Đại học quốc gia hà nội Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

MMaaii TThhịị TThhaannhh CChhââuu

Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ 1996 đến 2005

LLuuậậnn vvăănn tthhạạcc ssỹỹ llịịcchh ssửử

Hà Nội - năm 2007

Đại học quốc gia hà nội Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

MMaaii TThhịị TThhaannhh CChhââuu

Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ 1996 đến 2005

CChhuuyyêênn nnggàànnhh :: LLịịcchh ssửử ĐĐảảnngg ccộộnngg ssảảnn VViiệệtt NNaamm

MMãã ssốố :: 6600 2222 5566

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Thu Hương

Hà Nội - năm 2007

MỤC LỤC

Trang

1

MỞ ĐẦU

Chương 1: Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội và những yêu cầu

đặt ra đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở

tỉnh Nghệ An

1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội Nghệ An và những tác động

7

đối với công tác chăm sóc và bảo vệ nhân dân

7

1.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở Nghệ An trong những năm đầu tái lập

tỉnh (1991-1995)

9

1.2.1. Vai trò quan trọng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân

1.2.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với Nghệ An trong

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở tỉnh Nghệ an trong

những năm đầu tái lập tỉnh (1991-1995)

9 12

Chương 2: Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ của tỉnh đảng bộ nghệ an ( 1996-2005)

2.1. Lãnh đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân của tỉnh đảng bộ Nghệ An từ 1996-2000

2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về công tác chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hóa đất nước

2.1.2. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo

vệ sức khoẻ nhân dân (1996-2000)

2.1.3. Kết quả quá trình thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân của tỉnh đảng bộ Nghệ An từ 1996-2000

21 21 21 28 32

2.2. Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo thực hiện chiến lược chăm sóc

42

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ 2001-2005

2.2.1. Đảng bộ tỉnh Nghệ An quán triệt thực hiện chiến lược chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhằm thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005

2.2.2. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện chiến lược chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân (2001-2005)

2.2.3. Kết quả quá trình thực hiện chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân từ (2000-2005)

Chương 3: Kết quả và một số kinh nghiệm quá trình Đảng bộ

42 55 58

tỉnh Nghệ An lãnh đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân (1995 - 2005)

3.1. Kết quả quá trình thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân từ 1995 - 2005

3.1.1. Những thành tựu đạt được

3.1.2. Những hạn chế cần khắc phục

3.2. Một số kinh nghiệm về quá trình lãnh đạo thực hiện công tác

68 68 68 77

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ 1995 - 2005

79

84

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Trong 20 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước và

nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên mọi

mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Trong những thành tựu đó, có sự đóng góp quan

trọng của ngành y tế trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Quan điểm chỉ đạo cơ bản xuyên suốt quá trình đổi mới đất nước là vì

dân. do vậy công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là một trong

những mục tiêu hướng tới của công cuộc đổi mới. Đặc biệt Nghị quyết Trung

ương 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về một số vấn đề cấp

bách trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nghị quyết đã

nêu rõ con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất của xã hội, trong đó sức

khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Do vậy, với bản

chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa trong trong quá trình phát triển,

ngành y tế nước ta phải đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đã

khẳng định: "Thực hiện đồng bộ các chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát

triển giống nòi. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế, đặc biệt là ở cơ sở.

Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu, đẩy mạnh sản xuất dược phẩm,

bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến mọi địa bàn dân cư. Thực hiện công

bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ; đổi mới cơ chế chính sách viện phí, có

chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế

toàn dân. Nhà nước ban hành chính sách quốc gia về y học cổ truyền, kết hợp

y học cổ truyền từ khâu đào tạo đến khâu khám bệnh và điều trị" [16, tr.107].

Bước vào thế kỷ XXI, cùng với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước, Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo chặt chẽ công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

giai đoạn 2001 - 2010 đã vạch ra phương hướng phát triển và các giải pháp

tổng thể phát triển công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong tình

hình mới. Đặc biệt ngày 22/01/2002, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra

Chỉ thị 06 - CT/TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở nhằm tăng

cường hơn nữa công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nâng cao chất lượng các

dịch vụ y tế.

Thực hiện tốt công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đối với

một tỉnh nghèo, dân số đông là một thách thức đối với Ngành y tế Nghệ An.

Trong hơn 10 năm qua, xác định rõ sức khoẻ là vốn quý, đầu tư cho sức

khoẻ có nghĩa là đầu tư cho phát triển, góp phần cùng địa phương xoá đói

giảm nghèo. Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ XV tỉnh Đảng bộ Nghệ An về

phát triển y tế đã nêu rõ: "Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho

nhân dân, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Thực hiện công bằng xã hội

trong lĩnh vực y tế, đồng thời quan tâm thích đáng những người có công với

cách mạng, người nghèo..." [25, tr.31].

Được sự quan tâm của Bộ y tế, Tỉnh ủy - UBND tỉnh, ngành y tế

Nghệ An đã đạt được nhiều kết quả đáng kể góp phần chiến thắng dịch bệnh,

nâng cao sức khoẻ nhân dân. Chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được

nâng lên, các quy trình làm việc trong bệnh viện, quy chế chuyên môn được

triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả. Tuy nhiên, trước quá trình

chuyển đổi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành y tế

cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do vậy, cần

phải đánh giá lại một cách khách quan những thành công, hạn chế để đúc rút

những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác chăm sóc và bảo vế sức

2

khoẻ nhân dân của tỉnh nhà, để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác này

trước yêu cầu ngày càng cao của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân, tôi chọn vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công tác chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ 1996 đến 2005" làm đề tài luận văn thạc sỹ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cùng với những thành tựu của ngành y tế, rất nhiều cuốn sách, nhiều

bài báo đã tổng kết, đánh giá và đưa ra những giải pháp kịp thời đối với ngành

y tế. Bên cạnh đó, các công trình của các nhà khoa học trong lĩnh vực y tế,

lịch sử đã góp phần đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng và các cấp chính

quyền trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nhìn tổng thể có

thể chia thành những nhóm chủ yếu sau:

Nhóm thứ nhất, là những nghiên cứu của các nhà lãnh đạo, các nhà

quản lý, hoạch định chính sách, đáng kể nhất phải đề cập đến sách "Ngành y

tế Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI ", Nxb Y học, Hà Nội 2002. Các tác

giả tổng kết những thành tựu cũng như đăng tải những văn bản pháp lý quan

trọng có tính chất cơ sở cho ngành y tế trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân, đồng thời đề cập đến nhiệm vụ của ngành y tế trong thời kỳ mới và

thông tin về công tác y tế của các địa phương trong cả nước; Cuốn sách " Y tế

Việt Nam trong quá trình đổi mới " do GS. TS Đỗ Nguyên Phương chủ biên,

Nxb Y học, Hà Nội 1999 tập hợp nhiều bài viết về những lĩnh vực khác nhau

của ngành y tế trong quá trình đổi mới.

Cuốn sách "Chính sách và giải pháp thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban

đầu" của Bộ Y tế, Nxb Y học, Hà Nội 2002 đăng tải nhiều văn bản và chủ

trương về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân và các bài viết của lãnh đạo

Bộ y tế.

Nhóm thứ hai là những luận án, luận văn, các đề tài nghiên cứu khoa

học trong phạm vi cả nước và địa phương về y tế nói chung. Tuy nhiên, cũng

3

chỉ mới dừng lại ở việc đưa tin, nhận xét, báo cáo tổng kết, phương hướng,

giải pháp và chương trình hành động của ngành y tế. Cho đến nay, chưa có

một công trình khoa học nào đề cập một cách có hệ thống về quá trình lãnh

đạo của một tỉnh Đảng bộ địa phương cũng như ở Nghệ An về thực hiện công

tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đây cũng là một thuận lợi nhưng

cũng là khó khăn cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An thực hiện công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong giai đoạn từ 1996 đến 2005, luận

văn làm rõ tầm quan trọng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân ở tỉnh Nghệ An nói riêng và trong công cuộc đổi mới trên cả nước nói

chung. Qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An và rút

ra một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhằm góp

phần nâng cao chất lượng công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với việc thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:

- Làm rõ đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của Nghệ An ảnh hưởng

đến công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

- Hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quán triệt,

vận dụng của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân (từ 1996-2005).

- Quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ năm 1996 đến 2005.

4

- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm của

Đảng bộ tỉnh Nghệ An về quá trình thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ nhân dân từ năm 1996 đến 2005.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu công tác y tế trong việc chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân với 4 mục tiêu cơ bản: giảm tỷ lệ mắc bệnh,

nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, cải thiện giống nòi; ngoài ra còn có những vấn

đề khác như thể dục thể thao, giáo dục - đào tạo... liên quan đến công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, trên địa bàn tỉnh Nghệ An, thời gian

từ 1996-2006.

5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản

của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước. Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh.

Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc;

ngoài ra kết hợp với các phương pháp khác như: Phân tích, đối chiếu, so sánh,

thống kê, tổng kết, khảo sát thực tế. Những phương pháp này được sử dụng

phù hợp với yêu cầu của từng nội dung.

5.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu

5

- Các văn kiện của Đảng qua các Đại hội, Hội nghị Trung ương từ 1986

- 2006 trong đó trọng tâm 1996 - 2005.

- Các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XII, XIII, XIV,

XV, XVI.

- Các Quyết định, Nghị định của Chính phủ về công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

- Các văn kiện Đại hội Đảng bộ của Sở y tế Nghệ An từ 1996 - 2005.

- Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá VI, VII, VIII,

IX.

- Chương trình hành động, Kế hoạch, Báo cáo hàng năm của Sở y tế

Nghệ An về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

- Sách, báo, tạp chí của Trung ương và Nghệ An về công tác chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

6. Những đóng góp của luận văn

Đánh giá một cách khách quan thực trạng của công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân của tỉnh Nghệ An từ 1996-2005. Từ đó, rút ra một

số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần định hướng

cho sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ An về công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6tiết.

6

Chương 1

Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội

và những yêu cầu đặt ra đối với công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở tỉnh Nghệ An

1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội Nghệ An và những tác động

đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

Nghệ An là tỉnh thuộc Bắc Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá,

phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào. Tỉnh có diện tích tự nhiên là 1.648.7km2,

đứng đầu cả nước.

Tỉnh Nghệ An ở vị trí trung tâm của tiểu vùng Bắc bộ, trên tuyến giao

lưu Bắc - Nam và đường xuyên á Đông - Tây, cách Thủ đô Hà Nội 297km về

phía bắc, cách biên giới Việt - Lào khoảng 80km. Nghệ An hội tụ đủ các

tuyến giao thông quốc gia qua địa bàn là: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ,

đường hàng không. Vị trí địa lý kinh tế là một lợi thế so sánh của Nghệ An

trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

* Về địa hình: Nghệ An nằm ở phía Đông Bắc dãy Trường Sơn, có độ

dốc thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Diện tích đồi núi chiếm 83%

diện tích tự nhiên, tập trung ở phía Tây của tỉnh. Dải đồng bằng nhỏ hẹp

chiếm 17% diện tích tự nhiên chạy từ Nam đến Bắc giáp biển Đông và bị các

dãy núi bao bọc. Địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dày đặc và

những dãy núi xen kẽ. Đó cũng là trở ngại lớn cho sự phát triển, giao thông và

tiêu thụ sản phẩm.

* Về khí hậu: Tỉnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang

tính chuyển tiếp của khí hậu miền Bắc và khí hậu miền Nam. Số giờ nắng trong năm từ 1.500 - 1.700 giờ, bức xạ mặt trời 74,6kalo/cm2. Nhiệt độ trung

7

bình năm khoảng 230C, cao nhất 430C, thấp nhất 20C. Lượng mưa trung bình

năm 1.800 - 2.000mm. Hàng năm Nghệ An còn chịu ảnh hưởng gió Tây Nam,

khô nóng. Do địa hình phân dị phức tạp nên khí hậu cũng phân dị theo tiểu

vùng và mùa vụ.

* Về hành chính- dân số: Tỉnh Nghệ An có 19 đơn vị hành chính gồm

thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, 10 huyện miền núi (Thanh Chương, Kỳ Sơn,

Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ

Hợp, Nghĩa Đàn) và 7 huyện đồng bằng (Đô Lương, Nam Đàn, Hưng

Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành). Nghệ An có hơn 3

triệu người dân, phần lớn dân cư sống trên địa bàn miền núi. Tổng nguồn lao

động xã hội có khoảng 1,5 triệu người, trong đó làm việc trong các ngành

nghề kinh tế quốc dân là 1.380 nghìn người. Hiện nay, toàn tỉnh có 103 tiến

sỹ, 406 thạc sỹ, 23.677 người có trình độ đại học, 13.544 có trình độ cao

đẳng, 60 nghìn cán bộ kỹ thuật trung cấp, 58 nghìn công nhân kỹ thuật, lao

động được đào tạo chiếm 14,5% số lao động đang làm việc.

* Về văn hoá - nhân văn: Nghệ An là vùng đất giàu truyền thống văn

hoá và giáo dục. Con người Nghệ An nổi tiếng bởi sự cần cù, cương trực,

thông minh, hiếu học, có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí, tinh thần cách

mạng và đổi mới. Xứ Nghệ, mảnh đất địa linh nhân kiệt, đã xuất hiện nhiều

bậc hiền tài mà kết tinh là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, anh hùng giải phóng

dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.

Trên quê hương Nghệ An có nhiều di tích lịch sử văn hoá được xếp

hạng và nhiều danh thắng nổi tiếng, nhiều nét văn hoá dân tộc đậm đà bản sắc

xứ Nghệ được giữ gìn tôn tạo và phát triển. Những sản phẩm văn hoá vật thể

và phi vật thể đó là cội nguồn tinh hoa giá trị dân tộc đang hấp dẫn du khách

trong nước và quốc tế đến nghiên cứu, tham quan.

8

* Về truyền thống y học: Ngoài các kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại

xâm, đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ quê hương xứ sở, bảo vệ cuộc sống

bình yên, nhân dân Nghệ An đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm bảo vệ sức

khoẻ con người. Những kinh nghiệm dân gian phong phú cùng với những kết

quả nghiên cứu của các danh y lỗi lạc đã góp phần làm cho nền y học cổ

truyền nước ta phát triển. Trong hàng trăm danh y tỉnh nhà ở các thời kỳ lịch

sử có Hoàng Nguyên Cát, Hoàng Danh Sưởng... đã có nhiều cống hiến xuất

sắc cho nền y học nước nhà.

1.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với công tác chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở Nghệ An trong những năm đầu tái lập

tỉnh (1991-1995)

1.2.1. Vai trò quan trọng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Giữ gìn dân chủ, xây

dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm

thành công. Mỗi người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi người dân mạnh

khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ [4, tr.23]. Người luôn quan tâm tới sức khoẻ

của đồng bào, ngay từ những ngày đầu của Cách mạng Tháng Tám thành

công, Người đã chỉ rõ “Mỗi người dân khoẻ thì cả nước khoẻ” và “luyện tập

thể dục, bồi dưỡng sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. [4,

tr.24]. Để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân tốt, Hồ Chí Minh luôn căn dặn

cán bộ y tế "Thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt” [4, tr.25].

Con người là vốn quý nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ và bồi

dưỡng sức khoẻ của con người là nghĩa vụ và mục tiêu cao quý của các ngành

y tế. Chính vì thế, Đảng và Chính phủ ta rất coi trọng công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

9

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) khẳng định:

"Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân là một vấn đề rất quan trọng

gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, với hạnh phúc

của nhân dân. Đó là một trong những mối quan tâm hàng đầu của chế độ ta,

là trách nhiệm cao quý của Đảng và Nhà nước ta, trước hết là của các ngành

y tế" [10, tr.126,].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) cũng nêu rõ:

"Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân là một nhiệm vụ cách mạng cao cả. Mỗi cán

bộ y tế, thầy thuốc cũng như những người bào chế thuốc, từ giáo sư, bác sĩ,

đến y tá và nhân viên phục vụ, cần nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, nêu

cao đạo đức của người cán bộ y tế xã hội chủ nghĩa "Thầy thuốc như mẹ hiền

", hết lòng cống hiến trí tuệ, lương tâm để phục vụ người bệnh và chăm lo sức

khoẻ của nhân dân" [11, tr.69,].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) của Đảng cũng

khẳng định: "Bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực của nhân dân phải trở thành

hoạt động tự giác của mỗi người, với sự quan tâm của Nhà nước và của toàn

xã hội " [13, tr.115].

"Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của

nhân dân, theo hướng dự phòng là chính; kết hợp y học hiện đại với y học cổ

truyền dân tộc. Sắp xếp lại hệ thống y tế, củng cố y tế cơ sở, đặc biệt là ở

miền núi... Bảo đảm nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Phát triển bảo hiểm khám

chữa bệnh, tăng ngân sách cho hoạt động khám chữa bệnh ".

" Mở rộng hợp tác quốc tế về y tế, sử dụng có hiệu quả các nguồn viện

trợ quốc tế trong lĩnh vực y tế " [12, tr.115].

Vấn đề cốt lõi trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là y đức

“Thầy thuốc như mẹ hiền”, đó cũng là tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta. Tại buổi

lễ kỷ niệm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/02/1996 và đón nhận Huân chương

10

Sao vàng, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ thị cho Ngành y phải phát

huy hơn nữa truyền thống vẻ vang của ngành, không ngừng nâng cao trình độ

ngang tầm nhiệm vụ, rèn luyện phẩm chất, đặc biệt là nâng cao y đức, hết

lòng chăm nom người bệnh, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Thầy thuốc như

mẹ hiền”.

Rất quan tâm đến sức khoẻ của nhân dân, bằng tâm huyết của mình,

trong thư gửi báo Sức khoẻ và Đời sống, đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu

đã ân cần căn dặn cán bộ ngành y tế: “Công việc của người thầy thuốc được

ví như công việc của Người Mẹ, chăm lo cho con cái, cho gia đình, cho nòi

giống, cho con người, từ thuở chưa lọt lòng đến giây phút thanh thản từ giã

cuộc đời, giúp cho bà con vượt qua số phận hẩm hiu, những đau đớn quằn

quại của bệnh tật, sự sinh nở được mẹ tròn con vuông, giúp cho lứa đôi hạnh

phúc, các cụ già trường thọ”. Đồng chí Tổng Bí thư dặn dò mỗi cán bộ y tế:

“Đem tình thương vĩnh cửu của Người Mẹ để làm công việc cao quý của

mình”.

Luôn luôn lo tới sức khoẻ của nhân dân và rất quan tâm tới Ngành y

tế, trong thư gửi cán bộ y tế nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam ngày 27 tháng

02 năm 2002, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ân cần dặn dò cán bộ

ngành y tế: “Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là một công việc đặc biệt

liên quan đến tài sản vô giá là sinh mệnh con người. Cán bộ y tế phải không

ngừng rèn luyện, gắn “đức” và “tài”, phải có “cái tâm trong sáng” mới làm

được nghề cao quý này” và đồng chí Tổng Bí thư cũng nhắc nhở cán bộ y tế

rất cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ:“Phải tiếp tục nâng cao y đức của

cán bộ y tế, thể hiện bằng các hành động cụ thể từ tiếp đón người bệnh, khám

bệnh, chẩn đoán đến điều trị và chăm sóc tại các cơ sở y tế. Mọi biểu hiện

“thương mại hoá” trong Ngành y tế, dù dưới bất kỳ hình thức nào đều cần

phải sớm được khắc phục”.

11

Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ nhân dân là: "Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người và toàn xã hội,

là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì vậy

chúng ta phải phấn đấu để mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức

khoẻ". Trong quá trình phát triển kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo là không thể

tránh khỏi, vì vậy, bảo vệ người nghèo trong chăm sóc sức khoẻ trước sức ép

của kinh tế thị trường là mục tiêu hàng đầu của nền y tế Việt Nam. Mục tiêu

của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với thực hiện công bằng xã

hội, sự nghiệp y tế là của toàn dân, của nhiều ngành trong đó ngành y tế đóng

vai trò cơ bản.

Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả

và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm

sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát

triển kinh tế xã hội của đất nước.

1.2.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với công tác chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở Nghệ An (1991-1995)

Trước năm 1986, ngành y tế Việt Nam nói chung và ngành y tế Nghệ

Tĩnh nói riêng đã phải đi lên từ những khó khăn thử thách. Đây chính là giai

đoạn chuyển mình của ngành trong điều kiện đất nước vừa ra khỏi chiến

tranh, tình hình kinh tế có nhiều khó khăn, biến động. Ngành y tế vừa phải

đảm nhận và hoàn thành những trọng trách lớn lao, nặng nề trong việc thể

hiện "Lương y như từ mẫu", vừa đổi mới củng cố kiện toàn hệ thống tổ chức

và lực lượng đội ngũ cán bộ y tế. Ngành y tế Nghệ Tĩnh đã sớm xác định

đúng chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Toàn ngành phát

triển phong trào thi đua "Thầy thuốc phải như mẹ hiền" để xây dựng đội ngũ

cán bộ y tế với hai trọng tâm: chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho mọi người dân

theo mười nội dung và nâng cao chất lượng trên mọi mặt hoạt động.

12

Mười nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu:

1. Giáo dục sức khoẻ.

2. Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở.

3. Cung cấp đủ nước sạch và tinh khiết.

4. Tiêm chủng, chủ yếu phòng 6 bệnh lây truyền trẻ em.

5. Phòng và chống các bệnh lưu hành ở địa phương.

6. Cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng hợp lý và vệ sinh thực phẩm.

7. Kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc bà mẹ trẻ em.

8. Bảo đảm thuốc thiết yếu, chủ yếu là thuốc Nam.

9. Chữa bệnh tại nhà và xử lý vết thương thông thường.

10. Quản lý sức khoẻ.

Với phong trào thi đua "Thầy thuốc phải như mẹ hiền", ngành y tế

Nghệ Tĩnh trước đổi mới đã có những hoạt động và những thành tích quan

trọng, góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong công tác

chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân

khác nhau, nhìn chung hiệu lực của công tác y tế Nghệ Tĩnh vẫn còn một số

hạn chế, hoạt động của hệ thống các cơ quan y tế còn phụ thuộc và bị động

trước các cấp chính quyền.

Trên tinh thần quán triệt và nắm vững quan điểm Đại hội VI của Đảng,

Đại hội đại biểu lần thứ XII Đảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh đã xác định Y học

phòng ngừa kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc, tổ chức thực

hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Làm tốt công tác vệ sinh phòng

bệnh, phòng chống dịch, bảo vệ và làm sạch môi trường. Củng cố và nâng cao

chất lượng khám chữa bệnh và điều trị ở các cơ sở y tế từ xã đến huyện và

tỉnh. Củng cố tốt mạng lưới và thực hiện tốt chính sách, chế độ đối với cán bộ

y tế cơ sở. Quan tâm đúng mức việc xây dựng mạng lưới y tế ở các làng, bản,

các xã vùng núi cao. Không ngừng nâng cao trách nhiệm và lương tâm với

13

tinh thần phục vụ người bệnh vô điều kiện của người thầy thuốc xã hội chủ

nghĩa, đấu tranh loại trừ những hiện tượng tiêu cực ở các cơ sở khám bệnh,

phân phối và cấp phát thuốc. Có quy hoạch và chính sách khuyến khích việc

nuôi trồng cây, con làm thuốc, khai thác và chế biến dược liệu, bảo đảm có đủ

thuốc thông thường từ dược liệu địa phương chữa bệnh cho nhân dân. Chăm

lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ y tế, nhất là

cán bộ y tế hoạt động ở miền núi và cơ sở cả về vật chất và tinh thần.

Trên cơ sở đó, ngành y tế Nghệ Tĩnh chủ yếu tập trung vào 2 nhiệm vụ

trọng tâm: Chăm sóc sức khoẻ ban đầu và nâng cao chất lượng mọi mặt công

tác y tế. Hướng tập trung vào công tác trọng tâm như: Tiếp tục kiện toàn tổ

chức mạng lưới y tế, nhất là y tế cơ sở và y tế huyện; đẩy mạnh công tác bảo

vệ bà mẹ trẻ em, thực hiện kế hoạch hoá gia đình; đẩy mạnh hoạt động vệ

sinh phòng dịch, phòng chống dịch, tích cực phòng ngừa khống chế các loại

dịch bệnh: tả, lỵ, sốt rét...; triển khai thực hiện chương trình tiêm chủng mở

rộng và các chương trình được các tổ chức y tế thế giới tài trợ; nâng cao chất

lượng khám chữa bệnh; giải quyết tốt công tác sản xuất, lưu thông, phân phối

sử dụng thuốc và các trang thiết bị, dụng cụ y tế; đồng thời phải làm tốt các

nhiệm vụ đột xuất của y tế quân sự; phòng chống thiên tai, phục vụ yêu cầu

kịp thời các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, Quốc hội ra

Nghị quyết về việc chia tách một số tỉnh, trong đó có tỉnh Nghệ Tĩnh. Thực

hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 20/8/1991, UBND tỉnh Nghệ Tĩnh đã ra

thông báo số 02-TB/UB về việc tách tỉnh. Như vậy, sau 15 năm hợp nhất, tỉnh

Nghệ Tĩnh lại được chia ra thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Ngành y tế

Nghệ An cũng được thành lập lại và có sự thay đổi phù hợp với thời kỳ mới.

Sau khi tách tỉnh vào tháng 8/1991, công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Tình hình dịch bệnh có

14

nhiều diễn biến phức tạp, dịch sốt rét có nguy cơ lan rộng, bướu cổ chiếm tỷ

lệ cao, phát triển dân số còn ở mức 2,2%. Môi trường ô nhiễm nặng, tỷ lệ

bệnh nhiễm trùng cao. Đội ngũ cán bộ y tế tương đối đông nhưng bố trí không

đều, đời sống cán bộ y tế còn nhiều khó khăn, nhất là cán bộ y tế cơ sở. Ngân

sách cấp cho ngành y tế thấp, cơ sở vật chất xuống cấp nghiêm trọng.

Từ năm 1991, tỉnh Nghệ An được tái lập. Thời kỳ này, cả nước chuyển

từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, các cấp, các ngành đứng trước nhiều

khó khăn trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi. Đối với ngành y tế, khó

khăn càng rõ nét hơn. Trước đây, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được

bao cấp, vì vậy, khi chuyển sang cơ chế thị trường, ý thức của cán bộ y tế, ý

thức của nhân dân chưa theo kịp nên gặp nhiều khó khăn, cản trở trong quá

trình vận hành cơ chế mới. Cán bộ y tế chủ yếu được đào tạo trong thời kỳ

bao cấp, không còn phù hợp, công tác đào tạo mới chưa kịp thời. Cơ sở vật

chất phần lớn được xây dựng từ những năm 70, 80 đã bị xuống cấp. Do tác

động của cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ y tế có thái độ phiền hà, sách

nhiễu bệnh nhân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với ngành.

Tại Hội nghị tổng kết ngành y tế Nghệ An tháng 12/1991 đã nhận định:

sau khi tách tỉnh, Nghệ An vẫn có diện tích rộng, dân số đông với một thành

phố và 17 huyện, 451 xã, phường, thị trấn. Diện tích miền núi và trung du

chiếm 80%. Tình hình dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp, dịch sốt rét có

nguy cơ lan rộng, bướu cổ chiếm tỷ lệ cao, phát triển dân số còn ở mức 2,2%,

môi trường ô nhiễm nặng, tỷ lệ bệnh nhiễm trùng cao. Đội ngũ y tế tương đối

đông nhưng bố trí không đều, đời sống cán bộ y tế còn nhiều khó khăn nhất là

cán bộ y tế cơ sở. Ngân sách cấp cho ngành y tế thấp, cơ sở vật chất xuống

cấp nghiêm trọng.

Thực hiện Quyết định 109 về việc sắp xếp tổ chức biên chế hành chính

sự nghiệp của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và công văn hướng dẫn 2521 của

15

Bộ y tế, Ngành y tế đã tiến hành hợp nhất phòng y tế, bệnh viện huyện, đội y

tế dự phòng và hiệu thuốc huyện thành thành trung tâm y tế huyện. Cuối năm

1991 đã thành lập được 13/18 trung y tế huyện, năm 1993 thành lập thêm

được Trung tâm y tế huyện Quỳnh Lưu, năm 1994 thành lập thêm được Trung

tâm y tế Thị xã Cửa Lò.

Đầu những năm 90, do tác động của cơ chế thị trường, hệ thống y tế xã,

thôn, bản, ở nhiều nơi yếu, thậm chí mất trắng. Năm 1991, toàn tỉnh có 103 xã

trắng về y tế, không có trạm xá, không có y tế thôn bản.

Mạng lưới y tế cơ sở trong thời gian đầu tái lập tỉnh bộc lộ bất cập: cơ

sở vật chất thiếu thốn, khả năng cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng theo định

hướng công bằng trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhất là miền núi, vùng

sâu, vùng xa... rất nhiều hạn chế, có nơi yếu kém.

Năm 1991, dịch sốt rét diễn ra trên phạm vi cả nước, ở Nghệ An, do

địa hình phức tạp, đồi núi nhiều, điều kiện y tế cơ sở khó khăn nên dịch sốt rét

có điều kiện lan nhanh và diễn biến phức tạp. Từ năm 1991 đến năm 1992,

Nghệ An có 68 vụ sốt rét, có 108.989 người mắc bệnh và có 824 người tử

vong, đặc biệt ở các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương, Kỳ Sơn,

Con Cuông số người mắc bệnh và tử vong do sốt rét rất cao.

Thời kỳ này, ở Nghệ An, tỷ lệ người dân mắc bệnh bướu cổ và các rối

loạn do thiếu Iốt cao so với cả nước. Theo số liệu điều tra năm 1990, ở miền

núi tỷ lệ người dân bị bướu cổ là 38,1%, tỷ lệ đần độn ước tính 1,6%, chậm

phát triển trí tuệ khoảng 8-10%. Đặc biệt ở các xã có tỷ lệ người dân bị bướu

cổ rất cao như: Phà Đánh (Kỳ Sơn) là 79%, Bắc Lý (Kỳ Sơn) là 60%, ở đồng

bằng ven biển, tỷ lệ bướu cổ học sinh 8-12 tuổi là 10,5-15%.

Giai đoạn này, hoạt động phòng chống lao đã thu được nhiều kết quả

quan trọng. Tuy nhiên, bệnh lao vẫn có những diễn biến phức tạp, làm cho

công tác phòng chống lao đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Cơ chế thị

16

trường làm cho sự giao lưu giữa các vùng miền, cũng đồng thời làm gia tăng

nguồn lây lan các bệnh truyền nhiễm. Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng và chưa có biện pháp ngăn chặn... Tất cả những yếu tố trên là nguyên

nhân gây nên sự quay trở lại của bệnh lao và có những diễn biến phức tạp khó

kiểm soát. Theo số liệu của Trung tâm phòng chống lao quốc gia, tỷ lệ nhiễm

lao mới Nghệ An khoảng 75 bệnh nhân/100.000 người. Trung bình mỗi năm,

tỉnh Nghệ An phát hiện từ 2000- 3000 bệnh nhân lao phổi vi trùng dương

tính, tuy nhiên, con số thực tế còn cao hơn nhiều và nguy hiểm chính là những

bệnh nhân chưa được phát hiện và điều trị đã là nguồn gây bệnh rất lớn với

cộng đồng. Những vùng phát hiện có tỷ lệ cao là Thành phố Vinh, huyệnYên

Thành, huyện Kỳ Sơn.

Công tác điều trị bệnh lao tương đối phức tạp, phần lớn người dân

chưa ý thức đủ mức độ nguy hiểm của bệnh, nhiều bệnh nhân mặc cảm không

đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế nhà nước, tự mua thuốc điều trị, không

thực hiện đúng quy định hướng dẫn điều trị nên dẫn đến kháng thuốc, bệnh

ngày càng trầm trọng.

Trong những năm từ 1991 đến 1995, công tác phòng chống lao được

triển khai trên diện rộng. Riêng trong năm 1994, hoạt động chống lao được

triển khai ở 300 xã, 16/19 huyện, thành phố. Về chương trình chống lao cấp 2,

số người dân được bảo vệ trong chương trình là 1.963.000 người, đạt 76,1%,

đã khám và phát hiện được 1.377 người, tổng bệnh nhân được quản lý là

2.349 người. Mặc dù, ngành y tế Nghệ An đã có những việc làm thiết thực, tỷ

lệ chữa khỏi bệnh đạt trên 92% nhưng Nghệ An vẫn là một trong những tỉnh

có tỷ lệ bệnh lao cao so với các tỉnh phía Bắc.

Trong giai đoạn này, tỷ lệ dân số ở Nghệ An còn tăng cao, đặc biệt là ở

vùng dân tộc, miền núi, vùng nông thôn. Từ 1991 đến 1995, bình quân hàng

17

năm mức giảm sinh chỉ đạt 0,4%, tỷ lệ sinh là 31,55%, những con số cao so

với cả nước.

Công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em gặp nhiều khó khăn, Nghệ

An là tỉnh lớn, dân số đông, tỷ lệ phụ nữ, trẻ em cao, nhưng không có bệnh

viện phụ sản, đây là một thiệt thòi lớn cho công tác chăm sóc sức khoẻ của

phụ nữ và các bà mẹ mang thai ở tỉnh Nghệ An.

Đầu những những năm 90, cùng với cả nước, công tác khám chữa

bệnh ở Nghệ An đứng trước nhiều khó khăn. Hệ thống cơ sở vật chất không

đảm bảo chất lượng hoạt động, nhà cửa phần lớn được xây dựng từ những

năm 80, chủ yếu là nhà cấp 4, qua nhiều thiên tai đã bị xuống cấp nghiêm

trọng, trang thiết bị y tế nghèo nàn, lạc hậu, kinh phí đầu tư cho bệnh viện rất

thấp. Sự thay đổi cơ chế quản lý đã tác động đến hoạt động khám chữa bệnh.

Đời sống cán bộ y tế khó khăn, một bộ phận không yên tâm công tác, bỏ ra

ngoài tìm việc làm khác, một bộ phận có biểu hiện gây khó dễ, sách nhiễu

bệnh nhân. Kỷ luật bệnh viện sa sút, việc thu viện phí, bán thuốc tại các khoa

phòng một cách tuỳ tiện. Hàng quán bừa bãi, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến uy

tín của hệ thống điều trị, lòng tin của nhân dân đối với ngành giảm sút.

Ngày 19/9/1991, Bộ y tế phát động toàn ngành thực hiện đề án "Nâng

cao tinh thần thái độ phục vụ, giảm phiền hà cho bệnh nhân trong các cơ sở

khám chữa bệnh". Thực hiện chủ trương của Bộ y tế, Sở y tế Nghệ An đã tiến

hành kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng khám chữa bệnh ở Nghệ An và lên

phương án chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém. Ngành đã tăng cường công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, mở các đợt sinh hoạt, học tập cho cán bộ toàn

ngành. Trong đó nhận thức rõ công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ

nhân dân là nghĩa vụ của cán bộ y tế. Đạo đức người thầy thuốc, lương tâm

nghề nghiệp là truyền thống tốt đẹp của ngành.... học tập 12 điều y đức cũng

18

như quy chế bệnh viện, tổ chức kiểm tra, giám sát và chấn chỉnh việc thực

hiện tại các cơ sở khám chữa bệnh.

Tháng 8 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 299

về Điều lệ bảo hiểm y tế. Ngay sau đó, tháng 9 năm 1992, Uỷ ban nhân dân

tỉnh Nghệ An đã Quyết định số 2621 về việc thành lập cơ quan bảo hiểm y tế

tỉnh. Trong những năm từ 1992 đến 1995, hệ thống cơ quan bảo hiểm y tế từ

tỉnh xuống đến các chi nhánh huyện, thành thị, xã, phường, thị trấn đã được

thành lập và đi vào hoạt động.

Đầu những năm 90, hoạt động y học cổ truyền đứng trước nhiều khó

khăn. Sự phát triển của tân dược làm cho những giá trị của y học cổ truyền bị

lấn át. Việc trồng thuốc không mang lại nhiều thuận lợi, tân dược lại dễ mua,

dễ sử dụng nên được lựa chọn nhiều hơn. Vì vậy giai đoạn này, nhiều vườn

thuốc Nam đã bị phá bỏ. Hệ thống y tế cơ sở yếu dẫn đến không có cơ sở cho

y học cổ truyền phát triển sâu rộng như trước đây.

Tuy nhiên, từ những giá trị thực tế to lớn của y học cổ truyền, đồng

thời người dân cũng dần nhận thức được những hạn chế trong việc sử dụng

tây y, công tác phát triển y học cổ truyền đã được quan tâm, đầu tư đúng mức.

Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương đúng đắn trong việc đẩy mạnh sự

phát triển của nền y học cổ truyền dân tộc, đồng thời kết hợp có hiệu quả y

học cổ truyền với y học hiện đại trong công tác khám chữa bệnh.

Những con số trên cho thấy, trong những năm đầu tái lập tỉnh (1991-

1195), cùng với muôn vàn khó khăn về kinh tế- xã hội, công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở tỉnh Nghệ An đứng trước những khó khăn rất lớn:

Tuyến y tế cơ sở chậm thay đổi, bất cập với nhu cầu khám chữa bệnh, công

tác quản lý nhà nước về y tế chậm được kiện toàn, xã hội hoá công tác y tế

còn lúng túng, nhiều lĩnh vực xã hội bức xúc chưa được giải quyết. Nhiều cấp

uỷ Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của công

19

tác y tế. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể nhân dân trong lĩnh vực y

tế thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao... Những tồn tại trên đặt ra cho Đảng bộ

và nhân dân tỉnh nhà những nhiệm vụ nặng nề trong sự nghiệp chăm sóc và

bảo vệ nhân dân. Thực tiễn công tác này trong giai đoạn 1991-1995 đã đặt ra

những vấn đề cần giải quyết:

- Nền kinh tế tỉnh nhà tăng trưởng chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu

ngân sách chi phí cho hoạt động y tế, trong khi cơ sở vật chất, trang thiết bị y

tế chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu.

- Tình trạng ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội và tai nạn giao

thông gia tăng làm tăng nguy cơ bệnh tật và những khó khăn về công tác y tế.

- Các dịch bệnh diễn biến phức tạp, có thể bùng phát lúc nào, các dịch

bệnh tiềm ẩn ở nhiều địa phương.

- Sức khoẻ nhân dân tỉnh nhà ở mức thấp và không đồng đều ở các

vùng. Tỷ suất chết mẹ và trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em còn cao.

- Số lượng cán bộ y tế có sự phân bố không đồng đều giữa các vùng.

Tỷ lệ bác sỹ công tác ở xã thấp. Việc nâng cao trình độ cho cán bộ y tế còn

nhiều khó khăn do mặt bằng văn hoá thấp.

- Các sai phạm về y đức, tinh thần phục vụ bệnh nhân còn chưa xứng

đáng với vai trò và nhiệm vụ, uy tín của ngành còn nhiều hạn chế.

- Hệ thống y học cổ truyền chưa đủ mạnh so với nhiệm vụ, chưa phát

huy được tiềm năng hiện có. Đội ngũ cán bộ y học cổ truyền chưa đáp ứng

được yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

- Công nghiệp sản xuất thuốc chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng

cao về số lượng, chủng loại, chất lượng do thiếu vốn để đầu tư trang thiết bị

hiện đại và thiếu cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn, quản lý.

- Thiếu kiến thức và kinh nghiệm về tổ chức quản lý hệ thống y tế

trong thời kỳ đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường.

20

- Chế độ chính sách đối với cán bộ y tế còn nhiều bất cập, chưa thoả

đáng, chưa thu hút được cán bộ về công tác vùng khó khăn, vùng sâu, vùng

xa.

21

Chương 2

Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân của tỉnh Đảng bộ Nghệ An

(1996- 2005)

2.1. Lãnh đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân của tỉnh Đảng bộ Nghệ An (1996-2000)

2.1.1. Chủ trương của tỉnh Đảng bộ Nghệ An về công tác chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hóa đất nước

Có thể nói, trước năm 1986, Việt Nam đã có một nền y tế khá phát

triển, với một mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế rộng khắp tới tận thôn xóm.

Tuy nhiên trong thời kỳ bao cấp, Nhà nước đảm bảo gần như toàn bộ

mọi chi phí y tế. Những nhược điểm của hoạt động y tế trong thời kỳ này có

thể thấy như trì trệ, thiếu hiệu quả, người dân không được tự do lựa chọn nơi

khám bệnh và chất lượng còn thấp do không được đầu tư đúng mức.

Chuyển sang thời kỳ đổi mới đất nước, những thành tựu nhiều mặt của

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đã khẳng định các chính sách

đổi mới y tế là đúng đắn và rất có hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế

khách quan đang có nhiều thay đổi của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) khẳng định về

chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân:"Sức khoẻ của nhân

dân, tương lai của giống nòi là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà

nước ta, là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và

lợi ích thiết thân của mỗi công dân " [12, tr.76 ].

Đại hội lần thứ VI của Đảng nêu rõ đẩy mạnh công tác y học dự phòng,

kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền và phương châm " Nhà nước và

22

nhân dân cùng làm ", trước mắt tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt

động y tế và đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ của nhân

dân.

Có biện pháp tích cực và chính sách thích hợp, nhanh chóng củng cố

mạng lưới y tế huyện, quận và cơ sở. Phát động rộng rãi phong trào quần

chúng và huy động lực lượng các ngành tham gia bảo vệ và làm sạch môi

trường, phòng và chống dịch, phòng và chống các bệnh xã hội, nghề nghiệp...

Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác khám và chữa bệnh. Tăng cường

giáo dục cán bộ, nhân viên y tế về thái độ, tinh thần phục vụ. Đẩy mạnh công

tác nghiên cứu khoa học, cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế,

không ngừng nâng cao trình độ của nền y học và y tế nước ta. Cố gắng đầu tư

thêm cho công tác y tế và chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, văn hoá của đội

ngũ cán bộ y tế.

Ngày 14 tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết "Về những vấn đề cấp bách của

sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân".

Nghị quyết đã đánh giá cao những đóng góp to lớn, những thành tựu

của ngành y tế trong sự nghiệp chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Tuy nhiên, do hậu quả của khủng hoảng kinh tế - xã hội và sự chuyển

đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, hệ thống y tế đã gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc

sức khoẻ của nhân dân. Tình trạng sức khoẻ của nhân dân mặc dù được cải

thiện, song còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, đó là, thể lực phát triển còn

chậm; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và người lớn còn cao, một số bệnh nhiễm

khuẩn và nhiễm ký sinh trùng, nhất là bệnh sốt rét còn lưu hành; di chứng

chiến tranh còn lớn; các bệnh nghề nghiệp, ung thư, tim mạch... có xu hướng

tăng.

23

Nguyên nhân của những yếu kém trên là do ngành y tế chậm đổi mới,

các cấp bộ Đảng và chính quyền còn xem nhẹ việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác

chăm sóc sức khoẻ, đầu tư của Nhà nước còn hạn chế.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá VII đã thảo luận và đề ra những vấn đề có ý nghĩa cơ bản và cấp

bách để định hướng cho lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân vượt

qua khó khăn và tiếp tục phát triển trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế.

Quan điểm cơ bản xuyên suốt Nghị quyết là: "Sức khoẻ là vốn quý nhất của

mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy chúng ta phấn đấu để mọi người đều được

quan tâm chăm sóc sức khoẻ " [14, tr.2].

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, ngày 20/6/1996 Chính phủ đã ra

Nghị quyết số 37/CP về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ nhân dân trong thời gian 1996 - 2000, đã cụ thể hoá bằng 5 quan

điểm chỉ đạo và 4 mục tiêu cơ bản.

Năm quan điểm chỉ đạo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân:

- Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển

của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của

toàn xã hội, cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người,

mỗi gia đình. Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ để mọi người đều được chăm sóc

sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng

cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình.

- Bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa của hoạt động y tế

đòi hỏi sự công bằng trong chăm sóc sức khoẻ.

- Dự phòng tích cực và chủ động là quan điểm xuyên suốt quá trình xây

dựng và phát triển nền y tế Việt Nam.

24

- Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc.

- Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi

người dân, là trách nhiệm của cấp uỷ Đảng và chính quyền, các đoàn thể nhân

dân và các tổ chức xã hội.

Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", đa dạng

hoá các hình thức tổ chức chăm sóc sức khoẻ (Nhà nước, tập thể, nhân dân),

trong đó y tế Nhà nước là chủ đạo, tận dụng mọi tiềm năng sẵn có trong nước

và mở rộng hợp tác quốc tế.

Bốn mục tiêu cơ bản của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân:

- Giảm tỷ lệ mắc bệnh.

- Nâng cao thể lực.

- Tăng tuổi thọ.

- Cải thiện giống nòi.

Ngay sau khi Nghị quyết Trung ương 4 được ban hành, việc quán triệt

và thực hiện Nghị quyết đã được triển khai tích cực, khẩn trương và tương đối

đồng bộ.

Cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở hầu hết các ngành, địa phương

và cơ sở đã tích cực tham gia công tác chăm sóc sức khoẻ theo tinh thần Nghị

quyết Trung ương 4 và ủng hộ, phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành y

tế trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng một lần nữa

khẳng định tầm quan trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân, "nâng cao thể chất của nhân dân, phấn đấu đến năm 2000 giảm hẳn tỷ lệ

mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ

của người dân, nâng cao tuổi thọ bình quân và giảm tỷ lệ tử vong " [15,

tr.116].

25

Tiếp tục củng cố hệ thống y tế Nhà nước, đặc biệt là y tế xã, huyện. Mở

rộng, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức

khoẻ. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý bệnh viện, kiện toàn hệ thống

khám chữa bệnh đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân

dân. Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các gia đình chính sách, cho

người nghèo. Tăng đầu tư của Nhà nước kết hợp với tạo thêm nguồn kinh phí

khác cho y tế như phát triển bảo hiểm, mở rộng hợp tác quốc tế. Khuyến

khích và quản lý tốt hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân của các tổ chức

và cá nhân. Phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ truyền với y

học hiện đại. Xây dựng chính sách về quản lý và phát triển công nghiệp dược,

thiết bị y tế, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Có chính sách

đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là ở những nơi khó khăn. Ngăn chặn

tình trạng xuống cấp trong ngành y tế, từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến chất

lượng và thái độ phục vụ. Chấn chỉnh việc thu và sử dụng viện phí. Chống

tiêu cực trong các dịch vụ y dược. Đề cao y đức " Thầy thuốc như mẹ hiền ".

Như vậy, trong những năm đổi mới, đặc biệt trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng

còn những mặt trái của nó, ngành y tế phải trải qua những khó khăn to lớn

trước những tác động của nền kinh tế thị trường.

Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, đặc biệt là dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 4, khoá VII " Về

những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

", ngành y tế đã tháo gỡ từng bước những khó khăn trở ngại để củng cố và

phát triển ngành, đáp ứng được những yêu cầu về chất lượng ngày càng cao

của nhân dân về chăm sóc sức khoẻ.

26

Tháng 6/1993, Đảng bộ tỉnh Nghệ An đề ra Chỉ thị số 18-CT/TW về:

"Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về những vấn

đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ".

Chỉ thị đã đánh giá tình hình công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân tỉnh Nghệ An:

Những năm qua, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở tỉnh

ta đã có bước chuyển biến tích cực. Một số chương trình mục tiêu được triển

khai có hiệu quả; mạng lưới y tế, tổ chức bộ máy đã được kiện toàn, sắp xếp,

phát huy vai trò nòng cốt trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Công tác khám chữa bệnh có bước chuyển biến tốt về tinh thần, thái độ

phục vụ người bệnh, đẩy mạnh cuộc vận động nâng cao chất lượng khám

chữa bệnh, khắc phục các hiện tượng tiêu cực ở các cơ sở y tế.

Tuy vậy, thực trạng sức khoẻ và bệnh tật của nhân dân còn có những

biểu hiện khá gay gắt, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân còn

nhiều mặt chưa đáp ứng với yêu cầu của nhân dân. Mạng lưới y tế phát triển

chưa hợp lý; Ngành y tế chậm đổi mới trong công tác tổ chức, quản lý, điều

hành; coi nhẹ các hoạt động phong trào vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân

thể, chú trọng công tác điều trị hơn là vấn đề giáo dục dự phòng tích cực...

Chỉ thị đề ra chương trình hành động trong thời gian tới với mục tiêu:

Từng bước khắc phục về cơ bản các bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng,

khống chế và giảm nhanh tỷ lệ mắc bệnh sốt rét. Hạ thấp tỷ lệ bệnh bướu cổ,

các bệnh lao, phong, hoa liễu...

Phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cả Đông y và Tây y, khuyến

khích chữa bệnh bằng y học cổ truyền dân tộc, đặc biệt là các cơ sở khám

chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khuyến khích mở cửa các dịch vụ y

tế tư nhân.

27

Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ, quan tâm đến

các đối tượng chính sách, chú ý đến người lao động nghèo khó, đồng bào các

dân tộc vùng cao, xa xôi hẻo lánh. Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, hạ thấp

tỷ lệ suy dinh dưỡng và các bệnh tật về dinh dưỡng ở trẻ em.

Tăng cường y tế cơ sở nhằm chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.

Đưa thầy thuốc về cơ sở, mỗi xã có 3 cán bộ y tế chuyên trách từ trên về, tất

cả các xã đều có trạm xá, được trang bị đồng bộ dụng cụ y tế, phấn đấu đến

năm 1995 có đủ y tế bản là người dân tộc cho miền núi.

Chỉ thị nêu ra các chính sách và giải pháp:

Công tác phòng chống các loại bệnh tật: Tăng cường sự lãnh đạo và

chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, hoạt động của Mặt trận, các

đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội tạo ra phong trào chăm sóc sức khoẻ

trong nhân dân. Tập trung mọi cố gắng vào các vùng sốt rét trọng điểm, giảm

nhanh số người mắc bệnh, số người chết và số vụ dịch. Duy trì tỷ lệ tiêm

chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi. Thực hiện tốt công tác giáo dục dinh dưỡng và

sức khoẻ cho nhân dân.

Phát triển các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ. Củng cố

y tế cơ sở. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động nâng cao chất lượng khám chữa

bệnh cho nhân dân, sắp xếp lại hệ thống khám chữa bệnh theo hướng đa dạng

hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phát huy việc ứng dụng,

nghiên cứu và từng bước hiện đại hoá y học dân tộc, kết hợp tốt hơn nữa giữa

y học hiện đại với y học cổ truyền. Đầu tư cải tạo dây chuyền sản xuất thuốc

chữa bệnh, bảo đảm nguồn thuốc tốt phục vụ nhân dân. Khẩn trương phát

triển công tác bảo hiểm y tế, chấn chỉnh việc thu, quản lý và sử dụng viện phí

tạo điều kiện để nhân dân đến khám, chữa bệnh được dễ dàng thuận tiện.

Thực hiện tốt hơn nữa chính sách xã hội về y tế.

28

Công tác cán bộ: Thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

y tế.

Đổi mới công tác quản lý, tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong

lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ. Triển khai thực hiện tốt luật bảo vệ sức khoẻ nhân

dân. Tăng cường đầu tư ngân sách bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Tháng 6/1996, Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XIV đã được tổ

chức. Đảng bộ tỉnh đề ra chủ trương về công tác y tế bảo vệ sức khoẻ:

"Hướng vào mục tiêu y tế dự phòng chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Thực hiện

các biện pháp vệ sinh môi trường, ăn muối Iốt, giáo dục phòng tránh nhiễm

HIV - AIDS, khám bệnh miễn phí cho gia đình chính sách và người nghèo,

chính sách đối với cán bộ y tế cơ sở. Kết hợp y học hiện đại với y học dân tộc

cổ truyền, nâng cấp trang thiết bị đi đôi với nâng cao chất lượng khám chữa

bệnh các bệnh viện tỉnh, huyện, phòng khám đa khoa khu vự " [22, tr.23].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Ngành y tế Nghệ An đã từng bước

tháo gỡ những khó khăn trở ngại để củng cố và phát triển ngành đáp ứng yêu

cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

2.1.2. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo

vệ sức khoẻ nhân dân (1996-2000)

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIV (1996), Sở Y tế Nghệ

An ra "Chương trình hành động" và tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân từ năm 1995 - 2000 với mục tiêu tổng quát:

"Thực hiện công bằng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chăm

sóc sức khoẻ nhân dân, cải thiện mô hình bệnh tật bằng cách làm giảm một

cách đáng kể tỷ lệ mắc và chết do các bệnh có thể phòng ngừa được, trước

hết là các bệnh nhiễm trùng, suy dinh dưỡng và tình trạng đẻ nhiều, ngăn

ngừa các bệnh có thể phát sinh trong quá trình công nghiệp hoá, nâng cao

29

thể lực. Trên cơ sở đó cải thiện tình hình sức khoẻ của nhân dân, nhất là sức

khoẻ bà mẹ và trẻ em.

Tranh thủ mọi thời cơ và nguồn lực để đầu tư nâng cấp cơ sở y tế, đặc

biệt là cơ sở khám chữa bệnh, từng bước đưa hệ thống khám chữa bệnh ra

khỏi tình trạng sa sút, lấy lại lòng tin trong nhân dân, chuẩn bị các điều kiện

đưa ngành y tế tiến lên chính quy hiện đại " [42, tr.5].

Chương trình hành động đã đề ra mục tiêu cụ thể:

+ Cải thiện các chỉ tiêu sức khoẻ cho mọi người. Phấn đấu đến năm

2000 đạt các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ:

- Tuổi thọ trung bình vào năm 2000 là 70 tuổi.

- Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi đến năm 2000 còn 30%.

- Tỷ suất trẻ em chết dưới 5 tuổi đến năm 2000 còn 40%.

- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2000 còn 30%.

- Tỷ suất chết mẹ đến năm 2000 : 0,8%.

- Tỷ lệ trẻ em mới đẻ cân nặng dưới 2.500 gam đến năm 2000 còn 8%.

+ Làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết của các bệnh truyền nhiễm gây

dịch và các bệnh do ký sinh trùng, khống chế các bệnh có xu hướng tăng, cải

thiện cơ bản tình hình bệnh tật của nhân dân ta vào năm 2000.

- Các bệnh trong tiêm chủng mở rộng, viêm phổi cấp, ỉa chảy trẻ em

dưới 5 tuổi.

- Khống chế cơ bản bệnh sốt rét, không để xảy ra thành dịch.

- Hạ tỷ suất mắc mới lao xuống 60/100.000 dân.

- Thanh toán bệnh phong, bại liệt, hạn chế tối đa viêm não Nhật Bản B,

viêm gan virút B (đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng: viêm gan virút

B, viêm não Nhật Bản B).

- Khống chế sốt xuất huyết, dịch tả, dịch hạch, không để thành dịch.

- Phòng chống bệnh lây lan qua đường tình dục, HIV/AIDS.

30

- Thanh toán uốn ván sơ sinh.

- Khống chế các bệnh không lây và nguy cơ mới: Bướu cổ; Tâm thần;

Tai nạn giao thông, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Bệnh tim mạch, cao

huyết áp.

+ Các chỉ tiêu lớn về chăm sóc sức khoẻ:

- 80% dân dùng nước sạch.

- 60% gia đình có hố xí hợp vệ sinh.

- Môi trường về cơ bản được bảo vệ và chống ô nhiễm.

- Hạ tỷ lệ người lớn có mức ăn dưới 1.800Kcal/ngày xuống 10%, đưa

năng lượng trung bình trong khẩu phần ăn trên 2.100Kcal/ngày ở tất cả các

vùng.

- 80% bà mẹ có thai và cho con bú được dinh dưỡng tốt (trọng lượng

tăng trung bình 10 - 12kg, chống thiếu máu do thiếu sắt).

- 95% bà mẹ mang thai được khám 3 lần, tiêm AT, đẻ có cán bộ y tế.

- 90% trẻ dưới 5 tuổi được theo dõi dinh dưỡng và chăm sóc tốt vệ sinh

ăn uống.

- 90% trẻ trong diện được tiêm chủng theo chương trình tiêm chủng mở

rộng (trong đó có viêm gan virút B).

- ở vùng có viêm não Nhật Bản 80% trẻ em được tiêm phòng.

- 100% xã, phường có trạm y tế, 40% trạm y tế có bác sỹ, 100% có nữ

hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, 100% có y tế thôn, bản.

- Có đủ thuốc và danh mục thuốc thiết yếu đảm bảo chất lượng, giá cả.

- 100% huyện có Trung tâm y tế đủ sức làm nhiệm vụ của tuyến hỗ trợ

thứ nhất cho chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phục vụ lâm sàng thiết yếu, 50%

được trang bị y tế đồng bộ.

- 100% tuyến tỉnh đủ sức làm nhiệm vụ tuyến hỗ trợ thứ hai đảm bảo

thiết bị chủ yếu cho các khoa.

31

- Kết hợp y học dân tộc, y học hiện đại.

+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khoẻ, thực hiện công

bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ. Củng cố và phát triển hệ thống y tế

quốc gia theo hướng hiện đại hoá, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực dành

cho y tế. Phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nước và

thế giới, phấn đấu nâng cao trình độ một số lĩnh vực chuyên môn. Xoá xã

trắng về y tế, trạm y tế được xây dựng có trang bị tốt làm nhiệm vụ chăm sóc

sức khoẻ ban đầu. Đến năm 2000 có 60 - 70% trung tâm y tế huyện, bệnh

viện tuyến tỉnh, các trung tâm, trạm chuyên khoa được trang bị các phương

tiện cần thiết phục vụ cho yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Sắp xếp lại bệnh viện một cách hợp lý, có quy định phân rõ tuyến điều trị.

Đến năm 2000 đảm bảo trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 90%... Có

chính sách và biện pháp thích hợp để tất cả mọi người, đặc biệt là người có

công với cách mạng, người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng

xa được chăm sóc sức khoẻ tốt, chấm dứt tình trạng người nghèo không được

chăm sóc vì không có tiền.

Để thực hiện được các chỉ tiêu đã đề ra, Sở Y tế Nghệ An nêu ra các

giải pháp quan trọng và các bước tổ chức thực hiện:

Kiện toàn tổ chức và phát triển mạng lưới chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân. Tiếp tục củng cố mạng lưới y tế cơ sở, làm tốt công tác chăm

sóc sức khoẻ ban đầu. Đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học. Tăng cường

đầu tư và quản lý tốt các nguồn lực. Thực hiện tốt chương trình y tế Quốc gia

có mục tiêu. Phát triển y học cổ truyền dân tộc. Công tác dược và vật tư y tế:

Chấn chỉnh hệ thống sản xuất và lưu thông phân phối thuốc. Xã hội hoá công

tác y tế: Chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng, của mỗi người dân

và của toàn xã hội, là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các

đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng

32

cốt. Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra.

Quán triệt các quan điểm chỉ đạo trong công tác chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ nhân dân:

- Quan điểm chăm sóc sức khoẻ toàn dân.

- Quan điểm kết hợp y học dự phòng với chất lượng khám chữa bệnh.

- Quan điểm xã hội hoá trong chăm sóc sức khoẻ.

- Quan điểm đa dạng hoá trong công tác chăm sóc sức khoẻ.

Tổ chức học tập các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về định hướng

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Tất cả mọi cán bộ đảng viên, quần

chúng trong ngành y tế tham gia học tập Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ

XIV, quán triệt đầy đủ những nội dung mà Nghị quyết nêu lên, cụ thể hoá

Nghị quyết thành hành động cụ thể của từng đơn vị, của mỗi cá nhân. Coi đây

là một đợt sinh hoạt chính trị rất quan trọng của ngành trong việc đề ra định

hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân tỉnh nhà từ

nay đến năm 2000.

Phát động đợt thi đua sâu rộng trong toàn ngành chào mừng thắng lợi

Đại hội VIII của Đảng.

Sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, khen thưởng kịp thời các đơn vị và

cá nhân làm tốt trong ngành.

Như vậy, quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII của Đảng, Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV của Tỉnh cùng với quá trình tổ chức chỉ

đạo thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân của Sở y tế

Nghệ An đã nhấn mạnh vai trò của ngành y tế trong sự nghiệp chăm sóc sức

khoẻ nhân dân. ý thức rõ vai trò trách nhiệm của mình, đồng thời chuẩn bị

hành trang hội nhập vào thiên niên kỷ mới, ngành y tế Nghệ An luôn hướng

33

lên tầm cao để chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày một tốt hơn, xứng đáng là

"Thầy thuốc như mẹ hiền" của nhân dân.

2.1.4. Kết quả quá trình thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân (1996- 2000)

Dưới ánh sáng các Nghị quyết của Đảng, định hướng hoạt động y tế

của ngành, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân của tỉnh Nghệ An

trong cơ chế mới đã có những bước chuyển biến to lớn, đặc biệt là sau khi có

Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) về những vấn đề cấp bách trong sự

nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

* Về mạng lưới y tế cơ sở: Với sự nỗ lực của ngành, được sự quan tâm

của các cấp uỷ đảng, các cơ quan ban ngành, các tổ chức xã hội, mạng lưới y

tế từ tỉnh đến cơ sở đã không ngừng được củng cố.

Đến tháng 4 năm 2000, 100% (464/464) số xã trong tỉnh có trạm y tế

và cán bộ y tế hoạt động. Mỗi trạm y tế có 3-5 nhân viên y tế, 20% xã có bác

sỹ. Trang thiết bị cho y tế tuyến xã được nâng cấp, đảm bảo phục vụ chuyên

môn. 80% trạm có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, 3687/4.792 thôn bản có cán

bộ y tế đạt 77%. Riêng miền núi đạt 85% và hàng năm được đào tạo lại về

chuyên môn nghiệp vụ.

Công tác xã hội hoá y tế được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể

và các tổ chức xã hội quan tâm, các mục tiêu nhiệm vụ về chăm sóc sức khoẻ

ban đầu được đẩy mạnh ở cơ sở. Ngành y tế đóng vai trò nòng cốt phối hợp

với các ngành liên quan triển khai các hoạt động vì sức khoẻ như: Tuyên

truyền giáo dục sức khoẻ, vận động sự đóng góp của cộng đồng vào các hoạt

động y tế: tiêm chủng mở rộng, vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh...

xã hội hoá công tác y tế đã tạo ra được sự chuyển biến về nhận thức, hành vi

của mỗi cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Xây dựng nếp sống vệ sinh hơn,

văn minh, tốt đẹp hơn. Mỗi người, mỗi gia đình thấy được trách nhiệm của

34

mình trong việc tự bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và có nghĩa vụ tham gia vào

các hoạt động vì sức khoẻ của mỗi người.

Triển khai các Nghị quyết của Đảng về chăm sóc sức khoẻ, triển khai

chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII),

ngành y tế Nghệ An đã phối hợp chặt chẽ với chặt chẽ với các ngành có liên

quan, tích cực tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân xây dựng phong

trào vệ sinh phòng dịch, tăng cường công tác giám sát dịch tễ, kiểm tra vệ

sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh lao động, bệnh nghề

nghiệp, do đó đã từng bước khống chế, đẩy lùi dịch bệnh.

* Hoạt động phòng chống sốt rét: Với quyết tâm của ngành y tế Nghệ

An, dịch sốt rét đã được khống chế và đẩy lùi. Số vụ dịch và số người tử vong

do dịch sốt rét đã giảm hẳn. Với kết quả này, năm 1996 trung tâm phòng

chống sốt rét - côn trùng Nghệ An được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương

lao động hạng Ba.

* Hoạt động phòng chống bệnh bướu cổ: Giai đoạn này, công tác

phòng chống rối loạn do thiếu iốt được đặt ra một cách khẩn trương, quyết liệt

và trở thành một trong những chương trình y tế quốc gia.

ở Nghệ An, tỷ lệ người dân mắc bệnh bướu cổ và các rối loạn thiếu iốt

cao so với cả nước. Bộ y tế đã chọn Nghệ An là một trong những tỉnh tiên

phong trong chương trình phòng chống rối loạn do thiếu iốt, hạ thấp tỷ lệ

bướu cổ cho nhân dân. Đồng thời, ngành y tế Nghệ An cũng xác định đây là

một trong những nhiệm vụ cấp bách trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ nhân

dân. Ngành đã có nhiều biện pháp tổ chức cho nhân dân trong vùng bướu cổ

uống dự phòng bằng viên dầu iốt, viên clorua, tiêm thuốc, đồng thời vận động

toàn dân dùng muối iốt.

Năm 1995, phòng chống bướu cổ trở thành chương trình mục tiêu quốc

gia, trong đó chương trình được thực hiện qua 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ

35

1995 đến 2000, là thanh toán tình trạng thiết hụt iốt, giai đoạn 2 từ năm 2000

- 2005 là thanh toán bệnh bướu cổ và các rối loạn do thiếu iốt.

Để thực hiện mục tiêu của ngành, y tế Nghệ An đã triển khai mạnh mẽ

các chương trình hoạt động. Trong công tác sản xuất và lưu thông muối iốt, xí

nghiệp muối iốt Diễn Châu trực thuộc Công ty Chế biến Kinh doanh Xuất

khẩu Nông sản Thực phẩm Nghệ An được đầu tư, sản xuất muối cung ứng kịp

thời cho nhân dân theo kế hoạch được giao hàng năm. Xí nghiệp tiến hành sản

xuất các sản phẩm muối iốt thô. Ngoài ra, xí nghiệp đã đầu tư các dây chuyền

sản xuất muối iốt tinh, bột canh iốt, lượng muối sản xuất tăng lên hàng năm.

Bên cạnh đó, xí nghiệp còn tập trung mua dự trữ muối, đảm bảo cung ứng kịp

thời, giữ được giá xuất xưởng ổn định.

Việc lưu thông muối iốt được triển khai trên hệ thống khép kín từ đồng

bằng đến miền núi. Công ty thương mại đơn vị chủ yếu cung cấp, phân phối

muối đến các vùng, miền trong toàn tỉnh. Ngoài ra, hệ thống đại lý bán muối

iốt được mở tận các cụm xã, thôn, bản, tới các chợ... tạo thuận lợi cho nhân

dân mua được muối iốt dễ dàng. Ngành còn phối hợp với hội phụ nữ các cấp

phân phối muối iốt đến các xã để cung cấp muối đến tận các hộ gia đình.

Để hỗ trợ cho đồng bào, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, công

tác cung ứng muối iốt được trợ giá, trợ cước vận chuyển từ nơi sản xuất đến

các cụm xã. Vì vậy việc cũng cấp muối iốt đạt hiệu quả cao. Hàng năm Nghệ

An đã cung ứng đầy đủ từ 5 - 6 ngàn tấn muối iốt cho nhân dân.

* Hoạt động tiêm chủng mở rộng: Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng tăng lên

hàng năm, Ngành đã triển khai tiêm chủng đầy đủ 6 loại vacxin cho trẻ em

dưới 1 tuổi đạt tỷ lệ 86,5%, tỷ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 90,2%. Nhờ làm tốt

công tác tiêm chủng mở rộng nên các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng giảm

rõ rệt, nhất là các bệnh truyền nhiễm có vacxin tiêm chủng cho trẻ em như:

bạch hầu, ho gà, sởi, lao, viêm não Nhật Bản B, viêm gan virut B. Đến năm

36

2000, cùng với cả nước, Nghệ An đã thanh toán bệnh bại liệt, bệnh uốn ván

sơ sinh.

* Hoạt động phòng chống lao: Giai đoạn này, hoạt động phòng chống

lao đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bệnh lao vẫn tiếp tục có

những diễn biến phức tạp, làm cho công tác phòng chống lao đứng trước

nhiều khó khăn, thách thức. Cơ chế thị trường làm tăng sự giao lưu giữa các

vùng miền, cũng đồng thời làm gia tăng nguồn lây lan các căn bệnh truyền

nhiễm. Nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên, cùng với nó

là sự xuất hiện lối sống gấp, sống buông thả của một bộ phận không nhỏ trong

nhân dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và chưa có biện pháp

ngăn chặn... Tất cả nhữnh yếu tố trên là nguyên nhân gây nên sự quay trở lại

của bệnh lao và có những diễn biến phức tạp khó kiểm soát.

Theo số liệu của Trung tâm phòng chống lao Quốc gia, tỷ lệ nhiễm lao

mới ở Nghệ An khoảng 75 bệnh nhân/100.000 người. Trung bình mỗi năm,

tỉnh Nghệ An phát hiện từ 2000 - 3000 bệnh nhân lao phổi vi trùng dương

tính, tuy nhiên, con số thực tế còn cao hơn nhiều và nguy hiểm là chính những

bệnh nhân chưa được phát hiện và điều trị đã và đang là nguồn gây bệnh rất

lớn đối với cộng đồng. Những vùng phát hiện có tỷ lệ bệnh nhân lao cao là

thành phố Vinh, Yên Thành, Kỳ Sơn.

Từ thực tế đó, ngành y tế Nghệ An tăng cường, củng cố mạng lưới cơ

sở, triển khai chương trình chống lao quốc gia tới tận xã, phường. Tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện bệnh nhân mới để có phác đồ điều trị

kịp thời. Giai đoạn này, bệnh viện Lao của tỉnh được sự đầu tư, nâng cấp, đổi

mới nhiều về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồng thời nâng cao chất lượng

khám chữa bệnh. Hàng năm, bệnh viện thu nhận trên 3000 bệnh nhân, đồng

thời chỉ đạo tuyến, phát hiện bệnh lao mới và điều trị kịp thời, có hiệu quả. Hệ

thống trung tâm y tế cũng được trang bị nhiều máy móc phát hiện và điều trị

37

bệnh lao. Đội ngũ cán bộ y tế chuyên trách về bệnh lao được ngành quan tâm,

tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đồng thời phân bố rộng khắp xuống

tận 100% số xã, phường, thị trấn.

Công tác điều trị bệnh lao tương đối phức tạp, phần lớn người dân chưa

ý thức đủ mức độ nguy hiểm của bệnh, nhiều bệnh nhân mặc cảm không đến

khám và điều trị tại các cơ sở y tế Nhà nước, tự mua thuốc điều trị, không

thực hiện đúng quy định hướng dẫn điều trị nên xảy ra tình trạng kháng thuốc,

bệnh ngày càng trầm trọng. Năm 1996, công tác phòng chống lao được triển

khai 19/19 huyện, thành thị. Ngành đã phát hiện thêm 1689 ca bệnh nhân lao

mới, nâng tổng số bệnh nhân được quản lý và điều trị là 2826 người. Trong

năm 1996, đã điều trị khỏi bệnh cho 1020 bệnh nhân lao.

Ngành y tế đưa ra giải pháp ngăn chặn sự gia tăng của bệnh lao theo

phương pháp "Hoá trị liệu ngắn ngày có kiểm soát (DOTS)". Biện pháp này

được thực hiện rộng rãi tại bệnh viện chống lao tỉnh, tại khoa lây lao của các

trung tâm y tế huyện trạm, y tế xã, thôn, bản, các phòng khám khu vực và tại

gia đình bệnh nhân. Biện pháp điều trị này đã mang lại hiệu quả cao.

* Hoạt động phòng chống bệnh phong: Giai đoạn này công tác chống

bệnh phong đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trạm da liễu kết hợp với bệnh

viện phong - da liễu Quỳnh Lập tích cực đẩy mạnh việc thực hiện chương

trình thanh toán bệnh phong từng vùng. Ngành đã tổ chức khám, phát hiện

phân loại bệnh nhân, điều trị cơ bản, quản lý và điều trị bệnh nhân tại nhà.

Ngành phối hợp các ngành, các địa phương tuyên truyền, giáo dục cho nhân

dân có những hiểu biết cần thiết về bệnh phong. Ngành đã phối hợp với ngành

giáo dục đưa chương trình chống bệnh phong và trong các nhà trường nhằm

trang bị những kiến thức cơ bản cho học sinh, qua đó tạo cho các em ý thức

phát hiện, giúp đỡ bệnh nhân cũng như có thái độ đúng đối với căn bệnh và

đối với bệnh nhân phong.

38

Trong quá trình điều trị, ngành đã chỉ đạo cán bộ chuyên trách của các

tuyến khám bệnh, làm xét nghiệm hàng tháng và uống thuốc đúng quy trình

cho bệnh nhân. Nhờ vậy, trong nhiều năm liền không có các biến chứng trong

điều trị. Bệnh nhân sau khi điều trị được cán bộ chuyên trách da liễu theo dõi,

giám sát từ 3 - 5 phòng bệnh tái phát và ngăn chặn tàn tật. Ngoài ra, ngành

tiến hành công tác khám bệnh theo khóm để phát hiện bệnh và điều trị kịp

thời, hoạt động này luôn được ngành chú trọng, triển khai một cách nghiêm

túc và mang lại hiệu quả cao.

* Hoạt động bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em - kế hoạch hoá gia đình:

Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em - kế hoạch hoá gia đình được xác định

là chương trình quốc gia ưu tiên. Thực hiện chương trình này, ngành y tế đã

chủ trương triển khai song song hai nội dung bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em và

kế hoạch hoá gia đình đồng thời xem đây là hai vấn đề có mối liên quan mật

thiết.

Trong quá trình thực hiện, ngành đã chỉ đạo tốt công tác khám thai,

tiêm phòng uốn ván cho bà mẹ và trẻ em sơ sinh, khám và chữa bệnh phụ

khoa, kế hoạch hoá gia đình, đặt dụng cụ tử cung, đình sản nam, đình sản nữ,

cấp phát thuốc tránh thai... Ngoài ra, ngành đã chỉ đạo trung tâm bảo vệ sức

khoẻ bà mẹ trẻ em - kế hoạch hoá gia đình quán triệt nội dung tăng cường dự

phòng và cấp cứu các tai biến sản khoa cho các cơ sở khám chữa bệnh của

Nhà nước và tư nhân trong địa bàn thuộc phạm vi quản lý.

Từ thực tế ở Nghệ An, tỷ lệ tăng dân số còn cao, đặc biệt là ở vùng dân

tộc, miền núi, vùng nông thôn. Ngày 6/11/1995 UBND tỉnh ra quyết định số

2803 phê duyệt chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình tỉnh Nghệ An giai

đoạn 1995 - 2010. Tiếp đó, tháng 8 năm 1996, Uỷ ban dân số kế hoạch hoá

gia đình đã triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Trên cơ

39

sở chỉ đạo của ngành cùng sự quan tâm của các cấp, công tác dân số kế hoạch

hoá gia đình ở Nghệ An đã thu được kết quả đáng ghi nhận.

Tỷ lệ sinh năm 1999 xuống còn 20,06%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên

vào năm 2000 còn 26%.

* Hoạt động phòng chống HIV: Năm 1996, Nghệ An phát hiện trường

hợp nhiễm HIV đầu tiên tại thành phố Vinh. Từ đó, số người nhiễm HIV ở

Nghệ An được phát hiện tăng rất nhanh. Năm 1996, phát hiện 7 trường hợp,

năm 1998 phát hiện 194 trường hợp, đến năm 1999 là 338 trường hợp, riêng

tháng 10 năm 2000 phát hiện 223 trường hợp. Trước sự lây lan nhanh chóng

của HIV trên địa bàn tỉnh, ngành y tế Nghệ An đã tổ chức tuyên truyền rộng

rãi trong nhân dân, tổ chức các hoạt động tư vấn, quản lý cuộc sống người

bệnh. Công tác an toàn truyền máu luôn được chú trọng và tổ chức kiểm tra

chặt chẽ.

* Hoạt động khám chữa bệnh: Trước năm 1995, cùng với cả nước,

công tác khám chữa bệnh ở Nghệ An đứng trước nhiều khó khăn. Hệ thống cơ

sở vật chất không đảm bảo chất lượng hoạt động, trang thiết bị y tế nghèo

nàn, lạc hậu, kinh phí đầu tư cho bệnh viện rất thấp. Sự thay đổi cơ chế đã tác

động lớn đến hoạt động khám chữa bệnh. Đời sống của cán bộ y tế khó khăn,

kỷ luật bệnh viện sa sút, việc thu viện phí, bán thuốc tại các khoa phòng một

cách tuỳ tiện.

Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Bộ y tế "Nâng cao tinh

thần thái độ phục vụ, giảm phiền hà cho bệnh nhân trong các cơ sở khám

chữa bệnh", Sở y tế Nghệ An đã tiến hành kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng

tình hình các hoạt động khám chữa bệnh ở Nghệ An và tăng cường công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, mở các đợt sinh hoạt học tập cho cán bộ công

nhân viên toàn ngành hiểu và thực hiện đúng chế độ công tác của cán bộ công

nhân viên nhà nước. Trong đó, nhận thức rõ công tác khám chữa bệnh, chăm

40

sóc sức khoẻ bệnh nhân là nghĩa vụ của cán bộ y tế. Đạo đức người cán bộ y

tế, những đặc trưng của lương tâm nghề nghiệp là truyền thóng tốt đẹp của

ngành... Ngoài ra, ngành còn tổ chức học tập 12 điều y đức cùng những quy

chế bệnh viện, tổ chức kiểm tra, giám sát và chấn chỉnh việc thực hiện tại các

cơ sở khám chữa bệnh.

Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên. Số lần khám

bệnh và điều trị hàng năm đều tăng. Năm 1996, tổng số lần khám bệnh là

1.327.842 lần, trong đó số bệnh nhân điều trị ngoại trú là 181.903 ca, nội trú

là 300.144 ca. Tổng số bệnh nhân phẫu thuật là 13.347 ca. Đặc biệt tại bệnh

viện Hữu Nghị đa khoa tỉnh nhờ áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới trong y

học vào điều trị, bệnh viện đã chẩn đoàn và điều trị được nhiều căn bệnh nan

y như: Mổ chấn thương sọ não, mổ nội soi, thay khớp háng, điều trị đột quỵ...

Ngoài ra, các bệnh viện như: Bệnh viện Nhi, bệnh viện Lao, bệnh viện Tâm

thần, bệnh viện Y học cổ truyền dân tộc, bệnh viện Điều dưỡng, bệnh viện

Hưng Nguyên... đã đạt được nhiều thành tích quan trọng, có nhiều đóng góp

trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

* Hoạt động Dược và Vật tư y tế: Thời gian này, Bộ y tế đã cấo sổ đăng

ký cho phép nhiều đơn vị sản xuất thuốc trong nước hoạt động, nhiều hãng

thuốc nước ngoài được nhập khẩu thuốc vào Việt Nam nên thị trường thuốc

trở nên đa dạng. Song đi kèm với nó, ngành sản xuất thuốc trong nước nói

chung và Nghệ An nói riêng đứng trước sự cạnh tranh gay gắt.

Từ thực tế đó, ngành Dược - Vật tư y tế đã xác định để đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ chung của toàn ngành, hoạt động của hệ thống Dược - Vật tư y tế

với vai trò hậu cần cũng cần có những bước phát triển mới. Theo sự chỉ đạo

của Bộ y tế, chương trình thuốc, vật tư y tế được xác định là một trong chín

chương trình quốc gia ưu tiên. Do vậy hoạt động của toàn bộ hệ thống dược

vật tư y tế phải tập trung vào việc thực hiện những nội dung cơ bản của

41

chương trình gồm: Tạo nguồn thuốc, sản xuất bào chế, lưu thông phân phối

dược bệnh viện, dược cơ sở, hệ thống dược tư nhân, quản lý chất lượng thuốc,

quản lý thị trường, phòng chống thuốc giả. Đây là chương trình có nội dung

rất lớn phải triển khai đồng bộ, là trách nhiệm của toàn ngành y tế và hệ thống

Dược - Vật tư y tế đóng vai trò nòng cốt trong triển khai thực hiện.

Với nhiệm vụ đặt ra cho công tác Dược - Vật tư y tế là đảm bảo cung

ứng đủ nhu cầu cơ bản về thuốc cho nhân dân, chủ yếu là thuốc phòng dịch,

phòng chống sốt rét, thuốc cấp cứu, thuốc cho các hoạt động chuyên khoa

thuốc cho các nhu cầu đột xuất và các loại thuốc chữa bệnh thông thường.

Đồng thời, đáp ứng các loại dụng cụ chủ yếu cho các đơn vị, tranh thủ khả

năng viện trợ của các đơn vị trong ngành, kết hợp chặt chẽ giữa phục vụ và

kinh doanh; hướng hoạt động của chương trình thuốc, trang thiết bị chủ yếu

về tuyến y tế cơ sở, phát triển cây con dược liệu chủ lực; triển khai tốt công

tác quản lý thị trường.

Thực hiện Quyết định 939 của Bộ y tế về quy chế đại lý bán thuốc tại

xã, ngành y tế Nghệ An đã đẩy mạnh việc củng cố hệ thống mạng lưới cung

ứng thuốc đến tận nhân dân có hiệu quả. Năm 1997, hệ thống phân phối thuốc

trên toàn tỉnh là 516 quầy thuốc của các doanh nghiệp Nhà nước và 211 đại lý

bán thuốc tư nhân. Lưu lượng thuốc lưu thông cung ứng trên địa bàn toàn tỉnh

là 66,30 tỷ đồng. Bình quân tiền thuốc là 22.600 đồng/ người dân.

ở tuyến huyện, các công ty dược liệu đã tiến hành sản xuất, đáp ứng kịp

thời một số loại thuốc thông thường như: Thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi, thuốc sát

trùng, thuốc ngoài da, cảm sốt, xoa bóp... Sản xuất dung dịch tiêm chuyền

được duy trì thường xuyên và khá ổn định. Đặc biệt bệnh viện ở các huyện

miền núi như: Quỳ Châu, Quế Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông,

Quỳ Hợp đều sản xuất được huyết thanh phục vụ cấp cứu điều trị sốt rét và

42

các bệnh khác. Năm 1996, tổng giá trị sản lượng thuốc sản xuất đạt 3,64 tỷ

đồng.

Về thiết bị vật tư y tế, nhìn chung Công ty thiết bị vật tư y tế đã bảo

đảm cung ứng đầy đủ những loại dụng cụ thiết yếu cho công tác khám chữa

bệnh trên các tuyến. Trong đó, đã giải quyết tương đối về bơm tiêm, kim

tiêm, nhiệt kế, huyết áp kế, kim, chỉ khâu, găng tay phẫu thuật, phim Xquang,

huyết thanh, bộ dây chuyền huyết thanh, bộ dây chuyền máu và nhiều loại

dụng cụ cần dùng khác. Năm 1996, ngành đã tiến hành nâng cấp trang bị cho

các đơn vị y tế bằng nguồn vốn ngân sách công ty vật tư y tế đã hợp đồng với

các hãng trong và ngoài nước bằng cơ chế đấu thầu, trang bị một số máy móc

hiện đại cho các bệnh viện trong tỉnh như: máy Xquang Medront cho Quỳ

Châu, máy Xquang Medront Phia cho bệnh viện chống lao, máy gây mê

Ma.110E cho Con Cuông, máy điện não EEG-7314F cho bệnh viện Tâm thần,

máy quang phổ, máy đo độ rã cho Trung tâm kiểm nghiệm Dược phẩm Vinh

...

Năm 1995 trạm kiểm nghiệm Dược phẩm Nghệ An đổi tên thành Trung

tâm kiểm nghiệm Dược phẩm - Mỹ phẩm Nghệ An. Năm 1999, Uỷ ban nhân

dân tỉnh có quyết định số 4623 hợp nhất công ty Dược phẩm Dược liệu và Xí

nghiệp Dược phẩm thành Công ty Dược phẩm Nghệ An. Năm 2002 Công ty

Dược phẩm Nghệ An được cổ phần hoá thành Công ty cổ phần Dược - Vật tư

y tế Nghệ An. Sự kiện này mở ra cho ngành Dược Nghệ An những thời cơ và

triển vọng mới.

Qua mười lăm năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân của tỉnh Nghệ An đã có những chuyển biến tích

cực. Trong điều kiện nguồn lực có hạn lại bị tác động mạnh mẽ bởi cơ chế thị

trường, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, ngành y tế Nghệ An vẫn

43

vượt qua được những khó khăn và thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ

nhân dân.

Bên cạnh những thành công cơ bản, còn rất nhiều hạn chế trong công

tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân: về hệ thống y tế cơ sở, về phòng chống dịch

bệnh, về công tác khám chữa bệnh, về đội ngũ cán bộ y tế, về quản lý y tế, về

thực hiện y đức... Những hạn chế đó đã để lại những bài học kinh nghiệm để

Đảng bộ và ngành y tế Nghệ An khắc phục, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cao

cả của ngành trong giai đoạn tiếp theo.

2.2. Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo thực hiện chiến lược chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (2001- 2005)

2.2.1. Đảng bộ tỉnh Nghệ An quán triệt thực hiện chiến lược chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhằm thực hiện kế hoạch phát triển kinh

tế- xã hội 5 năm 2001-2005

Những thành tựu mà ngành y tế đạt được trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá (1996 - 2000) là thực tế khách quan, khẳng định tính đúng

đắn của đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đây chính là cơ sở để đưa nền y tế

nước ta phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu mọi người

đều phải được chữa bệnh khi ốm đau, mọi người đều phải được chăm sóc sức

khoẻ. Để làm được điều đó, chúng ta đã và đang xây dựng một hệ thống y tế

hướng tới việc phục vụ nhân dân chất lượng, hiệu quả, công bằng hơn- một

hệ thống y tế nhân đạo, văn minh, tiên tiến.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với đường lối công nghiệp hoá và hiện đại

hoá, Việt Nam sẽ có sự phát triển nhanh về kinh tế, đời sống của nhân dân

ngày càng được cải thiện, do đó nhu cầu về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của

nhân dân sẽ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Cùng với sự phát triển

kinh tế tri thức, khoa học kỹ thuật y dược cũng sẽ phát triển nhanh chóng và

44

ảnh hưởng tích cực đến các nước trong khu vực. Do vậy, Việt Nam cũng cần

có đường lối, chính sách phát triển thích hợp để xây dựng ngành y tế phát

triển trong mối quan hệ chung với khu vực, thế giới và đáp ứng được nhu cầu

chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao của nhân dân.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã ban hành Nghị quyết

thông qua Báo cáo chính trị đánh giá những thành tựu to lớn mà đất nước đạt

được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm

thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991 - 2000) và sau

15 năm đổi mới.

Giải quyết các vấn đề xã hội giai đoạn 2001 - 2005 liên quan đến y tế,

Báo cáo chính trị tại Đại hội khẳng định: "Thực hiện đồng bộ các chính sách

bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao

thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Củng cố và hoàn thiện mạng

lưới y tế, đặc biệt là ở cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu. Đẩy

mạnh sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đếm mọi địa bàn

dân cư. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ; đổi mới cơ chế

chính sách viện phí, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo,

tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Nhà nước ban hành chính sách quốc gia về y

học cổ truyền, kết hợp y học cổ truyền từ khâu đào tạo đến khâu khám bệnh

và điều trị " [16, tr.107].

Về thực hiện các chính sách xã hội, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: "Các

chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách

nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và

sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội " [16, tr.108].

Đại hội lần thứ IX của Đảng đã ban hành kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội 5 năm 2001 - 2005. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 -

2005 là bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển

45

kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Đánh giá các thành tựu mà ngành y tế đã đạt được 10 năm qua, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 đã nêu rõ:

" Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, đặc biệt là

trong lĩnh vực y tế dự phòng. Các chỉ số sức khoẻ cộng đồng được nâng lên.

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38% năm 1995 xuống 33 -

34% năm 2000; tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 81% xuống còn

42%. Các bệnh bại liệt, bệnh thiếu Vitamin A, bệnh uốn ván sơ sinh cơ bản

được thanh toán vào năm 2000. Các bệnh sốt rét, bướu cổ năm 2000 đã giảm

gần 60% so với năm 1995. Một số bệnh viện được nâng cấp, cải tạo hoặc xây

dựng mới, hầu hết các xã đã có trạm y tế. Trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà

Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành bước đầu, trang thiết bị y tế

đã được nâng cấp ở các tuyến. Các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân được phát

triển. Các chính sách và bảo hiểm y tế và chế độ thu một phần viện phí đã

góp phần khắc phục những khó khăn của ngành. Nhiều nơi đã thực hiện tốt

chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo, gia đình có công với dân, với

nước " [16, tr.108].

Về định hướng phát triển của ngành, lĩnh vực và vùng: Phát động

phong trào toàn xã hội bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Thực hiện các

mục tiêu vì trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi xuống còn 30%,

tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 35%, mở rộng tiêm chủng trẻ

em từ 8 - 10 loại vacxin, tỷ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản xuống

còn 0,9%, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 22 - 25%

vào năm 2005; không còn trẻ em bị mù chữ ở tuổi 15; 70% trẻ em được phổ

46

cập trung học cơ sở; 50% cơ sở có điểm văn hoá vui chơi cho trẻ em; 80% trẻ

em có hoàn cảnh khó khăn được bảo vệ, chăm sóc.

Phát triển y tế dự phòng, cải thiện các chỉ tiêu sức khoẻ, nâng cao thể

trạng và tầm vóc của người Việt Nam và tăng tuổi thọ bình quân lên khoảng

70 tuổi vào năm 2005. Phát triển công nghiệp dược phẩm, nâng cao chất

lượng sản xuất thuốc chữa bệnh, bảo đảm 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh được

sản xuất từ trong nước với chất lượng cao.

Hoàn chỉnh quy hoạch, củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở; có

bác sĩ làm việc ở tất cả các trạm y tế xã đồng bằng và trung du, phần lớn các

xã miền núi. Tiếp tục củng cố và phát triển thêm bệnh viện ở một số tuyến,

nhất là ở vùng sâu, vùng xa, giải quyết một bước tình trạng thiếu giường

bệnh; bảo đảm sự bình đẳng thụ hưởng các dịch vụ về y tế trong các tầng lớp

dân cư. Hiện đại hoá một số bệnh viện đầu ngành, các trung tâm y tế chuyên

sâu và một số bệnh viện khu vực. Từng bước ngăn chặn và giảm tốc độ phát

triển bệnh dịch AIDS. Tập trung sức cho việc phòng trừ và giải quyết trọng

điểm tệ nạn xã hội .

Ngày 19/3/2001, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số

35 phê duyệt chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn

2001 - 2010 với mục tiêu chung:

Phấn đấu để mọi người dân được được hưởng các dịch vụ chăm sóc

sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất

lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về

thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và

phát triển giống nòi .

Các chỉ tiêu sức khoẻ phải đạt được vào năm 2010:

- Tuổi thọ trung bình của nhân dân đạt 71 tuổi.

- Tỷ suất chết mẹ giảm xuống còn 70/100.000 trẻ đẻ sống.

47

- Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi hạ xuống dưới 25% trẻ đẻ sống.

- Tỷ suất trẻ em chết dưới 5 hạ xuống dưới 32%.

- Tỷ lệ trẻ em mới đẻ có trọng lượng dưới 2.500g giảm xuống dưới 6%.

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 20%.

- Chiều cao trung bình của thanh niên đạt từ 1,60m trở lên.

- Có 4, 5 bác sỹ và 1 dược sỹ Đại học/10.000 dân.

Có thể nói, lần đầu tiên, bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế- xã hội

do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Chính phủ đã có một chiến lược mang ý

nghĩa lịch sử về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Điều này thể hiện sự

mới mẻ trong nhận thức của Đảng với mục tiêu tốt đẹp vì con người, thể hiện

tính nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và Quyết định

của Thủ tướng Chính phủ, Ngành y tế xây dựng Chương trình hành động

nhằm đưa Nghị quyết của Đảng và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ vào

cuộc sống. Ngành y tế tập trung phấn đấu đạt được mục tiêu chung đã được

nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và Chiến lược chăm sóc và bảo

vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001 - 2010. Để đạt được các mục tiêu đó,

toàn Ngành phải thực hiện đồng bộ các mặt công tác chủ yếu sau:

Khắc phục về cơ bản các bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng đồng thời

chủ động phòng chống các bệnh trong mô hình bệnh tật của nước công nghiệp

trong điều kiện đất nước tiến vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phòng chống

và quản lý các bệnh không nhiễm trùng như bệnh tim mạch, ung thư, tai nạn

và thương tích, đái tháo đường, bệnh nghề nghiệp, tâm thần, ngộ độc, tự tử và

các bệnh do lối sống không lành mạnh mang lại (nghiện ma tuý, nghiện rượu,

béo phì.v.v...); bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn truyền máu.

48

Nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các

dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Tiếp tục củng cố và phát triển

thêm bệnh viện ở một số tuyến, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, giải quyết một

bước tình trạng thiếu giường bệnh; bảo đảm sự bình đẳng thụ hưởng các dịch

vụ y tế trong các tầng lớp dân cư. Hiện đại hoá một số bệnh viện đầu ngành,

các trung tâm y tế chuyên sâu và một số bệnh viện khu vực. Nâng cấp bệnh

viện huyện, tỉnh; phát triển các bệnh viện đa khoa khu vực (liên huyện) ở các

địa bàn xa trung tâm tỉnh. Đặc biệt tăng cường chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ

và trẻ em, cho người bị di chứng chiến tranh, người nghèo, đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa.

Hoàn thành quy hoạch, củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, có

bác sỹ làm việc ở tất cả các trạm y tế xã đồng bằng và trung du, phần lớn xã

miền núi. Tiêu chuẩn hoá tăng cường đào tạo cán bộ y tế, chú ý người dân tộc

thiểu số; phân bố cán bộ theo từng vùng phù hợp với nhu cầu.

Thực hiện chính sách quốc gia về thuốc, tăng cường khả năng sản xuất

và cung ứng thuốc đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Phát triển công

nghiệp dược phẩm, nâng cao chất lượng sản xuất thuốc chữa bệnh, bảo đảm

40% nhu cầu thuốc chữa bệnh được sản xuất từ trong nước và chất lượng cao.

Từng bước hiện đại hoá trang thiết bị y tế; ứng dụng các thành tựu khoa học

và công nghệ tiên tiến trong sản xuất thuốc và trang thiết bị y tế.

Thực hiện xã hội hoá cung cấp các dịch vụ y tế, khuyến khích các

thành phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc

sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội.

Sử dụng có hiệu quả và đa dạng hoá các nguồn lực trong cung cấp dịch

vụ y tế; từ ngân sách Nhà nước, đóng góp của nhân dân qua viện phí và bảo

hiểm y tế. Đổi mới cơ chế, chính sách viện phí; mở rộng bảo hiểm y tế tự

nguyện, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.

49

Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc trong cả phòng

bệnh, chữa bệnh và đào tạo cán bộ. Phấn đấu có một số lĩnh vực y, dược học

có thế mạnh trở thành trung tâm của khu vực Đông Nam á. Thực hiện kết hợp

quân dân y nhất là tại các vùng cao, biên giới, hải đảo, trong chủ động phòng

chống và khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ.

Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ đến mọi người

dân và tự giác tham gia rèn luyện thể lực, thể thao nhằm nâng cao thể lực,

tăng sức khoẻ và tuổi thọ của người dân. Xây dựng nếp sống lành mạnh trong

toàn xã hội, từ bỏ các thói quen có hại cho sức khoẻ như lạm dụng rượu,

thuốc lá, ma tuý, ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS. Tổ chức chữa bệnh cho

bệnh nhân AIDS và người nghiện ma tuý, giúp những người này sống, lao

động có ý nghĩa trong cộng đồng.

Hoàn thiện tổ chức và tăng cường đào tạo nhân lực y tế, nghiên cứu và

áp dụng khoa học công nghệ mới và áp dụng công nghệ thông tin rộng rãi

trong Ngành y tế.

Cải cách hành chính, tăng cường công tác pháp chế, thanh tra, kiểm tra

nhằm nâng cao hiệu lực bộ máy quản lý Nhà nước về y tế.

Ngày 23 tháng 2 năm 2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương

Đảng ra Nghị quyết số 46 - Nghị quyết Trung ương "về công tác bảo vệ,

chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới". Nghị quyết

khẳng định: Trong hơn 10 năm qua, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y

tế, đặc biệt là y tế cơ sở, ngày càng được củng cố và phát triển, nhiều dịch

bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi, các dịch vụ y tế ngày một đa

dạng, nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng, việc cung ứng

thuốc và trang thiết bị y tế đã có nhiều cố gắng hơn trước. Bảo hiểm y tế được

hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Nhân dân ở hầu hết các vùng,

50

miền đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về

sức khoẻ của nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu

người.

Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự phấn đấu nỗ lực của đại đa

số cán bộ, nhân viên ngành y tế, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ

đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các ban, ngành,

Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, tổ chức xã hội và đông đảo nhân dân.

Tuy nhiên, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở nước ta

vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích

ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa

và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật, chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu

cầu ngày càng đa dạng của nhân dân, điều kiện chăm sóc y tế cho người

nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có nhiều khó khăn, năng lực

sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu, giá thuốc chữa bệnh còn rất cao so với

thu nhập của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất

cập. Một bộ phận nhân dân chưa hình thành được ý thức và thói quen tự bảo

vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm

chưa được kiểm soát chặt chẽ. Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp

của một số cán bộ y tế chậm được khắc phục.

Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do quản lý Nhà nước

trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập, một số chính sách về y tế không còn

phù hợp nhưng chậm được sửa đổi hoặc bổ sung, việc quản lý hoạt động

khám, chữa bệnh và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt chẽ, đầu tư của Nhà

nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, kém hiệu

quả. Chưa có những giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng

đồng và xã hội cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ. Đội ngũ cán bộ y

tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng. Một

51

số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công

tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, nhiều nơi còn trông chờ

vào bao cấp của Nhà nước.

Trước tình hình đó, Nghị quyết nêu rõ quan điểm chỉ đạo và mục tiêu

về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

* Quan điểm chỉ đạo: "Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và

của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt

động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và

Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt

đẹp của chế độ " [17, tr.2].

Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả

và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm

sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, nhằm

từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, thực hiện sự chia sẻ

giữa người khoẻ với người ốm, người giàu với người nghèo, người trong độ

tuổi lao động với trẻ em, người già, công bằng trong đãi ngộ đối với cán bộ y

tế.

Thực hiện chăm sóc sức khoẻ toàn diện, gắn phòng bệnh với chữa

bệnh, phục hồi chức năng và tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ.

Phát triển đồng thời y tế phổ cập và y tế chuyên sâu, kết hợp Đông y và Tây

y.

Xã hội hoá các hoạt động chăm sóc sức khoẻ gắn với tăng cường đầu

tư của Nhà nước, thực hiện tốt việc trợ giúp cho các đối tượng chính sách và

người nghèo trong chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Bảo vệ, chăm sóc và nâng

cao sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là

52

trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể

nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về

chuyên môn và kỹ thuật. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát

triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ.

Nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và

đãi ngộ đặc biệt. Mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải không ngừng nâng cao đạo

đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn

vinh của xã hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Người thầy

thuốc giỏi đồng thời phải là người mẹ hiền".

* Về mục tiêu: "Giảm tỷ lệ mắc bệnh tật và tử vong, nâng cao sức khoẻ,

tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng

cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức

khoẻ đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khoẻ của

nhân dân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc " {17, tr.3].

Nghị quyết cũng đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Phát triển và

hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Đổi mới chính sách tài

chính y tế. Phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của

cấp uỷ Đảng, chính quyền. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Đẩy mạnh

xã hội hoá. Nâng cao hiệu quả thông tin - giáo dục - truyền thông.

Có thể nói, Nghị quyết số 46/NQ/TW về công tác bảo vệ, chăm sóc và

nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới cùng với Nghị quyết Đại hội

lần thứ IX của Đảng và Quyết định 35 của Thủ tướng Chính phủ là những văn

kiện quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, là định hướng để phát triển công

tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân phù hợp với tình hình

mới của đất nước. Lần đầu tiên, một Nghị quyết của Bộ chính trị có một Nghị

quyết về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nghị quyết 46/NQ/TW có ý

53

nghĩa thực tiễn to lớn, đặc biệt là sau năm năm thực hiện chiến lược chăm sóc

và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (2001- 2005).

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV được tiến hành từ ngày 17 đến

20/01/2001. Quán triệt tinh thần, trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới Đại hội

thể hiện quyết tâm hành động theo khẩu hiệu: Phát huy nội lực, lao động sáng

tạo, thi đua làm giàu, xây dựng quê hương. Xây dựng Đảng bộ trong sạch

vững mạnh, Đảng thực sự vì dân, dân tin Đảng.

Báo cáo chính trị Đại hội XV tỉnh Đảng bộ, về vấn đề phát triển y tế,

chăm sóc sức khoẻ đã nêu rõ:

"Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, nâng cao

chất lượng khám chữa bệnh. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực y tế,

đồng thời quan tâm thích đáng những người có công với cách mạng, người

nghèo. Giảm tỷ lệ mắc và chết do các bệnh truyền nhiễm gây dịch, khống chế

bệnh HIV, các loại bệnh của các nước đang phát triển, không để các dịch lớn

xảy ra. Không ngừng nâng cao chất lượng sống cho nhân dân. Nâng tuổi thọ

bình quân lên 70 tuổi, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống

dưới 30%. Trẻ em trong diện được tiêm chủng 100%. 70 - 80% số dân được

dùng nước sạch, 80% gia đình có hố xí hợp vệ sinh.

Nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức của người thầy thuốc đi đôi

với việc từng bước nâng cấp và hiện đại hoá các bệnh viện tuyến tỉnh và

trung tâm y tế huyện. Xây dựng bệnh viện Phụ sản, nâng cấp bệnh viện Nghĩa

Đàn thành bệnh viện tuyến tỉnh ở vùng Tây Bắc. Hình thành bệnh viện vùng

Tây Nam, từng bước xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Mở

rộng hoạt động bảo hiểm y tế, khuyến khích một số cơ sở khám chữa bệnh tư,

các bệnh viện bán công, liên doanh đi đôi với quản lý tốt các cơ sở này.

54

Phấn đấu đến năm 2005 cả tỉnh có từ 70 - 80% số xã có bác sỹ, miền

núi cao 40%, 100% số xã có nữ hộ sinh trung học hoặc y sĩ sản nhi. Ngăn

chặn và từng bước đẩy lùi hiểm hoạ ma tuý và HIV/HIDS" [25, tr.31].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV, Tỉnh

uỷ Nghệ An đã ra Chỉ thị số 17 - CT/TW ngày 05/02/2004 về củng cố, tăng

cường công tác y tế.

Chỉ thị nhận định: thời gian qua, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân đã đạt được kết quả quan trọng. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước

được củng cố, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được cải thiện, nhiều

năm liền trên địa bàn tỉnh không để dịch lớn xảy ra, tỷ lệ người mắc bệnh

giảm xuống. Tuy nhiên, nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày

càng nâng cao, công tác y tế còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tuyến y tế cơ sở chậm

thay đổi, còn bất cập với nhu cầu khám chữa bệnh, công tác quản lý Nhà nước

của Ngành y tế chậm được kiện toàn, xã hội hoá công tác y tế còn lúng túng,

nhiều lĩnh vực mới xã hội bức xúc chưa được giải quyết như: vấn đề y đức,

quản lý hành nghề y dược tư nhân, quản lý và kiểm soát giá thuốc chữa bệnh,

kết hợp Đông - Tây y, quản lý thu chi trong khám chữa bệnh. Nhiều cấp uỷ

Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của công tác

y tế, chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức và đầu tư thoả đáng cho lĩnh

vực này. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể nhân dân trong lĩnh vực y

tế thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.

Trước tình hình đó, Ban thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp uỷ Đảng,

chính quyền, các ban ngành, đoàn thể nhân dân quán triệt và thực hiện tốt các

nội dung: Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng

lực quản lý, tham mưu trên lĩnh vực y tế. Đổi mới công tác cán bộ, tăng

cường cơ sở vật chất cho các hoạt động y tế. Tạo lập cơ chế đầu tư thích hợp

để phát triển công tác y tế.

55

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết

Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV và Quyết định 35 của Thủ tướng Chính phủ

về Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Sở y tế Nghệ An đã đề

ra những chủ trương cụ thể, kịp thời trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân.

Nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trong trong nhu cầu chăm sóc

sức khoẻ nhân dân, Ngày 27/5/2002, Sở y tế ra Quyết định số 693/SYT- KH

"về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở " với mục tiêu chung: Củng cố

và hoàn thiện y tế cơ sở từ thôn, bản (khối, xóm) đến trung tâm y tế huyện,

thành thị, xã để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, đáp ứng nhu cầu

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Để đạt được mục tiêu đó, cần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí quan

trọng của y tế cơ sở trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các lực lượng xã hội...

đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm

của mọi người về vai trò và tầm quan trọng của y tế cơ sở. Hoạt động y tế cơ

sở tốt là góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; thực hiện công bằng xã hội.

Các cấp uỷ Đảng, các đơn vị cơ sở thuộc ngành y tế xây dựng kế hoạch cụ

thể, gắn tổng kết y tế cơ sở với tăng cường sự lãnh đạo về củng cố và hoàn

thiện mạng lưới y tế cơ sở của địa phương mình. Đa dạng hoá các loại hình

truyền thông, giáo dục sức khoẻ, thay đổi các hành vi có lợi cho sức khoẻ.

Thực hiện phương châm "Mọi người vì sức khoẻ", xoá bỏ thói quen trông chờ

ỷ lại. Huy động cộng đồng tham gia tích cực các hoạt động vệ sinh, phòng

bệnh, chăm sóc sức khoẻ, rèn luyện thân thể tạo ra phong trào "Toàn dân vì

sức khoẻ".

56

Ngày 22/8/2003, Sở y tế ra Quyết định số 1678/SYT- KH về việc

"Đóng góp ý kiến theo đề cương Phiếu trưng cầu của Ban khoa giáo Trung

ương". Sở y tế Nghệ An khẳng định: Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,

chính quyền các đơn vị trong toàn ngành từ tỉnh đến cơ sở đã nâng cao được

tinh thần trách nhiệm và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Và đã đạt được những kết quả nổi bật

về công tác phòng bệnh, công tác khám chữa bệnh, đảm bảo công bằng trong

chăm sóc sức khoẻ.

Bên cạnh việc quan tâm đến mạng lưới y tế cơ sở, công tác phòng bệnh,

công tác khám chữa bệnh, đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khoẻ nhân

dân, lãnh đạo ngành y tế Nghệ An cũng hết sức quan tâm, chăm lo bồi dưỡng,

đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện: từ quản lý của lãnh đạo các đơn vị đến trình

độ năng lực, chuyên môn, đạo đức, tác phong người thầy thuốc... để đủ khả

năng thực hiện nhiệm vụ theo quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước trong

công tác y tế.

Ngày 25/9/2004, Sở y tế ra Quyết định số 506/SYT- QĐ về việc "Kiện

toàn nhân sự Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của

ngành y tế Nghệ An" và Quyết định số 599/SYT - QĐ ngày 10/10/2004 về

"Phân công chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) ở các đơn vị

trong Ngành y tế".

Ngày 14/9/2005, Sở y tế Nghệ An đã ra BC- SYT, KH "Báo cáo chuyên

đề y tế" tại Hội nghị báo cáo viên- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ. Tại Hội nghị này,

Sở y tế Nghệ An đã báo cáo những kết quả thực hiện được trong công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001- 2005.

Để có cơ sở thực thi nhiệm vụ, Sở y tế Nghệ An đã tham mưu cho

UBND tỉnh xây dựng và ban hành các đề án: "Đề án tăng cường bác sỹ công

tác ở các tuyến y tế cơ sở (xã, phường, thị trấn) đến năm 2005 và những năm

57

tiếp theo"; "Đề án thực hiện Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2005-

2010", đề án đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số

43/2005/QĐ.UB ngày 25/3/2005; "Đề án nâng cao y đức trong các cơ sở

khám chữa bệnh tại Nghệ An", đề án đã được phê duyệt kèm theo Quyết định

số 38/2004/QĐ.UB ngày 29/4/2004 của UBND tỉnh; "Đề án tăng cường

nguồn nhân lực Ngành y tế Nghệ An giai đoạn 2004- 2010", đề án đã được

phê duyệt kèm theo Quyết định số 72/2004/QĐ.UB ngày 15/6/2004 của

UBND tỉnh. Các đề án đó có tầm ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động chung

của ngành y tế.

Như vậy, với những chủ trương đúng đắn của Sở y tế, ngành y tế Nghệ

An đang ra sức xây dựng, phấn đấu và phát triển Ngành; đồng thời hết lòng vì

sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thực hiện đúng lời dạy của

Bác Hồ "Lương y như từ mẫu", "Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân".

2.2.2. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện Chiến lược chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân (2001-2005)

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội tỉnh

Đảng bộ lần thứ XV và Quyết định 35 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến

lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, ngành y tế Nghệ An đã đề ra

chương trình hành động, đồng thời tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại

hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV và Quyết

định 35 của Thủ tướng Chính phủ.

* Mục tiêu chung:

"Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức

khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng.

Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất,

về tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát

triển giống nòi" [47, tr.5] .

58

Các chỉ tiêu sức khoẻ phải đạt được vào năm 2005:

- Tuổi thọ trung bình 70

- Tỷ lệ chết trẻ em < 1 tuổi % 30

- Tỷ lệ chết trẻ em < 5 tuổi % 37

- Tỷ suất chết mẹ/100.000 trẻ đẻ sống 75

- Tỷ lệ trẻ mới đẻ có trọng lượng < 25.000gr % < 7

- Tỷ lệ trẻ < 5 tuổi suy dinh dưỡng % < 30

Để thực hiện các chỉ tiêu cơ bản nói trên, Sở y tế Nghệ An đã đề ra các

nhiệm vụ chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân giai đoạn 2001 - 2006.

* Các nhiệm vụ:

+ Tiếp tục củng cố và phát triển y tế cơ sở nhằm đáp ứng về số lượng

và từng bước nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu.

- Đảm bảo 100% số xã có trạm y tế kiên cố hoặc bán kiên cố phù hợp

với điều kiện kinh tế, địa lý, môi trường và nhu cầu khám chữa bệnh của từng

vùng. Đảm bảo 100% số trạm y tế có đủ thiết bị, y cụ cần thiết cho hoạt động

chuyên môn của trạm.

- Đến năm 2005 bình quân cả tỉnh có 70 - 80% số xã có bác sỹ, riêng

miền núi có 40%.

- 100% phòng khám đa khoa khu vực ở vùng núi, vùng sâu được xây

dựng kiên cố và có bác sỹ.

- 100% trạm y tế xã có nữ hộ sinh, trong đó 60% là nữ hộ sinh trung

học.

- 100% thôn, bản có nhân viên y tế

+ Đẩy mạnh công tác y tế dự phòng:

59

Coi công tác chủ động phòng chống dịch là trọng tâm và thường xuyên

của ngành, kiên quyết không để dịch lớn xảy ra. Khống chế đến mức thấp

nhất tỷ lệ mắc và chết do các bệnh tả, thương hàn, suốt xuất huyết, sốt rét,

viêm não Nhật Bản B, viêm gan B... duy trì kết quả thanh toán bại liệt, loại

trừ uốn ván sơ sinh. Hạn chế tốc độ gia tăng HIV/AIDS, tiếp tục thực hiện các

mục tiêu chương trình y tế quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh

dịch nguy hiểm.

Tăng cường giám sát và xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trường, tác

động xấu đến sức khoẻ như chất thải bệnh viện, hoá chất trừ sâu.

Tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm chủ động

giám sát tình hình ô nhiễm thực phẩm đề phòng ngộ độc và các bệnh tật gây

ra do ăn uống.

Tăng cường tuyên truyền về chăm sóc trẻ em, thực hiện chiến lược

quốc gia về phòng chống suy dinh dưỡng nhằm từng bước giảm tỷ lệ trẻ em

suy dinh dưỡng nhất là những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Tăng cường

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em dưới 1 tuổi, dưới 5 tuổi.

+ Nâng cao chất lượng hiệu quả và đảm bảo công bằng trong khám

chữa bệnh:

+ Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc trong phòng bệnh

và chữa bệnh, xây dựng kế hoạch phát triển y học cổ truyền dân tộc nhằm kế

thừa và phát huy y học cổ truyền. Củng cố và phát triển y học cổ truyền từ

tỉnh đến trạm y tế xã, phường, tăng cường đào tạo cán bộ chuyên khoa y học

cổ truyền cho tuyến cơ sở. Đầu tư nâng cấp, từng bước hiện đại hoá bệnh viện

y học cổ truyền để có khả năng nghiên cứu, ứng dụng những bệnh chữa bằng

y học cổ truyền để hướng dẫn các cơ sở điều trị, phát triển vườn thuốc nam và

các kỹ thuật chữa bệnh không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt.

60

+ Tiếp tục triển khai "Chính sách quốc gia" về thuốc với các mục tiêu

cơ bản là bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc, có chất lượng đến

người dân, thực hiện sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.

+ Hoàn thiện tổ chức và tăng cường đào tạo nhân lực y tế nghiên cứu

và áp dụng khoa học công nghệ mới và áp dụng công nghệ thông tin rộng rãi

trong ngành y tế.

Như vậy, sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã

hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi

vậy, trước hết cần đề cao trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và cả cộng

đồng trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Tăng cường sự lãnh đạo và chỉ

đạo của các tổ chức Đảng và sự thể chế hoá, sự quản lý, điều hành của chính

quyền các cấp.

2.2.3. Kết quả quá trình thực hiện chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân (2001- 2005)

Phát huy những kết quả đã đạt được trong giai đoạn 1996- 2000, thực

hiện Chiến lược của Đảng về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, dưới sự

lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự quan tâm phối hợp của các cấp, các ngành, và

sự nỗ lực cố gắng của ngành y tế. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân của tỉnh Nghệ An trong giai đoạn này đã có những bước tiến vượt bậc.

* Hoạt động phòng chống sốt rét: Phát huy những thành quả đạt được

trong hoạt động phòng chống dịch sốt rét, giai đoạn này, công tác phòng

chống sốt rét tiếp tục được cấp uỷ Đảng và chính quyền quan tâm, giúp đỡ.

Riêng năm 2005, tỷ lệ dân số được bảo vệ đạt 99,2%. Công tác tuyên truyền,

giáo dục và huấn luyện cán bộ y tế được đẩy mạnh, việc cấp thuốc, màn đầy

đủ, thường xuyên. Kinh phí chi cho phòng chống sốt rét đạt trên 3 tỷ

đồng/năm. Từ năm 2000 đến năm 2005, không có vụ dịch lớn nào xảy ra.

61

Bên cạnh công tác phòng chống sốt rét, trên địa bàn Nghệ An đã xảy ra

một số dịch bệnh khác như: năm 2001, xuất hiện dịch sốt xuất huyết tại hai

huyện Diễn Châu và Quỳnh Lưu, có 742 người mắc bệnh, một người tử vong.

Năm 2002, dịch viêm não Nhật Bản, dịch sốt xuất khuẩn Leptospira. Tháng

10/2002, xuất hiện sốt xuất huyết ở Diễn Châu, thương hàn ở Tương Dương.

Năm 2003, xuất hiện rải rác bệnh viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết ở bản

Phồng - huyện Tương Dương và huyện Quỳ Châu. Năm 2005, xảy ra 3 ổ dịch

sốt rét nhỏ ở phạm vi bản, thôn tại huyện Con Cuông, huyệnTương Dương,

huyện Kỳ Sơn, không có người tử vong. Tháng 11/2005, dịch sốt xuất huyết

xảy ra tại xã Diễn Thái - huyện Diễn Châu, có 3 trường hợp tử vong. Riêng

trong tháng 12 năm 2005, có 1 người tử vong do viêm não Nhật Bản, 6 người

tử vong do thuỷ đậu. Tuy nhiên, các vụ dịch đã sớm được cán bộ y tế phát

hiện, khống chế nên không lan trên diện rộng.

Năm 2005, dịch cúm gia cầm xảy ra trên địa bàn Nghệ An tại 6 xã

thuộc 2 huyện Quỳnh Lưu, huyện Nam Đàn và có nguy cơ lan nhanh trên địa

bàn rộng. Sở y tế Nghệ An đã thành lập ban chỉ đạo phòng chống dịch, đồng

thời có những biện pháp ngăn chặn không cho dịch lây lan. Ngành đã tổ chức

tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để hướng dẫn

cách phòng chống dịch. Dưới sự chỉ đạo của Sở y tế, cán bộ trung tâm y tế dự

phòng phối hợp với các cấp chính quyền địa phương triển khai mọi biện pháp

dập dịch kịp thời, nên dịch đã sớm được dập tắt.

Ngoài ra, ngành còn chủ động triển khai ngăn chặn nguy cơ các dịch

bệnh như: tả, lỵ, thương, hàn... ngăn chặn các yếu tố có nguy cơ dịch bệnh

cao như: sốt rét, cúm A, (H5N1), HIV...

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm cũng đồng thời được ngành chú

trọng. Bên cạnh đó, Sở y tế còn tăng cường chỉ đạo các đơn vị y tế trong địa

bàn toàn tỉnh chủ động phòng, chống một số dịch bệnh nguy hiểm đã xuất

62

hiện trên phạm vi khu vực và thế giới theo thông báo của Tổ chức y tế thế

giới như dịch sốt xuất huyết do virut Marburg và Ebola...

* Hoạt động phòng chống bệnh bướu cổ: Năm 2000, tỷ lệ người mắc

bệnh bướu cổ còn 9,22%; độ phủ muối iốt 81,5%; nhận thức của người dân về

sử dụng muối iốt là 95,3%. Với kết quả này, ngành y tế Nghệ An đã hoàn

thành chỉ tiêu công tác thanh toán tình trạng thiết iốt giai đoạn I vào năm

2000. Với kết quả đạt được là tiền đề để ngành y tế Nghệ An đề ra mục tiêu

thực hiện giai đoạn II "Thanh toán bệnh bướu cổ và các rối loạn do thiếu iốt".

Thực hiện chương trình công tác giai đoạn II về phòng chống bướu cổ,

ngành y tế Nghệ An tiếp tục đẩy mạnh công tác cung cấp muối iốt cho nhân

dân trên cả 3 khâu. Nhà máy sản xuất, thị trường, kho, đại lý và hộ nhà dân.

Hàng năm ngành sản xuất muối Nghệ An đòi sản xuất trên 10.000 tấn. Công

tác phân phối muối iốt đến nhân dân được đảm bảo về cả số lượng và chất

lượng.

* Hoạt động tiêm chủng mở rộng: Hoạt động tiêm chủng trong giai

đoạn này ở tỉnh Nghệ An được thực hiện trên diện rộng 19/19 huyện, thành,

thị đến các xã, thôn, bản thuộc vùng sâu, vùng xa. Việc bảo quản, vận chuyển

vacxin lên miền núi được đảm bảo. Các điểm tiêm chủng được tổ chức một

cách hợp lý, khoa học và mang lại hiệu quả cao.

Trong những từ 2001 - 2005, công tác tiêm chủng mở rộng đạt được

nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ tiêm chủng 6 bệnh có vacxin phòng ngừa ở trẻ

em luôn đạt trên 95%. Công tác tiêm chủng ngày càng được mở rộng và xã

hội hoá cao.

* Hoạt động phòng chống lao: Trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2005,

công tác chống lao tiếp tục phát huy những thành tích đạt được của giai đoạn

trước, đồng thời ngành nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt mục tiêu đặt ra trong

63

giai đoạn mới, khống chế tình hình dịch tễ bệnh lao, mở rộng chiến lược

DOTS, đối phó với bệnh lao nhiễm HIV và kháng khuẩn chống lao.

Mặc dù, ngành y tế Nghệ An đã có những việc làm thiết thực, tỷ lệ

chữa khỏi bệnh đạt trên 92%. Tuy nhiên trong thực tế bệnh nhân lao vẫn

không có dấu hiệu giảm. Nghệ An là một trong những tỉnh có tỷ lệ bệnh lao

cao so với các tỉnh phía Bắc. Năm 2001, số bệnh nhân lao được phát hiện và

điều trị là 2260 người, năm 2002 là 2315 người, năm 2003 là 2411 người,

năm 2005 là 2355 người.

* Hoạt động phòng chống bệnh phong: Tháng 4 năm 2000, tại Thành

phố Vinh đại diện Chương trình chống phong Quốc gia, Viện da liễu Trung

ương cùng 11 trung tâm Da liễu của 11 tỉnh, thành phố phía Bắc tổ chức kiểm

tra đánh giá công tác chống phong tại Nghệ An. Đoàn đã kiểm tra tại 12 xã,

phường đại diện cho 446 xã, phường của 19 huyện thành, thị trong tỉnh về nội

dung công tác tuyên truyền, khám phát hiện, quản lý, điều trị, phục hồi chức

năng cho bệnh nhân phong. Qua kiểm tra, 1 tiêu chuẩn quốc tế, xếp loại

chung đạt xuất sắc. Với kết quả đó, Nghệ An là tỉnh thứ 18 trong cả nước

hoàn thành công tác chống phong và loại trừ bệnh phong ra khỏi cộng đồng.

Cũng dịp này, Bộ y tế đã tặng bằng khen cho 2 tập thể và 3 cá nhân trong tỉnh

đã có nhiều thành tích trong cộng tác phòng chống phong.

Từ năm 2001 - 2005, ngành tiếp tục thực hiện chương trình loại trừ

bệnh phong và phòng chống các bệnh qua đường tình dục, bệnh ngoài da.

Năm 2005, Bộ y tế tiến hành phúc tra và công nhận Nghệ An đã loại trừ bệnh

phong đạt 4 tiêu chuẩn Việt Nam và xếp loại xuất sắc.

* Hoạt động bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em - kế hoạch hoá gia đình:

Tháng 2 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 47 về đẩy

mạnh thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, tiếp đó Ban bí thư

Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 49 về xây dựng gia đình thời kỳ công

64

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiếp tục định hướng hoạt động dân số kế

hoạch hoá gia đình đạt kết quả cao. Ngành y tế Nghệ An đã chỉ đạo các cấp

thực hiện nghiêm túc chủ trương của cấp trên. Năm 2005, tổng số người thực

hiện các biện pháp tránh thai đạt 112% kế hoạch, số phụ nữ độ tuổi đến khám

đạt 76%, tỷ suất sinh 13,62% giảm 0,5% so với năm 2004, trong đó sinh con

thứ 3 giảm 0,68% so với năm 2004.

Đối với công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, đầu năm 2001,

theo thống kê của ngành y tế, Nghệ An là 1 trong 7 tỉnh có tỷ lệ suy dinh

dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cao nhất trong cả nước (41,1%). Trước thực tế đó,

ngành y tế Nghệ An đã đặt ra mục tiêu cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng ở

trẻ em. Kế hoạch hoá gia đình cùng các khoa, phòng liên quan trong địa bàn

toàn tỉnh triển khai tốt các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, đảm bảo dinh dưỡng

cho bà mẹ mang thai, theo dõi cân nặng ở trẻ em, mở các lớp học làm bố, làm

mẹ, thực hành dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai và bà mẹ có con dưới 2 tuổi...

Với những hoạt động thiết thực đó, công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ

em đã đạt được kết quả cao. Năm 2002, tỷ lệ sức dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5

tuổi còn 34,7%, năm 2003 còn 32,4%, năm 2005 xuống còn 28,9%. Những

kết quả đạt được trong công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em có ý

nghĩa rất lớn không chỉ đối với vấn đề sức khoẻ bà mẹ trẻ em mà cả với mỗi

gia đình và với toàn xã hội.

* Hoạt động phòng chống HIV: Trong những năm 2001- 2005, số

người nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng lên. Theo thống kê trung bình cứ mỗi ngày

có 0,7 ca nhiễm mới vào năm 2000 và 1,2 ca nhiễm mới vào năm 2002. Đa số

người nhiễm HIV ở Nghệ An bằng đường tiêm chích ma tuý. Tình trạng chích

ma tuý theo nhóm, theo hội đã làm lây nhiễm HIV nhanh chóng trong nhóm

và từ đó lan ra cộng đồng. Các địa phương có số người nhiễm HIV cao là

Thành phố Vinh, Đô Lương, Tương Dương, Nghĩa Đàn...

65

Trước thực tế đó, ngành y tế đã đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo

dục tuyên truyền, tư vấn thông qua các chiến dịch truyền thông, tổ chức tốt

ngày thế giới phòng chống AIDS, đảm bảo an toàn, vô trùng trong dịch vụ y

tế, giám sát xét nghiệm... không để xảy ra lây chéo HIV. Tuy nhiên số người

nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng và chưa có biện pháp ngăn chặn. Đây trở thành

thách thức lớn đối với ngành y tế nói riêng và với cộng đồng nói chung.

* Hoạt động khám chữa bệnh: Giai đoạn này, hệ thống điều trị do

ngành quản lý trên địa bàn toàn tỉnh có 25 bệnh viện. Trong đó, tuyến tỉnh có

6 bệnh viện, 1630 giường bệnh, tuyến huyện có 19 bệnh viện, 2300 giường

bệnh, cùng với 39 phòng khám đa khoa khu vực.

Nhằm cải thiện những khó khăn về cơ sở vật chất trong hệ thống khám

chữa bệnh, ngành y tế đã vận dụng nguồn vốn từ ngân sách của tỉnh, của

Trung ương và các tổ chức quốc tế từng bước nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật

y tế. Giai đoạn này, hầu hết các trung tâm y tế huyện đều được xây mới hoặc

nâng cấo và đầu tư trang thiết bị. Đặc biệt, ngành đã đầu tư tại bệnh viện Hữu

nghị đa khoa tỉnh nhiều thiết bị máy móc hiện đại như: Máy nội soi chẩn

đoán, máy nội soi phẫu thuật, máy huyết học đa năng... Tại các trung tâm y tế

huyện được bổ sung máy X quang, máy siêu âm, máy xét nghiệm, ô tô cứu

thương... những trang thiết bị được cung cấp đều sử dụng có hiệu quả.

Thực hiện chủ trương của Bộ y tế về việc xây dựng bệnh viện đạt danh

hiệu bệnh viện tình thương, Sở y tế Nghệ An thành lập Ban chỉ đạo xây dựng

"Bệnh viện tình thương" đồng thời tiến hành quán triệt các tiêu chuẩn của

"Bệnh viện tình thương" xuống các tuyến của hệ điều trị. Ngành đã tổ chức ký

cam kết thực hiện ở 14/26 bệnh viện, với khẩu hiệu "Bệnh nhân đến đón tiếp

niềm nở, bệnh nhân ở chăm sóc tận tình, bệnh nhân về dặn dò chu đáo".

Ngay trong năm 2000, bệnh viện Nhi của tỉnh vinh dự được Bộ y tế công

nhận là bệnh viện đạt danh hiệu "Bệnh viện tình thương" và là bệnh viện đầu

66

tiên của tỉnh nhận được danh hiệu cao quý này. Đến năm 2002, Bộ y tế công

nhận ở Nghệ An có thêm 2 đơn vị đạt danh hiệu "Bệnh viện tình thương" đó

là các bệnh viện: Bệnh viện Y học cổ truyền, bệnh viện Yên Thành, trong đó

Bệnh viện Nhi tiếp tục được công nhận là Bệnh viện tình thương".

Năm 2004, thực hiện chủ trương của Bộ y tế, ngành y tế Nghệ An đã

thiết lập đường điện thoại nóng tại các bệnh viện để mọi người dân có thể

phản ánh những thông tin cần góp ý đến lãnh đạo bệnh viện. Nhờ vậy, chất

lượng khám chữa bệnh, chất lượng phục vụ bệnh nhân được nâng lên rõ rệt,

số lượng đơn thư phản ánh bức xúc của nhân dân giảm hẳn.

Bên cạnh đó, ngành y tế chủ trương tinh giảm các thủ tục hành chính,

tạo điều kiện cho người dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế ngày càng có

hiệu quả. Ngành đã thành lập các tổ chức cấp cứu của bệnh viện, sẵn sàng cứu

nội và ngoại, đặc biệt đội cấp cứu bệnh viện tuyến tỉnh thường xuyên được

củng cố, đảm bảo có đủ trang thiết bị, thuốc men và nhân lực để sẵn sàng chi

viện cho tuyến dưới.

Năm 2004, thực hiện chủ trương của Bộ y tế, ngành y tế Nghệ An đã

thiết lập đường điện thoại nóng tại các bệnh viện để mọi người dân có thể

phản ánh những thông tin cần góp ý đến lãnh đạo bệnh viện. Nhờ vậy, chất

lượng khám chữa bệnh, chất lượng phục vụ bệnh nhân được nâng lên rõ rệt,

số lượng đơn thư phản ánh bức xúc của nhân dân giảm hẳn.

* Hoạt động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế: Giai đoạn này, ngành y tế

đã triển khai 3 loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự

nguyện, bảo hiểm y tế nhân đạo. Những năm đầu thực hiện khám chữa bệnh

bằng bảo hiểm y tế đã thu được kết quả cao, góp phần quan trọng đảm bảo sự

công bằng xã hội trong khám chữa bệnh.

Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 139 về việc khám chữa

bệnh cho người nghèo. Tháng 7/2003, ngành y tế Nghệ An tiến hành thành

67

lập Ban quản lý quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo. Với số vốn tương đối

lớn và tăng nhanh hàng năm. Năm 2003 số quỹ khám chữa bệnh cho người

nghèo là 19 tỷ đồng, năm 2004 là 23 tỷ đồng. Việc cấp thẻ bảo hiểm cho

người nghèo cũng được thực hiện khẩn trương, nghiêm túc. Năm 2003 ngành

cấp được 344.450 thẻ, năm 2004 cấp 629.845 thẻ, tỷ lệ cấp thẻ đạt 95% trở

lên.

Tại các cơ sở khám chữa bệnh, ngành đã tạo điều kiện thuận lợi cho

người sử dụng thẻ bảo hiểm để tiếp cận dịch vụ y tế có hiệu quả. Số người

nghèo được khám chữa bệnh ngày càng tăng. Năm 2005, bình quân tiền thuốc

cho một người, một đợt điều trị tuyến tỉnh là 1.020.222 đồng, tuyến huyện là

262.737 đồng. Việc khai thác bảo hiểm bắt buộc đạt được 97,8% kế hoạch,

bảo hiểm y tế tự nguyện, bảo hiểm y tế nhân đạo có nhiều chuyển biến tốt.

* Hoạt động y học cổ truyền: Giai đoạn này, bệnh viện Y học dân tộc

Nghệ An được đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng quy mô bệnh viện và nâng cao

chất lượng khám chữa bệnh. Bệnh viện có 200 giường nội trú, 50 giường

ngoại trú.

Trong quá trình phát triển bệnh viện luôn quan tâm củng cố khối đoàn

kết nội bộ, lấy y đức làm nền tảng, lấy chất lượng khám chữa bệnh, hiệu quả

điều trị làm mục tiêu phấn đấu. Nhờ vậy, uy tín bệnh viện ngày một nâng cao,

số lượng bệnh nhân đến khám, chữa bệnh ngày càng đông. Từ năm 2000 đến

năm 2005, bệnh viện luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và vượt chỉ tiêu kế

hoạch đề ra, công suất sử dụng giường bệnh đạt từ 130 - 140%. Bệnh viện

được xếp hàng đầu trong hệ thống bệnh viện y học cổ truyền trong cả nước và

liên tục được Bộ y tế công nhận danh hiệu đơn vị "Bệnh viện tình thương".

Bệnh viện cũng là đơn vị thi đua xuất sắc toàn diện của ngành y tế Nghệ An.

Ngoài ra bệnh viện còn đặc biệt quan tâm tới việc mở các lớp đào tạo,

đào tạo lại cho học sinh theo chương trình thuốc nam châm cứu tuyến y tế xã,

68

huyện, hướng dẫn học sinh trường Cao đẳng y tế đến thực tập và tham gia

giảng dạy. Công tác nghiên cứu khoa học ở bệnh viện cũng đã đạt được nhiều

kết quả quan trọng. Hàng năm, tại bệnh viện đã có nhiều công trình nghiên

cứu có chất lượng. Đã có trên 60 công trình nghiên cứu được ứng dụng trong

khám chữa bệnh mang lại hiệu quả cao.

Song song với sự phát triển của bệnh viện Y học cổ truyền Nghệ An,

mạng lưới y học cổ truyền đồng thời cũng được phát triển mạnh mẽ từ đỉnh

đến huyện, xã. Thực hiện chỉ thị 03 của Bộ y tế ngày 1/3/1996 về việc khôi

phục vườn thuốc Nam và tăng cường sử dụng các phương pháp xoa bóp, day,

ấn trong y học cổ truyền để chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thực hiện Thông tư

số 02 của Bộ y tế ngày 2/2/1997 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức

của khoa cổ truyền trong bệnh viện y học hiện đại, Sở y tế Nghệ An đã chỉ

đạo mạng lưới y tế tỉnh đến xã xây dựng các khoa, tổ y học cổ truyền trong

các bệnh viện nhằm kết hợp giữa y học hiện đại với y học cổ truyền trong

chữa bệnh.

Bên cạnh sự phát triển của công tác y học cổ truyền trong các bệnh

viện, Hội đông y cũng đồng thời được Ngành quan tâm và mở rộng quy mô,

chất lượng hoạt động. Giai đoạn này, số lượng hội viên ngày càng tăng. Năm

2001, Hội đã tổ chức được 10 phòng chuẩn trị tập thể, 1 trung tâm thừa kế

ứng dụng, 20 tổ chuẩn trị, 351 phòng khám bệnh đông y tư nhân.

Năm 2001, Hội đông y Nghệ An tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IX

nhiệm kỳ 2001 - 2005. Đại hội đã tổng kết đánh giá những việc làm được và

chưa làm được, đồng thời đề ra mục tiêu, giải pháp phát triển tổ chức Hội

trong nhiệm kỳ tiếp theo. Đại hội lần thứ IX đã mở ra bước ngoặt quan trọng

cho sự phát triển của Hội đông y Nghệ An.

Năm 2001 đến năm 2005, số lượng chi hội và hội viên không ngừng

tăng lên. Năm 2005, Hội có 1400 hội viên. Chất lượng công tác khám chữa

69

bệnh cũng từng bước được khẳng định. Cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc

khám chữa bệnh ngày càng hiện đại, các loại máy móc được trang bị mới

như: Máy tần phổ cao tần, máy sóng ngắn, máy điện châm, đèn hồng từ

ngoại... Vì vậy, số lượng bệnh nhân chữa trị theo phương pháp y học cổ

truyền ngày càng đông, uy tín của Tổ chức Hội ngày càng được khẳng định và

tạo được niềm tin lớn trong quần chúng nhân.

Ngoài ra, công tác bồi dưỡng chuyên môn cho hội viên, công tác

nghiên cứu khoa học, kế thừa y học dân tộc cũng đồng thời được hội chú

trong phát triển. Hội đã tiến hành tổ chức ghi chép những bài thuốc quý để lại

cho các thế hệ sau, đồng thời bổ sung những nghiên cứu, phát hiện mới. Bên

cạnh đó, Hội còn tiến hành mở một hệ thống đào tạo nghề rộng khắp. Với

những kết quả đạt được, nhiệm kỳ 2001 - 2005, Hội đông y Nghệ An được

Trung ương Hội tặng cờ thi đua xuất sắc.

70

Chương 3

Kết quả và một số kinh nghiệm quá trình đảng bộ

tỉnh Nghệ An lãnh đạo thực hiện công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1996- 2005)

3.1. Kết quả quá trình thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức

khoẻ nhân dân (1996 - 2005)

3.1.1. Những thành tựu đạt được

Trong thời kỳ đổi mới, mặc dù nền kinh tế tỉnh nhà còn gặp nhiều khó

khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, ngành y tế Nghệ An đã vượt

qua nhiều thử thách, đạt được những thành tựu quan trọng trong công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thể hiện ở các chỉ tiêu cơ bản về sức

khoẻ: giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, cải thiện giống

nòi. Bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng giảm đi rõ rệt, nhất là các bệnh truyền

nhiễm có vacxin tiêm chủng ở trẻ em, như Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Sởi,

Lao, Bại liệt... Bệnh sốt rét được khống chế, tình hình dịch ổn định, tỷ lệ suy

dinh dưỡng trẻ em giảm. Bệnh Bướu cổ bước đầu được khống chế, sức khoẻ

của đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người, người nghèo,

đối tượng chính sách đã được chú ý chăm sóc tốt hơn. Các nguy cơ xấu ảnh

hưởng đến sức khoẻ do thay đổi lối sống, môi trường, tệ nạn xã hội, như

AIDS, tai nạn giao thông, nạn nghiện hút, bệnh nghề nghiệp đã được chú ý

phòng ngừa.Những thành tựu nổi bật thể hiện trên các mặt:

* Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển: Trong giai đoạn từ 1996-

2005, mạng lưới y tế đã không ngừng được củng cố và phát triển. Từ rất nhiều

khó khăn với hệ thống y tế lạc hậu, yếu kém, nhiều xã ở huyện miền núi

không có trạm y tế (năm 1995 có 103 xã trắng về y tế), cơ sở vật chất, đặc

biệt là các bệnh viện, các trạm y tế, phương tiện phòng chống dịch xuống cấp

71

nghiêm trọng. Đến năm 2005, ngành y tế Nghệ An có 6 bệnh viện tuyến tỉnh

(1 bệnh viện đa khoa, 5 bệnh viện chuyên khoa); 7 trung tâm và trạm chuyên

khoa, 19 trung tâm y tế huyện, 466 trạm y tế xã, phường với gần 6.000

giường bệnh, trên 12.500 cán bộ công nhân viên trong đó đại học có 900

người, trên đại học 127 người. Với nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho gần 3

triệu dân trong toàn tỉnh.

Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển, 466 xã, phường có

cán bộ y tế hoạt động, nhiều xã đã có bác sĩ. Trên 80% số xã có nữ hộ sinh

hoặc y sĩ sản nhi, 85% thôn bản có nhân viên y tế. Cơ sở vật chất trang thiết

bị y tế từng bước được nâng cấp, cải thiện nhiều kỹ thuật cao trong chẩn

đoán, điều trị góp phần nâng cao chất lượng khám bệnh cho nhân dân.

Với những kết quả đạt được, đến năm 2005, ngành y tế Nghệ An vinh

dự đón nhận nhiều bằng khen, cờ thi đua và các phần thưởng cao quý của

Đảng, Nhà nước. Một đơn vị được tặng Huân chương Lao động hạng nhì, 8

đơn vị được tặng Huân chương Lao động hạng ba, 4 đơn vị được tặng cờ, 25

đơn vị được tặng Bằng khen, 1 cá nhân được phong tặng Anh hùng lao động,

25 cá nhân được tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú và nhiều cán bộ công nhân

viên được tặng Huy hiệu vì sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Những

thành tích của ngành y tế Nghệ An được Đảng, Nhà nước ghi nhận là nguồn

cổ vũ lớn lao để ngành tiếp tục phấn đấu nhiều hơn, hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

* Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh và đạt được những thành tựu

to lớn:

Có thể nói giai đoạn này, một trong những thành công quan trọng mà

ngành y tế Nghệ An đã đạt được đó là công tác phòng chống dịch sốt rét.

Năm 1995, số người tử vong do sốt rét là 04 người/năm thì đến năm 2000 chỉ

còn 1-2 ca chết do sốt rét/ năm. Đến năm 2006, không có dịch sốt rét xảy ra

72

và không có tử vong do sốt rét. Đây là kết quả chưa từng có trong vòng 15

năm trở về trước.

Đạt được những kết quả đó là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp từ

Trung ương đến địa phương, sự đầu tư lớn về kinh phí, sự phối hợp của các

cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt, trong thời gian qua, Ngành y

tế Nghệ An đã thực hiện có hiệu quả công tác củng cố mạng lưới y tế xã,

thôn. Đây có thể nói là yếu tố rất quan trọng, vì y tế cơ sở là đơn vị gần dân

nhất, là tai, mắt để có thể có những phát hiện sớm, can thiệp kịp thời những

biểu hiện của dịch bệnh đồng thời có những thông tin cần thiết để ngành có

biện pháp giải quyết, ngăn chặn không để dịch lan rộng.

Bằng sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ y tế trong việc thực hiện chương

trình cung cấp muối iốt, công tác phòng chống các rối loạn thiết iốt của tỉnh

Nghệ An đã mang lại nhiều hiệu quả rất rõ rệt. Năm 2005, ngành y tế Nghệ

An đã hoàn thành mục tiêu giai đoạn II "Thanh toán bệnh bướu cổ và các rối

loạn do thiếu iốt".

Với những thành tích đạt được trong công tác phòng chống buớu cổ,

Trạm nội tiết Nghệ An đã nhận được nhiều bằng khen của UBND tỉnh, của

Bộ y tế về việc hoàn thành xuất sắc kế hoạch và có nhiều đóng góp trong việc

xây dựng ngành nội tiết nói chung.

Hoạt động tiêm chủng được thực hiện trên diện rộng 19/19 huyện,

thành, thị đến các xã, thôn, bản thuộc vùng sâu, vùng xa. Việc bảo quản, vận

chuyển vacxin lên miền núi được đảm bảo. Các điểm tiêm chủng được tổ

chức một cách hợp lý, khoa học và mang lại hiệu quả cao.

Trong những từ 1996 - 2006, công tác tiêm chủng mở rộng đạt được

nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ tiêm chủng 6 bệnh có vacxin phòng ngừa ở trẻ

em luôn đạt trên 95%. Công tác tiêm chủng ngày càng được mở rộng và xã

hội hoá cao.

73

Hiện nay, bệnh lao đang là mối nguy hiểm lớn của cộng đồng. Đặc biệt,

gần đây bệnh lao trên bệnh nhân HIV/AIDS đang có xu hướng gia tăng, ảnh

hưởng rất lớn đến kết quả điều trị, đồng thời làm tăng thêm gánh nặng về kinh

phí và công tác điều trị đối với ngành y tế. Trong hơn mười năm, Ngành y tế

đã cố gắng trong việc khống chế tình hình dịch tễ bệnh lao, mở rộng chiến

lược DOTS, đối phó với bệnh lao nhiễm HIV và kháng khuẩn chống lao.

Tuy nhiên, đến năm 2005, số người mắc bệnh lao vẫn cao (2355

người). Thực tế đó, đòi hỏi sự quan tâm, phối hợp, giúp đỡ của các cấp, các

ngành, các tổ chức xã hội để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cộng

đồng, đồng thời có những hoạt động thiết thực khác góp phần ngăn chặn sự

phát triển của dịch bệnh này.

Tháng 4 năm 2000, tại Thành phố Vinh đại diện Chương trình chống

phong Quốc gia, viện da liễu Trung ương cùng 11 trung tâm Da liễu của 11

tỉnh, thành phố phía Bắc tổ chức kiểm tra đánh giá công tác chống phong tại

Nghệ An. Đoàn đã kiểm tra tại 12 xã, phường đại diện cho 446 xã, phường

của 19 huyện thành, thị trong tỉnh về nội dung công tác tuyên truyền, khám

phát hiện, quản lý, điều trị, phục hồi chức năng cho bệnh nhân phong. Qua

kiểm tra, 1 tiêu chuẩn quốc tế, xếp loại chung đạt xuất sắc. Với kết quả đó,

Nghệ An là tỉnh thứ 18 trong cả nước hoàn thành công tác chống phong và

loại trừ bệnh phong ra khỏi cộng đồng. Mặt khác, tiếp tục thực hiện chương

trình loại trừ bệnh phong và phòng chống các bệnh qua đường tình dục, bệnh

ngoài da. Năm 2005, Bộ y tế tiến hành phúc tra và công nhận Nghệ An đã loại

trừ bệnh phong đạt 4 tiêu chuẩn Việt Nam và xếp loại xuất sắc.

Công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và đạt được nhiều kết quả

quan trọng. Tỷ lệ tai biến sản khoa, tỷ lệ tử vong trẻ em giảm. Tỷ lệ chết mẹ

là 0,8%, giảm 0,4% so với năm 1996. Tỷ lệ suy dinh dưỡng bào thai là 8%,

giảm 4,7% so với năm 1996. Tỷ lệ các cặp vợ chồng chấp nhận biện pháp

74

tránh thai là 67%, tăng 7% so với năm 1996. Số phụ nữ nạo thai còn dưới

30%. Thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai giảm, dinh dưỡng bà mẹ cho

con bú được bảo đảm trọng lượng tăng trung bình của bà mẹ mang thai là

10kg, tăng gần 3kg so với năm 1996.

Trong những năm 1996 - 2005, số người nhiễm HIV ở Nghệ An đã

không ngừng tăng lên. Theo thống kê trung bình cứ mỗi ngày có 0,7 ca nhiễm

mới vào năm 2000 và 1,2 ca nhiễm mới vào năm 2002. Đa số người nhiễm

HIV ở Nghệ An bằng đường tiêm chích ma tuý. Tình trạng chích ma tuý theo

nhóm, theo hội đã làm lây nhiễm HIV nhanh chóng trong nhóm và từ đó lan

ra cộng đồng. Các địa phương có số người nhiễm HIV cao là Thành phố

Vinh, huyện Đô Lương, huyện Tương Dương, huyện Nghĩa Đàn...

Trước thực tế đó, ngành y tế đã đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo

dục tuyên truyền, tư vấn thông qua các chiến dịch truyền thông, tổ chức tốt

ngày thế giới phòng chống AIDS, đảm bảo an toàn, vô trùng trong dịch vụ y

tế, giám sát xét nghiệm... không để xảy ra lây chéo HIV. Tuy nhiên số người

nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng và chưa có biện pháp ngăn chặn. Đây trở thành

thách thức lớn đối với ngành y tế nói riêng và với cộng đồng nói chung.

* Hoạt động khám chữa bệnh đã có nhiều tiến bộ vượt bậc: Với những

kết quả đạt được, công tác điều trị của ngành y tế Nghệ An đã từng bước

khẳng định vị trí của mình trong lòng nhân dân, được các cấp, các ngành đánh

giá cao. Năm 2005, Nghệ An có 18 đơn vị điều trị đạt loại xuất sắc, 7 đơn vị

đạt loại khá trong công tác khám chữa bệnh.

*Hoạt động y học cổ truyền đã phát huy tác dụng tích cực trong

việc điều trị các bệnh thông thường và nhiều bệnh mãn tính với chi phí thấp,

phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của người nghèo, người có hoàn cảnh khó

khăn: Đến nay, các bệnh viện có khoa hoặc tổ y học cổ truyền làm tốt công

tác phối hợp giữa y học hiện đại với y học cổ truyền trong khám chữa bệnh là

75

các bệnh viện: Bệnh viện Hữu nghị đa khoa tỉnh, Trung tâm y tế huyện Nam

Đàn, Trung tâm y tế huyện Yên Thành, Trung tâm y tế huyện Diễn Châu,

Trung tâm y tế huyện Nghĩa Đàn, các hoạt động kết hợp giữa y học hiện đại

và y học cổ truyền như: Châm tê, châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh.

Ngành y tế Nghệ An đã tiến hành xây dựng các vườn thuốc Nam, xây

dựng các xã y học cổ truyền. Ngành đã chỉ đạo điểm 5 xã xây dựng xã y học

cổ truyền là xã Quỳnh Giang, huyện Quỳnh Lưu, xã Nhân Thành, huyện Yên

Thành, xã Hưng Thông, Hưng Tân, huyện Hưng Nguyên và xã Đông Vĩnh,

Thành phố Vinh. Tại các xã được xây dựng thí điểm xã y học cổ truyền đã thu

được kết quả rất tốt, được Bộ y tế kiểm tra và công nhận là xã tiên tiến y học

cổ truyền.

* Công tác dược, trang thiết bị và các công trình y tế: Giai đoạn này,

ngành Dược Nghệ An có tổng số 1.213 cán bộ. Trong đó, cán bộ có trình độ

trên đại học là 27 người, gồm 1 phó tiến sỹ, 3 chuyên khoa II, 23 chuyên khoa

I, 126 dược sĩ đại học. Về tổ chức hệ thống dược: Văn phòng Sở y tế có

phòng quản lý dược, phòng thanh tra dược, ngoài ra có Trung tâm kiểm

nghiệm dược phẩm tỉnh. Toàn tỉnh có 4 đơn vị doanh nghiệp Nhà nước gồm:

Xí nghiệp Dược, Công ty dược phẩm dược liệu, Công ty dược Quỳnh Lưu,

Công ty vật tư y tế cùng với 25 khoa tại 25 bệnh viện tỉnh và trung tâm y tế

huyện, 7 tổ hoặc bộ phận tại trung tâm và trạm chuyên khoa.

Năm 2005, tổng số cán bộ ngành Dược Nghệ An là 1345 người, có

trình độ chuyên môn cao so với cả nước. Trên địa bàn toàn tỉnh, có 105 nhà

thuốc, 225 đại lý và 472 quầy thuốc phục vụ tại trạm y tế xã. Nhìn chung,

mạng lưới bán lẻ thuốc ở tỉnh ta đã phát triển đều khắp, tạo điều kiện thuận

lợi phục vụ nhân dân. Năm 2005, doanh số từ bán thuốc đạt 252 tỷ đồng, nộp

ngân sách đạt 850 triệu. Trong đó các loại thuốc thiết yếu được cung cấp là

81.839 đồng/người/năm. năm 2005, sản xuất thuốc của tỉnh đạt 6,54 tỷ.

76

Trong giai đoạn này, ngành y tế Nghệ An nhận được sự quan tâm của

Bộ y tế, của UBND tỉnh và các tổ chức viện trợ nước ngoài, đặc biệt là từ dự

án hỗ trợ y tế quốc gia, nguồn vay của ngân hàng thế giới để nâng cấp, bổ

sung nhiều trang thiết bị y tế tại các cơ sở. 100% Trung tâm y tế huyện, thành,

thị, xã phường, thị trấn đã được trang bị những thiết bị y tế cơ bản. Hệ thống

dự phòng cũng được cung cấp những trang thiết bị cần thiết như: Điểm kính,

máy phun hoá chất, máy quang phổ tử ngoại, máy đo khí độc, máy xét

nghiệm đa thông số, máy điều trị lazer, máy vi phẫu thuật mắt...

Mặc dù ngành đã có nhiều cố gắng trong công tác bổ sung trang thiết bị

nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao

của nhân dân. Phần lớn các đơn vị y tế trong tỉnh vẫn sử dụng những trang

thiết bị đã quá lạc hậu. Đặc biệt tại bệnh viện Đa khoa tỉnh là đơn vị điều trị

đầu ngành của tỉnh nhưng còn thiếu nhiều những trang thiết bị máy móc hiện

đại.

Trong giai đoạn này, song song với việc phát triển mạng lưới cung ứng

thuốc trên địa bàn toàn tỉnh, cùng với việc nhập khẩu nhiều mặt hàng thuốc

trên thị trường; đồng thời cũng xuất hiện nhiều mặt hàng thuốc kém chất

lượng, thuốc giả ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người bệnh. Từ thực

tế đó, Bộ y tế đã có chỉ thị số 03 về xử lý các hành vi vi phạm sản xuất và

buôn bán thuốc giả. Ngành y tế Nghệ An đã tiến hành triển khai thực hiện

nghiêm túc công tác thanh, kiểm tra việc sản xuất và phân phối thuốc trên thị

trường toàn tỉnh. Ngành đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra liên ngành, tiến

hành nhiều đợt kiểm tra tại nhiều tụ điểm. Qua kiểm tra đã phát hiện và xử lý

nhiều trường hợp vi phạm góp phần ngăn chặn thuốc giả, thuốc kém chất

lượng lưu hành trên thị trường. Nhờ làm tốt công tác này, từ năm 2000 đến

2005 trên địa bàn Nghệ An không có hiện tượng thuốc giả. Tỷ lệ thuốc kém

77

chất lượng giảm rõ rệt. Năm 1996, Tỷ lệ mẫu thuốc không đạt chất lượng là

2,94% và năm 2004 tỷ lệ còn là 0,4%.

* Công tác đào tạo: Một trong những nhiệm vụ cấp bách trong thực

hiện chiến lược phát triển của ngành y tế Nghệ An là đẩy mạnh công tác đào

tạo đội ngũ cán bộ cả về cán bộ phổ cập và cán bộ chuyên sâu.

Ngành y tế Nghệ An đã tiến hành mở nhiều lớp đào tạo, tập huấn nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế về các xã,

đảm bảo mỗi xã có từ 3 - 5 cán bộ y tế. Giai đoạn này, trường trung học y tế

Nghệ An được đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, mở rộng về quy mô và chất

lượng giảng dạy. Đội ngũ cán bộ của trường tăng nhanh về số lượng và trình

độ giảng dạy. Hàng năm nhà trường đào tạo từ 700 - 800 học viên hệ y tá,

điều dưỡng và nữ hộ sinh trung học.

Đồng thời, ngành đã tranh thủ được các dự án hỗ trợ phát triển y tế

quốc gia và các tổ chức quốc tế để mở lớp đào tạo lại cho cán bộ y tế các

tuyến, đặc biệt là cán bộ y tế xã, thôn, bản. Riêng năm 2000, ngành đã đã mở

được 14 lớp bồi dưỡng chuyên môn cho 510 nhân viên y tế thôn bản; 14 lớp

cho 328 học viên bồi dưỡng về các chuyên ngành: quản lý bệnh viện huyện,

giám sát viên trung tâm y tế huyện, kỹ thuật viên vận hành và sử dụng thiết bị

y tế cho cán bộ y tế xã, phường. Ngành cũng đã mở nhiều lớp tập huấn dược

lâm sàng cho 632 cán bộ. Ngoài ra, ngành đã tạo điều kiện cử 43 cán bộ học

chuyên tu tại Hà Nội, 4 cán bộ học hệ cao đẳng điều dưỡng, 19 cán bộ đào tạo

chuyên khoa I, 2 cán bộ học cao học, 2 cán bộ học bác sĩ chuyên khoa II, 2

cán bộ đào tạo nghiên cứu sinh. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ y tế Nghệ An ngày

càng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Ngoài ra, ngành đã tiến hành lập trung tâm bổ túc sau đại học, kết hợp

với trường Đại học Y Hà Nội mở được 2 lớp đào tạo chuyên khoa I và là 1

trong 2 tỉnh trong cả nước đào tạo chuyên khoa I tại địa phương. Ngành còn

78

phối hợp với các trường như: Trường Đại học Y Hà nội, Đại học Y Thái

Bình, Viện 103 đào tạo nhiều bác sỹ chuyên khoa các ngành: nội, ngoại, sản

nhi, truyền nhiễm, tai-mũi-họng, răng-hàm-mặt ...

Với những nỗ lực trong công tác đào tạo của ngành, đội ngũ cán bộ y tế

Nghệ An được tăng nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng. Trường trung

cấp y tế Nghệ An được Nhà nước phong tặng Huân chương Lao động hạng 3,

bác sỹ Nguyễn Huy Thông - Hiệu trưởng của trường được tặng danh hiệu nhà

giáo ưu tú và Huân chương Lao động hạng 3. Tháng 2/2003, trường được Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định nâng cấp thành Trường Cao

đẳng Y tế Nghệ An. Đây là niềm vinh dự lớn của đội ngũ cán bộ trường và

ngành y tế Nghệ An, là điều kiện tốt để trường tiếp tục có nhiều đóng góp hơn

nữa cho sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ y tế của tỉnh nhà.

Công tác nghiên cứu khoa học và việc áp dụng nhiều đề tài nghiên cứu

khoa học trong lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh cũng được ngành triển khai

có hiệu quả. Các đơn vị y tế làm tốt công tác này như: Trung tâm phòng

chống sốt rét, bệnh viện Hữu nghị đa khoa tỉnh, bệnh viện Nhi, có nhiều đề tài

nghiên cứu có chất lượng tốt và ứng dụng thiết thực vào công tác chăm sóc

sức khoẻ. Ngoài ra, ngành đã tổ chức được nhiều hội thảo về chăm sóc sức

khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, xử lý chất thải bệnh viện ... thu hút

sự quan tâm của đông đảo nhân dân.

Những thành tích mà ngành y tế Nghệ An đã đạt được trong công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là do:

Ngành đã nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ,

chính quyền, sự quan tâm, phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể có liên quan.

Công tác xã hội hoá y tế đã tạo sự chuyển biến lớn về nhận thức của

cộng đồng đối với việc chăm sóc sức khoẻ bản thân, gia đình và cộng đồng,

79

thu hút sự quan tâm, hưởng ứng của đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt

động y tế có hiệu quả.

Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, vấn đề chăm sóc

sức khoẻ được đặt ra một cách thường xuyên, nghiêm túc, đòi hỏi Ngành Y tế

cũng cần có những bước phát triển xứng tầm, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức

khoẻ của nhân dân.

Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, từng bước hoàn thiện và đi vào

hoạt động có hiệu quả đã góp phần quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ

ban đầu, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được bổ sung về số lượng và trình độ

chuyên môn, nhiệt tình, chịu khó vượt qua khó khăn góp phần phát triển

ngành y tế tỉnh nhà.

Huy động được nguồn lực của mọi ngành và cộng đồng trong chăm sóc

sức khoẻ. Có sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội trong và ngoài nước.

3.1.2. Những hạn chế cần khắc phục

Nhìn lại chặng đường gần mười năm của công tác chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ nhân dân từ 1996 đến 2005. Với những khó khăn và những bước đi

táo bạo, mạnh mẽ, tạo nên sự bứt phá quan trọng, tạo cầu nối cho giai đoạn

phát triển tiếp theo với những thành công phía trước.

Bên cạnh những thành tích quan trọng đã đạt được, nhìn nhận một cách

thẳng thắn và khách quan, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

giai đoạn 1996 - 2005 vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:

Thứ nhất, đội ngũ cán bộ y tế tuy đông nhưng phân bố không đều, tập

trung chủ yếu ở đồng bằng và thành thị. Ngành y tế Nghệ An đã chỉ đạo dự án

đưa bác sỹ về xã, nhưng hiệu quả của dự án này chưa cao. Ngành còn thiếu

những cán bộ chuyên khoa đầu ngành và cán bộ quản lý. Tinh thần, thái độ,

trách nhiệm phục vụ, chăm sóc bệnh nhân ở một số bệnh viện còn chưa cao,

80

còn có tình trạng cán bộ y tế nhận phong bì, quà biếu của bệnh nhân trong quá

trình điều trị.

Thứ hai, trong thời gian qua, mặc dù ngành y tế đã chú trọng công tác

đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu

chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Còn thiếu nhiều những trang thiết bị máy

móc hiện đại chuyên sâu.

Thứ ba, chất lượng khám chữa bệnh còn nhiều bất cập, tỷ lệ bệnh nhân

phải chuyển tuyến trên còn cao. Vấn đề công bằng trong khám chữa bệnh còn

chưa đảm bảo.

Thứ tư, lĩnh vực y học cổ truyền phát triển chưa có chiều sâu, việc

trồng và sử dụng thuốc Nam; việc thừa kế và phát huy các bài thuốc y học cổ

truyền còn ít, việc phổ biến những kiến thức y học cổ truyền trong nhân dân

chưa được chú trọng nhiều.

Thứ năm, sức khoẻ của nhân dân tỉnh nhà còn ở mức thấp và không

đồng đều ở các vùng. ở nông thôn vẫn còn nổi lên 3 vấn đề lớn: các bệnh

nhiễm trùng, suy dinh dưỡng và sinh đẻ nhiều. ở thành thị nổi lên tai nạn giao

thông, bệnh nghề nghiệp, các bệnh lây qua đường tình dục, HIV/AIDS. sức

khoẻ bà mẹ và trẻ em được cải thiện chậm, tỷ suất chết mẹ và trẻ em giảm

chậm. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ bà mẹ có thai thiếu máu còn

cao.

Thứ sáu, môi trường sống chưa được cải thiện đáng kể, ô nhiễm do chất

thải vẫn là chủ yếu. Ô nhiễm hoá chất có nguy cơ ngày càng tăng ở thành thị

cũng như ở nông thôn, tỷ lệ dân dùng nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh còn

thấp. Môi trường xã hội đem lại sự mất công bằng trong chăm sóc sức khoẻ

do phân cực giàu nghèo, ngoài ra đem lại nguy cơ mới cho sức khoẻ nhân

dân, như nạn nghiện ma tuý, mại dâm, bệnh tâm thần, tội ác, tác động của

công nghiệp hoá, đô thị hoá cũng ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân. Hệ

81

thống y tế chưa ra khỏi tình trạng sa sút do tác động của đầu tư quá thấp. Một

số cơ sở vật chất từ tỉnh đến xã, phường vẫn còn trong tình trạng xuống cấp,

hiệu quả thấp, thiếu trang thiết bị, cơ sở làm việc, thiếu kinh phí hoạt động.

Ngành dược mới đáp ứng nhu cầu thuốc thiết yếu trong tỉnh, quản lý thị

trường thuốc chưa tốt. Hầu hết trang thiết bị nhập ngoại rất đắt tiền, kinh phí

sự nghiệp y tế không đáp ứng được.

3.2. Một số kinh nghiệm về quá trình lãnh đạo thực hiện công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1996 - 2005)

3.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò của

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

Thực tiễn công tác chăm sóc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở

tỉnh Nghệ An chỉ ra rằng sự nhận thức đúng của các cấp các ngành là một

nhân tố quyết định đến hiệu quả của công tác này. Phải xác định mục tiêu của

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ là hoạt động nhân đạo, góp phần chuẩn

bị nguồn lực cho sự phát triển bền vững của dân tộc, thể hiện bản chất tốt đẹp

của xã hội ta.

3.2.2. Chủ trương, đường lối của Đảng phải phù hợp với điều kiện

của địa phương

Đây là cơ sở để nâng cao và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có hiệu quả,

thiết thực. Điều kiện của từng địa phương không giống nhau, bản thân Nghệ

An là một tỉnh nghèo, điều kiện tự nhiên khó khăn, dân số đông, địa bàn trải

dài, các huyện miền núi chiếm đa số, vì vậy việc triển khai những chủ trương

về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cũng phải dựa trên điều kiện thực tế của địa

phương. 3.2.3. Tổ chức tốt quá trình thực hiện

Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện phải sát hợp, đồng bộ, có hiệu quả,

phù hợp tiềm năng, điều kiện của từng địa phương. Việc chỉ đạo ở đồng bằng,

đô thị phải khác với các địa phương miền núi, vùng sâu,vùng xa. Phải có cơ

82

chế kiểm tra, giám sát để thực hiện một cách đồng bộ, hiểu quả, thường xuyên

có đánh giá, tổng kết để rút kinh nghiệm, nhân rộng những mô hình thực hiện

tiêu biểu.

3.2.4. Nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong việc

nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

Thực tiễn công tác này cho thấy, sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa

các cấp, các ngành là điều kiện đảm bảo thắng lợi của công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Quán triệt đường lối, chủ trưong của Đảng, ngoài

vai trò nòng cốt của ngành y tế, cần có sự phối hợp chặt chẽ của Uỷ ban dân

số, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các huyện, thành, xã

phường, thôn, bản trong quá trình cổ động và triển khai thực hiện.

3.2.5. Chú trọng công tác truyền thông, giáo dục sức khoẻ trong cộng

đồng. Phát huy nội lực, tính chủ động, sáng tạo của các địa phương trong

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

Đẩy mạnh công tác truyền thông nhằm giáo dục, tuyên truyền cho mọi

người dân hiểu rõ hơn về vai trò của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân. Phát huy tối đa sự năng động sáng tạo của các địa phương trong

quá trình thực hiện.Tăng cường sự hợp tác của các ngành, các đoàn thể và sự

tham gia của cộng đồng ngày càng thiết thực và có hiệu quả dưới sự lãnh đạo

của Đảng và chính quyền các cấp.

3.2.6. Chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ ngành y tế

đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân.

Phải xác định, nguồn nhân lực đi trước một bước để sẵn sàng đón nhận

kỹ thuật cao, không ngừng tăng cường nguồn lực cho ngành y tế, quan tâm

đồng bộ cả về số lượng lẫn chất lượng, thực hiện cơ chế thu hút có đặc thù đối

với cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Quan tâm đến việc nâng cao

83

chất lượng khám chữa bệnh và tinh thần phục vụ bệnh nhân, tạo sự chuyển

biến về nhận thức tư tưởng và hành động của cả hệ thống chính trị cũng như

mọi người dân trong việc nâng cao chất chất lượng hoạt động y tế và chăm

sóc sức khoẻ nhân dân. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và và năng lực chuyên

môn của đội ngũ cán bộ y tế.

3.2.7. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá y tế, đa dạng hoá các loại hình

chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm các nguồn đầu tư, viện trợ, giúp đỡ của các tổ

chức quốc tế, huy động tối đa nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu

quả trong đầu tư phát triển.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần có nhiều nghị quyết, chủ trương về

công tác y tế, sự tham gia của các đoàn thể quần chúng trong việc tuyên

truyền, vận động nhân dân vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện, nâng cao sức khoẻ.

Trong những năm qua, cùng với các cấp, các ngành, ngành y tế Nghệ

An đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong chiến lược phát

triển nhằm đưa Nghệ An trở thành Trung tâm kinh tế- văn hoá của khu vực

Bắc miền Trung, ngành y tế cần có chiến lược phát triển xứng tầm. Để làm tốt

công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đòi hỏi ngành y tế Nghệ An cần

làm tốt một số giải pháp sau:

- Công tác đào tạo, đào tạo lại cần quan tâm đúng mức, một mặt đào tạo

cán bộ chuyên khoa đầu ngành, có thể tiếp cận được với những tiến bộ của y

học hiện đại, mặt khác quan tâm chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ

cơ sở, cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể cho từng địa phương, đào tạo phải

gắn liền với sử dụng cán bộ, có chính sách sử dụng cán bộ hợp lý.

- Để phát huy thế mạnh của đội ngũ cán bộ y tế tỉnh nhà, vấn đề cấp

bách đặt ra cho ngành hiện nay là nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị. Để

giải quyết vấn đề này, một mặt cần đẩy mạnh xã hội hoá y tế nhằm huy động

sức mạnh tập trung, nội lực của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội cần

84

quan tâm, đầu tư tới công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cộng đồng và xã

hội, mặt khác vận dụng tích cực nguồn ngân sách Nhà nước và nguồn viện trợ

từ các tổ chức Quốc tế.

Hiện nay, đời sống của nhân dân đang ngày càng được nâng lên. Song

đi kèm với nó xuất hiện nhiều các căn bệnh như: bệnh tiểu đường, bệnh gút,

bệnh béo phì, bệnh về huyết áp, tim mạch... Ngành y gọi đó là "nỗi lo 2 đầu".

Để đón đầu những căn bệnh có tính thời đại này, ngành y tế Nghệ An cần

chuẩn bị những cơ sở cần thiết cả về nhân lực và trang thiết bị để tiến tới

thành lập các bệnh viện chuyên khoa. Nghệ An là một tỉnh lớn, dân số đông,

hướng phát triển của Nghệ An trong thời gian tới là xây dựng Thành phố

Vinh trở thành trung tâm của vùng Bắc Trung bộ, ngành y tế Nghệ An cần có

chiến lược phát triển để đáp ứng công tác chăm sóc sức khoẻ không chỉ nhân

dân trong tỉnh mà còn nhân dân những tỉnh lân cận, cả của nước bạn Lào.

Việc thành lập các bệnh viện chuyên khoa, sẽ thuận lợi hơn cho tỉnh cũng như

ngành y tế Nghệ An trong việc thu hút vốn đầu tư của các tổ chức trong nước,

quốc tế cũng như của cá nhân trong việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết

bị bệnh viện, tạo nên một hệ thống khám chữa bệnh chuyên sâu, phục vụ tốt

hơn cho nhân dân. Đặc biệt, hiện nay tỉnh đã có đề án thành lập Bệnh viện

Phụ sản nhưng tiến độ rất chậm, ngành cần có lộ trình cụ thể, thực thi để đáp

ứng nhu cầu khám chữa bệnh của lực lượng đông đảo chị em, chiếm 50% dân

số tỉnh.

Hiện nay, chúng ta đang đứng trước đại dịch HIV, lao... và chưa có

biện pháp ngăn chặn, bệnh có hướng lây lan với tốc độ nhanh chóng. Thực

hiện chủ trương của ngành theo hướng dự phòng là chính, ngành y tế Nghệ

An cần thu hút sự đầu tư nhằm xây dựng mạng lưới y tế dự phòng đảm bảo có

chất lượng.

85

- Một trong những thành công của ngành y tế Nghệ An trong thời gian

qua là đã làm tốt công tác xã hội hoá y tế. Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII

đã chỉ rõ "Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân

tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta

phấn đấu để mọi người cần được quan tâm chăm sóc sức khoẻ " [14, tr.2].

Trong thời gian tiếp theo, công tác xã hội hoá y tế cần tiếp tục được đẩy

mạnh, là hướng phát triển quan trọng trong việc giáo dục kiến thức về sức

khoẻ cho nhân dân, đồng thời huy động ý thức trách nhiệm của cộng đồng

trong việc phòng và chữa trị những căn bệnh thông thường. Ngành tiếp tục

đẩy mạnh công tác xây dựng hệ thống y tế cơ sở, nhất là y tế thôn, bản, y tế

vùng sâu, vùng xa. Làm tốt công tác xã hội hoá y tế là nhằm thực hiện tốt

công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, giảm gánh nặng cho Ngành, cho nhân

dân và toàn xã hội.

- Nghệ An có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nguồn

dược liệu quý, đã có thời ngành dược tỉnh ta phát triển mạnh. Nhưng hiện

nay, ngành dược của tỉnh chủ yếu là buôn bán thu nhỏ, lưu lượng thuốc trên

thị trường chủ yếu là nhập ngoài. Trong thời gian tới Nghệ An dần đầu tư các

dây chuyền sản xuất thuốc công nghệ hiện đại đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế,

nhằm phát huy lợi thế địa phương, tạo công ăn việc làm cho nhân dân của

tỉnh, đồng thời khôi phục lại truyền thống ngành dược của tỉnh nhà, xứng

đáng với tiềm năng vốn có.

86

Kết luận

Nghệ an là tỉnh có truyền thống yêu nước và cách mạng. Trong suốt

chiều dài lịch sử, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nghệ An đã góp phần

viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, mặc dù

còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền

các cấp, Bộ y tế, sự phối hợp các ngành liên quan, ngành y tế đã từng bước

tháo gỡ những khó khăn trở ngại để củng cố và phát triển, đáp ứng yêu cầu

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công tác chăm

sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở tỉnh Nghệ An đã thu được nhiều kết quả

quan trọng. Việc tìm hiểu vấn đề này là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn. Qua 3 chương, luận văn đã khái quát được những chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Nghệ An

đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, những kết quả đã đạt

được trong giai đoạn 1996-2005, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của

những thành công đó.

Những thành công và hạn chế để lại cho Đảng bộ tỉnh và ngành y tế

những kinh nghiệm quý báu để tiếp tục thực hiện tốt công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khoẻ nhân dân, phấn đấu sớm đưa Nghệ An trở thành trung tâm y

tế lớn của khu vực Bắc miền Trung.

Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi

người dân, là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, các đoàn thể

nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế đóng vai trò nòng cốt. ý

thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình, đồng thời cùng cả nước tiến lên trong

thời kỳ hội nhập, ngành y tế Nghệ An luôn phấn đấu vươn lên để chăm sóc

sức khoẻ nhân dân ngày một tốt hơn, xứng đáng là "Thầy thuốc như mẹ hiền"

của nhân dân.

87

Nhận thức được vai trò quan trọng đó, Đảng bộ và ngành y tế Nghệ An

đã xác định phương hướng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân

dân trong giai đoạn 2007-2010 là: Giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, nâng cao

sức khỏe và tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất

lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực. Phấn đấu để mọi người dân

được cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các

dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an

toàn, phát triển tố về thể chất, tinh thần. Bảo đảm sức khoẻ để thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để thực hiện mục tiêu chung, phái tiến hành các mục tiêu cụ thể: Nâng

cấp hệ thống khám chữa bệnh trên cơ sở hoàn thiện và phát huy mạng lưới y

tế cơ sở, tập trung đổi mới trang thiết bị và có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo

đủ cán bộ có trình độ chuyên môn sâu để đến năm 2010, Thành phố Vinh trở

thành trung tâm khám chữa bệnh của khu vực Bắc miền Trung và các tỉnh dọc

biên giới của Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Bảo đảm việc cung ứng

thuốc có chất lượng cho nhân dân; tăng cường quản lý giá thuốc, hướng dẫn

sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả. Nâng cao chất lượng thuốc sản xuất

trong tỉnh, để để đáp ứng nhu cầu thuốc của nhân dân. Tăng tỷ trọng đầu tư

cho y tế từ ngân sách nhà nước. Thực hiện thanh toán khám chữa bệnh thông

qua bảo hiểm y tế, giảm dần các hình thức chi phí trực tiếp. Khuyến khích các

loại hình đầu tư phát triển dịch vụ y tế. Kiện toàn bộ máy quản lý và đội ngũ y

tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.Thực hiện chính sách thu hút cán bộ y

tế giỏi về công tác tại Nghệ An và bác sỹ, dược sỹ đến nhận công tác tại tuyến

y tế cơ sở. Chăm lo tốt hơn đời sống và điều kiện sinh hoạt của cán bộ và

nhân viên ngành y tế.

Để hoàn thành luận văn, bản thân tác giả cũng đã có nhiều cố gắng,tìm

tòi, tích luỹ tham khảo nhiều tài liệu. Tuy nhiên, luận văn sẽ không thể tránh

88

khỏi những hạn chế về nội dung và hình thức. Rất mong nhận được sự góp ý

của các thành viên Hội đồng bảo vệ luận văn cũng như những người có quan

tâm để luận văn tiếp tục được hoàn thiện, xứng đáng với một luận văn thạc

sỹ./.

89

1. Ban Khoa giáo trung ương (2006), Một số văn kiện của Đảng Cộng

Danh mục tài liệu tham khảo

sản Việt Nam về công tác khoa giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Y tế (1994), Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và kế hoạch hoá gia đình,

Nxb Y học, Hà Nội.

3. Bộ Y tế (1996), Kỹ năng tư vấn và chất lượng chăm sóc sức khoẻ bà

mẹ trẻ em, Nxb Y học, Hà Nội.

4. Bộ Y tế (1997), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khoẻ,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ Y tế (2001), Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản,

Nxb Y học, Hà Nội.

6. Bộ Y tế (2001), Quản lý y tế, Nxb Y học, Hà Nội.

7. Bộ Y tế (2002), Các chính sách và giải pháp chăm sóc sức khoẻ ban

đầu, Nxb Y học, Hà Nội.

8. Bộ Y tế (2002), Ngành y tế Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI,

Nxb Y học, Hà Nội.

9. Bộ Y tế (2002), Viện phí, bảo hiểm y tế và sử dụng dịch vụ y tế, Nxb

Y học, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

90

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết về những vấn đề cấp

bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 46 NQ/TW của Bộ

chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong

tình hình mới.

18. GS. TS. Đỗ Nguyễn Phương (1999), Y tế Việt Nam trong quá trình

đổi mới, Nxb Y học, Hà Nội.

19. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến

pháp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Tỉnh uỷ Nghệ An (1986), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XII, Nxb Nghệ An.

21. Tỉnh uỷ Nghệ An (1991), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XIII, Nxb Nghệ An.

22. Tỉnh uỷ Nghệ An (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XIV, Nxb Nghệ An.

23. Tỉnh uỷ Nghệ An (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An (tập I),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Tỉnh uỷ Nghệ An (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An (tập II),

Nxb Nghệ An.

25. Tỉnh uỷ Nghệ An (2001), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XV, Nxb Nghệ An.

91

26. Tỉnh uỷ Nghệ An (2001), Văn kiện tỉnh uỷ khoá XV(tập I), Nxb

Nghệ An.

27. Tỉnh uỷ Nghệ An (2001), Báo cáo nhận định tình hình thực hiện

nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV về nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội.

28. Tỉnh uỷ Nghệ An (2002), Văn kiện tỉnh uỷ khoá XV(tập II), Nxb

Nghệ An.

29. Tỉnh uỷ Nghệ An (2002), Thông tri về việc triển khai Chỉ thị 06-

CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về củng cố và hoàn thiện mạng lưới

y tế cơ sở, tổng kết 10 năm công tác y tế cơ sở.

30. Tỉnh uỷ Nghệ An (2002), Báo cáo thực trạng hệ thống khám chữa

bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2005.

31. Tỉnh uỷ Nghệ An (2002), Báo cáo kết quả điều tra nhận thức của

đội ngũ cán bộ các cấp về công tác phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em ở

Nghệ An.

32. Tỉnh uỷ Nghệ An (2002), Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ

về nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đến

giai đoạn 2007-2010.

33. Tỉnh uỷ Nghệ An (2003), Văn kiện tỉnh uỷ khoá XV(tập III) Nxb

Nghệ An.

34. Tỉnh uỷ Nghệ An (2003), Chỉ thị số 15 CT/TU của Ban Thường vụ

Tỉnh uỷ về sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác Dân số- Gia

đình và Trẻ em trong tình hình mới.

35. Tỉnh uỷ Nghệ An (2003), Báo cáo tóm tắt kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội Nghệ An.

36. Tỉnh uỷ Nghệ An (2004), Chỉ thị về củng cố, tăng cường công tác y

tế.

92

37. Tỉnh uỷ Nghệ An (2004), Văn kiện tỉnh uỷ khoá XV(tập IV), Nxb

Nghệ An.

38. Tỉnh uỷ Nghệ An (2004), Báo cáo ý kiến của đồng chí bí thư tỉnh

uỷ tại buổi làm việc với sở y tế ngày 12-1-2004.

39. Tỉnh uỷ Nghệ An (2005), Chỉ thị về việc tăng cường sự lãnh đạo,

chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm y tế.

40. Tỉnh uỷ Nghệ An (2006), Văn kiện tỉnh uỷ khoá XV (tập V), Nxb

Nghệ An.

41. Trường Đại học y Hà Nội (2002), Bài giảng quản lý và chính sách

y tế, Nxb Y học, Hà Nội.

42. Sở y tế Nghệ An (1996), Chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết XIV tỉnh Đảng bộ Nghệ An.

43. Sở y tế Nghệ An (2000), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành

Đảng bộ Sở y tế nhiệm kỳ 2000-2003 trình Đại hội lần thứ XIII nhiệm kỳ

2003-2005.

44. Sở y tế Nghệ An (2000), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua 10

năm đổi mới (1990-2000) và nhiệm vụ công tác thi đua từ năm 2000-2005

của Ngành y tế Nghệ An.

45. Sở y tế Nghệ An (2000), Đề án kế hoạch phát triển 2001-2005.

46. Sở y tế Nghệ An (2001), Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2001

và định hướng kế hoạch năm 2002.

47. Sở y tế Nghệ An (2001), Chương trình hành động của Ngành y tế

thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng

bộ lần thứ XV và Quyết định 35 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001 - 2010.

93

48. Sở y tế Nghệ An (2002), Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2002

và định hướng kế hoạch năm 2003.

49. Sở y tế Nghệ An (2002), Chương trình hành động của Ngành y tế

Nghệ An thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về

củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở.

50. Sở y tế Nghệ An (2006), Thông tin về y tế Nghệ An, Nxb Nghệ An.

51. Sở y tế Nghệ An (2006), Thông tin về y tế Nghệ An, Nxb Nghệ An.

52. Sở y tế Nghệ An (2007) Thông tin về y tế Nghệ An, Nxb Nghệ An.

53. Cục thống kê Nghệ An (1995), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

1995, Nxb Nghệ An.

54. Cục thống kê Nghệ An (1996), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

1996, Nxb Nghệ An.

55. Cục thống kê Nghệ An (1997), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

1997, Nxb Nghệ An.

56. Cục thống kê Nghệ An (1998), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

1998, Nxb Nghệ An.

57. Cục thống kê Nghệ An (1999), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

1999, Nxb Nghệ An.

58. Cục thống kê Nghệ An (2000), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2000, Nxb Nghệ An.

59. Cục thống kê Nghệ An (2001), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2001, Nxb Nghệ An.

60. Cục thống kê Nghệ An (2002), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2002, Nxb Nghệ An.

61. Cục thống kê Nghệ An (2003), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2003, Nxb Nghệ An.

94

62. Cục thống kê Nghệ An (2004), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2004, Nxb Nghệ An.

63. Cục thống kê Nghệ An (2005), Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An năm

2005, Nxb Nghệ An.

64. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2001), Nghệ An thế và lực, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Uỷ ban Dân số- Gia đình- Trẻ em- Hội kế hoạch hoá gia đình Việt

Nam (2001), Nội dung cơ bản về đường lối- chính sách- chiến lược của Đảng

và Nhà nước đối với công tác Dân số- Gia đình- Trẻ em, Nxb Y học, Hà Nội.

66. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2007), Chương trình hành động

thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 16-11-2006 của Ban Thường vụ Tỉnh

uỷ về nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân

đến 2010 và những năm tiếp theo.

95