MỤC LỤC

Trang

4 MỞ ĐẦU

11 Chƣơng 1: ĐẢ NG BỘ T ỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO TH ỰC HIỆN

NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1950

11 1.1 Đƣờng lối kháng chiến của Đảng và chủ trƣơng xây dựng

11 hâ ̣u phƣơng cách mạng trong khá ng chiến. 1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng

1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong 15

kháng chiến

22 1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây

dựng, bảo vệ hâ ̣u phƣơng thời kỳ từ 1945 đến 1950

1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú 22

Thọ và những thuận lợi , khó khăn trong việc xây dựng hậu phương

trên địa bàn tỉnh. 1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực 30

hiê ̣n nhiệm vụ hậu phương cách mạng

50 Chƣơng 2: ĐẢ NG BỘ T ỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO TH ỰC HIỆN

NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1954

50

2.1 Bối cảnh của cuộc kháng chiến và những vấn đề đặt ra trong xây dƣ̣ng hâ ̣u phƣơng cách mạng

53 2.2 Chủ trƣơng của Đảng bô ̣ Phú Tho ̣ trong thực hiện nhiệm vụ

hâ ̣u phƣơng cá ch ma ̣ng trên địa bàn tỉnh. 2.2.1 Tình hình chung của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc 53

kháng chiến toàn diện tới thắng lợi.

54

2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trìn h chỉ đạo thực hiê ̣n nhiệm vụ hậu phương cách mạng

1

73 Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM

73 3.1 Mô ̣t số nhâ ̣n xét

73 3.1.1 Những kết quả của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh

đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch mạng ở đi ̣a phương.

79 3.1.2 Những hạn chế của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh

đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch mạng ở đi ̣a phương.

80 3.2 Kinh nghiê ̣m

3.2.1 Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định thắng 81

lợi của chiến tranh, vì vậy dù ở thời chiến hay thời bình đều phải

nhận thức đúng đắn quan điểm đó.

3.2.2 Để xây dựng hậu phương vững mạnh, phải đảm bảo và 83

phát huy mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt.

3.2.3 Căn cứ vào đặc điểm dân tộc, xã hội và chính trị của 85

tỉnh, muốn xây dựng hậu phương kháng chiến, Phú Thọ phải giữ

vững ổn định chính trị, coi trọng bồi dưỡng sức dân, mở rộng khối

đoàn kết toàn dân.

92 KẾT LUẬN

94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

BẢNG QUY CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HCM : Hồ Chí Minh

HĐND : Hội đồng nhân dân

HN : Hà Nội

Nxb : Nhà xuất bản

QĐND : Quân đội nhân dân

UBHCKC : Ủy ban hành chính kháng chiến

UBHC : Ủy ban hành chính

UBKC : Ủy ban kháng chiến

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng:

“Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu phương được

tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với

sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không

được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 497]. Trong

các cuộc cách mạng, để giành được thắng lợi nhất thiết phải có hậu phương,

bởi vì hậu phương là nơi có thể triển khai xây dựng và dự trữ tiềm lực của

chiến tranh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật; hậu

phương là địa bàn đứng chân, là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của tiền tuyến; là nơi

chi viện sức người, sức của và động viên chính trị - tinh thần cho tiền tuyến

đánh giặc; hậu phương cũng là nơi rút lui củng cố và bàn đạp tiến công của

các lực lượng vũ trang, là nhâ n tố thườ ng xuyên quyết đi ̣nh thắng lơ ̣i củ a chiến tranh.

Tiếp thu lý luâ ̣n củ a chủ nghĩa Mác – Lênin về khở i nghĩa chiến tranh , Chủ

và quân đội , kế thừ a những kinh nghiê ̣m quân sự quý báu củ a dân tô ̣c tịch Hồ Chí Minh khẳng đi ̣nh: “Muốn khở i nghĩa phải có căn cứ đi ̣a , muốn kháng chiến phải có hậu phương” [35, tr. 73]. Đấu tranh vũ trang, chiến tranh

cách mạng càng lâu dài, ác liệt thì vai trò của căn cứ địa, hâ ̣u phương càng trở nên quan tro ̣ng.

Ở nướ c ta, trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, vấn đề xây dựng căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương đã được ông cha ta hết sức coi trọng, xem đó như là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp

cứu nước và giữ nước. Lịch sử xây dựng căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương gắn liền vớ i . Ông cha ta đã cho ̣n quá trình dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc

4

những vù ng có vi ̣ trí chiến lươ ̣c quan tro ̣ng , có địa thế hiểm yếu để làm nơi tâ ̣p kết tổ chứ c, xây dựng lực lươ ̣ng kháng chiến chống la ̣i quân thù.

Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm của

Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng, về xây dựng hậu phương cách mạng

cùng những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ

xây dựng hậu phương. Đảng đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc

xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến, coi đó là một bộ phận chiến

lược của đường lối chiến tranh nhân dân, mà nội dung là giải quyết vấn đề đất

đứng chân và xây dựng tiềm lực để kháng chiến lâu dài. Xuất phát từ đặc

điểm của đất nước đất không rộng, lạc hậu về kinh tế, lực lượng vũ trang còn

non trẻ, lại phải đối chọi với kẻ thù có quân đội thiện chiến, được trang bị vũ

khí hiện đại, Đảng ta đã chủ động xây dựng đường lối kháng chiến, xây dựng

căn cứ địa hậu phương kháng chiến phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Xây

dựng hậu phương ở cả vùng rừng núi lẫn đồng bằng, thậm chí ở ngay trong

vùng tạm bị địch chiếm. Để đảm bảo cho cuô ̣c kháng chiến thắng lơ ̣i, việc xây dựng các căn cứ đi ̣a, hâ ̣u phương cho tiền tuyến là viê ̣c làm cần thiết.

Ở Phú Thọ , trong cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c trướ c sự tấn công củ a kẻ thù, các lực lượng vũ trang đã lù i về nông thôn, rừ ng núi, dựa vào đi ̣a thế hiểm yếu củ a đi ̣a hình để củ ng cố , xây dựng lực lươ ̣ng về mọi mặt để tiến hành kháng chiến lâu dài . Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa

phương, các căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương đã ra đờ i để đáp ứ ng yêu cầu cấp thiết của cuộc chiến đấu. Đó là những khu vực đươ ̣c lựa cho ̣n làm nơi trú chân, bảo tồn và phát triển lực lươ ̣ng kháng chiến , làm nơi để tích lũy , xây dựng cơ sở kinh tế , chính trị, xã hội làm chỗ dựa và bàn đạp cho các lực lươ ̣ng vũ trang và quần chúng nhân dân thực hành phản công , tiến công tiêu diê ̣t đi ̣ch . Hoạt

cách mạng ở đô ̣ng xây dựng , bảo vệ và phát huy tác dụng của hậu phương

5

Phú Thọ đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c.

Từ trướ c đến nay , đã có nhiều công trình khoa học lịch sử , nhiều tài

liê ̣u, sách báo viết về lịch sử kháng ch iến chống thực dân Pháp xâm lươ ̣c ở Phú Thọ trong thời gian từ 1945 – 1954. Tuy nhiên, nghiên cứ u vấn đề căn cứ đi ̣a, hâ ̣u phương mớ i ít nhiều đươ ̣c đề câ ̣p ở những góc đô ̣ khác nhau , chưa có công trình khoa ho ̣c nào nghiên cứ u mô ̣ t cách có hê ̣ thống , toàn diện về quá trình hình thành, phát triển, đă ̣c điểm, vai trò củ a hâ ̣u phương cách mạng trên đi ̣a bàn tỉnh Phú Tho ̣. Do đó, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhằm góp

phần làm rõ thêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ hậu phương và góp phần khẳng định vai trò hậu phương kháng

chiến trong thành quả kháng chiến của tỉnh Phú Thọ. Chính vì những lý do

trên, tôi cho ̣n đề tài : “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ

hậu phương trong cuộc khá ng chiến chố ng thực dân Pháp (1945 -1954)” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Do tầm quan tro ̣ng củ a căn cứ đi ̣a , hâ ̣u phương trong chiến tranh cách mạng, trong thời gian qua có một số công trình của cá nhân và tập thể các nhà

khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể như sau:

Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975), Viện Lịch

sử quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội 1997, đã tổng kết hoạt động xây

dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc chiến tranh

thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; Các

công trình: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài

học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh- trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb

CTQG, HN 1996; Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) - thắng lợi

6

và bài học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị,

Nxb CTQG, HN 2000, đã tổng kết vấn đề xây dựng căn cứ địa, hậu phương

dưới góc độ những bài học kinh nghiệm.

Các công trình nghiên cứu trên khẳng định Đảng sớm nhận thức được

tầm quan trọng của hậu phương, do đó đã hết sức coi trọng xây dựng hậu

phương trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội. Đảng đã

giải quyết thành công vấn đề hậu phương và phát huy sức mạnh của hậu

phương, xây dựng hậu phương thành địa bàn chiến lược cung cấp tối đa sức

người, sức của cho kháng chiến, đánh bại hai tên đế quốc có tiềm lực kinh tế,

quân sự và khoa học kỹ thuật mạnh hơn ta nhiều lần. Do đó, đây là nguồn tài

liệu quan trọng để tác giả luận văn tham khảo.

Liên quan đến đề tài còn có các công trình, các bài báo, bài đăng trên

tạp chí như: Hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống

Pháp (1946 – 1954) của Ngô Đăng Tri, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Đảng

lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954) của Vũ

Quang Hiển, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Căn cứ địa U Minh (1945 – 1975)

của Trần Ngọc Long, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007; Mấy vấn đề đườ ng lối quân sự của Đảng ta của Đại tướng Võ Nguyên Giáp , Nxb Sự thâ ̣t, Hà Nội, 1970;

Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng của Đại tướ ng Võ Nguyên Giáp ,

Viê ̣n Khoa ho ̣c quân sự, Hà Nội, 1974; Về xây dựng căn cứ địa – Hậu phương

trong kháng chiến chống Pháp của Ngô Vi Thiện, đăng trên Tạp chí Lịch sử

quân sự số 18 (6/1987); Chiến khu và đấu tranh vũ trang trong cá ch mạng tháng Tám của Đại tướng Văn Tiến Dũng, đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số

4/1995; Căn cứ đi ̣a cá ch mạng truyền thống và hiê ̣n đại của giáo sư Văn Tạo

đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự số 4/1995; Vài suy nghĩ về hậu phương

chiến tranh nhân dân Viê ̣t N am của Trần Bạch Đằng đăng trên Tạp chí Lịch

sử quân sự số 3/1993…

7

Các tác phẩm, bài viết được xuất bản đã nêu lên sự cần thiết, yêu cầu

xây dựng căn cứ địa, hậu phương cho các cuộc kháng chiến; đề cập các quan

điểm, đường lối xây dựng căn cứ địa làm hậu phương cho cuộc chiến tranh

cách mạng; đề cập đến nguồn gốc của việc xây dựng, tính chất và đặc điểm

của căn cứ địa cách mạng… Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập

đến một số mặt lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương

ở các thời kỳ và các chiến trường khác nhau trên cả nước hoặc một số vùng,

địa phương cụ thể.

Ngoài các công trình nghiên cứu có tính khái quát trên, còn có một số

công trình nghiên cứu cụ thể về lịch sử địa phương trong thời kỳ này như:

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập I (1939- 1968) của Ban Chấp hành Đảng

bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb CTQG, H. 2000; Lịch sử kháng chiến chống thực dân

Pháp của quân và dân Phú Thọ (1945- 1954) của Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, 1999; Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh Phú Thọ (1930 – 2005) của Ủy ban MTTQVN tỉnh Phú Thọ, năm

2006; Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Phú Thọ1945 -2005 của Ban

Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2007; Lịch

sử lực lượng vũ trang Quân khu II, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2006; …

Các công trình nghiên cứu cụ thể này cung cấp một số tư liệu cần thiết về quá

trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.

Những công trình nói trên, tuy mức độ và đứng ở nhiều góc độ khác

nhau, song nói chung đều ghi nhận vai trò quyết định của tỉnh, của hậu

phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tế cho thấy, đến nay chưa

có công trình khoa học nào được công bố đi sâu nghiên cứu một cách hệ

thống về vấn đề thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u phương cách mạng trên đi ̣a bàn tỉnh Phú Thọ trong thờ i kỳ kháng chi ến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu các ấn phẩm của các tác giả nêu trên là nguồn

8

tham khảo quý, nguồn tư liệu phong phú, tin cậy để tác giả kế thừa trong quá

trình thực hiện đề tài luâ ̣n văn tha ̣c sỹ củ a mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích

Góp phần tái hiện lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của

quân và dân Phú Tho ̣ từ góc đô ̣ xây dựng , bảo vệ cũng như việc phát huy tác dụng của hậu phương.

Nêu lên được kết quả cơ bản của việc xây dựng và bảo vệ hậu phương

Phú Thọ thời kỳ 1945 – 1954, qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng

bộ Phú Thọ. Từ đó rút ra những nhận xét và kinh nghiê ̣m trong quá trình xây dựng hậu phương thời kỳ cách mạng tiếp theo trên đi ̣a bàn tỉnh.

3.2 Nhiệm vụ

Tập hợp các nguồn tài liệu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, Ủy ban nhân

dân tỉnh Phú Thọ, Tỉnh ủy Phú Thọ, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Thọ…

Mô tả một cách khái quát, toàn diện về chủ trương của Đảng, Chủ tịch

Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Phú Thọ về quá trình xây dựng hậu phương Phú Thọ

trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những đườ ng lối chủ t rương chính sách của Đảng về xây dựng hâ ̣u phương và các biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực

hiện nhiệm vụ hậu phương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u Về nội dung: Nghiên cứ u quá trình lãnh đa ̣o

phương trên pha ̣m vi toàn tỉnh.

Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thờ i kỳ kháng chiến

chống thực dân Pháp.

9

Về thời gian: Luâ ̣n văn giớ i ha ̣n từ 1945 - 1954

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên

cứu chủ yếu như: Phương pháp lịch sử và logíc. Ngoài ra còn kết hợp với các

phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… các phương

pháp trên được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.

6. Đóng góp khoa học của đề tài

Trên cơ sở tâ ̣ p hơ ̣p , hê ̣ thống các tư liê ̣u liên quan đến chủ đề hâ ̣u

,

phương cách ma ̣ng trong cuô ̣c kháng chiến chống thực dân Pháp ở Phú Tho ̣ dựng la ̣i quá trình hình thành phát triển và những hoa ̣t đô ̣ng củ a hâ ̣u phương trong cuô ̣c kháng chiế n chống Pháp của tỉnh Phú Thọ, qua đó làm rõ vai trò

lãnh đạo của Đảng trong xây dựng hậu phương và vai trò lãnh đạo của Đảng

bộ tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.

Rút ra một số kinh nghiê ̣m lịch sử về xây dựng và bảo vệ hâ ̣u phương

cách mạng , góp phần bổ sung nguồn tư liệu về kháng chiến chống thực dân

Pháp ở Phú Thọ.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được chia thành 3 chương:

Chương 1: Đảng bô ̣ tỉnh Phú Tho ̣ lãnh đ ạo thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u

phương từ năm 1945 đến năm 1950.

thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u Chương 2: Đảng bô ̣ tỉnh Phú Tho ̣ lãnh đa ̣o

phương từ năm 1951 đến năm 1954.

Chương 3: Mô ̣t số nhâ ̣n xét và kinh nghiệm.

10

Chƣơng 1

ĐẢ NG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ

HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1950

hâ ̣u

1.1 Đƣờng lối kháng chiến củ a Đả ng và chủ trƣơng xây dƣ̣ng phƣơng cách mạng trong khá ng chiến.

1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng

Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia, dân tộc trên tất cả

các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta

vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới giành được 16 tháng, chính quyền chưa

được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời

sống xã hội chưa thật sự ổn định, dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến

tranh trên quy mô toàn quốc.

Vớ i dã tâm mở rộng chiến tranh xâm lươ ̣c đất nướ c ta , thực dân Pháp đã lơ ̣i du ̣ng H iê ̣p đi ̣nh Sơ bô ̣ ngày 6- 3- 1946 để tăng quân trái phép và b ố trí lực lươ ̣ng chiếm đóng các vi ̣ trí then chốt ở miền Bắc nướ c ta như Hà Nô ̣i , Nam Đi ̣nh, Vinh, Huế, Đà Nẵng, đánh chiếm các khu vực cử a ngõ giao thông thủy bộ trọng yếu ở miền Bắc như Hải Phòng , Lạng Sơn. Ngày 17 và 18-12-

1946, tại Hà Nội, quân Pháp đã gây ra các vu ̣ khiêu khích , tàn sát đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún và gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán

lực lươ ̣ng an ninh, giao quyền kiểm soát thủ đô cho chú ng . Ngày 18-12-1946, đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt những liên hệ với đại diện Chính phủ ta.

Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ và nhân dân ta trước

một tình thế không thể nhân nhượng, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa

mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.

Trướ c hành đô ̣ng gây chiến tranh xâm lươ ̣c ra cả nướ c ta củ a thực dân

Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng

Vạn Phúc (Hà Đông), do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Trung ương Đảng và

11

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hạ quyết tâm phát động nhân dân cả nước đứ ng lên tiến hành cuô ̣c kháng chiến toàn quốc bảo vệ độc lập, chủ quyền của

dân tô ̣c.

Đây là lần đầu tiên Đảng lãnh đạo quân dân ta tiến hành một cuộc chiến

tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa mang tính chất giải phóng dân

tộc trên quy mô cả nước, đương đầu với một đế quốc lớn mạnh vốn đã từng

thống trị Việt Nam trong nhiều năm. Đảng xác định cuô ̣c kháng chiến củ a dân tô ̣c ta tuy có lơ ̣i thế về chính tri ̣, tinh thần, song yếu về kinh tế , quân sự trướ c kẻ thù là một cường quốc có ưu thế về kinh tế , quân đô ̣i thiê ̣n chiến , trang bi ̣

vũ khí hiện đại . Nhâ ̣n rõ bản chất xâm lươ ̣c và tiềm lực hù ng ma ̣nh củ a thực dân Pháp cũng như những thuâ ̣n lơ ̣i và khó khăn của ta , vì vậy, ngay sau khi

phát động cuộc kháng ch iến toàn quốc, Đảng ta và C hủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là đường lối chiến tranh

nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.

Chiến tranh nhân dân Viê ̣t Nam là gọi chung các cuộc chiến tranh giải

phóng dân tô ̣c và bảo vê ̣ Tổ q uốc do nhân dân Viê ̣t Nam tiến hành trong tiến trình lịch sử . Dướ i sự lãnh đa ̣o củ a Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam , chiến tranh nhân dân có các nô ̣i dung và đă ̣c trưng cơ bản:

, sáng tạo, nhằm phát Chiến tranh thâ ̣t sự vì lơ ̣i ích củ a nhân dân mà mu ̣c tiêu cơ bản là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xóa bỏ mọi áp bức bóc lột, xây dựng mô ̣t xã hô ̣i mớ i, xã hội xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh dựa vào lực lươ ̣ng củ a toàn dân , nòng cốt là liên minh công nông . Dựa vào tiềm lực củ a nhân dân , sự giú p đỡ cổ vũ củ a lực lươ ̣ng cách ma ̣ng và tiến bô ̣ thế giới. Phương thứ c tiến hành chiến tranh phong phú

huy cao nhất sứ c ma ̣nh củ a toàn dân , đánh địch mô ̣t cách toàn diê ̣n , ở khắp nơi vớ i mo ̣i hình thứ c tổ chứ c và hình thức đấu tranh thích hơ ̣p . Phương thứ c đó khiến đi ̣ch đông mà hóa thiếu , có sức mạnh lớn mà không phát huy được

12

tác dụng, có sở trường mà không thi thố được , lại bị sa lầy , lúng túng và bị

đô ̣ng, không rõ đâu là tiền tuyến, đâu là hâ ̣u phương, mô ̣t kiểu chiến tranh xen kẽ triệt để. Phương thứ c đó đã khoét sâu những mâu thuẫn cố hữu củ a bất cứ mô ̣t đô ̣i quân xâm lươ ̣c nào , đó là mâu thuẫn giữa phân tán và tâ ̣p trung lực lượng, giữa phòng ngự và tiến công , giữa đánh nhanh và đánh kéo d ài, làm cho lực lươ ̣ng và phương tiê ̣n củ a đối phương ngày càng hao mòn , ý chí xâm lươ ̣c càng bi ̣ sa sú t…

Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc

kháng chiến, Người nói:

“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất

định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người

trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải

đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có

gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng

phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. [49, tr. 480]

Đường lối kháng chiến của Đảng được xác định trong Chỉ thị “Toàn

dân kháng chiến” của Trung ương Đảng (12/12/1946), “Lời kêu gọi toàn quốc

kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ

thể trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng bí

thư Trường Chinh. Đường lối kháng chiến của Đảng là thực hiện cuộc chiến

tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Cụ

thể là:

Mục đích kháng chiến: “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;

giành thống nhất và độc lập”. Nhiệm vụ và tính chất của cuộc kháng chiến là

“kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải

phóng dân tộc, mở rộng và củng cố chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam phát

triển trên nền tảng dân chủ mới, nên có tính chất dân tộc giải phóng và dân

13

chủ mới. Kháng chiến của ta là tự vệ, chính nghĩa và có “thiên thời, địa lợi,

nhân hòa”.

Phương châm tiến hành kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa

vào sức mình là chính.

Kháng chiến toàn dân là “tất cả già trẻ, trai gái, không phân biệt đảng

phái, tôn giáo, hễ là người Việt Nam phải đứng lên chiến đấu”, là thực hiện

mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

Để tiến hành chiến tranh phải vũ trang cho nhân dân, phát động phong

trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân tham gia tác

chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào để bổ sung

và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài”. [22, tr. 314]

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên tất cả các mặt trận : chính trị,

quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

Kháng chiến lâu dài (trường kỳ) là để có thời gian chuyển hóa tương

quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch.

Dựa vào sức mình là chính (tự lực cánh sinh) là vì ta bị bao vây bốn

phía, khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó

cũng không được ỷ lại.

Đảng phát động cuộc kháng chiến chống Pháp là một quyết định lịch sử

với trách nhiệm chính trị to lớn. Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo,

thấm nhuần quan điểm về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác – Lênin,

phát huy cao độ truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, vừa sản xuất, vừa

chiến đấu, gắn liền kháng chiến với kiến quốc, Đảng đã sớm đề ra đường lối

kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, khoa học nhằm huy động nguồn lực lượng vô

tận của toàn dân, tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc chiến tranh

nhân dân Việt Nam. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng và tác phẩm

14

“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh được coi là nội dung cơ

bản của Đường lối kháng chiến của Đảng ta, là ngọn đuốc soi đườ ng dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đi tới

thắng lợi.

Để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ

tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng hậu phương, coi đó là

một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh

giải phóng dân tộc.

1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong kháng

chiến

Hậu phương hiểu theo nghĩa hẹp: “Là nơi đối xứng với tiền tuyến, có

sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự,

phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật

lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của

lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến”. [65, tr. 231]

Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp

sức người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tiền tuyến về

mặt không gian.

Như vậy, có thể thấy ngay rằng, trong các cuộc chiến tranh, hậu

phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua

của hai bên tham chiến. Bởi vì, chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai

bên tham chiến. Muốn thắng lợi phải có tiềm lực chiến tranh, bao gồm tiềm

lực kinh tế (trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ kinh tế), tiềm

lực chính trị - tinh thần (chế độ chính trị - xã hội, hệ tư tưởng và tinh thần của

nhân dân), tiềm lực quân sự (sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang).

Những tiềm lực đó phải được tạo ra và dự trữ tại hậu phương. Chiến tranh

15

phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào tách khỏi hậu phương thì

không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được.

Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ

đại của cách mạng vô sản như Mác, Ăng ghen, Lênin đều nhấn mạnh đến vai

trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ

chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều

tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế,

vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số

lượng của cư dân và của cả kĩ thuật”. [17, tr. 242]

Lênin thì cho rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị

hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn,

thì người đó thu được thắng lợi” [72, tr.84]

Chiến tranh càng phát triển thì vai trò lực lượng vũ trang càng quan

trọng. Để bảo đảm hoạt động xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang,

phải xây dựng một hậu phương vững mạnh. Lênin nói: “Muốn tiến hành chiến

tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc, một

đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng

cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang, tiếp tế

lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 247].

Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu

phương, Mác, Ăngghen và Lênin đều đánh giá cao nhân tố chính trị- tinh

thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin, khi bàn

đến sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, đã nói: “Lịch sử chiến tranh dạy

rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát

triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của

quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá

trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó” [70, tr. 113].

16

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy

động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” [48, tr. 474].

Kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao nhất sức người,

sức của của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng căn cứ,

hậu phương vững mạnh toàn diện về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn

hóa…

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân vừa mới

thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nghiêm trọng. Ở

miền Nam, quân Pháp được quân Anh trợ giúp, ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã

khởi hấn ở Sài Gòn, kế đó đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngoài

Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch (sau đây

viết tắt là quân Tưởng), được Mỹ tiếp tay, kéo vào với danh nghĩa giải giáp

quân Nhật nhưng còn mục tiêu bóp chết cách mạng, dựng nên chính quyền

tay sai của chúng. Trong khi đó, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa được

nước nào trên thế giới công nhận. Chính quyền nhân dân mới được thành lập,

chưa được kiện toàn, kinh nghiệm quản lý nhà nước còn rất hạn chế. Lực

lượng vũ trang non trẻ, vũ khí thô sơ, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu ít ỏi.

Ách áp bức phong kiến cùng chính sách vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp và

phát xít Nhật khiến nền kinh tế quốc dân lâm vào tình trạng suy sụp thảm hại.

Nhân dân vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, chỉ trong vòng ba tháng giữa năm

1945, gần hai triệu đồng bào chết vì đói và dịch bệnh. Công thương nghiệp

hàng hóa đình đốn, ngoại thương đình trệ, thủ công nghiệp tiêu điều. Về tài

chính, kho bạc của chính quyền cách mạng chỉ còn hơn 1 triệu đồng nhưng

quá nửa là rách nát. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay Pháp, đồng

tiền Quan kim do quân Tưởng tung ra buộc ta phải lưu hành khiến cho thị

trường càng thêm rối loạn. Do hậu quả của chính sách ngu dân của thực dân

17

Pháp, 95% dân số nước ta không biết chữ và còn nhiều tệ nạn xã hội khác do

hậu quả của chế độ thực dân để lại hết sức nặng nề.

Những khó khăn về giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đặt nước ta trong

tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ,

nền độc lập mới giành được có thể bị mất. Nhiệm vụ cơ bản nhất đặt ra cho

Đảng và chính quyền nhân dân lúc này là giữ vững chính quyền, bảo vệ và

xây dựng chế độ mới.

Để chống thù trong, giặc ngoài, cùng với việc giáo dục chính trị cho

quần chúng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tổ chức và phát triển các đoàn

thể cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng và Chính phủ đã đề ra

nhiều chủ trương lớn về xây dựng hậu phương trước khi xảy ra chiến tranh

trên phạm vi cả nước.

Trong bài nói chuyện với cán bộ, đại biểu nhân dân và thân sỹ, phú

hào, trí thức ở Thanh Hóa ngày 20 tháng 2 năm 1947, với chủ đích nói về hậu

phương, Hồ Chí Minh đã phân tích và nêu lên những khó khăn của quân xâm

lược Pháp ở Đông Dương do những rối ren về chính trị, sa sút về kinh tế tại

chính quốc. Đối với cuộc kháng chiến của ta, Người phân tích và khẳng định

ta sẽ thắng vì ta có hậu phương ưu thế hơn địch, ta có thiên thời, địa lợi, nhân

hòa đủ để thắng địch.

Ta có thiên thời là “Ít tháng nữa trời nóng nực, Pháp không chịu nổi khí

hậu, sẽ ngại dần, từ Nam chí Bắc đi tới đâu cũng chỉ có tro tàn, gạch vụn.

Pháp đánh ban ngày nhưng ta lại đánh ban đêm”. Địa lợi là: “Ta ở đất ta,

Pháp không quen đường đi”. Nhân hòa là “Trừ một số Việt gian, còn 25 triệu

nhân dân ta đều muốn tự do. Còn dư luận ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nam

Dương, Miến Điện, Tân Gia Ba, đều là chính nghĩa, mà đến Pháp cũng đa số

ngả về ta”. “Cả ba: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều lợi cho ta. Những cái có

lợi cho ta là hại cho địch, mà lợi cho địch mà hại cho ta”. [48, tr. 236]

18

Dựa vào những ý kiến chỉ dẫn trực tiếp của Hồ Chí Minh và căn cứ vào

chủ trương xây dựng căn cứ địa, hậu phương của Hội nghị Trung ương tháng

4 năm 1947. Năm 1948, Trung ương Đảng có nghị quyết về xây dựng hậu

phương để kháng chiến lâu dài. Năm 1950, với ý định phối hợp với cách

mạng Trung Quốc, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng hậu phương, thực

hiện tổng động viên nhân tài vật lực để chuyển mạnh sang tổng phản công.

Tháng 2-1951, Đại hội lần thứ II của Đảng được triệu tập, đã nhấn mạnh xây

dựng hậu phương toàn diện, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, xây dựng lực lượng

vũ trang, tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em để đẩy mạnh phản công,

đưa kháng chiến phát triển đến thắng lợi.

Trong khi chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng

lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng chủ trương dựa vào quần chúng nhân dân

được giác ngộ cách mạng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đó là một trong

những điều kiện căn bản để tiến hành kháng chiến và đưa kháng chiến đến

thắng lợi. Đồng chí Trường Chinh vạch rõ: Để huy động sức người, sức của

cho kháng chiến, phải xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa khắp nơi.

“Căn cứ địa là một vùng tương đối an toàn ở đó ta đóng các cơ quan đầu não,

huấn luyện bộ đội chủ lực, đào tạo cán bộ, chế tạo vũ khí, đạn dược, chữa

chạy thương binh…”. [22, tr. 310]

Do nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hậu phương, ngay từ

những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã chủ động xây

dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến mang những đặc điểm phù hợp với

hoàn cảnh đất nước. Nước ta hẹp lại dài, hai mặt Đông và Tây Nam giáp biển,

nếu có chiến tranh, địch có thể chia cắt nước ta thành nhiều chiến trường.

Trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả nước được chia làm 12 khu để

thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh, Mỗi chiến khu, thậm chí ở từng tỉnh,

từng huyện hoặc liên tỉnh, liên huyện phải chọn những vùng “có thế chiến

19

lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ” để xây dựng thành căn cứ địa,

làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, có tiềm năng xây

dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, giải quyết vấn đề hậu cần, nuôi

dưỡng và tiếp tế cho lực lượng kháng chiến. Bước vào cuộc kháng chiến,

Đảng xác định ở Việt Nam có cǎn cứ địa vững chắc nhất là lòng dân, không

có lòng yêu nước sâu sắc của nhân dân, không có tinh thần giác ngộ cách

mạng cao của đông đảo quần chúng thì căn cứ địa nào, dù có núi cao rừng

thẳm vẫn có thể bị địch đánh thọc sâu, hoặc bao vây chia cắt. Từ đó có thể mở

mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong

lòng địch và tổ chức cǎn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng

bằng". Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, Đảng chủ trương xây dựng cǎn cứ địa

và hậu phương tại chỗ vững mạnh, lấy nông thôn đồng bằng và rừng núi làm

địa bàn chiến lược trọng yếu.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng hậu phương,

căn cứ địa ở cả rừng núi và đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu

có quần chúng yêu nước được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Bởi vì, rừng

núi là địa bàn chiến lược quan trọng, địa thế hiểm trở, có nhân dân các dân tộc

trung thành với cách mạng, địch có nhiều sơ hở, khó phát huy ưu thế vũ khí

và phương tiện chiến tranh hiện đại. Ta có thể xây dựng, phát triển lực lượng,

duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài, kể cả những lúc gặp khó khăn nhất. Đây

là nơi có thể xây dựng hậu phương vững chắc nhất của cách mạng nước ta.

Đồng bằng là nơi không có địa thế hiểm trở như rừng núi, nhưng là nơi đông

dân, nhiều của. Xây dựng chỗ đứng chân ở đồng bằng mới có điều kiện khai

thác nhiều nhân tài, vật lực cho kháng chiến.

Với tinh thần đó, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tích cực

củng cố những cǎn cứ đã có như Việt Bắc, Khu IV và Khu V, vùng Đồng

Tháp Mười, đồng thời tích cực xây dựng các làng chiến đấu, các cǎn cứ và

20

khu du kích trong vùng tạm chiếm. Ở nước ta không hình thành "vùng đỏ",

"vùng trắng", không lấy nông thôn bao vây thành thị, mà hình thành một hệ

thống cǎn cứ kháng chiến đa dạng ở cả vùng rừng núi, đồng bằng và thành

phố.

Nông thôn đồng bằng là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.

Địch ra sức "bình định" vùng đồng bằng để "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,

dùng người Việt đánh người Việt". Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, cǎn cứ

nhỏ ở ven đô thị, trục đường giao thông nhằm ngǎn chặn ta từ xa, tạo ra thế

bao vây, chia cắt vùng nông thôn để dễ kiểm soát. Bọn Việt gian phản động,

tề điệp dựa vào hệ thống đồn bốt này để hoạt động lùng bắt cán bộ và đàn áp

nhân dân. Ta quyết tâm giữ vùng nông thôn để xây dựng hậu phương tại chỗ

vững mạnh. Các làng chiến đấu và cǎn cứ du kích nằm xen kẽ với hệ thống

đồn bốt địch, tạo thế đan xen nhau. Ta tích cực chiến đấu bảo vệ hậu phương,

đồng thời cũng ra sức đánh phá hậu phương địch, biến hậu phương địch thành

tiền phương ta, không ngừng mở rộng hậu phương ta.

Có thể thấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không quan niệm hậu

phương theo nghĩa thông thường của chiến tranh quy ước, hiện đại, có chiến

tuyến rõ rệt, mà có sự phát triển mới về lý luận và được chứng minh bằng

thực tiễn, với những điểm sáng tạo, độc đáo, tạo ra ngay trong vùng địch

chiếm đóng những nơi có thể xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh, cả

về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, thành những nơi huy động nhân lực,

vật lực cho kháng chiến và tạo chỗ dựa về tinh thần cho cuộc kháng chiến ở

địch hậu. Đảng chủ trương xây dựng hậu phương, căn cứ địa ở cả rừng núi và

đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu có quần chúng yêu nước

được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương

của chiến tranh nhân dân rộng khắp với những quy mô và hình thức khác

nhau. Nhiều loại hình hậu phương sẽ tạo ra thế xen kẽ một cách triệt để giữa

21

ta và địch, làm cho hậu phương và tiền tuyến đan xen nhau, luôn luôn biến

động, không có ranh giới ổn định mà thường xuyên chuyển hóa, xoay vần

cùng với kẻ địch trong một quá trình kháng chiến trường kỳ, tạo ra nguồn sức

mạnh vô tận của chiến tranh nhân dân, trong đó mỗi người dân là một người

lính, mỗi làng xã là một pháo đài, đánh giặc một cách toàn diện và bằng mọi

vũ khí có trong tay. Vì thế “hậu phương không còn là đối xứng của tiền tuyến

theo nghĩa cổ điển, cũng không thể xác định chỉ bằng yếu tố không gian”. Đó

là “hiện tượng kỳ lạ của chiến tranh nhân dân Việt Nam”.

Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân. Vì

thế chủ trương xây dựng hậu phương ở cả rừng núi và đồng bằng có ý nghĩa

hết sức quan trọng. Nó cho phép động viên toàn dân tham gia chiến tranh, giải

quyết nguồn sức người, sức của dồi dào, phục vụ yêu cầu ngày càng lớn của

cuộc kháng chiến, tạo khả năng mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch.

Nhìn chung, trong quá trình kháng chiến, Đảng đã lãnh đạo xây dựng,

bảo vệ các vùng tự do trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa,

biến các vùng tự do lớn thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến.

Chủ trương xây dựng hậu phương cách mạng của Đảng được vạch ra ngay từ

những ngày đầu cuộc kháng chiến và được Đảng tiếp tục phát triển về sau.

1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ

hâ ̣u phƣơng thời kỳ từ 1945 đến 1950

1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú Thọ và

những thuận lợi, khó khăn trong viê ̣c xây dựng hậu phương trên địa bàn tỉnh.

Phó Thä lµ mét tØnh thuéc vïng §«ng B¾c Bé, ® îc thµnh lËp tõ n¨m

1891 d íi thêi Ph¸p thuéc. Sau gÇn t¸m thËp kû ra ®êi, ®Çu n¨m 1968, Phó

Thä chÝnh thøc hîp nhÊt víi VÜnh Phóc thµnh tØnh VÜnh Phó. Sau 29 n¨m hîp

22

nhÊt, tØnh Phó Thä ® îc t¸i lËp trë l¹i tõ ngµy 1/1/1997 theo NghÞ quyÕt kú

häp thø 10, Quèc héi kho¸ IX.

TØnh Phó Thä cã diÖn tÝch tù nhiªn lµ 3.519,65 km2 (chiÕm 1,2% diÖn

tÝch c¶ n íc, xÕp thø 10/11 tØnh thuéc vïng §«ng B¾c Bé vµ xÕp thø 38/64

tØnh, thµnh phè c¶ n íc). Phó Thä c¸ch thñ ®« Hµ néi 80 km, lµ ®iÓm tiÕp gi¸p

gi÷a vïng §«ng B¾c ®ång b»ng s«ng Hång vµ vïng T©y B¾c. Phía Bắc tiếp

giáp với hai tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái; phía Tây giáp hai tỉnh Yên Bái và Sơn La; phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc; phía Nam giáp thành phố Hà Nô ̣i và

tỉnh Hòa Bình. Víi vÞ trÝ nh vËy, Phó Thä lµ cöa ngâ phÝa T©y - B¾c cña thñ

®« Hµ Néi vµ lµ ®Þa bµn kinh tÕ träng ®iÓm phÝa B¾c, lµ cÇu nèi gi÷a c¸c tØnh

®ång b»ng B¾c Bé, thñ ®« Hµ néi víi c¸c tØnh miÒn nói T©y B¾c là Tuyªn

Quang, Hµ Giang, Yªn B¸i, Lµo Cai, S¬n La.

Do cấu ta ̣o đi ̣a chất ta ̣o nên những dãy đồi

, núi điê ̣p trù ng, vớ i những nếp gãy khổng lồ , qua mưa lũ hàng va ̣n năm đã hình thành những dòng chảy qua, biến đi ̣a hình Phú Tho ̣ thành ba vù ng rõ rê ̣t là : vùng núi cao, vùng gò đồi và vùng đồng bằng. Vì thế, khí hậu ở Phú Thọ vừa có tính chất trung du , vừ a có tính chất miền núi.

Vùng núi cao tập trung ở phía Tây Bắc , thuô ̣c các huyê ̣n Thanh Sơn ,

, có lợi cho việc

Yên Lâ ̣p, Hạ Hòa. Rừ ng nú i ở Phú Tho ̣ có đi ̣a hình hiểm trở bố trí thế trâ ̣n ch iến tranh nhân dân , bố trí các trâ ̣n đi ̣a mai phu ̣c , tổ chứ c các cuô ̣c tiến công, phản công hoặc khi cần có thể nhanh chóng rú t lui để bảo toàn lực lươ ̣ng. Vùng rừng núi Phú Thọ thiên nhiên còn kiến tạo nên những hang đô ̣ng kỳ thú, muôn hình muôn vẻ. Thờ i bình những hang đô ̣ng này có thể xây dựng thành những điểm tham quan du li ̣ch , khi chiến tranh xảy ra , có thể trở thành các vị trí ém quân hoặc cất giấu kho tàng phục vụ quốc phòng.

Tiếp theo vù ng núi là vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Nông , Thanh Thủy, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hù ng, Phù Ninh. Đây là vù ng đi ̣a hình có thế

23

mạnh kinh tế đồi rừng , đồng thờ i rất thuâ ̣n lơ ̣i cho viê ̣c xây dựng các làng xã chiến đấu , cho luyê ̣n tâ ̣p quân sự và xây cất các kho tàng phu ̣c vu ̣ cho thờ i

chiến. Vùng đồng bằng của tỉnh nhỏ hẹp , chủ yếu nằm ở vùng đất phía Nam

huyê ̣n Lâm Thao và mô ̣t số xã tả nga ̣n sông Đà thuô ̣c huyê ̣n Thanh Thủ y . Đi ̣a hình vùng này bằ ng phẳng , đất đai phì nhiêu , thích hợp với việc trồng lúa nướ c và các loa ̣i cây lương thực , hoa màu. Nơi đây đươ ̣c coi là vù ng kinh tế chiến lươ ̣c củ a tỉnh , cung cấp nhiều nhân tài , vâ ̣t lực cho chiến tranh và rất thuâ ̣n lơ ̣i cho cơ đô ̣ng chiến đấu.

Phó Thä lµ tØnh trung du miÒn nói duy nhÊt kh«ng cã ® êng biªn giíi

quèc gia (kÓ c¶ ® êng bé vµ ® êng biÓn). Nh ng Phó Thä cã vÞ trÝ ®Þa lý quan

träng vÒ quèc phßng. Phú Thọ có những con sông lớn chảy qua đều bắt nguồn

từ phía Nam Trung Quốc , qua đi ̣a phâ ̣n củ a tỉnh là sông Thao , sông Lô, sông Đà vớ i chiều dài 200km đườ ng sông. Cả ba con sông cùng đổ về ngã ba Bạch Hạc (Viê ̣t Trì), tạo nên một vùng đất “sơn chầu thủy tụ” , mô ̣t đầu mối giao thông quan trọng của vùng trung du Bắc Bộ . Từ đây, có thể khống chế con đườ ng giao lưu thủ y bô ̣ nối liền vù ng đồng bằng Bắc Bô ̣ rô ̣ng lớ n và thủ đô Hà Nội với các tỉnh biên giới phí a Bắc Tổ quốc. Ngoài các con sông lớn , trên

, nhỏ như sông Bứa , sông Chảy ,

đi ̣a bà n Phú Tho ̣ còn có nhiều chi lưu lớ n Ngòi Lao , Ngòi Giành , Ngòi Me, Ngòi Lạt… và hàng chục khe , ngòi, suối

khác. Hê ̣ thống sông ngòi trên đi ̣a bàn Phú Tho ̣ không chỉ là nguồn tài nguyên quan thiên nhiên vô giá phu ̣c vu ̣ cho đờ i sống và sản xuất mà còn có tầm

trọng đă ̣c biê ̣t trong giao thông, quốc phòng trên toàn khu vực.

Trải qua năm tháng , Phú Thọ đã có mạng lưới đường quốc lộ , tỉnh lộ,

đườ ng liên huyện, liên xã, liên thôn nối trong toàn tỉnh , vớ i 5 tuyến quốc lô ̣ chạy qua tỉnh có chiều dài hàng trăm ki - lô- mét, trong đó lớ n nhất là quốc lô ̣ số 2- con đườ ng cha ̣y từ thi ̣ xã Hà Giang , qua tỉnh Tuyên Quang , Phú Thọ, Vĩnh Phúc về Hà Nội. Ngoài quốc lộ số 2 còn có các tuyến đường chiến lược

24

khác như đường 32 qua Thanh Thủ y , Thanh Sơn đi Văn Chấn – Nghĩa Lộ –

Sơn La; quèc lé 32B nèi Phó Thä - Yªn B¸i sÏ v ît cÇu Ngäc Th¸p qua s«ng

Hång t¹i thÞ x· Phó Thä, lµ mét phÇn cña ® êng Hå ChÝ Minh; đườ ng 32C từ Hà Nội qua Tam Nông- Cẩm Khê- Hạ Hòa – Yên Bái. Quèc lé 70 xuÊt ph¸t tõ thÞ trÊn §oan Hïng ®i Yªn B¸i - Lµo Cai sang V©n Nam - Trung Quèc hiÖn

®ang ® îc n©ng cÊp ®Ó trë thµnh con ® êng chiÕn l îc Hµ Néi - H¶i Phßng -

C«n Minh (Trung Quèc).

Phú Thọ còn có đường sắt Hà Nội – Lào Cai chạy qua tỉnh có chiều dài

hơn 100km, nối liền với Vân Nam (Trung Quốc ). Tuyến đườ ng sắt này còn nối liền vớ i tuyến đườ ng sắt Hà Nô ̣i – Lạng Sơn, Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội

– Thái Nguyên, Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh.

Bên ca ̣nh hê ̣ thống quốc lô ̣ , hê ̣ thống đườ ng nô ̣i tỉnh tương đối phát

triển và đang ngày càng đươ ̣c mở rô ̣ng , sử a chữa , nâng cấp . Tỉnh còn được , cầu Phong Châu , cầu đầu tư xây dựng nhiều cây cầu lớ n như cầu Viê ̣t Trì Trung Hà , cầu Ngòi Lao , cầu Tứ Mỹ… ta ̣o điều kiê ̣n phát triển kinh tế dân sinh, rất thuâ ̣n lơ ̣i cho viê ̣c cơ đô ̣ng lực lươ ̣ng trong hoàn cảnh chiến tranh.

ường giao thông như vậ y, Phú Thọ tr ở

Vớ i đi ̣a hình và các tuyến đ thành cửa ngõ của thủ đô Hà Nội , là lá chắn quan trọng của các căn cứ địa

, là tấm

Viê ̣t Bắc và Tây Bắc trong các cuô ̣c kháng chiến giải phóng dân tô ̣c đệm giữa vùng Việt Bắc rộng lớn và vùng Tây Bắc mênh mông, hiểm yếu củ a Tổ quốc. Từ Phú Tho ̣ có thể qua Tuyên Quang , Hà Giang lên vùng căn cứ địa Viê ̣t Bắc, qua Sơn La lên Điê ̣n Biên , đi ̣a bàn chiến lươ ̣c quan tro ̣ng . Vớ i vi ̣ trí chiến lươ ̣c lơ ̣i ha ̣i đó , Phú Thọ không chỉ là cử a ngõ củ a cả vù ng Viê ̣t Bắc và Tây Bắc mà còn là mô ̣t vù ng có vị trí chiến lược quan trọng bởi cái thế “Tiến khả dĩ công, lui khả dĩ thủ”.

VÞ trÝ ®Þa lý trªn ®· t¹o ra cho Phú Thọ những thuËn lîi cơ bản trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trong kháng chiến. Trong kháng chiến

25

chống Pháp, với đặc điểm “rừ ng co ̣, đồi chè”, Phú Thọ là căn cứ đứng chân của các đại đoàn chủ lực . “Rừ ng che bô ̣ đô ̣i” vừ a xây dựng , vừ a huấn luyê ̣n ,

cơ đô ̣ng chiến đấu trê n khắp vù ng Bắc Bô ̣ và chi viê ̣n cho các chiến di ̣ch ở Lào. Khi đi ̣ch tấn công thì “rừ ng vây quân thù ” , các lực lượng tác chiến trên đi ̣a bàn Phú Tho ̣ có điều kiê ̣n lơ ̣i du ̣ng đi ̣a hình , đi ̣a vâ ̣t bố trí thế trâ ̣n phòng ngự, bảo toàn lực lượng vừa để tạo thời cơ tiến công tiêu diệt địch , vừ a có thể rút lui an toàn.

Tỉnh Phú Thọ bao gồm 13 huyện, thành, thị là: Thành phố Việt Trì, thị

xã Phú Thọ và các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Cẩm Khê, Yên Lập, Thanh

Sơn, Tân Sơn, Tam Nông, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng, Thanh Thủy.

Về dân số, sau khi tái lập tỉnh có gần 1,3 triệu người, gồm 21 dân tộc

anh em. Người Kinh chiếm đa số với gần 1,2 triệu người, phân bố trên địa bàn

toàn tỉnh. Đứng thứ hai là người Mường với hơn 10 vạn người, sống tập trung

chủ yếu ở các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Thủy. Ngoài ra còn có

người Dao với hơn 6 nghìn người, người Cao Lan hơn 2 nghìn người và một

số dân tộc ít người khác. Các d©n téc M êng, Dao, Cao Lan, M«ng sèng tËp

trung thµnh lµng, b¶n riªng, b¶n s¾c v¨n ho¸, phong tôc tËp qu¸n kh¸ ®Ëm nÐt.

Ngoµi ra, c¸c d©n téc trên còn sinh sèng xen kÏ ë c¸c x·, ph êng, thÞ trÊn,

nhÊt lµ ë c¸c huyÖn Thanh S¬n, T©n S¬n, Yªn LËp, Thanh Thuû, §oan Hïng.

Cư dân Phú Thọ phần lớn có nguồn gốc từ cư dân Văn Lang thời các

vua Hùng dựng nước, con cháu của những thế hệ đã góp phần làm nên nền

văn minh sông Hồng rực rỡ. Phú Thọ là nơi “đất lành chim đậu”, trong quá

trình phát triển của lịch sử dựng nước và giữ nước, đã có nhiều cư dân từ mọi

miền đất nước đến sinh cơ, lập nghiệp. Trải qua quá trình phát triển, hội nhập

và giao lưu, đã có sự đan xen, hòa quyện lẫn nhau, có sự chọn lọc và sáng tạo,

26

lưu giữ và phát triển để tạo nên sức mạnh và trở thành cái nôi của nền văn

hiến đất Việt.

Về truyền thống lịch sử Phú Thọ: Trải qua bao biến thiên của lịch sử,

nhân dân các dân tộc Phú Thọ luôn nêu cao truyền thống lao động cần cù sáng

tạo, truyền thống văn hóa rực rỡ và đặc biệt là truyền thống đấu tranh chống

giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất nước.

Dựng nước đi đôi với giữ nước. Từ buổi đầu dựng nước, lãnh thổ Phú

Thọ thường xuyên bị kẻ thù xâm lược, buộc cư dân Phú Thọ phải đoàn kết để

kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ đất đai quê hương và cuộc sống. Trong

suốt chiều dài lịch sử, các thế hệ cư dân Phú Thọ đã đoàn kết để bảo vệ cộng

đồng và cùng chống ngoại xâm. Những hoạt động đó mang tính vũ trang, trải

qua hàng ngàn năm đã hun đúc nên những kinh nghiệm truyền thống quân sự,

được các thế hệ nối tiếp gìn giữ, phát huy, vận dụng sáng tạo nhuần nhuyễn

thành nghệ thuật quân sự và trí tuệ của văn hóa giữ nước.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù bị đàn áp nặng nề, song các thế hệ

nhân dân Phú Thọ đã bám vào làng xóm, đoàn kết đùm bọc lẫn nhau, dũng

cảm liên tục nổi dậy, lúc công khai, lúc âm thầm đấu tranh chống lại mọi âm

mưu của địch, đã ngăn chặn và dập tắt dần những làn sóng bành trướng và

đồng hóa từ phương Bắc tràn tới. Các làng xã nông nghiệp vẫn giữ là “Thế

giới riêng” của người Đất Tổ. Chính những làng xã cổ truyền ấy là cơ sở để

bảo vệ, nuôi dưỡng những tinh hoa văn hóa dân tộc. Trong cuộc đấu tranh

trường kỳ chống Bắc thuộc, những làng xóm nằm sau lũy tre xanh là những

pháo đài kiên cố chống lại một cách có hiệu quả những âm mưu của kẻ thù.

Thời kỳ phong kiến tự chủ, nhân dân Phú Thọ cùng với nhân dân cả

nước đã tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Thể hiện rõ

nhất là tinh thần chiến đấu dũng cảm của nhân dân Phú Thọ trong cuộc kháng

27

chiến chống Mông – Nguyên thế kỷ XIII. Nhiều trận đánh ngăn chặn địch của

quân dân địa phương diễn ra ở lưu vực sông Thao, sông Lô, sông Đà…

Đầu thế kỷ XV, nhân dân Phú Thọ giúp đỡ nhà Hồ xây dựng phòng

tuyến chống giặc tại Bạch Hạc, do Hồ Xạ chỉ huy. Khi giặc Minh sang xâm

lược nước ta, núi rừng Thanh Sơn, Yên Lập đã vang lên tiếng chiêng của các

đạo quân thiểu số chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Các cuộc khởi nghĩa đó

đã góp phần tiêu hao sinh lực địch, bẻ gãy các cuộc hành quân của chúng trên

đường tiến về thành Đông Quan – Hà Nội.

Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau khi chiếm

được Sơn Tây, ngày 12 tháng 4 năm 1884, quân Pháp tổ chức đánh chiếm

thành Hưng Hóa, thủ phủ của tỉnh Phú Thọ. Nhân dân Phú Thọ đã anh dũng

đứng lên chống Pháp xâm lược. Trong hơn 10 năm kháng Pháp lần thứ nhất,

trên đất Phú Thọ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã anh dũng đứng lên chống

trả một kẻ thù hơn hẳn về sức mạnh quân sự. Cuộc chiến đấu liên tục, bền bỉ

đã diễn ra trên một địa bàn rộng khắp từ miền núi đến miền xuôi. Cuộc chiến

đấu đó đã thể hiện tinh thần quật cường, anh dũng và tình đoàn kết keo sơn

giữa các dân tộc anh em cùng chung chiến hào trong cuộc đấu tranh chống kẻ

thù xâm lược. Mặc dù thất bại, nhưng các cuộc chiến đấu đó đã để lại nhiều

bài học quý báu về cách tổ chức quân đội, cách xây dựng căn cứ, chiến thuật

đánh du kích linh hoạt và cách sử dụng vũ khí sáng tạo; đặc biệt là bài học về

sức mạnh của chiến tranh nhân dân và tinh thần đoàn kết dân tộc trong cuộc

kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho phong trào

cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng sau này phát triển.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cơ bản đã bình định

xong nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Trên địa bàn Phú

Thọ, chúng ráo riết thiết lập các cơ quan hành chính cai trị do người Pháp và

tay sai người Việt nắm giữ, đồng thời tổ chức lực lượng vũ trang và chiếm

28

đóng nhiều nơi trong tỉnh. Chúng thi hành chính sách áp bức bóc lột nặng nề

để bòn rút của cải và hòng làm nhụt tinh thần, khí phách đấu tranh cách mạng

của các tầng lớp nhân dân. Cách thức cai trị đó đã làm cho các mặt kinh tế xã

hội của Phú Thọ bị kìm hãm nặng nề. Trong điều kiện đó, thiên tai, mất mùa

lại thường xuyên xảy ra, làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân vô cùng cực

khổ. Điều đó đã khiến cho lòng căm thù của nhân dân ta đối với kẻ thù xâm

lược càng dâng cao. Vì vậy, tiếng vang của phong trào yêu nước, do các cụ

Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh tổ chức, đã nhanh chóng tác động đến nhân

dân Phú Thọ. Trong đó phải kể đến ảnh hưởng của phong trào Đông Kinh

Nghĩa Thục và tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội, một số cơ sở của tổ chức

này được gây dựng ở Phù Ninh, Văn Lung, Tiên Kiên, Xuân Lũng…

Các tổ chức trên, mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng sự ra

đời và những hoạt động của nó đã chứng tỏ phong trào yêu nước của nhân

dân Phú Thọ luôn luôn sôi nổi và liên tục. Đó cũng là tiếng vang thức tỉnh

lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất đến mọi tầng lớp nhân dân

trong tỉnh.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước kháng Pháp từ cuối thế kỷ XIX

đến đầu thế kỷ XX trên đất Phú Thọ diễn ra sôi nổi, liên tục với tinh thần bất

khuất, quật cường. Truyền thống anh dũng, kiên cường chống giặc ngoại xâm

mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Phú Thọ. Truyền thống tốt đẹp đó ngày

càng được phát huy mạnh mẽ hơn trong hoàn cảnh lịch sử mới khi Đảng ta ra

đời năm 1930 và đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền tiến tới Tổng khởi nghĩa

Tháng Tám năm 1945, thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng các chiến

khu cách mạng, làm căn cứ, bàn đạp cho cuộc tổng khởi nghĩa, tỉnh Phú Thọ

đã xây dựng được các chiến khu du kích như: Chiến khu Vần – Hiền Lương

(Chiến khu Âu Cơ), hai căn cứ du kích Vạn Thắng (Cẩm Khê) và Phục Cổ

29

(Yên Lập) được thành lập. Trong những ngày sục sôi khí thế cách mạng, dưới

sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân và lực lượng vũ trang Phú

Thọ, với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, đã cùng nhân dân toàn

quốc lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc, lập ra nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi đó tạo ra bước ngoặt trong lịch sử dân

tộc nói chung và của Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ nói riêng.

1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực hiện

nhiệm vụ hậu phương cách mạng

Tháng 9 năm 1945, quân đội Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới

Thạch kéo vào nước ta và đến Phú Thọ theo đường sắt Lào Cai – Hà Nội,

theo quốc lộ 2 qua Đoan Hùng và theo đường Lai Châu- Sơn La – Hòa Bình

qua Thanh Sơn. Chúng lấy thị xã Phú Thọ và thị trấn Việt Trì làm nơi đóng

quân và trạm chuyển quân. Chúng tiến hành các hoạt động phá hoại như:

Đánh bắt người trái phép, cướp bóc tài sản của nhân dân, cưỡng hiếp phụ nữ,

đốt nhà dân, thúc ép bọn phản động trong Quốc dân đảng đứng ra lập chính

quyền ở những nơi chúng chiếm đóng. Hành động của quân Tưởng đặt Đảng

bộ, chính quyền và nhân dân Phú Thọ trước muôn vàn khó khăn phức tạp và

thách thức nghiêm trọng.

Trước tình hình phức tạp, khó khăn, vấn đề củng cố và tăng cường vai

trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền,

phát triển đoàn thể cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt. Tháng 9 năm 1945,

Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Vũ Dương, Xứ ủy viên phụ trách các tỉnh Phú

Thọ- Yên Bái- Lào Cai và Tuyên Quang, về thành lập Tỉnh ủy Phú Thọ (lâm

thời), đồng chí Trần Quang Bình (tức Đặng Văn Dĩ) được cử làm Bí thư. Việc

thành lập Tỉnh ủy Phú Thọ có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách

mạng ở địa phương. Từ đây, Tỉnh ủy sẽ trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh

30

chống thù trong, giặc ngoài, giữ vững chính quyền cách mạng và chuẩn bị

kháng chiến.

Một trong những vấn đề cấp bách mà Đảng bộ và chính quyền Phú Thọ

phải tập trung giải quyết là nhanh chóng ổn định đời sống mọi mặt cho nhân

dân. Thực hiện 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Chính phủ và Chỉ thị

“Kháng chiến, kiến quốc” của Trung ương Đảng, hưởng ứng lời kêu gọi của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã động viên nhân dân toàn

tỉnh dấy lên phong trào “nhường cơm, xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, “tăng gia

sản xuất”… Tỉnh ủy chủ trương thành lập Ban khuyến nông phụ trách việc

tăng gia sản xuất và khai khẩn đất hoang ở các cấp từ tỉnh đến xã, nhờ đó, sản

xuất nông nghiệp ở Phú Thọ đều tăng cả diện tích và sản lượng. Nếu một năm

trước đó (từ 19/8/1944 – 19/8/1945), toàn tỉnh chỉ có 147.000 mẫu trồng cây

với tổng sản lượng là 58.325 tấn, thì một năm sau, con số này đã tăng lên

179.570 mẫu với 234.461 tấn lương thực quy ra thóc. Vì thế, nạn đói trong

tỉnh được đẩy lùi, đời sống nhân dân bước đầu được ổn định. Thắng lợi này

không những góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội trong tỉnh mà còn

tạo ra nguồn dự trữ để sau đó giúp nhân dân, nhất là 4 vạn đồng bào miền

xuôi tản cư đến Phú Thọ, sớm ổn định đời sống; tạo thuận lợi cho bộ đội và

các cơ quan đến Phú Thọ trong những ngày đầu kháng chiến.

Ngày 4 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 34/SL

về xây dựng “Quỹ độc lập”; ngày 17 tháng 9 năm 1945, Chính phủ tổ chức

“Tuần lễ vàng” nhằm động viên mọi người dân yêu nước tự nguyện ủng hộ

việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Thực hiện chủ trương của

Đảng và Chính phủ, từ ngày 17 đến 24 tháng 9 năm 1945, nhân dân Phú Thọ

từ thành thị đến nông thôn đã tích cực ủng hộ Chính phủ, chỉ riêng về vàng đã

thu được 15kg, chưa kể tiền bạc, thóc gạo, mâm đồng, chậu thau, lư đỉnh và

31

cả những kỷ vật quý khác. Số vàng thu được tuy không nhiều nhưng biểu thị

tấm lòng yêu nước thiết tha của đồng bào Đất Tổ đóng góp vào quỹ cứu nước.

Trước tình trạng 95% dân số nước ta mù chữ, sau Cách mạng Tháng

Tám, ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh

17/SL thành lập Nha bình dân học vụ; Sắc lệnh 19/SL quy định các địa

phương phải mở lớp bình dân học vụ; Sắc lệnh 29/SL thi hành cưỡng bức việc

học chữ quốc ngữ. Người ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn mù chữ. Người

chỉ rõ: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi

người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,

phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà

và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.[49, tr.36]

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắp các làng xã,

phố phường trong toàn tỉnh đã dấy lên phong trào bình dân học vụ rất sôi nổi,

với nhiều hình thức phong phú, thiết thực. Sau 1 năm, toàn tỉnh Phú Thọ đã

mở được 2.001 lớp bình dân học vụ do 1.970 giảng viên phụ trách, giúp cho

53.324 người thoát nạn mù chữ.

Một trong những đòi hỏi bức thiết sau khi khởi nghĩa thắng lợi ở Phú

Thọ và trước tình hình quân Tưởng kéo vào nước ta là cần có lực lượng vũ

trang đủ mạnh để bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng. Ngày

30 tháng 8 năm 1945, các lực lượng vũ trang Phú Thọ thống nhất thành một

đơn vị tập trung mang tên Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản. Đây là

đơn vị bộ đội chủ lực của tỉnh đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Phú

Thọ.

Vừa chống giặc bảo vệ địa phương, vừa chủ động và kịp thời hưởng

ứng lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức vì đồng bào miền Nam của Trung

ương Đảng, hướng về miền Nam ruột thịt, khắp nơi trong tỉnh, các tầng lớp

nhân dân đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình lên án hành động xâm lược

32

của thực dân Pháp. Hàng trăm thanh niên địa phương đã ghi tên xung phong

Nam tiến. Các đoàn thể cứu quốc vận động đoàn viên, hội viên lao động tập

thể, tổ chức diễn kịch… lấy tiền ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến. Nhân

dân còn tự nguyện ủng hộ tiền bạc, thuốc men, quần áo giúp các chiến sỹ

miền Nam.

Tháng 10 năm 1946, Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng nhận định:

“Không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh

Pháp” [36, tr.133]. Trước tình hình thực dân Pháp ngày càng mở rộng xâm

lược, ngày 18 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp

hội nghị mở rộng khẩn cấp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết

định phát động nhân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trên

phạm vi cả nước để bảo vệ Tổ quốc. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch

Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thi hành chủ trương của

Trung ương Đảng và lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ cùng với cả nước đứng lên tiến hành

cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược.

Trước đó, thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Thường

vụ Trung ương (ngày 25 tháng 11 năm 1945), ngay sau khi đánh tan quân

Quốc dân đảng ở địa phương, Phú Thọ đã chuyển ngay sang thời kỳ khẩn

trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến làm nhiệm vụ hậu phương, bảo vệ cơ

quan, kho tàng của Chính phủ, giúp đỡ đồng bào tản cư; đồng thời tiến hành

phá hoại, tiêu thổ kháng chiến và sẵn sàng chiến đấu. Thời gian bắt đầu toàn

quốc kháng chiến, đóng góp của Phú Thọ cho chiến trường chủ yếu là tổ

chức, đón nhận, giúp đỡ các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, công

binh xưởng của Chiến khu X. Những ngày đầu của kháng chiến, Chủ tịch Hồ

Chí Minh cùng Hội đồng Chính phủ trên đường lên chiến khu Việt Bắc, đã

chọn Phú Thọ làm điểm dừng chân trong thời gian hơn một tháng. Từ cuối

33

năm 1946, đầu năm 1947, 19 cơ quan trung ương đã di chuyển về Phú Thọ

như cơ quan Bộ Quốc Phòng, Quân y viện ở Võ Lao, Đại Đồng; An dưỡng

đường thương binh ở Đào Giã, Trường Đại học Y khoa ở Trung Giáp (Phù

Ninh), các đoàn văn nghệ sỹ ở Ao Châu… và một bộ phận đồng bào miền

xuôi đã tản cư đến Phú Thọ, nhưng phần lớn tập trung ở hai huyện Thanh Ba

và Hạ Hòa. Tuy về lâu dài, số nhân lực đó sẽ là một vốn quý cho vùng hậu

phương này nói riêng và cho cả nước nói chung, nhưng trước mắt là thêm một

khó khăn lớn cho tỉnh.

Tình hình trên đặt ra cho Phú Thọ nhiệm vụ cấp bách là phải nhanh

chóng củng cố địa phương, ổn định trật tự xã hội, cung cấp lương thực cho 4

vạn đồng bào tản cư. Để giúp đồng bào sớm ổn định cuộc sống, Ủy ban kháng

chiến các cấp đã thành lập Ban tản cư, Ban di cư. Các Ban tản cư, di cư và

nhân dân địa phương đã đón tiếp chu đáo, thu xếp nơi ăn, chốn ở, giải quyết

việc làm và đời sống cho đồng bào. Nhân dân trong tỉnh đã nhường bớt nhà

cửa, phương tiện sinh hoạt cho đồng bào tản cư, di cư. Chính quyền các cấp ở

Phú Thọ đã thành lập các trại sản xuất nông nghiệp để tạo việc làm cho đồng

bào tản cư, nhân dân địa phương còn xây dựng các quỹ “nghĩa thương” giúp

đỡ, cho vay vốn liếng, giống má, cho mượn ruộng đất… Nhờ những biện

pháp tích cực và hiệu quả của nhân dân địa phương, nơi ăn, chốn ở cũng như

công ăn việc làm của hơn 4 vạn đồng bào tản cư, di cư dần dần ổn định. Đồng

bào tản cư, di cư cùng đồng bào địa phương đoàn kết gắn bó, chung sức vào

công tác xây dựng hậu phương kháng chiến. Đó là một thuận lợi lớn cho Phú

Thọ trong kháng chiến và sẵn sàng chiến đấu.

Phú Thọ sau ngày toàn quốc kháng chiến vẫn là vùng tự do, có vị trí

chiến lược hết sức quan trọng về quân sự, là cửa ngõ của Việt Bắc, Tây Bắc,

với 47 vạn dân, có núi rừng trùng điệp, nhiều lâm thổ sản, có đồng bằng tuy

nhỏ nhưng cũng đủ để sản xuất lương thực nuôi quân và dân kháng chiến. Phú

34

Thọ lại nằm ở trung tâm Bắc Bộ, rất thuận lợi cho việc cơ động chiến đấu trên

các chiến trường ở Bắc Bộ. Vì vậy, Phú Thọ đã trở thành một căn cứ quân sự,

một hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến. Đầu năm 1947, tranh thủ

điều kiện thuận lợi khi chiến sự chưa lan tới, thực hiện chỉ thị “Kháng chiến,

kiến quốc” của Ban Thường vụ Trung ương, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đề ra

những chủ trương và biện pháp thực hiê ̣n nhi ệm vụ xây dựng hậu phương cơ

bản trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội và chuẩn

bị sẵn sàng chiến đấu chống lại sự xâm lược của kẻ thù.

Về chính trị

Xây dựng và bảo vệ hậu phương về chính trị là một nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến

tranh cách mạng. Vì vậy, việc củng cố và phát triển Đảng, hệ thống chính

quyền các cấp và tổ chức quần chúng trở thành nhiệm vụ trước mắt hết sức

khẩn trương.

Trên thực tế, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ cũng rất chú trọng về lĩnh vực này,

bởi vì đây chính là một trong những nhân tố đã quyết định tới sự thắng lợi của

cách mạng và là một thế mạnh tiềm tàng cần và có thể phát huy được để hoàn

thành các nhiệm vụ của thời kỳ mới. Do đó, Đảng bộ tỉnh đã sớm có các chủ

trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh,

phát huy tính ưu việt của chế độ chính trị dân chủ nhân dân ở các vùng tự do.

Trong công tác xây dựng Đảng, căn cứ vào tình hình thực tế địa

phương, Tỉnh ủy đề ra phương hướng xây dựng Đảng lúc này là: Tích cực

củng cố và phát triển Đảng, làm cho Đảng mang tính chất quần chúng mạnh

mẽ, có cơ sở vững chắc ở các địa bàn quan trọng; phát triển phải đi đôi với

củng cố, tích cực xây dựng chi bộ có đủ khả năng lãnh đạo mọi mặt hoạt động

ở địa phương.

35

Thực hiện phương hướng trên, từ giữa năm 1947, các Ban cán sự Đảng

đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng việc phát triển Đảng vào các vùng

xung yếu ven quốc lộ số 2, dọc sông Hồng, sông Lô, các đồn điền, miền núi

và chú trọng phát triển vào các thành phần công nhân, bần cố nông, dân quân

du kích, phụ nữ… Đến đầu tháng 7 năm 1947, toàn tỉnh có 33 chi bộ với 536

đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị mở rộng về “phát triển Đảng tăng gấp

đôi”, kết hợp đợt “kết nạp Đảng viên lớp tháng Tám” do Ban Thường vụ

Trung ương phát động, nhiều quần chúng có thành tích xuất sắc được kết nạp

vào Đảng. Do đó, đến cuối tháng 12 năm 1947, số đảng viên toàn tỉnh lên tới

1222 đồng chí. Bước sang năm 1948, công tác phát triển Đảng càng được đẩy

mạnh. Đến tháng 12 năm 1948, toàn Đảng bộ đã có 5.493 đảng viên.

Thời kỳ từ 1947 đến 1950, công tác xây dựng Đảng của tỉnh đạt nhiều

kết quả. Tính đến tháng 9 năm 1950, Đảng bộ Phú Thọ đã có 16.152 đảng

viên (chiếm 4,03% dân số của tỉnh). Các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển đến

từng xã, thực sự là nòng cốt lãnh đạo mọi phong trào cách mạng ở địa

phương.

Cùng với công tác xây dựng Đảng, việc củng cố, hoàn thiện bộ máy

chính quyền dân chủ nhân dân được Đảng bộ hết sức quan tâm. Vì đó chính là

cơ quan đảm nhiệm vai trò chỉ đạo trực tiếp sự nghiệp kháng chiến và phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Ngay từ đầu năm 1947, theo chỉ

thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương, Ủy ban kháng chiến được thành

lập bên cạnh Ủy ban hành chính để cùng thực hiện nhiệm vụ chung.

Về công tác Mặt trận, thực hiện chủ trương của Đảng, giữa năm 1947,

Hội Liên – Việt tỉnh Phú Thọ được thành lập. Cùng trong thời gian này, các tổ

chức quần chúng và tổ chức chính trị như Công đoàn, Đoàn thanh niên Việt

Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh cũng được thành lập. Sau khi ra

36

đời, có Mặt trận Việt Minh và các giới cứu quốc làm nòng cốt, Hội Liên –

Việt mau chóng phát triển bộ máy tổ chức hoàn chỉnh từ tỉnh đến cơ sở. Số

lượng hội viên Mặt trận tăng nhanh. Cuối năm 1947, toàn tỉnh có 122.612 hội

viên, đầu năm 1948 đã tăng lên 232.479 hội viên. Các đoàn thể quần chúng

của tỉnh như Đoàn thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu

quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc… thời gian này hoạt động rất sôi

nổi. Cuối năm 1949, tỉnh Phú Thọ đã có 200.000 hội viên các đoàn thể cứu

quốc, tăng trên 7000 hội viên; Hội Liên - Việt cũng tăng 15.750 hội viên so

với năm 1948.

Một trong những vấn đề quan trọng của công tác Mặt trận là vấn đề tôn

giáo. Ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến, Ban Công giáo vận các cấp

của tỉnh đã tiến hành tuyên truyền, giáo dục làm cho đồng bào hiểu rõ đường

lối kháng chiến của Đảng, âm mưu và tội ác của địch… làm cho phần lớn

đồng bào Công giáo giác ngộ, tự nguyện tham gia vào tổ chức và công tác

kháng chiến.

Xây dựng và củng cố hậu phương về chính trị là yếu tố hàng đầu quyết

định sự thành bại của cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh,

Phú Thọ đã xây dựng được hậu phương vững mạnh về chính trị. Sự vững

mạnh về chính trị của hậu phương kháng chiến có ý nghĩa quyết định đối với

các lĩnh vực xây dựng hậu phương về kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội.

Về kinh tế

Xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý

nghĩa quyết định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Thực dân Pháp phá hoại kinh tế của ta,

phong tỏa cả trong và ngoài. Ta phải làm tự cấp tự túc, dù nó có phong tỏa 10

năm, 15 năm ta cũng không sợ.

37

Do nhận thức rõ vai trò của nhân tố kinh tế đối với tiền tuyến trong

chiến tranh, Đảng bộ tỉnh đã hết sức coi trọng việc xây dựng hậu phương về

mặt kinh tế. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ bồi dưỡng sức dân

phục vụ kháng chiến lâu dài, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh đã thành lập

Ban khuyến nông các cấp lo về việc vận động và hướng dẫn nông dân canh

tác, hỗ trợ vốn, giống phát triển sản xuất, tích cực khai hoang phục hóa, thực

hiện khẩu hiệu tấc đất tấc vàng, nên chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân ở các

địa phương đã khai phá hàng vạn mẫu đất hoang, đồi trọc để trồng lúa, ngô,

khoai, sắn… Năm 1948, tổng số diện tích gieo trồng của toàn tỉnh đạt 180.450

mẫu, tăng gần 4000 mẫu so với năm 1947. Những sản phẩm làm ra không

những đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh mà còn dành một phần cho

bộ đội.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ và chính quyền tỉnh

tạm cấp ruộng đất của các đồn điền vắng chủ cho nông dân. Hội đồng tạm cấp

ruộng đất của tỉnh được thành lập và bước đầu chia 30.010 ha đất cho 1.537

gia đình nông dân nghèo. Bình quân mỗi hộ nông dân được cấp từ 5 sào đến

1,2 mẫu [2, tr.186]; Đảng bộ tỉnh tiếp tục vận động nhân dân rào làng, cất

giấu tài sản, đào hầm trú ẩn, tập dượt tản cư, sơ tán, làm “vườn không, nhà

trống”. Chợ búa, trường học… phân tán nhỏ lẻ thành nhiều nơi, tránh tập

trung đông người.

Việc phục hồi các ngành nghề sản xuất thủ công cũng được tỉnh quan

tâm, vì thế, cuối năm 1948, số nghề thủ công như dệt lụa ở Thanh Thủy, dệt

khăn mặt ở Giáp Sơn, dệt vải khổ rộng ở Hạ Hòa… đã góp phần giải quyết

nhu cầu về mặc của nhân dân và giúp đỡ một phần cho bộ đội.

Cùng với việc xây dựng kinh tế, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ

Chí Minh về phá hoại để kháng chiến: “…Bây giờ ta phải phá đi để chặn

Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng… Một nhát

38

cuốc của đồng bào, cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào đầu quân

địch vậy…” [50, tr.25], và thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng về công tác

phá hoại: “…đường sá, cầu cống, xe tàu, lợi cho địch đi thì ta phá. Tất cả

những cái gì giúp cho địch nhìn thấy sáng, nghe thấy xa, nói được xa, cũng

phá. Những kho lương thực, quần áo, đạn dược, đầu máy, xe cộ của địch nhất

định phải đốt, nếu ta không chiếm được để dùng. Hy sinh ít người mà phá

được một kho đạn là lợi được muôn vàn, cứu được muôn người”. “Chỉ phá cái

gì lợi cho địch, hại cho ta. Cái gì ta còn dùng được, chưa phá vội. Nhưng cái

gì ta còn dùng được mà địch sắp chiếm lấy để dùng đánh lại ta, thì phải phá

ngay, không ngần ngừ” . [26, tr.457, 458]

Chấp hành chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy đã lãnh đạo chính quyền,

Mặt trận và các đoàn thể tiến hành đợt tuyên truyền, giải thích rộng rãi trong

nhân dân toàn tỉnh về công tác phá hoại. Ngay từ đầu năm 1947, Đảng bộ đã

động viên nhân dân tham gia “phá hoại để kháng chiến”. Một trong những

nhiệm vụ gấp rút phải làm trong thời kỳ chuẩn bị kháng chiến ở Phú Thọ là

vận động nhân dân tiêu thổ kháng chiến, trước hết ở thị xã, thị trấn, những

đầu mối giao thông quan trọng ở địa phương mà địch có thể chiếm đóng. Đầu

năm 1947, tỉnh Phú Thọ thành lập Ban phá hoại, trong đó có Mặt trận Việt

Minh là thành viên. Tháng 6 năm 1947, khi các cơ quan tỉnh, huyện rời khỏi

thị xã, thị trấn, Tỉnh ủy đã lệnh cho các đơn vị làm nhiệm vụ phá hoại phải

đánh sập các dinh thự, công sở, nhà cửa kiên cố, không để cho địch có chỗ trú

chân. Với tinh thần “Tất cả để kháng chiến”, nhân dân chấp nhận hy sinh,

gian khổ, tự tay phá đi nhiều công trình đã đổ biết bao mồ hôi, công sức xây

dựng nên. Trước hết, “Ban phá hoại” vận động nhân dân tự phá đi nhà cửa

của mình. Ở thị xã Phú Thọ, có tới 90% các công sở, tư gia kiên cố bị phá

hủy. Chỉ tính riêng trong 8 tháng đầu năm 1947, tỉnh Phú Thọ đã phá sập

1.315 ngôi nhà gạch được xây kiên cố (toàn tỉnh lúc đó có 1550 nhà xây),

39

trong đó có Nhà máy giấy Việt Trì và một số đồn trại, công sở kiên cố ở các

thị xã, thị trấn. Đến khi có lệnh tích cực đề phòng địch tấn công, các đường

sá, cầu cống ở tỉnh tiếp tục được phá hoại. Trên đường quốc lộ số II, nhân dân

đã đắp 9 ụ “chướng ngại vật” cao từ 3 đến 8 mét. Nhiều quãng đường liên

huyện, liên xã trong tỉnh được xẻ hố “chữ chi”, 42 cầu cống trên đường sắt,

đường bộ đều bị đánh sập nhằm cản trở xe cơ giới địch. Quân và dân Phú Thọ

đã góp hàng chục vạn ngày công và tự tay phá hoại số nhà cửa trị giá trên 300

triệu đồng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Việc phá hoại đường sắt cũng

được tiến hành khẩn trương. Lực lượng công nhân cùng với nhân dân đã bóc

dỡ toàn bộ tuyến đường sắt dài gần 100km từ Việt Trì đi Yên Bái và phá các

cầu đường sắt đi qua trên địa bàn tỉnh.

Nhìn tổng quát, công tác tiêu thổ kháng chiến ở Phú Thọ đã thực sự gây

trở ngại lớn cho giặc Pháp. Phá hoại và tiêu thổ kháng chiến tuy là việc bất

đắc dĩ, nhưng có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Nó thể hiện tinh thần bất khuất,

kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, làm chậm bước tiến quân của

giặc, tạo điều kiện cho ta tiêu hao sinh lực địch, phù hợp với điều kiện của ta

vũ khí ít, thô sơ, chống trả với đội quân xâm lược nhà nghề có vũ khí tối tân

của Pháp.

Về quân sự

Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, Đảng bộ chủ trương

phát triển lực lượng vũ trang 3 thứ quân. Quán triệt đường lối kháng chiến của

Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang, với tư tưởng chỉ đạo “Động viên và tổ

chức toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng. Đồng

thời, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực,

bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc”

[38, tr. 120]. Thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng, đầu năm 1947, các

cơ quan quân sự địa phương từ tỉnh đội đến huyện đội, xã đội được thành lập,

40

đồng thời sáp nhập tổ chức tự vệ và tự vệ chiến đấu thành dân quân du kích.

Năm 1947, toàn tỉnh có 2.500 du kích, đến cuối năm 1950, tổng số du kích

toàn tỉnh đã có 80.013 người [2, tr.194]. Ngoài lực lượng công khai, Tỉnh ủy

còn hướng dẫn các địa phương xây dựng các đội “du kích ngầm”, tức du kích

bí mật ở những nơi xung yếu. Đây là sự chuẩn bị hoạt động trong trường hợp

địa phương bị địch chiếm đóng.

Bên cạnh lực lượng dân quân du kích ở địa phương, năm 1949, tỉnh

Phú Thọ xây dựng Tiểu đoàn 450 và năm 1950, xây dựng thêm Tiểu đoàn 72

bộ đội địa phương. Các đơn vị này có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị bộ

đội chủ lực như Trung đoàn Sông Lô (ở tả ngạn sông Thao), Tiểu đoàn 221,

Tiểu đoàn 652 và Đại đội độc lập 844 ở Tây - Nam Phú Thọ làm nhiệm vụ

bảo vệ hậu phương và chặn đánh các cuộc càn quét của địch lên căn cứ.

Lực lượng vũ trang được đưa vào huấn luyện trong kỳ “Luyện quân lập

công” mùa Hè. Bộ đội chủ lực và du kích được bố trí ở những nơi địch có thể

tiến quân. Qua một thời gian trực tiếp chiến đấu, thử thách, các đại đội bộ đội

địa phương đã trưởng thành, đủ sức đảm nhiệm thay thế bộ đội chủ lực, có thể

tác chiến độc lập với địch và dìu dắt, huấn luyện cho các đội dân quân du kích

xã đánh địch bảo vệ địa phương. Ở tất cả các xã đều có Ban chỉ huy Quân sự

xã đội và lực lượng dân quân du kích. Tổng số dân quân, du kích trong toàn

tỉnh năm 1948 là 31.099 người. Nhiệm vụ của lực lượng tự vệ chủ yếu là tuần

tra canh gác bảo vệ sản xuất, mùa màng, đồng thời, khi chiến sự lan tới địa

phương thì tham gia đánh giặc cùng với du kích tập trung và bộ đội chủ lực.

Lực lượng này chính là nguồn bổ sung cho bộ đội địa phương.

Trong công cuộc bảo vệ hậu phương, cùng với lực lượng vũ trang 3 thứ

quân, lực lượng công an cũng có vai trò hết sức quan trọng, lực lượng công an

của tỉnh đã phối hợp với dân quân du kích các đơn vị tích cực tham gia bảo vệ

41

các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, đồng thời góp phần đắc lực

vào việc giữ gìn an ninh trật tự, tính mạng và tài sản của nhân dân.

Cùng với việc lãnh đạo nhân dân chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến,

Đảng bộ Phú Thọ đã tổ chức chỉ đạo quân dân các địa phương đối phó lại

những cuộc tấn công càn quét, đánh phá của địch lên địa bàn tỉnh, bảo vệ hậu

phương.

Ngày 7 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô

lớn nhất từ khi chiến tranh nổ ra trên phạm vi toàn quốc lên Việt Bắc, nhằm

phá cơ quan đầu não kháng chiến và tìm diệt bộ đội chủ lực của ta. Với lực

lượng khoảng 12.000 quân, gồm các binh chủng: thủy, lục, không quân. Các

lực lượng lính dù, do Trung tá Xô- va- nhắc chỉ huy, nhảy xuống thị xã Bắc

Kạn, Chợ Mới, một cánh quân gồm 1 binh đoàn bộ binh, do Đại tá Bô- phrê

chỉ huy, có máy bay yểm trợ, từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, về Bắc Kạn.

Một cánh quân gồm 1 binh đoàn thủy quân, do Trung tá Com-muy-nan chỉ

huy, từ Hà Nội theo đường sông Hồng lên sông Lô rồi từ Việt Trì lên Tuyên

Quang. Cả 2 cánh quân hình thành thế gọng kìm bao vây Việt Bắc.

Ngày 10 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp từ Sơn Tây vượt sông

Hồng sang đánh chiếm Việt Trì, sau đó đoàn tàu chiến của địch từ Việt Trì

xuất phát ngược sông Lô. Khi tiến lên sông Lô, sau những lần bị ta chặn đánh,

ngoài lực lượng trên tàu chiến, địch dùng bộ binh càn quét hai bên bờ sông.

Bộ binh Pháp đánh ra Cầu Hai, đóng bốt ở Trạm Thản, đóng quân ở Đoan

Hùng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, quân dân Phú Thọ đã tập

kích, phá tan bốt giặc ở Trạm Thản, tập kích vào Đoan Hùng, giải thoát được

số đồng bào bị địch bắt khiêng vác đạn cho chúng.

Thực hiện Chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc

Pháp” của Trung ương Đảng, quân dân Phú Thọ đã sát cánh cùng bộ đội chủ

lực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Ngày 23 tháng 10 năm 1947, Pháp dùng

42

tàu vận tải chở quân và hàng tiếp viện theo đường sông Lô lên Tuyên Quang.

Tại bến Khoan Bộ (Lập Thạch), chúng đã bị bộ đội và du kích Tràng Sào

(Phù Ninh), phối hợp với lực lượng pháo binh chặn đánh quyết liệt, bắn cháy

1 ca nô, 1 tàu chiến của địch.

Do thất bại trên các hướng tiến quân, Pháp phải rút khỏi Việt Bắc theo

đường sông Lô. Bộ Tư lệnh Liên khu X tổ chức lực lượng đón đánh. Dân

quân du kích xã Chí Đám, Hữu Đô lấy bưởi bôi đen, xâu dây chăng ngang

sông giả làm thủy lôi lừa địch. Nhân dân các xã trong huyện Đoan Hùng, Phù

Ninh chuẩn bị nhiều lương thực, thực phẩm tiếp tế cho bộ đội và du kích.

Ngày 24 tháng 10 năm 1947, Com-muy-nan ra lệnh cho đoàn thủy binh, gồm

5 tàu chiến chở đầy quân có 6 máy bay yểm trợ, từ Tuyên Quang xuôi dòng

sông Lô về đón đồng bọn. Đến Chí Đám (Đoan Hùng), tốp lính địch rơi vào

trận địa mai phục. Pháo binh, bộ binh, dân quân du kích các xã Chí Đám, Hữu

Đô và các xã lân cận cùng đồng loạt nổ súng, giáng những đòn mạnh mẽ vào

đoàn tàu địch. Các hoạt động nghi binh cũng nhất loạt thực hiện như: thả thủy

lôi giả trên sông, đốt khói thu hút máy bay địch, nổ pháo trong thùng sắt, gõ

kẻng, mõ liên hồi… để uy hiếp tinh thần quân giặc. Dưới làn bom đạn của

không quân và thủy đội địch, các chiến sỹ pháo binh, bộ binh của ta vẫn gan

dạ chiến đấu. Trong khoảng khắc, 2 chiếc tàu và ca nô của địch đã trúng đạn

bốc cháy, bị nhấn chìm tại chỗ, 2 chiếc bị thương không dám chống cự, kéo

nhau tháo chạy. Số lính địch nhảy xuống sông, bị bộ binh và pháo binh bắn,

máu loang đỏ dòng sông, Pháp phải căng lưới thép ở đoạn sông Việt Trì để

đón vớt xác binh lính chúng.

Trong trận đánh lịch sử này, lực lượng vũ trang và nhân dân Phú Thọ

phối hợp chiến đấu, đánh chìm 2 tàu chiến, 1 ca nô, bắn bị thương 2 chiếc

khác, bắn rơi 1 thủy phi cơ, tiêu diệt hơn 300 tên, thu một khẩu pháo 105 ly,

43

10 súng cối, 4 trọng liên, hàng chục trung liên, 200 súng trường và tiểu liên,

hàng ngàn tấn đạn dược, bổ sung cho lực lượng vũ trang. [1, tr.102, 104].

Chiến thắng Sông Lô – Đoan Hùng là một trong những chiến thắng lớn

của quân và dân Việt Bắc, trong đó có sự đóng góp tích cực của quân và dân

Phú Thọ, bước đầu làm phá sản âm mưu của địch trong cuộc tiến công Thu –

Đông năm 1947. Đến trung tuần tháng 12 năm 1947, cuộc tiến công Việt Bắc

đã bị đánh bại, chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp bị

phá sản.

Với tinh thần chiến đấu bảo vệ quê hương – hậu phương kháng chiến,

quân dân Phú Thọ đã bảo toàn được lực lượng, giữ vững hậu phương, góp

phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc chuyển sang giai đoạn mới.

Về văn hóa - xã hội

Quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng một nền văn hóa kháng

chiến, dân chủ mới theo các nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng, nhằm

làm cho hậu phương có đời sống văn hóa lành mạnh, ưu việt và những con

người có tinh thần yêu nước, căm thù đế quốc phong kiến, hăng hái tham gia

kháng chiến kiến quốc, trong những năm 1946 – 1950, nhiệm vụ của ngành

giáo dục vẫn là tập trung vào việc xóa nạn mù chữ, từng bước phát triển nền

giáo dục phổ thông. Do có sự chỉ đạo chặt chẽ nên phong trào thi đua diệt

giặc dốt, dạy và học chữ quốc ngữ dấy lên sôi nổi ở khắp các địa phương

trong tỉnh. Ban ngày, mọi người miệt mài sản xuất, luyện tập quân sự, tối lại

tích cực đến các lớp học bình dân. Đến tháng 12 năm 1950, các huyện Thanh

Ba, Hạ Hòa, Cẩm Khê, Lâm Thao đã thanh toán xong nạn mù chữ. Các huyện

khác, số người biết đọc, biết viết tăng lên đáng kể.

Năm học 1946 – 1947, toàn tỉnh mới có 236 lớp với 126 giáo viên và

4.623 học sinh; năm học 1949 – 1950 đã tăng lên 286 lớp với 287 giáo viên

và 9.735 học sinh. Kết thúc niên học 1949- 1950, toàn tỉnh đã có 2.388 học

44

sinh tốt nghiệp tiểu học và 1.294 học sinh trúng tuyển vào bậc trung học, đạt

tỷ lệ 75 – 85%. [2, tr. 189]

Đi đôi với phát triển ngành giáo dục, ngành văn hóa thông tin của tỉnh

cũng có chuyển biến tích cực, nhất là làm nhiệm vụ tuyên truyền đường lối,

chính sách của Đảng và Chính phủ, vận động nhân dân thi đua ái quốc và

tham gia kháng chiến.

Một số ban ngành của tỉnh cũng xuất bản và ban hành một số bản tin và

đặc san như “Truyền tin”, “Cầm cự”, “Tia sáng”…, qua đó, các chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng về kháng chiến, kiến quốc đến được với quần

chúng và động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia kháng

chiến.

Công tác y tế được đặc biệt chú ý phát triển. Ngoài việc phục vụ nhân

dân, ngành y tế còn làm thêm nhiệm vụ đào tạo cán bộ y tế và xây dựng một

số cơ sở khám, chữa bệnh cho bộ đội và thương binh. Ngành y tế bước đầu

xây dựng được 6 phòng phát thuốc và điều trị cho dân quân du kích, 1 bệnh

viện. Ở các xã cũng có 33 trạm phát thuốc và cứu thương.

Việc giải quyết các chế độ chính sách cho thương binh, bệnh binh, tử sĩ

và cứu tế được Tỉnh ủy chỉ đạo kịp thời. Ngoài việc bảo đảm chế độ như an

dưỡng, tử tuất… các cơ quan đoàn thể nhân dân đã hết sức giúp đỡ, thăm hỏi,

tặng quà. 6 tháng đầu năm 1950, có trên 50 thương binh được giới thiệu đi

nhận công tác ở các cơ quan.

Những kết quả hoạt động trên lĩnh vực văn hóa – xã hội đã thể hiện sự

nỗ lực rất cao của Đảng bộ và nhân dân địa phương trong những năm đầu của

cuộc kháng chiến. Những kết quả đó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, tạo

thêm niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vào

thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến.

45

Về chi viện cho tiền tuyến

Trong những năm đầu kháng chiến, nhân dân tỉnh Phú Thọ đã liên tục,

và bằng nhiều hình thức, đóng góp vật chất, tài chính cho kháng chiến. Thông

qua “Hội bảo trợ du kích”, “Ban bảo trợ dân quân”, “Hội nuôi quân”, và các

cuộc vận động lớn như “Mùa Đông binh sĩ”, góp cổ phần vào xưởng vũ khí…

nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã ủng hộ lực lượng vũ trang địa phương tiền

và một số lượng lớn vũ khí thô sơ, lương thực, quần áo. Chỉ trong một ngày

của cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ”, tại Hanh Cù (Thanh Ba), nhân dân đã

ủng hộ 49 chiếc áo trấn thủ, 12 chiếc chăn và 34.592 đồng, trong đó, xã Tân

Trào (Vụ Cầu và Vĩnh Chân hiện nay) là 20.000 đồng, xã Âu Cơ (Động Lâm

và Hiền Lương hiện nay) 10.000 đồng, thiếu nhi Lâm Thao ủng hộ 2 chăn

đơn, anh em lao động vận tải cũng đóng góp 45 đồng. Cuộc vận động ủng hộ

“Binh sĩ bị nạn” từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1947 đã thu được 20.212 đồng

[55, tr.1].

Năm 1948, hưởng ứng phong trào “Luyện quân lập công” của các lực

lượng vũ trang trong tỉnh, nhân dân đã ủng hộ lương ăn cho các chiến sĩ tham

gia diễn tập. Phong trào ủng hộ dân quân du kích và bộ đội địa phương cũng

diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong các đoàn thể, tổ chức quần chúng với các hình

thức ủng hộ hết sức phong phú, đa dạng. Đặc biệt, đợt phát động mua Công

phiếu kháng chiến, ngày 23 tháng 7 năm 1948, được nhân dân toàn tỉnh

hưởng ứng tích cực. Tính đến ngày 15 tháng 5 năm 1950, toàn tỉnh đã bán

được 2.102.200 đồng, trong đó Công phiếu kháng chiến hạng A là 1.184.200

đồng, hạng B là 543.000 đồng, hạng C là 115.000 đồng, hạng D là 260.000

đồng.

Theo Chỉ thị số 09 ngày 21 tháng 10 năm 1949 của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy, cuộc vận động “Hũ gạo nuôi quân” diễn ra rộng rãi, các xã đều đạt

được mức quy định hàng tháng là 100kg/ tháng và 600kg/ tháng tùy vào tình

46

hình sản xuất và chiến sự ở địa phương. Cuộc vận động đã trở thành một

phong trào quần chúng rộng rãi, thường xuyên nhắc nhở mọi người dân trong

tỉnh thực hiện nghĩa vụ kháng chiến và trách nhiệm xây dựng lực lượng vũ

trang địa phương.

Vấn đề động viên toàn dân tham gia công tác kháng chiến được Tỉnh

ủy hết sức chú ý. Riêng trong năm 1949, toàn tỉnh đã huy động được 25 vạn

ngày công vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm cho bộ đội.

Năm 1950, nhân dân tỉnh Phú Thọ đã kết hợp với tỉnh Tuyên Quang sửa chữa

đường quốc lộ 2 và đường liên tỉnh số 11. Ở 2 tuyến đường này, Phú Thọ đã

huy động 7.855 nhân công với trị giá tiền chi là 16.876.818 đồng. Tuyến

đường sắt từ Tiên Kiên đến thị xã Phú Thọ do địch dùng mìn phá hủy, tỉnh đã

huy động 86.436 nhân công tham gia để sửa lại, nối được 13.550m đường, thu

thập được 28.950 thanh ray, 90.313 thanh tà vẹt, chi hết 1.500.000 đồng [1,

tr.152]. Kết quả sửa chữa đường sá, cầu cống, đê điều đã tạo điều kiện thuận

lợi trong việc vận tải và thúc đẩy kinh tế ở các vùng trong tỉnh, đáp ứng cao

nhất cho tiền tuyến chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.

Thực hiện kế hoạch chuẩn bị chiến dịch Thu Đông của tỉnh, mỗi xã

thành lập một trung đội tải thương, một trung đội dân công, đồng thời thành

lập ở mỗi thôn một tiểu đội tiếp tế, tiểu đội này có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn

những đồ dùng như nồi, sanh và mỗi thôn chuẩn bị sẵn 5 cáng cứu thương.

Việc động viên nhân dân đóng góp nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến

được đẩy mạnh. Số thóc quân lương thu được trong năm 1949 là 4.000 tấn,

tiền đảm phụ quốc phòng là 4.212.530 đồng và thu về từ Công phiếu kháng

chiến được 836.800 đồng. Đợt vận động nhân dân trong tỉnh bán thóc cho

Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân (từ ngày 16 tháng 8 năm 1949 đến ngày 2

tháng 9 năm 1949) đã thu mua được 156.127kg thóc, vượt kế hoạch trên giao.

Riêng Hội phụ nữ tỉnh đã vận động chị em xay giã giúp bộ đội 8.200 kg thóc,

47

ủng hộ 60.069 đồng, 3.900 gánh củi, 2.500 kg gạo, 200 chiếc khăn mặt và

trên 500 ngày công tiếp tế, khâu vá quần áo cho các chiến sỹ.

Để huy động sức người, sức của cho kháng chiến, ngày 12 tháng 2 năm

1950, Chính phủ ban hành sắc lệnh Tổng động viên theo khẩu hiệu “Tất cả

cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Để thực hiện tốt lệnh Tổng động viên

của Đảng, Phú Thọ đã phát động toàn dân hướng ra tiền tuyến, tất cả cho

chiến thắng. Toàn tỉnh đã động viên 1.198 thanh niên tòng quân, 27.339 lượt

người phục vụ các chiến dịch, 25.820 nhân công sửa chữa đường giao thông,

tu sửa đê và hàng ngàn dân công phục vụ yêu cầu đột xuất của quân đội; huy

động được 48.391,8 kg gạo, 352,8 kg thóc, thu được 3.305.589,5 đồng. Mỗi

thôn, xã đều chuẩn bị 20 tạ gạo tẻ, 5 tạ gạo nếp, 1 tạ miến, 10 con bò, 20 con

lợn và 10 cáng thương, cùng với số bát đĩa, xoong nồi đủ dùng cho một tiểu

đoàn, sẵn sàng phục vụ khi có chiến sự sảy ra.

Để bảo đảm hậu cần cho bộ đội địa phương, sau Hội nghị dân quân

Trung du và Hội nghị Tỉnh ủy (tháng 8 năm 1948), Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra

liên tiếp hai chỉ thị (ngày 21 và 22 tháng 10 năm 1949) về trang bị và cấp

dưỡng cho bộ đội địa phương. Với tinh thần “Mỗi người là một hội viên hội

nuôi quân”, “Mỗi gia đình là một lọ gạo nuôi quân”, nhân dân trong tỉnh đã

đóng góp lương thực, thực phẩm trang bị cấp dưỡng cho bộ đội. Cụ thể, trong

6 tháng đầu năm 1950, toàn tỉnh thu được 33.534kg gạo, 7.700kg thóc, 1.520

kg khoai, sắn và 2.350.748 đồng. Đặc biệt, sau chiến thắng Biên giới Thu

Đông năm 1950, phong trào ủng hộ nuôi quân trong tỉnh phát triển rất mạnh,

trong 3 tháng cuối năm 1950, tỉnh đã thu được 8.411.914,5 đồng, 60.950,8kg

gạo, 12.787 kg thóc, 1.750 bộ quần áo, 1.750 chiếc áo trấn thủ, 875 chiếc

chăn. Cả năm 1950, Hội nuôi quân đã thu được 158 tấn gạo từ “Lọ gạo nuôi

quân”, 40 tấn thóc và 12 triệu đồng để nuôi bộ đội địa phương. Các ban bảo

48

trợ du kích được lập ra ở một số địa phương như Thanh Ba (xã Ba Triệu, Vũ

Yển), Hạc Trì (xã Minh Khai, Hùng Lô)…

TIỂU KẾT CHƢƠNG I

Trong những năm 1946 – 1950, do nhận thức đúng đắn về vai trò của

hậu phương đối với tiền tuyến, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã lãnh đạo, chỉ đạo

từng bước xây dựng được hậu phương vững mạnh về mọi mặt chính trị, quân

sự, kinh tế, văn hóa, quân sự, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn; xây dựng Phú

Thọ thành một hậu phương vững mạnh, vừa đảm bảo yêu cầu phục vụ đời

sống nhân dân, vừa chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Đây là thời kỳ chuyển

biến mạnh mẽ của quân và dân tỉnh Phú Thọ trong việc thực hiện nhiệm vụ

kháng chiến, kiến quốc và xây dựng chế độ mới do Đảng lãnh đạo. Những kết

quả trong việc xây dựng hậu phương ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến,

đảm bảo cho quân và dân Phú Thọ đánh thắng các trận càn của địch, tham gia

vào những chiến dịch lớn nhằm bảo vệ quê hương và góp phần vào những

thắng lợi chung của dân tộc.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ dân chủ mới,

hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc của địa phương đều được Mặt trận các

cấp phối hợp thực hiện, đạt kết quả tốt, tạo nên một hình thái chiến tranh nhân

dân với điều kiện hậu cần tại chỗ. Phong trào thi đua ái quốc, được phát động

ngay sau chiến thắng Việt Bắc, đã góp phần xây dựng nên truyền thống yêu

nước và cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh và lực lượng

chính trị của tỉnh ngày càng hùng hậu, tạo thành động lực mạnh mẽ, động

viên quân và dân trong tỉnh ra sức đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến của nhân

dân ta mau đến thắng lợi.

49

Chƣơng 2

ĐẢ NG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ

HẬU PHƢƠNG TƢ̀ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1954

2.1 Bối cảnh của cuộc kháng chiến và những vấn đề đặt ra trong xây

dƣ̣ng hâ ̣u phƣơng cách mạng

Trải qua những năm đầu của cuộc kháng chiến, lực lượng của ta ngày

một lớn mạnh, thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.

Bên cạnh những thắng lợi về quân sự, chúng ta còn giành được những thành

tựu quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính quyền dân chủ

nhân dân ngày càng phát huy được vai trò lãnh đạo toàn dân tham gia kháng

chiến, kiến quốc.

Năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã phát triển về mọi mặt,

nhất là về mặt ngoại giao và quân sự. Chiến thắng Biên giới Thu – Đông 1950

đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của cuộc kháng chiến, mở ra bước ngoặt

lớn của cuộc kháng chiến, khiến những cố gắng của giặc Pháp trong âm mưu

bình định vùng chiếm đóng, huy động tiềm lực tại chỗ, sử dụng chính quyền

và quân đội tay sai của chúng đang từng bước bị phá sản. Thực dân Pháp rơi

vào tình thế mất quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ,

buộc phải rút bỏ hàng loạt địa bàn và vị trí quan trọng. Bọn bù nhìn tay sai

càng bộc lộ rõ sự bất lực, không có cơ sở trong nhân dân, không có điều kiện

để giúp Pháp cải thiện tình thế vốn đang rất nghiêm trọng. Thực dân Pháp

nhận rõ thực tế là không thể thắng bằng quân sự, ý chí xâm lược của chúng bị

lung lay. Đây là lần đầu tiên ta mở một chiến dịch tiến công quy mô lớn thắng

lợi, đánh vào một tuyến phòng thủ mạnh của địch, vòng vây biên giới bị quân

và dân ta phá tan, “Hành lang Đông Tây” bị chọc thủng, các “xứ tự trị” bị tan

vỡ. Với thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, ta mở được đường giao thông

quốc tế, nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa sau 5 năm bị chủ

50

nghĩa đế quốc bao vây, đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ

và Liên khu IV được thông suốt. Thắng lợi của chiến dịch đã làm thay đổi cục

diện chiến trường có lợi cho ta. Từ đây, quân dân ta đã giành được quyền chủ

động trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Cũng trong thời gian này, phong trào cách mạng của nhân dân thế giới,

nhất là sự lớn mạnh của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, sự

hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự thành công của cách

mạng Trung Quốc đưa tới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

(1.10.1949), đã trở thành nhân tố thuận lợi cổ vũ và ủng hộ có hiệu quả sự

nghiệp kháng chiến của Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ

nhân dân lần lượt công nhận, đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta, đồng

thời tận tình giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến của Việt

Nam. Từ đây, hậu phương kháng chiến của ta hình thành ba tầng: tại chỗ, cả

nước và phe xã hội chủ nghĩa, kết hợp tự lực tự cường với sự đoàn kết ủng hộ

của quốc tế.

Quân đội Pháp tuy bị thất bại nặng nề, nhưng ở Đông Dương chúng

vẫn còn một lực lượng lớn, với gần 34 vạn quân, vũ khí trang bị còn dồi dào,

lại được Mỹ tăng cường viện trợ. Để giành lại quyền chủ động trên chiến

trường, thực dân Pháp thay đổi Tổng chỉ huy, tiến hành những biện pháp

chiến lược khác nhau với tham vọng thay đổi cục diện chiến tranh Đông

Dương. Những kế hoạch, biện pháp mới của địch, cụ thể là kế hoạch của

Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương là Đờ

Lát đờ Tát – xi – nhi, đã gây không ít khó khăn cho ta.

Có thể thấy, từ năm 1951, mặc dù cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn

quyết liệt nhưng tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều

chuyển biến mới thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Sự ủng hộ về tinh thần

và vật chất của các nước anh em đã tạo điều kiện cho quân và dân ta đẩy

51

mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới. Yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng

đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: vượt qua mọi khó khăn gian

khổ, vươn lên đáp ứng những đòi hỏi của cuộc kháng chiến; hoàn chỉnh và bổ

sung đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến cho phù hợp với thực tiễn,

kịp thời đề ra những chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy kháng chiến

thắng lợi. Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng

được triệu tập để giải quyết những vấn đề kháng chiến cấp bách đang đặt ra.

Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt

Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một đảng cách mạng riêng cho phù hợp với

sự phát triển mới của cách mạng và kháng chiến của từng nước. Ở Việt Nam,

Đảng đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân,

nhân dân lao động, Đảng của dân tộc Việt Nam.

Đại hội khẳng định đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường

kỳ và tự lực cánh sinh” của Đảng đề ra trong những năm đầu của cuộc chiến

tranh là đúng đắn. Nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới là lãnh đạo quân

dân ta: “Đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao

động Việt Nam”, trong đó nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng là phải đưa

kháng chiến đến thắng lợi. Vấn đề xây dựng hậu phương được Đại hội coi là

“một vấn đề chiến lược quan trọng ngang hàng với vấn đề xây dựng lực lượng

vũ trang. Vì hậu phương chính là nơi bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực,

vật lực cần thiết để phát triển quân đội và đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng

chiến”.

Tình hình mới đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện hơn nữa của Đảng để đẩy

mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Với điều kiện lịch

sử đó, để đáp ứng tình hình mới, yêu cầu xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu

phương cần được tập trung và tích cực hơn.

52

Những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước đã tác động

mạnh mẽ đến phong trào kháng chiến ở Phú Thọ.

2.2 Chủ trƣơng của Đảng bộ Phú T họ trong thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u

phƣơng cá ch ma ̣ng trên địa bàn tỉnh.

2.2.1 Tình hình chung của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc kháng

chiến toàn diện tới thắng lợi.

Ở địa bàn Phú Thọ, do bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch Lê Hồng

Phong (10 – 1950) và bị đánh mạnh trên các chiến trường khác, địch buộc

phải rút bỏ một số vị trí phía Tây Nam tỉnh, chỉ để lại hai vị trí Việt Trì (Hạc

Trì) và Hạ Nông (Tam Nông) làm tiền tiêu bảo vệ cho phòng tuyến sông Đà

và khu vực chiếm đóng thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Bộ chỉ huy Pháp luôn coi Phú

Thọ là một hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến và tiếp tục chống

phá ta về nhiều mặt. Địch triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, đồng

thời thường xuyên đánh phá với quy mô và mức độ ngày càng tăng. Chúng

liên tiếp tổ chức những cuộc càn quét ra vùng tự do, cho quân sục sạo, vơ vét

của cải, phá hoại mùa màng, bắt người, cướp của, dùng máy bay, đại bác bắn

phá đường giao thông vận tải, kho tàng, các vị trí xung yếu, tung biệt kích do

thám, thăm dò lực lượng của ta. Song, trong bối cảnh của chiến trường Bắc

Bộ và Bắc Đông Dương, cuộc kháng chiến của ta đang trên đà phát triển

thuận lợi, quân dân Phú Thọ đã làm tất cả để bảo vệ mình, góp phần tiêu diệt

địch, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, ngày 30 tháng 3 năm 1951, Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ III được tổ chức tại xã Văn Lang,

huyện Hạ Hòa. Đại hội đã nghiên cứu các văn kiện của Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ II, nhất trí với đường lối và nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn

mới của cách mạng mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã đề ra. Đại hội đã

thông qua Nghị quyết về phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội; về củng cố

53

chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, làm chỗ dựa

cho hậu phương kháng chiến; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và chú

trọng công tác xây dựng Đảng… Đó là những vấn đề trọng tâm của tỉnh cần

tập trung thực hiện trong thời kỳ này.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đánh dấu bước trưởng thành về chính

trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng bộ. Đại hội đã tập trung được trí tuệ của

toàn Đảng bộ, đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp để đưa sự nghiệp

kháng chiến của tỉnh tiến lên những bước vững chắc, tạo cho quần chúng

niềm tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cổ vũ quân và

dân trong tỉnh hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, tiết kiệm, góp phần thúc đẩy

sự nghiệp kháng chiến mau chóng đi đến thắng lợi.

2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và quá trình chỉ đạo thực hiện

nhiệm vụ hậu phương cách mạng

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và Đại hội

Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ III (năm 1951), toàn tỉnh triển khai công tác

chính trị, kinh tế, văn hóa nhằm tăng cường khả năng kháng chiến, đồng thời

phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hậu phương, quân dân Phú

Thọ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, đã đẩy mạnh hoạt động xây

dựng và bảo vệ hậu phương trên tất cả các mặt.

Về chính trị:

Phú Thọ tuy phải đối phó với các cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác

liệt của địch, nhưng về cơ bản vẫn là vùng tự do, hậu phương quan trọng của

Liên khu Việt Bắc, vì vậy, Đảng bộ hết sức chú trọng việc xây dựng và kiện

toàn hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần

chúng từ tỉnh đến cơ sở để lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ kháng

chiến.

54

Xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị sẽ tạo điều kiện để xây

dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tăng cường tiềm lực quốc

phòng. Do đó, việc củng cố và phát triển Đảng, hệ thống chính quyền các cấp

và các tổ chức quần chúng trở thành nhiệm vụ trước mắt hết sức khẩn trương.

Trong công tác xây dựng Đảng, thời kỳ này được Trung ương chỉ đạo

theo hướng nâng cao chất lượng, tạm thời ngừng phát triển về số lượng để

củng cố. Do đó, Tỉnh ủy coi công tác đào tạo cán bộ là nhiệm vụ cấp bách.

Tỉnh ủy quyết định đẩy mạnh hai cuộc vận động đào tạo cán bộ và học tập lý

luận, gắn với cuộc vận động phê bình và tự phê bình. Tỉnh đã mở các lớp đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các địa phương trong tỉnh và một số tỉnh bạn trong

Liên khu nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến ngày càng tăng. Trong

năm 1951, toàn tỉnh đã mở được 7 lớp bồi dưỡng chính trị, văn hóa cho gần

một nghìn cán bộ và chi ủy viên, phần lớn là công nhân, nông dân, trí thức

cách mạng và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã qua thử thách trong

kháng chiến. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 1951, tỉnh Phú Thọ đã cung cấp

cho Liên khu Việt Bắc 57 đồng chí (trong đó có 5 tỉnh ủy viên, 16 huyện ủy

viên). [2, tr. 224]

Trong quá trình xây dựng, Đảng bộ đã rút ra những ưu, khuyết điểm

trong lãnh đạo và chỉ đạo. Những mặt mạnh và yếu đó vừa là các bài học kinh

nghiệm, vừa đánh dấu sự trưởng thành của Đảng bộ qua mỗi thời kỳ cách

mạng.

Về công tác chính quyền, Đảng bộ tỉnh thường xuyên chú trọng củng

cố bộ máy chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, nâng cao năng

lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo cho các tổ chức này làm tốt vai trò

tổ chức, động viên toàn dân thực hiện nhiệm vụ kháng chiến ở cơ sở.

Trong công tác chính quyền, Tỉnh ủy tập trung vào 3 nội dung chính là:

củng cố tổ chức, tinh giảm biên chế; sửa đổi lề lối làm việc; tăng cường công

55

tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ và nhân dân. Đến tháng 8 năm 1951, toàn

tỉnh đã thực hiện xong việc giảm biên chế đối với chính quyền các cấp. Riêng

biên chế của tỉnh từ 2.375 người (năm 1950) rút xuống còn 1.795 người (năm

1952). Những người dôi ra trong đợt này phần lớn đưa về địa phương tham

gia sản xuất, xây dựng hậu phương, một số là thanh niên được vận động tham

gia các đơn vị quân đội [2, tr. 225]. Cùng với việc củng cố tổ chức, sửa đổi lề

lối làm việc, tỉnh còn mở những lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt

cấp huyện và xã, phân công cán bộ đi dự các lớp huấn luyện của Liên khu,

của Bộ Nội vụ, làm cho năng lực hoạt động của bộ máy chính quyền được

nâng lên. Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp thường xuyên

quan tâm đến công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, nhất là đối

với giáo dân và đồng bào dân tộc ít người.

Nhìn chung, việc xây dựng và củng cố chính quyền các cấp ở Phú Thọ

trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến. Bộ máy chính quyền từ tỉnh đến xã

từng bước được củng cố. Tác phong làm việc của cán bộ tiến bộ hơn, lề lối

làm việc được sửa đổi. Tính chất dân chủ nhân dân của chính quyền được thể

hiện rõ nét.

Về công tác Mặt trận, Đảng bộ chú trọng chỉ đạo Mặt trận và các đoàn

thể quần chúng tăng cường khối đoàn kết toàn dân, huy động mọi lực lượng

tham gia kháng chiến. Bởi vì, việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn

dân là một trong những vấn đề trọng tâm mà Đảng ta luôn coi đó là một nhân

tố quan trọng ở hậu phương, có vai trò quyết định đối với tiền tuyến. Chủ tịch

Hồ Chí Minh khẳng định “căn cứ hậu phương vững chắc nhất là lòng dân” [8,

tr.344]. Trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, tổ chức

nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện chủ trương “Mỗi người dân là một

chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”. Ở Phú Thọ, sản xuất nông nghiệp là

chính, vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân phải đặc

56

biệt coi trọng đoàn kết với nông dân, trên cơ sở liên minh công nông chặt chẽ,

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong thời gian này, Mặt trận dân tộc thống nhất Liên – Việt cũng được

kiện toàn, trong đó Việt Minh là bộ phận trụ cột. Mặt trận Liên – Việt và các

tổ chức quần chúng ra sức tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên tích cực

đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, nên đã động viên được đông

đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước như mua Công trái quốc gia, đóng thuế

nông – công – thương nghiệp và hăng hái tham gia phục vụ các chiến dịch.

Sau một thời gian củng cố, mở rộng, Mặt trận đã thu hút được ngày càng

đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tự nguyện tham gia và ủng hộ

kháng chiến, đánh dấu bước tiến mới về tăng cường khối đoàn kết toàn dân.

Đây là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho chính quyền dân chủ nhân dân ở

địa phương đứng vững và là một đảm bảo cho sức mạnh của sự nghiệp kháng

chiến, kiến quốc.

Có thể thấy, để xây dựng Phú Thọ thành hậu phương vững mạnh toàn

diện, Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập trung lãnh đạo xây dựng về chính trị

và tổ chức, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu. Hệ thống Đảng từ tỉnh đến cơ sở đã

ra công khai hoạt động. Chính quyền nhân dân các cấp được củng cố, khối

đoàn kết dân tộc ngày càng vững chắc. Xây dựng và củng cố hậu phương về

chính trị ở Phú Thọ là kết quả tổng hợp của các lĩnh vực công tác lớn của

Đảng bộ tỉnh. Sự vững mạnh về chính trị thực sự là nền tảng, là đòn bẩy để

xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ kháng chiến.

Về kinh tế

Sau chiến thắng Biên giới của quân và dân ta, thực dân Pháp tuy bị thất

bại nặng nề, nhưng nhờ có sự viện trợ của Mỹ, chúng vẫn tiếp tục kéo dài

chiến tranh. Do đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta càng trở nên gay go và

57

ác liệt, đòi hỏi phải động viên nhân, tài, vật lực nhiều hơn nữa để đưa cuộc

kháng chiến đến thắng lợi. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ

nhất (khóa II) tháng 3 năm 1951, đã xác định: “Do kháng chiến lâu dài và

gian khổ, ta phải ra sức mở mang kinh tế - tài chính để bồi dưỡng sức dân và

cung cấp cho quân đội… Hiện nay, nhiệm vụ đó đã trở thành nhiệm vụ hết

sức quan trọng”. [7, tr. 264]

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đề

ra chương trình phát triển kinh tế của địa phương trong năm 1951, trong đó

nêu lên nhiệm vụ trọng tâm là: đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết

kiệm, tiếp tục thực hiện chính sách nông thôn của Đảng. Trên cơ sở đó, các

cấp ủy Đảng tiến hành kiểm điểm quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển

kinh tế kháng chiến thời gian qua và vạch ra phương hướng cho các cấp, các

ngành tiếp tục đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, xây dựng hậu phương

vững mạnh, nhất là về kinh tế, làm chỗ dựa cho kháng chiến.

Bằng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú và có sự chỉ đạo chặt chẽ

nên phong trào sản xuất, tiết kiệm đã phát triển sâu rộng trong nhân dân và

thu được kết quả cao. Năm 1952, mặc dù việc sản xuất gặp khó khăn như hạn

hán, sâu bọ, địch tăng cường đánh phá, bắn giết trâu bò… nhưng các tầng lớp

nhân dân vẫn vượt qua mọi khó khăn, tập trung sức chống hạn, đào đắp

mương, bảo vệ đê điều, trừ sâu bọ… Nhiều nơi còn tổ chức sản xuất ban đêm

để tránh máy bay địch… Nông dân một số địa bàn trong tỉnh đã áp dụng các

biện pháp kỹ thuật sản xuất mới như gieo mạ thưa, chọn giống tốt, cày bừa

kỹ, cấy nhỏ rảnh, làm cỏ, bón phân 2, 3 lượt… nên sản lượng lúa tăng 5%, có

nơi tăng từ 15 đến 25%. Bên cạnh cây lúa, các loại hoa màu như ngô, khoai

sắn đều phát triển, đạt năng suất, sản lượng cao, có nơi tăng 50%. [2, tr. 230],

không những đảm bảo lương thực cho nhân dân trong tỉnh vượt qua được

những ngày giáp hạt tháng ba, mà còn có khả năng tương trợ cho những vùng

58

lân cận, đặc biệt góp phần không nhỏ phục vụ cho kháng chiến, cung cấp cho

chiến trường Tây Bắc.

Năm 1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh về thuế nông nghiệp và thuế

công thương nghiệp nhằm đảm bảo nhu cầu cho kháng chiến và thực hiện chế

độ đóng góp công bằng, dân chủ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác

này, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh đã thành lập cơ quan

chuyên trách, tổ chức tuyên truyền chính sách thuế của Chính phủ một cách

sâu rộng trong nhân dân, mở hội nghị chuyên đề về công tác thuế. Đến cuối

năm 1951, toàn tỉnh đã thu được 19.910 tấn thóc thuế và 7.500 tấn thóc tạm

vay, đạt 82% mức Liên khu giao. Từ năm 1952 đến năm 1954, toàn tỉnh đã

huy động nhân dân đóng góp thuế nhập vào kho Nhà nước được 63.493 tấn

thóc [2, tr.232]. Có thể thấy, thuế nông nghiệp vừa phù hợp với khả năng

đóng góp của nông dân ở từng vùng, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, là

cơ sở pháp lý để chính quyền các cấp huy động được nông dân, nhất là những

người có nhiều ruộng đất đóng góp cho kháng chiến. Vì thế, các cấp bộ đảng

đã phát động được tinh thần yêu nước, trách nhiệm của mỗi người dân đối với

sự nghiệp kháng chiến, làm cho Phú Thọ trở thành một trong những tỉnh

thuộc Liên khu Việt Bắc có số lượng thóc đóng góp lớn, thời gian thực hiện

nhanh nhất.

Bên cạnh đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ cũng quan tâm đến

sản xuất tiểu, thủ công nghiệp. Các mặt hàng sản xuất ra thời kỳ này chủ yếu

phục vụ sản xuất nông nghiệp và nhu cầu quốc phòng, một phần phục vụ đời

sống nhân dân. Trong điều kiện còn rất khó khăn nhưng tỉnh đã chú ý phát

triển sản xuất công nghiệp, nhất là kỹ nghệ quốc phòng. Tỉnh thành lập xưởng

Lô Giang (Hạ Hòa) sản xuất thuốc nổ và lựu đạn. Đi đôi với sản xuất quốc

phòng, Chính phủ chú ý phát triển sản xuất một số mặt hàng cần thiết cho đời

sống của bộ đội và nhân dân như vải vóc, giấy, dụng cụ văn phòng. Nếu như

59

đầu năm 1951, trên địa bàn tỉnh có 75 xưởng làm giấy, sản xuất trung bình

một tháng được 25,8 tấn sản phẩm, thì đến năm 1953 đã tăng lên 113 cơ sở và

sản xuất được 119,5 tấn [2, tr. 233]. Sản phẩm giấy do các đơn vị trong tỉnh

sản xuất không những đảm bảo nhu cầu cho 7 nhà in, các cơ quan Trung ương

đóng trên địa bàn Phú Thọ, phục vụ nhu cầu ở địa phương, mà còn cung cấp

cho các tỉnh ở Việt Bắc, Tây Bắc và Liên khu III.

Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh kinh tế phục

vụ kháng chiến, trong năm 1951, toàn tỉnh tích cực thực hiện tăng gia sản

xuất, tăng thu giảm chi. Đảng bộ và chính quyền các cấp đã chú trọng lãnh

đạo các mặt hoạt động kinh tế, trong đó ưu tiên phát triển sản xuất nông

nghiệp.

Song song với việc xây dựng và bảo vệ kinh tế ta là quá trình bao vây,

phá hoại kinh tế địch, bởi vì kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng của ta

không chỉ trên lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hóa mà cả trên mặt trận kinh

tế. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (khóa II), tháng 3

năm 1951, đã chỉ rõ: “Cần tăng cường công tác đấu tranh kinh tế với địch.

Mục đích là làm cho địch thiếu thốn, mình no đủ, hại cho địch, lợi cho mình”.

[ 7, tr. 263]

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy triển khai công tác đấu

tranh kinh tế với địch; hướng dẫn việc tuyên truyền, giải thích cho nhân dân

nhận thức rõ âm mưu “lấy chiến tranh, nuôi chiến tranh” của địch, đồng thời

tăng cường vận động nhân dân cất giấu thóc lúa, của cải, thực hiện khẩu hiệu

“Gặt nhanh, cất kỹ”, “Không để một hạt thóc vào tay địch”. Các đơn vị bộ

đội, lực lượng dân quân du kích cũng được huy động thu hoạch giúp dân. Một

số cấp ủy địa phương còn chỉ đạo Đảng bộ cơ sở và nhân dân phân tán lúa

gạo đến nơi an toàn.

60

Đối với công tác bao vây kinh tế địch, quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ

tỉnh là: Không ngăn cản việc buôn bán giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm,

mà chỉ kiểm soát việc đưa vào hoặc bán ra những mặt hàng có lợi cho nhân

dân, cho kháng chiến. Từ chỗ bao vây kinh tế địch một cách tiêu cực, ta

chuyển sang đấu tranh kinh tế với địch một cách tích cực, quản lý xuất, nhập

khẩu theo phương châm: tranh thủ trao đổi có lợi, tranh thủ xuất siêu. Các mặt

hàng xuất, nhập của ta đảm bảo yêu cầu kích thích sản xuất nội địa và cải

thiện đời sống nhân dân; hạn chế nhập những mặt hàng có khả năng cạnh

tranh với hàng của ta, ổn định thị trường địa phương.

Chi sở Mậu dịch Phú Thọ được thành lập, hệ thống mậu dịch quốc

doanh được mở rộng. Việc áp dụng chính sách mới về kinh tế, tài chính,

thương nghiệp của Nhà nước đã thúc đẩy sản xuất phát triển, hàng hóa giao

lưu rộng rãi, đời sống nhân dân được cải thiện, đồng thời góp phần tích cực

vào cuộc đấu tranh kinh tế với địch đạt hiệu quả thiết thực.

Về quân sự

Sức mạnh của hậu phương không chỉ về kinh tế, mà còn gồm lĩnh vực

quan trọng khác là quân sự. Mục tiêu đánh phá chủ yếu của địch vào hậu

phương ta là nguồn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Vì vậy, công

cuộc xây dựng quân sự ở hậu phương và chiến đấu bảo vệ hậu phương diễn ra

thường xuyên và ngày càng gay go quyết liệt.

Tháng 5 năm 1951, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp thông qua Nghị

quyết về công tác quân sự địa phương, trong đó nêu lên những nhiệm vụ

chính là: Tiến hành củng cố, phát triển lực lượng vũ trang theo phương châm

vừa xây dựng vừa tác chiến, kiện toàn tổ chức chính trị và đẩy mạnh công tác

Đảng trong lực lượng vũ trang; bổ sung cán bộ, quân số cho lực lượng tỉnh,

huyện; củng cố dân quân du kích ở xã thôn, sẵn sàng chiến đấu và tham gia

61

phục vụ chiến đấu, thực hiện khẩu hiệu “Bám đất, bám dân, đẩy lùi quân

địch”.

Thực hiện chủ trương của Trung ương và Liên khu Việt Bắc về tăng

cường xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích, đầu năm

1951, Đảng bộ chỉ đạo thành lập Trung đoàn bộ đội tỉnh. Thực hiện chủ

trương “Tinh binh, tinh cán”, Tỉnh ủy và các cơ quan quân sự cùng Ủy ban

kháng chiến hành chính đã đề ra nhiều biện pháp để chấn chỉnh tổ chức, nhằm

giảm bớt bộ phận gián tiếp, tăng cường bộ phận trực tiếp chiến đấu. Tỉnh ủy

quyết định sáp nhập đại đội huyện Thanh Sơn với Tam Nông, Yên Lập với

Hạ Hòa thành hai đại đội liên huyện và rút bớt cán bộ văn phòng ở các đơn vị

bộ đội địa phương trong tỉnh để tăng cường cho các đơn vị trực tiếp chiến

đấu. Cuối năm 1951, do yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, tỉnh quyết

định thành lập thêm hai đại đội bộ đội địa phương ở hai huyện Thanh Sơn và

Thanh Thủy, tiếp tục củng cố những đại đội bộ đội địa phương khác. Những

đơn vị này vừa có thể độc lập tác chiến, vừa làm nhiệm vụ dìu dắt, giúp đỡ

dân quân du kích xã.

Với chủ trương tăng cường thêm sức mạnh cho lực lượng vũ trang địa

phương đủ sức chiến đấu với kẻ thù, Đảng bộ chú trọng chỉ đạo công tác huấn

luyện tác chiến cho cán bộ và chiến sỹ. Đồng thời, tỉnh còn mở nhiều lớp bồi

dưỡng chính trị, huấn luyện về chiến thuật đánh du kích và kỹ thuật sử dụng

các loại vũ khí cho cán bộ và chiến sĩ… Do đó, đa số bộ đội cũng như dân

quân du kích Phú Thọ hiểu rõ thêm về tình hình và nhiệm vụ mới, trình độ kỹ

thuật, chiến thuật cũng được nâng lên một bước.

Về tổ chức dân quân du kích cũng được chấn chỉnh lại. Bộ phận dân

quân du kích được tách ra khỏi Ủy ban kháng chiến hành chính, chuyển sang

cơ quan quân sự các cấp trực tiếp phụ trách. Mỗi xã có từ 1 đến 3 trung đội du

kích, trong đó có từ một đến hai tiểu đội bán thoát ly. Tỉnh còn có kế hoạch

62

hướng dẫn các đơn vị tổ chức huấn luyện cơ bản về kỹ thuật quân sự cho dân

quân du kích xã.

Qua thực tiễn vừa củng cố tổ chức, vừa học tập chính trị, vừa trực tiếp

chiến đấu chống kẻ thù, lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ đã trưởng thành,

phát triển. Đó là điều kiện thuận lợi để quân và dân trong tỉnh tiếp tục thực

hiện tốt những yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Trong chiến đấu bảo vệ hậu phương:

Bảo vệ hậu phương nhằm chuẩn bị mọi mặt về tinh thần, của cải và sức

lực để phục vụ tiền tuyến đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

Năm 1951, thực dân Pháp tập trung 20 tiểu đoàn cơ động tấn công ra

Hòa Bình nhằm cắt đường liên lạc giữa Liên khu 3, Liên khu 4 với Việt Bắc,

phá công cuộc chuẩn bị chiến dịch của ta và hút chủ lực ta đến để tiêu diệt,

giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Để hỗ trợ cho mặt trận chính,

địch huy động 3.000 quân mở cuộc tiến công, đánh chiếm các khu vực còn lại

như Đá Chông, Núi Chẹ (Sơn Tây), La Phù, Tu Vũ, thuộc Tây – Nam Phú

Thọ. Trên cơ sở phân tích tình hình địch – ta, ngày 24/11/1951, Trung ương

Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch”. Phú

Thọ có nhiệm vụ vừa đảm bảo nhân lực phục vụ chiến dịch, vừa trực tiếp đề

phòng địch đánh ra vùng tự do.

Song song với việc huy động lực lượng phục vụ chiến dịch, Đảng bộ

còn lãnh đạo quân và dân các huyện phía Tây Nam tỉnh phối hợp với chiến

trường chính, đánh địch ở Thanh Thủy. Địa điểm tấn công được Bộ Tổng tư

lệnh lựa chọn để đột phá tuyến phòng thủ sông Đà là vị trí Tu Vũ (Thanh

Thủy) và Núi Chẹ (Sơn Tây). Tại mặt trận này, Phú Thọ được cấp trên giao

nhiệm vụ phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Lực lượng dân công ngày

đêm vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm đến nơi tập kết đúng thời gian

quy định. Đêm 10/12/1951, trận đánh bắt đầu và diễn ra vô cùng ác liệt, ngay

63

từ khi bộ đội bắt đầu chiếm lĩnh trận địa, địch tập trung hỏa lực mạnh để cản

bước tiến của ta, nhưng trong mưa đạn, cán bộ, chiến sỹ nêu cao tinh thần

quyết chiến, quyết thắng, anh dũng xông lên để đánh thắng trận mở màn chiến

dịch. Sau 5 giờ chiến đấu, toàn bộ cứ điểm Tu Vũ, một mắt xích quan trọng

của địch ở phòng tuyến sông Đà, bị phá vỡ, 158 tên bị tiêu diệt, 12 tên bị bắt,

gần 100 tên tháo chạy. Trận mở đầu thắng lợi giòn giã, tạo điều kiện cho quân

và dân ta tiếp tục tiến công tiêu diệt giặc, mở ra khả năng to lớn giành thắng

lợi của chiến dịch Hòa Bình. Chiến thắng Tu Vũ là một trong những trận

chiến đấu tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược trên đất Phú

Thọ, đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý cho các trận đánh, các chiến dịch

sau này.

Ngày 28 tháng 10 năm 1952, quân Pháp bắt đầu mở cuộc hành quân

Loren. Với một lực lượng lớn, địch chia làm 2 mũi: một mũi tiến sâu lên

Đoan Hùng, một mũi đánh vào hữu ngạn sông Thao, càn quét các huyện Tam

Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn. Bảo vệ hậu phương lúc này là nhiệm vụ cấp

bách, Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc đã bổ sung cho Phú Thọ 3 tiểu đoàn chủ

lực thuộc Trung đoàn 176. Ngày 11 tháng 11 năm 1952, Tổng Quân ủy quyết

định thành lập Ban chỉ huy Mặt trận Phú Thọ, đồng thời ra chỉ thị cho Đảng

bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp chặt chẽ với bộ

đội chủ lực phối hợp phương án đánh địch. Trong suốt chiến dịch, quân dân

Phú Thọ đã sát cánh cùng bộ đội chủ lực đánh nhiều trận hiệp đồng thắng lợi

giòn giã, đặc biệt phối hợp với Trung đoàn 176 đã đánh 104 trận lớn nhỏ. Chỉ

tính riêng ở chiến trường hữu ngạn sông Thao, từ 28 tháng 10 đến 7 tháng 11

năm 1952, bộ đội địa phương và dân quân du kích của tỉnh đã đánh 73 trận,

loại khỏi vòng chiến đấu 712 tên, bắt sống gần 100 tên, thu nhiều vũ khí, quân

trang, quân dụng của địch.

64

Một trong những chiến công xuất sắc của quân dân Phú Thọ thời gian

này là sự phối hợp của quân dân địa phương với Trung đoàn 36 Bắc – Bắc,

thuộc Đại đoàn 308 Quân Tiên phong, cùng các đơn vị bạn giáng cho địch

những đòn sấm sét và giành thắng lợi trong trận Chân Mộng – Trạm Thản

(Phù Ninh) ngày 17 tháng 11 năm 1952, diệt gần 400 tên giặc, hai binh đoàn

cơ động GM1 và GM4 của Pháp bị thiệt hại nặng, 44 xe cơ giới, trong đó có 17

xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, thu nhiều quân trang, quân dụng của địch.

Sau thất bại ở Chân Mộng, tinh thần quân địch trở nên bạc nhược, sau gần 1

tháng tấn công lên địa bàn tỉnh, bị thiệt hại nặng nề, Bộ chỉ huy Pháp ra lệnh

kết thúc cuộc hành quân Loren, rút lực lượng về ứng phó với mặt trận đồng

bằng và Tây Bắc. Ngày 25 tháng 11 năm 1952, quân Pháp rút khỏi Phú Thọ.

Chiến thắng ở mặt trận Phú Thọ đã cổ vũ, động viên quân dân ta trên chiến

trường chính Tây Bắc, đập vỡ khu phòng ngự Mộc Châu của địch, giải phóng

phần lớn tỉnh Sơn La và Điện Biên Phủ.

Trong suốt trận chống càn, quân và dân Phú Thọ sát cánh cùng bộ đội

chủ lực, đánh nhiều trận, giành thắng lợi lớn. Lực lượng vũ trang tỉnh đã tác

chiến 176 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 856 tên địch, trong đó có

402 tên bị tiêu diệt, bảo vệ được kho tàng của Nhà nước, tính mạng và tài sản

của nhân dân. Âm mưu tìm diệt chủ lực ta và phá hoại hậu phương kháng

chiến của thực dân Pháp không thực hiện được. Đây là trận càn lớn nhất và

cũng là trận càn cuối cùng của địch ra vùng tự do Phú Thọ, bị thất bại hoàn

toàn.

Trong năm 1953, mặc dù địa bàn tỉnh hầu hết nằm trong vùng tự do,

nhưng do phải đối phó với các cuộc càn quét, lấn chiếm của địch, lực lượng

vũ trang Phú Thọ đã tác chiến liên tục tại địa phương 32 trận, diệt 89 tên địch,

làm bị thương 43 tên, phá 4 xe ô tô, 3 xưởng máy, thu 7 súng tiểu liên, 2 súng

trường, bắt 41 thổ phỉ, bảo vệ an toàn hậu phương kháng chiến.

65

Năm 1954, lực lượng vũ trang và nhân dân Phú Thọ đã chiến đấu 71

trận, diệt 313 tên địch, làm bị thương 66 tên, bắt sống 16 gián điệp, biệt kích,

gọi hàng 2 lính Âu – Phi, 129 lính ngụy, vận động được 1.234 đồng bào bị

địch cưỡng ép trở về quê hương.

Về văn hóa xã hội

Đi đôi với phát triển kinh tế, phong trào xây dựng đời sống mới ngày

một phát triển. Nhiều phong tục, tập quán lạc hậu của chế độ cũ dần dần được

xóa bỏ. Nền văn hóa mới với phương châm “Dân tộc, khoa học và đại chúng”

được tuyên truyền và phổ biến trong nhân dân. Công tác thông tin, tuyên

truyền, cổ động của ngành văn hóa, qua các hình thức ca kịch, phát thanh,

diễn thuyết, triển lãm…, đã giúp cho nhân dân trong tỉnh nắm bắt thông tin

thời sự trong nước và quốc tế, những thắng lợi trên các mặt chính trị, quân sự,

kinh tế, ngoại giao… có tác dụng động viên trực tiếp nhân dân tích cực tham

gia và phục vụ kháng chiến.

Về giáo dục, để thực hiện một nền giáo dục dân chủ nhân dân theo

phương châm: “Phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất”,

từ năm 1951 trở đi, ngành giáo dục của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực,

trong điều kiện kháng chiến gian khổ, nhiều trường học vẫn được mở. Năm

1953, Trường Phổ thông lao động của tỉnh được thành lập làm nhiệm vụ đào

tạo, bồi dưỡng văn hóa, chính trị cho cán bộ cơ sở. Bước đầu nhà trường đã

đáp ứng một phần yêu cầu cán bộ ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.

Lĩnh vực y tế được tỉnh đặc biệt chú ý phát triển để phục vụ cứu chữa

thương bệnh binh và bảo đảm sức khỏa cho nhân dân. Với phương châm

“phòng bệnh là chính”, cuộc vận động nhân dân thực hiện nếp sống ăn ở hợp

vệ sinh đạt kết quả tốt. Mạng lưới y tế được mở rộng. Các trạm, trại phục vụ

thương binh và an dưỡng cho bộ đội được bố trí ở nhiều khu vực thuận lợi.

Bên cạnh đó, tỉnh còn là nơi đặt Trường Đại học Y, Dược, Viện Quân y. Đội

66

ngũ cán bộ y tế được bổ sung và thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ, nhờ đó sức khỏe của cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang được

chăm sóc chu đáo hơn.

Về chi viện cho tiền tuyến

Yêu cầu của chiến tranh đòi hỏi phải xây dựng hậu phương vững mạnh

đảm bảo cung cấp nhân tài, vật lực cho tiền tuyến.

Năm 1951, Phú Thọ được Trung ương giao nhiệm vụ phục vụ các

chiến dịch: Trần Hưng Đạo (Trung Du) từ tháng 12 năm 1950 đến tháng 1

năm 1951; Hoàng Hoa Thám (đường 18), từ tháng 3 - tháng 4 năm 1951;

Quang Trung (Hà Nam Ninh), từ tháng 5 – tháng 6 năm 1951; Hòa Bình, từ

tháng 11 năm 1951 đến tháng 2- 1952. Phú Thọ đã huy động nhân lực liên

tiếp phục vụ 5 chiến dịch, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến

thắng”. Trong năm 1951, tỉnh đã huy động hơn 6 ngàn thanh niên lên đường

nhập ngũ, hơn 90 ngàn người tham gia dân quân, 8,6 ngàn người ra nhập lực

lượng du kích, 35.000 lượt người đi dân công, đóng góp 12 triệu ngày công

thường xuyên tham gia phục vụ các hoạt động tu sửa cầu đường, xay giã thóc

gạo, vận chuyển lương thực, thực phẩm, hàng hóa ra chiến trường.

Trong chiến dịch Trung Du, quân dân Phú Thọ được giao nhiệm vụ vừa

trực tiếp chiến đấu vừa phục vụ chiến đấu. Nhân dân Phú Thọ đã huy động

4.500 dân công phục vụ, đóng góp 3.600 cuốc, xẻng, 13 tấn bánh dày và

nhiều lương thực, thực phẩm khác cho bộ đội.

Trong chiến dịch Hòa Bình, Trung ương và Liên khu Việt Bắc giao

nhiệm vụ cho Phú Thọ chuẩn bị chiến dịch và tham gia chiến đấu. Toàn tỉnh

đã huy động 81000 lượt dân công, 3000 tấn gạo, 800 con lợn, 150 trâu bò thịt

cung cấp cho bộ đội và 300 chiếc thuyền để giúp các đơn vị hành quân qua

sông. Ngoài ra, nhân dân Phú Thọ còn quyên góp, gửi quà tặng cho các chiến

sỹ ngoài mặt trận trị giá trên 25 triệu đồng. [2, tr. 243]. Lực lượng dân công

67

còn phối hợp với lực lượng công binh mở mới và sửa chữa gấp tuyến vận tải

quân sự Phú Thọ - Đồn Vàng – Hòa Bình, làm mới nhiều tuyến đường nhỏ

với chiều dài hàng trăm km; xây dựng một số bến vượt, sân tránh xe cùng

hàng chục chiếc cầu phao ở nhiều địa điểm thuộc các huyện Cẩm Khê, Yên

Lập, Thanh Sơn; nhiều trạm, trại điều dưỡng thương binh được xây dựng,

hàng ngàn nữ dân công đưa đón thương binh về điều trị, an dưỡng, tận tình

chăm sóc sức khỏe để các chiến sỹ mau lành bệnh, trở về vị trí tiếp tục chiến

đấu.

Trong chiến dịch Tây Bắc, tỉnh Phú Thọ được Tổng cục Cung cấp giao

cho nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phục vụ chủ yếu cho đợt I của chiến dịch.

Với lòng yêu nước, căm thù giặc cao độ, trong thời gian chưa đầy một tuần lễ,

toàn tỉnh đã huy động được gần 30.000 dân công vận tải, 12.400 dân công sửa

chữa cầu đường, tu sửa 200km đường giao thông, bảo đảm giao thông thông

suốt, vận chuyển được 2.640 tấn gạo, 40 tấn muối cho chiến dịch. Ngoài ra,

nhân dân còn ủng hộ bộ đội và dân công tiền tuyến 275 con trâu bò làm thực

phẩm và 300 thuyền chuyên chở bộ đội và dân công vượt sông. Công tác bảo

đảm hậu cần đáp ứng được đúng kế hoạch. [2, tr. 245]

Sau thất bại ở chiến trường Tây Bắc, nhận thấy nguy cơ mất Thượng

Lào, thực dân Pháp đã tập trung quân xây dựng Sầm Nưa thành một vị trí

quan trọng, trực tiếp uy hiếp vùng Tây Bắc nước ta. Để đáp ứng yêu cầu của

tiền tuyến, tỉnh đã huy động 6.500 dân công, 110 xe đạp thồ, 630 chiếc

thuyền, cung cấp và vận chuyển 905 tấn gạo, 367 con trâu, bò và 353 con lợn

thịt, hàng trăm tấn vũ khí ra chiến trường phục vụ chiến dịch Thượng Lào [4,

tr.282]. Đây là chiến dịch phối hợp tác chiến giữa bộ đội ta với Pa thét Lào

truy kích địch ở Sầm Nưa. Dân công Phú Thọ đã sửa chữa, mở đường, làm

cầu phà trên nhiều địa hình phức tạp, đảm bảo kịp thời cho một lượng lớn xe

ra mặt trận. Lần đầu tiên, Đảng bộ cùng quân và dân Phú Thọ tham gia và

68

hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế. Trong thành tích chung đó, đoàn xe thồ

của tỉnh Phú Thọ đã vượt mức vận tải 32%, được Chính phủ tặng thưởng

Huân chương Chiến sỹ hạng Ba.

Trong điều kiện kháng chiến còn nhiều khó khăn, Tỉnh ủy đã chỉ đạo

các lực lượng vũ trang tăng cường khả năng tự cấp, tự túc, đồng thời vận

động nhân dân giúp đỡ thông qua các hình thức “Hội nuôi quân”, “Lọ gạo

nuôi quân”… Chỉ tính riêng sự giúp đỡ của nhân dân trong 6 tháng đầu năm

1951, toàn tỉnh đã huy động được 15.001.560 đồng, 75.757 kg gạo, 57.850 kg

thóc. Ngoài ra, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh còn trợ cấp thêm

7.323.881 đồng, 287.806 kg gạo cho bộ đội. Một số gia đình có điều kiện còn

chuẩn bị cả trâu, bò, lợn, gà, ủng hộ anh em cải thiện đời sống, đảm bảo sức

khỏe.

Nhằm huy động tối đa nhân tài, vật lực của hậu phương cho tiền tuyến,

ngày 19 tháng 8 năm 1953, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết nghị số 348-

QN/PT thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận của tỉnh với nhiệm vụ tìm hiểu

và nắm vững khả năng của địa phương để có kế hoạch huy động nhân tài, vật

lực cho chiến trường; đảm bảo giao thông vận tải thông suốt.

Cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1953, căn cứ tình hình địch ta trên

chiến trường, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn nhiệm

vụ quân sự Đông – Xuân 1953- 1954, quyết tâm phá Kế hoạch Nava, tiêu diệt

địch ở Điện Biên Phủ. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục

Chính trị, được Trung ương Đảng phái về triển khai nghị quyết và giao nhiệm

vụ cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Phú Thọ. Đảng, Chính phủ giao

cho tỉnh nhiệm vụ đảm bảo vật chất cung cấp cho hướng A (hướng chính của

chiến dịch Điện Biên Phủ) với yêu cầu cao và khẩn cấp. Với khẩu hiệu “Tất

cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Toàn tỉnh đã tập trung lực lượng cho

nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết này.

69

Kết quả, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn tỉnh đã động viên được

1.434 thanh niên lên đường nhập ngũ, phân công và giao nhiệm vụ cho 17

huyện ủy viên, 20 cán bộ cơ quan quân sự và 70 cán bộ xã trực tiếp tổ chức

động viên, chỉ huy lực lượng dân công. Đồng thời, các địa phương trong tỉnh

đã huy động 69.335 người trực tiếp phục vụ chiến dịch, trong đó có 19.333

người là dân công hỏa tuyến (vượt mức 343 người). Tổng số dân công vận

chuyển gạo và tham gia các nhiệm vụ phục vụ chiến dịch là 261.500 người

(trong đó số dân công trực tiếp phục vụ chiến đấu là 113.337 người), 1.087

chiếc xe đạp thồ (vượt yêu cầu 137 chiếc), 80 xe trâu, xe ngựa của đồng bào.

Mặc dù lương thực, thực phẩm còn thiếu thốn, nhưng nhân dân đã đóng góp

4.318 tấn gạo (bằng 1/6 số gạo của cả chiến dịch), 141 tấn đỗ, lạc, vừng, 31

tấn đường, 4.149 con trâu bò cùng với nhiều loại thực phẩm khác cho chiến

dịch Điện Biên Phủ [1, tr. 301, 302]. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn,

tỉnh đã cử đoàn đại biểu mang các tặng phẩm như quần, áo ấm, chăn bông trị

giá trên 5 triệu đồng lên mặt trận để tặng các chiến sĩ.

Đây là một đóng góp lớn của Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ vào sự

nghiệp kháng chiến chung của dân tộc. Trong đó, chiến dịch Điện Biên Phủ là

sự hội tụ cao nhất với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,

là nơi biểu hiện rõ nhất sự đóng góp của hậu phương Phú Thọ.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngành giao thông vận tải của tỉnh

cũng có những đóng góp tích cực. Nếu như trong giai đoạn đầu cuộc kháng

chiến, quân dân Phú Thọ phá đường để cản bước tiến của giặc, thực hiện phá

hoại để kháng chiến, thì đến năm 1951 tới đầu năm 1954, quân dân Phú Thọ

lại tích cực mở đường để tiến công giặc. Tính từ năm 1950 đến đầu năm

1954, nhân dân Phú Thọ đã sử dụng 33.704 ngày công và 8.425 mét khối đất

đá, lấp hơn 7000 hầm hào tác chiến trước đây, với chiều dài 165 km. Đồng

thời, nhân dân Phú Thọ còn tham gia 2.419.670 ngày công trên công trường

70

làm đường, rải đá với tổng chiều dài 321 km, làm thêm hàng trăm sân tránh

xe, đường tránh cầu, với tổng chiều dài 32 km. Nhân dân trong tỉnh còn bắc

lại 82 chiếc cầu trên đường ô tô với tổng chiều dài 476 mét. Trên những dòng

sông lớn như sông Đà, sông Lô, sông Hồng, quân dân trong tỉnh đã huy động

hàng nghìn ngày công, đóng 24 phà các loại có trọng tải từ 3 đến 14 tấn, 18

xuồng các loại từ 1 đến 2 tấn, tổng trọng tải khoảng 300 tấn, để chuyên chở

qua sông phục vụ nhu cầu quân sự. Tính chung trong 9 năm kháng chiến, để

phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, ngành giao thông vận tải của

tỉnh đã khai thông 448 km trên 25 con đường, bắc 57 cầu với tổng chiều dài

628 mét. [1, tr.234]

71

TIỂU KẾT CHƢƠNG II

Từ năm 1951 đến năm 1954, do có những nhận thức đúng đắn về vai

trò của hậu phương đối với tiền tuyến, nên Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo xây

dựng hậu phương vững mạnh trong cả nước.

Xây dựng có kết quả là do có bảo vệ tốt, đồng thời, nhờ có sự trưởng

thành mọi mặt trong xây dựng mà Phú Thọ có được sức mạnh để bảo vệ

mình, chống được thù trong, giặc ngoài. Do đó, bảo vệ hậu phương là cực kỳ

quan trọng, song quyết định nhất trong các nhiệm vụ của hậu phương, làm

cho hậu phương tồn tại và vững mạnh, là nhiệm vụ xây dựng hậu phương.

Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, quá trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương đã đạt

được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,

xã hội. Những thành tựu đã đạt được đó là những điều kiện thuận lợi để Đảng

bộ động viên nhân dân trong tỉnh tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến

chống Pháp.

Kết quả đạt được trên tất cả các mặt của quân và dân Phú Thọ trong

xây dựng, bảo vệ hậu phương kháng chiến đã khẳng định sự lãnh đạo đúng

đắn của Trung ương Đảng, Chính phủ, các ngành, các cấp và sự vận dụng linh

hoạt, sáng tạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ. Những thành

tích đó chứng tỏ sự cố gắng của quân dân Phú Thọ, khẳng định vai trò của

hậu phương Phú Thọ đối với cuộc kháng chiến trên địa bàn tỉnh cũng như đối

với cả nước. Đó là điều kiện và sức mạnh để quân và dân các dân tộc trong

tỉnh vượt qua thử thách mới, góp phần xứng đáng vào thắng lợi cuối cùng của

cuộc kháng chiến.

72

Chƣơng 3 MỘT SỐ NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM

3.1 Mô ̣t số nhâ ̣n xét

3.1.1 Những kết quả của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo thực

hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch ma ̣ng ở địa phương.

Xây dựng hậu phương phải đi đôi với bảo vệ hậu phương, muốn bảo vệ

được hậu phương vững chắc phải dựa trên cơ sở xây dựng hậu phương thắng

lợi. Xây dựng hậu phương vững mạnh và toàn diện bao gồm nhiều nội dung,

song đặc biệt chú trọng việc xây dựng cơ sở chính trị vững vàng, tiềm lực

kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu tại chỗ và sẵn sàng phục vụ chiến trường, các

lực lượng vũ trang đủ sức chiến đấu bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống.

Một thành công quan trọng trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược của tỉnh Phú Thọ là đã xây dựng được hậu phương vững mạnh toàn

diện. Bởi vì, hậu phương là một bộ phận quan trọng, giải quyết những vấn đề

cốt tử của chiến tranh nhân dân, đó là chỗ đứng chân và cung cấp sức người,

sức của cho kháng chiến. Trong lãnh đạo chiến tranh, Lênin đã từng nói:

“Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương

được tổ chức một cách vững chắc. Quân đội ưu tú nhất, những người bạn tận

tụy nhất đối với sự nghiệp cách mạng cũng sẽ bị quân thù tiêu diệt ngay, nếu

không được vũ trang, tiếp tế và huấn luyện đầy đủ”. [71, tr.23]

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, quân và dân Phú Thọ đã cùng nhau đoàn kết, khắc

phục mọi khó khăn, vượt qua gian khổ, xây dựng Phú Thọ thành một hậu

phương vững mạnh, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ đời sống nhân dân, vừa chi

viện ngày càng đắc lực cho tiền tuyến. Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo thực hiện

nhiệm vụ hậu phương trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa

xã hội.

73

Về chính trị

Đảng bộ tỉnh đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, đã

xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn

thể từng bước vững mạnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố hệ

thống chính trị được Đảng bộ tỉnh quan tâm và đạt được những kết quả quan

trọng.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Phú Thọ vừa chú trọng phát

triển số lượng, vừa coi trọng chất lượng đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng;

thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng

cao bản lĩnh chính trị của đảng viên. Sau Cách mạng Tháng Tám, toàn tỉnh

mới có 280 đảng viên; cuối năm 1947, toàn Đảng bộ có 1.122 đảng viên; cuối

năm 1948, phát triển lên được 5.493 đảng viên; qua 9 năm kháng chiến, Đảng

bộ Phú Thọ đã có đội ngũ cán bộ, đảng viên với số lượng 11.649 đảng viên,

được bố trí sinh hoạt và tham gia lãnh đạo các tổ chức ở các cấp, các ngành,

địa phương trong tỉnh. Qua các kỳ đại hội, các cuộc chỉnh đốn Đảng, Đảng bộ

tỉnh đã trưởng thành vượt bậc cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sức chiến

đấu của Đảng bộ ngày càng vững mạnh, tư duy và năng lực lãnh đạo ngày

càng cao, xây dựng được những chi bộ mạnh là lực lượng lãnh đạo và làm

nòng cốt trong chiến đấu.

Do xác định đúng vai trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất là trụ

cột cho khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng bộ Phú Thọ đã chú trọng xây dựng,

phát triển, củng cố Mặt trận Liên Việt của tỉnh, coi đây là hạt nhân đoàn kết

các ngành, các giới, thực hiện chủ trương “Đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương

giáo”, “chống âm mưu chia rẽ của địch”. Chủ trương này đã có tác động tích

cực đến công tác dân tộc miền núi, đến việc vận động lương giáo đoàn kết.

Trong suốt 9 năm kháng chiến, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ đã

đoàn kết, tập hợp đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận. Mặt trận đã tuyên

74

truyền, phổ biến chính sách của Đảng đến từng người dân, làm cho dân hiểu

rõ và thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ đề ra. Mặt trận thực sự

là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền. Nhờ xây dựng khối đoàn kết

toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, quân và dân trong tỉnh đã làm thất

bại âm mưu chia rẽ lương, giáo, lập “xứ Mường tự trị” và làm thất bại chủ

trương chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh

người Việt” của địch. Cuộc chiến đấu của nhân dân Phú Thọ, đã góp phần

xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược.

Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã trở thành một trong những

nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên quê

hương Đất Tổ.

Về kinh tế

Do có vùng tự do rộng lớn, trong kháng chiến Phú Thọ trở thành “kho

người, kho của” của chiến khu Việt Bắc. Chín năm kháng chiến và thực hiện

nhiệm vụ hậu phương ở Phú Thọ là chín năm thắng lợi của nhiệm vụ xây

dựng kinh tế hậu phương với phương châm tự lực cánh sinh. Phú Thọ đã đồng

thời thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.

Vì thế, Phú Thọ đã đạt được những thắng lợi lớn, khẳng định bước trưởng

thành vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh.

Để đảm bảo cho nhu cầu kháng chiến, Đảng bộ tỉnh đã đề ra các chủ

trương, biện pháp lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đầu cuộc kháng

chiến, Tỉnh ủy, UBKCHC tỉnh đã động viên toàn dân tăng gia sản xuất tự cấp,

tự túc, đưa mức sản xuất lên cao, đặc biệt là chú trọng phát triển kinh tế nông

thôn để giải quyết nhu cầu về ăn, mặc và các mặt đời sống của nhân dân. Các

ban ngành, đoàn thể vận động quần chúng vừa phát triển sản xuất để có nguồn

dự trữ kinh tế, vừa bao vây phá hoại kinh tế của địch. Năm 1950, Tỉnh ủy đã

75

có nghị quyết phát triển kinh tế địa phương, vận động nhân dân tăng gia sản

xuất, phát triển sản xuất, sử dụng nhân công, cải tiến kỹ thuật, bảo vệ sản

xuất. Các chủ trương về kinh tế, tài chính và những biện pháp cụ thể đã trở

thành đòn bẩy thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Thành tích lớn nhất

của sản xuất nông nghiệp ở Phú Thọ trong kháng chiến là đã thực hiện được

nhiệm vụ chiến lược đề ra từ ngày đầu kháng chiến: “Tăng gia sản xuất, thực

hiện tự cấp, tự túc, bảo đảm cung cấp cho nhu cầu của nhân dân và đóng góp

cho kháng chiến”.

Sự trưởng thành về mọi mặt của Phú Thọ đánh dấu bằng kết quả bảo

đảm huy động lực lượng lớn về người và của cho chiến trường. Trong kháng

chiến, mặc dù lương thực, thực phẩm trong nhân dân còn thiếu thốn, khó

khăn, nhưng với tinh thần tất cả cho chiến thắng, từ năm 1946 đến năm 1954,

nhân dân Phú Thọ đã đóng góp cho kháng chiến 64.000 tấn thóc và 7.111

triệu đồng quy thành thóc, tất cả là 106.600 tấn, tiếp tế cho các chiến dịch 706

tấn thịt, “riêng chiến dịch Điện Biên Phủ nhân dân Phú Thọ đã đóng góp

4.318 tấn gạo, (bằng 1/6 số gạo của cả chiến dịch), cung cấp 141 tấn lạc, 31

tấn đường, 4149 con trâu, bò và khoảng hơn 334,141tấn thịt lợn”.[1, tr.301,

302]

Về văn hóa xã hội

Trải qua 9 năm kháng chiến, phong trào xây dựng đời sống mới ngày

càng phát triển, nhiều phong tục, tập quán lạc hậu của chế độ cũ dần dần được

xóa bỏ. Ngành giáo dục của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Trong điều

kiện kháng chiến gian khổ, các trường học được mở rộng, số giáo viên và học

sinh được nâng lên. Nếu như năm học 1946- 1947, toàn tỉnh mới có 236 lớp

với 126 giáo viên và 4.623 học sinh, thì đến năm học 1952- 1953 toàn tỉnh đã

có 157 trường học phổ thông các cấp với 346 giáo viên và 20.902 học sinh.

Chất lượng dạy và học đã được nâng lên một bước.

76

Đội ngũ cán bộ y tế được bổ sung và thường xuyên được bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ, nhờ đó, sức khỏe của cán bộ, nhân dân và lực lượng

vũ trang được chăm sóc chu đáo hơn.

Với vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh trong kháng chiến, tỉnh

Phú Thọ luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng và

Chính Phủ, lại có điều kiện mở rộng quan hệ với các tỉnh bạn, cùng các cơ

quan dân chính Đảng của Trung ương và đồng bào các nơi hội tụ về, sự giao

lưu văn hóa giữa các tầng lớp công, nông, binh, trí thức làm cho dân trí của

tỉnh được nâng lên và đời sống tinh thần cũng được bổ sung phong phú.

Về quân sự

Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơ

quan chỉ huy quân sự các cấp được thành lập. Đầu năm 1946, đại đội cảnh vệ

ở tỉnh được thành lập, năm 1949, bộ đội địa phương tỉnh Phú Thọ ra đời. Cuối

giai đoạn kháng chiến chống Pháp, toàn tỉnh đã xây dựng được 2 tiểu đoàn bộ

đội chủ lực của tỉnh, các trung đội, đại đội bộ đội địa phương huyện và một

lực lượng dân quân du kích rộng khắp ở tất cả các làng xã, thôn bản.

Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Phú Thọ là cửa ngõ quan

trọng để bảo vệ chiến khu Việt Bắc và Tây Bắc, tuy còn rất khó khăn về vũ

khí, kỹ thuật, nhất là đời sống vật chất, nhưng quân dân Phú Thọ đã sát cánh

cùng bộ đội chủ lực, chống địch càn quét, diệt tề trừ gian, đột kích đồn giặc,

bảo vệ hậu phương, góp phần lập nên những chiến công vang dội trong cả

nước: Trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, quân dân Phú Thọ đã

bố trí lực lượng chặn đánh cuộc hành quân càn quét của địch lên chiến khu

Việt Bắc bằng đường thủy, làm nên chiến thắng Đoan Hùng trên sông Lô

ngày 24 tháng 10 năm 1947. Phú Thọ đã phối hợp tốt với các đơn vị chủ lực

của Bộ và liên khu trong chiến dịch Trung Du (cuối năm 1950 đầu năm

1951). Tháng 12 năm 1951, Phú Thọ đã phục vụ tốt việc đưa các đoàn quân

77

vượt sông Đà chiến đấu, làm nên chiến thắng Tu Vũ trong chiến dịch Hòa

Bình. Tiếp đó, quân dân Phú Thọ lại phối hợp chiến đấu đánh bại cuộc hành

quân Lo-ren của thực dân Pháp, càn quét, phá hoại vùng tự do khi ta mở chiến

dịch Tây Bắc tháng 11 năm 1952. Ngày 17 tháng 11 năm 1952, đội hình hành

quân của Pháp lọt vào trận địa phục kích của ta ở Chân Mộng – Trạm Thản,

quân dân Phú Thọ đã phối hợp với Trung đoàn 36 Bắc – Bắc, thuộc Đại đoàn

308 Quân Tiên phong, đánh địch giành thắng lợi. Ở chiến trường Tây – Nam

tỉnh và ở các chiến trường tỉnh Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Nghĩa Lộ, Sơn La, lực

lượng vũ trang tỉnh đã cùng tham gia với bộ đội chủ lực và các tỉnh bạn chiến

đấu dũng cảm, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, giải phóng quê hương.

Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, quân dân Phú Thọ đã bảo đảm tốt

việc vận chuyển và phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong kháng chiến, tỉnh đã huy động lực lượng lớn về người và của cho

chiến trường, toàn tỉnh Phú Thọ có 4 vạn người tham gia bộ đội chủ lực, 1

vạn người tham gia các đội xung phong công tác; 15 ngàn người tham gia các

đơn vị bộ đội địa phương; hàng chục vạn người là dân quân du kích; đã huy

động được 1.657 ngàn lượt người đi dân công trực tiếp phục vụ các chiến

dịch, tương đương với 23 triệu ngày công; lực lượng vũ trang trong tỉnh trực

tiếp chiến đấu và tham gia chiến đấu 614 trận, tiêu diệt và bắt sống gần 5000

tên địch; thu và phá hỏng nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự của địch”.[69,

tr.119, 120]

Tổng kết 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, có thể khẳng định,

Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ luôn làm tốt nhiệm vụ bảo đảm huyết mạch

giao thông quan trọng nối liền Việt Bắc, Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và chi

viện mọi mặt cho cuộc chiến đấu của quân dân Lào anh em trong những năm

kháng chiến.

78

3.1.2 Những h ạn chế của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo

thực hiện nhiệm vụ hậu phương cá ch ma ̣ng ở đi ̣a phương.

Trong quá trình Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương ở

tỉnh Phú Thọ, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn có những hạn chế

nhất định:

Công tác phát triển Đảng trong những năm 1947- 1948 còn chạy theo

số lượng, chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Điều này, Trung ương đã phê

bình trong Hội nghị cán bộ lần thứ năm, họp tháng 8 năm 1948, là “Ở Bắc Bộ,

một số địa phương còn mắc bệnh phát triển bừa bãi, nên hàng ngũ Đảng ở

những nơi này còn lỏng lẻo, chi bộ hết sức non, có nhiều đồng chí kém tinh

thần, kém ý thức, vào Đảng mà chưa biết Đảng là gì, thậm chí có đồng chí coi

Đảng như một hội hiếu hỷ, xin ra Đảng, cho con vào Đảng. Tình trạng này

xảy ra ở các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Khu 10).

Ở Phú Thọ, số đồng chí dự bị gần gấp ba số đồng chí chính thức hồi

đầu năm. Đây là một hiện tượng trái lại với nhiều tỉnh miền Trung Nam Bộ. Ở

hai huyện Hạ Hòa và Thanh Ba, vì cán bộ chủ trương ra chỉ thị định mức phát

triển quá đáng nên cấp dưới thi hành máy móc (định hạn tổ chức gấp ba, gấp

bốn đồng chí cũ sau 3 tháng). Vì vậy ở một vài chi bộ, số đồng chí dự bị gấp

mười số đồng chí chính thức. Việc phát triển quá bừa bãi này đã trở thành một

cuộc mở rộng cửa Đảng để kết nạp hết các tầng lớp, đến nỗi có những phần tử

lưu manh và mật thám cũ của Pháp cũng chui vào tổ chức.”…[2, tr. 174]

Việc xây dựng và mở rộng Mặt trận đoàn kết toàn dân, vận động quần

chúng trong tỉnh cũng còn những hạn chế. Đó là, trong quá trình xây dựng và

phát triển các tổ chức quần chúng, Đảng bộ chưa chú ý đầy đủ những vùng

phong trào cách mạng còn yếu, nhất là vùng có đồng bào dân tộc ít người như

Thanh Sơn, Yên Lập… Việc lãnh đạo hoạt động của các đoàn thể quần chúng

79

còn chạy theo số lượng, chỉ chú ý công tác phong trào… do đó, chất lượng

hoạt động còn nhiều hạn chế.

Năm 1951, trong thời kỳ thu thuế nông nghiệp, cán bộ làm công tác

thuế của tỉnh thiếu kinh nghiệm nên định mức thuế không sát; việc chỉnh lý

sửa đổi mức thuế diễn ra nhiều lần, thậm chí có những sơ hở, chưa đảm bảo

công bằng, làm cho một số hộ nông dân thiếu tin tưởng, số thất thu còn lớn.

Trong quá trình đấu tranh kinh tế với địch, Đảng bộ tỉnh chưa lãnh đạo

phối hợp giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị và quân sự nên hiệu

quả đấu tranh còn thấp.

Trong việc huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến, chế độ, chính

sách dân công và huy động nhân công có những điều không hợp lý như: trong

chiến dịch Hòa Bình, Phú Thọ phải huy động dồn dập, tràn lan, không thời

hạn. Riêng dân công thường trực tới 15000 người, chưa kể dân công làm

đường, xay, giã, vận chuyển, vừa lãng phí vừa ảnh hưởng tới sản xuất.

Tuy còn một vài hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung Đảng bộ Phú

Thọ đã lãnh đạo và giải quyết thành công vấn đề thực hiện nhiệm vụ hậu

phương trên địa bàn tỉnh. Đảng bộ tỉnh không những có chủ trương đúng mà

còn có biện pháp thực hiện linh hoạt, phản ánh sự nhận thức đúng đắn đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế, hậu phương

Phú Thọ đã đáp ứng và đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc

kháng chiến thần thánh của dân tộc.

3.2 Kinh nghiê ̣m

Căn cứ vào đặc điểm tình hình về chính trị, xã hội, dân cư, tiềm lực

kinh tế, quân sự của Phú Thọ và căn cứ vào những kết quả, hạn chế của Đảng

bộ tỉnh Phú Thọ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương cách mạng ở

địa phương, xin nêu ra một số kinh nghiệm sau:

80

3.2.1 Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định thắng lợi của

chiến tranh, vì vậy dù ở thời chiến hay thời bình đều phải nhận thức đúng

đắn quan điểm đó.

Vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà quân sự

đánh giá cao và yêu cầu những người lãnh đạo quốc gia, những người cầm

quân phải quan tâm thường xuyên trong thời chiến cũng như thời bình. Có

nhận thức được như vậy mới tạo nên ý thức, cơ sở khoa học để đề ra đường

lối, chủ trương đúng đắn trong xây dựng tiềm lực mọi mặt của hậu phương,

bảo đảm cho hậu phương đánh thắng các cuộc tấn công lấn chiếm, phá hoại

của địch, đồng thời có điều kiện để chi viện tiền tuyến, bảo đảm cho tiền

tuyến chiến thắng. Bởi lẽ, chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi

bên tham chiến, trong đó hết thảy lực lượng đều bị thử thách, bị tiêu hao, nên

đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển, nhằm đánh bại đối phương để giành

chiến thắng. Cơ sở vật chất của đất nước mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu

thốn là điều kiện quan trọng, quyết định và có tác động rất lớn đến thắng hay

bại của chiến tranh. Tuy nhiên, sức mạnh của hậu phương không chỉ dựa trên

những chỉ số kinh tế, dựa vào mức sống, trình độ hiểu biết khoa học kĩ thuật

của con người, cũng như vũ khí và trang bị kĩ thuật của quân đội, mà còn dựa

trên nhiều yếu tố khác nhau nữa. Bởi vì, mặc dù hậu phương có một vai trò

quan trọng trong việc quyết định thắng lợi hay thất bại của chiến tranh, song

so sánh lực lượng hậu phương của hai bên, giải quyết vấn đề hậu phương, xây

dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương như thế nào, lại không phải là

một vấn đề đơn thuần mang tính số học. Hậu phương có thể chuyển hoá từ

yếu sang mạnh, hoặc ngược lại. Cách huy động lực lượng của hậu phương là

một vấn đề quan trọng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của

chiến tranh, trình độ giác ngộ của con người, năng lực xử lý các vấn đề liên

quan đến chiến tranh...

81

Muốn hậu phương động viên được sức người, sức của cho kháng chiến,

đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về chính trị, tinh thần cho các lực lượng

chiến đấu trên chiến trường, phải trải qua một quá trình xây dựng, từng bước

phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong quá trình đó, hậu

phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn tinh thần,

mới có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. Mặt khác,

phải chú ý các đặc điểm của chiến tranh hiện đại để có sự kết hợp kinh tế với

quốc phòng, quốc phòng với kinh tế từ thời bình, chuẩn bị và dự trữ tiềm lực

cho chiến tranh từ trước khi chiến tranh xảy ra.

Hậu phương nói ở đây là các huyện, thành, thị, xã, phường, thị trấn

trong tỉnh Phú Thọ; còn tiền tuyến là tất cả nơi nào địch đến, nơi nào có lực

lượng phản động phá hoại, quân và dân địa phương phải tác chiến tiêu diệt

chúng. Hậu phương là nơi sản xuất, công tác, xây dựng lực lượng vũ trang địa

phương, nơi cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến chiến đấu và chiến

thắng. Xây dựng hậu phương Phú Thọ là xây dựng toàn tỉnh và từng huyện,

từng xã vững mạnh toàn diện để bảo vệ địa phương, bảo vệ căn cứ quân sự,

bảo đảm sự chỉ đạo và chỉ huy thông suốt và để giải quyết hậu cần tại chỗ cho

lực lượng vũ trang chiến đấu ngay cả trong tình huống chiến tranh, địa bàn bị

chia cắt.

Xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu phương chiến tranh trong chiến lược

bảo vệ Tổ quốc là xây dựng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của các tỉnh,

thành phố và của cả 54 dân tộc anh em, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng

Cộng sản Việt Nam, quyết tâm bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc, không khuất phục trước mọi hành động xâm lược của kẻ thù. Do đó,

ngay trong thời bình, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ phải tích cực và chủ động kiểm

tra, rà soát lại các căn cứ địa cách mạng, các hang động có thể sử dụng làm

kho tàng, nơi sản xuất, đóng quân..., tổ chức củng cố, xây dựng, chuẩn bị hậu

82

phương chu đáo, đồng bộ với các hoạt động phòng, chống “diễn biến hoà

bình”, bạo loạn lật đổ, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; bảo

đảm đủ các yếu tố vật chất, tinh thần, tiềm lực mọi mặt phục vụ chiến đấu lâu

dài, duy trì được sức chiến đấu trong quá trình chiến tranh. Xây dựng và thực

hiện nhiệm vụ hậu phương ở Phú Thọ phải tiến hành từ cơ sở, bằng các giải

pháp xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, trên cơ sở xây dựng các khu vực

phòng thủ vững chắc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân và nền quốc phòng

toàn dân vững mạnh, phải kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với qui hoạch

xây dựng khu vực phòng thủ, nhằm chuẩn bị hậu phương tại chỗ cho chiến

tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.

3.2.2 Để xây dựng hậu phương vững mạnh, phải đảm bảo và phát

huy mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt.

Xây dựng, bảo vệ hậu phương đồng nghĩa với xây dựng, bảo vệ chế độ

xã hội ưu việt, tạo nên tiềm lực kinh tế, quân sự ngày càng to lớn, là xây dựng

đất đứng chân, nơi cổ vũ chính trị, tinh thần cho tiền tuyến, do đó phải có lực

lượng lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh sáng suốt, có tổ chức chặt chẽ. Muốn vậy,

phải xây dựng được Đảng bộ vững mạnh, đội ngũ đảng viên đông về số

lượng, có phẩm chất, năng lực tốt. Cùng với việc xác định quyết tâm, đề ra

chủ trương, đường lối chiến lược chung đúng đắn, phải coi trọng công tác xây

dựng Đảng, đồng thời ra sức phát huy vai trò, hiệu lực của chính quyền, của

các đoàn thể nhân dân các cấp, để thông qua đó tổ chức, vận động toàn dân

xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến.

Địa bàn Phú Thọ ít xảy ra chiến tranh, để xây dựng hậu phương vững

mạnh, cùng với việc tăng cường đoàn kết toàn dân, ra sức động viên, giáo dục

chính trị, bồi dưỡng vật chất cho nhân dân, coi đó là nhân tố cơ bản bảo đảm

cho thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền

tuyến, Phú Thọ còn chú trọng công tác xây dựng Đảng, đảm bảo và phát huy

83

mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ trong việc xây dựng hậu phương

về mọi mặt. Bởi vì, tinh thần, ý thức giác ngộ cao và lợi ích kinh tế, văn hóa

tuy cơ bản, nhưng chưa thể đủ để đánh thắng quân địch có vũ trang và các thủ

đoạn xảo quyệt. Do đó, Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về

chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo phong trào

cách mạng ở địa phương. Đảng bộ Phú Thọ luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng

lên hàng đầu, công tác xây dựng Đảng luôn được coi trọng, củng cố và xây

dựng. Những chi bộ, tổ Đảng chính là nòng cốt thực hiện khẩu hiệu “mỗi làng

xóm là một pháo đài”. Trong kháng chiến có hai loại chi bộ quan trọng nhất,

hàng ngày đối mặt và chiến đấu với địch, đó là chi bộ đại đội trong các đơn vị

vũ trang và chi bộ xã vùng sau lưng địch.

Trong kháng chiến, Đảng bộ đã quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng,

bồi dưỡng lòng yêu nước, chí căm thù giặc, nâng cao giác ngộ giai cấp, giác

ngộ lý tưởng cộng sản cho từng đảng viên, cổ vũ đảng viên nêu cao dũng khí

và phẩm chất cách mạng, cho nên dù khó khăn gian khổ, hy sinh đến mấy

nhưng mỗi đảng viên vẫn tự phấn đấu học hỏi, phát huy trí tuệ, luôn tiên

phong trong chiến đấu và công tác, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính

sách của Đảng. Các tổ chức Đảng luôn được củng cố, nâng cao chất lượng và

được thử thách trong chiến đấu. Nhiều chi bộ, tổ Đảng bị địch khủng bố, chà

đi xát lại; nhiều đảng viên bị địch tra tấn dã man nhưng vẫn trung thành với

sự nghiệp cách mạng, luôn bám đất, bám dân để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo

quần chúng đấu tranh đến ngày thắng lợi.

Trong công tác xây dựng Đảng, có thể nói đây là thành công lớn, có ý

nghĩa quyết định mọi thắng lợi của Phú Thọ trong kháng chiến. Kinh nghiệm

của Đảng bộ Phú Thọ là vừa chú trọng phát triển số lượng, vừa coi trọng chất

lượng đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng, tránh chạy theo số lượng đơn

thuần, phát triển đảng viên phải đi đôi với củng cố tổ chức Đảng, Đảng bộ

84

Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ

chức, nâng cao bản lĩnh chính trị của đảng viên. Điều quan trọng là phải chú ý

đấu tranh, khắc phục các xu hướng bao biện, “tả” khuynh, hữu khuynh, quan

liêu mệnh lệnh, hẹp hòi… tăng cường đoàn kết nội bộ. Chính sự quan tâm đó

đã xây dựng được những chi bộ mạnh, là lực lượng lãnh đạo và làm nòng cốt

trong chiến đấu, là linh hồn của các phong trào ở địa phương.

Song song với công tác xây dựng Đảng, việc củng cố bộ máy chính

quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp ở Phú Thọ luôn được chú ý. Trong xây

dựng chính quyền, kinh nghiệm của Phú Thọ là phải thường xuyên làm cho

chính quyền sâu sát với nhân dân, “mưu lợi cho dân”, theo hướng “chính

quyền của dân, do dân, vì dân”. Vì vậy, những người không đủ năng lực,

phẩm chất đạo đức bị sa sút, thoái hóa, biến chất… được đưa ra khỏi vị trí,

thay vào đó là những cán bộ, đảng viên ưu tú. Từ đó, hệ thống tổ chức chính

quyền Mặt trận và các đoàn thể của tỉnh ngày càng vững mạnh.

3.2.3 Căn cứ vào đặc điểm dân tộc, xã hội và chính trị của tỉnh,

muốn xây dựng hậu phương kháng chiến, Phú Thọ phải giữ vững ổn định

chính trị, coi trọng bồi dưỡng sức dân, mở rộng khối đoàn kết toàn dân.

Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng các thủ đoạn bạo lực. Vì

vậy, thắng lợi của cuộc chiến tranh chủ yếu là do việc quân đội đánh bại kẻ

địch trên chiến trường quyết định. Để thực hiện được điều đó phải làm cho

quân đội của ta có sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần cao hơn sức mạnh

của quân đội đối phương. Song, bản thân quân đội không thể tự tạo ra cho

mình tất cả những sức mạnh đó. Sức mạnh của quân đội, sức mạnh của lực

lượng vũ trang trên chiến trường phụ thuộc và bắt nguồn cơ bản từ sức mạnh

mà nó dựa vào, đó là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của hậu phương.

Nắm vững quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quán

triệt quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, muốn xây dựng hậu phương

85

vững mạnh, toàn diện, trước hết phải đoàn kết toàn dân, “lấy dân làm gốc”,

tăng cường bồi dưỡng sức dân. Bởi vì, nhân dân chính là lực lượng chủ yếu

để xây dựng và bảo vệ hậu phương trong kháng chiến. Do đó, các chủ trương,

chính sách của Đảng đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lắng nghe nguyện

vọng, ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Khi hậu phương thực hiện được tốt

nhất việc bồi dưỡng sức dân thì cũng là lúc huy động được cao nhất sức

người, sức của cho tiền tuyến đánh giặc, khi hậu phương được xây dựng và

bảo vệ vững chắc nhất thì cũng là lúc mặt trận mở được những cuộc tấn công

quy mô lớn nhất đối với quân địch. Chính vì vậy, Đảng bộ Phú Thọ đã ra sức

giáo dục, tổ chức nhân dân, đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến ở hậu

phương, có kế hoạch bồi dưỡng sức dân, phát triển kinh tế gắn với xây dựng

cơ sở, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, trên cơ sở đó mà

bồi bổ, xây dựng và tích trữ lực lượng cả về nhân tài, vật lực. Đây là một bí

quyết thành công của hậu phương Phú Thọ trong kháng chiến. Biểu hiện cụ

thể, sinh động cho chủ trương, biện pháp và thành công đó của Phú Thọ là đã

nêu cao và kết hợp giải quyết đúng, có hiệu quả khẩu hiệu “Độc lập dân tộc”

và “Người cày có ruộng” trong quá trình xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi

viện tiền tuyến. Chính việc đề cao và giải quyết tốt những khẩu hiệu đó mà

Phú Thọ vừa tranh thủ, đoàn kết được toàn dân, vừa từng bước bồi dưỡng

được sức dân, nhất là nông dân lao động, lực lượng đông đảo, chủ yếu ở hậu

phương.

Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã sớm nhận thức đúng tầm quan trọng của việc

xây dựng hậu phương, căn cứ địa của cuộc chiến tranh nhân dân, nơi cung cấp

sức người, sức của cho tiền tuyến, căn cứ vào tình hình địa phương khi thực

dân Pháp đánh lên Phú Thọ, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính đã đề

ra nhiều chủ trương và biện pháp đúng đắn, xây dựng và phát triển lực lượng

về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Địa phương nào cũng tổ chức lực

86

lượng kháng chiến. Vùng tạm chiếm xây dựng các khu du kích làm chỗ đứng

chân, bám đất, bám dân để chỉ đạo phong trào. Vùng giáp ranh và vùng tự do

xây dựng thành hậu phương vững chắc, làm chỗ dựa để đẩy mạnh cuộc kháng

chiến lâu dài.

Do có vùng tự do rộng lớn, trong kháng chiến, Phú Thọ trở thành “kho

người, kho của” của chiến khu Việt Bắc, là nơi có nhiều kho tàng, nhiều

xưởng sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp. Mặt khác, để đảm bảo cho nhu cầu

“ăn no, mặc ấm, đánh khỏe” của cuộc kháng chiến, Đảng bộ, chính quyền tỉnh

đã đề ra các chủ trương, biện pháp lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp với

trọng tâm là vấn đề lương thực, sau đó mới đến thủ công nghiệp, thương

nghiệp, giao thông vận tải và công nghiệp quốc phòng.

Xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế theo phương châm phục

vụ kháng chiến, kinh nghiệm của Phú Thọ là “lấy sức dân mà làm lợi cho

dân”, “dựa vào dân, củng cố tổ chức, đề cao chất lượng”, Tỉnh ủy và Ủy ban

kháng chiến hành chính tỉnh đã lãnh đạo, xây dựng được khối đoàn kết toàn

dân. Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập trên cơ sở liên minh công

nông, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Mặt trận Liên Việt tỉnh Phú Thọ

đã chứng tỏ và khẳng định là một tổ chức rộng rãi, thực hiện sự thống nhất

hành động, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành phần dân tộc, đảng phái,

đoàn thể, làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng tổ chức, quản lý điều

hành công việc kháng chiến đạt kết quả tốt. Mặt trận Liên Việt của tỉnh thực

hiện chủ trương “đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo”, “chống âm mưu

chia rẽ của địch”, đoàn kết trên cơ sở liên minh công nông, được thể hiện

trong cuộc vận động quần chúng, chú ý thành phần cơ bản, tăng cường giáo

dục, cải tạo tầng lớp trên. Những phần tử đối địch hoặc những người lầm

đường làm tay sai cho giặc đều được vận động thuyết phục, giáo dục và

khoan hồng, đưa họ vào hàng ngũ quần chúng kháng chiến.

87

Trên cơ sở xác định đúng vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất

là trụ cột cho khối đoàn kết toàn dân, Đảng bộ Phú Thọ luôn quan tâm xây

dựng và củng cố tổ chức quần chúng rộng rãi này. Tỉnh ủy đã coi nhân tố con

người là trung tâm của đường lối kháng chiến, vì vậy, trong suốt 9 năm kháng

chiến, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Phú Thọ đã đoàn kết, tập hợp được

đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận. Mặt trận đã tuyên truyền, phổ biến

chính sách của Đảng, chính quyền đến từng người dân, làm cho dân hiểu rõ

và thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ đề ra. Mặt trận thực sự là

cầu nối giữa nhân dân với Đảng, chính quyền.

Nhờ những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó, quân và dân trong tỉnh

đã làm thất bại âm mưu chia rẽ lương giáo, lập “xứ Mường tự trị” và làm thất

bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người

Việt” của địch. Trong những năm kháng chiến, nhân dân Phú Thọ, tuyệt đại

đa số là nông dân, đã nghe theo tiếng gọi cứu nước thiêng liêng của Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trong

hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, với tinh thần “tương thân, tương ái”, nhân dân

Phú Thọ đã tự giác chịu đựng mọi thiếu thốn “thắt lưng, buộc bụng”, để

“nhường cơm, sẻ áo” cho quân dân các chiến trường và giúp đỡ hàng vạn

đồng bào tản cư, động viên chồng con, anh em đi đánh giặc. Khi địa phương

bị kẻ địch tấn công, nhân dân Phú Thọ đã cùng bộ đội kiên quyết chiến đấu để

bảo vệ vùng đất không chỉ là quê hương của mình mà còn là một vùng hậu

phương chiến lược quan trọng của cả nước. Cuộc chiến đấu của nhân dân Phú

Thọ đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lược.

88

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phát

huy thế mạnh của địa phương, Phú Thọ cần tích cực, chủ động xây dựng

tiềm lực chính trị, kinh tế, quốc phòng… ngày càng lớn mạnh.

Hiện nay, khi Tổ quốc đã độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã

hội, việc xây dựng và bảo vệ hậu phương cũng có nghĩa là xây dựng và bảo

vệ đất nước, là kết hợp kinh tế với quốc phòng, kết hợp sức mạnh chung của

cả nước với sức mạnh tại chỗ của các địa phương. Muốn cho hậu phương cả

nước được vững mạnh phải làm cho từng địa phương, từng khu vực trở thành

những vùng có kinh tế và quốc phòng vững mạnh.

Tỉnh Phú Thọ có vị trí đặc biệt đối với cả nước, nơi Vua Hùng mở đầu

dựng nước, đặt thủ đô đầu tiên của nước ta ở đây. Phú Thọ là tỉnh có thế “Sơn

chầu, thủy tụ”, dồi dào “khí thiêng sông núi”, đất của thế dựng nước và giữ

nước, của các di tích lịch sử, của các danh thắng, của nền văn hóa dân gian

đặc sắc. Nơi đây, cảnh đẹp hữu tình, với núi rừng bạt ngàn, sông suối chằng

chịt và những dải đồng bằng màu mỡ. Phía trước có 3 con sông lớn từ 3

hướng đổ về tụ hội, phía sau có núi đồi điệp trùng bọc đỡ, bốn bề đều có

thành vách thiên nhiên che chắn đã làm cho Phú Thọ trở thành địa bàn có thế

chiến lược quan trọng “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Mặt khác, Phú

Thọ là một tỉnh gồm 21 dân tộc anh em sinh sống, là nơi “đất lành, chim

đậu”, trong lịch sử đã có nhiều cư dân từ mọi miền đất nước đến sinh cơ lập

nghiệp, tuy nhiên Phú Thọ ít có biến động, xung đột dân tộc. Từ bao đời nay,

nhân dân trong tỉnh luôn giữ gìn và phát huy được những truyền thống quý

báu của ông cha: “Giàu sáng tạo trong lao động, giàu khí phách trong đấu

tranh, giàu nhân ái trong lối sống”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, đây lại là vùng

căn cứ địa của Cách mạng Tháng Tám, là địa đầu của vùng tam giác chiến

lược trung du và châu thổ sông Hồng. Với tinh thần đoàn kết để bảo vệ cộng

đồng và cùng chống giặc ngoại xâm, trải qua hàng ngàn năm đã hun đúc nên

89

những kinh nghiệm, truyền thống quân sự, “Mùa Đông binh sĩ” được các thế

hệ cư dân Phú Thọ nối tiếp, giữ gìn và phát huy. Trong giai đoạn hiện nay,

Phú Thọ vẫn là một địa bàn chiến lược trọng yếu cả về phương diện kinh tế

lẫn quốc phòng – an ninh. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng và phát

triển vùng đất này như thế nào cho phù hợp với quy luật “dựng nước phải đi

đôi với giữ nước”?.

Ở Phú Thọ, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quy hoạch và

phát triển địa phương, vấn đề xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, xây

dựng khu vực phòng thủ của tỉnh trở thành một trong những nhiệm vụ chính

trị trung tâm của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Nhiệm vụ ấy đặt ra yêu cầu

phải nghiên cứu vấn đề xây dựng, thực hiện nhiệm vụ hậu phương trong quá

khứ để tìm ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử

mới.

Đảng bộ, chính quyền Phú Thọ thường xuyên chăm lo xây dựng các

lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, xây

dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Đảng bộ tỉnh chăm lo đào tạo đội ngũ cán

bộ đáp ứng yêu cầu của tỉnh và góp phần cung cấp cán bộ cho Trung ương,

tăng cường mối liên hệ giữa tỉnh và các cán bộ Phú Thọ công tác ở Trung

ương và các địa phương khác, tạo thêm điều kiện mới để phát triển kinh tế,

văn hóa của tỉnh.

Trong tình hình hiện nay, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trước

tiên phải làm tốt việc củng cố thế trận lòng dân, củng cố khối đại đoàn kết dân

tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định

mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh với những

quan điểm sai trái, tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng và nhân dân,

giữa quân và dân. Quân đội và Công an đoàn kết, kiên quyết thực hiện đường

lối, chủ trương của Đảng là một khâu quan trọng để xây dựng thế trận lòng

90

dân, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố khu vực phòng

thủ của tỉnh. Chăm lo xây dựng các cơ quan quân sự trong tỉnh, tổ chức diễn

tập theo kế hoạch của Quân khu, huấn luyện quân dự bị, bảo vệ các khu căn

cứ cũ là thiết thực tăng cường khu vực phòng thủ của tỉnh.

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế, chăm lo cải thiện

đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ chính là thiết thực tăng cường tiềm lực

để giữ nước. Bên cạnh đó, để có nền quốc phòng mạnh, có thế trận chiến

tranh nhân dân vững chắc, phải làm cho Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ

trang nhận rõ vị trí địa bàn chiến lược của tỉnh, tiềm năng của tỉnh trong thời

kỳ đổi mới, vượt qua mọi thử thách, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của

các thế lực thù địch.

Những vấn đề nêu trên cũng chính là những nội dung cốt lõi của xây

dựng khu vực phòng thủ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để thực hiện những nội dung đó, phải huy động được sức mạnh tổng hợp trên

các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học công nghệ… Đây

là những yêu cầu mới đối với Phú Thọ. Để thực hiện thành công những nhiệm

vụ này, Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ cần đúc rút kinh nghiệm và vận dụng

sáng tạo những bài học kinh nghiệm về việc thực hiện nhiệm vụ hậu phương

trong kháng chiến vào sự nghiệp cách mạng hiện nay.

91

KẾT LUẬN

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), một cuộc chiến

tranh nhân dân thần thánh vì độc lập, tự do, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của

Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, quân và dân Phú Thọ đã cùng nhau đoàn kết, khắc

phục mọi khó khăn, vượt qua gian khổ, xây dựng Phú Thọ thành một hậu

phương vững mạnh, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ đời sống nhân dân, vừa chi

viện ngày càng đắc lực cho tiền tuyến. Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo thực hiện

nhiệm vụ hậu phương trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa

xã hội để không ngừng đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường.

Tại hậu phương Phú Thọ, lực lượng dự bị được xây dựng và tăng

cường, sẵn sàng cơ động ra chiến trường, phối hợp thực hiện các đòn đánh

lớn, có tác dụng làm xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho ta và bất lợi

cho đối phương. Trong các giai đoạn của chiến tranh, hậu phương Phú Thọ đã

dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng cho những cuộc quyết chiến chiến lược, góp

phần không nhỏ vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong chín năm kháng chiến, Phú Thọ vừa là vùng tự do, vừa bị địch

tạm chiếm ở một số khu vực, cuộc kháng chiến của quân dân Phú Thọ mang

tính chất “tĩnh vi dân - động vi binh”. Quân dân Phú Thọ vừa phải trực tiếp

chiến đấu đánh trả những cuộc tiến công của địch, vừa phải củng cố, mở rộng

vùng tự do, để xây dựng tỉnh thành hậu phương “kho người, kho của”, phục

vụ đắc lực, hiệu quả cho cuộc kháng chiến. Phú Thọ đã thể hiện rõ vai trò là

một tỉnh vững mạnh, hậu phương chiến lược quan trọng của cuộc kháng

chiến.

Nhiệm vụ xây dựng tỉnh Phú Thọ thành hậu phương trong kháng chiến

chống Pháp là một quá trình phấn đấu đầy gian khổ, đấu tranh liên tục, một

mất một còn giữa quân dân ta với kẻ thù xâm lược. Đảng bộ, chính quyền và

92

quân dân Phú Thọ đã hoàn thành nhiệm vụ Trung ương giao phó, xứng đáng

là hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến. Với thành tích đó, Đảng,

Nhà nước đã tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

thời kỳ kháng chiến chống Pháp cho Đảng bộ và nhân dân 4 đơn vị trong tỉnh

(Đảng bộ và nhân dân xã Vĩnh Lại, Trạm Thản, Tu Vũ, Chí Đám), 389 bà mẹ

được truy tặng và tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, truy tặng và tặng

danh hiệu 3 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống

Pháp. Cán bộ và nhân dân tỉnh được tặng thưởng lá Cờ danh dự của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, 63 tập thể, hơn 16.000 cán bộ và nhân dân được tặng Huân

chương, Huy chương các loại, nhiều Bằng khen, Giấy khen của Chính phủ,

của các Bộ, ngành Trung ương và Liên khu Việt Bắc. Nhân dân Phú Thọ đời

đời ghi nhớ công ơn 2.927 liệt sỹ đã hy sinh trọn đời vì Tổ quốc và 8.359

thương binh, 301 bệnh binh đã cống hiến một phần xương máu của mình cho

sự nghiệp giải phóng dân tộc.[1, tr.318]

Ngày nay, phát huy truyền thống cách mạng của tỉnh, Đảng bộ và nhân

dân Phú Thọ quyết tâm xây dựng Phú Thọ thành một tỉnh giàu mạnh, một khu

vực phòng thủ vững chắc, nhằm thực hiện trọn vẹn lời căn dặn của Chủ tịch

Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng

nhau giữ lấy nước”.

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (1999), Lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp của quân và dân Phú Thọ (1945- 1954), Nxb Quân đội

nhân dân.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Phú Thọ, tập I (1939- 1968), Nxb CTQG, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2005), Bác Hồ với Phú Thọ-

Phú Thọ làm theo lời Bác, Nxb CTQG, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2007), Lịch sử lực lượng vũ

trang nhân dân tỉnh Phú Thọ(1945 -2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

5. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996),

Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Nxb

CTQG, Hà Nội.

6. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000),

Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) - thắng lợi và bài học, Nxb

CTQG, Hà Nội.

7. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1979), Những sự kiện lịch

sử Đảng (1945 – 1954), Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Báo cáo 6 tháng đầu năm 1950 của UBKCHC tỉnh Phú Thọ (số 817

P3 ngày 17/7/ 1950. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

9. Báo cáo mọi mặt năm 1952 của Tỉnh ủy Phú Thọ (ngày 15/1/1953).

Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

10. Báo cáo thành tích năm 1949 của Đảng bộ Phú Thọ (số 17BC/PT, ngày

24 tháng 11 năm 1949). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

11. Báo cáo thành tích thi đua “Chuyển mạnh sang phản công” kỳ thứ

nhất của Tỉnh ủy Phú Thọ, ngày 18/5/1950. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên

giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

94

12. Báo cáo tình hình mọi mặt tỉnh Phú Thọ năm 1948 (số TUP/KU 2 ngày

26 tháng 2 năm 1948). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

13. Báo cáo tình hình Phú Thọ năm 1947 của UBKCHC (số 252VP ngày 13

tháng 1 năm 1948). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

14. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Sự nghiệp

tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb QĐND. Hà Nội.

15. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 (1990), Tây Bắc – Lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp, Nxb QĐND. Hà Nội.

16. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 (1996), Quân khu 2, 50 năm xây dựng

chiến đấu trưởng thành (1946- 1996), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

17. C.Mác (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến

tranh quân đội và quốc phòng, Nxb QĐND. Hà Nội.

18. Trường Chinh (1964), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

19. Trường Chinh (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ

trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

20. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt

Nam, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.

21. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt

Nam, Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Trường Chinh (1987): Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

23. Trần Nam Chuân (2005), Căn cứ địa cách mạng - hậu phương chiến

tranh bảo vệ Tổ quốc, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, tháng 1, 2/2005.

24. Công an tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Công an nhân dân Phú Thọ,

tập I (1945 – 1975), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Trần Bạch Đằng (1993), Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh

nhân dân Viê ̣t Nam , Tạp chí Lịch sử quân sự (số 3).

95

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8,

Nxb CTQG, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 9,

Nxb CTQG, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 10,

Nxb CTQG, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 11,

Nxb CTQG, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002 ), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12,

Nxb CTQG, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002 ), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 13,

Nxb CTQG, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14,

Nxb CTQG, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15,

Nxb CTQG, Hà Nội.

34. Lê Duẩn (1965), Ta nhất định thắng, địch nhất định thua, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

35. Văn Tiến Dũng (1993), Đi theo con đường của Bác, Nxb CTQG, Hà

Nội.

36. Văn Tiến Dũng (1995), Chiến khu và đấu tranh vũ trang trong

Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4.

37. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề đườ ng lối quân sự của Đảng

ta, Nxb Sự thâ ̣t, Hà Nội.

38. Võ Nguyên Giáp (1974), Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng,

Viê ̣n Khoa ho ̣c quân sự, Hà Nội.

96

39. Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, Nxb

QĐND, Hà Nội.

40. Võ Nguyên Giáp (2004), Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại, Nxb

QĐND, Hà Nội.

41. Lưu Quang Hà (1975), Trận tuyến hậu cần Điện Biên Phủ, Nxb

QĐND, Hà Nội.

42. Vũ Quang Hiển (2001), Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở

đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954), Nxb CTQG, Hà Nội.

43. Phan Ngọc Liên (2006), Biên niên sử các đại hội Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

44. Trần Ngọc Long (2007), Căn cứ địa U Minh (1945 – 1975), Nxb

QĐND, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh (1966), Về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh (1970), Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang

nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh (1985), Chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

48. Hồ Chí Minh (1985), Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

49. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.

50. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.

51. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.

52. Hồ Chí Minh (2000) Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.

53. Hải Nguyên (1984), Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử,

Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5.

97

54. Sở Văn hóa – Thông tin Vĩnh Phú (1980), Di tích và danh thắng

tỉnh Phú Thọ.

55. Số liệu kết quả cuộc vận động “Binh sĩ bị nạn” và “Mùa Đông binh

sĩ” của UBKCHC tỉnh Phú Thọ năm 1947. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo

Tỉnh ủy Phú Thọ.

, 56. Văn Ta ̣o (1995), Căn cứ đi ̣a cá ch mạng truyền thống và hiê ̣n đại

Tạp chí Lịch sử quân sự số 4.

57. Hoàng Minh Thảo (1987), Đường lối kháng chiến chống thực dân

Pháp của Đảng ta, một sáng tạo lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 13.

58. Hoàng Minh Thảo (1987), Một số bài học của cuộc phản công

chiến lược Việt Bắc- Thu Đông 1947, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 22.

59. Ngô Vi Thiện (1984), Phát huy sức mạnh của hậu phương kháng chiến,

bảo đảm hậu cần cho Đông Xuân 1953- 1954 và cho chiến dịch Điện Biên Phủ

toàn thắng. Sức mạnh chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

60. Ngô Vi Thiện (1987), Về xây dựng căn cứ địa – Hậu phương trong

kháng chiến chống Pháp, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 18.

61. Tờ trình gửi Bắc Bộ Phủ của UBHC tỉnh Phú Thọ (ngày

27/8/1946). Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

62. Tờ trình về tình hình chung ở tỉnh Phú Thọ từ ngày cách mạng

tháng Tám năm 1945 đến giờ, của UBHC tỉnh Phú Thọ, ngày 27 tháng 8 năm

1946, gửi Bắc Bộ Phủ. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

63. Tổng kết chiến tranh du kích của tỉnh Phú Thọ. Tài liệu lưu trữ tại

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

64. Ngô Đăng Tri (2001), Hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh trong

kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

98

65. Ngô Đăng Tri (2007), Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu

phương, chi viện tiền tuyến thời kỳ 1945- 1975, Một số chuyên đề lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, tr 176- 250.

66. Ngô Đăng Tri (2010), 80 năm (1930- 2010) Đảng Cộng sản Việt

Nam những chặng đường lịch sử, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

67. Trích cuốn Việt Nam anh dũng – Phần tổng kết kháng chiến chống

Pháp tỉnh Phú Thọ. Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ.

68. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà

Nội.

69. Ủy ban MTTQVN tỉnh Phú Thọ (2006), Lịch sử Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam tỉnh Phú Thọ (1930 – 2005).

70. V.I. Lênin – Xtalin (1965), Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của

nhân dân Liên Xô, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

71. V.I. Lênin (1970), Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến

tranh cách mạng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

72. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 30, Nxb Sự thật, Hà Nội.

73. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

74. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1984), 40 năm xây dựng lực lượng

vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

75. Viê ̣n Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp, Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

76. Viê ̣n Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử kháng chiến chố ng

thực dân Phá p, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

77. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh

nhân dân Việt Nam(1945 – 1975), Nxb QĐNDVN, Hà Nội.

78. Viện sử học Việt Nam (2003), Việt Nam những sự kiện lịch sử

(1945 – 1975), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99