MỤC LỤC
Trang
4 MỞ ĐẦU
11 Chƣơng 1: ĐẢ NG BỘ T ỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO TH ỰC HIỆN
NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1950
11 1.1 Đƣờng lối kháng chiến của Đảng và chủ trƣơng xây dựng
11 hâ ̣u phƣơng cách mạng trong khá ng chiến. 1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng
1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong 15
kháng chiến
22 1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây
dựng, bảo vệ hâ ̣u phƣơng thời kỳ từ 1945 đến 1950
1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú 22
Thọ và những thuận lợi , khó khăn trong việc xây dựng hậu phương
trên địa bàn tỉnh. 1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực 30
hiê ̣n nhiệm vụ hậu phương cách mạng
50 Chƣơng 2: ĐẢ NG BỘ T ỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO TH ỰC HIỆN
NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1954
50
2.1 Bối cảnh của cuộc kháng chiến và những vấn đề đặt ra trong xây dƣ̣ng hâ ̣u phƣơng cách mạng
53 2.2 Chủ trƣơng của Đảng bô ̣ Phú Tho ̣ trong thực hiện nhiệm vụ
hâ ̣u phƣơng cá ch ma ̣ng trên địa bàn tỉnh. 2.2.1 Tình hình chung của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc 53
kháng chiến toàn diện tới thắng lợi.
54
2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trìn h chỉ đạo thực hiê ̣n nhiệm vụ hậu phương cách mạng
1
73 Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM
73 3.1 Mô ̣t số nhâ ̣n xét
73 3.1.1 Những kết quả của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch mạng ở đi ̣a phương.
79 3.1.2 Những hạn chế của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch mạng ở đi ̣a phương.
80 3.2 Kinh nghiê ̣m
3.2.1 Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định thắng 81
lợi của chiến tranh, vì vậy dù ở thời chiến hay thời bình đều phải
nhận thức đúng đắn quan điểm đó.
3.2.2 Để xây dựng hậu phương vững mạnh, phải đảm bảo và 83
phát huy mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt.
3.2.3 Căn cứ vào đặc điểm dân tộc, xã hội và chính trị của 85
tỉnh, muốn xây dựng hậu phương kháng chiến, Phú Thọ phải giữ
vững ổn định chính trị, coi trọng bồi dưỡng sức dân, mở rộng khối
đoàn kết toàn dân.
92 KẾT LUẬN
94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
BẢNG QUY CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HCM : Hồ Chí Minh
HĐND : Hội đồng nhân dân
HN : Hà Nội
Nxb : Nhà xuất bản
QĐND : Quân đội nhân dân
UBHCKC : Ủy ban hành chính kháng chiến
UBHC : Ủy ban hành chính
UBKC : Ủy ban kháng chiến
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng:
“Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu phương được
tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với
sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không
được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 497]. Trong
các cuộc cách mạng, để giành được thắng lợi nhất thiết phải có hậu phương,
bởi vì hậu phương là nơi có thể triển khai xây dựng và dự trữ tiềm lực của
chiến tranh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật; hậu
phương là địa bàn đứng chân, là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của tiền tuyến; là nơi
chi viện sức người, sức của và động viên chính trị - tinh thần cho tiền tuyến
đánh giặc; hậu phương cũng là nơi rút lui củng cố và bàn đạp tiến công của
các lực lượng vũ trang, là nhâ n tố thườ ng xuyên quyết đi ̣nh thắng lơ ̣i củ a chiến tranh.
Tiếp thu lý luâ ̣n củ a chủ nghĩa Mác – Lênin về khở i nghĩa chiến tranh , Chủ
và quân đội , kế thừ a những kinh nghiê ̣m quân sự quý báu củ a dân tô ̣c tịch Hồ Chí Minh khẳng đi ̣nh: “Muốn khở i nghĩa phải có căn cứ đi ̣a , muốn kháng chiến phải có hậu phương” [35, tr. 73]. Đấu tranh vũ trang, chiến tranh
cách mạng càng lâu dài, ác liệt thì vai trò của căn cứ địa, hâ ̣u phương càng trở nên quan tro ̣ng.
Ở nướ c ta, trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, vấn đề xây dựng căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương đã được ông cha ta hết sức coi trọng, xem đó như là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp
cứu nước và giữ nước. Lịch sử xây dựng căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương gắn liền vớ i . Ông cha ta đã cho ̣n quá trình dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc
4
những vù ng có vi ̣ trí chiến lươ ̣c quan tro ̣ng , có địa thế hiểm yếu để làm nơi tâ ̣p kết tổ chứ c, xây dựng lực lươ ̣ng kháng chiến chống la ̣i quân thù.
Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm của
Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng, về xây dựng hậu phương cách mạng
cùng những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ
xây dựng hậu phương. Đảng đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc
xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến, coi đó là một bộ phận chiến
lược của đường lối chiến tranh nhân dân, mà nội dung là giải quyết vấn đề đất
đứng chân và xây dựng tiềm lực để kháng chiến lâu dài. Xuất phát từ đặc
điểm của đất nước đất không rộng, lạc hậu về kinh tế, lực lượng vũ trang còn
non trẻ, lại phải đối chọi với kẻ thù có quân đội thiện chiến, được trang bị vũ
khí hiện đại, Đảng ta đã chủ động xây dựng đường lối kháng chiến, xây dựng
căn cứ địa hậu phương kháng chiến phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Xây
dựng hậu phương ở cả vùng rừng núi lẫn đồng bằng, thậm chí ở ngay trong
vùng tạm bị địch chiếm. Để đảm bảo cho cuô ̣c kháng chiến thắng lơ ̣i, việc xây dựng các căn cứ đi ̣a, hâ ̣u phương cho tiền tuyến là viê ̣c làm cần thiết.
Ở Phú Thọ , trong cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c trướ c sự tấn công củ a kẻ thù, các lực lượng vũ trang đã lù i về nông thôn, rừ ng núi, dựa vào đi ̣a thế hiểm yếu củ a đi ̣a hình để củ ng cố , xây dựng lực lươ ̣ng về mọi mặt để tiến hành kháng chiến lâu dài . Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa
phương, các căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương đã ra đờ i để đáp ứ ng yêu cầu cấp thiết của cuộc chiến đấu. Đó là những khu vực đươ ̣c lựa cho ̣n làm nơi trú chân, bảo tồn và phát triển lực lươ ̣ng kháng chiến , làm nơi để tích lũy , xây dựng cơ sở kinh tế , chính trị, xã hội làm chỗ dựa và bàn đạp cho các lực lươ ̣ng vũ trang và quần chúng nhân dân thực hành phản công , tiến công tiêu diê ̣t đi ̣ch . Hoạt
cách mạng ở đô ̣ng xây dựng , bảo vệ và phát huy tác dụng của hậu phương
5
Phú Thọ đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c.
Từ trướ c đến nay , đã có nhiều công trình khoa học lịch sử , nhiều tài
liê ̣u, sách báo viết về lịch sử kháng ch iến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c ở Phú Thọ trong thời gian từ 1945 – 1954. Tuy nhiên, nghiên cứ u vấn đề căn cứ đi ̣a, hâ ̣u phương mớ i ít nhiều đươ ̣c đề câ ̣p ở những góc đô ̣ khác nhau , chưa có công trình khoa ho ̣c nào nghiên cứ u mô ̣ t cách có hê ̣ thống , toàn diện về quá trình hình thành, phát triển, đă ̣c điểm, vai trò củ a hâ ̣u phương cách mạng trên đi ̣a bàn tỉnh Phú Tho ̣. Do đó, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhằm góp
phần làm rõ thêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ hậu phương và góp phần khẳng định vai trò hậu phương kháng
chiến trong thành quả kháng chiến của tỉnh Phú Thọ. Chính vì những lý do
trên, tôi cho ̣n đề tài : “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
hậu phương trong cuộc khá ng chiến chố ng thực dân Pháp (1945 -1954)” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do tầm quan tro ̣ng củ a căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương trong chiến tranh cách mạng, trong thời gian qua có một số công trình của cá nhân và tập thể các nhà
khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể như sau:
Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975), Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội 1997, đã tổng kết hoạt động xây
dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc chiến tranh
thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; Các
công trình: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài
học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh- trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb
CTQG, HN 1996; Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) - thắng lợi
6
và bài học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị,
Nxb CTQG, HN 2000, đã tổng kết vấn đề xây dựng căn cứ địa, hậu phương
dưới góc độ những bài học kinh nghiệm.
Các công trình nghiên cứu trên khẳng định Đảng sớm nhận thức được
tầm quan trọng của hậu phương, do đó đã hết sức coi trọng xây dựng hậu
phương trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội. Đảng đã
giải quyết thành công vấn đề hậu phương và phát huy sức mạnh của hậu
phương, xây dựng hậu phương thành địa bàn chiến lược cung cấp tối đa sức
người, sức của cho kháng chiến, đánh bại hai tên đế quốc có tiềm lực kinh tế,
quân sự và khoa học kỹ thuật mạnh hơn ta nhiều lần. Do đó, đây là nguồn tài
liệu quan trọng để tác giả luận văn tham khảo.
Liên quan đến đề tài còn có các công trình, các bài báo, bài đăng trên
tạp chí như: Hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống
Pháp (1946 – 1954) của Ngô Đăng Tri, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Đảng
lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954) của Vũ
Quang Hiển, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Căn cứ địa U Minh (1945 – 1975)
của Trần Ngọc Long, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007; Mấy vấn đề đườ ng lối quân sự của Đảng ta của Đại tướng Võ Nguyên Giáp , Nxb Sự thâ ̣t, Hà Nội, 1970;
Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng của Đại tướ ng Võ Nguyên Giáp ,
Viê ̣n Khoa ho ̣c quân sự, Hà Nội, 1974; Về xây dựng căn cứ địa – Hậu phương
trong kháng chiến chống Pháp của Ngô Vi Thiện, đăng trên Tạp chí Lịch sử
quân sự số 18 (6/1987); Chiến khu và đấu tranh vũ trang trong cá ch mạng tháng Tám của Đại tướng Văn Tiến Dũng, đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số
4/1995; Căn cứ đi ̣a cá ch mạng truyền thống và hiê ̣n đại của giáo sư Văn Tạo
đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự số 4/1995; Vài suy nghĩ về hậu phương
chiến tranh nhân dân Viê ̣t N am của Trần Bạch Đằng đăng trên Tạp chí Lịch
sử quân sự số 3/1993…
7
Các tác phẩm, bài viết được xuất bản đã nêu lên sự cần thiết, yêu cầu
xây dựng căn cứ địa, hậu phương cho các cuộc kháng chiến; đề cập các quan
điểm, đường lối xây dựng căn cứ địa làm hậu phương cho cuộc chiến tranh
cách mạng; đề cập đến nguồn gốc của việc xây dựng, tính chất và đặc điểm
của căn cứ địa cách mạng… Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập
đến một số mặt lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương
ở các thời kỳ và các chiến trường khác nhau trên cả nước hoặc một số vùng,
địa phương cụ thể.
Ngoài các công trình nghiên cứu có tính khái quát trên, còn có một số
công trình nghiên cứu cụ thể về lịch sử địa phương trong thời kỳ này như:
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập I (1939- 1968) của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb CTQG, H. 2000; Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp của quân và dân Phú Thọ (1945- 1954) của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, 1999; Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Phú Thọ (1930 – 2005) của Ủy ban MTTQVN tỉnh Phú Thọ, năm
2006; Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Phú Thọ1945 -2005 của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2007; Lịch
sử lực lượng vũ trang Quân khu II, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2006; …
Các công trình nghiên cứu cụ thể này cung cấp một số tư liệu cần thiết về quá
trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.
Những công trình nói trên, tuy mức độ và đứng ở nhiều góc độ khác
nhau, song nói chung đều ghi nhận vai trò quyết định của tỉnh, của hậu
phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tế cho thấy, đến nay chưa
có công trình khoa học nào được công bố đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống về vấn đề thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u phương cách mạng trên đi ̣a bàn tỉnh Phú Thọ trong thờ i kỳ kháng chi ến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu các ấn phẩm của các tác giả nêu trên là nguồn
8
tham khảo quý, nguồn tư liệu phong phú, tin cậy để tác giả kế thừa trong quá
trình thực hiện đề tài luâ ̣n văn tha ̣c sỹ củ a mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Góp phần tái hiện lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
quân và dân Phú Tho ̣ từ góc đô ̣ xây dựng , bảo vệ cũng như việc phát huy tác dụng của hậu phương.
Nêu lên được kết quả cơ bản của việc xây dựng và bảo vệ hậu phương
Phú Thọ thời kỳ 1945 – 1954, qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ Phú Thọ. Từ đó rút ra những nhận xét và kinh nghiê ̣m trong quá trình xây dựng hậu phương thời kỳ cách mạng tiếp theo trên đi ̣a bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ
Tập hợp các nguồn tài liệu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, Ủy ban nhân
dân tỉnh Phú Thọ, Tỉnh ủy Phú Thọ, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Thọ…
Mô tả một cách khái quát, toàn diện về chủ trương của Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Phú Thọ về quá trình xây dựng hậu phương Phú Thọ
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những đườ ng lối chủ t rương chính sách của Đảng về xây dựng hâ ̣u phương và các biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ hậu phương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u Về nội dung: Nghiên cứ u quá trình lãnh đa ̣o
phương trên pha ̣m vi toàn tỉnh.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thờ i kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp.
9
Về thời gian: Luâ ̣n văn giớ i ha ̣n từ 1945 - 1954
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu như: Phương pháp lịch sử và logíc. Ngoài ra còn kết hợp với các
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… các phương
pháp trên được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Trên cơ sở tâ ̣ p hơ ̣p , hê ̣ thống các tư liê ̣u liên quan đến chủ đề hâ ̣u
,
phương cách ma ̣ng trong cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp ở Phú Tho ̣ dựng la ̣i quá trình hình thành phát triển và những hoa ̣t đô ̣ng củ a hâ ̣u phương trong cuô ̣c kháng chiế n chống Pháp của tỉnh Phú Thọ, qua đó làm rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng trong xây dựng hậu phương và vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.
Rút ra một số kinh nghiê ̣m lịch sử về xây dựng và bảo vệ hâ ̣u phương
cách mạng , góp phần bổ sung nguồn tư liệu về kháng chiến chống thực dân
Pháp ở Phú Thọ.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bô ̣ tỉnh Phú Tho ̣ lãnh đ ạo thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u
phương từ năm 1945 đến năm 1950.
thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u Chương 2: Đảng bô ̣ tỉnh Phú Tho ̣ lãnh đa ̣o
phương từ năm 1951 đến năm 1954.
Chương 3: Mô ̣t số nhâ ̣n xét và kinh nghiệm.
10
Chƣơng 1
ĐẢ NG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1950
hâ ̣u
1.1 Đƣờng lối kháng chiến củ a Đả ng và chủ trƣơng xây dƣ̣ng phƣơng cách mạng trong khá ng chiến.
1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng
Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia, dân tộc trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta
vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới giành được 16 tháng, chính quyền chưa
được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời
sống xã hội chưa thật sự ổn định, dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến
tranh trên quy mô toàn quốc.
Vớ i dã tâm mở rộng chiến tranh xâm lươ ̣c đất nướ c ta , thực dân Pháp đã lơ ̣i du ̣ng H iê ̣p đi ̣nh Sơ bô ̣ ngày 6- 3- 1946 để tăng quân trái phép và b ố trí lực lươ ̣ng chiếm đóng các vi ̣ trí then chốt ở miền Bắc nướ c ta như Hà Nô ̣i , Nam Đi ̣nh, Vinh, Huế, Đà Nẵng, đánh chiếm các khu vực cử a ngõ giao thông thủy bộ trọng yếu ở miền Bắc như Hải Phòng , Lạng Sơn. Ngày 17 và 18-12-
1946, tại Hà Nội, quân Pháp đã gây ra các vu ̣ khiêu khích , tàn sát đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún và gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán
lực lươ ̣ng an ninh, giao quyền kiểm soát thủ đô cho chú ng . Ngày 18-12-1946, đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt những liên hệ với đại diện Chính phủ ta.
Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ và nhân dân ta trước
một tình thế không thể nhân nhượng, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa
mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
Trướ c hành đô ̣ng gây chiến tranh xâm lươ ̣c ra cả nướ c ta củ a thực dân
Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng
Vạn Phúc (Hà Đông), do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Trung ương Đảng và
11
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hạ quyết tâm phát động nhân dân cả nước đứ ng lên tiến hành cuô ̣c kháng chiến toàn quốc bảo vệ độc lập, chủ quyền của
dân tô ̣c.
Đây là lần đầu tiên Đảng lãnh đạo quân dân ta tiến hành một cuộc chiến
tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa mang tính chất giải phóng dân
tộc trên quy mô cả nước, đương đầu với một đế quốc lớn mạnh vốn đã từng
thống trị Việt Nam trong nhiều năm. Đảng xác định cuô ̣c kháng chiến củ a dân tô ̣c ta tuy có lơ ̣i thế về chính tri ̣, tinh thần, song yếu về kinh tế , quân sự trướ c kẻ thù là một cường quốc có ưu thế về kinh tế , quân đô ̣i thiê ̣n chiến , trang bi ̣
vũ khí hiện đại . Nhâ ̣n rõ bản chất xâm lươ ̣c và tiềm lực hù ng ma ̣nh củ a thực dân Pháp cũng như những thuâ ̣n lơ ̣i và khó khăn của ta , vì vậy, ngay sau khi
phát động cuộc kháng ch iến toàn quốc, Đảng ta và C hủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là đường lối chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Chiến tranh nhân dân Viê ̣t Nam là gọi chung các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tô ̣c và bảo vê ̣ Tổ q uốc do nhân dân Viê ̣t Nam tiến hành trong tiến trình lịch sử . Dướ i sự lãnh đa ̣o củ a Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam , chiến tranh nhân dân có các nô ̣i dung và đă ̣c trưng cơ bản:
, sáng tạo, nhằm phát Chiến tranh thâ ̣t sự vì lơ ̣i ích củ a nhân dân mà mu ̣c tiêu cơ bản là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xóa bỏ mọi áp bức bóc lột, xây dựng mô ̣t xã hô ̣i mớ i, xã hội xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh dựa vào lực lươ ̣ng củ a toàn dân , nòng cốt là liên minh công nông . Dựa vào tiềm lực củ a nhân dân , sự giú p đỡ cổ vũ củ a lực lươ ̣ng cách ma ̣ng và tiến bô ̣ thế giới. Phương thứ c tiến hành chiến tranh phong phú
huy cao nhất sứ c ma ̣nh củ a toàn dân , đánh địch mô ̣t cách toàn diê ̣n , ở khắp nơi vớ i mo ̣i hình thứ c tổ chứ c và hình thức đấu tranh thích hơ ̣p . Phương thứ c đó khiến đi ̣ch đông mà hóa thiếu , có sức mạnh lớn mà không phát huy được
12
tác dụng, có sở trường mà không thi thố được , lại bị sa lầy , lúng túng và bị
đô ̣ng, không rõ đâu là tiền tuyến, đâu là hâ ̣u phương, mô ̣t kiểu chiến tranh xen kẽ triệt để. Phương thứ c đó đã khoét sâu những mâu thuẫn cố hữu củ a bất cứ mô ̣t đô ̣i quân xâm lươ ̣c nào , đó là mâu thuẫn giữa phân tán và tâ ̣p trung lực lượng, giữa phòng ngự và tiến công , giữa đánh nhanh và đánh kéo d ài, làm cho lực lươ ̣ng và phương tiê ̣n củ a đối phương ngày càng hao mòn , ý chí xâm lươ ̣c càng bi ̣ sa sú t…
Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Người nói:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng
phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. [49, tr. 480]
Đường lối kháng chiến của Đảng được xác định trong Chỉ thị “Toàn
dân kháng chiến” của Trung ương Đảng (12/12/1946), “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ
thể trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng bí
thư Trường Chinh. Đường lối kháng chiến của Đảng là thực hiện cuộc chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Cụ
thể là:
Mục đích kháng chiến: “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”. Nhiệm vụ và tính chất của cuộc kháng chiến là
“kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, mở rộng và củng cố chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam phát
triển trên nền tảng dân chủ mới, nên có tính chất dân tộc giải phóng và dân
13
chủ mới. Kháng chiến của ta là tự vệ, chính nghĩa và có “thiên thời, địa lợi,
nhân hòa”.
Phương châm tiến hành kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là “tất cả già trẻ, trai gái, không phân biệt đảng
phái, tôn giáo, hễ là người Việt Nam phải đứng lên chiến đấu”, là thực hiện
mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Để tiến hành chiến tranh phải vũ trang cho nhân dân, phát động phong
trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân tham gia tác
chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào để bổ sung
và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài”. [22, tr. 314]
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên tất cả các mặt trận : chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ) là để có thời gian chuyển hóa tương
quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch.
Dựa vào sức mình là chính (tự lực cánh sinh) là vì ta bị bao vây bốn
phía, khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó
cũng không được ỷ lại.
Đảng phát động cuộc kháng chiến chống Pháp là một quyết định lịch sử
với trách nhiệm chính trị to lớn. Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo,
thấm nhuần quan điểm về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác – Lênin,
phát huy cao độ truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, vừa sản xuất, vừa
chiến đấu, gắn liền kháng chiến với kiến quốc, Đảng đã sớm đề ra đường lối
kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, khoa học nhằm huy động nguồn lực lượng vô
tận của toàn dân, tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc chiến tranh
nhân dân Việt Nam. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng và tác phẩm
14
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh được coi là nội dung cơ
bản của Đường lối kháng chiến của Đảng ta, là ngọn đuốc soi đườ ng dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đi tới
thắng lợi.
Để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng hậu phương, coi đó là
một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh
giải phóng dân tộc.
1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong kháng
chiến
Hậu phương hiểu theo nghĩa hẹp: “Là nơi đối xứng với tiền tuyến, có
sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự,
phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật
lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của
lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến”. [65, tr. 231]
Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp
sức người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tiền tuyến về
mặt không gian.
Như vậy, có thể thấy ngay rằng, trong các cuộc chiến tranh, hậu
phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua
của hai bên tham chiến. Bởi vì, chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai
bên tham chiến. Muốn thắng lợi phải có tiềm lực chiến tranh, bao gồm tiềm
lực kinh tế (trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ kinh tế), tiềm
lực chính trị - tinh thần (chế độ chính trị - xã hội, hệ tư tưởng và tinh thần của
nhân dân), tiềm lực quân sự (sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang).
Những tiềm lực đó phải được tạo ra và dự trữ tại hậu phương. Chiến tranh
15
phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào tách khỏi hậu phương thì
không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được.
Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ
đại của cách mạng vô sản như Mác, Ăng ghen, Lênin đều nhấn mạnh đến vai
trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ
chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều
tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế,
vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số
lượng của cư dân và của cả kĩ thuật”. [17, tr. 242]
Lênin thì cho rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị
hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn,
thì người đó thu được thắng lợi” [72, tr.84]
Chiến tranh càng phát triển thì vai trò lực lượng vũ trang càng quan
trọng. Để bảo đảm hoạt động xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang,
phải xây dựng một hậu phương vững mạnh. Lênin nói: “Muốn tiến hành chiến
tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc, một
đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng
cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang, tiếp tế
lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 247].
Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu
phương, Mác, Ăngghen và Lênin đều đánh giá cao nhân tố chính trị- tinh
thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin, khi bàn
đến sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, đã nói: “Lịch sử chiến tranh dạy
rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát
triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của
quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá
trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó” [70, tr. 113].
16
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy
động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” [48, tr. 474].
Kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao nhất sức người,
sức của của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng căn cứ,
hậu phương vững mạnh toàn diện về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa…
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân vừa mới
thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nghiêm trọng. Ở
miền Nam, quân Pháp được quân Anh trợ giúp, ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã
khởi hấn ở Sài Gòn, kế đó đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngoài
Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch (sau đây
viết tắt là quân Tưởng), được Mỹ tiếp tay, kéo vào với danh nghĩa giải giáp
quân Nhật nhưng còn mục tiêu bóp chết cách mạng, dựng nên chính quyền
tay sai của chúng. Trong khi đó, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa được
nước nào trên thế giới công nhận. Chính quyền nhân dân mới được thành lập,
chưa được kiện toàn, kinh nghiệm quản lý nhà nước còn rất hạn chế. Lực
lượng vũ trang non trẻ, vũ khí thô sơ, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu ít ỏi.
Ách áp bức phong kiến cùng chính sách vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp và
phát xít Nhật khiến nền kinh tế quốc dân lâm vào tình trạng suy sụp thảm hại.
Nhân dân vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, chỉ trong vòng ba tháng giữa năm
1945, gần hai triệu đồng bào chết vì đói và dịch bệnh. Công thương nghiệp
hàng hóa đình đốn, ngoại thương đình trệ, thủ công nghiệp tiêu điều. Về tài
chính, kho bạc của chính quyền cách mạng chỉ còn hơn 1 triệu đồng nhưng
quá nửa là rách nát. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay Pháp, đồng
tiền Quan kim do quân Tưởng tung ra buộc ta phải lưu hành khiến cho thị
trường càng thêm rối loạn. Do hậu quả của chính sách ngu dân của thực dân
17
Pháp, 95% dân số nước ta không biết chữ và còn nhiều tệ nạn xã hội khác do
hậu quả của chế độ thực dân để lại hết sức nặng nề.
Những khó khăn về giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đặt nước ta trong
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ,
nền độc lập mới giành được có thể bị mất. Nhiệm vụ cơ bản nhất đặt ra cho
Đảng và chính quyền nhân dân lúc này là giữ vững chính quyền, bảo vệ và
xây dựng chế độ mới.
Để chống thù trong, giặc ngoài, cùng với việc giáo dục chính trị cho
quần chúng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tổ chức và phát triển các đoàn
thể cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng và Chính phủ đã đề ra
nhiều chủ trương lớn về xây dựng hậu phương trước khi xảy ra chiến tranh
trên phạm vi cả nước.
Trong bài nói chuyện với cán bộ, đại biểu nhân dân và thân sỹ, phú
hào, trí thức ở Thanh Hóa ngày 20 tháng 2 năm 1947, với chủ đích nói về hậu
phương, Hồ Chí Minh đã phân tích và nêu lên những khó khăn của quân xâm
lược Pháp ở Đông Dương do những rối ren về chính trị, sa sút về kinh tế tại
chính quốc. Đối với cuộc kháng chiến của ta, Người phân tích và khẳng định
ta sẽ thắng vì ta có hậu phương ưu thế hơn địch, ta có thiên thời, địa lợi, nhân
hòa đủ để thắng địch.
Ta có thiên thời là “Ít tháng nữa trời nóng nực, Pháp không chịu nổi khí
hậu, sẽ ngại dần, từ Nam chí Bắc đi tới đâu cũng chỉ có tro tàn, gạch vụn.
Pháp đánh ban ngày nhưng ta lại đánh ban đêm”. Địa lợi là: “Ta ở đất ta,
Pháp không quen đường đi”. Nhân hòa là “Trừ một số Việt gian, còn 25 triệu
nhân dân ta đều muốn tự do. Còn dư luận ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nam
Dương, Miến Điện, Tân Gia Ba, đều là chính nghĩa, mà đến Pháp cũng đa số
ngả về ta”. “Cả ba: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều lợi cho ta. Những cái có
lợi cho ta là hại cho địch, mà lợi cho địch mà hại cho ta”. [48, tr. 236]
18
Dựa vào những ý kiến chỉ dẫn trực tiếp của Hồ Chí Minh và căn cứ vào
chủ trương xây dựng căn cứ địa, hậu phương của Hội nghị Trung ương tháng
4 năm 1947. Năm 1948, Trung ương Đảng có nghị quyết về xây dựng hậu
phương để kháng chiến lâu dài. Năm 1950, với ý định phối hợp với cách
mạng Trung Quốc, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng hậu phương, thực
hiện tổng động viên nhân tài vật lực để chuyển mạnh sang tổng phản công.
Tháng 2-1951, Đại hội lần thứ II của Đảng được triệu tập, đã nhấn mạnh xây
dựng hậu phương toàn diện, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, xây dựng lực lượng
vũ trang, tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em để đẩy mạnh phản công,
đưa kháng chiến phát triển đến thắng lợi.
Trong khi chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng chủ trương dựa vào quần chúng nhân dân
được giác ngộ cách mạng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đó là một trong
những điều kiện căn bản để tiến hành kháng chiến và đưa kháng chiến đến
thắng lợi. Đồng chí Trường Chinh vạch rõ: Để huy động sức người, sức của
cho kháng chiến, phải xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa khắp nơi.
“Căn cứ địa là một vùng tương đối an toàn ở đó ta đóng các cơ quan đầu não,
huấn luyện bộ đội chủ lực, đào tạo cán bộ, chế tạo vũ khí, đạn dược, chữa
chạy thương binh…”. [22, tr. 310]
Do nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hậu phương, ngay từ
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã chủ động xây
dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến mang những đặc điểm phù hợp với
hoàn cảnh đất nước. Nước ta hẹp lại dài, hai mặt Đông và Tây Nam giáp biển,
nếu có chiến tranh, địch có thể chia cắt nước ta thành nhiều chiến trường.
Trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả nước được chia làm 12 khu để
thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh, Mỗi chiến khu, thậm chí ở từng tỉnh,
từng huyện hoặc liên tỉnh, liên huyện phải chọn những vùng “có thế chiến
19
lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ” để xây dựng thành căn cứ địa,
làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, có tiềm năng xây
dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, giải quyết vấn đề hậu cần, nuôi
dưỡng và tiếp tế cho lực lượng kháng chiến. Bước vào cuộc kháng chiến,
Đảng xác định ở Việt Nam có cǎn cứ địa vững chắc nhất là lòng dân, không
có lòng yêu nước sâu sắc của nhân dân, không có tinh thần giác ngộ cách
mạng cao của đông đảo quần chúng thì căn cứ địa nào, dù có núi cao rừng
thẳm vẫn có thể bị địch đánh thọc sâu, hoặc bao vây chia cắt. Từ đó có thể mở
mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong
lòng địch và tổ chức cǎn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng
bằng". Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, Đảng chủ trương xây dựng cǎn cứ địa
và hậu phương tại chỗ vững mạnh, lấy nông thôn đồng bằng và rừng núi làm
địa bàn chiến lược trọng yếu.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng hậu phương,
căn cứ địa ở cả rừng núi và đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu
có quần chúng yêu nước được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Bởi vì, rừng
núi là địa bàn chiến lược quan trọng, địa thế hiểm trở, có nhân dân các dân tộc
trung thành với cách mạng, địch có nhiều sơ hở, khó phát huy ưu thế vũ khí
và phương tiện chiến tranh hiện đại. Ta có thể xây dựng, phát triển lực lượng,
duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài, kể cả những lúc gặp khó khăn nhất. Đây
là nơi có thể xây dựng hậu phương vững chắc nhất của cách mạng nước ta.
Đồng bằng là nơi không có địa thế hiểm trở như rừng núi, nhưng là nơi đông
dân, nhiều của. Xây dựng chỗ đứng chân ở đồng bằng mới có điều kiện khai
thác nhiều nhân tài, vật lực cho kháng chiến.
Với tinh thần đó, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tích cực
củng cố những cǎn cứ đã có như Việt Bắc, Khu IV và Khu V, vùng Đồng
Tháp Mười, đồng thời tích cực xây dựng các làng chiến đấu, các cǎn cứ và
20
khu du kích trong vùng tạm chiếm. Ở nước ta không hình thành "vùng đỏ",
"vùng trắng", không lấy nông thôn bao vây thành thị, mà hình thành một hệ
thống cǎn cứ kháng chiến đa dạng ở cả vùng rừng núi, đồng bằng và thành
phố.
Nông thôn đồng bằng là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.
Địch ra sức "bình định" vùng đồng bằng để "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,
dùng người Việt đánh người Việt". Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, cǎn cứ
nhỏ ở ven đô thị, trục đường giao thông nhằm ngǎn chặn ta từ xa, tạo ra thế
bao vây, chia cắt vùng nông thôn để dễ kiểm soát. Bọn Việt gian phản động,
tề điệp dựa vào hệ thống đồn bốt này để hoạt động lùng bắt cán bộ và đàn áp
nhân dân. Ta quyết tâm giữ vùng nông thôn để xây dựng hậu phương tại chỗ
vững mạnh. Các làng chiến đấu và cǎn cứ du kích nằm xen kẽ với hệ thống
đồn bốt địch, tạo thế đan xen nhau. Ta tích cực chiến đấu bảo vệ hậu phương,
đồng thời cũng ra sức đánh phá hậu phương địch, biến hậu phương địch thành
tiền phương ta, không ngừng mở rộng hậu phương ta.
Có thể thấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không quan niệm hậu
phương theo nghĩa thông thường của chiến tranh quy ước, hiện đại, có chiến
tuyến rõ rệt, mà có sự phát triển mới về lý luận và được chứng minh bằng
thực tiễn, với những điểm sáng tạo, độc đáo, tạo ra ngay trong vùng địch
chiếm đóng những nơi có thể xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh, cả
về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, thành những nơi huy động nhân lực,
vật lực cho kháng chiến và tạo chỗ dựa về tinh thần cho cuộc kháng chiến ở
địch hậu. Đảng chủ trương xây dựng hậu phương, căn cứ địa ở cả rừng núi và
đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu có quần chúng yêu nước
được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương
của chiến tranh nhân dân rộng khắp với những quy mô và hình thức khác
nhau. Nhiều loại hình hậu phương sẽ tạo ra thế xen kẽ một cách triệt để giữa
21
ta và địch, làm cho hậu phương và tiền tuyến đan xen nhau, luôn luôn biến
động, không có ranh giới ổn định mà thường xuyên chuyển hóa, xoay vần
cùng với kẻ địch trong một quá trình kháng chiến trường kỳ, tạo ra nguồn sức
mạnh vô tận của chiến tranh nhân dân, trong đó mỗi người dân là một người
lính, mỗi làng xã là một pháo đài, đánh giặc một cách toàn diện và bằng mọi
vũ khí có trong tay. Vì thế “hậu phương không còn là đối xứng của tiền tuyến
theo nghĩa cổ điển, cũng không thể xác định chỉ bằng yếu tố không gian”. Đó
là “hiện tượng kỳ lạ của chiến tranh nhân dân Việt Nam”.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân. Vì
thế chủ trương xây dựng hậu phương ở cả rừng núi và đồng bằng có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nó cho phép động viên toàn dân tham gia chiến tranh, giải
quyết nguồn sức người, sức của dồi dào, phục vụ yêu cầu ngày càng lớn của
cuộc kháng chiến, tạo khả năng mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch.
Nhìn chung, trong quá trình kháng chiến, Đảng đã lãnh đạo xây dựng,
bảo vệ các vùng tự do trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa,
biến các vùng tự do lớn thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến.
Chủ trương xây dựng hậu phương cách mạng của Đảng được vạch ra ngay từ
những ngày đầu cuộc kháng chiến và được Đảng tiếp tục phát triển về sau.
1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
hâ ̣u phƣơng thời kỳ từ 1945 đến 1950
1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú Thọ và
những thuận lợi, khó khăn trong viê ̣c xây dựng hậu phương trên địa bàn tỉnh.
Phó Thä lµ mét tØnh thuéc vïng §«ng B¾c Bé, ® îc thµnh lËp tõ n¨m
1891 d íi thêi Ph¸p thuéc. Sau gÇn t¸m thËp kû ra ®êi, ®Çu n¨m 1968, Phó
Thä chÝnh thøc hîp nhÊt víi VÜnh Phóc thµnh tØnh VÜnh Phó. Sau 29 n¨m hîp
22
nhÊt, tØnh Phó Thä ® îc t¸i lËp trë l¹i tõ ngµy 1/1/1997 theo NghÞ quyÕt kú
häp thø 10, Quèc héi kho¸ IX.
TØnh Phó Thä cã diÖn tÝch tù nhiªn lµ 3.519,65 km2 (chiÕm 1,2% diÖn
tÝch c¶ n íc, xÕp thø 10/11 tØnh thuéc vïng §«ng B¾c Bé vµ xÕp thø 38/64
tØnh, thµnh phè c¶ n íc). Phó Thä c¸ch thñ ®« Hµ néi 80 km, lµ ®iÓm tiÕp gi¸p
gi÷a vïng §«ng B¾c ®ång b»ng s«ng Hång vµ vïng T©y B¾c. Phía Bắc tiếp
giáp với hai tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái; phía Tây giáp hai tỉnh Yên Bái và Sơn La; phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam giáp thành phố Hà Nô ̣i và
tỉnh Hòa Bình. Víi vÞ trÝ nh vËy, Phó Thä lµ cöa ngâ phÝa T©y - B¾c cña thñ
®« Hµ Néi vµ lµ ®Þa bµn kinh tÕ träng ®iÓm phÝa B¾c, lµ cÇu nèi gi÷a c¸c tØnh
®ång b»ng B¾c Bé, thñ ®« Hµ néi víi c¸c tØnh miÒn nói T©y B¾c là Tuyªn
Quang, Hµ Giang, Yªn B¸i, Lµo Cai, S¬n La.
Do cấu ta ̣o đi ̣a chất ta ̣o nên những dãy đồi
, núi điê ̣p trù ng, vớ i những nếp gãy khổng lồ , qua mưa lũ hàng va ̣n năm đã hình thành những dòng chảy qua, biến đi ̣a hình Phú Tho ̣ thành ba vù ng rõ rê ̣t là : vùng núi cao, vùng gò đồi và vùng đồng bằng. Vì thế, khí hậu ở Phú Thọ vừa có tính chất trung du , vừ a có tính chất miền núi.
Vùng núi cao tập trung ở phía Tây Bắc , thuô ̣c các huyê ̣n Thanh Sơn ,
, có lợi cho việc
Yên Lâ ̣p, Hạ Hòa. Rừ ng nú i ở Phú Tho ̣ có đi ̣a hình hiểm trở bố trí thế trâ ̣n ch iến tranh nhân dân , bố trí các trâ ̣n đi ̣a mai phu ̣c , tổ chứ c các cuô ̣c tiến công, phản công hoặc khi cần có thể nhanh chóng rú t lui để bảo toàn lực lươ ̣ng. Vùng rừng núi Phú Thọ thiên nhiên còn kiến tạo nên những hang đô ̣ng kỳ thú, muôn hình muôn vẻ. Thờ i bình những hang đô ̣ng này có thể xây dựng thành những điểm tham quan du li ̣ch , khi chiến tranh xảy ra , có thể trở thành các vị trí ém quân hoặc cất giấu kho tàng phục vụ quốc phòng.
Tiếp theo vù ng núi là vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Nông , Thanh Thủy, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hù ng, Phù Ninh. Đây là vù ng đi ̣a hình có thế
23
mạnh kinh tế đồi rừng , đồng thờ i rất thuâ ̣n lơ ̣i cho viê ̣c xây dựng các làng xã chiến đấu , cho luyê ̣n tâ ̣p quân sự và xây cất các kho tàng phu ̣c vu ̣ cho thờ i
chiến. Vùng đồng bằng của tỉnh nhỏ hẹp , chủ yếu nằm ở vùng đất phía Nam
huyê ̣n Lâm Thao và mô ̣t số xã tả nga ̣n sông Đà thuô ̣c huyê ̣n Thanh Thủ y . Đi ̣a hình vùng này bằ ng phẳng , đất đai phì nhiêu , thích hợp với việc trồng lúa nướ c và các loa ̣i cây lương thực , hoa màu. Nơi đây đươ ̣c coi là vù ng kinh tế chiến lươ ̣c củ a tỉnh , cung cấp nhiều nhân tài , vâ ̣t lực cho chiến tranh và rất thuâ ̣n lơ ̣i cho cơ đô ̣ng chiến đấu.
Phó Thä lµ tØnh trung du miÒn nói duy nhÊt kh«ng cã ® êng biªn giíi
quèc gia (kÓ c¶ ® êng bé vµ ® êng biÓn). Nh ng Phó Thä cã vÞ trÝ ®Þa lý quan
träng vÒ quèc phßng. Phú Thọ có những con sông lớn chảy qua đều bắt nguồn
từ phía Nam Trung Quốc , qua đi ̣a phâ ̣n củ a tỉnh là sông Thao , sông Lô, sông Đà vớ i chiều dài 200km đườ ng sông. Cả ba con sông cùng đổ về ngã ba Bạch Hạc (Viê ̣t Trì), tạo nên một vùng đất “sơn chầu thủy tụ” , mô ̣t đầu mối giao thông quan trọng của vùng trung du Bắc Bộ . Từ đây, có thể khống chế con đườ ng giao lưu thủ y bô ̣ nối liền vù ng đồng bằng Bắc Bô ̣ rô ̣ng lớ n và thủ đô Hà Nội với các tỉnh biên giới phí a Bắc Tổ quốc. Ngoài các con sông lớn , trên
, nhỏ như sông Bứa , sông Chảy ,
đi ̣a bà n Phú Tho ̣ còn có nhiều chi lưu lớ n Ngòi Lao , Ngòi Giành , Ngòi Me, Ngòi Lạt… và hàng chục khe , ngòi, suối
khác. Hê ̣ thống sông ngòi trên đi ̣a bàn Phú Tho ̣ không chỉ là nguồn tài nguyên quan thiên nhiên vô giá phu ̣c vu ̣ cho đờ i sống và sản xuất mà còn có tầm
trọng đă ̣c biê ̣t trong giao thông, quốc phòng trên toàn khu vực.
Trải qua năm tháng , Phú Thọ đã có mạng lưới đường quốc lộ , tỉnh lộ,
đườ ng liên huyện, liên xã, liên thôn nối trong toàn tỉnh , vớ i 5 tuyến quốc lô ̣ chạy qua tỉnh có chiều dài hàng trăm ki - lô- mét, trong đó lớ n nhất là quốc lô ̣ số 2- con đườ ng cha ̣y từ thi ̣ xã Hà Giang , qua tỉnh Tuyên Quang , Phú Thọ, Vĩnh Phúc về Hà Nội. Ngoài quốc lộ số 2 còn có các tuyến đường chiến lược
24
khác như đường 32 qua Thanh Thủ y , Thanh Sơn đi Văn Chấn – Nghĩa Lộ –
Sơn La; quèc lé 32B nèi Phó Thä - Yªn B¸i sÏ v ît cÇu Ngäc Th¸p qua s«ng
Hång t¹i thÞ x· Phó Thä, lµ mét phÇn cña ® êng Hå ChÝ Minh; đườ ng 32C từ Hà Nội qua Tam Nông- Cẩm Khê- Hạ Hòa – Yên Bái. Quèc lé 70 xuÊt ph¸t tõ thÞ trÊn §oan Hïng ®i Yªn B¸i - Lµo Cai sang V©n Nam - Trung Quèc hiÖn
®ang ® îc n©ng cÊp ®Ó trë thµnh con ® êng chiÕn l îc Hµ Néi - H¶i Phßng -
C«n Minh (Trung Quèc).
Phú Thọ còn có đường sắt Hà Nội – Lào Cai chạy qua tỉnh có chiều dài
hơn 100km, nối liền với Vân Nam (Trung Quốc ). Tuyến đườ ng sắt này còn nối liền vớ i tuyến đườ ng sắt Hà Nô ̣i – Lạng Sơn, Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội
– Thái Nguyên, Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh.
Bên ca ̣nh hê ̣ thống quốc lô ̣ , hê ̣ thống đườ ng nô ̣i tỉnh tương đối phát
triển và đang ngày càng đươ ̣c mở rô ̣ng , sử a chữa , nâng cấp . Tỉnh còn được , cầu Phong Châu , cầu đầu tư xây dựng nhiều cây cầu lớ n như cầu Viê ̣t Trì Trung Hà , cầu Ngòi Lao , cầu Tứ Mỹ… ta ̣o điều kiê ̣n phát triển kinh tế dân sinh, rất thuâ ̣n lơ ̣i cho viê ̣c cơ đô ̣ng lực lươ ̣ng trong hoàn cảnh chiến tranh.
ường giao thông như vậ y, Phú Thọ tr ở
Vớ i đi ̣a hình và các tuyến đ thành cửa ngõ của thủ đô Hà Nội , là lá chắn quan trọng của các căn cứ địa
, là tấm
Viê ̣t Bắc và Tây Bắc trong các cuô ̣c kháng chiến giải phóng dân tô ̣c đệm giữa vùng Việt Bắc rộng lớn và vùng Tây Bắc mênh mông, hiểm yếu củ a Tổ quốc. Từ Phú Tho ̣ có thể qua Tuyên Quang , Hà Giang lên vùng căn cứ địa Viê ̣t Bắc, qua Sơn La lên Điê ̣n Biên , đi ̣a bàn chiến lươ ̣c quan tro ̣ng . Vớ i vi ̣ trí chiến lươ ̣c lơ ̣i ha ̣i đó , Phú Thọ không chỉ là cử a ngõ củ a cả vù ng Viê ̣t Bắc và Tây Bắc mà còn là mô ̣t vù ng có vị trí chiến lược quan trọng bởi cái thế “Tiến khả dĩ công, lui khả dĩ thủ”.
VÞ trÝ ®Þa lý trªn ®· t¹o ra cho Phú Thọ những thuËn lîi cơ bản trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trong kháng chiến. Trong kháng chiến
25
chống Pháp, với đặc điểm “rừ ng co ̣, đồi chè”, Phú Thọ là căn cứ đứng chân của các đại đoàn chủ lực . “Rừ ng che bô ̣ đô ̣i” vừ a xây dựng , vừ a huấn luyê ̣n ,
cơ đô ̣ng chiến đấu trê n khắp vù ng Bắc Bô ̣ và chi viê ̣n cho các chiến di ̣ch ở Lào. Khi đi ̣ch tấn công thì “rừ ng vây quân thù ” , các lực lượng tác chiến trên đi ̣a bàn Phú Tho ̣ có điều kiê ̣n lơ ̣i du ̣ng đi ̣a hình , đi ̣a vâ ̣t bố trí thế trâ ̣n phòng ngự, bảo toàn lực lượng vừa để tạo thời cơ tiến công tiêu diệt địch , vừ a có thể rút lui an toàn.
Tỉnh Phú Thọ bao gồm 13 huyện, thành, thị là: Thành phố Việt Trì, thị
xã Phú Thọ và các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Cẩm Khê, Yên Lập, Thanh
Sơn, Tân Sơn, Tam Nông, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng, Thanh Thủy.
Về dân số, sau khi tái lập tỉnh có gần 1,3 triệu người, gồm 21 dân tộc
anh em. Người Kinh chiếm đa số với gần 1,2 triệu người, phân bố trên địa bàn
toàn tỉnh. Đứng thứ hai là người Mường với hơn 10 vạn người, sống tập trung
chủ yếu ở các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Thủy. Ngoài ra còn có
người Dao với hơn 6 nghìn người, người Cao Lan hơn 2 nghìn người và một
số dân tộc ít người khác. Các d©n téc M êng, Dao, Cao Lan, M«ng sèng tËp
trung thµnh lµng, b¶n riªng, b¶n s¾c v¨n ho¸, phong tôc tËp qu¸n kh¸ ®Ëm nÐt.
Ngoµi ra, c¸c d©n téc trên còn sinh sèng xen kÏ ë c¸c x·, ph êng, thÞ trÊn,
nhÊt lµ ë c¸c huyÖn Thanh S¬n, T©n S¬n, Yªn LËp, Thanh Thuû, §oan Hïng.
Cư dân Phú Thọ phần lớn có nguồn gốc từ cư dân Văn Lang thời các
vua Hùng dựng nước, con cháu của những thế hệ đã góp phần làm nên nền
văn minh sông Hồng rực rỡ. Phú Thọ là nơi “đất lành chim đậu”, trong quá
trình phát triển của lịch sử dựng nước và giữ nước, đã có nhiều cư dân từ mọi
miền đất nước đến sinh cơ, lập nghiệp. Trải qua quá trình phát triển, hội nhập
và giao lưu, đã có sự đan xen, hòa quyện lẫn nhau, có sự chọn lọc và sáng tạo,
26
lưu giữ và phát triển để tạo nên sức mạnh và trở thành cái nôi của nền văn
hiến đất Việt.
Về truyền thống lịch sử Phú Thọ: Trải qua bao biến thiên của lịch sử,
nhân dân các dân tộc Phú Thọ luôn nêu cao truyền thống lao động cần cù sáng
tạo, truyền thống văn hóa rực rỡ và đặc biệt là truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất nước.
Dựng nước đi đôi với giữ nước. Từ buổi đầu dựng nước, lãnh thổ Phú
Thọ thường xuyên bị kẻ thù xâm lược, buộc cư dân Phú Thọ phải đoàn kết để
kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ đất đai quê hương và cuộc sống. Trong
suốt chiều dài lịch sử, các thế hệ cư dân Phú Thọ đã đoàn kết để bảo vệ cộng
đồng và cùng chống ngoại xâm. Những hoạt động đó mang tính vũ trang, trải
qua hàng ngàn năm đã hun đúc nên những kinh nghiệm truyền thống quân sự,
được các thế hệ nối tiếp gìn giữ, phát huy, vận dụng sáng tạo nhuần nhuyễn
thành nghệ thuật quân sự và trí tuệ của văn hóa giữ nước.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù bị đàn áp nặng nề, song các thế hệ
nhân dân Phú Thọ đã bám vào làng xóm, đoàn kết đùm bọc lẫn nhau, dũng
cảm liên tục nổi dậy, lúc công khai, lúc âm thầm đấu tranh chống lại mọi âm
mưu của địch, đã ngăn chặn và dập tắt dần những làn sóng bành trướng và
đồng hóa từ phương Bắc tràn tới. Các làng xã nông nghiệp vẫn giữ là “Thế
giới riêng” của người Đất Tổ. Chính những làng xã cổ truyền ấy là cơ sở để
bảo vệ, nuôi dưỡng những tinh hoa văn hóa dân tộc. Trong cuộc đấu tranh
trường kỳ chống Bắc thuộc, những làng xóm nằm sau lũy tre xanh là những
pháo đài kiên cố chống lại một cách có hiệu quả những âm mưu của kẻ thù.
Thời kỳ phong kiến tự chủ, nhân dân Phú Thọ cùng với nhân dân cả
nước đã tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Thể hiện rõ
nhất là tinh thần chiến đấu dũng cảm của nhân dân Phú Thọ trong cuộc kháng
27
chiến chống Mông – Nguyên thế kỷ XIII. Nhiều trận đánh ngăn chặn địch của
quân dân địa phương diễn ra ở lưu vực sông Thao, sông Lô, sông Đà…
Đầu thế kỷ XV, nhân dân Phú Thọ giúp đỡ nhà Hồ xây dựng phòng
tuyến chống giặc tại Bạch Hạc, do Hồ Xạ chỉ huy. Khi giặc Minh sang xâm
lược nước ta, núi rừng Thanh Sơn, Yên Lập đã vang lên tiếng chiêng của các
đạo quân thiểu số chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Các cuộc khởi nghĩa đó
đã góp phần tiêu hao sinh lực địch, bẻ gãy các cuộc hành quân của chúng trên
đường tiến về thành Đông Quan – Hà Nội.
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau khi chiếm
được Sơn Tây, ngày 12 tháng 4 năm 1884, quân Pháp tổ chức đánh chiếm
thành Hưng Hóa, thủ phủ của tỉnh Phú Thọ. Nhân dân Phú Thọ đã anh dũng
đứng lên chống Pháp xâm lược. Trong hơn 10 năm kháng Pháp lần thứ nhất,
trên đất Phú Thọ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã anh dũng đứng lên chống
trả một kẻ thù hơn hẳn về sức mạnh quân sự. Cuộc chiến đấu liên tục, bền bỉ
đã diễn ra trên một địa bàn rộng khắp từ miền núi đến miền xuôi. Cuộc chiến
đấu đó đã thể hiện tinh thần quật cường, anh dũng và tình đoàn kết keo sơn
giữa các dân tộc anh em cùng chung chiến hào trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù xâm lược. Mặc dù thất bại, nhưng các cuộc chiến đấu đó đã để lại nhiều
bài học quý báu về cách tổ chức quân đội, cách xây dựng căn cứ, chiến thuật
đánh du kích linh hoạt và cách sử dụng vũ khí sáng tạo; đặc biệt là bài học về
sức mạnh của chiến tranh nhân dân và tinh thần đoàn kết dân tộc trong cuộc
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho phong trào
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng sau này phát triển.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cơ bản đã bình định
xong nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Trên địa bàn Phú
Thọ, chúng ráo riết thiết lập các cơ quan hành chính cai trị do người Pháp và
tay sai người Việt nắm giữ, đồng thời tổ chức lực lượng vũ trang và chiếm
28
đóng nhiều nơi trong tỉnh. Chúng thi hành chính sách áp bức bóc lột nặng nề
để bòn rút của cải và hòng làm nhụt tinh thần, khí phách đấu tranh cách mạng
của các tầng lớp nhân dân. Cách thức cai trị đó đã làm cho các mặt kinh tế xã
hội của Phú Thọ bị kìm hãm nặng nề. Trong điều kiện đó, thiên tai, mất mùa
lại thường xuyên xảy ra, làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân vô cùng cực
khổ. Điều đó đã khiến cho lòng căm thù của nhân dân ta đối với kẻ thù xâm
lược càng dâng cao. Vì vậy, tiếng vang của phong trào yêu nước, do các cụ
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh tổ chức, đã nhanh chóng tác động đến nhân
dân Phú Thọ. Trong đó phải kể đến ảnh hưởng của phong trào Đông Kinh
Nghĩa Thục và tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội, một số cơ sở của tổ chức
này được gây dựng ở Phù Ninh, Văn Lung, Tiên Kiên, Xuân Lũng…
Các tổ chức trên, mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng sự ra
đời và những hoạt động của nó đã chứng tỏ phong trào yêu nước của nhân
dân Phú Thọ luôn luôn sôi nổi và liên tục. Đó cũng là tiếng vang thức tỉnh
lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất đến mọi tầng lớp nhân dân
trong tỉnh.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước kháng Pháp từ cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX trên đất Phú Thọ diễn ra sôi nổi, liên tục với tinh thần bất
khuất, quật cường. Truyền thống anh dũng, kiên cường chống giặc ngoại xâm
mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Phú Thọ. Truyền thống tốt đẹp đó ngày
càng được phát huy mạnh mẽ hơn trong hoàn cảnh lịch sử mới khi Đảng ta ra
đời năm 1930 và đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền tiến tới Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945, thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng các chiến
khu cách mạng, làm căn cứ, bàn đạp cho cuộc tổng khởi nghĩa, tỉnh Phú Thọ
đã xây dựng được các chiến khu du kích như: Chiến khu Vần – Hiền Lương
(Chiến khu Âu Cơ), hai căn cứ du kích Vạn Thắng (Cẩm Khê) và Phục Cổ
29
(Yên Lập) được thành lập. Trong những ngày sục sôi khí thế cách mạng, dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân và lực lượng vũ trang Phú
Thọ, với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, đã cùng nhân dân toàn
quốc lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc, lập ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi đó tạo ra bước ngoặt trong lịch sử dân
tộc nói chung và của Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ nói riêng.
1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ hậu phương cách mạng
Tháng 9 năm 1945, quân đội Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới
Thạch kéo vào nước ta và đến Phú Thọ theo đường sắt Lào Cai – Hà Nội,
theo quốc lộ 2 qua Đoan Hùng và theo đường Lai Châu- Sơn La – Hòa Bình
qua Thanh Sơn. Chúng lấy thị xã Phú Thọ và thị trấn Việt Trì làm nơi đóng
quân và trạm chuyển quân. Chúng tiến hành các hoạt động phá hoại như:
Đánh bắt người trái phép, cướp bóc tài sản của nhân dân, cưỡng hiếp phụ nữ,
đốt nhà dân, thúc ép bọn phản động trong Quốc dân đảng đứng ra lập chính
quyền ở những nơi chúng chiếm đóng. Hành động của quân Tưởng đặt Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân Phú Thọ trước muôn vàn khó khăn phức tạp và
thách thức nghiêm trọng.
Trước tình hình phức tạp, khó khăn, vấn đề củng cố và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền,
phát triển đoàn thể cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt. Tháng 9 năm 1945,
Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Vũ Dương, Xứ ủy viên phụ trách các tỉnh Phú
Thọ- Yên Bái- Lào Cai và Tuyên Quang, về thành lập Tỉnh ủy Phú Thọ (lâm
thời), đồng chí Trần Quang Bình (tức Đặng Văn Dĩ) được cử làm Bí thư. Việc
thành lập Tỉnh ủy Phú Thọ có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách
mạng ở địa phương. Từ đây, Tỉnh ủy sẽ trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh
30
chống thù trong, giặc ngoài, giữ vững chính quyền cách mạng và chuẩn bị
kháng chiến.
Một trong những vấn đề cấp bách mà Đảng bộ và chính quyền Phú Thọ
phải tập trung giải quyết là nhanh chóng ổn định đời sống mọi mặt cho nhân
dân. Thực hiện 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Chính phủ và Chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc” của Trung ương Đảng, hưởng ứng lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã động viên nhân dân toàn
tỉnh dấy lên phong trào “nhường cơm, xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, “tăng gia
sản xuất”… Tỉnh ủy chủ trương thành lập Ban khuyến nông phụ trách việc
tăng gia sản xuất và khai khẩn đất hoang ở các cấp từ tỉnh đến xã, nhờ đó, sản
xuất nông nghiệp ở Phú Thọ đều tăng cả diện tích và sản lượng. Nếu một năm
trước đó (từ 19/8/1944 – 19/8/1945), toàn tỉnh chỉ có 147.000 mẫu trồng cây
với tổng sản lượng là 58.325 tấn, thì một năm sau, con số này đã tăng lên
179.570 mẫu với 234.461 tấn lương thực quy ra thóc. Vì thế, nạn đói trong
tỉnh được đẩy lùi, đời sống nhân dân bước đầu được ổn định. Thắng lợi này
không những góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội trong tỉnh mà còn
tạo ra nguồn dự trữ để sau đó giúp nhân dân, nhất là 4 vạn đồng bào miền
xuôi tản cư đến Phú Thọ, sớm ổn định đời sống; tạo thuận lợi cho bộ đội và
các cơ quan đến Phú Thọ trong những ngày đầu kháng chiến.
Ngày 4 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 34/SL
về xây dựng “Quỹ độc lập”; ngày 17 tháng 9 năm 1945, Chính phủ tổ chức
“Tuần lễ vàng” nhằm động viên mọi người dân yêu nước tự nguyện ủng hộ
việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Thực hiện chủ trương của
Đảng và Chính phủ, từ ngày 17 đến 24 tháng 9 năm 1945, nhân dân Phú Thọ
từ thành thị đến nông thôn đã tích cực ủng hộ Chính phủ, chỉ riêng về vàng đã
thu được 15kg, chưa kể tiền bạc, thóc gạo, mâm đồng, chậu thau, lư đỉnh và
31
cả những kỷ vật quý khác. Số vàng thu được tuy không nhiều nhưng biểu thị
tấm lòng yêu nước thiết tha của đồng bào Đất Tổ đóng góp vào quỹ cứu nước.
Trước tình trạng 95% dân số nước ta mù chữ, sau Cách mạng Tháng
Tám, ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh
17/SL thành lập Nha bình dân học vụ; Sắc lệnh 19/SL quy định các địa
phương phải mở lớp bình dân học vụ; Sắc lệnh 29/SL thi hành cưỡng bức việc
học chữ quốc ngữ. Người ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn mù chữ. Người
chỉ rõ: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi
người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà
và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.[49, tr.36]
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắp các làng xã,
phố phường trong toàn tỉnh đã dấy lên phong trào bình dân học vụ rất sôi nổi,
với nhiều hình thức phong phú, thiết thực. Sau 1 năm, toàn tỉnh Phú Thọ đã
mở được 2.001 lớp bình dân học vụ do 1.970 giảng viên phụ trách, giúp cho
53.324 người thoát nạn mù chữ.
Một trong những đòi hỏi bức thiết sau khi khởi nghĩa thắng lợi ở Phú
Thọ và trước tình hình quân Tưởng kéo vào nước ta là cần có lực lượng vũ
trang đủ mạnh để bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng. Ngày
30 tháng 8 năm 1945, các lực lượng vũ trang Phú Thọ thống nhất thành một
đơn vị tập trung mang tên Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản. Đây là
đơn vị bộ đội chủ lực của tỉnh đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Phú
Thọ.
Vừa chống giặc bảo vệ địa phương, vừa chủ động và kịp thời hưởng
ứng lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức vì đồng bào miền Nam của Trung
ương Đảng, hướng về miền Nam ruột thịt, khắp nơi trong tỉnh, các tầng lớp
nhân dân đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình lên án hành động xâm lược
32
của thực dân Pháp. Hàng trăm thanh niên địa phương đã ghi tên xung phong
Nam tiến. Các đoàn thể cứu quốc vận động đoàn viên, hội viên lao động tập
thể, tổ chức diễn kịch… lấy tiền ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến. Nhân
dân còn tự nguyện ủng hộ tiền bạc, thuốc men, quần áo giúp các chiến sỹ
miền Nam.
Tháng 10 năm 1946, Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng nhận định:
“Không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh
Pháp” [36, tr.133]. Trước tình hình thực dân Pháp ngày càng mở rộng xâm
lược, ngày 18 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp
hội nghị mở rộng khẩn cấp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết
định phát động nhân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trên
phạm vi cả nước để bảo vệ Tổ quốc. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thi hành chủ trương của
Trung ương Đảng và lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ cùng với cả nước đứng lên tiến hành
cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược.
Trước đó, thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Thường
vụ Trung ương (ngày 25 tháng 11 năm 1945), ngay sau khi đánh tan quân
Quốc dân đảng ở địa phương, Phú Thọ đã chuyển ngay sang thời kỳ khẩn
trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến làm nhiệm vụ hậu phương, bảo vệ cơ
quan, kho tàng của Chính phủ, giúp đỡ đồng bào tản cư; đồng thời tiến hành
phá hoại, tiêu thổ kháng chiến và sẵn sàng chiến đấu. Thời gian bắt đầu toàn
quốc kháng chiến, đóng góp của Phú Thọ cho chiến trường chủ yếu là tổ
chức, đón nhận, giúp đỡ các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, công
binh xưởng của Chiến khu X. Những ngày đầu của kháng chiến, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Hội đồng Chính phủ trên đường lên chiến khu Việt Bắc, đã
chọn Phú Thọ làm điểm dừng chân trong thời gian hơn một tháng. Từ cuối
33
năm 1946, đầu năm 1947, 19 cơ quan trung ương đã di chuyển về Phú Thọ
như cơ quan Bộ Quốc Phòng, Quân y viện ở Võ Lao, Đại Đồng; An dưỡng
đường thương binh ở Đào Giã, Trường Đại học Y khoa ở Trung Giáp (Phù
Ninh), các đoàn văn nghệ sỹ ở Ao Châu… và một bộ phận đồng bào miền
xuôi đã tản cư đến Phú Thọ, nhưng phần lớn tập trung ở hai huyện Thanh Ba
và Hạ Hòa. Tuy về lâu dài, số nhân lực đó sẽ là một vốn quý cho vùng hậu
phương này nói riêng và cho cả nước nói chung, nhưng trước mắt là thêm một
khó khăn lớn cho tỉnh.
Tình hình trên đặt ra cho Phú Thọ nhiệm vụ cấp bách là phải nhanh
chóng củng cố địa phương, ổn định trật tự xã hội, cung cấp lương thực cho 4
vạn đồng bào tản cư. Để giúp đồng bào sớm ổn định cuộc sống, Ủy ban kháng
chiến các cấp đã thành lập Ban tản cư, Ban di cư. Các Ban tản cư, di cư và
nhân dân địa phương đã đón tiếp chu đáo, thu xếp nơi ăn, chốn ở, giải quyết
việc làm và đời sống cho đồng bào. Nhân dân trong tỉnh đã nhường bớt nhà
cửa, phương tiện sinh hoạt cho đồng bào tản cư, di cư. Chính quyền các cấp ở
Phú Thọ đã thành lập các trại sản xuất nông nghiệp để tạo việc làm cho đồng
bào tản cư, nhân dân địa phương còn xây dựng các quỹ “nghĩa thương” giúp
đỡ, cho vay vốn liếng, giống má, cho mượn ruộng đất… Nhờ những biện
pháp tích cực và hiệu quả của nhân dân địa phương, nơi ăn, chốn ở cũng như
công ăn việc làm của hơn 4 vạn đồng bào tản cư, di cư dần dần ổn định. Đồng
bào tản cư, di cư cùng đồng bào địa phương đoàn kết gắn bó, chung sức vào
công tác xây dựng hậu phương kháng chiến. Đó là một thuận lợi lớn cho Phú
Thọ trong kháng chiến và sẵn sàng chiến đấu.
Phú Thọ sau ngày toàn quốc kháng chiến vẫn là vùng tự do, có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng về quân sự, là cửa ngõ của Việt Bắc, Tây Bắc,
với 47 vạn dân, có núi rừng trùng điệp, nhiều lâm thổ sản, có đồng bằng tuy
nhỏ nhưng cũng đủ để sản xuất lương thực nuôi quân và dân kháng chiến. Phú
34
Thọ lại nằm ở trung tâm Bắc Bộ, rất thuận lợi cho việc cơ động chiến đấu trên
các chiến trường ở Bắc Bộ. Vì vậy, Phú Thọ đã trở thành một căn cứ quân sự,
một hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến. Đầu năm 1947, tranh thủ
điều kiện thuận lợi khi chiến sự chưa lan tới, thực hiện chỉ thị “Kháng chiến,
kiến quốc” của Ban Thường vụ Trung ương, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đề ra
những chủ trương và biện pháp thực hiê ̣n nhi ệm vụ xây dựng hậu phương cơ
bản trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội và chuẩn
bị sẵn sàng chiến đấu chống lại sự xâm lược của kẻ thù.
Về chính trị
Xây dựng và bảo vệ hậu phương về chính trị là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến
tranh cách mạng. Vì vậy, việc củng cố và phát triển Đảng, hệ thống chính
quyền các cấp và tổ chức quần chúng trở thành nhiệm vụ trước mắt hết sức
khẩn trương.
Trên thực tế, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ cũng rất chú trọng về lĩnh vực này,
bởi vì đây chính là một trong những nhân tố đã quyết định tới sự thắng lợi của
cách mạng và là một thế mạnh tiềm tàng cần và có thể phát huy được để hoàn
thành các nhiệm vụ của thời kỳ mới. Do đó, Đảng bộ tỉnh đã sớm có các chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh,
phát huy tính ưu việt của chế độ chính trị dân chủ nhân dân ở các vùng tự do.
Trong công tác xây dựng Đảng, căn cứ vào tình hình thực tế địa
phương, Tỉnh ủy đề ra phương hướng xây dựng Đảng lúc này là: Tích cực
củng cố và phát triển Đảng, làm cho Đảng mang tính chất quần chúng mạnh
mẽ, có cơ sở vững chắc ở các địa bàn quan trọng; phát triển phải đi đôi với
củng cố, tích cực xây dựng chi bộ có đủ khả năng lãnh đạo mọi mặt hoạt động
ở địa phương.
35
Thực hiện phương hướng trên, từ giữa năm 1947, các Ban cán sự Đảng
đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng việc phát triển Đảng vào các vùng
xung yếu ven quốc lộ số 2, dọc sông Hồng, sông Lô, các đồn điền, miền núi
và chú trọng phát triển vào các thành phần công nhân, bần cố nông, dân quân
du kích, phụ nữ… Đến đầu tháng 7 năm 1947, toàn tỉnh có 33 chi bộ với 536
đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị mở rộng về “phát triển Đảng tăng gấp
đôi”, kết hợp đợt “kết nạp Đảng viên lớp tháng Tám” do Ban Thường vụ
Trung ương phát động, nhiều quần chúng có thành tích xuất sắc được kết nạp
vào Đảng. Do đó, đến cuối tháng 12 năm 1947, số đảng viên toàn tỉnh lên tới
1222 đồng chí. Bước sang năm 1948, công tác phát triển Đảng càng được đẩy
mạnh. Đến tháng 12 năm 1948, toàn Đảng bộ đã có 5.493 đảng viên.
Thời kỳ từ 1947 đến 1950, công tác xây dựng Đảng của tỉnh đạt nhiều
kết quả. Tính đến tháng 9 năm 1950, Đảng bộ Phú Thọ đã có 16.152 đảng
viên (chiếm 4,03% dân số của tỉnh). Các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển đến
từng xã, thực sự là nòng cốt lãnh đạo mọi phong trào cách mạng ở địa
phương.
Cùng với công tác xây dựng Đảng, việc củng cố, hoàn thiện bộ máy
chính quyền dân chủ nhân dân được Đảng bộ hết sức quan tâm. Vì đó chính là
cơ quan đảm nhiệm vai trò chỉ đạo trực tiếp sự nghiệp kháng chiến và phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Ngay từ đầu năm 1947, theo chỉ
thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương, Ủy ban kháng chiến được thành
lập bên cạnh Ủy ban hành chính để cùng thực hiện nhiệm vụ chung.
Về công tác Mặt trận, thực hiện chủ trương của Đảng, giữa năm 1947,
Hội Liên – Việt tỉnh Phú Thọ được thành lập. Cùng trong thời gian này, các tổ
chức quần chúng và tổ chức chính trị như Công đoàn, Đoàn thanh niên Việt
Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh cũng được thành lập. Sau khi ra
36
đời, có Mặt trận Việt Minh và các giới cứu quốc làm nòng cốt, Hội Liên –
Việt mau chóng phát triển bộ máy tổ chức hoàn chỉnh từ tỉnh đến cơ sở. Số
lượng hội viên Mặt trận tăng nhanh. Cuối năm 1947, toàn tỉnh có 122.612 hội
viên, đầu năm 1948 đã tăng lên 232.479 hội viên. Các đoàn thể quần chúng
của tỉnh như Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc… thời gian này hoạt động rất sôi
nổi. Cuối năm 1949, tỉnh Phú Thọ đã có 200.000 hội viên các đoàn thể cứu
quốc, tăng trên 7000 hội viên; Hội Liên - Việt cũng tăng 15.750 hội viên so
với năm 1948.
Một trong những vấn đề quan trọng của công tác Mặt trận là vấn đề tôn
giáo. Ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến, Ban Công giáo vận các cấp
của tỉnh đã tiến hành tuyên truyền, giáo dục làm cho đồng bào hiểu rõ đường
lối kháng chiến của Đảng, âm mưu và tội ác của địch… làm cho phần lớn
đồng bào Công giáo giác ngộ, tự nguyện tham gia vào tổ chức và công tác
kháng chiến.
Xây dựng và củng cố hậu phương về chính trị là yếu tố hàng đầu quyết
định sự thành bại của cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh,
Phú Thọ đã xây dựng được hậu phương vững mạnh về chính trị. Sự vững
mạnh về chính trị của hậu phương kháng chiến có ý nghĩa quyết định đối với
các lĩnh vực xây dựng hậu phương về kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội.
Về kinh tế
Xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý
nghĩa quyết định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Thực dân Pháp phá hoại kinh tế của ta,
phong tỏa cả trong và ngoài. Ta phải làm tự cấp tự túc, dù nó có phong tỏa 10
năm, 15 năm ta cũng không sợ.
37
Do nhận thức rõ vai trò của nhân tố kinh tế đối với tiền tuyến trong
chiến tranh, Đảng bộ tỉnh đã hết sức coi trọng việc xây dựng hậu phương về
mặt kinh tế. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ bồi dưỡng sức dân
phục vụ kháng chiến lâu dài, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh đã thành lập
Ban khuyến nông các cấp lo về việc vận động và hướng dẫn nông dân canh
tác, hỗ trợ vốn, giống phát triển sản xuất, tích cực khai hoang phục hóa, thực
hiện khẩu hiệu tấc đất tấc vàng, nên chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân ở các
địa phương đã khai phá hàng vạn mẫu đất hoang, đồi trọc để trồng lúa, ngô,
khoai, sắn… Năm 1948, tổng số diện tích gieo trồng của toàn tỉnh đạt 180.450
mẫu, tăng gần 4000 mẫu so với năm 1947. Những sản phẩm làm ra không
những đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh mà còn dành một phần cho
bộ đội.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ và chính quyền tỉnh
tạm cấp ruộng đất của các đồn điền vắng chủ cho nông dân. Hội đồng tạm cấp
ruộng đất của tỉnh được thành lập và bước đầu chia 30.010 ha đất cho 1.537
gia đình nông dân nghèo. Bình quân mỗi hộ nông dân được cấp từ 5 sào đến
1,2 mẫu [2, tr.186]; Đảng bộ tỉnh tiếp tục vận động nhân dân rào làng, cất
giấu tài sản, đào hầm trú ẩn, tập dượt tản cư, sơ tán, làm “vườn không, nhà
trống”. Chợ búa, trường học… phân tán nhỏ lẻ thành nhiều nơi, tránh tập
trung đông người.
Việc phục hồi các ngành nghề sản xuất thủ công cũng được tỉnh quan
tâm, vì thế, cuối năm 1948, số nghề thủ công như dệt lụa ở Thanh Thủy, dệt
khăn mặt ở Giáp Sơn, dệt vải khổ rộng ở Hạ Hòa… đã góp phần giải quyết
nhu cầu về mặc của nhân dân và giúp đỡ một phần cho bộ đội.
Cùng với việc xây dựng kinh tế, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về phá hoại để kháng chiến: “…Bây giờ ta phải phá đi để chặn
Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng… Một nhát
38
cuốc của đồng bào, cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào đầu quân
địch vậy…” [50, tr.25], và thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng về công tác
phá hoại: “…đường sá, cầu cống, xe tàu, lợi cho địch đi thì ta phá. Tất cả
những cái gì giúp cho địch nhìn thấy sáng, nghe thấy xa, nói được xa, cũng
phá. Những kho lương thực, quần áo, đạn dược, đầu máy, xe cộ của địch nhất
định phải đốt, nếu ta không chiếm được để dùng. Hy sinh ít người mà phá
được một kho đạn là lợi được muôn vàn, cứu được muôn người”. “Chỉ phá cái
gì lợi cho địch, hại cho ta. Cái gì ta còn dùng được, chưa phá vội. Nhưng cái
gì ta còn dùng được mà địch sắp chiếm lấy để dùng đánh lại ta, thì phải phá
ngay, không ngần ngừ” . [26, tr.457, 458]
Chấp hành chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy đã lãnh đạo chính quyền,
Mặt trận và các đoàn thể tiến hành đợt tuyên truyền, giải thích rộng rãi trong
nhân dân toàn tỉnh về công tác phá hoại. Ngay từ đầu năm 1947, Đảng bộ đã
động viên nhân dân tham gia “phá hoại để kháng chiến”. Một trong những
nhiệm vụ gấp rút phải làm trong thời kỳ chuẩn bị kháng chiến ở Phú Thọ là
vận động nhân dân tiêu thổ kháng chiến, trước hết ở thị xã, thị trấn, những
đầu mối giao thông quan trọng ở địa phương mà địch có thể chiếm đóng. Đầu
năm 1947, tỉnh Phú Thọ thành lập Ban phá hoại, trong đó có Mặt trận Việt
Minh là thành viên. Tháng 6 năm 1947, khi các cơ quan tỉnh, huyện rời khỏi
thị xã, thị trấn, Tỉnh ủy đã lệnh cho các đơn vị làm nhiệm vụ phá hoại phải
đánh sập các dinh thự, công sở, nhà cửa kiên cố, không để cho địch có chỗ trú
chân. Với tinh thần “Tất cả để kháng chiến”, nhân dân chấp nhận hy sinh,
gian khổ, tự tay phá đi nhiều công trình đã đổ biết bao mồ hôi, công sức xây
dựng nên. Trước hết, “Ban phá hoại” vận động nhân dân tự phá đi nhà cửa
của mình. Ở thị xã Phú Thọ, có tới 90% các công sở, tư gia kiên cố bị phá
hủy. Chỉ tính riêng trong 8 tháng đầu năm 1947, tỉnh Phú Thọ đã phá sập
1.315 ngôi nhà gạch được xây kiên cố (toàn tỉnh lúc đó có 1550 nhà xây),
39
trong đó có Nhà máy giấy Việt Trì và một số đồn trại, công sở kiên cố ở các
thị xã, thị trấn. Đến khi có lệnh tích cực đề phòng địch tấn công, các đường
sá, cầu cống ở tỉnh tiếp tục được phá hoại. Trên đường quốc lộ số II, nhân dân
đã đắp 9 ụ “chướng ngại vật” cao từ 3 đến 8 mét. Nhiều quãng đường liên
huyện, liên xã trong tỉnh được xẻ hố “chữ chi”, 42 cầu cống trên đường sắt,
đường bộ đều bị đánh sập nhằm cản trở xe cơ giới địch. Quân và dân Phú Thọ
đã góp hàng chục vạn ngày công và tự tay phá hoại số nhà cửa trị giá trên 300
triệu đồng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Việc phá hoại đường sắt cũng
được tiến hành khẩn trương. Lực lượng công nhân cùng với nhân dân đã bóc
dỡ toàn bộ tuyến đường sắt dài gần 100km từ Việt Trì đi Yên Bái và phá các
cầu đường sắt đi qua trên địa bàn tỉnh.
Nhìn tổng quát, công tác tiêu thổ kháng chiến ở Phú Thọ đã thực sự gây
trở ngại lớn cho giặc Pháp. Phá hoại và tiêu thổ kháng chiến tuy là việc bất
đắc dĩ, nhưng có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Nó thể hiện tinh thần bất khuất,
kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, làm chậm bước tiến quân của
giặc, tạo điều kiện cho ta tiêu hao sinh lực địch, phù hợp với điều kiện của ta
vũ khí ít, thô sơ, chống trả với đội quân xâm lược nhà nghề có vũ khí tối tân
của Pháp.
Về quân sự
Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, Đảng bộ chủ trương
phát triển lực lượng vũ trang 3 thứ quân. Quán triệt đường lối kháng chiến của
Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang, với tư tưởng chỉ đạo “Động viên và tổ
chức toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng. Đồng
thời, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc”
[38, tr. 120]. Thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng, đầu năm 1947, các
cơ quan quân sự địa phương từ tỉnh đội đến huyện đội, xã đội được thành lập,
40
đồng thời sáp nhập tổ chức tự vệ và tự vệ chiến đấu thành dân quân du kích.
Năm 1947, toàn tỉnh có 2.500 du kích, đến cuối năm 1950, tổng số du kích
toàn tỉnh đã có 80.013 người [2, tr.194]. Ngoài lực lượng công khai, Tỉnh ủy
còn hướng dẫn các địa phương xây dựng các đội “du kích ngầm”, tức du kích
bí mật ở những nơi xung yếu. Đây là sự chuẩn bị hoạt động trong trường hợp
địa phương bị địch chiếm đóng.
Bên cạnh lực lượng dân quân du kích ở địa phương, năm 1949, tỉnh
Phú Thọ xây dựng Tiểu đoàn 450 và năm 1950, xây dựng thêm Tiểu đoàn 72
bộ đội địa phương. Các đơn vị này có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị bộ
đội chủ lực như Trung đoàn Sông Lô (ở tả ngạn sông Thao), Tiểu đoàn 221,
Tiểu đoàn 652 và Đại đội độc lập 844 ở Tây - Nam Phú Thọ làm nhiệm vụ
bảo vệ hậu phương và chặn đánh các cuộc càn quét của địch lên căn cứ.
Lực lượng vũ trang được đưa vào huấn luyện trong kỳ “Luyện quân lập
công” mùa Hè. Bộ đội chủ lực và du kích được bố trí ở những nơi địch có thể
tiến quân. Qua một thời gian trực tiếp chiến đấu, thử thách, các đại đội bộ đội
địa phương đã trưởng thành, đủ sức đảm nhiệm thay thế bộ đội chủ lực, có thể
tác chiến độc lập với địch và dìu dắt, huấn luyện cho các đội dân quân du kích
xã đánh địch bảo vệ địa phương. Ở tất cả các xã đều có Ban chỉ huy Quân sự
xã đội và lực lượng dân quân du kích. Tổng số dân quân, du kích trong toàn
tỉnh năm 1948 là 31.099 người. Nhiệm vụ của lực lượng tự vệ chủ yếu là tuần
tra canh gác bảo vệ sản xuất, mùa màng, đồng thời, khi chiến sự lan tới địa
phương thì tham gia đánh giặc cùng với du kích tập trung và bộ đội chủ lực.
Lực lượng này chính là nguồn bổ sung cho bộ đội địa phương.
Trong công cuộc bảo vệ hậu phương, cùng với lực lượng vũ trang 3 thứ
quân, lực lượng công an cũng có vai trò hết sức quan trọng, lực lượng công an
của tỉnh đã phối hợp với dân quân du kích các đơn vị tích cực tham gia bảo vệ
41
các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, đồng thời góp phần đắc lực
vào việc giữ gìn an ninh trật tự, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Cùng với việc lãnh đạo nhân dân chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến,
Đảng bộ Phú Thọ đã tổ chức chỉ đạo quân dân các địa phương đối phó lại
những cuộc tấn công càn quét, đánh phá của địch lên địa bàn tỉnh, bảo vệ hậu
phương.
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô
lớn nhất từ khi chiến tranh nổ ra trên phạm vi toàn quốc lên Việt Bắc, nhằm
phá cơ quan đầu não kháng chiến và tìm diệt bộ đội chủ lực của ta. Với lực
lượng khoảng 12.000 quân, gồm các binh chủng: thủy, lục, không quân. Các
lực lượng lính dù, do Trung tá Xô- va- nhắc chỉ huy, nhảy xuống thị xã Bắc
Kạn, Chợ Mới, một cánh quân gồm 1 binh đoàn bộ binh, do Đại tá Bô- phrê
chỉ huy, có máy bay yểm trợ, từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, về Bắc Kạn.
Một cánh quân gồm 1 binh đoàn thủy quân, do Trung tá Com-muy-nan chỉ
huy, từ Hà Nội theo đường sông Hồng lên sông Lô rồi từ Việt Trì lên Tuyên
Quang. Cả 2 cánh quân hình thành thế gọng kìm bao vây Việt Bắc.
Ngày 10 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp từ Sơn Tây vượt sông
Hồng sang đánh chiếm Việt Trì, sau đó đoàn tàu chiến của địch từ Việt Trì
xuất phát ngược sông Lô. Khi tiến lên sông Lô, sau những lần bị ta chặn đánh,
ngoài lực lượng trên tàu chiến, địch dùng bộ binh càn quét hai bên bờ sông.
Bộ binh Pháp đánh ra Cầu Hai, đóng bốt ở Trạm Thản, đóng quân ở Đoan
Hùng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, quân dân Phú Thọ đã tập
kích, phá tan bốt giặc ở Trạm Thản, tập kích vào Đoan Hùng, giải thoát được
số đồng bào bị địch bắt khiêng vác đạn cho chúng.
Thực hiện Chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc
Pháp” của Trung ương Đảng, quân dân Phú Thọ đã sát cánh cùng bộ đội chủ
lực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Ngày 23 tháng 10 năm 1947, Pháp dùng
42
tàu vận tải chở quân và hàng tiếp viện theo đường sông Lô lên Tuyên Quang.
Tại bến Khoan Bộ (Lập Thạch), chúng đã bị bộ đội và du kích Tràng Sào
(Phù Ninh), phối hợp với lực lượng pháo binh chặn đánh quyết liệt, bắn cháy
1 ca nô, 1 tàu chiến của địch.
Do thất bại trên các hướng tiến quân, Pháp phải rút khỏi Việt Bắc theo
đường sông Lô. Bộ Tư lệnh Liên khu X tổ chức lực lượng đón đánh. Dân
quân du kích xã Chí Đám, Hữu Đô lấy bưởi bôi đen, xâu dây chăng ngang
sông giả làm thủy lôi lừa địch. Nhân dân các xã trong huyện Đoan Hùng, Phù
Ninh chuẩn bị nhiều lương thực, thực phẩm tiếp tế cho bộ đội và du kích.
Ngày 24 tháng 10 năm 1947, Com-muy-nan ra lệnh cho đoàn thủy binh, gồm
5 tàu chiến chở đầy quân có 6 máy bay yểm trợ, từ Tuyên Quang xuôi dòng
sông Lô về đón đồng bọn. Đến Chí Đám (Đoan Hùng), tốp lính địch rơi vào
trận địa mai phục. Pháo binh, bộ binh, dân quân du kích các xã Chí Đám, Hữu
Đô và các xã lân cận cùng đồng loạt nổ súng, giáng những đòn mạnh mẽ vào
đoàn tàu địch. Các hoạt động nghi binh cũng nhất loạt thực hiện như: thả thủy
lôi giả trên sông, đốt khói thu hút máy bay địch, nổ pháo trong thùng sắt, gõ
kẻng, mõ liên hồi… để uy hiếp tinh thần quân giặc. Dưới làn bom đạn của
không quân và thủy đội địch, các chiến sỹ pháo binh, bộ binh của ta vẫn gan
dạ chiến đấu. Trong khoảng khắc, 2 chiếc tàu và ca nô của địch đã trúng đạn
bốc cháy, bị nhấn chìm tại chỗ, 2 chiếc bị thương không dám chống cự, kéo
nhau tháo chạy. Số lính địch nhảy xuống sông, bị bộ binh và pháo binh bắn,
máu loang đỏ dòng sông, Pháp phải căng lưới thép ở đoạn sông Việt Trì để
đón vớt xác binh lính chúng.
Trong trận đánh lịch sử này, lực lượng vũ trang và nhân dân Phú Thọ
phối hợp chiến đấu, đánh chìm 2 tàu chiến, 1 ca nô, bắn bị thương 2 chiếc
khác, bắn rơi 1 thủy phi cơ, tiêu diệt hơn 300 tên, thu một khẩu pháo 105 ly,
43
10 súng cối, 4 trọng liên, hàng chục trung liên, 200 súng trường và tiểu liên,
hàng ngàn tấn đạn dược, bổ sung cho lực lượng vũ trang. [1, tr.102, 104].
Chiến thắng Sông Lô – Đoan Hùng là một trong những chiến thắng lớn
của quân và dân Việt Bắc, trong đó có sự đóng góp tích cực của quân và dân
Phú Thọ, bước đầu làm phá sản âm mưu của địch trong cuộc tiến công Thu –
Đông năm 1947. Đến trung tuần tháng 12 năm 1947, cuộc tiến công Việt Bắc
đã bị đánh bại, chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp bị
phá sản.
Với tinh thần chiến đấu bảo vệ quê hương – hậu phương kháng chiến,
quân dân Phú Thọ đã bảo toàn được lực lượng, giữ vững hậu phương, góp
phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc chuyển sang giai đoạn mới.
Về văn hóa - xã hội
Quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng một nền văn hóa kháng
chiến, dân chủ mới theo các nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng, nhằm
làm cho hậu phương có đời sống văn hóa lành mạnh, ưu việt và những con
người có tinh thần yêu nước, căm thù đế quốc phong kiến, hăng hái tham gia
kháng chiến kiến quốc, trong những năm 1946 – 1950, nhiệm vụ của ngành
giáo dục vẫn là tập trung vào việc xóa nạn mù chữ, từng bước phát triển nền
giáo dục phổ thông. Do có sự chỉ đạo chặt chẽ nên phong trào thi đua diệt
giặc dốt, dạy và học chữ quốc ngữ dấy lên sôi nổi ở khắp các địa phương
trong tỉnh. Ban ngày, mọi người miệt mài sản xuất, luyện tập quân sự, tối lại
tích cực đến các lớp học bình dân. Đến tháng 12 năm 1950, các huyện Thanh
Ba, Hạ Hòa, Cẩm Khê, Lâm Thao đã thanh toán xong nạn mù chữ. Các huyện
khác, số người biết đọc, biết viết tăng lên đáng kể.
Năm học 1946 – 1947, toàn tỉnh mới có 236 lớp với 126 giáo viên và
4.623 học sinh; năm học 1949 – 1950 đã tăng lên 286 lớp với 287 giáo viên
và 9.735 học sinh. Kết thúc niên học 1949- 1950, toàn tỉnh đã có 2.388 học
44
sinh tốt nghiệp tiểu học và 1.294 học sinh trúng tuyển vào bậc trung học, đạt
tỷ lệ 75 – 85%. [2, tr. 189]
Đi đôi với phát triển ngành giáo dục, ngành văn hóa thông tin của tỉnh
cũng có chuyển biến tích cực, nhất là làm nhiệm vụ tuyên truyền đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, vận động nhân dân thi đua ái quốc và
tham gia kháng chiến.
Một số ban ngành của tỉnh cũng xuất bản và ban hành một số bản tin và
đặc san như “Truyền tin”, “Cầm cự”, “Tia sáng”…, qua đó, các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng về kháng chiến, kiến quốc đến được với quần
chúng và động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia kháng
chiến.
Công tác y tế được đặc biệt chú ý phát triển. Ngoài việc phục vụ nhân
dân, ngành y tế còn làm thêm nhiệm vụ đào tạo cán bộ y tế và xây dựng một
số cơ sở khám, chữa bệnh cho bộ đội và thương binh. Ngành y tế bước đầu
xây dựng được 6 phòng phát thuốc và điều trị cho dân quân du kích, 1 bệnh
viện. Ở các xã cũng có 33 trạm phát thuốc và cứu thương.
Việc giải quyết các chế độ chính sách cho thương binh, bệnh binh, tử sĩ
và cứu tế được Tỉnh ủy chỉ đạo kịp thời. Ngoài việc bảo đảm chế độ như an
dưỡng, tử tuất… các cơ quan đoàn thể nhân dân đã hết sức giúp đỡ, thăm hỏi,
tặng quà. 6 tháng đầu năm 1950, có trên 50 thương binh được giới thiệu đi
nhận công tác ở các cơ quan.
Những kết quả hoạt động trên lĩnh vực văn hóa – xã hội đã thể hiện sự
nỗ lực rất cao của Đảng bộ và nhân dân địa phương trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến. Những kết quả đó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, tạo
thêm niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vào
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến.
45
Về chi viện cho tiền tuyến
Trong những năm đầu kháng chiến, nhân dân tỉnh Phú Thọ đã liên tục,
và bằng nhiều hình thức, đóng góp vật chất, tài chính cho kháng chiến. Thông
qua “Hội bảo trợ du kích”, “Ban bảo trợ dân quân”, “Hội nuôi quân”, và các
cuộc vận động lớn như “Mùa Đông binh sĩ”, góp cổ phần vào xưởng vũ khí…
nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã ủng hộ lực lượng vũ trang địa phương tiền
và một số lượng lớn vũ khí thô sơ, lương thực, quần áo. Chỉ trong một ngày
của cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ”, tại Hanh Cù (Thanh Ba), nhân dân đã
ủng hộ 49 chiếc áo trấn thủ, 12 chiếc chăn và 34.592 đồng, trong đó, xã Tân
Trào (Vụ Cầu và Vĩnh Chân hiện nay) là 20.000 đồng, xã Âu Cơ (Động Lâm
và Hiền Lương hiện nay) 10.000 đồng, thiếu nhi Lâm Thao ủng hộ 2 chăn
đơn, anh em lao động vận tải cũng đóng góp 45 đồng. Cuộc vận động ủng hộ
“Binh sĩ bị nạn” từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1947 đã thu được 20.212 đồng
[55, tr.1].
Năm 1948, hưởng ứng phong trào “Luyện quân lập công” của các lực
lượng vũ trang trong tỉnh, nhân dân đã ủng hộ lương ăn cho các chiến sĩ tham
gia diễn tập. Phong trào ủng hộ dân quân du kích và bộ đội địa phương cũng
diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong các đoàn thể, tổ chức quần chúng với các hình
thức ủng hộ hết sức phong phú, đa dạng. Đặc biệt, đợt phát động mua Công
phiếu kháng chiến, ngày 23 tháng 7 năm 1948, được nhân dân toàn tỉnh
hưởng ứng tích cực. Tính đến ngày 15 tháng 5 năm 1950, toàn tỉnh đã bán
được 2.102.200 đồng, trong đó Công phiếu kháng chiến hạng A là 1.184.200
đồng, hạng B là 543.000 đồng, hạng C là 115.000 đồng, hạng D là 260.000
đồng.
Theo Chỉ thị số 09 ngày 21 tháng 10 năm 1949 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, cuộc vận động “Hũ gạo nuôi quân” diễn ra rộng rãi, các xã đều đạt
được mức quy định hàng tháng là 100kg/ tháng và 600kg/ tháng tùy vào tình
46
hình sản xuất và chiến sự ở địa phương. Cuộc vận động đã trở thành một
phong trào quần chúng rộng rãi, thường xuyên nhắc nhở mọi người dân trong
tỉnh thực hiện nghĩa vụ kháng chiến và trách nhiệm xây dựng lực lượng vũ
trang địa phương.
Vấn đề động viên toàn dân tham gia công tác kháng chiến được Tỉnh
ủy hết sức chú ý. Riêng trong năm 1949, toàn tỉnh đã huy động được 25 vạn
ngày công vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm cho bộ đội.
Năm 1950, nhân dân tỉnh Phú Thọ đã kết hợp với tỉnh Tuyên Quang sửa chữa
đường quốc lộ 2 và đường liên tỉnh số 11. Ở 2 tuyến đường này, Phú Thọ đã
huy động 7.855 nhân công với trị giá tiền chi là 16.876.818 đồng. Tuyến
đường sắt từ Tiên Kiên đến thị xã Phú Thọ do địch dùng mìn phá hủy, tỉnh đã
huy động 86.436 nhân công tham gia để sửa lại, nối được 13.550m đường, thu
thập được 28.950 thanh ray, 90.313 thanh tà vẹt, chi hết 1.500.000 đồng [1,
tr.152]. Kết quả sửa chữa đường sá, cầu cống, đê điều đã tạo điều kiện thuận
lợi trong việc vận tải và thúc đẩy kinh tế ở các vùng trong tỉnh, đáp ứng cao
nhất cho tiền tuyến chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện kế hoạch chuẩn bị chiến dịch Thu Đông của tỉnh, mỗi xã
thành lập một trung đội tải thương, một trung đội dân công, đồng thời thành
lập ở mỗi thôn một tiểu đội tiếp tế, tiểu đội này có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn
những đồ dùng như nồi, sanh và mỗi thôn chuẩn bị sẵn 5 cáng cứu thương.
Việc động viên nhân dân đóng góp nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến
được đẩy mạnh. Số thóc quân lương thu được trong năm 1949 là 4.000 tấn,
tiền đảm phụ quốc phòng là 4.212.530 đồng và thu về từ Công phiếu kháng
chiến được 836.800 đồng. Đợt vận động nhân dân trong tỉnh bán thóc cho
Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân (từ ngày 16 tháng 8 năm 1949 đến ngày 2
tháng 9 năm 1949) đã thu mua được 156.127kg thóc, vượt kế hoạch trên giao.
Riêng Hội phụ nữ tỉnh đã vận động chị em xay giã giúp bộ đội 8.200 kg thóc,
47
ủng hộ 60.069 đồng, 3.900 gánh củi, 2.500 kg gạo, 200 chiếc khăn mặt và
trên 500 ngày công tiếp tế, khâu vá quần áo cho các chiến sỹ.
Để huy động sức người, sức của cho kháng chiến, ngày 12 tháng 2 năm
1950, Chính phủ ban hành sắc lệnh Tổng động viên theo khẩu hiệu “Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Để thực hiện tốt lệnh Tổng động viên
của Đảng, Phú Thọ đã phát động toàn dân hướng ra tiền tuyến, tất cả cho
chiến thắng. Toàn tỉnh đã động viên 1.198 thanh niên tòng quân, 27.339 lượt
người phục vụ các chiến dịch, 25.820 nhân công sửa chữa đường giao thông,
tu sửa đê và hàng ngàn dân công phục vụ yêu cầu đột xuất của quân đội; huy
động được 48.391,8 kg gạo, 352,8 kg thóc, thu được 3.305.589,5 đồng. Mỗi
thôn, xã đều chuẩn bị 20 tạ gạo tẻ, 5 tạ gạo nếp, 1 tạ miến, 10 con bò, 20 con
lợn và 10 cáng thương, cùng với số bát đĩa, xoong nồi đủ dùng cho một tiểu
đoàn, sẵn sàng phục vụ khi có chiến sự sảy ra.
Để bảo đảm hậu cần cho bộ đội địa phương, sau Hội nghị dân quân
Trung du và Hội nghị Tỉnh ủy (tháng 8 năm 1948), Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra
liên tiếp hai chỉ thị (ngày 21 và 22 tháng 10 năm 1949) về trang bị và cấp
dưỡng cho bộ đội địa phương. Với tinh thần “Mỗi người là một hội viên hội
nuôi quân”, “Mỗi gia đình là một lọ gạo nuôi quân”, nhân dân trong tỉnh đã
đóng góp lương thực, thực phẩm trang bị cấp dưỡng cho bộ đội. Cụ thể, trong
6 tháng đầu năm 1950, toàn tỉnh thu được 33.534kg gạo, 7.700kg thóc, 1.520
kg khoai, sắn và 2.350.748 đồng. Đặc biệt, sau chiến thắng Biên giới Thu
Đông năm 1950, phong trào ủng hộ nuôi quân trong tỉnh phát triển rất mạnh,
trong 3 tháng cuối năm 1950, tỉnh đã thu được 8.411.914,5 đồng, 60.950,8kg
gạo, 12.787 kg thóc, 1.750 bộ quần áo, 1.750 chiếc áo trấn thủ, 875 chiếc
chăn. Cả năm 1950, Hội nuôi quân đã thu được 158 tấn gạo từ “Lọ gạo nuôi
quân”, 40 tấn thóc và 12 triệu đồng để nuôi bộ đội địa phương. Các ban bảo
48
trợ du kích được lập ra ở một số địa phương như Thanh Ba (xã Ba Triệu, Vũ
Yển), Hạc Trì (xã Minh Khai, Hùng Lô)…
TIỂU KẾT CHƢƠNG I
Trong những năm 1946 – 1950, do nhận thức đúng đắn về vai trò của
hậu phương đối với tiền tuyến, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã lãnh đạo, chỉ đạo
từng bước xây dựng được hậu phương vững mạnh về mọi mặt chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, quân sự, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn; xây dựng Phú
Thọ thành một hậu phương vững mạnh, vừa đảm bảo yêu cầu phục vụ đời
sống nhân dân, vừa chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Đây là thời kỳ chuyển
biến mạnh mẽ của quân và dân tỉnh Phú Thọ trong việc thực hiện nhiệm vụ
kháng chiến, kiến quốc và xây dựng chế độ mới do Đảng lãnh đạo. Những kết
quả trong việc xây dựng hậu phương ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến,
đảm bảo cho quân và dân Phú Thọ đánh thắng các trận càn của địch, tham gia
vào những chiến dịch lớn nhằm bảo vệ quê hương và góp phần vào những
thắng lợi chung của dân tộc.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ dân chủ mới,
hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc của địa phương đều được Mặt trận các
cấp phối hợp thực hiện, đạt kết quả tốt, tạo nên một hình thái chiến tranh nhân
dân với điều kiện hậu cần tại chỗ. Phong trào thi đua ái quốc, được phát động
ngay sau chiến thắng Việt Bắc, đã góp phần xây dựng nên truyền thống yêu
nước và cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh và lực lượng
chính trị của tỉnh ngày càng hùng hậu, tạo thành động lực mạnh mẽ, động
viên quân và dân trong tỉnh ra sức đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến của nhân
dân ta mau đến thắng lợi.
49
Chƣơng 2
ĐẢ NG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1954
2.1 Bối cảnh của cuộc kháng chiến và những vấn đề đặt ra trong xây
dƣ̣ng hâ ̣u phƣơng cách mạng
Trải qua những năm đầu của cuộc kháng chiến, lực lượng của ta ngày
một lớn mạnh, thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Bên cạnh những thắng lợi về quân sự, chúng ta còn giành được những thành
tựu quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính quyền dân chủ
nhân dân ngày càng phát huy được vai trò lãnh đạo toàn dân tham gia kháng
chiến, kiến quốc.
Năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã phát triển về mọi mặt,
nhất là về mặt ngoại giao và quân sự. Chiến thắng Biên giới Thu – Đông 1950
đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của cuộc kháng chiến, mở ra bước ngoặt
lớn của cuộc kháng chiến, khiến những cố gắng của giặc Pháp trong âm mưu
bình định vùng chiếm đóng, huy động tiềm lực tại chỗ, sử dụng chính quyền
và quân đội tay sai của chúng đang từng bước bị phá sản. Thực dân Pháp rơi
vào tình thế mất quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ,
buộc phải rút bỏ hàng loạt địa bàn và vị trí quan trọng. Bọn bù nhìn tay sai
càng bộc lộ rõ sự bất lực, không có cơ sở trong nhân dân, không có điều kiện
để giúp Pháp cải thiện tình thế vốn đang rất nghiêm trọng. Thực dân Pháp
nhận rõ thực tế là không thể thắng bằng quân sự, ý chí xâm lược của chúng bị
lung lay. Đây là lần đầu tiên ta mở một chiến dịch tiến công quy mô lớn thắng
lợi, đánh vào một tuyến phòng thủ mạnh của địch, vòng vây biên giới bị quân
và dân ta phá tan, “Hành lang Đông Tây” bị chọc thủng, các “xứ tự trị” bị tan
vỡ. Với thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, ta mở được đường giao thông
quốc tế, nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa sau 5 năm bị chủ
50
nghĩa đế quốc bao vây, đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ
và Liên khu IV được thông suốt. Thắng lợi của chiến dịch đã làm thay đổi cục
diện chiến trường có lợi cho ta. Từ đây, quân dân ta đã giành được quyền chủ
động trên chiến trường chính Bắc Bộ.
Cũng trong thời gian này, phong trào cách mạng của nhân dân thế giới,
nhất là sự lớn mạnh của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, sự
hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự thành công của cách
mạng Trung Quốc đưa tới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(1.10.1949), đã trở thành nhân tố thuận lợi cổ vũ và ủng hộ có hiệu quả sự
nghiệp kháng chiến của Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ
nhân dân lần lượt công nhận, đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta, đồng
thời tận tình giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến của Việt
Nam. Từ đây, hậu phương kháng chiến của ta hình thành ba tầng: tại chỗ, cả
nước và phe xã hội chủ nghĩa, kết hợp tự lực tự cường với sự đoàn kết ủng hộ
của quốc tế.
Quân đội Pháp tuy bị thất bại nặng nề, nhưng ở Đông Dương chúng
vẫn còn một lực lượng lớn, với gần 34 vạn quân, vũ khí trang bị còn dồi dào,
lại được Mỹ tăng cường viện trợ. Để giành lại quyền chủ động trên chiến
trường, thực dân Pháp thay đổi Tổng chỉ huy, tiến hành những biện pháp
chiến lược khác nhau với tham vọng thay đổi cục diện chiến tranh Đông
Dương. Những kế hoạch, biện pháp mới của địch, cụ thể là kế hoạch của
Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương là Đờ
Lát đờ Tát – xi – nhi, đã gây không ít khó khăn cho ta.
Có thể thấy, từ năm 1951, mặc dù cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn
quyết liệt nhưng tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều
chuyển biến mới thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Sự ủng hộ về tinh thần
và vật chất của các nước anh em đã tạo điều kiện cho quân và dân ta đẩy
51
mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới. Yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: vượt qua mọi khó khăn gian
khổ, vươn lên đáp ứng những đòi hỏi của cuộc kháng chiến; hoàn chỉnh và bổ
sung đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến cho phù hợp với thực tiễn,
kịp thời đề ra những chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy kháng chiến
thắng lợi. Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
được triệu tập để giải quyết những vấn đề kháng chiến cấp bách đang đặt ra.
Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt
Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một đảng cách mạng riêng cho phù hợp với
sự phát triển mới của cách mạng và kháng chiến của từng nước. Ở Việt Nam,
Đảng đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động, Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đại hội khẳng định đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường
kỳ và tự lực cánh sinh” của Đảng đề ra trong những năm đầu của cuộc chiến
tranh là đúng đắn. Nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới là lãnh đạo quân
dân ta: “Đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao
động Việt Nam”, trong đó nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng là phải đưa
kháng chiến đến thắng lợi. Vấn đề xây dựng hậu phương được Đại hội coi là
“một vấn đề chiến lược quan trọng ngang hàng với vấn đề xây dựng lực lượng
vũ trang. Vì hậu phương chính là nơi bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực,
vật lực cần thiết để phát triển quân đội và đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng
chiến”.
Tình hình mới đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện hơn nữa của Đảng để đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Với điều kiện lịch
sử đó, để đáp ứng tình hình mới, yêu cầu xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu
phương cần được tập trung và tích cực hơn.
52
Những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước đã tác động
mạnh mẽ đến phong trào kháng chiến ở Phú Thọ.
2.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ Phú T họ trong thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u
phƣơng cá ch ma ̣ng trên địa bàn tỉnh.
2.2.1 Tình hình chung của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc kháng
chiến toàn diện tới thắng lợi.
Ở địa bàn Phú Thọ, do bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch Lê Hồng
Phong (10 – 1950) và bị đánh mạnh trên các chiến trường khác, địch buộc
phải rút bỏ một số vị trí phía Tây Nam tỉnh, chỉ để lại hai vị trí Việt Trì (Hạc
Trì) và Hạ Nông (Tam Nông) làm tiền tiêu bảo vệ cho phòng tuyến sông Đà
và khu vực chiếm đóng thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Bộ chỉ huy Pháp luôn coi Phú
Thọ là một hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến và tiếp tục chống
phá ta về nhiều mặt. Địch triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, đồng
thời thường xuyên đánh phá với quy mô và mức độ ngày càng tăng. Chúng
liên tiếp tổ chức những cuộc càn quét ra vùng tự do, cho quân sục sạo, vơ vét
của cải, phá hoại mùa màng, bắt người, cướp của, dùng máy bay, đại bác bắn
phá đường giao thông vận tải, kho tàng, các vị trí xung yếu, tung biệt kích do
thám, thăm dò lực lượng của ta. Song, trong bối cảnh của chiến trường Bắc
Bộ và Bắc Đông Dương, cuộc kháng chiến của ta đang trên đà phát triển
thuận lợi, quân dân Phú Thọ đã làm tất cả để bảo vệ mình, góp phần tiêu diệt
địch, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, ngày 30 tháng 3 năm 1951, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ III được tổ chức tại xã Văn Lang,
huyện Hạ Hòa. Đại hội đã nghiên cứu các văn kiện của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ II, nhất trí với đường lối và nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
mới của cách mạng mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã đề ra. Đại hội đã
thông qua Nghị quyết về phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội; về củng cố
53
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, làm chỗ dựa
cho hậu phương kháng chiến; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và chú
trọng công tác xây dựng Đảng… Đó là những vấn đề trọng tâm của tỉnh cần
tập trung thực hiện trong thời kỳ này.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đánh dấu bước trưởng thành về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng bộ. Đại hội đã tập trung được trí tuệ của
toàn Đảng bộ, đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp để đưa sự nghiệp
kháng chiến của tỉnh tiến lên những bước vững chắc, tạo cho quần chúng
niềm tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cổ vũ quân và
dân trong tỉnh hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, tiết kiệm, góp phần thúc đẩy
sự nghiệp kháng chiến mau chóng đi đến thắng lợi.
2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ hậu phương cách mạng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và Đại hội
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ III (năm 1951), toàn tỉnh triển khai công tác
chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm tăng cường khả năng kháng chiến, đồng thời
phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hậu phương, quân dân Phú
Thọ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, đã đẩy mạnh hoạt động xây
dựng và bảo vệ hậu phương trên tất cả các mặt.
Về chính trị:
Phú Thọ tuy phải đối phó với các cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác
liệt của địch, nhưng về cơ bản vẫn là vùng tự do, hậu phương quan trọng của
Liên khu Việt Bắc, vì vậy, Đảng bộ hết sức chú trọng việc xây dựng và kiện
toàn hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng từ tỉnh đến cơ sở để lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ kháng
chiến.
54
Xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị sẽ tạo điều kiện để xây
dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tăng cường tiềm lực quốc
phòng. Do đó, việc củng cố và phát triển Đảng, hệ thống chính quyền các cấp
và các tổ chức quần chúng trở thành nhiệm vụ trước mắt hết sức khẩn trương.
Trong công tác xây dựng Đảng, thời kỳ này được Trung ương chỉ đạo
theo hướng nâng cao chất lượng, tạm thời ngừng phát triển về số lượng để
củng cố. Do đó, Tỉnh ủy coi công tác đào tạo cán bộ là nhiệm vụ cấp bách.
Tỉnh ủy quyết định đẩy mạnh hai cuộc vận động đào tạo cán bộ và học tập lý
luận, gắn với cuộc vận động phê bình và tự phê bình. Tỉnh đã mở các lớp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các địa phương trong tỉnh và một số tỉnh bạn trong
Liên khu nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến ngày càng tăng. Trong
năm 1951, toàn tỉnh đã mở được 7 lớp bồi dưỡng chính trị, văn hóa cho gần
một nghìn cán bộ và chi ủy viên, phần lớn là công nhân, nông dân, trí thức
cách mạng và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã qua thử thách trong
kháng chiến. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 1951, tỉnh Phú Thọ đã cung cấp
cho Liên khu Việt Bắc 57 đồng chí (trong đó có 5 tỉnh ủy viên, 16 huyện ủy
viên). [2, tr. 224]
Trong quá trình xây dựng, Đảng bộ đã rút ra những ưu, khuyết điểm
trong lãnh đạo và chỉ đạo. Những mặt mạnh và yếu đó vừa là các bài học kinh
nghiệm, vừa đánh dấu sự trưởng thành của Đảng bộ qua mỗi thời kỳ cách
mạng.
Về công tác chính quyền, Đảng bộ tỉnh thường xuyên chú trọng củng
cố bộ máy chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, nâng cao năng
lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo cho các tổ chức này làm tốt vai trò
tổ chức, động viên toàn dân thực hiện nhiệm vụ kháng chiến ở cơ sở.
Trong công tác chính quyền, Tỉnh ủy tập trung vào 3 nội dung chính là:
củng cố tổ chức, tinh giảm biên chế; sửa đổi lề lối làm việc; tăng cường công
55
tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ và nhân dân. Đến tháng 8 năm 1951, toàn
tỉnh đã thực hiện xong việc giảm biên chế đối với chính quyền các cấp. Riêng
biên chế của tỉnh từ 2.375 người (năm 1950) rút xuống còn 1.795 người (năm
1952). Những người dôi ra trong đợt này phần lớn đưa về địa phương tham
gia sản xuất, xây dựng hậu phương, một số là thanh niên được vận động tham
gia các đơn vị quân đội [2, tr. 225]. Cùng với việc củng cố tổ chức, sửa đổi lề
lối làm việc, tỉnh còn mở những lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt
cấp huyện và xã, phân công cán bộ đi dự các lớp huấn luyện của Liên khu,
của Bộ Nội vụ, làm cho năng lực hoạt động của bộ máy chính quyền được
nâng lên. Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp thường xuyên
quan tâm đến công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, nhất là đối
với giáo dân và đồng bào dân tộc ít người.
Nhìn chung, việc xây dựng và củng cố chính quyền các cấp ở Phú Thọ
trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến. Bộ máy chính quyền từ tỉnh đến xã
từng bước được củng cố. Tác phong làm việc của cán bộ tiến bộ hơn, lề lối
làm việc được sửa đổi. Tính chất dân chủ nhân dân của chính quyền được thể
hiện rõ nét.
Về công tác Mặt trận, Đảng bộ chú trọng chỉ đạo Mặt trận và các đoàn
thể quần chúng tăng cường khối đoàn kết toàn dân, huy động mọi lực lượng
tham gia kháng chiến. Bởi vì, việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân là một trong những vấn đề trọng tâm mà Đảng ta luôn coi đó là một nhân
tố quan trọng ở hậu phương, có vai trò quyết định đối với tiền tuyến. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định “căn cứ hậu phương vững chắc nhất là lòng dân” [8,
tr.344]. Trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, tổ chức
nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện chủ trương “Mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”. Ở Phú Thọ, sản xuất nông nghiệp là
chính, vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân phải đặc
56
biệt coi trọng đoàn kết với nông dân, trên cơ sở liên minh công nông chặt chẽ,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong thời gian này, Mặt trận dân tộc thống nhất Liên – Việt cũng được
kiện toàn, trong đó Việt Minh là bộ phận trụ cột. Mặt trận Liên – Việt và các
tổ chức quần chúng ra sức tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên tích cực
đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, nên đã động viên được đông
đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước như mua Công trái quốc gia, đóng thuế
nông – công – thương nghiệp và hăng hái tham gia phục vụ các chiến dịch.
Sau một thời gian củng cố, mở rộng, Mặt trận đã thu hút được ngày càng
đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tự nguyện tham gia và ủng hộ
kháng chiến, đánh dấu bước tiến mới về tăng cường khối đoàn kết toàn dân.
Đây là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho chính quyền dân chủ nhân dân ở
địa phương đứng vững và là một đảm bảo cho sức mạnh của sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc.
Có thể thấy, để xây dựng Phú Thọ thành hậu phương vững mạnh toàn
diện, Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập trung lãnh đạo xây dựng về chính trị
và tổ chức, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu. Hệ thống Đảng từ tỉnh đến cơ sở đã
ra công khai hoạt động. Chính quyền nhân dân các cấp được củng cố, khối
đoàn kết dân tộc ngày càng vững chắc. Xây dựng và củng cố hậu phương về
chính trị ở Phú Thọ là kết quả tổng hợp của các lĩnh vực công tác lớn của
Đảng bộ tỉnh. Sự vững mạnh về chính trị thực sự là nền tảng, là đòn bẩy để
xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ kháng chiến.
Về kinh tế
Sau chiến thắng Biên giới của quân và dân ta, thực dân Pháp tuy bị thất
bại nặng nề, nhưng nhờ có sự viện trợ của Mỹ, chúng vẫn tiếp tục kéo dài
chiến tranh. Do đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta càng trở nên gay go và
57
ác liệt, đòi hỏi phải động viên nhân, tài, vật lực nhiều hơn nữa để đưa cuộc
kháng chiến đến thắng lợi. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
nhất (khóa II) tháng 3 năm 1951, đã xác định: “Do kháng chiến lâu dài và
gian khổ, ta phải ra sức mở mang kinh tế - tài chính để bồi dưỡng sức dân và
cung cấp cho quân đội… Hiện nay, nhiệm vụ đó đã trở thành nhiệm vụ hết
sức quan trọng”. [7, tr. 264]
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đề
ra chương trình phát triển kinh tế của địa phương trong năm 1951, trong đó
nêu lên nhiệm vụ trọng tâm là: đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, tiếp tục thực hiện chính sách nông thôn của Đảng. Trên cơ sở đó, các
cấp ủy Đảng tiến hành kiểm điểm quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển
kinh tế kháng chiến thời gian qua và vạch ra phương hướng cho các cấp, các
ngành tiếp tục đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, xây dựng hậu phương
vững mạnh, nhất là về kinh tế, làm chỗ dựa cho kháng chiến.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú và có sự chỉ đạo chặt chẽ
nên phong trào sản xuất, tiết kiệm đã phát triển sâu rộng trong nhân dân và
thu được kết quả cao. Năm 1952, mặc dù việc sản xuất gặp khó khăn như hạn
hán, sâu bọ, địch tăng cường đánh phá, bắn giết trâu bò… nhưng các tầng lớp
nhân dân vẫn vượt qua mọi khó khăn, tập trung sức chống hạn, đào đắp
mương, bảo vệ đê điều, trừ sâu bọ… Nhiều nơi còn tổ chức sản xuất ban đêm
để tránh máy bay địch… Nông dân một số địa bàn trong tỉnh đã áp dụng các
biện pháp kỹ thuật sản xuất mới như gieo mạ thưa, chọn giống tốt, cày bừa
kỹ, cấy nhỏ rảnh, làm cỏ, bón phân 2, 3 lượt… nên sản lượng lúa tăng 5%, có
nơi tăng từ 15 đến 25%. Bên cạnh cây lúa, các loại hoa màu như ngô, khoai
sắn đều phát triển, đạt năng suất, sản lượng cao, có nơi tăng 50%. [2, tr. 230],
không những đảm bảo lương thực cho nhân dân trong tỉnh vượt qua được
những ngày giáp hạt tháng ba, mà còn có khả năng tương trợ cho những vùng
58
lân cận, đặc biệt góp phần không nhỏ phục vụ cho kháng chiến, cung cấp cho
chiến trường Tây Bắc.
Năm 1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh về thuế nông nghiệp và thuế
công thương nghiệp nhằm đảm bảo nhu cầu cho kháng chiến và thực hiện chế
độ đóng góp công bằng, dân chủ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác
này, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh đã thành lập cơ quan
chuyên trách, tổ chức tuyên truyền chính sách thuế của Chính phủ một cách
sâu rộng trong nhân dân, mở hội nghị chuyên đề về công tác thuế. Đến cuối
năm 1951, toàn tỉnh đã thu được 19.910 tấn thóc thuế và 7.500 tấn thóc tạm
vay, đạt 82% mức Liên khu giao. Từ năm 1952 đến năm 1954, toàn tỉnh đã
huy động nhân dân đóng góp thuế nhập vào kho Nhà nước được 63.493 tấn
thóc [2, tr.232]. Có thể thấy, thuế nông nghiệp vừa phù hợp với khả năng
đóng góp của nông dân ở từng vùng, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, là
cơ sở pháp lý để chính quyền các cấp huy động được nông dân, nhất là những
người có nhiều ruộng đất đóng góp cho kháng chiến. Vì thế, các cấp bộ đảng
đã phát động được tinh thần yêu nước, trách nhiệm của mỗi người dân đối với
sự nghiệp kháng chiến, làm cho Phú Thọ trở thành một trong những tỉnh
thuộc Liên khu Việt Bắc có số lượng thóc đóng góp lớn, thời gian thực hiện
nhanh nhất.
Bên cạnh đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ cũng quan tâm đến
sản xuất tiểu, thủ công nghiệp. Các mặt hàng sản xuất ra thời kỳ này chủ yếu
phục vụ sản xuất nông nghiệp và nhu cầu quốc phòng, một phần phục vụ đời
sống nhân dân. Trong điều kiện còn rất khó khăn nhưng tỉnh đã chú ý phát
triển sản xuất công nghiệp, nhất là kỹ nghệ quốc phòng. Tỉnh thành lập xưởng
Lô Giang (Hạ Hòa) sản xuất thuốc nổ và lựu đạn. Đi đôi với sản xuất quốc
phòng, Chính phủ chú ý phát triển sản xuất một số mặt hàng cần thiết cho đời
sống của bộ đội và nhân dân như vải vóc, giấy, dụng cụ văn phòng. Nếu như
59
đầu năm 1951, trên địa bàn tỉnh có 75 xưởng làm giấy, sản xuất trung bình
một tháng được 25,8 tấn sản phẩm, thì đến năm 1953 đã tăng lên 113 cơ sở và
sản xuất được 119,5 tấn [2, tr. 233]. Sản phẩm giấy do các đơn vị trong tỉnh
sản xuất không những đảm bảo nhu cầu cho 7 nhà in, các cơ quan Trung ương
đóng trên địa bàn Phú Thọ, phục vụ nhu cầu ở địa phương, mà còn cung cấp
cho các tỉnh ở Việt Bắc, Tây Bắc và Liên khu III.
Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh kinh tế phục
vụ kháng chiến, trong năm 1951, toàn tỉnh tích cực thực hiện tăng gia sản
xuất, tăng thu giảm chi. Đảng bộ và chính quyền các cấp đã chú trọng lãnh
đạo các mặt hoạt động kinh tế, trong đó ưu tiên phát triển sản xuất nông
nghiệp.
Song song với việc xây dựng và bảo vệ kinh tế ta là quá trình bao vây,
phá hoại kinh tế địch, bởi vì kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng của ta
không chỉ trên lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hóa mà cả trên mặt trận kinh
tế. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (khóa II), tháng 3
năm 1951, đã chỉ rõ: “Cần tăng cường công tác đấu tranh kinh tế với địch.
Mục đích là làm cho địch thiếu thốn, mình no đủ, hại cho địch, lợi cho mình”.
[ 7, tr. 263]
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy triển khai công tác đấu
tranh kinh tế với địch; hướng dẫn việc tuyên truyền, giải thích cho nhân dân
nhận thức rõ âm mưu “lấy chiến tranh, nuôi chiến tranh” của địch, đồng thời
tăng cường vận động nhân dân cất giấu thóc lúa, của cải, thực hiện khẩu hiệu
“Gặt nhanh, cất kỹ”, “Không để một hạt thóc vào tay địch”. Các đơn vị bộ
đội, lực lượng dân quân du kích cũng được huy động thu hoạch giúp dân. Một
số cấp ủy địa phương còn chỉ đạo Đảng bộ cơ sở và nhân dân phân tán lúa
gạo đến nơi an toàn.
60
Đối với công tác bao vây kinh tế địch, quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh là: Không ngăn cản việc buôn bán giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm,
mà chỉ kiểm soát việc đưa vào hoặc bán ra những mặt hàng có lợi cho nhân
dân, cho kháng chiến. Từ chỗ bao vây kinh tế địch một cách tiêu cực, ta
chuyển sang đấu tranh kinh tế với địch một cách tích cực, quản lý xuất, nhập
khẩu theo phương châm: tranh thủ trao đổi có lợi, tranh thủ xuất siêu. Các mặt
hàng xuất, nhập của ta đảm bảo yêu cầu kích thích sản xuất nội địa và cải
thiện đời sống nhân dân; hạn chế nhập những mặt hàng có khả năng cạnh
tranh với hàng của ta, ổn định thị trường địa phương.
Chi sở Mậu dịch Phú Thọ được thành lập, hệ thống mậu dịch quốc
doanh được mở rộng. Việc áp dụng chính sách mới về kinh tế, tài chính,
thương nghiệp của Nhà nước đã thúc đẩy sản xuất phát triển, hàng hóa giao
lưu rộng rãi, đời sống nhân dân được cải thiện, đồng thời góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh kinh tế với địch đạt hiệu quả thiết thực.
Về quân sự
Sức mạnh của hậu phương không chỉ về kinh tế, mà còn gồm lĩnh vực
quan trọng khác là quân sự. Mục tiêu đánh phá chủ yếu của địch vào hậu
phương ta là nguồn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Vì vậy, công
cuộc xây dựng quân sự ở hậu phương và chiến đấu bảo vệ hậu phương diễn ra
thường xuyên và ngày càng gay go quyết liệt.
Tháng 5 năm 1951, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp thông qua Nghị
quyết về công tác quân sự địa phương, trong đó nêu lên những nhiệm vụ
chính là: Tiến hành củng cố, phát triển lực lượng vũ trang theo phương châm
vừa xây dựng vừa tác chiến, kiện toàn tổ chức chính trị và đẩy mạnh công tác
Đảng trong lực lượng vũ trang; bổ sung cán bộ, quân số cho lực lượng tỉnh,
huyện; củng cố dân quân du kích ở xã thôn, sẵn sàng chiến đấu và tham gia
61
phục vụ chiến đấu, thực hiện khẩu hiệu “Bám đất, bám dân, đẩy lùi quân
địch”.
Thực hiện chủ trương của Trung ương và Liên khu Việt Bắc về tăng
cường xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích, đầu năm
1951, Đảng bộ chỉ đạo thành lập Trung đoàn bộ đội tỉnh. Thực hiện chủ
trương “Tinh binh, tinh cán”, Tỉnh ủy và các cơ quan quân sự cùng Ủy ban
kháng chiến hành chính đã đề ra nhiều biện pháp để chấn chỉnh tổ chức, nhằm
giảm bớt bộ phận gián tiếp, tăng cường bộ phận trực tiếp chiến đấu. Tỉnh ủy
quyết định sáp nhập đại đội huyện Thanh Sơn với Tam Nông, Yên Lập với
Hạ Hòa thành hai đại đội liên huyện và rút bớt cán bộ văn phòng ở các đơn vị
bộ đội địa phương trong tỉnh để tăng cường cho các đơn vị trực tiếp chiến
đấu. Cuối năm 1951, do yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, tỉnh quyết
định thành lập thêm hai đại đội bộ đội địa phương ở hai huyện Thanh Sơn và
Thanh Thủy, tiếp tục củng cố những đại đội bộ đội địa phương khác. Những
đơn vị này vừa có thể độc lập tác chiến, vừa làm nhiệm vụ dìu dắt, giúp đỡ
dân quân du kích xã.
Với chủ trương tăng cường thêm sức mạnh cho lực lượng vũ trang địa
phương đủ sức chiến đấu với kẻ thù, Đảng bộ chú trọng chỉ đạo công tác huấn
luyện tác chiến cho cán bộ và chiến sỹ. Đồng thời, tỉnh còn mở nhiều lớp bồi
dưỡng chính trị, huấn luyện về chiến thuật đánh du kích và kỹ thuật sử dụng
các loại vũ khí cho cán bộ và chiến sĩ… Do đó, đa số bộ đội cũng như dân
quân du kích Phú Thọ hiểu rõ thêm về tình hình và nhiệm vụ mới, trình độ kỹ
thuật, chiến thuật cũng được nâng lên một bước.
Về tổ chức dân quân du kích cũng được chấn chỉnh lại. Bộ phận dân
quân du kích được tách ra khỏi Ủy ban kháng chiến hành chính, chuyển sang
cơ quan quân sự các cấp trực tiếp phụ trách. Mỗi xã có từ 1 đến 3 trung đội du
kích, trong đó có từ một đến hai tiểu đội bán thoát ly. Tỉnh còn có kế hoạch
62
hướng dẫn các đơn vị tổ chức huấn luyện cơ bản về kỹ thuật quân sự cho dân
quân du kích xã.
Qua thực tiễn vừa củng cố tổ chức, vừa học tập chính trị, vừa trực tiếp
chiến đấu chống kẻ thù, lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ đã trưởng thành,
phát triển. Đó là điều kiện thuận lợi để quân và dân trong tỉnh tiếp tục thực
hiện tốt những yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Trong chiến đấu bảo vệ hậu phương:
Bảo vệ hậu phương nhằm chuẩn bị mọi mặt về tinh thần, của cải và sức
lực để phục vụ tiền tuyến đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
Năm 1951, thực dân Pháp tập trung 20 tiểu đoàn cơ động tấn công ra
Hòa Bình nhằm cắt đường liên lạc giữa Liên khu 3, Liên khu 4 với Việt Bắc,
phá công cuộc chuẩn bị chiến dịch của ta và hút chủ lực ta đến để tiêu diệt,
giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Để hỗ trợ cho mặt trận chính,
địch huy động 3.000 quân mở cuộc tiến công, đánh chiếm các khu vực còn lại
như Đá Chông, Núi Chẹ (Sơn Tây), La Phù, Tu Vũ, thuộc Tây – Nam Phú
Thọ. Trên cơ sở phân tích tình hình địch – ta, ngày 24/11/1951, Trung ương
Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch”. Phú
Thọ có nhiệm vụ vừa đảm bảo nhân lực phục vụ chiến dịch, vừa trực tiếp đề
phòng địch đánh ra vùng tự do.
Song song với việc huy động lực lượng phục vụ chiến dịch, Đảng bộ
còn lãnh đạo quân và dân các huyện phía Tây Nam tỉnh phối hợp với chiến
trường chính, đánh địch ở Thanh Thủy. Địa điểm tấn công được Bộ Tổng tư
lệnh lựa chọn để đột phá tuyến phòng thủ sông Đà là vị trí Tu Vũ (Thanh
Thủy) và Núi Chẹ (Sơn Tây). Tại mặt trận này, Phú Thọ được cấp trên giao
nhiệm vụ phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Lực lượng dân công ngày
đêm vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm đến nơi tập kết đúng thời gian
quy định. Đêm 10/12/1951, trận đánh bắt đầu và diễn ra vô cùng ác liệt, ngay
63
từ khi bộ đội bắt đầu chiếm lĩnh trận địa, địch tập trung hỏa lực mạnh để cản
bước tiến của ta, nhưng trong mưa đạn, cán bộ, chiến sỹ nêu cao tinh thần
quyết chiến, quyết thắng, anh dũng xông lên để đánh thắng trận mở màn chiến
dịch. Sau 5 giờ chiến đấu, toàn bộ cứ điểm Tu Vũ, một mắt xích quan trọng
của địch ở phòng tuyến sông Đà, bị phá vỡ, 158 tên bị tiêu diệt, 12 tên bị bắt,
gần 100 tên tháo chạy. Trận mở đầu thắng lợi giòn giã, tạo điều kiện cho quân
và dân ta tiếp tục tiến công tiêu diệt giặc, mở ra khả năng to lớn giành thắng
lợi của chiến dịch Hòa Bình. Chiến thắng Tu Vũ là một trong những trận
chiến đấu tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược trên đất Phú
Thọ, đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý cho các trận đánh, các chiến dịch
sau này.
Ngày 28 tháng 10 năm 1952, quân Pháp bắt đầu mở cuộc hành quân
Loren. Với một lực lượng lớn, địch chia làm 2 mũi: một mũi tiến sâu lên
Đoan Hùng, một mũi đánh vào hữu ngạn sông Thao, càn quét các huyện Tam
Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn. Bảo vệ hậu phương lúc này là nhiệm vụ cấp
bách, Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc đã bổ sung cho Phú Thọ 3 tiểu đoàn chủ
lực thuộc Trung đoàn 176. Ngày 11 tháng 11 năm 1952, Tổng Quân ủy quyết
định thành lập Ban chỉ huy Mặt trận Phú Thọ, đồng thời ra chỉ thị cho Đảng
bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp chặt chẽ với bộ
đội chủ lực phối hợp phương án đánh địch. Trong suốt chiến dịch, quân dân
Phú Thọ đã sát cánh cùng bộ đội chủ lực đánh nhiều trận hiệp đồng thắng lợi
giòn giã, đặc biệt phối hợp với Trung đoàn 176 đã đánh 104 trận lớn nhỏ. Chỉ
tính riêng ở chiến trường hữu ngạn sông Thao, từ 28 tháng 10 đến 7 tháng 11
năm 1952, bộ đội địa phương và dân quân du kích của tỉnh đã đánh 73 trận,
loại khỏi vòng chiến đấu 712 tên, bắt sống gần 100 tên, thu nhiều vũ khí, quân
trang, quân dụng của địch.
64
Một trong những chiến công xuất sắc của quân dân Phú Thọ thời gian
này là sự phối hợp của quân dân địa phương với Trung đoàn 36 Bắc – Bắc,
thuộc Đại đoàn 308 Quân Tiên phong, cùng các đơn vị bạn giáng cho địch
những đòn sấm sét và giành thắng lợi trong trận Chân Mộng – Trạm Thản
(Phù Ninh) ngày 17 tháng 11 năm 1952, diệt gần 400 tên giặc, hai binh đoàn
cơ động GM1 và GM4 của Pháp bị thiệt hại nặng, 44 xe cơ giới, trong đó có 17
xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, thu nhiều quân trang, quân dụng của địch.
Sau thất bại ở Chân Mộng, tinh thần quân địch trở nên bạc nhược, sau gần 1
tháng tấn công lên địa bàn tỉnh, bị thiệt hại nặng nề, Bộ chỉ huy Pháp ra lệnh
kết thúc cuộc hành quân Loren, rút lực lượng về ứng phó với mặt trận đồng
bằng và Tây Bắc. Ngày 25 tháng 11 năm 1952, quân Pháp rút khỏi Phú Thọ.
Chiến thắng ở mặt trận Phú Thọ đã cổ vũ, động viên quân dân ta trên chiến
trường chính Tây Bắc, đập vỡ khu phòng ngự Mộc Châu của địch, giải phóng
phần lớn tỉnh Sơn La và Điện Biên Phủ.
Trong suốt trận chống càn, quân và dân Phú Thọ sát cánh cùng bộ đội
chủ lực, đánh nhiều trận, giành thắng lợi lớn. Lực lượng vũ trang tỉnh đã tác
chiến 176 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 856 tên địch, trong đó có
402 tên bị tiêu diệt, bảo vệ được kho tàng của Nhà nước, tính mạng và tài sản
của nhân dân. Âm mưu tìm diệt chủ lực ta và phá hoại hậu phương kháng
chiến của thực dân Pháp không thực hiện được. Đây là trận càn lớn nhất và
cũng là trận càn cuối cùng của địch ra vùng tự do Phú Thọ, bị thất bại hoàn
toàn.
Trong năm 1953, mặc dù địa bàn tỉnh hầu hết nằm trong vùng tự do,
nhưng do phải đối phó với các cuộc càn quét, lấn chiếm của địch, lực lượng
vũ trang Phú Thọ đã tác chiến liên tục tại địa phương 32 trận, diệt 89 tên địch,
làm bị thương 43 tên, phá 4 xe ô tô, 3 xưởng máy, thu 7 súng tiểu liên, 2 súng
trường, bắt 41 thổ phỉ, bảo vệ an toàn hậu phương kháng chiến.
65
Năm 1954, lực lượng vũ trang và nhân dân Phú Thọ đã chiến đấu 71
trận, diệt 313 tên địch, làm bị thương 66 tên, bắt sống 16 gián điệp, biệt kích,
gọi hàng 2 lính Âu – Phi, 129 lính ngụy, vận động được 1.234 đồng bào bị
địch cưỡng ép trở về quê hương.
Về văn hóa xã hội
Đi đôi với phát triển kinh tế, phong trào xây dựng đời sống mới ngày
một phát triển. Nhiều phong tục, tập quán lạc hậu của chế độ cũ dần dần được
xóa bỏ. Nền văn hóa mới với phương châm “Dân tộc, khoa học và đại chúng”
được tuyên truyền và phổ biến trong nhân dân. Công tác thông tin, tuyên
truyền, cổ động của ngành văn hóa, qua các hình thức ca kịch, phát thanh,
diễn thuyết, triển lãm…, đã giúp cho nhân dân trong tỉnh nắm bắt thông tin
thời sự trong nước và quốc tế, những thắng lợi trên các mặt chính trị, quân sự,
kinh tế, ngoại giao… có tác dụng động viên trực tiếp nhân dân tích cực tham
gia và phục vụ kháng chiến.
Về giáo dục, để thực hiện một nền giáo dục dân chủ nhân dân theo
phương châm: “Phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất”,
từ năm 1951 trở đi, ngành giáo dục của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực,
trong điều kiện kháng chiến gian khổ, nhiều trường học vẫn được mở. Năm
1953, Trường Phổ thông lao động của tỉnh được thành lập làm nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng văn hóa, chính trị cho cán bộ cơ sở. Bước đầu nhà trường đã
đáp ứng một phần yêu cầu cán bộ ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.
Lĩnh vực y tế được tỉnh đặc biệt chú ý phát triển để phục vụ cứu chữa
thương bệnh binh và bảo đảm sức khỏa cho nhân dân. Với phương châm
“phòng bệnh là chính”, cuộc vận động nhân dân thực hiện nếp sống ăn ở hợp
vệ sinh đạt kết quả tốt. Mạng lưới y tế được mở rộng. Các trạm, trại phục vụ
thương binh và an dưỡng cho bộ đội được bố trí ở nhiều khu vực thuận lợi.
Bên cạnh đó, tỉnh còn là nơi đặt Trường Đại học Y, Dược, Viện Quân y. Đội
66
ngũ cán bộ y tế được bổ sung và thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, nhờ đó sức khỏe của cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang được
chăm sóc chu đáo hơn.
Về chi viện cho tiền tuyến
Yêu cầu của chiến tranh đòi hỏi phải xây dựng hậu phương vững mạnh
đảm bảo cung cấp nhân tài, vật lực cho tiền tuyến.
Năm 1951, Phú Thọ được Trung ương giao nhiệm vụ phục vụ các
chiến dịch: Trần Hưng Đạo (Trung Du) từ tháng 12 năm 1950 đến tháng 1
năm 1951; Hoàng Hoa Thám (đường 18), từ tháng 3 - tháng 4 năm 1951;
Quang Trung (Hà Nam Ninh), từ tháng 5 – tháng 6 năm 1951; Hòa Bình, từ
tháng 11 năm 1951 đến tháng 2- 1952. Phú Thọ đã huy động nhân lực liên
tiếp phục vụ 5 chiến dịch, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng”. Trong năm 1951, tỉnh đã huy động hơn 6 ngàn thanh niên lên đường
nhập ngũ, hơn 90 ngàn người tham gia dân quân, 8,6 ngàn người ra nhập lực
lượng du kích, 35.000 lượt người đi dân công, đóng góp 12 triệu ngày công
thường xuyên tham gia phục vụ các hoạt động tu sửa cầu đường, xay giã thóc
gạo, vận chuyển lương thực, thực phẩm, hàng hóa ra chiến trường.
Trong chiến dịch Trung Du, quân dân Phú Thọ được giao nhiệm vụ vừa
trực tiếp chiến đấu vừa phục vụ chiến đấu. Nhân dân Phú Thọ đã huy động
4.500 dân công phục vụ, đóng góp 3.600 cuốc, xẻng, 13 tấn bánh dày và
nhiều lương thực, thực phẩm khác cho bộ đội.
Trong chiến dịch Hòa Bình, Trung ương và Liên khu Việt Bắc giao
nhiệm vụ cho Phú Thọ chuẩn bị chiến dịch và tham gia chiến đấu. Toàn tỉnh
đã huy động 81000 lượt dân công, 3000 tấn gạo, 800 con lợn, 150 trâu bò thịt
cung cấp cho bộ đội và 300 chiếc thuyền để giúp các đơn vị hành quân qua
sông. Ngoài ra, nhân dân Phú Thọ còn quyên góp, gửi quà tặng cho các chiến
sỹ ngoài mặt trận trị giá trên 25 triệu đồng. [2, tr. 243]. Lực lượng dân công
67
còn phối hợp với lực lượng công binh mở mới và sửa chữa gấp tuyến vận tải
quân sự Phú Thọ - Đồn Vàng – Hòa Bình, làm mới nhiều tuyến đường nhỏ
với chiều dài hàng trăm km; xây dựng một số bến vượt, sân tránh xe cùng
hàng chục chiếc cầu phao ở nhiều địa điểm thuộc các huyện Cẩm Khê, Yên
Lập, Thanh Sơn; nhiều trạm, trại điều dưỡng thương binh được xây dựng,
hàng ngàn nữ dân công đưa đón thương binh về điều trị, an dưỡng, tận tình
chăm sóc sức khỏe để các chiến sỹ mau lành bệnh, trở về vị trí tiếp tục chiến
đấu.
Trong chiến dịch Tây Bắc, tỉnh Phú Thọ được Tổng cục Cung cấp giao
cho nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phục vụ chủ yếu cho đợt I của chiến dịch.
Với lòng yêu nước, căm thù giặc cao độ, trong thời gian chưa đầy một tuần lễ,
toàn tỉnh đã huy động được gần 30.000 dân công vận tải, 12.400 dân công sửa
chữa cầu đường, tu sửa 200km đường giao thông, bảo đảm giao thông thông
suốt, vận chuyển được 2.640 tấn gạo, 40 tấn muối cho chiến dịch. Ngoài ra,
nhân dân còn ủng hộ bộ đội và dân công tiền tuyến 275 con trâu bò làm thực
phẩm và 300 thuyền chuyên chở bộ đội và dân công vượt sông. Công tác bảo
đảm hậu cần đáp ứng được đúng kế hoạch. [2, tr. 245]
Sau thất bại ở chiến trường Tây Bắc, nhận thấy nguy cơ mất Thượng
Lào, thực dân Pháp đã tập trung quân xây dựng Sầm Nưa thành một vị trí
quan trọng, trực tiếp uy hiếp vùng Tây Bắc nước ta. Để đáp ứng yêu cầu của
tiền tuyến, tỉnh đã huy động 6.500 dân công, 110 xe đạp thồ, 630 chiếc
thuyền, cung cấp và vận chuyển 905 tấn gạo, 367 con trâu, bò và 353 con lợn
thịt, hàng trăm tấn vũ khí ra chiến trường phục vụ chiến dịch Thượng Lào [4,
tr.282]. Đây là chiến dịch phối hợp tác chiến giữa bộ đội ta với Pa thét Lào
truy kích địch ở Sầm Nưa. Dân công Phú Thọ đã sửa chữa, mở đường, làm
cầu phà trên nhiều địa hình phức tạp, đảm bảo kịp thời cho một lượng lớn xe
ra mặt trận. Lần đầu tiên, Đảng bộ cùng quân và dân Phú Thọ tham gia và
68
hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế. Trong thành tích chung đó, đoàn xe thồ
của tỉnh Phú Thọ đã vượt mức vận tải 32%, được Chính phủ tặng thưởng
Huân chương Chiến sỹ hạng Ba.
Trong điều kiện kháng chiến còn nhiều khó khăn, Tỉnh ủy đã chỉ đạo
các lực lượng vũ trang tăng cường khả năng tự cấp, tự túc, đồng thời vận
động nhân dân giúp đỡ thông qua các hình thức “Hội nuôi quân”, “Lọ gạo
nuôi quân”… Chỉ tính riêng sự giúp đỡ của nhân dân trong 6 tháng đầu năm
1951, toàn tỉnh đã huy động được 15.001.560 đồng, 75.757 kg gạo, 57.850 kg
thóc. Ngoài ra, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh còn trợ cấp thêm
7.323.881 đồng, 287.806 kg gạo cho bộ đội. Một số gia đình có điều kiện còn
chuẩn bị cả trâu, bò, lợn, gà, ủng hộ anh em cải thiện đời sống, đảm bảo sức
khỏe.
Nhằm huy động tối đa nhân tài, vật lực của hậu phương cho tiền tuyến,
ngày 19 tháng 8 năm 1953, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết nghị số 348-
QN/PT thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận của tỉnh với nhiệm vụ tìm hiểu
và nắm vững khả năng của địa phương để có kế hoạch huy động nhân tài, vật
lực cho chiến trường; đảm bảo giao thông vận tải thông suốt.
Cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1953, căn cứ tình hình địch ta trên
chiến trường, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn nhiệm
vụ quân sự Đông – Xuân 1953- 1954, quyết tâm phá Kế hoạch Nava, tiêu diệt
địch ở Điện Biên Phủ. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, được Trung ương Đảng phái về triển khai nghị quyết và giao nhiệm
vụ cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Phú Thọ. Đảng, Chính phủ giao
cho tỉnh nhiệm vụ đảm bảo vật chất cung cấp cho hướng A (hướng chính của
chiến dịch Điện Biên Phủ) với yêu cầu cao và khẩn cấp. Với khẩu hiệu “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Toàn tỉnh đã tập trung lực lượng cho
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết này.
69
Kết quả, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn tỉnh đã động viên được
1.434 thanh niên lên đường nhập ngũ, phân công và giao nhiệm vụ cho 17
huyện ủy viên, 20 cán bộ cơ quan quân sự và 70 cán bộ xã trực tiếp tổ chức
động viên, chỉ huy lực lượng dân công. Đồng thời, các địa phương trong tỉnh
đã huy động 69.335 người trực tiếp phục vụ chiến dịch, trong đó có 19.333
người là dân công hỏa tuyến (vượt mức 343 người). Tổng số dân công vận
chuyển gạo và tham gia các nhiệm vụ phục vụ chiến dịch là 261.500 người
(trong đó số dân công trực tiếp phục vụ chiến đấu là 113.337 người), 1.087
chiếc xe đạp thồ (vượt yêu cầu 137 chiếc), 80 xe trâu, xe ngựa của đồng bào.
Mặc dù lương thực, thực phẩm còn thiếu thốn, nhưng nhân dân đã đóng góp
4.318 tấn gạo (bằng 1/6 số gạo của cả chiến dịch), 141 tấn đỗ, lạc, vừng, 31
tấn đường, 4.149 con trâu bò cùng với nhiều loại thực phẩm khác cho chiến
dịch Điện Biên Phủ [1, tr. 301, 302]. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn,
tỉnh đã cử đoàn đại biểu mang các tặng phẩm như quần, áo ấm, chăn bông trị
giá trên 5 triệu đồng lên mặt trận để tặng các chiến sĩ.
Đây là một đóng góp lớn của Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ vào sự
nghiệp kháng chiến chung của dân tộc. Trong đó, chiến dịch Điện Biên Phủ là
sự hội tụ cao nhất với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,
là nơi biểu hiện rõ nhất sự đóng góp của hậu phương Phú Thọ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngành giao thông vận tải của tỉnh
cũng có những đóng góp tích cực. Nếu như trong giai đoạn đầu cuộc kháng
chiến, quân dân Phú Thọ phá đường để cản bước tiến của giặc, thực hiện phá
hoại để kháng chiến, thì đến năm 1951 tới đầu năm 1954, quân dân Phú Thọ
lại tích cực mở đường để tiến công giặc. Tính từ năm 1950 đến đầu năm
1954, nhân dân Phú Thọ đã sử dụng 33.704 ngày công và 8.425 mét khối đất
đá, lấp hơn 7000 hầm hào tác chiến trước đây, với chiều dài 165 km. Đồng
thời, nhân dân Phú Thọ còn tham gia 2.419.670 ngày công trên công trường
70
làm đường, rải đá với tổng chiều dài 321 km, làm thêm hàng trăm sân tránh
xe, đường tránh cầu, với tổng chiều dài 32 km. Nhân dân trong tỉnh còn bắc
lại 82 chiếc cầu trên đường ô tô với tổng chiều dài 476 mét. Trên những dòng
sông lớn như sông Đà, sông Lô, sông Hồng, quân dân trong tỉnh đã huy động
hàng nghìn ngày công, đóng 24 phà các loại có trọng tải từ 3 đến 14 tấn, 18
xuồng các loại từ 1 đến 2 tấn, tổng trọng tải khoảng 300 tấn, để chuyên chở
qua sông phục vụ nhu cầu quân sự. Tính chung trong 9 năm kháng chiến, để
phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, ngành giao thông vận tải của
tỉnh đã khai thông 448 km trên 25 con đường, bắc 57 cầu với tổng chiều dài
628 mét. [1, tr.234]
71
TIỂU KẾT CHƢƠNG II
Từ năm 1951 đến năm 1954, do có những nhận thức đúng đắn về vai
trò của hậu phương đối với tiền tuyến, nên Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng hậu phương vững mạnh trong cả nước.
Xây dựng có kết quả là do có bảo vệ tốt, đồng thời, nhờ có sự trưởng
thành mọi mặt trong xây dựng mà Phú Thọ có được sức mạnh để bảo vệ
mình, chống được thù trong, giặc ngoài. Do đó, bảo vệ hậu phương là cực kỳ
quan trọng, song quyết định nhất trong các nhiệm vụ của hậu phương, làm
cho hậu phương tồn tại và vững mạnh, là nhiệm vụ xây dựng hậu phương.
Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, quá trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương đã đạt
được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Những thành tựu đã đạt được đó là những điều kiện thuận lợi để Đảng
bộ động viên nhân dân trong tỉnh tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Kết quả đạt được trên tất cả các mặt của quân và dân Phú Thọ trong
xây dựng, bảo vệ hậu phương kháng chiến đã khẳng định sự lãnh đạo đúng
đắn của Trung ương Đảng, Chính phủ, các ngành, các cấp và sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ. Những thành
tích đó chứng tỏ sự cố gắng của quân dân Phú Thọ, khẳng định vai trò của
hậu phương Phú Thọ đối với cuộc kháng chiến trên địa bàn tỉnh cũng như đối
với cả nước. Đó là điều kiện và sức mạnh để quân và dân các dân tộc trong
tỉnh vượt qua thử thách mới, góp phần xứng đáng vào thắng lợi cuối cùng của
cuộc kháng chiến.
72
Chƣơng 3 MỘT SỐ NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM
3.1 Mô ̣t số nhâ ̣n xét
3.1.1 Những kết quả của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch ma ̣ng ở địa phương.
Xây dựng hậu phương phải đi đôi với bảo vệ hậu phương, muốn bảo vệ
được hậu phương vững chắc phải dựa trên cơ sở xây dựng hậu phương thắng
lợi. Xây dựng hậu phương vững mạnh và toàn diện bao gồm nhiều nội dung,
song đặc biệt chú trọng việc xây dựng cơ sở chính trị vững vàng, tiềm lực
kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu tại chỗ và sẵn sàng phục vụ chiến trường, các
lực lượng vũ trang đủ sức chiến đấu bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống.
Một thành công quan trọng trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược của tỉnh Phú Thọ là đã xây dựng được hậu phương vững mạnh toàn
diện. Bởi vì, hậu phương là một bộ phận quan trọng, giải quyết những vấn đề
cốt tử của chiến tranh nhân dân, đó là chỗ đứng chân và cung cấp sức người,
sức của cho kháng chiến. Trong lãnh đạo chiến tranh, Lênin đã từng nói:
“Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương
được tổ chức một cách vững chắc. Quân đội ưu tú nhất, những người bạn tận
tụy nhất đối với sự nghiệp cách mạng cũng sẽ bị quân thù tiêu diệt ngay, nếu
không được vũ trang, tiếp tế và huấn luyện đầy đủ”. [71, tr.23]
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, quân và dân Phú Thọ đã cùng nhau đoàn kết, khắc
phục mọi khó khăn, vượt qua gian khổ, xây dựng Phú Thọ thành một hậu
phương vững mạnh, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ đời sống nhân dân, vừa chi
viện ngày càng đắc lực cho tiền tuyến. Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ hậu phương trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa
xã hội.
73
Về chính trị
Đảng bộ tỉnh đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, đã
xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn
thể từng bước vững mạnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố hệ
thống chính trị được Đảng bộ tỉnh quan tâm và đạt được những kết quả quan
trọng.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Phú Thọ vừa chú trọng phát
triển số lượng, vừa coi trọng chất lượng đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng;
thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng
cao bản lĩnh chính trị của đảng viên. Sau Cách mạng Tháng Tám, toàn tỉnh
mới có 280 đảng viên; cuối năm 1947, toàn Đảng bộ có 1.122 đảng viên; cuối
năm 1948, phát triển lên được 5.493 đảng viên; qua 9 năm kháng chiến, Đảng
bộ Phú Thọ đã có đội ngũ cán bộ, đảng viên với số lượng 11.649 đảng viên,
được bố trí sinh hoạt và tham gia lãnh đạo các tổ chức ở các cấp, các ngành,
địa phương trong tỉnh. Qua các kỳ đại hội, các cuộc chỉnh đốn Đảng, Đảng bộ
tỉnh đã trưởng thành vượt bậc cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sức chiến
đấu của Đảng bộ ngày càng vững mạnh, tư duy và năng lực lãnh đạo ngày
càng cao, xây dựng được những chi bộ mạnh là lực lượng lãnh đạo và làm
nòng cốt trong chiến đấu.
Do xác định đúng vai trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất là trụ
cột cho khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng bộ Phú Thọ đã chú trọng xây dựng,
phát triển, củng cố Mặt trận Liên Việt của tỉnh, coi đây là hạt nhân đoàn kết
các ngành, các giới, thực hiện chủ trương “Đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương
giáo”, “chống âm mưu chia rẽ của địch”. Chủ trương này đã có tác động tích
cực đến công tác dân tộc miền núi, đến việc vận động lương giáo đoàn kết.
Trong suốt 9 năm kháng chiến, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ đã
đoàn kết, tập hợp đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận. Mặt trận đã tuyên
74
truyền, phổ biến chính sách của Đảng đến từng người dân, làm cho dân hiểu
rõ và thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ đề ra. Mặt trận thực sự
là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền. Nhờ xây dựng khối đoàn kết
toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, quân và dân trong tỉnh đã làm thất
bại âm mưu chia rẽ lương, giáo, lập “xứ Mường tự trị” và làm thất bại chủ
trương chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt” của địch. Cuộc chiến đấu của nhân dân Phú Thọ, đã góp phần
xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã trở thành một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên quê
hương Đất Tổ.
Về kinh tế
Do có vùng tự do rộng lớn, trong kháng chiến Phú Thọ trở thành “kho
người, kho của” của chiến khu Việt Bắc. Chín năm kháng chiến và thực hiện
nhiệm vụ hậu phương ở Phú Thọ là chín năm thắng lợi của nhiệm vụ xây
dựng kinh tế hậu phương với phương châm tự lực cánh sinh. Phú Thọ đã đồng
thời thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.
Vì thế, Phú Thọ đã đạt được những thắng lợi lớn, khẳng định bước trưởng
thành vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh.
Để đảm bảo cho nhu cầu kháng chiến, Đảng bộ tỉnh đã đề ra các chủ
trương, biện pháp lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đầu cuộc kháng
chiến, Tỉnh ủy, UBKCHC tỉnh đã động viên toàn dân tăng gia sản xuất tự cấp,
tự túc, đưa mức sản xuất lên cao, đặc biệt là chú trọng phát triển kinh tế nông
thôn để giải quyết nhu cầu về ăn, mặc và các mặt đời sống của nhân dân. Các
ban ngành, đoàn thể vận động quần chúng vừa phát triển sản xuất để có nguồn
dự trữ kinh tế, vừa bao vây phá hoại kinh tế của địch. Năm 1950, Tỉnh ủy đã
75
có nghị quyết phát triển kinh tế địa phương, vận động nhân dân tăng gia sản
xuất, phát triển sản xuất, sử dụng nhân công, cải tiến kỹ thuật, bảo vệ sản
xuất. Các chủ trương về kinh tế, tài chính và những biện pháp cụ thể đã trở
thành đòn bẩy thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Thành tích lớn nhất
của sản xuất nông nghiệp ở Phú Thọ trong kháng chiến là đã thực hiện được
nhiệm vụ chiến lược đề ra từ ngày đầu kháng chiến: “Tăng gia sản xuất, thực
hiện tự cấp, tự túc, bảo đảm cung cấp cho nhu cầu của nhân dân và đóng góp
cho kháng chiến”.
Sự trưởng thành về mọi mặt của Phú Thọ đánh dấu bằng kết quả bảo
đảm huy động lực lượng lớn về người và của cho chiến trường. Trong kháng
chiến, mặc dù lương thực, thực phẩm trong nhân dân còn thiếu thốn, khó
khăn, nhưng với tinh thần tất cả cho chiến thắng, từ năm 1946 đến năm 1954,
nhân dân Phú Thọ đã đóng góp cho kháng chiến 64.000 tấn thóc và 7.111
triệu đồng quy thành thóc, tất cả là 106.600 tấn, tiếp tế cho các chiến dịch 706
tấn thịt, “riêng chiến dịch Điện Biên Phủ nhân dân Phú Thọ đã đóng góp
4.318 tấn gạo, (bằng 1/6 số gạo của cả chiến dịch), cung cấp 141 tấn lạc, 31
tấn đường, 4149 con trâu, bò và khoảng hơn 334,141tấn thịt lợn”.[1, tr.301,
302]
Về văn hóa xã hội
Trải qua 9 năm kháng chiến, phong trào xây dựng đời sống mới ngày
càng phát triển, nhiều phong tục, tập quán lạc hậu của chế độ cũ dần dần được
xóa bỏ. Ngành giáo dục của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Trong điều
kiện kháng chiến gian khổ, các trường học được mở rộng, số giáo viên và học
sinh được nâng lên. Nếu như năm học 1946- 1947, toàn tỉnh mới có 236 lớp
với 126 giáo viên và 4.623 học sinh, thì đến năm học 1952- 1953 toàn tỉnh đã
có 157 trường học phổ thông các cấp với 346 giáo viên và 20.902 học sinh.
Chất lượng dạy và học đã được nâng lên một bước.
76
Đội ngũ cán bộ y tế được bổ sung và thường xuyên được bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, nhờ đó, sức khỏe của cán bộ, nhân dân và lực lượng
vũ trang được chăm sóc chu đáo hơn.
Với vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh trong kháng chiến, tỉnh
Phú Thọ luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng và
Chính Phủ, lại có điều kiện mở rộng quan hệ với các tỉnh bạn, cùng các cơ
quan dân chính Đảng của Trung ương và đồng bào các nơi hội tụ về, sự giao
lưu văn hóa giữa các tầng lớp công, nông, binh, trí thức làm cho dân trí của
tỉnh được nâng lên và đời sống tinh thần cũng được bổ sung phong phú.
Về quân sự
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơ
quan chỉ huy quân sự các cấp được thành lập. Đầu năm 1946, đại đội cảnh vệ
ở tỉnh được thành lập, năm 1949, bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ ra đời. Cuối
giai đoạn kháng chiến chống Pháp, toàn tỉnh đã xây dựng được 2 tiểu đoàn bộ
đội chủ lực của tỉnh, các trung đội, đại đội bộ đội địa phương huyện và một
lực lượng dân quân du kích rộng khắp ở tất cả các làng xã, thôn bản.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Phú Thọ là cửa ngõ quan
trọng để bảo vệ chiến khu Việt Bắc và Tây Bắc, tuy còn rất khó khăn về vũ
khí, kỹ thuật, nhất là đời sống vật chất, nhưng quân dân Phú Thọ đã sát cánh
cùng bộ đội chủ lực, chống địch càn quét, diệt tề trừ gian, đột kích đồn giặc,
bảo vệ hậu phương, góp phần lập nên những chiến công vang dội trong cả
nước: Trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, quân dân Phú Thọ đã
bố trí lực lượng chặn đánh cuộc hành quân càn quét của địch lên chiến khu
Việt Bắc bằng đường thủy, làm nên chiến thắng Đoan Hùng trên sông Lô
ngày 24 tháng 10 năm 1947. Phú Thọ đã phối hợp tốt với các đơn vị chủ lực
của Bộ và liên khu trong chiến dịch Trung Du (cuối năm 1950 đầu năm
1951). Tháng 12 năm 1951, Phú Thọ đã phục vụ tốt việc đưa các đoàn quân
77
vượt sông Đà chiến đấu, làm nên chiến thắng Tu Vũ trong chiến dịch Hòa
Bình. Tiếp đó, quân dân Phú Thọ lại phối hợp chiến đấu đánh bại cuộc hành
quân Lo-ren của thực dân Pháp, càn quét, phá hoại vùng tự do khi ta mở chiến
dịch Tây Bắc tháng 11 năm 1952. Ngày 17 tháng 11 năm 1952, đội hình hành
quân của Pháp lọt vào trận địa phục kích của ta ở Chân Mộng – Trạm Thản,
quân dân Phú Thọ đã phối hợp với Trung đoàn 36 Bắc – Bắc, thuộc Đại đoàn
308 Quân Tiên phong, đánh địch giành thắng lợi. Ở chiến trường Tây – Nam
tỉnh và ở các chiến trường tỉnh Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Nghĩa Lộ, Sơn La, lực
lượng vũ trang tỉnh đã cùng tham gia với bộ đội chủ lực và các tỉnh bạn chiến
đấu dũng cảm, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, giải phóng quê hương.
Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, quân dân Phú Thọ đã bảo đảm tốt
việc vận chuyển và phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trong kháng chiến, tỉnh đã huy động lực lượng lớn về người và của cho
chiến trường, toàn tỉnh Phú Thọ có 4 vạn người tham gia bộ đội chủ lực, 1
vạn người tham gia các đội xung phong công tác; 15 ngàn người tham gia các
đơn vị bộ đội địa phương; hàng chục vạn người là dân quân du kích; đã huy
động được 1.657 ngàn lượt người đi dân công trực tiếp phục vụ các chiến
dịch, tương đương với 23 triệu ngày công; lực lượng vũ trang trong tỉnh trực
tiếp chiến đấu và tham gia chiến đấu 614 trận, tiêu diệt và bắt sống gần 5000
tên địch; thu và phá hỏng nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự của địch”.[69,
tr.119, 120]
Tổng kết 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, có thể khẳng định,
Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ luôn làm tốt nhiệm vụ bảo đảm huyết mạch
giao thông quan trọng nối liền Việt Bắc, Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và chi
viện mọi mặt cho cuộc chiến đấu của quân dân Lào anh em trong những năm
kháng chiến.
78
3.1.2 Những h ạn chế của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch ma ̣ng ở đi ̣a phương.
Trong quá trình Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương ở
tỉnh Phú Thọ, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn có những hạn chế
nhất định:
Công tác phát triển Đảng trong những năm 1947- 1948 còn chạy theo
số lượng, chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Điều này, Trung ương đã phê
bình trong Hội nghị cán bộ lần thứ năm, họp tháng 8 năm 1948, là “Ở Bắc Bộ,
một số địa phương còn mắc bệnh phát triển bừa bãi, nên hàng ngũ Đảng ở
những nơi này còn lỏng lẻo, chi bộ hết sức non, có nhiều đồng chí kém tinh
thần, kém ý thức, vào Đảng mà chưa biết Đảng là gì, thậm chí có đồng chí coi
Đảng như một hội hiếu hỷ, xin ra Đảng, cho con vào Đảng. Tình trạng này
xảy ra ở các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Khu 10).
Ở Phú Thọ, số đồng chí dự bị gần gấp ba số đồng chí chính thức hồi
đầu năm. Đây là một hiện tượng trái lại với nhiều tỉnh miền Trung Nam Bộ. Ở
hai huyện Hạ Hòa và Thanh Ba, vì cán bộ chủ trương ra chỉ thị định mức phát
triển quá đáng nên cấp dưới thi hành máy móc (định hạn tổ chức gấp ba, gấp
bốn đồng chí cũ sau 3 tháng). Vì vậy ở một vài chi bộ, số đồng chí dự bị gấp
mười số đồng chí chính thức. Việc phát triển quá bừa bãi này đã trở thành một
cuộc mở rộng cửa Đảng để kết nạp hết các tầng lớp, đến nỗi có những phần tử
lưu manh và mật thám cũ của Pháp cũng chui vào tổ chức.”…[2, tr. 174]
Việc xây dựng và mở rộng Mặt trận đoàn kết toàn dân, vận động quần
chúng trong tỉnh cũng còn những hạn chế. Đó là, trong quá trình xây dựng và
phát triển các tổ chức quần chúng, Đảng bộ chưa chú ý đầy đủ những vùng
phong trào cách mạng còn yếu, nhất là vùng có đồng bào dân tộc ít người như
Thanh Sơn, Yên Lập… Việc lãnh đạo hoạt động của các đoàn thể quần chúng
79
còn chạy theo số lượng, chỉ chú ý công tác phong trào… do đó, chất lượng
hoạt động còn nhiều hạn chế.
Năm 1951, trong thời kỳ thu thuế nông nghiệp, cán bộ làm công tác
thuế của tỉnh thiếu kinh nghiệm nên định mức thuế không sát; việc chỉnh lý
sửa đổi mức thuế diễn ra nhiều lần, thậm chí có những sơ hở, chưa đảm bảo
công bằng, làm cho một số hộ nông dân thiếu tin tưởng, số thất thu còn lớn.
Trong quá trình đấu tranh kinh tế với địch, Đảng bộ tỉnh chưa lãnh đạo
phối hợp giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị và quân sự nên hiệu
quả đấu tranh còn thấp.
Trong việc huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến, chế độ, chính
sách dân công và huy động nhân công có những điều không hợp lý như: trong
chiến dịch Hòa Bình, Phú Thọ phải huy động dồn dập, tràn lan, không thời
hạn. Riêng dân công thường trực tới 15000 người, chưa kể dân công làm
đường, xay, giã, vận chuyển, vừa lãng phí vừa ảnh hưởng tới sản xuất.
Tuy còn một vài hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung Đảng bộ Phú
Thọ đã lãnh đạo và giải quyết thành công vấn đề thực hiện nhiệm vụ hậu
phương trên địa bàn tỉnh. Đảng bộ tỉnh không những có chủ trương đúng mà
còn có biện pháp thực hiện linh hoạt, phản ánh sự nhận thức đúng đắn đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế, hậu phương
Phú Thọ đã đáp ứng và đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc.
3.2 Kinh nghiê ̣m
Căn cứ vào đặc điểm tình hình về chính trị, xã hội, dân cư, tiềm lực
kinh tế, quân sự của Phú Thọ và căn cứ vào những kết quả, hạn chế của Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cách mạng ở
địa phương, xin nêu ra một số kinh nghiệm sau:
80
3.2.1 Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định thắng lợi của
chiến tranh, vì vậy dù ở thời chiến hay thời bình đều phải nhận thức đúng
đắn quan điểm đó.
Vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà quân sự
đánh giá cao và yêu cầu những người lãnh đạo quốc gia, những người cầm
quân phải quan tâm thường xuyên trong thời chiến cũng như thời bình. Có
nhận thức được như vậy mới tạo nên ý thức, cơ sở khoa học để đề ra đường
lối, chủ trương đúng đắn trong xây dựng tiềm lực mọi mặt của hậu phương,
bảo đảm cho hậu phương đánh thắng các cuộc tấn công lấn chiếm, phá hoại
của địch, đồng thời có điều kiện để chi viện tiền tuyến, bảo đảm cho tiền
tuyến chiến thắng. Bởi lẽ, chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi
bên tham chiến, trong đó hết thảy lực lượng đều bị thử thách, bị tiêu hao, nên
đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển, nhằm đánh bại đối phương để giành
chiến thắng. Cơ sở vật chất của đất nước mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu
thốn là điều kiện quan trọng, quyết định và có tác động rất lớn đến thắng hay
bại của chiến tranh. Tuy nhiên, sức mạnh của hậu phương không chỉ dựa trên
những chỉ số kinh tế, dựa vào mức sống, trình độ hiểu biết khoa học kĩ thuật
của con người, cũng như vũ khí và trang bị kĩ thuật của quân đội, mà còn dựa
trên nhiều yếu tố khác nhau nữa. Bởi vì, mặc dù hậu phương có một vai trò
quan trọng trong việc quyết định thắng lợi hay thất bại của chiến tranh, song
so sánh lực lượng hậu phương của hai bên, giải quyết vấn đề hậu phương, xây
dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương như thế nào, lại không phải là
một vấn đề đơn thuần mang tính số học. Hậu phương có thể chuyển hoá từ
yếu sang mạnh, hoặc ngược lại. Cách huy động lực lượng của hậu phương là
một vấn đề quan trọng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của
chiến tranh, trình độ giác ngộ của con người, năng lực xử lý các vấn đề liên
quan đến chiến tranh...
81
Muốn hậu phương động viên được sức người, sức của cho kháng chiến,
đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về chính trị, tinh thần cho các lực lượng
chiến đấu trên chiến trường, phải trải qua một quá trình xây dựng, từng bước
phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong quá trình đó, hậu
phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn tinh thần,
mới có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. Mặt khác,
phải chú ý các đặc điểm của chiến tranh hiện đại để có sự kết hợp kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế từ thời bình, chuẩn bị và dự trữ tiềm lực
cho chiến tranh từ trước khi chiến tranh xảy ra.
Hậu phương nói ở đây là các huyện, thành, thị, xã, phường, thị trấn
trong tỉnh Phú Thọ; còn tiền tuyến là tất cả nơi nào địch đến, nơi nào có lực
lượng phản động phá hoại, quân và dân địa phương phải tác chiến tiêu diệt
chúng. Hậu phương là nơi sản xuất, công tác, xây dựng lực lượng vũ trang địa
phương, nơi cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến chiến đấu và chiến
thắng. Xây dựng hậu phương Phú Thọ là xây dựng toàn tỉnh và từng huyện,
từng xã vững mạnh toàn diện để bảo vệ địa phương, bảo vệ căn cứ quân sự,
bảo đảm sự chỉ đạo và chỉ huy thông suốt và để giải quyết hậu cần tại chỗ cho
lực lượng vũ trang chiến đấu ngay cả trong tình huống chiến tranh, địa bàn bị
chia cắt.
Xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu phương chiến tranh trong chiến lược
bảo vệ Tổ quốc là xây dựng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của các tỉnh,
thành phố và của cả 54 dân tộc anh em, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quyết tâm bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, không khuất phục trước mọi hành động xâm lược của kẻ thù. Do đó,
ngay trong thời bình, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ phải tích cực và chủ động kiểm
tra, rà soát lại các căn cứ địa cách mạng, các hang động có thể sử dụng làm
kho tàng, nơi sản xuất, đóng quân..., tổ chức củng cố, xây dựng, chuẩn bị hậu
82
phương chu đáo, đồng bộ với các hoạt động phòng, chống “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; bảo
đảm đủ các yếu tố vật chất, tinh thần, tiềm lực mọi mặt phục vụ chiến đấu lâu
dài, duy trì được sức chiến đấu trong quá trình chiến tranh. Xây dựng và thực
hiện nhiệm vụ hậu phương ở Phú Thọ phải tiến hành từ cơ sở, bằng các giải
pháp xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, trên cơ sở xây dựng các khu vực
phòng thủ vững chắc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân và nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh, phải kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với qui hoạch
xây dựng khu vực phòng thủ, nhằm chuẩn bị hậu phương tại chỗ cho chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.
3.2.2 Để xây dựng hậu phương vững mạnh, phải đảm bảo và phát
huy mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt.
Xây dựng, bảo vệ hậu phương đồng nghĩa với xây dựng, bảo vệ chế độ
xã hội ưu việt, tạo nên tiềm lực kinh tế, quân sự ngày càng to lớn, là xây dựng
đất đứng chân, nơi cổ vũ chính trị, tinh thần cho tiền tuyến, do đó phải có lực
lượng lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh sáng suốt, có tổ chức chặt chẽ. Muốn vậy,
phải xây dựng được Đảng bộ vững mạnh, đội ngũ đảng viên đông về số
lượng, có phẩm chất, năng lực tốt. Cùng với việc xác định quyết tâm, đề ra
chủ trương, đường lối chiến lược chung đúng đắn, phải coi trọng công tác xây
dựng Đảng, đồng thời ra sức phát huy vai trò, hiệu lực của chính quyền, của
các đoàn thể nhân dân các cấp, để thông qua đó tổ chức, vận động toàn dân
xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến.
Địa bàn Phú Thọ ít xảy ra chiến tranh, để xây dựng hậu phương vững
mạnh, cùng với việc tăng cường đoàn kết toàn dân, ra sức động viên, giáo dục
chính trị, bồi dưỡng vật chất cho nhân dân, coi đó là nhân tố cơ bản bảo đảm
cho thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền
tuyến, Phú Thọ còn chú trọng công tác xây dựng Đảng, đảm bảo và phát huy
83
mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ trong việc xây dựng hậu phương
về mọi mặt. Bởi vì, tinh thần, ý thức giác ngộ cao và lợi ích kinh tế, văn hóa
tuy cơ bản, nhưng chưa thể đủ để đánh thắng quân địch có vũ trang và các thủ
đoạn xảo quyệt. Do đó, Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo phong trào
cách mạng ở địa phương. Đảng bộ Phú Thọ luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng
lên hàng đầu, công tác xây dựng Đảng luôn được coi trọng, củng cố và xây
dựng. Những chi bộ, tổ Đảng chính là nòng cốt thực hiện khẩu hiệu “mỗi làng
xóm là một pháo đài”. Trong kháng chiến có hai loại chi bộ quan trọng nhất,
hàng ngày đối mặt và chiến đấu với địch, đó là chi bộ đại đội trong các đơn vị
vũ trang và chi bộ xã vùng sau lưng địch.
Trong kháng chiến, Đảng bộ đã quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng,
bồi dưỡng lòng yêu nước, chí căm thù giặc, nâng cao giác ngộ giai cấp, giác
ngộ lý tưởng cộng sản cho từng đảng viên, cổ vũ đảng viên nêu cao dũng khí
và phẩm chất cách mạng, cho nên dù khó khăn gian khổ, hy sinh đến mấy
nhưng mỗi đảng viên vẫn tự phấn đấu học hỏi, phát huy trí tuệ, luôn tiên
phong trong chiến đấu và công tác, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng. Các tổ chức Đảng luôn được củng cố, nâng cao chất lượng và
được thử thách trong chiến đấu. Nhiều chi bộ, tổ Đảng bị địch khủng bố, chà
đi xát lại; nhiều đảng viên bị địch tra tấn dã man nhưng vẫn trung thành với
sự nghiệp cách mạng, luôn bám đất, bám dân để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo
quần chúng đấu tranh đến ngày thắng lợi.
Trong công tác xây dựng Đảng, có thể nói đây là thành công lớn, có ý
nghĩa quyết định mọi thắng lợi của Phú Thọ trong kháng chiến. Kinh nghiệm
của Đảng bộ Phú Thọ là vừa chú trọng phát triển số lượng, vừa coi trọng chất
lượng đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng, tránh chạy theo số lượng đơn
thuần, phát triển đảng viên phải đi đôi với củng cố tổ chức Đảng, Đảng bộ
84
Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, nâng cao bản lĩnh chính trị của đảng viên. Điều quan trọng là phải chú ý
đấu tranh, khắc phục các xu hướng bao biện, “tả” khuynh, hữu khuynh, quan
liêu mệnh lệnh, hẹp hòi… tăng cường đoàn kết nội bộ. Chính sự quan tâm đó
đã xây dựng được những chi bộ mạnh, là lực lượng lãnh đạo và làm nòng cốt
trong chiến đấu, là linh hồn của các phong trào ở địa phương.
Song song với công tác xây dựng Đảng, việc củng cố bộ máy chính
quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp ở Phú Thọ luôn được chú ý. Trong xây
dựng chính quyền, kinh nghiệm của Phú Thọ là phải thường xuyên làm cho
chính quyền sâu sát với nhân dân, “mưu lợi cho dân”, theo hướng “chính
quyền của dân, do dân, vì dân”. Vì vậy, những người không đủ năng lực,
phẩm chất đạo đức bị sa sút, thoái hóa, biến chất… được đưa ra khỏi vị trí,
thay vào đó là những cán bộ, đảng viên ưu tú. Từ đó, hệ thống tổ chức chính
quyền Mặt trận và các đoàn thể của tỉnh ngày càng vững mạnh.
3.2.3 Căn cứ vào đặc điểm dân tộc, xã hội và chính trị của tỉnh,
muốn xây dựng hậu phương kháng chiến, Phú Thọ phải giữ vững ổn định
chính trị, coi trọng bồi dưỡng sức dân, mở rộng khối đoàn kết toàn dân.
Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng các thủ đoạn bạo lực. Vì
vậy, thắng lợi của cuộc chiến tranh chủ yếu là do việc quân đội đánh bại kẻ
địch trên chiến trường quyết định. Để thực hiện được điều đó phải làm cho
quân đội của ta có sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần cao hơn sức mạnh
của quân đội đối phương. Song, bản thân quân đội không thể tự tạo ra cho
mình tất cả những sức mạnh đó. Sức mạnh của quân đội, sức mạnh của lực
lượng vũ trang trên chiến trường phụ thuộc và bắt nguồn cơ bản từ sức mạnh
mà nó dựa vào, đó là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của hậu phương.
Nắm vững quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quán
triệt quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, muốn xây dựng hậu phương
85
vững mạnh, toàn diện, trước hết phải đoàn kết toàn dân, “lấy dân làm gốc”,
tăng cường bồi dưỡng sức dân. Bởi vì, nhân dân chính là lực lượng chủ yếu
để xây dựng và bảo vệ hậu phương trong kháng chiến. Do đó, các chủ trương,
chính sách của Đảng đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lắng nghe nguyện
vọng, ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Khi hậu phương thực hiện được tốt
nhất việc bồi dưỡng sức dân thì cũng là lúc huy động được cao nhất sức
người, sức của cho tiền tuyến đánh giặc, khi hậu phương được xây dựng và
bảo vệ vững chắc nhất thì cũng là lúc mặt trận mở được những cuộc tấn công
quy mô lớn nhất đối với quân địch. Chính vì vậy, Đảng bộ Phú Thọ đã ra sức
giáo dục, tổ chức nhân dân, đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến ở hậu
phương, có kế hoạch bồi dưỡng sức dân, phát triển kinh tế gắn với xây dựng
cơ sở, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, trên cơ sở đó mà
bồi bổ, xây dựng và tích trữ lực lượng cả về nhân tài, vật lực. Đây là một bí
quyết thành công của hậu phương Phú Thọ trong kháng chiến. Biểu hiện cụ
thể, sinh động cho chủ trương, biện pháp và thành công đó của Phú Thọ là đã
nêu cao và kết hợp giải quyết đúng, có hiệu quả khẩu hiệu “Độc lập dân tộc”
và “Người cày có ruộng” trong quá trình xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi
viện tiền tuyến. Chính việc đề cao và giải quyết tốt những khẩu hiệu đó mà
Phú Thọ vừa tranh thủ, đoàn kết được toàn dân, vừa từng bước bồi dưỡng
được sức dân, nhất là nông dân lao động, lực lượng đông đảo, chủ yếu ở hậu
phương.
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã sớm nhận thức đúng tầm quan trọng của việc
xây dựng hậu phương, căn cứ địa của cuộc chiến tranh nhân dân, nơi cung cấp
sức người, sức của cho tiền tuyến, căn cứ vào tình hình địa phương khi thực
dân Pháp đánh lên Phú Thọ, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính đã đề
ra nhiều chủ trương và biện pháp đúng đắn, xây dựng và phát triển lực lượng
về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Địa phương nào cũng tổ chức lực
86
lượng kháng chiến. Vùng tạm chiếm xây dựng các khu du kích làm chỗ đứng
chân, bám đất, bám dân để chỉ đạo phong trào. Vùng giáp ranh và vùng tự do
xây dựng thành hậu phương vững chắc, làm chỗ dựa để đẩy mạnh cuộc kháng
chiến lâu dài.
Do có vùng tự do rộng lớn, trong kháng chiến, Phú Thọ trở thành “kho
người, kho của” của chiến khu Việt Bắc, là nơi có nhiều kho tàng, nhiều
xưởng sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp. Mặt khác, để đảm bảo cho nhu cầu
“ăn no, mặc ấm, đánh khỏe” của cuộc kháng chiến, Đảng bộ, chính quyền tỉnh
đã đề ra các chủ trương, biện pháp lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp với
trọng tâm là vấn đề lương thực, sau đó mới đến thủ công nghiệp, thương
nghiệp, giao thông vận tải và công nghiệp quốc phòng.
Xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế theo phương châm phục
vụ kháng chiến, kinh nghiệm của Phú Thọ là “lấy sức dân mà làm lợi cho
dân”, “dựa vào dân, củng cố tổ chức, đề cao chất lượng”, Tỉnh ủy và Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh đã lãnh đạo, xây dựng được khối đoàn kết toàn
dân. Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập trên cơ sở liên minh công
nông, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Mặt trận Liên Việt tỉnh Phú Thọ
đã chứng tỏ và khẳng định là một tổ chức rộng rãi, thực hiện sự thống nhất
hành động, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành phần dân tộc, đảng phái,
đoàn thể, làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng tổ chức, quản lý điều
hành công việc kháng chiến đạt kết quả tốt. Mặt trận Liên Việt của tỉnh thực
hiện chủ trương “đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo”, “chống âm mưu
chia rẽ của địch”, đoàn kết trên cơ sở liên minh công nông, được thể hiện
trong cuộc vận động quần chúng, chú ý thành phần cơ bản, tăng cường giáo
dục, cải tạo tầng lớp trên. Những phần tử đối địch hoặc những người lầm
đường làm tay sai cho giặc đều được vận động thuyết phục, giáo dục và
khoan hồng, đưa họ vào hàng ngũ quần chúng kháng chiến.
87
Trên cơ sở xác định đúng vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất
là trụ cột cho khối đoàn kết toàn dân, Đảng bộ Phú Thọ luôn quan tâm xây
dựng và củng cố tổ chức quần chúng rộng rãi này. Tỉnh ủy đã coi nhân tố con
người là trung tâm của đường lối kháng chiến, vì vậy, trong suốt 9 năm kháng
chiến, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ đã đoàn kết, tập hợp được
đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận. Mặt trận đã tuyên truyền, phổ biến
chính sách của Đảng, chính quyền đến từng người dân, làm cho dân hiểu rõ
và thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ đề ra. Mặt trận thực sự là
cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền.
Nhờ những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó, quân và dân trong tỉnh
đã làm thất bại âm mưu chia rẽ lương giáo, lập “xứ Mường tự trị” và làm thất
bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt” của địch. Trong những năm kháng chiến, nhân dân Phú Thọ, tuyệt đại
đa số là nông dân, đã nghe theo tiếng gọi cứu nước thiêng liêng của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trong
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, với tinh thần “tương thân, tương ái”, nhân dân
Phú Thọ đã tự giác chịu đựng mọi thiếu thốn “thắt lưng, buộc bụng”, để
“nhường cơm, sẻ áo” cho quân dân các chiến trường và giúp đỡ hàng vạn
đồng bào tản cư, động viên chồng con, anh em đi đánh giặc. Khi địa phương
bị kẻ địch tấn công, nhân dân Phú Thọ đã cùng bộ đội kiên quyết chiến đấu để
bảo vệ vùng đất không chỉ là quê hương của mình mà còn là một vùng hậu
phương chiến lược quan trọng của cả nước. Cuộc chiến đấu của nhân dân Phú
Thọ đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược.
88
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phát
huy thế mạnh của địa phương, Phú Thọ cần tích cực, chủ động xây dựng
tiềm lực chính trị, kinh tế, quốc phòng… ngày càng lớn mạnh.
Hiện nay, khi Tổ quốc đã độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã
hội, việc xây dựng và bảo vệ hậu phương cũng có nghĩa là xây dựng và bảo
vệ đất nước, là kết hợp kinh tế với quốc phòng, kết hợp sức mạnh chung của
cả nước với sức mạnh tại chỗ của các địa phương. Muốn cho hậu phương cả
nước được vững mạnh phải làm cho từng địa phương, từng khu vực trở thành
những vùng có kinh tế và quốc phòng vững mạnh.
Tỉnh Phú Thọ có vị trí đặc biệt đối với cả nước, nơi Vua Hùng mở đầu
dựng nước, đặt thủ đô đầu tiên của nước ta ở đây. Phú Thọ là tỉnh có thế “Sơn
chầu, thủy tụ”, dồi dào “khí thiêng sông núi”, đất của thế dựng nước và giữ
nước, của các di tích lịch sử, của các danh thắng, của nền văn hóa dân gian
đặc sắc. Nơi đây, cảnh đẹp hữu tình, với núi rừng bạt ngàn, sông suối chằng
chịt và những dải đồng bằng màu mỡ. Phía trước có 3 con sông lớn từ 3
hướng đổ về tụ hội, phía sau có núi đồi điệp trùng bọc đỡ, bốn bề đều có
thành vách thiên nhiên che chắn đã làm cho Phú Thọ trở thành địa bàn có thế
chiến lược quan trọng “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Mặt khác, Phú
Thọ là một tỉnh gồm 21 dân tộc anh em sinh sống, là nơi “đất lành, chim
đậu”, trong lịch sử đã có nhiều cư dân từ mọi miền đất nước đến sinh cơ lập
nghiệp, tuy nhiên Phú Thọ ít có biến động, xung đột dân tộc. Từ bao đời nay,
nhân dân trong tỉnh luôn giữ gìn và phát huy được những truyền thống quý
báu của ông cha: “Giàu sáng tạo trong lao động, giàu khí phách trong đấu
tranh, giàu nhân ái trong lối sống”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, đây lại là vùng
căn cứ địa của Cách mạng Tháng Tám, là địa đầu của vùng tam giác chiến
lược trung du và châu thổ sông Hồng. Với tinh thần đoàn kết để bảo vệ cộng
đồng và cùng chống giặc ngoại xâm, trải qua hàng ngàn năm đã hun đúc nên
89
những kinh nghiệm, truyền thống quân sự, “Mùa Đông binh sĩ” được các thế
hệ cư dân Phú Thọ nối tiếp, giữ gìn và phát huy. Trong giai đoạn hiện nay,
Phú Thọ vẫn là một địa bàn chiến lược trọng yếu cả về phương diện kinh tế
lẫn quốc phòng – an ninh. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng và phát
triển vùng đất này như thế nào cho phù hợp với quy luật “dựng nước phải đi
đôi với giữ nước”?.
Ở Phú Thọ, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quy hoạch và
phát triển địa phương, vấn đề xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, xây
dựng khu vực phòng thủ của tỉnh trở thành một trong những nhiệm vụ chính
trị trung tâm của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Nhiệm vụ ấy đặt ra yêu cầu
phải nghiên cứu vấn đề xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu phương trong quá
khứ để tìm ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử
mới.
Đảng bộ, chính quyền Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng các
lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Đảng bộ tỉnh chăm lo đào tạo đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu của tỉnh và góp phần cung cấp cán bộ cho Trung ương,
tăng cường mối liên hệ giữa tỉnh và các cán bộ Phú Thọ công tác ở Trung
ương và các địa phương khác, tạo thêm điều kiện mới để phát triển kinh tế,
văn hóa của tỉnh.
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trước
tiên phải làm tốt việc củng cố thế trận lòng dân, củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh với những
quan điểm sai trái, tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng và nhân dân,
giữa quân và dân. Quân đội và Công an đoàn kết, kiên quyết thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng là một khâu quan trọng để xây dựng thế trận lòng
90
dân, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố khu vực phòng
thủ của tỉnh. Chăm lo xây dựng các cơ quan quân sự trong tỉnh, tổ chức diễn
tập theo kế hoạch của Quân khu, huấn luyện quân dự bị, bảo vệ các khu căn
cứ cũ là thiết thực tăng cường khu vực phòng thủ của tỉnh.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế, chăm lo cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ chính là thiết thực tăng cường tiềm lực
để giữ nước. Bên cạnh đó, để có nền quốc phòng mạnh, có thế trận chiến
tranh nhân dân vững chắc, phải làm cho Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ
trang nhận rõ vị trí địa bàn chiến lược của tỉnh, tiềm năng của tỉnh trong thời
kỳ đổi mới, vượt qua mọi thử thách, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch.
Những vấn đề nêu trên cũng chính là những nội dung cốt lõi của xây
dựng khu vực phòng thủ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện những nội dung đó, phải huy động được sức mạnh tổng hợp trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học công nghệ… Đây
là những yêu cầu mới đối với Phú Thọ. Để thực hiện thành công những nhiệm
vụ này, Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ cần đúc rút kinh nghiệm và vận dụng
sáng tạo những bài học kinh nghiệm về việc thực hiện nhiệm vụ hậu phương
trong kháng chiến vào sự nghiệp cách mạng hiện nay.
91
KẾT LUẬN
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), một cuộc chiến
tranh nhân dân thần thánh vì độc lập, tự do, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, quân và dân Phú Thọ đã cùng nhau đoàn kết, khắc
phục mọi khó khăn, vượt qua gian khổ, xây dựng Phú Thọ thành một hậu
phương vững mạnh, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ đời sống nhân dân, vừa chi
viện ngày càng đắc lực cho tiền tuyến. Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ hậu phương trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa
xã hội để không ngừng đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường.
Tại hậu phương Phú Thọ, lực lượng dự bị được xây dựng và tăng
cường, sẵn sàng cơ động ra chiến trường, phối hợp thực hiện các đòn đánh
lớn, có tác dụng làm xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho ta và bất lợi
cho đối phương. Trong các giai đoạn của chiến tranh, hậu phương Phú Thọ đã
dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng cho những cuộc quyết chiến chiến lược, góp
phần không nhỏ vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong chín năm kháng chiến, Phú Thọ vừa là vùng tự do, vừa bị địch
tạm chiếm ở một số khu vực, cuộc kháng chiến của quân dân Phú Thọ mang
tính chất “tĩnh vi dân - động vi binh”. Quân dân Phú Thọ vừa phải trực tiếp
chiến đấu đánh trả những cuộc tiến công của địch, vừa phải củng cố, mở rộng
vùng tự do, để xây dựng tỉnh thành hậu phương “kho người, kho của”, phục
vụ đắc lực, hiệu quả cho cuộc kháng chiến. Phú Thọ đã thể hiện rõ vai trò là
một tỉnh vững mạnh, hậu phương chiến lược quan trọng của cuộc kháng
chiến.
Nhiệm vụ xây dựng tỉnh Phú Thọ thành hậu phương trong kháng chiến
chống Pháp là một quá trình phấn đấu đầy gian khổ, đấu tranh liên tục, một
mất một còn giữa quân dân ta với kẻ thù xâm lược. Đảng bộ, chính quyền và
92
quân dân Phú Thọ đã hoàn thành nhiệm vụ Trung ương giao phó, xứng đáng
là hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến. Với thành tích đó, Đảng,
Nhà nước đã tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
thời kỳ kháng chiến chống Pháp cho Đảng bộ và nhân dân 4 đơn vị trong tỉnh
(Đảng bộ và nhân dân xã Vĩnh Lại, Trạm Thản, Tu Vũ, Chí Đám), 389 bà mẹ
được truy tặng và tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, truy tặng và tặng
danh hiệu 3 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Cán bộ và nhân dân tỉnh được tặng thưởng lá Cờ danh dự của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, 63 tập thể, hơn 16.000 cán bộ và nhân dân được tặng Huân
chương, Huy chương các loại, nhiều Bằng khen, Giấy khen của Chính phủ,
của các Bộ, ngành Trung ương và Liên khu Việt Bắc. Nhân dân Phú Thọ đời
đời ghi nhớ công ơn 2.927 liệt sỹ đã hy sinh trọn đời vì Tổ quốc và 8.359
thương binh, 301 bệnh binh đã cống hiến một phần xương máu của mình cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc.[1, tr.318]
Ngày nay, phát huy truyền thống cách mạng của tỉnh, Đảng bộ và nhân
dân Phú Thọ quyết tâm xây dựng Phú Thọ thành một tỉnh giàu mạnh, một khu
vực phòng thủ vững chắc, nhằm thực hiện trọn vẹn lời căn dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”.
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (1999), Lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp của quân và dân Phú Thọ (1945- 1954), Nxb Quân đội
nhân dân.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ, tập I (1939- 1968), Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2005), Bác Hồ với Phú Thọ-
Phú Thọ làm theo lời Bác, Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2007), Lịch sử lực lượng vũ
trang nhân dân tỉnh Phú Thọ(1945 -2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996),
Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Nxb
CTQG, Hà Nội.
6. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000),
Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) - thắng lợi và bài học, Nxb
CTQG, Hà Nội.
7. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1979), Những sự kiện lịch
sử Đảng (1945 – 1954), Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Báo cáo 6 tháng đầu năm 1950 của UBKCHC tỉnh Phú Thọ (số 817
P3 ngày 17/7/ 1950. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
9. Báo cáo mọi mặt năm 1952 của Tỉnh ủy Phú Thọ (ngày 15/1/1953).
Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
10. Báo cáo thành tích năm 1949 của Đảng bộ Phú Thọ (số 17BC/PT, ngày
24 tháng 11 năm 1949). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
11. Báo cáo thành tích thi đua “Chuyển mạnh sang phản công” kỳ thứ
nhất của Tỉnh ủy Phú Thọ, ngày 18/5/1950. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
94
12. Báo cáo tình hình mọi mặt tỉnh Phú Thọ năm 1948 (số TUP/KU 2 ngày
26 tháng 2 năm 1948). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
13. Báo cáo tình hình Phú Thọ năm 1947 của UBKCHC (số 252VP ngày 13
tháng 1 năm 1948). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
14. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Sự nghiệp
tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb QĐND. Hà Nội.
15. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 (1990), Tây Bắc – Lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp, Nxb QĐND. Hà Nội.
16. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 (1996), Quân khu 2, 50 năm xây dựng
chiến đấu trưởng thành (1946- 1996), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
17. C.Mác (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến
tranh quân đội và quốc phòng, Nxb QĐND. Hà Nội.
18. Trường Chinh (1964), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
19. Trường Chinh (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ
trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
20. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt
Nam, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt
Nam, Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Trường Chinh (1987): Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Trần Nam Chuân (2005), Căn cứ địa cách mạng - hậu phương chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, tháng 1, 2/2005.
24. Công an tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Công an nhân dân Phú Thọ,
tập I (1945 – 1975), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Trần Bạch Đằng (1993), Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh
nhân dân Viê ̣t Nam , Tạp chí Lịch sử quân sự (số 3).
95
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8,
Nxb CTQG, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 9,
Nxb CTQG, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 10,
Nxb CTQG, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 11,
Nxb CTQG, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002 ), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12,
Nxb CTQG, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002 ), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 13,
Nxb CTQG, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14,
Nxb CTQG, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15,
Nxb CTQG, Hà Nội.
34. Lê Duẩn (1965), Ta nhất định thắng, địch nhất định thua, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
35. Văn Tiến Dũng (1993), Đi theo con đường của Bác, Nxb CTQG, Hà
Nội.
36. Văn Tiến Dũng (1995), Chiến khu và đấu tranh vũ trang trong
Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4.
37. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề đườ ng lối quân sự của Đảng
ta, Nxb Sự thâ ̣t, Hà Nội.
38. Võ Nguyên Giáp (1974), Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng,
Viê ̣n Khoa ho ̣c quân sự, Hà Nội.
96
39. Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, Nxb
QĐND, Hà Nội.
40. Võ Nguyên Giáp (2004), Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại, Nxb
QĐND, Hà Nội.
41. Lưu Quang Hà (1975), Trận tuyến hậu cần Điện Biên Phủ, Nxb
QĐND, Hà Nội.
42. Vũ Quang Hiển (2001), Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở
đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954), Nxb CTQG, Hà Nội.
43. Phan Ngọc Liên (2006), Biên niên sử các đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44. Trần Ngọc Long (2007), Căn cứ địa U Minh (1945 – 1975), Nxb
QĐND, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1966), Về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1970), Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang
nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1985), Chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1985), Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.
53. Hải Nguyên (1984), Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5.
97
54. Sở Văn hóa – Thông tin Vĩnh Phú (1980), Di tích và danh thắng
tỉnh Phú Thọ.
55. Số liệu kết quả cuộc vận động “Binh sĩ bị nạn” và “Mùa Đông binh
sĩ” của UBKCHC tỉnh Phú Thọ năm 1947. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Phú Thọ.
, 56. Văn Ta ̣o (1995), Căn cứ đi ̣a cá ch mạng truyền thống và hiê ̣n đại
Tạp chí Lịch sử quân sự số 4.
57. Hoàng Minh Thảo (1987), Đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp của Đảng ta, một sáng tạo lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 13.
58. Hoàng Minh Thảo (1987), Một số bài học của cuộc phản công
chiến lược Việt Bắc- Thu Đông 1947, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 22.
59. Ngô Vi Thiện (1984), Phát huy sức mạnh của hậu phương kháng chiến,
bảo đảm hậu cần cho Đông Xuân 1953- 1954 và cho chiến dịch Điện Biên Phủ
toàn thắng. Sức mạnh chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
60. Ngô Vi Thiện (1987), Về xây dựng căn cứ địa – Hậu phương trong
kháng chiến chống Pháp, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 18.
61. Tờ trình gửi Bắc Bộ Phủ của UBHC tỉnh Phú Thọ (ngày
27/8/1946). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
62. Tờ trình về tình hình chung ở tỉnh Phú Thọ từ ngày cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến giờ, của UBHC tỉnh Phú Thọ, ngày 27 tháng 8 năm
1946, gửi Bắc Bộ Phủ. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
63. Tổng kết chiến tranh du kích của tỉnh Phú Thọ. Tài liệu lưu trữ tại
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
64. Ngô Đăng Tri (2001), Hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh trong
kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98
65. Ngô Đăng Tri (2007), Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu
phương, chi viện tiền tuyến thời kỳ 1945- 1975, Một số chuyên đề lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, tr 176- 250.
66. Ngô Đăng Tri (2010), 80 năm (1930- 2010) Đảng Cộng sản Việt
Nam những chặng đường lịch sử, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
67. Trích cuốn Việt Nam anh dũng – Phần tổng kết kháng chiến chống
Pháp tỉnh Phú Thọ. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.
68. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà
Nội.
69. Ủy ban MTTQVN tỉnh Phú Thọ (2006), Lịch sử Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Phú Thọ (1930 – 2005).
70. V.I. Lênin – Xtalin (1965), Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của
nhân dân Liên Xô, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
71. V.I. Lênin (1970), Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến
tranh cách mạng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
72. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 30, Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
74. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1984), 40 năm xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
75. Viê ̣n Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp, Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
76. Viê ̣n Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử kháng chiến chố ng
thực dân Phá p, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
77. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh
nhân dân Việt Nam(1945 – 1975), Nxb QĐNDVN, Hà Nội.
78. Viện sử học Việt Nam (2003), Việt Nam những sự kiện lịch sử
(1945 – 1975), Nxb Giáo dục, Hà Nội.