ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - - - OO- - - HOÀNG THU THỦY ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2005
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số:
60.22.56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Bình Ban
Hà Nội- 2007
MỤC LỤC
Mở đầu ............................................................................................................... 3
Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ 1997 đến 2000 .......................................................................................... 9
1.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước 1997... 9
1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hưởng tới quá trình đề ra chủ trương và
thực thi chính sách dân tộc .................................................................................. 9
1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta và việc quán triệt thực hiện
chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước năm 1997 ................................. 17
1.2. Chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và sự chỉ
đạo thực hiện từ 1997 đến 2000 ........................................................................... 24
1.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với định hướng lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc ................................................................................................................. 24
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
từ 1997 đến 2000 ................................................................................................. 30
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ 2001 đến 2005 .......................................................................................... 38
2.1. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI ảnh hưởng tới quá trình lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ........................ 38
2.1.1. Thuận lợi ................................................................................................... 38
2.1.2. Khó khăn ................................................................................................... 40
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc từ 2001 đến 2005 ............................................................................. 42
2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vận dụng và cụ thể hóa chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc ........................................................... 42
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
từ 2001 đến 2005 ................................................................................................. 48
1
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005 ....................... 69
3.1. Thành tựu và hạn chế .................................................................................... 69
3.1.1. Thành tựu .................................................................................................. 69
3.1.2. Hạn chế...................................................................................................... 76
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên .................................................................................. 80
3.2.1. Kết hợp chặt chẽ sự giúp đỡ của Trung ương, tương trợ của các địa
phương khác, với tinh thần nỗ lực tự thân trong thực hiện chính sách dân tộc...... 80
3.2.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị địa phương nhất là ở cấp cơ sở
trong thực hiện chính sách dân tộc ....................................................................... 82
3.2.3. Phải xác định được trọng tâm, trọng điểm để đầu tư các nguồn lực, tạo ra
các bước phát triển đột phá .................................................................................. 85
3.2.4. Mỗi tổ chức Đảng và Đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phương châm
hướng về cơ sở, hướng về cộng đồng dân cư trong quá trình thực hiện chính
sách dân tộc ......................................................................................................... 88
3.2.5. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong
việc thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn cơ sở ................................................ 90
Kết luận .............................................................................................................. 92
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 95
Phụ lục ............................................................................................................... 100
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc từ lâu và hiện nay vẫn là một trong
những vấn đề phức tạp trên thế giới. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX và những
năm đầu của thế kỷ XXI, các biến cố trên thế giới đã nói lên vấn đề dân tộc vẫn là
vấn đề thời sự nóng bỏng của nhân loại. Do đó, việc tìm kiếm con đường giải quyết
vấn đề dân tộc luôn được các nhà chính trị và khoa học trên thế giới đặc biệt quan
tâm.
Ở Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đến nay, vấn đề dân
tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đường lối của Đảng ở các thời kỳ,
không chỉ nhằm phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị trước mắt, mà còn xuất phát từ
bản chất của cuộc cách mạng do con người và vì con người. Mức độ hiện thực hoá
chính sách dân tộc trong cuộc sống tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có năng
lực cụ thể hoá và tổ chức thực hiện của tổ chức Đảng và chính quyền từng địa ph-
ương. Do đó, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở từng địa phương
sẽ cho thấy tính lịch sử- cụ thể về quá trình chuyển tải chính sách dân tộc của Đảng
vào thực tiễn của mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ.
Thái Nguyên là một tỉnh có 8 dân tộc cư trú xen kẽ: Kinh, Tày, Nùng, Dao,
Sán Dìu, Sán Chay, Hmông, Hoa. Các dân tộc thiểu số chiếm 24,76% trong tổng số
dân cư toàn tỉnh. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm,
các dân tộc thiểu số đã gắn bó, đoàn kết cùng dân tộc Kinh, tạo thành một khối cộng
cư, cộng lợi, cộng cảm và cộng mệnh, với sự thống nhất trong đa dạng về văn hoá
tộc người. Với đặc điểm kết cấu dân cư nêu trên, việc lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chức năng lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên ở các thời kỳ lịch sử. Thực hiện tốt chính sách dân tộc mới củng
cố được khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, phát huy sức mạnh
nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do có tầm quan trọng đặc biệt về 3
phương diện địa- chính trị đối với toàn vùng Đông Bắc và Thủ đô Hà Nội, nên thực
hiện chính sách dân tộc của Thái Nguyên không chỉ có ý nghĩa tự thân, mà còn ảnh
hưởng đến cục diện phát triển chung của đất nước.
Ý thức được điều đó, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt từ khi tái lập
tỉnh (1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên rất coi trọng lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc, như xoá đói giảm nghèo, định canh định cư, phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống của nhân dân, bảo vệ phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, củng
cố cơ sở chính trị trong quần chúng. Bên cạnh những thành công đã đạt được, trong
quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên cũng bộc lộ những hạn chế
cần phải được nhận diện đầy đủ. Đó là: khoảng cách chênh lệnh về trình độ phát
triển giữa dân tộc thiểu số và đa số tiếp tục bị đẩy ra xa thêm; bản sắc văn hoá các
dân tộc bị xói mòn; đội ngũ cán bộ dân tộc vừa yếu về năng lực vừa bất hợp lý về
cơ cấu; môi trường sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng; tín ngưỡng- tôn giáo diễn biến
phức tạp,.. những vấn đề đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống an ninh và an
sinh của đồng bào các dân tộc.
Diễn biến vấn đề dân tộc ở Thái Nguyên cần được nhìn nhận khách quan
toàn diện, không chỉ từ góc độ của các nhà tổ chức thực tiễn, mà đặc biệt từ lăng
kính của người nghiên cứu. Trên cơ sở tư duy và phương pháp khoa học cho phép
đúc kết các kinh nghiệm hữu dụng phục vụ quá trình hoàn thiện chính sách dân tộc,
khắc phục những cách nhìn phiến diện khi tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.
Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005” là rất cần thiết, xét trên cả phương diện khoa
học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
4
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Mỗi thời kỳ lịch sử, trước yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị mới đòi hỏi, Đảng lại có chủ trương, chính sách, giải pháp
mới phù hợp. Chính vì vậy, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng luôn đ-
ược giới lý luận và các nhà lãnh đạo quan tâm nghiên cứu. Trên phạm vi cả nước đã
có nhiều công trình đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Nhìn một
cách tổng thể, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm
chủ yếu sau:
Nhóm thứ nhất: Sự tổng kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, rút kinh nghiệm,
đề ra đường lối, chủ trương chính sách dân tộc ở nước ta. Sự tổng kết đó được phản
ánh trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, một số Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương, Nghị quyết Bộ chính trị,... Đây là những quan điểm đánh
giá chính thức của Đảng ta về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc.
Nhóm thứ hai: Những nghiên cứu tổng quan về các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Đáng chú ý trong số này là: “Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam” của
Đặng Nghiêm Vạn; “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở miền
núi” của Bế Viết Đẳng (Chủ biên); “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp của Hà Quế Lâm; “ Dân số và dân số tộc
người ở Việt Nam” của Khổng Diễn; “Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn
đề và giải pháp” của Trịnh Quốc Tuấn (Chủ biên); “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay của Phan Hữu Dật.... Có thể
thống kê nhiều hơn nữa những công trình loại này, song đây là những nghiên cứu
tổng hợp, nên chỉ mang đến những nhận định khái quát về đặc điểm địa lý, văn hóa
xã hội, về thành phần dân tộc và sự phân bố các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ đó
rút ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn về đời sống của đồng bào
5
các dân tộc thiểu số, đồng thời đóng góp cơ sở khoa học cho việc thực hiện tốt hơn
chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhóm thứ ba: Những nghiên cứu về chính sách dân tộc của Đảng và nhà
nước ta. Tiêu biểu trong số này có các công trình: “Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta” (Tập bài giảng), Phân viện Hà Nội, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Chính sách và chế độ pháp lý đối với đồng bào
dân tộc và miền núi”, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; “Hệ thống các văn bản
chính sách dân tộc và miền núi (tập 2) Về kinh tế- xã hội”, Ủy ban dân tộc và miền
núi; “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ban T-
ư tưởng- Văn hóa Trung ương; “Một số vấn đề cần biết về dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nhìn
chung, đây là những tài liệu cơ bản cung cấp cho cán bộ Đảng viên và nhân dân
nhận thức đúng, hiểu được những nội dung cơ bản nhất về dân tộc và quan hệ dân
tộc cũng như những chính sách dân tộc đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhóm thứ tư: Một số luận án Tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian qua và hiện nay trên phạm vi cả nước
có một số đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số
địa phương cụ thể như ở Lâm Đồng, Ninh Thuận... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí đã đề cập đến giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, có một số các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,
các báo cáo tổng kết của Uỷ ban nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan đề cập
đến những thành công, hạn chế và các giải pháp trong việc thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng ở từng địa phương.
6
Các công trình nghiên cứu trên nói chung đều khẳng định vai trò to lớn và
sự đúng đắn, nhất quán của Đảng trong việc đề ra và lãnh đạo thực hiện chính sách
đối với các dân tộc thiểu số trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay. Những công
trình và báo cáo nêu trên là những nguồn tư liệu quý, cung cấp cơ sở thực tiễn và
cách tiếp cận về chính sách dân tộc và tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
đầy đủ, có hệ thống vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc từ 1997 đến 2005” dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục đích của luận văn là làm rõ quá trình và
vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách
dân tộc ở Thái Nguyên từ năm 1997 đến 2005.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hoá các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2005.
- Đánh giá khách quan, toàn diện quá trình tổ chức chỉ đạo thực thi chính
sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005.
- Rút ra thành công, hạn chế và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên đối với quá trình thực hiện chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005.
4. Đối tƣợng và phạm vi của đề tài
4.1. Đối tượng của đề tài
7
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống chủ trương, chính sách và
biện pháp tổ chức thực thi chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ
1997 đến 2005.
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian:
Nghiên cứu từ 1997 đến 2005. Năm 1997 là năm tái lập tỉnh Thái Nguyên,
sau một thời gian hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 2005 là năm
diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII (tháng 12- 2005).
- Về không gian:
Nghiên cứu sự vận dụng, cụ thể hóa chính sách dân tộc và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo
sát trên địa bàn một số huyện (xã) trọng điểm.
- Về nội dung:
Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh..., đề tài chỉ giới hạn ở bốn nhóm
chính sách chủ yếu: chính sách kinh tế (xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế),
chính sách chăm lo trí lực và thể lực (giáo dục - đào tạo, y tế, nâng cao đời sống vật
chất), chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chính sách cán
bộ dân tộc thiểu số.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
- Văn kiện kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
- Các nguồn tư liệu thành văn có liên quan đến vấn đề dân tộc và tư liệu
khảo sát điền dã. Đó là các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ tỉnh Thái
8
Nguyên, báo cáo của các cơ quan ban, ngành trong tỉnh; những công trình nghiên
cứu của các tác giả liên quan đến đề tài luận văn; niên giám thống kê hàng năm của
Trung ương và địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgíc. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh... để đối chiếu, bảo đảm độ chính xác, tin cậy của các dữ liệu trong
luận văn, đồng thời làm cơ sở cho những nhận định và khái quát vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Cung cấp một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên và đóng góp thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu, giảng
dạy các nội dung liên quan đến chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các nhận định, kết luận và kinh nghiệm được đúc rút sẽ góp phần cung
cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong tình hình mới
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
9
CHƢƠNG 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2000
1.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở ĐỊA BÀN
THÁI NGUYÊN TRƢỚC 1997
1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hƣởng tới quá trình đề ra chủ
trƣơng và thực thi chính sách dân tộc
Thái Nguyên là tỉnh thuộc khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ, là trung
tâm của vùng Đông Bắc, có vị trí tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ và miền núi phía
Bắc, là vùng nối giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong quá trình
lịch sử, địa danh và địa giới Thái Nguyên cũng có nhiều sự thay đổi.
Vào thời Hùng Vương vùng đất Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, một trong
15 bộ của nước Văn Lang. Vào thế kỷ X- thời nhà Đinh, Tiền Lê đã chia đất nước
ra làm 10 đạo, đến năm 1010 khi Lý Thái Tổ lên ngôi thay đổi 10 đạo thành 24 lộ,
các vùng xa xôi gọi là châu, Thái Nguyên là một trong các châu thời ấy. Tới thời
Minh Mạng thứ 12 (1831) đất nước được chia thành các tỉnh hạt, từ đó trấn Thái
Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Vào thời thuộc Pháp, năm 1900 chính
quyền thực dân cho tách phủ Thông Hóa ra thành tỉnh Bắc Kạn gồm 5 huyện: Na
Rì, Chợ Rã, Ngân Sơn, Chợ Đồn và Bạch Thông.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hợp nhất hai tỉnh
Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 1985 thành lập thêm một đơn
vị hành chính là thị xã Sông Công.
Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết về việc phân chia lại địa giới hành chính
một số tỉnh và Bắc Thái lại được tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Kể
10
từ ngày 1/1/1997, các đơn vị hành chính của tỉnh Thái Nguyên chính thức đi vào
hoạt động [3, tr.11- 12].
Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định 131/QĐNS/TW về việc kết
thúc hoạt động của Đảng bộ và Tỉnh ủy Bắc Thái, đồng thời thành lập Đảng bộ Thái
Nguyên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời. Đảng bộ Thái Nguyên chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 1/1/1997.
Như vậy, sau 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, năm 1997, tỉnh Thái Nguyên được tái lập với diện tích tự nhiên là 3.541,1 km2 [6, tr.11],
gồm 9 đơn vị hành chính: các huyện Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ, Đồng
Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên, với 177 xã,
phường, thị trấn (trong đó có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, chiếm 71,18%).
Dân số vào thời điểm cuối năm 1997 là 1.040.123 người [25, tr.3], thuộc 8 thành
phần dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chí, Dao, Hmông, Hoa. Toàn Đảng
bộ có 44.449 đảng viên sinh hoạt ở 651 đảng bộ cơ sở [25, tr.4].
Thái Nguyên có giới hạn từ 20020’ vĩ tuyết bắc đến 22003’ vĩ tuyết bắc và từ 105028’ kinh tuyến đông đến 106014’ kinh tuyến đông; có diện tích tự nhiên 3.541,1 km2; Phía Bắc giáp Bắc Kạn, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp
Lạng Sơn, Bắc Giang, phía Tây giáp Vĩnh Phúc, Tuyên Quang [29, tr.37- 38]. Thái
Nguyên nằm gọn trong vành đai nhiệt đới, gần chí tuyến Bắc hơn xích đạo nên có
sự khác biệt về hai mùa khá rõ rệt; về độ dài ban ngày, ban đêm; về nhiệt độ trung
bình mùa; chịu ảnh hưởng mạnh của khí hậu lục địa châu Á, nhất là về mùa đông,
đồng thời vẫn chịu ảnh hưởng mạnh của biển Đông và vịnh Bắc Bộ qua gió mùa
mùa hạ và bão.
Thái Nguyên có hình dáng cân đối, đường quốc lộ 3 và sông Cầu gần như
trục đối xứng chạy dọc thung lũng suốt từ Bắc xuống Nam tỉnh. Lãnh thổ không có
chỗ nào quá hẹp hoặc phình rộng so với lộ trục; địa hình chủ yếu là đồi núi thấp
11
chạy theo hướng Bắc- Nam, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Bao quanh phía Tây Nam
và phía Bắc là những dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn.
Nhìn tổng thể, tự nhiên Thái Nguyên phân hóa thành 3 vùng:
Vùng núi phía tây và tây bắc tỉnh: gồm Đại Từ, Định Hóa và các xã tây Phú
Lương, là khu vực được hình thành sớm. Các thung lũng sông rộng, giao thông
thuận lợi, là vùng núi không quá khó khăn, có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để
khai thác và phát triển kinh tế.
Vùng núi phía Đông: Đồng Hỷ, Võ Nhai, địa hình phức tạp, hiểm trở, có
nhiều núi đá vôi. Thung lũng sông suối hẹp, sâu, mật độ sông ngòi thưa thớt. Đây là
vùng núi cao, giao thông đi lại rất khó khăn, tự nhiên có trở ngại lớn đến phát triển
kinh tế- xã hội của vùng.
Vùng có địa hình thấp gồm nam Phú Lương, tây Đồng Hỷ, thành phố Thái
Nguyên, Phú Bình, Phổ Yên, Sông Công. Vùng đồi trung du xen với đồng bằng phù
sa sông Cầu, sông Công. Đây là vùng dân cư đông đúc, giao thông thuận lợi cả
đường bộ, đường sông, đường sắt; vùng có lịch sử tồn tại và phát triển kinh tế- xã
hội lâu đời [29, tr.37- 38].
Trải qua hàng ngàn năm với bao biến động thăng trầm của lịch sử, Thái
Nguyên đã trở thành mảnh đất hội tụ của nhiều dân tộc với sự đa dạng về văn hóa
các tộc người.
Thái Nguyên ngày nay gồm 8 dân tộc chung sống xen kẽ, có dân tộc vốn là
người bản địa có mặt từ xa xưa, có dân tộc mới nhập cư, song tất cả đều hòa nhập
thành một cộng đồng thống nhất, cùng sống xen kẽ trên một lãnh thổ với một nền
văn hóa chung về đặc điểm nhưng đa dạng về hình thái biểu hiện. Điều này do các
dân tộc có nhiều nguồn gốc sinh thái, nhân văn hợp lại, cùng chung một tiến trình
phát triển lịch sử, văn hóa và kinh tế. Về ngôn ngữ các dân tộc ở Thái Nguyên thuộc
vào 4 nhóm: Người Kinh (nhóm ngôn ngữ Việt- Mường), Người Tày, Nùng, Sán
12
Chay (nhóm ngôn ngữ Tày- Thái), Người Hmông, Dao (nhóm ngôn ngữ Hmông-
Dao), Người Hoa, Sán Dìu (nhóm ngôn ngữ Hán).
Kết cấu dân tộc ở Thái Nguyên gồm: Kinh 73,49%, Tày 10,15%, Nùng
5,22%, Sán Dìu 3,57%, Sán Chay 2,79%, Hoa 2,24% Dao 2,08%, Hmông 0,46%.
Toàn tỉnh có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, trong đó có 41 xã đặc biệt khó
khăn và An toàn khu. Các dân tộc thiểu số sống xen kẽ, phấn bố không đồng đều
trong từng bản, làng, tập trung đông ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Có
những xóm, bản chỉ có một dân tộc: dân tộc Tày 267 xóm, bản; Sán Chay 64 xóm,
bản; Sán Dìu 56 xóm, bản; Dao 57 xóm, bản; Nùng 42 xóm, bản; Hmông 13 xóm,
bản [41, tr.1].
Dân tộc Kinh (hay còn gọi là Việt) có tỷ lệ 73,49%. Đây là dân tộc mang
nguồn gốc bản địa, chiếm số lượng đông nhất. Dân tộc Kinh từ trước đây gồm nhiều
bộ phận hợp thành: dân bản địa, dân được tuyển mộ vào làm trong các mỏ đồn điền,
có bộ phận là người di cư từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cư trú của người Kinh
tập trung ở các huyện phía Nam, như Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công và
thành phố Thái Nguyên, đồng thời cũng trải rộng trên các vùng miền và sống xen kẽ
cùng các dân tộc khác. Vốn cư trú ở vùng thấp, người Kinh quen với nghề trồng lúa
nước, hoạt động nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với các nghề thủ công truyền thống,
nghề sông nước. Người Kinh không chỉ giàu tập quán kinh nghiệm sản xuất mà còn
có khả năng tiếp thu nhanh các tiến bộ kỹ thuật, do đó trình độ văn hóa, khoa học kỹ
thuật trong cộng đồng người Kinh đã có nhiều tiến bộ. Vốn văn hóa truyền thống
của người Kinh hết sức phong phú, đặc sắc và luôn được bảo tồn phát huy. Ngày
nay, tổ chức làng xã của người Kinh ở Thái Nguyên vẫn mang những nét đặc thù
tiêu biểu của cơ cấu xã hội Việt Nam.
Dân tộc Tày có tỷ lệ thấp hơn, xếp thứ hai sau dân tộc Kinh, địa bàn cư trú
của người Tày rộng khắp trong phạm vi toàn tỉnh, song chủ yếu ở những huyện
13
miền núi, vùng cao: Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai. Tổ tiên của người Tày
vốn là cư dân bản địa ở Bắc Việt Nam và miền giáp gianh biên giới Việt- Trung.
Người Tày có nền nông nghiệp khá phát triển, ngoài việc trồng lúa, đồng bào còn
trồng ngô, khoai, sắn, và các loại cây lương thực, rau quả. Bên cạnh đó, người Tày
còn rất khéo tay trong các nghề thủ công đan lát mây tre. Người Tày có vốn văn
nghệ dân gian truyền thống hết sức phong phú với đủ các loại thơ, ca, múa,
nhạc...Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể, các làn điệu dân ca phổ biến
nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con...
Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên có 54.383 người, chiếm 5,22% dân số toàn
tỉnh. Người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm
vi cư trú của người Nùng ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh nhưng tập trung đông
nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng trồng lúa và ngô, ngoài ra còn
trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả; các nghề thủ công đã phát triển như nghề
dệt, mộc, đan lát... Người Nùng có vốn văn nghệ dân gian đặc sắc phong phú (thơ,
truyện thơ, truyện cổ).
Dân tộc Dao sống tập trung ở huyện Đại Từ, rồi đến Đồng Hỷ, Phú Lương,
Võ Nhai. Ở Thái Nguyên có 4 nhóm Dao chính là: Dao đỏ, Dao Tiền, Dao Lô
Gang, Dao Quần chẹt. Người Dao trồng lúa nương và làm ruộng nước, ngoài ra họ
còn trồng màu, một số nghề thủ công cũng phát triển: dệt vải, rèn nông cụ, mộc...
Văn hóa Dao có nhiều nét độc đáo đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền, vốn văn nghệ
đặc sắc...
Dân tộc Sán Dìu còn có tên gọi khác là Trại, Trại Đất, Mán Quần Cộc, sống
tập trung ở các huyện Đồng Hỷ, Phú Lương, Đại Từ, Phú Bình và thành phố Thái
Nguyên. Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, một phần làm nương, soi, bãi,
ngoài ra họ chăn nuôi, khai thác lâm sản, làm gạch ngói, đan lát... Thơ ca dân gian
của người Sán Dìu rất phong phú, họ dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ
14
“Soọng cô”, kể truyện, chủ yếu là chuyện thơ khá đặc sắc. Các điệu múa thường
xuất hiện trong các nghi lễ tôn giáo và trong đám ma.
Dân tộc Sán Chay còn được gọi là Cao Lan- Sán Chỉ, sớm định cư, họ sống
chủ yếu bằng nghề nông, vừa làm nương rẫy, vừa chăn nuôi gia cầm, gia súc. Người
Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ, ca, hò vè, tục ngữ, ngạn ngữ...
Dân tộc Hmông mới nhập cư vào Thái Nguyên từ 2- 3 thế kỷ trở lại đây.
Người Hmông có các nhóm người: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lèng (Mông
Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Người
Hmông thường cư trú ở rẻo cao, có kỹ thuật trồng tỉa thích nghi với cuộc sống ở
vùng núi. Người Hmông giỏi trồng ngô và lúa nương, ngoài ra họ còn chăn nuôi
trâu, bò, ngựa, chó, gà...Nhạc cụ của người Hmông có khèn và đàn môi khá đặc sắc.
Dân tộc Hoa là tộc người có số lượng ít hơn cả, họ cần cù lao động, giỏi
nông nghiệp và cả nghề thủ công, buôn bán... người Hoa thích hát “Sơn ca”, ca kịch
cũng là hình thức nghệ thuật mà họ rất ưa chuộng...[2, tr.19- 20].
Thái Nguyên vừa là cái nôi, điểm hội tụ nền văn hóa đặc sắc của các dân
tộc thiểu số cư trú trong vùng lại vừa là nơi giao lưu, hội nhập với nền văn hóa của
cộng đồng các dân tộc khác tạo nên văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của các dân tộc ở Thái
Nguyên góp phần không nhỏ vào nền văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt
Nam.
Trong kho tàng văn hóa phi vật thể, văn hóa dân gian truyền miệng của
Thái Nguyên thực sự đặc sắc, gồm nhiều thể loại: truyền thuyết địa danh, truyện cổ
tích, truyện thơ. Phong phú hơn cả là kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố...
Dân ca của các dân tộc với những làn điệu đặc trưng như hát “Gỗu plềnh” (hát giao
duyên) của người Hmông, hạt “Sli, lượn” (hát trữ tình) của người Tày, Nùng... Bên
cạnh đó còn phải kể đến sự phong phú của nền dân vũ dân tộc; những bộ trang phục
15
với những đường nét hoa văn khéo léo ; những nhạc cụ rất phong phú: khèn, đàn
môi, đàn tính... Mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán riêng trong việc cưới,
việc tang, trong thờ cúng, lễ hội...
Văn hóa vật chất của Thái Nguyên cũng rất đa dạng, bao gồm: các khu di
tích lịch sử ở Thái Nguyên là niền tự hào và là tài sản vô giá phản ánh truyền thống
đấu tranh kiên cường trong dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đến nay
chúng ta còn lưu giữ được rất nhiều chứng cứ vật chất để xác định đã có sự sống
của loài người cách đây chừng 2-3 vạn năm, đó là khu di tích lịch sử văn hóa Thần
Sa (huyện Võ Nhai), khu di tích lịch sử Núi Văn- Núi Võ (Huyện Đại Từ)...; Do cư
trú ở các vùng có đặc điểm về địa lí khác nhau nên văn hóa kiến trúc của các dân
tộc Thái Nguyên cũng có những sắc thái riêng. Mỗi dân tộc có tập quán kiến trúc
nhà cửa khác nhau; Văn hóa ẩm thực của đồng bào ở đây cũng rất đa dạng: ngày tết
người Kinh làm bánh chưng, người Tày làm bánh Tầy...
Trong công cuộc đổi mới, với đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, nền văn hóa Thái Nguyên có điều kiện vừa bảo tồn phát huy truyền
thống văn hóa của các dân tộc mình, vừa tiếp thu tinh hoa của các dân tộc từ các
vùng miền trong cả nước, góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc [29, tr.25- 28].
Sự chuyển đổi cơ chế quản lí nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường được thực hiện từ 1986, sau 20 năm khởi động, đến nay nền kinh
tế Thái Nguyên đang đi dần vào thế ổn định và có tăng trưởng khá.
Với vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đây là những
điều kiện thuận lợi để Thái Nguyên có cơ hội phát triển nền kinh tế trên các lĩnh
vực nông- lâm- công nghiệp.
Nông nghiệp: Thái Nguyên thuộc vùng đất trung du và miền núi, có nhiều
loại đất đai phù hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây công nghiệp. Trong
16
trồng trọt, cơ cấu cây lương thực vẫn là chủ yếu song đang dịch chuyển theo xu
hướng giảm dần tỷ lệ, thay vào đó là cây công nghiệp và cây thực phẩm. Đặc biệt,
cây chè là cây công nghiệp quan trọng và được coi là cây trồng chủ lực, mũi nhọn vì
đó là cây có giá trị kinh tế ổn định nhất trên vườn đồi của tỉnh Thái Nguyên. Hiện
nay, chè là một trong những nông sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh.
Trong nền kinh tế tự cấp, tự túc lâu đời của nông nghiệp Thái Nguyên, chăn
nuôi trước đây chưa được coi là một ngành sản xuất độc lập, nó chủ yếu đóng vai
trò bổ trợ cho trồng trọt. Qua một thời gian phát triển chậm chạp, hiện nay chăn
nuôi ở Thái Nguyên cũng đã có bước phát triển và tăng trưởng về giá trị sản xuất
cũng như giá trị tăng trưởng (GDP) ở tất cả các chủng loại vật nuôi.
Lâm nghiệp: Thái nguyên có diện tích đất tự nhiên 356.663 ha trong đó đất
lâm nghiệp 119.855 ha chiếm 34%. Tất cả các đơn vị huyện, thành, thị trong tỉnh
đều có diện tích đất rừng tự nhiên và đất rừng trồng. Tuy vậy, những năm trước đây,
rừng tự nhiên bị khai thác bừa bãi cộng với việc đốt rừng làm nương và việc bảo vệ
rừng chưa được đảm bảo nên hậu quả để lại là rừng cây bị cạn kiệt. Trong những
năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có chủ trương phát triển kinh tế đồi rừng gắn với
việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước mắt cần tập trung giao
đất giao rừng, kết hợp giữa trồng rừng và trồng cây ăn quả, cây công nghiệp.
Công nghiệp: Công nghiệp có vai trò làm động lực trong guồng máy kinh tế
quốc dân của tỉnh, đóng góp khoảng 30- 40% vào GDP của tỉnh, góp phần kích
thích nhu cầu sử dụng nguyên liệu, máy móc, thiết bị; nuôi dưỡng các hoạt động
thương mại và vận tải; khai thác các nguồn đầu tư về tài chính và kĩ thuật. Ngành
công nghiệp Thái Nguyên đã được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đến
nay, ngành công nghiệp Thái Nguyên đã có một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh với sự
có mặt hầu hết của các ngành công nghiệp như: năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa
17
chất... Trong đó công nghiệp luyện kim và sản xuất thép, phôi thép là ngành công
nghiệp chủ yếu của tỉnh.
Thái Nguyên hiện là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn với 5 trường Đại
học (gồm Đại học Sư phạm, Đại học Công nghiệp, Đại học Nông Lâm, Đại học Y
khoa, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh) và 2 khoa tương đương (Khoa Khoa
học Tự nhiên và Xã hội, Khoa Công nghệ thông tin). Các trường chuyên nghiệp của
Trung ương và địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gồm 8 trường trung học
chuyên nghiệp, 6 trường công nhân kỹ thuật. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học cho các tỉnh miền núi
phía Bắc khác.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ Thái Nguyên quyết tâm lãnh đạo
khai thác, phát huy những thế mạnh, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, tích cực chủ động
đẩy lùi khó khăn, thách thức để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh,
xứng đáng với vị trí của một trung tâm kinh tế- xã hội của các tỉnh miền núi phía
Bắc.
Tuy nhiên, Thái Nguyên cũng gặp một số khó khăn lớn: là tỉnh miền núi
trung du, các yếu tố địa hình, thổ nhưỡng phức tạp, khoáng sản nhiều nhưng phân
tán; đồng bào các dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở miền núi địa hình phức tạp, giao
thông đi lại không thuận lợi; Nền kinh tế chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cây trồng, vật nuôi chậm, sản xuất chủ yếu độc canh cây lúa, ít ngành nghề; đời
sống đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm tỷ
lệ cao (30,4%- theo chuẩn mới); Trình độ dân trí của các dân tộc thiểu số nhìn
chung còn thấp và không đều. Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng, dân cư
thưa thớt, do vậy việc huy động vốn đối ứng để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
18
các công trình phúc lợi xã hội... gặp nhiều khó khăn không thể đáp ứng ngay trong
một sớm một chiều.
Nhận thức được những thuận lợi, khó khăn, trong suốt quá trình lãnh đạo,
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã phát huy tính chủ động, vận dụng đúng đắn sáng tạo
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của
tỉnh, đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát huy mọi thế mạnh, khắc phục
những khó khăn, hạn chế, từng bước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội.
Do vậy, trong những năm gần đây, đời sống đồng bào các dân tộc tỉnh Thái Nguyên
được cải thiện rõ nét: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển;
mạng lưới các trường học, cơ sở y tế phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh; quốc
phòng và an ninh xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt nhiệm vụ này
đòi hỏi các cấp bộ đảng, chính quyền các địa phương trong cả nước nói chung, tỉnh
Thái Nguyên nói riêng phải phát huy tính tích cực, chủ động hơn nữa để có những
quyết sách thích hợp nhằm khai thác thế mạnh, khắc phục khó khăn phát triển
nhanh và bền vững kinh tế địa phương, phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài tỉnh,
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh,
làm cho nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tạo
sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta và việc quán triệt
thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trƣớc năm 1997
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác dân tộc, chính
19
sách dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
nước ta. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58 về tổ chức bộ máy nội vụ, trong đó có Nha dân
tộc thiểu số thuộc Bộ Nội vụ, với nhiệm vụ là xem xét các vấn đề chính trị và hành
chính thuộc về các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình hình thân thiện giữa
các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Ngày 9 tháng 9 năm 1946 Chính phủ ban
hành Nghị định số 359 thành lập Nha Dân tộc thiểu số với chức năng nhiệm vụ là
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trên toàn cõi
Việt Nam để củng cố nguyên tắc bình đẳng, sự đoàn kết và tương trợ giữa các dân
tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Trong các bản Hiến pháp của nước Việt Nam qua các thời kỳ cũng đều
khẳng định các nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ngay
từ Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi: Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa...
Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi
phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung. Tư tưởng đó còn được thể
hiện rõ nét trong chủ trương, chính sách của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II (2/1951) đã viết: Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc;
chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa
các dân tộc.
Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính sách
dân tộc của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng. Nghị quyết nêu rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa
số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em, Đảng và Nhà nước cần phải có
kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, làm cho miền
20
núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân
tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng
như trong nhân dân, cần phải khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc
hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”
[13, tr.192- 193].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã đưa ra quan điểm về
vùng núi và vùng đồng bào dân tộc, chính sách dân tộc trong thời kỳ cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một
trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam, “chính
sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các
dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ
kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp
miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng
làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [14, tr.164].
Như vậy, “đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc” là những vấn đề
quan trọng hàng đầu trong đường lối, chính sách dân tộc của Đảng. Ba nguyên tắc
cơ bản này có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại với nhau hợp thành một
thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Có bình đẳng thì mới
thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển thì mới
thực hiện được bình đẳng dân tộc. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
chính sách dân tộc đã thực sự trở thành cương lĩnh hành động thu hút hàng chục
triệu nhân dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, kết thành sức mạnh tổng hợp để
đánh bại kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách dân tộc của Đảng ta là một bộ phận quan
21
trọng trong chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Chính sách dân tộc là tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của
Nhà nước được đề ra và tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc.
Chính sách dân tộc mang bản chất giai cấp của nhà nước trong phạm vi đối nội và
đối ngoại [48, tr.99]. Chính sách dân tộc là một lĩnh vực quan trọng, mang nội dung
nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính sách dân tộc nhằm phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ con người thuộc các tầng lớp nhân dân
các dân tộc. Chính vì vậy, chính sách dân tộc gắn liền với chiến lược con người, với
việc đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng
phải tác động làm thay đổi thực sự bộ mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của các vùng và
các dân tộc, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, đưa các dân tộc còn ở trình độ sản xuất và đời sống thấp từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong
nước trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tự nguyện, cùng làm chủ, cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cho thấy: chính sách dân
tộc không tách rời chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Đảng. Việc thực hiện
tốt chính sách dân tộc chính là thực hiện chính sách kinh tế, chính sách xã hội của
Đảng một cách thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và điều kiện, đặc
điểm cụ thể của từng vùng dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng đúng đắn không
những thúc đẩy kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa của đồng bào
các dân tộc thiểu số, mà còn là một phương hướng tích cực nhất, chủ động nhất, có
hiệu quả nhất để chặn đứng mọi âm mưu và hành động của kẻ thù hòng chia rẽ sự
đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, đồng thời củng cố lực lượng an ninh, quốc
phòng nước nhà, giữ gìn thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.
22
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện đường lối do Đại hội IV,
Đại hội V đề ra, nghiên cứu khảo nghiệm kinh nghiệm của các nước trên thế giới,
Đại hội VI của Đảng đã đề ra những quyết sách đúng đắn. Tại Đại hội VI, với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã nghiêm
khắc kiểm điểm tình hình mọi mặt và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước
ngoặt trong quá trình đi lên của cách mạnh Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chính sách dân tộc của
Đảng nhằm hướng tới sự phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trên cơ sở
bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Để thực hiện được nguyên tắc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, Báo cáo chính trị của Đại hội VI
khẳng định: “Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh
vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng
đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi
người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những
biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi” [15, tr.98].
Về chính sách dân tộc, Đại hội xác định: “Sự nghiệp đẩy mạnh ba cuộc
cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đòi hỏi tăng cường công tác nghiên
cứu về dân tộc học và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ những khác biệt
cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện
tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm rập khuôn hoặc chủ quan áp đặt
những hình thức tổ chức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ở những vùng dân tộc” [15, tr.97].
Đại hội đã cụ thể hóa phương hướng phát triển kinh tế ở vùng dân tộc thiểu
số: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động
viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và
phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy
23
mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào trước
hết ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”
[15, tr.97].
Cụ thể hóa đường lối của Đại hội VI, ngày 27 tháng 11 năm 1989, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 22- NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế- xã hội miền núi. Ngày 13 tháng 3 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Quyết định số 72- HĐBT về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế-
xã hội miền núi.
Từ khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72- HĐBT, Nhà
nước đã dần dần tăng mức đầu tư phát triển kinh tế- xã hội cho các dân tộc ở miền
núi, đặc biệt là vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ cũ theo các chương
trình, dự án. Do đó tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương miền núi
đã có bước chuyển biến mới.
Tiếp tục thực hiện những quan điểm của Đại hội VI, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát
huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta. Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân
tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” [17, tr.77].
Có thể nói, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính tổng
hợp, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
24
chính sách dân tộc vào tình hình thực tế của địa phương, từ khi Thái Nguyên hợp
nhất với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái (1965) đến năm 1986, Đảng bộ Bắc Thái đã
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm khắc phục khó khăn do thực tiễn đặt ra,
từng bước ổn định và nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh.
Thực hiện đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh
Bắc Thái lần thứ V (tháng 10/ 1986) đã xác định: với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật và thực hiện đổi mới tư duy, nhất là tư duy
kinh tế. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V có ý nghĩa to lớn trong lịch sử Đảng bộ tỉnh.
Nghị quyết Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh ra sức phấn đấu xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội
theo hướng đổi mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ VI đã đề ra mục tiêu
tổng quát trong 5 năm 1991- 1995 đó là: “ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, hình
thành về cơ bản cơ cấu hàng hóa nhiều thành phần nhằm cải thiện đời sống nhân
dân, giữ vững ổn định về chính trị; xây dựng Đảng có bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và
sức chiến đấu cao, phát huy hiệu lực quản lý Nhà nước và đổi mới phương thức
hoạt động của các đoàn thể nhân dân đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới”
[23, tr.22].
Về chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đại hội chỉ rõ: ổn định
và phát triển sản xuất, phấn đấu hình thành cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp- dịch
vụ. Trên địa bàn từng huyện, thành phố, thị xã hình thành cơ cấu kinh tế phù hợp
với điều kiện địa phương; Thực hiện tốt các chính sách xã hội bao gồm đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có
đồng bào các dân tộc thiểu số.
25
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ V, lần thứ VI của tỉnh, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng lên.
Trong 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và chính sách dân tộc của Đảng,
Đảng bộ và chính quyền tỉnh luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác định canh,
định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, coi đó là yếu tố quyết định để ổn định và
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, là tình cảm đền ơn đáp nghĩa
đối với đồng bào đã bao năm gắn bó với Đảng và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Muốn định canh, định cư cho đồng bào phải chú ý
xây dựng cơ cấu nông- lâm- công nghiệp kết hợp cho từng cơ sở, phải gắn việc phát
triển nông nghiệp với lâm nghiệp và chăn nuôi, xây dựng vốn rừng, bảo vệ môi
trường sinh thái, sắp xếp ăn ở theo cụm dân cư. Với sự nỗ lực của các cấp, các
ngành, cuộc vận động định canh, định cư đã có những chuyển biến tích cực, ổn định
cuộc sống của hàng trăm hộ đồng bào các dân tộc, khai hoang phục hóa hàng trăm
ha đất đai đưa vào sản xuất nông nghiệp, trồng mới và khoanh nuôi bảo vệ hàng
trăm ha rừng... Đã có một số mô hình định canh, định cư tổ chức sản xuất và đời
sống của đồng bào dân tộc có hiệu quả như các điểm: Chòi Hồng, Ba Nhất (huyện
Võ Nhai), Mỏ Ba, Khe Cạn (huyện Đồng Hỷ). Nét mới của các điểm điển hình này
là sự chuyển dịch bước đầu cơ cấu kinh tế, xóa thế độc canh cây lương thực, phát
triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, giảm đến mức tối đa việc đốt rừng làm rẫy. Diện
vận động định canh, định cư tại Thái Nguyên là 3430 hộ, chủ yếu là đồng bào Dao,
Hmông phân bố dải dác ở 112 thôn, bản thuộc 38 xã trên địa bàn 5 huyện miền núi
và vùng cao của tỉnh: Huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương.
Chỉ tính trong năm năm (1991- 1995), tổng số vốn cấp cho công tác định canh, định
26
cư là 12 tỷ đồng, có 207 điểm định canh, định cư trong đó có 80 điểm đồng bào có
cuộc sống ổn định.
Sự nghiệp văn hóa xã hội được giữ vững và nhiều mặt có bước phát triển
mới: 10 năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã giành nhiều thời
gian công sức và tiền của cho mặt trận chống các tệ nạn xã hội với nhận thức con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Sự nghiệp giáo dục được quan tâm: toàn tỉnh xóa xong bản trắng về giáo
dục ở vùng cao và có chính sách khuyến khích giáo viên công tác ở các xã miền núi,
vùng cao. Những năm qua, bằng nguồn vốn các chương trình mục tiêu, vốn vay
quốc tế, sự giúp đỡ của các cơ quan, xí nghiệp và nhân dân đóng góp đã xây dựng
mới và sửa chữa hàng trăm phòng học.
Phát thanh truyền hình có nhiều tiến bộ, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần
của đại bộ phận nhân dân trong tỉnh. Hoạt động của các đoàn văn hóa nghệ thuật,
các đội tuyên truyền lưu động luôn bám sát địa bàn, đặc biệt đã quan tâm phục vụ
bà con các xã vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Hoạt động chiếu bóng
phục vụ đồng bào vùng cao do Trung tâm điện ảnh tỉnh thực hiện trong năm 1997
đã chiếu được 774 buổi, bằng 105% kế hoạch thực hiện, phục vụ 112.500 lượt
người xem của 128 bản vùng cao của tỉnh. Các buổi chiếu nói chung được đồng bào
hoan nghênh.
Công tác bảo tồn, bảo tàng, thư viện cũng được sở văn hóa thông tin tỉnh
chú ý phát triển: năm 1997, nhà trưng bày ATK Phú Đình (Định Hóa) được khánh
thành và đưa vào sử dụng đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ, Trung ương
Đảng, Chính Phủ về ATK lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đáp ứng
lòng mong mỏi không những chỉ của đồng bào các dân tộc huyện Định Hóa mà còn
là hết thảy đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Từ đây, Thái Nguyên có thêm một điểm
di tích, một công trình văn hóa để các thế hệ hành hương về cội nguồn, tìm hiểu,
27
chứng kiến một vùng đất chiến khu xưa đã góp phần làm rạng rỡ trang sử hào hùng
của dân tộc.
1.2. CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN TỪ 1997 ĐẾN 2000
1.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với định hƣớng lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc
Bước vào nửa sau những năm 90, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều diễn
biến phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Nguy cơ chiến tranh thế giới tuy bị
đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc
và tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển với trình độ ngày càng cao. Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề
bức xúc mang tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi những bệnh hiểm nghèo...). Sự tham gia của các quốc gia vào quá
trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại cũng như
nhiều lĩnh vực khác ngày càng tăng, nhưng đồng thời sự cạnh tranh cũng rất gay
gắt... Tình hình thế giới và khu vực tác động sâu sắc đến các mặt của đời sống xã
hội nước ta, đưa đến những thời cơ thuận lợi, đồng thời cũng làm xuất hiện những
thách thức lớn.
Trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đề ra, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: Đất nước ta ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng và chuyển sang thời kỳ phát triển
mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quan hệ giữa nước ta với các nước
trên thế giới được mở rộng. Tuy nhiên bốn nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ (1/1994) nêu lên đến lúc này vẫn là những thách thức lớn. Nền kinh
tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn
28
hóa, xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không
đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng suy thoái
ở một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng.
Xuất phát từ tình hình trên và căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (
6/1996) của Đảng khẳng định: “Cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[18, tr.80]. Về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, Nghị quyết Đại hội VIII của
Đảng tiếp tục khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn và chỉ rõ: Thực
hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến năm 2000,
bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ
yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe
của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ,
nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây
dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng,
các cấp trong sạch và vững mạnh” [18, tr.125- 126]. Trong phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 1996- 2000 của Nhà nước ta đã dành riêng một
chương trình cho phát triển kinh tế- xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc. Đây
là nhóm chương trình và lĩnh vực phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vùng
lãnh thổ miền núi và dân tộc, tập trung vào các mục và phương hướng chính là: phát
triển toàn diện nông, lâm, công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông- lâm-
thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tạo
điều kiện cho mọi vùng đều phát triển trên cơ sở phát huy thế mạnh và tiềm năng
của vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có chuyển biến rõ rệt, giảm
29
sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng. Đối với các vùng miền
núi và đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các địa bàn xung yếu,
những khu căn cứ cách mạng cần tạo các điều kiện ban đầu để các vùng đó từng
bước tự vươn lên.
Ngày 01 tháng 01 năm 1997, các đơn vị hành chính Thái Nguyên chính
thức đi vào hoạt động. Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn của tỉnh,
đồng thời quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của
Đảng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đề ra mục tiêu tổng quát đến
năm 2000 là: “Tập trung mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh công cuộc đổi
mới một cách toàn diện và đồng bộ, tạo sự phát triển về kinh tế- xã hội với tốc độ
tăng trưởng nhanh, bền vững, xây dựng tỉnh Thái Nguyên giàu đẹp với cơ cấu kinh
tế công- nông, lâm nghiệp- dịch vụ; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh để cùng với cả nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa, tạo tiền
đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000” [25, tr.25- 26].
Về thực hiện chính sách dân tộc, chủ trương của Đại hội XV Đảng bộ Thái
Nguyên (tháng 11/1997) khẳng định: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc anh em trong tỉnh, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nâng mức sống của nhân dân các dân tộc
tỉnh Thái Nguyên lên một bước rõ rệt [25, tr.51].
Thực hiện chính sách dân tộc Đảng và Nhà nước, trong những năm đổi
mới, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên quán triệt, vận dụng cụ thể đường lối đó trên các
lĩnh vực cụ thể.
Về phát triển kinh tế dân tộc:
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đề ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa
dạng lấy nông- lâm nghiệp làm nền tảng. Trên cơ sở phát triển nông lâm nghiệp
30
đồng thời từng bước phát triển công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, công
nghiệp khai thác lâm sản, khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng và tổ chức mạng
lưới thương nghiệp dịch vụ vùng cao. Hình thành các trung tâm cụm xã có các cơ
sở hạ tầng thiết yếu đảm bảo địa bàn ổn định dân cư và phát triển sản xuất, tiến tới
hình thành các thị trấn, thị tứ vùng cao và một số trung tâm công nghiệp quy mô
vừa và nhỏ nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất và rút
dần khoảng cách giữa khu vực miền núi và miền xuôi. Xây dựng một nền nông lâm
nghiệp sinh thái bền vững, trong đó lấy phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp dài
ngày và kinh tế vườn rừng là chủ đạo nhằm bảo vệ tài nguyên sinh vật, bảo vệ môi
trường môi sinh, xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nông- lâm- công nghiệp, phá
thế sản xuất tự cung, tự cấp. Đại hội Đảng bộ lần thứ XV(11/1997) khẳng định:
“Phát triển nông lâm nghiệp và kinh tế nông thôn đa dạng, toàn diện theo hướng sản
xuất hàng hóa. Tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các
vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển nền nông nghiệp sạch. Phát triển cây
lương thực, thực phẩm là trọng tâm, cây ăn quả và cây công nghiệp theo mô hình
kinh tế vườn đồi là hướng chiến lược quan trọng. Phát triển mạnh đàn gia súc, gia
cầm và một số con đặc sản phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng” [25,
tr.26-27].
Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên đất lâm nghiệp của tỉnh còn lớn, với độ dốc
lớn, tầng dày mỏng thích nghi với phát triển lâm nghiệp nhiều hơn nông nghiệp, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra chủ trương: “Phát triển kinh tế đồi rừng gắn
với việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước mắt cần tập trung
khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng mới, giao đất giao rừng để chăm sóc bảo vệ
rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng trồng, kết hợp giữa trồng rừng
với trồng cây công nghiệp, cây ăn quả. Hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng phá
rừng; thực hiện nghiêm ngặt những quy định của Chính phủ về đóng mở cửa rừng
31
nhằm bảo vệ tài nguyên rừng, gắn chính sách định canh, định cư với phát triển kinh
tế đồi rừng, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và cây đặc sản” [25, tr.29].
Nhằm thu hút các nhà đầu tư vào các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng
cao, Đảng bộ xác định: “Xác định danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển, xây dựng
chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, tiền thuê đất theo ngành nghề, sản phẩm cũng
như địa bàn miền núi, vùng cao, sử dụng nhiều lao động” [25, tr.32], “xây dựng các
trung tâm cụm xã, cụm thương mại ở các xã miền núi, vùng cao, các cửa hàng
thương mại, vật tư, các chợ, phục vụ sản xuất và đời sống trên cơ sở huy động nhiều
nguồn lực, lồng ghép nhiều nội dung, chương trình để thực hiện có hiệu quả” [25,
tr.38].
Về phát triển văn hóa- xã hội vùng dân tộc:
Theo kết quả điều tra năm 1996 toàn vùng miền núi dân tộc tỉnh Thái
Nguyên có tổng số dân 662.147 người chiếm 63,2% tổng số dân toàn tỉnh. Trong đó
dân tộc thiểu số là 270.457 người chiếm 40,84% [52, tr.18]. Với đặc điểm kết cấu
dân cư như trên, trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã chú trọng đến việc xây
dựng các trường phổ thông, các trường dân tộc nội trú ở các vùng miền núi dân tộc
và có đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu của các khu vực trong toàn vùng.
Tuy nhiên chất lượng trường lớp chưa đảm bảo và hoàn cảnh kinh tế của đội ngũ
giáo viên còn quá khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy. Nhiều vùng đồng
bào dân tộc còn chưa có tập quán cho con em đi học, tình trạng con em đồng bào
dân tộc tự bỏ học còn phổ biến.
Đứng trước hiện trạng này, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã đề ra chủ trương:
“Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và
phát huy hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [25, tr.40], “Nghiên cứu bổ sung kịp thời những chính sách đãi ngộ của địa
phương đối với giáo viên miền núi, vùng cao, giáo viên giỏi, cán bộ đi học bồi
32
dưỡng, nâng cao trình độ... Tập trung đẩy mạnh Giáo dục- đào tạo cho miền núi,
vùng cao, tổ chức các lớp bán trú, lồng ghép cho học sinh mẫu giáo và tiểu học ở xa
trung tâm xã, xây dựng nhà ở cho giáo viên, học sinh nội trú. Hoàn thiện trường nội
trú dân tộc ở huyện Võ Nhai, xây dựng trường nội trú dân tộc ở huyện Định Hóa”
[25, tr.41].
Văn hóa vừa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế- xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên có
chủ trương “nghiên cứu những vấn đề có tính đặc thù của miền núi, về dân tộc, bảo
tồn và phát triển văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong cộng đồng” [25,
tr.42]; đồng thời “bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh trong tỉnh” [25, tr.44]. Để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đặc biệt
là đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng cũ,
cần “ nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, các
đội thông tin, chiếu bóng lưu động, phát triển đa dạng, phong phú và lành mạnh các
hoạt động văn hóa và nghệ thuật quần chúng” [25, tr.44].
Với quan điểm: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, Văn kiện Đại hội XV
chỉ rõ: “ khuyến khích mở mang ngành, nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao
động, phát triển dịch vụ đào tạo, giới thiệu việc làm... thực hiện có hiệu quả chương
trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc”
[25, tr.45].
Về đảm bảo an ninh dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị ở vùng dân tộc:
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, hệ thống chính trị, từng bước
tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước. Ngăn ngừa và làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động gây mất ổn định chính trị- xã hội, Đảng bộ tỉnh Thái
33
Nguyên xác định: “ Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong toàn
Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang về âm mưu “diễn biến hòa bình của các
thế lực thù địch... xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến
tranh nhân dân... Giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn là
nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ và phục vụ đắc lực cho yêu cầu phát triển kinh tế- xã
hội” [25, tr.46].
Chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ Đảng viên trong đồng bào các dân tộc
thiểu số, Văn kiện Đại hội XV của tỉnh Thái Nguyên chỉ rõ: “ Làm tốt công tác phát
triển đảng viên mới, quan tâm lực lượng trẻ, có kiến thức, năng lực và phẩm chất
tốt. Chú ý thành phần công nhân, dân tộc ít người, phụ nữ, giáo viên, cán bộ khoa
học kỹ thuật và học sinh, sinh viên” [25, tr.48].
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách
dân tộc của từ 1997 đến 2000
Thái Nguyên có 85 xã miền núi, 36 xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn,
An toàn khu (huyện Định Hóa có 18 xã, Võ Nhai có 14 xã, Đồng Hỷ có 4 xã). Diện
tích khu vực các xã miền núi, vùng cao chiếm 89,22% diện tích của tỉnh, là nơi tập
trung đông đồng bào dân tộc thiểu số. Các xã miền núi, đặc biệt là 36 xã đặc biệt
khó khăn, An toàn khu, có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi núi cao, suối sâu, việc
giao lưu đi lại rất khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém.
Trước năm 1997, còn rất nhiều xã chưa có đường ô tô vào đến trung tâm
xã, các công trình phúc lợi như trạm xá, điện nước sinh hoạt, trụ sở làm việc, trường
học rất thiếu và tạm bợ, nhiều cháu đến độ tuổi đi học không được đến trường, mặt
bằng dân trí thấp, đội ngũ cán bộ cơ sở thiếu và yếu. Nền kinh tế chậm phát triển,
sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng,
vật nuôi chậm, chủ yếu độc canh cây lúa, ít ngành nghề, đời sống đồng bào dân tộc
34
thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn cao, chiếm 28,48% số hộ trong
toàn vùng 36 xã đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh những khó khăn, các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
của tỉnh cũng có những thuận lợi cơ bản như: các dân tộc trong tỉnh có truyền thống
đoàn kết, cần cù trong lao động, yêu nước, tuyệt đối tin vào đường lối cách mạng
của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trong quá
trình cách mạng, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nhiệt tình, đoàn kết, có
tinh thần trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng được tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị khá vững mạnh từ xã đến thôn, bản; miền núi của tỉnh còn là
nơi tiềm ẩn nhiều tài nguyên khoáng sản chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp như than đá, các loại kim loại đen, kim loại màu và vật liệu xây
dựng, có điều kiện tốt để phát triển kinh tế; lực lượng lao động dồi dào và sự cần cù
chịu khó của đồng bào các dân tộc trong vùng đảm bảo lực lượng sản xuất hùng
mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội.
Phát huy thuận lợi, hạn chế khó khăn, phát triển toàn diện kinh tế- xã hội
của tỉnh, công việc đầu tiên cần phải xác định đó là: “Xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, quản lý điều hành
của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể nhân dân các cấp có hiệu qủa cao,
nhằm động viên, thúc đẩy phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu về kinh tế- xã hội, an ninh, quốc
phòng trong tình hình mới” [25, tr.47].
“Để làm tròn trọng trách của mình, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn để nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở và
tính tiên phong gương mẫu của các cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng bộ vững
mạnh về mọi mặt, coi đây là nhiệm vụ then chốt trong công tác lãnh đạo của Đảng
bộ đối với nhân dân các dân tộc trong tỉnh”[25, tr.47]. Phải tăng cường giáo dục chủ
35
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản chất giai cấp công
nhân của Đảng, làm cho mỗi cán bộ đảng viên trong toàn Đảng bộ nhận thức đúng
đắn và phấn đấu thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đảng bộ đặt ra. Quán triệt
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tạo sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng trong Đảng bộ. Thường xuyên tuyên truyền về thời sự, kinh tế, chính trị, xã
hội...trong nước và quốc tế kết hợp với giáo dục thực hiện hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt đảng, cần có chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng
ở các chi bộ, nhất là các chi bộ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công tác
quản lý đảng viên. Có biện pháp cụ thể giúp đỡ đảng viên có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, quan tâm lực lượng trẻ, có kiến
thức, năng lực và phẩm chất tốt. Chú ý thành phần công nhân, dân tộc thiểu số, phụ
nữ, giáo viên, cán bộ khoa học kỹ thuật, học sinh, sinh viên. Đặc biệt quan tâm xây
dựng các tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa nhằm
nâng cao khả năng lãnh đạo đồng thời chú ý phát triển đảng viên ở những vùng
“trắng” đảng viên làm nòng cốt cho việc thực hiện chính sách dân tộc.
Đồng thời với công tác phát triển đảng, cần kiện toàn Hội đồng nhân dân
các cấp từ tỉnh đến cơ sở, đề cao vai trò của các đại biểu, tiếp tục đổi mới hoạt động
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quyền lực địa phương. Thực
hiện tốt chế độ dân chủ đại diện của quần chúng nhân dân. Có cơ chế từng bước mở
rộng thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp của nhân dân theo phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, việc
thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 1997 đến năm 2000 đạt được
một số kết quả.
Về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo:
36
Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo của vùng miền núi dân tộc tỉnh Thái
Nguyên. Diện tích đất nông nghiệp là 56.050 ha chiếm 67,8% diện tích đất nông
nghiệp toàn tỉnh. Lực lương lao động nông, lâm nghiệp chiếm 72,95% tổng số lao
động toàn tỉnh. Tổng sản lượng lương thực sản xuất ra hàng năm trên vùng miền núi
dân tộc chiếm 67 đến 74% tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh. Có thể nói đây là
vùng bao quát cả ngành nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên [52, tr.31].
Thái Nguyên có diện tích rừng rất lớn. Năm 1996, Thái Nguyên còn
133.196 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên 92.008 ha, rừng trồng 41.070 ha, chủ yếu
nằm ở vùng núi và vùng cao, không còn rừng giàu, rừng trung bình còn rất ít còn
chủ yếu là rừng nghèo kiệt và 103.047 ha đất chưa sử dụng chủ yếu nằm ở vùng núi
cao. Sự suy giảm tài nguyên rừng do nhiều nguyên nhân như: trong thời gian dài,
nền kinh tế trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, khai thác theo mệnh lệnh
nhưng khai thác không đảm bảo quy trình kỹ thuật, nhu cầu gỗ củi của đồng bào
miền núi rất lớn, dân trí đồng bào các dân tộc thấp, tập quán phát rừng làm rẫy vẫn
tồn tại...
Đến năm 2000, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự điều hành của Ủy ban
nhân dân tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, của Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là tinh thần khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên
của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các
dân tộc thiểu số trong tỉnh được cải thiện rõ rệt. Thực hiện chủ trương phát triển
kinh tế vườn đồi, tập trung vào các cây công nghiệp mũi nhọn, năm 2000, ở các
huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa diện tích chè đã tăng từ năm 1996
là 10.579 lên năm 2000 là 12.525 ha; cây ăn quả phát triển 3,6 lần. Chính sách trợ
cước, trợ giá cũng được tỉnh quan tâm, một số doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng
chính sách đã mở rộng mạng lưới phục vụ ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa tạo điều
kiện cho nhân dân tại các vùng này được mua hàng ở các trung tâm cụm xã
37
Chương trình 135 cũng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực
hiện. Ở 36 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các Chương trình mục tiêu quốc
gia với tổng số vốn 173.430 triệu đồng, riêng chương trình 135 về phát triển kinh tế
xã hội ở 36 xã đặc biệt khó khăn có số vốn đầu tư 89.430 triệu đồng. Trong đó vốn
cho đào tạo cán bộ ở các xã nghèo để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và
làm công tác khuyến nông, lâm hàng năm gần 300 triệu đồng [54].
Về văn hóa, xã hội: Các xã vùng cao, miền núi, vùng sâu, vùng xa dân cư sống phân tán (Võ Nhai 73 người/km2, Định Hóa 179 người/km2), địa bàn cư trú
cách xa nhau (do địa hình núi đồi, sông ngòi cắt cứ). Di dân cơ học từ vùng nông
thôn về các vùng đô thị và các khu vực kinh tế phi nông nghiệp ngày càng tăng.
Điều này gây khó khăn cho việc đáp ứng các nhu cầu về văn hóa xã hội của dân cư
trong tỉnh.
Trong hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và nhất là sau Đại hội
VIII, công tác văn hóa xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Dưới ánh sáng của
các Nghị quyết trung ương, các chế độ chính sách của Nhà nước đối với sự nghiệp
giáo dục đào tạo cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói chung và các dân tộc thiểu
số nói riêng, sự nghiệp giáo dục đào tạo cho đồng bào các dân tộc thiểu số có bước
phát triển rõ rệt: đến năm 2000, 100% xã, thị trấn đã có trường tiểu học và trung học
cơ sở. Các xã vùng cao của đồng bào các dân tộc thiểu số đã mở phân trường tới
từng xóm bản cho con em đồng bào có điều kiện đến lớp. Chế độ chính sách đối với
học sinh trường Phổ thông Dân tộc nội trú của tỉnh (xã Phú Thượng, huyện Võ
Nhai) cũng được quan tâm. Hiện tại trường có 152/150 học sinh trong đó có 2 học
sinh ở Bắc Kạn chuyển về. Độ tuổi của các em từ 10 đến 16 tuổi, các em học sinh là
người dân tộc thiểu số được tuyển chọn đúng tiêu chuẩn ở các xã, bản vùng cao của
các huyện trong tỉnh. Cơ sở vật chất như nhà ăn, nhà nghỉ, phòng học, sân chơi...
của trường tốt. Có đội ngũ thầy cô giáo tận tình giảng dạy. Công tác tuyển sinh hệ
38
cử tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp được thực
hiện tốt, tuy nhiên ở một số nơi còn mang nặng tính hình thức, chưa đảm bảo
nguyên tắc công khai, dân chủ.
Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào các dân tộc thiểu số được
quan tâm đầu tư: mạng lưới y tế cơ sở phát triển khá: toàn tỉnh trên 1 vạn dân đã có
gần 18 y, bác sỹ và 33 giường bệnh. Các trạm y tế quốc gia được triển khai đến
từng xóm bản của đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt các chế độ chính sách
của Nhà nước đối với việc khám chữa bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh, phát triển nền văn hóa,
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể luôn được giữ gìn và phát huy. Thái
Nguyên là một trong sáu tỉnh của Chiến khu Việt Bắc. Huyện Định Hóa (Thái
Nguyên) cùng với huyện Tân Trào (Tuyên Quang) và huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn)
tạo thành vùng An toàn khu của Trung ương trong kháng chiến chống thực dân
Pháp. Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp của
Trung ương và các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ đã sống và làm việc từ
1947 đến 1954. Vì vậy An toàn khu được gọi là Thủ đô kháng chiến. Riêng Định
Hóa có trên 100 di tích lịch sử, trong đó có 6 di tích được xếp hạng bảo tồn Quốc
gia. Điển hình là di tích Tỉn Keo xã Phú Đình, di tích lịch sử Phụng Hiểu xã Điềm
Mặc, di tích xóm Bảo Biêm xã Bảo Linh, di tích đình làng Quặng xã Định Biên, di
tích nhà tù Chợ Chu do thực dân Pháp xây dựng. Để phát huy giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần trong việc giáo dục truyền thống đấu tranh giữ nước và giữ gìn bản
sắc cao quý của dân tộc, gắn việc phục hồi, bảo tồn, tôn tạo di tích với xây dựng,
phát triển kinh tế xã hội, đời sống nhân dân, cảnh quan môi trường và các hoạt dộng
văn hóa du lịch. Thực hiện Quyết định 984/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
tỉnh Thái Nguyên đã có kế hoạch phục hồi, bảo tồn, tôn tạo và phát huy khu di tích
39
lịch sử cách mạng và kháng chiến “Chiến khu Việt Bắc” được kéo dài từ 2000 đến
2005 với 32 di tích đặc biệt quan trọng cấp Quốc gia.
Về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên đã quan tâm chỉ đạo các ban ngành duy trì các hoạt động văn hóa như lễ
hội, các điệu hát... Trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở địa bàn vùng dân tộc
thiểu số, miền núi cũng có bước chuyển biến đáng kể. Các mặt hoạt động văn hóa,
thông tin như phát thanh, truyền hình, sách báo, thông tin cổ động, văn nghệ quần
chúng... đã đến được vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn với những nội dung, hình
thức ngày càng thiết thực, phù hợp hơn. Tình trạng “trắng” về văn hóa thông tin ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số không còn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động
văn hóa thông tin cũng từng bước được chú ý.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Văn kiện Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ XV chỉ rõ: “ Các cấp, các ngành phải thường xuyên xây dựng quy
hoạch cán bộ và có quy trình tuyển chọn, tạo nguồn cán bộ, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ một cách toàn diện”. Quan tâm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ trẻ, cán bộ là người dân
tộc thiểu số có phẩm chất, có năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tạo được sự
đổi mới trong đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.
Với nhận thức cán bộ dân tộc thiểu số chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng
trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
là tạo ra nhân tố động lực đầu tàu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội ở từng
vùng miền, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và góp phần bảo vệ an ninh, trật
tự an toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền địa phương đã có
nhiều nỗ lực tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ dân tộc thiểu số, có nhiều
chính sách, chế độ ưu đãi nhằm khuyến khích cán bộ, công chức dân tộc thiểu số
tham gia học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác của mình. Hệ thống các
trường phổ thông dân tộc nội trú được xây dựng thêm và đưa vào sử dụng để đảm
40
đương công tác tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số cho đất nước như trường Phổ
thông Dân tộc nội trú ở huyện Võ Nhai, Định Hóa. Để động viên, khuyến khích cán
bộ, công chức tại các xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, tỉnh
đã có quy định về mức sinh hoạt phí cụ rhể của cán bộ xã năm 2001 là 120.000
đồng/ tháng.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội: được giữ vững, phong trào toàn
dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc được đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng.
Góp phần vào ổn định an ninh, chính trị, phát triển kinh tế trên địa bàn, đồng bào
các dân tộc xác định rõ trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc luôn hoàn thành
nghĩa vụ đối với Nhà nước, sống làm việc theo pháp luật. Tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng được phát huy để giúp nhau xóa đói giảm nghèo, để phấn đấu bài trừ hủ
tục, đấu tranh với các tệ nạn xã hội (nghiện hút, cờ bạc, truyền đạo trái phép...) có
hiệu quả.
Sau 4 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và những chủ trương giải
pháp của Đảng bộ địa phương, tình hình kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số tỉnh
Thái Nguyên đã có những chuyển biến đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào được nâng lên rõ rệt, tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ
vững. Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng,
xây dựng hệ thống chính trị là kết quả của quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
quán triệt, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào
tình hình thực tế của địa phương bằng những việc làm và bước đi thích hợp, từng
bước đưa đồng bào dân tộc thiểu số thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng chính sách dân tộc của Đảng vào thực
tiễn địa phương tỉnh Thái Nguyên còn một số hạn chế: đời sống của đồng bào chưa
thực sự ổn định, nhiều nơi tuy đã định canh định cư nhưng việc xác định cơ cấu
kinh tế chưa phù hợp với từng vùng, từng dân tộc nên hiệu quả còn thấp; cơ sở hạ
41
tầng (điện, đường, trường, trạm) đã có song chưa đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại
nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội đã xâm nhập vào một số địa
phương, việc truyền đạo trái phép vẫn diễn ra; sự nghiệp phát triển giáo dục, y tế,
văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do các nguyên
nhân: Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, không đồng đều, còn
tính bảo thủ, ỷ lại, tự ti, tập tục mê tín dị đoan của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn
còn nặng nề nên việc tiếp thu cái mới chậm. Tình hình kinh tế- xã hội của đất nước
và địa phương còn khó khăn nên việc đầu tư cho các dân tộc thiểu số còn hạn chế;
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc chưa
được cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc. Sự phối hợp giữa các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể, các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc chưa thật chặt
chẽ và thường xuyên. Quá trình đầu tư vào các vùng đồng bào dân tộc thiểu số với
nguồn vốn còn ít, lại phân tán, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Các cán bộ dân tộc thiểu
số đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng còn thiếu và yếu về năng lực và phương pháp
công tác.
Những vấn đề trên đây có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở những giai đoạn
tiếp theo.
42
CHƢƠNG 2
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 2001 ĐẾN 2005
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ẢNH
HƢỞNG TỚI QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1.1. Thuận lợi
Nhân dân Việt Nam bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới với khí thế
thi đua sôi nổi thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX- Đại hội tiếp
tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên mà trọng tâm là đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-
2000), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực. Kinh tế Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng cao. Kết cấu hạ tầng
được xây dựng thêm khá nhiều về đường giao thông, mạng lưới bưu chính viễn
thông, đường điện, hệ thống thủy lợi... Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích
cực. Cơ cấu ngành có thay đổi đáng kể: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối
song tỷ trọng trong GDP từ 38,7% năm 1990 giảm xuống còn 24,3% năm 2000;
tương ứng công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên khoảng 36,6% và dịch vụ từ
38,6% tăng lên 39,1%. Cơ cấu theo thành phần kinh tế diễn biến theo chiều hướng
phát huy nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh. Cơ cấu đầu tư
đã có chuyển hướng, chú trọng khai thác lợi thế từng ngành, từng vùng để phát
triển. Bên cạnh đó là sự chuyển đổi về cơ cấu thành phần kinh tế, từ chỗ chủ yếu là
hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Chúng ta đã tạo ra được một sự chuyển biến
43
quan trọng, khẳng định việc chúng ta trên cơ sở giữ vững mục tiêu phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đã thực sự đổi mới phương thức và phương pháp tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và thích
ứng với xu thế phát triển của thế giới và thời đại. Chính sách “mở cửa” và hội nhập
thành công đã phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ với hầu khắp các
nước trên thế giới, mở thêm nhiều thị trường mới.
Những thành tựu đó làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân ở khắp các
vùng trong cả nước được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế cũng
được nâng lên; củng cố lòng tin của nhân dân ta nói chung, tạo điều kiện để đầu tư
chăm lo đời sống của nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên nói
riêng.
Thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị khóa VII về đại đoàn kết dân tộc
và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ XV(1997), trong những năm qua, khối đại đoàn kết toàn dân trong
tỉnh ngày càng mở rộng, củng cố và phát triển, đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân
dân, các dân tộc, các tôn giáo, công nhân lao động, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ
nữ, cựu chiến binh... Các tầng lớp nhân dân Thái Nguyên tin tưởng vào đường lối
lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vui mừng, phấn khởi trước
những thành tựu to lớn của đất nước, của tỉnh đã đạt được, sinh hoạt dân chủ trong
xã hội không ngừng được mở rộng thông qua thực hiện quy chế dân chủ. Mối quan
hệ giữa Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân ngày càng được củng cố vững
chắc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đời sống của đại bộ
phận nhân dân ổn định, ngày càng được cải thiện.
Hệ thống chính trị trong tỉnh Thái Nguyên bước đầu được đổi mới. Công
tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân thường xuyên được
các cấp bộ Đảng quan tâm. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt,bố trí, sử
44
dụng, luân chuyển, kỷ luật cán bộ luôn được chú trọng và thực hiện tốt. Thực hiện
cải cách hành chính, dân chủ hóa xã hội được mở rộng.
Cùng với cả nước, Đảng bộ Thái Nguyên có chủ trương khuyến khích mọi
thành phần kinh tế trong tỉnh, trong nước và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển
sản xuất, tạo ra khả năng huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế- xã
hội trong tỉnh nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Đây là những
điều kiện tốt tác động trực tiếp đến tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh
Thái Nguyên, mở ra khả năng, điều kiện để giải quyết các vấn đề về chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên được tốt hơn.
2.1.2. Khó khăn
Bước vào thế kỷ XXI, vấn đề dân tộc vẫn là một trong những vấn đề nổi
cộm của thế giới, nhất là khi nó được gắn với vấn đề tôn giáo. Trên khắp các châu
lục những cuộc xung đột, chiến tranh giữa các tộc người và dân tộc thường xuyên
diễn ra ở mức độ này hay mức độ khác, làm cho tình hình quốc tế không ổn định.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc của mình, các nước đế quốc luôn luôn tìm
cách can thiệp vào vấn đề dân tộc và các cuộc xung đột dân tộc trên thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã lợi dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo”, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực
thù địch đang tìm mọi cách tạo dựng và kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư
tưởng li khai ở một số vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.
Do có sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài, hiện tượng truyền
đạo trái phép có xu hướng gia tăng và lôi kéo một số dân tộc thiểu số đi theo một số
tôn giáo hòng làm bình phong che đậy âm mưu tập hợp lực lượng, tạo dựng ngọn cờ
chính trị phản động, chống lại lợi ích của nhân dân các dân tộc. Chúng triệt để lợi
45
dụng sự chênh lệch về đời sống giữa các vùng và các dân tộc để kích động phá hoại
khối đại đoàn kết, thực hiện “diễn biến hòa bình”, gây mất ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, đe dọa cuộc sống yên lành của đồng bào các dân tộc.
Xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế diễn ra ngày
càng sâu rộng ở mọi quốc gia. Tình hình đó đặt nền văn hóa của mỗi dân tộc trước
những biến động lớn. Xu thế toàn cầu hóa nhằm đạt tới sự liên thông về kinh tế giữa
các quốc gia dân tộc, đòi hỏi một sự giao thoa lớn hơn giữa các giá trị văn hóa trên
phạm vi toàn cầu. Như một tất yếu, quá trình đó cũng diễn ra ở nước ta.
Xu thế toàn cầu hóa, một mặt, tạo điều kiện để các dân tộc hiểu biết lẫn
nhau, bổ sung làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mỗi nước, mỗi dân tộc có điều kiện
suy ngẫm nhiều hơn, từ đó soát xét lại về các giá trị của văn hóa dân tộc mình. Mặt
khác, cũng đặt ra những thách thức đối với sự phát triển văn hóa của các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Nguy cơ thất nghiệp ngày càng tăng tạo sự bất ổn về đời
sống, sự gia tăng các loại tội phạm có tính quốc tế... Sự chuyển giao công nghệ, vốn
cùng với các hình thức liên doanh quốc tế là điều kiện để lối sống tư bản thâm nhập
vào các quốc gia. Những hiện tượng đối xử bất bình đẳng với người lao động
thường vẫn diễn ra trong các tổ chức liên doanh kinh tế với người nước ngoài. Tâm
lý sùng bái vật chất, tính cạnh tranh khốc liệt trong sản xuất tư bản... đều có ảnh
hưởng xấu đến cách suy nghĩ và tâm lý của người lao động. Toàn cầu hóa về kinh tế
diễn ra mạnh mẽ, trong đó vùng đồng bào dân tộc thiểu số bao giờ cũng chịu nhiều
thiệt thòi trong các cơ hội phát triển.
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đời sống
kinh tế xã hội ở đất nước ta còn nhiều bức xúc, nhất là tình trạng tham nhũng, quan
liêu, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng miền, cơ sở hạ tầng yếu kém, sức sản xuất
kém phát triển, nhiều rào cản của phong tục tập quán lạc hậu chưa được phá bỏ... đã
tác động không thuận đến quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên.
46
Thái Nguyên bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với
những thành tựu đã đạt được, các tầng lớp nhân dân còn nhiều băn khoăn trước
nhiều vấn đề như: kinh tế của tỉnh có tăng song chưa thực sự vững chắc. Cơ cấu
kinh tế, đầu tư, lao động chuyển dịch chậm và chưa ổn định. Thế mạnh của đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật trong hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề chưa được phát huy tốt để phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Năng lực của đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức cán
bộ chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, công tác tạo nguồn cán bộ còn bị động, chắp vá
trong bố trí cán bộ và thiếu những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực. Bộ máy của
hệ thống chính trị chưa tinh gọn. Một số cán bộ thiếu rèn luyện, kém gương mẫu,
tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa. Đặc biệt, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu
số ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng còn nhiều khó khăn do địa hình
chia cắt, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp...
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi
đối với các dân tộc thiểu số nhằm giảm bớt khó khăn cho đồng bào, tuy nhiên vẫn
có hạn chế như một số chính sách chưa thực sự phù hợp với thực tiễn ở địa phương
nên chưa phát huy hiệu quả cao, nguồn vốn đầu tư vào các vùng dân tộc thiểu số
còn ít.
Với những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
trong giai đoạn mới phải đề ra những giải pháp, chính sách “đột phá” để tháo gỡ
khó khăn, phát huy thuận lợi, nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, tạo
điều kiện để miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp- Đây là cơ sở
cho đồng bào các dân tộc thiểu số tin vào Đảng, Chính phủ, vững bước trên con
đường xây dựng tỉnh Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp.
2.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỀ
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 2001 ĐẾN 2005
47
2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vận dụng và cụ thể hóa chủ trƣơng
của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) khẳng
định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong 20 năm
đầu của thế kỷ XXI là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Để thực hiện được mục tiêu đó, trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế, trong
nước và từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xác định: “động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân” [21, tr.86]. “Vấn đề dân tộc và đoàn
kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng” [21,
tr.127]. Đảng ta chủ trương tiếp tục “thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển” [21, tr.127]. Đại hội xác định: “Xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và
phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công
bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng
gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực
thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở
địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.” [21, tr.127-128].
Cụ thể hóa chính sách dân tộc của Đảng vào tình hình cụ thể của địa
phương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI (2001)
đã xác định: “Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; phát huy và
giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc. Chú trọng nâng
cao dân trí, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời
48
sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng. Tăng cường đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số; có chính sách ưu đãi
cho những cán bộ từ vùng khác đến vùng cao, vùng xa công tác” [26, tr.45- 46].
Vận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
vào thực tiễn địa phương có hiệu quả, công việc đầu tiên là đổi mới và nâng cao vai
trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tháng 2 năm 2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ
năm (khoá IX) (số 17- NQ/TW) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết khẳng định: cơ sở xã, phường, thị trấn là
nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai
trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội,
tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện
nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực
hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội
bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng; đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào
tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Nghị quyết Trung ương năm (khoá IX) (số 17-NQ/TW) đã đề ra các vấn đề
cơ bản và bức xúc phải giải quyết đến năm 2005 đó là: xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống cơ sở, đồng thời xây dựng mối quan hệ
đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ cơ sở;
thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống cơ sở ở cơ sở theo
nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện. Phát huy dân chủ
49
phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật kỷ cương theo pháp luật; Xây dựng đội
ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi
dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Cụ thể hoá Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khoá IX vào thực tiễn địa phương, ngày 9 tháng 7 năm 2002, Tỉnh uỷ Thái Nguyên
đã đề ra chương trình hành động số 06-CTr/TU.
Về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn, chương trình hành động số 06- CTr/TU chỉ rõ:
- Phân định rõ và đúng chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của chính
quyền phường, làm rõ sự khác biệt giữa chính quyền phường so với chính quyền xã,
thị trấn. Tổ chức lại mô hình tổ chức Đảng, tổ chức dân cư dưới cấp phường.
- Bố trí đủ cán bộ cho hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn theo quy
định chung của Trung ương và theo hướng chuẩn hoá, trẻ hoá, gắn chặt quyền hạn
với trách nhiệm. Kiện toàn đội ngũ cán bộ giữ chức vụ chủ chốt qua bầu cử của các
tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, người đứng đầu các cơ quan
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
- Tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cơ sở nhằm
đạt được mục tiêu đến năm 2005 có trên 70% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua
bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định. Trên 80% cán bộ, công
chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với xã, phường, trị trấn ở vùng
đồng bằng và miền núi; sơ cấp trở lên đối với các xã vùng cao; đồng thời phải được
đào tạo có trình độ lý luận chính trị tối thiểu là sơ cấp.
- Có quy định cụ thể về nghĩa vụ, quyền lợi để thực hiện chủ trương điều
động, biệt phái cán bộ cấp tỉnh, huyện về xã, phường, thị trấn ở những nơi còn thiếu
50
cán bộ, đến vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn để tăng cường lực lượng
cán bộ tại chỗ.
- Có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đến năm 2005 các xã, phường, thị trấn
xây dựng xong trụ sở làm việc chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị theo
định mức thống nhất, đảm bảo đủ chỗ làm việc cho cán bộ cơ sở.
Để thực hiện được các nội dung trên, cần tổ chức quán triệt sâu rộng trong
Đảng, các cấp, các ngành, đoàn thể và trong nhân dân nhằm nâng cao thêm một
bước nhận thức thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng toàn dân về các
quan điểm chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đổi mới việc tổ chức học tập,
quán triệt nghị quyết theo hướng đúng đối tượng, thiết thực, hiệu quả. Hướng dẫn
Đảng viên, nhân dân tìm hiểu nghị quyết qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược của Đảng về vấn đề dân tộc và phát huy sức
mạnh toàn dân tộc được ghi trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ bảy (khóa IX) vào tháng 1 năm 2003.
Hội nghị thông qua Nghị quyết số 24- NQ/TW về công tác dân tộc. Nghị quyết
khẳng định, Đảng ta dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giúp nhau cùng phát triển” nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp
tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thực hiện bình đẳng giữa
con người với con người trong xã hội, xóa bỏ áp bức, bóc lột, cùng nhau sống ấm
no, hạnh phúc. Điều này có nghĩa là, các dân tộc anh em trong đất nước ta đều được
bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ở đất nước ta không có kỳ thị dân tộc,
không một dân tộc nào áp bức bóc lột dân tộc khác; không có dân tộc nào dù đông
51
người hay ít người bị coi là thấp kém... Tất cả mọi dân tộc, mọi người đều có quyền
sống trong độc lập, tự do và vươn tới ấm no, hạnh phúc, có quyền giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình. Sự bình đẳng giữa các dân tộc bao hàm
cả nghĩa vụ và quyền lợi, về vật chất cũng như về tinh thần. Mỗi thành tựu kinh tế,
văn hóa, xã hội... của đất nước, các dân tộc đều được chung hưởng, và mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thiên tai, địch họa, các dân tộc đều cố kết thành một khối vững
chắc, cùng chia sẻ, cùng nhau gánh vác, khắc phục và không hề có sự phân biệt nào.
Cơ sở quan trọng nhất để thực hiện sự bình đẳng và cùng tiến bộ giữa các
dân tộc là đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đường lối và
hệ thống pháp luật đó luôn được củng cố, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, được
thực hiện nghiêm túc, triệt để.
Tiếp tục sự nỗ lực đó, Đảng, Nhà nước ta từ nhiều năm nay đã vạch ra
đường lối phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng ở
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; gắn phát triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội; coi trọng phát triển nguồn nhân lực của đồng bào; chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đặc biệt, chú ý giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa của đồng bào trong nền văn hóa tiên tiến chung của đất nước.
Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc nêu ra mục tiêu cụ thể đến
năm 2010 là: Phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào
các dân tộc; Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ
văn hóa của đồng bào; Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm
chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương, giữ vững an ninh quốc
phòng ở vùng dân tộc và miền núi. Nghị quyết đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu
và cấp bách để thực hiện mục tiêu đó:
- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
52
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh,
truyền hình; thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương
trình giáo dục miền núi; Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã,
bản, thôn, ấp.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân
tộc thiểu số.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; thực
hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và miền núi.
- Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Trung ương bảy khóa IX về công
tác dân tộc, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng và ban hành
chương trình hành động số 09- CTr/TU ngày 16/5/2003. Xác định rõ 3 mục tiêu:
- Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào các
dân tộc.
- Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ
văn hóa của đồng bào.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ ở cơ sở có đủ phẩm
chất và năng lực.
Đồng thời đề ra 7 nhiệm vụ chính:
- Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức
sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn, xã ATK. Chú trọng giải quyết những vấn đề bức
xúc như: thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, thiếu tư liệu sản
xuất. Làm tốt công tác định canh định cư, xây dựng vùng kinh tế mới.
53
- Tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin tuyên truyền hướng về cơ
sở. Tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh bằng tiếng
dân tộc thiểu số. Làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn phát huy các giá trị
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
- Quan tâm đầu tư hơn nữa cho giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng cao, trước hết là xây dựng trường, lớp kiên cố, bán kiên cố, mua
sắm thiết bị phục vụ dạy và học. Mở thêm các trường, lớp bán chú, thực hiện chủ
trương chuyển dần các trường mầm non sang hệ công lập, mở rộng việc dạy chữ
dân tộc. Thành lập và củng cố các Trung tâm dạy nghề tại các huyện miền núi, vùng
cao tạo điều kiện thuận lợi cho học tập của con em các dân tộc thiểu số.
- Tăng cường phương tiện, thiết bị và cán bộ y tế cho tuyến xã, đặc biệt là
các xã vùng sâu, vùng xa. Chú ý khai thác sử dụng các bài thuốc Nam có uy tín, đã
được khảo nghiệm trong đồng bào các dân tộc.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc
thiểu số. Có kế hoạch ưu tiên bổ sung cán bộ chuyên môn cho cấp xã, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, khắc phục tình trạng quan liêu xa dân.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát
huy sức mạnh tại chỗ sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của mọi thế lực thù
địch. Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc.
- Đổi mới nội dung, phương pháp công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu
tình hình nhiệm vụ mới. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thông qua các chính
sách, biện pháp cụ thể động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực
tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc [42].
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách
dân tộc từ 2001 đến 2005
54
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy,
cần phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị ở cơ sở, các cấp,
các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình
mới. Xem xét quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở Thái Nguyên đã tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước cho mọi cán bộ, Đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc và miền núi cho đồng bào
các dân tộc thiểu số.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước bao giờ cũng xuất phát từ tình
hình thực tiễn của cách mạng cả nước trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Chính sách
dân tộc chỉ mang lại hiệu quả thực sự khi được Đảng bộ các cấp địa phương quán
triệt đầy đủ, sâu sắc, tạo nên sự nhất trí cao trong cán bộ, Đảng viên, nhân dân, đồng
thời phải được cụ thể hóa bằng các chính sách và biện pháp cụ thể, sát hợp với thực
tế của địa phương.
Đảng bộ đã luôn quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho cán
bộ các ngành, các giới, các cấp, đổi mới tư duy nhận thức về công tác dân tộc trước
hết là cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên. Ngoài các lớp bổ túc văn
hóa, Đảng bộ thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị và chuyên
môn cho cán bộ cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các ban ngành.
Tăng cường đội ngũ cán bộ Đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở
các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
55
Trên cơ sở nâng cao nhận thức về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ Đảng viên,
từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ đã họp toàn thể, bàn bạc
dân chủ và định ra nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cho phù hợp với thực tế
địa phương.
Để Nghị quyết của Đảng bộ đi vào cuộc sống, bên cạnh sự nỗ lực của các
cấp ủy Đảng và Đảng viên, cần phải đổi mới về công tác cổ động tuyên truyền để
mọi người dân, nhất là người dân tộc thiểu số, dân cư sống ở vùng sâu, vùng xa hiểu
được những chủ trương, chính sách của Đảng, qua đó thực hiện tốt hơn chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Song song với đổi mới công tác chính trị tư tưởng, cần tiến hành đổi mới
công tác tổ chức đảm bảo thực hiện chính sách dân tộc.
Do đặc điểm kinh tế, trình độ dân trí thấp, bên cạnh đó các thế lực thù địch
đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc; tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nên đòi hỏi hệ thống chính trị trong
vùng dân tộc cần phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa.
Tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng ở cơ sở có vai trò to
lớn trong việc thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của quần chúng, điều hành và
quản lý xã hội, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Việc xây dựng,
củng cố kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhằm tăng cường năng lực thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, đặc biệt là các cơ quan chuyên trách như Chi cục định canh định cư-
Kinh tế mới, Ban Dân tộc, Bộ phận quản lý chương trình 135. Nếu Đảng, chính
quyền cơ sở không đủ mạnh thì những chủ trương, kế hoạch, phương án phát triển
tại vùng dân tộc sẽ ít phát huy tác dụng. Giải pháp mang tính then chốt để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong vùng đồng bào dân tộc
là phải xây dựng, củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
56
tưởng và tổ chức, đảm bảo vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở địa phương; nâng
cao trình độ văn hóa, lý luận cho đội ngũ Đảng viên.
Trong công tác phát triển Đảng, hướng vào các đối tượng trẻ tuổi, có văn
hóa, trưởng thành từ phong trào quần chúng, chú trọng các chức danh chủ chốt, kế
cận công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Chú trọng phát triển Đảng viên ở vùng ít
Đảng viên nhằm phục vụ cho việc thực hiện chính sách dân tộc được tốt hơn. Tổ
chức Đảng và Đảng viên phải sâu sát thực tiễn, bám sát dân cư, nắm chắc tình hình
kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng ở địa bàn, hiểu sâu sắc tâm tư nguyện vọng và
yêu cầu của đồng bào, biết xác định nhiệm vụ lãnh đạo, trọng tâm công tác trong
từng thời điểm, tập trung các nguồn lực thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước.
Sau năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về chính sách dân
tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy khóa IX về công tác dân tộc, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI và các Nghị quyết, Chỉ thị của Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân, quá trình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên đã được tiến hành một cách tích cực, có hiệu quả trên nhiều mặt.
Trên lĩnh vực kinh tế: Về sản xuất nông nghiệp: Văn kiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI xác định: “Hướng chính là tăng năng
suất, tăng chất lượng, tăng hiệu quả cây trồng; vật nuôi; chuyển đổi cơ cấu cây con,
mùa vụ cho phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái, tạo ra vùng sản xuất hàng hóa lớn
với chất lượng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ”[26, tr.23].
Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bên cạnh việc tăng năng suất lúa, cần đẩy
mạnh sản xuất đối với các loại hoa màu như ngô, khoai, sắn, lạc,... Công tác phòng
chống bão lụt, chống hạn được triển khai một cách chủ động và tích cực. Các công
trình thủy lợi được xây dựng và kiên cố hóa. Cùng với những biện pháp đó là việc
áp dụng rộng rãi các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thúc đẩy sản
57
xuất nông nghiệp phát triển. Chính vì vậy, sản lượng lương thực bình quân năm sau
cao hơn năm trước, từng bước giải quyết khó khăn về lương thực cho đồng bào.
Một trong những đặc sản nổi tiếng của Thái Nguyên là cây chè. Cây chè là
một thế mạnh và có giá trị kinh tế ổn định nhất trên vườn đồi của tỉnh Thái Nguyên.
Chè Thái Nguyên không những có uy tín lớn ở thị trường trong nước mà còn được
xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Đài Loan. Nhằm phát huy thế mạnh mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ yếu này, Tỉnh ủy có chủ trương “tập trung đầu tư thâm canh
tăng năng suất, nâng cao chất lượng chè kết hợp với cải tạo và trồng mới ở các
huyện Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phú Lương, thành phố Thái Nguyên.”[26,
tr.23]. Đây là các huyện tập trung đông đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy, việc
mở rộng diện tích trồng chè không những phát huy thế mạnh cây kinh tế mũi nhọn
của tỉnh mà còn giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho đồng bào, phủ
xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với việc mở rộng diện
tích, tỉnh còn có chủ trương đưa các giống chè mới vào sản xuất, mặt khác cần phải
có biện pháp sử dụng hóa chất hợp lý để có chè sạch, chế biến nâng cao chất lượng
để chè Thái Nguyên có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước, ngoài nước.
Hình thành những vùng chè nổi tiếng như Phúc Trìu, Tân Cương, Trại Cài..., chất
lượng sản phẩm chè được giữ vững và có uy tín trên thị trường.
Thực hiện chủ trương phát triển nông lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ
sản phẩm, tỉnh đã hỗ trợ cho 36 xã đặc biệt khó khăn và An toàn khu từ 2003 đến
2005 là 4.810 triệu đồng. Phát huy thế mạnh về đất đồi rừng phát triển mạnh cây
công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với bảo quản,
chế biến, tiêu thụ. Nhiều nơi, mô hình sản xuất kinh tế trang trại được hình thành ở
các xã miền núi như: Hợp Tiến (Đồng Hỷ), Bộc Nhiêu (Định Hóa), Tràng Xá, Dân
Tiến (Võ Nhai)... Nhân dân đã biết kết hợp kinh tế vườn, đồi với kinh doanh chăn
nuôi gia cầm, gia súc, cá... với các loại giống cây, con mới có năng suất và hiệu quả
58
kinh tế cao. Đời sống kinh tế của nhiều gia đình được cải thiện rõ rệt, nhiều hộ gia
đình đã mua sắm được xe máy, đài, tivi...
Về công tác bảo vệ và phát triển rừng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên lần thứ XVI khẳng định: “Rà soát lại quy hoạch đất lâm nghiệp, xây
dựng các vùng rừng nguyên liệu và cơ cấu cây trồng. Trồng mới hàng năm 2000 ha
rừng trên các vùng đã quy hoạch kết hợp với khoanh nuôi, bảo vệ, tái sinh rừng.
Năm 2005 nâng độ che phủ của rừng lên khoảng 45%. Chấm dứt tình trạng phá
rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép. Hoàn thành căn bản công tác định
canh định cư và ổn định đời sống nhân dân vùng núi, vùng cao [26, tr.24].
Thực hiện chủ trương trên, trong năm năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
đã kịp thời đề ra một số biện pháp nhằm phục hồi tài nguyên rừng hiện có đồng thời
huy động nhân lực tại chỗ làm công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng. Lực lượng lao
động trực tiếp (kiểm lâm nhân dân) và lực lượng cán bộ kỹ thuật có thể huy động tại
địa phương thông qua việc ký các hợp đồng thời vụ, hợp đồng ngắn hạn 1- 2 năm.
Như vậy, có thể kết hợp khoanh nuôi, bảo vệ rừng với giải quyết việc làm cho đồng
bào trong vùng. Đến năm 2005, diện tích rừng trồng mới bình quân hàng năm đạt
hơn 2000 ha.
Đi đôi với công tác trồng rừng là chính sách định canh định cư và kinh tế
mới. Từ năm 1993 đến năm 2004, tổng số vốn cấp cho công tác định canh định cư-
kinh tế mới là: 81.439,790 triệu đồng (trong đó, vốn dự án định canh định cư là
58.416,790 triệu đồng). Tổng số xã có diện vận động định canh định cư là 38
xã/180 xã, phường, thị trấn. Tổng số xóm bản diện vận động định canh định cư là
112 xóm nằm ở 38 xã. Tổng số hộ thuộc diện vận động định canh định cư là 3430
hộ. Tổng số khẩu thuộc diện vận động định canh định cư là 20.530 khẩu. Trong đó
số hộ chưa ổn định còn có khả năng tái du canh du cư là 650 hộ và 3.240 khẩu [33].
59
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự
phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, công tác định canh định cư- kinh tế mới
trong năm năm 2001- 2005 đạt được một số kết quả tốt. Xây dựng được nhiều công
trình phúc lợi công cộng phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc ở
các bản làng vùng sâu, vùng xa; xây dựng được cơ chế chính sách đầu tư, hỗ trợ các
hộ nghèo về đời sống và sản xuất trong vùng dự án như hỗ trợ làm nhà ở, khai
hoang trồng cây lương thực, chăn nuôi đại gia súc, làm chuồng trại, hỗ trợ đất đai
sản xuất... theo hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, xóa bỏ
dần sản xuất tự cung tự cấp, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Nhiều vùng định
canh định cư của đồng bào các dân tộc thiểu số được thành lập ở xã Quy kỳ, Bảo
Linh, Linh Thông, Phú Đình (huyện Định Hóa), xóm Khe Cạn (huyện Đồng Hỷ), xã
Liên Minh, Cúc Đường (huyện Võ Nhai). Đến 2005 có 2780 hộ ổn định định canh
định cư, đạt 83% tổng số đối tượng vận động [33].
Công tác định canh định cư- kinh tế mới đã góp phần xây dựng cơ sở vật
chất ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, thúc đẩy sản xuất phát
triển và nâng cao năng lực thực hiện chính sách cho cán bộ và nhân dân ở vùng dân
tộc và miền núi, góp phần bảo vệ rừng và môi trường sinh thái, xóa đói giảm nghèo,
xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, củng cố tình đoàn kết
bình đẳng giữa các dân tộc và giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác định canh định cư- kinh tế
mới cũng còn một số tồn tại: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực miền núi, vùng
sâu, vùng xa rất chậm, một số cây trồng đầu tư hiệu quả thấp như mơ, mận, vải.
Trình độ sản xuất còn lạc hậu, sản xuất tự cung tự cấp. Hạ tầng cơ sở yếu kém, đời
sống đồng bào còn khó khăn hạn chế nhiều mặt. Nạn phá rừng, khai thác gỗ và lâm
sản trái phép còn phổ biến. Người dân sống ở rừng chưa thật sự sản xuất và làm
giàu từ rừng.
60
Về phát triển công nghiệp: Chủ trương của Tỉnh ủy Thái Nguyên trong năm
năm 2001- 2005 đó là: “ưu tiên kêu gọi đầu tư phát triển các ngành: công nghiệp vật
liệu xây dựng; khai thác và chế biến khoáng sản; công nghiệp bảo quản và chế biến
nông lâm sản (chè, trái cây, gỗ, thực phẩm...); nhiệt điện và thủy điện nhỏ...” [26,
tr.27]. Phát triển công nghiệp ở vùng miền núi dân tộc là rất cần thiết nhằm khai
thác hợp lý tài nguyên của vùng và giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đồng
bào các dân tộc trong vùng. Hiện nay, các cơ sở công nghiệp trong vùng miền núi
dân tộc của tỉnh chủ yếu vẫn là khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng. Chính vì
vậy, với chủ trương của Tỉnh ủy sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư vào khu vực này,
tạo điều kiện phát triển công nghiệp vùng dân tộc miền núi của tỉnh Thái Nguyên.
Về thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo: Với quan điểm “phát triển
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [26,
tr.21], Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân luôn quan tâm tới công tác xóa đói giảm nghèo.
Những năm gần đây, nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà đại bộ phận đời sống
nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Chủ trương xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta đề cập đến lần đầu tiên
trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Trung ương
năm khóa VII. Tiếp tục cụ thể hóa chương trình này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng, chủ trương xóa đói giảm nghèo được xác định là một trong
những chương trình quốc gia quan trọng.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Thái
Nguyên đã triển khai, vận dụng sáng tạo đường lối đó vào tình hình cụ thể của địa
phương. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI khẳng định: “tiếp tục thực
hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và phong trào hỗ trợ các hộ nghèo, xã
nghèo,... tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng cho các xã nghèo, cần coi trọng công
61
tác đào tạo cán bộ, tạo điều kiện cho dân cư các xã nghèo phát triển ngành nghề,
phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập” [26, tr.41].
Ngày 20/9/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ra Quyết định
2803/2002/QĐ- UB về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001- 2005.
Mục tiêu cụ thể của chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Thái Nguyên
đến năm 2005 phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 14,91% thời điểm 1/1/2001 xuống
còn dưới 10% vào cuối năm 2005, mỗi năm phấn đấu giảm 1,4%.
Để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, tỉnh thành lập
Ban chỉ đạo giúp cấp ủy, Ủy ban nhân dân lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện và
kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các ngành các cấp, huy động mạnh sức mạnh
tổng hợp của Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội và nhân dân chăm lo giúp đỡ
các hộ nghèo. Các huyện, thành, thị, xã, phường thành lập ban chỉ đạo chương trình
xóa đói giảm nghèo để đi sâu chỉ đạo, điều hành và có biện pháp thực hiện cụ thể ở
mỗi địa phương.
Công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu
số được xác định là nhiệm vụ rất khó khăn. Bên cạnh đầu tư của Trung ương thông
qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 135... các ngành, các cấp ở
tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ, nguồn
vốn của tỉnh ưu tiên cho vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn, cử cán bộ có trình
độ kỹ thuật về cơ sở để hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền vận động
đồng bào phát huy nội lực vươn lên xóa đói giảm nghèo.
Sau ba năm (2001- 2003), tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm 5,06% (cả nước là
6,18%). Năm 2004 là 9,85%, về sớm so với mục tiêu của chương trình hai năm (đến
2005 còn dưới 10% hộ nghèo), có 34 xã, phường, thị trấn có tỷ lệ hộ nghèo dưới
62
2%; đạt tiêu chuẩn quốc gia về địa bàn cơ bản không còn hộ nghèo, trong đó có 4
xã, phường, thị trấn không còn hộ nghèo [57].
Những nguyên nhân chính dẫn đến những thành công của chương trình xóa
đói giảm nghèo đó là: Trên cơ sở xác định vị trí, tầm quan trọng của chiến lược xóa
đói giảm nghèo và ý nghĩa của chương trình đối với việc thực hiện chính sách công
bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị trong nền kinh tế thị trường, từ đó các
ngành, các cấp, các tổ chức xã hội trong tỉnh đều coi trọng chương trình xóa đói
giảm nghèo. Chương trình xóa đói giảm nghèo đã huy động được sự tham gia của
tất cả các ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
trường học, bệnh viện, sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và tranh thủ
được sự ủng hộ đầu tư của các dự án quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chương trình xóa đói giảm nghèo vẫn
còn hạn chế: Một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là nhân dân vùng sâu, vùng
xa, các xã đặc biệt khó khăn đang chịu cảnh nghèo đói chưa đảm bảo được điều
kiện tối thiểu của cuộc sống, sự phân hóa giàu nghèo đã và đang diễn ra mạnh mẽ.
Mức độ cải thiện đời sống của nhân dân không đều và chưa vững chắc. Tư tưởng ỷ
lại trông chờ vào chính sách ưu đãi, trợ cấp, cứu trợ của Nhà nước vẫn còn tồn tại ở
một số địa phương và hộ nghèo nên hạn chế sự năng động tự vươn lên của người
nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; Việc tuyên truyền vận động để huy động nguồn lực có
sự tham gia của cộng đồng, của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp chưa thường
xuyên. Một số địa phương chạy theo thành tích, giao chỉ tiêu giảm hộ nghèo mang
tính áp đặt thiếu căn cứ dẫn đến tình trạng một số hộ thoát nghèo nhưng thực tế
cuộc sống vẫn khó khăn, tính bền vững thấp, nguy cơ tái nghèo cao.
Thực hiện Quyết định số 135/1998/QĐ- TTg ngày 31/7/1998 của Thủ
tướng Chính phủ là “Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa” (gọi tắt là Chương trình 135). Đây là một
63
chương trình đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nâng
cao đời sống mọi mặt và thực hiện công bằng xã hội cho các địa bàn các dân tộc
thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời góp phần trực tiếp giải quyết các vấn đề an
ninh, quốc phòng.
Qua 7 năm triển khai, thực hiện (1999- 2005) Chương trình 135, đồng bào
các dân tộc trong tỉnh rất vui mừng, phấn khởi và tích cực tham gia. Chương trình
135 với nguồn vốn trong 7 năm (1999- 2005) là 210.047,17 triệu đồng. Đến năm
2005, tỉnh Thái Nguyên có 52 xã được thụ hưởng từ Chương trình 135 (trong đó 28
xã đặc biệt khó khăn, 24 xã An toàn khu). Chỉ tính riêng xây dựng cơ sở hạ tầng
trong 7 năm (1999- 2005) là 280 công trình với tổng số vốn thực hiện là 146.365.73
triệu đồng [59, tr.2].
Chương trình 135 là một chủ trương có tác dụng thiết thực nhất đối với
nhân dân các xã đặc biệt khó khăn, An toàn khu, đã tạo việc làm cho nhân dân trong
vùng và là một biện pháp tích cực, hiệu quả trong chương trình xóa đói giảm nghèo.
Nhờ nguồn vốn của Chương trình 135, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm
được xây dựng tương đối khang trang, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình đường Quán Vuông- Phú Đình
(Định Hóa), Tràng Xá- Thượng Nung (Võ Nhai), 100% các xã có đường ô tô vào
đến tận trung tâm xã, các xã đều có điện lưới quốc gia, chợ thương mại ở các trung
tâm cụm xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa. Đây là cơ sở để thúc
đẩy phát triển thị trường tiêu thụ nông sản ở nông thôn miền núi, giảm chi phí vận
chuyển, góp phần thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế
hộ gia đình, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Với hiệu quả của Chương trình 135 làm
cho nhân dân tin tưởng và tự giác chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
64
Chương trình 135 thực hiện và đạt hiệu quả cao là do trong quá trình thực
hiện được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, chính quyền
các cấp lãnh đạo vận động nhân dân tham gia đóng góp đất đai, ngày công, tiền của
để xây dựng các công trình, nhiều tổ chức cá nhân ở trung ương, địa phương đã
tham gia giúp đỡ hỗ trợ xây dựng các công trình phúc lợi chung cho vùng đặc biệt
khó khăn. Ban giám sát công trình ở các xã đã nêu cao tinh thần trách nhiệm làm tốt
công việc giám sát nên chương trình đưa vào sử dụng đảm bảo kỹ thuật và chất
lượng.
Bên cạnh những thành tựu trên, Chương trình 135 trong quá trình thực hiện
ở tỉnh Thái Nguyên cũng còn hạn chế: các công trình xây dựng cơ bản mới chủ yếu
tập trung đầu tư tại trung tâm cụm xã, trung tâm các xã và phần lớn tập trung vào
công trình giao thông và trường học, còn lại các công trình khác phục vụ cho sinh
hoạt và sản xuất của nhân dân, nhất là ở xóm, bản vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng
được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đầu tư thâm canh; đời sống và điều kiện
sinh hoạt của đồng bào tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn; Hầu hết
các xã chưa làm chủ đầu tư được theo cơ chế quản lý của Chương trình 135, chưa
thực hiện phương châm xã có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập, góp phần
xóa đói giảm nghèo. Ban giám sát xã đã hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao do
trình độ còn hạn chế.
Về giáo dục và đào tạo: Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng ta luôn coi trọng công tác giáo dục- đào tạo “nhằm xây dựng những con người
và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo
đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng
lực tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại; phát triển tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri
65
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành
giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [19, tr.29]. Các
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX
và Hội nghị Trung ương hai khóa VIII đều xác định giáo dục và đào tạo là “quốc
sách hàng đầu” và chỉ rõ “ Giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà
nước và của toàn dân”.
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về sự nghiệp giáo dục- đào tạo,
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những chủ trương, biện pháp phát triển giáo dục-
đào tạo phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Đối với công tác giáo dục ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần
thứ XVI khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục thường xuyên;
thực hiện tốt chính sách của Đảng về giáo dục ở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào
dân tộc” [26, tr.32- 33].
Trong năm năm (2001- 2005), công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số
được triển khai thực hiện trên nhiều mặt và đạt những kết quả quan trọng.
Ngành giáo dục mầm non: Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, trong
điều kiện còn rất nhiều khó khăn, nhưng nhờ tích cực thực hiện chủ trương xã hội
hóa giáo dục và đa dạng hóa các loại hình trường lớp nên số trẻ đến các trường lớp
mầm non ngày một tăng.
Năm Số trẻ đến lớp mẫu giáo Tỷ lệ
1996- 1997 25.966 41,4%
2002- 2003 30.809 70,6%
(Nguồn: Quy hoạch phát triển Giáo dục- Đào tạo tỉnh Thái Nguyên đến 2010)
66
Đặc biệt, số trẻ mẫu giáo 5 tuổi tăng nhanh: năm 2002- 2003 có 15.518
cháu đạt tỷ lệ 99,6%, tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo đạt cao (99,6%).
Điều này có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bậc tiểu học
và thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Đối với các xã miền núi, vùng
cao, ngoài các lớp mẫu giáo 5 tuổi đang theo học chương trình hoàn chỉnh theo 3 độ
tuổi còn có nhiều hình thức học cho trẻ như chương trình 26 tuần cho trẻ không qua
mẫu giáo 3, 4 tuổi, chương trình 36 buổi cho trẻ chưa bao giờ tới lớp mẫu giáo,
chương trình tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số... Sự đa dạng về hình
thức đã tạo cơ hội phát triển giáo dục mầm non cho trẻ ở vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên, giáo dục mầm non của tỉnh còn một số khó khăn như: đa số các
trường mầm non dân lập lại ở khu vực nông thôn miền núi, việc tổ chức và duy trì
các lớp mẫu giáo dân lập ở khu vực miền núi vùng cao là rất khó khăn vì đời sống
của nhân dân trong vùng còn nghèo, thu nhập thấp không đủ đóng góp để chi phí
các khoản: trả lương cô, xây dựng trường lớp, ăn bán trú... Bên cạnh đó, số giáo
viên dạy ở trường dân lập ngoài biên chế tập trung ở khu vực nông thôn miền núi
đời sống khó khăn và chưa ổn định, hạn chế đến chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc
và giáo dục trẻ mầm non.
Đối với các cấp học phổ thông, trung ương và địa phương luôn quan tâm,
đề ra các chính sách ưu đãi đối với học sinh các xã đặc biệt khó khăn và hệ dân tộc
nội trú. Thực hiện theo quyết định của trung ương, các học sinh dân tộc nội trú được
hưởng các chế độ: miễn giảm các khoản đóng góp như học phí, xây dựng trường
lớp, được hỗ trợ sách giáo khoa và học phẩm; cấp quần áo, trang phục và các đồ
dùng sinh hoạt như chăn, màn, được khám sức khỏe định kỳ và bố trí phương tiện
đưa về địa phương nhân dịp nghỉ hè, nghỉ tết. Ngày 29/12/2004, Ủy ban nhân dân
tỉnh ra quyết định số 3300/QĐ- UB. Theo quyết định này mỗi học sinh trường phổ
thông dân tộc nội trú được hưởng mức học bổng là 160.000 đồng/học sinh/1 tháng
67
(được hưởng cả 12 tháng). Đối với 52 xã đặc biệt khó khăn được thụ hưởng chương
trình 135, tỉnh quyết định chi ngân sách địa phương để cấp giấy viết cho học sinh,
bình quân mỗi học sinh không quá 18.000 đồng/năm. Năm 2005 tổng kinh phí đã
cấp là 685,0 triệu đồng [50].
Với các chính sách ưu đãi của Trung ương và địa phương đối với học sinh
các dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn đã khuyến khích các em đến lớp,
củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và đến năm 2005
tỉnh Thái Nguyên đã phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên phạm vi toàn tỉnh. Năm
năm (2001- 2005) đã xây dựng được 1569 phòng học trong toàn tỉnh, trong đó đã
xóa xong phòng học tạm cho 36 xã đặc biệt khó khăn, xây dựng 351 phòng học mới
[27, tr.17].
Chính sách cử tuyển, đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc luôn được tỉnh quan
tâm. Trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh hàng năm tuyển chọn hàng trăm con
em dân tộc về tập trung học tập, các chỉ tiêu tuyển sinh vào trường Vùng Cao Việt
Bắc được thực hiện đầy đủ, hệ thống giáo dục của tỉnh đã hoàn chỉnh tới khắp các
xã vùng sâu, vùng xa. Hàng năm thực hiện tốt chế độ cử tuyển vào các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, năm 2003 có 16 em, năm 2004 có 24 em,
năm 2005 có 44 em được cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng [43].
Góp phần giảm bớt khó khăn cho giáo viên giảng dạy ở vùng sâu, vùng xa,
cán bộ quản lý ở các trường chuyên biệt ở vùng đặc biệt khó khăn, từ năm 1995, Ủy
ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên có Quyết định số 207/QĐ- UB ngày 22/8/1995 về
thực hiện quy định tạm thời về chế độ trợ cấp đối với giáo viên công tác ở các xã
vùng cao: Cán bộ, giáo viên được điều động đi công tác tại các xã vùng cao, xã đặc
biệt khó khăn thì được trợ cấp một lần là 400.000 đồng/người và được hưởng trợ
cấp thường xuyên là 60.000 đồng/người/ tháng đối với các trường chính và 120.000
đồng/người/ tháng đối với các phân trường. Từ năm 2001, tỉnh Thái Nguyên thực
68
hiện theo Nghị định số 35/2001/NĐ- CP ngày 9/7/2001 của Chính phủ về chính
sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác ở các trường chuyên
biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Về công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân: Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI nêu rõ: “phát triển y tế dự phòng,
nâng cao hiểu biết của nhân dân về vệ sinh phòng bệnh và chăm sóc sức
khỏe... nâng cao thể lực và tuổi thọ của người dân; đảm bảo cung cấp đến mọi
người dân các dịch vụ y tế cơ bản”; “củng cố mạng lưới y tế cơ sở, phấn đấu
xã nào cũng có trạm y tế, có bác sỹ, y sỹ sản nhi hoặc nữ hộ sinh. Củng cố,
phát triển các vùng thuốc nam, nâng cấp các trung tâm y tế huyện” [26, tr.42].
Với chủ trương trên, trong năm năm (2001- 2005) Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh rất quan tâm phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Năm 2003, Thái Nguyên có
194 bác sỹ đang công tác tại các trạm y tế xã, phường trong đó bác sỹ là người dân
tộc thiểu số chiếm 41,36%. Đến năm 2005 có 765 cán bộ y tế thôn bản/794 thôn bản
chiếm 96,35% [56].
Chương trình tiêm chủng mở rộng đã được triển khai đến 180 xã, phường,
thị trấn. Các cháu được tiêm chủng đầy đủ toàn tỉnh đạt tỷ lệ cao. Năm 2004 trẻ em
các xã đặc biệt khó khăn được tiêm chủng đầy đủ là 3185 em/ 3258 em đạt tỷ lệ
97,75% [50].
Tuy nhiên, công tác y tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt khó
khăn còn một số hạn chế như: các trang thiệt bị thông thường sử dụng trong khám
và điều trị ở trạm y tế rất thiếu. Trên 70% trạm y tế chưa được trang bị các loại
dụng cụ sử dụng khám điều trị chuyên khoa đơn giản như: răng, mắt, tai- mũi-
họng. Chưa có chế độ chính sách thỏa đáng để thu hút cán bộ về vùng cao, vùng
sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số công tác.
69
Về công tác văn hóa thông tin, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống
có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [21, tr.114].
Thực hiện chủ trương của Đảng, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Nguyên
trong năm năm qua (2001- 2005) đã tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nhằm vừa phục vụ
các nhiệm vụ chính trị, vừa từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, giáo dục
tư tưởng, tình cảm của nhân dân, góp phần tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của đồng bào
các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền từ
tỉnh tới cơ sở quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai, thực hiện và thu được
những kết quả nhất định.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở miền núi, vùng cao tập trung vào cuộc
vận động đồng bào thay đổi lối sống du canh du cư chuyển sang định canh định cư,
thay việc trồng ngô phát nương làm rẫy sang trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả,
trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc gia cầm. Việc cưới, việc tang được thực hiện
đúng Chỉ thị 27/CT-TW, Chỉ thị 14 của Thủ Tướng Chính phủ, từng bước xóa bỏ
những hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin. Nhiều địa phương có quy ước riêng
về việc cưới, việc tang cho đồng bào.
Các hình thức tuyên truyền thực hiện nội dung, mục tiêu của cuộc vận động
đến bà con được thông qua các buổi họp chợ, họp xóm bản, cán bộ văn hóa xã cùng
già làng, trưởng bản đến từng gia đình vận động. Không khí hăng hái thi đua phát
triển kinh tế gia đình, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây
dựng gia đình ấm no được từng bước được đẩy mạnh.
70
Đối với công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống,
ngành Văn hóa Thông tin Thái Nguyên đã xây dựng kế hoạch sưu tầm, giữ gìn văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể cho đồng bào các dân tộc như: nhạc cụ, các làn
điệu dân ca, các điệu múa... Chú trọng khai thác vốn văn nghệ dân gian như hát ví,
hát ru, khèn bè, khèn lá, khai thác các trò chơi dân gian như tung còn, đánh yến, vật
cù. Tổ chức cho các nghệ nhân tham gia các khóa tập huấn hoạt động văn hóa văn
nghệ ở tỉnh và Trung ương.
Công tác xây dựng thiết chế văn hóa ở cơ sở trong những năm qua thu được
nhiều kết quả đáng kể, góp phần tích cực vào sự thay đổi diện mạo đời sống tinh
thần cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Đến năm 2005, Thái Nguyên có 1560 nhà
văn hóa xóm, bản, trong đó nhà văn hóa của đồng bào các dân tộc xây dựng được là
250 nhà, đặc biệt nhà văn hóa xóm Đồng Tâm xã Tức Tranh huyện Phú Lương là
xóm có 100% dân cư là người dân tộc Sán chí được chọn làm mô hình điển hình
tiên tiến để nhân ra diện rộng [51, tr.2].
Việc thực hiện phủ sóng phát thanh truyền hình được quan tâm, trong năm
năm bình quân mỗi năm Đài phát thanh- truyền hình tỉnh Thái Nguyên phát sóng
khoảng 12.000 tin bài. Đến nay, Đài phát thanh- truyền hình tỉnh đã thực hiện sản
xuất và phát sóng chương trình địa phương hàng ngày. Chương trình phát thanh
được phát sóng bằng 3 thứ tiếng: phổ thông, Tày- Nùng, Dao ở 3 buổi sáng, trưa, tối
với các chương trình: thời sự, thời sự tổng hợp, văn nghệ, ca nhạc. Các chương trình
tiếng dân tộc: Tày- Nùng, Dao được quan tâm, đặc biệt là mảng văn nghệ tiếng dân
tộc được bổ sung nhiều bài hát mới. Việc thực hiện có chất lượng các chương trình
phát thanh tiếng dân tộc không chỉ là thông tin, chuyển tải các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh đến với đồng bào mà còn góp
phần củng cố niềm tin của đồng bào với Đảng và lưu giữ, bảo tồn vốn văn hóa dân
tộc.
71
Năm 2005, trên địa bàn tỉnh diện phủ sóng đạt 100% với phát thanh và 90%
với truyền hình đã góp phần quan trọng đưa tiếng nói của Đảng đến với đồng bào
dân tộc thiểu số [43].
Đối với hoạt động văn hóa nghệ thuật, chiếu bóng, quán triệt mục tiêu
hướng về cơ sở, phục vụ đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng An toàn
khu, các đối tượng chính sách, có công với cách mạng, kết quả từ năm 2000 đến
năm 2004 ngành Văn hóa Thông tin đã tổ chức được 6.304 buổi chiếu phim, 915
buổi biểu diễn nghệ thuật, 3.025 lượt thông tin tuyên truyền [51].
Về vấn đề dân tộc và tôn giáo: Thái Nguyên có 2 tôn giáo chính là Phật
giáo và Công giáo. Phật giáo có khoảng 2 vạn tín đồ thuần thánh và khoảng 1 vạn
người tham gia phật sự; đạo Công giáo có khoảng 2,8 vạn tín đồ.
Từ năm 1990 đến 2005, Đạo Tin lành truyền trái phép vào vùng đồng bào
dân tộc thiểu số của tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là dân tộc Hmông, Dao ở các huyện
miền núi, vùng sâu, vùng xa như: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương và một số
ít ở thành phố Thái Nguyên, Phú Bình, với khoảng trên 4.000 người theo hoặc ảnh
hưởng của đạo Tin lành. Trên địa bàn tỉnh có 31 điểm nhóm sinh hoạt đạo Tin lành,
địa bàn ảnh hưởng tới nay 28 xóm, bản, 19 xã của 8 huyện, thành, thị; có 5 hệ phái:
Hội thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc), Hội thánh Tin lành Liên hữu cơ đốc, Hội
thánh tin lành Việt Nam truyền giáo, Hội thánh tin lành phúc âm ngũ tuần Hà Nội,
Hội thánh tin lành phúc âm ngũ tuần thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, nhóm
Hmông trắng ở Thái Nguyên có 100% số hộ đã bỏ bàn thờ tổ tiên đi theo hoặc chịu
ảnh hưởng của đạo Tin lành [50].
Thực hiện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tôn
giáo, Đảng bộ, chính quyền các cấp, các ngành trong tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều
cố gắng giải quyết tốt các nhu cầu chính đáng của đồng bào có đạo.
72
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI chỉ rõ: “Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do
không tín ngưỡng, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo; hướng dẫn đồng bào theo tôn
giáo làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”.
Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, đội lốt tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân” [26, tr.46].
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo được chú trọng, từng bước tiến bộ.
Năm 1993, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái đã ban hành Quy định tạm thời số 143
ngày 15/3/1993 về quản lý các hoạt động tôn giáo. Ngày 14/6/2004, tỉnh Thái
Nguyên ban hành Quy định số 1329 về quản lý các hoạt động tôn giáo trong tỉnh.
Đây là những văn bản cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước vào
thực tế địa phương, là cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo. Các cấp chính quyền đã quan tâm, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo cho quần chúng nhân dân; tạo điều kiện cho các tôn giáo mở lễ hội, tổ chức
nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy định của pháp luật; giúp
đỡ các tổ chức tôn giáo bổ nhiệm, phong chức cử người học đạo; giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự theo đúng quy
định của pháp luật Nhà nước và địa phương.
Năm 2004, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã có Thông báo số 416/TB- TU ngày
14/7/2004 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên đồng ý cho thành lập Ban trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thái Nguyên và thành lập Ủy ban đoàn kết Công
giáo tỉnh Thái Nguyên.
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (nhất là vùng dân tộc Hmông, Dao) đạo Tin
lành đã và đang truyền vào một cách trái phép, đã có 3.500/6.000 người Hmông tin
theo thờ chúa Giêsu. Tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp đấu tranh ngăn chặn việc
73
truyền đạo trái phép bằng các biện pháp: tuyên truyền vận động quần chúng, phát
động “phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đấu tranh trực tiếp với
những người cầm đầu. Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể đã quan tâm đến công tác tôn
giáo, tăng cường công tác tuyên truyền vận động, kết nạp đoàn viên, hội viên là
người có đạo... Đưa các chương trình phát triển kinh tế- xã hội nâng cao chất lượng
cuộc sống cho đồng bào. Hàng năm mở Hội nghị chuyên đề về công tác tôn giáo,
biểu dương kịp thời tập thể, cá nhân người công giáo tiêu biểu.
Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong vùng đồng bào có đạo,
hàng năm công tác phát triển Đảng được các cấp ủy quan tâm. Năm 2002 toàn tỉnh
có 239 Đảng viên gốc đạo công giáo, năm 2003 có 347 Đảng viên gốc đạo công
giáo, đến năm 2004 tăng lên 358 Đảng viên gốc đạo công giáo [43].
Một trong những công tác được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh chú ý chỉ
đạo là việc thực hiện chính sách dân tộc đối với vùng đồng bào dân tộc Hmông.
Đồng bào dân tộc Hmông ở Thái Nguyên chủ yếu sinh sống tập trung ở
vùng núi cao vùng sâu, vùng xa, có đặc thù là thường sống du canh du cư, nơi cư trú
không ổn định, đời sống của đồng bào gặp rất nhiều khó khăn cả về vật chất và tinh
thần, trẻ em thường không được đi học, việc tuyên truyền vận động chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước rất khó khăn. Lợi dụng đặc điểm này các thế lực
thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đưa tà đạo vào vùng đồng bào
nhằm tách họ ra khỏi cộng đồng, kích động họ chống đối chính quyền gây mất ổn
định an ninh trật tự ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với những
chính sách ưu đãi cho các dân tộc thiểu số nói chung, theo tinh thần chỉ thị số
45/CT- TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số công tác vùng dân tộc
Hmông đã góp phần ổn định đời sống của đồng bào dân tộc Hmông. Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và chính quyền địa phương đã phân công nhiều
74
cán bộ xuống ba cùng với nhân dân ở cơ sở, nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng
của đồng bào từ đó tuyên truyền giáo dục đường lối chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Nội dung tuyên truyền thường xuyên được cụ thể hóa,
cung cấp những thông tin liên quan đến kinh tế- văn hóa- xã hội bằng những việc
làm cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương với những hình thức và
phương pháp đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện và gắn với phong tục tập quán
của đồng bào dân tộc Hmông.
Đi đôi với công tác tuyên truyền, công tác đầu tư phát triển sản xuất, ổn
định đời sống vùng đồng bào dân tộc Hmông được quan tâm. Tính trong 10 năm
(1994- 2003), tổng số vốn đầu tư hỗ trợ cho đồng bào dân tộc Hmông là 12.259,0
triệu đồng với các dự án định canh định cư, hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ
tầng... [34].
Công tác củng cố xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể vùng đồng
bào dân tộc Hmông là nhiệm vụ quan trọng: tất cả các xóm bản đều có tổ chức đoàn
thể chính trị như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, các
xóm bản đều có già làng trưởng bản được giác ngộ cao. Toàn tỉnh có 20 Đảng viên
dân tộc Hmông, số xóm có Đảng viên dân tộc Hmông là 10 xóm/27 xóm chiếm
37%, còn các Đảng viên là dân tộc Hmông ở các xóm không đủ số lượng thành lập
chi bộ Đảng thì tổ chức sinh hoạt ghép [34]. Hàng năm, các cán bộ từ cấp xóm xã
đều được đi đào tạo, tập huấn về trình độ lý luận chính trị, bổ túc văn hóa, chuyển
giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hiện nay cán bộ cốt cán cơ sở có 32
người.
Về công tác an ninh- quốc phòng: Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc
thiểu số ở Thái Nguyên, phần lớn là vùng núi, nơi có vị trí quan trọng về kinh tế,
chính trị, an ninh quốc phòng; Tình trạng khai thác, đào đãi vàng, thiếc trái phép
vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều vùng dân tộc, phá hoại nương rẫy, hoa màu của đồng
75
bào, gây mất đoàn kết, an ninh trật tự xã hội phức tạp ở địa phương. Vì vậy Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên bên cạnh việc đầu tư nguồn lực phát triển kinh tế- văn hóa thường
xuyên coi trọng công tác bảo vệ an ninh, trật tự ở vùng dân tộc thiểu số.
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI khẳng định:
“Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, đảm bảo tốt trật tự an toàn xã hội là nhiệm
vụ trọng yếu thường xuyên của các tổ chức Đảng, Nhà nước, và của toàn dân...”[26,
tr.34]. Các cấp ủy Đảng, cơ quan chuyên trách, lực lượng công an cơ sở triển khai
nhiều biện pháp, tuyên truyền vận động nhân dân sống và làm việc theo hiến pháp
và pháp luật, tổ chức cho quần chúng nhân dân học tập các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, xây dựng quy ước, hương ước các làng, bản; phát động
phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” trong các bản làng dân tộc thiểu
số, giáo dục cho quần chúng về sự nguy hại của ma túy, từ đó nâng cao nhận thức, ý
thức tự giác của mọi người, từng gia đình và cộng đồng trong việc phòng chống tệ
nạn ma túy.
Về xây dựng hệ thống chính trị: Trong quá trình thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thường xuyên quan
tâm đến việc xây dựng hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số, coi đây là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội, từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
Để xây dựng hệ thống chính trị, trước hết cần tập trung củng cố và nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng gắn liền với việc
nâng cao chất lượng Đảng viên, coi đây là nhiệm vụ có tính chiến lược của công tác
xây dựng Đảng, đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước.
76
Năm 2005, Đảng bộ tỉnh có 4.095 chi bộ trực thuộc dưới Đảng bộ,
11.531/61.587 Đảng viên là người dân tộc thiểu số, 750 bí thư chi bộ là người dân
tộc thiểu số. Từ nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở Đảng ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, vấn đề dân
tộc, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm chính trị, dễ bị lợi dụng, Đảng bộ tỉnh luôn quan
tâm tới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bí thư chi bộ cơ sở ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý
luận chính trị. Năm 2005, theo đánh giá phân loại các tổ chức cơ sở Đảng ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên toàn tỉnh có 405 tổ chức cơ sở Đảng đạt chi
bộ trong sạch, vững mạnh; 237 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ; 139 tổ chức cơ sở
Đảng xóm, bản, vùng đồng bào dân tộc thiểu số 6 năm liên tục đạt trong sạch, vững
mạnh.
Song song với việc xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền ở cơ sở, các đoàn
thể quần chúng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện dân chủ và phát huy tính
chủ động sáng tạo của nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự và phát triển kinh tế- xã hội
ở địa phương. Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh đã quan tâm đến việc đào tạo,
bồi dưỡng và tăng cường đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở các vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Các địa phương, các cấp, các ngành chú trọng đưa cán bộ dân
tộc đi học ở các trường chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ ở trung ương và của tỉnh.
Chỉ tính năm 2005, số cán bộ là người dân tộc thiểu số cấp xã là 856 người, trong
đó có 44,7% có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp đến cử nhân; 11,1% qua đào tạo
bồi dưỡng quản lý Nhà nước [50]. Xây dựng hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu
số được quan tâm và đạt một số thành tựu bước đầu. Bộ máy Đảng, chính quyền và
các đoàn thể quần chúng từng bước phát huy tác dụng trong lãnh đạo, quản lý, điều
hành, vận động nhân dân phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh ở
cơ sở.
77
Bên cạnh thành tựu đạt được, trong năm năm thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng ở Thái Nguyên còn có những tồn tại: sự chênh lệch về kinh tế- xã hội
giữa các vùng trong tỉnh vẫn chưa được khắc phục triệt để, một số nơi vẫn còn tồn
tại những phong tục tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội. Tồn tại này do các nguyên nhân
như điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú, truyền thống văn hóa, phong tục tập
quán... nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất đó là trình độ nhận thức của cán bộ Đảng
viên và nhân dân địa phương còn hạn chế, năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện của
cấp ủy, chính quyền, các ngành và đoàn thể còn yếu, đội ngũ cán bộ làm công tác
dân tộc vừa thiếu vừa yếu.
Tóm lại, xuất phát từ thực tế địa phương, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã vận
dụng sáng tạo những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời bổ
sung mục tiêu, phương hướng cụ thể phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm phát
triển kinh tế- xã hội, thu hẹp sự chênh lệch về mọi mặt của đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, giữ vững an ninh, chính trị trên địa bàn. Với truyền thống đoàn kết và
dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tích
cực phát huy nội lực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương và các địa phương để
phát triển kinh tế- xã hội trong tỉnh nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói
riêng góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
78
CHƢƠNG 3
THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ 1997
ĐẾN 2005
3.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
3.1.1. Thành tựu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, việc nhận thức và thực
hiện đúng đắn chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn
địa phương trong những năm 1997- 2005, góp phần tạo nên nhiều chuyển biến tích
cực trên các lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đồng bào các
dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên.
Một là, tạo được sự thống nhất trong toàn Đảng bộ nhận thức tầm quan
trọng của chính sách dân tộc, coi thực hiện chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược trong mọi thời kỳ ở tỉnh Thái Nguyên.
Với một tỉnh có nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn như Thái Nguyên, chính
sách dân tộc đúng đắn của Đảng được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn sẽ giải
quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc, phát huy được mọi tiềm năng, thế mạnh của
đồng bào, mở rộng giao lưu, tạo điều kiện phát triển về mọi mặt cho đồng bào, đồng
thời đó cũng là một trong những biện pháp góp phần tăng cường hơn nữa vai trò
lãnh đạo của Đảng, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân đối với đồng bào
các dân tộc vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh. Nhận thức được điều này, các cấp
ủy Đảng luôn quan tâm tới việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước vào tình hình thực tiễn địa phương.
Các cấp ủy Đảng, các ban ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân ở Thái Nguyên luôn xác định: “thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước; phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của từng dân
79
tộc”, xác định rõ trách nhiệm của ngành mình, cấp mình, tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo, phối hợp chặt chẽ tổ chức thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng về
công tác dân tộc. Từ sự nhận thức đó, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những đổi
mới bước đầu về thể chế, chính sách và phương thức lãnh đạo đối với việc thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.
Địa phương là cấp cụ thể hóa, quán triệt, vận dụng và thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, các tổ chức Đảng ở địa phương
vừa đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đến tận đồng bào các
dân tộc thiểu số những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tiến
hành tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách đó.
Trong quá trình thực hiện, Tỉnh ủy đã cụ thể hóa những chủ trương, chính
sách phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc và quan tâm đầu tư, chỉ đạo, xác định
đúng trọng tâm, trọng điểm. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở Thái
Nguyên luôn quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho đồng bào phát triển sản xuất, chăm lo sức khỏe, nâng
cao dân trí. Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã tiến hành tuyên truyền, vận
động, giáo dục cán bộ, Đảng viên, đoàn viên, hội viên, nhân dân trong tỉnh nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số ý thức sâu sắc được việc thực hiện đường lối, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước là trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân
trong tỉnh, từ đó, xây dựng được tinh thần đoàn kết, nhất trí quyết tâm cao trong
toàn tỉnh.
Để chính sách dân tộc của Đảng được thực hiện có hiệu quả, nhân tố có ý
nghĩa quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác đó. Xây dựng đội
ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục... ở miền núi và vùng dân tộc là đòi hỏi cấp bách và lâu dài. Tỉnh ủy Thái
Nguyên luôn chăm lo tới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của
80
thời kỳ mới, làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ; nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời, Tỉnh ủy đã có những chính sách đúng đắn và
phương thức thích hợp để bồi dưỡng và đào tạo có hệ thống đội ngũ cán bộ, tri thức
dân tộc.
Nếu như cán bộ vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa quyết định đối với việc
thực thi, làm sống động chính sách dân tộc của Đảng thì công tác dân tộc, cơ quan
chuyên môn làm công tác dân tộc có vị trí, vai trò quan trọng định hướng đối với
quá trình đó. Muốn cho các tổ chức phụ trách công tác dân tộc ở Trung ương và địa
phương có hiệu lực thì đó phải là cơ quan nghiên cứu và có những quyền hạn nhất
định về mặt tài chính để thực thi những công tác trọng điểm từng năm hay năm
năm, để điều hành hay giám sát hoạt động của các ngành khác trong việc thực hiện
nhiệm vụ được giao đối với các vùng dân tộc.
Trước đây, Ban Dân vận Tỉnh ủy có phòng Tôn giáo và Dân tộc làm chức
năng tham mưu cho Tỉnh ủy về công tác tôn giáo và dân tộc. Ban đã thường xuyên
theo dõi tình hình mọi mặt trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phối hợp với các
ngành chức năng kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc và tôn giáo. Sau khi có Nghị quyết
24-NQ/TW, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 1987-QĐ/UB ngày 26/8/2004
thành lập Ban Dân tộc trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, thực hiện việc
quản lý Nhà nước về công tác dân tộc. Do đó, công tác dân tộc được tăng cường, có
nhiều chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn trong quá trình thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc.
Nhằm cụ thể hóa chính sách dân tộc của Đảng, Tỉnh ủy Thái Nguyên cùng
các cơ quan chuyên môn đã lãnh đạo thực hiện các chương trình, dự án như:
Chương trình 134/ TTg về hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn, Chương trình phát triển
81
kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa
(Quyết định 135,138)… Gần đây nhất, thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về công
tác dân tộc, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã ra chương trình hành động số 09.
Những chương trình, dự án đó được thực hiện có hiệu quả sẽ giúp cho đồng
bào các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống; Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của đồng bào; Xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ ở
cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực
Hai là, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thực hiện chính sách dân tộc theo hướng
ưu tiên, đã có những đổi mới về quan niệm và cách tiếp cận.
Bình đẳng dân tộc, đó là đòi hỏi thực tế trong tiến trình lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta. Đồng thời, đó còn là một nhân tố quan trọng đảm bảo
cho xã hội Việt Nam ổn định và phát triển. Tất nhiên, để có sự bình đẳng thực sự
đòi hỏi phải tạo ra những điều kiện, những cơ hội cần thiết để các dân tộc tự vươn
lên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn có những chủ trương, chính
sách đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân đảm bảo cho các dân tộc trong nước bình
đẳng, giúp nhau cùng phát triển. Một trong những nội dung quan trọng để thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc đó là ưu tiên đối với các dân tộc thiểu số trong quá trình
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Ưu tiên không phải là sự “ban ơn”, “ban
phát”, là gánh nặng, là một chiều từ phía Đảng, Nhà nước xuống đồng bào mà đó
còn là sự thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thực hiện công bằng giữa các dân
tộc.
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương,
chính sách, nói chung, chính sách dân tộc nói riêng luôn có những biện pháp cụ thể
phù hợp với thực tế địa phương. Thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên nhằm
82
thực hiện bình đẳng dân tộc, không chỉ xóa bỏ sự phát triển không đều giữa các dân
tộc mà còn góp phần ổn định tình hình an ninh, quốc phòng tại địa phương.
Nhận thức được điều này, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên luôn khẳng định thực
hiện chính sách dân tộc là làm công tác quần chúng, làm công tác chính trị, tư
tưởng, là xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, là thực hiện dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Thực hiện chính sách dân tộc đó là tình cảm đền ơn đáp
nghĩa đối với đồng bào, là đảm bảo trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ xác định rõ:
Đối tượng được hưởng ưu tiên đó là đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, vùng đặc biệt khó khăn.
Vùng được hưởng ưu tiên, theo Quyết định 135 của Thủ tướng Chính phủ
bao gồm 52 xã đặc biệt khó khăn giai đoạn I, 41 xã còn lại tiếp tục được hưởng
chương trình 135 ở giai đoạn II.
Cách ưu tiên, theo quan điểm của Đảng bộ tỉnh, cần khắc phục cách làm
dàn trải, vừa lãng phí vừa không hiệu quả. Phải có hình thức và bước đi thích hợp
với từng nơi, từng lúc, từng dân tộc, từng loại mô hình. Tùy từng nơi, từng dân tộc
chọn những trọng tâm công việc thiết thực tạo bước đột phá, đồng thời là nền tảng
vững chắc cho phát triển kinh tế, xã hội lâu dài một cách thích hợp. Phải có sự kết
hợp hài hòa giữa sự giúp đỡ của bên ngoài với sự hướng dẫn cụ thể để đồng bào tự
vươn lên.
Các lĩnh vực được ưu tiên được xác định: Xây dựng cơ sở hạ tầng, trước
hết là đường giao thông, điện, nguồn nước cho sản xuất sinh hoạt, nhà ở, trường
học, bệnh viện, trung tâm văn hóa xã. Xóa đói giảm nghèo bằng cách giúp đồng bào
vốn, cách làm ăn, khắc phục kinh tế tự cấp tự túc, du canh du cư, ổn định sản xuất,
đời sống, phát triển kinh tế hàng hóa. Chăm lo giáo dục, y tế, văn hóa, nâng cao dân
trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân
83
tộc. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người
dân tộc thiểu số ở địa phương.
Ba là, Từ năm 1997 đến 2005, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vùng
dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã có nhiều đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào được cải thiện.
Công tác xóa đói giảm nghèo, công tác định canh định cư và kinh tế mới
đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được coi là những nhiệm vụ rất khó khăn, là
nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân tộc nên được Tỉnh ủy và các ban ngành liên
quan tập trung nhiều thời gian, công sức.
Bên cạnh sự đầu tư của Trung ương thông qua các chương trình, mục tiêu
quốc gia như chương trình 135, chương trình 134, chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu số
đặc biệt khó khăn, chính sách trợ cước, trợ giá, các chương trình về y tế, văn hóa,
giáo dục... các ngành, các cấp trong tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn
của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn của các ngành ưu tiên cho đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, cử cán bộ có năng lực, trình độ kỹ thuật về cơ
sở để hướng dẫn đồng bào áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền,
vận động đồng bào phát huy nội lực vươn lên xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời
sống mới ở khu dân cư.
Với các chủ trương đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Thái Nguyên bước đầu đã có nhiều khởi sắc:
hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được củng cố và tăng cường, cơ sở hạ tầng
(điện, đường, trường, trạm) được đầu tư xây dựng với giá trị lớn tạo đà cho kinh tế-
xã hội miền núi phát triển. Từ năm 1999 đến năm 2005, tổng số công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng thuộc chương trình 135 đã xây dựng được 98 công trình, trong
đó có 28 công trình phục vụ giao thông, 8 công trình thủy lợi, 5 công trình điện, 53
trường học, 5 công trình y tế với tổng số vốn đầu tư là 18.000 triệu đồng [50].
84
Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng.
Mạng lưới y tế cơ sở được quan tâm củng cố.
Công tác giáo dục đào tạo được tăng cường. Phát triển mạnh mạng lưới các
trường dạy nghề ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách cử tuyển, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ dân tộc... luôn được tỉnh ủy, các cấp, các ngành liên quan quan
tâm.Trường dân tộc nội trú của tỉnh hàng năm tuyển sinh con em các dân tộc thiểu
số vào học nhằm tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho tỉnh. Ngoài ra, hàng năm tỉnh luôn
làm tốt công tác cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng đối với học sinh người
dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp trung học phổ thông.
Các hoạt động văn hóa thông tin, đưa sách báo về tận thôn bản, hướng dẫn
cho đồng bào phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân
tộc được tiến hành thường xuyên. Các chương trình phát thanh, truyền hình bằng
tiếng dân tộc thiểu số được duy trì đều đặn, đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần của
đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi.
Hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được củng cố,
kiện toàn và nâng cao chất lượng. Công tác phát triển Đảng, nhất là Đảng viên
người dân tộc thiểu số được quan tâm. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo
cán bộ là người dân tộc thiểu số, kịp thời bổ sung, luân chuyển cán bộ có năng lực,
phẩm chất tốt, tâm huyết với đồng bào đến công tác ở vùng dân tộc thiểu số, miền
núi, nhất là những vùng trọng điểm về chính trị, an ninh- quốc phòng. Tỉnh ủy có
chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ công tác ở vùng dân tộc đặc biệt khó
khăn.
Chính sách dân tộc của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống đồng bào các dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Điều này được minh chứng rõ hơn bằng
kết quả của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 2004: Hội đồng nhân dân
cấp xã có 28,40% đại biểu người dân tộc thiểu số, Hội đồng nhân dân cấp huyện có
85
32,84% đại biểu người dân tộc thiểu số, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có 28,36% đại
biểu người dân tộc thiểu số [39].
Bốn là, Thông qua thực hiện chính sách dân tộc của Đảng góp phần củng
cố, tăng cường ổn định tình hình an ninh, quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.
Công tác an ninh, quốc phòng có quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế, xã
hội. Thực tiễn ở Thái Nguyên cho thấy, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có tác động rất lớn đến lĩnh vực
quốc phòng, an ninh. Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số phần lớn là ở
vùng núi, nơi có vị trí quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Tuy nhiên, tại vùng này do trình độ dân trí thấp, giao thông đi lại khó khăn... nên
các tệ nạn xã hội, phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại, việc truyền đạo trái phép
vẫn diễn ra (nhất là vùng đồng bào dân tộc Hmông), vấn đề đào đãi vàng, khai thác
quặng trái phép, nạn “lâm tặc” vẫn là những vấn đề nhức nhối.
Trước thực trạng trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân
tỉnh Thái Nguyên đã tập trung chỉ đạo, các ban ngành, đoàn thể, các lực lượng vũ
trang đứng trên địa bàn tỉnh, chủ động phối hợp, tổ chức tuyên truyền cho đồng bào
hiểu rõ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là
chính sách dân tộc, tôn giáo. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Phát hiện và ngăn chặn kịp
thời việc truyền đạo trái phép, các vụ việc gây mất đoàn kết, các tệ nạn xã hội, các
vụ chặt phá rừng, buôn bán lâm sản, đào đãi vàng, khai thác quặng trái phép...
Tuyên truyền, giáo dục đồng bào nêu cao tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện,
đấu tranh đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Đồng thời, xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ, lực lượng công an và an ninh nhân dân tại chỗ vững mạnh, là công
cụ sắc bén bảo vệ chính quyền cơ sở.
86
Với những chủ trương, biện pháp trên, tình hình an ninh, quốc phòng trên
địa bàn tỉnh được giữ vững. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc
được đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng, góp phần vào ổn định an ninh chính
trị, phát triển kinh tế trên địa bàn; đồng bào các dân tộc xác định rõ trách nhiệm
công dân đối với Tổ quốc, luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng được phát
huy để giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, để phấn đấu bài trừ hủ tục,
đẩy lùi các tệ nạn xã hội (nghiện hút, cờ bạc, truyền đạo trái phép...) có hiệu quả.
Phát huy những thành quả đạt được trong công tác giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các cấp ủy Đảng, các ban
ngành đã quan tâm thực hiện một số giải pháp như: tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng (đường giao thông, thủy lợi, nước sạch sinh hoạt, điện thắp sáng cho vùng
đồng bào...) để đồng bào yên tâm ổn định cuộc sống lâu dài; tích cực tuyên truyền
bằng nhiều hình thức các chủ trương chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cho
đồng bào hiểu và thực hiện; tăng cường hơn nữa công tác an ninh vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, thường xuyên có mặt tại địa bàn nắm rõ tình hình và tâm tư
nguyện vọng của đồng bào, kịp thời đề xuất biện pháp giải quyết những vấn đề bức
xúc của đồng bào; chú trọng công tác đào tạo cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số,
bổ sung thành phần đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là người dân tộc thiểu số,
tăng cường công tác phát triển Đảng tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số,...
Qua đó nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Với những chủ trương, chính sách sát đúng của Đảng và
Nhà nước, việc chỉ đạo sát sao, thực hiện tích cực của các ngành, các cấp, trong thời
gian tới các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục đi
nhanh vào đời sống của các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đem lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho từng xóm bản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
87
3.1.2. Hạn chế
Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, tỉnh Thái Nguyên
còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định:
Thứ nhất, Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nói
chung cũng như trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc nói riêng,
Đảng bộ tỉnh chưa phát huy hết những tiềm năng thế mạnh của tỉnh nhằm biến
tiềm năng trở thành động lực để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế- xã hội của
tỉnh Thái Nguyên nói chung cũng như trong việc thực thi chính sách dân tộc của
Đảng nói riêng.
Có thể nói hầu hết tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Thái Nguyên tập trung ở
vùng miền núi dân tộc. Trong đó bao gồm tài nguyên chính như:
Tài nguyên đất đai: tài nguyên đất nông- lâm nghiệp; tài nguyên rừng.
Tài nguyên khoáng sản: Hiện có 34 loại khoáng sản quý được phân bố ở
hầu hết các vùng núi, vùng cao của tỉnh.
Tài nguyên du lịch: đa dạng, phong phú như Hồ Núi Cốc, suối nước nóng,
nước khoáng La Hiên, suối Mỏ Gà, hang Phượng Hoàng, và các động vật quý hiếm
trong vùng rừng đặc dụng thuộc huyện Võ Nhai
Các tài nguyên nhân văn: gồm có hàng chục di tích lịch sử, cách mạng như:
các di tích lịch sử an toàn khu Định Hóa, căn cứ địa Võ Nhai, các công trình kiến
trúc, các phong tục tập quán của các dân tộc, các lễ hội truyền thống của các địa
phương trong vùng…
Bên cạnh đó, Thái Nguyên còn là nơi hội tụ nền văn hóa của các dân tộc
miền núi phía Bắc, là đầu mối các hoạt động văn hóa của vùng Việt Bắc; là nơi tập
trung nhiều trường đại học; nhiều trung tâm công nghiệp công nghệ cao.
Đây là những thế mạnh của tỉnh, không chỉ góp phần vào nâng cao, cải
thiện đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh mà còn góp phần vào sự phát triển
88
chung của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo
thực hiện phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nói chung, chính sách dân tộc của Đảng
nói riêng, những tiềm năng thế mạnh này chưa được khai thác phát huy mạnh mẽ tại
địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế này thuộc trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo của các cơ quan ban ngành của tỉnh như Ban chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, các cấp ủy Đảng, các cơ quan chuyên trách. Việc nhận thức và vận dụng đường
lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng chưa thể hiện hết sự sáng tạo, còn có tư tưởng thụ
động, chờ đợi chỉ đạo của Trung ương và nhất là thiếu những hình thức, bước đi và
biện pháp phù hợp để phát huy nội lực, phát huy trí tuệ của cán bộ, Đảng viên và
sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, Sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng, công tác điều hành của bộ
máy chính quyền trên một số lĩnh vực thiếu kiên quyết, không dứt điểm, còn để kéo
dài.
Việc tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội nói chung và
phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng còn chưa đồng
bộ, thiếu tập trung, chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, hướng ưu tiên đầu tư
vào những khâu đột phá để tập trung lực lượng làm chuyển biến tình hình. Cơ chế
còn trồng chéo, thiếu nhất quán, chính sách nhiều nhưng dàn trải, hiệu quả đạt được
chưa cao. Nhận thức của một số ngành, một số cán bộ, Đảng viên về chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước chưa sâu sắc, chưa toàn diện. Việc cụ thể hóa các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc ở một số nơi chưa kịp thời, thiếu tính nhạy
bén. Chưa khơi dậy mạnh mẽ ý chí tự lực, tự cường vươn lên của đồng bào các dân
tộc thiểu số nhằm phát huy sức mạnh nội lực trong việc thực hiện các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
89
Thứ ba, Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, có
nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các chương trình dự
án đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư vào tỉnh Thái Nguyên, còn
thiếu những cơ cấu và chủ thể rõ ràng chịu trách nhiệm trong thực thi các chương
trình, dự án.
Nguyên nhân của hạn chế này là do trong quá trình thực hiện chính sách
dân tộc thông qua các chương trình, dự án, Ban chỉ đạo tỉnh, huyện có nhiều biến
động do công tác tổ chức, đôi khi việc kiện toàn chưa kịp thời làm ảnh hưởng phần
nào đến hoạt động chỉ đạo thường xuyên. Ban chỉ đạo chưa mạnh dạn phân cấp,
phân quyền và giao trách nhiệm cụ thể cho chủ đầu tư nhất là ở cấp xã; trình độ
chuyên môn của các cán bộ, nhất là cán bộ cấp xã được phân công chưa đáp ứng
được yêu cầu của công việc. Do đó, việc huy động nội lực trong nhân dân, khai thác
các tiềm năng và giám sát thực hiện còn nhiều hạn chế.
Để các chương trình, dự án thực hiện có hiệu quả tại địa phương, một trong
những yêu cầu đặt ra đó là cần phải mạnh dạn phân cấp, phân quyền làm chủ đầu tư
gắn liền với cơ chế chính sách đồng bộ và phù hợp. Đồng thời, tăng cường phân
quyền, phân cấp quản lý đầu tư phải gắn liền với việc giao trách nhiệm cho các cơ
quan chuyên môn các cấp giúp đỡ chủ đầu tư nhằm nâng cao năng lực quản lý, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ. Phải cụ thể hóa chính sách, tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát giúp đỡ kịp thời chủ đầu tư thực hiện tốt nhiêm vụ và từng bước nâng cao
năng lực về mọi mặt.
Thứ tư, Một số nội dung chính sách dân tộc khi áp dụng vào vùng dân tộc
thiểu số, đặc biệt khó khăn chưa thực sự phù hợp với thực tế và đặc thù từng dân tộc
ở Thái Nguyên.
90
Chính vì vậy, chưa huy động được rộng rãi các nguồn nguồn lực cũng như
sự đóng góp trong nhân dân, các thành phần kinh tế, chưa thu hút được sự hỗ trợ
của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài tỉnh.
Cụ thể:
Quyết định 134/ TTg về hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở, nhà ở và nước sinh
hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn là chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước phù hợp với nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số
và được toàn dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số
hạn chế như kinh phí Trung ương đầu tư cho chương trình eo hẹp. Riêng đối với
chính sách hỗ trợ đất: trong thực tế quỹ đất của địa phương không còn kể cả các
nông- lâm trường sau khi sắp xếp lại, mức hỗ trợ bằng tiền rất thấp (6 triệu đồng/
ha) so với giá đất thị trường (40- 50 triệu đồng/ ha đất lúa 1 vụ) nên các hộ nghèo
không có khả năng thêm tiền để mua đất.
Về chính sách cấp (không thu tiền) một số loại báo, tạp chí cho đồng bào
các dân tộc thiểu số, miền núi: Thực hiện Quyết định số 1637/QĐ- TTg ngày
31/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã cấp báo chí cho 3 trường Trung ương đóng
trên địa bàn tỉnh (Trường Dân tộc nội trú vùng cao Việt Bắc, Trường Thiếu sinh
quân quân đội, Trường Văn hóa I Bộ Công an), cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
huyện, Thư viện cấp tỉnh, huyện, Ban Tôn giáo cấp tỉnh, huyện, Trường tiểu học,
trung học cơ sở, các xã và thôn, xóm, bản.
Đây là một chính sách có ý nghĩa rất quan trọng, đã giúp cho đồng bào các
dân tộc, các em học sinh ở miền núi, vùng cao nắm được các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với công tác dân tộc, miền núi.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn một số hạn chế như: số lượng báo,
tạp chí được cấp một số nơi còn chưa đúng địa chỉ, chưa đủ số lượng. Việc cấp phát
91
báo, tạp chí chưa có xác nhận của nơi cấp báo và nhận báo, do vậy, rất khó khăn
trong việc quản lý số lượng báo, tạp chí đã cấp phát. Việc cấp phát còn chậm, chưa
kịp thời, chưa cấp phát trực tiếp đến từng đối tượng thụ hưởng.
Vì vậy, để thực hiện được các chương trình, dự án, các chủ trương, chính
sách có hiệu quả, bên cạnh sự cố gắng của địa phương, cần có sự điều chỉnh, giúp
đỡ của Trung ương trong quá trình thực hiện.
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU VỀ LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
Từ những thành tựu đã đạt được cũng như những khuyết điểm, yếu kém
trong việc lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ Thái Nguyên (1997-
2005), có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
3.2.1. Kết hợp chặt chẽ sự giúp đỡ của Trung ƣơng, tƣơng trợ của các
địa phƣơng khác, với tinh thần nỗ lực tự thân trong thực hiện chính sách dân
tộc
Chính sách dân tộc của Đảng, xét về mục tiêu thì không có gì khác ngoài
yêu cầu khai thác mọi tiềm năng của đất nước phục vụ nhân dân, cải thiện, nâng cao
đời sống con người, giải phóng đồng bào các dân tộc thoát khỏi cảnh nghèo khó,
đói rét, bệnh tật, lạc hậu, thực hiện được trong thực tế quyền bình đẳng giữa các dân
tộc thiểu số và đa số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Chính vì vậy, tập trung sức đầu tư phát triển chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, gian
khổ, hết sức phức tạp. Việc xác định được con đường, biện pháp, hình thức, bước đi
thích hợp đối với từng vùng dân tộc là hết sức cần thiết. Cần hết sức tránh tư tưởng
chủ quan, nóng vội, duy ý chí, tất nhiên cũng không thể trì trệ, kéo dài.
92
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính
sách đúng đắn, làm thay đổi bộ mặt vùng miền núi dân tộc, trong đó có các chương
trình quan trọng như: Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Quyết định 135,138), Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản
xuất, đất ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn...
Đảng và Nhà nước cũng luôn tạo điều kiện quan tâm, giúp đỡ các dân tộc
thiểu số để các dân tộc thấy được vị trí, vai trò của mình trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam, làm cho đồng bào hiểu nhiều hơn về Đảng, gắn bó tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, đường lối, chính sách nói chung và đường lối, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước nói riêng là xuất phát từ tình hình chung và thực hiện
trên phạm vi cả nước. Vì thế, các địa phương phải quán triệt quan điểm, đường lối
chính sách chung nhưng không thể rập khuôn máy móc chủ trương, biện pháp
chung mà phải cụ thể hóa thành chủ trương, biện pháp riêng phù hợp với địa
phương, từng vùng, từng dân tộc, trong mỗi thời điểm. Nhiệm vụ thường xuyên và
quan trọng của các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận ở địa phương là phải hiểu rõ
các điều kiện tự nhiên, xã hội, lối sống, sinh hoạt văn hóa của từng dân tộc. Có như
vậy mới đề ra và tự giác thực hiện tốt những chủ trương, chính sách, biện pháp về
vấn đề dân tộc, tránh được chủ quan, duy ý chí, rập khuôn, áp đặt máy móc những
hình thức tổ chức và cách làm không phù hợp với tình hình đặc điểm các vùng dân
tộc.
Những yếu kém, hạn chế của công tác dân tộc trong những năm đổi mới và
hiện nay ở tỉnh Thái Nguyên có nhiều nguyên nhân, trong đó phổ biến là chưa
nghiên cứu sâu sắc, nắm vững tình hình thực tế ở địa phương, chưa khai thác được
93
tiềm năng thế mạnh của vùng. Đặc biệt, Thái Nguyên có lợi thế lớn đó là nơi có 5
trường đại học đóng trên địa bàn. Nhưng hiện nay lợi thế này chưa được khai thác
có hiệu quả...
Trong những năm tới, để phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên
nói chung và vùng miền núi dân tộc nói riêng, tỉnh Thái Nguyên cần có chủ trương
khai thác, phát huy vai trò của các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn, đặc biệt là
trí tuệ của các nhà khoa học đang công tác tại các trường Đại học vào việc hoạch
định chính sách nói chung và chính sách dân tộc nói riêng, thực hiện chuyển giao
công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc tại chỗ,... phục vụ cho công tác dân tộc
ngày càng tốt hơn. Mặt khác, cần tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu
khoa học và có chính sách ưu đãi đội ngũ làm công tác khoa học ở miền núi, vùng
dân tộc thiểu số. Có chính sách ưu tiên, khuyến khích con em đồng bào các dân tộc
thiểu số vào học các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học sau đó trở
về quê hương công tác.... nhằm phát triển kinh tế, chống đói nghèo, xây dựng quê
hương Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp.
Bên cạnh sự giúp đỡ của Trung ương, sự nỗ lực tự thân trong thực hiện các
chính sách dân tộc, tỉnh Thái Nguyên cũng cần có sự tương trợ của các địa phương
khác trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh lân cận. Sự giúp đỡ của các địa phương về
kinh nghiệm, vốn, về khoa học công nghệ... đây là những nhân tố quan trọng giúp
nhân dân các dân tộc Thái Nguyên vượt lên đói nghèo, phát triển kinh tế- xã hội.
Như vậy, cần phải khẳng định, phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi và vùng
dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển
kinh tế quốc dân của cả nước, là trách nhiệm chung của cả nước, nhưng trước hết là
trách nhiệm của bản thân Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên. Nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên phải phát huy ý chí tự lực, tự
cường, chống tư tưởng ỷ lại, chờ đợi, khai thác và xây dựng miền núi, vùng dân tộc
94
thiểu số tỉnh Thái Nguyên vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc trong tỉnh
đồng thời vì lợi ích chung của nhân dân cả nước.
3.2.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị địa phƣơng nhất là ở
cấp cơ sở trong thực hiện chính sách dân tộc.
Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí quan trọng, là cơ quan lãnh đạo quần
chúng thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó,
hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc có vai trò to lớn trong việc thực hiện dân
chủ và quyền làm chủ của quần chúng, thực hiện chức năng điều hành và quản lý xã
hội, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của đồng bào để phát triển kinh tế- xã hội.
Do vậy, việc xây dựng củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của tỉnh Thái Nguyên trong thời gian vừa
qua.
Thực tiễn ở tỉnh Thái Nguyên cho thấy, muốn xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở vùng đồng bào dân tộc vững mạnh, phải củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát triển Đảng viên mới,
nâng cao trình độ văn hóa, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Trong công tác phát triển Đảng cần hướng vào các đối tượng trẻ tuổi, có
văn hóa, trưởng thành từ phong trào quần chúng. Tổ chức Đảng và Đảng viên phải
sâu sát thực tiễn, am hiểu tình hình thực tế của địa phương, hiểu rõ tâm tư, nguyện
vọng, yêu cầu của quần chúng nhân dân, biết xác định trọng tâm lãnh đạo, trọng tâm
công tác trong từng thời điểm thích hợp.
Xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng ở vùng dân tộc vững mạnh, phát huy vai trò của phụ nữ, đoàn viên thanh
niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh... trong việc phát động các phong trào giúp
nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh Tổ quốc...
Xây dựng tổ chức chính quyền cơ sở vùng dân tộc vững mạnh, thực sự là của dân,
95
do dân, vì dân, vươn lên đảm nhiệm công tác quản lý mọi mặt hoạt động của địa
phương, giúp nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tổ chức chính
quyền và cán bộ chính quyền vùng dân tộc cần phải được bồi dưỡng, đào tạo và tự
mình phải học tập, rèn luyện, có đủ năng lực, phẩm chất để hoàn thành nhiệm vụ,
được nhân dân tin tưởng. Mỗi cán bộ cần có trình độ nhất định về khoa học- kỹ
thuật, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, biết lãnh đạo, quản lý, điều hành, định
hướng cho đồng bào phát triển kinh tế- xã hội đúng hướng, biết cụ thể hóa và lãnh
đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ở địa phương.
Quan tâm đến dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở, thực hiện trong thực tế quyền lực của nhân dân bằng những cơ chế được cụ
thể hóa rõ ràng, khắc phục các vi phạm quy chế dân chủ, sống xa dân, quan liêu,
mệnh lệnh với dân. Đây là điều kiện rất cần thiết để nhân dân tích cực, chủ động
tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Làm tốt công tác cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội. Do vậy, yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc là yêu cầu vừa cấp
bách, vừa cơ bản lâu dài. Đây là nội dung lớn của chính sách dân tộc, là vấn đề then
chốt để thực hiện chính sách dân tộc ở địa phương. Phải chăm lo đào tạo cán bộ dân
tộc cho tất cả các lĩnh vực, xây dựng cốt cán trung thành, vững vàng về chính trị, có
phẩm chất năng lực thật sự, có uy tín lãnh đạo quần chúng. Công tác cán bộ dân tộc
có nhiều khó khăn phức tạp, do đó, phải có quy hoạch, tạo nguồn, có chế độ, hình
thức đào tạo thích hợp, có quy chế tuyển sinh thích hợp với từng dân tộc, quản lý và
sử dụng tốt số cán bộ đã có và phải chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở vì đội
ngũ đó gắn liền với quần chúng.
96
Tại Thái Nguyên, công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ là người
dân tộc thiểu số được các cấp ủy Đảng rất quan tâm. Về số lượng cán bộ ở từng dân
tộc thì hướng phát triển là theo tỷ lệ tương ứng với số dân và tương ứng với địa bàn
phân bố dân cư của từng dân tộc. Ưu tiên bổ sung cho đội ngũ cán bộ ở địa phương.
Để có đội ngũ cán bộ có chất lượng đủ năng lực đảm đương chức phận của mình,
nhất thiết phải thông qua đào tạo từ cơ bản rồi đi vào chuyên ngành. Có quy hoạch
tổng thể trong khâu đào tạo, chú ý đào tạo những nghề cần thiết cho việc khai thác
tiềm năng, thế mạnh, cho sự phát triển bền vững của địa phương và của tộc người.
Nhà nước thực hiện chế độ ưu tiên trong quá trình đào tạo. Sau khi được đào tạo,
bồi dưỡng, Tỉnh ủy bố trí sử dụng cán bộ dân tộc phù hợp để phát huy được vai trò,
tác dụng tích cực của họ, thường xuyên giúp đỡ để họ xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân. Đối với cán bộ người dân tộc Kinh hiện đang hoạt động ở cơ sở ngwời
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa do tình hình địa phương chưa có đủ cán bộ, thì
Nhà nước và địa phương có chế độ đãi ngộ thích hợp, coi đó là sự động viên để họ
an tâm và đóng góp sức lực vào công việc hoạt động tại cơ sở.
Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên không ngừng chăm lo
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc. Chính vì vậy, hệ thống
chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc từng bước được củng cố, kiện toàn. Các tổ
chức Đảng không ngừng được củng cố, trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt chức
năng lãnh đạo của mình, đội ngũ Đảng viên vùng dân tộc được phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Chính quyền vững mạnh, cụ thể hóa được chủ trương của cấp
ủy, hiệu lực điều hành, quản lý của chính quyền cơ sở có sự chuyển biến. Hệ thống
tổ chức của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng luôn được củng cố, ngày
càng vững mạnh, xây dựng. Bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng
từng bước được phát huy tác dụng lãnh đạo, quản lý, điều hành, vận động đồng bào
97
phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an toàn trật tự an ninh xã hội, thực hiện tốt các
chính sách xã hội ở địa phương.
3.2.3. Phải xác định đƣợc trọng tâm, trọng điểm để đầu tƣ các nguồn
lực, tạo ra các bƣớc phát triển đột phá
Các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên trừ một bộ phận sống ở khu vực
thành phố, trung du, còn phần lớn sinh sống ở miền núi, nơi có nhiều tiềm lực kinh
tế to lớn, nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng bao gồm đất, rừng, khoáng sản, cây
công nghiệp, cây đặc sản, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử. Tuy nhiên, trình
độ phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng này còn chậm, kinh tế hàng hóa ít phát triển,
kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc còn chiếm tỷ trọng lớn. Công tác định canh định cư
tuy đạt một số thành tựu nhưng hiệu quả thấp và chưa vững chắc. Đời sống của đại
bộ phận dân cư vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, tỷ lệ mù chữ và thất học
còn cao.
Để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước thu hẹp sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc thiểu số với đa
số, giữa miền núi với miền xuôi nhất thiết phải phát triển toàn diện cả kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, xã
hội gắn với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, quan tâm đúng mức đến
việc cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của từng dân tộc.
Xuất phát từ những kinh nghiệm, khả năng và điều kiện vốn có của các dân
tộc thiểu số, miền núi ở tỉnh Thái Nguyên, trong những năm trước mắt cũng như lâu
dài các ngành nông, lâm nghiệp cần phát triển mạnh, trên quy mô lớn. Hiện nay
nghề rừng chưa đủ điều kiện phát triển trên quy mô lớn, theo hướng thâm canh,
chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp. Nhưng trước mắt có thể đầu tư, cải tạo, tu
bổ diện tích rừng trồng đảm bảo khai thác cho nhu cầu nguyên liệu, nhu cầu đời
sống và một phần xuất khẩu. Mở rộng việc giao đất, giao rừng cho hộ gia đình tự
98
chủ kinh doanh, đặc biệt là đất trống, đồi trọc không hạn chế về diện tích. Bên cạnh
đó, tỉnh cần tăng cường gọi vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận
lợi cho các hộ gia đình trong việc kinh doanh nghề rừng.
Các cây công nghiệp dài ngày như cây chè cần được đầu tư phát triển trên
quy mô lớn, tạo ra hàng hóa mũi nhọn phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là xuất
khẩu. Một số cây đặc sản cũng cần được quan tâm phát triển mạnh như cam, quýt,
hồng... Chăn nuôi đại gia súc như trâu, bò để lấy thịt, lấy sữa cung cấp cho nhu cầu
trong và ngoài tỉnh cũng cần được chú ý. Hiện nay, Thái Nguyên đã và đang tiếp
tục mở rộng diện tích trồng chè và các loại cây đặc sản mũi nhọn nhằm đạt mục tiêu
phủ xanh đất trống đồi trọc, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân các dân tộc
trong tỉnh.
Bên cạnh việc phát triển công nghiệp chế biến phục vụ cho việc phát triển
sản xuất hàng hóa của các ngành nông, lâm nghiệp, trong thời gian tới, cần đẩy
mạnh các ngành công nghiệp khai thác khoáng sản nhất là than đá, vật liệu xây
dựng, ... để giải quyết nhu cầu nguyên liệu và năng lượng, một phần phục vụ xuất
khẩu.
Một mặt, xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nông- lâm- công nghiệp, phá
thế sản xuất tự cung tự cấp. Mặt khác, cần mở rộng hợp tác liên doanh với các vùng
trong tỉnh và trong toàn quốc, đặc biệt đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là
Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng để mở
rộng giao lưu hàng hóa, tăng tích lũy để tái mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống
cho nhân dân trong tỉnh. Đồng thời, phân công lại lao động căn cứ trên thế mạnh về
các mặt tự nhiên, xã hội, con người trong từng vùng của tỉnh. Phải kết hợp các yếu
tố kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật theo một chiến lược đúng đắn, một quy hoạch
hợp lý để khai thác, phát huy tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Ngoài ngân sách của
Trung ương, hết sức coi trọng huy động vốn trong nhân dân. Bằng hình thức kết
99
nghĩa giữa tỉnh với tỉnh, có thể gọi vốn đầu tư của các tỉnh bạn, tranh thủ nhiều
nguồn vốn đầu tư khác có thể khai thác để phát huy thế mạnh của tỉnh nhanh hơn.
Vốn đầu tư tập trung vào các khâu then chốt như giao thông, thông tin liên lạc, điện,
nguồn nước cho sản xuất và đời sống. Xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với bảo vệ và
phát triển kinh tế- xã hội. Đầu tư và phát triển kinh tế, xã hội miền núi dân tộc cần
phát huy tính năng động, sáng tạo của đồng bào, tạo thuận lợi để nhân dân vươn lên
khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, chuyển sang kinh doanh có hiệu quả trên chính
vùng đất của mình.
Để thực hiện những chủ trương đó, trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên
đã thực hiện một số chương trình, dự án, một trong những chương trình thực hiện
có hiệu quả đó là chương trình định canh định cư và kinh tế mới.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và
sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, công tác định canh định cư và kinh tế
mới có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp thực hiện, nguồn vốn đầu tư
đúng đối tượng, đúng mục đích và đem lại hiệu quả nhiều mặt. Xây dựng được
nhiều công trình phúc lợi công cộng phục vụ sản xuất và đời sống đồng bào các dân
tộc ở các bản làng vùng sâu, vùng xa như: xây dựng các công trình đường giao
thông, các công trình thủy lợi, các công trình phúc lợi khác như lớp học, trạm xá,
nhà văn hóa... Điều quan trọng là xây dựng được cơ chế chính sách đầu tư thích hợp
hỗ trợ các hộ nghèo về đời sống sản xuất trong vùng dự án, như hỗ trợ làm nhà ở,
khai hoang, trồng cây lương thực, chăn nuôi đại gia súc, làm chuồng trại, hỗ trợ đất
đai sản xuất, giống cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chế biến nông sản,... theo
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, xóa bỏ dần sản xuất tự
cấp tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa.
Ngoài ra tỉnh Thái Nguyên còn thực hiện một số chương trình quốc gia như
chương trình 135, chương trình 134,... Các chương trình, dự án đã góp phần xây
100
dựng cơ sở vật chất ở nông thôn miền núi, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi,
thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng lực thực hiện chính sách cho cán bộ
và nhân dân ở vùng dân tộc và miền núi, góp phần bảo vệ rừng và môi trường sinh
thái, xóa đói giảm nghèo xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, củng cố tình đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc và giữ gìn an ninh trật tự an
toàn xã hội.
3.2.4. Mỗi tổ chức Đảng và Đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phƣơng
châm hƣớng về cơ sở, hƣớng về cộng đồng dân cƣ trong quá trình thực hiện
chính sách dân tộc
Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là thể hiện bản chất
của Nhà nước ta, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động các dân tộc, nó
cũng đáp ứng công cuộc cải tổ, đổi mới hiện nay. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động ở vùng dân tộc thực chất là nhằm bảo đảm quyền tự quyết, quyền bình
đẳng của các dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng và Nhà nước là những cơ quan đề ra chủ trương, chính sách nhằm
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân nói chung và cho
đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng; các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện, xã,
thôn, bản là đơn vị tổ chức thực hiện. Đồng bào các dân tộc thiểu số là những người
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
cũng là người trực tiếp được thụ hưởng những lợi ích mang lại từ chủ trương, chính
sách đó.
Xóm, thôn, bản là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, nơi thực hiện dân
chủ trực tiếp và rộng rãi các công việc trong nội bộ của cộng đồng dân cư nhằm
thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Bảo đảm đoàn kết,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng và giữ gìn vệ sinh môi trường, xây dựng
101
đời sống văn hóa. Bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp và thuần phong, mỹ tục
của quê hương, đất nước. Xóm, thôn, bản là nơi tập trung nhiều thành phần dân cư
khác nhau, mang tính chất xã hội sâu sắc, là nơi cung cấp sức người, sức của cho
toàn xã hội. Đây cũng là nơi chứa đựng và giải quyết các mối quan hệ xã hội như
mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước thông qua chính quyền cơ sở, quan hệ
giữa dân với Đảng thông qua Đảng viên, chi bộ, Đảng bộ cơ sở; Là nơi trực tiếp
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Là nơi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Như vậy, mấu chốt thực hiện chính sách
dân tộc là ở cơ sở, ở mỗi làng, bản. Ở vùng dân tộc, cộng đồng dân cư, đặc biệt là
làng, bản có vai trò rất lớn trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc.
Nhận thức được điều này, các cán bộ làm công tác dân tộc phải thấm nhuần
phương châm hướng về cơ sở, mọi chủ trương, chính sách đều hướng về đồng bào,
phục vụ lợi ích, nhu cầu của đồng bào. Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế-
xã hội vùng dân tộc, các cán bộ làm công tác dân tộc trước hết phải là những người
thực sự có tâm, có trách nhiệm đối với Đảng, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, bên
cạnh đó, phải là người có tài, có đức, phải kiên trì, bền bỉ trong việc giáo dục, giác
ngộ quần chúng. Phải thật sự lấy dân làm gốc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào phát triển kinh tế gia đình. Phải
nắm được và tuyên truyền những cách làm hay, kinh nghiệm quý, vận động nhân
dân làm theo là một biện pháp rất quan trọng trong quá trình tổ chức vận động quần
chúng. Phải tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực
hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Có chính sách động
viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong
đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.
102
Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,
vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng
địa phương… Thực hiện tốt phong cách công tác dân vận: “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, có trách nhiệm với dân”. Thực hiện tốt “bốn cùng” và “ba trực tiếp”
với dân, đó là: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc với dân” và “trực
tiếp đến nhà dân, trực tiếp nghe dân nói và nói cho dân nghe, trực tiếp làm cho dân
tin và hướng dẫn dân cùng làm”. Công tác tuyên truyền vận động đi đôi với việc
làm cụ thể, thiết thực. Đồng bào dân tộc vốn rất trọng chữ “tín”. Vì vậy, cán bộ,
Đảng viên, nhất là cán bộ Đảng viên ở cơ sở phải gương mẫu, nói ít, làm nhiều thì
dân mới tin. Có như vậy mới làm tốt được công tác vận động quần chúng.
3.2.5. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số
trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn cơ sở
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, để phát huy vai trò chủ thể của mình
trong việc thực hiện chính sách dân tộc cần chú ý:
Trong quá trình cụ thể hóa chính sách dân tộc thông qua các chương trình,
dự án, cần quan tâm đến điều kiện kinh tế- xã hội đa dạng của từng vùng dân tộc,
cần tính đến yếu tố đặc thù của từng dân tộc để có những hình thức bước đi và giải
pháp hiệu quả, phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm phát huy vai trò chủ động,
tích cực, làm chủ của đồng bào các dân tộc.
Như vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số để làm căn cứ cho việc đầu tư phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương. Bên
cạnh đó, phải tăng cường nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội các vùng,
các dân tộc để cụ thể hóa các chính sách sao cho phù hợp với thực tế địa phương.
103
Cấp ủy, các cơ quan chuyên môn cần tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc
tham gia vào tất cả các quá trình từ thu thập thông tin cho việc hoạch định chính
sách đến việc tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá, thẩm định hiệu quả việc thực
hiện chính sách dân tộc và được hưởng lợi từ chính sách, nhất là đối với việc triển
khai thực hiện các dự án.
Cần phải xác định rằng, chủ thể thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta chính là đồng bào các dân tộc. Sự giúp đỡ của
Đảng và Nhà nước là cần thiết để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa
các dân tộc. Tuy nhiên, đó chỉ là sự giúp đỡ về nguồn lực, kỹ thuật, các yếu tố vật
chất và tinh thần. Còn chủ thể đích thực của quá trình đó là đồng bào các dân tộc.
Họ phải tự mình vươn lên, rút ngắn khoảng cách phát triển với các dân tộc khác.
Thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú để tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng cho quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở
vùng sâu, vùng xa; bồi dưỡng, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khắc phục tư
tưởng ỷ lại vào Nhà nước, vào xã hội; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khai thác
đến mức cao nhất mọi tiềm năng thế mạnh của nhân dân.
Bằng các phương pháp tuyên truyền, giúp đỡ đồng bào các dân tộc nhận
thức và hành động đúng rằng: muốn tiến bộ, muốn phát triển, muốn xóa bỏ mọi
cách biệt giữa các dân tộc, bên cạnh sự giúp đỡ quý báu to lớn của Đảng, Nhà nước
và đồng bào cả nước, việc phát huy nội lực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, ý chí
tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển sản xuất, xóa đói
giảm nghèo, củng cố hệ thống chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… là yếu tố
rất quan trọng.
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua luôn xác định các chương
trình đầu tư phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số khi triển khai
thực hiện nhất thiết cần phải có được sự hưởng ứng của nhân dân, đảm bảo quy chế
104
dân chủ ở cơ sở, người dân được quyết định, kiểm tra, giám sát đối với các chương
trình có liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Việc lựa chọn đầu tư xây dựng các
công trình phải do nhân dân công khai bàn bạc và thông qua Hội đồng nhân dân
quyết định. Kinh nghiệm cho thấy, dự án nào nhân dân được tham gia bàn bạc ngay
từ đầu thì sẽ huy động nguồn lực được tốt hơn, củng cố được sự tin tưởng và lòng
nhiệt tình hưởng ứng của người dân vào chính sách đầu tư của Đảng và Nhà nước,
đây là một tác nhân quan trọng cho sự thành công của các chương trình, dự án.
105
KẾT LUẬN
Trong hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã đề ra đường lối
chính sách dân tộc đúng đắn và được thực hiện nhất quán qua mọi thời kỳ cách
mạng, với nguyên tắc cơ bản: thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc. Chính vì vậy, Đảng đã thu hút, tập hợp đông đảo đồng bào các dân tộc Việt
Nam, tạo thành sức mạnh vô địch, vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành những
thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong công cuộc đổi
mới.
Trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến ngày càng phức tạp của
tình hình trong nước và thế giới, việc nhận thức và thực hiện đúng đắn chính sách
dân tộc ở nước ta nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng là một nhiệm vụ to
lớn, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân tộc, miền núi.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI, các ngành các cấp ở
tỉnh Thái Nguyên quan tâm nhiều hơn đến công tác dân tộc, miền núi. Đặc biệt, để
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về công tác dân tộc, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng
Chương trình hành động số 09- CTr/TU ngày 16/5/2003 nhằm đưa Nghị quyết của
Đảng vào thực tiễn địa phương.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp vừa cấp bách, vừa cơ bản
nhằm xây dựng toàn diện vùng dân tộc, trong đó trọng tâm là công tác xóa đói giảm
106
nghèo, công tác định canh định cư và kinh tế mới. Công tác xóa đói giảm nghèo,
nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được xác định là nhiệm vụ khó khăn
và nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân tộc nên được tập trung nhiều thời gian và
công sức. Bên cạnh sự đầu tư của Trung ương thông qua các chương trình mục tiêu
quốc gia như: Chương trình 135, Chương trình 134, chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu
số đặc biệt khó khăn, chính sách trợ cước, trợ giá, các chương trình về y tế, văn hóa,
giáo dục... các ngành, các cấp trong tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn
của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn của ngành ưu tiên cho đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, đến năm 2005 chương trình xóa đói giảm
nghèo đã phát huy hiệu quả tốt, đời sống của đồng bào cơ bản được cải thiện.
Được tiến hành song song với công tác xóa đói giảm nghèo là công tác định
canh định cư và kinh tế mới. Đây là chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và
Nhà nước. Kết quả thực hiện công tác định canh định cư đã góp phần tích cực vào
công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế- xã hội khu vực dân tộc và miền
núi, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn tỉnh.
Từ khi tái lập tỉnh (1997) đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh và thu được một số thành tựu. Sự
phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã có
những biến đổi đáng kể, làm cho nhiều vùng, nhiều điểm dân cư có những khởi sắc
trong việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hóa, nâng
cao trình độ văn hóa, xóa đói giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào các dân tộc được cải thiện từng bước, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được
vững chắc, vị trí của các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao trong đời sống
chính trị xã hội. Đồng thời, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trên địa bàn tỉnh
107
Thái Nguyên còn củng cố quốc phòng an ninh, đập tan mọi âm mưu và hành động
phá hoại của các thế lực thù địch, phản động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được là cơ bản, còn có những tồn tại,
yếu kém như: trình độ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số ở Thái
Nguyên chưa toàn diện và chưa vững chắc, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu
số ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn.
Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm được rút ra,
việc thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên trong thời gian tới cần chú ý: Phát
triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với đặc điểm của từng vùng, đảm bảo cho
đồng bào dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và đóng
góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Thực hiện chính sách ưu
tiên, đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và
trí thức cho các dân tộc thiểu số; Kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa,
khoa học của nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Có
chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng
và vùng kháng chiến cũ; Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,
giúp cho đời sống đồng bào ngày một tốt hơn.
Những thành tựu đạt được trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1997 đến 2005 chỉ là bước đầu nhưng có ý
nghĩa quan trọng về nhiều mặt. Một mặt, nó khẳng định tính đúng đắn, khách quan,
hợp quy luật, hợp lòng dân của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Mặt
khác, nó làm phong phú thêm những kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng tại địa phương, góp phần
108
phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu
số tỉnh Thái Nguyên.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng ở tỉnh Thái Nguyên không chỉ
đáp ứng lợi ích trước mắt của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên mà
còn góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội ở
khu vực, tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của cả nước.
109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ,
đảng viên cơ sở), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,
tập 1( 1936- 1965), Sơ thảo, xuất bản năm 2003.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,
tập 2(1965- 2000), Sơ thảo, xuất bản năm 2005.
4. C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập (1995), tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Chính sách và chế độ pháp lý đối
với đồng bào dân tộc và miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Cục thống kê Thái Nguyên (2002), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1997-
2001, Nxb Thống kê, Hà Nội.
7. Cục thống kê Thái Nguyên (2003), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên (1998-
2002), Nxb Thống kê.
8. Cục thống kê Thái Nguyên (2004), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên (1999-
2003), Nxb Thống kê.
9. Cục thống kê Thái Nguyên (2005), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2004,
Nxb Thống kê.
10. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số
nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay (Sách tham khảo), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
11. Phan Hữu Dật (Chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay( Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
110
12. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1991),Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ
VI.
24. Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ
VII.
111
25. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
lần thứ XV.
26. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI.
27. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVII.
28. Bế Viết Đẳng (Chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh
tế – xã hội ở miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia – Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
29. Trịnh Trúc Lâm ( Chủ biên)- Nguyễn Quận (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, Sở
Giáo dục& Đào tạo- Sở Khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh Thái Nguyên,
Thái Nguyên.
30. Hà Quế Lâm (2002), Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện
nay - thực trạng và giải pháp( sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
31. Nguyễn Quốc Phẩm- Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Nguyên (1997), Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế- xã hội đến năm 2010.
33. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo tổng
kết công tác định canh định cư và kinh tế mới giai đoạn 1990- 2004 tỉnh Thái
Nguyên.
34. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo tổng
kết chỉ thị 45 TW về một số công tác trong vùng dân tộc Hmông.
35. Trần Nam Sơn- Lê Hải Anh (2001), Những quy định về chính sách dân tộc, Nxb
Lao động, Hà Nội.
112
36. Phan Xuân Sơn- Lưu Văn Quảng (2006), Những vấn đề cơ bản về chính sách
dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
37. Nguyễn Xuân Thắng (2002), Đảng bộ Tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc thời kỳ 1992- 2000, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
38. Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã hội các xã miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên 1999 – 2003.
39. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2004), Báo cáo công tác dân vận 6 tháng đầu năm,
nhiệm vụ công tác dân vận 6 tháng cuối năm 2004.
40. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Báo cáo công tác dân vận năm 2004, nhiệm vụ
công tác dân vận năm 2005.
41. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2007), Báo cáo công tác dân tộc năm 2006.
42. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (2003), Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), số 09- CTr/ TU.
43. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (2005), Báo cáo hai năm triển khai, tổ chức thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương ( khoá IX) về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, số 140 – BC/
TU.
44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2004), Một số vấn đề cần biết về dân tộc
và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lao động, Hà Nội.
45. Trịnh Quốc Tuấn( Chủ biên) (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn
đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Ủy ban Dân tộc và miền núi (1997), Hệ thống các văn bản chính sách dân tộc
và miền núi, tập II về kinh tế- xã hội, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
113
47. Ủy ban Dân tộc và miền núi (1997), 50 năm công tác dân tộc (1946- 1996),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Ủy ban dân tộc và miền núi (2001), Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở
nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo hàng năm về kết quả thực hiện
nhiệm vụ kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005.
50. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo kết quả thực hiện công tác
dân tộc năm 2005 tỉnh Thái nguyên, Số 246/BC- BDT, Thái Nguyên.
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Sở Văn hóa Thông tin, Báo cáo tình
hình thực hiện chính sách dân tộc miền núi.
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1998), Dự án tổng quan phát triển kinh tế
xã hội vùng miền núi dân tộc, định canh định cư và kinh tế mới tỉnh Thái
Nguyên thời kỳ 1998- 2010.
53. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Quy hoạch phát triển Giáo dục-
Đào tạo tỉnh Thái Nguyên đến 2010.
54. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc tỉnh Thái Nguyên (1999-
2003).
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình hoạt động văn
hóa- thông tin phục vụ vùng núi, vùng đồng bào dân tộc tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 1998- 2003.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo đánh giá kết quả 5 năm
thực hiện các chương trình, dự án đầu tư đối với các xã đặc biệt khó khăn, An
toàn khu của ngành Y tế Thái Nguyên.
114
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo đánh giá kết quả ba năm
thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo- Việc làm giai đoạn 2001- 2005 tỉnh
Thái Nguyên.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo đánh giá tình hình phát
triển kinh tế- xã hội ở 3 khu vực vùng dân tộc, miền núi tỉnh Thái Nguyên, số
62/BC-UB.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện
chương trình 135 giai đoạn 1999- 2005.
60. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt
Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
61. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
115
Phụ lục 1: Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên
Nguồn: Sở khoa học và công nghệ tỉnh Thái Nguyên
100
Phụ lục 2 Dân số Thái Nguyên chia theo huyện và dân tộc năm 1999 STT Địa phương
Nùng
Việt
Tày
Dao Hmông Hoa Mường Thái Ngái
Tổng dân số
Sán Dìu
Sán chay
Toàn tỉnh
1.045.906 789.903 106.238 54.628 37.365 29.229 21.818
4.831
969
465
422
Tỷ lệ %
100,00
75,23
10,15
5,22
3,57
2,79
2,08
0,46
0,09
0,04
0,04
2.57 3 0,24
211.451
190.369 10.403
4.924
3.446
474
437
118
256
461
315
86
1
TP Thái Nguyên TX
43.379
41.988
424
228
617
19
11
6
31
33
10
3
2
Sông Công H. Định Hóa
89.452
31.541
43.697
3.023
37
7.944
1.726
110
38
32
1
3
1.25 8 219
4 H. Đại Từ
161.661
124.662 13.569 10.789
2.713
5.781
3.594
10
120
26
110
5 H. Phú Lương
102.773
60.145
19.759
4.619
4.574
10.477
2.447
244
339
86
23
10
6 H. Võ Nhai
60.207
22.020
13.320 11.790
80
2.487
7.943
2.463
8
58
19
1
7 H. Đồng Hỷ
111.108
68.914
2.644
14.651 15.245 2.010
5.224
1.852
241
69
35
167
H. Phú Bình
135.434
126.701
1.653
4.228
2.492
56
24
196
22
20
3
13
8 9 H. Phổ Yên
130.441
120.563
769
376
8.161
380
4
25
15
84
2
31
Nguồn: Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số Trung ương, Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999 (kết quả điều tra toàn bộ), NXB Thống kê, H.2001.
101
Phụ lục 3: Tổng hợp tình hình kinh tế, đời sống vùng dân tộc và miền núi của tỉnh Thái Nguyên năm 2005
Đơn vị
Các chỉ tiêu về kinh tế, đời sống vùng dân tộc
ST
hành chính
T
Thu nhập bình
Số hộ không
Số hộ
Số hộ không
Số hộ
Tổng số
Số hộ
Tỷ lệ hộ
huyện
quân đầu người
có hoặc thiếu
không
có hoặc có
du canh
hộ toàn địa
nghèo
nghèo%
(triệu/người/năm
đất sản xuất
có đất ở
nhà ở tạm
du cư
phương
)
bợ
2699
253
0
254111
68227
26,68
Tổng số
4,43
3078
1 Đồng Hỷ
532
383
24
27365
7027
25,68
2
Phú Lương
632
513
42
25210
7943
31,51
3 Võ Nhai
541
310
47
13800
7237
52,44
4 Đại từ
524
516
54
39548
12592
31,84
5 Định Hóa
603
758
77
21757
9057
41,63
6
Phú Bình
110
94
3
31160
0777
31,38
7
Phổ Yên
118
106
3
31555
7537
23,89
8 TX. Sông Công
3
11
3
11188
2265
20,24
9 TP. Thái Nguyên
15
8
52528
4792
9,12
Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
102
Phụ lục 4: Tổng hợp một số chỉ tiêu về kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi tỉnh Thái Nguyên năm 2005
TT
Đơn vị huyện
Tổng
Các chỉ tiêu trong vùng dân tộc
số xã
% số
% số
Tỷ lệ
% số xã có
Số
% số xã
% số xã có
Tỷ lệ phủ sóng
Tỷ lệ hộ
xã có
xã có
hộ
đường ô tô
Trường
có trạm
chợ
%
có nước
điện
điện
dùng
đến trung
DTNT
y tế
sinh
Truyền
Phát
hoạt(%)
thoại
điện
tâm
hình
thanh
(%)
Tổng số
180
99,5
63,04
100
100
72,11
100
100
95,9
3
100
1 Đồng Hỷ
100
100
94,45
20
100
100
54,5
100
100
64
2 Phú Lương
100
100
96,82
16
100
100
59,5
100
100
66
3 Võ Nhai
100
100
83,57
15
1
100
100
53,3
100
100
51
4 Đại Từ
100
100
93,27
31
100
100
65,4
100
100
65
5 Định Hóa
100
100
95,79
24
1
100
100
49,7
100
100
52
6 Phú Bình
100
100
100
21
100
100
62
100
100
70
7 Phổ Yên
100
100
99
18
100
95
68
100
100
85
100
100
98
9
100
8 TX. Sông Công
100
70
100
100
97
100
100
100
1
100
9 TP. Thái Nguyên
26
100
85
100
100
99
Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
103
Phụ lục 5: Tình hình giáo dục vùng dân tộc và miền núi tỉnh TháI Nguyên năm học 2005- 2006
TT
Tên huyện
Trong đó
Tổng số học sinh đang đi học Tổng số
Mầm non
Tiểu học
Trong đó là người DTTS
Là người DTTS
Tổng số học sinh
Là người DTTS
Là người DTTS
Tổng số học sinh
Là người DTTS
Tổng số giáo viên
Trung học cơ sở Tổng số học sinh
Là người DTTS
Là người DTTS
Tổng số giáo viên 61.726 2.015
Tổng số giáo viên 5.191
Tổng số
210.867
504
33.096 9.303
1.298
86.972 26.092
4.920
1.230
90.799 26.332
Đồng Hỷ
24.150
7.183
232
3.810
1.181
601
150
10.334 3.100
510
10.006 2.902
128
58
1
Phú Lương
20.405
6.062
190
2.880
893
593
148
8.650
2.595
501
8.875
2.574
125
48
2
Võ Nhai
15.076
4.484
177
2.225
690
519
130
6.776
2.033
386
97
6.075
1.762
44
3
Đại Từ
34.243
10.176 315
5.495
1.703
783
196
13.526 4.058
833
15.222 4.414
208
79
4
Định Hóa
18.707
5.553
213
2.740
849
505
126
7.299
2.190
454
8.668
2.514
114
53
5
Phú Bình
28.509
8.173
232
5.223
1.306
626
157
11.468 3.440
610
11.818 3.427
153
58
6
Phổ Yên
27.411
7.896
215
4.219
1.055
646
162
11.541 3.462
573
11.651 3.379
143
54
7
7.336
2.110
86
1.128
282
195
49
2.777
833
196
49
3.431
995
22
8
35.030
10.090 355
5.376
1.344
723
181
14.601 4.380
857
214
15.053 4.365
89
9
TX. Sông Công TP. Thái Nguyên
Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.