ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - - - OO- - - HOÀNG THU THỦY ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2005

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số:

60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Bình Ban

Hà Nội- 2007

MỤC LỤC

Mở đầu ............................................................................................................... 3

Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân

tộc từ 1997 đến 2000 .......................................................................................... 9

1.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước 1997... 9

1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hưởng tới quá trình đề ra chủ trương và

thực thi chính sách dân tộc .................................................................................. 9

1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta và việc quán triệt thực hiện

chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước năm 1997 ................................. 17

1.2. Chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và sự chỉ

đạo thực hiện từ 1997 đến 2000 ........................................................................... 24

1.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với định hướng lãnh đạo thực hiện chính sách

dân tộc ................................................................................................................. 24

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc

từ 1997 đến 2000 ................................................................................................. 30

Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân

tộc từ 2001 đến 2005 .......................................................................................... 38

2.1. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI ảnh hưởng tới quá trình lãnh

đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ........................ 38

2.1.1. Thuận lợi ................................................................................................... 38

2.1.2. Khó khăn ................................................................................................... 40

2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo thực hiện chính

sách dân tộc từ 2001 đến 2005 ............................................................................. 42

2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vận dụng và cụ thể hóa chủ trương của Đảng

Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc ........................................................... 42

2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc

từ 2001 đến 2005 ................................................................................................. 48

1

Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính

sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005 ....................... 69

3.1. Thành tựu và hạn chế .................................................................................... 69

3.1.1. Thành tựu .................................................................................................. 69

3.1.2. Hạn chế...................................................................................................... 76

3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên .................................................................................. 80

3.2.1. Kết hợp chặt chẽ sự giúp đỡ của Trung ương, tương trợ của các địa

phương khác, với tinh thần nỗ lực tự thân trong thực hiện chính sách dân tộc...... 80

3.2.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị địa phương nhất là ở cấp cơ sở

trong thực hiện chính sách dân tộc ....................................................................... 82

3.2.3. Phải xác định được trọng tâm, trọng điểm để đầu tư các nguồn lực, tạo ra

các bước phát triển đột phá .................................................................................. 85

3.2.4. Mỗi tổ chức Đảng và Đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phương châm

hướng về cơ sở, hướng về cộng đồng dân cư trong quá trình thực hiện chính

sách dân tộc ......................................................................................................... 88

3.2.5. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong

việc thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn cơ sở ................................................ 90

Kết luận .............................................................................................................. 92

Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 95

Phụ lục ............................................................................................................... 100

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc từ lâu và hiện nay vẫn là một trong

những vấn đề phức tạp trên thế giới. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX và những

năm đầu của thế kỷ XXI, các biến cố trên thế giới đã nói lên vấn đề dân tộc vẫn là

vấn đề thời sự nóng bỏng của nhân loại. Do đó, việc tìm kiếm con đường giải quyết

vấn đề dân tộc luôn được các nhà chính trị và khoa học trên thế giới đặc biệt quan

tâm.

Ở Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đến nay, vấn đề dân

tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đường lối của Đảng ở các thời kỳ,

không chỉ nhằm phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị trước mắt, mà còn xuất phát từ

bản chất của cuộc cách mạng do con người và vì con người. Mức độ hiện thực hoá

chính sách dân tộc trong cuộc sống tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có năng

lực cụ thể hoá và tổ chức thực hiện của tổ chức Đảng và chính quyền từng địa ph-

ương. Do đó, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở từng địa phương

sẽ cho thấy tính lịch sử- cụ thể về quá trình chuyển tải chính sách dân tộc của Đảng

vào thực tiễn của mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ.

Thái Nguyên là một tỉnh có 8 dân tộc cư trú xen kẽ: Kinh, Tày, Nùng, Dao,

Sán Dìu, Sán Chay, Hmông, Hoa. Các dân tộc thiểu số chiếm 24,76% trong tổng số

dân cư toàn tỉnh. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm,

các dân tộc thiểu số đã gắn bó, đoàn kết cùng dân tộc Kinh, tạo thành một khối cộng

cư, cộng lợi, cộng cảm và cộng mệnh, với sự thống nhất trong đa dạng về văn hoá

tộc người. Với đặc điểm kết cấu dân cư nêu trên, việc lãnh đạo thực hiện chính sách

dân tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chức năng lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên ở các thời kỳ lịch sử. Thực hiện tốt chính sách dân tộc mới củng

cố được khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, phát huy sức mạnh

nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do có tầm quan trọng đặc biệt về 3

phương diện địa- chính trị đối với toàn vùng Đông Bắc và Thủ đô Hà Nội, nên thực

hiện chính sách dân tộc của Thái Nguyên không chỉ có ý nghĩa tự thân, mà còn ảnh

hưởng đến cục diện phát triển chung của đất nước.

Ý thức được điều đó, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt từ khi tái lập

tỉnh (1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên rất coi trọng lãnh đạo thực hiện

chính sách dân tộc, như xoá đói giảm nghèo, định canh định cư, phát triển kinh tế,

chăm lo đời sống của nhân dân, bảo vệ phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, củng

cố cơ sở chính trị trong quần chúng. Bên cạnh những thành công đã đạt được, trong

quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên cũng bộc lộ những hạn chế

cần phải được nhận diện đầy đủ. Đó là: khoảng cách chênh lệnh về trình độ phát

triển giữa dân tộc thiểu số và đa số tiếp tục bị đẩy ra xa thêm; bản sắc văn hoá các

dân tộc bị xói mòn; đội ngũ cán bộ dân tộc vừa yếu về năng lực vừa bất hợp lý về

cơ cấu; môi trường sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng; tín ngưỡng- tôn giáo diễn biến

phức tạp,.. những vấn đề đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống an ninh và an

sinh của đồng bào các dân tộc.

Diễn biến vấn đề dân tộc ở Thái Nguyên cần được nhìn nhận khách quan

toàn diện, không chỉ từ góc độ của các nhà tổ chức thực tiễn, mà đặc biệt từ lăng

kính của người nghiên cứu. Trên cơ sở tư duy và phương pháp khoa học cho phép

đúc kết các kinh nghiệm hữu dụng phục vụ quá trình hoàn thiện chính sách dân tộc,

khắc phục những cách nhìn phiến diện khi tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.

Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện

chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005” là rất cần thiết, xét trên cả phương diện khoa

học và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

4

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc

luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Mỗi thời kỳ lịch sử, trước yêu cầu

của nhiệm vụ chính trị mới đòi hỏi, Đảng lại có chủ trương, chính sách, giải pháp

mới phù hợp. Chính vì vậy, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng luôn đ-

ược giới lý luận và các nhà lãnh đạo quan tâm nghiên cứu. Trên phạm vi cả nước đã

có nhiều công trình đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Nhìn một

cách tổng thể, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm

chủ yếu sau:

Nhóm thứ nhất: Sự tổng kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, rút kinh nghiệm,

đề ra đường lối, chủ trương chính sách dân tộc ở nước ta. Sự tổng kết đó được phản

ánh trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, một số Nghị quyết Hội nghị Ban

chấp hành Trung ương, Nghị quyết Bộ chính trị,... Đây là những quan điểm đánh

giá chính thức của Đảng ta về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc.

Nhóm thứ hai: Những nghiên cứu tổng quan về các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam. Đáng chú ý trong số này là: “Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam” của

Đặng Nghiêm Vạn; “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở miền

núi” của Bế Viết Đẳng (Chủ biên); “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số

nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp của Hà Quế Lâm; “ Dân số và dân số tộc

người ở Việt Nam” của Khổng Diễn; “Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn

đề và giải pháp” của Trịnh Quốc Tuấn (Chủ biên); “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn

cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay của Phan Hữu Dật.... Có thể

thống kê nhiều hơn nữa những công trình loại này, song đây là những nghiên cứu

tổng hợp, nên chỉ mang đến những nhận định khái quát về đặc điểm địa lý, văn hóa

xã hội, về thành phần dân tộc và sự phân bố các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ đó

rút ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn về đời sống của đồng bào

5

các dân tộc thiểu số, đồng thời đóng góp cơ sở khoa học cho việc thực hiện tốt hơn

chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhóm thứ ba: Những nghiên cứu về chính sách dân tộc của Đảng và nhà

nước ta. Tiêu biểu trong số này có các công trình: “Vấn đề dân tộc và chính sách

dân tộc của Đảng và Nhà nước ta” (Tập bài giảng), Phân viện Hà Nội, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Chính sách và chế độ pháp lý đối với đồng bào

dân tộc và miền núi”, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; “Hệ thống các văn bản

chính sách dân tộc và miền núi (tập 2) Về kinh tế- xã hội”, Ủy ban dân tộc và miền

núi; “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ban T-

ư tưởng- Văn hóa Trung ương; “Một số vấn đề cần biết về dân tộc và chính sách

dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nhìn

chung, đây là những tài liệu cơ bản cung cấp cho cán bộ Đảng viên và nhân dân

nhận thức đúng, hiểu được những nội dung cơ bản nhất về dân tộc và quan hệ dân

tộc cũng như những chính sách dân tộc đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước

ta, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhóm thứ tư: Một số luận án Tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch

sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian qua và hiện nay trên phạm vi cả nước

có một số đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số

địa phương cụ thể như ở Lâm Đồng, Ninh Thuận... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết

đăng trên các tạp chí đã đề cập đến giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

Bên cạnh đó, có một số các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,

các báo cáo tổng kết của Uỷ ban nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan đề cập

đến những thành công, hạn chế và các giải pháp trong việc thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng ở từng địa phương.

6

Các công trình nghiên cứu trên nói chung đều khẳng định vai trò to lớn và

sự đúng đắn, nhất quán của Đảng trong việc đề ra và lãnh đạo thực hiện chính sách

đối với các dân tộc thiểu số trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong cách

mạng xã hội chủ nghĩa cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay. Những công

trình và báo cáo nêu trên là những nguồn tư liệu quý, cung cấp cơ sở thực tiễn và

cách tiếp cận về chính sách dân tộc và tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở nước

ta.

Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách

đầy đủ, có hệ thống vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính

sách dân tộc từ 1997 đến 2005” dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục đích của luận văn là làm rõ quá trình và

vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách

dân tộc ở Thái Nguyên từ năm 1997 đến 2005.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài

- Hệ thống hoá các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo

thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2005.

- Đánh giá khách quan, toàn diện quá trình tổ chức chỉ đạo thực thi chính

sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005.

- Rút ra thành công, hạn chế và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên đối với quá trình thực hiện chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005.

4. Đối tƣợng và phạm vi của đề tài

4.1. Đối tượng của đề tài

7

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống chủ trương, chính sách và

biện pháp tổ chức thực thi chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ

1997 đến 2005.

4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian:

Nghiên cứu từ 1997 đến 2005. Năm 1997 là năm tái lập tỉnh Thái Nguyên,

sau một thời gian hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 2005 là năm

diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII (tháng 12- 2005).

- Về không gian:

Nghiên cứu sự vận dụng, cụ thể hóa chính sách dân tộc và tổ chức thực

hiện chính sách dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo

sát trên địa bàn một số huyện (xã) trọng điểm.

- Về nội dung:

Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính

trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh..., đề tài chỉ giới hạn ở bốn nhóm

chính sách chủ yếu: chính sách kinh tế (xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế),

chính sách chăm lo trí lực và thể lực (giáo dục - đào tạo, y tế, nâng cao đời sống vật

chất), chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chính sách cán

bộ dân tộc thiểu số.

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu

- Văn kiện kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

về vấn đề dân tộc; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam

về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.

- Các nguồn tư liệu thành văn có liên quan đến vấn đề dân tộc và tư liệu

khảo sát điền dã. Đó là các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ tỉnh Thái

8

Nguyên, báo cáo của các cơ quan ban, ngành trong tỉnh; những công trình nghiên

cứu của các tác giả liên quan đến đề tài luận văn; niên giám thống kê hàng năm của

Trung ương và địa phương.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử,

phương pháp lôgíc. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân

tích, so sánh... để đối chiếu, bảo đảm độ chính xác, tin cậy của các dữ liệu trong

luận văn, đồng thời làm cơ sở cho những nhận định và khái quát vấn đề.

6. Những đóng góp mới của luận văn

- Cung cấp một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện chính sách

dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên và đóng góp thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu, giảng

dạy các nội dung liên quan đến chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Các nhận định, kết luận và kinh nghiệm được đúc rút sẽ góp phần cung

cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong tình hình mới

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 3 chương, 6 tiết.

9

CHƢƠNG 1

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2000

1.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở ĐỊA BÀN

THÁI NGUYÊN TRƢỚC 1997

1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hƣởng tới quá trình đề ra chủ

trƣơng và thực thi chính sách dân tộc

Thái Nguyên là tỉnh thuộc khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ, là trung

tâm của vùng Đông Bắc, có vị trí tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ và miền núi phía

Bắc, là vùng nối giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong quá trình

lịch sử, địa danh và địa giới Thái Nguyên cũng có nhiều sự thay đổi.

Vào thời Hùng Vương vùng đất Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, một trong

15 bộ của nước Văn Lang. Vào thế kỷ X- thời nhà Đinh, Tiền Lê đã chia đất nước

ra làm 10 đạo, đến năm 1010 khi Lý Thái Tổ lên ngôi thay đổi 10 đạo thành 24 lộ,

các vùng xa xôi gọi là châu, Thái Nguyên là một trong các châu thời ấy. Tới thời

Minh Mạng thứ 12 (1831) đất nước được chia thành các tỉnh hạt, từ đó trấn Thái

Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Vào thời thuộc Pháp, năm 1900 chính

quyền thực dân cho tách phủ Thông Hóa ra thành tỉnh Bắc Kạn gồm 5 huyện: Na

Rì, Chợ Rã, Ngân Sơn, Chợ Đồn và Bạch Thông.

Ngày 21/4/1965, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hợp nhất hai tỉnh

Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 1985 thành lập thêm một đơn

vị hành chính là thị xã Sông Công.

Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết về việc phân chia lại địa giới hành chính

một số tỉnh và Bắc Thái lại được tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Kể

10

từ ngày 1/1/1997, các đơn vị hành chính của tỉnh Thái Nguyên chính thức đi vào

hoạt động [3, tr.11- 12].

Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định 131/QĐNS/TW về việc kết

thúc hoạt động của Đảng bộ và Tỉnh ủy Bắc Thái, đồng thời thành lập Đảng bộ Thái

Nguyên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời. Đảng bộ Thái Nguyên chính thức đi

vào hoạt động từ ngày 1/1/1997.

Như vậy, sau 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, năm 1997, tỉnh Thái Nguyên được tái lập với diện tích tự nhiên là 3.541,1 km2 [6, tr.11],

gồm 9 đơn vị hành chính: các huyện Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ, Đồng

Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên, với 177 xã,

phường, thị trấn (trong đó có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, chiếm 71,18%).

Dân số vào thời điểm cuối năm 1997 là 1.040.123 người [25, tr.3], thuộc 8 thành

phần dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chí, Dao, Hmông, Hoa. Toàn Đảng

bộ có 44.449 đảng viên sinh hoạt ở 651 đảng bộ cơ sở [25, tr.4].

Thái Nguyên có giới hạn từ 20020’ vĩ tuyết bắc đến 22003’ vĩ tuyết bắc và từ 105028’ kinh tuyến đông đến 106014’ kinh tuyến đông; có diện tích tự nhiên 3.541,1 km2; Phía Bắc giáp Bắc Kạn, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp

Lạng Sơn, Bắc Giang, phía Tây giáp Vĩnh Phúc, Tuyên Quang [29, tr.37- 38]. Thái

Nguyên nằm gọn trong vành đai nhiệt đới, gần chí tuyến Bắc hơn xích đạo nên có

sự khác biệt về hai mùa khá rõ rệt; về độ dài ban ngày, ban đêm; về nhiệt độ trung

bình mùa; chịu ảnh hưởng mạnh của khí hậu lục địa châu Á, nhất là về mùa đông,

đồng thời vẫn chịu ảnh hưởng mạnh của biển Đông và vịnh Bắc Bộ qua gió mùa

mùa hạ và bão.

Thái Nguyên có hình dáng cân đối, đường quốc lộ 3 và sông Cầu gần như

trục đối xứng chạy dọc thung lũng suốt từ Bắc xuống Nam tỉnh. Lãnh thổ không có

chỗ nào quá hẹp hoặc phình rộng so với lộ trục; địa hình chủ yếu là đồi núi thấp

11

chạy theo hướng Bắc- Nam, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Bao quanh phía Tây Nam

và phía Bắc là những dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn.

Nhìn tổng thể, tự nhiên Thái Nguyên phân hóa thành 3 vùng:

Vùng núi phía tây và tây bắc tỉnh: gồm Đại Từ, Định Hóa và các xã tây Phú

Lương, là khu vực được hình thành sớm. Các thung lũng sông rộng, giao thông

thuận lợi, là vùng núi không quá khó khăn, có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để

khai thác và phát triển kinh tế.

Vùng núi phía Đông: Đồng Hỷ, Võ Nhai, địa hình phức tạp, hiểm trở, có

nhiều núi đá vôi. Thung lũng sông suối hẹp, sâu, mật độ sông ngòi thưa thớt. Đây là

vùng núi cao, giao thông đi lại rất khó khăn, tự nhiên có trở ngại lớn đến phát triển

kinh tế- xã hội của vùng.

Vùng có địa hình thấp gồm nam Phú Lương, tây Đồng Hỷ, thành phố Thái

Nguyên, Phú Bình, Phổ Yên, Sông Công. Vùng đồi trung du xen với đồng bằng phù

sa sông Cầu, sông Công. Đây là vùng dân cư đông đúc, giao thông thuận lợi cả

đường bộ, đường sông, đường sắt; vùng có lịch sử tồn tại và phát triển kinh tế- xã

hội lâu đời [29, tr.37- 38].

Trải qua hàng ngàn năm với bao biến động thăng trầm của lịch sử, Thái

Nguyên đã trở thành mảnh đất hội tụ của nhiều dân tộc với sự đa dạng về văn hóa

các tộc người.

Thái Nguyên ngày nay gồm 8 dân tộc chung sống xen kẽ, có dân tộc vốn là

người bản địa có mặt từ xa xưa, có dân tộc mới nhập cư, song tất cả đều hòa nhập

thành một cộng đồng thống nhất, cùng sống xen kẽ trên một lãnh thổ với một nền

văn hóa chung về đặc điểm nhưng đa dạng về hình thái biểu hiện. Điều này do các

dân tộc có nhiều nguồn gốc sinh thái, nhân văn hợp lại, cùng chung một tiến trình

phát triển lịch sử, văn hóa và kinh tế. Về ngôn ngữ các dân tộc ở Thái Nguyên thuộc

vào 4 nhóm: Người Kinh (nhóm ngôn ngữ Việt- Mường), Người Tày, Nùng, Sán

12

Chay (nhóm ngôn ngữ Tày- Thái), Người Hmông, Dao (nhóm ngôn ngữ Hmông-

Dao), Người Hoa, Sán Dìu (nhóm ngôn ngữ Hán).

Kết cấu dân tộc ở Thái Nguyên gồm: Kinh 73,49%, Tày 10,15%, Nùng

5,22%, Sán Dìu 3,57%, Sán Chay 2,79%, Hoa 2,24% Dao 2,08%, Hmông 0,46%.

Toàn tỉnh có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, trong đó có 41 xã đặc biệt khó

khăn và An toàn khu. Các dân tộc thiểu số sống xen kẽ, phấn bố không đồng đều

trong từng bản, làng, tập trung đông ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Có

những xóm, bản chỉ có một dân tộc: dân tộc Tày 267 xóm, bản; Sán Chay 64 xóm,

bản; Sán Dìu 56 xóm, bản; Dao 57 xóm, bản; Nùng 42 xóm, bản; Hmông 13 xóm,

bản [41, tr.1].

Dân tộc Kinh (hay còn gọi là Việt) có tỷ lệ 73,49%. Đây là dân tộc mang

nguồn gốc bản địa, chiếm số lượng đông nhất. Dân tộc Kinh từ trước đây gồm nhiều

bộ phận hợp thành: dân bản địa, dân được tuyển mộ vào làm trong các mỏ đồn điền,

có bộ phận là người di cư từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cư trú của người Kinh

tập trung ở các huyện phía Nam, như Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công và

thành phố Thái Nguyên, đồng thời cũng trải rộng trên các vùng miền và sống xen kẽ

cùng các dân tộc khác. Vốn cư trú ở vùng thấp, người Kinh quen với nghề trồng lúa

nước, hoạt động nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với các nghề thủ công truyền thống,

nghề sông nước. Người Kinh không chỉ giàu tập quán kinh nghiệm sản xuất mà còn

có khả năng tiếp thu nhanh các tiến bộ kỹ thuật, do đó trình độ văn hóa, khoa học kỹ

thuật trong cộng đồng người Kinh đã có nhiều tiến bộ. Vốn văn hóa truyền thống

của người Kinh hết sức phong phú, đặc sắc và luôn được bảo tồn phát huy. Ngày

nay, tổ chức làng xã của người Kinh ở Thái Nguyên vẫn mang những nét đặc thù

tiêu biểu của cơ cấu xã hội Việt Nam.

Dân tộc Tày có tỷ lệ thấp hơn, xếp thứ hai sau dân tộc Kinh, địa bàn cư trú

của người Tày rộng khắp trong phạm vi toàn tỉnh, song chủ yếu ở những huyện

13

miền núi, vùng cao: Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai. Tổ tiên của người Tày

vốn là cư dân bản địa ở Bắc Việt Nam và miền giáp gianh biên giới Việt- Trung.

Người Tày có nền nông nghiệp khá phát triển, ngoài việc trồng lúa, đồng bào còn

trồng ngô, khoai, sắn, và các loại cây lương thực, rau quả. Bên cạnh đó, người Tày

còn rất khéo tay trong các nghề thủ công đan lát mây tre. Người Tày có vốn văn

nghệ dân gian truyền thống hết sức phong phú với đủ các loại thơ, ca, múa,

nhạc...Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể, các làn điệu dân ca phổ biến

nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con...

Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên có 54.383 người, chiếm 5,22% dân số toàn

tỉnh. Người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm

vi cư trú của người Nùng ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh nhưng tập trung đông

nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng trồng lúa và ngô, ngoài ra còn

trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả; các nghề thủ công đã phát triển như nghề

dệt, mộc, đan lát... Người Nùng có vốn văn nghệ dân gian đặc sắc phong phú (thơ,

truyện thơ, truyện cổ).

Dân tộc Dao sống tập trung ở huyện Đại Từ, rồi đến Đồng Hỷ, Phú Lương,

Võ Nhai. Ở Thái Nguyên có 4 nhóm Dao chính là: Dao đỏ, Dao Tiền, Dao Lô

Gang, Dao Quần chẹt. Người Dao trồng lúa nương và làm ruộng nước, ngoài ra họ

còn trồng màu, một số nghề thủ công cũng phát triển: dệt vải, rèn nông cụ, mộc...

Văn hóa Dao có nhiều nét độc đáo đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền, vốn văn nghệ

đặc sắc...

Dân tộc Sán Dìu còn có tên gọi khác là Trại, Trại Đất, Mán Quần Cộc, sống

tập trung ở các huyện Đồng Hỷ, Phú Lương, Đại Từ, Phú Bình và thành phố Thái

Nguyên. Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, một phần làm nương, soi, bãi,

ngoài ra họ chăn nuôi, khai thác lâm sản, làm gạch ngói, đan lát... Thơ ca dân gian

của người Sán Dìu rất phong phú, họ dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ

14

“Soọng cô”, kể truyện, chủ yếu là chuyện thơ khá đặc sắc. Các điệu múa thường

xuất hiện trong các nghi lễ tôn giáo và trong đám ma.

Dân tộc Sán Chay còn được gọi là Cao Lan- Sán Chỉ, sớm định cư, họ sống

chủ yếu bằng nghề nông, vừa làm nương rẫy, vừa chăn nuôi gia cầm, gia súc. Người

Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ, ca, hò vè, tục ngữ, ngạn ngữ...

Dân tộc Hmông mới nhập cư vào Thái Nguyên từ 2- 3 thế kỷ trở lại đây.

Người Hmông có các nhóm người: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lèng (Mông

Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Người

Hmông thường cư trú ở rẻo cao, có kỹ thuật trồng tỉa thích nghi với cuộc sống ở

vùng núi. Người Hmông giỏi trồng ngô và lúa nương, ngoài ra họ còn chăn nuôi

trâu, bò, ngựa, chó, gà...Nhạc cụ của người Hmông có khèn và đàn môi khá đặc sắc.

Dân tộc Hoa là tộc người có số lượng ít hơn cả, họ cần cù lao động, giỏi

nông nghiệp và cả nghề thủ công, buôn bán... người Hoa thích hát “Sơn ca”, ca kịch

cũng là hình thức nghệ thuật mà họ rất ưa chuộng...[2, tr.19- 20].

Thái Nguyên vừa là cái nôi, điểm hội tụ nền văn hóa đặc sắc của các dân

tộc thiểu số cư trú trong vùng lại vừa là nơi giao lưu, hội nhập với nền văn hóa của

cộng đồng các dân tộc khác tạo nên văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc

văn hóa dân tộc. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của các dân tộc ở Thái

Nguyên góp phần không nhỏ vào nền văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt

Nam.

Trong kho tàng văn hóa phi vật thể, văn hóa dân gian truyền miệng của

Thái Nguyên thực sự đặc sắc, gồm nhiều thể loại: truyền thuyết địa danh, truyện cổ

tích, truyện thơ. Phong phú hơn cả là kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố...

Dân ca của các dân tộc với những làn điệu đặc trưng như hát “Gỗu plềnh” (hát giao

duyên) của người Hmông, hạt “Sli, lượn” (hát trữ tình) của người Tày, Nùng... Bên

cạnh đó còn phải kể đến sự phong phú của nền dân vũ dân tộc; những bộ trang phục

15

với những đường nét hoa văn khéo léo ; những nhạc cụ rất phong phú: khèn, đàn

môi, đàn tính... Mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán riêng trong việc cưới,

việc tang, trong thờ cúng, lễ hội...

Văn hóa vật chất của Thái Nguyên cũng rất đa dạng, bao gồm: các khu di

tích lịch sử ở Thái Nguyên là niền tự hào và là tài sản vô giá phản ánh truyền thống

đấu tranh kiên cường trong dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đến nay

chúng ta còn lưu giữ được rất nhiều chứng cứ vật chất để xác định đã có sự sống

của loài người cách đây chừng 2-3 vạn năm, đó là khu di tích lịch sử văn hóa Thần

Sa (huyện Võ Nhai), khu di tích lịch sử Núi Văn- Núi Võ (Huyện Đại Từ)...; Do cư

trú ở các vùng có đặc điểm về địa lí khác nhau nên văn hóa kiến trúc của các dân

tộc Thái Nguyên cũng có những sắc thái riêng. Mỗi dân tộc có tập quán kiến trúc

nhà cửa khác nhau; Văn hóa ẩm thực của đồng bào ở đây cũng rất đa dạng: ngày tết

người Kinh làm bánh chưng, người Tày làm bánh Tầy...

Trong công cuộc đổi mới, với đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và

Nhà nước, nền văn hóa Thái Nguyên có điều kiện vừa bảo tồn phát huy truyền

thống văn hóa của các dân tộc mình, vừa tiếp thu tinh hoa của các dân tộc từ các

vùng miền trong cả nước, góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc [29, tr.25- 28].

Sự chuyển đổi cơ chế quản lí nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang

kinh tế thị trường được thực hiện từ 1986, sau 20 năm khởi động, đến nay nền kinh

tế Thái Nguyên đang đi dần vào thế ổn định và có tăng trưởng khá.

Với vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đây là những

điều kiện thuận lợi để Thái Nguyên có cơ hội phát triển nền kinh tế trên các lĩnh

vực nông- lâm- công nghiệp.

Nông nghiệp: Thái Nguyên thuộc vùng đất trung du và miền núi, có nhiều

loại đất đai phù hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây công nghiệp. Trong

16

trồng trọt, cơ cấu cây lương thực vẫn là chủ yếu song đang dịch chuyển theo xu

hướng giảm dần tỷ lệ, thay vào đó là cây công nghiệp và cây thực phẩm. Đặc biệt,

cây chè là cây công nghiệp quan trọng và được coi là cây trồng chủ lực, mũi nhọn vì

đó là cây có giá trị kinh tế ổn định nhất trên vườn đồi của tỉnh Thái Nguyên. Hiện

nay, chè là một trong những nông sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh.

Trong nền kinh tế tự cấp, tự túc lâu đời của nông nghiệp Thái Nguyên, chăn

nuôi trước đây chưa được coi là một ngành sản xuất độc lập, nó chủ yếu đóng vai

trò bổ trợ cho trồng trọt. Qua một thời gian phát triển chậm chạp, hiện nay chăn

nuôi ở Thái Nguyên cũng đã có bước phát triển và tăng trưởng về giá trị sản xuất

cũng như giá trị tăng trưởng (GDP) ở tất cả các chủng loại vật nuôi.

Lâm nghiệp: Thái nguyên có diện tích đất tự nhiên 356.663 ha trong đó đất

lâm nghiệp 119.855 ha chiếm 34%. Tất cả các đơn vị huyện, thành, thị trong tỉnh

đều có diện tích đất rừng tự nhiên và đất rừng trồng. Tuy vậy, những năm trước đây,

rừng tự nhiên bị khai thác bừa bãi cộng với việc đốt rừng làm nương và việc bảo vệ

rừng chưa được đảm bảo nên hậu quả để lại là rừng cây bị cạn kiệt. Trong những

năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có chủ trương phát triển kinh tế đồi rừng gắn với

việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước mắt cần tập trung giao

đất giao rừng, kết hợp giữa trồng rừng và trồng cây ăn quả, cây công nghiệp.

Công nghiệp: Công nghiệp có vai trò làm động lực trong guồng máy kinh tế

quốc dân của tỉnh, đóng góp khoảng 30- 40% vào GDP của tỉnh, góp phần kích

thích nhu cầu sử dụng nguyên liệu, máy móc, thiết bị; nuôi dưỡng các hoạt động

thương mại và vận tải; khai thác các nguồn đầu tư về tài chính và kĩ thuật. Ngành

công nghiệp Thái Nguyên đã được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đến

nay, ngành công nghiệp Thái Nguyên đã có một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh với sự

có mặt hầu hết của các ngành công nghiệp như: năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa

17

chất... Trong đó công nghiệp luyện kim và sản xuất thép, phôi thép là ngành công

nghiệp chủ yếu của tỉnh.

Thái Nguyên hiện là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn với 5 trường Đại

học (gồm Đại học Sư phạm, Đại học Công nghiệp, Đại học Nông Lâm, Đại học Y

khoa, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh) và 2 khoa tương đương (Khoa Khoa

học Tự nhiên và Xã hội, Khoa Công nghệ thông tin). Các trường chuyên nghiệp của

Trung ương và địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gồm 8 trường trung học

chuyên nghiệp, 6 trường công nhân kỹ thuật. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc

phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học cho các tỉnh miền núi

phía Bắc khác.

Bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ Thái Nguyên quyết tâm lãnh đạo

khai thác, phát huy những thế mạnh, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, tích cực chủ động

đẩy lùi khó khăn, thách thức để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh,

xứng đáng với vị trí của một trung tâm kinh tế- xã hội của các tỉnh miền núi phía

Bắc.

Tuy nhiên, Thái Nguyên cũng gặp một số khó khăn lớn: là tỉnh miền núi

trung du, các yếu tố địa hình, thổ nhưỡng phức tạp, khoáng sản nhiều nhưng phân

tán; đồng bào các dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở miền núi địa hình phức tạp, giao

thông đi lại không thuận lợi; Nền kinh tế chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, cây trồng, vật nuôi chậm, sản xuất chủ yếu độc canh cây lúa, ít ngành nghề; đời

sống đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm tỷ

lệ cao (30,4%- theo chuẩn mới); Trình độ dân trí của các dân tộc thiểu số nhìn

chung còn thấp và không đều. Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng, dân cư

thưa thớt, do vậy việc huy động vốn đối ứng để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng

18

các công trình phúc lợi xã hội... gặp nhiều khó khăn không thể đáp ứng ngay trong

một sớm một chiều.

Nhận thức được những thuận lợi, khó khăn, trong suốt quá trình lãnh đạo,

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã phát huy tính chủ động, vận dụng đúng đắn sáng tạo

chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của

tỉnh, đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát huy mọi thế mạnh, khắc phục

những khó khăn, hạn chế, từng bước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội.

Do vậy, trong những năm gần đây, đời sống đồng bào các dân tộc tỉnh Thái Nguyên

được cải thiện rõ nét: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển;

mạng lưới các trường học, cơ sở y tế phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh; quốc

phòng và an ninh xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

ngày càng được cải thiện.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là

nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa

nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt nhiệm vụ này

đòi hỏi các cấp bộ đảng, chính quyền các địa phương trong cả nước nói chung, tỉnh

Thái Nguyên nói riêng phải phát huy tính tích cực, chủ động hơn nữa để có những

quyết sách thích hợp nhằm khai thác thế mạnh, khắc phục khó khăn phát triển

nhanh và bền vững kinh tế địa phương, phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài tỉnh,

nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh,

làm cho nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tạo

sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta và việc quán triệt

thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trƣớc năm 1997

Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác dân tộc, chính

19

sách dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng

nước ta. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58 về tổ chức bộ máy nội vụ, trong đó có Nha dân

tộc thiểu số thuộc Bộ Nội vụ, với nhiệm vụ là xem xét các vấn đề chính trị và hành

chính thuộc về các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình hình thân thiện giữa

các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Ngày 9 tháng 9 năm 1946 Chính phủ ban

hành Nghị định số 359 thành lập Nha Dân tộc thiểu số với chức năng nhiệm vụ là

nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trên toàn cõi

Việt Nam để củng cố nguyên tắc bình đẳng, sự đoàn kết và tương trợ giữa các dân

tộc sống trên đất nước Việt Nam.

Trong các bản Hiến pháp của nước Việt Nam qua các thời kỳ cũng đều

khẳng định các nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ngay

từ Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi: Tất cả công

dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa...

Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi

phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung. Tư tưởng đó còn được thể

hiện rõ nét trong chủ trương, chính sách của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ II (2/1951) đã viết: Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng

về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc;

chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa

các dân tộc.

Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính sách

dân tộc của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ III của Đảng. Nghị quyết nêu rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa

số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em, Đảng và Nhà nước cần phải có

kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, làm cho miền

20

núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân

tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng

như trong nhân dân, cần phải khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc

hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”

[13, tr.192- 193].

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã đưa ra quan điểm về

vùng núi và vùng đồng bào dân tộc, chính sách dân tộc trong thời kỳ cả nước quá độ

lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một

trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam, “chính

sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các

dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ

kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp

miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống

ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng

làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [14, tr.164].

Như vậy, “đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc” là những vấn đề

quan trọng hàng đầu trong đường lối, chính sách dân tộc của Đảng. Ba nguyên tắc

cơ bản này có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại với nhau hợp thành một

thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Có bình đẳng thì mới

thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển thì mới

thực hiện được bình đẳng dân tộc. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,

chính sách dân tộc đã thực sự trở thành cương lĩnh hành động thu hút hàng chục

triệu nhân dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, kết thành sức mạnh tổng hợp để

đánh bại kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách dân tộc của Đảng ta là một bộ phận quan

21

trọng trong chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa.

Chính sách dân tộc là tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của

Nhà nước được đề ra và tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc.

Chính sách dân tộc mang bản chất giai cấp của nhà nước trong phạm vi đối nội và

đối ngoại [48, tr.99]. Chính sách dân tộc là một lĩnh vực quan trọng, mang nội dung

nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính sách dân tộc nhằm phục vụ có hiệu quả sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ con người thuộc các tầng lớp nhân dân

các dân tộc. Chính vì vậy, chính sách dân tộc gắn liền với chiến lược con người, với

việc đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng

phải tác động làm thay đổi thực sự bộ mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của các vùng và

các dân tộc, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân, đưa các dân tộc còn ở trình độ sản xuất và đời sống thấp từng bước đi lên chủ

nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong

nước trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tự nguyện, cùng làm chủ, cùng đi lên chủ

nghĩa xã hội.

Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cho thấy: chính sách dân

tộc không tách rời chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Đảng. Việc thực hiện

tốt chính sách dân tộc chính là thực hiện chính sách kinh tế, chính sách xã hội của

Đảng một cách thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và điều kiện, đặc

điểm cụ thể của từng vùng dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng đúng đắn không

những thúc đẩy kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa của đồng bào

các dân tộc thiểu số, mà còn là một phương hướng tích cực nhất, chủ động nhất, có

hiệu quả nhất để chặn đứng mọi âm mưu và hành động của kẻ thù hòng chia rẽ sự

đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, đồng thời củng cố lực lượng an ninh, quốc

phòng nước nhà, giữ gìn thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.

22

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện đường lối do Đại hội IV,

Đại hội V đề ra, nghiên cứu khảo nghiệm kinh nghiệm của các nước trên thế giới,

Đại hội VI của Đảng đã đề ra những quyết sách đúng đắn. Tại Đại hội VI, với tinh

thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã nghiêm

khắc kiểm điểm tình hình mọi mặt và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước

ngoặt trong quá trình đi lên của cách mạnh Việt Nam.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chính sách dân tộc của

Đảng nhằm hướng tới sự phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trên cơ sở

bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Để thực hiện được nguyên tắc

bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, Báo cáo chính trị của Đại hội VI

khẳng định: “Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh

vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng

đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi

người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những

biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi” [15, tr.98].

Về chính sách dân tộc, Đại hội xác định: “Sự nghiệp đẩy mạnh ba cuộc

cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đòi hỏi tăng cường công tác nghiên

cứu về dân tộc học và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ những khác biệt

cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện

tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm rập khuôn hoặc chủ quan áp đặt

những hình thức tổ chức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội ở những vùng dân tộc” [15, tr.97].

Đại hội đã cụ thể hóa phương hướng phát triển kinh tế ở vùng dân tộc thiểu

số: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động

viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và

phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy

23

mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào trước

hết ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”

[15, tr.97].

Cụ thể hóa đường lối của Đại hội VI, ngày 27 tháng 11 năm 1989, Bộ

Chính trị ra Nghị quyết 22- NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển

kinh tế- xã hội miền núi. Ngày 13 tháng 3 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Quyết định số 72- HĐBT về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế-

xã hội miền núi.

Từ khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72- HĐBT, Nhà

nước đã dần dần tăng mức đầu tư phát triển kinh tế- xã hội cho các dân tộc ở miền

núi, đặc biệt là vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ cũ theo các chương

trình, dự án. Do đó tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương miền núi

đã có bước chuyển biến mới.

Tiếp tục thực hiện những quan điểm của Đại hội VI, Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa

các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát

huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước

ta. Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp

với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân

tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” [17, tr.77].

Có thể nói, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính tổng

hợp, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,

quốc phòng.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

về vấn đề dân tộc và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về

24

chính sách dân tộc vào tình hình thực tế của địa phương, từ khi Thái Nguyên hợp

nhất với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái (1965) đến năm 1986, Đảng bộ Bắc Thái đã

đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm khắc phục khó khăn do thực tiễn đặt ra,

từng bước ổn định và nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn

tỉnh.

Thực hiện đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh

Bắc Thái lần thứ V (tháng 10/ 1986) đã xác định: với tinh thần nhìn thẳng vào sự

thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật và thực hiện đổi mới tư duy, nhất là tư duy

kinh tế. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V có ý nghĩa to lớn trong lịch sử Đảng bộ tỉnh.

Nghị quyết Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ và nhân

dân các dân tộc trong tỉnh ra sức phấn đấu xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội

theo hướng đổi mới.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ VI đã đề ra mục tiêu

tổng quát trong 5 năm 1991- 1995 đó là: “ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, hình

thành về cơ bản cơ cấu hàng hóa nhiều thành phần nhằm cải thiện đời sống nhân

dân, giữ vững ổn định về chính trị; xây dựng Đảng có bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và

sức chiến đấu cao, phát huy hiệu lực quản lý Nhà nước và đổi mới phương thức

hoạt động của các đoàn thể nhân dân đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới”

[23, tr.22].

Về chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đại hội chỉ rõ: ổn định

và phát triển sản xuất, phấn đấu hình thành cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp- dịch

vụ. Trên địa bàn từng huyện, thành phố, thị xã hình thành cơ cấu kinh tế phù hợp

với điều kiện địa phương; Thực hiện tốt các chính sách xã hội bao gồm đời sống vật

chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có

đồng bào các dân tộc thiểu số.

25

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ lần thứ V, lần thứ VI của tỉnh, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng

bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật

chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng lên.

Trong 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và chính sách dân tộc của Đảng,

Đảng bộ và chính quyền tỉnh luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác định canh,

định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, coi đó là yếu tố quyết định để ổn định và

cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, là tình cảm đền ơn đáp nghĩa

đối với đồng bào đã bao năm gắn bó với Đảng và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp

cách mạng giải phóng dân tộc. Muốn định canh, định cư cho đồng bào phải chú ý

xây dựng cơ cấu nông- lâm- công nghiệp kết hợp cho từng cơ sở, phải gắn việc phát

triển nông nghiệp với lâm nghiệp và chăn nuôi, xây dựng vốn rừng, bảo vệ môi

trường sinh thái, sắp xếp ăn ở theo cụm dân cư. Với sự nỗ lực của các cấp, các

ngành, cuộc vận động định canh, định cư đã có những chuyển biến tích cực, ổn định

cuộc sống của hàng trăm hộ đồng bào các dân tộc, khai hoang phục hóa hàng trăm

ha đất đai đưa vào sản xuất nông nghiệp, trồng mới và khoanh nuôi bảo vệ hàng

trăm ha rừng... Đã có một số mô hình định canh, định cư tổ chức sản xuất và đời

sống của đồng bào dân tộc có hiệu quả như các điểm: Chòi Hồng, Ba Nhất (huyện

Võ Nhai), Mỏ Ba, Khe Cạn (huyện Đồng Hỷ). Nét mới của các điểm điển hình này

là sự chuyển dịch bước đầu cơ cấu kinh tế, xóa thế độc canh cây lương thực, phát

triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, giảm đến mức tối đa việc đốt rừng làm rẫy. Diện

vận động định canh, định cư tại Thái Nguyên là 3430 hộ, chủ yếu là đồng bào Dao,

Hmông phân bố dải dác ở 112 thôn, bản thuộc 38 xã trên địa bàn 5 huyện miền núi

và vùng cao của tỉnh: Huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương.

Chỉ tính trong năm năm (1991- 1995), tổng số vốn cấp cho công tác định canh, định

26

cư là 12 tỷ đồng, có 207 điểm định canh, định cư trong đó có 80 điểm đồng bào có

cuộc sống ổn định.

Sự nghiệp văn hóa xã hội được giữ vững và nhiều mặt có bước phát triển

mới: 10 năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã giành nhiều thời

gian công sức và tiền của cho mặt trận chống các tệ nạn xã hội với nhận thức con

người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.

Sự nghiệp giáo dục được quan tâm: toàn tỉnh xóa xong bản trắng về giáo

dục ở vùng cao và có chính sách khuyến khích giáo viên công tác ở các xã miền núi,

vùng cao. Những năm qua, bằng nguồn vốn các chương trình mục tiêu, vốn vay

quốc tế, sự giúp đỡ của các cơ quan, xí nghiệp và nhân dân đóng góp đã xây dựng

mới và sửa chữa hàng trăm phòng học.

Phát thanh truyền hình có nhiều tiến bộ, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần

của đại bộ phận nhân dân trong tỉnh. Hoạt động của các đoàn văn hóa nghệ thuật,

các đội tuyên truyền lưu động luôn bám sát địa bàn, đặc biệt đã quan tâm phục vụ

bà con các xã vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Hoạt động chiếu bóng

phục vụ đồng bào vùng cao do Trung tâm điện ảnh tỉnh thực hiện trong năm 1997

đã chiếu được 774 buổi, bằng 105% kế hoạch thực hiện, phục vụ 112.500 lượt

người xem của 128 bản vùng cao của tỉnh. Các buổi chiếu nói chung được đồng bào

hoan nghênh.

Công tác bảo tồn, bảo tàng, thư viện cũng được sở văn hóa thông tin tỉnh

chú ý phát triển: năm 1997, nhà trưng bày ATK Phú Đình (Định Hóa) được khánh

thành và đưa vào sử dụng đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ, Trung ương

Đảng, Chính Phủ về ATK lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đáp ứng

lòng mong mỏi không những chỉ của đồng bào các dân tộc huyện Định Hóa mà còn

là hết thảy đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Từ đây, Thái Nguyên có thêm một điểm

di tích, một công trình văn hóa để các thế hệ hành hương về cội nguồn, tìm hiểu,

27

chứng kiến một vùng đất chiến khu xưa đã góp phần làm rạng rỡ trang sử hào hùng

của dân tộc.

1.2. CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ

TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN TỪ 1997 ĐẾN 2000

1.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với định hƣớng lãnh đạo thực hiện

chính sách dân tộc

Bước vào nửa sau những năm 90, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều diễn

biến phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,

chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Nguy cơ chiến tranh thế giới tuy bị

đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc

và tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục

phát triển với trình độ ngày càng cao. Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề

bức xúc mang tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng

ngừa và đẩy lùi những bệnh hiểm nghèo...). Sự tham gia của các quốc gia vào quá

trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại cũng như

nhiều lĩnh vực khác ngày càng tăng, nhưng đồng thời sự cạnh tranh cũng rất gay

gắt... Tình hình thế giới và khu vực tác động sâu sắc đến các mặt của đời sống xã

hội nước ta, đưa đến những thời cơ thuận lợi, đồng thời cũng làm xuất hiện những

thách thức lớn.

Trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ VI đề ra, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: Đất nước ta ra khỏi

cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng và chuyển sang thời kỳ phát triển

mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quan hệ giữa nước ta với các nước

trên thế giới được mở rộng. Tuy nhiên bốn nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ (1/1994) nêu lên đến lúc này vẫn là những thách thức lớn. Nền kinh

tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn

28

hóa, xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không

đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng suy thoái

ở một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng.

Xuất phát từ tình hình trên và căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (

6/1996) của Đảng khẳng định: “Cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”

[18, tr.80]. Về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, Nghị quyết Đại hội VIII của

Đảng tiếp tục khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn và chỉ rõ: Thực

hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến năm 2000,

bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ

yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe

của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ,

nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây

dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng,

các cấp trong sạch và vững mạnh” [18, tr.125- 126]. Trong phương hướng, nhiệm

vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 1996- 2000 của Nhà nước ta đã dành riêng một

chương trình cho phát triển kinh tế- xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc. Đây

là nhóm chương trình và lĩnh vực phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vùng

lãnh thổ miền núi và dân tộc, tập trung vào các mục và phương hướng chính là: phát

triển toàn diện nông, lâm, công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông- lâm-

thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp

hóa và hiện đại hóa. Bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tạo

điều kiện cho mọi vùng đều phát triển trên cơ sở phát huy thế mạnh và tiềm năng

của vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có chuyển biến rõ rệt, giảm

29

sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng. Đối với các vùng miền

núi và đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các địa bàn xung yếu,

những khu căn cứ cách mạng cần tạo các điều kiện ban đầu để các vùng đó từng

bước tự vươn lên.

Ngày 01 tháng 01 năm 1997, các đơn vị hành chính Thái Nguyên chính

thức đi vào hoạt động. Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn của tỉnh,

đồng thời quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của

Đảng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đề ra mục tiêu tổng quát đến

năm 2000 là: “Tập trung mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh công cuộc đổi

mới một cách toàn diện và đồng bộ, tạo sự phát triển về kinh tế- xã hội với tốc độ

tăng trưởng nhanh, bền vững, xây dựng tỉnh Thái Nguyên giàu đẹp với cơ cấu kinh

tế công- nông, lâm nghiệp- dịch vụ; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh để cùng với cả nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa, tạo tiền

đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000” [25, tr.25- 26].

Về thực hiện chính sách dân tộc, chủ trương của Đại hội XV Đảng bộ Thái

Nguyên (tháng 11/1997) khẳng định: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa

các dân tộc anh em trong tỉnh, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nâng mức sống của nhân dân các dân tộc

tỉnh Thái Nguyên lên một bước rõ rệt [25, tr.51].

Thực hiện chính sách dân tộc Đảng và Nhà nước, trong những năm đổi

mới, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên quán triệt, vận dụng cụ thể đường lối đó trên các

lĩnh vực cụ thể.

Về phát triển kinh tế dân tộc:

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đề ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa

dạng lấy nông- lâm nghiệp làm nền tảng. Trên cơ sở phát triển nông lâm nghiệp

30

đồng thời từng bước phát triển công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, công

nghiệp khai thác lâm sản, khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng và tổ chức mạng

lưới thương nghiệp dịch vụ vùng cao. Hình thành các trung tâm cụm xã có các cơ

sở hạ tầng thiết yếu đảm bảo địa bàn ổn định dân cư và phát triển sản xuất, tiến tới

hình thành các thị trấn, thị tứ vùng cao và một số trung tâm công nghiệp quy mô

vừa và nhỏ nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất và rút

dần khoảng cách giữa khu vực miền núi và miền xuôi. Xây dựng một nền nông lâm

nghiệp sinh thái bền vững, trong đó lấy phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp dài

ngày và kinh tế vườn rừng là chủ đạo nhằm bảo vệ tài nguyên sinh vật, bảo vệ môi

trường môi sinh, xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nông- lâm- công nghiệp, phá

thế sản xuất tự cung, tự cấp. Đại hội Đảng bộ lần thứ XV(11/1997) khẳng định:

“Phát triển nông lâm nghiệp và kinh tế nông thôn đa dạng, toàn diện theo hướng sản

xuất hàng hóa. Tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các

vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển nền nông nghiệp sạch. Phát triển cây

lương thực, thực phẩm là trọng tâm, cây ăn quả và cây công nghiệp theo mô hình

kinh tế vườn đồi là hướng chiến lược quan trọng. Phát triển mạnh đàn gia súc, gia

cầm và một số con đặc sản phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng” [25,

tr.26-27].

Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên đất lâm nghiệp của tỉnh còn lớn, với độ dốc

lớn, tầng dày mỏng thích nghi với phát triển lâm nghiệp nhiều hơn nông nghiệp, Đại

hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra chủ trương: “Phát triển kinh tế đồi rừng gắn

với việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước mắt cần tập trung

khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng mới, giao đất giao rừng để chăm sóc bảo vệ

rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng trồng, kết hợp giữa trồng rừng

với trồng cây công nghiệp, cây ăn quả. Hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng phá

rừng; thực hiện nghiêm ngặt những quy định của Chính phủ về đóng mở cửa rừng

31

nhằm bảo vệ tài nguyên rừng, gắn chính sách định canh, định cư với phát triển kinh

tế đồi rừng, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và cây đặc sản” [25, tr.29].

Nhằm thu hút các nhà đầu tư vào các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng

cao, Đảng bộ xác định: “Xác định danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển, xây dựng

chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, tiền thuê đất theo ngành nghề, sản phẩm cũng

như địa bàn miền núi, vùng cao, sử dụng nhiều lao động” [25, tr.32], “xây dựng các

trung tâm cụm xã, cụm thương mại ở các xã miền núi, vùng cao, các cửa hàng

thương mại, vật tư, các chợ, phục vụ sản xuất và đời sống trên cơ sở huy động nhiều

nguồn lực, lồng ghép nhiều nội dung, chương trình để thực hiện có hiệu quả” [25,

tr.38].

Về phát triển văn hóa- xã hội vùng dân tộc:

Theo kết quả điều tra năm 1996 toàn vùng miền núi dân tộc tỉnh Thái

Nguyên có tổng số dân 662.147 người chiếm 63,2% tổng số dân toàn tỉnh. Trong đó

dân tộc thiểu số là 270.457 người chiếm 40,84% [52, tr.18]. Với đặc điểm kết cấu

dân cư như trên, trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã chú trọng đến việc xây

dựng các trường phổ thông, các trường dân tộc nội trú ở các vùng miền núi dân tộc

và có đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu của các khu vực trong toàn vùng.

Tuy nhiên chất lượng trường lớp chưa đảm bảo và hoàn cảnh kinh tế của đội ngũ

giáo viên còn quá khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy. Nhiều vùng đồng

bào dân tộc còn chưa có tập quán cho con em đi học, tình trạng con em đồng bào

dân tộc tự bỏ học còn phổ biến.

Đứng trước hiện trạng này, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã đề ra chủ trương:

“Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và

phát huy hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa” [25, tr.40], “Nghiên cứu bổ sung kịp thời những chính sách đãi ngộ của địa

phương đối với giáo viên miền núi, vùng cao, giáo viên giỏi, cán bộ đi học bồi

32

dưỡng, nâng cao trình độ... Tập trung đẩy mạnh Giáo dục- đào tạo cho miền núi,

vùng cao, tổ chức các lớp bán trú, lồng ghép cho học sinh mẫu giáo và tiểu học ở xa

trung tâm xã, xây dựng nhà ở cho giáo viên, học sinh nội trú. Hoàn thiện trường nội

trú dân tộc ở huyện Võ Nhai, xây dựng trường nội trú dân tộc ở huyện Định Hóa”

[25, tr.41].

Văn hóa vừa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy phát

triển kinh tế- xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát

triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên có

chủ trương “nghiên cứu những vấn đề có tính đặc thù của miền núi, về dân tộc, bảo

tồn và phát triển văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em trong cộng đồng” [25,

tr.42]; đồng thời “bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng

cảnh trong tỉnh” [25, tr.44]. Để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đặc biệt

là đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng cũ,

cần “ nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, các

đội thông tin, chiếu bóng lưu động, phát triển đa dạng, phong phú và lành mạnh các

hoạt động văn hóa và nghệ thuật quần chúng” [25, tr.44].

Với quan điểm: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng

xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, Văn kiện Đại hội XV

chỉ rõ: “ khuyến khích mở mang ngành, nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao

động, phát triển dịch vụ đào tạo, giới thiệu việc làm... thực hiện có hiệu quả chương

trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc”

[25, tr.45].

Về đảm bảo an ninh dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị ở vùng dân tộc:

Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, hệ thống chính trị, từng bước

tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước. Ngăn ngừa và làm thất

bại mọi âm mưu, hoạt động gây mất ổn định chính trị- xã hội, Đảng bộ tỉnh Thái

33

Nguyên xác định: “ Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong toàn

Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang về âm mưu “diễn biến hòa bình của các

thế lực thù địch... xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến

tranh nhân dân... Giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn là

nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ và phục vụ đắc lực cho yêu cầu phát triển kinh tế- xã

hội” [25, tr.46].

Chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ Đảng viên trong đồng bào các dân tộc

thiểu số, Văn kiện Đại hội XV của tỉnh Thái Nguyên chỉ rõ: “ Làm tốt công tác phát

triển đảng viên mới, quan tâm lực lượng trẻ, có kiến thức, năng lực và phẩm chất

tốt. Chú ý thành phần công nhân, dân tộc ít người, phụ nữ, giáo viên, cán bộ khoa

học kỹ thuật và học sinh, sinh viên” [25, tr.48].

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách

dân tộc của từ 1997 đến 2000

Thái Nguyên có 85 xã miền núi, 36 xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn,

An toàn khu (huyện Định Hóa có 18 xã, Võ Nhai có 14 xã, Đồng Hỷ có 4 xã). Diện

tích khu vực các xã miền núi, vùng cao chiếm 89,22% diện tích của tỉnh, là nơi tập

trung đông đồng bào dân tộc thiểu số. Các xã miền núi, đặc biệt là 36 xã đặc biệt

khó khăn, An toàn khu, có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi núi cao, suối sâu, việc

giao lưu đi lại rất khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém.

Trước năm 1997, còn rất nhiều xã chưa có đường ô tô vào đến trung tâm

xã, các công trình phúc lợi như trạm xá, điện nước sinh hoạt, trụ sở làm việc, trường

học rất thiếu và tạm bợ, nhiều cháu đến độ tuổi đi học không được đến trường, mặt

bằng dân trí thấp, đội ngũ cán bộ cơ sở thiếu và yếu. Nền kinh tế chậm phát triển,

sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng,

vật nuôi chậm, chủ yếu độc canh cây lúa, ít ngành nghề, đời sống đồng bào dân tộc

34

thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn cao, chiếm 28,48% số hộ trong

toàn vùng 36 xã đặc biệt khó khăn.

Bên cạnh những khó khăn, các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

của tỉnh cũng có những thuận lợi cơ bản như: các dân tộc trong tỉnh có truyền thống

đoàn kết, cần cù trong lao động, yêu nước, tuyệt đối tin vào đường lối cách mạng

của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trong quá

trình cách mạng, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nhiệt tình, đoàn kết, có

tinh thần trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng được tổ chức bộ máy

của hệ thống chính trị khá vững mạnh từ xã đến thôn, bản; miền núi của tỉnh còn là

nơi tiềm ẩn nhiều tài nguyên khoáng sản chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho các

ngành công nghiệp như than đá, các loại kim loại đen, kim loại màu và vật liệu xây

dựng, có điều kiện tốt để phát triển kinh tế; lực lượng lao động dồi dào và sự cần cù

chịu khó của đồng bào các dân tộc trong vùng đảm bảo lực lượng sản xuất hùng

mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội.

Phát huy thuận lợi, hạn chế khó khăn, phát triển toàn diện kinh tế- xã hội

của tỉnh, công việc đầu tiên cần phải xác định đó là: “Xây dựng hệ thống chính trị

trong sạch, vững mạnh bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, quản lý điều hành

của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể nhân dân các cấp có hiệu qủa cao,

nhằm động viên, thúc đẩy phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân trong

tỉnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu về kinh tế- xã hội, an ninh, quốc

phòng trong tình hình mới” [25, tr.47].

“Để làm tròn trọng trách của mình, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự

chỉnh đốn để nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở và

tính tiên phong gương mẫu của các cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng bộ vững

mạnh về mọi mặt, coi đây là nhiệm vụ then chốt trong công tác lãnh đạo của Đảng

bộ đối với nhân dân các dân tộc trong tỉnh”[25, tr.47]. Phải tăng cường giáo dục chủ

35

nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản chất giai cấp công

nhân của Đảng, làm cho mỗi cán bộ đảng viên trong toàn Đảng bộ nhận thức đúng

đắn và phấn đấu thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đảng bộ đặt ra. Quán triệt

các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tạo sự thống nhất về chính trị, tư

tưởng trong Đảng bộ. Thường xuyên tuyên truyền về thời sự, kinh tế, chính trị, xã

hội...trong nước và quốc tế kết hợp với giáo dục thực hiện hiến pháp, pháp luật của

Nhà nước cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ

trong sinh hoạt đảng, cần có chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng

ở các chi bộ, nhất là các chi bộ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công tác

quản lý đảng viên. Có biện pháp cụ thể giúp đỡ đảng viên có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn. Làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, quan tâm lực lượng trẻ, có kiến

thức, năng lực và phẩm chất tốt. Chú ý thành phần công nhân, dân tộc thiểu số, phụ

nữ, giáo viên, cán bộ khoa học kỹ thuật, học sinh, sinh viên. Đặc biệt quan tâm xây

dựng các tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa nhằm

nâng cao khả năng lãnh đạo đồng thời chú ý phát triển đảng viên ở những vùng

“trắng” đảng viên làm nòng cốt cho việc thực hiện chính sách dân tộc.

Đồng thời với công tác phát triển đảng, cần kiện toàn Hội đồng nhân dân

các cấp từ tỉnh đến cơ sở, đề cao vai trò của các đại biểu, tiếp tục đổi mới hoạt động

nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quyền lực địa phương. Thực

hiện tốt chế độ dân chủ đại diện của quần chúng nhân dân. Có cơ chế từng bước mở

rộng thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp của nhân dân theo phương châm “dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, việc

thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 1997 đến năm 2000 đạt được

một số kết quả.

Về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo:

36

Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo của vùng miền núi dân tộc tỉnh Thái

Nguyên. Diện tích đất nông nghiệp là 56.050 ha chiếm 67,8% diện tích đất nông

nghiệp toàn tỉnh. Lực lương lao động nông, lâm nghiệp chiếm 72,95% tổng số lao

động toàn tỉnh. Tổng sản lượng lương thực sản xuất ra hàng năm trên vùng miền núi

dân tộc chiếm 67 đến 74% tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh. Có thể nói đây là

vùng bao quát cả ngành nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên [52, tr.31].

Thái Nguyên có diện tích rừng rất lớn. Năm 1996, Thái Nguyên còn

133.196 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên 92.008 ha, rừng trồng 41.070 ha, chủ yếu

nằm ở vùng núi và vùng cao, không còn rừng giàu, rừng trung bình còn rất ít còn

chủ yếu là rừng nghèo kiệt và 103.047 ha đất chưa sử dụng chủ yếu nằm ở vùng núi

cao. Sự suy giảm tài nguyên rừng do nhiều nguyên nhân như: trong thời gian dài,

nền kinh tế trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, khai thác theo mệnh lệnh

nhưng khai thác không đảm bảo quy trình kỹ thuật, nhu cầu gỗ củi của đồng bào

miền núi rất lớn, dân trí đồng bào các dân tộc thấp, tập quán phát rừng làm rẫy vẫn

tồn tại...

Đến năm 2000, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự điều hành của Ủy ban

nhân dân tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, của Mặt trận tổ quốc và

các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là tinh thần khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên

của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các

dân tộc thiểu số trong tỉnh được cải thiện rõ rệt. Thực hiện chủ trương phát triển

kinh tế vườn đồi, tập trung vào các cây công nghiệp mũi nhọn, năm 2000, ở các

huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa diện tích chè đã tăng từ năm 1996

là 10.579 lên năm 2000 là 12.525 ha; cây ăn quả phát triển 3,6 lần. Chính sách trợ

cước, trợ giá cũng được tỉnh quan tâm, một số doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng

chính sách đã mở rộng mạng lưới phục vụ ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa tạo điều

kiện cho nhân dân tại các vùng này được mua hàng ở các trung tâm cụm xã

37

Chương trình 135 cũng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực

hiện. Ở 36 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các Chương trình mục tiêu quốc

gia với tổng số vốn 173.430 triệu đồng, riêng chương trình 135 về phát triển kinh tế

xã hội ở 36 xã đặc biệt khó khăn có số vốn đầu tư 89.430 triệu đồng. Trong đó vốn

cho đào tạo cán bộ ở các xã nghèo để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và

làm công tác khuyến nông, lâm hàng năm gần 300 triệu đồng [54].

Về văn hóa, xã hội: Các xã vùng cao, miền núi, vùng sâu, vùng xa dân cư sống phân tán (Võ Nhai 73 người/km2, Định Hóa 179 người/km2), địa bàn cư trú

cách xa nhau (do địa hình núi đồi, sông ngòi cắt cứ). Di dân cơ học từ vùng nông

thôn về các vùng đô thị và các khu vực kinh tế phi nông nghiệp ngày càng tăng.

Điều này gây khó khăn cho việc đáp ứng các nhu cầu về văn hóa xã hội của dân cư

trong tỉnh.

Trong hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và nhất là sau Đại hội

VIII, công tác văn hóa xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Dưới ánh sáng của

các Nghị quyết trung ương, các chế độ chính sách của Nhà nước đối với sự nghiệp

giáo dục đào tạo cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói chung và các dân tộc thiểu

số nói riêng, sự nghiệp giáo dục đào tạo cho đồng bào các dân tộc thiểu số có bước

phát triển rõ rệt: đến năm 2000, 100% xã, thị trấn đã có trường tiểu học và trung học

cơ sở. Các xã vùng cao của đồng bào các dân tộc thiểu số đã mở phân trường tới

từng xóm bản cho con em đồng bào có điều kiện đến lớp. Chế độ chính sách đối với

học sinh trường Phổ thông Dân tộc nội trú của tỉnh (xã Phú Thượng, huyện Võ

Nhai) cũng được quan tâm. Hiện tại trường có 152/150 học sinh trong đó có 2 học

sinh ở Bắc Kạn chuyển về. Độ tuổi của các em từ 10 đến 16 tuổi, các em học sinh là

người dân tộc thiểu số được tuyển chọn đúng tiêu chuẩn ở các xã, bản vùng cao của

các huyện trong tỉnh. Cơ sở vật chất như nhà ăn, nhà nghỉ, phòng học, sân chơi...

của trường tốt. Có đội ngũ thầy cô giáo tận tình giảng dạy. Công tác tuyển sinh hệ

38

cử tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp được thực

hiện tốt, tuy nhiên ở một số nơi còn mang nặng tính hình thức, chưa đảm bảo

nguyên tắc công khai, dân chủ.

Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào các dân tộc thiểu số được

quan tâm đầu tư: mạng lưới y tế cơ sở phát triển khá: toàn tỉnh trên 1 vạn dân đã có

gần 18 y, bác sỹ và 33 giường bệnh. Các trạm y tế quốc gia được triển khai đến

từng xóm bản của đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt các chế độ chính sách

của Nhà nước đối với việc khám chữa bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh, phát triển nền văn hóa,

các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể luôn được giữ gìn và phát huy. Thái

Nguyên là một trong sáu tỉnh của Chiến khu Việt Bắc. Huyện Định Hóa (Thái

Nguyên) cùng với huyện Tân Trào (Tuyên Quang) và huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn)

tạo thành vùng An toàn khu của Trung ương trong kháng chiến chống thực dân

Pháp. Nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp của

Trung ương và các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ đã sống và làm việc từ

1947 đến 1954. Vì vậy An toàn khu được gọi là Thủ đô kháng chiến. Riêng Định

Hóa có trên 100 di tích lịch sử, trong đó có 6 di tích được xếp hạng bảo tồn Quốc

gia. Điển hình là di tích Tỉn Keo xã Phú Đình, di tích lịch sử Phụng Hiểu xã Điềm

Mặc, di tích xóm Bảo Biêm xã Bảo Linh, di tích đình làng Quặng xã Định Biên, di

tích nhà tù Chợ Chu do thực dân Pháp xây dựng. Để phát huy giá trị văn hóa vật

chất và tinh thần trong việc giáo dục truyền thống đấu tranh giữ nước và giữ gìn bản

sắc cao quý của dân tộc, gắn việc phục hồi, bảo tồn, tôn tạo di tích với xây dựng,

phát triển kinh tế xã hội, đời sống nhân dân, cảnh quan môi trường và các hoạt dộng

văn hóa du lịch. Thực hiện Quyết định 984/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,

tỉnh Thái Nguyên đã có kế hoạch phục hồi, bảo tồn, tôn tạo và phát huy khu di tích

39

lịch sử cách mạng và kháng chiến “Chiến khu Việt Bắc” được kéo dài từ 2000 đến

2005 với 32 di tích đặc biệt quan trọng cấp Quốc gia.

Về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên đã quan tâm chỉ đạo các ban ngành duy trì các hoạt động văn hóa như lễ

hội, các điệu hát... Trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở địa bàn vùng dân tộc

thiểu số, miền núi cũng có bước chuyển biến đáng kể. Các mặt hoạt động văn hóa,

thông tin như phát thanh, truyền hình, sách báo, thông tin cổ động, văn nghệ quần

chúng... đã đến được vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn với những nội dung, hình

thức ngày càng thiết thực, phù hợp hơn. Tình trạng “trắng” về văn hóa thông tin ở

vùng đồng bào dân tộc thiểu số không còn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động

văn hóa thông tin cũng từng bước được chú ý.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Văn kiện Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên lần thứ XV chỉ rõ: “ Các cấp, các ngành phải thường xuyên xây dựng quy

hoạch cán bộ và có quy trình tuyển chọn, tạo nguồn cán bộ, bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ một cách toàn diện”. Quan tâm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ trẻ, cán bộ là người dân

tộc thiểu số có phẩm chất, có năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tạo được sự

đổi mới trong đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.

Với nhận thức cán bộ dân tộc thiểu số chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng

trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

là tạo ra nhân tố động lực đầu tàu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội ở từng

vùng miền, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và góp phần bảo vệ an ninh, trật

tự an toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền địa phương đã có

nhiều nỗ lực tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ dân tộc thiểu số, có nhiều

chính sách, chế độ ưu đãi nhằm khuyến khích cán bộ, công chức dân tộc thiểu số

tham gia học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác của mình. Hệ thống các

trường phổ thông dân tộc nội trú được xây dựng thêm và đưa vào sử dụng để đảm

40

đương công tác tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số cho đất nước như trường Phổ

thông Dân tộc nội trú ở huyện Võ Nhai, Định Hóa. Để động viên, khuyến khích cán

bộ, công chức tại các xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, tỉnh

đã có quy định về mức sinh hoạt phí cụ rhể của cán bộ xã năm 2001 là 120.000

đồng/ tháng.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội: được giữ vững, phong trào toàn

dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc được đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng.

Góp phần vào ổn định an ninh, chính trị, phát triển kinh tế trên địa bàn, đồng bào

các dân tộc xác định rõ trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc luôn hoàn thành

nghĩa vụ đối với Nhà nước, sống làm việc theo pháp luật. Tinh thần đoàn kết, ý thức

cộng đồng được phát huy để giúp nhau xóa đói giảm nghèo, để phấn đấu bài trừ hủ

tục, đấu tranh với các tệ nạn xã hội (nghiện hút, cờ bạc, truyền đạo trái phép...) có

hiệu quả.

Sau 4 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và những chủ trương giải

pháp của Đảng bộ địa phương, tình hình kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số tỉnh

Thái Nguyên đã có những chuyển biến đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của

đồng bào được nâng lên rõ rệt, tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ

vững. Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng,

xây dựng hệ thống chính trị là kết quả của quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên

quán triệt, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào

tình hình thực tế của địa phương bằng những việc làm và bước đi thích hợp, từng

bước đưa đồng bào dân tộc thiểu số thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng chính sách dân tộc của Đảng vào thực

tiễn địa phương tỉnh Thái Nguyên còn một số hạn chế: đời sống của đồng bào chưa

thực sự ổn định, nhiều nơi tuy đã định canh định cư nhưng việc xác định cơ cấu

kinh tế chưa phù hợp với từng vùng, từng dân tộc nên hiệu quả còn thấp; cơ sở hạ

41

tầng (điện, đường, trường, trạm) đã có song chưa đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại

nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội đã xâm nhập vào một số địa

phương, việc truyền đạo trái phép vẫn diễn ra; sự nghiệp phát triển giáo dục, y tế,

văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do các nguyên

nhân: Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, không đồng đều, còn

tính bảo thủ, ỷ lại, tự ti, tập tục mê tín dị đoan của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn

còn nặng nề nên việc tiếp thu cái mới chậm. Tình hình kinh tế- xã hội của đất nước

và địa phương còn khó khăn nên việc đầu tư cho các dân tộc thiểu số còn hạn chế;

Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc chưa

được cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc. Sự phối hợp giữa các tổ chức Đảng, chính

quyền, đoàn thể, các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc chưa thật chặt

chẽ và thường xuyên. Quá trình đầu tư vào các vùng đồng bào dân tộc thiểu số với

nguồn vốn còn ít, lại phân tán, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Các cán bộ dân tộc thiểu

số đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng còn thiếu và yếu về năng lực và phương pháp

công tác.

Những vấn đề trên đây có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở những giai đoạn

tiếp theo.

42

CHƢƠNG 2

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 2001 ĐẾN 2005

2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ẢNH

HƢỞNG TỚI QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN

TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1.1. Thuận lợi

Nhân dân Việt Nam bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới với khí thế

thi đua sôi nổi thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX- Đại hội tiếp

tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên mà trọng tâm là đẩy mạnh sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sau 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-

2000), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trên tất cả

các lĩnh vực. Kinh tế Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng cao. Kết cấu hạ tầng

được xây dựng thêm khá nhiều về đường giao thông, mạng lưới bưu chính viễn

thông, đường điện, hệ thống thủy lợi... Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích

cực. Cơ cấu ngành có thay đổi đáng kể: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối

song tỷ trọng trong GDP từ 38,7% năm 1990 giảm xuống còn 24,3% năm 2000;

tương ứng công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên khoảng 36,6% và dịch vụ từ

38,6% tăng lên 39,1%. Cơ cấu theo thành phần kinh tế diễn biến theo chiều hướng

phát huy nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh. Cơ cấu đầu tư

đã có chuyển hướng, chú trọng khai thác lợi thế từng ngành, từng vùng để phát

triển. Bên cạnh đó là sự chuyển đổi về cơ cấu thành phần kinh tế, từ chỗ chủ yếu là

hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,

trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Chúng ta đã tạo ra được một sự chuyển biến

43

quan trọng, khẳng định việc chúng ta trên cơ sở giữ vững mục tiêu phát triển theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, đã thực sự đổi mới phương thức và phương pháp tiến

hành xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và thích

ứng với xu thế phát triển của thế giới và thời đại. Chính sách “mở cửa” và hội nhập

thành công đã phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ với hầu khắp các

nước trên thế giới, mở thêm nhiều thị trường mới.

Những thành tựu đó làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân ở khắp các

vùng trong cả nước được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế cũng

được nâng lên; củng cố lòng tin của nhân dân ta nói chung, tạo điều kiện để đầu tư

chăm lo đời sống của nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên nói

riêng.

Thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị khóa VII về đại đoàn kết dân tộc

và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên lần thứ XV(1997), trong những năm qua, khối đại đoàn kết toàn dân trong

tỉnh ngày càng mở rộng, củng cố và phát triển, đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân

dân, các dân tộc, các tôn giáo, công nhân lao động, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ

nữ, cựu chiến binh... Các tầng lớp nhân dân Thái Nguyên tin tưởng vào đường lối

lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, vui mừng, phấn khởi trước

những thành tựu to lớn của đất nước, của tỉnh đã đạt được, sinh hoạt dân chủ trong

xã hội không ngừng được mở rộng thông qua thực hiện quy chế dân chủ. Mối quan

hệ giữa Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân ngày càng được củng cố vững

chắc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đời sống của đại bộ

phận nhân dân ổn định, ngày càng được cải thiện.

Hệ thống chính trị trong tỉnh Thái Nguyên bước đầu được đổi mới. Công

tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân thường xuyên được

các cấp bộ Đảng quan tâm. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt,bố trí, sử

44

dụng, luân chuyển, kỷ luật cán bộ luôn được chú trọng và thực hiện tốt. Thực hiện

cải cách hành chính, dân chủ hóa xã hội được mở rộng.

Cùng với cả nước, Đảng bộ Thái Nguyên có chủ trương khuyến khích mọi

thành phần kinh tế trong tỉnh, trong nước và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển

sản xuất, tạo ra khả năng huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế- xã

hội trong tỉnh nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Đây là những

điều kiện tốt tác động trực tiếp đến tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh

Thái Nguyên, mở ra khả năng, điều kiện để giải quyết các vấn đề về chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên được tốt hơn.

2.1.2. Khó khăn

Bước vào thế kỷ XXI, vấn đề dân tộc vẫn là một trong những vấn đề nổi

cộm của thế giới, nhất là khi nó được gắn với vấn đề tôn giáo. Trên khắp các châu

lục những cuộc xung đột, chiến tranh giữa các tộc người và dân tộc thường xuyên

diễn ra ở mức độ này hay mức độ khác, làm cho tình hình quốc tế không ổn định.

Xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc của mình, các nước đế quốc luôn luôn tìm

cách can thiệp vào vấn đề dân tộc và các cuộc xung đột dân tộc trên thế giới.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã lợi dụng chiêu bài “dân chủ”,

“nhân quyền”, “dân tộc, tôn giáo”, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước ta để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, phá hoại sự nghiệp

cách mạng của nhân dân ta. Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực

thù địch đang tìm mọi cách tạo dựng và kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư

tưởng li khai ở một số vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.

Do có sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài, hiện tượng truyền

đạo trái phép có xu hướng gia tăng và lôi kéo một số dân tộc thiểu số đi theo một số

tôn giáo hòng làm bình phong che đậy âm mưu tập hợp lực lượng, tạo dựng ngọn cờ

chính trị phản động, chống lại lợi ích của nhân dân các dân tộc. Chúng triệt để lợi

45

dụng sự chênh lệch về đời sống giữa các vùng và các dân tộc để kích động phá hoại

khối đại đoàn kết, thực hiện “diễn biến hòa bình”, gây mất ổn định chính trị, trật tự

an toàn xã hội, đe dọa cuộc sống yên lành của đồng bào các dân tộc.

Xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế diễn ra ngày

càng sâu rộng ở mọi quốc gia. Tình hình đó đặt nền văn hóa của mỗi dân tộc trước

những biến động lớn. Xu thế toàn cầu hóa nhằm đạt tới sự liên thông về kinh tế giữa

các quốc gia dân tộc, đòi hỏi một sự giao thoa lớn hơn giữa các giá trị văn hóa trên

phạm vi toàn cầu. Như một tất yếu, quá trình đó cũng diễn ra ở nước ta.

Xu thế toàn cầu hóa, một mặt, tạo điều kiện để các dân tộc hiểu biết lẫn

nhau, bổ sung làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mỗi nước, mỗi dân tộc có điều kiện

suy ngẫm nhiều hơn, từ đó soát xét lại về các giá trị của văn hóa dân tộc mình. Mặt

khác, cũng đặt ra những thách thức đối với sự phát triển văn hóa của các quốc gia,

trong đó có Việt Nam. Nguy cơ thất nghiệp ngày càng tăng tạo sự bất ổn về đời

sống, sự gia tăng các loại tội phạm có tính quốc tế... Sự chuyển giao công nghệ, vốn

cùng với các hình thức liên doanh quốc tế là điều kiện để lối sống tư bản thâm nhập

vào các quốc gia. Những hiện tượng đối xử bất bình đẳng với người lao động

thường vẫn diễn ra trong các tổ chức liên doanh kinh tế với người nước ngoài. Tâm

lý sùng bái vật chất, tính cạnh tranh khốc liệt trong sản xuất tư bản... đều có ảnh

hưởng xấu đến cách suy nghĩ và tâm lý của người lao động. Toàn cầu hóa về kinh tế

diễn ra mạnh mẽ, trong đó vùng đồng bào dân tộc thiểu số bao giờ cũng chịu nhiều

thiệt thòi trong các cơ hội phát triển.

Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đời sống

kinh tế xã hội ở đất nước ta còn nhiều bức xúc, nhất là tình trạng tham nhũng, quan

liêu, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng miền, cơ sở hạ tầng yếu kém, sức sản xuất

kém phát triển, nhiều rào cản của phong tục tập quán lạc hậu chưa được phá bỏ... đã

tác động không thuận đến quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên.

46

Thái Nguyên bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với

những thành tựu đã đạt được, các tầng lớp nhân dân còn nhiều băn khoăn trước

nhiều vấn đề như: kinh tế của tỉnh có tăng song chưa thực sự vững chắc. Cơ cấu

kinh tế, đầu tư, lao động chuyển dịch chậm và chưa ổn định. Thế mạnh của đội ngũ

cán bộ khoa học kỹ thuật trong hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp và dạy nghề chưa được phát huy tốt để phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Năng lực của đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức cán

bộ chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, công tác tạo nguồn cán bộ còn bị động, chắp vá

trong bố trí cán bộ và thiếu những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực. Bộ máy của

hệ thống chính trị chưa tinh gọn. Một số cán bộ thiếu rèn luyện, kém gương mẫu,

tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa. Đặc biệt, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu

số ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng còn nhiều khó khăn do địa hình

chia cắt, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp...

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi

đối với các dân tộc thiểu số nhằm giảm bớt khó khăn cho đồng bào, tuy nhiên vẫn

có hạn chế như một số chính sách chưa thực sự phù hợp với thực tiễn ở địa phương

nên chưa phát huy hiệu quả cao, nguồn vốn đầu tư vào các vùng dân tộc thiểu số

còn ít.

Với những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên

trong giai đoạn mới phải đề ra những giải pháp, chính sách “đột phá” để tháo gỡ

khó khăn, phát huy thuận lợi, nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, tạo

điều kiện để miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp- Đây là cơ sở

cho đồng bào các dân tộc thiểu số tin vào Đảng, Chính phủ, vững bước trên con

đường xây dựng tỉnh Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp.

2.2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỀ

LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 2001 ĐẾN 2005

47

2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vận dụng và cụ thể hóa chủ trƣơng

của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) khẳng

định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong 20 năm

đầu của thế kỷ XXI là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp

theo hướng hiện đại.

Để thực hiện được mục tiêu đó, trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế, trong

nước và từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xác định: “động lực chủ yếu

để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân” [21, tr.86]. “Vấn đề dân tộc và đoàn

kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng” [21,

tr.127]. Đảng ta chủ trương tiếp tục “thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng,

đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển” [21, tr.127]. Đại hội xác định: “Xây

dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống

vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và

phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công

bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng

gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực

thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.

Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở

địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp

hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.” [21, tr.127-128].

Cụ thể hóa chính sách dân tộc của Đảng vào tình hình cụ thể của địa

phương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI (2001)

đã xác định: “Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; phát huy và

giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc. Chú trọng nâng

cao dân trí, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời

48

sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ

cách mạng. Tăng cường đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số; có chính sách ưu đãi

cho những cán bộ từ vùng khác đến vùng cao, vùng xa công tác” [26, tr.45- 46].

Vận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

vào thực tiễn địa phương có hiệu quả, công việc đầu tiên là đổi mới và nâng cao vai

trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.

Tháng 2 năm 2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ

năm (khoá IX) (số 17- NQ/TW) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính

trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết khẳng định: cơ sở xã, phường, thị trấn là

nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai

trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,

phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội,

tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện

nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực

hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội

bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước

xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng; đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào

tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.

Nghị quyết Trung ương năm (khoá IX) (số 17-NQ/TW) đã đề ra các vấn đề

cơ bản và bức xúc phải giải quyết đến năm 2005 đó là: xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống cơ sở, đồng thời xây dựng mối quan hệ

đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ cơ sở;

thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống cơ sở ở cơ sở theo

nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực

hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện. Phát huy dân chủ

49

phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật kỷ cương theo pháp luật; Xây dựng đội

ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của

Đảng và pháp luật của Nhà nước, trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi

dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.

Cụ thể hoá Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương

khoá IX vào thực tiễn địa phương, ngày 9 tháng 7 năm 2002, Tỉnh uỷ Thái Nguyên

đã đề ra chương trình hành động số 06-CTr/TU.

Về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

ở cơ sở xã, phường, thị trấn, chương trình hành động số 06- CTr/TU chỉ rõ:

- Phân định rõ và đúng chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của chính

quyền phường, làm rõ sự khác biệt giữa chính quyền phường so với chính quyền xã,

thị trấn. Tổ chức lại mô hình tổ chức Đảng, tổ chức dân cư dưới cấp phường.

- Bố trí đủ cán bộ cho hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn theo quy

định chung của Trung ương và theo hướng chuẩn hoá, trẻ hoá, gắn chặt quyền hạn

với trách nhiệm. Kiện toàn đội ngũ cán bộ giữ chức vụ chủ chốt qua bầu cử của các

tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, người đứng đầu các cơ quan

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.

- Tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cơ sở nhằm

đạt được mục tiêu đến năm 2005 có trên 70% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua

bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định. Trên 80% cán bộ, công

chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với xã, phường, trị trấn ở vùng

đồng bằng và miền núi; sơ cấp trở lên đối với các xã vùng cao; đồng thời phải được

đào tạo có trình độ lý luận chính trị tối thiểu là sơ cấp.

- Có quy định cụ thể về nghĩa vụ, quyền lợi để thực hiện chủ trương điều

động, biệt phái cán bộ cấp tỉnh, huyện về xã, phường, thị trấn ở những nơi còn thiếu

50

cán bộ, đến vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn để tăng cường lực lượng

cán bộ tại chỗ.

- Có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đến năm 2005 các xã, phường, thị trấn

xây dựng xong trụ sở làm việc chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị theo

định mức thống nhất, đảm bảo đủ chỗ làm việc cho cán bộ cơ sở.

Để thực hiện được các nội dung trên, cần tổ chức quán triệt sâu rộng trong

Đảng, các cấp, các ngành, đoàn thể và trong nhân dân nhằm nâng cao thêm một

bước nhận thức thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng toàn dân về các

quan điểm chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới và nâng cao chất

lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đổi mới việc tổ chức học tập,

quán triệt nghị quyết theo hướng đúng đối tượng, thiết thực, hiệu quả. Hướng dẫn

Đảng viên, nhân dân tìm hiểu nghị quyết qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược của Đảng về vấn đề dân tộc và phát huy sức

mạnh toàn dân tộc được ghi trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Ban chấp hành

Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ bảy (khóa IX) vào tháng 1 năm 2003.

Hội nghị thông qua Nghị quyết số 24- NQ/TW về công tác dân tộc. Nghị quyết

khẳng định, Đảng ta dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ

giúp nhau cùng phát triển” nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp

tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì

mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thực hiện bình đẳng giữa

con người với con người trong xã hội, xóa bỏ áp bức, bóc lột, cùng nhau sống ấm

no, hạnh phúc. Điều này có nghĩa là, các dân tộc anh em trong đất nước ta đều được

bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ở đất nước ta không có kỳ thị dân tộc,

không một dân tộc nào áp bức bóc lột dân tộc khác; không có dân tộc nào dù đông

51

người hay ít người bị coi là thấp kém... Tất cả mọi dân tộc, mọi người đều có quyền

sống trong độc lập, tự do và vươn tới ấm no, hạnh phúc, có quyền giữ gìn, phát huy

bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình. Sự bình đẳng giữa các dân tộc bao hàm

cả nghĩa vụ và quyền lợi, về vật chất cũng như về tinh thần. Mỗi thành tựu kinh tế,

văn hóa, xã hội... của đất nước, các dân tộc đều được chung hưởng, và mỗi khi Tổ

quốc bị xâm lăng, thiên tai, địch họa, các dân tộc đều cố kết thành một khối vững

chắc, cùng chia sẻ, cùng nhau gánh vác, khắc phục và không hề có sự phân biệt nào.

Cơ sở quan trọng nhất để thực hiện sự bình đẳng và cùng tiến bộ giữa các

dân tộc là đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đường lối và

hệ thống pháp luật đó luôn được củng cố, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, được

thực hiện nghiêm túc, triệt để.

Tiếp tục sự nỗ lực đó, Đảng, Nhà nước ta từ nhiều năm nay đã vạch ra

đường lối phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng ở

các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; gắn phát triển kinh tế với giải quyết

các vấn đề xã hội; coi trọng phát triển nguồn nhân lực của đồng bào; chăm lo xây

dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đặc biệt, chú ý giữ gìn, phát huy bản

sắc văn hóa của đồng bào trong nền văn hóa tiên tiến chung của đất nước.

Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc nêu ra mục tiêu cụ thể đến

năm 2010 là: Phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào

các dân tộc; Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ

văn hóa của đồng bào; Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm

chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương, giữ vững an ninh quốc

phòng ở vùng dân tộc và miền núi. Nghị quyết đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu

và cấp bách để thực hiện mục tiêu đó:

- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng

bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

52

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh,

truyền hình; thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương

trình giáo dục miền núi; Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã,

bản, thôn, ấp.

- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân

tộc thiểu số.

- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; thực

hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và miền núi.

- Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu,

nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Trung ương bảy khóa IX về công

tác dân tộc, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng và ban hành

chương trình hành động số 09- CTr/TU ngày 16/5/2003. Xác định rõ 3 mục tiêu:

- Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào các

dân tộc.

- Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ

văn hóa của đồng bào.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ ở cơ sở có đủ phẩm

chất và năng lực.

Đồng thời đề ra 7 nhiệm vụ chính:

- Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức

sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu,

vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn, xã ATK. Chú trọng giải quyết những vấn đề bức

xúc như: thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, thiếu tư liệu sản

xuất. Làm tốt công tác định canh định cư, xây dựng vùng kinh tế mới.

53

- Tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin tuyên truyền hướng về cơ

sở. Tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh bằng tiếng

dân tộc thiểu số. Làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn phát huy các giá trị

văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.

- Quan tâm đầu tư hơn nữa cho giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số,

miền núi, vùng cao, trước hết là xây dựng trường, lớp kiên cố, bán kiên cố, mua

sắm thiết bị phục vụ dạy và học. Mở thêm các trường, lớp bán chú, thực hiện chủ

trương chuyển dần các trường mầm non sang hệ công lập, mở rộng việc dạy chữ

dân tộc. Thành lập và củng cố các Trung tâm dạy nghề tại các huyện miền núi, vùng

cao tạo điều kiện thuận lợi cho học tập của con em các dân tộc thiểu số.

- Tăng cường phương tiện, thiết bị và cán bộ y tế cho tuyến xã, đặc biệt là

các xã vùng sâu, vùng xa. Chú ý khai thác sử dụng các bài thuốc Nam có uy tín, đã

được khảo nghiệm trong đồng bào các dân tộc.

- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc

thiểu số. Có kế hoạch ưu tiên bổ sung cán bộ chuyên môn cho cấp xã, nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, khắc phục tình trạng quan liêu xa dân.

- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát

huy sức mạnh tại chỗ sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của mọi thế lực thù

địch. Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc.

- Đổi mới nội dung, phương pháp công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu

tình hình nhiệm vụ mới. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thông qua các chính

sách, biện pháp cụ thể động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực

tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói giảm

nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc [42].

2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách

dân tộc từ 2001 đến 2005

54

Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,

đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy,

cần phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị ở cơ sở, các cấp,

các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình

mới. Xem xét quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ

thường xuyên và quan trọng của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn

thể từ Trung ương đến địa phương.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở Thái Nguyên đã tăng cường

công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước cho mọi cán bộ, Đảng viên và cho nhân dân. Phổ biến sâu rộng các chủ

trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc và miền núi cho đồng bào

các dân tộc thiểu số.

Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước bao giờ cũng xuất phát từ tình

hình thực tiễn của cách mạng cả nước trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Chính sách

dân tộc chỉ mang lại hiệu quả thực sự khi được Đảng bộ các cấp địa phương quán

triệt đầy đủ, sâu sắc, tạo nên sự nhất trí cao trong cán bộ, Đảng viên, nhân dân, đồng

thời phải được cụ thể hóa bằng các chính sách và biện pháp cụ thể, sát hợp với thực

tế của địa phương.

Đảng bộ đã luôn quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho cán

bộ các ngành, các giới, các cấp, đổi mới tư duy nhận thức về công tác dân tộc trước

hết là cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên. Ngoài các lớp bổ túc văn

hóa, Đảng bộ thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị và chuyên

môn cho cán bộ cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các ban ngành.

Tăng cường đội ngũ cán bộ Đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở

các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí

tuệ, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.

55

Trên cơ sở nâng cao nhận thức về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ Đảng viên,

từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ đã họp toàn thể, bàn bạc

dân chủ và định ra nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cho phù hợp với thực tế

địa phương.

Để Nghị quyết của Đảng bộ đi vào cuộc sống, bên cạnh sự nỗ lực của các

cấp ủy Đảng và Đảng viên, cần phải đổi mới về công tác cổ động tuyên truyền để

mọi người dân, nhất là người dân tộc thiểu số, dân cư sống ở vùng sâu, vùng xa hiểu

được những chủ trương, chính sách của Đảng, qua đó thực hiện tốt hơn chính sách

của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Song song với đổi mới công tác chính trị tư tưởng, cần tiến hành đổi mới

công tác tổ chức đảm bảo thực hiện chính sách dân tộc.

Do đặc điểm kinh tế, trình độ dân trí thấp, bên cạnh đó các thế lực thù địch

đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân

tộc; tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nên đòi hỏi hệ thống chính trị trong

vùng dân tộc cần phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa.

Tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng ở cơ sở có vai trò to

lớn trong việc thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của quần chúng, điều hành và

quản lý xã hội, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Việc xây dựng,

củng cố kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhằm tăng cường năng lực thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng, đặc biệt là các cơ quan chuyên trách như Chi cục định canh định cư-

Kinh tế mới, Ban Dân tộc, Bộ phận quản lý chương trình 135. Nếu Đảng, chính

quyền cơ sở không đủ mạnh thì những chủ trương, kế hoạch, phương án phát triển

tại vùng dân tộc sẽ ít phát huy tác dụng. Giải pháp mang tính then chốt để nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong vùng đồng bào dân tộc

là phải xây dựng, củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư

56

tưởng và tổ chức, đảm bảo vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở địa phương; nâng

cao trình độ văn hóa, lý luận cho đội ngũ Đảng viên.

Trong công tác phát triển Đảng, hướng vào các đối tượng trẻ tuổi, có văn

hóa, trưởng thành từ phong trào quần chúng, chú trọng các chức danh chủ chốt, kế

cận công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Chú trọng phát triển Đảng viên ở vùng ít

Đảng viên nhằm phục vụ cho việc thực hiện chính sách dân tộc được tốt hơn. Tổ

chức Đảng và Đảng viên phải sâu sát thực tiễn, bám sát dân cư, nắm chắc tình hình

kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng ở địa bàn, hiểu sâu sắc tâm tư nguyện vọng và

yêu cầu của đồng bào, biết xác định nhiệm vụ lãnh đạo, trọng tâm công tác trong

từng thời điểm, tập trung các nguồn lực thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng

và Nhà nước.

Sau năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về chính sách dân

tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy khóa IX về công tác dân tộc, Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI và các Nghị quyết, Chỉ thị của Tỉnh ủy,

Ủy ban nhân dân, quá trình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên đã được tiến hành một cách tích cực, có hiệu quả trên nhiều mặt.

Trên lĩnh vực kinh tế: Về sản xuất nông nghiệp: Văn kiện Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI xác định: “Hướng chính là tăng năng

suất, tăng chất lượng, tăng hiệu quả cây trồng; vật nuôi; chuyển đổi cơ cấu cây con,

mùa vụ cho phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái, tạo ra vùng sản xuất hàng hóa lớn

với chất lượng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ”[26, tr.23].

Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bên cạnh việc tăng năng suất lúa, cần đẩy

mạnh sản xuất đối với các loại hoa màu như ngô, khoai, sắn, lạc,... Công tác phòng

chống bão lụt, chống hạn được triển khai một cách chủ động và tích cực. Các công

trình thủy lợi được xây dựng và kiên cố hóa. Cùng với những biện pháp đó là việc

áp dụng rộng rãi các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thúc đẩy sản

57

xuất nông nghiệp phát triển. Chính vì vậy, sản lượng lương thực bình quân năm sau

cao hơn năm trước, từng bước giải quyết khó khăn về lương thực cho đồng bào.

Một trong những đặc sản nổi tiếng của Thái Nguyên là cây chè. Cây chè là

một thế mạnh và có giá trị kinh tế ổn định nhất trên vườn đồi của tỉnh Thái Nguyên.

Chè Thái Nguyên không những có uy tín lớn ở thị trường trong nước mà còn được

xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Đài Loan. Nhằm phát huy thế mạnh mặt hàng

nông sản xuất khẩu chủ yếu này, Tỉnh ủy có chủ trương “tập trung đầu tư thâm canh

tăng năng suất, nâng cao chất lượng chè kết hợp với cải tạo và trồng mới ở các

huyện Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phú Lương, thành phố Thái Nguyên.”[26,

tr.23]. Đây là các huyện tập trung đông đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy, việc

mở rộng diện tích trồng chè không những phát huy thế mạnh cây kinh tế mũi nhọn

của tỉnh mà còn giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho đồng bào, phủ

xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với việc mở rộng diện

tích, tỉnh còn có chủ trương đưa các giống chè mới vào sản xuất, mặt khác cần phải

có biện pháp sử dụng hóa chất hợp lý để có chè sạch, chế biến nâng cao chất lượng

để chè Thái Nguyên có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước, ngoài nước.

Hình thành những vùng chè nổi tiếng như Phúc Trìu, Tân Cương, Trại Cài..., chất

lượng sản phẩm chè được giữ vững và có uy tín trên thị trường.

Thực hiện chủ trương phát triển nông lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ

sản phẩm, tỉnh đã hỗ trợ cho 36 xã đặc biệt khó khăn và An toàn khu từ 2003 đến

2005 là 4.810 triệu đồng. Phát huy thế mạnh về đất đồi rừng phát triển mạnh cây

công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với bảo quản,

chế biến, tiêu thụ. Nhiều nơi, mô hình sản xuất kinh tế trang trại được hình thành ở

các xã miền núi như: Hợp Tiến (Đồng Hỷ), Bộc Nhiêu (Định Hóa), Tràng Xá, Dân

Tiến (Võ Nhai)... Nhân dân đã biết kết hợp kinh tế vườn, đồi với kinh doanh chăn

nuôi gia cầm, gia súc, cá... với các loại giống cây, con mới có năng suất và hiệu quả

58

kinh tế cao. Đời sống kinh tế của nhiều gia đình được cải thiện rõ rệt, nhiều hộ gia

đình đã mua sắm được xe máy, đài, tivi...

Về công tác bảo vệ và phát triển rừng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Thái Nguyên lần thứ XVI khẳng định: “Rà soát lại quy hoạch đất lâm nghiệp, xây

dựng các vùng rừng nguyên liệu và cơ cấu cây trồng. Trồng mới hàng năm 2000 ha

rừng trên các vùng đã quy hoạch kết hợp với khoanh nuôi, bảo vệ, tái sinh rừng.

Năm 2005 nâng độ che phủ của rừng lên khoảng 45%. Chấm dứt tình trạng phá

rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép. Hoàn thành căn bản công tác định

canh định cư và ổn định đời sống nhân dân vùng núi, vùng cao [26, tr.24].

Thực hiện chủ trương trên, trong năm năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân

đã kịp thời đề ra một số biện pháp nhằm phục hồi tài nguyên rừng hiện có đồng thời

huy động nhân lực tại chỗ làm công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng. Lực lượng lao

động trực tiếp (kiểm lâm nhân dân) và lực lượng cán bộ kỹ thuật có thể huy động tại

địa phương thông qua việc ký các hợp đồng thời vụ, hợp đồng ngắn hạn 1- 2 năm.

Như vậy, có thể kết hợp khoanh nuôi, bảo vệ rừng với giải quyết việc làm cho đồng

bào trong vùng. Đến năm 2005, diện tích rừng trồng mới bình quân hàng năm đạt

hơn 2000 ha.

Đi đôi với công tác trồng rừng là chính sách định canh định cư và kinh tế

mới. Từ năm 1993 đến năm 2004, tổng số vốn cấp cho công tác định canh định cư-

kinh tế mới là: 81.439,790 triệu đồng (trong đó, vốn dự án định canh định cư là

58.416,790 triệu đồng). Tổng số xã có diện vận động định canh định cư là 38

xã/180 xã, phường, thị trấn. Tổng số xóm bản diện vận động định canh định cư là

112 xóm nằm ở 38 xã. Tổng số hộ thuộc diện vận động định canh định cư là 3430

hộ. Tổng số khẩu thuộc diện vận động định canh định cư là 20.530 khẩu. Trong đó

số hộ chưa ổn định còn có khả năng tái du canh du cư là 650 hộ và 3.240 khẩu [33].

59

Được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự

phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, công tác định canh định cư- kinh tế mới

trong năm năm 2001- 2005 đạt được một số kết quả tốt. Xây dựng được nhiều công

trình phúc lợi công cộng phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc ở

các bản làng vùng sâu, vùng xa; xây dựng được cơ chế chính sách đầu tư, hỗ trợ các

hộ nghèo về đời sống và sản xuất trong vùng dự án như hỗ trợ làm nhà ở, khai

hoang trồng cây lương thực, chăn nuôi đại gia súc, làm chuồng trại, hỗ trợ đất đai

sản xuất... theo hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, xóa bỏ

dần sản xuất tự cung tự cấp, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Nhiều vùng định

canh định cư của đồng bào các dân tộc thiểu số được thành lập ở xã Quy kỳ, Bảo

Linh, Linh Thông, Phú Đình (huyện Định Hóa), xóm Khe Cạn (huyện Đồng Hỷ), xã

Liên Minh, Cúc Đường (huyện Võ Nhai). Đến 2005 có 2780 hộ ổn định định canh

định cư, đạt 83% tổng số đối tượng vận động [33].

Công tác định canh định cư- kinh tế mới đã góp phần xây dựng cơ sở vật

chất ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, thúc đẩy sản xuất phát

triển và nâng cao năng lực thực hiện chính sách cho cán bộ và nhân dân ở vùng dân

tộc và miền núi, góp phần bảo vệ rừng và môi trường sinh thái, xóa đói giảm nghèo,

xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, củng cố tình đoàn kết

bình đẳng giữa các dân tộc và giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác định canh định cư- kinh tế

mới cũng còn một số tồn tại: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực miền núi, vùng

sâu, vùng xa rất chậm, một số cây trồng đầu tư hiệu quả thấp như mơ, mận, vải.

Trình độ sản xuất còn lạc hậu, sản xuất tự cung tự cấp. Hạ tầng cơ sở yếu kém, đời

sống đồng bào còn khó khăn hạn chế nhiều mặt. Nạn phá rừng, khai thác gỗ và lâm

sản trái phép còn phổ biến. Người dân sống ở rừng chưa thật sự sản xuất và làm

giàu từ rừng.

60

Về phát triển công nghiệp: Chủ trương của Tỉnh ủy Thái Nguyên trong năm

năm 2001- 2005 đó là: “ưu tiên kêu gọi đầu tư phát triển các ngành: công nghiệp vật

liệu xây dựng; khai thác và chế biến khoáng sản; công nghiệp bảo quản và chế biến

nông lâm sản (chè, trái cây, gỗ, thực phẩm...); nhiệt điện và thủy điện nhỏ...” [26,

tr.27]. Phát triển công nghiệp ở vùng miền núi dân tộc là rất cần thiết nhằm khai

thác hợp lý tài nguyên của vùng và giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đồng

bào các dân tộc trong vùng. Hiện nay, các cơ sở công nghiệp trong vùng miền núi

dân tộc của tỉnh chủ yếu vẫn là khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng. Chính vì

vậy, với chủ trương của Tỉnh ủy sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư vào khu vực này,

tạo điều kiện phát triển công nghiệp vùng dân tộc miền núi của tỉnh Thái Nguyên.

Về thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo: Với quan điểm “phát triển

kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [26,

tr.21], Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân luôn quan tâm tới công tác xóa đói giảm nghèo.

Những năm gần đây, nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà đại bộ phận đời sống

nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Chủ trương xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta đề cập đến lần đầu tiên

trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Trung ương

năm khóa VII. Tiếp tục cụ thể hóa chương trình này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII của Đảng, chủ trương xóa đói giảm nghèo được xác định là một trong

những chương trình quốc gia quan trọng.

Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Thái

Nguyên đã triển khai, vận dụng sáng tạo đường lối đó vào tình hình cụ thể của địa

phương. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI khẳng định: “tiếp tục thực

hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và phong trào hỗ trợ các hộ nghèo, xã

nghèo,... tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng cho các xã nghèo, cần coi trọng công

61

tác đào tạo cán bộ, tạo điều kiện cho dân cư các xã nghèo phát triển ngành nghề,

phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập” [26, tr.41].

Ngày 20/9/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ra Quyết định

2803/2002/QĐ- UB về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm

nghèo tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001- 2005.

Mục tiêu cụ thể của chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Thái Nguyên

đến năm 2005 phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 14,91% thời điểm 1/1/2001 xuống

còn dưới 10% vào cuối năm 2005, mỗi năm phấn đấu giảm 1,4%.

Để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, tỉnh thành lập

Ban chỉ đạo giúp cấp ủy, Ủy ban nhân dân lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện và

kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các ngành các cấp, huy động mạnh sức mạnh

tổng hợp của Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội và nhân dân chăm lo giúp đỡ

các hộ nghèo. Các huyện, thành, thị, xã, phường thành lập ban chỉ đạo chương trình

xóa đói giảm nghèo để đi sâu chỉ đạo, điều hành và có biện pháp thực hiện cụ thể ở

mỗi địa phương.

Công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu

số được xác định là nhiệm vụ rất khó khăn. Bên cạnh đầu tư của Trung ương thông

qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 135... các ngành, các cấp ở

tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ, nguồn

vốn của tỉnh ưu tiên cho vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn, cử cán bộ có trình

độ kỹ thuật về cơ sở để hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu

cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền vận động

đồng bào phát huy nội lực vươn lên xóa đói giảm nghèo.

Sau ba năm (2001- 2003), tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm 5,06% (cả nước là

6,18%). Năm 2004 là 9,85%, về sớm so với mục tiêu của chương trình hai năm (đến

2005 còn dưới 10% hộ nghèo), có 34 xã, phường, thị trấn có tỷ lệ hộ nghèo dưới

62

2%; đạt tiêu chuẩn quốc gia về địa bàn cơ bản không còn hộ nghèo, trong đó có 4

xã, phường, thị trấn không còn hộ nghèo [57].

Những nguyên nhân chính dẫn đến những thành công của chương trình xóa

đói giảm nghèo đó là: Trên cơ sở xác định vị trí, tầm quan trọng của chiến lược xóa

đói giảm nghèo và ý nghĩa của chương trình đối với việc thực hiện chính sách công

bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị trong nền kinh tế thị trường, từ đó các

ngành, các cấp, các tổ chức xã hội trong tỉnh đều coi trọng chương trình xóa đói

giảm nghèo. Chương trình xóa đói giảm nghèo đã huy động được sự tham gia của

tất cả các ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,

trường học, bệnh viện, sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và tranh thủ

được sự ủng hộ đầu tư của các dự án quốc tế.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chương trình xóa đói giảm nghèo vẫn

còn hạn chế: Một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là nhân dân vùng sâu, vùng

xa, các xã đặc biệt khó khăn đang chịu cảnh nghèo đói chưa đảm bảo được điều

kiện tối thiểu của cuộc sống, sự phân hóa giàu nghèo đã và đang diễn ra mạnh mẽ.

Mức độ cải thiện đời sống của nhân dân không đều và chưa vững chắc. Tư tưởng ỷ

lại trông chờ vào chính sách ưu đãi, trợ cấp, cứu trợ của Nhà nước vẫn còn tồn tại ở

một số địa phương và hộ nghèo nên hạn chế sự năng động tự vươn lên của người

nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; Việc tuyên truyền vận động để huy động nguồn lực có

sự tham gia của cộng đồng, của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp chưa thường

xuyên. Một số địa phương chạy theo thành tích, giao chỉ tiêu giảm hộ nghèo mang

tính áp đặt thiếu căn cứ dẫn đến tình trạng một số hộ thoát nghèo nhưng thực tế

cuộc sống vẫn khó khăn, tính bền vững thấp, nguy cơ tái nghèo cao.

Thực hiện Quyết định số 135/1998/QĐ- TTg ngày 31/7/1998 của Thủ

tướng Chính phủ là “Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó

khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa” (gọi tắt là Chương trình 135). Đây là một

63

chương trình đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nâng

cao đời sống mọi mặt và thực hiện công bằng xã hội cho các địa bàn các dân tộc

thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời góp phần trực tiếp giải quyết các vấn đề an

ninh, quốc phòng.

Qua 7 năm triển khai, thực hiện (1999- 2005) Chương trình 135, đồng bào

các dân tộc trong tỉnh rất vui mừng, phấn khởi và tích cực tham gia. Chương trình

135 với nguồn vốn trong 7 năm (1999- 2005) là 210.047,17 triệu đồng. Đến năm

2005, tỉnh Thái Nguyên có 52 xã được thụ hưởng từ Chương trình 135 (trong đó 28

xã đặc biệt khó khăn, 24 xã An toàn khu). Chỉ tính riêng xây dựng cơ sở hạ tầng

trong 7 năm (1999- 2005) là 280 công trình với tổng số vốn thực hiện là 146.365.73

triệu đồng [59, tr.2].

Chương trình 135 là một chủ trương có tác dụng thiết thực nhất đối với

nhân dân các xã đặc biệt khó khăn, An toàn khu, đã tạo việc làm cho nhân dân trong

vùng và là một biện pháp tích cực, hiệu quả trong chương trình xóa đói giảm nghèo.

Nhờ nguồn vốn của Chương trình 135, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm

được xây dựng tương đối khang trang, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình đường Quán Vuông- Phú Đình

(Định Hóa), Tràng Xá- Thượng Nung (Võ Nhai), 100% các xã có đường ô tô vào

đến tận trung tâm xã, các xã đều có điện lưới quốc gia, chợ thương mại ở các trung

tâm cụm xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa. Đây là cơ sở để thúc

đẩy phát triển thị trường tiêu thụ nông sản ở nông thôn miền núi, giảm chi phí vận

chuyển, góp phần thúc đẩy sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế

hộ gia đình, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần cải thiện

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Với hiệu quả của Chương trình 135 làm

cho nhân dân tin tưởng và tự giác chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước.

64

Chương trình 135 thực hiện và đạt hiệu quả cao là do trong quá trình thực

hiện được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, chính quyền

các cấp lãnh đạo vận động nhân dân tham gia đóng góp đất đai, ngày công, tiền của

để xây dựng các công trình, nhiều tổ chức cá nhân ở trung ương, địa phương đã

tham gia giúp đỡ hỗ trợ xây dựng các công trình phúc lợi chung cho vùng đặc biệt

khó khăn. Ban giám sát công trình ở các xã đã nêu cao tinh thần trách nhiệm làm tốt

công việc giám sát nên chương trình đưa vào sử dụng đảm bảo kỹ thuật và chất

lượng.

Bên cạnh những thành tựu trên, Chương trình 135 trong quá trình thực hiện

ở tỉnh Thái Nguyên cũng còn hạn chế: các công trình xây dựng cơ bản mới chủ yếu

tập trung đầu tư tại trung tâm cụm xã, trung tâm các xã và phần lớn tập trung vào

công trình giao thông và trường học, còn lại các công trình khác phục vụ cho sinh

hoạt và sản xuất của nhân dân, nhất là ở xóm, bản vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng

được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đầu tư thâm canh; đời sống và điều kiện

sinh hoạt của đồng bào tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn; Hầu hết

các xã chưa làm chủ đầu tư được theo cơ chế quản lý của Chương trình 135, chưa

thực hiện phương châm xã có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập, góp phần

xóa đói giảm nghèo. Ban giám sát xã đã hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao do

trình độ còn hạn chế.

Về giáo dục và đào tạo: Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,

Đảng ta luôn coi trọng công tác giáo dục- đào tạo “nhằm xây dựng những con người

và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo

đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng

lực tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại; phát triển tiềm năng của dân tộc và con

người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri

65

thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành

giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những

người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [19, tr.29]. Các

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX

và Hội nghị Trung ương hai khóa VIII đều xác định giáo dục và đào tạo là “quốc

sách hàng đầu” và chỉ rõ “ Giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà

nước và của toàn dân”.

Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về sự nghiệp giáo dục- đào tạo,

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những chủ trương, biện pháp phát triển giáo dục-

đào tạo phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Đối với công tác giáo dục ở

vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần

thứ XVI khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục thường xuyên;

thực hiện tốt chính sách của Đảng về giáo dục ở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào

dân tộc” [26, tr.32- 33].

Trong năm năm (2001- 2005), công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số

được triển khai thực hiện trên nhiều mặt và đạt những kết quả quan trọng.

Ngành giáo dục mầm non: Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, trong

điều kiện còn rất nhiều khó khăn, nhưng nhờ tích cực thực hiện chủ trương xã hội

hóa giáo dục và đa dạng hóa các loại hình trường lớp nên số trẻ đến các trường lớp

mầm non ngày một tăng.

Năm Số trẻ đến lớp mẫu giáo Tỷ lệ

1996- 1997 25.966 41,4%

2002- 2003 30.809 70,6%

(Nguồn: Quy hoạch phát triển Giáo dục- Đào tạo tỉnh Thái Nguyên đến 2010)

66

Đặc biệt, số trẻ mẫu giáo 5 tuổi tăng nhanh: năm 2002- 2003 có 15.518

cháu đạt tỷ lệ 99,6%, tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo đạt cao (99,6%).

Điều này có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bậc tiểu học

và thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Đối với các xã miền núi, vùng

cao, ngoài các lớp mẫu giáo 5 tuổi đang theo học chương trình hoàn chỉnh theo 3 độ

tuổi còn có nhiều hình thức học cho trẻ như chương trình 26 tuần cho trẻ không qua

mẫu giáo 3, 4 tuổi, chương trình 36 buổi cho trẻ chưa bao giờ tới lớp mẫu giáo,

chương trình tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số... Sự đa dạng về hình

thức đã tạo cơ hội phát triển giáo dục mầm non cho trẻ ở vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, giáo dục mầm non của tỉnh còn một số khó khăn như: đa số các

trường mầm non dân lập lại ở khu vực nông thôn miền núi, việc tổ chức và duy trì

các lớp mẫu giáo dân lập ở khu vực miền núi vùng cao là rất khó khăn vì đời sống

của nhân dân trong vùng còn nghèo, thu nhập thấp không đủ đóng góp để chi phí

các khoản: trả lương cô, xây dựng trường lớp, ăn bán trú... Bên cạnh đó, số giáo

viên dạy ở trường dân lập ngoài biên chế tập trung ở khu vực nông thôn miền núi

đời sống khó khăn và chưa ổn định, hạn chế đến chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc

và giáo dục trẻ mầm non.

Đối với các cấp học phổ thông, trung ương và địa phương luôn quan tâm,

đề ra các chính sách ưu đãi đối với học sinh các xã đặc biệt khó khăn và hệ dân tộc

nội trú. Thực hiện theo quyết định của trung ương, các học sinh dân tộc nội trú được

hưởng các chế độ: miễn giảm các khoản đóng góp như học phí, xây dựng trường

lớp, được hỗ trợ sách giáo khoa và học phẩm; cấp quần áo, trang phục và các đồ

dùng sinh hoạt như chăn, màn, được khám sức khỏe định kỳ và bố trí phương tiện

đưa về địa phương nhân dịp nghỉ hè, nghỉ tết. Ngày 29/12/2004, Ủy ban nhân dân

tỉnh ra quyết định số 3300/QĐ- UB. Theo quyết định này mỗi học sinh trường phổ

thông dân tộc nội trú được hưởng mức học bổng là 160.000 đồng/học sinh/1 tháng

67

(được hưởng cả 12 tháng). Đối với 52 xã đặc biệt khó khăn được thụ hưởng chương

trình 135, tỉnh quyết định chi ngân sách địa phương để cấp giấy viết cho học sinh,

bình quân mỗi học sinh không quá 18.000 đồng/năm. Năm 2005 tổng kinh phí đã

cấp là 685,0 triệu đồng [50].

Với các chính sách ưu đãi của Trung ương và địa phương đối với học sinh

các dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn đã khuyến khích các em đến lớp,

củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và đến năm 2005

tỉnh Thái Nguyên đã phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên phạm vi toàn tỉnh. Năm

năm (2001- 2005) đã xây dựng được 1569 phòng học trong toàn tỉnh, trong đó đã

xóa xong phòng học tạm cho 36 xã đặc biệt khó khăn, xây dựng 351 phòng học mới

[27, tr.17].

Chính sách cử tuyển, đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc luôn được tỉnh quan

tâm. Trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh hàng năm tuyển chọn hàng trăm con

em dân tộc về tập trung học tập, các chỉ tiêu tuyển sinh vào trường Vùng Cao Việt

Bắc được thực hiện đầy đủ, hệ thống giáo dục của tỉnh đã hoàn chỉnh tới khắp các

xã vùng sâu, vùng xa. Hàng năm thực hiện tốt chế độ cử tuyển vào các trường đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, năm 2003 có 16 em, năm 2004 có 24 em,

năm 2005 có 44 em được cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng [43].

Góp phần giảm bớt khó khăn cho giáo viên giảng dạy ở vùng sâu, vùng xa,

cán bộ quản lý ở các trường chuyên biệt ở vùng đặc biệt khó khăn, từ năm 1995, Ủy

ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên có Quyết định số 207/QĐ- UB ngày 22/8/1995 về

thực hiện quy định tạm thời về chế độ trợ cấp đối với giáo viên công tác ở các xã

vùng cao: Cán bộ, giáo viên được điều động đi công tác tại các xã vùng cao, xã đặc

biệt khó khăn thì được trợ cấp một lần là 400.000 đồng/người và được hưởng trợ

cấp thường xuyên là 60.000 đồng/người/ tháng đối với các trường chính và 120.000

đồng/người/ tháng đối với các phân trường. Từ năm 2001, tỉnh Thái Nguyên thực

68

hiện theo Nghị định số 35/2001/NĐ- CP ngày 9/7/2001 của Chính phủ về chính

sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác ở các trường chuyên

biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Về công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân: Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI nêu rõ: “phát triển y tế dự phòng,

nâng cao hiểu biết của nhân dân về vệ sinh phòng bệnh và chăm sóc sức

khỏe... nâng cao thể lực và tuổi thọ của người dân; đảm bảo cung cấp đến mọi

người dân các dịch vụ y tế cơ bản”; “củng cố mạng lưới y tế cơ sở, phấn đấu

xã nào cũng có trạm y tế, có bác sỹ, y sỹ sản nhi hoặc nữ hộ sinh. Củng cố,

phát triển các vùng thuốc nam, nâng cấp các trung tâm y tế huyện” [26, tr.42].

Với chủ trương trên, trong năm năm (2001- 2005) Tỉnh ủy, Ủy ban nhân

dân tỉnh rất quan tâm phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Năm 2003, Thái Nguyên có

194 bác sỹ đang công tác tại các trạm y tế xã, phường trong đó bác sỹ là người dân

tộc thiểu số chiếm 41,36%. Đến năm 2005 có 765 cán bộ y tế thôn bản/794 thôn bản

chiếm 96,35% [56].

Chương trình tiêm chủng mở rộng đã được triển khai đến 180 xã, phường,

thị trấn. Các cháu được tiêm chủng đầy đủ toàn tỉnh đạt tỷ lệ cao. Năm 2004 trẻ em

các xã đặc biệt khó khăn được tiêm chủng đầy đủ là 3185 em/ 3258 em đạt tỷ lệ

97,75% [50].

Tuy nhiên, công tác y tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt khó

khăn còn một số hạn chế như: các trang thiệt bị thông thường sử dụng trong khám

và điều trị ở trạm y tế rất thiếu. Trên 70% trạm y tế chưa được trang bị các loại

dụng cụ sử dụng khám điều trị chuyên khoa đơn giản như: răng, mắt, tai- mũi-

họng. Chưa có chế độ chính sách thỏa đáng để thu hút cán bộ về vùng cao, vùng

sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số công tác.

69

Về công tác văn hóa thông tin, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng

tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống

có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [21, tr.114].

Thực hiện chủ trương của Đảng, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Nguyên

trong năm năm qua (2001- 2005) đã tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nhằm vừa phục vụ

các nhiệm vụ chính trị, vừa từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, giáo dục

tư tưởng, tình cảm của nhân dân, góp phần tuyên truyền đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của đồng bào

các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền từ

tỉnh tới cơ sở quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai, thực hiện và thu được

những kết quả nhất định.

Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở miền núi, vùng cao tập trung vào cuộc

vận động đồng bào thay đổi lối sống du canh du cư chuyển sang định canh định cư,

thay việc trồng ngô phát nương làm rẫy sang trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả,

trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc gia cầm. Việc cưới, việc tang được thực hiện

đúng Chỉ thị 27/CT-TW, Chỉ thị 14 của Thủ Tướng Chính phủ, từng bước xóa bỏ

những hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin. Nhiều địa phương có quy ước riêng

về việc cưới, việc tang cho đồng bào.

Các hình thức tuyên truyền thực hiện nội dung, mục tiêu của cuộc vận động

đến bà con được thông qua các buổi họp chợ, họp xóm bản, cán bộ văn hóa xã cùng

già làng, trưởng bản đến từng gia đình vận động. Không khí hăng hái thi đua phát

triển kinh tế gia đình, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây

dựng gia đình ấm no được từng bước được đẩy mạnh.

70

Đối với công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống,

ngành Văn hóa Thông tin Thái Nguyên đã xây dựng kế hoạch sưu tầm, giữ gìn văn

hóa vật thể và văn hóa phi vật thể cho đồng bào các dân tộc như: nhạc cụ, các làn

điệu dân ca, các điệu múa... Chú trọng khai thác vốn văn nghệ dân gian như hát ví,

hát ru, khèn bè, khèn lá, khai thác các trò chơi dân gian như tung còn, đánh yến, vật

cù. Tổ chức cho các nghệ nhân tham gia các khóa tập huấn hoạt động văn hóa văn

nghệ ở tỉnh và Trung ương.

Công tác xây dựng thiết chế văn hóa ở cơ sở trong những năm qua thu được

nhiều kết quả đáng kể, góp phần tích cực vào sự thay đổi diện mạo đời sống tinh

thần cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Đến năm 2005, Thái Nguyên có 1560 nhà

văn hóa xóm, bản, trong đó nhà văn hóa của đồng bào các dân tộc xây dựng được là

250 nhà, đặc biệt nhà văn hóa xóm Đồng Tâm xã Tức Tranh huyện Phú Lương là

xóm có 100% dân cư là người dân tộc Sán chí được chọn làm mô hình điển hình

tiên tiến để nhân ra diện rộng [51, tr.2].

Việc thực hiện phủ sóng phát thanh truyền hình được quan tâm, trong năm

năm bình quân mỗi năm Đài phát thanh- truyền hình tỉnh Thái Nguyên phát sóng

khoảng 12.000 tin bài. Đến nay, Đài phát thanh- truyền hình tỉnh đã thực hiện sản

xuất và phát sóng chương trình địa phương hàng ngày. Chương trình phát thanh

được phát sóng bằng 3 thứ tiếng: phổ thông, Tày- Nùng, Dao ở 3 buổi sáng, trưa, tối

với các chương trình: thời sự, thời sự tổng hợp, văn nghệ, ca nhạc. Các chương trình

tiếng dân tộc: Tày- Nùng, Dao được quan tâm, đặc biệt là mảng văn nghệ tiếng dân

tộc được bổ sung nhiều bài hát mới. Việc thực hiện có chất lượng các chương trình

phát thanh tiếng dân tộc không chỉ là thông tin, chuyển tải các chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh đến với đồng bào mà còn góp

phần củng cố niềm tin của đồng bào với Đảng và lưu giữ, bảo tồn vốn văn hóa dân

tộc.

71

Năm 2005, trên địa bàn tỉnh diện phủ sóng đạt 100% với phát thanh và 90%

với truyền hình đã góp phần quan trọng đưa tiếng nói của Đảng đến với đồng bào

dân tộc thiểu số [43].

Đối với hoạt động văn hóa nghệ thuật, chiếu bóng, quán triệt mục tiêu

hướng về cơ sở, phục vụ đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng An toàn

khu, các đối tượng chính sách, có công với cách mạng, kết quả từ năm 2000 đến

năm 2004 ngành Văn hóa Thông tin đã tổ chức được 6.304 buổi chiếu phim, 915

buổi biểu diễn nghệ thuật, 3.025 lượt thông tin tuyên truyền [51].

Về vấn đề dân tộc và tôn giáo: Thái Nguyên có 2 tôn giáo chính là Phật

giáo và Công giáo. Phật giáo có khoảng 2 vạn tín đồ thuần thánh và khoảng 1 vạn

người tham gia phật sự; đạo Công giáo có khoảng 2,8 vạn tín đồ.

Từ năm 1990 đến 2005, Đạo Tin lành truyền trái phép vào vùng đồng bào

dân tộc thiểu số của tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là dân tộc Hmông, Dao ở các huyện

miền núi, vùng sâu, vùng xa như: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương và một số

ít ở thành phố Thái Nguyên, Phú Bình, với khoảng trên 4.000 người theo hoặc ảnh

hưởng của đạo Tin lành. Trên địa bàn tỉnh có 31 điểm nhóm sinh hoạt đạo Tin lành,

địa bàn ảnh hưởng tới nay 28 xóm, bản, 19 xã của 8 huyện, thành, thị; có 5 hệ phái:

Hội thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc), Hội thánh Tin lành Liên hữu cơ đốc, Hội

thánh tin lành Việt Nam truyền giáo, Hội thánh tin lành phúc âm ngũ tuần Hà Nội,

Hội thánh tin lành phúc âm ngũ tuần thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, nhóm

Hmông trắng ở Thái Nguyên có 100% số hộ đã bỏ bàn thờ tổ tiên đi theo hoặc chịu

ảnh hưởng của đạo Tin lành [50].

Thực hiện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tôn

giáo, Đảng bộ, chính quyền các cấp, các ngành trong tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều

cố gắng giải quyết tốt các nhu cầu chính đáng của đồng bào có đạo.

72

Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI chỉ rõ: “Thực

hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do

không tín ngưỡng, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn

kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo; hướng dẫn đồng bào theo tôn

giáo làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”.

Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, đội lốt tôn giáo để làm trái pháp luật và chính

sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân” [26, tr.46].

Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo được chú trọng, từng bước tiến bộ.

Năm 1993, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái đã ban hành Quy định tạm thời số 143

ngày 15/3/1993 về quản lý các hoạt động tôn giáo. Ngày 14/6/2004, tỉnh Thái

Nguyên ban hành Quy định số 1329 về quản lý các hoạt động tôn giáo trong tỉnh.

Đây là những văn bản cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước vào

thực tế địa phương, là cơ sở cho công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động

tôn giáo. Các cấp chính quyền đã quan tâm, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo cho quần chúng nhân dân; tạo điều kiện cho các tôn giáo mở lễ hội, tổ chức

nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy định của pháp luật; giúp

đỡ các tổ chức tôn giáo bổ nhiệm, phong chức cử người học đạo; giúp đỡ, tạo điều

kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự theo đúng quy

định của pháp luật Nhà nước và địa phương.

Năm 2004, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã có Thông báo số 416/TB- TU ngày

14/7/2004 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên đồng ý cho thành lập Ban trị sự

Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thái Nguyên và thành lập Ủy ban đoàn kết Công

giáo tỉnh Thái Nguyên.

Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (nhất là vùng dân tộc Hmông, Dao) đạo Tin

lành đã và đang truyền vào một cách trái phép, đã có 3.500/6.000 người Hmông tin

theo thờ chúa Giêsu. Tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp đấu tranh ngăn chặn việc

73

truyền đạo trái phép bằng các biện pháp: tuyên truyền vận động quần chúng, phát

động “phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đấu tranh trực tiếp với

những người cầm đầu. Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể đã quan tâm đến công tác tôn

giáo, tăng cường công tác tuyên truyền vận động, kết nạp đoàn viên, hội viên là

người có đạo... Đưa các chương trình phát triển kinh tế- xã hội nâng cao chất lượng

cuộc sống cho đồng bào. Hàng năm mở Hội nghị chuyên đề về công tác tôn giáo,

biểu dương kịp thời tập thể, cá nhân người công giáo tiêu biểu.

Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong vùng đồng bào có đạo,

hàng năm công tác phát triển Đảng được các cấp ủy quan tâm. Năm 2002 toàn tỉnh

có 239 Đảng viên gốc đạo công giáo, năm 2003 có 347 Đảng viên gốc đạo công

giáo, đến năm 2004 tăng lên 358 Đảng viên gốc đạo công giáo [43].

Một trong những công tác được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh chú ý chỉ

đạo là việc thực hiện chính sách dân tộc đối với vùng đồng bào dân tộc Hmông.

Đồng bào dân tộc Hmông ở Thái Nguyên chủ yếu sinh sống tập trung ở

vùng núi cao vùng sâu, vùng xa, có đặc thù là thường sống du canh du cư, nơi cư trú

không ổn định, đời sống của đồng bào gặp rất nhiều khó khăn cả về vật chất và tinh

thần, trẻ em thường không được đi học, việc tuyên truyền vận động chủ trương

chính sách của Đảng và Nhà nước rất khó khăn. Lợi dụng đặc điểm này các thế lực

thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đưa tà đạo vào vùng đồng bào

nhằm tách họ ra khỏi cộng đồng, kích động họ chống đối chính quyền gây mất ổn

định an ninh trật tự ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với những

chính sách ưu đãi cho các dân tộc thiểu số nói chung, theo tinh thần chỉ thị số

45/CT- TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số công tác vùng dân tộc

Hmông đã góp phần ổn định đời sống của đồng bào dân tộc Hmông. Tỉnh ủy, Hội

đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và chính quyền địa phương đã phân công nhiều

74

cán bộ xuống ba cùng với nhân dân ở cơ sở, nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng

của đồng bào từ đó tuyên truyền giáo dục đường lối chủ trương, chính sách pháp

luật của Đảng và Nhà nước. Nội dung tuyên truyền thường xuyên được cụ thể hóa,

cung cấp những thông tin liên quan đến kinh tế- văn hóa- xã hội bằng những việc

làm cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương với những hình thức và

phương pháp đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện và gắn với phong tục tập quán

của đồng bào dân tộc Hmông.

Đi đôi với công tác tuyên truyền, công tác đầu tư phát triển sản xuất, ổn

định đời sống vùng đồng bào dân tộc Hmông được quan tâm. Tính trong 10 năm

(1994- 2003), tổng số vốn đầu tư hỗ trợ cho đồng bào dân tộc Hmông là 12.259,0

triệu đồng với các dự án định canh định cư, hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ

tầng... [34].

Công tác củng cố xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể vùng đồng

bào dân tộc Hmông là nhiệm vụ quan trọng: tất cả các xóm bản đều có tổ chức đoàn

thể chính trị như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, các

xóm bản đều có già làng trưởng bản được giác ngộ cao. Toàn tỉnh có 20 Đảng viên

dân tộc Hmông, số xóm có Đảng viên dân tộc Hmông là 10 xóm/27 xóm chiếm

37%, còn các Đảng viên là dân tộc Hmông ở các xóm không đủ số lượng thành lập

chi bộ Đảng thì tổ chức sinh hoạt ghép [34]. Hàng năm, các cán bộ từ cấp xóm xã

đều được đi đào tạo, tập huấn về trình độ lý luận chính trị, bổ túc văn hóa, chuyển

giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hiện nay cán bộ cốt cán cơ sở có 32

người.

Về công tác an ninh- quốc phòng: Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc

thiểu số ở Thái Nguyên, phần lớn là vùng núi, nơi có vị trí quan trọng về kinh tế,

chính trị, an ninh quốc phòng; Tình trạng khai thác, đào đãi vàng, thiếc trái phép

vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều vùng dân tộc, phá hoại nương rẫy, hoa màu của đồng

75

bào, gây mất đoàn kết, an ninh trật tự xã hội phức tạp ở địa phương. Vì vậy Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên bên cạnh việc đầu tư nguồn lực phát triển kinh tế- văn hóa thường

xuyên coi trọng công tác bảo vệ an ninh, trật tự ở vùng dân tộc thiểu số.

Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI khẳng định:

“Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, đảm bảo tốt trật tự an toàn xã hội là nhiệm

vụ trọng yếu thường xuyên của các tổ chức Đảng, Nhà nước, và của toàn dân...”[26,

tr.34]. Các cấp ủy Đảng, cơ quan chuyên trách, lực lượng công an cơ sở triển khai

nhiều biện pháp, tuyên truyền vận động nhân dân sống và làm việc theo hiến pháp

và pháp luật, tổ chức cho quần chúng nhân dân học tập các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, xây dựng quy ước, hương ước các làng, bản; phát động

phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” trong các bản làng dân tộc thiểu

số, giáo dục cho quần chúng về sự nguy hại của ma túy, từ đó nâng cao nhận thức, ý

thức tự giác của mọi người, từng gia đình và cộng đồng trong việc phòng chống tệ

nạn ma túy.

Về xây dựng hệ thống chính trị: Trong quá trình thực hiện Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thường xuyên quan

tâm đến việc xây dựng hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số, coi đây là một trong

những nhiệm vụ quan trọng nhất để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội, từng

bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, giữ vững an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội.

Để xây dựng hệ thống chính trị, trước hết cần tập trung củng cố và nâng

cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng gắn liền với việc

nâng cao chất lượng Đảng viên, coi đây là nhiệm vụ có tính chiến lược của công tác

xây dựng Đảng, đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách

của Đảng và Nhà nước.

76

Năm 2005, Đảng bộ tỉnh có 4.095 chi bộ trực thuộc dưới Đảng bộ,

11.531/61.587 Đảng viên là người dân tộc thiểu số, 750 bí thư chi bộ là người dân

tộc thiểu số. Từ nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở Đảng ở miền

núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, vấn đề dân

tộc, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm chính trị, dễ bị lợi dụng, Đảng bộ tỉnh luôn quan

tâm tới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bí thư chi bộ cơ sở ở vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý

luận chính trị. Năm 2005, theo đánh giá phân loại các tổ chức cơ sở Đảng ở miền

núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên toàn tỉnh có 405 tổ chức cơ sở Đảng đạt chi

bộ trong sạch, vững mạnh; 237 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ; 139 tổ chức cơ sở

Đảng xóm, bản, vùng đồng bào dân tộc thiểu số 6 năm liên tục đạt trong sạch, vững

mạnh.

Song song với việc xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền ở cơ sở, các đoàn

thể quần chúng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện dân chủ và phát huy tính

chủ động sáng tạo của nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự và phát triển kinh tế- xã hội

ở địa phương. Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh đã quan tâm đến việc đào tạo,

bồi dưỡng và tăng cường đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở các vùng đồng

bào dân tộc thiểu số. Các địa phương, các cấp, các ngành chú trọng đưa cán bộ dân

tộc đi học ở các trường chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ ở trung ương và của tỉnh.

Chỉ tính năm 2005, số cán bộ là người dân tộc thiểu số cấp xã là 856 người, trong

đó có 44,7% có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp đến cử nhân; 11,1% qua đào tạo

bồi dưỡng quản lý Nhà nước [50]. Xây dựng hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu

số được quan tâm và đạt một số thành tựu bước đầu. Bộ máy Đảng, chính quyền và

các đoàn thể quần chúng từng bước phát huy tác dụng trong lãnh đạo, quản lý, điều

hành, vận động nhân dân phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh ở

cơ sở.

77

Bên cạnh thành tựu đạt được, trong năm năm thực hiện chính sách dân tộc

của Đảng ở Thái Nguyên còn có những tồn tại: sự chênh lệch về kinh tế- xã hội

giữa các vùng trong tỉnh vẫn chưa được khắc phục triệt để, một số nơi vẫn còn tồn

tại những phong tục tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội. Tồn tại này do các nguyên nhân

như điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú, truyền thống văn hóa, phong tục tập

quán... nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất đó là trình độ nhận thức của cán bộ Đảng

viên và nhân dân địa phương còn hạn chế, năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện của

cấp ủy, chính quyền, các ngành và đoàn thể còn yếu, đội ngũ cán bộ làm công tác

dân tộc vừa thiếu vừa yếu.

Tóm lại, xuất phát từ thực tế địa phương, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã vận

dụng sáng tạo những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời bổ

sung mục tiêu, phương hướng cụ thể phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm phát

triển kinh tế- xã hội, thu hẹp sự chênh lệch về mọi mặt của đồng bào các dân tộc

trong tỉnh, giữ vững an ninh, chính trị trên địa bàn. Với truyền thống đoàn kết và

dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tích

cực phát huy nội lực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương và các địa phương để

phát triển kinh tế- xã hội trong tỉnh nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói

riêng góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

78

CHƢƠNG 3

THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ 1997

ĐẾN 2005

3.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ

3.1.1. Thành tựu

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, việc nhận thức và thực

hiện đúng đắn chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn

địa phương trong những năm 1997- 2005, góp phần tạo nên nhiều chuyển biến tích

cực trên các lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đồng bào các

dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên.

Một là, tạo được sự thống nhất trong toàn Đảng bộ nhận thức tầm quan

trọng của chính sách dân tộc, coi thực hiện chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa

chiến lược trong mọi thời kỳ ở tỉnh Thái Nguyên.

Với một tỉnh có nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn như Thái Nguyên, chính

sách dân tộc đúng đắn của Đảng được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn sẽ giải

quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc, phát huy được mọi tiềm năng, thế mạnh của

đồng bào, mở rộng giao lưu, tạo điều kiện phát triển về mọi mặt cho đồng bào, đồng

thời đó cũng là một trong những biện pháp góp phần tăng cường hơn nữa vai trò

lãnh đạo của Đảng, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân đối với đồng bào

các dân tộc vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh. Nhận thức được điều này, các cấp

ủy Đảng luôn quan tâm tới việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của

Đảng và Nhà nước vào tình hình thực tiễn địa phương.

Các cấp ủy Đảng, các ban ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân ở Thái Nguyên luôn xác định: “thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước; phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của từng dân

79

tộc”, xác định rõ trách nhiệm của ngành mình, cấp mình, tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo, phối hợp chặt chẽ tổ chức thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng về

công tác dân tộc. Từ sự nhận thức đó, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những đổi

mới bước đầu về thể chế, chính sách và phương thức lãnh đạo đối với việc thực hiện

chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.

Địa phương là cấp cụ thể hóa, quán triệt, vận dụng và thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, các tổ chức Đảng ở địa phương

vừa đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đến tận đồng bào các

dân tộc thiểu số những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tiến

hành tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách đó.

Trong quá trình thực hiện, Tỉnh ủy đã cụ thể hóa những chủ trương, chính

sách phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc và quan tâm đầu tư, chỉ đạo, xác định

đúng trọng tâm, trọng điểm. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở Thái

Nguyên luôn quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho đồng bào phát triển sản xuất, chăm lo sức khỏe, nâng

cao dân trí. Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã tiến hành tuyên truyền, vận

động, giáo dục cán bộ, Đảng viên, đoàn viên, hội viên, nhân dân trong tỉnh nhất là

đồng bào dân tộc thiểu số ý thức sâu sắc được việc thực hiện đường lối, chính sách

dân tộc của Đảng và Nhà nước là trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân

trong tỉnh, từ đó, xây dựng được tinh thần đoàn kết, nhất trí quyết tâm cao trong

toàn tỉnh.

Để chính sách dân tộc của Đảng được thực hiện có hiệu quả, nhân tố có ý

nghĩa quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác đó. Xây dựng đội

ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo

dục... ở miền núi và vùng dân tộc là đòi hỏi cấp bách và lâu dài. Tỉnh ủy Thái

Nguyên luôn chăm lo tới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của

80

thời kỳ mới, làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ; nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời, Tỉnh ủy đã có những chính sách đúng đắn và

phương thức thích hợp để bồi dưỡng và đào tạo có hệ thống đội ngũ cán bộ, tri thức

dân tộc.

Nếu như cán bộ vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa quyết định đối với việc

thực thi, làm sống động chính sách dân tộc của Đảng thì công tác dân tộc, cơ quan

chuyên môn làm công tác dân tộc có vị trí, vai trò quan trọng định hướng đối với

quá trình đó. Muốn cho các tổ chức phụ trách công tác dân tộc ở Trung ương và địa

phương có hiệu lực thì đó phải là cơ quan nghiên cứu và có những quyền hạn nhất

định về mặt tài chính để thực thi những công tác trọng điểm từng năm hay năm

năm, để điều hành hay giám sát hoạt động của các ngành khác trong việc thực hiện

nhiệm vụ được giao đối với các vùng dân tộc.

Trước đây, Ban Dân vận Tỉnh ủy có phòng Tôn giáo và Dân tộc làm chức

năng tham mưu cho Tỉnh ủy về công tác tôn giáo và dân tộc. Ban đã thường xuyên

theo dõi tình hình mọi mặt trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phối hợp với các

ngành chức năng kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc và tôn giáo. Sau khi có Nghị quyết

24-NQ/TW, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 1987-QĐ/UB ngày 26/8/2004

thành lập Ban Dân tộc trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, thực hiện việc

quản lý Nhà nước về công tác dân tộc. Do đó, công tác dân tộc được tăng cường, có

nhiều chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn trong quá trình thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc.

Nhằm cụ thể hóa chính sách dân tộc của Đảng, Tỉnh ủy Thái Nguyên cùng

các cơ quan chuyên môn đã lãnh đạo thực hiện các chương trình, dự án như:

Chương trình 134/ TTg về hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở, nhà ở và nước sinh hoạt

cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn, Chương trình phát triển

81

kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa

(Quyết định 135,138)… Gần đây nhất, thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về công

tác dân tộc, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã ra chương trình hành động số 09.

Những chương trình, dự án đó được thực hiện có hiệu quả sẽ giúp cho đồng

bào các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng

cao đời sống; Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng

thụ văn hóa của đồng bào; Xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ ở

cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực

Hai là, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thực hiện chính sách dân tộc theo hướng

ưu tiên, đã có những đổi mới về quan niệm và cách tiếp cận.

Bình đẳng dân tộc, đó là đòi hỏi thực tế trong tiến trình lịch sử dựng nước

và giữ nước của dân tộc ta. Đồng thời, đó còn là một nhân tố quan trọng đảm bảo

cho xã hội Việt Nam ổn định và phát triển. Tất nhiên, để có sự bình đẳng thực sự

đòi hỏi phải tạo ra những điều kiện, những cơ hội cần thiết để các dân tộc tự vươn

lên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn có những chủ trương, chính

sách đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân đảm bảo cho các dân tộc trong nước bình

đẳng, giúp nhau cùng phát triển. Một trong những nội dung quan trọng để thực hiện

quyền bình đẳng dân tộc đó là ưu tiên đối với các dân tộc thiểu số trong quá trình

thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Ưu tiên không phải là sự “ban ơn”, “ban

phát”, là gánh nặng, là một chiều từ phía Đảng, Nhà nước xuống đồng bào mà đó

còn là sự thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thực hiện công bằng giữa các dân

tộc.

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương,

chính sách, nói chung, chính sách dân tộc nói riêng luôn có những biện pháp cụ thể

phù hợp với thực tế địa phương. Thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên nhằm

82

thực hiện bình đẳng dân tộc, không chỉ xóa bỏ sự phát triển không đều giữa các dân

tộc mà còn góp phần ổn định tình hình an ninh, quốc phòng tại địa phương.

Nhận thức được điều này, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên luôn khẳng định thực

hiện chính sách dân tộc là làm công tác quần chúng, làm công tác chính trị, tư

tưởng, là xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, là thực hiện dân chủ, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân. Thực hiện chính sách dân tộc đó là tình cảm đền ơn đáp

nghĩa đối với đồng bào, là đảm bảo trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ xác định rõ:

Đối tượng được hưởng ưu tiên đó là đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở

vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, vùng đặc biệt khó khăn.

Vùng được hưởng ưu tiên, theo Quyết định 135 của Thủ tướng Chính phủ

bao gồm 52 xã đặc biệt khó khăn giai đoạn I, 41 xã còn lại tiếp tục được hưởng

chương trình 135 ở giai đoạn II.

Cách ưu tiên, theo quan điểm của Đảng bộ tỉnh, cần khắc phục cách làm

dàn trải, vừa lãng phí vừa không hiệu quả. Phải có hình thức và bước đi thích hợp

với từng nơi, từng lúc, từng dân tộc, từng loại mô hình. Tùy từng nơi, từng dân tộc

chọn những trọng tâm công việc thiết thực tạo bước đột phá, đồng thời là nền tảng

vững chắc cho phát triển kinh tế, xã hội lâu dài một cách thích hợp. Phải có sự kết

hợp hài hòa giữa sự giúp đỡ của bên ngoài với sự hướng dẫn cụ thể để đồng bào tự

vươn lên.

Các lĩnh vực được ưu tiên được xác định: Xây dựng cơ sở hạ tầng, trước

hết là đường giao thông, điện, nguồn nước cho sản xuất sinh hoạt, nhà ở, trường

học, bệnh viện, trung tâm văn hóa xã. Xóa đói giảm nghèo bằng cách giúp đồng bào

vốn, cách làm ăn, khắc phục kinh tế tự cấp tự túc, du canh du cư, ổn định sản xuất,

đời sống, phát triển kinh tế hàng hóa. Chăm lo giáo dục, y tế, văn hóa, nâng cao dân

trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân

83

tộc. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người

dân tộc thiểu số ở địa phương.

Ba là, Từ năm 1997 đến 2005, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vùng

dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã có nhiều đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần

của đồng bào được cải thiện.

Công tác xóa đói giảm nghèo, công tác định canh định cư và kinh tế mới

đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được coi là những nhiệm vụ rất khó khăn, là

nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân tộc nên được Tỉnh ủy và các ban ngành liên

quan tập trung nhiều thời gian, công sức.

Bên cạnh sự đầu tư của Trung ương thông qua các chương trình, mục tiêu

quốc gia như chương trình 135, chương trình 134, chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu số

đặc biệt khó khăn, chính sách trợ cước, trợ giá, các chương trình về y tế, văn hóa,

giáo dục... các ngành, các cấp trong tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn

của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn của các ngành ưu tiên cho đồng bào dân

tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, cử cán bộ có năng lực, trình độ kỹ thuật về cơ

sở để hướng dẫn đồng bào áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền,

vận động đồng bào phát huy nội lực vươn lên xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời

sống mới ở khu dân cư.

Với các chủ trương đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Thái Nguyên bước đầu đã có nhiều khởi sắc:

hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được củng cố và tăng cường, cơ sở hạ tầng

(điện, đường, trường, trạm) được đầu tư xây dựng với giá trị lớn tạo đà cho kinh tế-

xã hội miền núi phát triển. Từ năm 1999 đến năm 2005, tổng số công trình xây

dựng cơ sở hạ tầng thuộc chương trình 135 đã xây dựng được 98 công trình, trong

đó có 28 công trình phục vụ giao thông, 8 công trình thủy lợi, 5 công trình điện, 53

trường học, 5 công trình y tế với tổng số vốn đầu tư là 18.000 triệu đồng [50].

84

Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng.

Mạng lưới y tế cơ sở được quan tâm củng cố.

Công tác giáo dục đào tạo được tăng cường. Phát triển mạnh mạng lưới các

trường dạy nghề ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách cử tuyển, đào tạo bồi

dưỡng cán bộ dân tộc... luôn được tỉnh ủy, các cấp, các ngành liên quan quan

tâm.Trường dân tộc nội trú của tỉnh hàng năm tuyển sinh con em các dân tộc thiểu

số vào học nhằm tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho tỉnh. Ngoài ra, hàng năm tỉnh luôn

làm tốt công tác cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng đối với học sinh người

dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp trung học phổ thông.

Các hoạt động văn hóa thông tin, đưa sách báo về tận thôn bản, hướng dẫn

cho đồng bào phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân

tộc được tiến hành thường xuyên. Các chương trình phát thanh, truyền hình bằng

tiếng dân tộc thiểu số được duy trì đều đặn, đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần của

đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi.

Hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được củng cố,

kiện toàn và nâng cao chất lượng. Công tác phát triển Đảng, nhất là Đảng viên

người dân tộc thiểu số được quan tâm. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo

cán bộ là người dân tộc thiểu số, kịp thời bổ sung, luân chuyển cán bộ có năng lực,

phẩm chất tốt, tâm huyết với đồng bào đến công tác ở vùng dân tộc thiểu số, miền

núi, nhất là những vùng trọng điểm về chính trị, an ninh- quốc phòng. Tỉnh ủy có

chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ công tác ở vùng dân tộc đặc biệt khó

khăn.

Chính sách dân tộc của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống đồng bào các dân

tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Điều này được minh chứng rõ hơn bằng

kết quả của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 2004: Hội đồng nhân dân

cấp xã có 28,40% đại biểu người dân tộc thiểu số, Hội đồng nhân dân cấp huyện có

85

32,84% đại biểu người dân tộc thiểu số, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có 28,36% đại

biểu người dân tộc thiểu số [39].

Bốn là, Thông qua thực hiện chính sách dân tộc của Đảng góp phần củng

cố, tăng cường ổn định tình hình an ninh, quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu

số.

Công tác an ninh, quốc phòng có quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế, xã

hội. Thực tiễn ở Thái Nguyên cho thấy, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực

kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có tác động rất lớn đến lĩnh vực

quốc phòng, an ninh. Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số phần lớn là ở

vùng núi, nơi có vị trí quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Tuy nhiên, tại vùng này do trình độ dân trí thấp, giao thông đi lại khó khăn... nên

các tệ nạn xã hội, phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại, việc truyền đạo trái phép

vẫn diễn ra (nhất là vùng đồng bào dân tộc Hmông), vấn đề đào đãi vàng, khai thác

quặng trái phép, nạn “lâm tặc” vẫn là những vấn đề nhức nhối.

Trước thực trạng trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân

tỉnh Thái Nguyên đã tập trung chỉ đạo, các ban ngành, đoàn thể, các lực lượng vũ

trang đứng trên địa bàn tỉnh, chủ động phối hợp, tổ chức tuyên truyền cho đồng bào

hiểu rõ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là

chính sách dân tộc, tôn giáo. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Phát hiện và ngăn chặn kịp

thời việc truyền đạo trái phép, các vụ việc gây mất đoàn kết, các tệ nạn xã hội, các

vụ chặt phá rừng, buôn bán lâm sản, đào đãi vàng, khai thác quặng trái phép...

Tuyên truyền, giáo dục đồng bào nêu cao tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện,

đấu tranh đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Đồng thời, xây dựng lực lượng

dân quân tự vệ, lực lượng công an và an ninh nhân dân tại chỗ vững mạnh, là công

cụ sắc bén bảo vệ chính quyền cơ sở.

86

Với những chủ trương, biện pháp trên, tình hình an ninh, quốc phòng trên

địa bàn tỉnh được giữ vững. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc

được đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng, góp phần vào ổn định an ninh chính

trị, phát triển kinh tế trên địa bàn; đồng bào các dân tộc xác định rõ trách nhiệm

công dân đối với Tổ quốc, luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, sống và làm

việc theo hiến pháp và pháp luật. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng được phát

huy để giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, để phấn đấu bài trừ hủ tục,

đẩy lùi các tệ nạn xã hội (nghiện hút, cờ bạc, truyền đạo trái phép...) có hiệu quả.

Phát huy những thành quả đạt được trong công tác giữ vững an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các cấp ủy Đảng, các ban

ngành đã quan tâm thực hiện một số giải pháp như: tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở

hạ tầng (đường giao thông, thủy lợi, nước sạch sinh hoạt, điện thắp sáng cho vùng

đồng bào...) để đồng bào yên tâm ổn định cuộc sống lâu dài; tích cực tuyên truyền

bằng nhiều hình thức các chủ trương chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cho

đồng bào hiểu và thực hiện; tăng cường hơn nữa công tác an ninh vùng đồng bào

dân tộc thiểu số, thường xuyên có mặt tại địa bàn nắm rõ tình hình và tâm tư

nguyện vọng của đồng bào, kịp thời đề xuất biện pháp giải quyết những vấn đề bức

xúc của đồng bào; chú trọng công tác đào tạo cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số,

bổ sung thành phần đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là người dân tộc thiểu số,

tăng cường công tác phát triển Đảng tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số,...

Qua đó nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tin tưởng vào sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước. Với những chủ trương, chính sách sát đúng của Đảng và

Nhà nước, việc chỉ đạo sát sao, thực hiện tích cực của các ngành, các cấp, trong thời

gian tới các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục đi

nhanh vào đời sống của các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đem lại cuộc sống ấm no,

hạnh phúc cho từng xóm bản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

87

3.1.2. Hạn chế

Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, tỉnh Thái Nguyên

còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định:

Thứ nhất, Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nói

chung cũng như trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc nói riêng,

Đảng bộ tỉnh chưa phát huy hết những tiềm năng thế mạnh của tỉnh nhằm biến

tiềm năng trở thành động lực để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế- xã hội của

tỉnh Thái Nguyên nói chung cũng như trong việc thực thi chính sách dân tộc của

Đảng nói riêng.

Có thể nói hầu hết tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Thái Nguyên tập trung ở

vùng miền núi dân tộc. Trong đó bao gồm tài nguyên chính như:

Tài nguyên đất đai: tài nguyên đất nông- lâm nghiệp; tài nguyên rừng.

Tài nguyên khoáng sản: Hiện có 34 loại khoáng sản quý được phân bố ở

hầu hết các vùng núi, vùng cao của tỉnh.

Tài nguyên du lịch: đa dạng, phong phú như Hồ Núi Cốc, suối nước nóng,

nước khoáng La Hiên, suối Mỏ Gà, hang Phượng Hoàng, và các động vật quý hiếm

trong vùng rừng đặc dụng thuộc huyện Võ Nhai

Các tài nguyên nhân văn: gồm có hàng chục di tích lịch sử, cách mạng như:

các di tích lịch sử an toàn khu Định Hóa, căn cứ địa Võ Nhai, các công trình kiến

trúc, các phong tục tập quán của các dân tộc, các lễ hội truyền thống của các địa

phương trong vùng…

Bên cạnh đó, Thái Nguyên còn là nơi hội tụ nền văn hóa của các dân tộc

miền núi phía Bắc, là đầu mối các hoạt động văn hóa của vùng Việt Bắc; là nơi tập

trung nhiều trường đại học; nhiều trung tâm công nghiệp công nghệ cao.

Đây là những thế mạnh của tỉnh, không chỉ góp phần vào nâng cao, cải

thiện đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh mà còn góp phần vào sự phát triển

88

chung của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo

thực hiện phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nói chung, chính sách dân tộc của Đảng

nói riêng, những tiềm năng thế mạnh này chưa được khai thác phát huy mạnh mẽ tại

địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế này thuộc trách nhiệm lãnh đạo, chỉ

đạo của các cơ quan ban ngành của tỉnh như Ban chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh

ủy, các cấp ủy Đảng, các cơ quan chuyên trách. Việc nhận thức và vận dụng đường

lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng chưa thể hiện hết sự sáng tạo, còn có tư tưởng thụ

động, chờ đợi chỉ đạo của Trung ương và nhất là thiếu những hình thức, bước đi và

biện pháp phù hợp để phát huy nội lực, phát huy trí tuệ của cán bộ, Đảng viên và

sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, Sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng, công tác điều hành của bộ

máy chính quyền trên một số lĩnh vực thiếu kiên quyết, không dứt điểm, còn để kéo

dài.

Việc tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội nói chung và

phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng còn chưa đồng

bộ, thiếu tập trung, chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, hướng ưu tiên đầu tư

vào những khâu đột phá để tập trung lực lượng làm chuyển biến tình hình. Cơ chế

còn trồng chéo, thiếu nhất quán, chính sách nhiều nhưng dàn trải, hiệu quả đạt được

chưa cao. Nhận thức của một số ngành, một số cán bộ, Đảng viên về chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước chưa sâu sắc, chưa toàn diện. Việc cụ thể hóa các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc ở một số nơi chưa kịp thời, thiếu tính nhạy

bén. Chưa khơi dậy mạnh mẽ ý chí tự lực, tự cường vươn lên của đồng bào các dân

tộc thiểu số nhằm phát huy sức mạnh nội lực trong việc thực hiện các chủ trương,

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội ở vùng đồng

bào dân tộc thiểu số.

89

Thứ ba, Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, có

nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các chương trình dự

án đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư vào tỉnh Thái Nguyên, còn

thiếu những cơ cấu và chủ thể rõ ràng chịu trách nhiệm trong thực thi các chương

trình, dự án.

Nguyên nhân của hạn chế này là do trong quá trình thực hiện chính sách

dân tộc thông qua các chương trình, dự án, Ban chỉ đạo tỉnh, huyện có nhiều biến

động do công tác tổ chức, đôi khi việc kiện toàn chưa kịp thời làm ảnh hưởng phần

nào đến hoạt động chỉ đạo thường xuyên. Ban chỉ đạo chưa mạnh dạn phân cấp,

phân quyền và giao trách nhiệm cụ thể cho chủ đầu tư nhất là ở cấp xã; trình độ

chuyên môn của các cán bộ, nhất là cán bộ cấp xã được phân công chưa đáp ứng

được yêu cầu của công việc. Do đó, việc huy động nội lực trong nhân dân, khai thác

các tiềm năng và giám sát thực hiện còn nhiều hạn chế.

Để các chương trình, dự án thực hiện có hiệu quả tại địa phương, một trong

những yêu cầu đặt ra đó là cần phải mạnh dạn phân cấp, phân quyền làm chủ đầu tư

gắn liền với cơ chế chính sách đồng bộ và phù hợp. Đồng thời, tăng cường phân

quyền, phân cấp quản lý đầu tư phải gắn liền với việc giao trách nhiệm cho các cơ

quan chuyên môn các cấp giúp đỡ chủ đầu tư nhằm nâng cao năng lực quản lý, tổ

chức thực hiện nhiệm vụ. Phải cụ thể hóa chính sách, tăng cường công tác kiểm tra,

giám sát giúp đỡ kịp thời chủ đầu tư thực hiện tốt nhiêm vụ và từng bước nâng cao

năng lực về mọi mặt.

Thứ tư, Một số nội dung chính sách dân tộc khi áp dụng vào vùng dân tộc

thiểu số, đặc biệt khó khăn chưa thực sự phù hợp với thực tế và đặc thù từng dân tộc

ở Thái Nguyên.

90

Chính vì vậy, chưa huy động được rộng rãi các nguồn nguồn lực cũng như

sự đóng góp trong nhân dân, các thành phần kinh tế, chưa thu hút được sự hỗ trợ

của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài tỉnh.

Cụ thể:

Quyết định 134/ TTg về hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở, nhà ở và nước sinh

hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn là chính sách lớn

của Đảng và Nhà nước phù hợp với nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số

và được toàn dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số

hạn chế như kinh phí Trung ương đầu tư cho chương trình eo hẹp. Riêng đối với

chính sách hỗ trợ đất: trong thực tế quỹ đất của địa phương không còn kể cả các

nông- lâm trường sau khi sắp xếp lại, mức hỗ trợ bằng tiền rất thấp (6 triệu đồng/

ha) so với giá đất thị trường (40- 50 triệu đồng/ ha đất lúa 1 vụ) nên các hộ nghèo

không có khả năng thêm tiền để mua đất.

Về chính sách cấp (không thu tiền) một số loại báo, tạp chí cho đồng bào

các dân tộc thiểu số, miền núi: Thực hiện Quyết định số 1637/QĐ- TTg ngày

31/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã cấp báo chí cho 3 trường Trung ương đóng

trên địa bàn tỉnh (Trường Dân tộc nội trú vùng cao Việt Bắc, Trường Thiếu sinh

quân quân đội, Trường Văn hóa I Bộ Công an), cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,

huyện, Thư viện cấp tỉnh, huyện, Ban Tôn giáo cấp tỉnh, huyện, Trường tiểu học,

trung học cơ sở, các xã và thôn, xóm, bản.

Đây là một chính sách có ý nghĩa rất quan trọng, đã giúp cho đồng bào các

dân tộc, các em học sinh ở miền núi, vùng cao nắm được các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước. Đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối

với công tác dân tộc, miền núi.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn một số hạn chế như: số lượng báo,

tạp chí được cấp một số nơi còn chưa đúng địa chỉ, chưa đủ số lượng. Việc cấp phát

91

báo, tạp chí chưa có xác nhận của nơi cấp báo và nhận báo, do vậy, rất khó khăn

trong việc quản lý số lượng báo, tạp chí đã cấp phát. Việc cấp phát còn chậm, chưa

kịp thời, chưa cấp phát trực tiếp đến từng đối tượng thụ hưởng.

Vì vậy, để thực hiện được các chương trình, dự án, các chủ trương, chính

sách có hiệu quả, bên cạnh sự cố gắng của địa phương, cần có sự điều chỉnh, giúp

đỡ của Trung ương trong quá trình thực hiện.

3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU VỀ LÃNH ĐẠO THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN

Từ những thành tựu đã đạt được cũng như những khuyết điểm, yếu kém

trong việc lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ Thái Nguyên (1997-

2005), có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

3.2.1. Kết hợp chặt chẽ sự giúp đỡ của Trung ƣơng, tƣơng trợ của các

địa phƣơng khác, với tinh thần nỗ lực tự thân trong thực hiện chính sách dân

tộc

Chính sách dân tộc của Đảng, xét về mục tiêu thì không có gì khác ngoài

yêu cầu khai thác mọi tiềm năng của đất nước phục vụ nhân dân, cải thiện, nâng cao

đời sống con người, giải phóng đồng bào các dân tộc thoát khỏi cảnh nghèo khó,

đói rét, bệnh tật, lạc hậu, thực hiện được trong thực tế quyền bình đẳng giữa các dân

tộc thiểu số và đa số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Chính vì vậy, tập trung sức đầu tư phát triển chăm lo đời sống vật chất và

tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,

toàn quân, của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, gian

khổ, hết sức phức tạp. Việc xác định được con đường, biện pháp, hình thức, bước đi

thích hợp đối với từng vùng dân tộc là hết sức cần thiết. Cần hết sức tránh tư tưởng

chủ quan, nóng vội, duy ý chí, tất nhiên cũng không thể trì trệ, kéo dài.

92

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính

sách đúng đắn, làm thay đổi bộ mặt vùng miền núi dân tộc, trong đó có các chương

trình quan trọng như: Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó

khăn miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Quyết định 135,138), Quyết định số

134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản

xuất, đất ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó

khăn...

Đảng và Nhà nước cũng luôn tạo điều kiện quan tâm, giúp đỡ các dân tộc

thiểu số để các dân tộc thấy được vị trí, vai trò của mình trong đại gia đình các dân

tộc Việt Nam, làm cho đồng bào hiểu nhiều hơn về Đảng, gắn bó tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên, đường lối, chính sách nói chung và đường lối, chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước nói riêng là xuất phát từ tình hình chung và thực hiện

trên phạm vi cả nước. Vì thế, các địa phương phải quán triệt quan điểm, đường lối

chính sách chung nhưng không thể rập khuôn máy móc chủ trương, biện pháp

chung mà phải cụ thể hóa thành chủ trương, biện pháp riêng phù hợp với địa

phương, từng vùng, từng dân tộc, trong mỗi thời điểm. Nhiệm vụ thường xuyên và

quan trọng của các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận ở địa phương là phải hiểu rõ

các điều kiện tự nhiên, xã hội, lối sống, sinh hoạt văn hóa của từng dân tộc. Có như

vậy mới đề ra và tự giác thực hiện tốt những chủ trương, chính sách, biện pháp về

vấn đề dân tộc, tránh được chủ quan, duy ý chí, rập khuôn, áp đặt máy móc những

hình thức tổ chức và cách làm không phù hợp với tình hình đặc điểm các vùng dân

tộc.

Những yếu kém, hạn chế của công tác dân tộc trong những năm đổi mới và

hiện nay ở tỉnh Thái Nguyên có nhiều nguyên nhân, trong đó phổ biến là chưa

nghiên cứu sâu sắc, nắm vững tình hình thực tế ở địa phương, chưa khai thác được

93

tiềm năng thế mạnh của vùng. Đặc biệt, Thái Nguyên có lợi thế lớn đó là nơi có 5

trường đại học đóng trên địa bàn. Nhưng hiện nay lợi thế này chưa được khai thác

có hiệu quả...

Trong những năm tới, để phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên

nói chung và vùng miền núi dân tộc nói riêng, tỉnh Thái Nguyên cần có chủ trương

khai thác, phát huy vai trò của các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn, đặc biệt là

trí tuệ của các nhà khoa học đang công tác tại các trường Đại học vào việc hoạch

định chính sách nói chung và chính sách dân tộc nói riêng, thực hiện chuyển giao

công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc tại chỗ,... phục vụ cho công tác dân tộc

ngày càng tốt hơn. Mặt khác, cần tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu

khoa học và có chính sách ưu đãi đội ngũ làm công tác khoa học ở miền núi, vùng

dân tộc thiểu số. Có chính sách ưu tiên, khuyến khích con em đồng bào các dân tộc

thiểu số vào học các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học sau đó trở

về quê hương công tác.... nhằm phát triển kinh tế, chống đói nghèo, xây dựng quê

hương Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp.

Bên cạnh sự giúp đỡ của Trung ương, sự nỗ lực tự thân trong thực hiện các

chính sách dân tộc, tỉnh Thái Nguyên cũng cần có sự tương trợ của các địa phương

khác trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh lân cận. Sự giúp đỡ của các địa phương về

kinh nghiệm, vốn, về khoa học công nghệ... đây là những nhân tố quan trọng giúp

nhân dân các dân tộc Thái Nguyên vượt lên đói nghèo, phát triển kinh tế- xã hội.

Như vậy, cần phải khẳng định, phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi và vùng

dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển

kinh tế quốc dân của cả nước, là trách nhiệm chung của cả nước, nhưng trước hết là

trách nhiệm của bản thân Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái

Nguyên. Nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên phải phát huy ý chí tự lực, tự

cường, chống tư tưởng ỷ lại, chờ đợi, khai thác và xây dựng miền núi, vùng dân tộc

94

thiểu số tỉnh Thái Nguyên vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc trong tỉnh

đồng thời vì lợi ích chung của nhân dân cả nước.

3.2.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị địa phƣơng nhất là ở

cấp cơ sở trong thực hiện chính sách dân tộc.

Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí quan trọng, là cơ quan lãnh đạo quần

chúng thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó,

hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc có vai trò to lớn trong việc thực hiện dân

chủ và quyền làm chủ của quần chúng, thực hiện chức năng điều hành và quản lý xã

hội, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của đồng bào để phát triển kinh tế- xã hội.

Do vậy, việc xây dựng củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở là một

trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của tỉnh Thái Nguyên trong thời gian vừa

qua.

Thực tiễn ở tỉnh Thái Nguyên cho thấy, muốn xây dựng hệ thống chính trị

cơ sở vùng đồng bào dân tộc vững mạnh, phải củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở

Đảng vững mạnh về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát triển Đảng viên mới,

nâng cao trình độ văn hóa, lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên.

Trong công tác phát triển Đảng cần hướng vào các đối tượng trẻ tuổi, có

văn hóa, trưởng thành từ phong trào quần chúng. Tổ chức Đảng và Đảng viên phải

sâu sát thực tiễn, am hiểu tình hình thực tế của địa phương, hiểu rõ tâm tư, nguyện

vọng, yêu cầu của quần chúng nhân dân, biết xác định trọng tâm lãnh đạo, trọng tâm

công tác trong từng thời điểm thích hợp.

Xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể quần

chúng ở vùng dân tộc vững mạnh, phát huy vai trò của phụ nữ, đoàn viên thanh

niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh... trong việc phát động các phong trào giúp

nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ an ninh Tổ quốc...

Xây dựng tổ chức chính quyền cơ sở vùng dân tộc vững mạnh, thực sự là của dân,

95

do dân, vì dân, vươn lên đảm nhiệm công tác quản lý mọi mặt hoạt động của địa

phương, giúp nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tổ chức chính

quyền và cán bộ chính quyền vùng dân tộc cần phải được bồi dưỡng, đào tạo và tự

mình phải học tập, rèn luyện, có đủ năng lực, phẩm chất để hoàn thành nhiệm vụ,

được nhân dân tin tưởng. Mỗi cán bộ cần có trình độ nhất định về khoa học- kỹ

thuật, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, biết lãnh đạo, quản lý, điều hành, định

hướng cho đồng bào phát triển kinh tế- xã hội đúng hướng, biết cụ thể hóa và lãnh

đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước ở địa phương.

Quan tâm đến dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở

cơ sở, thực hiện trong thực tế quyền lực của nhân dân bằng những cơ chế được cụ

thể hóa rõ ràng, khắc phục các vi phạm quy chế dân chủ, sống xa dân, quan liêu,

mệnh lệnh với dân. Đây là điều kiện rất cần thiết để nhân dân tích cực, chủ động

tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương

trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương.

Làm tốt công tác cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện

và phát huy quyền làm chủ của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực đời sống xã

hội. Do vậy, yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc là yêu cầu vừa cấp

bách, vừa cơ bản lâu dài. Đây là nội dung lớn của chính sách dân tộc, là vấn đề then

chốt để thực hiện chính sách dân tộc ở địa phương. Phải chăm lo đào tạo cán bộ dân

tộc cho tất cả các lĩnh vực, xây dựng cốt cán trung thành, vững vàng về chính trị, có

phẩm chất năng lực thật sự, có uy tín lãnh đạo quần chúng. Công tác cán bộ dân tộc

có nhiều khó khăn phức tạp, do đó, phải có quy hoạch, tạo nguồn, có chế độ, hình

thức đào tạo thích hợp, có quy chế tuyển sinh thích hợp với từng dân tộc, quản lý và

sử dụng tốt số cán bộ đã có và phải chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở vì đội

ngũ đó gắn liền với quần chúng.

96

Tại Thái Nguyên, công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ là người

dân tộc thiểu số được các cấp ủy Đảng rất quan tâm. Về số lượng cán bộ ở từng dân

tộc thì hướng phát triển là theo tỷ lệ tương ứng với số dân và tương ứng với địa bàn

phân bố dân cư của từng dân tộc. Ưu tiên bổ sung cho đội ngũ cán bộ ở địa phương.

Để có đội ngũ cán bộ có chất lượng đủ năng lực đảm đương chức phận của mình,

nhất thiết phải thông qua đào tạo từ cơ bản rồi đi vào chuyên ngành. Có quy hoạch

tổng thể trong khâu đào tạo, chú ý đào tạo những nghề cần thiết cho việc khai thác

tiềm năng, thế mạnh, cho sự phát triển bền vững của địa phương và của tộc người.

Nhà nước thực hiện chế độ ưu tiên trong quá trình đào tạo. Sau khi được đào tạo,

bồi dưỡng, Tỉnh ủy bố trí sử dụng cán bộ dân tộc phù hợp để phát huy được vai trò,

tác dụng tích cực của họ, thường xuyên giúp đỡ để họ xứng đáng với sự tin cậy của

nhân dân. Đối với cán bộ người dân tộc Kinh hiện đang hoạt động ở cơ sở ngwời

dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa do tình hình địa phương chưa có đủ cán bộ, thì

Nhà nước và địa phương có chế độ đãi ngộ thích hợp, coi đó là sự động viên để họ

an tâm và đóng góp sức lực vào công việc hoạt động tại cơ sở.

Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên không ngừng chăm lo

xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc. Chính vì vậy, hệ thống

chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc từng bước được củng cố, kiện toàn. Các tổ

chức Đảng không ngừng được củng cố, trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt chức

năng lãnh đạo của mình, đội ngũ Đảng viên vùng dân tộc được phát triển cả về số

lượng và chất lượng. Chính quyền vững mạnh, cụ thể hóa được chủ trương của cấp

ủy, hiệu lực điều hành, quản lý của chính quyền cơ sở có sự chuyển biến. Hệ thống

tổ chức của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng luôn được củng cố, ngày

càng vững mạnh, xây dựng. Bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng

từng bước được phát huy tác dụng lãnh đạo, quản lý, điều hành, vận động đồng bào

97

phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an toàn trật tự an ninh xã hội, thực hiện tốt các

chính sách xã hội ở địa phương.

3.2.3. Phải xác định đƣợc trọng tâm, trọng điểm để đầu tƣ các nguồn

lực, tạo ra các bƣớc phát triển đột phá

Các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên trừ một bộ phận sống ở khu vực

thành phố, trung du, còn phần lớn sinh sống ở miền núi, nơi có nhiều tiềm lực kinh

tế to lớn, nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng bao gồm đất, rừng, khoáng sản, cây

công nghiệp, cây đặc sản, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử. Tuy nhiên, trình

độ phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng này còn chậm, kinh tế hàng hóa ít phát triển,

kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc còn chiếm tỷ trọng lớn. Công tác định canh định cư

tuy đạt một số thành tựu nhưng hiệu quả thấp và chưa vững chắc. Đời sống của đại

bộ phận dân cư vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, tỷ lệ mù chữ và thất học

còn cao.

Để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước thu hẹp sự

chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc thiểu số với đa

số, giữa miền núi với miền xuôi nhất thiết phải phát triển toàn diện cả kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, xã

hội gắn với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, quan tâm đúng mức đến

việc cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của từng dân tộc.

Xuất phát từ những kinh nghiệm, khả năng và điều kiện vốn có của các dân

tộc thiểu số, miền núi ở tỉnh Thái Nguyên, trong những năm trước mắt cũng như lâu

dài các ngành nông, lâm nghiệp cần phát triển mạnh, trên quy mô lớn. Hiện nay

nghề rừng chưa đủ điều kiện phát triển trên quy mô lớn, theo hướng thâm canh,

chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp. Nhưng trước mắt có thể đầu tư, cải tạo, tu

bổ diện tích rừng trồng đảm bảo khai thác cho nhu cầu nguyên liệu, nhu cầu đời

sống và một phần xuất khẩu. Mở rộng việc giao đất, giao rừng cho hộ gia đình tự

98

chủ kinh doanh, đặc biệt là đất trống, đồi trọc không hạn chế về diện tích. Bên cạnh

đó, tỉnh cần tăng cường gọi vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận

lợi cho các hộ gia đình trong việc kinh doanh nghề rừng.

Các cây công nghiệp dài ngày như cây chè cần được đầu tư phát triển trên

quy mô lớn, tạo ra hàng hóa mũi nhọn phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là xuất

khẩu. Một số cây đặc sản cũng cần được quan tâm phát triển mạnh như cam, quýt,

hồng... Chăn nuôi đại gia súc như trâu, bò để lấy thịt, lấy sữa cung cấp cho nhu cầu

trong và ngoài tỉnh cũng cần được chú ý. Hiện nay, Thái Nguyên đã và đang tiếp

tục mở rộng diện tích trồng chè và các loại cây đặc sản mũi nhọn nhằm đạt mục tiêu

phủ xanh đất trống đồi trọc, tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân các dân tộc

trong tỉnh.

Bên cạnh việc phát triển công nghiệp chế biến phục vụ cho việc phát triển

sản xuất hàng hóa của các ngành nông, lâm nghiệp, trong thời gian tới, cần đẩy

mạnh các ngành công nghiệp khai thác khoáng sản nhất là than đá, vật liệu xây

dựng, ... để giải quyết nhu cầu nguyên liệu và năng lượng, một phần phục vụ xuất

khẩu.

Một mặt, xây dựng một nền sản xuất hàng hóa nông- lâm- công nghiệp, phá

thế sản xuất tự cung tự cấp. Mặt khác, cần mở rộng hợp tác liên doanh với các vùng

trong tỉnh và trong toàn quốc, đặc biệt đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là

Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng để mở

rộng giao lưu hàng hóa, tăng tích lũy để tái mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống

cho nhân dân trong tỉnh. Đồng thời, phân công lại lao động căn cứ trên thế mạnh về

các mặt tự nhiên, xã hội, con người trong từng vùng của tỉnh. Phải kết hợp các yếu

tố kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật theo một chiến lược đúng đắn, một quy hoạch

hợp lý để khai thác, phát huy tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Ngoài ngân sách của

Trung ương, hết sức coi trọng huy động vốn trong nhân dân. Bằng hình thức kết

99

nghĩa giữa tỉnh với tỉnh, có thể gọi vốn đầu tư của các tỉnh bạn, tranh thủ nhiều

nguồn vốn đầu tư khác có thể khai thác để phát huy thế mạnh của tỉnh nhanh hơn.

Vốn đầu tư tập trung vào các khâu then chốt như giao thông, thông tin liên lạc, điện,

nguồn nước cho sản xuất và đời sống. Xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với bảo vệ và

phát triển kinh tế- xã hội. Đầu tư và phát triển kinh tế, xã hội miền núi dân tộc cần

phát huy tính năng động, sáng tạo của đồng bào, tạo thuận lợi để nhân dân vươn lên

khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, chuyển sang kinh doanh có hiệu quả trên chính

vùng đất của mình.

Để thực hiện những chủ trương đó, trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên

đã thực hiện một số chương trình, dự án, một trong những chương trình thực hiện

có hiệu quả đó là chương trình định canh định cư và kinh tế mới.

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và

sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, công tác định canh định cư và kinh tế

mới có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp thực hiện, nguồn vốn đầu tư

đúng đối tượng, đúng mục đích và đem lại hiệu quả nhiều mặt. Xây dựng được

nhiều công trình phúc lợi công cộng phục vụ sản xuất và đời sống đồng bào các dân

tộc ở các bản làng vùng sâu, vùng xa như: xây dựng các công trình đường giao

thông, các công trình thủy lợi, các công trình phúc lợi khác như lớp học, trạm xá,

nhà văn hóa... Điều quan trọng là xây dựng được cơ chế chính sách đầu tư thích hợp

hỗ trợ các hộ nghèo về đời sống sản xuất trong vùng dự án, như hỗ trợ làm nhà ở,

khai hoang, trồng cây lương thực, chăn nuôi đại gia súc, làm chuồng trại, hỗ trợ đất

đai sản xuất, giống cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chế biến nông sản,... theo

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, xóa bỏ dần sản xuất tự

cấp tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa.

Ngoài ra tỉnh Thái Nguyên còn thực hiện một số chương trình quốc gia như

chương trình 135, chương trình 134,... Các chương trình, dự án đã góp phần xây

100

dựng cơ sở vật chất ở nông thôn miền núi, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi,

thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng lực thực hiện chính sách cho cán bộ

và nhân dân ở vùng dân tộc và miền núi, góp phần bảo vệ rừng và môi trường sinh

thái, xóa đói giảm nghèo xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà

nước, củng cố tình đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc và giữ gìn an ninh trật tự an

toàn xã hội.

3.2.4. Mỗi tổ chức Đảng và Đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phƣơng

châm hƣớng về cơ sở, hƣớng về cộng đồng dân cƣ trong quá trình thực hiện

chính sách dân tộc

Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là thể hiện bản chất

của Nhà nước ta, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động các dân tộc, nó

cũng đáp ứng công cuộc cải tổ, đổi mới hiện nay. Phát huy quyền làm chủ của nhân

dân lao động ở vùng dân tộc thực chất là nhằm bảo đảm quyền tự quyết, quyền bình

đẳng của các dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể tăng

cường khối đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đảng và Nhà nước là những cơ quan đề ra chủ trương, chính sách nhằm

từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân nói chung và cho

đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng; các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện, xã,

thôn, bản là đơn vị tổ chức thực hiện. Đồng bào các dân tộc thiểu số là những người

trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và

cũng là người trực tiếp được thụ hưởng những lợi ích mang lại từ chủ trương, chính

sách đó.

Xóm, thôn, bản là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, nơi thực hiện dân

chủ trực tiếp và rộng rãi các công việc trong nội bộ của cộng đồng dân cư nhằm

thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Bảo đảm đoàn kết,

giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng và giữ gìn vệ sinh môi trường, xây dựng

101

đời sống văn hóa. Bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp và thuần phong, mỹ tục

của quê hương, đất nước. Xóm, thôn, bản là nơi tập trung nhiều thành phần dân cư

khác nhau, mang tính chất xã hội sâu sắc, là nơi cung cấp sức người, sức của cho

toàn xã hội. Đây cũng là nơi chứa đựng và giải quyết các mối quan hệ xã hội như

mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước thông qua chính quyền cơ sở, quan hệ

giữa dân với Đảng thông qua Đảng viên, chi bộ, Đảng bộ cơ sở; Là nơi trực tiếp

thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Là nơi

thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Như vậy, mấu chốt thực hiện chính sách

dân tộc là ở cơ sở, ở mỗi làng, bản. Ở vùng dân tộc, cộng đồng dân cư, đặc biệt là

làng, bản có vai trò rất lớn trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc.

Nhận thức được điều này, các cán bộ làm công tác dân tộc phải thấm nhuần

phương châm hướng về cơ sở, mọi chủ trương, chính sách đều hướng về đồng bào,

phục vụ lợi ích, nhu cầu của đồng bào. Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế-

xã hội vùng dân tộc, các cán bộ làm công tác dân tộc trước hết phải là những người

thực sự có tâm, có trách nhiệm đối với Đảng, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, bên

cạnh đó, phải là người có tài, có đức, phải kiên trì, bền bỉ trong việc giáo dục, giác

ngộ quần chúng. Phải thật sự lấy dân làm gốc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần

của đồng bào, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào phát triển kinh tế gia đình. Phải

nắm được và tuyên truyền những cách làm hay, kinh nghiệm quý, vận động nhân

dân làm theo là một biện pháp rất quan trọng trong quá trình tổ chức vận động quần

chúng. Phải tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực

hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Có chính sách động

viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong

đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở

các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi.

102

Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân

tộc thiểu số theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị,

vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng

địa phương… Thực hiện tốt phong cách công tác dân vận: “trọng dân, gần dân, hiểu

dân, học dân, có trách nhiệm với dân”. Thực hiện tốt “bốn cùng” và “ba trực tiếp”

với dân, đó là: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc với dân” và “trực

tiếp đến nhà dân, trực tiếp nghe dân nói và nói cho dân nghe, trực tiếp làm cho dân

tin và hướng dẫn dân cùng làm”. Công tác tuyên truyền vận động đi đôi với việc

làm cụ thể, thiết thực. Đồng bào dân tộc vốn rất trọng chữ “tín”. Vì vậy, cán bộ,

Đảng viên, nhất là cán bộ Đảng viên ở cơ sở phải gương mẫu, nói ít, làm nhiều thì

dân mới tin. Có như vậy mới làm tốt được công tác vận động quần chúng.

3.2.5. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số

trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn cơ sở

Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, để phát huy vai trò chủ thể của mình

trong việc thực hiện chính sách dân tộc cần chú ý:

Trong quá trình cụ thể hóa chính sách dân tộc thông qua các chương trình,

dự án, cần quan tâm đến điều kiện kinh tế- xã hội đa dạng của từng vùng dân tộc,

cần tính đến yếu tố đặc thù của từng dân tộc để có những hình thức bước đi và giải

pháp hiệu quả, phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm phát huy vai trò chủ động,

tích cực, làm chủ của đồng bào các dân tộc.

Như vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung

chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc

thiểu số để làm căn cứ cho việc đầu tư phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương. Bên

cạnh đó, phải tăng cường nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội các vùng,

các dân tộc để cụ thể hóa các chính sách sao cho phù hợp với thực tế địa phương.

103

Cấp ủy, các cơ quan chuyên môn cần tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc

tham gia vào tất cả các quá trình từ thu thập thông tin cho việc hoạch định chính

sách đến việc tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá, thẩm định hiệu quả việc thực

hiện chính sách dân tộc và được hưởng lợi từ chính sách, nhất là đối với việc triển

khai thực hiện các dự án.

Cần phải xác định rằng, chủ thể thực hiện chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước ta chính là đồng bào các dân tộc. Sự giúp đỡ của

Đảng và Nhà nước là cần thiết để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về mọi mặt giữa

các dân tộc. Tuy nhiên, đó chỉ là sự giúp đỡ về nguồn lực, kỹ thuật, các yếu tố vật

chất và tinh thần. Còn chủ thể đích thực của quá trình đó là đồng bào các dân tộc.

Họ phải tự mình vươn lên, rút ngắn khoảng cách phát triển với các dân tộc khác.

Thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú để tăng cường giáo dục

chính trị, tư tưởng cho quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở

vùng sâu, vùng xa; bồi dưỡng, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khắc phục tư

tưởng ỷ lại vào Nhà nước, vào xã hội; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khai thác

đến mức cao nhất mọi tiềm năng thế mạnh của nhân dân.

Bằng các phương pháp tuyên truyền, giúp đỡ đồng bào các dân tộc nhận

thức và hành động đúng rằng: muốn tiến bộ, muốn phát triển, muốn xóa bỏ mọi

cách biệt giữa các dân tộc, bên cạnh sự giúp đỡ quý báu to lớn của Đảng, Nhà nước

và đồng bào cả nước, việc phát huy nội lực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, ý chí

tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển sản xuất, xóa đói

giảm nghèo, củng cố hệ thống chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… là yếu tố

rất quan trọng.

Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua luôn xác định các chương

trình đầu tư phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số khi triển khai

thực hiện nhất thiết cần phải có được sự hưởng ứng của nhân dân, đảm bảo quy chế

104

dân chủ ở cơ sở, người dân được quyết định, kiểm tra, giám sát đối với các chương

trình có liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Việc lựa chọn đầu tư xây dựng các

công trình phải do nhân dân công khai bàn bạc và thông qua Hội đồng nhân dân

quyết định. Kinh nghiệm cho thấy, dự án nào nhân dân được tham gia bàn bạc ngay

từ đầu thì sẽ huy động nguồn lực được tốt hơn, củng cố được sự tin tưởng và lòng

nhiệt tình hưởng ứng của người dân vào chính sách đầu tư của Đảng và Nhà nước,

đây là một tác nhân quan trọng cho sự thành công của các chương trình, dự án.

105

KẾT LUẬN

Trong hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã đề ra đường lối

chính sách dân tộc đúng đắn và được thực hiện nhất quán qua mọi thời kỳ cách

mạng, với nguyên tắc cơ bản: thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân

tộc. Chính vì vậy, Đảng đã thu hút, tập hợp đông đảo đồng bào các dân tộc Việt

Nam, tạo thành sức mạnh vô địch, vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành những

thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong công cuộc đổi

mới.

Trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến ngày càng phức tạp của

tình hình trong nước và thế giới, việc nhận thức và thực hiện đúng đắn chính sách

dân tộc ở nước ta nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng là một nhiệm vụ to

lớn, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai

thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân tộc, miền núi.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị

quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI, các ngành các cấp ở

tỉnh Thái Nguyên quan tâm nhiều hơn đến công tác dân tộc, miền núi. Đặc biệt, để

thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

IX về công tác dân tộc, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng

Chương trình hành động số 09- CTr/TU ngày 16/5/2003 nhằm đưa Nghị quyết của

Đảng vào thực tiễn địa phương.

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Đảng bộ

tỉnh Thái Nguyên đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp vừa cấp bách, vừa cơ bản

nhằm xây dựng toàn diện vùng dân tộc, trong đó trọng tâm là công tác xóa đói giảm

106

nghèo, công tác định canh định cư và kinh tế mới. Công tác xóa đói giảm nghèo,

nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số được xác định là nhiệm vụ khó khăn

và nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân tộc nên được tập trung nhiều thời gian và

công sức. Bên cạnh sự đầu tư của Trung ương thông qua các chương trình mục tiêu

quốc gia như: Chương trình 135, Chương trình 134, chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu

số đặc biệt khó khăn, chính sách trợ cước, trợ giá, các chương trình về y tế, văn hóa,

giáo dục... các ngành, các cấp trong tỉnh bằng nhiều hình thức tranh thủ nguồn vốn

của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn của ngành ưu tiên cho đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Do đó, đến năm 2005 chương trình xóa đói giảm

nghèo đã phát huy hiệu quả tốt, đời sống của đồng bào cơ bản được cải thiện.

Được tiến hành song song với công tác xóa đói giảm nghèo là công tác định

canh định cư và kinh tế mới. Đây là chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và

Nhà nước. Kết quả thực hiện công tác định canh định cư đã góp phần tích cực vào

công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế- xã hội khu vực dân tộc và miền

núi, bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn tỉnh.

Từ khi tái lập tỉnh (1997) đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã lãnh

đạo thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh và thu được một số thành tựu. Sự

phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã có

những biến đổi đáng kể, làm cho nhiều vùng, nhiều điểm dân cư có những khởi sắc

trong việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hóa, nâng

cao trình độ văn hóa, xóa đói giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng

bào các dân tộc được cải thiện từng bước, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được

vững chắc, vị trí của các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao trong đời sống

chính trị xã hội. Đồng thời, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trên địa bàn tỉnh

107

Thái Nguyên còn củng cố quốc phòng an ninh, đập tan mọi âm mưu và hành động

phá hoại của các thế lực thù địch, phản động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được là cơ bản, còn có những tồn tại,

yếu kém như: trình độ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số ở Thái

Nguyên chưa toàn diện và chưa vững chắc, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu

số ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn.

Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm được rút ra,

việc thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên trong thời gian tới cần chú ý: Phát

triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với đặc điểm của từng vùng, đảm bảo cho

đồng bào dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và đóng

góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Thực hiện chính sách ưu

tiên, đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và

trí thức cho các dân tộc thiểu số; Kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa của

cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa,

khoa học của nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Có

chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng

và vùng kháng chiến cũ; Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,

giúp cho đời sống đồng bào ngày một tốt hơn.

Những thành tựu đạt được trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh

đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1997 đến 2005 chỉ là bước đầu nhưng có ý

nghĩa quan trọng về nhiều mặt. Một mặt, nó khẳng định tính đúng đắn, khách quan,

hợp quy luật, hợp lòng dân của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Mặt

khác, nó làm phong phú thêm những kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên

trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng tại địa phương, góp phần

108

phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu

số tỉnh Thái Nguyên.

Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng ở tỉnh Thái Nguyên không chỉ

đáp ứng lợi ích trước mắt của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên mà

còn góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội ở

khu vực, tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu: dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của cả nước.

109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân

tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ,

đảng viên cơ sở), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,

tập 1( 1936- 1965), Sơ thảo, xuất bản năm 2003.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,

tập 2(1965- 2000), Sơ thảo, xuất bản năm 2005.

4. C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập (1995), tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Chính sách và chế độ pháp lý đối

với đồng bào dân tộc và miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Cục thống kê Thái Nguyên (2002), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1997-

2001, Nxb Thống kê, Hà Nội.

7. Cục thống kê Thái Nguyên (2003), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên (1998-

2002), Nxb Thống kê.

8. Cục thống kê Thái Nguyên (2004), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên (1999-

2003), Nxb Thống kê.

9. Cục thống kê Thái Nguyên (2005), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2004,

Nxb Thống kê.

10. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số

nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay (Sách tham khảo), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

11. Phan Hữu Dật (Chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên

quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay( Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

110

12. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

III, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IV, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành

Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp

hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1991),Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ

VI.

24. Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ

VII.

111

25. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên

lần thứ XV.

26. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần

thứ XVI.

27. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần

thứ XVII.

28. Bế Viết Đẳng (Chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh

tế – xã hội ở miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia – Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

29. Trịnh Trúc Lâm ( Chủ biên)- Nguyễn Quận (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, Sở

Giáo dục& Đào tạo- Sở Khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh Thái Nguyên,

Thái Nguyên.

30. Hà Quế Lâm (2002), Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện

nay - thực trạng và giải pháp( sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

31. Nguyễn Quốc Phẩm- Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn

về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Nguyên (1997), Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế- xã hội đến năm 2010.

33. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo tổng

kết công tác định canh định cư và kinh tế mới giai đoạn 1990- 2004 tỉnh Thái

Nguyên.

34. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo tổng

kết chỉ thị 45 TW về một số công tác trong vùng dân tộc Hmông.

35. Trần Nam Sơn- Lê Hải Anh (2001), Những quy định về chính sách dân tộc, Nxb

Lao động, Hà Nội.

112

36. Phan Xuân Sơn- Lưu Văn Quảng (2006), Những vấn đề cơ bản về chính sách

dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

37. Nguyễn Xuân Thắng (2002), Đảng bộ Tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện

chính sách dân tộc thời kỳ 1992- 2000, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Chuyên

ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

38. Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã hội các xã miền

núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên 1999 – 2003.

39. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2004), Báo cáo công tác dân vận 6 tháng đầu năm,

nhiệm vụ công tác dân vận 6 tháng cuối năm 2004.

40. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Báo cáo công tác dân vận năm 2004, nhiệm vụ

công tác dân vận năm 2005.

41. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2007), Báo cáo công tác dân tộc năm 2006.

42. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (2003), Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), số 09- CTr/ TU.

43. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (2005), Báo cáo hai năm triển khai, tổ chức thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương ( khoá IX) về phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, số 140 – BC/

TU.

44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2004), Một số vấn đề cần biết về dân tộc

và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lao động, Hà Nội.

45. Trịnh Quốc Tuấn( Chủ biên) (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn

đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. Ủy ban Dân tộc và miền núi (1997), Hệ thống các văn bản chính sách dân tộc

và miền núi, tập II về kinh tế- xã hội, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

113

47. Ủy ban Dân tộc và miền núi (1997), 50 năm công tác dân tộc (1946- 1996),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Ủy ban dân tộc và miền núi (2001), Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở

nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

49. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo hàng năm về kết quả thực hiện

nhiệm vụ kinh tế – xã hội của tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005.

50. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo kết quả thực hiện công tác

dân tộc năm 2005 tỉnh Thái nguyên, Số 246/BC- BDT, Thái Nguyên.

51. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Sở Văn hóa Thông tin, Báo cáo tình

hình thực hiện chính sách dân tộc miền núi.

52. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1998), Dự án tổng quan phát triển kinh tế

xã hội vùng miền núi dân tộc, định canh định cư và kinh tế mới tỉnh Thái

Nguyên thời kỳ 1998- 2010.

53. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Quy hoạch phát triển Giáo dục-

Đào tạo tỉnh Thái Nguyên đến 2010.

54. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện kế

hoạch phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc tỉnh Thái Nguyên (1999-

2003).

55. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình hoạt động văn

hóa- thông tin phục vụ vùng núi, vùng đồng bào dân tộc tỉnh Thái Nguyên giai

đoạn 1998- 2003.

56. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2003), Báo cáo đánh giá kết quả 5 năm

thực hiện các chương trình, dự án đầu tư đối với các xã đặc biệt khó khăn, An

toàn khu của ngành Y tế Thái Nguyên.

114

57. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo đánh giá kết quả ba năm

thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo- Việc làm giai đoạn 2001- 2005 tỉnh

Thái Nguyên.

58. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo đánh giá tình hình phát

triển kinh tế- xã hội ở 3 khu vực vùng dân tộc, miền núi tỉnh Thái Nguyên, số

62/BC-UB.

59. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện

chương trình 135 giai đoạn 1999- 2005.

60. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt

Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

61. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

115

Phụ lục 1: Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên

Nguồn: Sở khoa học và công nghệ tỉnh Thái Nguyên

100

Phụ lục 2 Dân số Thái Nguyên chia theo huyện và dân tộc năm 1999 STT Địa phương

Nùng

Việt

Tày

Dao Hmông Hoa Mường Thái Ngái

Tổng dân số

Sán Dìu

Sán chay

Toàn tỉnh

1.045.906 789.903 106.238 54.628 37.365 29.229 21.818

4.831

969

465

422

Tỷ lệ %

100,00

75,23

10,15

5,22

3,57

2,79

2,08

0,46

0,09

0,04

0,04

2.57 3 0,24

211.451

190.369 10.403

4.924

3.446

474

437

118

256

461

315

86

1

TP Thái Nguyên TX

43.379

41.988

424

228

617

19

11

6

31

33

10

3

2

Sông Công H. Định Hóa

89.452

31.541

43.697

3.023

37

7.944

1.726

110

38

32

1

3

1.25 8 219

4 H. Đại Từ

161.661

124.662 13.569 10.789

2.713

5.781

3.594

10

120

26

110

5 H. Phú Lương

102.773

60.145

19.759

4.619

4.574

10.477

2.447

244

339

86

23

10

6 H. Võ Nhai

60.207

22.020

13.320 11.790

80

2.487

7.943

2.463

8

58

19

1

7 H. Đồng Hỷ

111.108

68.914

2.644

14.651 15.245 2.010

5.224

1.852

241

69

35

167

H. Phú Bình

135.434

126.701

1.653

4.228

2.492

56

24

196

22

20

3

13

8 9 H. Phổ Yên

130.441

120.563

769

376

8.161

380

4

25

15

84

2

31

Nguồn: Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số Trung ương, Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999 (kết quả điều tra toàn bộ), NXB Thống kê, H.2001.

101

Phụ lục 3: Tổng hợp tình hình kinh tế, đời sống vùng dân tộc và miền núi của tỉnh Thái Nguyên năm 2005

Đơn vị

Các chỉ tiêu về kinh tế, đời sống vùng dân tộc

ST

hành chính

T

Thu nhập bình

Số hộ không

Số hộ

Số hộ không

Số hộ

Tổng số

Số hộ

Tỷ lệ hộ

huyện

quân đầu người

có hoặc thiếu

không

có hoặc có

du canh

hộ toàn địa

nghèo

nghèo%

(triệu/người/năm

đất sản xuất

có đất ở

nhà ở tạm

du cư

phương

)

bợ

2699

253

0

254111

68227

26,68

Tổng số

4,43

3078

1 Đồng Hỷ

532

383

24

27365

7027

25,68

2

Phú Lương

632

513

42

25210

7943

31,51

3 Võ Nhai

541

310

47

13800

7237

52,44

4 Đại từ

524

516

54

39548

12592

31,84

5 Định Hóa

603

758

77

21757

9057

41,63

6

Phú Bình

110

94

3

31160

0777

31,38

7

Phổ Yên

118

106

3

31555

7537

23,89

8 TX. Sông Công

3

11

3

11188

2265

20,24

9 TP. Thái Nguyên

15

8

52528

4792

9,12

Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

102

Phụ lục 4: Tổng hợp một số chỉ tiêu về kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi tỉnh Thái Nguyên năm 2005

TT

Đơn vị huyện

Tổng

Các chỉ tiêu trong vùng dân tộc

số xã

% số

% số

Tỷ lệ

% số xã có

Số

% số xã

% số xã có

Tỷ lệ phủ sóng

Tỷ lệ hộ

xã có

xã có

hộ

đường ô tô

Trường

có trạm

chợ

%

có nước

điện

điện

dùng

đến trung

DTNT

y tế

sinh

Truyền

Phát

hoạt(%)

thoại

điện

tâm

hình

thanh

(%)

Tổng số

180

99,5

63,04

100

100

72,11

100

100

95,9

3

100

1 Đồng Hỷ

100

100

94,45

20

100

100

54,5

100

100

64

2 Phú Lương

100

100

96,82

16

100

100

59,5

100

100

66

3 Võ Nhai

100

100

83,57

15

1

100

100

53,3

100

100

51

4 Đại Từ

100

100

93,27

31

100

100

65,4

100

100

65

5 Định Hóa

100

100

95,79

24

1

100

100

49,7

100

100

52

6 Phú Bình

100

100

100

21

100

100

62

100

100

70

7 Phổ Yên

100

100

99

18

100

95

68

100

100

85

100

100

98

9

100

8 TX. Sông Công

100

70

100

100

97

100

100

100

1

100

9 TP. Thái Nguyên

26

100

85

100

100

99

Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

103

Phụ lục 5: Tình hình giáo dục vùng dân tộc và miền núi tỉnh TháI Nguyên năm học 2005- 2006

TT

Tên huyện

Trong đó

Tổng số học sinh đang đi học Tổng số

Mầm non

Tiểu học

Trong đó là người DTTS

Là người DTTS

Tổng số học sinh

Là người DTTS

Là người DTTS

Tổng số học sinh

Là người DTTS

Tổng số giáo viên

Trung học cơ sở Tổng số học sinh

Là người DTTS

Là người DTTS

Tổng số giáo viên 61.726 2.015

Tổng số giáo viên 5.191

Tổng số

210.867

504

33.096 9.303

1.298

86.972 26.092

4.920

1.230

90.799 26.332

Đồng Hỷ

24.150

7.183

232

3.810

1.181

601

150

10.334 3.100

510

10.006 2.902

128

58

1

Phú Lương

20.405

6.062

190

2.880

893

593

148

8.650

2.595

501

8.875

2.574

125

48

2

Võ Nhai

15.076

4.484

177

2.225

690

519

130

6.776

2.033

386

97

6.075

1.762

44

3

Đại Từ

34.243

10.176 315

5.495

1.703

783

196

13.526 4.058

833

15.222 4.414

208

79

4

Định Hóa

18.707

5.553

213

2.740

849

505

126

7.299

2.190

454

8.668

2.514

114

53

5

Phú Bình

28.509

8.173

232

5.223

1.306

626

157

11.468 3.440

610

11.818 3.427

153

58

6

Phổ Yên

27.411

7.896

215

4.219

1.055

646

162

11.541 3.462

573

11.651 3.379

143

54

7

7.336

2.110

86

1.128

282

195

49

2.777

833

196

49

3.431

995

22

8

35.030

10.090 355

5.376

1.344

723

181

14.601 4.380

857

214

15.053 4.365

89

9

TX. Sông Công TP. Thái Nguyên

Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

104

Phụ lục 6: Tổng hợp một số chỉ tiêu về kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi tỉnh Thái Nguyên năm 2005 STT Đơn vị huyện Tổng số xã

% số xã có điện

Tỷ lệ hộ dùng điện

% số xã có chợ

Truyền hình

Phát thanh

% số xã có điện thoại

Các chỉ tiêu trong vùng dân tộc % số xã có trạm y tế

Trường bán chú DN

Trườn g DTTN

Tỷ lệ hộ có nước SH (%)

Tổng số

180

100

100

95,5

99,5

100

100

72,11

% số xã có đường ô tô đến trung tâm 100

3

Đồng Hỷ

20

100

100

94,45

100

1

64

100

63,0 4 54,5

100

100

Phú Lương

16

100

100

96,82

100

2

66

100

59,5

100

100

1

Võ Nhai

15

100

100

83,57

100

3

51

100

53,3

100

100

100

Đại Từ

31

100

100

93,27

4

65

100

65,4

100

100

100

1

Định Hóa

24

100

100

95,79

5

52

100

49,7

100

100

100

Phú Bình

21

100

100

100

6

70

100

100

62

100

100

Phổ Yên

18

100

100

99

7

85

68

95

100

100

100

TX. Sông Công

9

100

100

98

8

97

70

100

100

100

100

1

TP. Thái Nguyên 26

100

100

100

99

85

100

100

100

9 Nguồn: Ban Dân tộc- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

105

Phụ lục 7: Tổng hợp đầu tư chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn cho vùng

đồng bào dân tộc Hmông tỉnh Thái Nguyên (1994- 2003)

Tổng cộng

1995

1996

1997

1998

2000

2002

2003

Danh mục

ĐVT

KL Vốn KL Vốn KL Vốn KL Vốn KL Vốn KL Vốn KL Vốn KL Vốn

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

830,5

170,5

100

274

98

58,8

118,5

11

Tổng cộng

1. H. Định Hóa

25,4

11

11

1,4

2

Hỗ trợ sản xuất Chăn nuôi lợn

Hộ

25,4 14

11 11

11

14

3

11 3

1,4

2

Chăn nuôi trâu bò

Hộ

8

8

8

8

Trồng chè

Ha

1,1 2,4

0,1 0,4

1,0 2

Chăn nuôi gà

Hộ

2

1,0

2

1,0

2. H. Phú Lương

49,5

20

29,5

Hỗ trợ sản xuất

49,5

20

29,5

Chăn nuôi lợn

Hộ

20

20

20

20

23

29,5

Chăn nuôi bò

Hộ

23

29,5

100

9

3. H. Đồng Hỷ

452,1

105,5

83,5

51

52,5

50,6

100

Hỗ trợ sản xuất

392,1

105,5

83,5

51

31,5

20,6

106

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

Chăn nuôi lợn

Hộ

238 220,2 110 105,5 100 100

6

6,5

22

8,2

Mua dụng cụ sản xuất Hộ

13

5,5

13

5,5

Mua phân bón

Hộ

17

6,9

17

6,9

Chăn nuôi trâu bò

Hộ

121 159,5

62

83,5 34 51

25 25

Hỗ trợ đời sống

Hộ

204 60

55 21

146 30

3

9

4. H. Võ Nhai

303,5

34

150

47

66,5

6

Hỗ trợ sản xuất

289

34

150

47

52

6

6

Chăn nuôi lợn

Hộ

63

57

34

34

6

23

17

Chăn nuôi trâu bò

Hộ

136 197

103 150 33 47

Mua dụng cụ sản xuất Hộ

60

32

60

32

Mua phân bón

Hộ

6

3

6

3

Hỗ trợ đời sống

Hộ

33

14,5

33

14,5

Nguồn: Chi cục định canh định cư- kinh tế mới- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên.

107