ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI, 2008

Mục lục

Trang

Mở đầu

3

8 Chương 1 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT từ

năm 1954 đến 1960

1.1. Vài nét về GDPT Thanh Hoá trước năm 1954 8

1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT 15

của Đảng bộ Thanh Hoá

1.3. Quá trình tổ chức thực hiện 22

35 Chương 2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT trong

kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965)

2.1. Chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh 35

Hoá

2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện 41

55 Chương 3 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển

GDPT từ năm 1965 đến 1975

3.1. Chủ trương chuyển hướng phát triển GDPT thời 55

chiến của Đảng

Kết luận

3.2. Quá trình tổ chức thực hiện 64

Tài liệu tham khảo

84

Phụ lục

90

103

BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BCH: Ban chấp hành

Giáo dục phổ thông GDPT:

HTX: Hợp tác xã

HĐND: Hội đồng nhân dân

LLSX: Lực lượng sản xuất

Nxb: Nhà xuất bản

NVQS: Nghĩa vụ quân sự

QHSX: Quan hệ sản xuất

PCGD: Phổ cập giáo dục

UBHC: Uỷ ban hành chính

UBHCKC: Uỷ ban hành chính kháng chiến

VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng có một vai trò vô

cùng quan trọng đối với việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài

cho đất nước. Đảng ta đã xác định giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhân

tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội vì một Việt Nam dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ, trong những năm gần

đây, giáo dục Thanh Hoá đã dành được nhiều thành tựu to lớn góp phần đổi mới sự

nghiệp giáo dục-đào tạo và phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.

Cơ sở nền tảng của những thành tựu giáo dục đó là truyền thống hiếu học từ

ngàn xưa trên mảnh đất này được Đảng bộ Thanh Hoá phát huy cao độ trong mỗi

thời kỳ cách mạng, đóng góp vào sự nghiệp giáo dục đào tạo con người mới.

Vì vậy, nhìn lại những chủ trương, quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển

giáo dục của Đảng bộ Thanh Hoá ở địa phương trong 20 năm đầu xây dựng miền

Bắc (1954-1975) là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần vào

việc nghiên cứu lịch sử phát triển giáo dục Thanh Hoá, rút ra những bài học kinh

nghiệm quý báu cho quá trình phát triển nền giáo dục Thanh Hoá hiện nay.

Từ nhận thức đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh

đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954-1975” làm luận văn thạc sĩ sử học

chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng đã và đang được xã

hội quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Các công trình nghiên cứu về giáo dục Thanh

Hoá được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau:

Cuốn “50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá (1945-1995), sự kiện và

thành tựu” (1995), Nxb Thanh Hoá do tập thể những người làm công tác giáo dục

ở địa phương biên soạn nhân dịp kỷ niệm 50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá.

Cuốn sách đã nhìn lại những sự kiện và thành tựu chính của nền giáo dục Thanh

Hoá trong suốt nửa thế kỷ qua, đồng thời phác hoạ về hướng phát triển của 15 năm

tiếp theo.

Cuốn “Danh sĩ Thanh Hoá và việc học thời xưa” (1995) do Trần Văn Thịnh

chủ biên, Nxb Thanh Hoá, tuy chưa phải là viết riêng về lĩnh vực giáo dục nhưng

cũng đã đề cập đến vai trò của tài năng và việc bồi dưỡng tài năng nhằm chuẩn bị

cho Thanh Hoá trong thời kỳ mới.

Cuốn “60 năm Collège de Lam Sơn - Đào Duy Từ - Lam Sơn 1931-1991”

(1991) do tập thể những người trực tiếp làm công tác giáo dục ở Trường PTTH

Lam Sơn biên soạn nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường với nội dung

chủ yếu là phản ánh quá trình hình thành và phát triển của trường Lam Sơn; các

thành tựu cơ bản của trường.

Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi

tiết về đường lối và chủ trương phát triển giáo dục-đào tạo cũng như GDPT của

Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá. Vì vậy, đây là một vấn đề cần được đi

sâu nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

- Tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với vấn đề

GDPT qua việc chấp hành chủ trương, chính sách GDPT của Đảng đề ra.

- Tìm hiểu quá trình triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính

sách đó và những kết quả đạt được qua các giai đoạn phát triển.

- Đánh giá những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra những bài học kinh

nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp

theo.

Nhiệm vụ:

- Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng và

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, cũng như quá trình chỉ đạo thực hiện của chính quyền

tỉnh và các Sở, Ban, Ngành liên quan. Từ đó làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Thanh Hoá đối với ngành GDPT địa phương.

- Hệ thống hoá và trình bày những tư liệu đó qua các giai đoạn phát triển gắn

liền với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Từ đó, thấy được ngành GDPT Thanh

Hoá đã thực hiện những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình cách mạng (trong

thời bình cũng như thời chiến).

- Phân tích những chủ trương, biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện

những chủ trương về giáo dục phổ thông của tỉnh trong thời kỳ 1954-1975.

- Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện,

đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền

tỉnh Thanh Hoá đối với yêu cầu phát triển của GDPT trên địa bàn tỉnh.

Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển GDPT trên địa

bàn tỉnh Thanh Hoá trong khoảng thời gian từ 1954-1975. Những đưòng lối, chủ

trương được trình bày ở luận văn là những đường lối, chủ trương quan trọng nhất,

có tính định hướng, có tầm chiến lược cho sự phát triển giáo dục giáo dục-đào tạo

và GDPT của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá.

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp lịch sử

và phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân

tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài.

Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng nghiên cứu chủ yếu là:

- Các văn kiện, nghị quyết của Đảng, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Hành chính tỉnh...

về vấn đề giáo dục.

- Các báo cáo của Ty Giáo dục Thanh Hoá.

- Một số sách, báo nghiên cứu của các cá nhân tập thể về vấn đề giáo dục.

6. Đóng góp của luận văn

- Hệ thống lại quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển GDPT của

Đảng bộ Thanh Hoá thời kỳ 1954-1975.

- Nêu lên một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển

GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp theo.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được

cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT

từ năm 1954-1960

1.1. Vài nét về giáo dục Thanh Hoá trước 1954

Thanh Hoá là một tỉnh đa tộc người. Ngoài người Kinh sinh sống ở đồng

bằng, còn có các tộc ít người khác như Mường, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Dao

thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt-Mương, Môn-Khơme, Tày-Thái, Mông-Dao, tụ cư

chủ yếu ở miền núi. Địa bàn này chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, dân số các tộc ít

người kể trên chiếm 1/3 cả tỉnh {139, tr.62}.

Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3

vùng rõ rệt. Vùng đồng bằng là vựa thóc, vùng biển là kho cá và miền núi là kho

nguyên liệu vô tận. Cả 3 vùng hỗ trợ nhau sẽ làm cho tỉnh có nền kinh tế toàn diện,

vững chắc và miền núi phấn đấu sẽ trở thành một vùng vững vàng về chính trị, khá

giả về kinh tế, mạnh mẽ về quốc phòng.

Thanh Hoá cũng là một vùng đất lịch sử lâu đời, là nơi đã phát hiện được

các di chỉ khảo cổ học thuộc hầu hết các thời đại khảo cổ học lớn của nước ta thời

tiền sử và sơ sử. Thanh Hoá có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn

lớn của lịch sử, từ tối cổ đến tận ngày nay. Do vậy, thiên nhiên và văn hoá xứ

Thanh đều thấm đượm sắc màu lịch sử.

Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, phong trào Cần

Vương chống Pháp lan rộng trong cả nước. Trong đó, Thanh Hoá trở thành một

trung tâm kháng chiến lớn. Nhiều sĩ phu yêu nước như Tống Duy Tân, Phạm Bành,

Hoàng Đạt, Cầm Bá Thước, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao…đã đứng lên lãnh đạo

nhân dân địa phương quyết liệt chống giặc.

29/7/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được thành

lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thanh Hoá không ngừng phát huy

truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất vượt qua

muôn ngàn khó khăn gian khổ.

20/8/1945, nhân dân Thanh Hoá đã nổi dậy khởi nghĩa phá tan xiềng xích

của chế độ thực dân, phong kiến ở Thanh Hoá. Cùng với nhân dân cả nước, nhân

dân Thanh Hoá bước vào kỷ nguyên của độc lập và tự do.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Thanh Hoá là vùng

đất tự do. Chính vì vậy, Thanh Hoá là nơi có điều kiện để cung cấp sức người, sức

của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.

Tháng 7/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định

Giơnevơ được ký kết. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Cùng với các tỉnh

miền Bắc, Thanh Hoá bước vào thời kỳ mới: thời kỳ khôi phục cải tạo và xây dựng

XHCN, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Trải qua quá trình lịch sử lâu dài dân tộc dựng nước-giữ nước của dân tộc ta,

từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân Thanh Hoá luôn thể hiện một sức sống

mãnh liệt, không ngừng vươn lên trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp

bức, cường quyền. Trong suốt cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, nhân dân Thanh

Hoá đã chung đúc nên truyền thống, những đức tính quý báu tiêu biểu cho tinh hoa

của dân tộc, trong đó có truyền thống hiếu học.

1.1.1 Giáo dục Thanh Hoá dưới chế độ phong kiến, thực dân

Cũng như mọi thôn, làng khác ở trong tỉnh, các làng, xã xưa của vùng đất

Thanh Hoá đều có lớp học chữ Hán do thầy đồ mở trường dạy chữ. Việc học hành

ở Thanh Hoá cho thấy có nhiều người đỗ đạt. Suốt hai triều đại Lê, Nguyễn, Thanh

Hoá có 1690 cử nhân, những học vị cao như Trạng Nguyên có 3 người, Bảng nhãn

có 7 người, Thám Hoa có 6 người. Riêng triều Nguyễn có 47 khoa thi Hương thì

Trường thi Thanh Hoá đã tổ chức 31 kỳ, trong 31 kỳ thi lấy đỗ tại chỗ 450 cử

nhân, vùng đất Hạc Thành có 6 vị cử nhân {54, tr. 48}.

Cùng với những người đạt học vị cao nhất, Thanh Hoá cũng có nhiều vị tiến

sĩ, cử nhân và tú tài, những học giả xuất sắc với các công trình, tác phẩm lưu lại

cho đời sau. Rất nhiều người đã mở đầu hay tiêu biểu cho những môn khoa học

trong nền học thuật cả nước như: Lê Văn Hưu là nhà sử học; Hồ Quý Ly là người

có quan điểm riêng trong nhận thức về Nho gia, Lương Đắc Bằng là nhà lý học,

Đào Duy Từ vừa là nhà quân sự vừa là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào mở đầu

cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng…là những nhà

nghiên cứu dày công có nhiều tác phẩm đồ sộ về sử học, địa lý…Những kết quả đó

chứng tỏ giáo dục Thanh Hoá có một bề dày về văn hoá, khoa học nhất định.

Có một hiện tượng chứng tỏ Thanh Hoá là một địa phương hiếu học và có

thành tích cao trong việc học tập là truyền thống dựng bia hoặc lập văn chỉ ở các

làng, các huyện. Bia, văn chỉ dùng để ghi những thành tích học tập, những kết quả

khoa bảng của riêng địa phương ấy. Có những tấm bia ghi riêng về thành tích học

tập của một dòng họ như họ Trịnh ở thôn Hổ Bái (Yên Định), họ Lê ở Cổ Đôi

(Nông Cống). Có cả loại bia để tôn vinh riêng một vị đại khoa như bia Mai học sĩ

từ đường ký ở Thạch Giản (Nga Sơn). Có những làng xã nổi tiếng là làng đại khoa

như xã Hoằng Lộc, Nguyệt Viên, Phù Quang (Hoằng Quang, Hoằng Hoá)…

Những thành tích của giáo dục Thanh Hoá trong suốt nghìn năm lịch sử, vai

trò của các thầy giáo, các học giả, các nhà trường cùng với truyền thống tôn trọng

học vấn của từng dòng họ, từng xã, từng huyện đã khẳng định Thanh Hoá có một

truyền thống giáo dục rất đáng tự hào. Tất nhiên, do hoàn cảnh chính trị, hoàn cảnh

kinh tế của chế độ xưa mà nền giáo dục này chưa phải là nền giáo dục của toàn

dân, chưa được phổ cập.

Trong thời kỳ Pháp thống trị, phong trào cựu học đã có sự xen kẽ với phong

trào tân học. Khoa thi Hương cuối cùng tổ chức vào năm 1918 đã chấm dứt việc

dùng chữ Hán trong văn bản hành chính, chuyển sang dùng chữ Pháp và chữ quốc

ngữ. Trường Nho học cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh lỵ trở thành trường Tiểu học Pháp-

Việt. Các trường làng, huyện chỉ học đến lớp sơ đẳng, tới lớp nhì đệ nhất phải lên

trường tỉnh {139, tr.252}.

Đến năm 1930, các trường phổ cập mở ra đông hơn nhưng Thanh Hoá mới

có 124 trường trong tổng số 826 trường của cả Trung Kỳ. Tỷ lệ học sinh đi học

thời kỳ này rất thấp. Cứ 29.329 người dân mới có 1 trường, 0,4% dân số được đi

học phổ cập. Các bậc học trên còn ít hơn. Cứ 1 triệu dân có 19 học sinh trung học

công lập, 0,0019% số người học trung học; 0,05% dân số học cao đẳng tiểu học

{76, tr.21}.

Đầu năm 1938, hội truyền bá quốc ngữ do một số trí thức yêu nước và

những người hoạt động xã hội được thành lập đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào

học quốc ngữ tại Thanh Hoá. Nhờ đó, phong trào học chữ quốc ngữ phát triển rầm

rộ. Đại bộ phận những người đi học là dân nghèo nên giấy bút do chi hội truyền bá

quốc ngữ cung cấp. Đội ngũ giáo viên gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần tham

gia như viên chức, công nhân, học sinh, thân sĩ, thương gia…Địa điểm các lớp học

tổ chức tại nhà dân, đình chùa, miếu phủ, bất kỳ nơi nào có thể học được. Chỉ trong

một thời gian ngắn, toàn thị xã tổ chức được hơn 30 lớp. Lớp ít nhất có 5 người,

lớp đông nhất là 30 người, chưa kể lớp dạy kèm cặp 1,2 người {76, tr.43}.

Những năm chịu sự thống trị của thực dân Pháp, Thanh Hoá đã phải bị tiếp

nhận chính sách giáo dục hạn chế, ngu dân một cách cụ thể nhất. Tuy nhiên, ở

Thanh Hoá những tấm gương học tập và giảng dạy vẫn được phát huy với sự hoạt

động của các hội Truyền bá quốc ngữ, của thầy-trò Trường học Thanh Hoá.

Nhìn chung, nền giáo dục phong kiến đã đào tạo nên những trí thức Nho học

có phẩm chất cao đẹp mà tên tuổi của họ gắn liền với những địa danh cụ thể. Đó là

những tấm gương khổ công tu dưỡng, học hành để cống hiến cho dân cho nước.

Tuy nhiên, giáo dục Thanh Hoá trước cách mạng, dù có nhiều khởi sắc dưới thời

phong kiến hay chưa được phát huy bởi chính sách ngu dân, hạn chế dưới chế độ

thực dân thì đều là nền giáo dục của một bộ phận, của những cá nhân. Phải từ sau

cách mạng tháng Tám 1945, một nền giáo dục mới được xây dựng trên cơ sở khơi

dậy và phát huy truyền thống giáo dục vốn có cùng với những yếu tố mới do cách

mạng mang lại. Đó là nền giáo dục dân tộc-dân chủ, nền giáo dục do dân, vì dân.

Từ đó, những trang sử giáo dục Thanh Hoá đã ghi thêm những thành tựu mà hàng

ngàn năm trước chưa từng có, không thể có.

1.1.2. GDPT Thanh Hoá trong những năm sau cách mạng tháng Tám

đến năm 1954

Cách mạng Tháng Tám, đối với giáo dục là cột mốc mở đầu công cuộc xây

dựng và phát triển nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân dân “vị nhân sinh”. Một

trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí:

“Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà thực dân Pháp dùng để cai trị

chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” {70,

tr.105}. Chính vì vậy “muốn giữ vững độc lập, muốn làm dân mạnh nước giàu,

mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải

có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước

hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” {70, tr.218}.

Cùng với BDHV, GDPT cũng được chú ý. Các trường tiểu học trong toàn

tỉnh được ổn định. 400 hương trường được giải tán. Ngành giáo dục phát lệnh

chiêu sinh trở lại để chuẩn bị cho năm học mới. 01/10/1945, các trường cả trường

quốc lập, dân lập, tư thục trong tỉnh cùng các trường trên toàn toàn quốc khai giảng

năm 1945-1946.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả,

chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Thanh Hoá

thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm “vườn không nhà trống”, nhân dân bắt đầu tản

cư về các vùng nông thôn. Chính trong quá trình chiến đấu gian khổ và ác liệt đó,

công tác giáo dục đã không ngừng phát triển, phục vụ kịp thời và đắc lực cho nhu

cầu ngày càng cao của kháng chiến. Với truyền thống hiếu học vốn có, tinh thần

học tập của nhân dân được nâng cao từ sau cách mạng thành công, lại được Hồ

Chủ tịch, Đảng và Chính phủ ra sức động viên, kêu gọi, giáo dục Thanh Hoá đã

nhanh chóng ổn định và phát triển. Việc tổ chức bậc học cơ bản với thời hạn 4 năm

cho trẻ từ 7 tuổi trở lên, mở thêm trường lớp ở các thôn xã, tuyển dụng giáo viên…

được đẩy mạnh.

Từ năm 1950, cuộc cải cách giáo dục đã đổi hệ thống trung học cũ thành

trường phổ thông cấp III. Theo đề án cải cách giáo dục, nền giáo dục của nước

VNDCCH là nền giáo dục của nhân dân, do dân, vì dân được xây dựng theo

nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo: Giáo dục thế hệ trẻ

thành công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và phẩm chất phục vụ đất

nước. Phương châm giáo dục: Học đi đôi với thực hành, lý luận gắn với thực tiễn.

Một điều đặc biệt là thời kỳ này, giáo dục gắn chặt với công cuộc kháng

chiến, cùng bước phát triển với kháng chiến. Ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ

chức đợt ủng hộ vật chất, xung phong vào giúp giáo dục Bình-Trị-Thiên và vùng

cao (gọi là Xung Thiên, Xung Thượng), tham gia quyên góp, may áo rét cho bộ

đội. Đặc biệt, một bộ phận giáo viên, học sinh đã trực tiếp gia nhập quân đội, trực

tiếp đánh giặc cứu nước. Năm 1949, trong số 595 học sinh trường Đào Duy Từ đã

có 514 học sinh tình nguyện tòng quân 64 học sinh đã có lệnh nhập ngũ {86,

tr.143} Năm 1954, khi toàn tỉnh dốc sức, dốc người cho chiến trường, ngành giáo

dục Thanh Hoá đã tổ chức một đoàn xe thồ chở gạo lên Điện Biên để phục vụ

chiến dịch. Trong số học sinh, chiến sĩ có người trở thành anh hùng.

Từ cuối năm 1947 đầu 1953, do tính chất của cuộc chiến tranh, do đặc điểm

của một thị trấn vùng hậu phương nên dân cư lúc co cụm nơi này, khi dời đến nơi

khác. Vì vậy, việc học tập không tránh khỏi những biến động. Tuy nhiên, có thể

khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá không những chú trọng đẩy

mạnh phát triển giáo dục của địa phương mà còn là mảnh đất “cưu mang” giáo dục

khu III. Khu giáo dục và gần hết các trường khu III (Hà Đông, Thái Bình, Hà Nam,

Nam Định, Ninh Bình) đều chuyển vào Thanh Hoá, đóng rải rác trên các huyện

của tỉnh. Khu giáo dục và Trường Nguyễn Huệ (Hà Đông cũ) đóng ở Thiệu Yên;

Trường Nguyễn Thượng Hiền - chuyên khoa chung cho toàn Liên khu, Trường Lê

Quý Đôn (Ninh Bình) đặt tại Triệu Sơn; Trường Nguyễn Khuyến (Nam Định cũ)

đóng ở Đông Sơn; Nguyễn Biểu (Hà Nam cũ) ở Thiệu Yên…Trường Sư Phạm

Trung cấp liên khu III chuyển vào chiêu sinh tại Thanh Hoá từ năm học 1951-

1952. Do các trường Liên khu III dời vào Thanh Hoá nên các sinh hoạt chuyên

môn, trại hè bồi dưỡng giáo viên, trao đổi giáo viên chấm thi giữa các trường

Trung học Liên khu III và Trường Trung học quốc gia Lam Sơn trở nên thường

xuyên và mang lại nhiều kết quả tốt.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo cán bộ phục vụ công cuộc

kháng chiến ngày càng cao cũng như phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước trong

tương lai, Bộ Quốc gia giáo dục đặt một lớp Đại học văn khoa ở Thanh Hoá (năm

1949) có 11 sinh viên do giáo sư Đặng Thai Mai giảng dạy. Năm 1950, trường

Trung cấp ngoại giao (khoảng 20 người) do Bộ Ngoại giao mở lớp và tuyển sinh ở

Thanh Hoá. Trường Sư phạm sơ cấp liên khu IV (đào tạo giáo viên cấp I) từ năm

học 1950-1951 cũng được thành lập. Từ năm 1952, những lớp dự bị Đại học cũng

được đặt ở Thanh Hoá. Năm 1953, nhằm mục đích đào tạo giáo viên cấp III,

Trường Sư phạm cao cấp đã được mở tại đây. Trường Trung cấp Liên khu III đặt ở

Thanh Hoá cũng đã chiêu sinh. Học sinh chủ yếu là con em đồng bào và cán bộ

theo gia đình tản cư… Tại Thanh Hoá, “các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ

vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc… nhằm mục đích là thật thà phụng sự nhân

dân” {32, tr.38}.

Nhìn chung, từ sau năm 1945, Thanh Hoá là một trong những địa phương đã

hình thành một nền giáo dục cách mạng mới, xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục của nô

dịch thực dân phong kiến; một nền giáo dục được xây dựng phù hợp với hoàn cảnh

mới thoát khỏi kiếp nô lệ “nền giáo dục của một nước độc lập… đào tạo nên những

người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn

toàn những năng lực sẵn có của các cháu” {70, tr.23}.

1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Cách mạng Việt

Nam bước vào giai đoạn phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng là tiến

hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,

thống nhất đất nước. “Chúng ta đã đánh thắng chế độ thực dân và phong kiến.

Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta ngày nay là đánh thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây

dựng CNXH, làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp” {65,

tr.229}. Từ sau năm 1954, thời kỳ cách mạng mới đã làm cho nền giáo dục dân chủ

nhân dân chuyển hướng mạnh mẽ nhằm góp phần đáp ứng các yêu cầu cách mạng

chung của cả nước.

Lúc này, miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông. Đó là hệ thống

Trung học và Tiểu học 12 năm thuộc vùng chiếm đóng của thực dân Pháp để lại.

Hệ thống giáo dục 9 năm xây dựng trong thời kỳ kháng chiến ở vùng tự do có tính

chất dân chủ và tiến bộ. Tình hình đó đòi hỏi ngành giáo dục phải gấp rút tiến hành

việc thống nhất hai hệ thống giáo dục.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII khoá II (3/1955) đã nêu nhiệm vụ

phải mau chóng “chấn chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai hệ

thống giáo dục của vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng; Chú ý dựa vào dân mà

phát huy công tác giáo dục, nhân dân giúp đỡ để phát triển các trường dân lập và tư

thục” {40, tr.20}.

Tháng 3/1956, Đề án của Bộ Giáo dục về việc sáp nhập hai hệ thống giáo

dục hiện có thành hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 10 năm đã được Chính

phủ thông qua. Đề án đã chỉ rõ bản chất và mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần

này là: đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những người

phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người

lao động tốt, cán bộ tốt của nhà nước, có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ

nhân dân, tiến dần lên CNXH ở miền Bắc, đồng thời để thực hiện thống nhất nước

nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.

Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với

đời sống xã hội. Nội dung giáo dục với tính chất toàn diện gồm bốn mặt đức, trí,

thể, mỹ trong đó coi trí dục là cơ sở, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và

giáo dục đạo đức trên cơ sở coi trọng việc giảng dạy tri thức có hệ thống. Hệ thống

giáo dục phổ thông từ 9 năm nâng lên 10 năm.

Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4.

Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7.

cấp III: 3 năm từ lớp 8 đến lớp 10.

Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai với nội dung tiến bộ hơn, toàn diện

hơn là một bước đi cơ bản ban đầu quan trọng trong quá trình xây dựng nền giáo

dục XHCN.

Tháng 6/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị cán bộ

Đảng trong ngành Giáo dục để kiểm điểm một năm thực hiện chương trình giáo

dục phổ thông mới cải cách. Hội nghị đã chỉ rõ những tiến bộ đáng kể, những

nhược điểm, thiếu sót trong việc thực hiện nội dung chương trình, phương châm

giáo dục và việc phát triển giáo dục cho các năm học tiếp theo. Đặc biệt, trong việc

giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, quản lý của nhà trường, công tác

Đoàn thanh niên lao động và công tác xây dựng, phát triển Đảng trong nhà trường

được coi trọng, nhất là ở các trường phổ thông cấp III.

Việc thực hiện cải cách xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất lần này cũng

là một quá trình tiếp tục đấu tranh, bồi dưỡng tư tưởng và nhận thức, khắc phục cơ

bản quan điểm, ảnh hưởng của giáo dục cũ, xác lập đường lối, quan điểm giáo dục

XHCN.

Sau 3 năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế-

văn hoá, quan hệ sản xuất mới đã bước đầu được tiến hành xây dựng, tháng

11/1958, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua kế hoạch 3 năm 1958-1960

phát triển kinh tế-văn hoá và cải tạo XHCN. Đối với giáo dục, từ năm 1958, cuộc

vận động “xây dựng nhà trường XHCN” đã được phát động. Theo đó, quan điểm

cơ bản của Đảng về GDPT cũng được xác định:

Thứ nhất, nhà trường XHCN là công cụ của nhà nước chuyên chính vô

sản. Nhà trường phải đảm bảo thực hiện tốt ba mục tiêu: Giáo dục cho học sinh có

lý tưởng và đạo đức để các em phấn đấu vì Tổ quốc; Giáo dục cho học sinh những

kiến thức cơ bản, kiến thức khoa học và hiện đại nhất; Rèn luyện cho học sinh có

đầy đủ sức khoẻ để sống và làm việc và khi cần sẽ làm tốt nghĩa vụ quân sự.

Như vậy, nhà trường XHCN phải phấn đấu đạt 3 mục tiêu nhằm đào tạo

thế hệ trẻ thành những con người tiên tiến. Đó cũng là nội dung cụ thể về quan

điểm “đức, trí, mỹ, thể và lao động có kỹ thuật” mà đề án cải cách giáo dục cũng

đã nói tới. Theo đó, những nguyên tắc giáo dục của nhà trường XHCN cũng được

đề ra như đảm bảo quan hệ giữa giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục khoa học

kỹ thuật; Quan hệ giữa giáo dục tri thức khoa học hiện đại với tri thức đúng đắn

sẵn có của dân tộc và kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng; Quan hệ giữa lý luận

và thực tiễn, học và hành; giữa nhà nước và nhân dân; giữa thầy và trò.

Thứ hai, phát triển giáo dục theo quy mô lớn cấp bách để đáp ứng những

yêu cầu của cách mạng. Phát triển với tốc độ nhanh, tìm mọi cách phổ cập giáo dục

cho thanh thiếu nhi càng sớm càng tốt, phục vụ cho công cuộc đào tạo đội ngũ cán

bộ. Phát triển theo quy mô lớn, tốc độ nhanh nhưng phải có kế hoạch phát triển

giáo dục dài hạn. Khả năng phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục

không trông chờ vào vốn đầu tư của Nhà nước mà còn tuỳ thuộc rất lớn vào vai trò

của nhân dân, trình độ quản lý của ngành giáo dục, của nhà trường và trình độ tư

tưởng, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên.

Thứ ba, vai trò của người thầy giáo: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thầy giáo là

người xây dựng nhà trường-công cụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Giáo viên

là cán bộ của Đảng, có trọng trách giáo dục những con người mới, đào tạo thế hệ

mới. Giáo viên phải vận động nhân dân tham gia dạy học, thực hiện mục đích,

nguyên lý, phương châm giáo dục. Vì vậy, phải có một đội ngũ giáo viên kiên

cường, thiết tha với nghề nghiệp mới đảm bảo được sự nghiệp giáo dục phát triển

theo đúng hướng của Đảng.

Thứ tư, điều kiện để dạy tốt và học tốt nhằm nâng cao chất lượng như: tích

cực xây dựng trường sở, tăng thêm các thiết bị thí nghiệm và xây dựng thư viện, tủ

sách cho các trường học...

Thứ năm là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự cần thiết phải thực hiện toàn dân

tham gia giáo dục, trách nhiệm của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Nhân

dân là lực lượng quan trọng không thể thiếu trong việc xây dựng nhà trường và

giáo dục thế hệ trẻ. Kết hợp công tác của nhà trường với sự hoạt động của nhân

dân chính là kết hợp nhà trường với đời sống xã hội, làm cho nhà trường có một

lực lượng hậu thuẫn hết sức vững chắc.

Có thể nói, ngay từ những năm đầu miền Bắc mới giải phóng, Đảng-Chính

phủ và Hồ Chủ tịch đã sớm có chủ trương phát triển nền giáo dục phục tùng đường

lối chính trị của Chính phủ dân chủ cộng hoà và Đảng Lao động Việt Nam. Quan

điểm cơ bản của Đảng về giáo dục đã khẳng định giáo dục thế hệ trẻ ở trường phổ

thông các cấp là vô cùng quan trọng nhằm xây dựng cơ sở bước đầu, nhưng rất

trọng yếu của việc đào tạo một lớp người, những người kế tục xứng đáng và vẻ

vang sự nghiệp cách mạng. Trên tinh thần đó, GDPT đã được chuyển mạnh vào

quỹ đạo của nền giáo dục XHCN.

Quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, năm 1956, Đảng bộ Thanh Hoá đã

ra chỉ thị về việc tuyên truyền, giải thích mục đích đi học của học sinh dưới chế độ

ta nhằm làm cho cán bộ, học sinh, nhân dân nhận thức một cách sâu sắc mục đích,

nhiệm vụ của GDPT là đào tạo thanh thiếu niên, phát triển chế độ dân chủ tiến lên

XHCN đồng thời đấu tranh thống nhất nước nhà. Chỉ thị cũng chỉ rõ những đặc

điểm của một nhà trường phổ thông dưới chế độ ta:

- Nhà trường phổ thông nhận con em nhân dân và cả con em các thành

phần khác vào học.

- Tuổi đi học của học sinh từ 7 tuổi.

- Trường phổ thông được xây dựng và phát triển rộng rãi ở tất cả các địa

phương, được nhân dân giúp đỡ nhiều mặt. Học sinh không ở tập trung

mà hàng ngày đến trường học một số giờ nhất định. Do đó, học sinh vừa

chịu sự giáo dục của nhà trường, vừa chịu sự giáo dục của địa phương và

gia đình.

- Nhà trường phổ thông sau này sẽ là nhà trường mang tính chất phổ cập

nhưng hiện tại vẫn mang tính chất phát triển hình chóp (tỷ lệ các cấp trên

ít hơn cấp dưới). Mục tiêu lâu dài là đào tạo con người mới, nhưng trước

mắt là học sinh phổ thông ra trường đi vào sản xuất, một số lớn học khá

đi vào học các trường trung học và đại học chuyên nghiệp {59, tr.2}.

Trước hết, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn

sót lại, như thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của

nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và xây dựng tư tưởng dạy và

học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chỉ thị cũng chỉ rõ nhiệm vụ chính trị

của toàn Đảng, toàn dân hiện nay là “ra sức củng cố miền Bắc, đấu tranh đòi mở

hội nghị hiệp thương để tiến tới giành thống nhất nước nhà Tổng tuyển cử tự do”

{59, tr.4}. Nhà trường và toàn thể giáo viên, học sinh đều nhận thấy trách nhiệm và

vinh dự của mình góp phần vào việc đấu tranh lịch sử đó và nêu cao khẩu hiệu

“Đẩy mạnh xây dựng nhà trường dân chủ để củng cố hoà bình đấu tranh cho hiệp

thương, cho thống nhất nước nhà”.

Thực hiện chủ trương dựa vào dân để phát triển giáo dục của Đảng, nhằm

đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của con em trong tỉnh, Đảng bộ Thanh Hoá

đã chỉ thị: “chuyển hướng phát triển trường lớp dân lập; Dựa vào khả năng đóng

góp của nhân dân để phổ cập giáo dục ở các vùng miền xuôi; Đảm bảo cho trẻ em

đến tuổi đều được đi học” {15, tr.3}.

Chủ trương dựa vào nhân dân xây dựng giáo dục được thể hiện ở những

điểm như: vận động phụ huynh học sinh đóng góp học phí để cùng Chính phủ củng

cố xây dựng trường lớp quốc lập, trả sinh hoạt phí cho giáo viên dân lập; vận động

nhân dân xây dựng và bảo quản trường sở, bàn ghế đặc biệt là trường cấp I.

Về hình thức tổ chức nhà trường: phát triển giáo dục có thể là quốc lập, dân

lập hay tư thục. Cả 3 hình thức trên đều đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ty

Giáo dục. Đối với các trường lớp dân lập, dần dần sẽ hình thành hệ thống riêng.

Với tính chất quan trọng của phong trào dân lập, nên từ việc mở trường lớp đến

việc đãi ngộ giáo viên đều do sự thoả thuận của nhân dân, đoàn thể đỡ đầu với nhà

trường nhưng luôn đảm bảo đời sống của giáo viên, đảm bảo những điều kiện tối

thiểu đã quy định trong quy chế trường dân lập.

Các trường lớp dân lập được phát triển dựa trên cơ sở sản xuất phát triển,

thích hợp với khả năng và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó còn dựa trên cơ sở

tự nguyện, tự giác của nhân dân, phát triển có kế hoạch, có lãnh đạo nhằm đảm bảo

sự lâu dài, tránh mở ồ ạt, bị động, không đảm bảo sĩ số, chất lượng và đài thọ giáo

viên. Phát triển dân lập nhưng không tách rời phương châm của ngành là “củng cố

đề cao chất lượng, phát triển trên cơ sở củng cố là chính”.

Việc chuyển hướng phát triển giáo dục trong thời kỳ này đã làm cho mạng

lưới của trường phổ thông mở rộng đến các huyện, xã của tỉnh, bảo đảm được sự

học tập liên tục của con em nhân dân, bảo đảm được sinh hoạt tinh thần và vật chất

lâu dài cho giáo viên. Đồng thời, phát huy được ý thức, trách nhiệm của nhân dân

trong việc duy trì xây dựng trường lớp. Phong trào nhân dân xây dựng trường sở,

phát triển các trường dân lập nhất là cấp I để thu nhận các em đến tuổi đi học... đã

phát triển ở nhiều địa phương trong tỉnh. Những chủ trương, nhiệm vụ giáo dục mà

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đề ra là định hướng để phát triển giáo dục trong thời kỳ

mới; đặt cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng một nền giáo dục mới ở địa phương.

1.3. Quá trình tổ chức thực hiện

1.3.1. Đề cao chất lượng phổ thông

Trong những năm đầu sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Đảng bộ

Thanh Hoá đã chú trọng tuyên truyền mục đích về việc học tập dưới chế độ ta,

nhằm làm cho cán bộ, nhân dân, học sinh sớm có nhận thức đúng đắn về việc học

tập, đẩy lùi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa; gạt bỏ những tàn dư của tư tưởng phong

kiến, nho giáo, làm cho mọi người thật thông suốt với đường lối giáo dục của

Đảng.

Ngày 14/2/1955, tất cả các trường trong toàn tỉnh khai giảng và bước vào

năm học mới. Nhà trường phối hợp với các đoàn thể địa phương nhất là Nông hội

tiếp tục giải thích, vận động học sinh đi học. Các trường ở các vùng công giáo,

vùng đói được đặc biệt chú ý.

Nhân ngày khai trường, Bác Hồ đã gửi thư cho học sinh. Bác mong muốn

“các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp đỡ nhà trường giáo dục và

khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp nhân

dân”. Bác “chúc các em thi đua học tập tiến bộ, cho xứng đáng là cháu ngoan của

Bác Hồ” {71; tr.55}. Người căn dặn từng cấp học cần nhận rõ nhiệm vụ, trách

nhiệm của mình trong giai đoạn mới:

- Tiểu học cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,

yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.

- Trung học cần đảm bảo cho học sinh những tri thức phổ thông chắc

chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà {71;

tr.54}.

Theo đó, sau lễ khai giảng, học sinh cấp I được học tập thư của Tỉnh đoàn

học sinh gửi các em thiếu nhi. Học sinh cấp II được học tập tài liệu về xác định

thái độ học tập.

Đẩy mạnh hơn nữa tinh thần học tập và rèn luyện ý thức đạo đức cho học

sinh, ngày 9/8/1954, Ty giáo dục Thanh Hoá đã phát động một phong trào thi đua

kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công với nội dung thi đua phù hợp với

từng cấp học như:

- Học sinh cấp I thực hiện 6 lời dạy của Bác Hồ

- Học sinh cấp II xây dựng thái độ và quan niệm học tập đúng, đắn, bảo đảm

thực chất chương trình giáo dục.

- Học tập học sinh gương mẫu, các điển hình toàn quốc.

Qua thi đua, học sinh được giáo dục về lòng yêu nước, nâng cao ý thức học

tập.

Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục trong những năm đầu là đề cao

chất lượng phổ thông (chủ yếu là đề cao đức dục) nhằm phục vụ cho nhiệm vụ

chung của toàn dân là ra sức củng cố miền Bắc, đấu tranh cho hội nghị Hiệp

thương tiến tới thống nhất nước nhà bằng Tổng tuyển cử tự do.

Thực hiện nhiệm vụ này, Ty Giáo dục đã tiến hành các biện pháp nhằm bồi

dưỡng lập trường, tư tưởng cán bộ, chủ yếu là đội ngũ giáo viên như tổ chức học

tập các chủ trương chống cưỡng ép di dân, sản xuất chống đói ở huyện, xã; học tập

nội dung chủ trương chất lượng của ngành, nội dung phương pháp giáo dục lòng

yêu nước cho các môn học... Bên cạnh đó, Ty Giáo dục cũng chú trọng bồi dưỡng

về nghiệp vụ để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của giáo viên đối với ngành,

đồng thời cố gắng phát huy tác dụng của việc bồi dưỡng chính trị đối với bồi

dưỡng nghiệp vụ.

Với tinh thần “đẩy mạnh xây dựng nhà trường dân chủ để củng cố hoà bình

đấu tranh cho hiệp thương, cho thống nhất nước nhà”, các phong trào của thầy, trò

nhà trường tổ chức đã trở thành phong trào vận động đấu tranh chính trị to lớn của

toàn ngành giáo dục.

1.3.2. Tận lực phát triển giáo dục

Một đặc điểm nổi bật là sau khi hồi cư, nhu cầu học tập ngày càng đòi hỏi

cao hơn. Chăm lo việc học tập cho con em trở thành nhiệm vụ bức thiết. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng, nền giáo dục phổ thông đã phát triển rất mạnh. Từ 1 vạn học

sinh năm 1939 dưới thời Pháp thuộc, dưới chế độ ta, năm 1957, đã tăng lên 9 vạn

học sinh, chưa kể 12 vạn học sinh vỡ lòng {15, tr.1}. Trước tình hình yêu cầu học

tập của nhân dân ngày một tăng, trong khi khả năng tài chính của nhà nước có hạn,

đặc biệt là năm 1954, với việc tập trung mọi khả năng cho hai nhiệm vụ trung tâm

mà Chính phủ đã đề ra là “đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất”, ngân

sách dành cho ngành giáo dục đã bị cắt giảm đáng kể. Vì vậy, ngành Giáo dục đã

có chủ trương chuyển hướng mới trong việc tổ chức, sắp xếp lại trường lớp theo

hướng mở cửa ngành giáo dục, chuyển hướng phát triển trường lớp dân lập, dựa

vào dân để phát triển giáo dục.

Việc chuyển hướng này vừa phát huy ý thức trách nhiệm xây dựng trường

lớp của nhân dân nhất là giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh trong trường

dân lập. Đồng thời, vừa đảm bảo được sự học tập liên tục cho học sinh, bảo đảm

sinh hoạt vật chất lâu dài cho giáo viên.

Ngày 26/ 4/ 1954, Ban Phụ trách chuyển hướng giáo dục Thanh Hoá đã

được thành lập bao gồm đại diện của Uỷ ban tỉnh, Uỷ ban Liên Việt tỉnh, Nông hội

tỉnh, Thanh niên tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, Công đoàn giáo dục tỉnh và Ty

Giáo dục. Với việc thành lập Ban phụ trách này, từ tháng 9 năm 1954, các trường

dân lập đã được hoạt động tạm thời từ đầu học kỳ I năm học 1954-1955 và kinh

phí do nhân dân đài thọ được Ty Giáo dục cho mở cửa chính thức.

Theo đó, học sinh vào học tại trường dân lập cũng phải theo đúng độ tuổi đã

quy định cho học sinh đang học trong các trường quốc lập và được hưởng tất cả

những quyền lợi của học sinh đồng cấp học ở trường quốc lập. Về học phí, “mỗi

tháng góp 2 cân rưỡi gạo và quy ra thóc. Chỉ trừ những học sinh được nhân dân

bình nghị miễn không phải đóng. Ngoài ra còn các em được bình nghị giảm, đóng

tối thiểu mỗi tháng 1 cân gạo và quy ra thóc. Ngoài học phí, các em không phải

đóng thêm một khoản tiền nào khác” {122, tr.12-13}.

Tháng 5/1957, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã triển khai kế hoạch vận động

nhân dân xây dựng dân lập và xây dựng trường sở với mục đích làm cho cán bộ

nhân dân thấm nhuần phương châm củng cố đi đôi với phát triển nhưng phải dựa

vào khả năng của nhân dân. Kế hoạch này được tuyên truyền phổ biến từ tỉnh

xuống đến huyện, xã.

Tại các xã, Ban bảo trợ giáo dục xã được thành lập. Đây là một tổ chức đại

biểu cho nhân dân xã để cùng Chính phủ góp phần xây dựng các trường sở. Nhờ

đó, động viên được nhân dân tham gia tích cực vào việc xây dựng trường lớp, tạo

điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của con em sau này. Ngay từ năm 1957,

toàn tỉnh đã có 117 lớp dân lập, tăng hơn so với kế hoạch 18 lớp và 572 học sinh.

Ngân sách dành cho giáo dục chiếm 13,7%. Chưa kể 10 vạn học sinh vỡ lòng thì số

học sinh phổ thông từ cấp I trở lên: 94.357 học sinh, tăng 10.869 học sinh, 21

trường, 162 lớp so với năm 1956. Tính theo dân số thì cứ 16 người dân 1 học sinh

{47, tr.12}. Chỉ trong 2 năm học sau, GDPT Thanh Hoá được mở rộng, số trường

phát triển rất nhanh. Số lớp, học sinh tăng lên chưa từng có từ trước tới nay. Tính

riêng các trường dân lập, cuối năm học 1958-1959, Thanh Hoá đã có 490 lớp dân

lập cấp I với 25.142 học sinh và 45 lớp cấp II với 2.183 học sinh {104, tr.12}.

Với chủ trương chuyển sang dân lập, nhiều trường lớp đã được củng cố, xây

dựng nhằm “không để học sinh phải thất học”, kịp thời đáp ứng yêu cầu học tập

của con em trong toàn tỉnh.

Chuẩn bị đội ngũ giáo viên cho các trường dân lập, năm 1957, Ty Giáo dục

đã có hướng dẫn chuyển giáo viên quốc lập sang dân lập. Theo đó, trách nhiệm,

quyền lợi của giáo viên dân lập cũng được quy định rõ:

Giáo viên dân lập do UBHC và nhà trường địa phương giới thiệu, Ty

Giáo dục xét duyệt hồ sơ, nếu đủ điều kiện Ty sẽ tổ chức huấn luyện và

giới thiệu về xã phục vụ công tác.

Trong trường dân lập, nếu là 2 lớp thì 1 giáo viên dạy; 3 lớp thì 2 giáo

viên; 4 lớp thì 3 giáo viên dạy. Mỗi lớp đều có một giáo viên phụ trách

do Hội đồng giáo viên bình nghị phân công và được sự đồng ý của Ty

chuyên môn.

Để đảm bảo vật chất lâu dài cho giáo viên, Ban Quản trị phải trả lương

từng tháng và giáo viên được hưởng đủ cả 12 tháng kể cả các tháng nghỉ

mùa hay ốm đau.

Phụ cấp vật chất, chăn màn cũng được hưởng tối thiểu như các giáo viên

dạy ở các trường quốc lập {120; tr.11-12}.

Năm học 1958 -1959, Ty Giáo dục đã tổ chức 2 lớp huấn luyện đào tạo giáo

viên dân lập toàn tỉnh tại 2 địa điểm: Hoàng Hoá (có 3 lớp, 141 giáo sinh) và

Quảng Xương (có 2 lớp với 242 giáo sinh). Lớp huấn luyện đã giúp cho giáo sinh

xác định quan niệm và thái độ khi vào ngành; mục đích và nhiệm vụ GDPT;

nguyên tắc và phương pháp giảng dạy... Đó là việc tăng cường công tác giáo dục tư

tưởng, chính trị trong nội ngoại khoá, gắn liền nhà trường với lao động sản xuất,

với đời sống xã hội.

Như vậy, bên cạnh hệ thống trường lớp quốc lập, hệ thống các trường dân

lập dần dần ra đời và hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện chủ trương của

Đảng bộ và chính quyền Thanh Hoá về mục tiêu mở rộng quy mô, đáp ứng nhu

cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh. Với chủ trương “tận lực phát triển”

giáo dục phổ thông, mạng lưới của trường phổ thông đã được mở rộng đến các

huyện, các xã trong toàn tỉnh. Với phương châm “dựa vào nhân dân để xây dựng

nền giáo dục phổ thông”, phát triển các trường dân lập, nhất là cấp I để thu nhận

các em đến tuổi đi học”, phong trào nhân dân xây dựng trường sở, giới thiệu người

ra làm giáo viên...đã phát triển ở nhiều địa phương. Rõ ràng, chủ trương chuyển

hướng phát triển giáo dục đã khơi dậy tinh thần quan tâm, chăm lo phát triển giáo

dục của nhân dân Thanh Hoá đối với thế hệ trẻ. Nhờ sự đóng góp tích cực, vô tư và

nhiệt tình của nhân dân, các trường học mới đã mở rộng cửa tạo điều kiện để tất cả

học sinh đều có thể đến lớp, đáp ứng nguyện vọng học tập chính đáng của nhân

dân, đem lại nhiều kết quả về mở rộng quy mô giáo dục ở Thanh Hoá.

1.3.3. Bước đầu phát triển giáo dục miền núi, dân tộc ít người

Miền núi Thanh Hoá có 8 huyện, xã, 1571 xóm, chiếm một vị trí quan trọng

về chính trị, quân sự và kinh tế. Dân số 376.131 người chiếm tỷ lệ 16,6% dân số

trong toàn tỉnh; gồm 10 dân tộc sống xen kẽ với nhau. Miền núi Thanh Hoá có 280

đường biên giới tiếp giáp với Lào, có các nhánh đường chiến lược quan trọng qua

Lào, vào Nghệ An, ra Hoà Bình.

Thực hiện chính sách dân tộc của Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, ngày

6/8/1955, ngành Giáo dục Thanh Hoá đã triệu tập cuộc hội nghị giáo dục miền núi

toàn tỉnh với mục đích “phát triển giáo dục miền núi, nâng cao nhận thức của cán

bộ về tầm quan trọng và sự cấp thiết của công tác miền Tây và thấy được ý nghĩa

của công tác giáo dục góp phần vào việc mưu lợi ích nhân dân, thực hiện chính

sách dân tộc” {113, tr.2}.

Tiếp đó, tháng 5/1959, chương trình đào tạo giáo viên miền núi của Ty Giáo

dục được phổ biến rộng rãi trong 8 huyện với phương châm nâng cao nhận thức,

nâng cao giác ngộ nhiệm vụ cách mạng, chú trọng phát huy nhiệt tình cách mạng,

giải quyết tư tưởng đúng mức, có trọng tâm. Phát huy tư tưởng tự do, đẩy mạnh

tinh thần thành khẩn, tự giác phê bình và tự phê bình.

Cùng với cuộc vận động “xung thượng” (xung phong lên miền núi) của giáo

viên các huyện miền xuôi (năm 1959), bản đồ giáo dục miền núi đã lấp được khá

nhiều chỗ trống ở cấp I. Chỉ riêng huyện Hoằng Hoá, đã chi viện cho vùng núi

Quan Hoá 52 giáo viên. Đây là một cuộc vận động có ý nghĩa lịch sử. Nhiều giáo

viên miền xuôi tình nguyện đi xây dựng giáo dục miền núi đã thực sự làm xoay

chuyển tình hình. Có những người sau này đã trở thành cốt cán lãnh đạo sự nghiệp

giáo dục miền núi, tự nguyện làm người cán bộ dân vận, tự tạo mọi điều kiện để

xây dựng trường lớp, vận động bà con cho con em đến trường. Trường cấp II miền

núi đầu tiên được thành lập từ năm 1951 đã thu hút học sinh của 6 huyện miền núi:

Ngọc Lặc, Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân tập trung

về đây học tập {86, tr.148}.

Với mục đích đẩy mạnh phong trào phát triển giáo dục miền núi, kịp thời

đuổi kịp miền xuôi, góp phần làm cho nền giáo dục phát triển có kế hoạch và mạnh

mẽ, UBHC tỉnh đã có quy định về chế độ thu học phí và chế độ miễn giảm cho các

trường miền núi. Đối với chế độ thu học phí, học sinh người Kinh cũng như học

sinh người dân tộc đều thống nhất theo một chế độ. Đối với chế độ miễn giảm:

- Học sinh xa trường (10 km trở lên) được giảm 50% số học phí (chỉ áp dụng

đối với trường cấp I)

- Gia đình có 3 con đi học, mỗi con được giảm 1/3 học phí

- Học sinh gia đình bị túng thiếu, neo người, sinh hoạt thực sự khó khăn:

được giảm 50% đối với cấp I, giảm 1/3 - 2/3 số học phí đối với cấp II {152, tr.8}.

Những trường hợp được miễn là: học sinh là con liệt sĩ, tử sĩ; học sinh là con

em dân tộc Mẹo, Tính, Dao...; Học sinh được cấp học bổng; học sinh thuộc các

vùng rẻo cao: 12 xã thuộc huyện Quan Hoá; xã Thanh Quan (Huyện Như Xuân) xã

Quốc Thanh (Huyện Bá Thước); xã Thạch Lâm (Huyện Thạch Thành); xã Lương

Ngọc (Huyện Ngọc Lặc); xã Bát Một (Huyện Thường Xuân).

Các trường lớp mới phát triển, học sinh quá ít, việc vận động học sinh đi học

còn nhiều khó khăn... việc thu học phí sẽ được lùi lại.

Nếu như trước cách mạng, cả miền núi của tỉnh chỉ có 10 trường sơ học với

khoảng 500 học sinh, thì đến năm học 1959-1960 số lượng học sinh miền núi ở cả

3 cấp I, II và III là 2.746 em {126, tr.15}. Đây được xem là những bước phát triển

đặt nền móng, cơ sở cho việc phát triển giáo dục miền núi và vùng dân tộc ít người

ở những thời kỳ tiếp theo. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách của Đảng và

Chính phủ đối sự nghiệp giáo dục ở miền núi, Đảng bộ Thanh Hoá đã không

ngừng động viên, khuyến khích con em các dân tộc hăng hái đi học. Cán bộ và

giáo viên công tác ở miền núi yên tâm, phấn khởi giảng dạy, đưa sự nghiệp giáo

dục miền núi tiến lên, đuổi kịp miền xuôi. Đồng thời, khẳng định sự nghiệp giáo

dục ở miền núi có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, con

người mới, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố

quốc phòng ở địa phương.

Bên cạnh đó, việc thực hiện cấp học bổng cho học sinh, giúp đỡ con em

thương binh, liệt sĩ và một số con em bần cố nông đã tạo cho học sinh và nhân dân

Thanh Hoá sự hứng khởi, sự tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng-Chính

phủ. Trong 4 tháng cuối năm 1955, Ty Giáo dục đã cấp phát học bổng cho học sinh

cấp I: 39.804 cân gạo gồm 51 học bổng toàn phần (18 cân); 369 học bổng 2/3 (12

cân); 769 học bổng 1/3 (6 cân). 8 tháng cuối năm 1955, học sinh cấp II được cấp

23.744 cân gạo, gồm 35 học bổng toàn phần (24 cân); 84 học bổng 2/3 (18 cân); 77

học bổng 1/3 (8 cân) {129, tr.3}.

Ngay từ những năm đầu xây dựng nền giáo dục XHCN, Đảng bộ Thanh Hoá

đã quan tâm phát triển GDPT không chỉ ở những vùng đồng bằng mà tại các vùng

dân tộc ít người, miền núi, con em gia đình chính sách... cũng được đặc biệt chú

trọng. Với những chính sách ưu việt đó, giáo dục phổ thông Thanh Hoá được tập

trung phát nhằm củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc và cải thiện sinh hoạt cho

nhân dân vùng này, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển giáo dục của cả tỉnh.

1.3.4. Thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên mặt trận giáo dục

Sau khi hoà bình lập lại, nhiều con em cán bộ miền Nam tập kết ra miền

Bắc, một số học sinh khác bị Mỹ-Diệm khủng bố đã vượt tuyến ra Bắc. Bộ Giáo

dục đã mở trường học sinh miền Nam để đón nhận các em vào học. Đây là một chủ

trương lớn của Đảng và Nhà nước được Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm. Việc tổ

chức các trường nội trú cho học sinh miền Nam là một nhiệm vụ lịch sử kéo dài

cho đến sau chiến thắng 30/4/1975 mới kết thúc. Thời kỳ đón tiếp nhiều nhất là

khoảng 1955-1959. Thực hiện chủ trương của Bộ là đưa các em vào 27 trường trải

rộng trên 10 tỉnh thành ở miền Bắc, ngành Giáo dục Thanh Hoá từ 30/4 đến

15/5/1955 đã vừa tổ chức đón tiếp, trung chuyển, vừa tổ chức ổn định cho số học

sinh của cả 2 vùng (Nam Bộ và khu V) ở miền Nam {101, tr.7}.

Từ ngày 20/9/1954, Ty Giáo dục đã chuẩn bị bộ máy đón tiếp tại 2 địa điểm:

Sầm Sơn (từ 5-7 ngày) sau đó đưa các em về trường. Theo đó, Ban Liên hiệu được

khẩn trương thành lập. Tiếp nhận chủ trương di chuyển ra Bắc của học sinh miền

Nam, Ban Liên hiệu phối hợp với các trường để đặt kế hoạch cụ thể như chuẩn bị

cấp phát đầy đủ quần áo, chăn màn, giày dép, sắp xếp cán bộ đi theo phục vụ, tổ

chức học tập chủ trương di chuyển ra Bắc cho các em và cán bộ; liên lạc chặt chẽ

với cán bộ phụ trách di chuyển của Bộ để biết rõ số xe để sắp xếp, liên lạc với ban

y tế, bố trí y tá hộ tống các em ra Bắc.

Tính từ ngày 3/10/1954 đến 30/4/1955, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã đón tiếp

và bố trí học tập tại Thanh Hoá cho 5.735 em {101, tr.11}. Các trường tiếp nhận và

tổ chức học tập cho các em dựa trên 3 tiêu chuẩn: Nhà dân, chính quyền và đoàn

thể khác.

Nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho học sinh, con em ở miền Nam ra ăn

học, UBHC tỉnh Thanh Hoá đã Quyết định cho thành lập 2 trường: Trường Phổ

thông cấp 1 Thống Nhất I và Trường Phổ thông cấp 1 Thống Nhất II. Cả hai

trường này đều có ký túc xã để học sinh ở miền Nam ra ăn học. Các khoản kinh phí

đều do ngân sách Trung ương đài thọ. Về tổ chức, hiệu trưởng, giáo viên cũng như

nhân viên phục vụ đều do Ty Giáo dục lựa cử đề nghị lên UB tỉnh ra quyết nghị

điều động.

Như vậy, chỉ trong vòng 1 tháng, ngay sau khi tổ chức tiếp nhận, bố trí, sắp

xếp học tập cho con em học sinh miền Nam, UBHC tỉnh cùng với Ty Giáo dục

Thanh Hoá đã cho thành lập 2 trường cấp 1 có ký túc xá nhằm đáp ứng nhu cầu

học tập, ăn ở cho các em. Đó thực sự là một cố gắng không nhỏ của ngành Giáo

dục Thanh Hoá trong thời kỳ này.

Bên cạnh đó, UBHC quan tâm hướng dẫn các trường phân loại học sinh để

có chính sách cụ thể và phù hợp. Đối với những học sinh trước đây ở vùng tự do,

học ở trường ta, được sắp xếp ngay vào với học sinh các trường vùng tự do. Đối

với những học sinh trước đây học ở vùng do Pháp chiếm đóng, có những điểm

khác biệt về trình độ, tư tưởng, chính trị, kiến thức, văn hoá, những lo âu, thắc

mắc. Do chương trình và phương pháp học tập của học sinh vùng tự do và vùng

địch chiếm đóng có sự khác nhau nên việc chuyển lớp cần có thời gian để chuyển

tiếp. Đó là những lớp bổ túc về chính trị và văn hoá để giúp các em hiểu rõ chính

sách giáo dục của ta, quan điểm học tập, quan điểm lao động, lập trường phục vụ,

để các em có khả năng thu nhận những chương trình mới, làm quen với phương

pháp học tập mới, các cơ quan giáo dục tuỳ trình độ và số lượng học sinh, tuỳ hoàn

cảnh địa lý mà bố trí những tổ học tập, những lớp bổ túc cho các em. Đối với con

em bộ đội, cán bộ được ưu tiên hơn, đặc biệt là con em bộ đội, cán bộ không có gia

đình ở vùng tự do để cha mẹ các em thực sự an tâm phục vụ.

Với những học sinh miền Nam vượt tuyến khó khăn, thực hiện chủ trương

của Bộ Giáo dục, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã tiến hành tạm ứng sinh hoạt phí hay

học bổng, tổ chức ăn ở tập thể, tạm ứng tiền may mặc... Đặc biệt vào các dịp hè,

đông…học sinh miền Nam cũng thường được UBHC tỉnh cấp phát trang phục theo

đề nghị của Ty Giáo dục. Năm 1958, đã có 2 đợt cấp phát trang phục mùa hè cho

học sinh miền Nam:

Đợt 1: có 67 em trong đó có 55 em nam và 12 em nữ

Đợt 2: có 28 em trong đó có 14 em nam và 14 em nữ

Mỗi em được cấp phát 1 bộ quần áo, 2 áo cổ vuông, 2 quần đùi theo tiêu

chuẩn quy định.{144, tr.1}.

Chủ trương tạm ứng là một cố gắng rất lớn của ngân sách quốc gia trong

thời gian này để đảm bảo học tập cho học sinh vượt tuyến thực sự không có khả

năng tự túc. Việc làm này cũng thể hiện sự quan tâm, săn sóc của Đảng, Chính phủ

đến việc ăn học của các em, động viên tinh thần, tạo sự phấn khởi, nỗ lực trong học

tập của học sinh vượt tuyến.

Như vậy, suốt từ năm 1954, Ngành Giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức chăm lo,

đào tạo cho học sinh miền Nam tập kết hoặc vượt tuyến ra Bắc nhằm thực hiện

chiến lược cách mạng của 2 miền và mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ chiến lược đó

do Đảng đề ra. Các trường học sinh miền Nam nội trú được thành lập với sự chăm

sóc, dạy dỗ của các thầy, cô và sự đùm bọc yêu thương của đồng bào Thanh Hoá,

sự quan tâm chăm sóc của Đảng bộ Thanh Hoá. Ngành giáo dục Thanh Hoá đã

phát huy được sức mạnh to lớn, góp phần xây dựng Thanh Hoá trở thành hậu

phương vững chắc, đáp ứng nhu cầu của cách mạng.

*

* *

Nhìn chung, ngay sau khi hoà bình, Thanh Hoá đã có được một phong trào

học tập sôi nổi, liên tục và ngày càng phát triển mạnh mẽ trong ngành học phổ

thông. Ngành GDPT Thanh Hoá đã thực hiện tốt chủ trương phát triển tận lực và

giải quyết yêu cầu, nguyện vọng học tập của đông đảo con em nhân dân trong tỉnh.

Phần ổn định tổ chức, thu nhận học sinh, sắp xếp giáo viên thời kỳ này đã căn bản

hoàn thành. Nhiệm vụ tiếp theo của ngành GDPT trong giai đoạn mới là đi sâu vào

việc đề cao chất lượng, để đảm bảo tốt yêu cầu giáo dục, tư tưởng chính trị, giáo

dục kiến thức và giáo dục lao động cho học sinh.

Hạn chế lớn nhất trong thời kỳ này là những thiếu sót trong việc thực hiện

“chủ trương tận lực phát triển” giáo dục. Chủ trương này cũng làm phát sinh những

lệch lạc, thiếu sót mà nhiều năm sau này phải khắc phục “một thói quen khó sửa”.

Đó là việc phát triển “vô điều kiện”, “đơn giản hoá” nhà trường và sự nghiệp giáo

dục như mở trường lớp ồ ạt, không tính đến những điều kiện cần thiết: giáo viên,

cơ sở vật chất... Hạn chế này gây nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo trong những

năm sau và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng GDPT. Số lượng học sinh tăng

nhanh nhưng chất lượng giáo dục nhiều mặt giảm sút.

Đối với giáo dục miền núi và vùng các dân tộc ít người, sự chênh lệch giữa

các vùng dân tộc còn khá rõ nét. ở vùng cao, nhiều học sinh bỏ học sau khi học

xong lớp 2. Số giáo viên dân tộc còn ít nên phải điều động nhiều giáo viên miền

xuôi lên dạy ở miền núi. Việc đó làm cho tình hình giáo viên ở miền núi, hàng năm

có nhiều biến động. Do vậy, sự nghiệp giáo dục ở miền núi đòi hỏi Đảng bộ Thanh

Hoá phải có quan tâm rất lớn để đưa miền núi tiến nhanh hơn nữa, rút bớt khoảng

cách giữa miền núi và miền xuôi...

Tuy nhiên, những thành tựu mà GDPT Thanh Hoá đạt được cũng như những

định hướng phát triển giáo dục của Đảng bộ Thanh Hoá trong thời kỳ này là cơ sở,

nền tảng cho việc phát triển một nền giáo dục XHCN trong giai đoạn tiếp theo.

Chương 2

Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT trong

kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965)

2.1. Chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá

Sau khi đã thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960), Đảng chủ trương đưa

miền Bắc chuyển sang giai đoạn mới-giai đoạn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững

chắc lên CHXN, làm cho nước ta có một nền công nghiệp, nông nghiệp hiện đại,

có một nền văn hoá và khoa học tiên tiến. Miền Bắc giàu mạnh là cơ sở vững chắc

cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Tháng 9 năm 1960, Đại hội lần thứ III đã định ra đường lối cách mạng Việt

Nam trong thời kỳ mới. “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc

và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước” {43, tr.132}. Cách mạng XHCN là một

quá trình bao gồm 3 cuộc cách mạng: cách mạng về QHSX nhằm xoá bỏ chế độ

người bóc lột người, cuộc cách mạng về kỹ thuật nhằm chủ yếu phát triển lực

lượng sản xuất, biến nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp thành nền sản xuất lớn

XHCN đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công

nghiệp và nông nghiệp hiện đại, cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá nhằm làm cho

chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nhân dân

và xây dựng một nền văn hóa khoa học tiên tiến. Ba cuộc cách mạng này liên quan

khăng khít với nhau trong đó cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá có một vị trí quan

trọng. Không có cách mạng tư tưởng-văn hoá thì cuộc cách mạng kỹ thuật không

thể thành công và cũng không thể củng cố, kiện toàn quan hệ sản xuất mới đã được

xác lập.

Đối với giáo dục, Đại hội xác định:

Công tác giáo dục văn hoá phải được phát triển theo quy mô lớn và phải

phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự nghiệp giáo dục

của chúng ta phải nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động

làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN có văn hoá và kỹ thuật, có sức

khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới, phục vụ

đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và văn hoá XHCN và

việc nâng cao không ngừng trình độ văn hoá của nhân dân lao động…

phải nắm vững nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất và các

phương châm: lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục

của nhà trường kết hợp với giáo dục của xã hội {43, tr.251}.

Quan điểm của Đảng về giáo dục được xác định tại Đại hội đã cho thấy rằng

giáo dục thế hệ trẻ ở trường phổ thông các cấp vô cùng quan trọng nhằm xây dựng

cơ sở bước đầu, nhưng rất trọng yếu-của việc đào tạo một lớp người để xây dựng

CNXH, những người kế tục xứng đáng và vẻ vang sự nghiệp cách mạng. ý nghĩa

đó được thể hiện cụ thể:

Thứ nhất, muốn đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng ở miền Bắc, muốn đẩy mạnh

phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, điều cấp thiết có tính

chất quyết định là phải bồi dưỡng đào tạo một lớp người mới, một thế hệ trẻ có

giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật, có sức khoẻ tốt.

Con người mới đó là mục tiêu phấn đấu của nhà trường phổ thông.

Thứ hai, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đòi hỏi

phải có những con người có tinh thần anh dũng, trí thông minh, tài sáng tạo, có khả

năng nắm vững và vận dụng tốt chiến lược, chiến thuật và kỹ thuật, quân sự hiện

đại. Nhà trường phổ thông có khả năng cung cấp đào tạo cho dân tộc những thanh

niên như vậy.

Thứ ba, công cuộc xây dựng CHXH ở nước ta đòi hỏi nhân dân, đội ngũ

đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật phải có trình độ văn hoá cao. Chuẩn bị cho lớp

người này, nhà trường phổ thông có một vị trí quan trọng, một khả năng to lớn.

Thứ tư, do miền Bắc tiến lên CNXH không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa

nên nhìn chung cơ sở vật chất về khoa học, kỹ thuật còn nghèo nàn, trình độ văn

hoá, nếp sống văn minh còn hạn chế... Do đó, nhà trường phổ thông, bên cạnh

nhiệm vụ trung tâm là đào tạo con người mới, còn có nhiệm vụ phát huy tác dụng

là trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật ở địa phương. Trong việc thực hiện

phương thức giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, bên cạnh mục đích chủ yếu là

giáo dục, còn có mục đích sản xuất của cải vật chất, góp phần làm tăng thêm của

cải cho xã hội.

Ngành GDPT là cấp học vô cùng quan trọng, chiếm khối lượng to lớn trong

toàn bộ sự nghiệp giáo dục nhằm đào tạo một lớp người mới, một thế hệ trẻ để

hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng.

Đại hội Đảng lần thứ III đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển giáo

dục. Đào tạo thế hệ trẻ là sự nghiệp của Đảng, là trách nhiệm của nhân dân. Nhưng

nhà trường đóng vai trò chính yếu nhất. Ngành giáo dục được xác định là chuyên

lo đào tạo thế hệ mới, đào tạo những con người sống trong xã hội ngày mai, có tư

tưởng và tác phong XHCN. Vì vậy, chỉ trên cơ sở ngành giáo dục được phát triển

mạnh mẽ thì mới tạo ra một thế hệ mới có khả năng để thực hiện tốt sự nghiệp

cách mạng XHCN.

Quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, Hội nghị của Ban Thường vụ tỉnh

uỷ bàn về công tác giáo dục (10/2/1961) đã xác định vấn đề quan trọng trước hết

trong xây dựng nền giáo dục thời kỳ này là phải làm cho tư tưởng của cán bộ, công

nhân viên chức, giáo viên, học sinh, nhân dân chuyển biến một cách sâu sắc, thấm

nhuần quan điểm giáo dục của chế độ ta. Từ đó, hình thành tư tưởng, thái độ đi học

đúng đắn, trở thành người lao động sản xuất có kiến thức chính trị và khoa học kỹ

thuật để xây dựng đất nước. “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy giáo

là chăm lo dạy dỗ học sinh thành người công dân tốt, người lao động tốt, người

chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” {70, tr.131}.

Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ V (1961) chỉ rõ

nhiệm vụ của ngành học phổ thông:

Phải kết hợp chặt chẽ việc học văn hoá và kiến thức phục vụ sản

xuất… Tích cực chấn chỉnh, củng cố hệ giáo dục phổ thông, đẩy

mạnh phong trào thi đua Hai tốt, thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện,

tăng cường việc giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên. Cần làm

cho cán bộ, nhân dân và học sinh có nhận thức đúng đắn về mục đích

học tập, khắc phục tư tưởng “Đi học để mưu cầu danh lợi, để thoát ly

sản xuất, thoát ly nông thôn” trong học sinh, thanh niên. Kết hợp giữa

nhà trường và nhân dân mà phát triển mạnh mẽ các lớp mẫu giáo {21,

tr.13}.

Nghị quyết của Đại hội cũng nhấn mạnh tới việc tăng cường giáo dục ý thức

lao động, công tác lao động sản xuất cho học sinh; xem công tác đào tạo, bồi

dưỡng toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục. Muốn xây dựng học sinh thành con

người mới, thầy giáo phải tự rèn luyện mình thành con người mới của chế độ

XHCN.

Trên tinh thần đó, Chỉ thị 39 về công tác giáo dục của Tỉnh uỷ cũng chỉ rõ

phương hướng, nhiệm vụ của giáo dục trong những năm tới. Riêng đối với GDPT:

Một là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phổ thông, kiên quyết thực hiện

việc phổ cập vỡ lòng và cấp I vào cuối năm 1965 ở miền xuôi và vùng thấp của

miền núi; đảm bảo cho trẻ em dưới 16 tuổi được học hết cấp II bằng nhiều hình

thức; củng cố các trường cấp III và phát triển cấp III một cách hợp lý, vững chắc.

- Đối với phổ cập vỡ lòng và cấp I: những em đến tuổi học cấp I mà chưa

học vỡ lòng thì sẽ bố trí cho vào học “lớp 1 đặc biệt”. Ty Giáo dục cử giáo viên bồi

dưỡng cho các em này để cuối năm có trình độ lớp 1. Đảng uỷ, UBHC xã vận động

nhân dân xây dựng thêm trường lớp, bàn ghế... Coi trọng chất lượng đồng thời đề

phòng tư tưởng sợ khó khăn trong xây dựng trường lớp, trong việc thu học phí hay

trong việc vận động các nhà trường mà không tích cực mở thêm lớp, ảnh hưởng

đến việc phổ cập.

- Đối với phổ thông cấp II, III: đảm bảo cho trẻ em dưới 16 tuổi đều được

học hết cấp II bằng nhiều hình thức để bồi dưỡng các em thành người lao động tốt.

Tổ chức cho học sinh mãn khoá lớp 4 quá tuổi 14 vào học các trường bổ túc văn

hoá thiếu niên; vừa làm vừa học. ở miền núi, chú trọng mở trường thiếu niên dân

tộc.

- Đối với cấp III, tiếp tục đi sâu vào việc nâng cao chất lượng toàn diện, gắn

nhà trường với đời sống và sản xuất. Đồng thời, phát triển thêm trường một cách

vững chắc.

Hai là nắm vững mục đích, phương châm giáo dục, ra sức nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tư tưởng đạo đức, chuẩn bị đầy đủ

cho học sinh tham gia sản xuất và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cách mạng.

Ba là tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, sử dụng

tốt lực lượng giáo viên hiện có, thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với giáo viên.

Quan tâm đúng mức hơn nữa đến việc bồi dưỡng giáo viên, đặc biệt là về chính trị,

tư tưởng coi đó là công tác trung tâm, tiến tới tất cả giáo viên đều đảm bảo tiêu

chuẩn quy định. Đồng thời, quan tâm đến đời sống của giáo viên dân lập, cải tiến

việc thu nạp học phí, vận động nhân dân đóng học phí kịp thời, đầy đủ để giải

quyết tốt lương cho giáo viên dân lập.

Bốn là coi trọng việc xây dựng cơ sở vật chất và thiết bị, phân cấp xây dựng,

quản lý nhà trường. Kết hợp chặt chẽ sự hỗ trợ một phần của Nhà nước với việc

phát huy tinh thần tự lực cánh sinh xây dựng trường sở, thiết bị của nhân dân và

thầy trò, tránh ỷ lại vào Nhà nước.

Theo đó, các đảng uỷ và UBHC xã, chi uỷ và chính quyền các tiểu khu trong

thị xã, thị trấn Sầm Sơn chịu trách nhiệm quản lý trường cấp I ở địa phương mình

và có trách nhiệm xây dựng trường cấp II thuộc khu vực mình do huyện, thị quy

định.

Các đảng uỷ và chính quyền nơi có trường cấp II chịu trách nhiệm chính

trong việc quản lý trường cấp II dưới sự giúp đỡ của huyện uỷ và UBHC huyện.

Các huyện uỷ, thị uỷ và UBHC huyện, thị xã chịu trách nhiệm quản lý

trường cấp III trong huyện, thị xã dưới sự chỉ đạo của UBHC tỉnh và Ty Giáo dục.

Rõ ràng, Đảng bộ Thanh Hoá đã sớm thấy được vai trò to lớn của giáo dục

đối với công cuộc xây dựng CNXH ở địa phương nên đã sớm có những định

hướng, biện pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho nhân

dân, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới, con người XHCN, làm cho

sự nghiệp giáo dục trở thành một mặt trận cách mạng.. Nhờ vậy, giáo dục của

Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu to lớn phục vụ cho kế hoạch 5 năm lần

thứ nhất.

2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện

Sau những năm đầu xây dựng nền giáo dục XHCN, ngành GDPT Thanh

Hoá đã có những bước phát triển mạnh. Tuyệt đại bộ phận con em nhân dân đều

được đi học. Đội ngũ giáo viên ngày một đông đảo. Nhà trường phổ thông trở

thành một trung tâm đào tạo lớp người tương lai xây dựng XHCN, không chỉ đảm

bảo phát triển về số lượng mà còn coi trọng việc nâng cao chất lượng toàn diện.

2.2. 1. Phát triển mạng lưới GDPT

Việc phát triển theo quy mô lớn các trường phổ thông trong kế hoạch 5 năm

lần thứ nhất được xác định: mỗi xã có 1 trường cấp I, hai, ba xã có một trường cấp

II; mỗi huyện có 1 trường cấp III. ở miền núi, tạo điều kiện cho con em các dân tộc

khắp các vùng đều được học tập. Theo đó, phương hướng mới trong phát triển hình

thức trường lớp là song song với những trường phổ thông, nghiên cứu mở những

trường vừa học văn hoá phổ thông, vừa học kỹ thuật sản xuất, nhất là kỹ thuật sản

xuất nông nghiệp...

Bắt đầu từ năm học 1960-1961, thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh,

ngành Giáo dục Thanh Hoá đã nêu nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ này gồm:

1. Củng cố chấn chỉnh cấp I. Chỉ phát triển ở một số xã miền núi

2. Tập trung các trường cấp II thành trường lớn.

3. Phát triển lớp cấp III {103, tr.21}.

Vì vậy, các trường cấp I đã được phát triển mạnh qua 5 năm (1954-1959)

vẫn tiếp tục phát triển, tuy không nhiều. Các trường cấp II, cấp III có bước phát

triển quan trọng hơn. Nhiều nơi chưa mở được cấp II hoàn chỉnh thì mở lớp 5 rồi

leo dần lên lớp 6, lớp 7. Năm học 1960-1961, các trường cấp II quốc lập và dân lập

đã được tu sửa lại. Đối với cấp III, thời kỳ này, Bộ Giáo dục Đào tạo cho thành lập

ở tất cả các tỉnh chưa có trường cấp III. Tỉnh nào đã có trường cấp III, được mở

thêm trường thứ hai, thứ ba, nếu có nhu cầu. Nhờ đó, cuối năm học 1962-1963 quy

mô học sinh ở Thanh Hoá ngày càng được mở rộng: Cấp I: 200.869 học sinh; Cấp

II: 36.798 học sinh; Cấp III: 2.957 học sinh {50, tr.9}.

Trước sự mở rộng quy mô giáo dục, ngành Giáo dục Thanh Hoá đã thực

hiện chủ trương phân cấp quản lý trường lớp của Tỉnh uỷ, tạo nên sự phát triển

mạnh mẽ cho giáo dục phổ thông. Huyện, thị quản lý các trường cấp II, cấp III; các

xã, khu phố quản lý các lớp vỡ lòng, mẫu giáo, trường cấp I, cấp II. Nhờ vậy, việc

lãnh đạo của các cấp uỷ đảng-chính quyền địa phương càng thêm chặt chẽ, sát sao

hơn. Sau khi phân cấp, Ban thi đua xây dựng trường lớp được thành lập ở từng địa

phương. Nhờ đó, cuối năm học 1962-1963, tình hình trường lớp phổ thông đã có

nhiều biến chuyển biến tích cực.

Đối với giáo dục miền núi thời kỳ này đã nhận được quan tâm sâu sắc của

Đảng bộ Thanh Hoá, chính quyền và đặc biệt là sự quan tâm của Hồ Chủ tịch.

Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhiệm vụ của ngành GDPT được Đảng bộ

Thanh Hoá xác định:

Phát triển mạng lưới các trường phổ thông cấp I và cấp II một cách thích

hợp nhằm tích cực tạo mọi điều kiện cho con em các dân tộc, nhất là dân

tộc ít người vào học đồng thời phát triển cấp III một cách có kế hoạch.

Tìm mọi cách phổ cập vỡ lòng và cấp I trước hết là vùng thấp theo

phương châm “thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ. Nhà nước và

nhân dân phối hợp”. Khuyến khích học sinh lên lớp trên đặc biệt là chính

sách nâng đỡ, dìu dắt học sinh miền núi và dân tộc ít người. Nội dung

chương trình cần sửa đổi để phản ánh được thực tiễn của các dân tộc, của

từng vùng kinh tế. Phải đưa vào những kiến thức về nông, lâm nghiệp

vào chương trình học của trường phổ thông {20, tr.19}.

Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm Thanh Hoá lần thứ 3. Nói

chuyện với cán bộ nhân dân trong tỉnh, Bác nhắc nhở: “Về giáo dục, trong 160

người dân đã có 20 học sinh, nhưng cần giúp cho miền núi có nhiều người học cấp

II, cấp III hơn nữa”.{30, tr.121}.

Trên tinh thần đó, nếu như kết thúc kháng chiến chống Pháp, miền núi mới

chỉ có 5 trường cấp II, hơn 20 trường cấp I thì ngay trong kế hoạch 5 năm lần thứ

nhất, gần như tất cả các xã đều có trường lớp từ mẫu giáo đến cấp I. Mỗi huyện có

từ 2 đến 3 trường cấp II. Năm học 1961-1962, trường cấp III Ngọc Lặc ra đời.

Trường là nơi tập trung học tập của học sinh các huyện miền núi phía Tây Thanh

Hoá. Số lượng học sinh đi học ngày càng tăng và tương đối ổn định.

Trước sự phát triển ồ ạt của hệ thống trường lớp phổ thông, tháng 12/1963,

ngành Giáo dục đã khẩn trương thực hiện kế hoạch dồn lớp. Đối với các huyện

miền núi, việc dồn lớp được thực hiện thông qua công tác nghiên cứu ghép các lớp

thành các lớp ghép 1+2, 1+3, 2+3. Sĩ số bình quân ở miền núi vùng cao từ 10 - 15

em/lớp; vùng giữa từ 20-25 em/lớp và vùng thấp từ 30-35 em/lớp. ở vùng thấp,

những nơi trường lớp tập trung sĩ số được nâng lên 45-50 em/lớp hoặc nhiều hơn

nếu có điều kiện đảm bảo chủ trương chung {111, tr.3}. Với các lớp phổ thông cấp

II và phổ thông nông nghiệp, việc dồn lớp được thực hiện nếu sĩ số ít nhưng đảm

bảo nguyên tắc là không chuyển học sinh phổ thông nông nghiệp sang học phổ

thông. Đối với giáo viên, do chủ trương dồn lớp nên với số lượng giáo viên dư

thừa, ngành Giáo dục đã vận động giáo viên trở về sản xuất, hoặc chuyển sang

phục vụ công tác các ngành khác thích hợp với khả năng chuyên môn, trình độ văn

hoá, phù hợp với yêu cầu cách mạng...

Thực hiện công tác dồn lớp, ngành giáo dục đã điều hoà, sắp xếp được đội

ngũ giáo viên, đảm bảo đời sống giáo viên dân lập, nâng cao chất lượng giáo dục,

đảm bảo sĩ số... Tiến hành dồn lớp kết hợp với công tác kiện toàn một bước tổ

chức đội ngũ giáo viên, đảm bảo mọi mặt công tác giáo dục. Đồng thời, đảm bảo

việc sắp xếp lại lực lượng lao động giữa ngành Giáo dục và các ngành khác theo

yêu cầu của cách mạng.

Có thể nói, việc quy hoạch hệ thống giáo dục và mạng lưới trường lớp các

cấp đã từng bước tạo sự cân đối giữa các trường học, cấp học với những hình thức

giáo dục phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển vững chắc. Đồng thời, tạo điều kiện

đảm bảo phát triển cho việc nâng cao chất lượng giáo dục.

2.2.2. Tích cực nâng cao chất lượng giáo dục

Chất lượng giáo dục là tiêu chí cơ bản phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu

giáo dục, nội dung, phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện hoạt

động giáo dục. Chất lượng giáo dục không tốt thì mục tiêu giáo dục không đạt

được.

Do vậy, nhằm tạo thêm điều kiện cho giáo dục phổ thông phát triển vững

chắc về chất lượng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo công

tác giáo dục phổ thông đã chỉ rõ:

- Tập trung chủ yếu cho việc củng cố và nâng cao chất lượng

- Nhà trường phổ thông phải trở thành một trung tâm đào tạo lớp người

tương lai xây dựng CNXH

- Ngành giáo dục phát triển mạnh đội ngũ giáo viên

- Đại bộ phận học sinh đều được đi học {16, tr.2}.

Thực hiện chỉ thị của Tỉnh uỷ, các nhà trường đã chú ý giáo dục đạo đức, lao

động, kiến thức cho học sinh, triển khai phong trào “áp dụng khoa học kỹ thuật vào

đời sống, trong sản xuất” đồng thời trực tiếp sản xuất nhằm tự túc một phần lương

thực, thực phẩm…Các nhà trường thâm nhập sâu vào lao động sản xuất theo

phương châm:

Nhà trường là một lực lượng sản xuất. Trong nhà trường, thầy giáo phải

dạy cho học sinh nắm vững kiến thức khoa học phổ thông, đó là một yêu

cầu của chương trình nhưng đó không phải là tất cả nội dung giảng dạy

mà yêu cầu cơ bản nhất, quan trọng nhất là đào luyện con người toàn

diện về đức, trí, mĩ, thể; là xây dựng cho học sinh thành những con người

mới, những tình cảm cách mạng tốt đẹp, có những tri thức đầy đủ để đáp

ứng được những đòi hỏi của việc xây dựng chế độ mới của chúng ta chế

độ XHCN {16, tr.26}.

Trong các nhà trường cấp I, việc học tập nội quy 5 điều dạy của Bác Hồ

được tổ chức đều đặn. Các trường tập trung giáo dục tư tưởng cho học sinh về hợp

tác hoá nông nghiệp, cải tạo XHCN. Các trường tích cực tham gia đấu tranh ủng

hộ miền Nam qua các phong trào phản đối luật phát xít 10/59 của Mỹ Diệm, phản

đối vụ giết hại Hoàng Lệ Kha; củng cố đội thiếu niên và Đoàn thanh niên, đưa giáo

dục tư tưởng vào trong các tiết học của các môn.

Ngoài ra, các trường phổ thông đã tổ chức triển lãm giáo cụ trực quan của

cấp I. Cơ sở vật chất toàn diện của nhà trường dần hình thành với các vườn địa lý,

vườn sinh vật, phòng văn, sử địa, xưởng mộc, xưởng rèn, khu chăn nuôi, ao cá, thư

viện… Nhà trường tổ chức cho học sinh tham gia lao động và học tập ngay trong

lao động. Phong trào kết nghĩa giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất hợp tác xã

thủ công nghiệp, xí nghiệp, cơ quan được mở rộng, gắn kinh tế nhà trường với kinh

tế của địa phương. Phong trào học tập “Vì miền Nam ruột thịt” đã đem lại nhiều

chuyển biến về mọi mặt hoạt động của nhà trường, đặc biệt là giáo dục ý thức “sẵn

sàng nhận nhiệm vụ khi Tổ quốc cần đến” trong học sinh được thể hiện rõ ràng.

Năm 1961, thực hiện lời kêu gọi thi đua Hai tốt của Hồ Chủ tịch, Ty giáo

dục đã phát động “Thi đua Hai tốt học tập Bắc Lý: Dạy thật tốt, Học thật tốt xây

dựng nhà trường XHCN”. Phong trào thi đua đã được phát động sâu rộng, khơi dậy

tinh thần hào hứng sôi nổi trong ngành giáo dục. Chỉ thị về công tác giáo dục của

Tỉnh uỷ cũng chỉ rõ mục đích thi đua học tập Bắc Lý là nhằm thực hiện 5 điểm chủ

yếu:

- Phổ cấp vỡ lòng và cấp I cho cả người lớn và trẻ em vào cuối năm 1965 (ở

vùng xuôi và vùng thấp của miền núi).

- Quản lý chặt chẽ phong trào phổ thông, học sinh về sản xuất trong xã, quan

tâm đến phong trào giáo dục ngoài xã.

- Thực hiện toàn Đảng, toàn dân tham gia xây dựng giáo dục tốt, có cơ sở

vật chất và thiết bị tốt để giáo dục con em.

- Đảm bảo chất lượng đào tạo con người mới thích hợp với lứa tuổi

- Xây dựng và phát triển đảng, đoàn, đội tốt trong nhà trường và có đội ngũ

giáo viên tốt.

Thực chất của phong trào là dạy thật tốt, học thật tốt, nhằm nâng cao chất

lượng giáo dục, làm cho nền giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận với

gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục

xã hội.

Trong phong trào thi đua Hai tốt, giáo dục Thanh Hoá đã nổi lên các điển

hình trong từng cấp học. Nổi bật là Trường cấp I tiểu học Hải Nhân (Tĩnh Gia).

Nếu như tại các vùng ven biển, phần lớn dân cư làm nghề đánh cá. Có thời kỳ dài

việc học không được coi trọng. Nơi đây từng có câu ngạn ngữ “Chữ nghĩa văn

chương không bằng cái xương con cá lẹp” thì thời kỳ này, Hải Nhân nổi lên như

một minh chứng sống động cho tinh thần học tập và sự thay đổi nhận thức, tư duy

của người dân trong vùng kể từ sau cách mạng.

Thành lập năm 1947 (gồm 4 lớp, có 193 học sinh), năm 1962-1963, Trường

được công nhận là “Lá cờ đầu của ngành giáo dục Thanh Hoá”. Năm 1966,

Trường được Bộ Giáo dục công nhận là “Lá cờ đầu của ngành giáo dục phổ thông

cấp I toàn miền Bắc”. Trường là nơi khởi phát phong trào “Tiếng trống chất

lượng”, “Ba đẹp” (năm 1961-1965); “Điểm 10 thắng Mỹ”, “Hội đèn chống Mỹ”

(1965-1973) của ngành Giáo dục Thanh Hoá và miền Bắc. Với quá trình xây dựng,

Trường Hải Nhân đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho ngành. Tại Đại hội

tổng kết 3 năm phát động phong trào thi đua Hai tốt, đúc rút kinh nghiệm ở trường

cấp I Hải Nhân (1964), một trong năm tổ đầu tiên của ngành giáo dục toàn miền

Bắc được công nhận tổ Lao động XHCN (1963), ngành giáo dục đã rút ra 5 bài học

thực tiễn:

1. Có sự lãnh đạo toàn diện chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng

2. Vận dụng sáng tạo phương châm giáo dục, tranh thủ được sự chỉ đạo của

các cấp trong ngành

3. Làm cho sự nghiệp giáo dục thành sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn

dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp và môi trường giáo dục rộng lớn.

4. Xây dựng được Hội đồng giáo dục vững mạnh toàn diện

5. Xem trọng việc hoàn thiện cơ sở vật chất, điều kiện quan trọng tạo đà cho

giáo dục đi lên.

Cùng với phong trào tích cực xây dựng và học tập điển hình “Hai tốt” của

huyện Tĩnh Gia, Hoằng Hoá được đánh giá là huyện có phong trào khá nhất về

giáo dục. Năm 1965, huyện có 47 trường cấp I, 25 trường cấp II và 1 trường cấp

III. Tổng số 30.000 học sinh. Trường cấp II Tố Như (Hoằng Lộc) trở thành lá cờ

đầu cho các trường cấp II trong tỉnh. Trường cấp I Hoằng Lộc là ngọn cờ thứ 2 sau

Hải Nhân {105, tr.18}.

Cùng với không khí thi đua của toàn ngành, GDPT ở miền núi Thanh Hoá ở

từng ngành học cũng có những điển hình tiên tiến. Nổi bật là sự đổi thay và khởi

sắc của giáo dục Quan Hoá với điểm sáng Phù Nhi-điển hình của giáo dục vùng

cao miền Bắc. Trong tổng kết thi đua Hai tốt, nhà trường được UBND tỉnh khẳng

định là trường tiên tiến xuất sắc, điển hình đặc sắc cho giáo dục miền núi Thanh

Hoá nói riêng, giáo dục vùng cao của toàn quốc nói chung với phương châm “Thầy

tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, nhà nước và nhân dân cùng làm”. Thành tựu

đem lại ánh sáng văn hoá, là niềm tin yêu của đồng bào các dân tộc vùng xa xôi

hẻo lánh, là sự đóng góp to lớn của nhà trường.

Trong việc tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, công tác lựa chọn học

sinh ngoan, giỏi có tác dụng rất lớn trong việc động viên học sinh thi đua học tập.

Đặc biệt, thời kỳ này, học sinh giỏi Thanh Hoá lần đầu tiên thắng lợi lớn. Đội Văn

đạt giải Nhất đồng đội toàn miền Bắc, đội Toán đạt giải khuyến khích; 12/42 học

sinh giỏi Toán của tỉnh được tuyển vào chuyên toán của Bộ {86, tr.76}. Tỷ lệ thi

tốt nghiệp phổ thông niên khoá 1962-1963 so với niên khoá 1921-162 cũng có

bước khả quan. Cấp I: 157,85%; Cấp II: 148,64%; Cấp III: 93,78% {50, tr.16}.

Có thể nói, những thành tựu mà ngành GDPT đạt được không chỉ mở rộng

quy mô, mạng lưới giáo dục mà còn đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc

trong cả việc nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng con người mới XHCN.

2.2.3. Chăm lo phát triển Giáo dục phổ thông vùng Công giáo

Đối với vùng Công giáo, trong những năm đầu xây dựng nền giáo dục

XHCN, ảnh hưởng của nhà thờ còn khá sâu sắc trong tư tưởng cũng như trong

phong tục tập quán của nhân dân. ý thức lao động, tinh thần tham gia xây dựng

trường lớp của phụ huynh và học sinh chưa cao. Vì vậy, “Phạm vi của vấn đề giáo

dục ở nơi có đồng bào Thiên chúa giáo không chỉ đóng khung trong ngành giáo

dục, mà là của toàn Đảng, toàn dân… Trách nhiệm giải quyết vấn đề này là của

cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương”{10, tr.6}.

Trên tinh thần đó, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã phát huy mọi khả năng để

tăng cường công tác giáo dục trong vùng Thiên chúa giáo, chủ trương tuyên truyền

giáo dục quần chúng hiểu rõ bản chất ưu việt của nền giáo dục mới, làm cho giáo

dân hiểu rõ mục đích của Đảng, chính phủ là đảm bảo sự tiến bộ của con em, học

sinh, cũng là vì lợi ích lâu dài của nhân dân; tích cực “mở lớp vỡ lòng trong vùng

Thiên Chúa giáo, mở trường dân lập ở những nơi có điều kiện, mở trường quốc lập

ở những nơi cần thiết, hoặc dời trường cho gần vùng giáo những nơi có điều kiện

trung độ” {12, tr.2}. Ty Giáo dục đã nghiên cứu sắp xếp giáo viên quốc lập ở vùng

Thiên chúa giáo, lựa chọn những giáo viên có ít nhiều khả năng chính trị và công

tác quần chúng để làm cơ sở, có tác dụng thu hút học sinh.

Vì vậy, năm 1958, bên cạnh tình trạng phong trào giáo dục chưa được đẩy

mạnh, có nơi chưa có trường lớp, các con em chưa dám đến học trường công thì

nhiều nơi đã vận động được số đông con em Công giáo đi học, có nơi trên 1.000

em (huyện Nga Sơn) {12, tr.3}. Đó thực sự là những tiến bộ khởi đầu đáng khích

lệ.

Năm học 1958-1959, Ngành Giáo dục đã huy động được đông đảo con em

đồng bào Thiên chúa giáo ra lớp, hầu hết các vùng có đồng bào thiên chúa giáo,

các thôn xóm hẻo lánh đều có trường hoặc lớp phổ thông và vỡ lòng cho con em

theo học. Cũng có nơi vì không tìm được giáo viên, trường phổ thông đã cử người

sang phụ trách giảng dạy ở các lớp này. Có nơi các giáo viên phổ thông phải đến

từng xóm, từng nhà để kiểm tra trình độ và huy động các em ra lớp như Thọ

Xương... Trong kỳ khai giảng đầu năm, nhiều nơi đã động viên được đông đảo phụ

huynh tham dự buổi lễ. Riêng trường Nga Thái (Huyện Nga Sơn) đã có trên 60 phụ

huynh tới dự. Nhờ đó mà nhà trường đã có dịp để tuyên truyền với giáo dân về

mục đích và nhiệm vụ của nhà trường, tạo được niềm tin trong nhân dân.

Thanh Hoá cũng đã mở thêm 1 trường cấp II giữa vùng công giáo toàn Tổng

Nga Liên để thu hút số em học lên lớp 5 của vùng; trên 60 trường cấp 1 trong tỉnh

đóng rải rác ở các huyện, nhiều nhất là ở vùng ven biển các huyện: Nga Sơn, Tĩnh

Gia, Hậu Lộc, một số xã ở huyện Đông Sơn, Thọ Xương, Thọ Xuân, Hoàng Hoá,

Nông Cống, Hà Trung... Năm học 1958-1959, số trẻ em đi học đã tăng hơn năm

trước trên 61%. Nhiều nhất là ở các lớp 1, 2. Riêng tại Hà Trung, toàn huyện có

182 học sinh thuộc gia đình công giáo thì đã có tới 151 em học lớp 1, 2. Tại Vĩnh

Lộc, trong số 190 học sinh của toàn huyện thì đã có 177 em. Nếu tính riêng trong

10 xã ở các huyện trên thì đã có tới 1480 học sinh cấp 1; 133 em học sinh cấp II.

Nếu tính tỷ lệ so với giáo dân thì năm 1955-1956 cứ 8,7 giáo dân mới có 1 học

sinh. Nhưng đến năm học 1959-1960, cứ 5,3 người đã có 1 học sinh. Nếu so với tỷ

lệ chung của toàn tỉnh là 4, 9 người thì có 1 học sinh {97, tr.7}.

Như vậy, tỷ lệ con em đồng bào Thiên chúa giáo đi học gần ngang bằng tỷ lệ

chung. Điều đó cũng cho thấy rằng, thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ

mở mang văn hoá cho đồng bào các vùng Thiên chúa giáo, ngành Giáo dục Thanh

Hoá đã chấp hành một cách nghiêm túc và đã thu được những thành tích đáng tự

hào.

Quán triệt tinh thần “không để học sinh thất học”, tất cả học sinh, con em

nhân dân trong toàn tỉnh đến tuổi đều được vận động đi học. Điều đó thể hiện quan

điểm giáo dục của Đảng về nhà trường phổ thông trong chế độ ta là nhà trường

nhận con em nhân dân và con em các thành phần khác vào học và nhà trường có

trách nhiệm dạy cho tốt các em trở thành những người tốt.

2.2. 4. Về hoạt động đảm bảo các điều kiện dạy và học

Góp phần vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, việc cải tiến giảng

dạy, học tập đã đưa lại kết quả khả quan. Chuyển biến rõ rệt nhất là phong trào cải

tiến giảng dạy theo phương châm gắn liền bài giảng với cuộc sống và sản xuất.

Cuộc vận động “ra sức thi đua dạy thật giỏi, học thật chăm để giành phần thưởng

của Bác” đã tiếp thêm khí thế cải tiến học tập, cải tiến giảng dạy một cách mạnh

mẽ. Để gắn liền giảng dạy với đời sống và sản xuất ở địa phương, các trường đã tổ

chức cho giáo viên đi sâu vào thực tế địa phương tham gia các cuộc vận động cải

tiến quản lý HTX, tăng tính thực tế cho nội dung giảng dạy.

Bên cạnh đó, các trường tổ chức cho giáo viên học tập nguyên lý giáo dục và

vận dụng vào giảng dạy, tổ chức thực tập mẫu liên trường, từng khu vực, phong

trào kết nghĩa giữa các trường để trao đổi kinh nghiệm, tài liệu, giáo án. Cũng

trong năm 1960, ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức huấn luyện đào tạo cho

1057 giáo viên dân lập cấp II cho miền xuôi và quốc lập cho miền núi. Bồi dưỡng

chương trình lớp 7 cho 417 giáo viên cấp I; 100 giáo viên cấp I miền núi học

chương trình lớp 5; tổ chức 4 lớp theo chương trình trung cấp sư phạm năm thứ

nhất ngoài giờ cho 195 giáo viên cấp I {86, tr.117}. Năm 1963, Thanh Hoá thành

lập Trường Sư phạm cấp I. Năm 1964 thành lập Trường Sư phạm cấp II miền núi.

Năm 1969, mở thêm 2 trường sư phạm cấp I và một trường sư phạm 4+3 cho vùng

cao nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên, góp phần vào công cuộc phát triển và nâng

cao chất lượng giáo dục. Tính riêng năm học 1962-1963, số lượng giáo viên phổ

thông đã tăng đáng kể so với năm 1961-1962. Giáo viên cấp I: 110,78%; Giáo viên

cấp II: 154,86%; Giáo viên cấp III: 154,0% {49, tr.11}.

Một sự kiện quan trọng đối với giáo dục Thanh Hoá là việc thành lập các

phòng giáo dục tại các huyện, thị nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục, tạo điều kiện

cho việc chỉ đạo được sát sao hơn. Nhờ đó, giữa các ngành học đã phối hợp ngày

càng nhịp nhàng và chặt chẽ. Cụ thể giáo viên, học sinh phổ thông tham gia giảng

dạy các lớp BTVH, các lớp mẫu giáo kết nghĩa với các lớp phổ thông, giáo viên vỡ

lòng kết nghĩa với giáo viên phổ thông để trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm giảng

dạy, chuẩn bị cho lớp vỡ lòng chuyển lên cấp I.

Một nhân tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển giáo dục phổ thông

Thanh Hoá từ sau cách mạng là vai trò của Liên đoàn giáo giới (1946-1951) sau

này là Công đoàn giáo dục. Thông qua tổ chức này, Đảng bộ Thanh Hoá đã lãnh

đạo công tác giáo dục một cách chặt chẽ.

Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Công đoàn đã tập trung động viên

phong trào thi đua Hai tốt, tiến hành xây dựng các điển hình tiên tiến với nhiệm vụ

là nâng cao nhận thức cho quần chúng, làm cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên

trong ngành thấm nhuần thêm đường lối, phương châm nguyên lý giáo dục của

Đảng, nhận thức cho được mục tiêu phương thức đào tạo của nhà trường XHCN,

xây dựng được phong trào cách mạng sôi nổi trong quần chúng nhằm thực hiện tốt

nhiệm vụ chính trị của ngành, quyết tâm cải tiến công tác quản lý và chỉ đạo giáo

dục.

Trên tinh thần đó, từ 1961-1963 công đoàn giáo dục Thanh hoá đã góp phần

tích cực trong việc xây dựng điển hình Hải Nhân. Công đoàn đã thực hiện các cuộc

vận động lớn theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng như phong trào “Đã là

giáo viên phải là người tiên tiến”, “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương sáng

cho học sinh noi theo”, “Giỏi việc trường, đảm việc nhà”... Các cuộc vận động

thực hiện nề nếp, thâm nhập vào thực tế sản xuất ở địa phương, đi sát học sinh để

tự rèn luyện mình và để tạo thêm điều kiện làm cho nhà trường gắn liền với đời

sống, tự học tập tích luỹ thường xuyên về vốn sống, về kiến thức, về lý luận và

phương pháp bộ môn, học tập áp dụng và đúc kết kinh nghiệm... đã có tác dụng

nhất định góp phần nâng cao chất lượng của cuộc vận động thi đua Hai tốt...

Qua mỗi cuộc vận động như thế, với sự hướng dẫn, tác động tích cực của

các tổ chức Công đoàn, cán bộ giáo viên trong ngành lại vững vàng hơn trong

chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, và cao nhất là trưởng thành về

mặt nhân cách. Không chỉ chỉ đạo phong trào chung toàn tỉnh, Công đoàn còn tập

trung chỉ đạo theo điểm và diện, theo từng chủ đề với nhiều hình thức phong phú

đa dạng.

*

* *

10 năm chỉ đạo sự nghiệp giáo dục Thanh Hoá trong tình hình miền Bắc đi

vào cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng CNXH, làm cơ sở cho đấu tranh thống

nhất nước nhà, GDPT Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đó là

thực hiện việc xây dựng hệ thống trường phổ thông 10 năm, đặt cơ sở ban đầu cho

nhà trường XHCN ở địa phương. Cải tạo và cải cách căn bản nền giáo dục cũ, xây

dựng hệ thống giáo dục mới: dân tộc, dân chủ và tiến bộ, chuyển mạnh vào quỹ

đạo của nền giáo dục XHCN.

Các cấp học đều được xây dựng và phát triển cả về số lượng-chất lượng.

Mặc dù, sự phát triển và mức độ hoàn chỉnh giữa các ngành học, bậc học còn khác

nhau, nhưng lần đầu tiên có sự phát triển cân đối, đồng bộ và nhịp nhàng trong hệ

thống giáo dục phổ thông của tỉnh; tạo được tiền đề, điều kiện đưa sự nghiệp giáo

dục tiến lên một bước mới.

Nhìn chung, từ sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cơ sở của nền giáo dục

XHCN đã được xây dựng và phát triển ở Thanh Hoá. Hay nói cách khác, nền

GDPT Thanh Hoá đã chuyển mạnh vào quỹ đạo của nền giáo dục XHCN. Điều đó

chứng tỏ đường lối giáo dục của Đảng đã được xác lập; đấu tranh thắng lợi, khắc

phục những tư tưởng quan điểm giáo dục lạc hậu. Bước đầu đã thiết lập một nền

giáo dục mới XHCN, tạo cơ sở vững chắc cho việc đẩy mạnh phát triển giáo dục

XHCN phục vụ tích cực sự nghiệp đào tạo con người XHCN-nguồn nhân lực quý

báu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Chương 3

Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển GDpt

Từ năm 1965 đến 1975

3.1. Chủ trương chuyển hướng phát triển GDPT thời chiến của Đảng

Trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt, cuối

năm 1964, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam thực hiện chiến lược chiến

tranh cục bộ, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải

quân đối với miền Bắc nhằm phá huỷ tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc,

cắt đứt sự chi viện của từ Bắc vào Nam, làm lung lay ý chí chiến đấu cứu nước của

nhân dân ta.

Trong tình thế chiến tranh, BCH Trung ương Đảng (khoá III) đã tiến hành

hội nghị lần thứ 11 (25/3/1965) và đề ra nhiệm vụ cho cả hai miền Nam-Bắc.

Nhiệm vụ của Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn và trực

tiếp chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vì vậy phải chuyển hướng xây dựng nền

kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến; mỗi vùng có thể tự đảm bảo một

phần nhu cầu thiết yếu về đời sống và học hành. Chuyển hướng công tác tư tưởng

và tổ chức, đảm bảo yêu cầu vừa sản xuất, vừa chiến đấu; xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc và tăng cường lực lượng quốc phòng nhằm bảo vệ

miền Bắc, giải phóng miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.

Sự nghiệp cách mạng đã đặt ra cho công tác giáo dục những yêu cầu vô cùng

to lớn. Riêng đối với GDPT:

- Phải tiếp tục thoả mãn yêu cầu học tập của con em nhân dân, đồng thời

phải đảm bảo cung cấp đủ học sinh tốt nghiệp cấp II và cấp III cho sự

nghiệp đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề.

- Phải giữ vững và nâng cao dần chất lượng giáo dục.

- Phải phát triển và củng cố các lớp mẫu giáo để giáo dục và bảo vệ trẻ

em, chuẩn bị nâng cao chất lượng cho cấp I và để góp phần giải phóng

sức lao động của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ làm tròn nhiệm vụ 3

đảm đang {84, tr. 4}.

Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi giáo viên và học sinh phải phát huy tác

dụng tích cực nhất của mình đối với sản xuất và chiến đấu. Nhà trường phải thể

hiện rõ tác dụng trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật của địa phương hơn bất cứ

lúc nào; phải chuyển mạnh mẽ hơn nữa việc thực hiện đường lối phương châm

giáo dục của Đảng; phải phục vụ những yêu cầu cách mạng trong cả nước; đặt

nhiệm vụ cả nước lên trên, đồng thời vẫn phải chăm lo đáp ứng những yêu cầu

cách mạng của địa phương.

Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ lâu dài, chủ yếu, nhà trường phổ thông còn có

nhiệm vụ phải đáp ứng từng bước yêu cầu nhiều mặt của cách mạng trong từng

thời kỳ và ở từng địa phương. Hoàn cảnh sản xuất và chiến đấu tạo điều kiện cho

nhà trường gắn với cuộc sống mật thiết hơn; trường lớp sống ngay trong lòng dân,

giữa khí thế sản xuất và chiến đấu sôi nổi của quần chúng. Học sinh qua thử thách

trong lao động sản xuất và tiếp xúc với thực tế xã hội đã được rèn luyện khá toàn

diện, có kiến thức khoa học, có chí khí, có thực tế cuộc sống, sẵn sàng vì sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đây là một trong những thời kỳ gay go, quyết liệt nhất trong lịch sử dân tộc

ta và ngành giáo dục, nhưng cũng là thời kỳ huy hoàng, oanh liệt nhất. Đứng trước

tình hình mới, đòi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương chuyển hướng công tác

giáo dục thích hợp với điều kiện thời chiến, nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ

của cách mạng.

Giáo dục được xác định phải trở thành một mặt trận quan trọng, góp phần

tạo nên sức mạnh đánh thắng đế quốc Mỹ. Hội nghị lần thứ 11 (25/3/1965) của

BCH Trung ương Đảng (khoá III) đã nhấn mạnh:

Trong công cuộc cách mạng XNCN về mặt tư tưởng, giáo dục là vấn đề

chủ yếu. Ngành giáo dục không chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức

văn hoá mà còn bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động làm

chủ nước nhà, có giác ngộ XHCN; làm cho thế hệ thanh niên sung sướng

và tự hào rằng mình là người chủ đấu tranh xây dựng và bảo vệ CNXH,

chủ nghĩa cộng sản… {40, tr.215}.

Muốn chuẩn bị cho thanh niên trở thành những con người như vậy, nhà

trường phải thực sự là đơn vị chống Mỹ cứu nước, thật sự là một tập thể gương

mẫu về giảng dạy, học tập, lao động, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Chỉ thị chuyển hướng 88/TTg ngày 5/8/1965 của Thủ tướng Chính phủ nêu

rõ:

Hiện nay, cả nước ta đang có chiến tranh, nhiệm vụ chống Mỹ cứu

nước là nhiệm vụ thiêng liêng…công tác giáo dục phải chuyển hướng

phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị nói trên theo chức năng, nhiệm vụ của

mình và phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, cần ra sức phấn đấu để

giữ vững và phát triển sự nghiệp giáo dục cả về quy mô và chất lượng

cho phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, góp phần chống Mỹ cứu nước,

phục vụ tốt công cuộc bảo vệ và xây dựng miền Bắc, chi viện miền

Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị điều kiện để tiến lên sau khi chiến

tranh kết thúc {43, tr.116}.

Như vậy, phương hướng, nhiệm vụ chung xuyên suốt cả thời kỳ này là

chuyển hướng công tác giáo dục phù hợp với thời chiến, bảo đảm an toàn, duy trì,

phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo cán bộ, giữ vững và nâng cao chất lượng

giáo dục. Phải thắng Mỹ trên mặt trận giáo dục, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu

dài của cách mạng.

Điều kiện quan trọng đầu tiên để xây dựng giáo dục trong thời chiến là phải

coi trọng công tác đảm bảo phòng không, an toàn cho học sinh và giáo viên. Các

trường học đều phải có đủ hào giao thông và hầm trú ẩn đúng quy cách; phải dời

các lớp học xa các mục tiêu địch có thể bắn phá. ở những nơi thường xuyên bị uy

hiếp, lớp học được phân tán thành những lớp học nhỏ, giảm bớt giờ học ở lớp, tăng

cường hướng dẫn học sinh học ở nhà. Để đảm bảo công tác phòng không, nhà

trường phải dựa vào lực lượng thầy, trò và phụ huynh học sinh là chính. Đoàn

Thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ và dân các xã tích cực giúp đỡ nhà trường.

Hai là nội dung giảng dạy phải được cải tiến để phục vụ thiết thực sự nghiệp

chống Mỹ, cứu nước theo nguyên tắc “dạy ít mà tinh, học để vận dụng vào sản

xuất và chiến đấu”. Nội dung giảng dạy giải quyết tốt các vấn đề chính như: tăng

cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức tác phong cách mạng; cung

cấp những kiến thức khoa học cơ bản thiết thực, vững chắc, gắn chặt với đời sống,

sản xuất và chiến đấu; rèn luyện kỹ năng về kỹ thuật sản xuất, quốc phòng, phục

vụ yêu cầu từng vùng từng địa phương; bồi dưỡng sức khoẻ của học sinh...

Ba là phải tổ chức lực lượng giáo viên và học sinh để phục vụ đắc lực 3

nhiệm vụ của nhà trường trong giai đoạn cách mạng mới: Nhà trường là lực lượng

tuyên truyền; Nhà trường là lực lượng sản xuất; Nhà trường là lực lượng chiến đấu.

Việc bảo đảm được ba nhiệm vụ to lớn của nhà trường trong giai đoạn cách

mạng mới không phải là giảm bớt yêu cầu chất lượng trong giảng dạy mà chính là

phải quyết tâm nâng cao chất lượng một cách toàn diện thì giáo viên và học sinh

mới có đủ tinh thần, đủ khả năng làm đầy đủ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Mỗi

giáo viên, học sinh đều nỗ lực thực hiện khẩu hiệu “giặc đến là đánh thắng, giặc đi

là học tập tốt, sản xuất tốt”.

Trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng việc học tập của học sinh vẫn cố gắng

được duy trì, quyền lợi của học sinh vẫn được đảm bảo. Mọi hoạt động của nhà

trường đều nhằm phục vụ cho giảng dạy tốt và học tập tốt. Rõ ràng, “Chế độ ta đã

dành tất cả cái gì tốt đẹp nhất cho các em. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta

cũng phải tạo những điều kiện, những phương diện tốt nhất cho học sinh, cho con

em chúng ta học tập, vui chơi” {35, tr.30}. Ngành Giáo dục quyết tâm thực hiện

lời dạy của Hồ Chủ tịch:

Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt học tốt: Trên

nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt phải phấn đấu nâng

cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các

vấn đề cho cách mạng nước ta đề ra, và trong một thời gian không xa

đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật {70, tr.102-103}.

Trong tình hình mới, giáo dục được xác định phải phục vụ nhiệm vụ chống

Mỹ cứu nước và tiếp tục xây dựng CNXH. Các định hướng về phát triển giáo dục

nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng được nêu trên của Đảng là cơ sở để

Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông ở địa phương

phát triển trong thời kỳ mới.

Trên cơ sở bảo đảm an toàn cho các trường học, Chỉ thị 07 CT/TU của Tỉnh

uỷ về Phát huy những thành tích đã đạt được, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy

mạnh hơn nữa công tác giáo dục nhằm phục vụ tốt cho yêu cầu cách mạng trước

mắt và lâu dài đã đề ra phương hướng giáo dục trong thời kỳ này là:

Phải quán triệt sâu sắc đường lối giáo dục của Trung ương Đảng và vận

dụng một cách sáng tạo và hoàn cảnh thực tế, sát với từng vùng trong

tỉnh. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất phát triển và chiến đấu đánh bại mọi

âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ mà ra sức đẩy mạnh công tác giáo dục

phát triển nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu học tập của nhân dân, tạo điều

kiện tiếp thu và áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và chiến đấu,

đảm bảo cung cấp kịp thời những người có trình độ văn hoá nhất định

cho yêu cầu phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng, đào tạo cán bộ

cho yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Chỉ thị nhấn mạnh: “bất kỳ trong tình huống nào, bất kỳ chiến tranh diễn ra

ác liệt đến đâu, cũng vẫn giữ vững được bước tiến bộ và đà phát triển của công tác

giáo dục để phục vụ tốt hơn nữa cho sản xuất; chỉ đạo, xây dựng con người mới và

nâng cao đời sống nhân dân” {11, tr.5}.

Theo đó, các biện pháp thực hiện cũng được đề ra. Cụ thể:

- Tiếp tục phát triển các ngành học với tốc độ thích hợp với từng cấp, từng

ngành và từng vùng trong toàn tỉnh. Đối với cấp I, bằng mọi cách đảm bảo cho con

em nhân dân đến tuổi đều được đi học, ít nhất là phải đưa từ 85-90% trẻ em ở độ

tuổi 6-7 vào lớp 1. Đối với cấp II, đảm bảo cho 75% học sinh hết cấp I đang ở độ

tuổi 10-11 vào học lớp 5 để có thể trong 3-4 năm tiếp theo, hàng năm, toàn tỉnh có

20.000-25.000 học sinh tốt nghiệp cấp II. Đối với cấp III, vận dụng mọi khả năng

hiện có, ra sức tạo thêm điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa, phấn đấu 3-4 năm

tiếp theo có từ 4.000-5.000 học sinh tốt nghiệp cấp III. Đối với GDPT miền núi,

phát triển nhanh, mạnh tất cả các ngành học bằng mọi hình thức tổ chức học tập

phù hợp với đặc điểm của địa phương. Phát triển các trường Thanh niên dân tộc

vừa học, vừa làm, các trường văn hoá tập trung để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ

dân tộc.

- Ra sức cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng tinh giản, thiết

thực, vững chắc và toàn diện.

Đi đôi với việc phát triển về số lượng, là nâng cao chất lượng ở tất cả các cấp

học, đặc biệt là ở các trường cấp II, cấp III; quan tâm hơn nữa tới việc rèn luyện về

tư tưởng và chính trị nhằm đào tạo cho được lớp người có kiến thức văn hoá, có

giác ngộ chính trị và đạo đức cách mạng.

- Tích cực xây dựng đội ngũ giáo viên vững mạnh về cả 3 mặt: chính trị, tư

tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng và nghiệp vụ chuyên môn. Coi trọng hơn nữa

việc bồi dưỡng tại chức, tự học, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm, tham quan học

tập tại chỗ ở những đơn vị tiên tiến xuất sắc trong sản xuất và chiến đấu. Đặc biệt

chú ý đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nữ, mạnh dạn đề bạt và tích cực bồi dưỡng giáo

viên nữ đảm đương các nhiệm vụ trong các lãnh đạo, chỉ đạo của ngành giáo dục.

Quan tâm đầy đủ đến các chính sách, chế độ đãi ngộ đối với giáo viên, quan tâm

giúp đỡ giải quyết những khó khăn trong công tác và sinh hoạt tạo điều kiện cho

giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Phát huy tác dụng của nhà trường đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,

đối với sản xuất và đời sống. Một yêu cầu cấp thiết đối với giáo dục trong hoàn

cảnh chiến tranh là nhà trường phải đào tạo được những con người có phẩm chất

chính trị và đạo đức cách mạng đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất và chiến

đấu. Giáo dục thanh niên, không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những

cuộc đấu tranh của xã hội. Do vậy, càng những lúc gay go, khó khăn càng phải

tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức cho học sinh. Nhờ vậy mà với tinh

thần “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy thật tốt, học thật tốt”

chúng ta đã làm cho đế quốc Mỹ “không những thất bại thảm hại trên mặt trận

chính trị, quân sự, mà ta đã thắng chúng ta trên mặt trận giáo dục và đào tạo cán

bộ” {44, tr.251}.

- Chú ý xây dựng cơ sở vật chất, làm tốt công tác phòng tránh, đảm bảo an

toàn cho giáo viên và học sinh. Phải dựa vào nhân dân và có sự giúp đỡ một phần

của Nhà nước để ngay trong thời chiến vẫn đảm bảo đầy đủ trường lớp, bàn ghế,

đồ dùng dạy học, sách giáo khoa, giấy bút, ánh sáng... cho việc giảng dạy và học

tập. Trường lớp phải phân tán, có đủ hầm hào chắc chắn, phải che phòng chu đáo

và bố trí giờ giấc hợp lý để đảm bảo an toàn tính mạng và bảo đảm sức khoẻ lâu

dài cho giáo viên và học sinh.

Trong tình hình mới, thực hiện những nhiệm vụ mới, Đảng bộ Thanh Hoá đã

thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu làm cho giáo dục thực sự là một mặt trận cách

mạng. Những người làm công tác giáo dục thực sự là những người cách mạng.

Những điều giảng dạy thực sự thúc đẩy các hoạt động cách mạng. Thế hệ trẻ thực

sự là những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng.

Sau chiến tranh, một yêu cầu bức thiết và cấp bách lúc này là việc nâng chất

lượng giáo dục nhằm mục đích đưa công tác giáo dục chính trị và tư tưởng gắn

chặt với nhiệm vụ của trường học; nội dung chương trình giáo dục và phương pháp

giáo dục đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng

bộ Thanh Hoá lần thứ VII (4/1969) đã khẳng định, đối với GDPT, trong bất cứ tình

huống nào, sự nghiệp giáo dục cũng phải phát triển, từng bước thoả mãn yêu cầu

học tập cho con em nhân dân, đáp ứng yêu cầu cho việc phát triển kinh tế, văn hoá

và chuẩn bị cho lực lượng sau này. Trước mắt:

- Cải tiến nội dung, lề lối tổ chức chỉ đạo

- Lấy vấn đề đào tạo bồi dưỡng giáo viên làm khâu trung tâm

- Dựa vào dân, khôi phục xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị nhà trường

- Gắn việc học tập trong nhà trường với việc lao động, sản xuất. Tiếp tục

thực hiện khâu trung tâm là đưa lao động sản xuất vào nhà trường. Trên cơ sở đó,

từng bước cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục, bảo đảm và nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện.

Xác định lao động sản xuất trong nhà trường là khâu trung tâm nhằm tạo ra

một bước ngoặt cách mạng trong sự nghiệp giáo dục. Nghị quyết Đại hội cũng nêu

rõ phương hướng tổ chức lao động sản xuất trong nhà trường: Lao động sản xuất

để giải quyết những nhu cầu của nhà trường.

Tiếp đến, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần 8 (năm 1975) xác định

phương hướng, nhiệm vụ của GDPT thời kỳ này là:

- Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cách mạng

quan hệ sản xuất và cách mạng kỹ thuật, hướng tập trung vào nhiệm vụ

và nội dung giáo dục, xây dựng con người mới mà tiêu chuẩn cơ bản và

quan trọng nhất là lao động với tinh thần say sưa, lao động với ý thức làm

chủ tập thể, lao động với năng suất cao.

- Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục một cách vững chắc và cân đối

giữa các ngành học, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn

diện. Nhanh chóng phổ cập vỡ lòng và cấp I đúng độ tuổi, đảm bảo cho

tất cả học sinh học hết cấp I được vào cấp II; mở rộng cấp III một cách

vững chắc.

- Tiếp tục chỉ đạo phong trào thi đua “Hai tốt”, xây dựng và thực hiện

nghiêm túc các quy chế dạy và học, chú trọng rèn luyện, bồi dưỡng đội

ngũ giáo viên về mọi mặt, nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường

sự phạm theo hướng tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên

trong cải cách giáo dục, tăng phương tiện cho việc dạy và học...{24,

tr.124}.

Việc chiến tranh kéo dài, ác liệt đã là một thách thức rất lớn đối với việc

phát triển giáo dục. Giáo dục trong hoàn cảnh không ổn định như vậy đòi hỏi phải

có sự chỉ đạo luôn cơ động và thích nghi. Đảng bộ Thanh Hoá đã có nhiều cố gắng

nhằm đáp ứng những yêu cầu đó. Những chủ trương đúng đắn, tổ chức chỉ đạo

khoa học, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, mọi hoạt động

giáo dục đã nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến, từ thời chiến sang

thời bình nhằm tạo bước chuyển biến sâu sắc trong giáo dục-đào tạo nói chung và

GDPT nói riêng, thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu

mới của cách mạng.

3.2. Quá trình tổ chức thực hiện

Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã cho máy bay,

tàu chiến bắn phá làng xóm, trường sở, giết hại nhiều người dân, nhiều thầy giáo

và học trò của Thanh Hoá. Chỉ tính trong 4 năm, từ 1965-1968, đế quốc Mỹ đã

đánh phá tất cả 454 lần vào 131 trường học. Trong đó, có 73 trường cấp I, 49

trường cấp II, 5 trường cấp III, lớp mẫu giáo và vỡ lòng. Trong số 454 lần, có 92

lần chúng đánh vào lúc học sinh đang học, giết chết 32 giáo viên, 592 học sinh,

làm thương 54 giáo viên, 704 học sinh; phá huỷ 789 phòng học, nhiều bàn ghế, đồ

dùng giảng dạy… Huyện Quảng Xương có 14 trường bị đánh phá, Huyện Hà

Trung có 11 trường bị bắn cháy và phá hỏng, 128 học sinh, giáo viên bị chết và bị

thương. Điển hình là các vụ đánh phá trường Hải Hoà, (Tĩnh Gia) và Trường Hà

Phú (Hà Trung) {100, tr.9}.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai (12/1972), Thanh Hoá

một lần nữa trở thành trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Riêng thị xã Thanh

Hoá, bom đạn Mỹ đã tàn phá 25 trường học, giết hại 30 giáo viên, giáo sinh; 30

giáo viên, giáo sinh bị thương {123, tr.12}

Tuy nhiên, điều đó không làm cho thầy trò Thanh Hoá nản chí, không làm

cho sự nghiệp giáo dục Thanh Hoá lùi bước. Trái lại, trong hoàn cảnh vừa chiến

đấu, vừa sản xuất, vừa chiến đấu vừa học tập, thầy trò các trường đã vượt muôn

vàn khó khăn để trong bất kỳ tình huống nào cũng đảm bảo được học tập; sự

nghiệp giáo dục của Thanh Hoá vẫn vững bước tiến lên.

3.2.1. Chỉ đạo công tác phòng không, sơ tán

Công việc đầu tiên và cấp bách của Đảng bộ Thanh Hoá đối với ngành giáo

dục thời kỳ này là chỉ đạo công tác phòng không, sơ tán các trường học, đảm bảo

an toàn cho thầy và trò, chăm lo sức khoẻ học sinh, đảm bảo việc giảng dạy và học

tập và các hoạt động giáo dục khác của nhà trường. Đây là công việc to lớn, khó

khăn và phức tạp. Với những chủ trương kịp thời của Đảng bộ tỉnh, nên mặc dù

trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh hay trong điều kiện khắc nghiệt của thời tiết

(bão gió, lụt lội…) giáo dục Thanh Hoá vẫn từng bước phát triển và đạt được

những thành tích to lớn có ý nghĩa quan trọng, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng

của tỉnh, của cả nước.

Nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh, giáo viên trong năm học

chống Mỹ cứu nước đầu tiên, ngay từ năm học 1965-1966, các trường học tiến

hành sơ tán triệt để. Trong nội thị, các trường cấp I được chuyển về học tại các hợp

tác xã trong huyện Đông Sơn, Quảng Xương và ngoại tỉnh. Các trường thuộc các

huyện xung quanh thị xã phải sẵn sàng tiếp nhận vô điều kiện số học sinh thị xã

xin sơ tán về. Các trường cấp II được chia nhỏ về từng xã. Các xã có điều kiện thì

thành lập trường cấp II. Các xã chỉ có vài lớp đầu cấp thì gắn vào với trường cấp I.

Mỗi huyện thí điểm 1-2 trường cấp I-II. Riêng trường cấp III dưới 9 lớp phân làm

2 chi, từ 9-10 lớp trở lên chia thành 3 chi đặt ở những khu vực trung độ để hạn chế

bớt số học sinh phải đi trọ {14, tr.7}. Theo đó, học sinh sơ tán về địa phương nào

thì tiếp tục được học tại đó. Tại nơi sơ tán, các Ban đại diện nhân dân được thành

lập nhằm tạo nên sự gắn bó giữa chính quyền với nhân dân, đảm bảo mọi hoạt

động có hiệu quả. Những khu vực đông học sinh sơ tán về, Ty giáo dục đã điều

động giáo viên ở thị xã đến giảng dạy. Các nhà trường đã tranh thủ được sự giúp

đỡ một phần của Nhà nước, đồng thời, dựa vào dân để đảm bảo đầy đủ trường lớp,

bàn ghế, đồ dùng dạy học, sách giáo khoa, giấy bút, ánh sáng cho việc giảng dạy

và học tập ngay trong thời chiến. Đặc biệt là học sinh sơ tán vẫn được hưởng

những quyền lợi như cấp học bổng, miễn giảm học phí…như trước.

Các trường học nằm trong khu vực trọng điểm phòng không, sát trục giao

thông quan trọng, kề bên các cầu phà nhất quyết không dùng. Các trường thuộc

khu vực khác chỉ đặt mỗi buổi 2 lớp. Các lớp còn lại đặt ở nhà dân, trụ sở hợp tác

xã… Các trường chủ động bám trụ đào hào giao thông, đắp hầm chữ A trên đường

đi học. Học sinh đội mũ rơm, áo ngụy trang khi đến lớp. Trước sự đánh phá ngày

càng ác liệt của đế quốc Mỹ, các buổi học đã được tổ chức vào ban đêm. UBND

tỉnh yêu cầu kiểm tra lại nơi đặt lớp học, phải đảm bảo là nơi an toàn nhất, sơ tán

dễ dàng nếu bị đánh phá. Những vùng bị đánh phá ác liệt chia lớp làm 2, giáo viên

dạy 2 buổi. Cấp I chỉ học 2 môn văn-toán. Các lớp cấp II, cấp III cách nhau ít nhất

100m theo hướng “Trường tương đối tập trung, lớp triệt để phân tán”. Mỗi lớp tối

đa 40 học sinh. ở những vùng trọng điểm, mỗi lớp chỉ có khoảng 30 học sinh. ở

miền núi và vùng rẻo cao, số học sinh mỗi lớp của mỗi cấp được bố trí thích hợp

với tình hình, đặc điểm của từng địa phương theo phương châm “Thầy tìm trò,

trường gần dân”. Vì vậy, có nơi dù ít học sinh nhưng vẫn mở lớp đảm bảo an toàn

và sức khoẻ cho học sinh.

Tại các địa phương đã nhanh chóng tiếp nhận, tổ chức học tập, sinh hoạt cho

học sinh sơ tán. Trong đó, Đông Sơn nhận 2430 học sinh; Quảng Xương: 800 học

sinh; các huyện khác: 1000 học sinh. Tính đến năm 1968, về phổ thông cấp I, cấp

II đạt 95% học sinh có nơi học tập. {98, tr.7}.

Nét đặc biệt của GDPT Thanh Hoá trong thời kỳ này là các lớp ở khu phố

nông nghiệp do không tổ chức sơ tán nên vẫn tiếp tục học tập với nhiều hình thức

độc đáo, trong đó nổi bật là hình thức học trong hang. Với các tỉnh vùng ven biển,

mặc cho bom đạn giặc Mỹ trút xuống, đại bác của giặc Mỹ từ ngoài biển bắn vào,

lớp vẫn học trong lòng đất, trong giao thông hào.

Với tinh thần lớp dù đặt ở đâu cũng phải có hầm hố bảo đảm, phải trồng

thêm cây cối che phòng kín đáo, nếu học sinh nhỏ thì dân quân, thanh niên, phụ

huynh đến đào hào hố và trồng cây bảo vệ các em, nếu vì vấn đề đào hào hố, trồng

cây nguỵ trang mà ảnh hưởng đến đất tăng gia của dân thì hợp tác xã cần cắt đất

tạm bù nơi khác, tuyệt đối không được vì tiếc một ít đất mà các em không có hào

hố an toàn, các trường phổ thông Thanh Hoá đã thực hiện thắng lợi chủ trương

phòng không, sơ tán của Đảng bộ tỉnh trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại

ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ.

3.2.2. Tiếp tục phát triển GDPT

Bằng quyết tâm bất kể trong tình huống nào sự nghiệp giáo dục cũng phải

tiếp tục phát triển mạnh mẽ, con em nhân dân Thanh Hoá vẫn phải được học hành

tiến bộ, nên mặc dù điều kiện học tập thời kỳ này gặp rắt nhiều khó khăn, nhưng số

học sinh phổ thông ở toàn tỉnh sụt không đáng kể. Năm học 1966-1967, ngay ở

khu vực thị xã, Hàm Rồng và một số nơi khác, hằng ngày vẫn phải trực tiếp chiến

đấu với kẻ thù nhưng vẫn đảm bảo học tập đều đặn. Trong số 2 ngàn học sinh cấp

II ở thị xã chỉ sụt có 7 em {14, tr.4}. Đó là một hiện tượng rất đáng mừng trong

việc phát triển kế hoạch giáo dục và chính cũng là tác dụng của kinh nghiệm vận

động học sinh của các giáo viên trường Hải Nhân mà các nơi đã tích cực vận dụng

một cách sáng tạo.

Trong 2 năm chống chiến tranh phá hoại, các cấp phổ thông đều được tập

trung phát triển. Chỉ tính riêng huyện Hoằng Hoá, đã có 47 trường cấp 1, 34 trường

cấp II và 2 trường cấp III. Huyện Thạch Thành với dân số 54.000 mà đã có tới

10.000 học sinh phổ thông. Nếu so với trước khi có phong trào Hải Nhân thì cấp I

tăng gấp đôi, cấp II tăng gấp ba lần và cấp III tăng gấp 7 lần {95, tr.23}.

Tại các vùng miền biển, các trường phổ thông Thuỷ sản cấp II ở miền biển

được giữ vững và củng cố. Các trường này chiêu sinh con em ngư dân trong độ

tuổi có thể lấy tới 14-15, thực sự là trường vừa học, vừa làm. Để đáp ứng yêu cầu

phát triển công nghiệp địa phương và phát triển nghề cá, Ban Cán sự Giáo dục

cùng với Thị uỷ chuyển trường Lam Sơn thành trường phổ thông công nghiệp cấp

III và tổ chức thí điểm một số trường phổ thông Thuỷ sản cấp III tại Hậu Lộc. Các

Ty Công nghiệp và Thuỷ sản tại các huyện vùng biển đã cùng với ngành Giáo dục

cùng xây dựng 2 trường này, cung cấp phương tiện, cử cán bộ chuyên môn sang

dạy kỹ thuật, bố trí cơ sở thực hành cho học sinh…

Tại miền núi và vùng dân tộc ít người, sự nghiệp GDPT được phát triển

không ngừng. Hệ thống trường lớp ngày càng được mở rộng. Việc vận động

phương châm “Thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, Nhà trường và nhân dân

phối hợp” đã có kết quả bước đầu. Hầu hết các chòm bản có từ 30 hộ trở lên đều đã

có các lớp phổ thông cấp I. Xã nào cũng có trường cấp I hoàn chỉnh. Trong số 149

xã của 8 huyện miền núi đã có 125 xã có trường cấp 2 và trong số 8 huyện đã có 6

huyện có trường cấp 3. {126, tr.14}.

Từ năm 1968, các hình thức trường lớp thích hợp được phát triển rộng rãi

như hình thức lớp 1 đặc biệt; hình thức nội trú theo thời vụ; hình thức các lớp

ghép...Nhờ đó mà từng bước giải quyết được tình trạng bỏ học nhất là ở các lớp

dưới, tạo điều kiện cho các em học tập đều đặn. Dân tộc Tính cứ 4,8 người dân có

1 học sinh; dân tộc Thổ cứ 3,5 người dân có 1 học sinh phổ thông {126, tr.16}.

Sau chiến tranh, các trường lớp trong toàn tỉnh đã nhanh chóng được di

chuyển từ nơi sơ tán về địa phương. Việc khôi phục trường lớp, ổn định cơ sở vật

chất, tổ chức việc dạy-học được tiến hành nhanh chóng. Các trường tổ chức khai

giảng năm học mới. Năm học 1973-1974, học sinh cấp I tăng 6,2%, cấp II tăng

15%; cấp III tăng 27% (so với năm học 1972-1973). Hầu hết học sinh mãn khoá

lớp 4, lớp 5, trên 30% học sinh mãn khoá lớp 7 vào học lớp 8 {27, tr.8}.

Đặc biệt, trong thời kỳ này, nhiều học sinh quá tuổi vỡ lòng được thu nhận

vào lớp 1 đặc biệt. Đây cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện để

nhanh chóng thực hiện chủ trương phổ cập cấp I. Tính đến năm học 1974-1975,

toàn tỉnh đã có trên 66 vạn người đi học, trong đó có gần 3,3 vạn học sinh mẫu

giáo bé, trên 9,4 vạn học sinh vỡ lòng, 30,5 vạn học sinh cấp I với 601 trường, trên

16,4 vạn học sinh cấp II với 540 trường, gần 2,2 vạn học sinh cấp III với 29

trường. Trung bình cứ mỗi xã có 7 lớp vỡ lòng và mẫu giáo, 1-2 trường cấp I (có

50 xã có trường cấp I) với quy mô bình quân mỗi trường miền xuôi 15 lớp, miền

núi 14 lớp. 93% số xã và khu phố có trường cấp II (522 trường/560 xã) với quy mô

bình quân mỗi trường miền xuôi 8 lớp, miền núi 5 lớp. Toàn tỉnh có 29 trường cấp

III với quy mô bình quân mỗi trường miền xuôi 17 lớp, miền núi 8 lớp {125,

tr.14}.

Tóm lại, sự nghiệp GDPT Thanh Hoá thời kỳ này đã phát triển với tốc độ

nhanh, quy mô lớn. Mạng lưới trường lớp đã được tổ chức ở khắp nơi trong tỉnh.

Nhờ đó, đáp ứng được nguyện vọng sâu xa của nhân dân là được học hành, ai đến

tuổi đi học đều có chỗ học, tạo cơ sở để thực hiện sự công bằng giữa mọi người,

mọi gia đình trong xã hội, sự bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước xoá bỏ sự cách

biệt giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc

và lao động chân tay.

Bên cạnh những tiến bộ về phát triển số lượng, công tác GDPT đã có những

chuyển biến trong việc giữ vững và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, “Trường lớp là trận địa, giáo viên là chiến sĩ,

quyết tâm dạy thật tốt, học thật tốt, xây dựng nhà trường chống Mỹ cứu nước”. Các

đợt thi đua nhân kỷ niệm các ngày lịch sử với nội dung phong phú được phát động

liên tục trong năm học. Đặc biệt là phong trào thi đua “Hai tốt” do Hồ Chủ tịch

phát động, sau gần 10 năm thực hiện đã có nhiều điển hình xuất sắc được hình

thành. Ngay từ ngày khai giảng năm học 1964-1965, phong trào “thi đua Hai tốt

“Làm theo Hải Nhân, học tập, đuổi kịp và tiến vượt Hải Nhân” đã trở thành khẩu

hiệu hành động của các trường học, giáo viên và học sinh Thanh Hoá.

Phong trào thi đua Hải Nhân do Tỉnh uỷ phát động chính là biểu hiện cụ thể

và sinh động của phong trào thi đua “Dạy thật tốt, học thật tốt phục vụ sản xuất,

phục vụ quốc phòng”. Phong trào được phát động sâu rộng trong các nhà trường ở

tỉnh nhằm đưa sinh hoạt nhà trường vào nền nếp đồng thời từng bước nâng cao

chất lượng giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết, phẩm chất, đạo đức của học sinh.

Thực hiện phong trào thi đua Hai tốt, học tập và làm theo các điển hình tiên

tiến trong ngành giáo dục (1971-1975), ngành Giáo dục Thanh Hoá tổ chức cuộc

vận động ở các địa phương với phương châm “Tích cực, kiên trì, vững chắc, sáng

tạo”. Cuộc vận động được tiến hành trong 3 năm 1971-1974 đã tạo được sự chuyển

biến về tư tưởng theo mục tiêu, nguyên lý phương châm giáo dục của Đảng ở các

cấp bộ Đảng, chính quyền, ngành giáo dục và quần chúng nhân dân.

Hội nghị sơ kết tình hình 4 năm thực hiện cuộc vận động thi đua Hai tốt, học

tập và làm theo các điển hình tiên tiến trong ngành giáo dục (1971-1975) đã tuyên

dương các điển hình tiên tiến xuất sắc như: Trường cấp I Hải Nhân 10 năm giữ

vững ngọn cờ đầu trong giáo dục phổ thông cấp I toàn miền Bắc; Trường cấp I Phù

Nhi (Quan Hoá) “Điển hình đặc sắc của sự thực hiện phương châm phát triển giáo

dục miền núi-Thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, nhà nước cùng nhân dân

phối hợp”; Hoằng Trinh, huyện Hoằng Hoá-đơn vị tiên tiến liên tục đã kiên trì

giáo dục toàn diện.

Trong 2 năm học học (1972-1973 và 1973-1974) đã có nhiều điển hình đã

nổi lên như Trường cấp II Tố Như - mặt mạnh truyền thống và nhiều kinh nghiệm

trong hoạt động dạy và học... Trường cấp III Như Xuân thể hiện tinh thần và khí

thế thi đua học tập và làm theo tiên tiến khá sôi nổi; Trường cấp I Hoằng Lộc,

Hoằng Trinh (Hoằng Hoá), Đông Hoà (Đông Sơn), Thọ Hải (Thọ Xuân), Yên Quý

(Yên Định), Cẩm Tân (Cẩm Thuỷ), Hoà Lộc (Hậu Lộc), Quảng Đức (Quảng

Xương)…cấp III Lam Sơn, Thọ Xuân I… Một điều kỳ diệu là trong khó khăn-gian

khổ, trong đạn bom khói lửa, chất lượng giáo dục vẫn không ngừng phát triển.

Điển hình là các trường huyện Hoằng Hoá-Huyện có phong trào giáo dục khá nhất

tỉnh {28, tr.12}.

Hội nghị cũng khẳng định GDPT Thanh Hoá đã hình thành được một mạng

lưới các đơn vị tiên tiến khá vững chắc ở tất cả các bậc học, ở cả miền xuôi và

miền núi. Các điển hình tiên tiến là những thực tế chứng minh cho tinh thần cách

mạng của cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường…Nếu năm học 1971-1972, cấp

I: 42 đơn vị tiên tiến; cấp II: 40; cấp III: 5 thì đến năm học 1974-1975, số lượng

đơn vị tiên tiến các cấp đã tăng tương ứng là: 171(cấp I); 170 (cấp II); 5 (cấp III)

{125, tr.7}. Đó cũng là những điển hình sinh động thực hiện những nguyên lý giáo

dục mà Đảng ta đề ra: Sự nghiệp giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, giáo

dục phải kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động xã hội; công tác giáo dục là sự

nghiệp cách mạng của quần chúng do Đảng lãnh đạo.

Trong thời chiến, ngành giáo dục Thanh Hoá không chỉ đảm bảo phát triển

giáo dục địa phương mà còn có những đóng góp xã hội tích cực. Đó là sự tham gia

của một bộ phận giáo viên, học sinh vào lực lượng vũ trang nhân dân, chiến đấu

trực tiếp chống đế quốc Mỹ. Là huyện dẫn đầu toàn tỉnh trong việc chi viện cho

miền Nam, Hoằng Hoá đã có 100 giáo viên lên đường nhập ngũ, 30 giáo viên làm

công tác giáo dục, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đắp đê, làm thuỷ lợi,

giao thông…Mỗi năm, có hàng ngàn lượt giáo viên, học sinh tham gia các công tác

xã hội trên. Trường cấp III huyện Hậu Lộc trong khoảng 10 năm (1964-1965), từ

ngày thành lập đến ngày kết thúc kháng chiến chống Mỹ có 6.866 học sinh đã có

gần một ngàn người lên đường đánh giặc; 133 người trong số này là liệt sĩ...

Đáng ghi nhận và cần phải nhắc đến là nhiều tấm gương của học sinh, giáo

viên của tỉnh đã được tuyên dương. Đặc biệt là những tấm gương quên mình cứu

bạn của em Trần Thị Vệ, Nguyễn Bá Ngọc (học sinh cấp I); ý chí của thế hệ trẻ đối

với đất nước trước sự xâm lược của kẻ thù, coi “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận

tuyến chống quân thù” của Lê Mã Lương-học sinh cấp II nhập ngũ khi vừa 17

tuổi…Hình ảnh của các em vừa có tác dụng giáo dục tinh thần dũng cảm, giáo dục

lòng tự hào về truyền thóng anh hùng của dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng,

tinh thần ba sẵn sàng, xả thân vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước vừa có tác dụng

nhen lên trong tâm hồn non trẻ của các em khí phách anh hùng, bồi dưỡng cho học

sinh thái độ học tập đúng đắn.

Có thể nói, qua những năm tháng rèn luyện, nhà trường thực sự trở thành

pháo đài của CNXH. Nhà trường đã tích cực vận dụng chức năng, lực lượng của

mình để phát huy tác dụng đối với địa phương, góp phần đắc lực vào việc đẩy

mạnh công cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá cách mạng, vào sự nghiệp chống Mỹ

cứu nước.

3.2.3. Về hoạt động đảm bảo các điều kiện dạy và học

Sau hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, sau trận bão lụt năm

1973, hầu hết các trường lớp bị tàn phá. Chỉ tính riêng các trường phổ thông và sư

phạm đã bị thiệt hại trên 4.000 phòng học, trên 4.000 bộ bàn ghế, hàng vạn cuốn

sách giáo khoa và nhiều dụng cụ, thiết bị khác {25, tr.4}. Trước tình hình đó, Hội

nghị Thường vụ Tỉnh uỷ (tháng 10/1973) bàn về tình hình phát triển cấp III phổ

thông đã được tổ chức. Hội nghị thảo luận và chủ trương mở rộng quy mô trường

cấp III Lam Sơn, chia trường Lam Sơn thành 3 trường:

- Trường cấp III phổ thông Lam Sơn: 15 lớp

- Trường phổ thông cấp III thị xã 2: 15 lớp

- Trường Phổ thông cấp III năng khiếu về văn và toán của tỉnh: 6 lớp.

Mặc dù giáo dục phổ thông Thanh Hoá lúc này gặp rất nhiều khó khăn về

xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở rộng quy mô phát triển giáo dục nhưng

đây là một thực tế đòi hỏi cần phải giải quyết cấp bách. Vì vậy, tháng 11/1973,

UBHC tỉnh đã quyết định:

- Thành lập và xây dựng trường phổ thông cấp III thị xã

- Các lớp học cấp III năng khiếu về văn toán (học tại trường cấp III Lam

Sơn) khi có điều kiện sẽ tách thành trường riêng.

- Trường cấp III Lam Sơn được mở thêm 2 lớp 8 phổ thông với 100 học sinh

ngay trong năm học 1973-1974.

Do vậy, đến năm học 1974 - 1975, mạng lưới trường lớp đã được tổ chức ở

khắp nơi trong tỉnh. Trước sự phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh của ngành

giáo dục, UBHC tỉnh đã có chủ trương huy động mọi khả năng để tu bổ, mở rộng,

xây dựng mới trường sở, mua sắm thiết bị cho việc giảng dạy của giáo viên và học

tập của học sinh.

Thực hiện chủ trương này, Ban vận động kiến thiết trường sở của xã, huyện,

tỉnh được thành lập với nhiệm vụ lập quy hoạch xây dựng trường sở, mua sắm thiết

bị, vận động nhân dân đóng góp tiền, vật liệu...để xây dựng trường sở. Đồng thời,

có nhiệm vụ xin vốn, vật liệu từ các ngành; tổ chức thi công hoặc giao thầu cho các

đơn vị khác thi công...

Bên cạnh việc xây dựng trường sở, các nhiệm vụ giải quyết trang thiết bị cần thiết cho nhà trường

nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh cũng được đề cập tới. Năm

1975, Ty Giáo dục Thanh Hoá có chủ trương phấn đấu xây dựng mỗi trường một

tủ sách ba ngăn, trong đó: ngăn sách giáo khoa dùng chung cho học sinh bảo đảm

từng bước cung cấp đủ sách cho học sinh không phải trả tiền hoặc chỉ phải trả một

số tiền lộ phí rất nhỏ. Phấn đấu đảm bảo cung cấp học sinh của các cấp học đủ sách

giáo khoa, sách đọc thêm; cho giáo viên đủ sách hướng dẫn, sách nghiệp vụ, sách

bồi dưỡng và sách tham khảo.

Cơ sở vật chất trường học giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát

triển giáo dục. Cơ sở vật chất thiếu thốn, nhà trường không những không thực hiện

được nhiệm vụ rèn luyện, đào tạo con người lao động mới theo yêu cầu của công

cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước mà còn làm ảnh hưởng

đến cả sức khoẻ của người học và người dạy lâu dài về sau. Nếu không có cơ sở

vật chất và thiết bị, nếu dạy và học không có thí nghiệm và thực hành thì việc dạy

và học chỉ là sách vở, trừu tượng. Cùng với nguồn vốn từ Nhà nước, nhờ huy động

sự đóng góp tích cực của nhân dân, ngành Giáo dục đã bước đầu đảm bảo được số

lượng trường lớp, thiết bị cơ sở vật chất cho trường học, đáp ứng nhu cầu học tập

ngày càng tăng của học sinh trong tỉnh.

Để phát triển giáo dục một cách vững chắc, nâng cao chất lượng giáo dục

một cách toàn diện, một trong những biện pháp cơ bản là tiến hành phát triển, đào

tạo, bồi dưỡng đội cán bộ quản lý và giáo viên các cấp.

Nhiệm vụ trung tâm của giáo dục là bồi dưỡng nâng cao chất lượng giáo

viên. Nó xuất phát từ vai trò của người thầy giáo là nhân tố quyết định của nhà

trường XHCN. Nhận rõ tầm quan trọng của người thầy giáo, Ty Giáo dục đã tổ

chức hội nghị hiệu trưởng cấp I, cấp II để học tập chỉ thị 16CT/BD của Bộ Giáo

dục về công tác bồi dưỡng văn hoá và nhiệm vụ cho giáo viên. Bên cạnh đó, hàng

nghìn giáo viên cấp I đã tham gia học trung học hoàn chỉnh. Hàng nghìn giáo viên

cấp II chưa toàn cấp được cử đi bồi dưỡng tập trung tại trường. Hầu hết cán bộ

quản lý các huyện miền núi được bồi dưỡng về nghiệp vụ. Hàng nghìn cán bộ quản

lý các trường cấp I, II miền xuôi được bồi dưỡng ngắn hạn. Đặc biệt một số huyện

đã phát động được phong trào tự học và bước đầu đạt được kết quả đáng khả quan

như Nông Cống, Thạch Thành, Hậu Lộc… Ngoài việc bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ, giáo viên còn thường xuyên được bồi dưỡng về tình hình nhiệm vụ,

đường lối chính sách của Đảng, của ngành.

Bên cạnh đó, các chế độ chính sách đối với giáo viên và những người làm

công tác giáo dục cũng được thực hiện đầy đủ, đặc biệt là đối với GDPT ở miền

núi:

Cán bộ, giáo viên công tác ở miền núi sau 3 năm được phụ cấp thâm niên

bằng 3% lương chính. Sau đó, mỗi năm được thêm 1% cho đến nhiều

nhất không quá 25% lương chính.

Cán bộ, giáo viên công tác liên tục ở miền núi cứ 3 năm được cộng thêm

1 năm để tính tuổi công tác khi xét hưu trí.

Giáo viên dạy trường nội trú sẽ được hưởng 5% so với lương chính

Giáo viên cấp I nếu được Phòng Giáo dục giao trách nhiệm dạy lớp trên

vì thiếu giáo viên hoặc dạy lớp ghép... thì được hưởng tiền phụ cấp.

Tất cả các khoản phụ cấp khu vực, chuyển vùng được thực hiện theo chế

độ đã được quy định.

Đối với giáo viên ở miền xuôi lên công tác ở miền núi được nghỉ hè 1

tháng 15 ngày nguyên lương theo quy định. Nếu quá xa được cộng thêm

ngày đi về. Giáo viên người dân tộc ít người được nghỉ tết của dân tộc

mình. Thời gian nghỉ bằng thời gian nghỉ tết nguyên đán{135, tr.29}.

Nhằm đẩy mạnh nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên hơn nữa, đội ngũ

hướng dẫn viên đã được xây dựng để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng. Ban bồi

dưỡng do UBHC Thanh Hoá phụ trách cũng được thành lập. Kết quả qua đợt bồi

dưỡng hè 1969, giáo viên đã tiếp thu những kiến thức, phương pháp, kỹ năng cơ

bản về chính trị, văn hoá và nghiệp vụ. Bên cạnh đó, nhiều hình thức hoạt động đã

diễn ra như xây dựng mạng lưới chuyên môn liên trường, tổ chức nhiều lớp chuyên

đề để nâng cao năng lực giáo viên. Cải tiến nội dung và phương pháp với phong

trào 3 kỹ (soạn kỹ, giảng kỹ, chấm kỹ).

Song song với công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên

đã và đang được đẩy mạnh, bằng các hình thức bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng tại

chức và phát động phong trào tự học tập bồi dưỡng trong các trường.

Về phát triển giáo viên, số giáo viên cũng tăng lên nhanh chóng qua từng năm.

Năm 1972-1973 từ 17.000 giáo viên đã tăng lên gần 20.000 (năm học 1973-1974).

Trong đó, số giáo viên trẻ chiếm gần 80% {28, tr.8}. ở miền núi, số lượng giáo

viên cũng ngày càng tăng qua các năm. Riêng giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số

cũng có những bước phát triển đáng khích lệ. Như vậy, số giáo viên miền xuôi lên

công tác chiếm tỷ lệ khá cao. Do hoàn cảnh thực tế của miền núi, và do yêu cầu

của sự nghiệp cách mạng mà miền núi, miền xuôi ngày càng được củng cố mối

quan hệ khăng khít và hỗ trợ nhau về mọi mặt. Để tiến hành ổn định đội ngũ giáo

viên miền núi, Ty Giáo dục đã tăng cường đào tạo giáo viên địa phương, đồng thời

có chủ trương thuyên chuyển giáo viên miền xuôi. Năm 1970, ngành Giáo dục đã

bàn tới vấn đề kết nghĩa giữa các huyện miền núi, miền xuôi với nội dung không

những chỉ nhằm giải quyết theo hướng ổn định đội ngũ giáo viên miền núi mà còn

nhằm tương trợ nhau một cách thường xuyên về mặt kinh nghiệm giảng dạy, tài

liệu giáo khoa, xây dựng cơ sở vật chất và phương pháp chỉ đạo của phòng, hoạt

động của tổ nghiệp vụ...

Có thể nói, sự nghiệp giáo dục ở miền núi phát triển đã phục vụ ngày càng

tốt hơn đối với 3 cuộc cách mạng ở 8 huyện vùng này. Trước hết đó là vấn đề đào

tạo lớp người mới cho các dân tộc ở miền núi. Công tác giáo dục đã làm cho cán

bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên và quần chúng nhân dân thuộc các dân tộc

biết chữ tạo cơ sở để nâng cao trình độ giác ngộ về tư tưởng, tiếp thu văn hoá, khoa

học kỹ thuật. Để đào tạo đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của

ngành, đồng thời thực hiện khẩu hiệu “Dân tộc nào có giáo viên của dân tộc ấy”,

trong 10 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã quyết

định cho mở các trường sư phạm ở miền núi, nhằm đào tạo con em các dân tộc trở

thành giáo viên-“lực lượng cốt cán cho ngành” của các dân tộc.

Trong suốt chặng đường phát triển, ngành Giáo dục Thanh Hoá đào tạo xây

dựng được một đội ngũ giáo viên đông đảo, đáp ứng kịp thời yêu cầu sự nghiệp

giáo dục của tỉnh và yêu cầu chi viện tiền tuyến cũng như yêu cầu của giáo dục

vùng giải phóng miền Nam. Với việc mạnh dạn phát triển các trường sư phạm,

ngành giáo dục Thanh Hoá đã chấm dứt được việc đào tạo cấp tốc và có điều kiện

để nâng cao yêu cầu đào tạo lên trình độ 10+3 đối với giáo viên cấp II ở miền xuôi;

7+3 đối với giáo viên cấp II ở miền núi; 10+2 đối với giáo viên cấp I ở miền xuôi;

7+2 đối với giáo viên cấp I miền núi.

3.2.4. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên mặt trận giáo dục

Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ

tịch đã có chủ trương chuyển các cháu học sinh ở Vĩnh Linh, Quảng Bình sơ tán ra

các địa phương ở Bắc khu IV để nuôi dạy, học tập. Đây là công tác có tầm quan

trọng đặc biệt và có ý nghĩa chính trị rất lớn.

Thanh Hoá được Trung ương giao nhiệm vụ trung chuyển các cháu học sinh

miền trong sơ tán ra các tỉnh miền ngoài và nhận một số cháu để nuôi dạy học tập.

Việc đón tiếp và nuôi dạy học sinh miền trong ra sơ tán được lãnh đạo tỉnh coi đó

là kế hoạch đột xuất đặc biệt mà các ngành, các cấp, các địa phương trong tỉnh có

liên quan phải quan tâm đúng mức và ưu tiên đặc biệt. Ban Đón tiếp đã tổ chức

trung chuyển học sinh ra các tỉnh miền Bắc, đến các huyện, xã trong tỉnh và tổ

chức cấp phát quần áo, đồ dùng... cho các cháu do nhân dân Thanh Hoá nuôi

dưỡng.

Tính đến tháng 3/1968, Thanh Hoá đã tổ chức đón tiếp 7.040 người, trong

đó có 6.635 học sinh. Riêng 10 ngày, từ ngày 1-10/3/1968, đã đón tiếp 6.185 học

sinh. Mặc dù địch thường xuyên đánh phá ác liệt nhưng công tác trung chuyển

luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hơn 18 tháng thực hiện kế hoạch, Ban Đón tiếp Kế

hoạch 8 Thanh Hoá đã đảm bảo an toàn tuyệt đối cho 34.223 người di chuyển trên

các tuyến đường dài hơn 500 km {127, tr.9}. Tổ chức tốt việc cấp phát tư trang cho

các cháu thuộc diện nhân dân Thanh Hoá nuôi dưỡng.

Tại Thanh Hoá, số học sinh từ miền trong ra học tập từ đầu kế hoạch đến

13/1/1968 gồm: 3.572 học sinh cấp I; 724 học sinh cấp II; 19 học sinh cấp III và

998 cháu học mẫu giáo vỡ lòng. 3.766 học sinh đợt I được học tập tại Thọ Xuân,

Yên Định, Thiệu Hoá đã tổ chức và khai giảng ngay từ đầu kỳ I niên khoá 1967-

1968. Số học sinh ra đợt 2, đợt 3 cũng được tổ chức học tập ngay học kỳ II tại

huyện Triệu Sơn, Thọ Xuân...{127, tr.13}. Cũng trong năm đó, Ban lãnh đạo nuôi

dạy các cháu ở tỉnh được thành lập với nhiệm vụ đẩy mạnh tiếp đón nuôi dạy các

cháu từ huyện xuống. Các trường có học sinh miền trong sơ tán ra đến học không

những quan tâm dạy học các cháu mà còn chú ý đến việc giáo dục toàn diện, kết

hợp giữa gia đình, học đường và đoàn thể để giáo dục. Đồng thời, phân công giáo

viên về các hợp tác xã tìm hiểu tình hình của các cháu; hàng tháng tổ chức sinh

hoạt cho các cháu... Nhìn chung, vấn đề ăn ở học tập và sức khoẻ của học sinh dần

được đi vào ổn định và nề nếp. Nó thể hiện ý nghĩa chính trị và tình cảm giữa các

địa phương, giữa gia đình và các cháu...

Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh cũng quan tâm chỉ đạo chặt chẽ các trường có

học sinh K8 để bố trí công tác hợp lý, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết

lương bổng và các chế khác kịp thời cho giáo viên. ở nhiều trường, giáo viên đã

quan tâm, chăm sóc, luôn gần gũi, động viên các cháu. Nhà trường cung cấp đủ

sách giáo khoa, bố trí các cháu có khả năng làm cán bộ học sinh, cán bộ đội thiếu

niên tiền phong, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu...

Sau 18 tháng thực hiện kế hoạch, lãnh đạo tỉnh đã bước đầu rút ra một số

kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm của các địa phương trong việc nuôi dạy học

sinh từ miền trong ra như: công tác chính trị tư tưởng phải đặt lên hàng đầu, tiến

hành thường xuyên; công tác chính trị tư tưởng phải lấy việc nâng cao nhận thức,

trách nhiệm, động viên cổ vũ người tốt việc tốt, phải nghiêm khắc phê phán quan

điểm phong kiến và tư tưởng tư lợi; vấn đề lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các

ngành là quyết định.

Việc tổ chức, quản lý và bảo vệ, nuôi dưỡng các cháu từ trong ra là một

nhiệm vụ quan trọng của nhà trường và có một ý nghĩa chính trị to lớn. Ngành

Giáo dục Thanh Hoá thời kỳ này đã nỗ lực hết mình nhằm xứng đáng với trách

nhiệm của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.

Bên cạnh công tác nuôi dạy học sinh từ miền trong sơ tán ra, ngành Giáo

dục Thanh Hoá thời kỳ này tiếp tục xây dựng các trường học sinh miền Nam nội

trú. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc nuôi dạy học

sinh miền Nam, các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hà

Bắc... đã xây dựng thêm các khu trường nội trú mới bảo đảm đủ chỗ ăn, ở học tập

cho 10.000 học sinh và cán bộ, giáo viên, nhân viên phục vụ trong 2 năm 1974-

1975. Riêng Thanh Hoá xây dựng trường học sinh nội trú cho 2.000 học sinh.{46,

tr.23}. Năm 1974, hai trường học sinh miền Nam đặt tại huyện Hà Trung, Thanh

Hoá được thành lập là Trường Học sinh miền Nam số 16 và Trường Học sinh miền

Nam số 17 với nhiệm vụ tổ chức tốt việc nuôi, dạy học sinh miền Nam theo đúng

đường lối, chính sách, quy chế, thông tư, chỉ thị của Chính phủ, Bộ Giáo dục và

Uỷ ban Hành chính tỉnh Thanh Hoá...

Chủ trương xây dựng trường học sinh miền Nam nội trú đã thể hiện sự quan

tâm của Đảng, Chính phủ, địa phương đối với con em học sinh miền Nam. Từ năm

1954, giáo dục Thanh Hoá đã tiếp nhận và tổ chức tốt việc học tập cho con em

miền Nam và nhiều cán bộ miền Nam. Đó là những hạt giống quý của cách mạng

miền Nam sau này.

Việc nuôi dưỡng và đào tạo học sinh Lào cũng được xác định là một trong

những công tác rất khẩn trương, phức tạp và quan trọng. Theo sự thoả thuận giữa

Đảng ta và Đảng Nhân dân Lào, ta đồng ý nhận đào tạo 4.000 học sinh Lào gửi

sang Việt Nam trong 2 năm 1969 và 1970, từ lớp vỡ lòng trở lên. Học sinh gồm

con em cán bộ, bộ đội, thương binh, tử sĩ và gia đình có công với cách mạng.

Thanh Hoá là tỉnh được phân công nhận đào tạo và nuôi dưỡng học sinh Lào

nhiều nhất trong các tỉnh được phân bố. Số học sinh Lào được chia về 2 trường:

Trường Phổ thông miền núi 3 và 4 đặt tại Huyện Ngọc Lặc và Thọ Xuân. Đội ngũ

học sinh này không những là một lực lượng nòng cốt kế tục sự nghiệp của cách

mạng Lào mà còn là lớp người củng cố, giữ vững và phát triển mối quan hệ hữu

nghị lâu dài giữa 2 Đảng, 2 dân tộc. Các trường đã có cố gắng bước đầu bố trí sắp

xếp các em có nơi ăn, nơi ở, học tập... nhằm đào tạo cho các cháu Lào có sức khoẻ,

có văn hoá, có tinh thần yêu nước, yêu lao động, yêu nhân dân để sau này trở về

nước sẵn sàng tham gia chiến đấu và xây dựng nước Lào hoà bình, độc lập, trung

lập, thống nhất dân chủ và thịnh vượng.

Năm 1973, thực hiện chủ trương của Chính phủ, UBHC tỉnh đã có chỉ thị

yêu cầu:

- Ty Giáo dục chủ trì, với sự tham gia của các ngành Tài chính, Lương thực,

Thương nghiệp, Công an, Y tế tổ chức kiểm tra toàn bộ công tác nuôi, dạy, quản

lý, xây dựng của 2 trường.

- Ty Giáo dục cùng với Ban Giám hiệu 2 trường tiến hành đợt giáo dục tư

tưởng, chính trị trong cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhằm nâng cao ý

thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong công tác.

Đồng thời với việc chấn chỉnh đó, UBHC tỉnh đã quyết định giao nhiệm vụ

quản lý trực tiếp và toàn diện 2 trường nội trú học sinh Lào số 3 và 4 cho Ty Giáo

dục. Theo đó, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã phát động cho các trường đã có kế hoạch

đẩy mạnh tăng gia sản xuất, một số trường có thể tự đảm đương công tác phục vụ

học sinh. Các em tham gia làm vệ sinh công cộng, đào hầm phòng không, rất tích

cực... Các tiêu chuẩn lương thực chủ yếu cho các cháu được Ty Giáo dục đảm bảo

tương đối. Các chế độ trang cấp, chăn màn, quần áo, dày dép...đã được thực hiện

bảo đảm và chu đáo.

Công tác học tập cũng có nhiều thành tích đáng kể. ở cả 2 trường Phổ thông

miền núi 3 và 4, có 58 lớp từ lớp 1 đến lớp 5. Qua năm học 1970-1971, các cháu

đều được lên lớp. Riêng học kỳ I của năm học 1971-1972, thi kiểm tra, nói chung

đều đạt yêu cầu từ 90% trở lên, có lớp đạt 100% {109, tr.12}.

Có thể nói, nhiệm vụ tiếp nhận, đào tạo học sinh Lào là một công tác rất

quan trọng và cấp thiết cho việc xây dựng đất nước Lào sau này. Và đây cũng là

biểu hiện của tình hữu nghị, thân thiết giữa hai dân tộc anh em Lào-Việt. Việc hợp

tác giúp đỡ xây dựng ngành giáo dục cho nước bạn Lào đã trở thành nhiệm vụ

quốc tế thường xuyên, liên tục với quy mô ngày càng lớn về nhiều mặt, cả ở nước

bạn và ở nước ta.

*

* *

Nhìn chung, trong 10 năm vừa chiến đấu vừa sản xuất, giáo dục của Thanh

Hoá cùng với giáo dục miền Bắc đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng,

những người làm công tác giáo dục thực sự là những chiến sĩ trên mặt trận giáo

dục, thế hệ học trò được rèn luyện trong hoàn cảnh chiến tranh đã trở thành những

người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng.

Chủ trương chuyển hướng giáo dục với quy mô rộng lớn trong toàn tỉnh đã

được Đảng bộ Thanh Hoá chỉ đạo sát sao, kịp thời. Từng bước xây dựng được hệ

thống trường lớp tương đối hoàn chỉnh ở khắp các nơi trong tỉnh. Nhờ vậy, sự

nghiệp GDPT ở Thanh Hoá không những được duy trì mà còn tiếp tục phát triển

mạnh ở tất cả các cấp, các vùng khác nhau, từ miền xuôi lên miền ngược, vùng

đồng bằng đến vùng biển... đáp ứng được yêu cầu học tập của đại bộ phận thanh,

thiếu niên. Công tác GDPT đã góp phần đắc lực vào thắng lợi của công cuộc cách

mạng xây dựng CNXH của địa phương và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

của dân tộc.

Tuy nhiên, đối với những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ

mới, bên cạnh những thành tựu đó, ngành giáo dục phổ thông Thanh Hoá cũng bộc

lộ những tồn tại.

Một là chất lượng đào tạo con người mới về mọi mặt, việc chuẩn bị cho thế

hệ trẻ đi vào cuộc sống, đi vào xã hội, lao động sản xuất và hoạt động cách mạng

còn thấp.

Hai là công tác giáo dục có giai đoạn ở trong tình trạng mất cân đối nghiêm

trọng vì vậy đã hạn chế tác dụng của giáo dục phục vụ ba cuộc cách mạng và

nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN. Phổ cập cấp I tiến hành chậm chạp và đứng

trước nhiều khó khăn. Công tác giáo dục ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh của

miền núi, ở miền biển, vùng đồng bào theo Thiên chúa giáo chưa được quan tâm

đúng mức, nên tốc độ phát triển còn chậm so với các địa bàn khác trong tỉnh. Theo

điều tra của Ty Giáo dục, trí dục của học sinh vùng thấp chỉ đạt từ 85-90%, vùng

giữa chỉ đạt 70-80%; vùng cao chỉ đạt từ 40-50% so với học sinh miền xuôi.

Ba là cơ sở vật chất thiết bị của các nhà trường còn nghèo nàn và thiếu thốn

nhiều, đặc biệt là ở các trường miền núi, vùng dân tộc ít người... Trải qua chiến

tranh kéo dài và ác liệt, thiên tai, bão lụt làm cho nhiều phòng học, nhà ở, bàn ghế,

đồ dùng dạy học bị phá hoại và hư hỏng. Số lượng trường sở do nhân dân mới xây

dựng trong năm 1962 so với năm 1961 tăng gấp 2 lần; phòng học bằng 2,1 lần; số

lượng bàn ghế tăng 12,3%. Tuy vậy, so với tốc độ phát triển trường lớp và học sinh

vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu về số lượng cũng như nâng cao chất lượng giáo dục

toàn diện.

Bốn là trình độ về mọi mặt của đội ngũ giáo viên còn thấp. Đời sống của đa

số cán bộ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Vị trí của giáo dục và người thầy về

nhận thức có được xác định rõ hơn, nhưng trong thực tế đời sống xã hội và chính

sách đầu tư cho giáo dục và người thầy giáo chưa thể hiện rõ.

Dẫu còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung, giáo dục phổ thông Thanh Hoá đã

phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị: chống Mỹ cứu nước và xây dựng địa

phương trong thời chiến, đồng thời chuẩn bị tiềm lực đáng kể về dân trí, về lực

lượng lao động và cán bộ cho công cuộc xây dựng đất nước.

10 năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thanh

Hoá đã nghiêm túc thực hiện chủ trương đường lối giáo dục của Đảng, kiên trì làm

công tác chính trị, tư tưởng nhất là những khi có chuyển biến lớn về tình hình và

nhiệm vụ cách mạng. Rõ ràng là việc học ở nhà trường đã có sắc thái mới. Một

điều rất đáng nói là không những tự bản thân các đơn vị của ngành giáo dục đã làm

một cuộc hoà đồng, hội nhập vào phong trào xã hội rộng lớn mà chính phong trào

ấy cũng đã vang dội, làm nên sinh khí hoạt động của Ngành. GDPT bám sát từng

biến chuyển, sự kiện của đất nước, dân tộc, quê hương để vận động và tham gia.

Những thành tựu của GDPT Thanh Hoá trong 10 vừa sản xuất và chiến đấu

đã tạo nên nguồn lực lớn lao, tạo cơ sở vững chắc để giáo dục Thanh Hoá bước

tiếp sang một thời kỳ mới-thời kỳ cùng cả nước đi lên xây dựng CNXH và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện đất nước hoà bình và thống nhất.

Kết luận

Trong hai thập kỷ (1954-1975), sự nghiệp GDPT của Thanh Hoá đã có

những bước phát triển mạnh mẽ, những biến đổi sâu sắc nhằm đáp ứng nguyện

vọng của nhân dân, yêu cầu của cách mạng.

Nhiệm vụ lâu dài, xuyên suốt của ngành giáo dục-đào tạo nói chung, ngành

GDPT nói riêng được Đảng ta xác định là bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người

lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN có văn hoá và kỹ thuật, có sức

khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở nhận

thức tầm quan trọng đó, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã quán triệt vận dụng sáng tạo

những quan điểm chỉ đạo của Trung ương vào điều kiện cụ thể của địa phương, đề

ra những quyết sách đúng đắn phù hợp với sự phát triển qua hai thời kỳ cụ thể

(1954 - 1965) và (1965-1975). Đó cũng chính là quá trình vận động lâu dài và đầy

khó khăn của ngành giáo dục Thanh Hoá từ những ngày đầu tuyên truyền mục đích

về việc học tập dưới chế độ mới, đến khi đào tạo nên những con người mới.

Những thành tựu mà giáo dục Thanh Hoá đạt được là do sự vận động của

truyền thống hiếu học lưu truyền từ ngàn xưa trên mảnh đất này được tổ chức phát

huy, kết tinh bởi đường lối, cơ chế do dân, vì dân của chế độ mới dưới sự lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý của chính quyền nhân dân.

GDPT Thanh Hoá trong hơn hai mươi năm (1954-1975) đã vượt lên nhiều

hoàn cảnh khó khăn để phục hồi và phát triển, có ý nghĩa quan trọng góp phần thúc

đẩy sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ. Trong quá trình xây dựng, GDPT

Thanh Hoá có những địa bàn vô cùng khó khăn. Đó là cả một miền núi rộng lớn,

với vùng cao chiếm một tỷ lệ đáng kể. Có những vùng chậm phát triển ở nông thôn

và ven biển. Có những vùng ảnh hưởng của nhà thờ còn khá sâu sắc trong tư tưởng

cũng như trong phong tục tập quán của nhân dân... Trải qua bao lần thiên tai, địch

hoạ, cứ mỗi lần như thế các trường học phổ thông lại đứng trước những thử thách

vô cùng khắc nghiệt. Số học sinh có những năm giảm nhiều, đội ngũ giáo viên

chao đảo nhất là không thể dồn tâm sức vào công việc, sự nghiệp của mình. Tuy

nhiên, dù gian nan như vậy, ngành GDPT đều vượt qua giữ nhịp độ để ổn định và

phát triển.

Qua hai mươi năm (1954-1975), giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức xây dựng,

phát triển được mạng lưới giáo dục phong phú và hiệu quả. Các bậc học đều được

xây dựng và phát triển cả về số lượng-chất lượng. Cùng với sự phát triển về số

lượng, nền giáo dục mới XHCN đem lại cho nhân dân Thanh Hoá niềm tin vào

cách mạng, vào ánh sáng khoa học, đem trí thức phục vụ cho sản xuất, chiến đấu

và nâng cao đời sống. Trình độ dân trí, trình độ học vấn của tầng lớp nhân dân

ngày càng được nâng lên. Vì vậy, trình độ giác ngộ chính trị, năng lực sản xuất,

chiến đấu của nhân dân cũng đã có những biến chuyển sâu sắc.

Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào đó, ngành GDPT Thanh Hoá cũng

còn không ít hạn chế, thiếu sót. Những tồn tại này ngoài những yếu tố khách quan

thì chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất là do các cấp Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể và nhân

dân chưa có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về quan điểm đường lối giáo dục, về vị

trí, nội dung, mục tiêu và phương pháp giáo dục. Chưa thực sự xem giáo dục là

ngành có chức năng tái sản xuất lực lượng lao động có kỹ thuật của xã hội; chưa

thấy mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục và kinh tế, chưa xem giáo dục là một bộ

phận rất lớn, rất quan trọng của sự nghiệp cách mạng, có quan hệ đến mọi mặt của

đất nước hiện tại cũng như tương lai.

Thứ hai là do công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chưa có vị trí

xứng đáng trong toàn bộ quá trình chỉ đạo phát triển và nâng cao chất lượng giáo

dục. Công tác bồi dưỡng giáo viên còn nặng tính chất chắp vá. Việc bồi dưỡng

chính trị, quan điểm giáo dục chưa được coi trọng đúng mức. Tỷ lệ giáo viên bồi

dưỡng tập trung hàng năm còn thấp. Việc phát động phong trào động viên tinh thần

tự học của đông đảo giáo viên và cán bộ quản lý trong ngành hiệu quả chưa

cao...đã ảnh hướng lớn đến tư tưởng của giáo viên, đến việc khẳng định vị trí của

người giáo viên trong xã hội.

Thứ ba là do công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo sự nghiệp giáo dục của các

cấp Đảng, chính quyền, các ngành chưa tốt biểu hiện ở các mặt như: chế độ chức

trách của các cấp, các ngành đối với công tác giáo dục chưa được xác định cụ thể.

Kế hoạch giáo dục hàng năm chưa được coi là một bộ phận của kế hoạch Nhà

nước, do đó chưa được quan tâm chỉ đạo cũng như tạo ra những cơ sở và điều kiện

tối thiểu nhằm bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra.

Tuy còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót nhưng có thể khẳng định được

những thành tựu mà ngành GDPT đã đạt được trong hai mươi năm là hết sức to

lớn, đáng ghi nhận. Nó đã đặt những nền tảng ban đầu hết sức quan trọng cho

ngành GDPT Thanh Hoá tiến những bước dài vững chắc trong tương lai, có những

đóng góp xã hội tích cực.

Hai mươi năm xây dựng, phát triển giáo dục của Đảng bộ và nhân dân

Thanh Hoá nói riêng, của cả miền Bắc nói chung đã cho thấy:

Nếu không cải tạo được thế hệ cũ và giáo dục thế hệ mới theo lập trường

quan điểm của giai cấp vô sản thì không thể có thắng lợi của CNXH. Vì vậy, nhà

trường phải thực sự là cái lò giáo dục con người. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà

trường không thể chỉ là nơi truyền đạt kiến thức khoa học kỹ thuật mà trước tiên

phải là nơi giáo dục thanh niên về lý tưởng, về đạo đức mới, về đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước.

Giáo dục của nhà trường phải thực hiện phương châm học gắn liền với lao

động - lý luận đi với thực tiễn, hay nói cách khác, học đi đôi với hành. Phải qua lao

động sản xuất mới đào tạo được người lao động phát triển toàn diện, nâng cao

được chất lượng văn hoá một cách vững chắc và đúng hướng. Lênin cũng đã viết:

Người ta không thể hình dung được một xã hội lý tưởng tương lai mà

trong đó, nền giáo dục lại sẽ không kết hợp với lao động sản xuất của thế

hệ trẻ: giáo dục và giảng dạy nếu thoát ly lao động sản xuất, hoặc lao

động sản xuất không đồng thời có sự giáo dục và giảng dạy thích hợp thì

đều không thể đạt tới trình độ cần thiết cho sự phát triển của kỹ thuật và

tình trạng của những tri thức khoa học được {62, tr.135}.

Phương châm “dựa vào dân”, nhân dân tham gia xây dựng và phát triển giáo

dục đã được mang lại những kết quả tích cực, khả quan cho ngành giáo dục Thanh

Hoá. Nhờ đó, đã huy động được một lực lượng hùng hậu, sức mạnh đoàn kết trong

nhân dân địa phương để cùng tham gia công tác giáo dục. Mọi người, mọi ngành,

mọi gia đình tuỳ theo chức năng của mình mà có những hành động tự giác, đúng

đắn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đúng theo quan điểm đường lối giáo

dục của Đảng và mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Đây thực chất là việc xã hội hoá giáo dục bước đầu được thực hiện. Hội cha

mẹ học sinh được thành lập khắp nơi. Công đoàn ngành giáo dục, Nông hội tỉnh,

Thanh niên tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, công đoàn giáo dục tỉnh... đã phối hợp

chặt chẽ với nhà trường thể hiện mối liên hệ giữa nhà trường-gia đình-xã hội.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương vào thực tiễn địa phương để đề

ra những quyết sách đúng đắn về phát triển giáo dục - đào tạo và GDPT phù hợp

với từng giai đoạn trong tiến trình phát triển. Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục

là quá trình quán triệt những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà

nước vào tình hình thực tiễn địa phương, từ đó vạch ra định hướng phát triển, đề ra

những giải pháp đúng đắn giải quyết những khó khăn, tạo ra động lực của sự phát

triển. Trên tinh thần quán triệt những tư tưởng phát triển giáo dục qua các kỳ Đại

hội Đảng, Nghị quyết của Trung ương về phát triển giáo dục-đào tạo, trên cơ sở

nắm vững thực tiễn, với tinh thần chủ động, sáng tạo, Đảng bộ Thanh Hoá đã đề ra

những định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm nhất đối với giáo dục-đào tạo và

GDPT trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Quá trình thực thi Nghị quyết cũng là quá

trình quán triệt sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng bộ đến mọi cấp uỷ Đảng,

các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội. Trong đó, bộ máy nhà

nước từ tỉnh đến xã-phường đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các kế

hoạch, đề án với mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp cụ thể, những cơ chế chính sách

đảm bảo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục.

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của giáo dục-đào tạo và GDPT trên cơ sở

nắm vững đường lối, mục tiêu giáo dục của Đảng. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư

cho phát triển, giáo dục là con đường ngắn nhất và cơ bản nhất để phát huy nguồn

lực con người, hình thành lớp người đủ bản lĩnh, đủ trình độ tiếp thu những kiến

thức phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.

Giáo dục là một bộ phận của cách mạng tư tưởng-văn hoá đồng thời đào tạo

lực lượng tương lai cho văn hoá. Nó luôn gắn với một thể chế nhất định, luôn

phụng sự cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng. Giáo dục-đào tạo nói chung và

GDPT nói riêng đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là tạo ra con người có khả năng

đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Vì giáo dục chuyên lo đào tạo thế hệ mới,

đào tạo những con người sống trong xã hội ngày mai-những con người toàn diện

về đức, trí, mỹ, thể có tình cảm cách mạng tốt đẹp, có những trí thức đầy đủ đáp

ứng được đòi hỏi của việc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.

Những chặng đường đi qua đã tạo tiền đề vững chắc cho ngành giáo dục

Thanh Hoá tiếp tục bước đi trên chặng đường phía trước với những mục tiêu mới.

Kết quả đó cũng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng bộ cùng các cấp chính quyền

với chủ trương và biện pháp đúng đắn đã tạo ra những bước chuyển biến quan

trọng trong lĩnh vực giáo dục.

Với những nhận thức, thành tựu và kinh nghiệm đã đạt được trong 20 năm

này, Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển hơn nữa GDPT địa phương,

đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp với xu thế thời đại và phát triển kinh tế

- xã hội của tỉnh trong tương lai, góp phần phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh.

Tài liệu tham khảo

BCH tỉnh Đảng bộ (1969), Báo cáo bổ sung một số vấn đề về phát triển 1.

kinh tế, văn hoá miền núi và công tác dân tộc trong những năm tới.

BCH tỉnh Đảng bộ (1972), Báo cáo sơ kết việc thi hành Nghị quyết 220 2.

của Bộ Chính trị về “Chuyển hướng và đẩy mạnh mọi mặt công tác ở

miền Bắc để tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

BCH tỉnh Đảng bộ (1967), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục năm 3.

1966-1967.

BCH tỉnh Đảng bộ (1954), Báo cáo năm 1953 của tỉnh Thanh Hoá. 4.

BCH tỉnh Đảng bộ (1956), Báo cáo tổng kết năm 1955. 5.

BCH tỉnh Đảng bộ (1963), Báo cáo tổng kết công tác năm 1962. 6.

BCH tỉnh Đảng bộ (1968), Báo cáo tổng kết năm 1967. 7.

BCH tỉnh Đảng bộ (1965), Báo cáo tổng kết tình hình công tác năm 8.

1964. Phương hướng nhiệm vụ năm 1965.

BCH tỉnh Đảng bộ (1969), Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế-văn 9.

hoá ba năm 1969-1971

10. BCH tỉnh Đảng bộ (1958), Chỉ thị Đẩy mạnh công tác vùng Thiên chúa

giáo.

11. BCH tỉnh Đảng bộ (1967), Chỉ thị Phát huy những thành tích đã đạt

được, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục

nhằm phục vụ tốt cho yêu cầu cách mạng trước mắt và lâu dài.

12. BCH tỉnh Đảng bộ (1958), Chỉ thị về công tác văn hoá - giáo dục đối

với Trường Văn hoá biệt lập trong vùng Thiên chúa giáo

BCH tỉnh Đảng bộ (1964), Chỉ thị về công tác giáo dục 13.

BCH tỉnh Đảng bộ (1965), Chỉ thị về việc lãnh đạo chuẩn bị năm học 14.

mới của hệ thống giáo dục phổ thông

15. BCH tỉnh Đảng bộ (1954), Chỉ thị về việc lãnh đạo phát triển các

trường dân lập.

16. BCH tỉnh Đảng bộ (1961), Chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo công

tác giáo dục phổ thông.

17. BCH tỉnh Đảng bộ (1963), Chỉ thị về việc tăng cường tổ chức bộ phận

công tác miền núi của các ngành

18. BCH tỉnh Đảng bộ (1960), Chỉ thị về việc tuyên truyền rộng rãi chống

Mỹ-Diệm nhân cuộc đảo chính xảy ra ở Sài Gòn

19. BCH tỉnh Đảng bộ (1971), Nghị quyết của tỉnh uỷ về việc thi hành Nghị

quyết 181/NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận

động Thanh niên

20. BCH tỉnh Đảng bộ, Phương hướng nhiệm vụ giáo dục trong kế hoạch 5

năm lần thứ nhất (1960-1965)

21. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ V

(25/2 - 5/3/1961)

22. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VI

(8 - 16/7/1963)

23. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VII

(21102 - 4/11/1969)

24. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII

(19 - 28/5/1975).

25. Ban Chuyển trường lớp (1954), Văn bản về việc chuyển hướng phát

triển giáo dục 1954.

26. Ban Dân tộc tỉnh (1973), Bản đề nghị về mở trường phổ thông và đầu

tư cho xây dựng các trường ở miền núi.

27. Ban Khoa giáo (1974), Báo cáo tình hình công tác khoa giáo năm 1973

và một số phương hướng, nhiệm vụ công tác khoa giáo năm 1974

28. Ban Khoa giáo (1975), Báo cáo tình hình công tác khoa giáo năm 1974.

29. Ban Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1957), Báo cáo số liệu phổ thông từng

cấp của niên khoá 1955 - 1956.

30. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1990), Bác Hồ với Thanh Hoá,

Thanh Hoá với Bác Hồ, Nxb Thanh Hoá.

31. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1994), Những sự kiện lịch sử Đảng

bộ Thanh Hoá (1954-1975), Nxb Thanh Hoá

32. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1986), Thanh Hoá làm theo lời

Bác, Nxb Thanh Hoá.

33. Ban Văn xã (1957), Kế hoạch vận động nhân dân xây dựng dân lập và

xây dựng trường sở.

34. Báo cáo của Đảng đoàn ngành Giáo dục tại Hội nghị của Ban Thường

vụ Tỉnh uỷ ban chuyên đề về công tác giáo dục (1975).

35. Báo cáo sơ lược về tình hình công tác dân lập trong năm học 1957 -

1958 (1958).

36. Báo cáo tổng kết tình hình học sinh miền Nam ở Thanh Hoá (1958).

37. Báo cáo tổng kết và phương hướng Đại hội Công đoàn giáo dục Thanh

Hoá lần thứ 13 (1975).

38. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1975), Báo cáo kiểm điểm tình hình sinh hoạt,

nuôi dưỡng học sinh Lào tại Việt Nam.

39. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1972), Chỉ thị về việc tăng cường công tác tổ

chức cán bộ đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chuyển hướng giáo dục trong

tình hình mới.

40. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1995), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và

đào tạo (1945-1995), Nxb GD, Hà Nội.

41. Bộ Giáo dục (1974), Quyết định thành lập 2 trường học sinh miền Nam

đặt tại Hà Trung, Thanh Hoá.

42. Bộ Giáo dục (1972), Thông báo số 3 về tình hình lao động sản xuất

trong trường học.

43. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1995), Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ Giáo

dục - Đào tạo, Nxb GD, Hà Nội.

Bộ Giáo dục (1955), Văn bản về việc học sinh miền Nam vượt tuyến. 44.

Bộ Giáo dục (1974), Văn bản về việc chuyển học sinh ở B ra về trường 45.

16.

46. Các văn bản của Thủ tướng, Bộ Giáo dục, UBHC tỉnh về công tác xây

dựng trường học sinh miền Nam (1974).

47. Các văn bản của UBHC tỉnh, Ty Giáo dục về việc tổ chức, sắp xếp

trường lớp theo hướng mở cửa ngành giáo dục (1954).

48. Các văn bản của UBKCHC Liên khu 4, UBKCHC tỉnh, Ty Giáo dục về

việc đón tiếp và mở trường học cho học sinh miền Nam ra tập kết

(1954).

49. Chi cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1963), Báo cáo tổng hợp tình hình

thực hiện kế hoạch giáo viên phổ thông năm 1962 - 1963.

50. Chi cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1963), Nhận xét tình hình thực hiện

kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông năm 1963.

Chiến sĩ thi đua ngành giáo dục (1968-1969 (1969). 51.

Chuyển mạnh nhà trường phục vụ nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, Nxb 52.

Giáo dục.

53. Công văn của UBKCHC tỉnh về quy định học phí và lương giáo viên

các trường tư thục (1951).

Danh sĩ Thanh Hoá với việc học thời xưa (1994), Nxb Thanh Hoá 54.

Hoàng Đình Di (1981), Hệ thống giáo dục phổ thông mới, Nxb ST, Hà 55.

Nội.

56. Lê Duẩn - Trường Chinh (1972), Thấu suốt đường lối của Đảng đưa sự

nghiệp giáo dục tiến lên mạnh mẽ, vững chắc, Nxb ST, Hà Nội.

57. Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Tố Hữu (1979), Về đường

lối giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb ST, Hà Nội.

58. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về công tác giáo dục trong

thời gian tới.

59. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1956), Chỉ thị về việc tuyên truyền giải thích

mục đích đi học của học sinh dưới chế độ ta.

60. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1957), Tài liệu học tập Đường lối dựa vào

nhân dân để củng cố và phát triển ngành giáo dục phổ thông.

61. Phạm Văn Đồng (1970), Công tác giáo dục và người thầy giáo Xã hội

chủ nghĩa, Nxb ST, Hà Nội.

62. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ XHCN, Nxb

ST, Hà Nội.

63. Phạm Minh Hạc (1986), Vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục, Nxb

ST, Hà Nội.

64. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục

vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Hồ sơ về công tác giáo dục phổ thông và trường tư thục (1957). 65.

Nguyễn Văn Huyên (1990), Những bài nói và viết về giáo dục, Nxb 66.

Giáo dục, Hà Nội.

67. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển

chất lượng nguồn nhân lực: Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Kế hoạch và quy hoạch mạng lưới các trường trong tỉnh năm 1970

(1970).

69. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2000), Lịch sử Đảng bộ thành phố Thanh

Hoá, Nxb Thanh Hoá.

Hồ Chí Minh (1962), Bàn về giáo dục, Nxb GD, Hà Nội. 70.

Hồ Chí Minh (1974), Những lời dạy của Bác Hồ đối với học sinh, Nxb 71.

ST, Hà Nội.

72. Hồ Chí Minh (1984), Thi đua yêu nước, Nxb Thanh Hoá

73. Hồ Chí Minh (1997), Về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nxb

CTQG, Hà Nội.

74. Một số tài liệu về Đại hội thi đua Ngành Giáo dục Thanh Hoá (1965-

1968).

75. Một số văn kiện của Trung ương Đảng và Chính phủ về công tác khoa

học giáo dục (1960-1965), (1969), Nxb ST, Hà Nội.

76. Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh

Thanh Hoá (1930-1980), Nxb Thanh Hoá.

77. Nắm vững đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng để nhận thức rõ

chứ năng, mục tiêu, phương thức giáo dục của nhà trường phổ thông ta

(1973).

78. Những bài nói và viết về giáo dục của Nguyễn Văn Huyên (1990), Nxb

GD, Hà Nội.

79. Võ Thuần Nho (chủ biên), (1980), 35 năm phát triển giáo dục phổ

thông, Nxb GD, Hà Nội.

80. Phủ Thủ tướng (1974), Chỉ thị về việc đẩy mạnh xây dựng các trường

học sinh miền Nam.

81. Phủ Thủ tướng (1972), Chỉ thị về việc chuyển hướng công tác giáo dục

trong tình hình mới.

82. Phủ Thủ tướng (1974), Quyết định về việc xây dựng các trường học

sinh miền Nam nội trú.

83. Phủ Thủ tướng (1967), Thông tư quy định tiêu chuẩn nhận học sinh

miền Nam vào các trường nội trú.

84. Phủ Thủ tướng (1967), Thông tư về việc tăng cường lãnh đạo công tác

giáo dục phổ thông trong tình hình chống Mỹ cứu nước.

85. Phủ Thủ tướng (1969), Văn bản về việc tiếp nhận và đào tạo học sinh

Lào.

86. Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá (1995), 50 năm phát triển Giáo

dục-Đào tạo Thanh Hoá, Sự kiện - thành tựu, Nxb Thanh Hoá, Thanh

Hoá.

87. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về công tác giáo dục trong thời gian

tới.

88. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1964), Chỉ thị về giáo dục trong tình hình và

nhiệm vụ mới.

89. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về lãnh đạo phát triển các trường

dân lập.

90. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về nhiệm vụ học tập.

91. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930 -

1954).

92. Nguyễn Khánh Toàn (1950), Những vấn đề về giáo dục.

93. Nguyễn Khánh Toàn (1966), Sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, thể

thao, Nxb Sự thật, Hà Nội.

94. Nguyễn Khánh Toàn (1991), Nền giáo dục Việt Nam, lý luận và thực

hành, Nxb GD, Hà Nội.

95. Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá (1967), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua

học tập, đuổi kịp, tiến vượt Hải Nhân (1964 - 1967).

96. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1957), Bản tổng kết niên khoá 1956 - 1957.

97. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1960), Báo cáo công tác của các trường vùng

Thiên Chúa giáo.

98. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1968), Báo cáo sơ kết tình hình giáo dục-đào

tạo tỉnh thực hiện kế hoạch 2 năm 1966 - 1968.

99. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo sơ kết tình hình giáo dục lao

động và tổ chức lao động trong sản xuất trong các nhà trường phổ

thông.

100. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1968), Báo cáo tội áo chiến tranh của đế quốc

Mỹ đối với các nhà trường trong tỉnh Thanh Hoá.

101. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Báo cáo tổng kết công tác đón tiếp học

sinh miền Nam.

102. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1961), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục

trong kế hoạch 3 năm 1958-1961.

103. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Báo cáo tổng kết năm 1958- 1959,

phương hướng, nhiệm vụ giáo dục năm học 1961 - 1962.

104. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Báo cáo tổng kết số lượng phổ thông

từng cấp của niên khoá 1958-1959.

105. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1965), Báo cáo tổng kết phong trào học tập

Bắc Lý (1964-1965)

106. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Báo cáo tổng kết về lớp huấn luyện

đào tạo giáo viên dân lập của Ty Giáo dục Thanh Hoá.

107. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1965), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển

giáo dục phổ thông năm học 1965 - 1966.

108. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện

chính sách dân tộc của Đảng.

109. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo về việc kiểm tra tình hình hai

trường phổ thông miền núi 3 và 4.

110. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị bổ sung Chỉ thị số 37 ngày 22-

1-1955 về khai giảng niên khoá 1955.

111. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1963), Chỉ thị kế hoạch thực hiện công tác

dồn lớp.

112. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị tái giảng học kỳ II-1955.

113. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị triệu tập hội nghị giáo dục

miền núi.

114. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Chỉ thị về những biện pháp đề cao chất

lượng.

115. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về việc đảm bảo sách giáo khoa

đủ dùng cho học sinh trong năm học 1974 - 1975 và 1975 - 1976.

116. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị về việc đề cao chất lượng phổ

thông.

117. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Chỉ thị về việc tăng cường giáo dục tư

tưởng chính trị trong nhà trường.

118. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Chỉ thị về vịêc tăng cường sẵn sàng

chiến đấu và phòng không nhân dân trong tình hình mới.

119. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Chương trình đào tạo giáo viên miền

núi của Ty Giáo dục Thanh Hoá.

120. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1954), Hướng dẫn chuyển giáo viên quốc lập

sang dân lập.

121. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1966), Kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi cấp

II phổ thông năm học 1966 - 1967.

122. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1957), Mấy vấn đề về trường lớp, giáo viên và

học sinh của trường dân lập.

123. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Thông báo tố cáo tội ác của đế quốc

Mỹ đánh phá trường học, giết hại giáo viên và học sinh Thanh Hoá

trong thời gian từ 27/4 - 14/6/1972.

124. Uỷ ban Dân tộc (1967), Thông tư hướng dẫn về việc thu nhận học sinh

miền Nam vào trường nội trú.

125. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Báo cáo sơ kết tình hình 4 năm thực

hiện cuộc vận động Thi đua Hai tốt, học tập và làm theo các điển hình

tiên tiến trong ngành Giáo dục (1971 - 1975).

126. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1960), Báo cáo tổng kết tình hình và phương

hướng, mục tiêu phát triển giáo dục miền núi Thanh Hoá.

127. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1968), Báo cáo tổng kết kế hoạch đón tiếp các

cháu học sinh miền trong ra sơ tán.

128. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Báo cáo về vấn đề kết hợp công tác

chuyển kinh phí với việc Đề cao chất lượng phổ thông.

129. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1967), Chỉ thị về chăm sóc bồi dưỡng đào tạo

con em liệt sĩ.

130. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1972), Chỉ thị về công tác giáo dục trong năm

học 1972 - 1973.

131. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1966), Chỉ thị về việc khai giảng năm học 1966

- 1967.

132. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về xây dựng tu bổ trường học

133. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về tăng cường công tác giáo dục

134. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo

công tác giáo dục trong thời gian cuối năm học 1973 - 1974 và chuẩn

bị năm học 1974 - 1975.

135. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về việc thực hiện các chính sách

của Đảng và Chính phủ đối với sự nghiệp giáo dục ở miền núi.

136. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về xây dựng trường sở thuộc

ngành Giáo dục.

137. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về việc xây dựng, tu bổ trường

sở, dụng cụ cho các trường phổ thông trong năm 1957.

138. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1959), Chương trình đào tạo giáo viên dân lập

139. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Dư địa chí Thanh Hoá, Nxb Văn hoá-

Thông tin.

140. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1966), Kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục

phổ thông năm học 1965 - 1966.

141. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Nghị quyết của UBHC tỉnh Thanh Hoá

về việc xây dựng trường sở thuộc ngành giáo dục trong 2 năm 1974 -

1975.

142. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1965), Phương hướng giáo dục cấp I năm học

1965 - 1966.

143. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1961), Phương hướng phát triển giáo dục phổ

thông trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

144. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định cấp phát trang phục mùa hè

năm 1958 cho học sinh miền Nam.

145. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định của UBHC tỉnh về chế độ

chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng cao và vùng xa xôi hẻo lánh

miền núi Thanh Hoá.

146. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Quyết định của UBHC tỉnh về việc giao

nhiệm vụ xây dựng và quy định một số chế độ tạm thời quản lý xây

dựng trường học sinh miền Nam từ Trung Quốc chuyển về (chương

trình T.74).

147. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định của UBHC tỉnh về việc

thành lập ký túc xã cho học sinh các trường phổ thông cấp III ở miền

núi.

148. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Quyết định của UBHC tỉnh về việc mở

lớp 8 ở các trường cấp III thuộc các huyện miền núi.

149. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Quyết Nghị thành lập Trường Phổ

thông cấp I Thống Nhất I.

150. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Quyết Nghị thành lập Trường Phổ

thông cấp I Thống Nhất II.

151. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Tình hình giáo dục miền núi trong

những năm qua và phương hướng nhiệm vụ trong hai năm 1974 - 1975.

152. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Về chế độ thu học phí và chế độ miễn

giảm cho các trường miền núi

153. UBKCHC Liên khu IV (1954), Văn bản về việc đón tiép học sinh Trị

Thiên.

154. Uỷ ban Liên lạc Kinh tế với nước ngoài (1972), Văn bản về việc chỉ đạo

quản lý nuôi dưỡng học sinh Lào.

155. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Thanh Hoá - Thiên nhiên - Xã hội -

Con người thư mục tổng quát, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hoá.

156. Văn kiện Đại hội thi đua “Hai tốt” chống Mỹ cứu nước ngành Giáo

dục (1967), Nxb GD, Hà Nội.

157. Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp ở Liên khu IV (1945-1954), Hà Nội.

PHỤ LỤC

PHụ lục 1

Các trường dân lập đầu tiên chính thức được Ty Giáo dục cấp giấy phép cho

hoạt động.

TT

Tên trường

Tên xã

Huyện

Số lớp

Như Xuân

Như Xuân

1 lớp 5

1

Thành Kim

Thành Kim

Thạch Thành

5 lớp: 1, 2, 3, 4, 5

2

Đông Anh

Đông Anh

Đông Sơn

3 lớp: 1, 2, 3

3

Đông Yên

Đông Yên

Đông Sơn

1 lớp 1

4

Thị Trân

4 lớp: 1, 2, 3, 4

Thị Trân

5

Dân Quyền

Dân Quyền

Nông Cống

3 lớp: 1, 2, 3

6

Dân Lý

Nông Cống

3 lớp: 1, 2, 3

Dân Lý

7

Dân Lực

Nông Cống

3 lớp: 1, 2, 3

Dân Lực

8

Thang Bình

Thang Bình

Nông Cống

4 lớp: 2 lớp 1, 2 lớp 3

9

10 Quảng Châu

Quảng Châu

Quảng Xương

4 lớp: 1, 2, 3, 4

11 Quảng Lộc

Quảng Lộc

Quảng Xương

3 lớp: 2 lớp 1; 1 lớp 2

Nguồn: {47, tr. 32}

Phụ lục 2

Tổng hợp tình hình lớp, học sinh các cấp I, II, III cuối năm 1958 - 1989

Quốc lập

Dân lập

Tư thục

Tổng cộng

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Lớp

Lớp

Lớp

Lớp

T. số

Nữ

T. số

Nữ

T. số

Nữ

T. số

Nữ

Cấp I

263

Lớp 1

12.884

5.256

392

20.757

8.409

655

33.641

13.665

446

Lớp 2

18.656

6.984

3.717

1.317

82

528

22.373

8.301

440

Lớp 3

15.978

5.984

475

153

11

451

16.453

6.137

367

Lớp 4

10.987

2.883

193

52

5

372

11.180

2.935

1+2 ghép

14

0

14

3+4

Cộng

1.530

58.505

21.107

490

25.142

9.931

2.020

83.647

31.038

Cấp II

44

Lớp 5

2.154

389

19

1.004

204

63

3.158

593

44

Lớp 6

1.807

251

18

802

130

62

2.609

381

43

Lớp 7

1.669

232

8

377

44

51

2.046

276

131

Cộng

5.630

872

45

2.183

378

7.813

1.250

Cấp III

6

Lớp 8

274

24

2

8

363

33

89

9

6

Lớp 9

284

14

1

7

342

22

58

8

5

Lớp 10

261

13

5

261

13

Cộng

17

819

51

3

68

147

17

20

Nguồn: {104, tr.12}.

Phụ lục 3

Thống kê tình hình trường lớp, giáo viên sau công tác chuyển hướng phát

triển giáo dục:

Tên Huyện

Số trường

Số GV

Số trường

Số GV

Số trường

Số GV

Số

Số

Quốc lập

Quốc lập

chuyển

chuyển

quốc lập còn

còn lại

trường

trường

lại

mới mở

đã cho

trước chuyển

trước

hoá

chuyển

mở

vào

hoá

trong

HKII

C.I

C. II

C.I

C.II

C.I

C.II

HK I

11

Nông Cống

36

4

142

15

21

4

82

60

4

Quảng Xương

45

4

157

11

34

4

121

36

2

7

Tĩnh Gia

33

2

113

14

19

2

68

47

1

9

Nga Sơn

18

2

67

4

14

2

53

14

3

Hậu Lộc

20

2

67

8

12

2

49

18

2

Hà Trung

24

2

77

11

93

2

43

34

1

Cẩm Thuỷ

12

1

32

2

10

1

26

6

7

Thạch Thành

12

2

40

2

10

2

33

7

1

1

Thọ Xuân

54

4

189

27

27

4

97

92

25

Thiệu Hoá

26

3

109

8

18

3

82

27

5

Yên Định

24

3

86

9

25

3

61

25

5

Đông Sơn

21

3

94

7

1

14

2

57

35

10

2

Vĩnh Lộc

20

2

66

23

13

2

51

15

1

Hoằng Hoá

53

4

170

16

37

4

105

65

7

...

0

1

4

0

0

1

4

0

Cbộ vỡ lòng

21

21

Cbộ phục vụ

7

7

công tác khác

Tổng

10

398

39

1441

141

1

482

257

38

959

94

Tổng

437

142

295

Nguồn: {86, tr.21}

Phụ lục 4

Tình hình học sinh phổ thông cuối năm 1962 - 1963 của tỉnh Thanh Hoá

Năm học

Thực hiện

Tỷ lệ thực hiện

1961 - 1962

Kế

Tổng số

Nữ

So với

So với kế

hoạch

năm trứoc

hoạch

Tổng số HS PT 223.596

253.884

240.614

104.369

107,61

94,77

193.356

211.880

200.869

90.025

103,78

94,80

Cấp I

Lớp 1

53.899

55.475

24.982

52.497

Lớp 2

53.930

52.992

24.026

50.699

Lớp 3

55.660

54.244

21.653

51.679

Lớp 4

30.047

49.169

19.364

45.994

Cấp II

38.922

36.798

13.210

132,37

94,51

27.791

Lớp 5

14.300

16.736

6.049

15.800

Lớp 6

7.774

14.280

4.852

13.563

Lớp 7

5.717

7.906

2.309

7.435

Cấp III

2.269

3.082

2.957

1.134

130,32

95,94

Lớp 8

1.164

1.526

216

1.448

Lớp 9

603

1.058

877

1.016

Lớp 10

502

498

41

493

Nguồn: {50, tr.9}

Phụ lục 5

Tình hình trường, lớp cuối năm 1962 - 1963

Năm

Kế

Thực hiện

Tỷ lệ %

1961 - 1962

hoạch

T. phố N. thôn Cộng Với năm trước So với KH

Tổng số trường 685

117,63

96,70

10

691

726

701

6

587

618

593

592

Cấp I

3

97

100

100

85

Cấp II

8

8

8

Cấp III

5.771

5.297 105,68

91,78

5.012

Tổng số lớp

4.992

4.518 102,21

90,50

4.420

Cấp I

1.374

1.183

1.270

Lớp 1

1.212

1.121

1.209

Lớp 2

1.220

1.144

1.214

Lớp 3

1.186

1.070

727

Lớp 4

717

717

131,80

100

544

Cấp II

301

301

265

Lớp 5

265

265

151

Lớp 6

151

151

128

Lớp 7

62

62

129,16

100

48

Cấp III

28

28

23

Lớp 8

23

23

14

Lớp 9

11

11

11

Lớp 10

Nguồn: {49, tr.13}.

Phụ lục 6

Tổng hợp tình hình thi tốt nghiệp phổ thông niên khoá 1962-1963

HS tốt

Kế

HS

HS

Tỷ lệ tốt nghiệp

nghiệp năm

hoạch

dự thi

tốt

So với

So với

So với

1961 - 1962

nghiệp

năm

kế

tỷ lệ dự

trước

hoạch

thi

Tổng cộng

28.088

52.389 50.658 43.773 155,84% 83,55%

3 cấp

23.866

45.817 42.975 37.674 157,85% 82,22%

87%

Cấp I

Trong đó nữ

8.704

18.003 15.451

6.132

7.160

5.797 148,64% 94,53%

81%

3.900

Cấp II

Trong đó nữ

816

2.319

1.770

322

440

523

302

93,78% 68,63%

57%

Cấp III

Trong đó nữ

20

41

15

Nguồn: {50, tr.16}

PHụ lục 7

Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển giáo viên phổ thông năm 1962-1963.

Năm

1961 - 1962

Kế

Thực hiện

Tỷ lệ

(người)

hoạch

Tổng

Nữ

So với

So với

số

1961 - 1962

kế hoạch

745

117,18%

99,11%

Giáo viên dạy phổ

5.364

6.342

5.886

thông

Giáo viên cấp I

4.477

4.560

587

110,78%

98,81%

5.020

Giáo viên cấp II

720

1.115

149

154,86%

104,20%

1.071

Khoa học xã hội

521

Khoa học tự nhiên

594

114

Giáo viên cấp III

74

112

9

154,0%

101,78%

Khoa học xã hội

52

Khoa học tự nhiên

62

104,30%

69,78%

Giáo viên khác

93

139

97

Chính trị

37

75

42

Ngoại ngữ

11

17

14

TTTD

45

47

41

Nguồn: {49, tr.11}

Phụ lục 8

Tình hình phát triển giáo dục phổ thông cấp I năm học 1965 - 1966

Cấp I

Cấp II

Cấp III

TT

Huyện

Trườn

Lớp

Trường Lớp

Lớp HS tuyển

Học

Học

g

vào lớp 8

sinh

sinh

231 198 186 386 197 252 381

10419 9512 9770 19017 10652 13453 18821

24 25 26 47 24 31 46

3705 2967 3396 8062 4133 4068 7274

66 55 61 149 71 74 140

16 14 17 35 15 19 36

6 6 6 13 8 6 12

165 165 165 385 220 165 330

1 2 3 4 5 6 7

9 245 307 266 280 141 230

4 100 123 86 104 63 90

8 9 12 8 7 6 6

165 220 330 220 220 110 220

505 13575 16516 14101 15238 7847 12063 3.309 171.489

1 31 37 30 33 15 29 398

211 5710 6868 4459 5480 3645 5040 1.186 65.018

1 25 27 18 24 12 16 275

Đông Sơn Hà Trung Hậu Lộc Hoằng Hoá Nga Sơn Nông Cống Quảng Xương 8 Sầm Sơn Thị xã 9 10 Thiệu Hoá 11 Thọ Xuân 12 Tĩnh Gia 13 Triệu Sơn 14 Vĩnh Lộc 15 Yên Định Miền xuôi

156 130 94 181 154 181 153

4790 5491 2453 4859 5100 4433 6246

26 23 17 27 22 25 26

16 34 8 23 22 9 38

892 245 1735

4 7 2 3 6 3 10

6 4 3

110 110 110

16 Bá Thước 17 Cẩm Thuỷ 18 Lang Chánh 19 Như Xuân 20 Ngọc Lặc 21 Quan Hoá 22 Thạch Thành

138

5078

26

28

993

11

1

50

23 Thường

Xuân

40

192

1.187

38.450

178

7.172

Miền núi

590

4.495 209.939

315

1364 72.190

127

3.450

Tổng

Nguồn: {107, tr.5-7}

Phụ lục 9

Tình hình phát triển trường lớp phổ thông tại các huyện miền núi qua các

năm học:

Cấp học

Số lượng

1960-1961

1964-1965

1970-1970

1973-1974

Trường

122

187

180

176

Lớp

356

954

2.153

2.487

Cấp I

Tổng Học sinh

13.656

26.177

52.754

70.438

HS dân tộc

9.950

12.487

23.172

38.424

Trường

6

47

118

126

Lớp

19

120

454

608

Cấp II

Tổng Học sinh

898

4.832

12.885

20.348

HS dân tộc

294

1.802

6.177

9.585

Trường

3

6

6

Lớp

9

38

51

Cấp III

Tổng Học sinh

392

1.934

971

HS dân tộc

192

422

309

Nguồn: {126, tr.21}

(Đơn vị tính: %)

Tỷ lệ Trường, lớp, học sinh năm 1965 so với năm 1960 và năm 1971 so với

1964:

Năm

Cấp I

Cấp II

Cấp III

Trườn

Lớp

HS

Trườn

Lớp

HS

Trường Lớp

HS

g

g

Tỷ lệ năm 65

153,5

267,9

191,9

783,9

631,5

538

so với năm 60

Tỷ lệ năm 71

96,2

226,6

201,4

251,1

378,3

266,6

200

422,2 490,8

so với năm 65

Nguồn: {126, tr.21}

Phụ lục 10

Thống kê số lượng trường lớp, học sinh các cấp qua các năm học:

Số

Số

Học sinh

Học sinh

Học sinh

Số cán

Năm học

trường

học sinh

cấp I

cấp II

cấp III

bộ GV

1945-1946 183

13.339

13.235

104

0

210

1954-1955 544

67.129

56.725

9.689

715

1.615

1964-1965 826

243.758

180.094

59.271

4.393

6.955

1974-1975 1.804

326.905

323.222

178.146

25.557

18.374

Nguồn: {86, tr.157}

Phụ lục 11

Thống kê số lượng giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số các năm học:

1959 - 1960

1964 - 1965

1970 - 1971

Dân tộc

Cấp I Cấp II Cấp III Cấp I Cấp II Cấp III Cấp I Cấp II Cấp III

Mường

81

9

132

24

2

312

210

9

Thái

30

3

39

13

52

32

2

Thổ

4

5

7

38

19

2

Mọi

26

8

Mèo

9

0

Tổng

115

12

176

44

2

437

269

13

Nguồn: {108, tr.32}

Phụ lục 12

Thống kế tình hình ra vào trường của học sinh Lào tại trường miền núi số 3

Ngày nhận Ngày giao

Số lượng vào

Số lượng ra

9/6/70 7/7/72 9/72 9/72 10/72 3/11/72

Tổng số Riêng Nữ Tổng số Riêng Nữ 91 112 99 39 44 73 35 222 58 67 90 21 8 33 3 10 1 91 4 1 1 69 33 192 1 6 302 1.102

36 61 47 15 13 9 18 71 24 23 22 11 0 18 1 7 0 36 3 1 428

0 22 27 100 0 3 152

1/12/69 24/12/69 6/2/70 12/3/70 27/4/70 5/5/70 20/5/70 29/5/70 23/6/70 5/7/70 27/7/70 28/7/70 7/8/70 29/8/70 18/10/70 18/11/70 4/8/71 16/8/71 23/8/71 20/11/72

Nguồn: {109, tr.16}

Phụ lục 13

UBKCHC Liên khu IV Việt Nam dân chủ cộng hoà

Ban Thư ký văn xã Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Trích yếu

Số 718-TK/VX

V/v chuyển hướng lớp

Quốc lập sang dân lập Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hành chính LK4

Liên khu 4, ngày 28 tháng 4 năm 1954

Kính gửi các ông Chủ tịch UBKCHC

các tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh và Quảng Bình

I. Tiếp theo Chỉ thị số 600-VX ngày ắ của Uỷ ban Liên khu và theo chủ

trương mới của Bộ Giáo dục thì việc dân lập hoá một số trường quốc lập sẽ chỉ đạt

trong phạm vi các trường cấp I, còn các Trường cấp II, cấp III vẫn giữ nguyên ở

quốc lập. Vậy đối với các Trường quốc lập II, III các uỷ ban chỉ cần đặt vấn đề

phân phối, sắp xếp sao cho thuận tiện được cho đại đa số con em nhân dân lao

động. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển trường lớp này, việc học tập để thấm

nhuần chủ trương chuyển trường lớp vẫn cần tiến hành cho cả các giáo viên và học

sinh cấp II, III.

Còn đối với cấp I, chủ trương của Bộ là dân lập hoá tất cả, song xét tình hình

chính trị của Liên khu 4 cũng như theo khả năng quỹ địa phương của các tỉnh, Khu

chủ trương trong năm nay chỉ chuyển một số và số trường và các giáo viên cấp I

còn giữ lại quốc lập số nằm trong phạm vi Ngân sách địa phương đã phân phối cho

các tỉnh trong hội nghị Tài chính Liên khu đầu tháng 4 vừa qua.

II. Về việc chỉ đạo riêng việc chuyển trường lớp, để rút kinh nghiệm trước

cho các tỉnh thì sau hội nghị Tài chính vừa qua, số kinh phí dành cho Nghệ An có

tăng lên do có việc chuyển trường lớp sẽ rất ít nên việc chỉ đạo này sẽ không đem

lại nhiều kinh nghiệm, Một mặt về thời gian gấp rút nên Khu chủ trương không chỉ

đạo riêng trước ở Nghệ An mà vẫn để các tỉnh cứ xúc tiến ngay việc chuyển trường

lớp theo đúng lịch đã vạch kèm theo chỉ thị số 600-VX ngày 3/4/1954 của Khu.

Như vậy tỉnh nào cũng cần chỉ đạo riêng để rút kinh nghiệm áp dụng trong phạm vi

tỉnh mình.

Uỷ ban Khu đã uỷ cho Khu giáo dục và cử cán bộ vào góp ý kiến xây dựng

kế hoạch cho Quảng Bình cũng như cử cán bộ đến trực tiếp giúp đỡ tỉnh Thanh

Hoá và Hà Tĩnh trong thời gian chỉ đạo riêng của các tỉnh.

Uỷ ban khu cần nhắc lại các tỉnh là việc chuyển trường lớp này rất quan

trọng, có ảnh hưởng lớn về phương diện chính trị nên các uỷ ban có trách nhiệm

trực tiếp lãnh đạo sát sao công việc tiến hành cũng như đặt vấn đề quan trọng đúng

mức đối với các Uỷ ban Huyện, xã, phải luôn đề cao cảnh giác, không để mở kẽ hở

nào cho địch có thể lợi dụng phản lại tuyên truyền của ta.

Sao kính gửi:

- Bộ Giáo dục để tường trình

- Khu Giáo dục để biết

K.T Chủ tịch UBKCHC Liên khu IV

Phụ lục 14

UBHC Thanh Hoá Việt nam dân chủ cộng hoà

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số 1362-TKVX

Thanh Hoá ngày 24 tháng 8 năm 1962

Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá

- Chiếu Sắc lệnh số 63/SL ngày 22 tháng 11 năm 1945 và các văn bản kế tiếp

ấn định nguyên tắc tổ chức chính quyền dân chủ nhân dân

- Căn cứ kế hoạch phát triển trường lớp trong niên khoá 1962 – 1963

- Xét đề nghị của ông Ty - Trưởng Ty Giáo dục Thanh Hoá

Nay Quyết định

Điều 1: Thành lập những trường phổ thông quốc lập, dân lập cấp 2, trường

phổ thông có học nghề có tên dưới đây bắt đầu từ niên khoá 1962 - 1963:

1. Huyện Thọ Xuân

Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Xuân Vinh gồm: 2 lớp 5; 3 lớp 6

Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Thọ Nguyên gồm: 3 lớp 5; 3 lớp 6

Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Xuân Thọ gồm: 2 lớp 5; 2 lớp 6

2. Huyện Yên Định

Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Định Công gồm 2 lớp 5 và 2 lớp 6

Trường Phổ thông nông nghiệp Định Hoà gồm 2 lớp 5 thứ nhất; 2 lớp 5 thứ

hai.

3. Huyện Thiệu Hoá

Chuyển Trường Phổ thông dân lập cấp II Thiệu Lý thành trường cấp II

Thiệu Đô gồm 3 lớp 5; 3 lóp 6; 1 lớp 7

Trường Phổ thông cấp II dân lập Thiệu Thịnh gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6

Trường Phổ thông dân lập cấp II Thiệu Vũ gồm 3 lớp 5 và 2 lớp 6

4. Huyện Hà Trung

Chuyển Trường Phổ thông dân lập cấp II Hà Tiên thành Trường Dân lập cấp

II Hà Giang gồm 4 lớp 5 và 3 lớp 6; 2 lớp 7.

5. Huyện Nga Sơn

Trường Phổ thông dân lập cấp II Nga Văn gồm 3 lớp 5, 2 lớp 6, 1 lớp 7

6. Huyện Đông Sơn

Trường Phổ thông dân lập cấp II Đông Khê gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6

7. Huyện Tĩnh Gia

Trường Phổ thông dân lập cấp II Hải Lĩnh gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6

Trường Phổ thông cấp II Thành Sơn gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6 và 1 lớp 7

8. Huyện Nông Cống

Trường Phổ thông dân lập cấp II Nông Trường gồm 3 lớp 5 và 1 lớp 6

9. Huyện Hoằng Hoá

Trường Phổ thông dân lập cấp II Hoàng Xuân gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6

Trường phổ thông dân lập cấp II Hoàng Đạt gồm 4 lớp 5; 3 lớp 6 và 1 lớp 7

Trường Phổ thông dân lập cấp II Hoàng Phụ gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6

Chuyển trường phổ thông cấp II Hoàng Hoá thành trường quốc lập cấp II

Hoàng Vĩnh gồm 3 lớp 5; 3 lớp 6, 2 lớp 7.

Trường Phổ thông công nghiệp Hoàng Đại gồm 2 lớp 5 thứ nhất và 2 lớp 5

thứ hai.

Trường Phổ thông nông nghiệp Hoàng... gồm 2 lớp 5 thứ nhất

10. Huyện Quảng Xương

Trường Phổ thông Dân lập cấp II Quảng Thịnh gồm 3 lóp 5, 1 lớp 6

Trường Phổ thông Ngư nghiệp Quảng Hùng gồm 2 lớp 5 thứ nhất

11. Huyện Thạch Thành

Trường Phổ thông quốc lập cấp II Thạch Cẩm gồm 2 lớp 5

12. Huyện Như Xuân

Trường Phổ thông nông lâm nghiệp Mậu Lâm gồm 2 lớp 5 thứ nhất

13. Huyện Quan Hoá

Trường Phổ thông quốc lập cấp I, II Quan Hoá gồm 1 lớp 5

14. Huyện Ngọc Lặc

Trường Phổ thông nông lâm nghiệp Đô Lương gồm 2 lớp 5 thứ nhất

Điều 2: Nay giải thể trường cấp II dân lập Phan Đình Giót, chuyển học sinh qua

học tại các trường cấp II thị xã khác vì thiếu trường sở cần thiết.

Điều 3. Các trường cấp II phổ thông và phổ thông có học nghề kể trên đều thuộc

hệ thống các trường cấp II trong tỉnh và thuộc quyền quản lý của Ty Giáo dục

Thanh Hoá và UBHC các huyện kể trên.

Điều 4. Ông Chánh Văn phòng UBHC tỉnh, Ông Ty-Trưởng Ty Giáo dục Thanh

Hoá, ông Ty trưởng Ty Tài chính, ôg Chủ tịch UBHC các huyện và thị xã chiếu

quyết định thi hành.

Nơi nhận:

Thanh Hoá ngày 27 tháng 8 năm 1962

Uỷ viên

- Ty Giáo dục, Tài chính - UBHC các huyện để thi hành

Đã ký

- Văn phòng lưu

K/T Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá

Đỗ Văn Kiệm

Phụ lục 15

UBHC Tỉnh Thanh Hoá Việt nam dân chủ cộng hoà

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số 291 VG/UBTH Thanh Hoá, ngày 24 tháng 3 năm 1975

Quyết định của Uỷ ban hành chính tỉnh

Về chế độ chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng cao và

vùng xa xôi hẻo lánh miền núi ThanhHoá

Công tác giáo dục giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của

các dân tộc ở miền núi.

Từ trước tới nay, để tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục miền núi phát triển

không ngừng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 75/TTg/VG ngày 20/6/1965

ban hành chế độ cấp áo cho giáo viên công tác ở vùng cao; chỉ thị số 20/TTg/VG

ngày 10-3-1969.

Về công tác giáo dục ở miền núi: Thường vụ Hội đồng Chính phủ ra Nghị

quyết số 109/CP ngày 19/6/1973 về một số chsnh sách cụ thể đối với đồng bào các

dân tộc và cán bộ vùng cao; Liên Bộ Giáo dục – Tài chính có Thông tư số 18/TT-

LB ngày 26/8/1966 về chế độ cấp không sách giáo khoa cho học sinh vùng cao,

theo thông tư số 30/TT-LB ngày 28/81974 hướng dẫn thi hành chế độ chỉ tiêu cho

sự nghiệp giáo dục ở miền núi.

Để thực hiện cá chỉ thị nghị quyết của Chính phủ và các thông tư liên bộ nói

trên, UBHC tỉnh sẽ nghiên cứu để có các quyết định về chế độ chỉ tiêu cho sự

nghiệp giáo dục ở miền núi nói chung, riêng đối với vùng cao và vùng xa xôi hẻo

lánh, UBHC tỉnh quyết định như sau:

1. Về các xã được công nhận vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh

Trong khi chờ đợi quyết định mới của Chính phủ về việc công nhận các xã

vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh mà UBHC tỉnh đã đề nghị, thì vẫn tiếp tục thực

hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Chính phủ đối với vùng cao ở 18 xã đã

được Chính phủ công nhận sau đây:

Phù Nhì, Tam Chung, Quang Chiểu, Trung Lý, Trung Sơn, Trung Thanh,

Tam Lư, Sơn Lư, Sơn Điện, Sơn Thuỷ (Quan Hoá), Lâm Phú, Yên Khương (Lang

Chánh), Bát Mọt, Xuân Liên, Xuân Lệ, Xuân Chính (Thường Xuân), Thành Sơn

(Bá Thước), Xuân Thái (Như Xuân).

2. Về việc mở các hệ thống trường lớp và chế độ đối với trường nội trú, học

sinh nội trú vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh

a. Tất cả các lớp vỡ lòng đều được giao cho trường phổ thông cấp I quản lý

và giáo viên trong biên chế Nhà nước giảng dạy.

b. ở mỗi chòm hoặc liên chòm gần nhau được mở các lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp

2 phổ thông không có nội trú. ở mỗi xã, được tổ chức nội trú cho các trường phổ

thông cấp I, cấp II để thu nhận học sinh từ lớp 3 trở lên mà nhà ở xa trường phải ăn

ở lại trường mới học được.

c. Trường phổ thông nội trú được cấp:

- Tiền tập thể phí tính theo đầu học sinh ở nội trú 0,50đ một tháng học để

mua dầu đèn, sắm dụng cụ văn nghệ, thể dục thể thao.

- Tiền mua dụng cụ nấu ăn và chia thức ăn theo tiêu chuẩn 5 đồng một người

thực tế có ăn ở trường, năm sau cấp bổ sung để mua bù các thứ đã hư hỏng.

- Tiền thuê cấp dưỡng để phục vụ cho cán bộ, giáo viên và học sinh thực tế

có ăn ở trường (tỷ lệ cấp dưỡng phục vụ theo thông tư số 14/TTg/TN ngày

8/2/1969 của Thủ tướng Chính phủ).

- Kinh phí mua loa truyền thanh và chi phí thường xuyên: nếu trường ở xa

hệ thống truyền thanh thì được cấp một đài bán dẫn có thêm loa và được tiền mua

pin hàng tháng.

- Hàng năm nhà trường được tổ chức cho học sinh đi thăm quan cơ sở kinh

tế, văn hoá, di tích lịch sử và được cấp tiền tàu xe.

d. Học sinh ở nội trú hoặc nửa nội trú được cấp:

- Tiền vệ sinh phí 0,50đ một tháng cho học sinh gái đã đến tuổi trưởng

thành.

- Một chiếc chiếu dùng trong 1 năm

- Những con gia đình có khó khăn thì được mượn chăn, áo rét trong những

tháng học.

- Những học sinh học ở các trường nội trú, nếu gia đình có khó khăn về

lương thực, thu nhập thấp, bình quân nhân khẩu dưới 13 kg lương thực quy thóc

đối với học sinh cấp I, 15kg gạo đối với học sinh cấp II, cấp III.

e. Chế độ học phẩm và học bổng

- Học sinh được cấp tiền học phẩn 0,70đ một tháng đối với cấp I, 1 đồng một

tháng đối với cấp II và cấp III.

- Đối với học sinh cấp I, ngoài con liệt sĩ được cấp học bổng, cứ 10 em học

sinh được cấp 1 xuất học bổng, mỗi xuất một tháng học, để xét cấp cho những học

sinh gia đình có khó khăn. Đối với học sinh cấp II, cấp III thì mỗi học sinh được

cấp 9đ trong một tháng học. Những học sinh (kể cả cấp I, cấp II, cấp III) ở nội trú,

gia đình có nhiều khó khăn, có xã chứng thực thì được cấp học bổng loại đặc biệt

18 đồng một tháng học.

g. Học sinh vỡ lòng, phổ thông, bổ túc văn hoá được cấp sách giáo khoa để

học tập, theo đúng thông tư số 18/TT-LB ngày 26/8/1966 của Liên bộ Giáo dục-

Tài chính.

h. Học sinh ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh phải xuống vùng thấp học, vì ở

nhà không có trường và phải ăn ở tại trường cũng được hưởng mọi chế độ như học

sinh học ở các trường vùng cao có ký túc xá.

3. Về chế độ đối với cán bộ, giáo viên công tác ỏ vung cao, vùng xa xôi hẻo

lánh

a. Bồi dưỡng chính trị, văn hoá, nghiệp vụ: Cán bộ, giáo viên được tổ chức

học tập chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ, ưu tiên, xét chọn đi học các

trường của Đảng và Chính phủ, ưu tiên xét chọn đi học các trường trung cấp, đại

học, ưu tiên cấp phát tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn giảng dạy. Mỗi trường

phổ thông, bổ túc văn hoá được cấp kinh phí mua báo Nhân dân, báo Thanh Hoá,

báo Người giáo viên nhân dân, tạp chí Nghiên cứu giáo dục, chuyên san cấp học,

ngành học.

b. Lao động tiền lương: việc phân bổ tỉ lệ nâng bậc lương thường xuyên

hàng năm cho các huyện và các trường vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh phải cao

hơn các nơi khác. Giáo viên dạy các trường phổ thông có nội trú và ăn ở tập thể

trong trường, ngoài giờ dạy con chính thức nhận nhiệm vụ quản lý học sinh nội trú

thì được phụ cấp bằng 5% lương chính. Giáo viên dạy kiêm lớp được tính toán như

sau: Nếu ghép 2 lớp được hưởng 5đ, ghép 3 lớp được hưởng 10đ và kiêm cả vỡ

lòng, bổ túc văn hoá, phổ thông thì được hưởng 15đ một tháng.

c. Phương tiện sinh hoạt:

- Việc cấp áo bông, chăn bông cho giáo viên công tác ở vùng cao theo chỉ thị

số 73/TTg/VG và chỉ thị số 20/TTg/VG của Thủ tướng chính phủ phải được kịp

thời và thường xuyên hàng năm.

- Giáo viên được mua gạo trước hoặc sau 3 tháng và nếu cách vùng khoảng

5km trở lên, cửa hàng lương thực nơi đó phải trả tiền cước vận chuyển.

- Nếu số giáo viên cần ăn ở tập thể mà không đủ tiêu chuẩn để thuê một cấp

dưỡng và cũng không có điều kiện tổ chức ăn ghép với cơ quan khác thì được cấp

tiền cấp dưỡng phí từ 2đ80 đến 3đ một tháng để tự tổ chức nấu ăn (thông tư số

28/TTg-LB ngày 9/9/1970 của Liên bộ Nội thương-Tài chính).

- Cán bộ, giáo viên thường xuyên công tác ở vùng cao được cấp tiêu chuẩn

lương thực cho mỗi người 21 kg một tháng kể cả ăn sáng. (Nghị quyết số 109/CP

ngày 19/6/1973 của Hội đồng Chính phủ).

d. Khám và chữa bệnh

- Giáo viên ở xã bệnh viện huyện từ một buổi đường trở lên, khi đau ốm,

được điều trị ở trạm y tế xã hoặc ở cơ sở y tế cơ quan, đơn vị gần nhất từ 1-10

ngày, sau thời gian đó nếu chưa khỏi thì chuyển về bệnh viện huyện. Tiền thuốc và

tiền bồi dưỡng được thanh toán như điều trị ở bệnh viện huyện nhưng giáo viên

phải xuất trước sau mới được thanh toán lại. Trường hợp phải thuê người cáng đi

trạm xá hoặc bệnh viện thì được thanh toán tiền thuê.

- Trước khi chuyển vùng, giáo viên nào ốm đau bệnh tật, được kiểm tra sức

khoẻ toàn diện ở bệnh viện huyện và tuỳ tình hình sức khoẻ của giáo viên, y bác sĩ

hướng dẫn điều trị nội trú, ngoại trú hoặc cho đi điều dưỡng.

Trên đây là các chế độ chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng núi cao, vùng

xa xôi hẻo lánh. Các cấp, các ngành chịu trách nhiệm thi hành quyết định này để

K/T Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá

Phó Chủ tịch

Đã kỳ

tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục miền núi phát triển.

Trịnh Ngọc Bích