ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU HƢỜNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU HƢỜNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Hồng

Mã số: 60 22 03 15

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách

quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng12 năm 2016

Tác giả

Đỗ Thị Thu Hường

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Người thầy

giáo đáng kính: PGS.TS Hoàng Hồng, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ

bảo và đóng góp những ý kiến quí báu trong suốt thời gian tôi tiến hành

nghiên cứu, hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học,

các thầy, cô giáo và đặc biệt là các thầy, cô trong bộ môn Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi

trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Tôi chân thành cảm ơn tập thể cán bộ và nhân viên kho lưu trữ văn

phòng Huyện ủy, UBND, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn,

Phòng Kinh tế, Phòng Thống kê, Phòng Tài nguyên môi trường … của

huyện Thanh Trì đã giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tập, khai thác và tìm

kiếm tư liệu. Đặc biệt, tôi chân thành cảm ơn tập thể Ban Tuyên giáo,

Huyện ủy Thanh Trì – nơi tôi công tác đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi

trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn

bè đã luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa học.

Hà Nội, tháng 12 năm 2016

Đỗ Thị Thu Hường

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH Ban Chấp hành

CNH – HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

ĐHKHXH & NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

HĐND Hội đồng nhân dân

HTX Hợp tác xã

Nxb Nhà xuất bản

TW Trung ương

UBND Uỷ ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

MỤC LỤC ........................................................................................................ 1

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ 3

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 10

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11

7. Bố cục luận văn ........................................................................................... 11

Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ LÃNH ĐẠO KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 ................................................ 12

1.1. Các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Thanh

Trì và chủ trương của Đảng bộ ................................................................. 12

1.1.1. Các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nông nghiệp của

huyện Thanh Trì .................................................................................... 11

1.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ

huyện Thanh Trì ........................................................................... 25

1.2. Quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện

Thanh Trì ......................................................................................................... 35

1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa ........................................................................................ 35

1.2.2. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp ........... 42

1.2.3. Chú trọng các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp ................ 43

1.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp ......................... 44

1

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................. 46

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2010 – 2015 .... 47

2.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ huyện Thanh Trì .................... 47

2.1.1. Yêu cầu mới: ............................................................................... 47

2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện

Thanh Trì .............................................................................................. 49

2.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ

huyện Thanh Trì .............................................................................................. 56

2.2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo

hướng sản xuất hàng hóa ...................................................................... 56

2.2.2. Chú trọng phát triển mô hình kinh tế trang trại ......................... 61

2.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp ............................ 67

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 70

Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ........................ 71

3.1. Nhận xét ................................................................................................... 71

3.1.1. Ưu điểm: ....................................................................................... 71

3.1.2. Hạn chế ........................................................................................ 77

3.2. Kinh nghiệm chủ yếu ............................................................................... 82

Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 90

KẾT LUẬN .................................................................................................... 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94

2

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 107

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Hiện trạng dân số và lao động huyện Thanh Trì năm 2015 ........... 16

Bảng 2.1. Số lượng các trang trại nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì

giai đoạn 2010 - 2015 ...................................................................................... 62

Bảng 2.2. Số lao động của các loại hình sản xuất trang trại phân chia theo các

loại hình sản xuất.....................................................................................................66

3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội của nhiều quốc gia. Đối với Việt Nam, việc đầu tư phát triển kinh tế

nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối

với sự phát triển kinh tế đất nước.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp, Đảng và Nhà

nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm đổi mới chính sách phát triển

nông nghiệp. Ngay khi cách mạng mới giành được thắng lợi, ngày 07/12/1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trên báo “Tấc đất” số đầu tiên là: “Loài người

ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn), nước ta thì “dĩ nông vi

bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no phải giồng giọt cho

nhiều. Nước muốn giầu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Do đó, Đảng

và Nhà nước ta xác định việc phát triển kinh tế nông nghiệp “là một trong

những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu” và phải tiếp tục đổi mới đường lối phát

triển nông nghiệp theo hướng phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng xu thế

hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã đề ra nhiều chủ

trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là Nghị quyết

Trung ương bảy, khóa X (7 - 2008), đánh dấu mốc sự phát triển tư duy của

Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Trải qua quá trình hoàn thiện và đổi mới từng bước, nền nông nghiệp Việt

Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng

hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tạo tiền đề và cơ sở bước

đầu cho công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Là một huyện nằm ở trung tâm phía Nam thủ đô Hà Nội, huyện Thanh

Trì có đặc thù nổi bật là có tốc độ đô thị hoá nhanh. Năm 1995, huyện Thanh

4

Trì gồm có 25 xã và 01 thị trấn, kinh tế địa phương chủ yếu dựa vào sản xuất

nông nghiệp. Từ tháng 01/2004, đáp ứng yêu cầu quản lý hành chính trong

điều kiện tốc độ đô thị hóa nhanh trên địa bàn Hà Nội, Thanh Trì chuyển 9 xã

cùng 5 phường của quận Hai Bà Trưng để thành lập quận Hoàng Mai. Hiện

nay, Thanh Trì còn 15 xã và 01 thị trấn với diện tích đất tự nhiên 6.349,28 ha,

trong đó diện tích đất nông nghiệp là 3.349,8ha; dân số trên 23 vạn người, số

người sống ở nông thôn trên 200.000 người với 8.487 hộ nông nghiệp. Cơ cấu

kinh tế của huyện phát triển theo hướng Công nghiệp - Thương mại dịch vụ -

Nông nghiệp. Hiện nay, tốc độ đô thị hóa trên địa bàn huyện diễn ra nhanh

chóng, các dự án lớn được triển khai trên toàn huyện đã tạo điều kiện thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sang

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp.

Công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Thanh

Trì mặc dù còn hạn chế nhưng đã góp phần đưa Thanh Trì từng bước khởi sắc

và phát triển. Thu nhập và đời sống của nông dân được cải thiện và ngày càng

nâng cao.

Việc tổng kết, đánh giá một cách khách quan khoa học vai trò của Đảng

bộ huyện Thanh Trì trong việc thực hiện đường lối phát triển nông nghiệp để

thấy được thực trạng nông nghiệp của huyện Thanh Trì trong những năm qua

và những cơ hội, thách thức đối với nông nghiệp địa phương trong tình hình

mới; trên cơ sở đó chỉ ra được thành tựu, hạn chế và những bài học kinh

nghiệm nhằm đẩy mạnh sự nghiệp phát triển nông nghiệp theo hướng CNH,

HĐH là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng.

Với tất cả những lí do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Thanh

Trì (thành phố Hà Nội) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2006 đến

năm 2015” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng

5

Cộng sản Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nông nghiệp có vị trí quan trọng trong tiến trình cách mạng XHCN cũng

như trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Chính vì vậy, đường lối, chủ trương

của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp là một trong những vấn đề được

nhiều nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, có

nhiều công trình nghiên cứu về KTNN ở các góc độ khác nhau như:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu chuyên về phát triển nông

nghiệp, nông thôn; nghiên cứu về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đáng chú ý là các công trình

khoa học của PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc (1995), “Nông nghiệp Việt Nam

1945 – 1995”, Nxb Thống kê, Hà Nội: đã nghiên cứu về điều kiện sản xuất,

quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất; kết quả và hiệu quả kinh tế của cả nước,

từng vùng, từng địa phương từ năm 1945 đến năm 1995 trong lĩnh vực nông

nghiệp. Bên cạnh đó, PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc còn nghiên cứu về nông

nghiệp, nông thôn qua công trình: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ

đổi mới 1986-2002”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội (năm 2003). Tác giả

nghiên cứu về thực trạng nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới,

các vấn đề đặt ra và các giải pháp, đặc biệt tác giả đã thống kê được số liệu

nông nghiệp nông thôn Việt Nam hàng năm. Nguyễn Văn Bích (2007), “Nông

nghiệp, nông thôn sau hai mươi năm đổi mới: Quá khứ và hiện tại”, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội: đã phản ánh đầy đủ, toàn diện, thống kê số liệu

qua các thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta dưới sự

lãnh đạo của Đảng qua công trình nghiên cứu. Bùi Huy Đáp (1996), “Nông

nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà

Nội: nghiên cứu về quá trình phát triển của nông nghiệp Việt Nam qua các

giai đoạn lịch sử; nông nghiệp truyền thống và kinh nghiệm làm nông nghiệp;

6

sự đổi mới (công nghiệp hóa, hiện đại hóa) của nền nông nghiệp Việt Nam.

Nguyễn Kim Sơn (2008), “ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam–

hôm nay và mai sau”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội: đã làm rõ thực trạng

về nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay, những thành tựu, những khó

khăn còn tồn tại. Từ đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn đã đề xuất, kiến nghị nhằm

đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển.

Thứ hai, các bài báo, công trình khoa học công bố trên các tạp chí

khoa học như: Vũ Văn Phúc (1999), “Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản, số 7 (4/1999). Nguyễn

Thanh Bạch (1999), “Chính sách và giải pháp cho nông dân nông nghiệp và

nông thôn hiện nay”, Tạp chí Kinh tế, số 248, tháng 1 – 1999. Nguyễn Thị

Hồng Phấn (2001), “Cơ cấu nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”,

Tạp chí Kinh tế, số 262, tháng 1 – 2001. Đặng Kim Oanh (2009), "Quan điểm

của Đảng về phát triển nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử

Đảng, số 8/2009. Vũ Thị Thoa (2010), “Một số quan điểm của Đảng về công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số

11/2010. Nguyễn Văn Thông (2013), “Quan điểm của Đảng về công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới”, Tạp chí Giáo

dục lý luận, số 199, tháng 7/2013.

Thứ ba, một số luận án, luận văn, đáng chú ý là của các tác giả: Lê

Quang Phi (2006),“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ 1991 – 2002”, Luận án Tiến sĩ

Lịch sử, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Nguyễn Tiến Dũng (2003),

“Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại

thành Hà Nội theo hướng CNH – HĐH”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Tiến Dũng (2015), “Đảng bộ thành phố

Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế ngoại thành từ năm 1991 đến năm 2008”,

7

Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội. Tống Thị

Nga (2014), “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010”, Luận án Tiến sĩ

chuyên ngành Lịch sử Đảng, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

Đặng Kim Oanh (2011), “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp (1996-2006)”, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHKHXH

và NV, ĐHQG Hà Nội. Lê Thị Thu Hương (2008), “Đường lối phát triển

nông nghiệp nông thôn của Đảng trong những năm 1986 – 2006”, Luận văn

thạc sỹ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội. Nguyễn Thị Tuyết

(2014), “Đảng bộ huyện Hoài Đức (tỉnh Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông

nghiệp từ năm 1996 đến 2008”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH

và NV, ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Thị Thoa (2014), “Đảng bộ huyện Mỹ Đức

(tỉnh Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến 2008”, Luận

văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Văn

Lành (2015), “Đảng bộ huyện Quốc Oai (Hà Tây) lãnh đạo phát triển kinh tế

nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường

ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Văn Hoan (2015), “Đảng bộ

huyện Thường Tín (Hà Tây) lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 1996 đến năm

2008”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

Phùng Xuân Huy (2015), “Đảng bộ huyện Mê Linh (thành phố Hà Nội) lãnh

đạo phát triển kinh tế từ năm 2008 đến năm 2013”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,

Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

Một số công trình đề cập đến kinh tế nông nghiệp huyện Thanh Trì như:

Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2011), “Lịch sử Đảng bộ huyện

Thanh Trì (1930 – 2010)”, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật. Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện Thanh Trì (2010), “Thanh Trì trên đường đổi mới”, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2011),

8

“Thanh Trì 50 năm xây dựng và phát triển (31/5/1961 - 31/5/2011)”.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến đường lối, chủ trương của

Đảng về nông nghiệp qua các thời kỳ lịch sử; trình bày và đánh giá chủ

trương, quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ thành

phố Hà Nội và Đảng bộ một số huyện ngoại thành Hà Nội trong thời kỳ đổi

mới. Từ nhiều khía cạnh khác nhau, các công trình đã trình bày và phân tích

sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng trong từng

thời kỳ lịch sử, chỉ ra những chủ trương và biện pháp của Đảng và Nhà nước

trong lãnh đạo công tác phát triển kinh tế nông nghiệp. Đây là những tài liệu

quan trọng để tác giả tham khảo, tiếp cận các sự kiện lịch sử, là cơ sở để phân

tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo thực hiện

đường lối, chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng. Tuy nhiên,

cho đến nay chưa có một công trình nào đề cập một cách hệ thống, toàn diện,

trực tiếp về quá trình Đảng bộ huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội lãnh đạo

kinh tế nông nghiệp từ năm 2006 đến năm 2015 dưới góc độ lịch sử Đảng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

- Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo phát triển kinh tế

nông nghiệp từ năm 2006 đến năm 2015.

- Nêu được những thành tựu cũng như những hạn chế cần khắc phục và

rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp của

huyện hiện nay.

Nhiệm vụ:

- Phân tích, làm rõ các yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp của

huyện Thanh Trì.

- Trình bày theo hệ thống các chủ trương, biện pháp của Đảng bộ huyện

9

Thanh Trì trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2006 đến năm 2015.

- Phân tích những ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ huyện Thanh Trì

trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2006 đến năm 2015; từ đó đúc rút

những kinh nghiệm có cơ sở khoa học và thực tiễn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương và các biện pháp trong quá trình chỉ

đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Thanh Trì từ

năm 2006 đến năm 2015.

Phạm vi nghiên cứu:

- Không gian: Địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

- Thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2015. Mốc thời gian nghiên cứu năm

2006 vì là năm đầu tiên thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh

Trì lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2005 – 2010) và đây là Đại hội đầu tiên sau khi

Thanh Trì chia tách địa giới hành chính (chuyển 9 xã cùng 5 phường của quận

Hai Bà Trưng để thành lập quận Hoàng Mai).

- Nội dung: Trong phạm vi Luận văn, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu

các vấn đề liên quan tới phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện Thanh Trì từ

năm 2006 đến năm 2015 với trọng tâm nghiên cứu là: chủ trương và các biện

pháp của Đảng bộ huyện Thanh Trì chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp,

xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp, chú trọng áp dụng mô hình

kinh tế hiệu quả trong nông nghiệp.

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Nguồn tài liệu:

- Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam

lần thứ IX, X; XI. Các Nghị quyết của hội nghị Trung ương và các Chỉ thị của

10

Ban Bí thư Trung ương Đảng liên quan đến kinh tế nông nghiệp.

- Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của Đảng bộ thành phố Hà Nội về

phát triển kinh tế nông nghiệp.

- Các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo tổng kết về tình hình kinh tế nông

nghiệp của Huyện uỷ, UBND và một số ban, ngành của huyện Thanh Trì.

- Một số sách và công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

Phương pháp nghiên cứu:

Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài việc sử dụng

các phương pháp chính của khoa học lịch sử như phương pháp lịch sử,

phương pháp logic, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như phân

tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh để dựng lại chân thực quá trình

Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong những năm

2006 – 2015.

6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần làm rõ vai trò lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của

Đảng bộ huyện Thanh Trì trong giai đoạn từ năm 2006 – 2015.

- Khẳng định thành tựu, hạn chế và bước đầu rút ra những bài học kinh

nghiệm trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Thanh Trì.

- Là tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận,Tài liệu tham khảo, Phụ lục, cấu trúc

luận văn gồm có 3 chương:

Chƣơng 1: Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo kinh tế nông nghiệp giai

đoạn 2006 – 2010.

Chƣơng 2: Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo đẩy mạnh phát triển

kinh tế nông nghiệp từ năm 2010 đến năm 2015.

11

Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm chủ yếu.

Chƣơng 1

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

GIAI ĐOẠN 2006 – 2010

1.1. Các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện

Thanh Trì và chủ trƣơng của Đảng bộ

1.1.1. Các yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nông nghiệp của

huyện Thanh Trì

1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội:

* Điều kiện tự nhiên:

Vị trí địa lý:

Huyện Thanh Trì nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội, phía Bắc và Tây

Bắc giáp quận Hoàng Mai và quận Thanh Xuân, phía Đông giáp huyện Gia

Lâm và tỉnh Hưng Yên qua sông Hồng, phía Nam giáp huyện Thường Tín,

phía Tây và Tây Nam giáp huyện Thanh Oai và quận Hà Đông.

Ngày 31/5/1961, theo Quyết định số 78/CP của Hội đồng Chính phủ, Hà

Nội mở rộng lần thứ nhất, 10 xã của Quận VII hợp nhất với 11 xã và 01 thị

trấn của huyện Thanh Trì (Hà Đông cũ) để thành lập nên huyện Thanh Trì,

một trong bốn huyện ngoại thành Hà Nội. Năm 1979, Hà Nội mở rộng lần thứ

hai, huyện Thanh Trì tiếp nhận thêm các xã Liên Ninh, Ngọc Hồi, Đại Áng,

Tả Thanh Oai, Hữu Hòa. Năm 1991, xã Hoàng Văn Thụ chuyển về quận Hai

Bà Trưng. Năm 1997, xã Khương Đình chuyển về quận Thanh Xuân. Theo

Nghị định số 132/2003/NĐ-CP, ngày 6/11/2003 của Chính phủ, huyện Thanh

Trì chuyển giao 09 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Yên Sở,

Trần Phú, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam để thành lập quận mới Hoàng Mai.

Từ tháng 1/2004, huyện Thanh Trì còn 15 xã và 01 thị trấn gồm: Tân Triều,

12

Thanh Liệt, Tam Hiệp, Tứ Hiệp, Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh, Đại

Áng, Liên Ninh, Đông Mỹ, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Vạn Phúc, Yên Mỹ, Duyên

Hà và thị trấn Văn Điển, với diện tích 6.349,28 ha, dân số trên 23 vạn người.

Địa hình:

Thanh Trì là vùng đất trũng ven đê của thành phố Hà Nội, có độ cao

trung bình từ 4,5m đến 5,5m. Địa hình biến đổi dốc nghiêng dần từ Bắc

xuống Nam và từ Đông sang Tây, có thể chia làm 2 vùng địa hình chính sau:

Vùng bãi ven đê sông Hồng: có diện tích khoảng 1.174 ha, chiếm

18,70% diện tích tự nhiên, độ cao trung bình của vùng là 7 - 9m trong đó các

khu dân cư cao hơn từ 8,5 - 9m. Các vùng bãi canh tác thấp hơn từ 7 - 7,5m;

chạy ven đê còn có nhiều đầm hồ trũng là nơi giữ nước khi sông cạn. Đây là

vùng đất phù sa được bồi tụ thường xuyên nên cao hơn vùng đất trong đê,

thích hợp để trồng cây rau, màu thực phẩm. Do nằm ngoài đê nên vùng

thường bị ngập nước vào mùa lũ.

Vùng nội đồng: chiếm đại bộ phận diện tích đất đai của huyện (81,30%

diện tích tự nhiên), độ cao trung bình của vùng khoảng 4 - 5m, phía Đông

quốc lộ 1A thấp hơn từ 3,5 - 4,5m còn phía Tây quốc lộ 1A cao hơn từ 5 -

5,5m, toàn vùng bị chia cắt bởi các trục đường giao thông như Quốc lộ 1A,

đường Pháp Vân – Yên Sở, đường 70 và các con sông tiêu nước thải của

thành phố Hà Nội, do đó đã hình thành các ô nhỏ khó thoát nước với nhiều

đầm, ruộng trũng hay bị ngập úng hàng năm khi có mưa lớn. Vùng này thuận

lợi để nuôi trồng thủy sản và sản xuất trên ruộng nước song cũng gây khó

khăn cho sản xuất và sinh hoạt do tình trạng ngập úng.

Khí hậu, thời tiết:

Thanh Trì có đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của vùng đồng

bằng sông Hồng nên có 2 mùa, mùa nóng và mùa lạnh. Các tháng 4 và 10

được coi như những tháng chuyển tiếp tạo cho Thanh Trì có 4 mùa: xuân - hạ

13

- thu - đông.

Nhiệt độ trung bình năm 23,9oC, nắng trung bình năm 1.640 giờ. Bức xạ trung bình 4.272 Kcal/m2/tháng. Lượng mưa trung bình năm 1.649mm, lượng

bốc hơi trung bình 938 mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 83%. Trong

năm có 2 mùa gió chính là gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc.

Chế độ thủy văn:

Chế độ thuỷ văn của huyện chịu ảnh hưởng chính của sông Hồng và

sông Nhuệ, với các đặc điểm sau: Chế độ thủy văn của Sông Hồng: là sông

lớn nhất miền Bắc chảy qua địa bàn huyện ở phía Đông (là ranh giới của

huyện với huyện Gia Lâm và tỉnh Hưng Yên) với chiều dài khoảng 8 km. Chế

độ thủy văn của sông Hồng chia làm hai mùa: mùa khô và mùa lũ với biên độ

dao động mực nước rất lớn, từ dưới 2m đến trên 11,5m (báo động cấp 3), việc

thoát nước vào sông Hồng trong mùa lũ bắt buộc phải dùng bơm động lực.

Sông Hồng có lượng nước trung bình năm khoảng 1.220 x 109m3; trong đó,

mùa lũ lưu lượng nước chiếm tới 72,5%; vào tháng 7 mực nước trung bình là

9,2m, lưu lượng là 5.990m3/s (lúc lớn nhất lên tới 22.200m3/s) trong khi đó

mực nước trung bình năm là 5,3m với lưu lượng 2.309m3/s. Trong mùa lũ

nước sông Hồng dâng lên cao, mặt nước sông thường cao hơn mặt ruộng từ

6m – 7m; vào mùa kiệt mực nước trung bình khoảng 3m với lưu lượng 927

m3/s. Chế độ thủy văn của sông Nhuệ: Sông Nhuệ chảy qua phía Tây và Tây

Nam của huyện với chiều dài khoảng 10km, sông Nhuệ có nhiệm vụ tưới tiêu

cho các tỉnh Hà Nam và thủ đô Hà Nội trong đó có khu vực trong đê của

huyện Thanh Trì. Lưu lượng nước sông Nhuệ ở đầu nguồn từ 26 - 150 m3/s,

mực nước ở hạ lưu đập Hà Đông) từ 4,5m - 5,2m. Ngoài ra, chế độ thủy văn

của huyện còn chịu ảnh hưởng bởi sông Tô Lịch chảy qua địa bàn huyện với

chiều dài khoảng 17,7km, với chức năng chủ yếu là thoát nước mưa, nước

thải cho khu vực nội thành thành phố Hà Nội và khu vực huyện Thanh Trì.

14

Về đất đai: toàn huyện có 6 loại đất chính:

- Đất phù sa không được bồi và glây yếu: phân bố ở những nơi có địa

hình cao và trung bình. Đất có màu nâu tươi và nâu xám, pH từ trung tính đến

ít chua thành phần cơ giới từ cát pha đến nặng, các chất dễ tiêu.

- Đất phù sa không được bồi và glây: nằm ở nơi có địa hình thấp. Đất có

thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng.

- Đất phù sa ít được bồi, trung tính, kiềm yếu: thành phần cơ giới cát

pha, khả năng giữ màu, giữ nước kém và không bị chua.

- Đất phù sa không được bồi, glây mạnh: nằm ở nơi trũng, lòng chảo,

hàng năm bị ngập nước liên tục vào mùa hè, nên đất thường ở trong tình trạng

yếm khí, tỷ lệ mùn khá, độ pH 4,5 - 6 do ảnh hưởng của chất hữu cơ chưa

phân giải.

- Đất phù sa được bồi hàng năm trung tính, kiềm yếu: chiếm diện tích

nhỏ, nơi địa hình cao, đất có thành phần cơ giới nhẹ; nơi đất thấp có thành

phần cơ giới trung bình đến nặng.

- Đất cồn cát, bãi cát ven sông: nằm ở ngoài bãi sông Hồng, hàng năm

đất ngập bãi cát được bồi thêm hoặc bị cuốn đi do đó địa hình địa mạo thay

đổi liên tục. Cát có độ phì kém, trung tính.

Theo thống kê của phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì,

năm 2015, tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 6.349,28 ha. Trong đó:

đất nông nghiệp chiếm 51,66%; đất phi nông nghiệp chiếm 48,07%; đất chưa

sử dụng chiếm 0,27%. Đất nông nghiệp là 3.279,87 ha; trong đó, tập trung

chủ yếu vào đất sản xuất nông nghiệp với 2.418,59 ha, chiếm 73,74% tổng

diện tích đất nông nghiệp. Các nhóm đất còn lại có diện tích không lớn.

Nhìn chung, Thanh Trì là huyện có tài nguyên đất nông nghiệp phong

phú, là yếu tố quan trọng trong việc phát triển các vùng chuyên canh cây

15

trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.

Tài nguyên khoáng sản:

Trên địa bàn huyện đến nay chưa phát hiện thấy có tài nguyên khoáng

sản quý, hiếm; chỉ có cát làm nguyên vật liệu xây dựng ven sông Hồng.

Thanh Trì tiếp giáp với sông Hồng nên tại các xã Duyên Hà, Yên Mỹ và

Vạn Phúc có các bãi cát tự nhiên bồi tụ hàng năm nên có thể khai thác hàng

vạn mét khối cát mỗi năm để làm nguyên vật liệu xây dựng.

* Điều kiện về kinh tế - xã hội:

Dân cư và nguồn lao động:

Theo số liệu thống kê, đến hết ngày 31/12/ 2015, số người trong độ tuổi

lao động của huyện năm 2015 là 145.863 người, chiếm 66,76% dân số. Với

sự phát triển ngày càng nhanh của nền kinh tế, cùng với sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ thì yêu

cầu nguồn nhân lực phải được đào tạo có chất lượng. Vì vậy, nguồn lao động

của huyện cần được quan tâm đào tạo để đáp ứng nhu cầu lao động có trình

độ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của huyện.

Bảng 1.1. Hiện trạng dân số và lao động huyện Thanh Trì năm 2015

STT Chỉ tiêu Đơn vị Số lượng

1 Tổng số nhân khẩu Khẩu 218.483

- Nông nghiệp Khẩu 034.214

- Phi nông nghiệp Khẩu 184.269

2 Tổng số hộ Hộ 057.495

- Nông nghiệp Hộ 048.825

- Phi nông nghiệp Hộ 008.670

3 Tổng số lao động Lao động 145.863

- Nông nghiệp Lao động 022.842

- Phi nông nghiệp Lao động 123.021

16

(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Thanh Trì năm 2015)

Từ năm 2010 đến năm 2015, nguồn lao động của huyện tăng bình quân

là 1,06%. Tốc độ tăng lao động chủ yếu là do mức sinh khá cao của những

năm trước đây, ngoài ra còn do dòng lao động từ các tỉnh khác di cư tự do

đến. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 28 triệu đồng/người/năm.

Tỷ lệ hộ giàu tăng từ 26% năm 2010 lên 29,8% năm 2015; tỷ lệ hộ nghèo

giảm từ 3,38% năm 2010 xuống còn 0,4% năm 2015.

Truyền thống lịch sử:

Thanh Trì là vùng đất thiêng, là nơi đất lành chim đậu, từ rất sớm đã có con

người đến quần tụ nên đã tạo cho mảnh đất và con người nơi đây những giá

trị văn hoá truyền thống tốt đẹp.

Thanh Trì có con người cư ngụ từ cuối thời đại đồ đá mới, đầu thời đại

đồ kim khí, có niên đại tương đương với văn hóa Phùng Nguyên. Bên cạnh cư

dân bản địa, còn có cư dân khắp các địa phương qua nhiều thời đại đến làm ăn

sinh sống, đùm bọc lẫn nhau, gắn bó với xóm làng, lấy sản xuất nông nghiệp

và thủ công làm nghề chính. Vì vậy kinh tế nông nghiệp đóng một vai trò

quan trọng trong toàn bộ quá trình tồn tại phát triển của nhân dân.

Truyền thống sáng tạo ra của cải vật chất ở huyện Thanh Trì luôn gắn

liền với quá trình sáng tạo văn hóa. Huyện Thanh Trì có 144 di tích (trong đó

có 84 di tích được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa), bao gồm 51

chùa; 49 đình; 11 đền; 33 văn chỉ, miếu, điện thờ, lăng mộ, từ đường, nhà thờ

các dòng họ; 2 làng khoa bảng (Nguyệt Áng và Tả Thanh Oai). Nhân dân

Thanh Trì có truyền thống sinh hoạt văn hóa từ lâu đời với 31 lễ hội diễn ra

trong năm. Bên cạnh các lễ hội, trong các làng xã của huyện Thanh Trì trước

đây có nhiều nét văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc với 95 điệu múa cổ, múa

dân gian như: múa Bồng trong lễ hội Triều Khúc, múa rồng, múa sênh tiền

trong hội chùa của mười làng (lễ hội Hàng tổng),… Thanh Trì là mảnh đất địa

17

linh nhân kiệt, giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng, quê hương

của các danh nhân: Đô hồ Đại vương Phạm Tu, Tiên triết Chu Văn An -

người thầy của muôn đời, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, danh nhân Ngô Thì

Nhậm,… Thanh Trì tự hào là nơi ra đời Chi bộ Đông Phù (xã Đông Mỹ), Chi

bộ Đảng đầu tiên của khu vực ngoại thành Hà Nội (tháng 5/1930); là quê

hương của đồng chí Đỗ Mười - Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung

ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Đỗ Ngọc Du - Nguyên Bí thư

Thành ủy Hà Nội lâm thời, đồng chí Vương Thừa Vũ - Nguyên Chủ tịch Ủy

ban Quân chính Hà Nội,…

Thanh Trì trước đây là vùng đất giữ vị trí cửa ngõ nên thời kỳ lịch sử nào

của đất nước, nhân dân Thanh Trì cũng sát cánh cùng cả dân tộc kiên cường

đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam

ra đời, với Cương lĩnh đầu tiên khẳng định làm cách mạng tư sản dân quyền,

tiến lên làm cách mạng XHCN, các tầng lớp nhân dân Thanh Trì đoàn kết một

lòng dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân

dân Thanh Trì đã kiên cường bất khuất cùng cả nước đấu tranh giành chính

quyền và tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và

đế quốc Mỹ đi đến thắng lợi cuối cùng.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, Thanh Trì đã đóng góp xứng đáng vào công

cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với những nỗ lực phấn đấu và

quyết tâm cao cùng những thành tựu nổi bật đã đạt được, cán bộ, đảng viên và

nhân dân huyện Thanh Trì rất tự hào và vinh dự được Đảng và Nhà nước

phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (năm

2000), Huân chương lao động hạng Nhất (năm 2003), Huân chương độc lập

hạng Ba (năm 2010). Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân Thanh Trì đã không ngừng nỗ lực phát huy truyền thống

của quê hương và đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã

18

hội, góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước.

* Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thanh

Trì đối với vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp:

Thuận lợi:

Huyện Thanh Trì có vị trí địa lý khá thuận lợi, mạng lưới giao thông đa

dạng, đã và đang được đầu tư phát triển. Hệ thống đường giao thông quan

trọng như cầu Thanh Trì đi các tỉnh vùng Đông Bắc; đường vành đai 3, vành

đai 3,5 và trục quốc lộ 1A-1B đi các tỉnh phía Nam; có trạm ga tàu Ngọc Hồi

là đầu mối của tuyến đường sắt Bắc - Nam. Như vậy, huyện Thanh Trì có đủ

các loại đường giao thông: đường sắt, đường bộ, đường thủy nên rất thuận lợi

cho việc giao lưu với các tỉnh trong cả nước. Đây là điều kiện quan trọng để

huyện Thanh Trì phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, huyện Thanh Trì không

chỉ là một vùng sản xuất mà trở thành địa bàn chuyển tiếp các nông sản thực

phẩm, là cửa ngõ nhận các luồng hàng hóa từ các tỉnh phía Nam vận chuyển

đi các tỉnh phía Bắc rất thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với

các quận, huyện của Hà Nội cũng như các địa phương khác trong và ngoài nước.

Huyện có điều kiện khí hậu, đất đai đa dạng thích hợp cho việc chuyển

đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá. Đặc biệt, vùng

bãi đê sồng Hồng rất thích hợp cho việc phát triển các loại rau màu thực

phẩm, nhất là các loại rau sạch phục vụ tiêu dùng của thành phố Hà Nội.

Thanh Trì có tài nguyên đất phù sa màu mỡ, khí hậu nhiệt đới ẩm tạo điều

kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Sự đa dạng về thổ nhưỡng và

truyền thống canh tác lâu đời của người dân là điều kiện tốt cho phát triển

nông nghiệp với tốc độ cao và cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của thị trường. Diện tích đất ngập nước và nửa ngập nước của

huyện khá lớn là điều kiện thuận lợi để Thanh Trì có thể đưa thuỷ sản – chăn

19

nuôi dần trở thành ngành chính trong nông nghiệp.

Thanh Trì có lợi thế sông Hồng chảy qua địa bàn huyện. Không gian mở

và cảnh quan mà sông Hồng tạo ra là nguồn lực không gì so sánh được trong

việc cải thiện hình ảnh của thành phố nói chung và Thanh Trì nói riêng. Với

không gian mặt nước và khu vực ngoài đê có thể tạo ra nhiều cơ hội phát triển

kinh tế: nông nghiệp đô thị, các lĩnh vực nghỉ dưỡng và du lịch.

Thanh Trì có nguồn lao động dồi dào, có nhiều nghề thủ công truyền

thống tinh xảo, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật và tiếp cận sản xuất

hàng hoá. Đây là một lợi thế quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi

cơ cấu cây trồng, vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, là điều

kiện giúp cho huyện tiếp cận nhanh chóng với tri thức khoa học công nghệ

hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương.

Những khó khăn: Là vùng trũng lại chịu ảnh hưởng của nguồn nước thải

của thành phố nên thường bị ngập úng trong mùa mưa, bên cạnh đó sự ô

nhiễm từ nghĩa trang Văn Điển và một số nhà máy đã làm hạn chế khả năng

sản xuất nông sản sạch; hạn chế khả năng thu hút phát triển các hoạt động

dịch vụ.

Trình độ chuyên môn của người lao động chưa qua đào tạo hoặc chỉ qua

các khóa đào tạo ngắn hạn nên việc tiếp nhận khoa học kỹ thuật cũng như

chuyển đổi nghề nghiệp cho lao dộng trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị

hoá sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy phát triển cao nhưng quy mô các ngành

nghề kinh tế còn hạn chế, sức cạnh tranh thấp, chưa khai thác được hết những

tiềm năng và lợi thế để phát triển.

Là huyện có tốc độ đô thị hóa cao nên các quy hoạch, chính sách đầu tư

cần có sự bổ sung, điều chỉnh kịp thời nên đã tạo ra áp lực trong xử lý điều

hành của các cấp chính quyền và đồng thời cũng tạo ra yếu tố tâm lý thiếu

20

tính ổn định cho người dân trong quá trình sử dụng đất và đầu tư phát triển.

Đi đôi với quá trình đô thị hóa thì tất yếu đất nông nghiệp bị giảm trong khi

việc chuyển đổi nghề, tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp cho người dân bị

thu hồi đất chưa kịp thời nên sẽ phát sinh nhiều yếu tố phức tạp khác ảnh

hưởng đến đời sống dân sinh, an ninh trật tự xã hội...

1.1.1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp huyện Thanh Trì trước năm 2006

Thực hiện Nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày 06-11-2003 của Chính

phủ, huyện Thanh Trì đã chuyển giao 09 xã cùng với 5 phường của quận Hai

Bà Trưng để thành lập quận mới Hoàng Mai. Hiện nay, huyện Thanh Trì còn

15 xã và 01 thị trấn gồm: Tân Triều, Thanh Liệt, Tam Hiệp, Tứ Hiệp, Tả

Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Liên Ninh, Đông Mỹ, Ngọc

Hồi, Ngũ Hiệp, Vạn Phúc, Yên Mỹ, Duyên Hà và thị trấn Văn Điển.

Ngay sau khi tách 09 xã của Thanh Trì để thành lập quận Hoàng Mai,

mặc dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình kinh tế - xã

hội trong nước cũng như của thành phố Hà Nội còn rất nhiều khó khăn, đặc

biệt huyện có nhiều biến động về công tác cán bộ, về tổ chức cơ sở đảng

nhưng với khí thế và quyết tâm, có Nghị quyết Đại hội Đảng soi đường, Đảng

bộ và nhân dân huyện Thanh Trì đã dấy lên phong trào thi đua trên tất cả các

lĩnh vực kinh tế, xã hội. Huyện đã tập trung điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ra nghị

quyết tăng cường đầu tư có trọng tâm, chọn lọc, xây dựng các chương trình

phát triển kinh tế theo 4 vùng trọng điểm:

Vùng 1 là các xã ven đô gồm Tân Triều, Tam Hiệp, Thanh Liệt, Thị trấn

Văn Điển, Tứ Hiệp, phát triển kinh tế theo cơ cấu dịch vụ - thương mại – tiểu

thủ công nghiệp – nông nghiệp.

Vùng 2 là các xã ngoài bãi gồm Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc, là vùng

21

sản xuất rau, chăn nuôi, phát triển kinh tế theo cơ cấu nông nghiệp – dịch vụ.

Vùng 3 gồm các xã Đại Áng, Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh,

Đông Mỹ, là các vùng nuôi trồng thủy sản và trồng lúa, phát triển kinh tế theo

cơ cấu nông nghiệp – dịch vụ - thương mại – công nghiệp.

Vùng 4 gồm các xã Ngọc Hồi, Liên Ninh, Ngũ Hiệp, là vùng sản xuất

công nghiệp hóa và đô thị hóa, phát triển kinh tế theo cơ cấu công nghiệp –

tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ - thương mại – nông nghiệp.

Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 10 năm 2000, Đại hội Đảng bộ huyện

Thanh Trì lần thứ XX đã được tổ chức. Đại hội đã đưa ra mục tiêu chính

trong giai đoạn 2000 - 2005 là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa

nông nghiệp và nông thôn; tập trung phát triển tăng trưởng kinh tế đảm bảo

cơ cấu: nông nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại dịch

vụ; Phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế gắn liền với củng cố

quan hệ sản xuất; coi trọng quy hoạch, quản lý đất đai, xây dựng, tăng cường

cơ sở hạ tầng, đô thị và nông thôn mới; Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

cho nhân dân” [2.tr 363]. Nghị quyết của Đại hội cũng nêu rõ hướng đột phá

đến năm 2005 là “Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông

thôn ứng dụng khoa học công nghệ, cây trồng vật nuôi giá trị kinh tế cao, mở

rộng thị trường, tạo ra được điều kiện hướng dẫn tiêu thụ và chế biến nông

sản [6.tr 8].

Qua 5 năm (2000 - 2005), được sự quan tâm lãnh đạo của Ban thường

vụ Thành ủy Hà nội, Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện đã chỉ đạo các cấp ủy

Đảng, chính quyền, đoàn thể khắc phục khó khăn thực hiện thắng lợi các mục

tiêu kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ

vững ổn định. Kinh tế tăng trưởng 12,3%, năng xuất lúa vụ chiêm xuân đạt

52,6 tạ/ha, ngăn chặn dập dịch cúm gia cầm đạt hiệu quả. Công tác chuyển

đổi cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi có chuyển biến tích cực, sản xuất nông

22

nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tiến bộ, đã

tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm

là 14%/năm (tăng 3% so với kế hoạch). Cơ cấu kinh tế nông thôn đạt một

bước chuyển dịch quan trọng. Giá trị sản xuất năm 2005 đạt 55 triệu đồng/ha.

Thu nhập bình quân đạt 6 triệu đồng/người/năm (tăng 2,6 triệu

đồng/người/năm so với kế hoạch). Đời sống vật chất, tinh thần của người dân

ngày càng được cải thiện.

Về trồng trọt, Huyện đã mạnh dạn ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ

thuật phục vụ phát triển sản xuất, đưa các giống cây trồng có năng suất cao,

chất lượng tốt, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở địa phương. Huyện đã

chủ động đưa giống lúa có chất lượng, năng suất cao vào sản xuất như các

giống lúa lai khang dân, DDV108, LT2 và Khao 85; cây ngô được lựa chọn

giống ngô lai DK888, Q5, Q6, VN10, VN20; cây lạc được trồng ở các xã

vùng bãi để thay cho một phần diện tích ngô đông. Các xã Lĩnh Nam, Yên

Mỹ, Duyên Hà trồng thí điểm 7,5 ha rau an toàn trong nhà lưới (trong đó,

huyện hỗ trợ kinh phí trồng 5,2 ha); xã Vĩnh Tuy trồng 2,7 ha hoa cao cấp.

Năm 2003, giá trị thu nhập bình quân trên 1 ha canh tác đạt 57 triệu đồng,

tăng 1,5 triệu đồng so với năm 2002, trong đó, một số cây cho năng suất vượt

trội như rau an toàn 152 ha, sản lượng đạt 3.240 tấn, lạc 114 ha trong đó có 65

giống lạc L15, hoa cây cảnh 85 ha, ngô 466 ha, năng suất đạt 35 tạ/ha, sản

lượng đạt 21.479 tấn. Đến năm 2004, tổng diện tích gieo trồng toàn huyện là

5.521,7 ha, trong đó, diện tích trồng lúa là 3.938,2 ha, diện tích trồng ngô là

384,8 ha, diện tích trồng rau đậu các loại là 1.116 ha. Huyện làm dự án sản

xuất rau an toàn có thương hiệu bằng mã vạch ở xã Yên Mỹ được 70 ha; đưa

cây đậu tương vụ đông vào trồng trên đất hai vụ lúa được 129,2 ha cho năng

suất 1,1 tấn/ha [2.tr 369].

Về chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản: Huyện đã thực hiện tốt chính sách

23

hỗ trợ kinh phí, đầu tư vốn xây dựng hạ tầng các khu nuôi trồng thủy sản,

trang trại chăn nuôi tập trung, đồng thời Hội Khuyến nông tổ chức cho nông

dân tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi nhằm đem lại hiệu

quả kinh tế cao. Dự án chuyển khu chăn nuôi gia súc, gia cầm ra ngoài đồng

ruộng tại thôn Siêu quần, xã Tả Thanh Oai được triển khai có kết quả. Năm

2004, đàn lợn có 31.954 con, tăng 7,5%; đàn trâu, bò có 1.714 con, tăng

27,1% so với năm 2003. Huyện đã chủ động ứng dụng việc nuôi lái ngoại để

phát triển chăn nuôi lợn theo hướng nạc. Về nuôi trồng thủy sản, Huyện kiên

quyết và mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vốn, hỗ trợ nông dân mua giống mới

(tôm càng xanh, cá chim trắng...), đắp bờ để cải tạo chân ruộng trũng nuôi

trồng thủy sản, liên doanh, liên kết, mở rộng quan hệ với Trung tâm giống

tôm Quý Kim (Hải Phòng), giống thủy sản Hà Nội, Tổng công ty cơ khí thủy

lợi để hướng dẫn kỹ thuật cho người sản xuất, mở rộng diện tích nuôi tôm he

chân trắng, cá rô phi đơn tính... vào nuôi thí điểm và nuôi ghép đại trà. Năm

2001, Huyện đã đầu tư 2,65 tỷ đồng và cho nông dân vay 50 tỷ đồng; năm

2002 và 2003 đầu tư 2,2 tỷ đồng. Năm 2001, Huyện chuyển đổi được 65,5 ha

ruộng trũng sang nuôi trồng thủy sản, năm 2002, chuyển đổi 60 ha, năm 2003

chuyển đổi 45 ha. Năm 2003, diện tích nuôi trồng thủy sản 1.029,7 ha, sản

lượng cả năm đạt 4.600 tấn, tăng hơn 240 tấn so với năm 2002. Đến năm

2004, diện tích nuôi thủy sản tăng thêm 30 ha do chuyển từ chân ruộng trũng

trồng lúa năng suất thấp sang [2.tr 368].

Nhờ sự chỉ đạo tích cực của lãnh đạo huyện, sự chủ động của cơ sở và

nông dân trong sản xuất, kinh doanh nên trong nông nghiệp, việc chuyển đổi

cơ cấu vật nuôi, cây trồng diễn ra đúng hướng cho giá trị kinh tế lớn. Giá trị

thu nhập bình quân trên 1 ha canh tác tăng từ 52 triệu đồng năm 2004 lên 55,5

triệu đồng năm 2005.

Như vậy, mặc dù còn nhiều khó khăn song Đảng bộ và nhân dân huyện

24

Thanh Trì đã cố gắng khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế,

trong đó nông nghiệp là trọng điểm với quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ

cấu giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, đổi mới kỹ thuật, đưa tiến bộ

khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Do đó, sản xuất nông nghiệp huyện

cũng đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Đời sống của nhân dân ngày càng

được nâng cao.

Nhìn chung trước năm 2006, nền kinh tế nông nghiệp của huyện Thanh

Trì đã có sự phát triển, song tốc độ vẫn còn chậm; việc chuyển đổi cơ cấu cây

trồng vật nuôi chưa thực sự mạnh; dịch vụ thương mại còn nhỏ. Kinh tế nông

thôn ở các địa phương còn nặng thuần nông, chưa có nhiều nông sản hàng

hoá; đặc biệt là chưa đầu tư thoả đáng cho việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật

vào sản xuất, thiếu chính sách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, chưa

có chính sách sử dụng đúng đắn thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân;

việc sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp còn ít và kém hiệu quả. Trình độ kỹ

thuật và trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ

động và hợp lý cho cây trồng, chưa cung ứng đủ công cụ, vật tư cần thiết cho

nông nghiệp. Trong khi đó, tiềm năng lao động, đất đai, sông ngòi…chưa

được tận dụng, khai thác triệt để. Thu nhập của người dân chủ yếu từ nông

nghiệp nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn.

Tất cả những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại trong việc lãnh đạo

phát triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn trước năm 2006 là cơ sở, là những

kinh nghiệm quý báu để Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo kinh tế nông

nghiệp trong những năm tiếp theo.

1.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện

Thanh Trì

1.1.2.1. Khái quát đường lối, chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp

của Đảng và Đảng bộ thành phố Hà Nội

25

* Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã kiểm điểm

đánh giá thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-

2005, trên lĩnh vực nông nghiệp, Đảng chỉ rõ những thành tựu đạt được 5 năm

2001-2005 và được coi là khá quan trọng, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế

trong đó đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn

chậm. Để hoàn thành mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010

trên lĩnh vực nông nghiệp, Đại hội khẳng định: “Phải luôn luôn coi trọng đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây

dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền

vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao” [44, tr.17].

Đại hội nhận định: trong thời gian tới đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn

với phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy, cần: “phải phát triển toàn diện nông

nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo

hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và

thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ

khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,

chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa

phương” [44, tr.29].

Thực hiện chương trình công tác toàn khoá, từ ngày 09 đến ngày

17/7/2008, BCH TW khóa X đã họp Hội nghị lần thứ 7. Tại hội nghị, Trung

ương đã nghe và thảo luận các đề án do Bộ Chính trị trình; quyết định ban

hành các Nghị quyết và kết luận những vấn đề quan trọng nhằm tiếp tục cụ

thể hoá Nghị quyết Đại hội X, đưa Nghị quyết Đại hội X vào cuộc sống. Ngày

5/8/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ký ban hành Nghị quyết số 26 -

NQ/TW về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”(tam nông) do Hội nghị BCH

Trung ương Ðảng lần thứ 7 thảo luận và thông qua. Nghị quyết nhấn mạnh

26

nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc

dân. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp

nguyên liệu chủ yếu cho công nghiệp và xuất khẩu; tạo việc làm và thu nhập

cho đa số người dân. Nông thôn là môi trường sống, nơi bảo tồn và phát triển

các truyền thống văn hoá dân tộc. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân là nhiệm vụ chiến lược, là cơ

sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội, sự phát triển hài hoà và bền

vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đặt ra mục tiêu

không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn.

Nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến

trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.

Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền

vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng

cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt

và lâu dài.

Nghị quyết đã đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là: Tốc độ tăng

trưởng nông lâm thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm, duy trì diện tích đất trồng lúa đủ

bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài; kết hợp

nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ

bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện

nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động,

tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông

thôn mới khoảng 50%. Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn;

đẩy mạnh giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai

cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi

27

nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao

năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng

tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân các vùng thường xuyên bị ngập lũ.

Đồng thời, Nghị quyết đã xác định rõ 7 nhóm chủ trương, giải pháp cần tập

trung chỉ đạo thực hiện, trong đó cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản

lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị-xã hội ở nông

thôn, nhất là Hội nông dân...

Mục tiêu trước mắt đến năm 2010: tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản

xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở

đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

nông thôn, nhất là vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và

chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến tạo bước đột phá trong đào tạo nhân

lực; tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị xã hội.

* Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội:

Từ ngày 21 – 23/12/2005, Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành

phố Hà Nội được tiến hành trọng thể. Đại hội khẳng định: Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân Thủ đô đã vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng,

nỗ lực phấn đấu, đưa sự nghiệp đổi mới Thủ đô đạt được nhiều thành tựu to

lớn, toàn diện, đúng định hướng, tạo được sự chuyển biến căn bản trong đời

sống xã hội, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Đến

tháng 4/2006, tại Hội nghị lần thứ ba BCH Đảng bộ Thành phố khóa XIV họp

và đề ra 4 chương trình công tác lớn với việc “chú trọng các giải pháp đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu cây trồng, vật nuôi

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tập trung xây dựng quy hoạch

phát triển ngoại thành” [1, tr 26].

Chương trình số 05-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội, ngày 10/5/2006 về

phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn giai đoạn

28

2006 – 2010 đề ra mục tiêu: “Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5

năm (2006 - 2010) đạt 15%/năm; chuyển từ tăng trưởng về số lượng sang

nâng cao về chât lượng và tăng nhanh giá trị sản xuất trên một đơn vị diện

tích. Đẩy mạnh tốc độ phát triển khu vực công nghiệp và dịch vụ để tạo sự

phân công và thu hút lao động, tạo nhiều việc làm mới. Đưa giá trị sản xuất

nông nghiệp bình quân đạt trên 70 triệu đồng/ha”[109, tr 77].

Thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội (khóa VII), từ ngày 01/8/2008,

thủ đô Hà Nội được điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính, diện tích tự nhiên là 3.344,7 km2, dân số trên 6,32 triệu người, trong đó 88,3% diện tích

và 63,5% dân số sống ở khu vực nông thôn; diện tích đất nông nghiệp và đất

rừng là 192,2 ngàn ha đã mở ra triển vọng lớn để Hà Nội phát triển nhanh,

toàn diện và bền vững. Đối với nền kinh tế nông nghiệp, tiếp thu Nghị quyết 7

của Trung ương Đảng, trong Chương trình công tác của Ban chấp hành Đảng

bộ thành phố Hà Nội đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành, từng

bước hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006 – 2010:“Đầu tư xây dựng kết cấu

hạ tầng nông thôn theo hướng hiện đại, chú trọng các dự án giao thông, xử lý

nước thải và môi trường, thủy lợi, nước sạch và các công trình phúc lợi xã

hội phục vụ cho đời sống nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thu hút

đầu tư có trọng điểm, mở thêm các khu công nghiệp mới, phát triển mạnh

trung tâm công nghiệp và làng nghề; phát triển, cải tạo và nâng cao chất

lượng mạng lưới thương mại ở nông thôn, xây dựng các cụm dịch vụ thương

mại ở thị trấn, thị tứ. Hình thành rõ nét các điểm, vùng sản xuất hàng hóa tập

trung theo hướng nông nghiệp sinh thái, sản xuất sản phẩm chất lượng cao và

an toàn”[121, tr 78].

Ngày 31/10/2008, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 02-

Ctr/TU về thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW hội nghị BCH TW lần thứ bảy

(khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mục tiêu tổng quát và lâu dài

29

về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là “Xây dựng nền nông nghiệp

Thủ đô phát triển theo hướng gắn với phát triển đô thị sinh thái và du lịch,

dịch vụ; sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả

năng cạnh tranh cao, hài hòa và bền vững với môi trường” [111, tr 253].

Đảng bộ Thành phố đã nhấn mạnh việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng

kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; tiếp tục khôi phục và

mở rộng các làng nghề truyền thống có lợi thế về nguyên liệu, phát triển các

nghề mới. Quy hoạch và triển khai các dự án chuyển đổi nghề ở nông thôn

đối với những xã có tốc độ đô thị hóa nhanh. Gắn hiện đại hóa công nghệ với

xử lý môi trường trong sản xuất ở các cụm công nghiệp chế biến, giất mổ gia

súc gia cầm, chế biến rau quả; trước mắt triển khai xây dựng 3-4 cơ sở giết

mổ, chế biến gia súc, gia cầm; 2 cơ sở sơ chế, chế biến rau, quả tập trung với

quy mô hiện đại, tạo tiền đề cho việc tổ chức lại hệ thống sản xuất, giết mổ

gia súc gia cầm trên địa bàn thành phố”. Chuyển dịch cơ cấu cây nông nghiệp

cũng được nêu rõ phấn đấu đến năm 2010 chuyển đổi tối thiểu 30% diện tích

trồng lúa nước sang các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Phát

triển mạnh các loại hình nông nghiệp đô thị sinh thái, thương mại, dịch vụ và

du lịch; mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của nhân dân và yêu cầu xuất khẩu. Chăn nuôi phát triển theo hướng chăn

nuôi lợn nạc, bò thịt chất lượng cao và gia cầm an toàn dịch bệnh. Mở rộng

diện tích nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, Đảng bộ Thành phố quan tâm đến

việc chuyển dịch cơ cấu lao động, chú trọng đến chất lượng lao động như sức

khỏe, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thái độ học tập, kiến thức pháp

luật, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho cả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;

cho cả nông nghiệp, công nghiệp; tổ chức sản xuất tập trung trong nông

nghiệp, áp dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái. Tạo các vùng

chuyên canh quy mô lớn phù hợp với yêu cầu của công nghiệp chế biến, tiếp

30

cận với thị trường trong nước và quốc tế; phát triển có hiệu quả kinh tế trang

trại; mở rộng giữa các khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư, liên

doanh, liên kết, chuyển giao kỹ thuật, sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.

Từ ngày 25 đến ngày 28/10/2010, Đại hội đại biểu lần thứ XV Đảng bộ

thành phố Hà Nội đã khai mạc trọng thể. Đại hội nêu rõ phương hướng,

nhiệm vụ trong 5 năm (2010 – 2015) là tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, phát

huy tiềm năng, lợi thế của Thành phố, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu

kinh tế, coi trọng cả việc mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng, hiệu quả,

sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, Đại hội nêu

rõ: “Quan tâm phát triển nông ngiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa

sử dụng kỹ thuật cao, có năng suất, chất lượng cao gắn với mục tiêu phát

triển nông nghiệp sinh thái, môi trường bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản

và dịch vụ nông nghiệp” ”[117, tr 84]. Đại hội cũng nhấn mạnh việc sớm hình

thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh quy mô hợp lý, gắn với công

nghiệp chế biến; xây dựng các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc tập trung theo

quy hoạch; mở rộng diện tích rau an toàn, rau có giá trị kinh tế cao; tăng diện

tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả; tập trung đầu tư, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp và chế biến,

tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nông dân; tiếp tục bảo vệ, chăm sóc diện tích

rừng hiện có, phát triển kinh tế rừng gắn với phát triển du lịch; phấn đấu tốc

độ tăng giá trị nông nghiệp đạt bình quân 1,5 – 2%/năm.

Thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn

mới, Đảng bộ thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả quan trọng, cơ

cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng chăn

nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo

31

hướng hiệu quả: diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả đặc sản tiếp tục

được mở rộng. Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất được

coi trọng; hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa

tập trung cho năng suất và giá trị thu nhập cao.

1.1.2.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện

Thanh Trì

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và thành phố Hà Nội, từ

ngày 22 – 24/9/2005, huyện Thanh Trì tiến hành Đại hội Đảng bộ Huyện lần

thứ XXI (nhiệm kỳ 2005 – 2010), đề ra mục tiêu phát triển kinh tế nông

nghiệp: “Xây dựng nền nông nghiệp đô thị - sinh thái an toàn bền vững. Đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ mới - công nghệ sinh học. Tăng trưởng kinh tế: từ

14 đến 15%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 2,5%/năm. Diện tích chuyển

dịch cơ cấu, chuyển đổi cây trồng vật nuôi đạt: 430 ha (trong đó nuôi trồng

thuỷ sản là 130 ha”[2, tr 385-386].

Để đạt được những mục tiêu trên, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp

cho chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp là tập trung chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị - sinh thái, chuyển

đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi mũi nhọn là thuỷ sản, rau an toàn. Phát triển

kinh tế trang trại, chuyển dần chăn nuôi ra khỏi khu dân cư theo hướng sản

xuất hàng hoá và bảo đảm môi trường. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các

HTX dịch vụ nông nghiệp theo hướng: kinh doanh - dịch vụ tổng hợp. Giá trị

sản xuất nông nghiệp trên một ha đất nông nghiệp đến năm 2010 đạt 75 - 80

triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 9 triệu đồng/người/năm.

Mũi nhọn trọng tâm để phát triển kinh tế nông nghiệp là đẩy nhanh tiến

độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong

sản xuất nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp một cách toàn diện và đa dạng,

đồng thời mở rộng diện tích cây vụ đông; phát triển chăn nuôi theo hướng kết

32

hợp chăn nuôi kiểu truyền thống với chăn nuôi theo kiểu công nghiệp và đưa

chăn nuôi dần trở thành ngành sản xuất chính; tích cực chuyển đổi nhanh cơ

cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ thuần nông sang sản xuất hàng hoá đa

dạng; đồng thời đẩy nhanh tốc độ khôi phục ngành nghề truyền thống và mở

mang ngành nghề mới nhằm làm chuyển biến việc phân công lao động và

nâng cao đời sống nhân dân.

Bám sát nội dung Nghị quyết Trung ương 7 và Chương trình 02 của

Thành uỷ, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ

XXI (nhiệm kỳ 2005 – 2010), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XXI đã

chỉ đạo xây dựng và ban hành, thực hiện 08 Chương trình công tác, trong đó

có Chương trình số 01-CTr/HU ngày 10/4/2006 về “Tập trung đầu tư có trọng

điểm hạ tầng cơ sở, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi,

chuyển đổi ngành nghề, phát triển làng nghề, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh

tế của huyện”. Chương trình nêu rõ mục tiêu đầu tư có trọng điểm kết cấu hạ

tầng đi trước một bước nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng

vật nuôi, phát triển ngành nghề, phát triển kinh tế, phấn đấu đạt và vượt các

chỉ tiêu: Tăng trưởng kinh tế trên 14 – 15%, đến năm 2010 đạt cơ cấu kinh tế

công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Để đạt mục tiêu về phát triển kinh tế

nông nghiệp, BCH Đảng bộ huyện khóa XXI đã đề ra các giải pháp về quy

hoạch, về đầu tư, về chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

phát triển ngành nghề, cụ thể là tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển

đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có trọng tâm, theo quy hoạch, tập trung vào hỗ

trợ xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa.

Mở rộng chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu của sản phẩm nông nghiệp

an toàn và tiếp cận thị trường để nâng cao giá trị kinh tế. Xây dựng chính sách

cho phép mở rộng đối tượng đầu tư bao gồm các nhà đầu tư trong và ngoài

nước trực tiếp đầu tư các dự án phát triển trang trại, du lịch sinh thái. Qui

33

hoạch và chỉ đạo triển khai dự án chuyển chăn nuôi ra ngoài khu dân cư, khu

chuyển đổi ngành nghề và làng nghề ở các xã như: Hữu Hòa, Vạn Phúc, Đông

Mỹ, Tam Hiệp, Đại Áng…

Ngày 10/11/2008, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Chương

trình số 17-CTr/HU về thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của BCH TW (khoá

X) về “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn”. Chương trình đã đánh giá thực

trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn huyện và đề ra mục tiêu,

nhiệm vụ và giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông

dân. Mục tiêu chung là xây dựng nông nghiệp của huyện theo hướng hiện đại,

gắn với đô thị sinh thái, sản xuất hàng hoá thành vùng tập trung, có năng suất,

chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao và bền vững với môi trường.

Mục tiêu đến năm 2010 là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông

nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống cho nhân dân, phấn đấu giá trị

sản xuất nông nghiệp đạt trên 80 triệu đồng/ha/năm. Đảng bộ Huyện đã đề ra

những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể xây dựng nền nông nghiệp phát triển theo

hướng hiện đại, công nghệ cao gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ; duy

trì vùng sản xuất lúa năng suất, chất lượng cao khoảng 600 ha tại các xã Vĩnh

Quỳnh, Đại áng, Tả Thanh Oai; xây dựng vùng sản xuất rau an toàn, cây dược

liệu với diện tích trồng rau khoảng 200ha, trồng dược liệu khoảng 50 ha tại 3

xã (Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc) với quy trình sản xuất kỹ thuật, đảm bảo

sản phẩm có thương hiệu, quản lý bằng mã vạch, cung cấp cho thị trường

Thành phố; duy trì và xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung kết hợp

với du lịch sinh thái, diện tích khoảng 400 ha tại 4 xã (Đông Mỹ, Tứ Hiệp,

Đại áng, Tả Thanh Oai), chuyển dần hình thức chăn nuôi bằng nước thải sang

nuôi bằng nước sông Hồng, thâm canh cao, xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ

sản tập trung, an toàn vệ sinh thực phẩm. Phát triển ngành chăn nuôi theo

phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, nuôi tập trung

34

theo quy mô trang trại xa khu dân cư. Chăn nuôi lợn, gia cầm tập trung tại các

xã Tả Thanh Oai, xã Hữu Hoà, xã Vĩnh Quỳnh, xã Đại áng. Chăn nuôi bò thịt,

bò sinh sản tại các xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà, xã Vạn Phúc. Phát triển các hoạt

động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn các xã như: dệt

Tân Triều, chế biến nông sản Hữu Hoà, làm bánh trưng, bánh dày Duyên Hà,

mây tre đan Vạn Phúc. Phát triển các ngành nghề mới trong nông thôn ở các

xã Tam Hiệp, xã Đại áng... Tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào

sản xuất, tạo điều kiện tiêu thụ nông sản và sản phẩm làng nghề, tăng cường

sự liên kết, phối hợp với các Viện nghiên cứu khoa học, các trường Đại học

để tạo điều kiện cho nông dân ứng dụng những tiến bộ về khoa học kỹ thuật,

những giống mới về cây trồng, vật nuôi, quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế

biến, để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất [85.tr 9].

Mặc dù phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn

cầu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhưng biết phát huy tiềm năng và

lợi thế, vượt lên mọi thách thức, Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Trì nỗ

lực, quyết tâm phấn đấu triển khai thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ

do Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXI đề ra, xây dựng

huyện phát triển toàn diện, vững chắc.

1.2. Quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ

huyện Thanh Trì

1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

là một trong những nội dung cơ bản thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn và là phương hướng phát triển nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH đất

nước. Vì vậy, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của BCH TW Đảng

khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”(tam nông) đã xác định các

35

vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn

với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ

mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của

quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở

công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển

toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. Nhiệm vụ đặt ra là xây dựng

nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh

công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành nông nghiệp có ý nghĩa cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình

chuyển nền nông nghiệp từ độc canh cây lương thực sang nền nông nghiệp đa

dạng, có nhiều nông sản hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng và cho sản xuất công

nghiệp, làm cơ sở vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi CNH, HĐH đất nước.

Với đặc trưng là huyện thuần nông, ngay sau khi có chủ trương của

Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Thanh Trì đã tiến

hành khẩn trương thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp theo hướng tích cực. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp là việc

chuyển từ trồng cây này sang cây khác, chuyển từ trồng trọt sang chăn nuôi,

chuyển từ trồng trọt sang nuôi trồng thủy sản, chuyển từ trồng trọt sang trang

trại tổng hợp, từ nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả sang trồng hoa, cây cảnh

trên cơ sở đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiệu quả kinh tế cao.

Đảng bộ Thanh Trì tập trung chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, tăng

dần tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích

canh tác. Huyện đã duy trì và phát triển các vùng sản xuất tập trung, xây dựng

và nhân rộng các mô hình kinh tế hiệu quả cao; ban hành chính sách hỗ trợ

36

phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, kinh doanh hoạt

động ổn định; có chính sách hỗ trợ kịp thời, khắc phục thiệt hại do thiên tai,

khôi phục sản xuất.

Năm 2006, Huyện giành ngân sách 3 tỷ đồng để hỗ trợ nông dân chuyển

đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đã chuyển đổi được 124,47 ha ruộng cấy lúa

sang nuôi trồng thủy sản, sản xuất vùng rau an toàn quản lý bằng mã vạch tại

xã Yên Mỹ, hỗ trợ giống đỗ tương đông, hoàn thành giai đoạn II dự án khu

chăn nuôi tập trung ngoài khu dân cư tại xã Tả Thanh Oai. Hỗ trợ hoa màu bị

thiệt hại do trận mưa đá, lốc xoáy ngày 20/11/2006. Năm 2007, Huyện tiếp

tục giành 2,5 tỷ đồng để hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông

nghiệp, đã chuyển đổi 50 ha đất nông nghiệp sản xuất kém hiệu quả sang nuôi

trồng thủy sản, trồng hoa cây cảnh, cây ăn quả, hỗ trợ lúa mới tại xã Vĩnh

Quỳnh và Tả Thanh Oai. Hoàn thành giai đoạn I xây dựng thương hiệu bánh

trưng, bánh dày tại xã Duyên Hà. Hoàn thành giai đoạn I lấy nước sông Hồng

qua trạm bơm Hồng Vân phục vụ sản xuất nông nghiệp 5 xã phía Tây-Nam

của huyện. Năm 2008, Huyện tiếp tục giành 1,5 tỷ đồng hỗ trợ nông dân phát

triển kinh tế, chuyển đổi cây trồng vật nuôi, tổ chức hội chợ giới thiệu sản

phẩm tại Trung tâm thương mại Thanh Trì, mở lớp dạy nghề mây, tre đan xã

Vạn Phúc. Do đợt rét đậm, rét hại đầu năm gây thiệt hại, Huyện giành 3,2 tỷ

đồng hỗ trợ thiệt hại về mạ, rau muống và thủy sản. Bàn giao dự án làng nghề

Tân Triều, thực hiện xã hội hóa hệ thống cấp nước, nhà giới thiệu sản phẩm,

bãi đỗ xe, dự kiến đấu giá quyền sử dụng đất vào quí II/2008. Tiếp tục thực

hiện giai đoạn II thương hiệu bánh trưng, bánh dày quản lí bằng mã vạch xã

Duyên Hà, xây dựng vùng sản xuất thủy sản chất lượng tại xã Đông Mỹ.

Huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng bình quân (từ

01/2006 đến 11/2009) đạt 17,1% vượt 3,1% so với Nghị quyết Đại hội XXI

đề ra. Thu nhập bình quần đầu người 12,3 triệu đồng/năm (kế hoạch là 9 triệu

37

đồng/năm). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Cơ cấu trong nông

nghiệp: tiếp tục tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản, giảm tỷ trọng

ngành trồng trọt. Năm 2006, tỷ trọng ngành trồng trọt là 42,2%, đến năm

2010 giảm còn 38,4%; tỷ trọng trong chăn nuôi và thủy sản năm 2006 là

57,8% đến năm 2010 tăng lên 61,6%. Giá trị sản xuất trên l ha đất nông

nghiệp năm 2006 đạt 55 triệu đồng, đến năm 2010 đạt 70,7 triệu đồng. Tiếp

tục có chính sách khuyến khích hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng

vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ thiệt hại về mạ, rau màu,

thủy sản do thời tiết, thiên tai gây hại (tổng số tiền từ năm 2006 - 2009 là

24.666.608.000 đồng) [59, tr 2].

Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh và ảnh hưởng của quá

trình đô thị hoá làm giảm diện tích đất nông nghiệp (trong 5 năm 2006 – 2010

đã thu hồi 121,5 ha), nhưng sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển theo

hướng: giảm tỷ trọng trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi - thuỷ sản.

Huyện Thanh Trì đã chủ động hỗ trợ kinh phí và tập trung chỉ đạo các xã, các

hợp tác xã, các hộ nông dân tổ chức sản xuất nông nghiệp, khôi phục sản xuất

sau úng ngập, đảm bảo ổn định sản xuất; tăng cường công tác phòng chống

dịch bệnh, không để dịch bệnh gia súc, gia cầm phát sinh trên địa bàn huyện;

xây dựng phương án phòng chống hạn, úng ngập; hoàn thành đầu tư mới và

cải tạo được 5.493,5 m kênh mương thuộc hệ thống kênh Hồng Vân và kênh

Đại áng để phục vụ tưới tiêu cho các xã vùng trọng điểm sản xuất lúa của huyện.

* Về trồng trọt:

Huyện đã hỗ trợ nông dân để đưa các giống lúa có năng suất, chất lượng

cao vào sản xuất như: Q5, N46 và các giống lúa tẻ thơm, lúa lai... Trên địa

bàn Huyện đã hình thành được các vùng sản xuất lúa chất lượng cao tập trung

với diện tích gieo cấy trung bình 1.200 ha/năm tăng 480 ha so với bình quân

trước năm 2008 (tập trung tại các xã Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh,

38

Đại Áng); xây dựng vùng sản xuất rau an toàn và cây dược liệu tại các xã

vùng bãi: Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc với diện tích gieo trồng rau các loại

đạt trên 1.000 ha/năm, trong đó, diện tích sản xuất rau được cấp giấy chứng

nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn là 140,5 ha. Năng suất ngô, rau, lạc, đỗ

đều tăng.

* Về chăn nuôi:

Ngành chăn nuôi của huyện phát triển tương đối ổn định. Công tác

phòng chống dịch bệnh được chú trọng, quan tâm. UBND huyện thường

xuyên tổ chức các đợt tập huấn kỹ thuật mới cho người chăn nuôi, chỉ đạo các

xã, thị trấn, các đơn vị tăng cường kiểm tra việc buôn bán, vận chuyển, giết

mổ gia súc, gia cầm, vệ sinh thú y. Tổ chức tốt công tác tiêm phòng cho đàn

gia súc, gia cầm theo đúng kế hoạch, chỉ tiêu Thành phố giao, do vậy không

xảy ra những vụ dịch lớn trên địa bàn.

Tổng đàn trâu, bò năm 2006 là 1.400 con, năm 2010 tăng lên 2.050 con.

Tổng đàn lợn trên 2 tháng tuổi năm 2006 là 26.000 con, đến năm 2010 tăng

lên 27.000 con.

Củng cố và phát triển khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư tại thôn

Siêu Quần với diện tích 6,84 ha, có 33 hộ tham gia, chủ yếu chăn nuôi thủy

cầm lấy trứng. Tổng giá trị sản xuất bình quân của khu chăn nuôi đạt từ

5.000- 8.000 triệu đồng/năm, trừ chi phí khấu hao tài sản, mua vật tư, con

giống, công lao động, thuê đất... cho thu lợi nhuận từ 800 - 1.000 triệu đồng/năm. Bình quân mỗi hộ thu lãi từ 30 đến 50 triệu đồng/hộ/năm/1.500m2.

Xây dựng và nhân rộng mô hình chăn nuôi gà sinh sản an toàn sinh học đã thu

được những kết quả khả quan, sau khi trừ chi phí mô hình cho thu lãi 100

tr.đ/hộ/1.000 con/18 tháng (cao hơn so với phương pháp nuôi gà truyền thống

từ 2,2 đến 2,5 lần); đồng thời tạo việc làm cho 02 lao động/hộ với thù lao 2,5

39

tr.đ/tháng.

* Về thủy sản:

Tổng diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi của huyện là 200 ha,

trong đó chuyển đổi từ trồng lúa 2 vụ bấp bênh sang nuôi trồng thuỷ sản như:

nuôi cá có giá trị kinh tế cao (chép lai, trê lai, rô phi thuần) và nuôi tôm càng

xanh được 152 ha. Huyện luôn chú trọng duy trì, phát triển với diện tích bình

quân hàng năm khoảng 850 ha/năm, sản lượng bình quân đạt 3.400 tấn/năm.

Đã hình thành vùng nuôi thủy sản tập trung 230 ha tại các xã: Đông Mỹ, Tứ

Hiệp, Tam Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Tả Thanh Oai, Đại Áng, năng suất bình quân

đạt 6 - 7 tấn/ha cao hơn so với năng suất bình quân toàn huyện từ 2,5 - 3

tấn/ha. Đặc biệt, xã Đông Mỹ đã tích cực vận động nhân dân đầu tư xây dựng

vùng nuôi trồng thủy sản tập trung gần 100 ha tạo điều kiện chuyển đổi mạnh

cơ cấu sản xuất, nâng cao thu nhập cho nông dân. Với thành tích đó, cùng với

sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân xã Đông Mỹ, xã đã vinh dự

được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang

nhân dân thời kỳ đổi mới ” và là xã 02 lần được phong tặng danh hiệu “Anh

hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Huyện đã hỗ trợ thiệt hại thiên tai cho các hộ chăn nuôi, thuỷ sản để chủ

động đầu tư, khôi phục sản xuất. Đến nay, diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn

huyện đạt 900 ha (trong đó diện tích nuôi tôm là 11 ha). UBND huyện đã phối

hợp chặt chẽ với Chi cục Thuỷ sản chỉ đạo UBND xã Đông Mỹ thực hiện giai

đoạn II mô hình nuôi thuỷ sản tập trung chất lượng cao. Xây dựng mô hình

nuôi cá Chình, cá Vược tại xã Đông Mỹ, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Ngũ Hiệp.

Tiếp tục duy trì hoạt động ổn định, có hiệu quả các vùng nuôi trồng thuỷ sản

tại các xã: Tứ Hiệp, Thanh Liệt, Đại Áng, Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh

* Về công nghiệp và dịch vụ cho nông nghiệp:

Chú trọng đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống góp phần nâng

40

cao thu nhập, giải quyết việc làm cho nhân dân. Đến nay toàn huyện đã được

thành phố công nhận 03 làng nghề truyền thống là: Làng nghề Dệt tại Triều

Khúc xã Tân Triều; làng nghề bánh chưng xã Duyên Hà; làng nghề miến,

bánh đa xã Hừu Hòa. Hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề tập trung

Tân Triều, hiện đã có 38/66 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất.

Hình thành các khu dịch vụ dọc các tuyến đường quan trọng của huyện,

thực hiện Đề án xây dựng chợ nông thôn, hoàn thành đầu tư đưa vào hoạt

động 11 chợ, đang đầu tư xây dựng 05 chợ mới và chuân bị đầu tư 03 chợ;

xóa bỏ các điểm chợ cóc, chợ tạm lấn chiếm lòng, lề đường, đảm bảo vệ sinh

môi trường và văn minh thương mại. Nhìn chung, đến nay các xã trên địa bàn

cơ bản đều đã có chợ (một số xã có 2 - 3 chợ như Vĩnh Quỳnh, Vạn Phúc...)

đáp ứng nhu cầu kinh doanh của người dân.

Đầu tư, xây dựng và đưa cơ sở giết mổ gia súc tập trung xã Vạn Phúc

vào hoạt động; với cơ sở hạ tầng khang trang đã thu hút được 27 hộ/27 gian

tham gia hoạt động giết mổ lợn với công suất trung bình 1.500 con/ngày đêm

và là huyện đầu tiên của Thành phố thành công trong việc xỏa bỏ được 100%

các điểm giết mổ lợn nhỏ lẻ không đảm bảo quy định, nằm xen kẽ trong khu

dân cư; tăng nguồn thu nộp ngân sách nhà nước 6,4 lần so với trung bình

những năm trước; đồng thời thu hút và giải quyết việc làm thường xuyên cho

gần 500 lao động.

Nhờ kết hợp với chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi đã xuất hiện

nhiều mô hình kinh tế trang trại làm ăn có hiệu quả kinh tế cao ở các xã như:

Tân Triều, Tứ Hiệp, Liên Ninh, Tả Thanh Oai, Thanh Liệt. Kinh tế trang trại

phát triển góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, tạo vùng

sản xuất tập trung, tăng giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp. Các trang

trại đều có giá trị sản xuất đạt trên 100 triệu đồng trở lên, đặc biệt một số hộ

có thu nhập cao, thu hút được từ 3 đến 15 lao động thường xuyên tham gia

41

sản xuất.

1.2.2. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp

Triển khai nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các

lĩnh vực, đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp: công nghệ sinh học, công

nghệ tiên tiến trong canh tác, bảo quản, chế biến nông sản, thuỷ sản… Ứng

dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý thương mại. Sử dụng các

giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường một cách đồng bộ đối với các ngành

kinh tế trên địa bàn huyện.

Huyện luôn chú trọng việc chuyển giao ứng dụng các giống mới vào sản

xuất: trong những năm qua đã chuyển giao 201,514 tấn giống lúa chất lượng

cao vào sản xuất như HT6, SH2, TL6, HT9..., chiếm 40 - 45% tổng diện tích

cấy lúa toàn huyện. Chuyển giao được 24 tấn phân bón vi sinh, 230kg thuốc

trừ sâu thảo mộc nhằm giúp các hộ bỏ dần thói quen sử dụng các loại thuốc

bảo vệ thực vật có thời gian cách ly dài ngày, phân vô cơ và tạo tập quán sử

dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật phân bón an toàn với môi trường, người

sử dụng và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Huyện đã chỉ đạo xây dựng thí điểm và nhân rộng nhiều mô hình sản

xuất mới, có hiệu quả kinh tế như mô hình nuôi thủy sản an toàn dịch bệnh,

an toàn thực phẩm; mô hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn GAP; mô hình nuôi

trồng nấm; nuôi gà sinh sản an toàn sinh học; nuôi gà thương phẩm chất

lượng cao; mô hình nuôi ốc nhồi, nuôi cá chình, cá vược, nuôi cá chép giòn...

đã góp phần tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập cho người nông dân.

Từ năm 2010, Huyện đã hỗ trợ 30 - 50% kinh phí mua máy móc (máy

làm đất, máy gặt đập liên hợp, máy cấy, máy phun thuốc động cơ...) cho các

HTX nông nghiệp trên địa bàn để đảm bảo thời vụ sản xuất; đồng thời giúp

các HTX mở rộng ngành nghề phục vụ. Huyện đã đầu tư được 59 máy móc

phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp với 28 máy làm đất; 26 máy động cơ phun

42

thuốc bảo tvệ thực vật, thuốc thú y; 03 máy gặt đập liên hợp; 02 máy cấy tập

trung tại các xã Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Đại áng, Vĩnh Quỳnh. Đặc biệt

trong sản xuất lúa hiện nay, 100% diện tích đã thực hiện cơ giới hoá khâu làm

đất, 20 - 30% diện tích thực hiện cơ giới hóa khâu thu hoạch, phun thuốc bảo

vệ thực vật…

1.2.3. Chú trọng các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp

Bên cạnh nguồn vốn đầu từ ngân sách nhà nước, huyện đã tích cực huy

động các nguồn lực khác cho phát triển nông nghiệp. Hàng năm, ngân sách

huyện đều hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng mô hình điểm về sản xuất

kinh doanh. Tập huấn khuyến nông cho nhân dân. Hoàn thành đầu tư và đưa

vào khai thác sử dụng hạ tầng kỹ thuật vùng sản xuất rau an toàn tại 02 xã

Yên Mỹ, Duyên Hà với tổng mức đầu tư 80 triệu đồng, bước đầu đã cơ bản

cung cấp nguồn nước sạch phục vụ sản xuất rau an toàn. Từ năm 2006 –

2009, Huyện đã giành ngân sách với tổng số tiền là 7.821.608.000 đồng để hỗ

trợ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khôi phục phát triển làng nghề để

góp phần phát triển kinh tế. Đầu tháng 11 năm 2008 do mưa lớn, ngập úng

kéo dài gây thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp, Huyện đã giành

16.845.000.000 đồng để hỗ trợ phát triển sản xuất.

Các HTX nông nghiệp đã huy động được trên 2 tỷ đồng để đầu tư mua

máy móc, trang thiết bị phục vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, sơ chế rau

an toàn; các hộ nông dân đã đầu tư trên 90 tỷ đồng để triển khai thực hiện các

mô hình sản xuất mới, áp dụng các giống mới vào sản xuất, đặc biệt, có hộ

sản xuất đã đầu tư khoảng 5 tỷ đồng để xây dựng mô hình sản xuất nấm trung

tâm hiện đại.

Về nguồn nhân lực, Huyện thường xuyên quan tâm đào tạo, tập huấn,

chuyển giao khoa học kỹ thuật: mở các lớp đào tạo nghề sản xuất rau an toàn

43

theo tiêu chuẩn IPM, VietGAP có cấp chứng chỉ đào tạo nghề. Hàng năm,

huyện đều mở các lớp tập huấn để củng cố kiến thức sản xuất rau an toàn, phổ

biến quy trình kỹ thuật sản xuất lúa theo phương pháp cải tiến SRI, đào tạo

nghề trồng nấm, sản xuất bịch nấm cho các hộ trung tâm, tập huấn kỹ thuật

nuôi trồng thủy sản cho nhân dân. Huyện có chính sách hỗ trợ kinh phí đào

tạo nghề cho các cơ sở sử dụng lao động trực tiếp, đào tạo tại chỗ. Đầu tư cơ

sở vật chất cho trường dạy nghề của huyện, nâng cao trình độ giáo viên,

nghiên cứu bổ sung chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu mới.

1.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp

Giao thông nông thôn:

Đã cơ bản hình thành hệ thống hạ tầng giao thông khung của Huyện, các

trục đường liên xã đã được đầu tư theo hướng đô thị, đã đầu tư xây dựng

nhiều tuyến đường trục quan trọng như: Đường Ngọc Hồi - Đại Áng; Đường

vào bệnh viện Nội tiết; đường phía Đông Khu tưởng niệm danh nhân Chu

Văn An, đường Huyện đội - khu đấu giá Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp; Đường Tam

Hiệp - Vĩnh Quỳnh...; hoàn thành nâng cấp, cải tạo ll,9km đường liên xã, xây

dựng mới cầu Hữu Hòa; tổng mức đầu tư 1.250 tỷ đồng.

Đã hoàn thành nâng cấp, cải tạo 45,6km đường giao thông thôn xóm với

tổng vốn đầu tư 204 tỷ đồng; Phát triển và nhân rộng mô hình "Nhân dân hiến

đất và đóng góp ngày công lao động làm đường làng ngõ xóm ” với 600 hộ tham gia hiến 3.874m2 đất, đóng góp được 20.000 ngày công lao động.

Điện nông thôn:

100% các hộ được sử dụng điện an toàn từ các nguồn thuộc hệ thống

điện lưới quốc gia, 100% số xã trên địa bàn có hệ thống điện đạt chuẩn. 15/15

xã đã được đầu tư hệ thống điện chiếu sáng nông thôn đồng bộ theo tiêu

chuẩn ngành tại các trục đường giao thông thôn, xóm góp phần đảm bảo an

44

ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Về hệ thống thủy lợi:

Hoàn thành đầu tư dự án lấy nước sông Hồng qua trạm bơm Hồng Vân

phục vụ sản xuất, cung cấp nước tưới cho 773,5 ha của các xã: Tả Thanh Oai,

Đại Áng, Vĩnh Quỳnh, Liên Ninh và Ngọc Hồi. Thường xuyên cải tạo nâng

cấp các trạm bơm, kênh tưới, cống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đã

thực hiện kiên cố hóa 28,3km kênh mương cấp 3, đồng thời đang tích cực đẩy

nhanh tiến độ kiên cố hóa 88,2km thủy lợi nội đồng.

Hệ thống mương máng thủy lợi, đê điều, trạm bơm, kênh tiêu được

huyện chỉ đạo các xã thường xuyên kiểm tra, nạo vét đảm bảo tiêu thoát nước;

thực hiện đầu tư gia cố chống sạt lở kè sông Nhuệ; huy động nhân dân đóng góp cải tạo môi trường, kè và làm sạch sông, hồ, ao trên địa bàn (Dự án kè ao

Cửa Đình xã Tân Triều, kè hồ Vĩnh Ninh xã Vĩnh Quỳnh, Kè ao cầu Dạ xã

Tứ Hiệp, cải tạo kè mới bờ ao cây si tại thôn 2 và kè ao chùa Chung Linh tại

thôn 1, xã Vạn Phúc. Dự án Cải tạo, kè hồ Đầm tròn xã Thanh Liệt do Công

ty Bitexco triển khai theo phương thức XHH đang hoàn thiện phần hạ tầng kỹ

thuật. Kêu gọi đầu tư theo hình thức hợp đồng BT đối với 2 dự án cải tạo môi

trường sông Om và sồng Nhuệ).

Nhìn chung, cơ sở hạ tầng ở hầu hết các xã đều đã được cải tạo, nâng cấp

khá đồng bộ, làm thay đổi rõ nét diện mạo nông thôn và đã tác động trực tiếp

đến phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông

45

thôn, thúc đẩy hoạt động văn hoá và phát triển kinh tế.

Tiểu kết chƣơng 1

Là một huyện thuần nông với xuất phát điểm trong phát triển kinh tế

còn thấp, trong những năm 2006 – 2010, huyện Thanh Trì đã tập trung xây

dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, triển khai chính

sách hỗ trợ nhân dân phát triển sản xuất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa

bàn huyện đạt bình quân hàng năm tăng 17,1% (vượt 3,1% so với kế hoạch).

Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 5,5 triệu đồng, đến năm 2010 đạt

13,3 triệu đồng (vượt 4,3 triệu đồng). Sản xuất nông nghiệp phát triển theo

hướng giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi - thuỷ sản. Như vậy,

có thể thấy sản xuất nông nghiệp có bước phát triển khá, đã góp phần ổn định

và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được

vẫn còn những tồn tại, hạn chế: một bộ phận nông dân không thiết tha với

đồng ruộng, sản xuất mang tính tự phát nên không quan tâm đến việc áp dụng

tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, vẫn sử dụng các giống cũ kém chất lượng; công

tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chậm, do nông dân có tâm lý giữ đất

không muốn cho thuê ruộng để chuyển đổi; một số vùng sản xuất tập trung

chưa được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, lực lượng lao động trong sản xuất

nông nghiệp, sản xuất rau an toàn chủ yếu là lao động già và phụ nữ trung

niên do vậy công tác chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật còn gặp nhiều

khó khăn.

Với những thành tựu đã đạt được trong sản xuất nông nghiệp và những

hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện đã tạo nền tảng

để Thanh Trì phát huy thế mạnh của huyện, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh

46

tế nông nghiệp theo đường lối CNH - HĐH mà Đảng đã đề ra.

Chƣơng 2

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH TRÌ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT

TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2010 – 2015

2.1. Yêu cầu mới và chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Thanh Trì

2.1.1. Yêu cầu mới:

Tại Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương Đảng đã đề ra chiến lược phát

triển kinh tế từ năm 2011 đến năm 2020 với quan điểm phải phát triển bền

vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế, đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi trọng

chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng

phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.

Trong định hướng phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,

hiệu quả, bền vững, Đảng nêu rõ: “Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp

nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu

quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất

khẩu nông sản, nâng cao thu nhập, đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an

ninh lương thực quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với

từng loại cây, con. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển gia trại,

trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của

từng vùng” [45, tr 9].

Nghị quyết cũng chỉ rõ cần gắn kết chặt chẽ, hài hòa lợi ích giữa người

sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ, giữa việc áp dụng kỹ thuật và công

nghệ với tổ chức sản xuất, giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông

thôn mới; đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết

là kinh doanh lúa gạo; bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn

từ sản xuất đến tiêu dùng; phát triển hệ thống kho chứa nông sản, góp phần

47

điều tiết cung cầu. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là

đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích

của người trồng lúa và địa phương trồng lúa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa

vụ và giống phù hợp với nhu cầu thị trường và giảm thiệt hại do thiên tai, dịch

bệnh. Ðẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản

xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều

giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và

hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác. Hỗ trợ

phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao. Ðẩy mạnh chăn nuôi theo

phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm chất lượng và an toàn

dịch bệnh. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch, tập trung vào những

sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng

nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chế

biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu vệ

sinh an toàn thực phẩm.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV- nhiệm kỳ đầu

tiên sau khi Hà Nội điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính đã quyết định

những phương hướng, nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế nói chung và

kinh tế nông ngiệp nói riêng nhằm phát triển Thủ đô trong giai đoạn 2010-

2015 và những năm tiếp theo, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

theo hướng hiện đại.

Xác định tầm quan trọng của nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân,

nông thôn và vai trò của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh tế, văn hóa,

xã hội của thành phố và trên cơ sở kế thừa và phát triển Nghị quyết Trung

ương 7, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng Chương trình số 02-CTr/TU về “Phát

triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống

nhân dân giai đoạn 2011-2015”. Chương trình đã đề ra mục tiêu chung là phát

48

triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa tập trung, có năng

suất, chất lượng, hiệu quả cao gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng

nông thôn mới phát triển theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại,

giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái, cảnh quan sạch đẹp, gắn

kết hợp lý giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị.

Từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nông dân. Nông

dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để phát triển sản xuất,

xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc; chú trọng giải quyết việc làm, giảm

dần khoảng cách thu nhập, hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành

thị.Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, giữ vững an

ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông thôn.

Đối với ngành nông nghiệp, Chương trình nêu rõ mục tiêu cụ thể đến

năm 2015 là phấn đấu tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 1,5 - 2%/ năm trở

lên. Giá trị sản xuất nông nghiệp thực tế đạt 231 triệu đồng/ha. Diện tích lúa

hàng hóa chất lượng cao đạt 35%, diện tích trồng rau an toàn tập trung đạt

5.500 ha, diện tích trồng hoa, cây cảnh đạt 2.160 ha, diện tích trồng mới cây

ăn quả chất lượng cao đạt 750 ha, bảo vệ và nâng cao chất lượng diện tích

rừng 23.600 ha. Chăn nuôi ổn định với đàn lợn khoảng 1,4 triệu con, đàn gia

cầm khoảng 15 triệu con, đàn trâu, đàn bò khoảng 200 ngàn con (trong đó bò

sữa 15 ngàn con). Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm đạt trên 400

ngàn tấn. Mỗi năm chuyển đổi được từ 200 - 250ha ruộng trũng trồng lúa kém

hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản.

2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện

Thanh Trì

Phấn khởi bước tiếp chặng đường mới, trong không khí sôi động, tưng

bừng của Thủ đô đang tổ chức các hoạt động chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000

năm Thăng Long - Hà Nội, từ ngày 01 - 03/8/2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ

49

huyện Thanh Trì lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2010 - 2015) được tổ chức với tinh

thần “Đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi mới”. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã

đánh giá kết quả thực hiện những mục tiêu, phương hướng kinh tế - xã hội

của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI (2005 – 2010); nhận định

rõ tiềm năng, thế mạnh cũng như khó khăn, yếu kém còn tồn tại của huyện;

trên cơ sở đó đưa ra những quyết định về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ

và giải pháp trong giai đoạn 2010 – 2015.

Đại hội đã nêu ra mục tiêu trong 5 năm tới: “Huy động, khai thác có

hiệu quả tiềm năng, nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp – Dịch vụ - Nông nghiệp. Phát

triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch, dịch vụ. Tích cực cải thiện và

từng bước nâng cao chất lượng môi trường, tiếp tục đổi mới và nâng cao

năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị từ

huyện đến cơ sở, tạo đồng thuận cao và huy động sức mạnh toàn dân để phấn

đấu cơ bản hoàn thành xây dựng nông thôn mới trên địa bàn” [11, tr 17 ].

Đại hội cũng đề ra chỉ tiêu phấn đấu về tốc độ tăng trưởng kinh tế bình

quân/năm đạt 16% -17%; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới là 65% (10 xã);

thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25 triệu đồng; giá trị sản xuất/ha

đất nông nghiệp năm 2015 đạt 115 triệu đồng. Để đạt được những chỉ tiêu đó

thì Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó về nông nghiệp

và kinh tế nông thôn yêu cầu: các xã, thị trấn triển khai thực hiện đề án phát

triển kinh tế. Phát triển nông nghiệp theo hướng quy mô lớn gắn với đô thị

sinh thái, sản xuất tập trung, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có khả

năng cạnh tranh và đảm bảo tốt với môi trường. Đẩy mạnh công tác chuyển

đổi để khuyến khích phát triển sản xuất lớn trong nông nghiệp. Phát triển kinh

tế trang trại gắn với các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung chất lượng cao kết

hợp dịch vụ sinh thái tại các xã Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Tả Thanh Oai (mở rộng

50

mô hình nuôi cá đặc sản), vùng sản xuất rau an toàn tại các xã Yên Mỹ,

Duyên Hà, Vạn Phúc; phát triển trồng cây dược liệu tại xã Vạn Phúc, Duyên

Hà. Rà soát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vận động nhân dân chuyển đổi

ruộng cấy lúa sang trang trại tổng hợp, trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả, cây

dược liệu. Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đảm

bảo quy trình kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao hiệu quả sử

dụng đất. Khuyến khích nông dân phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp

an toàn, chất lượng cao và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Chỉ đạo củng cố

kiện toàn, tạo điều kiện hỗ trợ để các HTX đổi mới mạnh mẽ và tăng cường

hiệu quả hoạt động. Chủ động và chú trọng thực hiện các chính sách hỗ trợ

cho nông nghiệp, phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Hoàn thành đầu tư phát

triển hạ tầng thủy lợi, giao thông nông thôn. Nghị quyết Đại hội đã xác định

rõ: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng hạ tầng đô thị và

nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm đột phá” [12, tr 18 ].

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XXII, ngay từ

đầu nhiệm kỳ, Huyện uỷ Thanh Trì đã chủ động xây dựng Chương trình số 02

về “Phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới’’ để triển khai trên toàn địa bàn.

Tiếp đó, thực hiện Chương trình số 02-CTr/TU của Thành uỷ Hà Nội, Huyện uỷ

Thanh Trì đã xây dựng, ban hành Kế hoạch số 48-KH/HU ngày 29/3/2012 về

triển khai thực hiện Chương trình 02 của Thành uỷ; chủ động cụ thể hoá, xây

dựng và bổ sung các chương trình, kế hoạch hành động hàng năm và toàn khoá

như: Chỉ thị số 12-CT/HU ngày 23/8/2011 và Chỉ thị số 17-CT/HU ngày

14/4/2012 về tăng cường công tác lãnh đạo trong thực hiện xây dựng nông thôn

mới và dồn điền đổi thửa; Nghị quyết chuyên đề số 18- NQ/HU ngày 28/8/2013

về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác dồn điền, đổi

thửa đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì; các kế hoạch của UBND

huyện thực hiện Nghị Chương trình 02 của Thành uỷ, Kế hoạch thực hiện

51

Chương trình xây dựng nông thôn mới hàng năm, kế hoạch thực hiện dồn điền,

đổi thửa trên địa bàn. Chỉ đạo UBND huyện và các ban, ngành, đoàn thể, các chi

đảng bộ trực thuộc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện, tạo sự

thống nhất cao trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Việc tổ chức nghiên

cứu, quán triệt học tập Chương trình 02 của Thành uỷ được thực hiện nghiêm

túc, sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. HĐND huyện đã ban hành

các Nghị quyết hỗ trợ công tác dồn điền đổi thửa xây dựng đường giao thông nội

đồng trên địa bàn để bổ sung cơ chế hỗ trợ đối với các xã thực hiện dồn điền đổi

thửa, xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch của huyện; đồng thời triển khai các

cuộc giám sát việc thực hiện Nghị quyết của các phòng ban, UBND các xã về

phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và công tác dồn điền đổi thửa để kịp

thời phát hiện chấn chỉnh những điều bất cập, bất hợp lý trong quá trình thực

hiện ở cơ sở. UBND huyện đã kiện toàn Ban chỉ đạo dồn điền đổi thửa; chỉ đạo

các xã tiếp tục kiện toàn và nâng cao hoạt động của Ban chỉ đạo, Ban quản lý

xây dựng nông thôn mới và các tổ công tác xây dựng nông thôn mới xã. Đặc

biệt, trong 04 năm qua, huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả nhiều Đề án có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển bền vững nông nghiệp,

nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Bước đầu thu được những

kết quả quan trọng, một số đề án trở thành điểm sáng của thành phố, được nhiều

địa phương đến tham quan, học tập kinh nghiệm. Cấp ủy, chính quyền từ huyện

đến cơ sở đều nghiêm túc tổ chức việc đánh giá sơ kết hàng năm và giữa nhiệm

kỳ kết quả thực hiện Chương trình 02 của Thành uỷ. Duy trì thực hiện tốt công

tác kiểm tra, giám sát thường xuyên và theo chuyên đề của cấp uỷ, chính quyền

đối với các địa phương trên địa bàn trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,

xã hội, xây dựng nông thôn mới, công tác dồn điển đổi thửa.

Để Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống, tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng

thuận trong xã hội, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã xây dựng 06 chương

52

trình công tác toàn khóa, trong đó có Chương trình 02-CTr/HU ngày

10/3/2011 về “Phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới” đặt ra mục tiêu:

khai thác mọi tiềm năng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động mạnh các

nguồn lực cho đầu tư phát triển, từng bước nâng cao thu nhập của người dân.

Để đạt mục tiêu về phát triển kinh tế nông nghiệp, nhiệm vụ đặt ra là tập trung

chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, khu chăn nuôi tập

trung. Đẩy mạnh phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung chất lượng cao

kết hợp với du lịch sinh thái tại các xã Đông Mỹ, Đại Áng, Tả Thanh Oai, Tứ

Hiệp để thuỷ sản trở thành sản phẩm mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp;

phát triển vùng sản xuất rau an toàn tại các xã Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn

Phúc; vùng trồng cây dược liệu sạch tại xã Vạn Phúc, Duyên Hà; vùng lúa

chất lượng cao tại xã Đại Áng, Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh. Giải pháp phát

triển kinh tế nông nghiệp được Đảng bộ huyện đề ra là xây dựng qui hoạch

phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề và vận động nhân

dân đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, mở rộng ngành nghề

sản xuất; tích cực thực hiện chuyển chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, phát

triển chăn nuôi tập trung theo hướng hàng hoá có xử lý môi trường; xây

dựng các khu chuyển đổi ngành nghề theo quy hoạch; xây dựng các làng

nghề sản xuất tập trung tại các xã: Tân Triều, Hữu Hoà, Vạn Phúc, Duyên

Hà, Tam Hiệp để đầu tư phát triển kinh tế; đầu tư cải tạo hệ thống thuỷ lợi,

kênh mương và giao thông nội đồng, giao thông nông thôn; phát triển kinh tế

trang trại gắn với các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung chất lượng cao kết

hợp với du lịch dịch vụ sinh thái [13, tr 16 ].

Căn cứ định hướng phát triển kinh tế của Huyện đến năm 2020, Chỉ thị

số 23/CT-UBND ngày 17/7/2009 của UBND thành phố Hà Nội về việc xây

dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2011-2015), huyện Thanh

53

Trì xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), trong đó

có đưa ra nhiệm vụ giải pháp phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại

gắn với đô thị sinh thái, sản xuất hàng hoá thành vùng tập trung, có năng suất,

chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao và bền vững với môi trường.

Thực hiện Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội

về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời

sống nông dân giai đoạn 2011-2015”, Ban Thường vụ Huyện ủy Thanh Trì

xây dựng Kế hoạch số 48-KH/HU ngày 29/3/2012 nhằm thúc đẩy sản xuất,

phát triển nông nghiệp, triển khai xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng

cao đời sống nông dân trên địa bàn huyện, đặc biệt chú trọng giải quyết các

vấn đề trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Kế hoạch đưa ra chỉ tiêu

phấn đấu:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân/năm: 16% - 17%.

- Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25 triệu đồng.

- Giá trị sản xuất/ha đất nông nghiệp năm 2015 đạt 115 triệu đồng. [90, tr 1].

Về phát triển nông nghiệp, kế hoạch nêu rõ: Các xã tiếp tục triển khai

thực hiện Đề án phát triển kinh tế, phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện

đại gắn với đô thị sinh thái, sản xuất hàng hoá thành vùng tập trung, có năng

suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao và thân thiện với môi

trường. Đẩy mạnh việc đưa các giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao

vào sản xuất đặc biệt là các xã vùng trọng điểm sản xuất lúa của huyện. Thực

hiện cơ giới hóa sản xuất và áp dụng mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong sản

xuất tại các vùng trồng lúa tập trung ổn định. Phát triển mô hình kinh tế trang

trại gắn với các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung kết hợp với du lịch sinh

thái tại các xã Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Đại áng, Tả Thanh Oai; Hỗ trợ áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện duy trì, phát triển vùng nuôi trồng

thủy sản tập trung chất lượng cao, đảm bảo an toàn dịch bệnh trên địa bàn

54

Huyện. Chỉ đạo nghiên cứu, triển khai mô hình vùng sản xuất rau an toàn tập

trung của 2 xã: Yên Mỹ, Duyên Hà. Năm 2011, hoàn thành xây dựng thương

hiệu rau an toàn cho xã Duyên Hà. Phối hợp với Chi cục Bảo vệ thực vật Hà

Nội và các doanh nghiệp lập dự án để triển khai thực hiện tổ chức sản xuất và

tiêu thụ sản phẩm nhằm phát huy hiệu quả đầu tư của 2 vùng sản xuất rau an

toàn trong năm 2012-2013. Rà soát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, vận

động nông dân dồn điền đổi thửa; thực hiện chuyển đổi ruộng cấy lúa kém

hiệu quả sang trang trại tổng hợp, trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả 100ha, áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thật vào sản xuất nông nghiệp; thí điểm mô hình

trồng nấm ăn, nấm dược liệu trên địa bàn các xã Tả Thanh Oai, Hữu Hòa,

Tam Hiệp; mô hình nuôi ốc nhồi tại các xã Vĩnh Quỳnh, Đông Mỹ… để rút

kinh nghiệm triển khai nhân rộng. Đảm bảo quy trình kỹ thuật và an toàn vệ

sinh thực phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Khuyến khích nông dân phát

triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng cao và xây dựng

thương hiệu sản phẩm. Phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng hàng hoá có

xử lý môi trường. Chủ động và chú trọng thực hiện các chính sách hỗ trợ cho

nông nghiệp, phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Đầu tư nguồn nước sạch phục

vụ cho sản xuất nông nghiệp. Ưu tiên đầu tư, từng bước hoàn thiện hệ thống

hạ tầng giao thông, thuỷ lợi nội đồng. Thực hiện Đề án “Củng cố, phát triển,

nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hợp tác xã”. Củng cố, nâng cao năng

lực hoạt động của HTX thủy sản Đông Mỹ; chỉ đạo củng cố, kiện toàn, tạo

điều kiện về cơ sở vật chất và hỗ trợ vốn nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả

hoạt động của các HTX, phấn đấu đến năm 2015, toàn huyện có 23 HTX hoạt

động khá, có hiệu quả [90, tr 2].

Huyện nhấn mạnh việc đưa các giống lúa mới có năng suất, chất lượng

cao vào sản xuất, đặc biệt là các xã vùng trọng điểm sản xuất lúa của huyện;

thực hiện cơ giới hóa sản xuất và áp dụng mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong

55

sản xuất tại các vùng trồng lúa tập trung ổn định; phát triển mô hình kinh tế

trang trại gắn với các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung kết hợp với du lịch

sinh thái tại các xã Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Đại Áng, Tả Thanh Oai; hỗ trợ áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện duy trì, phát triển vùng nuôi

trồng thủy sản tập trung chất lượng cao, đảm bảo an toàn dịch bệnh trên địa

bàn Huyện. Huyện tăng cường chỉ đạo nghiên cứu, triển khai mô hình vùng

sản xuất rau an toàn tập trung tại 2 xã: Yên Mỹ, Duyên Hà. Năm 2011, hoàn

thành xây dựng thương hiệu rau an toàn cho xã Duyên Hà; phối hợp với Chi

cục Bảo vệ thực vật Hà Nội và các Doanh nghiệp lập dự án để triển khai thực

hiện tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm phát huy hiệu quả đầu tư của

2 vùng sản xuất rau an toàn trong năm 2012-2013. Rà soát chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, vận động nông dân thực hiện chuyển đổi ruộng cấy lúa

kém hiệu quả sang trang trại tổng hợp, trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả; áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thật vào sản xuất nông nghiệp; thí điểm mô hình

trồng nấm ăn, nấm dược liệu trên địa bàn các xã Tả Thanh Oai, Hữu Hòa,

Tam Hiệp; mô hình nuôi ốc nhồi tại các xã Vĩnh Quỳnh, Đông Mỹ… để triển

khai nhân rộng, đảm bảo quy trình kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm,

nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Khuyến khích nông dân phát triển sản xuất

sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng cao và xây dựng thương hiệu sản

phẩm. Phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng hàng hoá có xử lý môi

trường; chủ động và chú trọng thực hiện các chính sách hỗ trợ cho nông

nghiệp, phòng chống thiên tai, dịch bệnh; đầu tư nguồn nước sạch phục vụ

cho sản xuất nông nghiệp, ưu tiên đầu tư và từng bước hoàn thiện hệ thống hạ

tầng giao thông, thuỷ lợi nội đồng.

2.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp của

Đảng bộ huyện Thanh Trì

2.2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo

56

hướng sản xuất hàng hóa

* Trồng trọt

- Hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao:

Tiếp tục duy trì vùng sản xuất lúa chất lượng cao, hiện có 530ha/vụ

chiếm khoảng 40% tổng diện tích toàn huyện nhằm cung cấp lương thực cho

nhân dân tại địa phương, đáp ứng nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, góp phần

đảm bảo an ninh tại khu vực nông thôn. Trong đó: Vùng sản xuất lúa chất

lượng cao tập trung: 460ha/vụ, chủ yếu tại các xã: Đại áng, Tả Thanh Oai,

Hữu Hòa, Liên Ninh, HTX Quỳnh Đô, Ích Vịnh - xã Vĩnh Quỳnh; HTX Lạc

Thị - xã Ngọc Hồi; sử dụng các bộ giống lúa thơm, chất lượng gạo dẻo, thơm,

ngon. Vùng sản xuất lúa cao sản tập trung: 70ha/vụ tại HTX Vĩnh Ninh - xã

Vĩnh Quỳnh và một phần diện tích của xã Đại áng; sử dụng bộ giống có năng

suất cao, chất lượng gạo tương đương giống KD cũ đáp ứng nhu cầu tập quán

sử dụng lương thực của địa phương.

Xây dựng thí điểm mô hình cơ giới đồng bộ trong sản xuất lúa chất

lượng cao 24 ha tại xứ đồng Thượng (đoạn 1 thôn Vĩnh Trung) xã Đại áng

làm tiền đề nhân rộng mô hình cho các xã Vĩnh Quỳnh, Tả Thanh Oai.

Tổng diện tích canh tác lúa trên địa bàn huyện: 1.400ha. Năm 2011, tổng

diện tích sản xuất lúa cả năm: 2.751 ha giảm 36 ha so với năm 2010, năng

suất đạt 53 tạ/ha tăng 7,5 tạ/ha so với năm 2010, sản lượng 14.612 tấn tăng

1.940 tấn so với năm 2010. Trong đó, diện tích trồng giống lúa chất lượng cao

tập trung (HT1, Bắc thơm số 7, HT6, LT6, N46, SH2...): 1.125 ha chiếm

40,9% tổng diện tích (trong đó vụ xuân 510 ha, vụ mùa 615 ha, chủ yếu tại

các xã: Đại áng,Vĩnh Quỳnh, Tả Thanh Oai, Hữu Hòa); năng suất đạt 55 tạ/ha

cao hơn năng suất trung bình của toàn huyện 5 tạ/ha. Chất lượng gạo thơm

ngon đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, giá gạo thương phẩm cao

hơn các giống khang dân, Q5. Lãi bình quân 1 ha sản xuất lúa chất lượng cao

57

đạt khoảng 12 triệu đồng tăng gấp 1,5 - 1,8 lần so với sản xuất lúa đại trà.

- Hình thành vùng sản xuất rau an toàn:

Duy trì dỉện tích sản xuất rau an toàn của 2 xã Yên Mỹ, Duyên Hà tại

các diện tích đã được đầu tư cơ sở hạ tầng và cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện sản xuất rau an toàn. Mở rộng sản xuất và đăng ký cấp giấy chứng nhận

đủ điều kiện sản xuất rau an toàn: 45ha sản xuất rau an toàn (xã Yên Mỹ 25

ha tại xứ đồng thứ 6, thứ 7; xã Duyên Hà 20 ha tại thôn Văn Khúc); nâng tổng

số diện tích sản xuất rau an toàn được cấp giấy chứng nhận lên 147,5

ha.Trong đó, xã Yên Mỹ 75 ha; xã Duyên Hà 72,5ha (thôn Đại Lan: 52,5ha;

thôn Văn Khúc: 20ha).

Vận hành có hiệu quả các hệ thống hạ tầng cơ sở vùng sản xuất rau an

toàn đã được đầu tư; tiếp tục đầu tư lắp đặt hệ thống cấp nước phục vụ sản

xuất rau an toàn tại xứ đồng thứ 6, thứ 7 xã Yên Mỹ (chưa được đầu tư). Đăng

ký cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sơ chế rau an toàn cho các nhà sơ chế.

Tổng diện tích gieo trồng rau các loại trên địa bàn huyện: 1.605 ha, sản

lượng năm 2011 đạt 31.779 tấn tăng 1.077 tấn so với năm 2010. Diện tích rau

đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn là 102,5ha;

diện tích được đầu tư cơ sở hạ tầng là 110 ha, trong đó có 14,7 ha nhà lưới

(HTX Văn Khúc - Duyên Hà: 6 ha; xã Yên Mỹ: 8,7ha). Đã xây dựng thương

hiệu có đăng ký mã số, mã vạch rau an toàn của 2 xã; chỉ đạo 2 xã Yên Mỹ,

Duyên Hà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm rau an toàn; đến nay, đã có 06 cửa

hàng kinh doanh, 16 điểm tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn Thành phố, trung

bình mỗi ngày tiêu thụ 300 – 500kg rau/cửa hàng. Gắn tem nhận diện rau an

toàn cho xã Duyên Hà, sản xuất rau an toàn theo hướng sản xuất hàng hóa, đa

dạng chủng loại rau, đăng ký giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an

toàn, đóng gói sản phẩm, bán sẽ tốt hơn, yên tâm về vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Công tác tổ chức sản xuất: Hàng năm, UBND huyện hỗ trợ tập huấn

58

quy trình sản xuất cho các hộ trồng rau tại 2 xã đảm bảo đúng theo yêu cầu

sản xuất rau an toàn nên đã duy trì được thương hiệu, mang lại thu nhập ổn

định; thu nhập bình quân trên l ha trồng rau khoảng 80triệu đồng/năm; bình

quân 1 lao động sản xuất rau thu nhập từ 2 - 2,5 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên,

sản xuất của các hộ vẫn mang tính tự phát, theo phong trào, thói quen; chủng

loại rau chưa đa dạng, chủ yếu là các loại rau truyền thống như cà chua, súp

lơ, xu hào, cải bắp, đậu các loại...

Huyện tập trung chỉ đạo xây dựng các mô hình mới như: mô hình trồng

nấm tại các xã Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Hữu Hòa, thu nhập bình quân 20 -

30 triệu đồng/tháng. Xây dựng các hộ sản xuất nấm trung tâm với quy mô sản

xuất từ 1ha trở lên để cung cấp bịch và thu mua, sơ chế sản phẩm của các hộ

vệ tinh (khi các hộ có nhu cầu) tại các xã Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh, Đại

áng. Phát triển hộ vệ tinh tại các xã Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh,

Đại áng và các diện tích đất nông nghiệp còn lại của các xã ven đô như Tam

Hiệp, Tân Triều, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, xây dựng 03 hộ sản xuất nấm trung

tâm và phát triển trên 30 hộ sản xuất nấm vệ tinh trên địa bàn huyện; thí điểm

trồng gừng bằng bãi thải của nấm – tránh được ô nhiễm môi trường.

Huyện đầu tư hỗ trợ xây dựng vùng sản xuất mới – vùng trồng cây có

múi tại xã Vạn Phúc: UBND huyện đã chỉ đạo xã Vạn Phúc quy hoạch lại

vùng sản xuất, xây dựng kế hoạch thực hiện chuyển đổi khoảng 100 ha sang

trồng cây có múi (cam, quất, bưởi). Đến cuối năm 2014, đã hình thành được

vùng cây có múi, toàn xã chuyển đổi trồng được 56,6 ha cam, quất, bưởi.

Hàng năm cung cấp cho thị trường trên 8.000 cây cam cảnh, quất cảnh trong

dịp tết, cho thu lãi đạt khoảng 300 triệu đồng/ha/năm cao hơn so với sản xuất

ngô truyền thống từ 6 đến 10 lần (lãi trồng ngô đạt 23 triệu/ha/vụ). Hiện nay,

có 30 hộ tham gia chuyển đổi từ trồng ngô ở đất bãi ven sông Hồng sang

59

trồng cam cảnh, quất cảnh, với tổng diện tích: 7 - 8 ha tại xứ đồng Tân Bồi.

* Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản:

Chăn nuôi, thủy sản tiếp tục phát triển mạnh. Tổng đàn gia súc, gia cầm

thường xuyên duy trì ổn định. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn

huyện: 851 ha; đã hình thành được vùng nuôi trồng thủy sản tập trung tại xã

Đông Mỹ, Thanh Liệt, Tứ Hiệp, Đại áng, Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh.

Tiếp tục triển khai, nhân rộng mô hình nuôi gà sinh sản an toàn sinh học

và nuôi gà thương phẩm an toàn sinh học tại xã Tả Thanh Oai; mô hình nuôi

ốc nhồi tại các xã Vĩnh Quỳnh, Đông Mỹ; mô hình nuôi chim trĩ (xã Đông

Mỹ) để rút kinh nghiệm triển khai nhân rộng.

Mô hình chuyển chăn nuôi ra ngoài khu dân cư tại thôn Siêu Quần - xã

Tả Thanh Oai. Tả Thanh Oai là xã có quy mô chăn nuôi lớn nhất toàn huyện,

tổng đàn gia súc, gia cầm, thủy cầm của xã chiếm trên 70% tổng đàn của toàn

huyện. Huyện đã đầu tư xây dựng thí điểm dự án chuyển chăn nuôi ra ngoài

khu dân cư tại thôn Siêu Quần với diện tích là 6,84 ha, có 33 hộ tham gia, diện tích bình quân mỗi hộ: 1.500m2 chủ yếu chăn nuôi thủy cầm kết hợp với

chăn nuôi lợn và thả cá. Sau 5 năm hoạt động, các hộ tham gia mô hình tổ

chức chăn nuôi thủy cầm kết hợp với chăn nuôi lợn, nuôi cá, trồng cây ăn quả

trên bờ để phát huy hết tiềm năng sử dụng đất mang hiệu quả kinh tế năm sau

cao hơn năm trước; giảm được ô nhiễm môi trường trong khu dân cư. Do

chăn nuôi tập trung nên công tác phòng chống dịch được triển khai đồng bộ,

kịp thời, không để bùng phát dịch. Tổng giá trị sản xuất bình quân của khu

chăn nuôi đạt từ 5.000 - 8.000 triệu đồng/năm, trừ chi phí khấu hao tài sản,

mua vật tư, con giống, công lao động, thuê đất... cho thu lợi nhuận từ 800 -

1.000 triệu đồng/năm. Bình quân mỗi hộ thu lãi từ 30 đến 50 triệu đồng/hộ/năm/1.500m2.

Tổng diện tích nuôi thủy sản trên địa bàn huyện: 873 ha. Trong đó diện

60

tích vùng nuôi thủy sản tập trung: 230 ha tại các xã: Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Tam

Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Tả Thanh Oai, Đại áng. Năng suất bình quân thủy sản

toàn huyện đạt 55,76 tạ/ha, trong đó năng suất bình quân của vùng nuôi trồng

thủy sản tập trung đạt 65 - 70tạ/ha. Có 01 cơ sở ươm, nuôi cá giống tại xã

Đông Mỹ.

Cơ cấu đàn cá: phần lớn diện tích là nuôi thả cá truyền thống (trắm,

chép, trôi mè...) ghép với một số loài có giá trị, năng suất cao như cá rô phi

đơn tính, cá chim trắng...

Cơ sở hạ tầng các vùng nuôi thuỷ sản: hiện trên địa bàn mới chỉ có xã

Đông Mỹ được đầu tư về cơ sở hạ tầng (điện, đường bê tông, hệ thống cấp

thoát nước...), các vùng còn lại đường vào khu nuôi đều là đường đất, hệ

thống cấp thoát nước không đồng bộ gây nhiều khó khăn cho sản xuất, kinh

doanh.

Nguồn nước nuôi trồng thuỷ sản chưa có các hệ thống cung cấp nước

dành riêng cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản (trừ xã Đông Mỹ đang triển khai

dự án cải tạo trạm bơm lấy nước sông Hồng phục vụ nuôi thủy sản) nên

không chủ động được nước sản xuất.

2.2.2. Chú trọng phát triển mô hình kinh tế trang trại

Huyện Thanh Trì có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông

nghiệp với nhiều mô hình sử dụng đất khác nhau. Trong đó, mô hình trang

trại đang thể hiện những tiến bộ, sự phù hợp với xu thế phát triển hàng hóa

tập trung đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Năm 2000,

huyện Thanh Trì chỉ có 19 trang trại với diện tích hơn 70 ha, vốn đầu tư cho

một trang trại là 10 triệu đồng/ha, lợi nhuận một năm thu về không đáng kể.

Đến nay, toàn huyện đã có 122 trang trại, vốn đầu tư cho một trang trại là 133

triệu đồng/ha, lợi nhuận thu về của mỗi trang trại một năm đạt hơn 16,8 triệu

đồng/ha. Sử dụng đất nông nghiệp theo mô hình trang trại ở huyện Thanh Trì

61

đang thể hiện hướng đi đúng đắn.

Theo số liệu của phòng Kinh tế huyện Thanh Trì, năm 2010 số lượng

trang trại trên địa bàn huyện Thanh Trì có 92 trang trại. Đến năm 2015 (tính

đến ngày 31/12/2015), số lượng trang trại trên địa bàn huyện có 122 trang

trại. Số lượng các trang trại của huyện Thanh Trì được thể hiện qua bảng:

Bảng 2.1. Số lƣợng các trang trại nông nghiệp trên địa bàn huyện

Thanh Trì giai đoạn 2010 - 2015

Năm 2010 Năm 2015

TT Loại hình sản xuất

Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)

Trang trại chuyên canh 24 26,10 27 22,13 1

31 33,69 41 33,61 2

Trang trại trồng trọt kết hợp chăn nuôi

Trang trại tổng hợp 37 40,21 54 44,26 3

Tổng 92 100 122 100

(Nguồn thống kê của Phòng kinh tế huyện Thanh trì năm 2015)

Kinh tế trang trại đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, phát triển

kinh tế nông thôn, bộ mặt nông thôn được đổi mới, giải quyết được số lượng

đáng kể lao động dư thừa trong vùng, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế

của huyện. Để đạt được kết quả trên, huyện Thanh Trì đã tập trung chỉ đạo

chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng phát huy thế mạnh của từng

vùng, từng xã, tạo điều kiện khuyến khích các hộ gia đình phát triển kinh tế

trang trại. Việc sử dụng đất nông nghiệp theo mô hình trang trại trên địa bàn

huyện ngày càng được mở rộng khi các xã tiến hành dồn điền đổi thửa.

Từ năm 2010 – 2015, huyện Thanh Trì đã hình thành một số loại hình trang

trại cụ thể như sau:

- Loại hình trang trại chuyên canh: Đây là loại hình theo hướng sản xuất

tập trung vào một loại sản phẩm. Hiện tại, loại hình trang trại này trên địa bàn

62

huyện hiện có 27 trang trại chiếm 22,13% tổng số trang trại, tăng 3 trang trại

so với năm 2010, trong đó có 18 trang trại chăn nuôi tập trung và 9 trang trại

nuôi trồng thủy sản kết hợp với chăn nuôi. Gồm

+ Loại hình chăn nuôi tập trung: Năm 2010, số lượng trang trại loại hình

sản xuất này có 17 trang trại, năm 2015 số lượng tăng lên là 18 trang trại. Các

trang trại này tập trung nuôi một số loại gia súc, gia cầm như: lợn, gà, trâu,

bò, ngan, vịt... để lấy thịt thương phẩm. Quy mô chăn nuôi của trang trại

khoảng 30 - 500 con lợn thịt/lứa và 120 - 5.000 con gà thịt/lứa. Bình quân

hàng năm mỗi trang trại nuôi từ 2 - 2,5 lứa lợn thịt/năm hoặc 2 - 2,5 lứa gà

thịt/năm. Loại hình này tập trung chủ yếu ở các xã như: Vạn Phúc, Tả Thanh

Oai, Hữu Hòa ... Tổng vốn đầu tư cho các trang trại này trung bình từ 750 -

850 triệu đồng/trang trại tùy theo quy mô, số lượng của trang trại, giá trị lãi

suất bình quân của trang trại trên 200 triệu đồng/ha/năm. Bình quân mỗi trang

trại giải quyết việc cho từ 3 - 6 lao động thường xuyên.

+ Loại hình nuôi trồng thủy sản kết hợp với chăn nuôi: Đây là loại hình

phát triển chủ yếu tại các xã có các vùng địa hình thấp trũng, giáp các cửa

sông không thuận lợi cho canh tác cây trồng như Yên Mỹ, Vạn Phúc, Duyên

Hà, Đông Mỹ ... Cùng với sự quan tâm của các cấp chính quyền, người dân đã

đầu tư, cải tạo đào ao nuôi trồng thủy sản kết hợp với chăn nuôi, hiệu quả

kinh tế rõ rệt vừa tận dụng được nguồn chất thải chăn nuôi để cung cấp thức

ăn cho nuôi trồng thủy sản, vừa giúp giảm chi phí sản xuất. Tổng số vốn đầu

tư của loại hình trang trại nuôi trồng thủy sản kết hợp với chăn nuôi trung

bình từ 200 triệu đồng/ha chuyển đổi, giá trị lãi suất bình quân là 120 triệu

đồng/ha/năm. Bình quân mỗi trang trại giải quyết việc làm cho từ 3 - 5 lao

động thường xuyên. Quy mô bình quân của loại hình trang trại này từ 1,5 - 3

ha/trang trại, trong đó diện tích dành cho nuôi trồng thủy sản chiếm 70%, diện

tích dành cho chăn nuôi và sử dụng vào mục đích khác chiếm 30%.

63

- Loại hình trang trại trồng trọt kết hợp với chăn nuôi: Đây là loại hình

sản xuất cơ bản và truyền thống của trang trại nói chung, vừa mang lại hiệu

quả kinh tế vừa đảm bảo môi trường sinh thái.

+ Loại hình cây ăn quả - chăn nuôi: Hầu hết các trang trại đều tập trung

sản xuất theo hướng trồng trọt kết hợp với chăn nuôi để tận dụng nguồn phân

hữu cơ sẵn có từ chăn nuôi, đồng thời lấy rau, củ, quả của trồng trọt làm thức

ăn cho chăn nuôi. Quy mô bình quân của loại hình trang trại này từ 2 - 3

ha/trang trại, trong đó diện tích dành cho trồng trọt chiếm 60 - 70%. Tổng số

vốn đầu tư của loại hình trang trại này bình quân từ 80 - 120 triệu đồng/ha tùy

theo quy mô và sự đa dạng về sản phẩm đầu tư của trang trại. Trừ tất cả các

chi phí nhập bình quân là 70 triệu đồng/ha/năm. Bình quân mỗi trang trại giải

quyết việc làm cho 2 - 4 lao động thường xuyên.

+ Loại hình nuôi trồng thủy sản – lúa: Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất

nông nghiệp, xây dựng một hệ thống sản xuất nông nghiệp mới nhằm phá thế

độc canh cây lúa ở những nơi như: vùng trũng, vùng thường xuyên ngập

nước, vùng cấy lúa mùa 1 - 2 vụ, vùng trồng lúa bấp bênh không ăn chắc… là

điều rất cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế nông hộ và cải thiện môi

trường sinh thái. Mô hình thả cá kết hợp với trồng lúa là một trong những loại

hình sản xuất mới. Ưu điểm của mô hình là sử dụng hiệu quả mặt nước và

ruộng lúa thường xuyên ngập nước. Với mô hình này, cá và lúa hỗ trợ lẫn

nhau tạo thành một hệ sinh thái khép kín, hạn chế được việc sử dụng hóa chất,

phân bón nên an toàn cho con người và cho môi trường. Bên cạnh đó, còn

tăng thu nhập, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm

nghèo và xây dựng nông thôn mới.

Ở những diện tích đất nông nghiệp thường xuyên ngập úng ở các xã trên

địa bàn huyện Thanh Trì, đến nay, nhờ có chính sách dồn điền đổi thửa mà

các diện tích này của người dân đã được tập trung lại, người dân đã chuyển từ

64

trồng lúa 1 vụ/năm sang trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản. Quy mô bình

quân của mỗi mô hình trang trại này khoảng 2 - 3 ha/trang trại, chi phí vốn

đầu tư của mỗi trang trại thấp nhưng vẫn mang lại giá trị kinh tế cao hơn so

với trồng lúa 1 vụ/năm. Đa phần các trang trại nuôi 1 lứa/năm với một số

giống cá như: cá rô phi, cá trắm, cá trôi, cá chép... Trong thời gian trồng lúa

chủ trang trại sẽ nuôi thả cả con, cá giống ở những rãnh nước được đào sâu.

Khi thu hoạch thu xong đến mùa nước lên số cá này sẽ tiếp tục được nuôi

trong toàn bộ diện tích của trang trại. Bình quân mỗi trang trại giải quyết việc

làm cho từ 2 lao động thường xuyên.

- Loại hình trang trại tổng hợp: Đây là loại hình đa dạng nhất về các loại

sản phẩm và được mở rộng phát triển nhiều nhất ở các địa phương. Loại hình

trang trại này đòi hỏi sự áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vốn

đầu tư cao, thời gian lâu dài nhưng nó lại mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Loại hình sản xuất này là sự kết hợp của Vườn - Ao - Chuồng, sự tận dụng tối

đa và tạo vòng khép kín trong sản xuất đồng thời đảm bảo môi trường sinh

thái bền vững. Diện tích bình quân của loại hình trang trại này là 4- 5 ha.

Trong đó, diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm 30%, diện tích trồng trọt chiếm

40% và diện tích chăn nuôi chiếm 30%. Lãi suất bình quân đạt 170 triệu

đồng/ha/năm với số lao động thường xuyên từ 5 - 7 người. Loại hình trang

trại này tập trung ở các xã: Đông Mỹ, Tân Triều, Ngũ Hiệp, Yên Mỹ, Vạn

Phúc...

Việc sử dụng đất nông nghiệp theo mô hình trang trại ngày càng được

người dân mở rộng, các trang trại đã giải quyết công ăn việc làm cho người

lao động địa phương, tăng thu nhập cho người lao động, đời sống của người

dân được đảm bảo.

Số lao động thường xuyên tham gia trong loại hình sản xuất trang trại

tổng hợp nhiều nhất dao động 4 - 8 lao động vì loại hình trang trại này có diện

65

tích lớn và đa dạng về chủng loại sản phẩm so với các loại hình trang trại

khác. Mức lương bình quân cao nhất là trang trại chuyên canh (2,8 - 3,2 triệu

đồng/tháng) vì đây là loại hình sản xuất trang trại đòi hỏi lao động phải có kỹ

thuật chuyên môn cao hơn so với các loại hình sản xuất khác.

Bảng 2.2. Số lao động của các loại hình sản xuất trang trại phân chia theo các

loại hình sản xuất

Lao động Lao động thời

TT Loại hình sản xuất thƣờng xuyên vụ

(ngƣời/ha) (công/ha/năm)

4 – 5 15 -20 1 Chăn nuôi tập trung

3 - 5 10 - 15 2 Nuôi trồng thủy sản+ chăn nuôi

3 - 5 10 - 15 3 Cây ăn quả + chăn nuôi

2 7 - 10 4 Nuôi trồng thủy sản + trồng lúa

4 - 8 10 - 20 5 Trồng trọt + Nuôi trồng thủy sản +

chăn nuôi

(Nguồn tổng hợp thống kê của Phòng kinh tế huyện Thanh trì năm 2015)

Ngoài ra, tuỳ theo từng quy mô trang trại, đến mùa thu hoạch các trang

trại có thể thuê thêm lao động thời vụ. Trong những năm gần đây, mô hình

sản xuất trang trại được người dân biết đến nhiều hơn bởi hiệu quả kinh tế của

mô hình đem lại, tạo công ăn việc làm ổn định, nâng cao chất lượng cuộc

sống của người dân, góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao chất lượng

cuộc sống của người dân trong vùng.

Như vậy, sự phát triển trang trại quy mô lớn tăng nhanh về số lượng

theo hướng sản xuất kinh doanh tập trung, sản xuất hàng hóa lớn đa dạng về

sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường đã đem lại hiệu quả kinh tế cao,

đóng góp vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện, giải quyết việc làm

cho người dân trong vùng. Theo kết quả điều tra, trước đây các mô hình trang

66

trại trên địa bàn huyện Thanh Trì phần lớn phát triển theo hướng tự phát của

các hộ gia đình, cây trồng vật nuôi không có tính chuyên canh, các trang trại

đều có hướng phát triển sản xuất kinh doanh theo kiểu truyền thống kết hợp

giữa trồng trọt và chăn nuôi với quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, mô hình trang trại

nhỏ, manh mún mang tính kinh tế hộ vẫn còn nhiều. Vì vậy, cần có sự đầu tư

về vốn, kỹ thuật để phát triển các trang trại nhỏ mang lại hiệu quả kinh tế.

2.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp

Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Trì khóa XXII (nhiệm kỳ 2010 – 2015) đã

xác định một trong ba nhiệm vụ trọng tâm, đột phá là xây dựng hạ tầng đô thị

và nông thôn mới.

- Giao thông nông thôn: Các trục đường liên xã đã được đầu tư theo

hướng đô thị. Trục xã, liên xã gồm 21 tuyến có 50,30 km; được nối các trung

tâm xã, các khu dân cư với tuyến tỉnh lộ, quốc lộ và các xã với nhau, hầu hết

được xây dựng theo tiêu chuẩn cấp 5 đồng bằng với bề mặt là nhựa đường

hoặc bê tông xi măng rộng 3,5m; nền đường rộng từ 5m - 7,5m; Đường trung

tâm thị trấn Văn Điển, gồm có tuyến Đông - Tây nối từ quốc lộ 1A cũ đến

chùa Văn Điển có nền đường rộng từ 9m – 40m, lòng đường rộng từ 7m –

21m; Tuyến Bắc - Nam nối từ đường trục chính Đông - Tây đến tuyến đường

Tứ Hiệp, chiều rộng nền đường là 24,0m. Đường do thị trấn quản lý có 31

tuyến với tổng chiều dài 7,52km. Huyện đã đầu tư xây dựng nhiều tuyến

đường trục quan trọng như: Đường Ngọc Hồi - Đại áng; nhân dân phấn khởi

sau khi tuyến đường Ngọc Hồi - Đại Áng hoàn thành đã được các cấp quan

tâm triển khai tuyến xe buýt, rất thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân và làm

thay đổi bộ mặt nông thôn.

Đã hoàn thành nâng cấp, cải tạo 114,98 km đường giao thông thôn xóm;

Phát triển và nhân rộng mô hình “nhân dân hiến đất và đóng góp ngày công lao động làm đường làng ngõ xóm” với tổng diện tích hiến đất 8.110 m2 đất,

67

đóng góp được 207.482 ngày công phục vụ xây dựng nông thôn mới, điển

hình: Ngũ Hiệp, Vạn Phúc, Ngọc Hồi, Đông Mỹ, Đại Áng, Tân Triều,… bộ

mặt nông thôn khang trang.

- Điện nông thôn: Nguồn năng lượng quan trọng của huyện và khu vực

là điện năng, được cung cấp bởi Trạm 220kV Tân Triều – Bộ Quốc phòng,

bằng các tuyến đường dây 110kV Tân Triều – Tam Hiệp, Tân Triều – Hà

Nam. Các trạm cấp nguồn cho huyện Thanh Trì gồm:Trạm Tân Triều

110/35/6kV với công suất 2 x 40 + 25 KW; Trạm Vạn Phúc 110/35/6kV với

công suất 1 x 40 KW; Trạm Vĩnh Quỳnh 220/100kV với công suất 2 x 25

KW. Các nguồn này nhìn chung đảm bảo cung cấp điện năng cho phụ tải khu

vực. Bên cạnh đó là 05 trạm trung gian với tổng dung lượng 14.400 KVA,

gồm: Ngọc Hồi, Văn Điển, Tứ Hiệp, Duyên Hà và Thanh Liệt. Hiện trên địa

bàn huyện 100% các xã đã có mạng lưới điện ổn định phục vụ nhu cầu sinh

hoạt hàng ngày và sản xuất nông nghiệp của các hộ dân. 100% các hộ được sử

dụng điện an toàn từ các nguồn thuộc hệ thống điện lưới quốc gia, 100% số

xã trên địa bàn có hệ thống điện đạt chuẩn. Các xã đã được đầu tư hệ thống

điện chiếu sáng nông thôn đồng bộ theo tiêu chuẩn ngành tại các trục đường

giao thông thôn, xóm góp phần đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

- Hệ thống thuỷ lợi và đê điều: Khu vực huyện Thanh Trì được tưới nước

chủ yếu từ sông Nhuệ và một phần nhỏ từ sông Tô Lịch với hệ thống tưới đã

xây dựng khá hoàn chỉnh. Riêng khu vực các xã phía Nam của huyện như

Liên Ninh, Ngọc Hồi và Đại Áng được cấp nước tưới từ sông Hồng qua trạm

bơm thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Trên sông Nhuệ và sông Tô

Lịch có các trạm bơm tưới, trạm bơm tiêu và hệ thống kênh mương cấp 1, cấp

2 đã được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng: Kênh mương cấp II do xí nghiệp

Đầu tư phát triển Thủy lợi Thanh Trì quản lý 51,85km, kênh mương cấp III

do xã quản lý 132,6km, trong đó có 49,36km đã kiên cố hóa. Hệ thống trạm

68

bơm: Xí nghiệp Đầu tư phát triển Thủy lợi Thanh Trì quản lý 15 trạm bơm và

UBND xã quản lý 76 trạm bơm. Hệ thống điều tiết và cống nội đồng: Có

1.364 cống, trong đó xí nghiệp Đầu tư phát triển Thủy lợi Thanh Trì quản lý

61 cống điều tiết và 1303 cống do UBND xã quản lý phục vụ nhu cầu phát

69

triển nông nghiệp trên địa bàn huyện.

Tiểu kết chƣơng 2

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các Nghị quyết của Trung ương, của thành

phố Hà Nội về phát triển nông nghiệp, Đảng bộ và chính quyền huyện Thanh

Trì tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, hiệu quả và bền vững.

Với sự nỗ lực phấn đấu cao của Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân,

kinh tế - xã hội của huyện đã đạt được những thành tựu quan trọng và khá

toàn diện. Nền kinh tế phát triển ổn định đạt tốc độ tăng trưởng cao; cơ cấu

kinh tế chuyển dịch tích cực. Năm 2015, tổng giá trị sản xuất ngành nông

nghiệp của huyện đạt 86 tỷ 548 triệu đồng. Đời sống của người dân ngày càng

được nâng cao với thu nhập bình quân đầu người đạt 28 triệu

đồng/người/năm. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 90%. Chất

lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể được nâng lên, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, khối đại đoàn

kết trong toàn dân được củng cố.

Nhìn một cách tổng thể, những kết quả đạt được trước hết là nhờ sự chỉ

đạo sâu sát của Đảng bộ huyện Thanh Trì đã kịp thời nắm bắt những yêu cầu

của thực tiễn, đề ra chủ trương phù hợp với yêu cầu của tình hình phát triển

nông nghiệp, từ đó đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, vốn, sự sáng tạo

của nhân dân; cùng với đó là sự nỗ lực phấn đấu triển khai thực hiện của các

cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện tới cơ sở, sự đồng thuận trong cán bộ,

đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Kinh tế nông nghiệp của Thanh Trì từ

năm 2006 đến năm 2015 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần

70

vào việc xây dựng huyện Thanh Trì phát triển toàn diện, bền vững.

Chương 3

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.1. Nhận xét

3.1.1. Ưu điểm:

Những ưu điểm của Đảng bộ huyện Thanh Trì lãnh đạo phát triển kinh

tế nông nghiệp trong 10 năm (2006 – 2015) được thể hiện như sau:

Thứ nhất, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã đề ra được chủ trương phát

triển kinh tế nông nghiệp đúng đắn, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế

của địa phương.

Trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2015, vận dụng sáng tạo chủ

trương, đường lối của Đảng và thành phố Hà Nội, Huyện ủy, UBND huyện

Thanh Trì đã kịp thời đưa ra những Chương trình, những Nghị quyết nhằm

đẩy mạnh nền kinh tế nông nghiệp. Xác định được đúng nhiệm vụ và vai trò

của kinh tế nông nghiệp, Huyện ủy đã chỉ đạo Phòng Kinh tế cùng với các

cấp chính quyền, ban, ngành từ huyện tới cơ sở phối kết hợp chặt chẽ thực

hiện những kế hoạch, những đề án của huyện. Trong công tác chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp. Huyện xác định đẩy mạnh ngành chăn nuôi và nuôi

trồng thủy sản; áp dụng những mô hình mới trong chăn nuôi và trồng trọt, tạo

điều kiện cho hiệu quả sản xuất ngày một nâng cao, đời sống vật chất và tinh

thần của người nông dân được cải thiện.

Trong giai đoạn 2006 – 2010, Huyện đã tích cực, chủ động xây dựng và

triển khai các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về

“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” theo hướng thiết thực, hiệu quả; tập

trung lãnh đạo, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đạt 200 ha, trong đó có

152 ha từ trồng lúa 2 vụ bấp bênh sang nuôi trồng thuỷ sản trồng hoa, cây

cảnh, với nhiều mô hình kinh tế trang trại có hiệu quả kinh tế cao. Đàn gia

71

súc, gia cầm của huyện phát triển ổn định, kịp thời xử lý các dịch ở gia súc,

gia cầm không để dịch bệnh bựng phát trên địa bàn. Đã hoàn thành đầu tư xõy

dựng và cải tạo kênh mương giai đoạn 1 lấy nước sông Hồng từ kênh Hồng

Vân phục vụ tưới tiêu cho các xã vùng trọng điểm sản xuất lúa. Hình thành

cỏc vùng: nuôi trồng thuỷ sản tập trung tại các xã: Đông Mỹ,Tứ Hiệp, Tả

Thanh Oai, Đại áng, Thanh Liệt; sản xuất lúa chất lượng cao tại các xã: Tả

Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh; sản xuất rau an toàn và cây dược liệu tại các xã: Yên

Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc. Toàn huyện có 228 trang trại, các trang trại đều có

giá trị sản xuất đạt trên 100 triệu đồng/ha/năm. Hoạt động của các Hợp tác xã

đã có chuyển biến, một số Hợp tác xã hoạt động có hiệu quả tốt. Huyện đã

quan tâm hỗ trợ và chỉ đạo tổ chức thường xuyên công tác bồi dưỡng, tập

huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ và công tác quản lý các Hợp tác xã, hướng

dẫn chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã, thành lập mới 7 Hợp tác xã,

trong đó có 3 Hợp tác xã tiêu thụ sản phẩm theo hướng tập trung tại các xã:

Đông Mỹ, Vạn Phúc và Duyên Hà.

Trong giai đoạn 2010 – 2015, lĩnh vực nông nghiệp được quan tâm chỉ

đạo, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực Mặc dù ảnh

hưởng của quá trình đô thị hóa làm giảm nhiều diện tích đất nông nghiệp

(trong 5 năm qua, đã thu hồi 672ha), nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục

được quan tâm chỉ đạo. Hàng năm, Huyện có cơ chế riêng bố trí khoảng 5 tỷ

đồng để hỗ trợ phát triển kinh tế, xây dựng các mô hình sản xuất mới, đưa

khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho hiệu quả kinh tế cao như: mô hình sản

xuất nấm ăn, nấm dược liệu; nuôi gà sinh sản, gà thương phẩm an toàn sinh

học; mô hình nuôi ốc nhồi giống, ốc nhồi thương phẩm...Tập trung chỉ đạo

đẩy mạnh phát triển các vùng sản xuất tập trung như: vùng sản xuất lúa chất

lượng cao tại các xã: Tả Thanh Oai, Hữu Hòa, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng... với

1.420 ha; vùng sản xuất rau an toàn tại các xã: Yên Mỹ, Duyên Hà với diện

72

tích 147,5 ha; vùng chuyên canh trồng cây ăn quả có múi tại xã Vạn Phúc với

diện tích gần 100 ha; duy trì, củng cố vùng nuôi trồng thủy sản tập trung với

diện tích 233 ha tại các xã Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Đại Áng...Tiếp tục hỗ trợ

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ cơ giới hóa trong nông nghiệp;

hình thành 38 mô hình kinh tế trang trại, trong đó có 12 trang trại tổng hợp,

phát huy tốt hiệu quả hoạt động. Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1ha đất trồng

trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 160 triệu đồng (vượt 45 triệu đồng so với Nghị

quyết Đại hội XXII Đảng bộ huyện).

Năm 2015, tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của huyện đạt 86 tỷ

548 triệu đồng. Đời sống của người dân ngày càng được nâng cao với thu

nhập bình quân đầu người đạt 28 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ lao động có

việc làm thường xuyên đạt 90%. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả các

chương trình công tác trọng tâm theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và

bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân. Tích cực tuyên truyền, vận động

thực hiện những nhiệm vụ khó như công tác dồn điền đổi thửa đạt 100% kế

hoạch, để tạo điều kiện chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi và hình

thành các vùng sản xuất tập trung, đưa khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa vào

sản xuất nông nghiệp, cho năng suất chất lượng cao với một số mô hình tiêu

biểu như: mô hình “Đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp” tại xã Vĩnh

Quỳnh; mô hình “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng sau dồn điền đổi thửa” tại xã

Vạn Phúc... Thực hiện xã hội hóa đầu tư xây dựng và đưa cơ sở giết mổ gia

súc tập trung xã Vạn Phúc vào hoạt động ổn định với công suất giết mổ trung

bình 1.500 con lợn/ngày, đêm, giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường

trong khu dân cư, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo điều kiện thuận lợi

trong công tác quản lý hoạt động giết mổ. Thanh Trì là huyện đầu tiên của

Thành phố xóa bỏ được các điểm giết mổ gia súc nhỏ lẻ trong khu dân cư.

Thứ hai, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã có những biện pháp phù hợp để

73

phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

được Đảng bộ huyện đặc biệt quan tâm. Từ năm 2006 -2015, nền nông nghiệp

Thanh Trì có sự chuyển biến sâu sắc, khá toàn diện, đồng bộ cả về chiều rộng

và chiều sâu. Huyện tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao

năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Huyện thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế, khuyến khích nhân dân tích tụ

ruộng đất để phát triển hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn; đồng thời

tạo thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, nâng cao năng suất

lao động, giá trị kinh tế trên từng đơn vị diện tích. Ngoài ra, huyện khuyến

khích, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân chuyển đổi các loại cây trồng năng

suất, hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây trồng cho năng suất, hiệu

quả kinh tế cao; phát triển kinh tế trang trại theo hướng tập trung , từ một nền

kinh tế nông nghiệp thuần nông từng bước hình thành cơ cấu kinh tế đa dạng

hóa, hiện đại hóa với sự gia tăng của ngành kinh tế nông nghiệp và dịch vụ.

Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn so với những sản phẩm nông

nghiệp truyền thống trước đây. Bên cạnh đó, nhiều ngành sản xuất công

nghiệp phụ trợ liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp cũng có tốc độ tăng trưởng

nhanh như: chế biến bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản, sản xuất thức

ăn gia súc, sản xuất phân bón...

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp dần dần thoát khỏi tình trạng độc canh,

phát triển theo hướng đa canh, sản xuất hàng hóa, quy mô ngày càng lớn.

Chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn từng bước được nâng cao; cơ cấu lao

động ở một số vùng nông thôn chuyển dịch nhanh sang các lĩnh vực công

nghiệp, dịch vụ. Nông thôn Thanh Trì đã không còn là nông thôn thuần nông

mà đang từng bước chuyển thành nông thôn - đa dạng hóa, hiện đại hóa về cơ

cấu với sự gia tăng của ngành kinh tế nông nghiệp và dịch vụ. Kinh tế hộ,

74

kinh tế trang trại phát triển mạnh, kinh tế hợp tác có những chuyển biến tích

cực. Các trang trại nông nghiệp trên địa bàn huyện tăng cả về số lượng và quy

mô (từ 92 trang trại năm 2010 tăng lên 122 trang trại năm 2015). Các trang

trại có diện tích lớn hơn 3ha ngày càng có xu hướng tăng. Theo các loại hình

sản xuất, các trang trại được chia thành 3 nhóm: trang trại chuyên canh (chăn

nuôi tập trung, nuôi trồng thủy sản kết hợp chăn nuôi), trang trại trồng trọt kết

hợp với chăn nuôi (trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi, nuôi trồng thủy

sản kết hợp với trồng lúa đối với những vùng đất thường xuyên ngập nước chỉ

có thể sản xuất được 1 vụ lúa/năm), trang trại tổng hợp (kết hợp giữa trồng

trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi) với các loại cây trồng, vật nuôi đa dạng

phong phú khác nhau.

Thứ ba, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã chú trọng tăng cường các nguồn

lực và ứng dụng khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế nông nghiệp

Đảng bộ huyện Thanh Trì đã phát động nhân dân tập trung nguồn lực

sẵn có để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện đã

tích cực, linh hoạt và phát huy hiệu quả nguồn kinh phí của thành phố Hà Nội

giao cho trong xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi nội đồng; đầu tư

nhà máy cung cấp nước sạch; xây dựng vùng rau an toàn. Hệ thống đê điều

được gia cố. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều hộ

nông dân đã đầu tư hàng tỷ đồng để làm trang trại, củng cố bờ vùng, tu sửa

chuồng trại chăn nuôi... Bên cạnh đó, nhiều hộ dân đã kết hợp với việc tăng

cường áp dụng khoa học kỹ thuật lồng ghép giữa nuôi trồng thủy sản và chăn

nuôi đã mang lại mức thu nhập cao cho người dân.

Nguồn nhân lực được đặc biệt quan tâm thông qua các chủ trương, chính

sách của Đảng bộ huyện, không ngừng được nâng cao về trình độ. Huyện đã

mở các lớp đào tạo về khoa học công nghệ cho người dân nhằm trang bị kiến

thức để người dân tự làm chủ nền kinh tế, phát huy sáng tạo trong sản xuất.

75

Chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn từng bước được nâng cao; cơ cấu lao

động ở một số vùng nông thôn chuyển dịch nhanh sang các lĩnh vực công

nghiệp, dịch vụ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển mạnh, kinh tế hợp tác

có những chuyển biến tích cực. Huyện đã đề ra chủ trương nghiên cứu bố trí,

sắp xếp, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực hiện có, đặc biệt là nguồn nhân lực

qua đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ và cán bộ quản lý, chú trọng

trước hết là đáp ứng cho nhu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn theo

hướng CNH, HĐH. Huyện thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, các lớp

khuyến nông cho nông dân, những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhất

là về công nghệ sinh học, chọn lựa và sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác,

nuôi trồng, phòng và trị bệnh cho cây, con.

Về ứng dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã

tích cực thúc đẩy việc nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học

công nghệ vào sản xuất, phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Khoa

học công nghệ giúp giảm sức lao động nặng nhọc cho người nông dân, giảm

chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản. Có kiến thức cao về

khoa học công nghệ sẽ giúp nông dân biết ứng dụng các phương pháp sản

xuất hữu cơ, sinh học để bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng và đảm bảo

an toàn cho nông sản…

Đối với trồng trọt, Đảng bộ huyện Thanh Trì đặc biệt chú trọng trong

công tác chọn giống. Việc chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ đã làm

cho cơ cấu giống được đổi mới, diện tích sản xuất các giống tiềm năng, năng

xuất ngày càng được mở rộng; đồng thời thu hẹp và dần loại bỏ các giống có

năng suất thấp. Huyện đã hỗ trợ nông dân để đưa các giống lúa có năng suất,

chất lượng cao vào sản xuất như: Q5, N46 và các giống lúa tẻ thơm, lúa lai...

Đã hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao tại xã Tả Thanh Oai – Vĩnh

76

Quỳnh.

Đối với chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, huyện tập trung chỉ đạo phát

triển ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an

toàn dịch bệnh, nuôi tập trung theo quy mô trang trại xa khu dân cư. Duy trì

và xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung kết hợp với du lịch sinh thái,

chuyển dần hình thức chăn nuôi bằng nước thải sang nuôi bằng nước sông

Hồng, xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, an toàn vệ sinh thực

phẩm.

3.1.2. Hạn chế

- Một là, qui mô kinh tế còn nhỏ, sức cạnh tranh thấp, chưa khai thác

hiệu quả tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có của huyện để phát triển.

Sản xuất nông nghiệp tuy có tiến bộ trong chuyển dịch, đổi mới cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, áp dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất

và chăn nuôi với giống cây, con mới, có năng suất và chất lượng cao; nhưng

kiểu tổ chức sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp vẫn chủ

yếu là cách thức truyền thống, quy mô nhỏ, năng suất thấp, nguy cơ khó đảm

bảo sự ốn định về chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng

chung của ngành nông nghiệp là thấp, sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành

trong nông nghiệp có chuyển biến chậm. Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng chưa

mạnh, năng suất cấy trồng còn bấp bênh.Ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy

sản chưa phát huy hết tiềm năng. Việc chuyển đổi để hình thành các khu nuôi

tập trung trên quy mô lớn còn ít. Phần lớn chăn nuôi đều ở quy mô hộ gia

đình đang là vấn đề bức xúc gây ô nhiễm môi trường.

Đảng bộ huyện đã xây dựng nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh

tế cao song việc tổ chức phát triển nhân rộng mô hình còn chậm và chưa phát

triển rộng khắp. Công tác phục vụ sản xuất chưa phát huy hết năng lực thiết

77

kế công trình. Hệ thống trạm bơm, kênh mương do xây dựng lâu, công suất

máy nhỏ, thiếu vốn nâng cấp máy móc, đường điện, nạo vét kênh mương nên

chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất.

Ngân sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội chưa đáp

ứng được nhu cầu phát triển, Việc quản lý vốn vay để phát triển sản xuất của

hộ nông dân chưa được chặt chẽ nên hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.

- Hai là, phát triển kinh tế nông nghiệp chưa tạo được điểm nhấn rõ nét,

hiệu quả hoạt động của các Hợp tác xã còn thấp. Việc nhân rộng một số mô

hình kinh tế mới và áp dụng khoa học - công nghệ trong nông nghiệp kết quả

chưa nhiều. Thực hiện công tác xã hội hóa còn hạn chế; vệ sinh môi trường đã

có chuyển biến nhưng chưa được cải thiện rõ nét.

Huyện có địa hình trũng, dễ ngập úng khi có mưa kéo dài, có sông Tô

Lịch, sông Nhuệ chứa và tiêu nước thải của thành phố Hà Nội. Có nghĩa trang

Văn Điển được xây dựng từ năm 1957 là nơi phục vụ nhu cầu an táng của

Thủ đô hơn 50 năm qua. 2 cụm công nghiệp là Văn Điển và Cầu Bươu được

xây dựng từ thập kỷ 60, 70 với công nghệ cũ kỹ, lạc hậu và không được đầu

tư đồng bộ về công nghệ xử lý môi trường, nhiều nhà máy công nghiệp với

công nghệ lạc hậu chưa có hệ thống xử lý nước thải theo quy định, nước thải

chảy ngầm vào sông Tô Lịch, sông Nhuệ không qua xử lý. Có 7 bệnh viện, 16

trạm y tế, 2 phòng khám đa khoa tư nhân và trên 400 cơ sở hành nghề y, dược

tư nhân hầu như chưa được đầu tư hệ thống thu gom và xử lý nước thải đồng

bộ. Các làng nghề thủ công truyền thống như dệt nhuộm, thu gom tái chế phế

liệu, làm miến bánh, mây tre đan… với đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ của các hộ

dân nên chưa được đầu tư các hệ thống xử lý khí thải, nước thải. Do vậy đã và

đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường sống của nhân dân

xung quanh. Thanh Trì đang trong quá trình đô thị hoá nhanh, việc xây dựng

và chỉnh trang đô thị, đường giao thông, cùng với sự phát triển của làng nghề,

78

khu công nghiệp cũng là nguồn gốc góp phần gây ô nhiễm môi trường,... Đây

là những yếu tố ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến công tác môi trường trên

địa bàn huyện và có ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của huyện, nhất

là vấn đề rau sạch, thực phẩm an toàn vệ sinh...

- Ba là, công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức

trong cán bộ, đảng viên và nhân dân có việc đạt hiệu quả chưa cao.

Do vậy còn có một số cán bộ, đảng viên chưa phát huy tốt vai trò, trách

nhiệm và tính tiên phong gương mẫu công tác chỉ đạo, quản lý điều hành và

vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền tại một số

đơn vị có mặt còn hạn chế. Còn có cán bộ lãnh đạo quản lý tại đơn vị cơ sở

nhận thức chưa đầy đủ dẫn đến chỉ đạo chưa thống nhất, lúng túng trong quá

trình tổ chức triển khai thực hiện. Công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ có

lúc, có nơi chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Một bộ phận người dân còn tư tưởng

trông chờ vào nguồn lực từ ngân sách. Những tác động từ mặt trái của nền

kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa; âm mưu “Diễn biến hoà bình”,

bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; những diễn biến

phức tạp trên Biển Đông,… làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đặt ra những

khó khăn không nhỏ. Sự lãnh đạo của Đảng bộ chưa thật toàn diện, chưa nhìn

đúng và giải quyết kịp thời những mối quan hệ trong các mặt kinh tế, giữa

kinh tế với văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Việc triển khai, cụ thể hóa

nội dung phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo Nghị quyết từ

Trung ương đến địa phương chưa đồng bộ. Chỉ đạo của các cấp, các ngành

thiếu sự phối kết hợp thống nhất nên hiệu quả chưa cao. Năng lực của đội ngũ

cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là cấp cơ sở nhìn chung là không đồng

đều, còn yếu kém, lúng túng khi quán triệt và tổ chức thực hiện các đường lối,

chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Còn chậm trong xây dựng

phong trào, tổ chức quần chúng, thậm chí còn chậm trong xây dựng và củng

79

cố vai trò của Đảng nhất là trong công tác cán bộ ở cơ sở. Phong cách làm

việc vẫn còn quan liêu, hành chính, việc đấu tranh xóa bỏ thói quen làm việc

cũ, áp dụng phong cách làm việc mới chưa triệt để. Giá cả các mặt hàng nông

sản trên thị trường luôn biến đổi theo chiều hướng bất lợi cho người nông

dân. Mặc dù vậy, Nhà nước vẫn chưa có chính sách giá hàng nông sản lâu dài

cho nông dân; chưa đề ra chiến lược về thị trường.

- Bốn là, lãnh đạo chỉ đạo khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường

và quá trình CNH – HĐH vẫn còn tồn tại nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến sản

xuất nông nghiệp và đời sống nông dân nông thôn.

Công tác quy hoạch nông nghiệp nói riêng và quy hoạch phát triển

nông thôn nói chung còn thiếu và chưa đồng bộ. Chênh lệch mức sống giữa

thành thị và nông thôn tăng lên. Vấn đề ô nhiễm môi trường không chỉ từ các

làng nghề, mà ngay cả việc chăn nuôi, chế biến giết mổ trong khu dân cư

cũng gây ô nhiễm nặng. Tại nạn giao thông, tệ nạn xã hội về ma túy, cờ bạc,

mê tín dị đoan còn diễn biến phức tạp, chưa có biện pháp giải quyết triệt để,

ảnh hưởng xấu đến sự ổn định xã hội nông thôn.

Nguyên nhân của những tồn tại trên có nhiều, song trước hết là do nông

nghiệp và nông thôn Thanh Trì có xuất phát điểm thấp, sản xuất nhỏ; cơ sở

vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư nhưng chưa phù

hợp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nhất là hệ thống giao

thông, thuỷ lợi, điện, cơ sở chế biến và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Trong

khi đó, nhận thức của một bộ phận cán bộ và người nông dân còn hạn chế. Tư

tưởng cục bộ, hẹp hòi, phân hoá giàu nghèo còn nặng nề ở nông thôn. Trình

độ sản xuất, trình độ nghề nghiệp của nông dân lại chưa đáp ứng được yêu

cầu sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.

Đặc biệt, việc quán triệt, tuyên truyền và vận động thực hiện các chủ

trương, chính sách chưa được triển khai sâu rộng, chưa tạo được sức mạnh

80

trong toàn Đảng bộ và trong nhân dân, chưa làm tốt công tác vận động và

thuyết phục quần chúng. Việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động

thiếu chặt chẽ, thiếu giải pháp đồng bộ; việc tổ chức chỉ đạo, điều hành thực

hiện nghị quyết đôi lúc thiếu kiên quyết; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa kịp

thời, việc tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực

hiện chưa được tiến hành thường xuyên.

Công tác chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện trên một số lĩnh vực

còn lúng túng, hạn chế như: công tác quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu trong

nông nghiệp còn chưa tạo được bước đột phá trong phát triển kinh tế, đặc biệt

là khâu giống lúa có năng suất, chất lượng cao. Chưa xây dựng được nhiều

mô hình sản xuất lớn, vùng chuyên canh sản xuất có tính sản xuất hàng hóa.

Công tác nắm tình hình tham mưu, đề xuất chưa kịp thời, hiệu quả. Sự phối

hợp trong công tác của các phòng, ban, đoàn thể đạt hiệu quả chưa cao.

Thêm vào đó, năng lực lãnh đạo của cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu

cầu của thời kỳ mới, một số cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu chấp hành

nghị quyết. Một số cơ sở Đảng còn hoạt động hạn chế, trình độ nghiệp vụ

năng lực chỉ đạo của một số cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể còn bất cập. Một

số cấp ủy viên của huyện được phân công phụ trách cơ sở còn thiếu sự quan

tâm sâu sát, chưa nắm bắt, phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh ở cơ sở,

chưa có biện pháp xử lý kịp thời nên ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và đời

sống dân sinh.

Nguyên nhân: Hạn chế trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Nguyên nhân khách quan: Một số cơ chế, chính sách về nông nghiệp,

thiếu đồng bộ; đầu tư từ Ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào

lĩnh vực này còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Huyện Thanh

Trì trong quá trình đô thị hoá, chuyển dịch mục đích sử dụng đất nông nghiêp,

81

do vậy ảnh hưởng đến tâm lý của người nông dân về sản xuất nông nghiệp.

Nguyên nhân chủ quan: Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện một số

việc hiệu quả chưa cao, việc phối hợp giữa các cấp uỷ, Chính quyền, Mặt trận

Tổ quốc và các Đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp ở một số nơi còn thiếu

đồng bộ, năng lực triển khai thực hiện nhìn chung còn hạn chế so với yêu cầu

đổi mới. Đa số lao động nông nghiệp có độ tuổi cao, đào tạo nghề sản xuất

theo kinh nghiệm truyền thống, thiếu sự liên kết, liên doanh. Do tốc độ đô thị

hóa nhanh, một bộ phận nông dân còn tâm lý giữ đất chờ dự án, không thiết

tha với đồng ruộng mặc dù Huyện đã có những chính sách đặc thù để hỗ trợ

phát triển kinh tế, nhất là hỗ trợ trong lĩnh vực nông nghiệp.

3.2. Kinh nghiệm chủ yếu

Từ những ưu điểm và hạn chế trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh

tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Thanh Trì trên đây, có thể rút ra những bài

học kinh nghiệm sau:

Một là: Nhận thức sâu sắc chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn của Đảng và vận dụng linh hoạt

vào điều kiện cụ thể của địa phương

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng

đã có những chủ trương, chính sách kịp thời để thúc đẩy nông nghiệp. Đặc

biệt là đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đưa nước ta thoát

khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng (Khóa IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (Khóa VI), Nghị quyết

Trung ương 5 (Khóa VII)…đã có nhiều tác động tích cực đối với sự nghiệp

phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các kỳ Đại hội, gần đây là Đại hội

IX năm 2001, Đại hội X năm 2006 và Đại hội XI năm 2011 luôn coi trọng

nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt quan tâm tới vấn đề nông

82

nghiệp, nông dân và nông thôn.

Cùng với những chủ trương, đường lối của Đảng, Thành ủy Hà Nội

luôn luôn sát sao và kịp thời lãnh đạo chỉ đạo, ban hành những Nghị quyết,

những Chương trình phù hợp với thực tế của nông nghiệp, nông thôn vùng

ngoại thành. Điển hình nhất là Chương trình 02 của Thành ủy đã góp phần rất

lớn vào quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp Thanh Trì nói riêng và thành

phố Hà Nội nói chung, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

Đối với Thanh Trì, Đảng bộ huyện đã luôn vận dụng sáng tạo những

quan điểm, những chủ trương của Đảng và của Thành ủy Hà Nội, đặt vấn đề

phát triển kinh tế nông nghiệp lên hàng đầu, từ đó đưa ra những chương trình,

chỉ thị để phát triển nền kinh tế nông nghiệp. Để nông nghiệp phát triển theo

hướng sản xuất hàng hoá, hiệu quả và bền vững; đồng thời nâng cao hiệu quả

cao nhất công tác lãnh đạo phát triển kinh tế, Huyện uỷ, HĐND, UBND

huyện Thanh Trì luôn biết vận dụng một cách đúng đắn đường lối của Trung

ương Đảng và chủ trương của thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế nông

nghiệp, thực sự coi đó là kim chỉ nam trong bước đi, hành động của huyện.

Trên cơ sở tiếp nhận, thực hiện các chủ trương của Đảng, Đảng bộ huyện

Thanh Trì đã căn cứ vào những tiềm năng, lợi thế và khả năng phát triển kinh

tế của huyện, chỉ đạo chặt chẽ các cấp, các ngành, các xã, thị trấn xây dựng và

tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án về phát triển kinh tế

nông nghiệp. Khi bước vào thực hiện đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền từ

huyện đến cơ sở phải có sự tập trung lãnh đạo không những chỉ đúng đắn mà

còn phải phát huy khả năng sáng tạo, quyết tâm giành được những thắng lợi

cao nhất. Mặt khác, phải tăng cường mối quan hệ và sự hợp tác, giúp đỡ của

các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, sự phối hợp giữa các đơn vị, cơ sở

trong và ngoài ngành, sự ủng hộ và tham gia tích cực của bà con nông dân.

83

Thực tế trong thời gian từ 2006 - 2015, trên cơ sở nắm chắc điều kiện

thực tế của địa phương, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã có những chủ trương,

chính sách đầu tư cần thiết cho phát triển kinh tế nông nghiệp, làm cho ý

Đảng hợp với lòng dân để tạo ra những đột phá trong nông nghiệp. Đảng bộ

huyện Thanh Trì đã luôn luôn nâng cao hiệu quả của công tác lãnh đạo phát

triển kinh tế nông nghiệp. Cụ thể hóa công tác quản lý, Huyện ủy, UBND,

HĐND huyện Thanh Trì đã căn cứ vào tiềm năng, lợi thế và khả năng phát

triển kinh tế của huyện, chỉ đạo chặt chẽ các cấp, các ngành, các xã, thị trấn

xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Chương trình, Đề án về phát

triển kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng giảm

tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ; đưa giống

mới có năng suất cao vào đồng ruộng; đẩy mạnh chăn nuôi trở thành một

ngành chính, chú trọng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản.

Được sự đồng thuận của các cấp chính quyền từ huyện đến cơ sở và sự

đồng lòng, nhất trí của nhân dân, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã vượt qua được

những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, về ảnh hưởng của cơ chế ... đẩy mạnh

được nền kinh tế nông nghiệp. Nhờ vậy, nền kinh tế nông nghiệp huyện đã

đạt được những kết quả to lớn, đóng góp phần quan trọng vào sự phát triển

kinh tế - xã hội chung của huyện.

Hai là: đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào

sản xuất, kịp thời phát hiện các mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả

của địa phương để nhân rộng.

Kinh nghiệm thành công trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế

nông nghiệp của Đảng bộ huyện Thanh Trì là không ngừng nâng cao hiệu quả

ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào trong sản xuất và đời sống.

Việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào trong sản xuất và đời sống thực sự

là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

84

nghiệp ở địa phương.

Trước năm 2006, điểm xuất phát về kinh tế nông nghiệp của huyện

thấp, việc tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật còn chậm, cải biến

tập quán sản xuất cũ để phát triển kinh tế nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Từ

năm 2006 đến năm 2015, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo thực hiện tốt việc chuyển

giao ứng dụng khoa học về giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng

cao, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng đã góp phần làm tăng năng

suất, tăng thu nhập cho các hộ nông dân. Huyện đã tiến hành thực hiện

chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng vật nuôi, duy trì và phát triển các vùng

sản xuất tập trung như: vùng sản xuất rau an toàn xã Duyên Hà, Yên Mỹ;

vùng cây ăn quả tại các xã: Vạn Phúc, Yên Mỹ; vùng lúa cao sản tại các xã:

Tả Thanh Oai, Đại áng, Vĩnh Quỳnh...Đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất

nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, nhân

rộng mô hình sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu; mở rộng diện tích nuôi trồng

thuỷ sản hiện có trên địa bàn huyện, chuyển đổi ruộng cấy lúa sang nuôi trồng

thuỷ sản tại xã Đại áng, Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh kết hợp trồng cây ăn quả,

du lịch sinh thái theo quy hoạch nông thôn mới. Phát triển chăn nuôi theo

hướng an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh; khuyến khích áp dụng các giống

vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch

bệnh cho đàn gia súc, gia cầm không để xảy ra các dịch bệnh lớn. Tăng cường

công tác kiểm tra, kiểm dịch, kiểm soát các hoạt động buôn bán, giết mổ, vận

chuyển động vật, sản phẩm động vật trên địa bàn. Đi đôi với việc đưa những

giống tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, huyện còn có chế độ ưu đãi đối với những

người làm công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật, khuyến khích cán

bộ có trình độ về địa phương công tác. Tăng cường củng cố và nâng cao chất

lượng hoạt động của các tổ chức dịch vụ nông-lâm nghiệp (các công ty, HTX

85

làm dịch vụ) nhất là các dịch vụ về vật tư, giống, thuỷ lợi, bảo vệ thực vật,

công tác thú y, mạng lưới khuyến nông đến từng xã nhằm đưa tiến bộ kĩ thuật

vào sản xuất và đáp ứng tốt các điều kiện sản xuất của nông hộ.

Huyện Thanh Trì có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông

nghiệp với nhiều mô hình sử dụng đất khác nhau. Trong quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ Thanh Trì cùng với Phòng

kinh tế thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo quy định để hình

thành vùng sản xuất tập trung, khắc phục tình trạng chuyển đổi manh mún,

nhỏ lẻ, phân tán, tự phát theo kiểu tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa lớn,

tập trung với hiệu quả kinh tế cao, bền vững, tiếp tục chuyển đổi các giống

kém hiệu quả sang sản xuất các giống cây, con có giá trị kinh tế cao.

Tăng cường phát triển ngành nuôi trồng thủy sản, đưa các loại giống cá

mới, hiệu quả kinh tế cao vào thử nghiệm, tích cực đưa các loại giống cây ăn

quả cho năng suất và giá trị kinh tế thay thế các loại rau màu hiệu quả thấp.

Đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, đồng thời đưa nhanh các giống lúa có

chất lượng, giá trị cao vào sản xuất. Với việc vận dụng các kỹ thuật lai tạo,

Đảng bộ huyện đã chỉ đạo đưa chăn nuôi thật sự trở thành ngành sản xuất

chính. Quy hoạch, xây dựng các khu chăn nuôi tập trung; đẩy mạnh chăn nuôi

trang trại. Mô hình trang trại đang thể hiện những tiến bộ, sự phù hợp với xu

thế phát triển hàng hóa tập trung đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất

nông nghiệp. Năm 2000, huyện Thanh Trì chỉ có 19 trang trại với diện tích

hơn 70 ha, vốn đầu tư cho một trang trại là 10 triệu đồng/ha, lợi nhuận một

năm thu về không đáng kể. Đến nay, toàn huyện đã có 122 trang trại, vốn đầu

tư cho một trang trại là 133 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu về của mỗi trang trại

một năm đạt hơn 16,8 triệu đồng/ha. Sử dụng đất nông nghiệp theo mô hình

86

trang trại ở huyện Thanh Trì đang thể hiện hướng đi đúng đắn.

Ba là: Phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với việc giải quyết các vấn đề

xã hội và môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới.

Cùng với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ huyện gắn việc

thực hiện các đề án trọng tâm, chương trình phát triển nông nghiệp với việc

giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện nếp sống

nông thôn mới, giải quyết tốt vấn đề vệ sinh môi trường, làm tốt công tác đấu

tranh ngăn chặn hành vi tiêu cực đảm bảo trật tự an ninh thôn xóm, không để

xảy ra điểm nóng ở nông thôn, đặc biệt là các dự án liên quan đến giải phóng

mặt bằng, đền bù đất đai, nhà ở cho các hộ dân..., không ngừng nâng cao chất

lượng cuộc sống cho các hộ dân. Để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường từ

hoạt động sản xuất nông nghiệp, các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện

nhiều biện pháp như: tuyên truyền, hướng dẫn nông dân sử dụng đúng thuốc

bảo vệ thực vật, phổ biến rộng rãi việc sử dụng chế phẩm sinh học, xử lý chất

thải chăn nuôi để giảm mùi hôi thối, diệt khuẩn có hại và tăng khả năng

phòng chống dịch bệnh cho vật nuôi; tăng cường quản lý thức ăn trong nuôi

trồng thủy sản, thực hiện nghiêm túc qui trình nuôi, nhất là qui trình chuẩn bị

ao nuôi... Nâng cao năng lực chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với

biến đổi khí hậu.

Bốn là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ, chú trọng xây dựng sự

đoàn kết, nhất trí tạo đồng thuận cao trong toàn xã hội và sự đồng tâm hiệp

lực từ huyện đến cơ sở, từ Đảng, Chính quyền và các Đoàn thể quần chúng.

Quá trình thực hiện đường lối chính sách nông nghiệp luôn có những

vấn đề mới đặt ra đòi hỏi cần phải giải quyết trong đời sống xã hội cũng như

trong phát triển sản xuất. Đảng bộ, Chi bộ cơ sở phải nắm bắt và kịp thời

giải quyết những vấn đề nảy sinh. Do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

phải tiến hành ngay từ cơ sở để mỗi tổ chức Đảng ở nông thôn nhận thức

87

được rõ nhiệm vụ của mình trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Để thực hiện tốt vai trò trên, Đảng bộ và chính quyền huyện Thanh Trì đã

quán triệt và cụ thể hóa, đồng thời phổ biến nhanh chóng, kịp thời, sâu rộng

nội dung đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, nhiệm vụ kế hoạch của địa phương; trên cơ sở đó tổ chức phong trào

thi đua thực hiện và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra nhân

dân. Thực sự coi trọng công tác dân vận, khơi dậy mọi tiềm năng, sáng tạo

trong nhân dân, coi đây là một trong những nhân tố quan trọng trong việc tổ

chức thực hiện thuận lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, cũng như giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở địa phương.

Hướng mọi hoạt động về cơ sở, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện tốt

quy chế dân chủ cơ sở theo khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra”, từ đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, sự hợp tác của người

dân vào quá trình xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương trình phát

triển kinh tế - xã hội địa phương, làm cho diện mạo quê hương không ngừng

đổi mới, đời sống nhân dân được nâng cao. Chăm lo củng cố, xây dựng Đảng

bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tăng cường công tác tuyên

truyền nhằm tạo ra sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, hệ thống chính trị

và sự đồng thuận trong nhân dân. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân

chủ trong sinh hoạt của tổ chức Đảng cơ sở, thường xuyên tự phê bình và phê

bình trong nội bộ kết hợp với tổ chức cho quần chúng nhân dân có điều kiện

tích cực tham gia phê bình sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của chính quyền.

Đặc biệt coi trọng việc phát hiện, giáo dục, bồi dưỡng và kết nạp những người

thực sự có đủ tiêu chuẩn vào Đảng, đồng thời kiên quyết đưa những người

không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, làm cho Đảng bộ thực sự trong

sạch, vững mạnh. Ra sức xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có

phẩm chất, năng lực, sức chiến đấu cao, đồng thời tăng cường quản lý tốt đội

88

ngũ cán bộ, đảng viên đó. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và

xử lý kịp thời, triệt để những vi phạm như tệ bè phái, cửa quyền, đặc quyền,

đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống

chính trị, vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội như Hội Nông dân, Đoàn

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh

các cấp trong việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội ở nông thôn, vận động và

tổ chức nhân dân tham gia vào xây dựng Đảng, hệ thống chính trị vững mạnh,

thi đua đẩy mạnh sản xuất, xây dựng nếp sống mới khu dân cư. Đây được coi

là nhiệm vụ then chốt có vai trò quyết định trong lãnh đạo thực hiện thắng lợi

89

các nhiệm vụ đã đề ra.

Tiểu kết chƣơng 3

Đảng bộ huyện Thanh Trì đã luôn vận dụng chủ trương của Đảng vào

thực tiễn địa phương, áp dụng linh hoạt những Nghị quyết, Chương trình của

Đảng và của Thành ủy Hà Nội nên đã phát huy được những tiềm năng, những

lợi thế của huyện, thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp phát triển. Có được

những thành tựu đó là do sự nỗ lực, cố gắng không chỉ ở các cấp ủy Đảng mà

còn do sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở và sự

nhất trí của toàn dân. Để có được những đổi thay trên quê hương Thanh Trì,

Đảng bộ huyện đã làm tốt công tác tuyên truyền, đổi mới về nhận thức và chỉ

đạo. Luôn coi phát triển kinh tế nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Kiên trì

lãnh đạo, chỉ đạo tới các cấp cơ sở thực hiện tốt các Chương trình, kế hoạch

đề ra và đạt hiệu quả.

Bên cạnh đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nền kinh tế

nông nghiệp, Đảng bộ huyện Thanh Trì cũng gặp một số hạn chế nhất định,

do nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng. Đảng bộ huyện cũng đã khắc phục đồng

thời luôn mở rộng, phát huy tính dân chủ trong công tác quản lý để tháo gỡ

những sai sót, rút ra những bài học kinh nghiệm để ngành kinh tế nói chung

và kinh tế nông nghiệp nói riêng, phát triển bền vững.

Qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp trong

những năm 2006-2015, Đảng bộ huyện Thanh Trì đã rút ra được những bài

học kinh nghiệm quý báu, là cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng bộ huyện tiếp

tục lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH- HĐH

trong giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn tồn tại

những khó khăn yếu kém cần khắc phục. Bước vào thời kì đẩy mạnh CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn, đòi hỏi mỗi đảng viên và quần chúng nhân dân

cần nâng cao ý thức trách nhiệm, cố gắng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vì

90

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

KẾT LUẬN

Xuất phát điểm là nền kinh tế thuần nông, Đảng bộ huyện Thanh Trì

coi phát triển kinh tế nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Từ năm 2006, mốc

thời gian đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử phát triển của Thanh Trì (sau khi

tách 9 xã để lập quận mới Hoàng Mai và sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ

XX, nhiệm kỳ 2001 – 2005) đến năm 2015, Thanh Trì đã có những chuyển

biến rõ rệt. Đảng bộ huyện đã vận dụng sáng tạo các chủ trương, Nghị quyết

của Đảng và thành phố Hà Nội, đã tạo ra những yếu tố thuận lợi để phát triển

sản xuất nông nghiệp. Với Thanh Trì - một huyện tài nguyên, khoáng sản

không nhiều; công nghiệp, dịch vụ chưa thực sự phát triển thì với nguồn lao

động dồi dào và với diện tích đất nông nghiệp là tài sản quý báu, là cơ sở

vững chắc để Thanh Trì đi lên. Huyện đã chú ý đến đầu tư kết cấu hạ tầng

nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ dân sinh. Việc huy động

đầu tư vốn, trang thiết bị máy móc, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất nông nghiệp được chú trọng, mạnh dạn lai tạo, đưa giống mới vào

sản xuất thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng hướng. Lựa

chọn cây trồng, vật nuôi năng suất chất lượng cao, hình thành vùng chuyên

canh, phát triển kinh tế vườn, trang trại theo hướng hàng hóa. Triển khai thực

hiện chương trình nông thôn mới, phát triển nông nghiệp nông thôn theo định

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sự sáng tạo trong việc vận dụng đường lối đổi mới của Đảng, Nhà

nước vào thực tiễn của địa phương, nền kinh tế nông nghiệp của Thanh Trì

dần chuyển sang sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển toàn diện đạt được

thành tựu, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Dưới sự chỉ đạo trực

tiếp của Đảng bộ, Thanh Trì đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp -

nông thôn theo hướng tích cực, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,

91

kết hợp với khôi phục các ngành nghề truyền thống làm cho bộ mặt nông

thôn có nhiều đổi mới. Những thành tựu đó góp phần rất quan trọng vào việc

ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống chính trị ở nông thôn được

củng cố, dân chủ được mở rộng, vai trò của người dân được nâng lên, an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, chuyển dịch cơ cấu ngành

nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Quá trình Đảng bộ huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội) lãnh đạo phát

triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2006 đến năm 2015 thể hiện khá rõ nét thực

trạng ngành kinh tế nông nghiệp huyện. Những thành tựu to lớn của ngành

nông nghiệp của huyện trong 10 năm qua đã một lần nữa khẳng định vai trò

lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong việc vận dụng sáng tạo chủ trương đổi mới

của Đảng và Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Từ đó tạo ra

bước chuyển trong kinh tế nông nghiệp của huyện, góp phần quan trọng trong

việc thúc đẩy sự tăng trưởng chung trong nền kinh tế của huyện nói riêng và

của Thành phố nói chung.

Những kết quả đạt được trong ngành kinh tế nông nghiệp từ năm 2006

đến năm 2015 của huyện Thanh Trì thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng,

Nhà nước với chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó

cũng chứng tỏ Đảng bộ huyện Thanh Trì đã biết phát huy cao độ những

nguồn lực vốn có như nhân tố con người với tiềm năng tự nhiên; biết khai

thác và áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ trong bước chuyển

từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường hàng hóa.

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì trong quá trình lãnh đạo, chỉ

đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ huyện vẫn còn tồn tại một số hạn

chế như chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của huyện, sản xuất nông

nghiệp còn nhỏ lẻ, phân tán; năng suất lao động còn thấp, giá thành sản phẩm

chưa cao, chất lượng không đồng đều, khó khăn cho việc tổ chức thu mua chế

92

biến và tiêu thụ, sức cạnh tranh trên thị trường yếu. Thu nhập bình quân của

người dân ở nông thôn còn thấp, chất lượng nguồn nhân lực có được quan

tâm, bồi dưỡng nhưng chưa cao. Các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp còn lúng

túng trong việc lựa chọn phương án kinh doanh và cơ chế hạch toán phù hợp

với yêu cầu của kinh tế hàng hóa. Điều này đã và đang là vấn đề mà Đảng bộ

huyện Thanh Trì cần quan tâm, cố gắng khắc phục những hạn chế đó, nhằm

thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển, nâng cao mức sống của người dân

93

nông thôn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2015), Biên niên sự kiện cơ

bản lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (2005 – 2010), Nxb Chính trị quốc

gia – Sự thật.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2011), Lịch sử Đảng bộ huyện

Thanh Trì (1930 – 2010), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2010), Thanh Trì trên đường

đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2011), Thanh Trì 50 năm xây

dựng và phát triển (31/5/1961 - 31/5/2011).

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2014), 60 năm giải phóng

huyện Thanh Trì (6/10/1954 - 6/10/2014), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2000), Nghị quyết số 01-

NQ/HU ngày 28/10/2000 tại Đại hội Đại biểu lần thứ XX Đảng bộ huyện

Thanh Trì, nhiệm kỷ 2000 - 2005.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2005), Báo cáo chính trị Đại

hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2005 - 2010).

8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2010), Báo cáo chính trị Đại

hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2005), Chương trình công tác của

Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì khóa XXI (nhiệm kỳ 2005 - 2010).

10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2005), Tài liệu triển khai quán

triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXI

94

(nhiệm kỳ 2005 - 2010).

11. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2010), Báo cáo chính trị Đại

hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2010), Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

13. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì, Chương trình công tác của

Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì khóa XXII (nhiệm kỳ 2010 –

2015), tháng 3 năm 2011.

14. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2015), Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020).

15. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (2015), Văn kiện Đại hội Đảng

bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 2015 - 2020).

16. Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (7/2015), Thủ đô Hà Nội thành tựu,

kinh nghiệm và chặng đường phía trước.

17. Nguyễn Thanh Bạch (1999), “Chính sách và giải pháp cho nông dân nông

nghiệp và nông thôn hiện nay”, Tạp chí Kinh tế, số 248, tháng 1 – 1999.

18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Chiến lược phát triển

nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2011 – 2020.

19. Nguyễn Văn Bích (2007), Nông nghiệp, nông thôn sau hai mươi năm đổi

mới: Quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2005), Niên giám thống kê 2005.

21. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2006), Niên giám thống kê 2006.

22. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2007), Niên giám thống kê 2007.

23. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2008), Niên giám thống kê 2008.

24. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2009), Niên giám thống kê 2009.

95

25. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2010), Niên giám thống kê 2010.

26. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2011), Niên giám thống kê 2011.

27. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2012), Niên giám thống kê 2012.

28. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2013), Niên giám thống kê 2013.

29. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2014), Niên giám thống kê 2014.

30. Chi cục Thống kê huyện Thanh Trì (2015), Niên giám thống kê 2015.

31. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945 – 1995, NXB

Thống kê Hà Nội.

32. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt nam thời kỳ đổi

mới 1986 – 2002, NXB Thống kê, Hà Nội.

33. Nguyễn Tiến Dũng (2003), “Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển

nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng CNH – HĐH”,

Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

34. Lê Tiến Dũng (2015), “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển

kinh tế ngoại thành từ năm 1991 đến năm 2008”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,

Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn

đề phát triển nông nghiệp và nông thôn , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Các Đại hội và Hội nghị Trung ương,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

96

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới

(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam với phong

trào hợp tác xã, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26 - NQ/TW của Hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa X về vấn đề nông nghiệp, nông dân

và nông thôn.

47. Bùi Huy Đáp (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới,

Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Văn Hoan (2015), “Đảng bộ huyện Thường Tín (Hà Tây) lãnh

đạo phát triển kinh tế từ năm 1996 đến năm 2008”, Luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

49. HĐND huyện Thanh Trì, HĐND huyện Thanh Trì (2013), Những chặng

đường phát triển (1961 – 2011), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật.

50. Phùng Xuân Huy (2015), “Đảng bộ huyện Mê Linh (thành phố Hà Nội)

lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 2008 đến năm 2013”, Luận văn Thạc sĩ

Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội

51. Huyện ủy – HĐND – UBND huyện Thanh Trì (2010), Thanh Trì trên

đường đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Huyện ủy – UBND huyện Thanh Trì (2008), Truyền thống lịch sử, văn

97

hóa và cách mạng huyện Thanh Trì, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Huyện ủy – UBND huyện Thanh Trì (2014), Thanh Trì - Di tích lịch sử -

văn hóa và lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật.

54. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 02B-BC/HU của Huyện ủy Thanh Trì về kết

quả ĐHĐB lần thứ XXI, ngày 06/10/2005.

55. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 14-BC/HU tổng kết công tác lãnh đạo của

BCH Đảng bộ Huyện về thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2005, phương

hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2006, ngày 07/01/2006.

56. Huyện ủy Thanh Trì (2006), Báo cáo số 14-BC/HU ngày 07/1/2006 về

tổng kết công tác lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về thực

hiện nhiệm vụ chính trị năm 2005, phương hướng nhiệm vụ năm 2006.

57. Huyện ủy Thanh Trì (2006), Báo cáo số 91-BC/HU ngày 28/12/2006 về

kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm

2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007.

58. Huyện ủy Thanh Trì (2008), Báo cáo số 203-BC/HU ngày 20/6/2008 về

sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện 8 chương trình công tác của Ban Chấp

hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2005 - 2010).

59. Huyện ủy Thanh Trì (2009), Báo cáo số 326-BC/HU ngày 25/12/2009 về

kết quả 4 năm thực hiện 8 chương trình công tác của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2005 - 2010).

60. Huyện ủy Thanh Trì (2009), Báo cáo số 321-BC/HU ngày 14/12/2009 về

tổng kết công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2009, phương

hướng nhiệm vụ năm 2010.

61. Huyện ủy Thanh Trì (2010), Báo cáo số 13-BC/HU ngày 24/12/2010 về

tổng kết công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2010, nhiệm

vụ và giải pháp trọng tâm năm 2011.

62. Huyện ủy Thanh Trì (2012), Chương trình làm việc số 10-CT/HU ngày

98

06/01/2012 của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy Thanh Trì năm 2012.

63. Huyện ủy Thanh Trì (2010), Chương trình làm việc số 23-CT/HU ngày

02/1/2010 của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy Thanh Trì năm 2010.

64. Huyện ủy Thanh Trì (2010), Chương trình làm việc số 02-CT/HU ngày

30/12/2010 của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy Thanh Trì năm 2011.

65. Huyện ủy Thanh Trì (2011), Báo cáo số 74-BC/HU ngày 28/12/2011 về

tổng kết công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2011, nhiệm

vụ và giải pháp trọng tâm năm 2012.

66. Huyện ủy Thanh Trì (2012), Báo cáo số 158-BC/HU ngày 26/12/2012 về

tổng kết công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2012, nhiệm

vụ và giải pháp trọng tâm năm 2013.

67. Huyện ủy Thanh Trì (2013), Báo cáo số 169-BC/HU ngày 31/01/2013 về

sơ kết 02 năm thực hiện 6 chương trình công tác của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

68. Huyện ủy Thanh Trì (2013), Chương trình làm việc số 18-CT/HU ngày

06/01/2013 của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy Thanh Trì năm 2013.

69. Huyện ủy Thanh Trì (2013), Báo cáo số 199-BC/HU ngày 04/07/2013 về

sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện 6 chương trình công tác của Ban Chấp

hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

70. Huyện ủy Thanh Trì (2014), Báo cáo số 326-BC/HU ngày 23/12/2014 về

tổng kết công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2014, nhiệm

vụ và giải pháp trọng tâm năm 2015.

71. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 63-BC/HU tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị

59-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

nông nghiệp.

72. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo số 53-BC/HU về tổng kết 10 năm thực hiện

99

Chỉ thị số 59-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân trong thời kỳ CNH –

HĐH nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2000 – 2011, ngày 18/8/2011.

73. Huyện ủy Thanh Trì (2015), Báo cáo số 392-BC/HU ngày 06/7/2015 về

tổng kết 05 năm thực hiện 6 chương trình công tác của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

74. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo số 57-BC/HU tóm tắt thành tích 10 năm

thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân trong thời kỳ

CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2000 – 2011, ngày

16/9/2011.

75. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo số 107-BC/HU tổng kết 10 năm thực hiện

Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 hội nghị lần thứ 5 BCH TW

(khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập

thể trên địa bàn huyện Thanh Trì, ngày 31/5/2012.

76. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 203-BC/HU sơ kết 5 năm thực hiện NQTW 7

(khóa X) và Chương trình hành động 02 của Thành ủy (khóa XIV) về nông

nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì, ngày 19/7/2013.

77. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 242-BC/HU sơ kết 3 năm thực hiện Chương

trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội về tổng kết mô

hình xây dựng NTM tại xã điểm Đại Áng về kết quả công tác DDDT trên

địa bàn huyện Thanh Trì, ngày 12/12/2013.

78. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 374-BC/HU tổng kết chương trình 02-

CTr/HU ngày 10/3/2011, ngày 19/6/2015.

79. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 386-BC/HU báo cáo chính trị của BCH Đảng

100

bộ huyện khóa XII tại ĐH lần XXII, ngày 26/6/2015.

80. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ

Huyện khóa XXII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ

XXIII, ngày 28/6/2015.

81. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo sơ kết 04 năm thực hiện Chương trình số 02

- CTr/TU của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng

nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011 –

2015 trên địa bàn huyện Thanh Trì.

82. Huyện ủy Thanh Trì, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện 06 Chương trình

công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2010 –

2015), ngày 6/7/2015.

83. Huyện ủy Thanh Trì, Chương trình số 01-CT/HU tập trung đầu tư có

trọng điểm hạ tầng cơ sở, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng

vật nuôi chuyển đổi ngành nghề, phát triển làng nghề, đẩy nhanh tốc độ

phát triển kinh tế của huyện, ngày 10/04/2006.

84. Huyện ủy Thanh Trì, Chương trình số 10-CT/HU hành động thực hiện

Nghị quyết Đại hội X của Đảng, ngày 25/10/2006.

85. Huyện ủy Thanh Trì, Chương trình hành động số 17-CT/HU thực hiện

Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa X về

nông nghiệp, nông dân và nông thôn, ngày 10/11/2008.

86. Huyện ủy Thanh Trì, Chương trình số 19-CT/HU công tác năm 2009 của

Ban Thường vụ, ngày 03/02/2009.

87. Huyện ủy Thanh Trì, Chương trình số 23-CT/HU về làm việc của Huyện

ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy năm 2010, ngày 02/01/2010.

88. Huyện ủy Thanh Trì, Kế hoạch số 09-KH/HU tổng kết 5 năm thực hiện

Chỉ thị số 59-CT/TW của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân VN trong thời kỳ CNH – HĐH

101

nông nghiệp, nông thôn” giai đoạn 2001 – 2005, ngày 04/07/2006.

89. Huyện ủy Thanh Trì, Kế hoạch số 34-KH/HU về giám sát năm 2007 về

thực hiện 08 chương trình công tác của BCH Đảng bộ huyện khóa XXI

(nhiệm kỳ 2005 – 2010), ngày 26/7/2007.

90. Huyện ủy Thanh Trì, Kế hoạch số 48-KH/HU ngày 29/3/2012 về “Triển

khai thực hiện Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy

Hà Nội về Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước

nâng cao đời sống nông dân và Chương trình công tác số 02-CTr/HU của

Huyện uỷ giai đoạn 2011 – 2015”

91. Huyện ủy Thanh Trì, Kế hoạch số 75-KH/HU kiểm tra công tác lãnh đạo,

chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế

nông nghiệp, ngày 25/11/2008.

92. Huyện ủy Thanh Trì, Kế hoạch số 112-KH/HU triển khai thực hiện

chương trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện Thanh Trì, ngày

10/02/2010.

93. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 234-BC/UBND huyện Thanh Trì về kết quả

thực hiện Chương trình xây dựng NTM 9 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng

tâm 3 tháng cuối năm 2014 trên địa bàn huyện, ngày 14/10/2014.

94. Huyện ủy Thanh Trì, BC số 307-BC/HU Thanh Trì sơ kết 01 năm thực

hiện Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 19/9/2003 của Thành

ủy Hà Nội thực hiện kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ

Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa IX) “Tiếp tục đổi

mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể giai đoạn từ nay đến

năm 2020”, ngày 31/10/2014.

95. Phan Sỹ Mẫn (2001), Định hướng và tổ chức phát triển nền nông nghiệp

hàng hoá, Tạp chí Kinh tế, số 262, tháng 1/2001.

96. Tống Thị Nga (2014), “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện công

102

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 1997 đến năm

2010”, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, Trường ĐHKHXH

và NV, ĐHQG Hà Nội.

97. Lê Thị Thu Hương (2008), “Đường lối phát triển nông nghiệp nông thôn

của Đảng trong những năm 1986 – 2006”, Luận văn thạc sỹ Lịch sử,

Trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội.

98. Lê Huy Ngọ (2002), Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

99. Nguyễn Văn Lành (2015), “Đảng bộ huyện Quốc Oai (Hà Tây) lãnh đạo

phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008”, Luận văn

Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

100. Đặng Kim Oanh (2009), "Quan điểm của Đảng về phát triển nông

nghiệp trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8/2009.

101. Nguyễn Thị Hồng Phấn (2001), Cơ cấu nông nghiệp Việt Nam trong thời

kỳ đổi mới, Tạp chí Kinh tế, số 262, tháng 1/2001.

102. Lê Quang Phi (2006),“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ 1991 – 2002”,

Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.

103. Phòng kinh tế UBND huyện Thanh Trì (2015), Báo cáo kết quả rà soát,

đánh giá các đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất nông

nghiệp huyện Thanh Trì từ năm 2000 đến năm 2015.

104. Vũ Văn Phúc (1999), “Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản, số 7 (4/1999).

105. Đặng Kim Sơn và Trần Công Thắng (2001), Chuyển đổi cơ cấu sản xuất

nông nghiệp một số nước Đông Nam Á, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 274.

106. Nguyễn Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam -

103

Hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Tạ Đình Thi (2007). Bàn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm

phát triển kinh tế bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Tạp chí

Tài nguyên và Môi trường số 2 trang 49 – 53.

108. Tài liệu tập huấn, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xây dựng NTM năm

2014, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Chi cục phát triển

nông thôn.

109. Thành ủy Hà Nội (10/2006), Chương trình công tác của BCH Đảng bộ

thành phố Hà Nội khóa XIV (Lưu hành nội bộ).

110. Thành ủy Hà Nội (10/2008), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV, nhiệm kỳ 2005 – 2010, tập II, ban hành năm 2007, Văn phòng

Thành ủy Hà Nội (Lưu hành nội bộ).

111. Thành ủy Hà Nội (2010), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV, nhiệm kỳ 2005 – 2010, tập III, ban hành năm 2008, (Lưu hành

nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia

112. Nguyễn Thị Thoa, Đảng bộ huyện Mỹ Đức (tỉnh Hà Tây) lãnh đạo kinh tế

nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008, Đại học KHXH&NV, Hà Nội,

2012.

113. Vũ Thị Thoa (2010), “Một số quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số

11/2010.

114. Thành ủy Hà Nội (2011), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV, nhiệm kỳ 2005 – 2010, tập IV, ban hành năm 2009, (Lưu hành

nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.

115. Thành ủy Hà Nội (2012), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV, nhiệm kỳ 2005 – 2010, tập V, ban hành năm 2010, (Lưu hành

104

nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.

116. Thành ủy Hà Nội, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành

phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2010.

117. Thành ủy Hà Nội, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ thành

phố Hà Nội, Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

118. Thành ủy Hà Nội, Chương trình công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ

Thành phố Hà Nội lần thứ XV, Công ty in Báo mới, Hà Nội, 2011.

119. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 03-CTr/TU về tập trung nâng cao

chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế thủ đô tăng

trưởng nhanh và bền vững, Văn phòng Thành ủy Hà Nội ngày 9/9/2011.

120. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 02-CTr/TU Về phát triển nông

nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân

giai đoạn 2011-2015.Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

121. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 05-CTr/TU Về phát triển kinh tế

ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006-

2010.Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

122. Nguyễn Văn Thông (2013), “Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới”, Tạp chí Giáo

dục lý luận, số 199, tháng 7/2013.

123. Tổng cục Thống kê (2012). Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông

nghiệp và thủy sản năm 2011, Nxb Thống kê.

124. Thủ tướng chính phủ, Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết trung ương

7 và sơ kết thực hiện Nghị quyết số 26 (10/11/2013).

125. Nguyễn Thị Tuyết (2014), “Đảng bộ huyện Hoài Đức (tỉnh Hà Tây) lãnh

đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến 2008”, Luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

126. UBND huyện ủy Thanh Trì, BC số 233-BC/UBND huyện Thanh Trì về

105

kết quả thực hiện Chương trình “Phát triển nông nghiệp, xây dựng

NTM, từng bước nâng cao đời sống nông dân” 6 tháng đầu năm, nhiệm

vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2014 trên địa bàn huyện

127. UBND huyện Thanh Trì, BC số 302-BC/UBND huyện Thanh Trì về kết

quả sản xuất vụ mùa, sơ kết sản xuất vụ đông, các mô hình phát triển

kinh tế năm 2013, kế hoạch làm giao thông thủy lợi, sản xuất vụ xuân

năm 2014 trên địa bàn huyện, ngày 12/12/2013.

128. UBND huyện Thanh Trì (2011). Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

kinh tế - xã hội - quốc phòng an ninh năm 2010.

129. UBND huyện Thanh Trì (2016). Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2015, nhiệm vụ trọng tâm năm

106

2016.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1:MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN KINH

TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ

Kết quả thực hiện

TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2011 Thực hiện năm 2010 Năm 2012

Chỉ tiêu kế hoạch cả nhiệm kỳ (theo Nghị quyết Đại hội)

% 16.6 16 - 17 17.2 14.7 1 Tốc độ tăng trƣởng kinh tế

2

Cơ cấu kinh tế (theo giá thực tế ) (Công nghiệp, xây dựng - Thương mại dịch vụ - Nông nghiệp)

% 63.1 65 63.4 63 - Công nghiệp, xây dựng

% 20.2 25 20.8 22 - Thương mại dịch vụ

Nông nghiệp % 16.8 10 15.8 14.9 -

Tr. đ 3 76.8 115 85.2 90

GTSX trên 1 Ha đất nông nghiệp

107

(Nguồn phụ lục kèm theo Báo cáo số 199, ngày 04 tháng 7 năm 2013 của Huyện ủy Thanh Trì về Sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện 6 chương trình công tác của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì (nhiệm kỳ 2010 – 2015).

PHỤ LỤC 2: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO GIÁ HIỆN HÀNH PHÂN THEO NGÀNH KINH TẾ

Chia ra

Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Năm Dịch vụ và các hoạt động khác

Triệu đồng

Năm 2010 402981 181403 136248 85330

Năm 2011 413573 201054 175272 37247

Năm 2012 537778 260361 246499 30918

Năm 2013 616830 325859 238303 52668

Năm 2014 677400 346473 286159 44768

Năm 2015 612848.8146 327158.9801 261355.8345 24334

Cơ cấu - %

Năm 2010 100 45 33.8 21.2

Năm 2011 100 48.6 42.4 9

Năm 2012 100 48.4 45.8 5.8

Năm 2013 100 52.8 38.6 8.6

Năm 2014 100 51.2 42.2 6.6

Năm 2015 100 53.4 42.6 4

108

(Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Thanh Trì các năm 2010 – 2015)

PHỤ LỤC 3: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH CHĂN NUÔI THEO GIÁ HIỆN HÀNH PHÂN THEO NHÓM VẬT NUÔI VÀ SẢN PHẨM

Số lƣợng (Nghìn con)

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

0.2

0.3

0.6

0.7

0.6

0.2

Trâu

1.0

1.0

0.8

0.9

0.9

1.3

20.3

17.7

16.6

18.5

16.9

17.9

Lợn

Ngựa

0.1

0.1

0.1

0.1

0.1

0.1

0.1

0.1

0.1

0.0

0.0

0.1

Gia cầm

206.0

218.1

272.0

245.0

262.0

241.0

Trong đó:

94.0

90.4

132.0

134.0

154.0

128.0

'Vịt, ngan ngỗng

112.0

127.7

140.0

111.0

108.0

113.0

Sản lƣợng (Tấn)

4126.3

4265.9

4415.1

3693.0

4616.7

4693.0

Thịt trâu hơi

25.0

44.3

34.5

47.0

84.6

94.0

xuất chuồng

Thịt bò hơi

112.5

258.4

110.2

45.0

111.7

156.0

xuất chuồng

Thịt lợn hơi

xuất chuồng

3325.4

3192.1

3015.0

2250.0

3093.0

3054.0

Thịt gia cầm

663.4

771.1

1255.4

1351.0

1327.4

1389.0

giết bán

Trứng gà,

vịt, ngan, ngỗng (Nghìn quả)

5300.2

19562.8

26208.0

26279.0

24924.0

12869.0

109

(Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Thanh Trì các năm 2010 – 2015)

PHỤ LỤC 4

Một số hình ảnh về các mô hình trang trại trên địa bàn huyện Thanh trì

Mô hình trang trại chăn nuôi của gia đình ông Nguyễn Xuân Hùng,

110

xã Tả Thanh Oai - huyện Thanh Trì

Mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp với chăn nuôi

111

của ông Chử Bá Tùng xã Vạn Phúc huyện Thanh Trì

Mô hình trang trại nuôi trồng thủy sản kết hợp chăn nuôi

112

của ông Tạ Mạnh Tấn, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì.