủy Hà

Tây, Thành ủy Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn đề ra những tư tưởng

chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và phù hợp.

1.1.2 Ch trương xây dựng Đảng c a Đảng bộ huyện Mỹ Đức

(2008 – 2010)

* Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu mới về xây dựng Đảng khi Mỹ Đức sáp

nhập vào thành phố Hà Nội

Mỹ Đức là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội.Thời kỳ triều

Nguyễn, Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Nội, sau đó thuộc tỉnh Hà Đông. Hòa bình lập

lại ở miền Bắc, năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được sát nhập thành

tỉnh Hà Tây, Mỹ Đức là một huyện của tỉnh Hà Tây.

Từ năm 1975 đến năm 1991, hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình sát nhập

thành tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.

Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, tái lập tỉnh Hà Tây, tỉnh Hòa Bình,

huyện Mỹ Đức lại thuộc tỉnh Hà Tây như cũ.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ 3, ngày

29/05/2008, từ ngày 01/08/2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mỹ Đức

sáp nhập về thủ đô Hà Nội, trở thành một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội.

Trong những năm trước 2008, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của

Đảng, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Hà Tây đã nỗ lực, phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về

mọi mặt, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng. Kể từ khi sáp

nhập vào trở thành một huyện của thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng

Đảng ở Mỹ Đức đững trước những tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu mới dưới

21

sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội.

Khi sáp nhập thành một huyện của thủ đô, Mỹ Đức có rất nhiều thuận lợi

trên con đường phát triển kinh tế - xã hội.Việc hợp nhất Hà Nội và Hà Tây cũng

là cơ hội để thành phố Hà Nội mới nói chung và huyện Mỹ Đức nói riêng thu hút

nhiều hơn các dự án đầu tư trực tiếp từ trong nước và nước ngoài. Thành phố Hà

Nội mới sẽ có thêm quỹ đất để ưu tiên phát triển các khu công nghiệp và khu

công nghệ cao, vì vậy sẽ đầu tư trực tiếp thêm nhiều dự án, nhiều khu công

nghiệp để phát triển kinh tế cho các huyện ngoại thành như Mỹ Đức, đây được

xem là một lợi thế lớn cho việc thu hút đầu tư, bởi vào thời điểm đó năm khu

công nghiệp dành cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hà

Nội đã gần như được lấp đầy.Trong khi đó, ở Mỹ Đức thời điểm đó không có

các khu công nghiệp (đến năm 2010 mới có công ty may Đại Nghĩa). Những

ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... vẫn được quan tâm đầu tư;

những lĩnh vực mới như về đô thị, dịch vụ du lịch, sinh thái Hà Nội rất có tiềm

năng. Một lĩnh vực nữa mà Hà Nội được đầu tư phát tiển đó là phát triển nông

nghiệp với công nghệ hiện đại. Thực tiễn của nền kinh tế thế giới cũng như Việt

Nam hiện nay cho thấy, chúng ta phải dành cho nông nghiệp sự quan tâm đúng

mức. Với diện tích của huyện Mỹ Đức khoảng 70% đất nông nghiệp, rất thuận

lợi cho việc phát triển nông nghiệp.

Là một huyện xa trung tâm thành phố Hà Nội nên còn gặp nhiều khó

khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội so với các quận, huyện

gần trung tâm. Tuy nhiên, Mỹ Đức khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều

kiện tự nhiên, vị trí địa lí, về nguồn nhân lực và giao thông, tài nguyên, môi

trường sinh thái để phát triển kinh tế; trong đó phát triển du lịch lễ hội là một

lĩnh vực được ưu tiên đầu tư và khai thác, bao gồm cả du lịch sinh thái và du

lịch văn hóa,...

Cuối năm 2008, thời tiết diễn biến bất lợi diễn ra trận đại hồng thủy gây

ra hậu quả nặng nề tới kinh tế của nhân dân, cùng với ảnh hưởng của khủng

hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng không nhỏ đến đời

22

sống nhân dân trong huyện. Xuất phát điểm nền kinh tế của huyện còn thấp,

cơ sở vật chất hạ tầng còn khó khăn, bên cạnh đó, những khó khăn, hạn chế,

bất cập trong công tác quản lí, điều hành trên một số lĩnh vực như: Quản lí

quy hoạch, xây dựng, đất đai, môi trường,...là những thách thức không nhỏ

ảnh hưởng trực tiếp tới điều kiện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ

huyện Mỹ Đức.

Ngoài ra, bên cạnh những cơ hội, việc sáp nhập vào Hà Nội cũng đặt ra

những thách thức hết sức to lớn đối với huyện Mỹ Đức, nhất là trong vấn đề

văn hoá – xã hội. Khi trở thanh một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, các

cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện hân hoan, tin tưởng vào khí thế mới

của Đảng, diện mạo mới của huyện. Tuy nhiên, cũng có một số những cán bộ,

đảng viên giữ tư tưởng cố hữu cho rằng việc sáp nhập này sẽ làm mất đi các giá

trị, đặc biệt là giá trị văn hóa của huyện.Đối với khu di tích thắng cảnh chùa

Hương, hiện tượng các chùa giả mọc lên hàng loạt, thủ đoạn ngày càng tinh vi

đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh bộ mặt du lịch của huyện cũng như

thuần phong mĩ tục của địa phương. Tuy nhiên, đô thị hóa là một xu thế

chung, nó không chỉ diễn ra ở riêng Hà Nội và vùng ven mà tại nhiều địa

phương trên cả nước và đó là những tác động tiêu cực đến văn hóa và những

ảnh hưởng về phẩm chất, đạo đức, lối sống là mối lo ngại từ ngày mới có

quyết định sáp nhập. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giải được bài toán

hội nhập, điều này cần sự vào cuộc của tất cả các cơ quan chức năng cũng

như sự ủng hộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức.

Mặc dù đứng trước không ít những khó khăn, thách thức nhưng Đảng

bộ huyện Mỹ Đức luôn phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, nỗ lực

phấn đấu, vận dụng sáng tạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết

của Trung ương, của Thành phố và của huyện. Nhờ vậy đã có những chuyển

biến tích cực trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh

– quốc phòng, ... cũng như việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.

*Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức

23

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện

Mỹ Đức không ngừng củng cố và kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của Đảng trong huyện cũng như chú ý tới công tác bồi dưỡng,

đào tạo đội ngũ đoàn viên thanh niên ưu tú là đội ngũ kế cận cho việc thực

hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng.

Đảng bộ huyện yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu, xây dựng Đảng

thực sự trong sạch, vững mạnh.

Đảng bộ huyện luôn nhấn mạnh phải “tăng cường lãnh đạo công tác

chính trị, tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đẩy mạnh tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tỉnh, huyện,

chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và nhân dân, với

phương châm: kịp thời, sát thực tế, hình thức tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu,

dễ nhớ, lồng ghép nhiều nội dung phong phú, hấp dẫn. Ngoài ra, mở nhiều lớp

bồi dưỡng lí luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Đẩy

mạnh việc biên soạn lịch sử Đảng bộ các xã, thị trấn cũng là một trong những

nội dung được Đảng bộ huyện Mỹ Đức quan tâm, Đảng bộ huyên Mỹ Đức đặt

ra chỉ tiêu phấn đấu mỗi năm có từ hai đến ba ấn phẩm lịch sử”[28; 357].

Công tác giáo dục lịch sử truyền thống của Đảng bộ địa phương trong

các trường học cũng được tăng cường. Công tác khoa giáo toàn diện trên các

lĩnh vực phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế xã hội. Nắm bắt và xử lí kịp

thời các biểu hiện, dư luận lệch lạc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân từ cơ

sở. Củng cố và mở rộng mạng lưới báo cáo viên cơ sở, đảm bảo chất lượng

đội ngũ báo cáo viên và giảng viên kiêm chức.

Nâng cao vai trò của tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên, tích cực thực hiện

cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương

6 (lần 2), khóa VIII, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội,

quốc phòng, an ninh,...“phấn đấu kể từ 2010 có 75% tổ chức cơ sở đảng vững

24

mạnh trở lên, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém”[28; 357].

Xây dựng, bổ sung quy chế làm việc của các cấp ủy và từng chức danh,

tránh tình trạng buông lỏng, chồng chéo trong lãnh đạo. Tăng cường khối

đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ gìn phẩm chất dạo đức, lối sống trong

sạch, ý chí tự lực tự cường, nêu cao cảnh giác chống âm mưu “diễn biến hòa

bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với tham nhũng, cơ hội và

các biểu hiện tiêu cực khác. Tăng cường công tác quản lí và phân công nhiệm

vụ cho đảng viên; đánh giá phân loại và có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất

lượng đảng viên.

Chăm lo công tác phát triển Đảng, “phấn đấu mỗi năm kết nạp được

200 đảng viên trở lên” [28; 358]. Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ

cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa có đức, vừa có tài, am

hiểu thực tiễn, phong cách lãnh đạo sâu sát, ý thức trách nhiệm cao, hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ theo

Nghị quyết của Bộ chính trị. Hàng năm chủ động bổ sung quy hoạch cán bộ,

có kế hoạch bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt đảm bảo dân chủ, công khai, đúng

quy trình, quan tâm đến cán bộ nữ. Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, thực

hiện tốt các Chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị và Ban Bảo vệ nội bộ chính

trị Trung ương.

Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng: Tiếp tục thực

hiện tốt Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị. Đổi mới công tác kiểm tra trên

cơ sở bám sát Điều lệ Đảng, nhiệm vụ chính trị của cấp ủy để thực hiện kế

hoạch kiểm tra. Quá trình kiểm tra đảm bảo trung thực, khách quan, đúng qui

trình, kết luận đúng sai rõ ràng, xử lí nghiêm các tổ chức cơ sở Đảng, đảng

viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Tăng cường kiểm tra tập

trung vào công tác quản lí, sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản, các nguồn tài

chính huy động từ đóng góp của nhân dân, ... Tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ

máy của ủy ban kiểm tra, quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính

trị, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.

25

Tăng cường đổi mới công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng, phát huy vai

trò của quần chúng nhân dân: tiếp tục quán triệt các quan điểm, đường lối

công tác dân vận của Đảng. Thực hiện tốt các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung

ương, Tỉnh ủy về công tác dân vận, đại đoàn kết dân tộc, công tác tôn giáo,...

Làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân

vận; động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh

đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia

xây dựng Đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương,

thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường chỉ đạo các cấp ủy Đảng,

đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng của tổ chức,

kiện toàn bộ máy và cán bộ của hệ thống dân vận, Mặt trận và đoàn thể.

các chi bộ cơ sở, các cán bộ, đảng viên trong huyện đã và đang phấn đấu xây

dựng Đảng bộ huyện ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với truyền

thống anh hùng của quê hương trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng

quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ

Đức, tự hào về truyền thống của quê hương với bề dày lịch sử hàng ngàn năm,

các thế hệ người dân Mỹ Đức luôn xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước,

phấn đấu và tự hào được sinh ra và trưởng thành trên quê hương cách mạng.

Trong mọi hoàn cảnh dù có nhiều biến động đến đâu, tình hình phức

tạp và chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể gây ảnh hưởng đến vị trí, vai

trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã từng bước tháo gỡ

những khó khăn, vượt qua thử thách và thu được những thắng lợi to lớn.

Đứng trước những thời cơ và thách thức, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã và

đang từng bước phát huy lợi thế và khắc phục khó khăn. Đặc biệt là trong

những năm đầu kể từ khi sáp nhập vào thành một huyện của thành phố Hà

Nội.Đảng bộ huyện Mỹ Đức đưa ra quan điểm nhất quán, xuyên suốt quá

trình lãnh đạo: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là

nhiệm vụ then chốt, được sự chỉ đạo trực tiếp từ Thành ủy Hà Nội, trong

những năm đầu mới sáp nhập 2008 – 2010, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã coi

26

trọng và đề ra những chủ trương đúng đắn và thực hiện nghiêm túc công tác

xây dựng Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong

toàn Đảng bộ.

1.2 Quá tr nh Đảng ộ hu ện M Đức ch đạo th c hiện nhiệm vụ

d ng Đảng 200 – 2010)

1.2.1 Xây dựng Đảng v ch nh tr

“Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, kể từ sau Đại hội Đại biểu Đảng

bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII (09/2005), 100% các tổ chức cơ sở Đảng đã

triển khai tổ chức, quán triệt các đợt học tập Nghị quyết và các chuyên đề của

Đảng cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập với tỷ lệ đạt 96 – 97%”[05; 03].

Công tác giáo dục lí luận chính trị cho cán bộ, đảng viên tập trung vào

quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

đường lối đổi mới của Đảng. Được các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở quan

tâm, chỉ đạo, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng.

Chỉ đạo tuyên truyền, quán triệt, học tập và xây dựng chương trình, kế hoạch

thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ

XXI, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Thành uỷ, tuyên truyền 9

Chương trình lớn của Thành uỷ, 5 nhiệm vụ trọng tâm và 2 khâu đột phá của

Thành phố phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đảm bảo tính thiết

thực nhằm nâng cao nhận thức, tạo được sự nhất trí cao về quan điểm, tư

tưởng, đường lối đổi mới của Đảng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trong nhiệm kỳ, 100% các tổ chức cơ sở Đảng đã triển khai tổ chức quán triệt

các đợt học tập nghị quyết và các chuyên đề của Đảng cho cán bộ, đảng viên

tham gia học tập.

Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được quan

tâm có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung vào quán triệt cho cán bộ, đảng

viên thấm nhuần sâu sắc về quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt

27

động tuyên giáo có nhiều đổi mới trên các lĩnh vực từ việc kiện toàn, bồi

dưỡng cho đội ngũ báo cáo viên, đổi mới phương pháp truyền đạt nghị quyết

của Đảng cho đến công tác khoa giáo, văn hoá, văn nghệ, nắm bắt dư luận xã

hội và định hướng dư luận xã hội từ huyện đến cơ sở đạt hiệu quả thiết thực

đã góp phần tích cực giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Chỉ đạo tổng kết, sơ kết nhiều Chỉ thị, Nghị quyết như: sơ kết 30 năm

thực hiện Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương và 10 năm thực hiện Thông báo

71 của Bộ Chính trị “Về công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng”; 5 năm

thực hiện Chỉ thị 50 của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với hội khuyến học Việt Nam”; 5 năm thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Chấp hành

Trung ương “Về nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử

Đảng và giáo dục truyền thống cách mạng”; sơ kết 3 năm thực hiện cuộc vận

động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,...

Công tác biên soạn lịch sử Đảng được thực hiện tích cực, đã biên soạn

hoàn thành cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện gồm 2 tập (tập I giai đoạn 1930 –

1954; tập II giai đoạn 1954 – 2000) và cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện

qua các kỳ Đại hội 1947 – 2010”; 16 Đảng bộ xã, thị trấn có ấn phẩm lịch sử

Đảng, 4 xã đang tiếp tục biên soạn. óp phần giáo dục truyền thống cách

mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân.

Công tác phát hành Báo, Tạp chí của Đảng được các cấp, các ngành

quan tâm, số lượng năm sau cao hơn năm trước, các tài liệu về Thông tin công

tác Tư tưởng, Bản Thông tin Nội bộ, các văn kiện kịp thời cung cấp tới các

đối tượng để học tập, nghiên cứu.

Đặc biệt trong việc triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hàng năm đều có kế hoạch tổ chức

thực hiện cuộc vận động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập nghiêm

túc các chuyên đề về tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo đúng kế

hoạch chỉ đạo của cấp trên, cán bộ, đảng viên, hội viên tham dự học tập

nghiêm túc. Kết quả, “đã tổ chức được 60 lớp cho trên 16.000 lượt cán bộ,

28

đảng viên tham dự và 190 lớp học cho trên 60.000 lượt đoàn viên, hội viên và

quần chúng nhân dân tham dự học tập” [11; 02].Tổ chức thành công hội thi kể

chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tổ chức các hội nghị toạ đàm

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ cơ sở đến cấp huyện.

Qua đó đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về

những nội dung cơ bản, về giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách

mạng của Bác về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, góp phần ngăn

chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn

xã hội.

Đại hội XI của Đảng khẳng định, trong những năm tới cần “tăng cường

xây dựng Đảng về chính trị”, tập trung vào những vấn đề chủ yếu: kiên định

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển

phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của toàn Đảng và

của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chất các cấp;

không dao động trong bất kỳ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới,

chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên

tắc,...Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, tập trung vào

những nội dung: Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng

tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới,

không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nước,... tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn

nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tuyên truyền, học

tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu

và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng

ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

29

trong nội bộ Đảng; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự đoàn kết,

thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.

Đảng luôn nhấn mạnh phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư

tưởng, nâng cao cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều

kiện hiện nay, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã lãnh đạo thực hiện nhằm đạt hiệu

quả cao nhất. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận giải

quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo. Nghiên cứu

lý luận theo hướng tăng cường dân chủ, tôn trọng những ý kiến cá nhân, giải

quyết đúng đắn mối quan hệ giữa khoa học và chính trị. Tiếp tục đổi mới toàn

diện công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống trường Đảng, mà trọng

tâm là đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung phương pháp học tập và giảng

dạy theo hướng nâng cao tính thiết thực hiệu quả, đa dạng, phong phú, thiết thực,

gắn với thực tiễn, với cơ sở.

1.2.2 Xây dựng Đảng v tư tư ng

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí

tuệ của Đảng. Đó là tổng hợp các tri thức chủ yếu như: lý luận chính trị, kinh tế,

khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh, khoa học xã hội và nhân văn,….

Những tri thức ấy, phải được vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Bản lĩnh

chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng quan hệ mật thiết với nhau và là một trong

những vấn đề quan trọng của xây dựng Đảng. Đảng bộ huyện Mỹ Đức thường

xuyên chỉ đạo mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị đối với các đối

tượng là Đoàn viên thanh niên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các đối

tượng thuộc khối cơ quan, đoàn thể cũng như tuyên truyền trong nhân dân về

chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm định hướng và nâng cao

nhận thức của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng

được tạo nên bởi các nhân tố chủ yếu như: trình độ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đây là nhân tố cốt lõi; trình độ về các khoa học khác như:

30

các quy luật phát triển của xã hội, quy luật kinh tế, kinh tế thị trường, thế giới

đương đại, thông lệ quốc tế, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lãnh đạo,

quản lý, tâm lý học, khoa học và công nghệ, quốc phòng, an ninh,… trách nhiệm

cao cả của Đảng trước nhân dân, đất nước, dân tộc và tình thương yêu, gắn bó

mật thiết giữa Đảng với nhân dân; sự rèn luyện bền bỉ, dẻo dai của Đảng trong

thực tiễn cách mạng, sự đối mặt và vượt qua những khó khăn thách thức trong

quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. “Đảng bộ huyện Mỹ Đức tổ chức

nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, nhận thức lại những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, chỉ ra một cách rõ ràng, khoa học, khách quan những vấn đề của

chủ nghĩa Mác - Lênin đã được thực tiễn vượt qua” [46; 09]. Trong tổ chức thực

hiện nghị quyết của Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức quán triệt thực hiện nghiêm

chỉnh nguyên tắc tập trung dân trong chỉ đạo cụ thể hóa, thể chế hóa các nghị

quyết của Đảng và trong quá trình tổ chức thực hiện, nhất là trong xử lý những

vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho

các cấp, cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; thực hiện tốt việc giao nhiệm vụ,

quyền hạn đến đâu thì xác định trách nhiệm cá nhân đến đó; mọi nội dung trong

thực hiện nghị quyết của Đảng ở địa phương phải có người phụ trách và chịu

trách nhiệm cá nhân; khẩn trương xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát, phản

biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp về thực hiện

nghị quyết của Đảng.

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thành

công các hoạt động nhân kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và

Chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011).

Ngày 10/10/2008, thực hiện Chỉ thị số 30/CT – TT của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt “Đề cương các hoạt động tiến tới kỷ niệm 1000

năm Thăng Long – Hà Nội”, Ban tuyên giáo Trung ương và Ban tuyên giáo

Thành ủy Hà Nội đã xây dựng các kế hoạch tuyên truyền, quảng bá và tổ chức

kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Các hoạt động được chú trognj

31

nhằm giáo dục về truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, khơi dậy

lòng tự hào dân tộc và góp phần quảng bá hình ảnh của Hà Nội, vị thế của thủ

đô đối với bạn bè quốc tế. Là một huyện ngoại thành của Hà Nội, tuy nhiên,

Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức luôn không ngừng phấn đấu để công tác

tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng phục vụ đại lễ 1000 năm Thăng

Long – Hà Nội đạt được kết quả cao, góp phần vào sự thành công của toàn

thành phố.

Công tác tuyên truyền của Đảng bộ huyện Mỹ Đức được kết hợp với

các hoạt động giáo dục, quảng bá hình ảnh, văn hóa văn nghệ, thể dục thể

thao,... Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội là điểm nhấn ấn

tượng và có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống kinh tế - chính trị của thủ đô và

của cả đất nước. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục, quảng bá sự

kiện này là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa là vinh dự,

đồng thời là trách nhiệm của một huyện thuộc ngoại thành thủ đô Hà Nội. Kết

quả tuyên truyền của Mỹ Đức đã góp phần vào sự thành công của Đại lễ, cán

bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị

văn hóa – lịch sử của thủ đô, thể hiện tình cảm, đạo lí uống nước nhớ nguồn

đối với các thế hệ đi trước. Đông đảo các tầng lớp nhân dân đã tích cực hưởng

ứng, tham gia thực hiện các hoạt động gắn với cuộc vận động thiết thực

hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội như: Cuộc vận động toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, Xây dựng người Hà

Nội thanh lịch – văn minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh, ... Vào dịp Đại lễ, Đảng bộ và nhân dân Mỹ Đức hân hoan, các tuyến

phố, đường làng ngõ xóm rợp cờ hoa, băng rôn, biểu ngữ để chào mừng ngày

hội lớn của đất nước.

Cùng với công tác tuyên truyền, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên

môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được tổ chức

thường xuyên, đặc biệt là các lớp báo cáo viên. Nội dung bồi dưỡng được tập

trung vào nhiều vấn đề như: giáo dục lí luận sơ cấp, trung cấp chính trị, bồi

32

dưỡng đối tượng Đảng, đảng viên mới, báo cáo viên, tuyên truyền tư tưởng

Hồ Chí Minh, nghị quyết, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyền truyền về

Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,... Tỷ lệ cán bộ, đảng viên theo học

các lớp luôn đạt trên 90% và 100% cán bộ đảng viên theo học đều có báo cáo

thu hoạch sau mỗi khóa học. Điều này đã góp phần tích cực trong việc nâng

cao nhận thức, lập trường và tư tưởng của cán bộ, đảng viên; giữ vững và ổn

định tình hình chính trị ở cơ sở, tăng cường sức mạnh của Đảng, chính quyền,

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác Dân vận trong hệ thống

chính trị, các cấp uỷ Đảng, chính quyền tổ chức quán triệt đầy đủ các Chỉ thị,

Nghị quyết của Trung ương, của Thành uỷ, Huyện uỷ về công tác Dân vận tới

cán bộ, đảng viên và nhân dân. Luôn đổi mới công tác vận động quần chúng,

củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với

dân. Chỉ đạo tổng kết, sơ kết nhiều chỉ thị, nghị quyết như: tổ chức tổng kết

10 năm thực hiện Chỉ thị 30 – CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII về “Xây

dựng và thực hiện quy chế dân chủ”; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội

nghị lần thứ VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về “Phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh ”, về “công tác tôn giáo”; sơ kết 03 năm

thực hiện Nghị quyết 09 – NQ/TU của Thành uỷ về “Tăng cường sự lãnh đạo

công tác đoàn và phong trào thanh niên”. Quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và

thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Các xã, thị trấn, các

cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn đã xây dựng, ban hành các quy chế, quy

định, quy ước nêu rõ nội dung và hình thức thực hiện dân chủ, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra”, thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm

chủ”. Triển khai thực hiện chuyên đề “Năm dân vận chính quyền” mô hình

“Dân vận khéo”. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò của

hệ thống chính trị, tăng cường sâu sát cơ sở, kiểm tra, đôn đốc thực hiện ngày

33

một hiệu quả, cụ thể hơn, thiết thực hơn.

1.2.3 Xây dựng Đảng v t chức

* Củng cố tổ chức

Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; làm tốt công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức chính trị cho

cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ thôn, xóm,

xã thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở địa bàn nông thôn. Chăm lo củng

cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, tập trung nâng cao hiệu quả, hiệu lực

quản lý của chính quyền cấp xã, bảo đảm đủ sức quản lý, điều hành và giải

quyết tốt những vấn đề phát sinh ở nông thôn, cơ sở. Phát huy hiệu quả hoạt

động của khối dân vận cơ sở, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố

và phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động tự quản để vận động nhân dân thực

hiện quyền làm chủ của mình tham gia công việc chung của cộng đồng.

“Thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính

trị - xã hội, nhất là Hội Nông dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức

hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở để hướng dẫn nông dân thực hiện các

chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới, tham gia các

chủ trương hợp tác về kinh tế, các dự án, chương trình phát triển sản xuất

nông nghiệp tại địa phương”[09; 08].

Đảng bộ huyện Mỹ Đức quán triệt những tiêu chuẩn chung cho cán bộ,

đảng viên trong thời kỳ mới, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ,vị trí, vai trò

của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, ngày 02/12/2010, Ban Thường vụ

Huyện ủy Mỹ Đức ra Quyết định số 46-QĐ/HU về tiêu chuẩn cán bộ, đảng

viên và chức danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý với

những tiêu chuẩn nhất định về năng lực, trình độ lí luận chính trị cũng như

phẩm chất đạo đức,...đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó phải là những người được đào tạo,

chuẩn hóa qua hệ thống nhà trường, có trình độ chuyên môn, có trình độ lý

34

luận chính trị. Đồng thời phải trải qua thực tiễn rèn luyện để có kinh nghiệm

và trưởng thành, xứng đáng những yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ cách

mạng mới.

Kết quả tổng kết công tác xây dựng Đảng từ năm 2008 đến 2010 cho

thấy, số tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh bình quân

tăng hàng năm của Đảng bộ là 9,9%; năm 2010 có 40/56 tổ chức cơ sở Đảng

đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, chiếm 71,4% ( trong đó xã, thị trấn 16

đơn vị; Đảng bộ, chi bộ khối các cơ quan 24); 11/56 Đảng bộ, chi bộ hoàn

thành tốt nhiệm vụ (bằng 19,6%). 5/56 tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành nhiệm

vụ (bằng 8,9%), không còn tổ chức Đảng yếu kém. Việc quản lý nâng cao

chất lượng đảng viên được các cấp ủy Đảng từ huyện tới cơ sở luôn coi trọng.

Việc duy trì sinh hoạt Đảng ở các đơn vị cơ bản thực hiện tốt.

*Công tác cán bộ và phát triển đảng viên

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường. Thực hiện

nghiêm túc các hướng dẫn, quy định về kiểm tra, giám sát, hàng năm đều xây

dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát thường xuyên theo quy định.

“Kiểm tra, giám sát theo chuyên đề đã tiến hành được 07 cuộc kiểm tra, 05

cuộc giám sát ở 22 đảng bộ, xã, thị trấn và 51 Chi bộ, Đảng bộ trực thuộc

trong việc chấp hành điều lệ Đảng, nghị quyết và chỉ thị của Đảng” [30;

15].thuộc các lĩnh vực như: kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, thực hiện

cải cách hành chính, xây dựng đường giao thông nông thôn, xây dựng làng,

cơ quan, đơn vị văn hoá, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn

kết nội bộ, việc quản lý và sử dụng đất đai, kiểm tra việc thực hiện cuộc vận

động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Ủy ban kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra được được 231 lượt tổ chức

đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và kiểm tra việc thi hành kỷ luật.

“Kết quả kiểm tra có 216/231 lượt tổ chức đảng thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm

tra, 223/231 lượt tổ chức đảng thực hiện tốt việc thi hành kỷ luật đảng. Kết

quả thực hiện nhiệm vụ giám sát đã giám sát được 175 lượt tổ chức đảng,

35

6.355 đảng viên, đảng uỷ viên và chi uỷ viên” [11; 11]. Nội dung giám sát

việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của đảng,

chính sách pháp luật nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, kết

luận của cấp uỷ cấp trên và cấp mình. Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra

được 247 tổ chức đảng và 6.235 lượt đảng viên về việc thu nộp, quản lý, sử

dụng đảng phí, qua kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện thu nộp,

quản lý, sử dụng đảng phí đúng quy định. Công tác giải quyết đơn thư tố cáo

đối với Tổ chức Đảng, đảng viên được coi trọng, tiếp nhận 21 đơn tố cáo,

trong đó thẩm quyền giải quyết 19 đơn, kết quả đã giải quyết xong 19/19 đơn

đạt 100%. “Qua kiểm tra đã xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách 01 Đảng

uỷ, cảnh cáo 01 Đảng uỷ do vi phạm ra nghị quyết để Ủy ban nhân dân xã

cấp bán đất trái quy định, vi phạm luật đất đai và luật ngân sách. Cảnh cáo 01

Chi bộ và khiển trách 02 chi bộ trực thuộc Đảng uỷ xã do ra nghị quyết cấp

bán đất trái quy định. Xử lý kỷ luật 138 đồng chí đảng viên bằng các hình

thức khiển trách 40; cảnh cáo 70; cách chức 06, khai trừ 22 do vi phạm trong

quản lý sử dụng đất đai và chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Việc thi

hành kỷ luật thực hiện công minh, khách quan, chính xác, đúng nguyên tắc

nên không có đơn thư khiếu nại về kỷ luật Đảng” [30; 12].

Quá trình kiểm tra, giám sát đảm bảo đúng quy trình, đúng nguyên tắc,

thủ tục, kết luận rõ ràng, xử lý kịp thời góp phần nâng cao chất lượng lãnh

đạo của các cấp uỷ Đảng.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, đẩy

mạnh sinh hoạt theo chuyên đề, khắc phục một bước cơ bản tình trạng nghèo

về nội dung, đơn điệu về hình thức, chất lượng thấp của sinh hoạt chi bộ;

nâng cao tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ. Thường xuyên tổng kết thực tiễn,

phát triển lý luận. Đổi mới việc hình thành đội ngũ cấp uỷ viên các cấp, nhất

là cấp chiến lược. Đây là những cán bộ cán bộ có thẩm quyền xây dựng, ban

hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của các tổ chức đảng ở các

cấp. Những cán bộ này phải hội đủ các tiêu chuẩn đã được xác định. Trong

36

đó, cần đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh về bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ,

năng lực tư duy, kinh nghiệm tổ chức thực tiễn, phong cách làm việc khoa

học, đoàn kết nội bộ, phẩm chất đạo đức, lối sống, những cán bộ cấp chiến

lược phải có tầm nhìn và sự nhạy bén trong phát hiện và đề xuất những vấn đề

chiến lược,... Trên cơ sở tiêu chuẩn đã quy định những cán bộ này phải được

lựa chọn thật sự dân chủ; dân chủ trong giới thiệu, thảo luận tạo sự nhất trí

cao trong Đại hội Đảng các cấp.

Ti u t chương 1

Nhận thức được lời Bác Hồ đã dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con

người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay

và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không còn

trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [58; 547], trong những năm qua,

Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt,

trong ba năm đầu sau khi sáp nhập trở thành một huyện ngoại thành Hà Nội,

đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn, Đảng bộ và nhân dân huyện

Mỹ Đức đã không ngừng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng cùng với

thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc

phòng nhằm phát huy những tiềm năng, lợi thế sẵn có của huyện để thu được

những thắng lợi to lớn. Việc đề ra chủ trương và quá trình thực hiện nhiệm vụ

xây dựng Đảng đã thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nói

chung và Đảng bộ huyện Mỹ Đức nói riêng, đặc biệt trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Nhiệm vụ xây dựng Đảng được tiến

hành một cách toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm

đảm bảo phát huy cao nhất những yếu tố trong Đảng. Mặc dù mới chỉ trải qua

ba năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ

thành phố Hà Nội (2008 – 2010) nhưng Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức

đã thực hiện tốt và thu được những kết quả to lớn về mọi mặt, xứng đáng với

sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước và Thành ủy, xứng đáng là một huyện của

thủ đô Hà Nội.

37

Chương 2

CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V

XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C

T NĂM 2011 Đ N NĂM 2014

2.1 êu cầu m i và chủ trương đ mạnh nhiệm vụ d ng Đảng

của Đảng ộ hu ện M Đức (2011 – 2014)

2.1.1 u c u đ y m nh nhiệm vụ xây dựng Đảng huyện Mỹ Đức

Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức từ năm 2011

đến năm 2014 đứng trước những diễn biến tình hình thế giới và trong nước phức

tạptác động, ảnh hưởng trong và ngoài nước đến sự phát triển của huyện.

* Ảnh hưởng từ bên ngoài

Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong

quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các

quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển

mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.

Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng

vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình

thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các

nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn

có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á

vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất

ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình

thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. Khối SE N tuy còn nhiều khó

khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.

* Ở trong nước

Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã

tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước.

38

Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng

sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do

song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh

vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,

tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách

thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực

và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo

đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan

liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục

thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các

chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước

ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự

diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.

Những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và

thách thức đan xen tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

trong những năm tới, trong đó có sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của

huyện Mỹ Đức.

Tháng 07/2010, Đại hội lần thứ XXII của Đảng bộ huyện Mỹ Đức được

tiến hành vào thời điểm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm kết thúc thập

niên đầu của thế kỷ XXI, trong đó có hơn 2 năm do Thành ủy Hà Nội lãnh đạo

Sau 5 năm tính đến 2011, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV,

Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức đã tập trung chỉ đạo tổ chức, triển khai

thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Thành phố

và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII trong điều kiện có những

thuận lợi cơ bản và khó khăn, thách thức đan xen.

Từ những thành tựu trong công cuộc đổi mới của đất nước hơn 20 năm

qua hết sức quan trọng, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện luôn tin

39

tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, cơ sở vật chất ngày càng

được tăng cường, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao. Đảng và Nhà

nước có cơ chế chính sách ngày càng hoàn thiện hơn, việc mở rộng địa giới

hành chính Thủ đô, cùng với việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã mở ra những triển vọng lớn để

huyện Mỹ Đức phát triển nhanh, toàn diện và bền vững. Với thế mạnh nguồn

lao động dồi dào, điều kiện tự nhiên phong phú có nhiều lợi thế để khai thác

phát triển nền nông nghiệp từng bước hiện đại và bền vững, phát triển công

nghiệp nguyên liệu, du lịch sinh thái; đặc biệt có khu Di tích thắng cảnh

Hương Sơn hàng năm đón trên 1 triệu lượt khách về thăm quan, trẩy hội.

2.1.2 Ch trương đ y m nh nhiệm vụ xây dựng Đảng

* Xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng

Trong những năm từ 2011 – 2014, nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng

bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức có nhiều những thuận lợi cơ bản tác động tích

cự đến tình hình chính trị - tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong

huyện. Đó là tình hình an ninh – chính trị trên địa bàn ổn định, tốc độ tăng

trưởng kinh tế được duy trì, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện cụ thể hóa thành những kế hoạch

phát triển hợp lí, phù hợp. Tuy nhiên, nền kinh tế toàn cầu với những diễn

biến phức tạp đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng cũng như đời sống

của đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Cán bộ, đảng

viên có những băn khoăn, lo lắng trước tình trạng giá cả thị trường không

ngừng tăng, đồng lương công chức thì ít ỏi, nhân dân cũng lo lắng trước tình

trạng sản xuất gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng cao,...Chính vì vậy, Đảng bộ

huyện Mỹ Đức tập trung tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu rộng các Nghị

quyết, Chỉ thị, Chính sách của Trung ương, thành phố và huyện đến cán bộ,

đảng viên và nhân dân trong huyện như: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV, Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XXII, Nghị quyết 16 của

40

Thành ủy, Kế hoạch 61 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Chỉ thị của

Trung ương về thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh”,...

Huyện ủy tiến hành tuyên truyền, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn hàng

năm với các nội dung thiết thực, góp phần tích cực vào công tác giáo dục

truyền thống cách mạng như các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, Đại hội

Đảng các cấp, Đại hội các ban ngành, đoàn thể,...

Huyện ủy tiến hành tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,

an ninh, quốc phòng của thành phố, bám sát yêu cầu thực tiễn của huyện như

sản xuất, cải cách hành chính, giải phóng mặt bằng, chống tệ nạn xã hội,

phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường,...

Các hình thức tuyên truyền cũng được triển khai phong phú, đa dạng

như mittinh, gặp mặt, tọa đàm, sinh hoạt chi bộ, hội nghị, tham quan, văn

nghệ, thể dục thể thao,...

Nhờ vậy, công tác xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng trong những

năm 2010 – 2014 của Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đạt được nhiều thành tựu

nổi bật:

Huyện ủy đã tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Kể từ năm 2007, sau khi Trung ương và thành phố Hà Nội tổ chức phát

động Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

Ban thường vụ huyện ủy đã ban hành các kế hoạch nhằm phát động phong

trào thi đua, hưởng ứng cuộc vận động tới cán bộ, đảng viên và nhân dân

trong toàn huyện. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã nhận thức đúng đắn rằng mục

đích của việc thực hiện cuộc vận động là nhằm xây dựng nền tảng đạo đức và

tinh thần của xã hội, tác động trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng và góp

phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên.

“Trong giai đoạn 2011 – 2014, “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”đã được thực hiện hết sức nghiêm túc, góp phần

41

nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trong huyện về vị trí, vai

trò và những giá trị to lớn, bất diệt của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh. Từ đó, có ý thức tu dưỡng đạo đức, có trách nhiệm trước Đảng, trước

nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên” [34; 10].

Từ việc nâng cao nhận thức, cuộc vận động đã nhận được sự đồng tình,

ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện. Đây chính là cơ sở

để đảm bảo cho việc triển khai sâu rộng, có hiệu quả cuộc vận động trong

toàn xã hội, nhất là việc chuyển trọng tâm từ “học tập” sang “làm theo”. Cuộc

vận động cũng được gắn với việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm

trong đời sống nhân dân, trong công tác xây dựng Đảng. Cũng từ cuộc vận

động này, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên ngày càng được phát huy.

Học tập và làm theo tấm gương của Bác Hồ, ở huyện Mỹ Đức ngày càng xuất

hiện nhiều tấm gương, tập thể, cá nhân tiêu biểu trong tất cả các lĩnh vực và

đời sống xã hội. Tiêu biểu như công tác tiếp dân, giải quyết các đơn thư,

khiếu nại ở các ban ngành trong toàn huyện. Tất cả các ban ngành như Hội

nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, ... đều đạt được

các kết quả đáng mừng, khen thưởng, tôn vinh các tấm gương điển hình trong

việc thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh”. Các kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu nhưng cũng chứng tỏ

được rằng “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”đã và đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức thực hiện

nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần to lớn ổn định tình hình chính trị - tư tưởng

của Đảng bộ huyện.

Công tác khoa giáo cũng được huyện ủy Mỹ Đức quan tâm. Tính đến

năm 2014, 22/22 xã đã có cuốn lịch sử cách mạng của xã. Các hoạt động

ngoại khóa trong các nhà trường cũng có sự lồng ghép các nội dung nhằm

giáo dục về lịch sử truyền thống cách mạng huyện, đồng thời, Huyện ủy cũng

chỉ đạo việc tổ chức các cuộc thi nhằm tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát

triển của Đảng bộ, về truyền thống cách mạng của huyện qua các thời kỳ.

42

Như vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai

đoạn 2011 – 2014, công tác chính trị - tư tưởng của huyện ủy đã góp phần đưa

Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo nên những phong trào cách mạng sôi

nổi trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội như các phong trào

“Xóa đói giảm nghèo”, “Xây dựng nông thôn mới”, “Đền ơn đáp nghĩa”,

“Xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”,...Dưới sự lãnh đạo của huyện ủy, các

chi, Đảng bộ, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã động viên,

đoàn kết nhân dân cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật

tự để tập trung thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng bộ huyện đề ra.

Công tác chính trị - tư tưởng đã thực sự thâm nhập vào tất cả các lĩnh

vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện, tạo nên sự chuyển biến

về nhận thức tư tưởng trong nhân dân. Chính điều đó đã góp phần tích cực tạo

ra những thành tích trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ

Đức trong những năm 2011 – 2014.

Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị - tư

tưởng trong những năm 2011 – 2014 vẫn còn những hạn chế nhất định như

một số chi bộ còn xem nhẹ vai trò, vị trí của công tác tư tưởng – chính trị, còn

có sự thiếu đoàn kết, đồng thuận trong nhận thức và hành động của tổ chức

Đảng và nhân dân.

Chất lượng triển khai học tập và thực hiện các Nghị quyết của Trung

ương, của Thành ủy và Huyện ủy ở một số Đảng bộ cơ sở còn yếu kém, chưa

được coi trọng đúng mức nên kết quả thu được chưa cao. Các Nghị quyết,

Chương trình, Đề án của Huyện ủy chưa thực sự được các cấp, các ngành cụ

thể hóa thành kế hoạch, mục tiêu cụ thể, chính xác để áp dụng đến từng cơ sở.

Nội dung, phương thức công tác chính trị - tư tưởng chưa thực sự sát với yêu

cầu nên hiệu quả thu được còn thấp.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện vẫn còn các hủ tục cũ như ma chay, cưới

hỏi, mê tín dị đoan,... còn đang diễn biến phức tạp, đời sống của nhân dân còn

đang gặp nhiều khó khăn. Những hiện tượng tiêu cực như mất dân chủ, mất

43

đoàn kết, tham nhũng, lãng phí ở một số cơ sở chưa được quan tâm giải quyết

kịp thời,...Vì vậy, một số cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều băn khoăn,

lo lắng, thậm chí là bi quan, dao động, giảm sút lòng tin đối với Đảng.

* Xây dựng Đảng về tổ chức

Xây dựng Đảng về tổ chức, trong những năm 20011 – 2014, Đảng bộ

huyện Mỹ Đức đã tập trung thực hiện các nội dung sau:

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

Huyện ủy Mỹ Đức đã tiến hành rà soát, yêu cầu Đảng ủy các xã báo

cáo đề xuất việc thành lập chi bộ cơ quan của Đảng bộ mình. Tính đến 2014,

Đảng bộ huyện Mỹ Đức có 56 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó xã, thị trấn có 22

Đảng bộ, 4 Đảng bộ khối cơ quan và 30 chi bộ trực thuộc huyện ủy.

Để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và

khắc phục những cơ sở yếu kém, trong những năm 2011 – 2014, Ban Thường

vụ Huyện ủy đã triển khai thực hiện tốt các Chương trình, Đề án lớn, rà soát,

hoàn thiện mô hình tổ chức và nội dung hoạt động của các loại hình tổ chức

cơ sở Đảng.

Huyện ủy đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của

các chi bộ nông thôn thuộc khối nông nghiệp,đây là loại hình chiếm tỷ lệ cao

nhất trong Đảng bộ huyện Mỹ Đức.

Các chi bộ này đã tổ chức các buổi sinh hoạt chi bộ chất lượng, hiệu

quả với nhiều nội dung như phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước, các nghị quyết của cấp trên liên quan đến nhiệm vụ chính

trị của đơn vị. Xen kẽ các buổi sinh hoạt nhiều nội dung là những buổi sinh

hoạt chuyên đề như chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh”, “ Phòng chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội”, “Xây

dựng thôn, làng văn hóa”,... Huyện ủy cũng tiến hành tập huấn, hướng dẫn,

kiểm tra, cho đại diện các chi bộ dự chéo lẫn nhau để học tập kinh nghiệm.

Qua một vài những buổi sinh hoạt chuyên đề như vậy, hiệu quả của việc sinh

hoạt chi bộ được cải thiện rõ nét.

44

Đối với các chi bộ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp như

trường học, bệnh viện,... các buổi sinh hoạt chi bộ cũng được Huyện ủy

khuyến khích nhằm đi sâu vào công tác chuyên môn của cơ quan, thảo luận

các biện pháp phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

và bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức của cán bộ, đảng viên.

Đối với các chi bộ doanh nghiệp, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã xây dựng

được quy trình sinh hoạt chi bộ sau khi đã khảo sát thực tế. Các buổi sinh hoạt

trong các chi bộ cũng được xác định nội dung rõ ràng, cụ thể, đi sâu vào các

vấn đề như: vai trò của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất,

kinh doanh, tổ chức các hoạt động đoàn thể quần chúng, nâng cao đời sống và

việc làm của người lao động,...

Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, công

tác kiểm tra Đảng cũng được tăng cường, đảm bảo các yêu cầu về nội dung và

quy trình kiểm tra, góp phần duy trì kỷ luật Đảng trước những biến động của

tình hình kinh tế - xã hội. Việc kiểm tra, giám sát được Ban thường vụ huyện

ủy tiến hành trên một số lĩnh vực như: công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính, thực hiện phòng,

chống tham ô, lãng phí, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân,...

qua các đợt kiểm tra, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các

cấp được nâng lên. Thông qua kiểm tra, cấp ủy đảng đã kịp thời chấn chỉnh

những thiếu sót trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, giải quyết một

số việc phức tạp ở cơ sở, đặc biệt là trong công tác quản lí đất đai, giải phóng

mặt bằng.

Về công tác cán bộ

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra những kế hoạch cụ thể về công tác

cán bộ gắn với thực trạng về đội ngũ cán bộ ở địa phương. Công tác đánh giá

cán bộ là việc làm thường xuyên tại Đảng bộ huyện. Các đối tượng cán bộ,

đảng viên đều được đánh giá công khai, dân chủ, để từng bước nâng cao chất

lượng cán bộ, đảng viên, giúp khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong

45

công tác và sinh hoạt.

Công tác quy hoạch cán bộ được quan tâm nhằm tạo ra những bước

chuyển biến mới, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt

và lâu dài. Yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững

vàng, ý thức tổ chức, kỷ luật tốt, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, có trách

nhiệm và tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Để tiếp tục đổi mới về tổ chức

bộ máy cán bộ, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đưa ra nhiều giải pháp cụ thể

nhằm chuyển biến cả về số lượng và chất lượng của cán bộ, đảng viên. Công

tác đào tạo, bồi dưỡng và tuyển chọn cán bộ, đảng viên được Đảng bộ huyện

coi trọng bởi đó là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của

các tổ chức cơ sở Đảng. Công tác quản lí và bố trí sử dụng cán bộ cũng được

Ban thường vụ thực hiện từng bước có hiệu quả. Thực hiện các Nghị quyết

của Trung ương và Thành ủy về công tác tổ chức cán bộ, công tác thanh tra,

kiểm tra Đảng. Huyện ủy cũng bám sát chủ trương, hướng dẫn của Trung

ương và Thành ủy để xây dựng và thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán

bộ. Huyện ủy đã giải quyết đầy đủ trợ cấp cũng như tổ chức thăm hỏi đối với

cán bộ lão thành cách mạng. Cán bộ đương chức được xem xét nâng lương,

thi nâng ngạch, trợ cấp ốm đau, hoàn cảnh đặc biệt,... kịp thời. Công tác quan

tâm, chăm lo đời sống tinh thần, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng

mắc về chế độ, chính sách là động lực quan trọng để động viên, khuyến khích

đội ngũ cán bộ, đảng viên phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.

Ngoài ra, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cũng đề ra chủ trương quan tâm, tích

cực chỉ đạo, thực hiện công tác phát triển Đảng. Công tác phát triển Đảng cần

được chú trọng tăng cường về cả số lượng và chất lượng theo xu hướng trẻ

hóa đội ngũ, tăng số lượng cán bộ, đảng viên là nữ, trình độ học vấn cao hơn.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng,

hàng năm Đảng bộ đề ra chủ trương tiến hành đánh giá chất lượng các tổ chức

cơ sở và phân tích chất lượng đảng viên để từ đó tìm ra các biện pháp nhằm

tăng cường, mở rộng việc xây dựng các cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh,

46

thu hẹp diện cơ sở yếu kém, không phát huy được vai trò lãnh đạo. Đảng bộ

huyện đã xác định, xây dựng quy trình sinh hoạt chi bộ, qua đó nâng cao chất

lượng sinh hoạt chi bộ và nâng cao năng lực lãnh đạo chung của các chi bộ cơ

sở và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.

Do yêu cầu của giai đoạn mới, cùng với việc thực hiện nghiêm túc

nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt

Đảng, huyện ủy đã chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành có liên quan

để thực hiện tốt cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực

hành tiết kiệm.

Nhận thức được đúng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên,

huyện ủy đã luôn quan tâm, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ vừa có đức,

vừa có tài nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Đó là đội ngũ cán bộ

có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức kỉ luật, luôn giữ gìn đạo đức cách

mạng, gương mẫu, giản dị trong cuộc sống, gắn bó với nhân dân, tâm huyết

với các nhiệm vụ được giao.

Như vậy, đứng trước những giai đoạn lịch sử nhất định, Đảng bộ huyện

Mỹ Đức luôn đề ra những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những

tồn tại trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Điều này đã góp phần không nhỏ

vào sự phát triển chung của toàn huyện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,

văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng,...

2.2 Đảng ộ hu ện M Đức ch đạo đ mạnh th c hiện nhiệm vụ

d ng Đảng

2.2.1 Xây dựng Đảng v ch nh tr

Được các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo

một cách đồng bộ, kịp thời, hiệu quả đã tập trung chỉ đạo triển khai như tuyên

truyền thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của

nhà nước, tuyên truyền các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa,

xã hội, xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền các sự kiện chính trị, về biển

47

đảo, về các ngày lễ lớn của dân tộc, đất nước, của địa phương; về “Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”... Việc quán triệt học tập luôn gắn

với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết. Huyện

uỷ đã xây dựng chuyên đề “Đổi mới nâng cao chất lượng công tác tuyên

truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2012 học tập chuyên đề: "Học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành

của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị". Năm 2013 học tập

chuyên đề: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong

cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm, gương mẫu của

cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp”[14; 02].Năm

2014 học tập chuyên đề:“nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá

nhân, nói đi đôi với làm”.Năm 2015 học tập chuyên đề “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân

dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.

Công tác tuyên truyền đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, bằng

nhiều hình thức đa dạng, phong phú như tổ chức hội nghị, giao ban, tuyên

truyền trên hệ thống truyền thanh Panô, ápphích, cổng thông tin điện

tử,...Công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ

cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động

Tuyên giáo có nhiều tiến bộ.Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, giảng

viên lý luận chính trị kiêm chức, đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội của

huyện, chất lượng tuyên truyền được nâng lên từng bước đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.Công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ được quan

tâm chỉ đạo thực hiện. óp phần giáo dục truyền thống cách mạng của quê

hương cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác phát hành báo, tạp chí

của Đảng được các cấp các ngành quan tâm, số lượng phát hành được duy trì

ổn định; các tài liệu, tạp chí, Bản thông tin nội bộ, các Văn kiện Đại hội

48

Đảng, các hội nghị Trung ương, tài liệu học tập các chuyên đề về tư tưởng

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,…được kịp thời cung cấp tới cán bộ, đảng

viên phục vụ nhiệm vụ học tập, nghiên cứu.

Công tác tuyên truyền, công tác khoa giáo, công tác văn hóa văn nghệ,

giáo dục lý luận chính trị, nắm bắt dư luận xã hội và định hướng dư luận xã

hội được duy trì thường xuyên; kịp thời xử lý, định hướng dư luận lệch lạc

góp phần giải quyết một số vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở đảm bảo ổn

định tình hình trên địa bàn toàn huyện. Cán bộ, đảng viên và nhân dân tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương, chính sách của nhà nước và sự

chỉ đạo, điều hành, quản lý của cấp uỷ, chính quyền địa phương.

Về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị:

Được các các cấp ủy Đảng triển khai thực hiện nghiêm túc, huyện ủy đã tập

trung chỉ đạo, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 03hàng

năm.Huyện ủy xây dựng kế hoạch triển khai tổ chức học tập nghiêm túc

chuyên đề các năm theo đúng kế hoạch, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội

viên tham dự học tập nghiêm túc và tham gia viết bản đăng ký phấn đấu học

tập rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. “Kết quả 4 năm

triển khai học tập các chuyên đề đã tổ chức được 102 lớp học tập cho trên

28.500 lượt cán bộ, đảng viên và 386 lớp học cho trên 82.000 lượt đoàn viên,

hội viên và nhân dân tham dự học tập” [31; 10]. Việc thực hiện Chỉ thị 03 gắn

với việc thực hiện nghị quyết TW4 (khoá XI) đượccác cấp ủy Đảng thực hiện

nghiêm túc, qua đó đã nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc trong cán bộ,

đảng viên, đoàn viên, hội viên. Đặc biệt về trách nhiệm nêu gương của cán bộ

lãnh đạo chủ chốt các cấp đã được nâng cao. Cán bộ, đảng viêngần dân, lắng

nghe và tăng cường đối thoại với dân, kịp thời giải quyết những bức xúc và

đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân góp phần củng cố sự đoàn kết

thống nhất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân từ huyện

đến cơ sở. Hàng năm Huyện ủy xây dựng kế hoạch chỉ đạo sơ, tổng kết việc

thực hiện Chỉ thị biểu dương, khen thưởng những tập thể điển hình, cá nhân

49

tiên tiến xuất sắc từ cấp cơ sở đến cấp huyện đạt hiệu quả thiết thực.

Công tác kiểm điểm cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết TW4

(Khoá XI) của Đảng được triển khai nghiêm túc, thực sự là đợt sinh hoạt chính

trị trong Đảng và nhân dân:Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch số 34

- KH/HU ngày 12/6/2012, Hướng dẫn số 09 - HD/HU ngày 12/6/2012 đồng

thời triển khai học tập, quán triệt, hướng dẫn thực hiện; Thành lập bộ phận

thường trực và tổ giúp việc. Công tác chỉ đạo kiểm điểm tự phê bình và phê

bình nghiêm túc, khách quan, dân chủ, trung thực, cầu thị. Việc tổ chức lấy ý

kiến đóng góp đối với tập thể Ban Thường vụ và cá nhân từng đồng chí Ủy

viên Ban Thường vụ Huyện uỷ theo đúng kế hoạch, hướng dẫn của Thành uỷ

Hà Nội; Công tác chuẩn bị báo cáo kiểm điểm và tiến hành kiểm điểm tập thể,

cá nhân Ban Thường vụ Huyện uỷ đảm bảo nghiêm túc, khách quan, dân chủ,

làm rõ những khuyết điểm, tồn tại, phân tích nguyên nhân. Tập thể Ban thường

vụ Huyện uỷ đã đề ra 9 giải pháp nhằm khắc phục hạn chế yếu kém. Mỗi cá

nhân sau kiểm điểm đều thể hiện cầu thị, tiếp thu nghiêm túc và có biện pháp

khắc phục tồn tại, hạn chế trong thời gian sớm nhất.

Đảng bộ 22 xã, thị trấn, 04 đảng bộ các cơ quan, 30 chi bộ trực thuộc

đã chủ động xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt tới toàn thể cán bộ đảng

viên và hướng dẫn các chi bộ trực thuộc đảng bộ tổ chức thực hiện.

Việc chỉ đạo hướng dẫn, theo dõi, dự kiểm điểm ở các Đảng ủy, chi bộ

trực thuộc Huyện ủy và các cơ quan đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, tập

trung, khoa học; Ban Thường vụ Huyện ủy đã gợi ý kiểm điểm sâu đối với 15

Đảng bộ, 04 tập thể lãnh đạo cơ quan về lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai,

công tác quy hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng, bố trí xắp xếp cán bộ; công tác cải

cách hành chính, công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện nhiệm vụ

phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm trên các lĩnh vực trật tự công cộng, an

toàn giao thông, cờ bạc, ma túy,…Các đơn vị đã thực hiện kiểm điểm nghiêm

túc, đạt yêu cầu theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy. Sau các hội nghị

kiểm điểm tự phê bình và phê bình Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung

50

lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục ngay những hạn chế, tồn tại, khuyết điểm, khó

khăn, vướng mắc. Hàng năm đều tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả khắc

phục thiếu sót, khuyết điểm. Việc thực hiện Nghị quyết TW4 (khoá XI) đã

chuyển biến mạnh trong công tác xây dựng Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

2.2.2 Xây dựng Đảng v tư tư ng

Công tác tư tưởng là hoạt động truyền bá, bổ sung và phát triển sáng

tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới

quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn đến mỗi

công dân. Công tác tư tưởng góp phần tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng,

sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát

huy tính chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi

mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh. Bước vào thời kỳ mới, sự nghiệp cách mạng

đời hỏi những yêu cầu, thách thức ngày càng cao, công tác tư tưởng của Đảng

ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Lúc này, công tác

tư tưởng phải có sự thích ứng, phù hợp với mục tiêu của cách mạng, tạo nên

sự thống nhất cao trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần

giữ vững, ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

Xuyên suốt quá trình lãnh đạo kể từ năm 2008 đến 2014, Đảng bộ

huyện Mỹ Đức đã xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là tuyên

truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương,

chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nắm vững và chủ động làm tốt

công tác tư tưởng trong toàn Đảng bộ và nhân dân, tích cực đấu tranh với

những tư tưởng sai trái và mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

Công tác tư tưởng đã tập trung về cơ sở và huy động được sức mạnh tổng hợp

của các lực lượng, phát huy các hình thức tuyên truyền để kịp thời truyền tài

các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán

51

bộ, đảng viên và nhân dân. Đảng bộ còn nhận thức rõ động lực quan trọng

góp phần giữ vững, ổn định chính trị, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa chính là tăng cường đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác

tư tưởng. Đảng bộ đã chỉ đạo các ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Ban

Tuyên giáo huyện uỷ thực hiện tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước với nhiều hình thức khác nhau, không ngừng đổi mới

về phương pháp, cách thức tuyên truyền, biện pháp giáo dục tư tưởng, chính

trị cho cán bộ, đảng viên. Định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân

dân trước các vấn đề mới, bức xúc, nhạy cảm, đấu tranh chống chủ nghĩa cá

nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng và những biểu hiện thoái hoá, biến chất.

Tiếp tục thực hiện, nâng cao chất lượng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên

truyền viên, thực hiện nghiêm túc việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng, xây

dựng và ban hành về văn hoá Đảng, văn hoá trong cơ quan. Đảng bộ chú

trọng nâng cao chất lượng dạy và học của Trung tâm Bồi dưỡng lí luận chính

trị huyện, chuyên môn nghiệp vụ, công tác xây dựng Đảng, chính quyền cho

các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là đoàn viên, thanh thiếu niên. “Trong nhiệm

kỳ khóa XXII, đã mở 267 lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lí luận chính trị vói

36.728 lượt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên về tham dự. Trong đó, có

18 lớp bồi dưỡng về lí luận chính trị cho 1.113 đảng viên mới và 31 lớp bồi

dưỡng cảm tình Đảng cho 1.980 đoàn viên, quần chúng ưu tú, 8 lớp sơ cấp lí

luận chính trị cho 507 học viên, 2 lớp trung cấp lí luận chính trị cho 203 học

viên” [31; 05].

Công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách mạng, truyền thống tốt

đẹp của quê hương, đất nước được Đảng bộ đẩy mạnh trong quần chúng nhân

dân thông qua việc tổ chức thành công các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm lịch sử

hướng về cội nguồn cách mạng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về

Bác Hồ, cổ vũ, nêu gương người tốt, việc tốt trong lao động, sản xuất, học

tập, chiến đấu. Đặc biệt, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã thực hiện thắng lợi

“Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Bộ

52

Chính trị phát động. Cuộc vận động đã có ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo nên sự

chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động cho toàn thể nhân dân, đặc

biệt là cán bộ, đảng viên trong toàn huyện. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện còn

chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức

các lớp bồi dưỡng chuyên đề như: Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng

Đại biểu Hội đồng nhân dân, bồi dưỡng công tác tuyên giáo cơ sở, kiến thức

về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng. Thông qua những đợt học tập và

sinh hoạt đó, đại đa số cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất, đạo đức cách

mạng, có ý thức tổ chức, kỷ luật, có lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với

nhân dân. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí và điều

hành của chính quyền các cấp, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc tuyên truyền cuộc vận

động đã góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên khắc

phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, quan liêu tham

nhũng, xa rời quần chúng. Điều này có tác dụng tăng cường ý chí và đẩy

mạnh hành động từ cơ sở đến toàn Đảng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục, tư tưởng của Đảng ta, mỗi

Đảng bộ địa phương được xác định rõ là tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục tư tưởng phải nâng cao tính chiến

đấu, tính thuyết phục, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vững vàng,

không dao động trước các trào lưu, khuynh hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa

không lành mạnh từ bên ngoài vào nước ta. Đảng bộ huyện Mỹ Đức coi trọng

giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên khắc phục những biểu hiện

của chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, quan liêu tham nhũng, xa rời quần

chúng. Điều này có tác dụng tăng cường ý chí và đẩy mạnh hành động từ cơ

sở đến toàn Đảng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa

phương.

53

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất linh hoạt và sáng tạo trong việc thực

hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tư tưởng. Thực hiện chủ trương,

đường lối của Đảng thông qua những chủ trương cụ thể và lãnh đạo công tác

thực hiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương. Những kết quả đạt được

trên mặt trận tư tưởng từ năm 2008 đến năm 2014 đã góp phần to lớn vào quá

trình thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở huyện Mỹ Đức.

2.2.3 Xây dựng Đảng v t chức

Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt

Nam – là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở Chủ nghĩa

Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, khoa

học. Tính tổ chức của Đảng được thực hiện trước tiên, Đảng là một hệ thống

các cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập

trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cao nhất, thể hiện sự thống nhất trong tổ

chức Đảng. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, có các tổ chức cơ sở - Chi bộ

cơ sở và Đảng bộ cơ sở - lập thành nền tảng của Đảng. Trong hệ thống tổ

chức đó, mỗi cấp có vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Cấp cơ sở là nền

tảng của Đảng, của cả hệ thống chính trị: nơi trực tiếp triển khai và tổ chức

thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, biến các đường lối và nghị quyết

đó thành hiện thực.

Tăng cường xây dựng, củng cố, kiện toàn nâng cao năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức đảng.Thực hiện Chương trình 01,

05 của Thành ủy, Huyện ủy đã ban hành 13 Đề án, chuyên đề trên nhiều lĩnh

vực công tác và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của các tổ chức Đảng, chất lượng hoạt động của Chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được nâng lên. Thực hiện Nghị quyết

09, Đề án 06 của Thành uỷ chỉ đạo thành lập được 07 tổ chức đảng và đoàn

thể trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước, kiện toàn, sắp xếp đồng

bộ 122 mô hình chi bộ, Ban công tác Mặt trận, chi hội đoàn thể thôn, tổ dân

54

phố. Sau khi củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt động, năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của tổ chức đảng, đoàn thể từng bước được nâng cao. Trong giai

đoạn 2008 – 2014 nói chung và 2011 – 2014 nói riêng, công tác xây dựng đội

ngũ đảng viên đảm bảo về chất lượng và số lượng luôn được Đảng bộ huyện

Mỹ Đức chú trọng. Số lượng đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ của

Đảng bộ tăng dần về số lượng và tiêu chí đánh giá.

Thường xuyên củng cố tổ chức Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của cấp ủy đảng và hệ thống chính trị ở các tổ chức Đảng có biểu hiện

yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, nhiệm vụ chính trị đạt thấp. “Hàng năm đánh giá

phân loại chất lượng tổ chức cơ sở trong sạch vững mạnh đều đạt từ 70-75%,

đảng viên hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ đều đạt trên 85%” [31; 08].

Công tác phát triển đảng viên được quan tâm bồi dưỡng quần chúng ưu tú,

tạo nguồn để kết nạp đảng. Trong nhiệm kỳ XXII, đã mở 30 lớp bồi dưỡng kết

nạp đảng cho 2.064 quần chúng ưu tú, kết nạp được 1.141 đảng viên mới, đạt chỉ

tiêu, kế hoạch đại hội đề ra; công tác quản lý hồ sơ, quản lý cơ sở dữ liệu đảng

viên, chuyển sinh hoạt đảng, xét tặng huy hiệu đảng, cấp phát thẻ đảng viên

được đổi mới, khoa học, đảm bảo đúng quy trình, nguyên tắc, điều lệ đảng.Bên

cạnh việc chú trọng đến công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao

chất lượng đội ngũ đảng viên, trong thời kỳ 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ

Đức đã rất chú trọng đến công tác phát triển đảng viên và có những chuyển

biến tích cực.

“Năm 2012 kết nạp được 285 đảng viên mới, tăng 12,6% so cùng kỳ.

Tổng số đảng viên tính đến ngày 31/12/2012 là 6.971 đảng viên, trong đó

chính thức là 6.646 đảng viên, dự bị 325 Đảng viên. Xóa tên 08 Đảng viên,

cho rút 04 đảng viên. Đề nghị tặng huy hiệu đảng cho 686 đồng chí, từ 30

năm tuổi đảng đến 65 năm tuổi Đảng” [32; 06]. Số đảng viên mới là những

quần chúng ưu tú, có trình độ, tuổi trẻ và năng động, điều này đảm bảo cho

công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức đảm bảo được tính kế

thừa và phát triển của mình.

55

Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ theo tinh

thần Nghị quyết TW 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng

hiện nay".Công tác đánh giá, nhận xét cán bộ đảm bảo dân chủ, khách quan,

nội dung đánh giá cụ thể, sát với nhiệm vụ cán bộ được giaolà điều kiện, cơ

sở, để bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, hiệu quả. Hàng năm chỉ đạo rà soát, bổ

sung, quy hoạch cán bộ lãnh đạo từ huyện đến cơ sở đảm bảo số lượng, chất

lượng theo quy định; được Thành ủy phê duyệt quy hoạch cho 92 đồng chí

trong Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, 21 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ

Huyện ủy và các chức danh cán bộ chủ chốt huyện, mỗi chức danh có từ 2 - 3

cán bộ dự nguồn. Ban Thường vụ Huyện ủy đã phê duyệt quy hoạch cho cán

bộ chủ chốt của huyện, xã, thị trấn. Kết quả phân loại cán bộ hàng năm các

đồng chí cán bộ chủ chốt của huyện: Ban Thường vụ Huyện ủy, các đồng chí

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân: 100% hoàn thành xuất

sắc chức trách nhiệm vụ; cán bộ là trưởng, phó các phòng ban, Mặt trận tổ

quốc và các đoàn thể huyện: đạt từ 85 - 96% hoàn thành xuất sắc chức trách

nhiệm vụ; cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn: đạt từ 75 - 90% hoàn thành xuất

sắc chức trách nhiệm vụ[31; 10].

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đặc biệt quan tâm, đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ trong nguồn quy hoạch để nâng cao năng lực công tác, chuẩn hoá

tiêu chuẩn các chức danh cán bộ, chất lượng cán bộ được nâng lên rõ rệt.

“Triển khai nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2012, trong năm đã mở

được 73 lớp cho 9.328 học viên. Mở lớp đại học luật, lớp trung cấp lý luận

chính trị. Thực hiện công tác tuyển dụng và thi tuyển cán bộ khối đảng, đoàn

thể” [32; 05].Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện có trình độ chuyên môn trên

đại học đạt 10,8%, cao cấp, cử nhân lý luận chính trị 24,5%. Cán bộ chủ chốt

xã, thị trấn (06 chức danh)trình độ Đại học được nâng lên (năm 2008 là 21%

đến hết năm 2015 đạt trên 80%, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên

đạt 100%).

Công tác bố trí, sắp xếp, luân chuyển, điều động cán bộ được thực hiện

56

nghiêm túc đúng quy trình, nguyên tắc, đảm bảo chặt chẽ, công khai, dân chủ,

phù hợp với phẩm chất, chuyên môn, năng lực cán bộ với nhiệm vụ, công

việc được giao. Trong nhiệm kỳ đã kiện toàn, bổ nhiệm, điều động, luân

chuyển mới lãnh đạo phòng, ban của huyện 37 đồng chí, bổ nhiệm lại 25 đồng

chí, hiệp y với các cơ quan ngành dọc Thành phố bổ nhiệm 28 đồng chí. Kiện

toàn các chức danh Bí thư Huyện ủy, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội

đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; kiện toàn 03

Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, 04 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ

huyện; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy và lãnh đạo

các cơ quan phòng, ban, các xã, thị trấn. Luân chuyển 05 đồng chí cán bộ lãnh

đạo chủ chốt xã, trường học về công tác tại huyện; 04 đồng chí Huyện ủy viên

về làm Bí thư Đảng ủy xã; 01 đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc huyện về làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; luân chuyển cán bộ, công

chức khối chính quyền sang công tác tại khối Đảng, đoàn thể. Cán bộ được bổ

nhiệm, luân chuyển, điều động đã phát huy được năng lực sở trường, đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện tốt.Thực hiện các quy trình

nhân sự để kiện toàn chức danh Bí thư, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội

đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, bổ nhiệm, bổ

nhiệm lại một số chức danh lãnh đạo các cơ quan thuộc khối Uỷ ban nhân dân

huyện, kiện toàn Bí thư Huyện đoàn, lãnh đạo một số trường Trung học cơ sở,

Tiểu học trong huyện và thoả thuận bổ nhiệm một số chức danh lãnh đạo các

cơ quan Trung ương và Thành phố đóng trên địa bàn huyện. Thực hiện luân

chuyển 01 đồng chí cấp uỷ huyện về xã. Chỉ đạo thành công đại hội các đoàn

thể. Rà soát, bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện uỷ,

các chức danh chủ chốt của huyện nhiệm kỳ 2010 – 2015. Tổ chức hội nghị lấy

phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo, các phòng, ban, cơ quan, các xã, thị trấn.

Công tác đánh giá cán bộ: Đánh giá kết quả kiểm điểm tự phê bình và

phê bình theo nghị quyết TW4 khóa XI đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc

57

diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Chỉ đạo, hướng dẫn các Đảng bộ, chi

bộ, trực thuộc triển khai thực hiện công tác đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý

năm 2012.

Chỉ đạo đánh giá phân loại 56 tổ chức cơ sở Đảng. Kết quả phân loại

Tổ chức cơ sở Đảng như sau:

“Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh: 40/56 = 71,4%, trong đó:

xã, thị trấn: 16, cơ quan: 24 (Trong đó có 11 tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,

vững mạnh tiêu biểu).

Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ: 11/56 = 19,6%, trong đó:

xã 05, cơ quan 06.

Tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành nhiệm vụ: 5/56 = 8,9%, trong đó: xã

01, cơ quan 04.

Không có tổ chức Đảng yếu kém” [34; 07].

Thực hiện tốt chính sách cán bộ như chế độ nghỉ dưỡng, hưu trí, tiền

lương, phụ cấp đảm bảo kịp thời, đúng chế độ. Đề nghị công nhận người hoạt

động trước Cách mạng Tháng Tám 1945 cho 03 đồng chí.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được coi trọng, đã chủ động thẩm định

hồ sơ và tiêu chuẩn chính trị cán bộ được quy hoạch các chức danh lãnh đạo

quản lý ở các phòng, ban, các xã, thị trấn đối với 410 đồng chí; xác minh

thẩm định 620 hồ sơ quần chúng ưu tú xin vào đảng,… Chỉ đạo thực hiện tốt

nhiệm vụ, nắm bắt tình hình chính trị nội bộ ở các xã, thị trấn, cơ quan, cán bộ

đảng viên; thực hiện tốt việc thẩm định, kết luận chính xác, kịp thời tiêu

chuẩn chính trị đối với công tác cán bộ và công tác kết nạp đảng viên. Thực

hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ. Tăng

cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên.

Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật: Ngay từ đầu nhiệm kỳ

Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã rà soát, xây dựng, ban hành Quy chế làm

việc, phân công nhiệm vụ các đồng chí trong Ban Thường vụ, cấp ủy viên phụ

trách công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo

58

trong Đảng; hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện

nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết đơn thư tố

cáo, khiếu nại trong Đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện

nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng đối với các tổ chức Đảng và đảng viên.

Đảng bộ huyện đã ban hành 03 Quy chế, 03 Quy định: Quy chế làm

việc của Uỷ ban kiểm tra Huyện ủy, Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban kiểm tra

huyện ủy với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện trong lĩnh vực phòng chống

tham nhũng trên địa bàn huyện, quy chế tiếp đảng viên và công dân của Uỷ

ban kiểm tra Huyện ủy; Quy định về giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán

bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện ủy quản lý, Quy định về giám sát đảng

viên là cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện ủy quản lý, Quy định trách

nhiệm của các Ban xây dựng Đảng tham gia giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng

thuộc thẩm quyền của Ban chấp hành, Ban thường vụ Huyện ủy. Cấp ủy và

Uỷ ban kiểm tra Huyện ủy đã chủ động kiểm tra, giám sát được 83 lượt tổ

chức đảng; trong đó kiểm tra được 70 lượt tổ chức đảng (kiểm tra dấu hiệu vi

phạm 04 tổ chức Đảng và 06 cá nhân), giám sát chuyên đề đối với 23 lượt tổ

chức Đảng, 19 cá nhân thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Qua

kiểm tra giám sát đã kịp thời nhắc nhở, uốn nắn những tập thể và cá nhân

trong quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kịp thời ngăn chặn

những sai phạm nảy sinh, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, củng cố nguyên tắc

tập trung dân chủ, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong đảng, nâng cao năng

lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và vai trò tiền phong gương

mẫu của đảng viên, góp phần đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và

các biểu hiện tiêu cực khác trên địa bàn huyện. Xem xét xử lý thi hành kỷ luật

đảng đối với 02 tổ chức đảng, 171 đảng viên (trong đó khiển trách: 100, cảnh

cáo 46, cách chức 05, khai trừ 20)vi phạm chủ yếu liên quan đến quản lý và

sử dụng đất đai, tài chính, vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình,

đạo đức lối sống,...

Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng

59

viên được kịp thời, trong nhiệm kỳ đã nhận 27 đơn; (trong đó có 01 đơn tố

cáo tổ chức đảng và 24 đơn tố cáo đảng viên; 02 đơn khiếu nại kỷ luật đảng)

giải quyết xong 26/27 đơn, 01 đơn đang giải quyết. Điều này đã góp phần

củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng cũng như chứng minh năng lực

lãnh đạo nhạy bén, xử lí nghiêm và kịp thời các hành vi vi phạm của cán bộ,

đảng viên, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên trong huyện.

Ti u t chương 2

Trong năm năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ 2011 đến 2014,

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra các yêu cầu cụ thể và trực tiếp chỉ đạo cho

các Ban xây dựng Đảng, Đảng bộ các cơ quan, xã, thị trấn, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở đã đề ra những chương trình

hành động phương pháp phù hợp triển khai ở ngành mình gắn với việc học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo một phong trào thi

đua yêu nước hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra theo từng năm. Xác định

được yêu cầu phải đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng Đảng gắn với các nhiệm

vụ chính trị ở địa phương, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra các chủ trương,

biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng, căn cứ vào điều kiện thực tiễn, phù

hợp với thực tiễn. Điều này đã góp phần đem lại những hiệu quả tích cực và

toàn diện.

Thông qua việc thực hiện Nghị quyết, chúng ta thấy có sự chuyển biến

rõ rệt về nhận thức đối với công tác kiểm tra, giám sát; sự lãnh đạo, chỉ đạo

thống nhất, sâu sát, thường xuyên hơn. Hàng năm đã xây dựng được chương

trình kiểm tra, giám sát bám sát chương trình của Trung ương và tình hình địa

phương. Việc xem xét, kết luận sau kiểm tra, giám sát thể hiện đúng điều lệ,

nghiêm minh; xử lý khách quan, đảm bảo dân chủ và đúng pháp luật. Các cấp

ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng giáo dục chính trị tư

tưởng gắn với công tác tổ chức, đào tạo cán bộ,…

Trong thời gian tới, các cơ quan của Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn tiếp

tục rà soát bổ sung quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các cấp ủy Đảng;

60

các quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật

Đảng; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng ở

đơn vị, địa phương. Xác định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để chỉ

đạo kiểm tra, giám sát. Tiếp tục kiện toàn đủ số lượng, chất lượng cán bộ và

cơ quan các cấp; tham mưu, đề xuất bổ sung biên chế cho cơ sở nhằm đáp

ứng yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng trong giai đoạn mới

theo từng khu vực khác nhau.

61

Chương 3

NHẬN X T VÀ KINH NGHI M

3.1. Nhận t

3.1.1. ch trương và sự chỉ đ o

Nhìn lại chặng đường 7 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng dưới

sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Đảng bộ huyện Mỹ Đức

đã và đang đạt được những kết quả to lớn và có ý nghĩa trên tất cả các mặt

kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,... Đạt được những thành tựu đó là nhờ vào

những chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Đảng bộ thành phố Hà Nội và Đảng bộ huyện Mỹ Đức, sự thực hiện nghiêm

túc, hiệu quả của các chi bộ đảng cơ sở, các cán bộ, đảng viên và sự phấn đấu

của nhân dân trong huyện.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đảng bộ huyện

Mỹ Đức đã thực sự coi trọng và đề ra chủ trương xây dựng Đảng, đẩy mạnh

cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng bộ hết sức coi trọng công tác

giáo dục lí luận chính trị, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước cho

cán bộ đảng viên. Những nghị quyết, chủ trương lớn về xây dựng Đảng từ cấp

trên đã trở thành cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp ủy và tổ chức đảng

trong huyện nghiên cứu, quán triệt và đề ra những chủ trương, giải pháp đúng

đắn để xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Những chủ trương đó đã

được quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi

mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ điều kiện

cụ thể, từ nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân huyện

Mỹ Đức, tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, Đảng bộ và nhân dân

huyện Mỹ Đức đã giành được những kết quả quan trọng về mọi mặt. Nhân tố

quyết định để có được những thành quả trên khẳng định là do sự lãnh đạo tập

trung sáng suốt, có hiệu quả của Đảng bộ huyện Mỹ Đức dưới sự chỉ đạo trực

tiếp của Đảng bộ thành phố Hà Nội.

62

Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng là vấn đề hết sức

quan trọng đối với một Đảng cầm quyền. Công tác tư tưởng, lí luận thường

xuyên được chú trọng thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Trong đó, tập

trung vào quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và quan điểm đường lối đổi mới của Đảng. Trong giai đoạn 2008 – 2014, đất

nước đang đứng trước những cơ hội mới do những thành tựu to lớn có ý nghĩa

lịch sử của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực mang lại, đồng thời

đứng trước những yêu cầu, thách thức mới trong hoàn cảnh mới. Vì vậy, mục

tiêu nhiệm vụ của công tác giáo dục, tư tưởng nặng nề hơn trước hết ở chỗ

công tác này phải thích ứng và phục vụ có hiệu quả nhất những mục tiêu lớn

của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.

Thực hiện Chỉ thị số 15 – CT/TW, Kế hoạch số 08 – KH/TW của Bộ

Chính trị, Hướng dẫn số 11 của Trung ương, Kế hoạch số 52, Hướng dẫn số

04 ngày 23/4/2012 của Thành ủy Hà Nội và các văn bản chỉ đạo của Trung

ương và của Thành ủy Hà Nội,Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Kế hoạch

số 34 – KH/HU ngày 12/6/2012 về kế hoạch học tập, quán triệt và tổ chức

thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa XI), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI). Hướng dẫn số 09 – HD/HU

ngày 12/6/2012 về hướng dẫn tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo

nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa XI); thành lập bộ phận thường trực chỉ đạo thực hiện nghị quyết TW4

và tổ giúp việc bộ phận thường trực; thành lập các tổ công tác đi dự kiểm

điểm đối với Ban Thường vụ Đảng uỷ các cơ quan, các xã, thị trấn, chi bộ

trực thuộc.

Trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất chú

trọng tới việc xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng. Đảng bộ huyện Mỹ

Đức khẳng định phải thực sự coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, đảm bảo

thống nhất về tư tưởng và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, coi

việc tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng trước yêu

63

cầu mới là động lực quan trọng để góp phần giữ vững, ổn định chính trị, đẩy

nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các

ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Ban Tuyên giáo huyện ủy thực hiện công

tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Đảng bộ đã tiến hành nhiều lớp

bồi dưỡng chính trị nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân

dân về chủ trương, đường lối của Đảng.

Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng báo cáo góp ý kiểm điểm đối

với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, các Ban Đảng, Văn phòng Thành ủy,

Đảng ủy công an Thành phố, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Thành phố Hà

Nội, Đài phát thanh truyền hình Hà Nội và một số sở, ngành Thành phố. Ban

Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Công văn số 346 – CV/HU ngày 14/8/2012

về xin ý kiến đóng góp đối với tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy và cá nhân

các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đến 88 đơn vị trực thuộc

Huyện ủy (các tổ chức cơ sở đảng, các Ban Xây dựng Đảng và Văn phòng

Huyện ủy, các phòng, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể huyện).

Đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí Ủy viên ban Chấp

hành Đảng bộ huyện qua các thời kỳ nghỉ hưu trên địa bàn vào ngày

10/9/2012.

Việc chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, dự kiểm điểm ở các Đảng ủy, chi

bộ trực thuộc Huyện ủy và các cơ quan đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, tập

trung, khoa học; Ban Thường vụ Huyện ủy đã gợi ý kiểm điểm sâu đối với 15

Đảng bộ, 04 tập thể lãnh đạo cơ quan. Nội dung gợi ý kiểm điểm sâu về các

lĩnh vực công tác như: Công tác quản lý nhà nước về đất đai, công tác quy

hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ; công tác cải cách hành

chính, công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa,

đấu tranh với các vi phạm trên các lĩnh vực trật tự công cộng, an toàn giao

thông, cờ bạc, ma túy,… Công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần cách

mạng, truyền thống cách mạng của quê hương, đất nước được đẩy mạnh trong

64

quần chúng nhân dân. Thông qua việc tổ chức thành công các ngày lễ lớn,

ngày kỷ niệm đất nước, ... củng cố niềm tin trong quần chúng nhân dân vào sự

lãnh đạo của Đảng.

*Về chính trị - tư tưởng

Đảng bộ đã triển khai học tập, sinh hoạt chính trị một cách nghiêm túc

và đầy đủ tới các Đảng bộ cơ sở.

Đảng bộ huyện luôn quán triệt Điều lệ Đảng để đảng viên rèn luyện,

học tập, nâng cao kiến thức, giữ gìn phẩm chất, nêu cao tính tiên phong

gương mẫu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng

những đảng viên không còn đủ tư cách, giảm sút ý chí chiến đấu, không còn

tác dụng lãnh đạo quần chúng. Phát huy dân chủ trong Đảng, cấp ủy luôn lắng

nghe ý kiến của đảng viên, quần chúng, không thành kiến, trù dập người đấu

tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Điều

lệ Đảng, quy chế làm việc, đảm bảo kỷ cương trong Đảng, tôn trọng pháp luật

của Nhà nước.

Đảng bộ huyện coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thường

xuyên bồi dưỡng cán bộ, đảng viên nắm vững đường lối, quan điểm của

Đảng, vận dụng sáng tạo vào địa phương, đơn vị. Ngoài ra, Đảng bộ huyện

còn thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng

của tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đưa những người

không thiết tha với Đảng, những người không còn đủ tư cách đảng viên ra

khỏi Đảng.

Đại hội lần thứ XXII đánh giá: “Trong giáo dục chính trị, tư tưởng đã

quán triệt kịp thời các Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Nghị quyết của

Đảng bộ huyện lần thứ XXI, triển khai học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức

hội thi báo cáo viên tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng

viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [31; 05].

Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03 – CT/TW

của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 18 – KH/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy

65

Mỹ Đức “Về tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Trong thực hiện gắn việc tổ chức học tập, làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và triển khai thực hiện

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng

Đảng hiện nay”, Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ

phát triển Thủ đô giai đoạn 2011 – 2020 và9 Chương trình công tác lớn của

Thành ủy Hà Nội (khóa XV); Các chương trình, đề án của Huyện uỷ, đặc biệt

là Chương trình 01 – CTr/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Chương

trình 05 – CTr/HU của Ban Thường vụ huyện ủy Mỹ Đức về “Nâng cao năng

lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng gắn với đẩy mạnh

thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết

hợp với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, địa phương,

cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc

lần thứ XI của Đảng, Đại hội XV của Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết Đại

hội XXII của Đảng bộ huyện Mỹ Đức.

Ban Tuyên giáo Huyện ủy – cơ quan Thường trực bộ phận giúp việc trực

tiếp đôn đốc việc tổ chức thực hiện Hướng dẫn số 05 – HD/BTGHU ngày

19/11/2011 về sinh hoạt chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người

công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng

giản dị” trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và

tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong năm 2012.

Các Ban xây dựng Đảng, Đảng bộ các cơ quan, xã, thị trấn, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở đã đề ra những chương

trình hành động phương pháp phù hợp triển khai ở ngành mình gắn với việc

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo một phong trào

thi đua yêu nước hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra trong năm 2012.

Có thể khẳng định rằng năm 2012 việc học tập và làm theo tấm gương

66

đạo đức Hồ Chí Minh được các cơ quan, đơn vị và từng cán bộ, đảng viên và

nhân dân tiếp tục phát huy và đã đạt được những kết quả thiết thực.

Tăng cường sâu sát cơ sở, đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể

chính trị, tích cực đôn đốc, kiểm tra giám sát. Xây dựng kế hoạch, quy chế,

phân công nhiệm vụ thực hiện chương trình số 01, 05 của Thành uỷ, Huyện

ủy; Tổ chức 04 đoàn công tác do các đồng chí Thường trực Huyện uỷ làm

trưởng đoàn để kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghị quyết Trung

ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ

sở Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và việc đổi mới phương thức

lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, quản lý điều hành của các cấp chính quyền tại 8

Đảng bộ xã. Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đảng và các Đoàn thể nhân dân

trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn huyện.

Tổ chức tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2011, triển khai nhiệm

vụ công tác xây dựng Đảng năm 2012, tổng kết việc thực hiện Quy định 123 –

QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị (khoá IX) “Quy định một số điểm

về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh

hoạt tôn giáo”.

* Về tổ chức

Nhận thức rõ vai trò của tổ chức cơ sở Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức

luôn coi trọng việc củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng ở địa phương

trong thời kỳ 2008 – 2014. Trong giai đoạn này, công tác xây dựng đội ngũ

đảng viên trong sạch, vững mạnh, đảm bảo đủ về chất lượng và về số lượng

luôn được Đảng bộ huyện Mỹ Đức chú trọng. Công tác phát triển đội ngũ

đảng viên được Đảng bộ quan tâm, tăng nhanh về số lượng cũng như chất

lượng. Song song với công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao chất

lượng đội ngũ đảng viên, Đảng bộ huyện Mỹ Đức còn chú trọng đến công tác

phát triển Đảng và có những chuyển biến tích cực về cả số lượng và chất

lượng.

67

Về cơ bản, Đảng bộ đã khắc phục được tình trạng nhiều chi bộ không

kết nạp được đảng viên mới. Số đảng viên mới là quần chúng ưu tú, có trình

độ nhất định, tuổi trẻ và năng động, số lượng đảng viên mới là nữ tăng. u

điểm này đảm bảo cho công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức

mang tính kế thừa và phát triển.

Ngoài việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên, Đảng bộ huyện

Mỹ Đức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo “vừa hồng vừa

chuyên”. Hàng năm, Đảng bộ huyện tổ chức nhiều lớp học ở các lĩnh vực để

nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ. Việc phân công công tác, bổ nhiệm,

điều động, luân chuyển cán bộ được đảm bảo đúng quy định, dân chủ. Đảng

bộ đã xây dựng công tác quy hoạch cán bộ cho từng giai đoạn để có đội ngũ

cán bộ kế cận. Đa số cán bộ được luân chuyển có bước trưởng thành, tiếp cận

nhanh với điều kiện và môi trường công tác mới, nâng cao được năng lực điều

hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Đảng đã ban hành nhiều chính sách đãi ngộ

nhằm thu hút lực lượng cán bộ trẻ, có trình độ về địa phương làm việc, đồng

thời phân công nhiệm vụ cho cán bộ đảng viên, đảm bảo đúng năng lực, phù

hợp với chuyên môn, phát huy cao nhất khả năng của từng cá nhân.

Để công tác xây dựng Đảng được đảm bảo phát huy tốt nhất, Đảng bộ

huyện Mỹ Đức đã rất chú trọng việc tăng cường kiểm tra, giám sát ngay trong

nội bộ Đảng cũng như sự giám sát của quần chúng nhân dân tới toàn bộ đội

ngũ cán bộ đảng viên. Nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện các Nghị

quyết, Chỉ thị của Trung ương, Thành uỷ, Huyện ủy đến Đảng bộ ở các tổ chức

cơ sở Đảng. Công tác kiểm tra của cấp uỷ và hoạt động của uỷ ban kiểm tra đã

phát huy ưu điểm, nhân tố tích cực, góp phần thúc đẩy quá trình tổ chức thực

hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng và công tác xây dựng

Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức. Bên cạnh đó, những đảng viên có dấu hiệu

vi phạm cũng được Đảng bộ huyện nghiêm khắc kiểm tra, xử lý. Trong giai

đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã kiểm tra và xử lý một số trường

hợp đảng viên vi phạm tư cách với nhiều hình thức kỉ luật khác nhau, góp phần

68

làm trong sạch đội ngũ đảng viên, ngăn chặn được sự chia rẽ, mất đoàn kết,

đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc. Thực

hiện tốt việc chuyển giao, sắp xếp lại, thành lập mới một số tổ chức cơ sở đảng

để phù hợp với tình hình, nhiệm vụ chính trị của cơ sở.

Như vậy, việc đề ra chủ trương và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức được Đảng bộ huyện Mỹ Đức

thực hiện một cách nghiêm túc, sáng tạo. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn,

Đảng bộ đã đưa ra những chủ trương cụ thể, bám sát những chủ trương của

Trung ương, của Thành ủy Hà Nội phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng

được những nhu cầu cấp bách của địa phương. Việc củng cố, nâng cao năng

lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng

viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở

đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.

3.1.2 kết quả và h n chế

* kết quả

Một là, trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã

thành công trong việc triển khai thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung

ương, của Thành ủy ở địa phương và đạt được những thành tựu quan trọng.

Công tác xây dựng Đảng luôn được các cấp ủy quan tâm từ huyện đến cơ sở.

Từ 2008 đến 2014, công tác xây dựng Đảng đã có những chuyển biến rõ nét,

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy và các tổ chức

cơ sở đảng là nhân tố quyết định đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối đổi

mới của Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Ban Thường vụ Huyện ủy đã nhận được 84/88 văn bản đóng góp ý kiến

của các tập thể (trong đó 22 văn bản đóng góp của đảng bộ xã, thị trấn và 62

văn bản đóng góp của các chi, đảng bộ cơ quan, các phòng, ban ngành đoàn

thể của huyện) và 20 ý kiến (trong đó có 03 ý kiến tại hội nghị và 17 ý kiến

bằng văn bản) của các đồng chí nguyên là Ủy viên ban chấp hành Đảng bộ

huyện qua các thời kỳ đã nghỉ hưu đóng góp ý kiến cho tập thể Ban Thường

69

vụ và cá nhân các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy. Sau khi tiếp

thu các ý kiến đóng góp của các tập thể và cá nhân; Ban Thường vụ Huyện ủy

đã 02 lần gửi văn bản và tổ chức 02 Hội nghị họp Ban Thường vụ Huyện ủy

để tham gia đóng góp và thảo luận về các nội dung kiểm điểm tự phê bình và

phê bình đối với tập thể và cá nhân các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ

Huyện ủy theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (2011). Ban

Thường vụ Huyện ủy đã tổng hợp toàn bộ các ý kiến góp ý của tổ chức và cá

nhân đối với tập thể và cá nhân Ban Thường vụ Huyện ủy trung thực, khách

quan. Các ý kiến đóng góp cho tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy và cá nhân

các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đánh giá nghiêm túc, trách

nhiệm, có tính chiến đấu cao. Việc tham gia đóng góp ý kiến với Ban Thường

vụ Huyện ủy, lấy ý kiến rộng rãi, dân chủ theo chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội.

Các đơn vị đã thực hiện kiểm điểm nghiêm túc, đạt yêu cầu theo chỉ

đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, không có Đảng bộ, chi bộ hoặc đơn vị nào

phải tổ chức kiểm điểm lại. Song song với chỉ đạo kiểm điểm theo tinh thần

nghị quyết TW4, Huyện ủy chỉ đạo kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý cuối

năm và đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên năm 2012. Ban

Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo đôn đốc, kiểm tra các Đảng ủy, chi

bộ trực thuộc nghiêm túc kiểm điểm, đến ngày 10/01/2013 đã tổ chức kiểm

điểm xong 26 Đảng bộ, 30 chi bộ trực thuộc Huyện ủy, đảm bảo kế hoạch đề

ra; sau các hội nghị kiểm điểm tự phê bình và phê bình Ban Thường vụ

Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục ngay những hạn chế, tồn

tại, khuyết điểm, khó khăn, vướng mắc như chấn chỉnh lại kỷ luật, kỷ cương

hành chính, công tác cán bộ, quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường,…

Báo cáo kiểm điểm tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng công

phu, nghiêm túc, có chất lượng, sát với hướng dẫn của Thành ủy đảm bảo yêu

cầu đề ra. Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức kiểm điểm tập thể Ban Thường

vụ Huyện ủy và cá nhân các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy

trong 04 ngày (ngày 9,10/10/2012 và ngày 13,14/10/2012), bảo đảm nghiêm

70

túc và chất lượng. Sau hội nghị kiểm điểm Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức

hội nghị phổ biến rút kinh nghiệm để chỉ đạo hướng dẫn các Đảng ủy, chi bộ

trực thuộc, các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn huyện.

Đảng bộ 22 xã, thị trấn, 04 đảng bộ các cơ quan, 30 chi bộ trực thuộc

đã chủ động xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt nghị quyết TW4 (khóa XI)

tới toàn thể cán bộ đảng viên và hướng dẫn các Chi bộ trực thuộc đảng bộ tổ

chức thực hiện kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết TW4 (khóa XI).

Qua kiểm tra, 71/71 cơ sở Đảng đảm bảo yêu cầu, nội dung đề ra. Tổng

số đảng viên thực hiện Chỉ thị 59 đạt 97%, trong đó có 80% đảng viên đủ tư

cách, trong số đủ tư cách có 18,8% đạt tiên phong gương mẫu.

Hai là, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh” đã có sức lan tỏa cả về chiều rộng và chiều sâu, làm cho nhân

dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chuyển biến rõ

nét trong nhận thức, tư tưởng về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời

biến những nhận thức đó thành hành động trong việc học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trải qua 10 năm thực hiện cuộc vận động, công

tác chính trị, tư tưởng đã góp phần khẳng định và nâng cao nhận thức về chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng trong đội ngũ cán bộ, đảng

viên, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên trong quần chúng. Cuộc vận

động đã đạt được kết quả tốt, gắn với nhiệm vụ xây dựng Đảng. Trong đó,

công tác sinh hoạt của các chi bộ, đảng bộ cơ sở được Đảng bộ hết sức coi

trọng. Nội dung sinh hoạt ngày càng phong phú, đa dạng, khắc phục tình

trạng giáo điều, cứng nhắc của các giai đoạn trước. Qua các buổi sinh hoạt,

nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình được thực hiện và tôn

trọng ở các tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời có thể giáo dục chính trị, tư tưởng

cho cán bộ, đảng viên khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tự

do vô tổ chức, quan liêu tham nhũng, xa rời quần chúng. Điều này có tác dụng

tăng cường ý chí và đẩy mạnh hành động từ cơ sở đến toàn Đảng bộ, góp

71

phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Ba là, công tác tuyên truyền và thực hiện các phong trào thi đua cũng

đạt được nhiều kết quả to lớn: được triển khai đồng bộ, thường xuyên với

nhiều hình thức phong phú như: tuyên truyền thông qua các hội nghị, các buổi

toạ đàm, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt chi bộ; thông qua các buổi sinh hoạt

của các tổ chức đoàn thể chính trị, thông qua các hoạt động văn hoá văn nghệ;

công tác tuyên truyền cổ động trực quan bằng panô, áp phích, băng rôn, khẩu

hiệu, tuyên truyền thông qua bản tin phát trên hệ thống truyền thanh huyện và

cơ sở về những tấm gương tiêu biểu, gương “người tốt, việc tốt”,… Qua đó đã

nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc hơn trong cán bộ, đảng viên và nhân dân

về những nội dung tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ

đó có những việc làm cụ thể diễn ra hàng ngày, trên từng vị trí công tác.

Bốn là, công tác cán bộ và phát triển đảng viên đạt được những kết quả

tích cực về số lượng và chất lượng. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh được xác định là một nội dung trong công tác xây dựng

Đảng, để đánh giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hàng năm. Thực

hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với tập thể và cá nhân cán bộ

lãnh đạo, quản lý các cấp và đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng

viên của Huyện ủy Mỹ Đức được thực hiện nghiêm túc. Công tác giám sát,

kiểm tra việc học tập và làm theo lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách

được giao và vai trò gương mẫu rèn luyện đạo đức lối sống trong công tác,

sinh hoạt kết hợp nhận xét của các cấp uỷ và Ban mặt trận nơi cư trú để đánh

giá phân loại cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ

luật, vi phạm phẩm chất đạo đức, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, góp phần nâng

cao ý thức trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên; đạo đức, lối sống được hoàn

thiện hơn; ý thức chấp hành thời gian làm việc, hội họp, nội quy, quy định của

cơ quan, đơn vị được thực hiện tốt hơn; ý thức đạo đức, tác phong, lề lối làm

việc từng bước được đổi mới; phong trào thực hành tiết kiệm chống tham ô,

lãng phí được mọi người hưởng ứng tích cực; trình độ chuyên môn, nghiệp

72

vụ, ý thức trách nhiệm, sự nhiệt tình trong công tác của cán bộ, đảng viên

từng bước được nâng lên, hiệu quả công việc của các cơ quan, đơn vị có

chuyển biến tích cực, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân trong huyện.

Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ huyện

Mỹ Đức trong những năm 2008 – 2014 được tiến hành đồng thời cùng với

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, có vai

trò to lớn, thúc đẩy sự phát triển của Đảng bộ huyện. Trong những năm qua,

công tác đánh giá và đào tạo cán bộ, đảng viên được Đảng bộ huyện chỉ đạo

sát sao nên đã đem lại hiệu quả cao. Việc phân công công tác, bổ nhiệm, điều

động, luân chuyển cán bộ đảm bảo dân chủ, đúng quy định. Vấn đề tạo môi

trường thuận lợi cho cán bộ hoạt động có hiệu quả cũng được Đảng bộ huyện

quan tâm. Đảng bộ đã có những chính sách thu hút lực lượng cán bộ trẻ, có

trình độ bằng nhiều chế độ đãi ngộ, ưu tiên. Đảng bộ cũng đã xây dựng quy

hoạch cán bộ cho từng thời kì để đảm bảo có đội ngũ cán bộ kế cận và đáp

ứng được nhu cầu của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa

phương. Bên cạnh những cán bộ lâu năm, có kinh nghiệm, vững vàng về

chính trị, Đảng bộ huyện cũng chú ý đào tạo và mạnh dạn sử dụng những cán

bộ trẻ, năng động, tháo vát, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, được

đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ và lí luận chính trị.

Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được tiến hành đồng thời với

việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên, đảm bảo phân công đúng năng lực,

chuyên môn, phát huy cao nhất khả năng của từng cán bộ, đảng viên. Đảng bộ

huyện cũng đã tổ chức nhiều lớp học nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán

bộ, đảng viên, từng bước đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Hàng năm, Đảng bộ đều tổ chức thực hiện nghiêm túc công

tác cán bộ, quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm

cán bộ.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, đã kịp thời phát hiện những

biểu hiện lệch lạc, thoái hóa, biến chất, đấu tranh với những sai trái và kiên

73

quyết xử lí kỉ luật đối với những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật

của Nhà nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, và từng bước thực

hiện công bằng xã hội. Phương châm kiểm tra là công minh, chính xác, kịp

thời, thận trọng, dân chủ, đúng người, đúng tội, đã góp phần quan trọng trong

việc xây dựng Đảng bộ, chính quyền trong sạch, vững mạnh, mang lại niềm

tin cho quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Như vậy, những thành tựu mà Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đạt được

trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là rất to lớn, có ý nghĩa vô cùng

quan trọng, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện, quyết tâm của

toàn Đảng toàn dân, tạo đà cho sự phát triển những năm tiếp theo của công tác

này trong Đảng bộ huyện.

*Về hạn chế

Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ

xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức còn tồn tại một số hạn chế như:

Về chính trị - tư tưởng

Một là, trong chỉ đạo, lãnh đạo thiếu năng động, nhạy bén, còn bảo thủ,

việc giáo dục chình trị, tư tưởng còn đơn điệu, thiếu sắc bén, thông tin thời sự

chưa thường xuyên. Một số cấp ủy Đảng chưa chủ động sáng tạo trong việc

vận dụng các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng vào thực tiễn địa phương, đơn vị.

Việc giải quyết cơ sở Đảng còn chậm so với yêu cầu. Ý thức chấp hành Nghị

quyết ở một số cấp ủy, chính quyền xã, thị trấn chưa nghiêm.

Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn còn nhiều hạn chế

cần được nhanh chóng khắc phục: cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy dù còn

cồng kềnh, bất hợp lí; chức năng, nhiệm vụ chưa phân định rõ ràng, có nơi Đảng

buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay. Do vậy, đòi hỏi Đảng bộ trong

công tác chỉ đạo phải đổi mới cơ chế tổ chức, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy

trong hệ thống chính trị; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội. Đặc biệt, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải

đặt trong tính đồng bộ, có tính kế thừa, có sáng tạo.

74

Mặc dù công tác xây dựng về chính trị được Đảng bộ huyện Mỹ Đức

đặc biệt quan tâm, tuy nhiên, trong thời kỳ 2008 – 2014 vẫn còn tồn tại tình

trạng một số nơi cấp uỷ và tổ chức Đảng chưa thực sự coi trọng công tác

chính trị. Công tác triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa

phương chưa đồng bộ, chưa có ý chí quyết tâm cao nên hiệu quả chưa đạt

được như mục tiêu đặt ra. Một số biện pháp thực hiện các nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương chưa được phù hợp với thực tiễn nên trong quá

trình thực hiện không đem lại hiệu quả, gây lãng phí ngân sách. Việc triển

khai tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng thiếu nghiêm túc, nhiều chi bộ

Đảng còn lúng túng, thiếu chủ động sáng tạo, trông chờ ỷ lại vào sự giúp đỡ

của cấp trên, điều hành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thiếu biện pháp cụ

thể và cương quyết. Một số Đề án, Chương trình hành động được ban hành

nhưng khi đi vào triển khai mới chủ yếu dừng lại ở hình thức, chưa tạo ra một

phong trào rộng lớn, chưa huy động được sức mạnh của nhân dân trong huyện

tham gia. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, phân tán, chưa tạo ra được

hàng hoá nông nghiệp có giá trị cao. Các dự án đầu tư công nghiệp qui mô

nhỏ, tiến độ đầu tư chậm, chưa tiếp cận với công nghệ tiên tiến, các thành

phần kinh tế chưa mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất. Đây chính là

nguyên nhân cơ bản dẫn đến kinh tế của huyện chưa phát triển tương xứng

với tiềm năng sẵn có, cơ bản vẫn là một nền kinh tế thuần nông, sản phẩm

hàng hoá chưa nhiều, công nghiệp chưa phát triển, du lịch, dịch vụ chưa được

khai thác tương xứng với tiềm năng. Các doanh nghiệp ngành công nghiệp

còn nhỏ bé, năng lực yếu, sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp.

Hai là, công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân

tham gia thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào thực tiễn ở địa

phương đơn vị mình, để đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống còn hạn chế.

Chưa sâu sát nắm tình hình cơ sở nên một số vấn đề bức xúc phát sinh thiếu

chủ động kiểm tra, giám sát, chỉ đạo giải quyết đảm bảo kịp thời, hiệu quả

chưa cao.

75

Trong công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, một số cấp uỷ chưa có

biện pháp giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên. Số ít cán bộ đảng

viên bị chi phối bởi mặt trái của cơ chế thị trường, sa sút về phẩm chất đạo

đức, cơ hội, thoái hoá, biến chất, vi phạm đạo đức, vi phạm tư cách đảng viên.

Các Chỉ thị, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt

nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở hình thức. Chưa coi trọng công tác tổng kết

thực tiễn, đặc biệt là tổng kết thực tiễn về sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối

với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hơn nữa, công

tác tuyên truyền còn hạn chế, mới chỉ dừng lại chủ yếu là đối tượng cán bộ,

đảng viên ở huyện, chưa đi vào sâu rộng tới toàn cán bộ, đảng viên trong toàn

Đảng bộ. Công tác nắm tình hình tư tưởng dư luận xã hội trên địa bàn có lúc

chưa kịp thời, chưa sâu sát.

Hình thức và nội dung tuyên truyền của công tác tư tưởng chưa thực sự

phong phú. Nội dung chủ yếu là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước, đôi lúc phổ biến chậm, chưa kịp thời. Hình thức tuyên truyền đơn điệu,

chủ yếu là tổ chức các lớp học, các hội nghị, … dẫn tới hiệu quả tuyên truyền

chưa cao. Việc học tập, tổ chức thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng ở một

số chi bộ Đảng chưa kịp thời, lúng túng trong việc xây dựng chương trình

hành động thực hiện Nghị quyết.

Ba là, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa sâu rộng. Một số đồng

chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành chưa thường xuyên bám sát cơ sở

được phân công phụ trách.

Bốn là, công tác kiểm tra, giám sát chưa được tiến hành thường xuyên

để phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời những vi phạm trong công tác xây

dựng và chỉnh đốn Đảng. Một số cơ sở Đảng sinh hoạt không đều, tinh thần

tự phê bình và phê bình yếu. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa triển

khai thực hiện đúng kế hoạch, chưa bao quát và thực hiện thường xuyên, chưa

kịp thời phát hiện những tiềm ẩn, những sai lệch trong quá trình tổ chức thực

hiện của cơ sở và của cán bộ, đảng viên, để có uốn nắn, khắc phục kịp thời

76

ngay từ cơ sở.

Vẫn còn tồn tại tình trạng một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa

thực sự đầy đủ về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước

dẫn tới việc chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị chưa nghiêm; vi phạm nguyên tắc

quản lí tài chính gây bất bình trong nhân dân.

Từ năm 2005 đến ngày 31/10/2013, ủy ban Kiểm tra các cấp tiến hành

kiểm tra được 331 lượt tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và

việc thi hành kỷ luật; thực hiện nhiệm vụ giám sát được 275 lượt tổ chức

Đảng, 7.755 lượt đảng viên, đảng ủy viên và chi ủy viên. Qua kiểm tra đã xử

lý kỷ luật khiển trách 1 Đảng ủy, cảnh cáo 1 Đảng ủy vi phạm do ra nghị

quyết cấp bán đất trái quy định, vi phạm luật đất đai và luật ngân sách; cảnh

cáo 1 chi bộ và khiển trách 2 chi bộ trực thuộc Đảng ủy xã do ra nghị quyết

bán đất trái quy định; xử lý kỷ luật 296 đảng viên bằng các hình thức khiển

trách 50, cảnh cáo 93, cách chức 11 đồng chí, khai trừ 42 do vi phạm pháp

luật trong quản lý đất đai, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, vi phạm

quy định những điều đảng viên không được làm, vi phạm chỉ thị, nghị quyết

của Đảng,…

Về tổ chức

Việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là vấn đề được Đảng bộ huyện Mỹ

Đức coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt quá trình xây dựng Đảng từ năm

2008 đến năm 2014. Các cấp uỷ Đảng đã không ngừng củng cố, kiện toàn,

nâng cao hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng

trong sạch, vững mạnh tăng dần theo từng năm. Tuy nhiên, về mặt tổ chức

còn một số hạn chế như sau:

Một là, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên chưa đáp ứng được

yêu cầu của thực tiễn; Sự chuyển biến của tổ chức cơ sở Đảng chưa đồng đều,

có nơi chưa vững chắc.

Chất lượng đội ngũ đảng viên tuy đã từng bước được nâng lên nhưng

vẫn còn nhiều hạn chế. Công tác kết nạp đảng viên có cơ sở chưa được coi

77

trọng, bồi dưỡng kết nạp đảng viên chưa gắn với tạo nguồn cán bộ. Vai trò

tiên phong gương mẫu của một bộ phận đảng viên còn yếu. Số đảng viên vi

phạm tư cách có giảm nhưng tốc độ còn chậm. Vẫn còn tình trạng đảng viên

vi phạm chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập

trung dân chủ và nguyên tắc Đảng. Trình độ đảng viên nhìn chung còn thấp,

công tác phát triển đảng viên ở một số thôn vùng sâu, vùng xa chưa được chú

trọng, số lượng đảng viên được kết nạp còn ít.

Hai là, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị, Nghị

quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nhiều đơn vị còn thiếu

nghiêm túc, hiệu quả thấp.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và hiệu lực, hiệu

quả quản lý nhà nước ở nhiều nơi còn hạn chế,… Việc quán triệt, tổ chức thực

hiện các quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng về hoàn thiện hệ thống

chính trị chưa thực hiện kiên quyết, nể nang, thiếu nhất quán; buông lỏng

kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Chưa tiến hành đồng bộ giữa đổi mới, kiện

toàn tổ chức bộ máy với sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ công chức.

Ba là, một số đơn vị cơ sở còn có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ. Một

số cấp uỷ cơ sở còn có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, né tránh, không dám

đấu tranh thẳng thắn, người được kiểm điểm thì không chịu thành khẩn. Tính

chiến đấu trong sinh hoạt Đảng chưa cao. Dân chủ trong sinh hoạt Đảng chưa

thực sự được phát huy.

Công tác kiểm tra, giám sát có vai trò quan trọng trong toàn bộ công tác

xây dựng Đảng. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nhiều vấn đề mới phát sinh; đối tượng, phạm vi, nội dung lãnh đạo

của Đảng ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp hơn thời kỳ trước. Để có

chủ trương, quyết định đúng, giải pháp thực hiện tối ưu, kịp thời phát hiện sai

sót, phát huy những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực thì công tác kiểm tra,

78

giám sát cần phải được tiến hành thường xuyên hơn nữa.

Một số cấp uỷ còn buông lỏng công tác lãnh đạo, việc khắc phục thiếu

sót còn chậm. Công tác kiểm tra cấp uỷ chưa thường xuyên, thiếu kịp thời,

một số cấp uỷ chưa chú trọng đến công tác kiểm tra. Ở một số tổ chức cơ sở

Đảng, việc phân tích chất lượng đảng viên còn chưa bám sát tiêu chuẩn, còn

nể nang, né tránh; chất lượng sinh hoạt chi bộ và tính chiến đấu của chi bộ

còn chưa cao, còn hữu khuynh trong đấu tranh tự phê bình và phê bình. Số

lượng đảng viên bị kỷ luật còn khá nhiều, thậm chí có cả những đồng chí

trong cấp uỷ có vi phạm và bị xử lí kỷ luật. Nội dung chủ yếu là làm trái qui

định của Đảng, Nhà nước, tham nhũng. Bên cạnh đó, việc quản lí đảng viên ở

nhiều tổ chức cơ sở Đảng cũng chưa được quan tâm đúng mức. Vẫn còn tồn

tại tình trạng một số cấp uỷ, chi bộ chưa tích cực bồi dưỡng, kết nạp đảng

viên ở nơi thiếu và ít đảng viên.

Bốn là, công tác quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng

đảng viên về mọi mặt còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Một số cán bộ năng lực công tác, trình độ chưa đạt so với yêu cầu công

việc đặt ra, trách nhiệm chưa cao, hiệu quả công tác thấp, chưa đáp ứng với

yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một số cán bộ, đảng viên chưa tích cực

học tập nâng cao kiến thức và rèn luyên đạo đức cách mạng thậm chí còn có

những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Một

số cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức ở cơ sở và ban ngành ở

huyện năng lực lãnh đạo, quản lý còn hạn chế, trách nhiệm cán bộ trước công

việc chưa cao. Chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị

trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Công tác đào tạo cán bộ chưa gắn liền với công tác qui hoạch, sử dụng

và luân chuyển cán bộ. Trình độ cán bộ tuy đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng

năng lực cụ thể hoá, vận dụng vào trong thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lí

và chuyên môn còn hạn chế. Có một số cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu,

nhiệm vụ của chức danh cán bộ đảm nhiệm; những cán bộ thiếu chuyên môn,

79

không có khả năng đào tạo và yếu kém vẫn chưa được bố trí, sắp xếp và có

chính sách hợp lí nên số cán bộ được đào tạo, có chuyên môn vẫn chưa được

bố trí kịp thời. Tỷ lệ cán bộ các cấp trình độ đại học, trên đại học còn ít; việc

đầu tư cho đào tạo cán bộ khoa học, cán bộ quản lí kinh tế, chuyên gia giỏi

chưa được chú ý. Việc đánh giá, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ có trường hợp còn

chậm, chưa chủ động. Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, xã, thị

trấn còn thấp. Một số chưa phát huy được vai trò của Đại biểu Hội đồng nhân

dân, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị hạn chế. Một số chưa

gương mẫu, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật của Đảng

và pháp luật của Nhà nước, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Nguyên nhân các hạn chế

Những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện

Mỹ Đức trong giai đoạn 2008 – 2014 có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả

nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:

Nguyên nhân chủ quan

Một là, nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên về Chủ trương, Nghị

quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước chưa thực sự

đầy đủ.

Hai là, một số các uỷ viên, cán bộ chuyên môn thiếu kiến thức và kinh

nghiệm về công tác xây dựng Đảng.

Ba là, trình độ, năng lực thực tiễn và phương pháp công tác của một số

cán bộ cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đưa ra.

Nguyên nhân khách quan

Một là, do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, tình hình

trong nước, sự hoạt động ráo riết của các thế lực thù địch, đặc biệt là trên lĩnh

vực tư tưởng, chính trị, âm mưu “diễn biến hoà bình”; Những tác động tiêu

cực của nền kinh tế thị trường,… đã tác động không nhỏ tới công tác xây

dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ. Bên cạnh đó, xây

80

dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề mới mẻ

trong cả lí luận và thực tiễn, đòi hỏi phải thận trọng, phải vừa làm vừa tổng

kết, rút kinh nghiệm.

Hai là, công tác quản lí, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số chi bộ

Đảng còn yếu, cán bộ từ huyện đến cơ sở chưa đề cao trách nhiệm, chưa

gương mẫu trong công tác thực hiện các chủ trương, chính sách; Chấp hành

kỷ luật chưa nghiêm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, thậm chí còn có

trường hợp cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền tham ô, lãng phí của công.

Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của các

cấp uỷ, chính quyền từ huyện đến cơ sở còn là khâu yếu, chậm khắc phục;

nhiều chủ trương đúng nhưng chậm được triển khai thực hiện; Sự phối hợp

giữa các cấp, ngành chức năng chưa chặt chẽ, nhịp nhàng. Công tác kiểm tra,

giám sát của cấp uỷ trong việc thực hiện công tác cán bộ chưa thường xuyên.

Tính khoa học, tính kế hoạch trong lãnh đạo,chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực

hiện nhiệm vụ của cấp uỷ, tổ chức Đảng hạn chế.

Bốn là, các chi bộ ở cơ sở, đặc biệt như ở n Phú đổi mới nội dung, hình

thức sinh hoạt chi bộ còn chậm; Trình độ, năng lực cán bộ chủ chốt còn thấp.

Tất cả các nguyên nhân trên đã có những tác động tiêu cực đến việc thực

hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức. Tuy nhiên, nhận

thức được những hạn chế đó, Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã và đang

quyết tâm thực hiện giải quyết những vẫn đề còn tồn tại, hạn chế, từng bước

thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,... đã đề ra.

3.2. Một số inh nghiệm

3.2.1. inh nghiệm trong xác đ nh ch trương

* Đối với công tác chính trị, tư tưởng

Thứ nhất, trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cần

căn cứ vào đặc điểm riêng của địa phương mà đề ra các chủ trương cho đúng

đắn và phù hợp. Phải coi công tác chính trị - tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng

81

hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh đã dạy

“Phải làm cho tinh thần Nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân,

làm cho mọi người thấy những thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ

khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao để mọi người vui vẻ, hăng

hái làm tròn nhiệm vụ. Khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ

vượt qua được” [58; 265].

Mỹ Đức là một huyện ngoại thành của Hà Nội, kinh tế còn gặp nhiều

khó khăn. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng có ý nghĩa quyết định đến việc

thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Qua nghiên cứu thực tiễn

công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Mỹ Đức từ năm 2008 đến năm

2014, có thể khẳng định Đảng bộ đã thực sự quan tâm đến công tác xây dựng

Đảng, coi đây là nhân tố hàng đầu để Đảng khẳng định vai trò là hạt nhân

lãnh đạo hệ thống chính trị và là cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thực hiện được nhiệm vụ lớn nhất là

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân theo

mục tiêu, chiến lược đã đề ra, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn xác định công tác

xây dựng Đảng phải được chú trọng và tăng cường hơn nữa. Khi Đảng bộ

thực sự trong sạch, vững mạnh, các tổ chức Đảng nâng cao được năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu thì mới hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị thực

sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các

cơ sở nói riêng và của toàn huyện nói chung. Ngược lại, việc tập trung lãnh

đạo phát triển kinh tế - xã hội không những là mục tiêu mà còn là điều kiện để

đảm bảo cho sự vững mạnh của Đảng bộ huyện.

Phải chú trọng công tác tư tưởng – nhân tố quan trọng trong công tác xây

dựng Đảng ở địa phương. Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm công tác tư

tưởng của Đảng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong hoạt động lãnh

đạo của Đảng là hoạt động truyền bá và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác

– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan

82

cộng sản, giá trị đạo đức đúng đắn, xây dựng niềm tin và đoạ đức, lối sống

đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy tính

chủ động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh. Đứng trước những cơ hội và thách thức trong giai đoạn mới,

công tác tư tưởng có nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đó là giáo dục kiên định

mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; rèn luyện

cho cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách

thức, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa

ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, kịp thời uốn nắn những

nhận thức, tư tưởng mơ hồ, lệch lạc. Phê phán và xử lí nghiêm minh những

đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức. Trước những nhiệm vụ nặng nề đó, đòi

hỏi Đảng bộ huyện Mỹ Đức nhận thức và có sự bứt phá đổi mới sâu sắc về nội

dung, phương pháp hoạt động đối với công tác tư tưởng.

Trong giai đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã quán triệt

nhận thức trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém

phát triển, đến năm 2020, về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại. Công tác tư tưởng phải thích ứng và phục vụ có hiệu quả cao nhất

các mục tiêu lớn đó của đất nước. Đồng thời, công tác tư tưởng phải đáp ứng

những đòi hỏi mới của quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, sau khi

Việt Nam là thành viên của WTO, nhất là yêu cầu phải bảo vệ vững chắc trận

địa tư tưởng chính trị, giữ vững bản sắc văn hoá trước sự xâm nhập ngày càng

mạnh của trào lưu, khuynh hướng tư tưởng, văn hoá từ bên ngoài. Đảng bộ đã

thực hiện đồng bộ các biện pháp: Đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đến nhân dân trong huyện; nâng cao nhận thức,

vai trò, vị trí công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay; đổi mới nội dung,

hình thức, phương pháp công tác tư tưởng. Thường xuyên tự phê bình và phê

83

bình, xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường tổ chức bộ máy và

lực lượng làm công tác tư tưởng, đảm bảo các điều kiện làm công tác tư

tưởng; tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với công tác tư tưởng.

Thứ hai, phải quán triệt sâu sắc quan điểm “phát triển kinh tế là trọng

tâm, xây dựng Đảng là then chốt”.Trong giai đoạn 2008 – 2014, Đảng bộ

huyện Mỹ Đức đã ngày càng trưởng thành trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng,

tổ chức. Thông qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI, XXII,

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã hoạch định chủ trương, đường lối phát triển kinh

tế - xã hội. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã chú trọng tổ chức tuyên truyền chủ

trương, đường lối và xây dựng các chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết sát với điều kiện thực tế của địa phương. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ,

đảng viên ngày càng trưởng thành, phát triển cả về số lượng vả chất lượng

cũng là một nguyên nhân dẫn tới việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội

ngày càng cao. Những thành tựu mọi mặt mà Mỹ Đức đạt được trong những

năm qua đã minh chứng cho sự đúng đắn trong công tác chỉ đạo của Đảng bộ

và sự nỗ lực của nhân dân trong huyện. Đồng thời, càng khẳng định vai trò

quyết định “then chốt” của công tác xây dựng Đảng đối với các nhiệm vụ

kinh tế - xã hội mà Trung ương và Thành uỷ tin tưởng giao cho. Như vậy, có

thể khẳng định, bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước, bài học kinh

nghiệm cơ bản và cũng là nhiệm vụ trọng yếu của địa phương đó là phải coi

trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng là

nhân tố tiên quyết cho sự thắng lợi của các mục tiêu cách mạng.

Qua thực tiễn chỉ đạo ở địa phương, công tác tư tưởng đứng trước

nhiều thử thách, song đó cũng là thời gian công tác tư tưởng đã có nhiều đóng

góp quan trọng để đưa sự nghiệp cách mạng vượt qua những bước hiểm

nghèo, từng bước vững chắc tiến tới góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng

thành công chủ nghĩa xã hội của nước nhà. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới

cho công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức trên mặt trận tư

84

tưởng là: Thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng bộ cần quan tâm đi sâu

sát vào quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng từ đó kịp thời đề ra chủ

trương, quyết sách đáp ứng nhu cầu đời sống của quần chúng nhân dân.

Không ngừng đổi mới về phương pháp tuyên truyền; cách thức tuyên truyền

sinh động, dễ hiểu với nhân dân, quan tâm tới chính sách đãi ngộ cho cán bộ

làm công tác tuyên truyền.

* Đối với công tác tổ chức

Thứ nhất, phải xác định nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng

Đảng là củng cố tổ chức cơ sở Đảng.Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở

Đảng, luôn coi các tổ chức cơ sở Đảng là những đơn vị chiến đấu cơ bản,

những tế bào của Đảng, là nền tảng trên đó Đảng được xây dựng vững chắc

và thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam; các chi bộ,

Đảng bộ cơ sở có vai trò là “nền móng” để Đảng liên hệ với quần chúng. Vì

vậy, chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng là một trong những nhân tố quyết

định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định việc thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Nhận thức được vai trò quan trọng của

các tổ chức cơ sở Đảng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn quan tâm đến công tác

củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Nhiệm vụ cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng

trong thời kỳ 2008 – 2014 được Đảng bộ chú trọng là không ngừng nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Tiếp tục củng

cố những cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng thời có biện pháp khắc

phục những cơ sở Đảng yếu kém. Tiếp tục đổi mới nội dụng sinh hoạt chi bộ,

gắn liền chủ trương, đường lối của Đảng với thực tiễn địa phương, với lợi ích

thiết thực của đảng viên nhằm phát huy cao độ năng lực, tính tích cự, sáng tạo

của mỗi đảng viên, góp phần tạo nên sức mạnh cho Đảng.

Thứ hai, trong việc xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng hoạt động

có hiệu quả, kinh nghiệm thực tiễn đã chứng minh phải thường xuyên củng cố

và kiện toàn cấp uỷ. Các cấp uỷ đảng phải thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, năng

85

lực và phẩm chất của Đảng bộ, đảm bảo sự thống nhất trong cấp uỷ Đảng,

trước hết là thường vụ cấp uỷ. Cấp uỷ phải nắm vững đường lối, quan điểm

của Đảng, các nhiệm vụ chính trị được giao và chủ động chủ trì thực hiện.

Biết khơi dậy tinh thần đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch hoàn

thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng.

Thứ ba, phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi

mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Chăm lo nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về

phẩm chất lẫn năng lực, cả về tri thức lẫn phong cách công tác là yêu cầu

thường xuyên, khách quan của Đảng nhằm làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên

luôn trưởng thành, phát triển ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn cách mạng.

Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã nhận thức việc giáo dục, nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, đảng viên cần phải được tiến hành chủ động, thường xuyên và có

kế hoạch. Để đưa những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành

hiện thực cuộc sống đòi hỏi đảng viên phải là người đi tiên phong trong hành

động thực tiễn. Các chi bộ Đảng đã thực sự coi trọng công tác xây dựng đội

ngũ đảng viên tốt, đảm bảo phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh

đó, đảng bộ còn chú trọng công tác cán bộ, bởi chất lượng đảng viên cao là

nguồn cung cấp cán bộ tốt cho Đảng. Công tác cán bộ cần đảm bảo thực hiện

đúng qui trình từ khâu qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sắp xếp và sử

dụng cán bộ.

Kết quả nổi bật trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

trong giai đoạn 2008 – 2014 là đa số cán bộ, đảng viên đều có lập trường

chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực hoạt động thực tiễn

và phát huy tác dụng tốt ở những vị trí được giao. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại

một số cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, tha hoá đạo đức cách mạng, tham

nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức

luôn thấm nhuần quan điểm của Đảng “Đảng không cần con số cho nhiều, tuy

nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng

86

viên, mỗi cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để

làm đày tớ cho nhân dân”, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cách

mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc chủ trương của

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI “Kiên định đường lối đổi mới, chống

giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc,…

Chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”,

“tự chuyển hoá” trong nội bộ để khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự

đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội”.

Thứ tư, phải đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo và công tác

kiểm tra của Đảng.

Thực tiễn cách mạng đã chỉ rõ chất lượng lãnh đạo của Đảng được thể

hiện ở cả nội dung lãnh đạo đúng và phương thức lãnh đạo phù hợp. Trong

đó, phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các phương pháp, hình thức

mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng, các tổ chức nhằm thực hiện

tốt nội dung lãnh đạo. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền như ở nước ta

hiện nay, phương thức lãnh đạo của Đảng có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ

thống chính trị, phát huy vai trò, vị trí của mình. Nhận thức rõ tính chất cấp

bách của vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu

cầu to lớn của thời kỳ mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh

phải “kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”.

Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức đạt được

trong giai đoạn 2008 – 2014 có thể khẳng định do rất nhiều nguyên nhân khác

nhau, trong đó có sự tác động của quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức đổi mới

phương thức lãnh đạo mà trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo đối với

hệ thống chính trị, những đổi mới này đã góp phần đảm bảo cho đường lối,

chủ trương đúng đắn của Đảng được thực hiện thắng lợi.

3.2.2 inh nghiệm trong chỉ đ o thực hiện

* Đối với khu vực nông thôn, tôn giáo và vùng dân tộc thiểu số

87

Mục tiêu xây dựng nông thôn mới đó là:

“Nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; xây

dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững theo hướng hiện đại; nâng cao

năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất; sản phẩm nông nghiệp có

sức cạnh tranh cao; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại; xã

hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh

thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được giữ vững theo định

hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống

chính trị ở nông thôn, củng cố vững chắc liên minh công nhân- nông dân- trí

thức. Xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. [61, 11-12].

Từ đó nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Đức là hết sức

nặng nề và khó khăn. Hơn nữa, nhân dân trong huyện Mỹ Đức đang đứng

trước nhiều vấn đề khó khăn, đời sống kinh tế, văn hóa còn thấp; các vấn đề

bức xúc của xã hội như công ăn việc làm của một bộ phận không nhỏ trong

con em nhân dân còn nhiều, tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác chưa

được xử lý, giải quyết dứt điểm,…Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi đội ngũ

cán bộ, đảng viên phải có những kiến thức và năng lực cần thiết để lãnh đạo

và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng

nông thôn mới trên địa bàn mình phụ trách. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực

tiễn để rèn luyện tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến

thức, năng lực đội ngũ cán bộ.

Bất cứ quốc gia nào cũng có đường lối đào tạo cán bộ, đảng viên riêng,

xây dựng đội ngũ cán bộ trung thành và có khả năng thực hiện thắng lợi mục

tiêu lý tưởng của giai cấp mình. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công

nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng phải lựa chọn đào tạo và sử

dụng những cán bộ thật trung thành với lý tưởng của giai cấp công nhân, với

88

lợi ích của dân tộc, có ý thức tổ chức kỷ luật gắn bó với người lao động, với

nhân dân. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm ý thức tổ

chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời tăng cường số cán

bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, trước hết là cán bộ chủ chốt trong hệ

thống chính trị các cấp.

Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở cuối cùng gần dân

nhất, trực tiếp tiếp xúc với bà con nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở

là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để lãnh đạo bà con nhân dân phát triển

nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với

nông dân - bộ phận quan trọng chiếm 67,54% dân số của cả nước; đưa chủ

trương, đường lối, quan điểm, tư tưởng của Đảng đến dân và phản ánh tình

hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Thông qua đội ngũ cán bộ, đảng

viên mà ý Đảng, lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có cơ

sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, giữ vững mối quan hệ gắn bó chặt chẽ

giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân đối với

Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông

thôn mới hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực nông nghiệp, nông thôn

có vai trò quan trọng và nhiệm vụ xây dựng Đảng được thực hiện để lại

những bài học trong chỉ đạo thực tiễn đối với khu vực nông thôn, tôn giáo và

vùng dân tộc thiểu số như sau:

Thứ nhất, tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong xây dựng Đảng

nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng là một nhiệm vụ

có ý nghĩa quan trọng hàng đầu mà Đảng ta phải thường xuyên quan tâm làm

tốt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhất là đối với khu vực nông thôn,

tôn giáo và vùng dân tộc thiểu số, trình độ dân trí còn chưa cao.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; làm tốt

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức

chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở.

89

Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ

chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ thôn, xóm thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn

diện ở địa bàn nông thôn.

Thứ tư, chăm lo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, tập trung

nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý chính quyền cấp xã, bảo đảm đủ sức quản

lý, điều hành và giải quyết tốt những vấn đề phát sinh ở nông thôn, cơ sở.

Thứ năm, phát huy hiệu quả hoạt động của khối dân vận cơ sở, thực

hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố và phát huy vai trò và hiệu quả hoạt

động tự quản để vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình tham

gia công việc chung của cộng đồng.

Thứ sáu, thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là Hội Nông dân tiếp tục đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở để hướng dẫn nông dân

thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới,

tham gia các chủ trương hợp tác về kinh tế, các dự án, chương trình phát triển

sản xuất nông nghiệp tại địa phương.

Là một huyện thuần nông, có phong trào cách mạng sớm ở phía nam

thành phố, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ Đức hầu hết xuất thân từ

các gia đình nông dân và được trưởng thành từ các phong trào ở tại cơ sở xã,

thị trấn. Do đó, trong công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

đảng viên vừa phải đặc biệt chú trọng lựa chọn và cất nhắc những người thật

sự ưu tú từ những gia đình có công với cách mạng, vừa phải thường xuyên

giáo dục bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp

công nhân cho toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên tập hợp rộng rãi những

người tiên tiến, tích cực từ các thành phần khác; không định kiến với những

người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa. Đồng thời kiên

quyết ngăn chặn, xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất,

làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm lòng tin đối

với Đảng và Nhà nước.

90

Đội ngũ cán bộ, đảng viên là sản phẩm của những điều kiện kinh tế, chính

trị, xã hội trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Do đó, khi nâng cao chất

lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải rà soát lại đội ngũ cán bộ,

đảng viên hiện có với đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu, từ đó phát huy những kinh

nghiệm trước đây và khắc phục những hạn chế do lịch sử để lại. Đồng thời, bổ

sung lực lượng cán bộ trẻ, có trình độ nhằm tạo ra sự chuyển biến lớn về chất

của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.

Cư dân địa bàn huyện Mỹ Đức chủ yếu là người Kinh, chỉ có một số ít

đồng bào Mường cư trú ở xã n Phú. Đạo Phật là chủ yếu ở vùng đất này. Đạo

Thiên chúa mới du nhập từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tính đến 2014,

đồng bào theo đạo Thiên chúa chiếm khoảng trên 10% dân số trong huyện.

Huyện Mỹ Đức có 2 dòng tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa

giáo. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ

sở luôn quan tâm và tạo điều kiện cho đồng bào theo đạo thực hiện quyền tự

do tín ngưỡng, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”,...Tập trung chỉ

đạo tăng cường công tác quản lí nhà nước về tôn giáo nên tình hình tôn giáo

trong huyện cơ bản ổn định, đoàn kết lương – giáo, hoạt động tín ngưỡng tôn

giáo hợp pháp, đúng chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà

nước.Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo của huyện được thành lập hoạt động

thường xuyên hiệu quả, đã xây dựng được đội ngũ cốt cán và đội ngũ cán bộ

nòng cốt ở cơ sở. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan, địa

phương trong việc giải quyết các vụ việc phức tạp, liên quan đến hoạt động

tín ngưỡng, công tác vận động quần chúng đối với người có đạo được quan

tâm, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và lễ hội đã từng

bước đi vào nề nếp, đúng pháp luật.

“Trên địa bàn huyện có xã n Phú là xã dân tộc miền núi, với 4250

người là dân tộc Mường, chiếm 59,4% tổng số dân toàn xã” [61; 85]. Được

cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, số cán bộ là người dân tộc có 3 đồng

chí cán bộ chủ chốt, 7 trưởng thôn, 8 đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ

91

2007 – 2011. Trong các năm từ 2008 đến 2010, Đảng bộ đã kết nạp được 20

đảng viên là người dân tộc Mường, nâng tổng số đảng viên lên 67/206 =

33,5% tổng số đảng viên trong đảng bộ xã. Đảng bộ xã n Phú đã triển khai

thực hiện tốt các chính sách dân tộc như: Chương trình 134, 135 của Chính

phủ, đã “đầu tư 42 tỷ 515 triệu đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các

trường học, đường giao thông, hệ thống đê bao chống lũ và xóa 21 nhà tái dột

nát, khoan 7 giếng nước ăn công cộng và 25 giếng khoan cho hộ gia đình”

[61; 83]. Chính sách dân tộc thường xuyên được quan tâm triển khai thực hiện

nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cùng với các dự án, chương trình đầu tư của Trung

ương, Thành phố và huyện với nguồn đầu tư hàng trăm tỷ đồng nhằm cải

thiện cho các lĩnh vực kinh tế, giáo dục - đào tạo, y tế, ... cho đồng bào dân

tộc thiểu số xã n Phú. Huyện đã thành lập Phòng Dân tộc, chỉ đạo thành

công Đại hội đại biểu dân tộc thiểu số lần thứ nhất (2014 - 2019).

Như vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã và đang thực hiện những chủ trương

nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng đối với khu vực nông thôn, vùng dân

tộc thiểu số và đồng bào theo tôn giáo thu được những kết quả tích cực.

* Đối với khu vực cơ quan, đơn vị và thị trấn

Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị giữ vai trò quan

trọng trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở tại các cơ quan, đơn vị. Đồng thời,

đội ngũ này còn tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm

có giá trị, góp phần rất quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng

hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng ở cơ quan, đơn

vị. Đối với hệ thống tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan,

đơn vị là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực

lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ tác động quyết định

đến nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ cơ sở, đến năng

lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của

92

các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống tổ chức bộ máy ở cơ sở có hoàn

thành nhiệm vụ của mình được hay không, trước hết tùy thuộc vào đội ngũ

cán bộ đảng viên ở trực tiếp cơ quan, đơn vị đó. Chính vì vậy, nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đầy đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo

đức cách mạng là yếu tố quyết định thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị,

văn hóa- xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng ở các cơ quan, đơn vị.

Đối với phong trào ở khối cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên

không những là người dẫn dắt, định hướng các phong trào mà còn biết tổng

kết rút kinh nghiệm nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất,

công tác, chiến đấu,… nên họ rất thực tế, có tri thức và bề dày kinh nghiệm.

Cơ sở còn là môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ rèn luyện trưởng

thành. Hiện nay do chưa thấy hết vị trí chiến lược của cơ sở, nên không ít

người đã coi cơ sở là thấp kém, là không có tiền đồ; vì thế họ không phấn

khởi khi công tác ở cơ sở, thậm chí còn né tránh, thoái thác nhiệm vụ khi

được tổ chức phân công về làm việc ở một số cơ quan, đơn vị cấp cơ sở.

Có thể khẳng định đội ngũ cán bộ khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn có

tầm quan trọng về nhiều mặt ở huyện Mỹ Đức nói riêng, thành phố Hà Nội

nói chung trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, chăm lo xây dựng, nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn hiện nay là

yêu cầu quan trọng, vừa có ý nghĩa cấp thiết trước mắt, vừa là mục tiêu lâu

dài trong chiến lược cán bộ của Đảng ta nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vững

mạnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.

Thứ nhất, về phẩm chất chính trị

Đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn ở huyện

Mỹ Đức hầu hết đều được rèn luyện, thử thách trưởng thành từ các phong trào

quần chúng ở địa phương, trong thực tiễn công tác và thực tiễn xây dựng kinh

tế, đặc biệt là đã trải qua hơn hai mươi năm của công cuộc đổi mới đất nước.

Đứng trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, đó là sự sụp đổ

chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô (cũ) và những khó khăn về kinh

93

tế của đất nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị vẫn thể

hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có

tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo; tin tưởng vào đường lối chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Qua thực tế chứng minh đội ngũ

cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ Đức có tinh thần trách nhiệm cao đối với công

việc, luôn tìm tòi, suy nghĩ và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của

Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, thật sự làm

nòng cốt trong các tổ chức của hệ thống chính trị ở các cấp. Những thành tựu

đạt được về kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội ở địa bàn nông thôn huyện Mỹ

Đức vừa qua là có sự đóng góp không nhỏ công sức trí tuệ của đội ngũ cán

bộ, đảng viên khu vực cơ quan, đơn vị, thị trấn. Điều đó chứng tỏ bản lĩnh

chính trị vững vàng của họ.

Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi về

tư tưởng chính trị, nhất là việc tìm tòi học hỏi, nghiên cứu đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như nghị quyết, chỉ

thị của cấp trên. Mặt khác, do trình độ nhận thức hạn chế, cho nên có một số

cán bộ không giữ đúng cương vị của người lãnh đạo mà còn theo đuôi quần

chúng, bị quần chúng lợi dụng. Ngoài ra, còn một bộ phận khác mất cảnh giác

trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

Thứ hai, về phẩm chất đạo đức, lối sống

Trong điều kiện cuộc sống còn có những khó khăn và đứng trước tác

động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hầu hết đội ngũ cán bộ, đảng

viên ở huyện Mỹ Đức vẫn giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối

sống trong sáng, giản dị, lành mạnh, gương mẫu trên mọi lĩnh vực, có ý thức

tổ chức kỷ luật cao, biết đoàn kết trong nội bộ và gắn bó mật thiết với nhân

dân, được nhân dân tín nhiệm. Công tác phê bình và tự phê bình trong sinh

hoạt Đảng đã được các cấp ủy chỉ đạo chặt chẽ, nhất là đợt sinh hoạt chính trị

kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề

cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê

94

bình đã có sự chuyển biến tích cực ở nhiều mặt, nguyên tắc tổ chức của Đảng

được đề cao; ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc được chấn chỉnh một bước;

mối quan hệ công tác giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn

thể được duy trì thực hiện tốt theo quy chế. Một số cán bộ lãnh đạo còn hạn

chế về năng lực công tác, tác phong sinh hoạt, lề lối làm việc, sau phê bình đã

có nhiều tiến bộ.

Nhiều đồng chí đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích của

bản thân, của gia đình, thật sự “là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Mặt khác, họ luôn luôn là những người tích cực nhất trong việc đấu tranh

chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các mặt tiêu cực khác nảy sinh

trong đơn vị, địa phương cũng như ngoài xã hội. Qua điều tra cho thấy số gia

đình của đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt danh hiệu gia đình văn hóa chiếm trên

90%, tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác thi đua khen thưởng hàng

năm nhiều đồng chí được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể tặng giấy

khen, danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp cơ sở,… Điều này chứng minh một cách

rõ nét nhất về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở huyện Mỹ

Đức hiện nay.

Song, vẫn còn một số cán bộ có biểu hiện sa sút về phẩm chất đạo đức,

lối sống, tinh thần trách nhiệm chưa cao trong công việc, chưa thực sự tiên

phong gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, gây mất đoàn

kết trong nội bộ. Một số ít đồng chí vì lợi ích cá nhân và gia đình vi phạm

trong quản lý kinh tế, quản lý đất đai và nhiều vấn đề kinh tế, tài chính

khác.Rõ ràng là một bộ phận cán bộ, đảng viên đã sa sút về phẩm chất đạo

đức, điều này đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của đội ngũ cán bộ và uy tín

của Đảng và chính quyền.

Việc thi hành kỷ luật thực hiện công minh, chính xác, đúng nguyên tắc.

Quá trình kiểm tra, giám sát đảm bảo đúng quy trình, đúng nguyên tắc, thủ tục;

kết luận rõ ràng, kịp thời. Công tác giải quyết đơn thư tố cáo đối với tổ chức

95

Đảng, đảng viên được coi trọng, tiếp nhận 31 đơn tố cáo, trong đó thẩm quyền

giải quyết 29 đơn đã giải quyết 29/29 đơn đạt 100%, góp phần nâng cao chất

lượng lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng và mỗi đảng viên.

Thứ ba, về kiến thức, năng lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn

Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, đảng viên khối cơ quan,

đơn vị ở huyện Mỹ Đức đã không ngừng được nâng cao trình độ về nhiều

mặt, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực lãnh đạo và tổ chức

thực hiện trong cơ chế mới có bước trưởng thành nhanh chóng, đáp ứng được

với yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, đối với chi bộ trong doanh nghiệp

bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nước ngoài hay doanh

nghiệp tư nhân, thành tựu nổi bật của Đảng bộ huyện Mỹ Đức là đã xây dựng

được qui trình sinh hoạt chi bộ cho các chi bộ này sau khi khảo sát thực tế.

Các buổi sinh hoạt trong các chi bộ cũng được xác định nội dung rõ ràng, cụ

thể, đi sâu vào các vấn đề như: vai trò của đảng viên trong việc thực hiện sản

xuất kinh doanh, tổ chức các hoạt động đoàn thể quần chúng, nâng cao đời

sống và việc làm của người lao động. Công tác phát triển Đảng, đào tạo- bồi

dưỡng cán bộ luôn được các cấp ủy quan tâm. Từ năm 2005 đến tháng 10

năm 2013, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện đã mở được 54 lớp bồi

dưỡng kết nạp Đảng cho 4.050 đoàn viên ưu tú, quần chúng tiên tiến xuất sắc

ở các cơ sở xã, thị trấn, các ban, ngành, đoàn thể trong toàn huyện theo học;

mở 30 lớp bồi dưỡng đảng viên mới cho 2.024 đảng viên; 14 lớp sơ cấp lý

luận chính trị cho 998 đồng chí. Công tác phát triển đảng được duy trì thường

xuyên và thực hiện tốt. Từ năm 2005 đến đầu tháng 11/2013, các cấp ủy đảng

trong huyện đã xét và kết nạp được 2.143 quần chúng ưu tú vào Đảng.

Cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của

huyện, huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện còn phối hợp với trường Đào tạo

cán bộ Lê Hồng Phong Hà Nội mở 3 lớp Trung cấp lý luận chính trị cho 433

cán bộ; phối hợp với Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Trường Đại học Dân lập Phương Đông Hà Nội mở

96

3 lớp đào đạo chuyên môn nghiệp vụ: công tác xã hội, luật kinh tế, quản trị

văn phòng cho 294 đồng chí là cán bộ các xã, thị trấn và các phòng, ban của

huyện theo học,... Ngoài ra, Ban Thường vụ Huyện ủy còn chọn cử 32 đồng

chí đi học cử nhân, cao cấp lý luận chính trị ở các nhà trường, học viện theo

kế hoạch hàng năm của ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây (cũ) và Thành ủy Hà

Nội; cử 29đồng chí đi học cao học các chuyên ngành để có nguồn cán bộ chất

lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng

nông thôn mới ở huyện. Để tăng cường cán bộ cho cơ sở và đào tạo cán bộ

qua thực tế, từ năm 2008 đến 2014 huyện đã điều động 3 đồng chí cấp ủy

huyện (trong đó 1 đồng chí ủy viên thường vụ huyện ủy, 2 đồng chí huyện ủy

viên) về công tác làm bí thư Đảng ủy ở 3 xã. Cả 3 đồng chí đều hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao và trưởng thành nhiều mặt. Thời gian tới, huyện ủy đã có

kế hoạch điều động 2 – 3 đồng chí là trưởng hoặc phó các ban ngành, đoàn

thể tiếp tục xuống giúp đỡ các cơ sở, nhất là các đảng bộ yếu kém. Qua đó, có

thể khẳng định huyện đã sớm thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ và đã

có kết quả rõ rệt. Công tác cán bộ luôn được cấp ủy huyện chú trọng, xác định

là khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả hoạt động của tổ chức

Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Cán bộ không những có phẩm

chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, trình độ năng lực

hoạt động thực tiễn giỏi, mà còn có tác phong, phương pháp làm việc tốt. Đa

số cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn của huyện Mỹ Đức tác phong làm việc dân

chủ, gần dân, biết lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân; năng

động, sáng tạo trong công việc của mình, biết vận dụng những tri thức khoa

học vào công tác, cuộc sống, thích ứng với điều kiện của nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách

nhiệm trước quần chúng nhân dân. Trong công tác tuyên truyền, vận động

quần chúng tham gia các phong trào cách mạng cũng như thực hiện chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đội ngũ cán

bộ, đảng viên không những là người tuyên truyền giỏi mà còn là những tấm

97

gương tiêu biểu cho các phong trào ở tại địa phương cơ sở. Nhờ vậy mà bộ

mặt nông thôn huyện Mỹ Đức những năm gần đây khởi sắc nhanh chóng.

Mặc dù vậy, vẫn còn một số đồng chí kiến thức và năng lực hạn chế

nên trong công việc thường dựa vào kinh nghiệm của mình để giải quyết, do

đó hiệu quả công việc không cao, thậm chí lại đem lại kết quả ngược lại với

mong muốn.

Kinh nghiệm là vốn quí, song nếu quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa kinh

nghiệm thì sẽ dẫn đến kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan duy ý chí. Khi đứng

trước vấn đề khó khăn phức tạp họ thiếu kiến thức sẽ bị lúng túng, thậm chí

bế tắc không có cách giải quyết. Cũng còn cả một số cán bộ, đảng viên thiếu

dân chủ, khi giải quyết công việc bị tình cảm họ hàng thân quen chi phối dẫn

đến coi thường kỷ cương phép nước. Đối với những người không phải họ

hàng thân quen thì họ mang nặng tính hành chính, mệnh lệnh sách nhiễu, gây

phiền hà, lên mặt “quan cách mạng”, không biết dân bầu ra mình để làm việc

cho dân nhưng lại cậy thế với dân.

Tiểu kết chương 3

Như vậy, những kết quả đạt trong công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ

huyện Mỹ Đức từ 2008 đến 2014 có ý nghĩa hết sức quan trọng và để lại những

bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác xây dựng Đảng.

Thứ nhất, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mà trực tiếp là

Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt

là trong giai đoạn có đầy những biến động to lớn như hiện nay, Huyện ủy đã

đoàn kết, thống nhất thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tích cực, chủ

động sáng tạo triển khai, quán triệt tổ chức thực hiện Nghị quyết của Trung

ương, Thành phố Hà Nội và của huyện Mỹ Đức về xây dựng Đảng; nhất là

việc thực hiện nghị quyết TW 4 khóa XI nghiêm túc và chất lượng. Huyện ủy

đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội

Đảng các cấp, thực hiện đồng bộ 4 chương trình, 4 đề án của huyện gắn với 9

chương trình công tác lớn, 5 nhiệm vụ trọng tâm, 2 khâu đột phá của Thành

98

phố Hà Nội, chỉ đạo tập trung nghiên cứu xây dựng, ban hành và tổ chức thực

hiện nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Đề án, Chuyên đề công tác, góp phần xây

dựng Đảng và hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở ngày một vững mạnh,

thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, giữ vững quốc phòng,

an ninh, đảm bảo an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, đời sống nhân dân được

nâng lên rõ rệt, nội bộ Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Thứ hai, tăng cường sức mạnh của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết

trong toàn Đảng, toàn dân phát huy một cách tối đa sức mạnh của quần chúng

nhân dân, tăng cường vai trò, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với Đảng.

Thứ ba, góp phần thực hiện hiệu quả việc tuyên truyền, giáo dục chính

trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa

việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kiên quyết đấu

tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế

lực thù địch tấn công từ các Đảng ở cơ sở. Chủ động ngăn ngừa, đấu tranh

phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Làm

tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. iữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong

Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.

Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn 2008 – 2014

cũng để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu. Tiếp tục đẩy mạnh

và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện, kiên định chủ nghĩa Mác –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, vận dụng sáng tạo để đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện

một cách sát thực với tình hình địa phương.

Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,

thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu, đổi mới công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng,

thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật;

thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết

99

thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội.

Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm

quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, cần coi

trọng viêc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.

Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có

đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để

hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công

tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân

chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách. Đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ

cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài.

Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải phát huy

dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách đều có sự tham gia xây dựng

của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân. Cán bộ, đảng viên và công

chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.

Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác

kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị

quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục

kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm

chất của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán

bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của

nhân dân, của Mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.

Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo bảo đảm nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả

quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các

đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của

Đảng ở các ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và

pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống

chính trị.

100

K T LUẬN

Qua nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức (Hà Nội) thực hiện

nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những năm 2008 – 2014, tôi rút ra một số kết

luận như sau:

1.Từ 1946 đến nay, trải qua gần 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng

bộ huyện Mỹ Đức đã đề ra những chủ trương đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh

thực tiễn của đất nước. Đặc biệt, trong những năm từ 2008 đến 2014, dưới sự

lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng Đảng càng được

quan tâm, coi trọng hơn. Nhiệm vụ xây dựng Đảng được thực hiện một cách

đồng bộ, toàn diện, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, lí luận, chính trị

và tổ chức. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng ở địa phương, Đảng bộ huyện

Mỹ Đức chưa lúc nào lơ là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ,

đảng viên. Trong công tác này, việc giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng,

tính giai cấp công nhân, giáo dục lòng trung thành cho đảng viên luôn là nội

dung trọng tâm. Chính vì vậy, trong khó khăn, thử thách của mọi giai đoạn

cách mạng, đảng viên của Đảng bộ huyện Mỹ Đức luôn là đội ngũ trung kiên,

gương mẫu, gắn bó với quần chúng. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng

đầu đối với toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng bộ.

Trong công tác xây dựng Đảng, với đặc điểm là Đảng bộ có nhiều đảng

viên người dân tộc, bên cạnh việc nâng cao giác ngộ chính trị, Đảng bộ còn

chú trọng đến trình độ văn hoá, trình độ quản lí của cán bộ, đảng viên. Chính

nhờ vậy, năng lực lãnh đạo, thực hiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên được

nâng lên rất nhiều. Đồng thời, việc nâng cao chất lượng đảng viên cũng là

một trong những vấn đề được Đảng bộ huyện Mỹ Đức đặc biệt quan tâm.

Trong những năm 2008 – 2014, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã rất quan

tâm tới công tác kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra tư cách cán bộ, đảng viên, kiểm

tra tổ chức cơ sở Đảng. Đảng bộ nhận thức sâu sắc kiểm tra góp phần nâng

cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn,

101

đảm bảo sự thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc

làm. Công tác kiểm tra được Đảng bộ tiến hành dân chủ, công khai, hàng năm

đều xây dựng kế hoạch, chương trình kiểm tra và tổ chức thực hiện nghiêm

túc; ngăn chặn được sự chia rẽ, mất đoàn kết, đảm bảo nguyên tắc tập trung

dân chủ được tuân thủ nghiêm túc; góp phần giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng

viên. Chính những điều này đã góp phần không nhỏ vào sự thắng lợi của Mỹ

Đức trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách mạng nói chung và công tác

xây dựng Đảng nói riêng.

2. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, các chi bộ cơ

sở, các cán bộ, đảng viên trong huyện đã và đang phấn đấu xây dựng Đảng bộ

huyện ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với truyền thống anh

hùng của quê hương trong đấu tranh cách mạng và trong xây dựng quê hương

ngày càng giàu đẹp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tự

hào về truyền thống của quê hương với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, các thế

hệ người dân Mỹ Đức luôn xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước, phấn

đấu và tự hào được sinh ra và trưởng thành trên quê hương cách mạng.

Trong mọi hoàn cảnh dù có nhiều biến động đến đâu, tình hình phức

tạp và chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể gây ảnh hưởng đến vị trí, vai

trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã từng bước tháo gỡ

những khó khăn, vượt qua thử thách và thu được những thắng lợi to lớn.

Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ huyện Mỹ Đức

đã ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò lãnh đạo đúng đắn của mình.

Đảng bộ huyện đã huy động được sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân và toàn

dân trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Để có được những thắng lợi đó, Đảng

bộ huyện luôn quán triệt một cách sâu sắc thực hiện quan điểm của chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức

từ 2008 đến 2014 đã đạt được những kết quả có ý nghĩa to lớn đối với sự phát

102

triển của huyện. Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã thực hiện tốt nguyên tắc “tập trung

dân chủ”, củng cố tổ chức cơ sở của Đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết với

quần chúng nhân dân. Phương châm phát triển được Đảng bộ xác định là phát

triển cả về số lượng và chất lượng. Từ hai đảng viên đầu tiên (1939), tính đến

30/10/2014, toàn Đảng bộ huyện Mỹ Đức có 7452 đảng viên, sinh hoạt ở 56 tổ

chức cơ sở Đảng (trong đó xã, thị trấn 22 Đảng bộ; 4 Đảng bộ khối cơ quan và

30 chi bộ trực thuộc huyện ủy). Không chỉ tăng lên về số lượng, chất lượng đội

ngũ cán bộ, đảng viên cũng ngày càng được nâng cao và được thứ thách, rèn

luyện bản lĩnh cách mạng qua thực tiễn. Đây là bước phát triển nhanh chóng,

hợp với xu thế đi lên của cách mạng.

4. Tuy nhiên, trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng (2008 –

2014), Đảng bộ huyện Mỹ Đức vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần phải

khắc phục trong thời gian tới: Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng

một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc thu hút đông đảo mọi

tầng lớp nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng, việc đấu tranh với

các biểu hiện tiêu cực còn tình trạng nể nang, né tránh, thiếu kiên quyết. Hình

thức và nội dung của công tác tư tưởng còn đơn điệu, chưa sâu sắc, có nơi

chưa bám sát thực tiễn. Việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng tuy đã đạt được

những thành tựu cơ bản nhưng chưa tạo ra được bước tiến lớn và vững chắc,

chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên nhưng vẫn còn hạn chế, đặc biệt

là trong rèn luyện đạo đức cách mạng; công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chưa

khoa học, không gắn liền với công tác qui hoạch và sử dụng cán bộ.

5. Quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức đã để

lại nhiều những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng và chình đốn

Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức, đặc biệt là bài học về giữ vững và tăng

cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Phải coi trọng công tác chính trị - tư tưởng

là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình xây dựng

Đảng. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và đông đảo nhân dân

tham gia xây dựng Đảng. Phải gắn chặt việc xây dựng Đảng với thực hiện các

103

nhiệm vụ chính trị ở địa phương, coi hiệu quả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội là

thước đo kết quả của công tác xây dựng Đảng.

6. Để khắc phục được những tồn tại, yếu kém đó cần có sự góp sức của

toàn Đảng, toàn dân, cần có những biện pháp, chính sách và việc làm cụ thể.

Đó là bài toán khó không chỉ đối với các nhà lãnh đạo Đảng mà là bài toán

cần lời giải đáp từ tất cả các cấp, các ngành và của toàn dân để công tác xây

dựng và chỉnh đốn Đảng ngày càng đem lại hiệu quả thiết thực, làm cho Đảng

bộ huyện Mỹ Đức thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ

chức, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách xuyên tạc, vu cáo Đảng,

đánh thẳng vào hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, chia rẽ

nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng,

chế độ ta từ gốc, từ bên trong hết sức thâm độc, nguy hiểm.Trong tình hình

ấy, nếu Đảng không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng, không thống nhất

cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống, không chặt

chẽ về tổ chức thì không thể đứng vững, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước vững

bước tiếp tục đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Vì vậy, Đảng bộ huyện Mỹ Đức cần đề ra chủ trương phải tiếp tục củng

cố xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết hơn, mạnh

mẽ hơn nhằm mục đích tạo ra bước chuyển biến mới trên các mặt, ngăn chặn

và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng

cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức

chặt chẽ, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân, nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Muốn có được uy tín và sức mạnh thì Đảng phải tự rèn luyện, tự củng cố,

tự đổi mới, chỉnh đốn; không ai có thể làm thay được. Từng tổ chức đảng, mỗi cán

bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành phải nhận thức đầy

104

đủ, sâu sắc về vấn đề này để tự giác làm. Các cán bộ, đảng viên cùng thực hiện.

105

DANH M C TÀI LI U THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2006), Vận dụng và phát triển tư tưởng

HồChí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội

Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội.

3. Ban Thường vụ huyện ủy Mỹ Đức, Báo cáo số 182-BC/HU, ngày 4/7/2013

về “Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, hội nghị Trung ương

lần thứ 7(khoá X) và Chương trình hành động số 02 của thành ủy Hà Nội

(khóaXIV) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Mỹ Đức”.

4. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2005), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2005, phương hướng, nhiệm vụ năm 2006, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

5. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2006), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2006, phương hướng, nhiệm vụ năm 2007, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

6. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2007), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2007, phương hướng, nhiệm vụ năm 2008, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

7. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2008), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

8. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2009), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

9. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2010, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

106

10. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2010, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

11. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2011), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ năm 2012, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

12. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2012), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

13. Ban Tuyên giáo huyện Mỹ Đức (2013), Báo cáo tổng kết công tác tư

tưởng tuyên giáo năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ năm 2014, lưu

tại Văn phòng Huyện ủy.

14. Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2012), Tài liệu hỏi - đáp xây dựng

nông thôn mới.

15. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Tài liệu học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minhvề phong cách quần chúng, dân chủ, nêu

gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là

cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Phan Xuân Biên (chủ biên) (2005),Một số vấn đề đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ

sở, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Lê Đức Bình (2002),Mấy vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Bộ giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

19. Nguyễn Thị Doan (chủ biên) (2006),Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật

nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng

mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Lê Duẩn (1978), Về vấn đề xây dựng Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

107

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Xây dựng, tổ chức Đảng trong sạch,

vững mạnh trong tiến trình hội nhập, thực trạng và các biện pháp thực

hiện tiết kiệm, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội

(2004), Lịch sử thành phố Hà Nội (1930 – 2000), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

24. Đảng cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội

(2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà

Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội

(2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ thành phố Hà

Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức

(2010), Các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức (1947 – 2010), Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức

(2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tập I (1930 -1953) Hà Tây.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mỹ Đức

(2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Đức, tập II (1954 -2000) Hà Tây.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2000), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XX Đảng bộ huyện Mỹ

Đức nhiệm kỳ 2000 -2005”, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2005), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ huyện

Mỹ Đức nhiệm kỳ 2005 -2010”, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2010), “ Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ huyện

Mỹ Đức nhiệm kỳ 2010 -2015”, Hà Nội.

108

32. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2013), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2012, phương

hướng trọng tâm trong năm 2013”, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2014), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2013, phương

hướng trọng tâm trong năm 2014”, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội, Huyện ủy Mỹ

Đức (2015), Báo cáo“Tổng kết xây dựng Đảng năm 2014, phương

hướng trọng tâm trong năm 2015”, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc X,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XI,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Giáo trình Xây dựng Đảng (1979), Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái

Quốc, Hà Nội.

38. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên, 2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh

và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Bùi Thị Thu Hà (chủ biên 2008), Biên niên công tác tổ chức – xây dựng

Đảng, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Hoàn (2002): Đảng bộ thành phố Thái Nguyên thực hiện

nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1986 – 2000, luận văn

thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

41. Ngô Thị Lan Hương (2012): Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm

vụ xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010, luận văn thạc sỹ chuyên

ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

42. Học viện Chính trị quân sự (2003),Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên

theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

109

43. Hội thảo lí luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản

Trung Quốc, Xây dựng Đảng cầm quyền – Kinh nghiệm của Việt Nam,

kinh nghiệm của Trung Quốc (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Huyện ủy Mỹ Đức (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2001, lưu tại Văn phòng

Huyện ủy.

45. Huyện ủy Mỹ Đức (2005), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005, lưu tại Văn phòng

Huyện ủy.

46. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu tại Văn phòng

huyện ủy.

47. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XX, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.

48. Huyện ủy Mỹ Đức (2005), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXI, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.

49. Huyện ủy Mỹ Đức (2010), Báo cáo tham luận của các đại biểu tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXII, lưu tại Văn phòng Huyện ủy.

50. Huyện ủy Mỹ Đức (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án đổi

mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ (2005 – 2010), lưu tại

Văn phòng Huyện ủy.

51. Trần Đình Huỳnh – Mạch Quang Thắng (1993),Tư tưởng Hồ Chí Minh

về Đảng của chúng ta, Nxb Lao động, Hà Nội.

52. V.I.Lênin (1978), Về những nguyên tắc tổ chức của Đảng vô sản,

NxbSự thật, Hà Nội.

53. V.I.Lênin (1978), Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

54. V.I.Lênin – I.V.Xtalin (1976), Bàn về tự phê bình và phê bình, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (1976),Về tự phê bình và phê bình, Nxb Sự thật, Hà Nội.

110

56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Trần Quân Nhiếp (2013), Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tạp chí báo cáo viên số .

61. Nhiều tác giả (2007), Mỹ Đức trên đường hội nhập, Nxb Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

62. Nguyễn Thế Nghĩa (2009), “ Di chúc Hồ Chí Minh và con đường đổi

mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 11.

63. Lưu Quang Quân (chủ biên, 2004),Xây dựng, chỉnh đốn Đảng chống

quan liêu, tham nhũng, lãng phí, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Tô Huy Rứa và các tác giả (2005): Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lí

luận của Đảng 1986 – 2005, Tập 1, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.

65. Tô Huy Rứa và các tác giả (2005),Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lí

luận của Đảng 1986 – 2005, Tập 2, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội.

66. Trần Thanh Sơn (chủ biên, 2002), Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong

sạch, vững mạnh của Đảng bộ Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

67. Trần Thị Thảo (2002): Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công

tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2000, luận văn thạc sỹ

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

68. Bùi Ngọc Thanh (2012), Một số vấn đề xây dựng Đảng và công tác cán

bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Thành ủy Hà Nội (2011), Chương trình số 01 – Ctr/TU “Năng lực lãnh

đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất lượng đội ngũ đảng

viên; Năng lực quản lí, điều hành của bộ máy chính quyền, chất lượng

hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các cấp giai

đoạn 2011 – 2015”, lưu tại văn phòng huyện ủy.

111

70. Lê Đức Thọ (1996), Những nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng

Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Lê Quang Thường (1996), Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Đặng Hữu Toàn (2009), “ Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Việc cần

phải làm trước tiên trong Di chúc của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết

học, số 8.

73. Nguyễn Phú Trọng (2012), Xây dựng và chỉnh đốn Đảng – Một số vấn

đề lí luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Tổ chức quan triệt đưa Nghị quyết X của Đảng và cuộc sống, Nxb. Văn

hóa – Thông tin, Hà Nội, 2006.

75. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2000), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội 5 năm 2000 – 2005 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện ủy.

76. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội 5 năm 2005 – 2010 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện ủy.

77. Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội 5 năm 2010 – 2015 của huyện Mỹ Đức, lưu tại văn phòng Huyện

ủy.

78. Website: www.dangcongsan.vn

112

PH L C

Phụ lục 1

K t quả các ch tiêu phát tri n inh t của hu ện M Đức từ 2005-2013

Số

ChØ tiªu

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Đơn vị

TT

Lĩnh vực kinh tế

ớc

A

đạt

Tổng giá trị tăng

1

Tû ®ång 494,9 548,0 618,9 681,1 739,7 832,7 927,1 1.022,5 1.122,0

gia(1994)

Tốc

độ

tăng

2

%

9,7

10,7

12,9

10

8,6

11,2

11,3

10,4

9,7

trưởng( DP)

3

Cơ cấu kinh tế

%

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Dịch Vụ

%

23,3

24,7

29,4

32,9

35,7

34,9

35

35,6

38,2

Công

nghiệp-

%

18,8

20,2

20,2

20,8

22,2

24,5

25,5

26

27,3

Xây dựng

Nông Nghiệp

%

57,9

55,1

50,4

46,3

41,7

40,6

39,5

38,4

34,5

Triệu

Thu nhập Bình

4

đồng/người/

3,9

4,3

5,5

6,6

7,4

10,4

12

14

15,5

quân đầu người

năm

(Nguån: Chi côc Thèng kª huyÖn Mü §øc tháng 10/2013)

Phụ lục 2

Tổng hợp t quả ph n loại đảng viên từ 2005-2012

Năm

Vi

ĐTC,

Tỷ

lệ

ĐTC,

Tỷ

lệ

ĐTC,

Tỷ

lệ

phạm

Tỷ

lệ

HTXSNV

%

HTTNV

%

HTNV

%

%

Đảng viênđược

cách

đánh giá/tổng số

Năm 2005

251

5,1

1.952

39,7

2.658

54,1

52

1,1

4.913/5.795

Năm 2006

362

7,0

2.154

41,6

2.640

51,0

19

0,4

5.175/6.035

Năm 2007

395

7,6

2.242

43,2

2.504

48,0

64

1,2

5.205/6.133

Năm 2008

783

14,9

3.548

67,8

842

16,2

57

1,1

5.230/6.188

Năm 2009

840

15,8

3.363

63,5

1.060

20,1

33

0,6

5.296/6.276

Năm 2010

1.045

19,1

3.560

65,0

826

15,2

41

0,7

5.472/6.514

Năm 2011

740

13,3

4.036

71,4

838

14,8

31

0,5

5.645/6.686

Năm 2012

738

12,5

4.173

63,6

966

16,3

45

7,6

5.922/6.966

(Nguån: Ban Tổ chức huyÖn ủy Mü §øc tháng 10/2013)

Phụ lục 3

B nh qu n thu nhập đầu người ở M Đức từ năm 2005 - 2013

(Đơn vị tính triệu đồng/ người/ năm)

15,5

14,0

12,0

10,4

7,4

6,6

5,5

4,3

3,9

18 16 14 12 10 8 6 4 2 0

1

2005 2008 2011

2006 2009 2012

2007 2010 Ư c đạt 2013

(Nguồn: Chi cục Thống kê Mỹ Đức tháng 10-2013)

Phụ lục 4

Cơ cấu inh t các ngành từ năm 2005- 2013

( Đơn vị tính %)

(Nguồn: Chi cục Thống kê Mỹ Đức tháng 10-2013)

Phụ lục 5

Tổng hợp t quả ph n loại tổ chức cơ sở Đảng của hu ện M Đức từ 2005-2012

Năm

TTCC

TTCC

Số

TCCSĐ

TTỷ lệ

TTCCSĐ

TTỷ

TTỷ

lệ

Tỷ

lệ

TCCSĐ

TSVM

%

HTTNV

lệ %

HTN

%

%

yếu

được đánh

V

kém

giá/tổng số

58

Năm 2005: 73/73

779,4

00

00

115

220,6

00

0

(tiêu biểu 16)

54

Năm 2006: 75/75

772,0

00

00

220

228,0

00

0

(tiêu biểu 18)

52

Năm 2007: 75/75

669.3

00

00

223

330.7

10

0

(tiêu biểu 19)

118,0

51

Năm 2008: 72/72

770,83

113

77

99,72

21

1,38

5

(tiêu biểu 19)

60

Năm 2009: 73/73

882,2

44

55,5

77

99,6

02

2,7

(tiêu biểu 17)

57

Năm 2010: 73/74

778,1

66

88,2

110

113,7

00

0

(tiêu biểu 18)

40

772,7

99

116,4 66

110,9

00

0

Năm 2011: 55/56

(tiêu biểu 10)

40

Năm 2012: 56/56

71,4

110

117,8 66

110,8

00

0

(tiêu biểu 11)

(Nguån: Ban Tổ chức huyÖn ủy Mü §øc tháng 10-2013)

Phụ lục 6

Số lượng đảng viên t nạp qua các năm từ 2005-10/2013

(Nguồn: Ban Tổ chức huyện ủy Mỹ Đức, tháng 10 năm 2013

LỜI CẢM N

Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam cùng các thầy giáo, cô giáo Khoa Lịch sử trường

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội đã trực tiếp

giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới P S.TS Ngô Đăng

Triđã tận tình chỉ bảo hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ThSĐặng Đình Thoan (Phó iám đốc Trung tâm

Chính trị huyện Mỹ Đức) đã cung cấp tư liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.

Cảm ơn gia đình,bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

thực hiện luận văn.

Tr n trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015

Tác giả luận văn

Lê Thị Loan

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của riêng tôi. Các kết quả

nghiên cứu được nêu trong Luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng

được ai công bố. Những luận điểm mà Luận văn kế thừa của những tác giả đi

trước đều được trích dẫn nguồn chính xác, cụ thể.

Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015

Tác giả luận văn

Lê Thị Loan

M C L C

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4

3.Mục đích, nhiệm vụ ........................................................................................ 7

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8

5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ........................... 8

6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 9

Chương 1: CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V

XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C T NĂM 200

Đ N NĂM 2010 ............................................................................................. 10

1.1 Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2008 – 2010) ............. 10

1.1.1 Các yếu tố tác động, chi phối và tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng ở huyện Mỹ Đức đến năm 2008 ............................................................ 10

1.1.2 Chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Mỹ Đức (2008 – 2010) ......... 21

1.2 Quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng (2008 – 2010) ........................................................................................ 27

1.2.1 Xây dựng Đảng về chính trị ................................................................... 27

1.2.2 Xây dựng Đảng về tư tưởng ................................................................... 30

1.2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức ..................................................................... 34

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 37

Chương 2: CH TRƯ NG VÀ S CH ĐẠO TH C HI N NHI M V

XÂ D NG ĐẢNG C A ĐẢNG BỘ HU N M Đ C T NĂM 2011

Đ N NĂM 2014 ............................................................................................. 38

2.1 Yêu cầu mới và chủ trương đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng

bộ huyện Mỹ Đức (2011 – 2014) .................................................................... 38

2.1.1 Yêu cầu đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng ở huyện Mỹ Đức ............ 38

2.1.2 Chủ trương đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng ................................... 40

2.2 Đảng bộ huyện Mỹ Đức chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng ................................................................................................................ 47

2.2.1 Xây dựng Đảng về chính trị ................................................................... 47

2.2.2 Xây dựng Đảng về tư tưởng ................................................................... 50

2.2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức ..................................................................... 54

Ti u t chương 2 .......................................................................................... 60

Chương 3: NHẬN X T VÀ KINH NGHI M ............................................ 62

3.1. Nhận xét ................................................................................................... 62

3.1.1. Về chủ trương và sự chỉ đạo ................................................................. 62

3.1.2 Về kết quả và hạn chế ............................................................................ 69

3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................. 81

3.2.1. Kinh nghiệm trong xác định chủ trương ............................................... 81

3.2.2 Kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện ..................................................... 87

Ti u t chương 3 .......................................................................................... 98

K T LUẬN .................................................................................................. 101

DANH M C TÀI LI U THAM KHẢO ................................................... 106

PH L C