ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI, 2008
Mục lục
Trang
Mở đầu
3
8 Chương 1 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT từ
năm 1954 đến 1960
1.1. Vài nét về GDPT Thanh Hoá trước năm 1954 8
1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT 15
của Đảng bộ Thanh Hoá
1.3. Quá trình tổ chức thực hiện 22
35 Chương 2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT trong
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965)
2.1. Chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh 35
Hoá
2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện 41
55 Chương 3 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển
GDPT từ năm 1965 đến 1975
3.1. Chủ trương chuyển hướng phát triển GDPT thời 55
chiến của Đảng
Kết luận
3.2. Quá trình tổ chức thực hiện 64
Tài liệu tham khảo
84
Phụ lục
90
103
BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BCH: Ban chấp hành
Giáo dục phổ thông GDPT:
HTX: Hợp tác xã
HĐND: Hội đồng nhân dân
LLSX: Lực lượng sản xuất
Nxb: Nhà xuất bản
NVQS: Nghĩa vụ quân sự
QHSX: Quan hệ sản xuất
PCGD: Phổ cập giáo dục
UBHC: Uỷ ban hành chính
UBHCKC: Uỷ ban hành chính kháng chiến
VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng có một vai trò vô
cùng quan trọng đối với việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Đảng ta đã xác định giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nhân
tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội vì một Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ, trong những năm gần
đây, giáo dục Thanh Hoá đã dành được nhiều thành tựu to lớn góp phần đổi mới sự
nghiệp giáo dục-đào tạo và phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Cơ sở nền tảng của những thành tựu giáo dục đó là truyền thống hiếu học từ
ngàn xưa trên mảnh đất này được Đảng bộ Thanh Hoá phát huy cao độ trong mỗi
thời kỳ cách mạng, đóng góp vào sự nghiệp giáo dục đào tạo con người mới.
Vì vậy, nhìn lại những chủ trương, quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển
giáo dục của Đảng bộ Thanh Hoá ở địa phương trong 20 năm đầu xây dựng miền
Bắc (1954-1975) là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần vào
việc nghiên cứu lịch sử phát triển giáo dục Thanh Hoá, rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu cho quá trình phát triển nền giáo dục Thanh Hoá hiện nay.
Từ nhận thức đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông thời kỳ 1954-1975” làm luận văn thạc sĩ sử học
chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giáo dục-đào tạo nói chung và GDPT nói riêng đã và đang được xã
hội quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Các công trình nghiên cứu về giáo dục Thanh
Hoá được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau:
Cuốn “50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá (1945-1995), sự kiện và
thành tựu” (1995), Nxb Thanh Hoá do tập thể những người làm công tác giáo dục
ở địa phương biên soạn nhân dịp kỷ niệm 50 năm giáo dục và đào tạo Thanh Hoá.
Cuốn sách đã nhìn lại những sự kiện và thành tựu chính của nền giáo dục Thanh
Hoá trong suốt nửa thế kỷ qua, đồng thời phác hoạ về hướng phát triển của 15 năm
tiếp theo.
Cuốn “Danh sĩ Thanh Hoá và việc học thời xưa” (1995) do Trần Văn Thịnh
chủ biên, Nxb Thanh Hoá, tuy chưa phải là viết riêng về lĩnh vực giáo dục nhưng
cũng đã đề cập đến vai trò của tài năng và việc bồi dưỡng tài năng nhằm chuẩn bị
cho Thanh Hoá trong thời kỳ mới.
Cuốn “60 năm Collège de Lam Sơn - Đào Duy Từ - Lam Sơn 1931-1991”
(1991) do tập thể những người trực tiếp làm công tác giáo dục ở Trường PTTH
Lam Sơn biên soạn nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường với nội dung
chủ yếu là phản ánh quá trình hình thành và phát triển của trường Lam Sơn; các
thành tựu cơ bản của trường.
Như vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi
tiết về đường lối và chủ trương phát triển giáo dục-đào tạo cũng như GDPT của
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá. Vì vậy, đây là một vấn đề cần được đi
sâu nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với vấn đề
GDPT qua việc chấp hành chủ trương, chính sách GDPT của Đảng đề ra.
- Tìm hiểu quá trình triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính
sách đó và những kết quả đạt được qua các giai đoạn phát triển.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra những bài học kinh
nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp
theo.
Nhiệm vụ:
- Tập hợp những tư liệu lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng và
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, cũng như quá trình chỉ đạo thực hiện của chính quyền
tỉnh và các Sở, Ban, Ngành liên quan. Từ đó làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thanh Hoá đối với ngành GDPT địa phương.
- Hệ thống hoá và trình bày những tư liệu đó qua các giai đoạn phát triển gắn
liền với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Từ đó, thấy được ngành GDPT Thanh
Hoá đã thực hiện những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với tình hình cách mạng (trong
thời bình cũng như thời chiến).
- Phân tích những chủ trương, biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện
những chủ trương về giáo dục phổ thông của tỉnh trong thời kỳ 1954-1975.
- Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện,
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền
tỉnh Thanh Hoá đối với yêu cầu phát triển của GDPT trên địa bàn tỉnh.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển GDPT trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá trong khoảng thời gian từ 1954-1975. Những đưòng lối, chủ
trương được trình bày ở luận văn là những đường lối, chủ trương quan trọng nhất,
có tính định hướng, có tầm chiến lược cho sự phát triển giáo dục giáo dục-đào tạo
và GDPT của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài.
Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng nghiên cứu chủ yếu là:
- Các văn kiện, nghị quyết của Đảng, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Hành chính tỉnh...
về vấn đề giáo dục.
- Các báo cáo của Ty Giáo dục Thanh Hoá.
- Một số sách, báo nghiên cứu của các cá nhân tập thể về vấn đề giáo dục.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống lại quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển GDPT của
Đảng bộ Thanh Hoá thời kỳ 1954-1975.
- Nêu lên một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc phát triển
GDPT của tỉnh trong những thời kỳ tiếp theo.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được
cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT
từ năm 1954-1960
1.1. Vài nét về giáo dục Thanh Hoá trước 1954
Thanh Hoá là một tỉnh đa tộc người. Ngoài người Kinh sinh sống ở đồng
bằng, còn có các tộc ít người khác như Mường, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Dao
thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt-Mương, Môn-Khơme, Tày-Thái, Mông-Dao, tụ cư
chủ yếu ở miền núi. Địa bàn này chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, dân số các tộc ít
người kể trên chiếm 1/3 cả tỉnh {139, tr.62}.
Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3
vùng rõ rệt. Vùng đồng bằng là vựa thóc, vùng biển là kho cá và miền núi là kho
nguyên liệu vô tận. Cả 3 vùng hỗ trợ nhau sẽ làm cho tỉnh có nền kinh tế toàn diện,
vững chắc và miền núi phấn đấu sẽ trở thành một vùng vững vàng về chính trị, khá
giả về kinh tế, mạnh mẽ về quốc phòng.
Thanh Hoá cũng là một vùng đất lịch sử lâu đời, là nơi đã phát hiện được
các di chỉ khảo cổ học thuộc hầu hết các thời đại khảo cổ học lớn của nước ta thời
tiền sử và sơ sử. Thanh Hoá có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn
lớn của lịch sử, từ tối cổ đến tận ngày nay. Do vậy, thiên nhiên và văn hoá xứ
Thanh đều thấm đượm sắc màu lịch sử.
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, phong trào Cần
Vương chống Pháp lan rộng trong cả nước. Trong đó, Thanh Hoá trở thành một
trung tâm kháng chiến lớn. Nhiều sĩ phu yêu nước như Tống Duy Tân, Phạm Bành,
Hoàng Đạt, Cầm Bá Thước, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao…đã đứng lên lãnh đạo
nhân dân địa phương quyết liệt chống giặc.
29/7/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được thành
lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thanh Hoá không ngừng phát huy
truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất vượt qua
muôn ngàn khó khăn gian khổ.
20/8/1945, nhân dân Thanh Hoá đã nổi dậy khởi nghĩa phá tan xiềng xích
của chế độ thực dân, phong kiến ở Thanh Hoá. Cùng với nhân dân cả nước, nhân
dân Thanh Hoá bước vào kỷ nguyên của độc lập và tự do.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Thanh Hoá là vùng
đất tự do. Chính vì vậy, Thanh Hoá là nơi có điều kiện để cung cấp sức người, sức
của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Tháng 7/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định
Giơnevơ được ký kết. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Cùng với các tỉnh
miền Bắc, Thanh Hoá bước vào thời kỳ mới: thời kỳ khôi phục cải tạo và xây dựng
XHCN, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài dân tộc dựng nước-giữ nước của dân tộc ta,
từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhân dân Thanh Hoá luôn thể hiện một sức sống
mãnh liệt, không ngừng vươn lên trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp
bức, cường quyền. Trong suốt cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, nhân dân Thanh
Hoá đã chung đúc nên truyền thống, những đức tính quý báu tiêu biểu cho tinh hoa
của dân tộc, trong đó có truyền thống hiếu học.
1.1.1 Giáo dục Thanh Hoá dưới chế độ phong kiến, thực dân
Cũng như mọi thôn, làng khác ở trong tỉnh, các làng, xã xưa của vùng đất
Thanh Hoá đều có lớp học chữ Hán do thầy đồ mở trường dạy chữ. Việc học hành
ở Thanh Hoá cho thấy có nhiều người đỗ đạt. Suốt hai triều đại Lê, Nguyễn, Thanh
Hoá có 1690 cử nhân, những học vị cao như Trạng Nguyên có 3 người, Bảng nhãn
có 7 người, Thám Hoa có 6 người. Riêng triều Nguyễn có 47 khoa thi Hương thì
Trường thi Thanh Hoá đã tổ chức 31 kỳ, trong 31 kỳ thi lấy đỗ tại chỗ 450 cử
nhân, vùng đất Hạc Thành có 6 vị cử nhân {54, tr. 48}.
Cùng với những người đạt học vị cao nhất, Thanh Hoá cũng có nhiều vị tiến
sĩ, cử nhân và tú tài, những học giả xuất sắc với các công trình, tác phẩm lưu lại
cho đời sau. Rất nhiều người đã mở đầu hay tiêu biểu cho những môn khoa học
trong nền học thuật cả nước như: Lê Văn Hưu là nhà sử học; Hồ Quý Ly là người
có quan điểm riêng trong nhận thức về Nho gia, Lương Đắc Bằng là nhà lý học,
Đào Duy Từ vừa là nhà quân sự vừa là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào mở đầu
cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng…là những nhà
nghiên cứu dày công có nhiều tác phẩm đồ sộ về sử học, địa lý…Những kết quả đó
chứng tỏ giáo dục Thanh Hoá có một bề dày về văn hoá, khoa học nhất định.
Có một hiện tượng chứng tỏ Thanh Hoá là một địa phương hiếu học và có
thành tích cao trong việc học tập là truyền thống dựng bia hoặc lập văn chỉ ở các
làng, các huyện. Bia, văn chỉ dùng để ghi những thành tích học tập, những kết quả
khoa bảng của riêng địa phương ấy. Có những tấm bia ghi riêng về thành tích học
tập của một dòng họ như họ Trịnh ở thôn Hổ Bái (Yên Định), họ Lê ở Cổ Đôi
(Nông Cống). Có cả loại bia để tôn vinh riêng một vị đại khoa như bia Mai học sĩ
từ đường ký ở Thạch Giản (Nga Sơn). Có những làng xã nổi tiếng là làng đại khoa
như xã Hoằng Lộc, Nguyệt Viên, Phù Quang (Hoằng Quang, Hoằng Hoá)…
Những thành tích của giáo dục Thanh Hoá trong suốt nghìn năm lịch sử, vai
trò của các thầy giáo, các học giả, các nhà trường cùng với truyền thống tôn trọng
học vấn của từng dòng họ, từng xã, từng huyện đã khẳng định Thanh Hoá có một
truyền thống giáo dục rất đáng tự hào. Tất nhiên, do hoàn cảnh chính trị, hoàn cảnh
kinh tế của chế độ xưa mà nền giáo dục này chưa phải là nền giáo dục của toàn
dân, chưa được phổ cập.
Trong thời kỳ Pháp thống trị, phong trào cựu học đã có sự xen kẽ với phong
trào tân học. Khoa thi Hương cuối cùng tổ chức vào năm 1918 đã chấm dứt việc
dùng chữ Hán trong văn bản hành chính, chuyển sang dùng chữ Pháp và chữ quốc
ngữ. Trường Nho học cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh lỵ trở thành trường Tiểu học Pháp-
Việt. Các trường làng, huyện chỉ học đến lớp sơ đẳng, tới lớp nhì đệ nhất phải lên
trường tỉnh {139, tr.252}.
Đến năm 1930, các trường phổ cập mở ra đông hơn nhưng Thanh Hoá mới
có 124 trường trong tổng số 826 trường của cả Trung Kỳ. Tỷ lệ học sinh đi học
thời kỳ này rất thấp. Cứ 29.329 người dân mới có 1 trường, 0,4% dân số được đi
học phổ cập. Các bậc học trên còn ít hơn. Cứ 1 triệu dân có 19 học sinh trung học
công lập, 0,0019% số người học trung học; 0,05% dân số học cao đẳng tiểu học
{76, tr.21}.
Đầu năm 1938, hội truyền bá quốc ngữ do một số trí thức yêu nước và
những người hoạt động xã hội được thành lập đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào
học quốc ngữ tại Thanh Hoá. Nhờ đó, phong trào học chữ quốc ngữ phát triển rầm
rộ. Đại bộ phận những người đi học là dân nghèo nên giấy bút do chi hội truyền bá
quốc ngữ cung cấp. Đội ngũ giáo viên gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần tham
gia như viên chức, công nhân, học sinh, thân sĩ, thương gia…Địa điểm các lớp học
tổ chức tại nhà dân, đình chùa, miếu phủ, bất kỳ nơi nào có thể học được. Chỉ trong
một thời gian ngắn, toàn thị xã tổ chức được hơn 30 lớp. Lớp ít nhất có 5 người,
lớp đông nhất là 30 người, chưa kể lớp dạy kèm cặp 1,2 người {76, tr.43}.
Những năm chịu sự thống trị của thực dân Pháp, Thanh Hoá đã phải bị tiếp
nhận chính sách giáo dục hạn chế, ngu dân một cách cụ thể nhất. Tuy nhiên, ở
Thanh Hoá những tấm gương học tập và giảng dạy vẫn được phát huy với sự hoạt
động của các hội Truyền bá quốc ngữ, của thầy-trò Trường học Thanh Hoá.
Nhìn chung, nền giáo dục phong kiến đã đào tạo nên những trí thức Nho học
có phẩm chất cao đẹp mà tên tuổi của họ gắn liền với những địa danh cụ thể. Đó là
những tấm gương khổ công tu dưỡng, học hành để cống hiến cho dân cho nước.
Tuy nhiên, giáo dục Thanh Hoá trước cách mạng, dù có nhiều khởi sắc dưới thời
phong kiến hay chưa được phát huy bởi chính sách ngu dân, hạn chế dưới chế độ
thực dân thì đều là nền giáo dục của một bộ phận, của những cá nhân. Phải từ sau
cách mạng tháng Tám 1945, một nền giáo dục mới được xây dựng trên cơ sở khơi
dậy và phát huy truyền thống giáo dục vốn có cùng với những yếu tố mới do cách
mạng mang lại. Đó là nền giáo dục dân tộc-dân chủ, nền giáo dục do dân, vì dân.
Từ đó, những trang sử giáo dục Thanh Hoá đã ghi thêm những thành tựu mà hàng
ngàn năm trước chưa từng có, không thể có.
1.1.2. GDPT Thanh Hoá trong những năm sau cách mạng tháng Tám
đến năm 1954
Cách mạng Tháng Tám, đối với giáo dục là cột mốc mở đầu công cuộc xây
dựng và phát triển nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân dân “vị nhân sinh”. Một
trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí:
“Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà thực dân Pháp dùng để cai trị
chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” {70,
tr.105}. Chính vì vậy “muốn giữ vững độc lập, muốn làm dân mạnh nước giàu,
mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải
có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” {70, tr.218}.
Cùng với BDHV, GDPT cũng được chú ý. Các trường tiểu học trong toàn
tỉnh được ổn định. 400 hương trường được giải tán. Ngành giáo dục phát lệnh
chiêu sinh trở lại để chuẩn bị cho năm học mới. 01/10/1945, các trường cả trường
quốc lập, dân lập, tư thục trong tỉnh cùng các trường trên toàn toàn quốc khai giảng
năm 1945-1946.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Thanh Hoá
thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm “vườn không nhà trống”, nhân dân bắt đầu tản
cư về các vùng nông thôn. Chính trong quá trình chiến đấu gian khổ và ác liệt đó,
công tác giáo dục đã không ngừng phát triển, phục vụ kịp thời và đắc lực cho nhu
cầu ngày càng cao của kháng chiến. Với truyền thống hiếu học vốn có, tinh thần
học tập của nhân dân được nâng cao từ sau cách mạng thành công, lại được Hồ
Chủ tịch, Đảng và Chính phủ ra sức động viên, kêu gọi, giáo dục Thanh Hoá đã
nhanh chóng ổn định và phát triển. Việc tổ chức bậc học cơ bản với thời hạn 4 năm
cho trẻ từ 7 tuổi trở lên, mở thêm trường lớp ở các thôn xã, tuyển dụng giáo viên…
được đẩy mạnh.
Từ năm 1950, cuộc cải cách giáo dục đã đổi hệ thống trung học cũ thành
trường phổ thông cấp III. Theo đề án cải cách giáo dục, nền giáo dục của nước
VNDCCH là nền giáo dục của nhân dân, do dân, vì dân được xây dựng theo
nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo: Giáo dục thế hệ trẻ
thành công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và phẩm chất phục vụ đất
nước. Phương châm giáo dục: Học đi đôi với thực hành, lý luận gắn với thực tiễn.
Một điều đặc biệt là thời kỳ này, giáo dục gắn chặt với công cuộc kháng
chiến, cùng bước phát triển với kháng chiến. Ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ
chức đợt ủng hộ vật chất, xung phong vào giúp giáo dục Bình-Trị-Thiên và vùng
cao (gọi là Xung Thiên, Xung Thượng), tham gia quyên góp, may áo rét cho bộ
đội. Đặc biệt, một bộ phận giáo viên, học sinh đã trực tiếp gia nhập quân đội, trực
tiếp đánh giặc cứu nước. Năm 1949, trong số 595 học sinh trường Đào Duy Từ đã
có 514 học sinh tình nguyện tòng quân 64 học sinh đã có lệnh nhập ngũ {86,
tr.143} Năm 1954, khi toàn tỉnh dốc sức, dốc người cho chiến trường, ngành giáo
dục Thanh Hoá đã tổ chức một đoàn xe thồ chở gạo lên Điện Biên để phục vụ
chiến dịch. Trong số học sinh, chiến sĩ có người trở thành anh hùng.
Từ cuối năm 1947 đầu 1953, do tính chất của cuộc chiến tranh, do đặc điểm
của một thị trấn vùng hậu phương nên dân cư lúc co cụm nơi này, khi dời đến nơi
khác. Vì vậy, việc học tập không tránh khỏi những biến động. Tuy nhiên, có thể
khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá không những chú trọng đẩy
mạnh phát triển giáo dục của địa phương mà còn là mảnh đất “cưu mang” giáo dục
khu III. Khu giáo dục và gần hết các trường khu III (Hà Đông, Thái Bình, Hà Nam,
Nam Định, Ninh Bình) đều chuyển vào Thanh Hoá, đóng rải rác trên các huyện
của tỉnh. Khu giáo dục và Trường Nguyễn Huệ (Hà Đông cũ) đóng ở Thiệu Yên;
Trường Nguyễn Thượng Hiền - chuyên khoa chung cho toàn Liên khu, Trường Lê
Quý Đôn (Ninh Bình) đặt tại Triệu Sơn; Trường Nguyễn Khuyến (Nam Định cũ)
đóng ở Đông Sơn; Nguyễn Biểu (Hà Nam cũ) ở Thiệu Yên…Trường Sư Phạm
Trung cấp liên khu III chuyển vào chiêu sinh tại Thanh Hoá từ năm học 1951-
1952. Do các trường Liên khu III dời vào Thanh Hoá nên các sinh hoạt chuyên
môn, trại hè bồi dưỡng giáo viên, trao đổi giáo viên chấm thi giữa các trường
Trung học Liên khu III và Trường Trung học quốc gia Lam Sơn trở nên thường
xuyên và mang lại nhiều kết quả tốt.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo cán bộ phục vụ công cuộc
kháng chiến ngày càng cao cũng như phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước trong
tương lai, Bộ Quốc gia giáo dục đặt một lớp Đại học văn khoa ở Thanh Hoá (năm
1949) có 11 sinh viên do giáo sư Đặng Thai Mai giảng dạy. Năm 1950, trường
Trung cấp ngoại giao (khoảng 20 người) do Bộ Ngoại giao mở lớp và tuyển sinh ở
Thanh Hoá. Trường Sư phạm sơ cấp liên khu IV (đào tạo giáo viên cấp I) từ năm
học 1950-1951 cũng được thành lập. Từ năm 1952, những lớp dự bị Đại học cũng
được đặt ở Thanh Hoá. Năm 1953, nhằm mục đích đào tạo giáo viên cấp III,
Trường Sư phạm cao cấp đã được mở tại đây. Trường Trung cấp Liên khu III đặt ở
Thanh Hoá cũng đã chiêu sinh. Học sinh chủ yếu là con em đồng bào và cán bộ
theo gia đình tản cư… Tại Thanh Hoá, “các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ
vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc… nhằm mục đích là thật thà phụng sự nhân
dân” {32, tr.38}.
Nhìn chung, từ sau năm 1945, Thanh Hoá là một trong những địa phương đã
hình thành một nền giáo dục cách mạng mới, xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục của nô
dịch thực dân phong kiến; một nền giáo dục được xây dựng phù hợp với hoàn cảnh
mới thoát khỏi kiếp nô lệ “nền giáo dục của một nước độc lập… đào tạo nên những
người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn
toàn những năng lực sẵn có của các cháu” {70, tr.23}.
1.2. Đường lối của Đảng và chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Cách mạng Việt
Nam bước vào giai đoạn phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng là tiến
hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
thống nhất đất nước. “Chúng ta đã đánh thắng chế độ thực dân và phong kiến.
Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta ngày nay là đánh thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây
dựng CNXH, làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp” {65,
tr.229}. Từ sau năm 1954, thời kỳ cách mạng mới đã làm cho nền giáo dục dân chủ
nhân dân chuyển hướng mạnh mẽ nhằm góp phần đáp ứng các yêu cầu cách mạng
chung của cả nước.
Lúc này, miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông. Đó là hệ thống
Trung học và Tiểu học 12 năm thuộc vùng chiếm đóng của thực dân Pháp để lại.
Hệ thống giáo dục 9 năm xây dựng trong thời kỳ kháng chiến ở vùng tự do có tính
chất dân chủ và tiến bộ. Tình hình đó đòi hỏi ngành giáo dục phải gấp rút tiến hành
việc thống nhất hai hệ thống giáo dục.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII khoá II (3/1955) đã nêu nhiệm vụ
phải mau chóng “chấn chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai hệ
thống giáo dục của vùng tự do cũ và vùng mới giải phóng; Chú ý dựa vào dân mà
phát huy công tác giáo dục, nhân dân giúp đỡ để phát triển các trường dân lập và tư
thục” {40, tr.20}.
Tháng 3/1956, Đề án của Bộ Giáo dục về việc sáp nhập hai hệ thống giáo
dục hiện có thành hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 10 năm đã được Chính
phủ thông qua. Đề án đã chỉ rõ bản chất và mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần
này là: đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những người
phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người
lao động tốt, cán bộ tốt của nhà nước, có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tiến dần lên CNXH ở miền Bắc, đồng thời để thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với
đời sống xã hội. Nội dung giáo dục với tính chất toàn diện gồm bốn mặt đức, trí,
thể, mỹ trong đó coi trí dục là cơ sở, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và
giáo dục đạo đức trên cơ sở coi trọng việc giảng dạy tri thức có hệ thống. Hệ thống
giáo dục phổ thông từ 9 năm nâng lên 10 năm.
Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4.
Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7.
cấp III: 3 năm từ lớp 8 đến lớp 10.
Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai với nội dung tiến bộ hơn, toàn diện
hơn là một bước đi cơ bản ban đầu quan trọng trong quá trình xây dựng nền giáo
dục XHCN.
Tháng 6/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị cán bộ
Đảng trong ngành Giáo dục để kiểm điểm một năm thực hiện chương trình giáo
dục phổ thông mới cải cách. Hội nghị đã chỉ rõ những tiến bộ đáng kể, những
nhược điểm, thiếu sót trong việc thực hiện nội dung chương trình, phương châm
giáo dục và việc phát triển giáo dục cho các năm học tiếp theo. Đặc biệt, trong việc
giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, quản lý của nhà trường, công tác
Đoàn thanh niên lao động và công tác xây dựng, phát triển Đảng trong nhà trường
được coi trọng, nhất là ở các trường phổ thông cấp III.
Việc thực hiện cải cách xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất lần này cũng
là một quá trình tiếp tục đấu tranh, bồi dưỡng tư tưởng và nhận thức, khắc phục cơ
bản quan điểm, ảnh hưởng của giáo dục cũ, xác lập đường lối, quan điểm giáo dục
XHCN.
Sau 3 năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế-
văn hoá, quan hệ sản xuất mới đã bước đầu được tiến hành xây dựng, tháng
11/1958, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua kế hoạch 3 năm 1958-1960
phát triển kinh tế-văn hoá và cải tạo XHCN. Đối với giáo dục, từ năm 1958, cuộc
vận động “xây dựng nhà trường XHCN” đã được phát động. Theo đó, quan điểm
cơ bản của Đảng về GDPT cũng được xác định:
Thứ nhất, nhà trường XHCN là công cụ của nhà nước chuyên chính vô
sản. Nhà trường phải đảm bảo thực hiện tốt ba mục tiêu: Giáo dục cho học sinh có
lý tưởng và đạo đức để các em phấn đấu vì Tổ quốc; Giáo dục cho học sinh những
kiến thức cơ bản, kiến thức khoa học và hiện đại nhất; Rèn luyện cho học sinh có
đầy đủ sức khoẻ để sống và làm việc và khi cần sẽ làm tốt nghĩa vụ quân sự.
Như vậy, nhà trường XHCN phải phấn đấu đạt 3 mục tiêu nhằm đào tạo
thế hệ trẻ thành những con người tiên tiến. Đó cũng là nội dung cụ thể về quan
điểm “đức, trí, mỹ, thể và lao động có kỹ thuật” mà đề án cải cách giáo dục cũng
đã nói tới. Theo đó, những nguyên tắc giáo dục của nhà trường XHCN cũng được
đề ra như đảm bảo quan hệ giữa giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục khoa học
kỹ thuật; Quan hệ giữa giáo dục tri thức khoa học hiện đại với tri thức đúng đắn
sẵn có của dân tộc và kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng; Quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn, học và hành; giữa nhà nước và nhân dân; giữa thầy và trò.
Thứ hai, phát triển giáo dục theo quy mô lớn cấp bách để đáp ứng những
yêu cầu của cách mạng. Phát triển với tốc độ nhanh, tìm mọi cách phổ cập giáo dục
cho thanh thiếu nhi càng sớm càng tốt, phục vụ cho công cuộc đào tạo đội ngũ cán
bộ. Phát triển theo quy mô lớn, tốc độ nhanh nhưng phải có kế hoạch phát triển
giáo dục dài hạn. Khả năng phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục
không trông chờ vào vốn đầu tư của Nhà nước mà còn tuỳ thuộc rất lớn vào vai trò
của nhân dân, trình độ quản lý của ngành giáo dục, của nhà trường và trình độ tư
tưởng, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên.
Thứ ba, vai trò của người thầy giáo: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thầy giáo là
người xây dựng nhà trường-công cụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Giáo viên
là cán bộ của Đảng, có trọng trách giáo dục những con người mới, đào tạo thế hệ
mới. Giáo viên phải vận động nhân dân tham gia dạy học, thực hiện mục đích,
nguyên lý, phương châm giáo dục. Vì vậy, phải có một đội ngũ giáo viên kiên
cường, thiết tha với nghề nghiệp mới đảm bảo được sự nghiệp giáo dục phát triển
theo đúng hướng của Đảng.
Thứ tư, điều kiện để dạy tốt và học tốt nhằm nâng cao chất lượng như: tích
cực xây dựng trường sở, tăng thêm các thiết bị thí nghiệm và xây dựng thư viện, tủ
sách cho các trường học...
Thứ năm là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự cần thiết phải thực hiện toàn dân
tham gia giáo dục, trách nhiệm của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Nhân
dân là lực lượng quan trọng không thể thiếu trong việc xây dựng nhà trường và
giáo dục thế hệ trẻ. Kết hợp công tác của nhà trường với sự hoạt động của nhân
dân chính là kết hợp nhà trường với đời sống xã hội, làm cho nhà trường có một
lực lượng hậu thuẫn hết sức vững chắc.
Có thể nói, ngay từ những năm đầu miền Bắc mới giải phóng, Đảng-Chính
phủ và Hồ Chủ tịch đã sớm có chủ trương phát triển nền giáo dục phục tùng đường
lối chính trị của Chính phủ dân chủ cộng hoà và Đảng Lao động Việt Nam. Quan
điểm cơ bản của Đảng về giáo dục đã khẳng định giáo dục thế hệ trẻ ở trường phổ
thông các cấp là vô cùng quan trọng nhằm xây dựng cơ sở bước đầu, nhưng rất
trọng yếu của việc đào tạo một lớp người, những người kế tục xứng đáng và vẻ
vang sự nghiệp cách mạng. Trên tinh thần đó, GDPT đã được chuyển mạnh vào
quỹ đạo của nền giáo dục XHCN.
Quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, năm 1956, Đảng bộ Thanh Hoá đã
ra chỉ thị về việc tuyên truyền, giải thích mục đích đi học của học sinh dưới chế độ
ta nhằm làm cho cán bộ, học sinh, nhân dân nhận thức một cách sâu sắc mục đích,
nhiệm vụ của GDPT là đào tạo thanh thiếu niên, phát triển chế độ dân chủ tiến lên
XHCN đồng thời đấu tranh thống nhất nước nhà. Chỉ thị cũng chỉ rõ những đặc
điểm của một nhà trường phổ thông dưới chế độ ta:
- Nhà trường phổ thông nhận con em nhân dân và cả con em các thành
phần khác vào học.
- Tuổi đi học của học sinh từ 7 tuổi.
- Trường phổ thông được xây dựng và phát triển rộng rãi ở tất cả các địa
phương, được nhân dân giúp đỡ nhiều mặt. Học sinh không ở tập trung
mà hàng ngày đến trường học một số giờ nhất định. Do đó, học sinh vừa
chịu sự giáo dục của nhà trường, vừa chịu sự giáo dục của địa phương và
gia đình.
- Nhà trường phổ thông sau này sẽ là nhà trường mang tính chất phổ cập
nhưng hiện tại vẫn mang tính chất phát triển hình chóp (tỷ lệ các cấp trên
ít hơn cấp dưới). Mục tiêu lâu dài là đào tạo con người mới, nhưng trước
mắt là học sinh phổ thông ra trường đi vào sản xuất, một số lớn học khá
đi vào học các trường trung học và đại học chuyên nghiệp {59, tr.2}.
Trước hết, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn
sót lại, như thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của
nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và xây dựng tư tưởng dạy và
học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chỉ thị cũng chỉ rõ nhiệm vụ chính trị
của toàn Đảng, toàn dân hiện nay là “ra sức củng cố miền Bắc, đấu tranh đòi mở
hội nghị hiệp thương để tiến tới giành thống nhất nước nhà Tổng tuyển cử tự do”
{59, tr.4}. Nhà trường và toàn thể giáo viên, học sinh đều nhận thấy trách nhiệm và
vinh dự của mình góp phần vào việc đấu tranh lịch sử đó và nêu cao khẩu hiệu
“Đẩy mạnh xây dựng nhà trường dân chủ để củng cố hoà bình đấu tranh cho hiệp
thương, cho thống nhất nước nhà”.
Thực hiện chủ trương dựa vào dân để phát triển giáo dục của Đảng, nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của con em trong tỉnh, Đảng bộ Thanh Hoá
đã chỉ thị: “chuyển hướng phát triển trường lớp dân lập; Dựa vào khả năng đóng
góp của nhân dân để phổ cập giáo dục ở các vùng miền xuôi; Đảm bảo cho trẻ em
đến tuổi đều được đi học” {15, tr.3}.
Chủ trương dựa vào nhân dân xây dựng giáo dục được thể hiện ở những
điểm như: vận động phụ huynh học sinh đóng góp học phí để cùng Chính phủ củng
cố xây dựng trường lớp quốc lập, trả sinh hoạt phí cho giáo viên dân lập; vận động
nhân dân xây dựng và bảo quản trường sở, bàn ghế đặc biệt là trường cấp I.
Về hình thức tổ chức nhà trường: phát triển giáo dục có thể là quốc lập, dân
lập hay tư thục. Cả 3 hình thức trên đều đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ty
Giáo dục. Đối với các trường lớp dân lập, dần dần sẽ hình thành hệ thống riêng.
Với tính chất quan trọng của phong trào dân lập, nên từ việc mở trường lớp đến
việc đãi ngộ giáo viên đều do sự thoả thuận của nhân dân, đoàn thể đỡ đầu với nhà
trường nhưng luôn đảm bảo đời sống của giáo viên, đảm bảo những điều kiện tối
thiểu đã quy định trong quy chế trường dân lập.
Các trường lớp dân lập được phát triển dựa trên cơ sở sản xuất phát triển,
thích hợp với khả năng và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó còn dựa trên cơ sở
tự nguyện, tự giác của nhân dân, phát triển có kế hoạch, có lãnh đạo nhằm đảm bảo
sự lâu dài, tránh mở ồ ạt, bị động, không đảm bảo sĩ số, chất lượng và đài thọ giáo
viên. Phát triển dân lập nhưng không tách rời phương châm của ngành là “củng cố
đề cao chất lượng, phát triển trên cơ sở củng cố là chính”.
Việc chuyển hướng phát triển giáo dục trong thời kỳ này đã làm cho mạng
lưới của trường phổ thông mở rộng đến các huyện, xã của tỉnh, bảo đảm được sự
học tập liên tục của con em nhân dân, bảo đảm được sinh hoạt tinh thần và vật chất
lâu dài cho giáo viên. Đồng thời, phát huy được ý thức, trách nhiệm của nhân dân
trong việc duy trì xây dựng trường lớp. Phong trào nhân dân xây dựng trường sở,
phát triển các trường dân lập nhất là cấp I để thu nhận các em đến tuổi đi học... đã
phát triển ở nhiều địa phương trong tỉnh. Những chủ trương, nhiệm vụ giáo dục mà
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đề ra là định hướng để phát triển giáo dục trong thời kỳ
mới; đặt cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng một nền giáo dục mới ở địa phương.
1.3. Quá trình tổ chức thực hiện
1.3.1. Đề cao chất lượng phổ thông
Trong những năm đầu sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Đảng bộ
Thanh Hoá đã chú trọng tuyên truyền mục đích về việc học tập dưới chế độ ta,
nhằm làm cho cán bộ, nhân dân, học sinh sớm có nhận thức đúng đắn về việc học
tập, đẩy lùi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa; gạt bỏ những tàn dư của tư tưởng phong
kiến, nho giáo, làm cho mọi người thật thông suốt với đường lối giáo dục của
Đảng.
Ngày 14/2/1955, tất cả các trường trong toàn tỉnh khai giảng và bước vào
năm học mới. Nhà trường phối hợp với các đoàn thể địa phương nhất là Nông hội
tiếp tục giải thích, vận động học sinh đi học. Các trường ở các vùng công giáo,
vùng đói được đặc biệt chú ý.
Nhân ngày khai trường, Bác Hồ đã gửi thư cho học sinh. Bác mong muốn
“các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp đỡ nhà trường giáo dục và
khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp nhân
dân”. Bác “chúc các em thi đua học tập tiến bộ, cho xứng đáng là cháu ngoan của
Bác Hồ” {71; tr.55}. Người căn dặn từng cấp học cần nhận rõ nhiệm vụ, trách
nhiệm của mình trong giai đoạn mới:
- Tiểu học cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.
- Trung học cần đảm bảo cho học sinh những tri thức phổ thông chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà {71;
tr.54}.
Theo đó, sau lễ khai giảng, học sinh cấp I được học tập thư của Tỉnh đoàn
học sinh gửi các em thiếu nhi. Học sinh cấp II được học tập tài liệu về xác định
thái độ học tập.
Đẩy mạnh hơn nữa tinh thần học tập và rèn luyện ý thức đạo đức cho học
sinh, ngày 9/8/1954, Ty giáo dục Thanh Hoá đã phát động một phong trào thi đua
kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công với nội dung thi đua phù hợp với
từng cấp học như:
- Học sinh cấp I thực hiện 6 lời dạy của Bác Hồ
- Học sinh cấp II xây dựng thái độ và quan niệm học tập đúng, đắn, bảo đảm
thực chất chương trình giáo dục.
- Học tập học sinh gương mẫu, các điển hình toàn quốc.
Qua thi đua, học sinh được giáo dục về lòng yêu nước, nâng cao ý thức học
tập.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục trong những năm đầu là đề cao
chất lượng phổ thông (chủ yếu là đề cao đức dục) nhằm phục vụ cho nhiệm vụ
chung của toàn dân là ra sức củng cố miền Bắc, đấu tranh cho hội nghị Hiệp
thương tiến tới thống nhất nước nhà bằng Tổng tuyển cử tự do.
Thực hiện nhiệm vụ này, Ty Giáo dục đã tiến hành các biện pháp nhằm bồi
dưỡng lập trường, tư tưởng cán bộ, chủ yếu là đội ngũ giáo viên như tổ chức học
tập các chủ trương chống cưỡng ép di dân, sản xuất chống đói ở huyện, xã; học tập
nội dung chủ trương chất lượng của ngành, nội dung phương pháp giáo dục lòng
yêu nước cho các môn học... Bên cạnh đó, Ty Giáo dục cũng chú trọng bồi dưỡng
về nghiệp vụ để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của giáo viên đối với ngành,
đồng thời cố gắng phát huy tác dụng của việc bồi dưỡng chính trị đối với bồi
dưỡng nghiệp vụ.
Với tinh thần “đẩy mạnh xây dựng nhà trường dân chủ để củng cố hoà bình
đấu tranh cho hiệp thương, cho thống nhất nước nhà”, các phong trào của thầy, trò
nhà trường tổ chức đã trở thành phong trào vận động đấu tranh chính trị to lớn của
toàn ngành giáo dục.
1.3.2. Tận lực phát triển giáo dục
Một đặc điểm nổi bật là sau khi hồi cư, nhu cầu học tập ngày càng đòi hỏi
cao hơn. Chăm lo việc học tập cho con em trở thành nhiệm vụ bức thiết. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nền giáo dục phổ thông đã phát triển rất mạnh. Từ 1 vạn học
sinh năm 1939 dưới thời Pháp thuộc, dưới chế độ ta, năm 1957, đã tăng lên 9 vạn
học sinh, chưa kể 12 vạn học sinh vỡ lòng {15, tr.1}. Trước tình hình yêu cầu học
tập của nhân dân ngày một tăng, trong khi khả năng tài chính của nhà nước có hạn,
đặc biệt là năm 1954, với việc tập trung mọi khả năng cho hai nhiệm vụ trung tâm
mà Chính phủ đã đề ra là “đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất”, ngân
sách dành cho ngành giáo dục đã bị cắt giảm đáng kể. Vì vậy, ngành Giáo dục đã
có chủ trương chuyển hướng mới trong việc tổ chức, sắp xếp lại trường lớp theo
hướng mở cửa ngành giáo dục, chuyển hướng phát triển trường lớp dân lập, dựa
vào dân để phát triển giáo dục.
Việc chuyển hướng này vừa phát huy ý thức trách nhiệm xây dựng trường
lớp của nhân dân nhất là giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh trong trường
dân lập. Đồng thời, vừa đảm bảo được sự học tập liên tục cho học sinh, bảo đảm
sinh hoạt vật chất lâu dài cho giáo viên.
Ngày 26/ 4/ 1954, Ban Phụ trách chuyển hướng giáo dục Thanh Hoá đã
được thành lập bao gồm đại diện của Uỷ ban tỉnh, Uỷ ban Liên Việt tỉnh, Nông hội
tỉnh, Thanh niên tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, Công đoàn giáo dục tỉnh và Ty
Giáo dục. Với việc thành lập Ban phụ trách này, từ tháng 9 năm 1954, các trường
dân lập đã được hoạt động tạm thời từ đầu học kỳ I năm học 1954-1955 và kinh
phí do nhân dân đài thọ được Ty Giáo dục cho mở cửa chính thức.
Theo đó, học sinh vào học tại trường dân lập cũng phải theo đúng độ tuổi đã
quy định cho học sinh đang học trong các trường quốc lập và được hưởng tất cả
những quyền lợi của học sinh đồng cấp học ở trường quốc lập. Về học phí, “mỗi
tháng góp 2 cân rưỡi gạo và quy ra thóc. Chỉ trừ những học sinh được nhân dân
bình nghị miễn không phải đóng. Ngoài ra còn các em được bình nghị giảm, đóng
tối thiểu mỗi tháng 1 cân gạo và quy ra thóc. Ngoài học phí, các em không phải
đóng thêm một khoản tiền nào khác” {122, tr.12-13}.
Tháng 5/1957, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã triển khai kế hoạch vận động
nhân dân xây dựng dân lập và xây dựng trường sở với mục đích làm cho cán bộ
nhân dân thấm nhuần phương châm củng cố đi đôi với phát triển nhưng phải dựa
vào khả năng của nhân dân. Kế hoạch này được tuyên truyền phổ biến từ tỉnh
xuống đến huyện, xã.
Tại các xã, Ban bảo trợ giáo dục xã được thành lập. Đây là một tổ chức đại
biểu cho nhân dân xã để cùng Chính phủ góp phần xây dựng các trường sở. Nhờ
đó, động viên được nhân dân tham gia tích cực vào việc xây dựng trường lớp, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập của con em sau này. Ngay từ năm 1957,
toàn tỉnh đã có 117 lớp dân lập, tăng hơn so với kế hoạch 18 lớp và 572 học sinh.
Ngân sách dành cho giáo dục chiếm 13,7%. Chưa kể 10 vạn học sinh vỡ lòng thì số
học sinh phổ thông từ cấp I trở lên: 94.357 học sinh, tăng 10.869 học sinh, 21
trường, 162 lớp so với năm 1956. Tính theo dân số thì cứ 16 người dân 1 học sinh
{47, tr.12}. Chỉ trong 2 năm học sau, GDPT Thanh Hoá được mở rộng, số trường
phát triển rất nhanh. Số lớp, học sinh tăng lên chưa từng có từ trước tới nay. Tính
riêng các trường dân lập, cuối năm học 1958-1959, Thanh Hoá đã có 490 lớp dân
lập cấp I với 25.142 học sinh và 45 lớp cấp II với 2.183 học sinh {104, tr.12}.
Với chủ trương chuyển sang dân lập, nhiều trường lớp đã được củng cố, xây
dựng nhằm “không để học sinh phải thất học”, kịp thời đáp ứng yêu cầu học tập
của con em trong toàn tỉnh.
Chuẩn bị đội ngũ giáo viên cho các trường dân lập, năm 1957, Ty Giáo dục
đã có hướng dẫn chuyển giáo viên quốc lập sang dân lập. Theo đó, trách nhiệm,
quyền lợi của giáo viên dân lập cũng được quy định rõ:
Giáo viên dân lập do UBHC và nhà trường địa phương giới thiệu, Ty
Giáo dục xét duyệt hồ sơ, nếu đủ điều kiện Ty sẽ tổ chức huấn luyện và
giới thiệu về xã phục vụ công tác.
Trong trường dân lập, nếu là 2 lớp thì 1 giáo viên dạy; 3 lớp thì 2 giáo
viên; 4 lớp thì 3 giáo viên dạy. Mỗi lớp đều có một giáo viên phụ trách
do Hội đồng giáo viên bình nghị phân công và được sự đồng ý của Ty
chuyên môn.
Để đảm bảo vật chất lâu dài cho giáo viên, Ban Quản trị phải trả lương
từng tháng và giáo viên được hưởng đủ cả 12 tháng kể cả các tháng nghỉ
mùa hay ốm đau.
Phụ cấp vật chất, chăn màn cũng được hưởng tối thiểu như các giáo viên
dạy ở các trường quốc lập {120; tr.11-12}.
Năm học 1958 -1959, Ty Giáo dục đã tổ chức 2 lớp huấn luyện đào tạo giáo
viên dân lập toàn tỉnh tại 2 địa điểm: Hoàng Hoá (có 3 lớp, 141 giáo sinh) và
Quảng Xương (có 2 lớp với 242 giáo sinh). Lớp huấn luyện đã giúp cho giáo sinh
xác định quan niệm và thái độ khi vào ngành; mục đích và nhiệm vụ GDPT;
nguyên tắc và phương pháp giảng dạy... Đó là việc tăng cường công tác giáo dục tư
tưởng, chính trị trong nội ngoại khoá, gắn liền nhà trường với lao động sản xuất,
với đời sống xã hội.
Như vậy, bên cạnh hệ thống trường lớp quốc lập, hệ thống các trường dân
lập dần dần ra đời và hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện chủ trương của
Đảng bộ và chính quyền Thanh Hoá về mục tiêu mở rộng quy mô, đáp ứng nhu
cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh. Với chủ trương “tận lực phát triển”
giáo dục phổ thông, mạng lưới của trường phổ thông đã được mở rộng đến các
huyện, các xã trong toàn tỉnh. Với phương châm “dựa vào nhân dân để xây dựng
nền giáo dục phổ thông”, phát triển các trường dân lập, nhất là cấp I để thu nhận
các em đến tuổi đi học”, phong trào nhân dân xây dựng trường sở, giới thiệu người
ra làm giáo viên...đã phát triển ở nhiều địa phương. Rõ ràng, chủ trương chuyển
hướng phát triển giáo dục đã khơi dậy tinh thần quan tâm, chăm lo phát triển giáo
dục của nhân dân Thanh Hoá đối với thế hệ trẻ. Nhờ sự đóng góp tích cực, vô tư và
nhiệt tình của nhân dân, các trường học mới đã mở rộng cửa tạo điều kiện để tất cả
học sinh đều có thể đến lớp, đáp ứng nguyện vọng học tập chính đáng của nhân
dân, đem lại nhiều kết quả về mở rộng quy mô giáo dục ở Thanh Hoá.
1.3.3. Bước đầu phát triển giáo dục miền núi, dân tộc ít người
Miền núi Thanh Hoá có 8 huyện, xã, 1571 xóm, chiếm một vị trí quan trọng
về chính trị, quân sự và kinh tế. Dân số 376.131 người chiếm tỷ lệ 16,6% dân số
trong toàn tỉnh; gồm 10 dân tộc sống xen kẽ với nhau. Miền núi Thanh Hoá có 280
đường biên giới tiếp giáp với Lào, có các nhánh đường chiến lược quan trọng qua
Lào, vào Nghệ An, ra Hoà Bình.
Thực hiện chính sách dân tộc của Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, ngày
6/8/1955, ngành Giáo dục Thanh Hoá đã triệu tập cuộc hội nghị giáo dục miền núi
toàn tỉnh với mục đích “phát triển giáo dục miền núi, nâng cao nhận thức của cán
bộ về tầm quan trọng và sự cấp thiết của công tác miền Tây và thấy được ý nghĩa
của công tác giáo dục góp phần vào việc mưu lợi ích nhân dân, thực hiện chính
sách dân tộc” {113, tr.2}.
Tiếp đó, tháng 5/1959, chương trình đào tạo giáo viên miền núi của Ty Giáo
dục được phổ biến rộng rãi trong 8 huyện với phương châm nâng cao nhận thức,
nâng cao giác ngộ nhiệm vụ cách mạng, chú trọng phát huy nhiệt tình cách mạng,
giải quyết tư tưởng đúng mức, có trọng tâm. Phát huy tư tưởng tự do, đẩy mạnh
tinh thần thành khẩn, tự giác phê bình và tự phê bình.
Cùng với cuộc vận động “xung thượng” (xung phong lên miền núi) của giáo
viên các huyện miền xuôi (năm 1959), bản đồ giáo dục miền núi đã lấp được khá
nhiều chỗ trống ở cấp I. Chỉ riêng huyện Hoằng Hoá, đã chi viện cho vùng núi
Quan Hoá 52 giáo viên. Đây là một cuộc vận động có ý nghĩa lịch sử. Nhiều giáo
viên miền xuôi tình nguyện đi xây dựng giáo dục miền núi đã thực sự làm xoay
chuyển tình hình. Có những người sau này đã trở thành cốt cán lãnh đạo sự nghiệp
giáo dục miền núi, tự nguyện làm người cán bộ dân vận, tự tạo mọi điều kiện để
xây dựng trường lớp, vận động bà con cho con em đến trường. Trường cấp II miền
núi đầu tiên được thành lập từ năm 1951 đã thu hút học sinh của 6 huyện miền núi:
Ngọc Lặc, Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân tập trung
về đây học tập {86, tr.148}.
Với mục đích đẩy mạnh phong trào phát triển giáo dục miền núi, kịp thời
đuổi kịp miền xuôi, góp phần làm cho nền giáo dục phát triển có kế hoạch và mạnh
mẽ, UBHC tỉnh đã có quy định về chế độ thu học phí và chế độ miễn giảm cho các
trường miền núi. Đối với chế độ thu học phí, học sinh người Kinh cũng như học
sinh người dân tộc đều thống nhất theo một chế độ. Đối với chế độ miễn giảm:
- Học sinh xa trường (10 km trở lên) được giảm 50% số học phí (chỉ áp dụng
đối với trường cấp I)
- Gia đình có 3 con đi học, mỗi con được giảm 1/3 học phí
- Học sinh gia đình bị túng thiếu, neo người, sinh hoạt thực sự khó khăn:
được giảm 50% đối với cấp I, giảm 1/3 - 2/3 số học phí đối với cấp II {152, tr.8}.
Những trường hợp được miễn là: học sinh là con liệt sĩ, tử sĩ; học sinh là con
em dân tộc Mẹo, Tính, Dao...; Học sinh được cấp học bổng; học sinh thuộc các
vùng rẻo cao: 12 xã thuộc huyện Quan Hoá; xã Thanh Quan (Huyện Như Xuân) xã
Quốc Thanh (Huyện Bá Thước); xã Thạch Lâm (Huyện Thạch Thành); xã Lương
Ngọc (Huyện Ngọc Lặc); xã Bát Một (Huyện Thường Xuân).
Các trường lớp mới phát triển, học sinh quá ít, việc vận động học sinh đi học
còn nhiều khó khăn... việc thu học phí sẽ được lùi lại.
Nếu như trước cách mạng, cả miền núi của tỉnh chỉ có 10 trường sơ học với
khoảng 500 học sinh, thì đến năm học 1959-1960 số lượng học sinh miền núi ở cả
3 cấp I, II và III là 2.746 em {126, tr.15}. Đây được xem là những bước phát triển
đặt nền móng, cơ sở cho việc phát triển giáo dục miền núi và vùng dân tộc ít người
ở những thời kỳ tiếp theo. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách của Đảng và
Chính phủ đối sự nghiệp giáo dục ở miền núi, Đảng bộ Thanh Hoá đã không
ngừng động viên, khuyến khích con em các dân tộc hăng hái đi học. Cán bộ và
giáo viên công tác ở miền núi yên tâm, phấn khởi giảng dạy, đưa sự nghiệp giáo
dục miền núi tiến lên, đuổi kịp miền xuôi. Đồng thời, khẳng định sự nghiệp giáo
dục ở miền núi có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, con
người mới, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng ở địa phương.
Bên cạnh đó, việc thực hiện cấp học bổng cho học sinh, giúp đỡ con em
thương binh, liệt sĩ và một số con em bần cố nông đã tạo cho học sinh và nhân dân
Thanh Hoá sự hứng khởi, sự tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng-Chính
phủ. Trong 4 tháng cuối năm 1955, Ty Giáo dục đã cấp phát học bổng cho học sinh
cấp I: 39.804 cân gạo gồm 51 học bổng toàn phần (18 cân); 369 học bổng 2/3 (12
cân); 769 học bổng 1/3 (6 cân). 8 tháng cuối năm 1955, học sinh cấp II được cấp
23.744 cân gạo, gồm 35 học bổng toàn phần (24 cân); 84 học bổng 2/3 (18 cân); 77
học bổng 1/3 (8 cân) {129, tr.3}.
Ngay từ những năm đầu xây dựng nền giáo dục XHCN, Đảng bộ Thanh Hoá
đã quan tâm phát triển GDPT không chỉ ở những vùng đồng bằng mà tại các vùng
dân tộc ít người, miền núi, con em gia đình chính sách... cũng được đặc biệt chú
trọng. Với những chính sách ưu việt đó, giáo dục phổ thông Thanh Hoá được tập
trung phát nhằm củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc và cải thiện sinh hoạt cho
nhân dân vùng này, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển giáo dục của cả tỉnh.
1.3.4. Thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên mặt trận giáo dục
Sau khi hoà bình lập lại, nhiều con em cán bộ miền Nam tập kết ra miền
Bắc, một số học sinh khác bị Mỹ-Diệm khủng bố đã vượt tuyến ra Bắc. Bộ Giáo
dục đã mở trường học sinh miền Nam để đón nhận các em vào học. Đây là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước được Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm. Việc tổ
chức các trường nội trú cho học sinh miền Nam là một nhiệm vụ lịch sử kéo dài
cho đến sau chiến thắng 30/4/1975 mới kết thúc. Thời kỳ đón tiếp nhiều nhất là
khoảng 1955-1959. Thực hiện chủ trương của Bộ là đưa các em vào 27 trường trải
rộng trên 10 tỉnh thành ở miền Bắc, ngành Giáo dục Thanh Hoá từ 30/4 đến
15/5/1955 đã vừa tổ chức đón tiếp, trung chuyển, vừa tổ chức ổn định cho số học
sinh của cả 2 vùng (Nam Bộ và khu V) ở miền Nam {101, tr.7}.
Từ ngày 20/9/1954, Ty Giáo dục đã chuẩn bị bộ máy đón tiếp tại 2 địa điểm:
Sầm Sơn (từ 5-7 ngày) sau đó đưa các em về trường. Theo đó, Ban Liên hiệu được
khẩn trương thành lập. Tiếp nhận chủ trương di chuyển ra Bắc của học sinh miền
Nam, Ban Liên hiệu phối hợp với các trường để đặt kế hoạch cụ thể như chuẩn bị
cấp phát đầy đủ quần áo, chăn màn, giày dép, sắp xếp cán bộ đi theo phục vụ, tổ
chức học tập chủ trương di chuyển ra Bắc cho các em và cán bộ; liên lạc chặt chẽ
với cán bộ phụ trách di chuyển của Bộ để biết rõ số xe để sắp xếp, liên lạc với ban
y tế, bố trí y tá hộ tống các em ra Bắc.
Tính từ ngày 3/10/1954 đến 30/4/1955, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã đón tiếp
và bố trí học tập tại Thanh Hoá cho 5.735 em {101, tr.11}. Các trường tiếp nhận và
tổ chức học tập cho các em dựa trên 3 tiêu chuẩn: Nhà dân, chính quyền và đoàn
thể khác.
Nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho học sinh, con em ở miền Nam ra ăn
học, UBHC tỉnh Thanh Hoá đã Quyết định cho thành lập 2 trường: Trường Phổ
thông cấp 1 Thống Nhất I và Trường Phổ thông cấp 1 Thống Nhất II. Cả hai
trường này đều có ký túc xã để học sinh ở miền Nam ra ăn học. Các khoản kinh phí
đều do ngân sách Trung ương đài thọ. Về tổ chức, hiệu trưởng, giáo viên cũng như
nhân viên phục vụ đều do Ty Giáo dục lựa cử đề nghị lên UB tỉnh ra quyết nghị
điều động.
Như vậy, chỉ trong vòng 1 tháng, ngay sau khi tổ chức tiếp nhận, bố trí, sắp
xếp học tập cho con em học sinh miền Nam, UBHC tỉnh cùng với Ty Giáo dục
Thanh Hoá đã cho thành lập 2 trường cấp 1 có ký túc xá nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập, ăn ở cho các em. Đó thực sự là một cố gắng không nhỏ của ngành Giáo
dục Thanh Hoá trong thời kỳ này.
Bên cạnh đó, UBHC quan tâm hướng dẫn các trường phân loại học sinh để
có chính sách cụ thể và phù hợp. Đối với những học sinh trước đây ở vùng tự do,
học ở trường ta, được sắp xếp ngay vào với học sinh các trường vùng tự do. Đối
với những học sinh trước đây học ở vùng do Pháp chiếm đóng, có những điểm
khác biệt về trình độ, tư tưởng, chính trị, kiến thức, văn hoá, những lo âu, thắc
mắc. Do chương trình và phương pháp học tập của học sinh vùng tự do và vùng
địch chiếm đóng có sự khác nhau nên việc chuyển lớp cần có thời gian để chuyển
tiếp. Đó là những lớp bổ túc về chính trị và văn hoá để giúp các em hiểu rõ chính
sách giáo dục của ta, quan điểm học tập, quan điểm lao động, lập trường phục vụ,
để các em có khả năng thu nhận những chương trình mới, làm quen với phương
pháp học tập mới, các cơ quan giáo dục tuỳ trình độ và số lượng học sinh, tuỳ hoàn
cảnh địa lý mà bố trí những tổ học tập, những lớp bổ túc cho các em. Đối với con
em bộ đội, cán bộ được ưu tiên hơn, đặc biệt là con em bộ đội, cán bộ không có gia
đình ở vùng tự do để cha mẹ các em thực sự an tâm phục vụ.
Với những học sinh miền Nam vượt tuyến khó khăn, thực hiện chủ trương
của Bộ Giáo dục, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã tiến hành tạm ứng sinh hoạt phí hay
học bổng, tổ chức ăn ở tập thể, tạm ứng tiền may mặc... Đặc biệt vào các dịp hè,
đông…học sinh miền Nam cũng thường được UBHC tỉnh cấp phát trang phục theo
đề nghị của Ty Giáo dục. Năm 1958, đã có 2 đợt cấp phát trang phục mùa hè cho
học sinh miền Nam:
Đợt 1: có 67 em trong đó có 55 em nam và 12 em nữ
Đợt 2: có 28 em trong đó có 14 em nam và 14 em nữ
Mỗi em được cấp phát 1 bộ quần áo, 2 áo cổ vuông, 2 quần đùi theo tiêu
chuẩn quy định.{144, tr.1}.
Chủ trương tạm ứng là một cố gắng rất lớn của ngân sách quốc gia trong
thời gian này để đảm bảo học tập cho học sinh vượt tuyến thực sự không có khả
năng tự túc. Việc làm này cũng thể hiện sự quan tâm, săn sóc của Đảng, Chính phủ
đến việc ăn học của các em, động viên tinh thần, tạo sự phấn khởi, nỗ lực trong học
tập của học sinh vượt tuyến.
Như vậy, suốt từ năm 1954, Ngành Giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức chăm lo,
đào tạo cho học sinh miền Nam tập kết hoặc vượt tuyến ra Bắc nhằm thực hiện
chiến lược cách mạng của 2 miền và mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ chiến lược đó
do Đảng đề ra. Các trường học sinh miền Nam nội trú được thành lập với sự chăm
sóc, dạy dỗ của các thầy, cô và sự đùm bọc yêu thương của đồng bào Thanh Hoá,
sự quan tâm chăm sóc của Đảng bộ Thanh Hoá. Ngành giáo dục Thanh Hoá đã
phát huy được sức mạnh to lớn, góp phần xây dựng Thanh Hoá trở thành hậu
phương vững chắc, đáp ứng nhu cầu của cách mạng.
*
* *
Nhìn chung, ngay sau khi hoà bình, Thanh Hoá đã có được một phong trào
học tập sôi nổi, liên tục và ngày càng phát triển mạnh mẽ trong ngành học phổ
thông. Ngành GDPT Thanh Hoá đã thực hiện tốt chủ trương phát triển tận lực và
giải quyết yêu cầu, nguyện vọng học tập của đông đảo con em nhân dân trong tỉnh.
Phần ổn định tổ chức, thu nhận học sinh, sắp xếp giáo viên thời kỳ này đã căn bản
hoàn thành. Nhiệm vụ tiếp theo của ngành GDPT trong giai đoạn mới là đi sâu vào
việc đề cao chất lượng, để đảm bảo tốt yêu cầu giáo dục, tư tưởng chính trị, giáo
dục kiến thức và giáo dục lao động cho học sinh.
Hạn chế lớn nhất trong thời kỳ này là những thiếu sót trong việc thực hiện
“chủ trương tận lực phát triển” giáo dục. Chủ trương này cũng làm phát sinh những
lệch lạc, thiếu sót mà nhiều năm sau này phải khắc phục “một thói quen khó sửa”.
Đó là việc phát triển “vô điều kiện”, “đơn giản hoá” nhà trường và sự nghiệp giáo
dục như mở trường lớp ồ ạt, không tính đến những điều kiện cần thiết: giáo viên,
cơ sở vật chất... Hạn chế này gây nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo trong những
năm sau và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng GDPT. Số lượng học sinh tăng
nhanh nhưng chất lượng giáo dục nhiều mặt giảm sút.
Đối với giáo dục miền núi và vùng các dân tộc ít người, sự chênh lệch giữa
các vùng dân tộc còn khá rõ nét. ở vùng cao, nhiều học sinh bỏ học sau khi học
xong lớp 2. Số giáo viên dân tộc còn ít nên phải điều động nhiều giáo viên miền
xuôi lên dạy ở miền núi. Việc đó làm cho tình hình giáo viên ở miền núi, hàng năm
có nhiều biến động. Do vậy, sự nghiệp giáo dục ở miền núi đòi hỏi Đảng bộ Thanh
Hoá phải có quan tâm rất lớn để đưa miền núi tiến nhanh hơn nữa, rút bớt khoảng
cách giữa miền núi và miền xuôi...
Tuy nhiên, những thành tựu mà GDPT Thanh Hoá đạt được cũng như những
định hướng phát triển giáo dục của Đảng bộ Thanh Hoá trong thời kỳ này là cơ sở,
nền tảng cho việc phát triển một nền giáo dục XHCN trong giai đoạn tiếp theo.
Chương 2
Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo phát triển GDPT trong
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965)
2.1. Chủ trương phát triển GDPT của Đảng bộ Thanh Hoá
Sau khi đã thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960), Đảng chủ trương đưa
miền Bắc chuyển sang giai đoạn mới-giai đoạn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên CHXN, làm cho nước ta có một nền công nghiệp, nông nghiệp hiện đại,
có một nền văn hoá và khoa học tiên tiến. Miền Bắc giàu mạnh là cơ sở vững chắc
cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 9 năm 1960, Đại hội lần thứ III đã định ra đường lối cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ mới. “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc
và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước” {43, tr.132}. Cách mạng XHCN là một
quá trình bao gồm 3 cuộc cách mạng: cách mạng về QHSX nhằm xoá bỏ chế độ
người bóc lột người, cuộc cách mạng về kỹ thuật nhằm chủ yếu phát triển lực
lượng sản xuất, biến nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp thành nền sản xuất lớn
XHCN đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá nhằm làm cho
chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nhân dân
và xây dựng một nền văn hóa khoa học tiên tiến. Ba cuộc cách mạng này liên quan
khăng khít với nhau trong đó cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá có một vị trí quan
trọng. Không có cách mạng tư tưởng-văn hoá thì cuộc cách mạng kỹ thuật không
thể thành công và cũng không thể củng cố, kiện toàn quan hệ sản xuất mới đã được
xác lập.
Đối với giáo dục, Đại hội xác định:
Công tác giáo dục văn hoá phải được phát triển theo quy mô lớn và phải
phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự nghiệp giáo dục
của chúng ta phải nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động
làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN có văn hoá và kỹ thuật, có sức
khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới, phục vụ
đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và văn hoá XHCN và
việc nâng cao không ngừng trình độ văn hoá của nhân dân lao động…
phải nắm vững nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất và các
phương châm: lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục
của nhà trường kết hợp với giáo dục của xã hội {43, tr.251}.
Quan điểm của Đảng về giáo dục được xác định tại Đại hội đã cho thấy rằng
giáo dục thế hệ trẻ ở trường phổ thông các cấp vô cùng quan trọng nhằm xây dựng
cơ sở bước đầu, nhưng rất trọng yếu-của việc đào tạo một lớp người để xây dựng
CNXH, những người kế tục xứng đáng và vẻ vang sự nghiệp cách mạng. ý nghĩa
đó được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, muốn đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng ở miền Bắc, muốn đẩy mạnh
phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, điều cấp thiết có tính
chất quyết định là phải bồi dưỡng đào tạo một lớp người mới, một thế hệ trẻ có
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật, có sức khoẻ tốt.
Con người mới đó là mục tiêu phấn đấu của nhà trường phổ thông.
Thứ hai, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đòi hỏi
phải có những con người có tinh thần anh dũng, trí thông minh, tài sáng tạo, có khả
năng nắm vững và vận dụng tốt chiến lược, chiến thuật và kỹ thuật, quân sự hiện
đại. Nhà trường phổ thông có khả năng cung cấp đào tạo cho dân tộc những thanh
niên như vậy.
Thứ ba, công cuộc xây dựng CHXH ở nước ta đòi hỏi nhân dân, đội ngũ
đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật phải có trình độ văn hoá cao. Chuẩn bị cho lớp
người này, nhà trường phổ thông có một vị trí quan trọng, một khả năng to lớn.
Thứ tư, do miền Bắc tiến lên CNXH không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
nên nhìn chung cơ sở vật chất về khoa học, kỹ thuật còn nghèo nàn, trình độ văn
hoá, nếp sống văn minh còn hạn chế... Do đó, nhà trường phổ thông, bên cạnh
nhiệm vụ trung tâm là đào tạo con người mới, còn có nhiệm vụ phát huy tác dụng
là trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật ở địa phương. Trong việc thực hiện
phương thức giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, bên cạnh mục đích chủ yếu là
giáo dục, còn có mục đích sản xuất của cải vật chất, góp phần làm tăng thêm của
cải cho xã hội.
Ngành GDPT là cấp học vô cùng quan trọng, chiếm khối lượng to lớn trong
toàn bộ sự nghiệp giáo dục nhằm đào tạo một lớp người mới, một thế hệ trẻ để
hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng.
Đại hội Đảng lần thứ III đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển giáo
dục. Đào tạo thế hệ trẻ là sự nghiệp của Đảng, là trách nhiệm của nhân dân. Nhưng
nhà trường đóng vai trò chính yếu nhất. Ngành giáo dục được xác định là chuyên
lo đào tạo thế hệ mới, đào tạo những con người sống trong xã hội ngày mai, có tư
tưởng và tác phong XHCN. Vì vậy, chỉ trên cơ sở ngành giáo dục được phát triển
mạnh mẽ thì mới tạo ra một thế hệ mới có khả năng để thực hiện tốt sự nghiệp
cách mạng XHCN.
Quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, Hội nghị của Ban Thường vụ tỉnh
uỷ bàn về công tác giáo dục (10/2/1961) đã xác định vấn đề quan trọng trước hết
trong xây dựng nền giáo dục thời kỳ này là phải làm cho tư tưởng của cán bộ, công
nhân viên chức, giáo viên, học sinh, nhân dân chuyển biến một cách sâu sắc, thấm
nhuần quan điểm giáo dục của chế độ ta. Từ đó, hình thành tư tưởng, thái độ đi học
đúng đắn, trở thành người lao động sản xuất có kiến thức chính trị và khoa học kỹ
thuật để xây dựng đất nước. “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy giáo
là chăm lo dạy dỗ học sinh thành người công dân tốt, người lao động tốt, người
chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” {70, tr.131}.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ V (1961) chỉ rõ
nhiệm vụ của ngành học phổ thông:
Phải kết hợp chặt chẽ việc học văn hoá và kiến thức phục vụ sản
xuất… Tích cực chấn chỉnh, củng cố hệ giáo dục phổ thông, đẩy
mạnh phong trào thi đua Hai tốt, thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện,
tăng cường việc giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên. Cần làm
cho cán bộ, nhân dân và học sinh có nhận thức đúng đắn về mục đích
học tập, khắc phục tư tưởng “Đi học để mưu cầu danh lợi, để thoát ly
sản xuất, thoát ly nông thôn” trong học sinh, thanh niên. Kết hợp giữa
nhà trường và nhân dân mà phát triển mạnh mẽ các lớp mẫu giáo {21,
tr.13}.
Nghị quyết của Đại hội cũng nhấn mạnh tới việc tăng cường giáo dục ý thức
lao động, công tác lao động sản xuất cho học sinh; xem công tác đào tạo, bồi
dưỡng toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục. Muốn xây dựng học sinh thành con
người mới, thầy giáo phải tự rèn luyện mình thành con người mới của chế độ
XHCN.
Trên tinh thần đó, Chỉ thị 39 về công tác giáo dục của Tỉnh uỷ cũng chỉ rõ
phương hướng, nhiệm vụ của giáo dục trong những năm tới. Riêng đối với GDPT:
Một là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phổ thông, kiên quyết thực hiện
việc phổ cập vỡ lòng và cấp I vào cuối năm 1965 ở miền xuôi và vùng thấp của
miền núi; đảm bảo cho trẻ em dưới 16 tuổi được học hết cấp II bằng nhiều hình
thức; củng cố các trường cấp III và phát triển cấp III một cách hợp lý, vững chắc.
- Đối với phổ cập vỡ lòng và cấp I: những em đến tuổi học cấp I mà chưa
học vỡ lòng thì sẽ bố trí cho vào học “lớp 1 đặc biệt”. Ty Giáo dục cử giáo viên bồi
dưỡng cho các em này để cuối năm có trình độ lớp 1. Đảng uỷ, UBHC xã vận động
nhân dân xây dựng thêm trường lớp, bàn ghế... Coi trọng chất lượng đồng thời đề
phòng tư tưởng sợ khó khăn trong xây dựng trường lớp, trong việc thu học phí hay
trong việc vận động các nhà trường mà không tích cực mở thêm lớp, ảnh hưởng
đến việc phổ cập.
- Đối với phổ thông cấp II, III: đảm bảo cho trẻ em dưới 16 tuổi đều được
học hết cấp II bằng nhiều hình thức để bồi dưỡng các em thành người lao động tốt.
Tổ chức cho học sinh mãn khoá lớp 4 quá tuổi 14 vào học các trường bổ túc văn
hoá thiếu niên; vừa làm vừa học. ở miền núi, chú trọng mở trường thiếu niên dân
tộc.
- Đối với cấp III, tiếp tục đi sâu vào việc nâng cao chất lượng toàn diện, gắn
nhà trường với đời sống và sản xuất. Đồng thời, phát triển thêm trường một cách
vững chắc.
Hai là nắm vững mục đích, phương châm giáo dục, ra sức nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tư tưởng đạo đức, chuẩn bị đầy đủ
cho học sinh tham gia sản xuất và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Ba là tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, sử dụng
tốt lực lượng giáo viên hiện có, thực hiện tốt chế độ đãi ngộ đối với giáo viên.
Quan tâm đúng mức hơn nữa đến việc bồi dưỡng giáo viên, đặc biệt là về chính trị,
tư tưởng coi đó là công tác trung tâm, tiến tới tất cả giáo viên đều đảm bảo tiêu
chuẩn quy định. Đồng thời, quan tâm đến đời sống của giáo viên dân lập, cải tiến
việc thu nạp học phí, vận động nhân dân đóng học phí kịp thời, đầy đủ để giải
quyết tốt lương cho giáo viên dân lập.
Bốn là coi trọng việc xây dựng cơ sở vật chất và thiết bị, phân cấp xây dựng,
quản lý nhà trường. Kết hợp chặt chẽ sự hỗ trợ một phần của Nhà nước với việc
phát huy tinh thần tự lực cánh sinh xây dựng trường sở, thiết bị của nhân dân và
thầy trò, tránh ỷ lại vào Nhà nước.
Theo đó, các đảng uỷ và UBHC xã, chi uỷ và chính quyền các tiểu khu trong
thị xã, thị trấn Sầm Sơn chịu trách nhiệm quản lý trường cấp I ở địa phương mình
và có trách nhiệm xây dựng trường cấp II thuộc khu vực mình do huyện, thị quy
định.
Các đảng uỷ và chính quyền nơi có trường cấp II chịu trách nhiệm chính
trong việc quản lý trường cấp II dưới sự giúp đỡ của huyện uỷ và UBHC huyện.
Các huyện uỷ, thị uỷ và UBHC huyện, thị xã chịu trách nhiệm quản lý
trường cấp III trong huyện, thị xã dưới sự chỉ đạo của UBHC tỉnh và Ty Giáo dục.
Rõ ràng, Đảng bộ Thanh Hoá đã sớm thấy được vai trò to lớn của giáo dục
đối với công cuộc xây dựng CNXH ở địa phương nên đã sớm có những định
hướng, biện pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho nhân
dân, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới, con người XHCN, làm cho
sự nghiệp giáo dục trở thành một mặt trận cách mạng.. Nhờ vậy, giáo dục của
Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu to lớn phục vụ cho kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất.
2.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện
Sau những năm đầu xây dựng nền giáo dục XHCN, ngành GDPT Thanh
Hoá đã có những bước phát triển mạnh. Tuyệt đại bộ phận con em nhân dân đều
được đi học. Đội ngũ giáo viên ngày một đông đảo. Nhà trường phổ thông trở
thành một trung tâm đào tạo lớp người tương lai xây dựng XHCN, không chỉ đảm
bảo phát triển về số lượng mà còn coi trọng việc nâng cao chất lượng toàn diện.
2.2. 1. Phát triển mạng lưới GDPT
Việc phát triển theo quy mô lớn các trường phổ thông trong kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất được xác định: mỗi xã có 1 trường cấp I, hai, ba xã có một trường cấp
II; mỗi huyện có 1 trường cấp III. ở miền núi, tạo điều kiện cho con em các dân tộc
khắp các vùng đều được học tập. Theo đó, phương hướng mới trong phát triển hình
thức trường lớp là song song với những trường phổ thông, nghiên cứu mở những
trường vừa học văn hoá phổ thông, vừa học kỹ thuật sản xuất, nhất là kỹ thuật sản
xuất nông nghiệp...
Bắt đầu từ năm học 1960-1961, thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh,
ngành Giáo dục Thanh Hoá đã nêu nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ này gồm:
1. Củng cố chấn chỉnh cấp I. Chỉ phát triển ở một số xã miền núi
2. Tập trung các trường cấp II thành trường lớn.
3. Phát triển lớp cấp III {103, tr.21}.
Vì vậy, các trường cấp I đã được phát triển mạnh qua 5 năm (1954-1959)
vẫn tiếp tục phát triển, tuy không nhiều. Các trường cấp II, cấp III có bước phát
triển quan trọng hơn. Nhiều nơi chưa mở được cấp II hoàn chỉnh thì mở lớp 5 rồi
leo dần lên lớp 6, lớp 7. Năm học 1960-1961, các trường cấp II quốc lập và dân lập
đã được tu sửa lại. Đối với cấp III, thời kỳ này, Bộ Giáo dục Đào tạo cho thành lập
ở tất cả các tỉnh chưa có trường cấp III. Tỉnh nào đã có trường cấp III, được mở
thêm trường thứ hai, thứ ba, nếu có nhu cầu. Nhờ đó, cuối năm học 1962-1963 quy
mô học sinh ở Thanh Hoá ngày càng được mở rộng: Cấp I: 200.869 học sinh; Cấp
II: 36.798 học sinh; Cấp III: 2.957 học sinh {50, tr.9}.
Trước sự mở rộng quy mô giáo dục, ngành Giáo dục Thanh Hoá đã thực
hiện chủ trương phân cấp quản lý trường lớp của Tỉnh uỷ, tạo nên sự phát triển
mạnh mẽ cho giáo dục phổ thông. Huyện, thị quản lý các trường cấp II, cấp III; các
xã, khu phố quản lý các lớp vỡ lòng, mẫu giáo, trường cấp I, cấp II. Nhờ vậy, việc
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng-chính quyền địa phương càng thêm chặt chẽ, sát sao
hơn. Sau khi phân cấp, Ban thi đua xây dựng trường lớp được thành lập ở từng địa
phương. Nhờ đó, cuối năm học 1962-1963, tình hình trường lớp phổ thông đã có
nhiều biến chuyển biến tích cực.
Đối với giáo dục miền núi thời kỳ này đã nhận được quan tâm sâu sắc của
Đảng bộ Thanh Hoá, chính quyền và đặc biệt là sự quan tâm của Hồ Chủ tịch.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhiệm vụ của ngành GDPT được Đảng bộ
Thanh Hoá xác định:
Phát triển mạng lưới các trường phổ thông cấp I và cấp II một cách thích
hợp nhằm tích cực tạo mọi điều kiện cho con em các dân tộc, nhất là dân
tộc ít người vào học đồng thời phát triển cấp III một cách có kế hoạch.
Tìm mọi cách phổ cập vỡ lòng và cấp I trước hết là vùng thấp theo
phương châm “thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ. Nhà nước và
nhân dân phối hợp”. Khuyến khích học sinh lên lớp trên đặc biệt là chính
sách nâng đỡ, dìu dắt học sinh miền núi và dân tộc ít người. Nội dung
chương trình cần sửa đổi để phản ánh được thực tiễn của các dân tộc, của
từng vùng kinh tế. Phải đưa vào những kiến thức về nông, lâm nghiệp
vào chương trình học của trường phổ thông {20, tr.19}.
Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm Thanh Hoá lần thứ 3. Nói
chuyện với cán bộ nhân dân trong tỉnh, Bác nhắc nhở: “Về giáo dục, trong 160
người dân đã có 20 học sinh, nhưng cần giúp cho miền núi có nhiều người học cấp
II, cấp III hơn nữa”.{30, tr.121}.
Trên tinh thần đó, nếu như kết thúc kháng chiến chống Pháp, miền núi mới
chỉ có 5 trường cấp II, hơn 20 trường cấp I thì ngay trong kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất, gần như tất cả các xã đều có trường lớp từ mẫu giáo đến cấp I. Mỗi huyện có
từ 2 đến 3 trường cấp II. Năm học 1961-1962, trường cấp III Ngọc Lặc ra đời.
Trường là nơi tập trung học tập của học sinh các huyện miền núi phía Tây Thanh
Hoá. Số lượng học sinh đi học ngày càng tăng và tương đối ổn định.
Trước sự phát triển ồ ạt của hệ thống trường lớp phổ thông, tháng 12/1963,
ngành Giáo dục đã khẩn trương thực hiện kế hoạch dồn lớp. Đối với các huyện
miền núi, việc dồn lớp được thực hiện thông qua công tác nghiên cứu ghép các lớp
thành các lớp ghép 1+2, 1+3, 2+3. Sĩ số bình quân ở miền núi vùng cao từ 10 - 15
em/lớp; vùng giữa từ 20-25 em/lớp và vùng thấp từ 30-35 em/lớp. ở vùng thấp,
những nơi trường lớp tập trung sĩ số được nâng lên 45-50 em/lớp hoặc nhiều hơn
nếu có điều kiện đảm bảo chủ trương chung {111, tr.3}. Với các lớp phổ thông cấp
II và phổ thông nông nghiệp, việc dồn lớp được thực hiện nếu sĩ số ít nhưng đảm
bảo nguyên tắc là không chuyển học sinh phổ thông nông nghiệp sang học phổ
thông. Đối với giáo viên, do chủ trương dồn lớp nên với số lượng giáo viên dư
thừa, ngành Giáo dục đã vận động giáo viên trở về sản xuất, hoặc chuyển sang
phục vụ công tác các ngành khác thích hợp với khả năng chuyên môn, trình độ văn
hoá, phù hợp với yêu cầu cách mạng...
Thực hiện công tác dồn lớp, ngành giáo dục đã điều hoà, sắp xếp được đội
ngũ giáo viên, đảm bảo đời sống giáo viên dân lập, nâng cao chất lượng giáo dục,
đảm bảo sĩ số... Tiến hành dồn lớp kết hợp với công tác kiện toàn một bước tổ
chức đội ngũ giáo viên, đảm bảo mọi mặt công tác giáo dục. Đồng thời, đảm bảo
việc sắp xếp lại lực lượng lao động giữa ngành Giáo dục và các ngành khác theo
yêu cầu của cách mạng.
Có thể nói, việc quy hoạch hệ thống giáo dục và mạng lưới trường lớp các
cấp đã từng bước tạo sự cân đối giữa các trường học, cấp học với những hình thức
giáo dục phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển vững chắc. Đồng thời, tạo điều kiện
đảm bảo phát triển cho việc nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2.2. Tích cực nâng cao chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là tiêu chí cơ bản phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu
giáo dục, nội dung, phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện hoạt
động giáo dục. Chất lượng giáo dục không tốt thì mục tiêu giáo dục không đạt
được.
Do vậy, nhằm tạo thêm điều kiện cho giáo dục phổ thông phát triển vững
chắc về chất lượng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo công
tác giáo dục phổ thông đã chỉ rõ:
- Tập trung chủ yếu cho việc củng cố và nâng cao chất lượng
- Nhà trường phổ thông phải trở thành một trung tâm đào tạo lớp người
tương lai xây dựng CNXH
- Ngành giáo dục phát triển mạnh đội ngũ giáo viên
- Đại bộ phận học sinh đều được đi học {16, tr.2}.
Thực hiện chỉ thị của Tỉnh uỷ, các nhà trường đã chú ý giáo dục đạo đức, lao
động, kiến thức cho học sinh, triển khai phong trào “áp dụng khoa học kỹ thuật vào
đời sống, trong sản xuất” đồng thời trực tiếp sản xuất nhằm tự túc một phần lương
thực, thực phẩm…Các nhà trường thâm nhập sâu vào lao động sản xuất theo
phương châm:
Nhà trường là một lực lượng sản xuất. Trong nhà trường, thầy giáo phải
dạy cho học sinh nắm vững kiến thức khoa học phổ thông, đó là một yêu
cầu của chương trình nhưng đó không phải là tất cả nội dung giảng dạy
mà yêu cầu cơ bản nhất, quan trọng nhất là đào luyện con người toàn
diện về đức, trí, mĩ, thể; là xây dựng cho học sinh thành những con người
mới, những tình cảm cách mạng tốt đẹp, có những tri thức đầy đủ để đáp
ứng được những đòi hỏi của việc xây dựng chế độ mới của chúng ta chế
độ XHCN {16, tr.26}.
Trong các nhà trường cấp I, việc học tập nội quy 5 điều dạy của Bác Hồ
được tổ chức đều đặn. Các trường tập trung giáo dục tư tưởng cho học sinh về hợp
tác hoá nông nghiệp, cải tạo XHCN. Các trường tích cực tham gia đấu tranh ủng
hộ miền Nam qua các phong trào phản đối luật phát xít 10/59 của Mỹ Diệm, phản
đối vụ giết hại Hoàng Lệ Kha; củng cố đội thiếu niên và Đoàn thanh niên, đưa giáo
dục tư tưởng vào trong các tiết học của các môn.
Ngoài ra, các trường phổ thông đã tổ chức triển lãm giáo cụ trực quan của
cấp I. Cơ sở vật chất toàn diện của nhà trường dần hình thành với các vườn địa lý,
vườn sinh vật, phòng văn, sử địa, xưởng mộc, xưởng rèn, khu chăn nuôi, ao cá, thư
viện… Nhà trường tổ chức cho học sinh tham gia lao động và học tập ngay trong
lao động. Phong trào kết nghĩa giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất hợp tác xã
thủ công nghiệp, xí nghiệp, cơ quan được mở rộng, gắn kinh tế nhà trường với kinh
tế của địa phương. Phong trào học tập “Vì miền Nam ruột thịt” đã đem lại nhiều
chuyển biến về mọi mặt hoạt động của nhà trường, đặc biệt là giáo dục ý thức “sẵn
sàng nhận nhiệm vụ khi Tổ quốc cần đến” trong học sinh được thể hiện rõ ràng.
Năm 1961, thực hiện lời kêu gọi thi đua Hai tốt của Hồ Chủ tịch, Ty giáo
dục đã phát động “Thi đua Hai tốt học tập Bắc Lý: Dạy thật tốt, Học thật tốt xây
dựng nhà trường XHCN”. Phong trào thi đua đã được phát động sâu rộng, khơi dậy
tinh thần hào hứng sôi nổi trong ngành giáo dục. Chỉ thị về công tác giáo dục của
Tỉnh uỷ cũng chỉ rõ mục đích thi đua học tập Bắc Lý là nhằm thực hiện 5 điểm chủ
yếu:
- Phổ cấp vỡ lòng và cấp I cho cả người lớn và trẻ em vào cuối năm 1965 (ở
vùng xuôi và vùng thấp của miền núi).
- Quản lý chặt chẽ phong trào phổ thông, học sinh về sản xuất trong xã, quan
tâm đến phong trào giáo dục ngoài xã.
- Thực hiện toàn Đảng, toàn dân tham gia xây dựng giáo dục tốt, có cơ sở
vật chất và thiết bị tốt để giáo dục con em.
- Đảm bảo chất lượng đào tạo con người mới thích hợp với lứa tuổi
- Xây dựng và phát triển đảng, đoàn, đội tốt trong nhà trường và có đội ngũ
giáo viên tốt.
Thực chất của phong trào là dạy thật tốt, học thật tốt, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục, làm cho nền giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận với
gắn liền với thực tế, học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
xã hội.
Trong phong trào thi đua Hai tốt, giáo dục Thanh Hoá đã nổi lên các điển
hình trong từng cấp học. Nổi bật là Trường cấp I tiểu học Hải Nhân (Tĩnh Gia).
Nếu như tại các vùng ven biển, phần lớn dân cư làm nghề đánh cá. Có thời kỳ dài
việc học không được coi trọng. Nơi đây từng có câu ngạn ngữ “Chữ nghĩa văn
chương không bằng cái xương con cá lẹp” thì thời kỳ này, Hải Nhân nổi lên như
một minh chứng sống động cho tinh thần học tập và sự thay đổi nhận thức, tư duy
của người dân trong vùng kể từ sau cách mạng.
Thành lập năm 1947 (gồm 4 lớp, có 193 học sinh), năm 1962-1963, Trường
được công nhận là “Lá cờ đầu của ngành giáo dục Thanh Hoá”. Năm 1966,
Trường được Bộ Giáo dục công nhận là “Lá cờ đầu của ngành giáo dục phổ thông
cấp I toàn miền Bắc”. Trường là nơi khởi phát phong trào “Tiếng trống chất
lượng”, “Ba đẹp” (năm 1961-1965); “Điểm 10 thắng Mỹ”, “Hội đèn chống Mỹ”
(1965-1973) của ngành Giáo dục Thanh Hoá và miền Bắc. Với quá trình xây dựng,
Trường Hải Nhân đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho ngành. Tại Đại hội
tổng kết 3 năm phát động phong trào thi đua Hai tốt, đúc rút kinh nghiệm ở trường
cấp I Hải Nhân (1964), một trong năm tổ đầu tiên của ngành giáo dục toàn miền
Bắc được công nhận tổ Lao động XHCN (1963), ngành giáo dục đã rút ra 5 bài học
thực tiễn:
1. Có sự lãnh đạo toàn diện chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng
2. Vận dụng sáng tạo phương châm giáo dục, tranh thủ được sự chỉ đạo của
các cấp trong ngành
3. Làm cho sự nghiệp giáo dục thành sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn
dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp và môi trường giáo dục rộng lớn.
4. Xây dựng được Hội đồng giáo dục vững mạnh toàn diện
5. Xem trọng việc hoàn thiện cơ sở vật chất, điều kiện quan trọng tạo đà cho
giáo dục đi lên.
Cùng với phong trào tích cực xây dựng và học tập điển hình “Hai tốt” của
huyện Tĩnh Gia, Hoằng Hoá được đánh giá là huyện có phong trào khá nhất về
giáo dục. Năm 1965, huyện có 47 trường cấp I, 25 trường cấp II và 1 trường cấp
III. Tổng số 30.000 học sinh. Trường cấp II Tố Như (Hoằng Lộc) trở thành lá cờ
đầu cho các trường cấp II trong tỉnh. Trường cấp I Hoằng Lộc là ngọn cờ thứ 2 sau
Hải Nhân {105, tr.18}.
Cùng với không khí thi đua của toàn ngành, GDPT ở miền núi Thanh Hoá ở
từng ngành học cũng có những điển hình tiên tiến. Nổi bật là sự đổi thay và khởi
sắc của giáo dục Quan Hoá với điểm sáng Phù Nhi-điển hình của giáo dục vùng
cao miền Bắc. Trong tổng kết thi đua Hai tốt, nhà trường được UBND tỉnh khẳng
định là trường tiên tiến xuất sắc, điển hình đặc sắc cho giáo dục miền núi Thanh
Hoá nói riêng, giáo dục vùng cao của toàn quốc nói chung với phương châm “Thầy
tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, nhà nước và nhân dân cùng làm”. Thành tựu
đem lại ánh sáng văn hoá, là niềm tin yêu của đồng bào các dân tộc vùng xa xôi
hẻo lánh, là sự đóng góp to lớn của nhà trường.
Trong việc tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, công tác lựa chọn học
sinh ngoan, giỏi có tác dụng rất lớn trong việc động viên học sinh thi đua học tập.
Đặc biệt, thời kỳ này, học sinh giỏi Thanh Hoá lần đầu tiên thắng lợi lớn. Đội Văn
đạt giải Nhất đồng đội toàn miền Bắc, đội Toán đạt giải khuyến khích; 12/42 học
sinh giỏi Toán của tỉnh được tuyển vào chuyên toán của Bộ {86, tr.76}. Tỷ lệ thi
tốt nghiệp phổ thông niên khoá 1962-1963 so với niên khoá 1921-162 cũng có
bước khả quan. Cấp I: 157,85%; Cấp II: 148,64%; Cấp III: 93,78% {50, tr.16}.
Có thể nói, những thành tựu mà ngành GDPT đạt được không chỉ mở rộng
quy mô, mạng lưới giáo dục mà còn đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc
trong cả việc nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng con người mới XHCN.
2.2.3. Chăm lo phát triển Giáo dục phổ thông vùng Công giáo
Đối với vùng Công giáo, trong những năm đầu xây dựng nền giáo dục
XHCN, ảnh hưởng của nhà thờ còn khá sâu sắc trong tư tưởng cũng như trong
phong tục tập quán của nhân dân. ý thức lao động, tinh thần tham gia xây dựng
trường lớp của phụ huynh và học sinh chưa cao. Vì vậy, “Phạm vi của vấn đề giáo
dục ở nơi có đồng bào Thiên chúa giáo không chỉ đóng khung trong ngành giáo
dục, mà là của toàn Đảng, toàn dân… Trách nhiệm giải quyết vấn đề này là của
cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương”{10, tr.6}.
Trên tinh thần đó, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã phát huy mọi khả năng để
tăng cường công tác giáo dục trong vùng Thiên chúa giáo, chủ trương tuyên truyền
giáo dục quần chúng hiểu rõ bản chất ưu việt của nền giáo dục mới, làm cho giáo
dân hiểu rõ mục đích của Đảng, chính phủ là đảm bảo sự tiến bộ của con em, học
sinh, cũng là vì lợi ích lâu dài của nhân dân; tích cực “mở lớp vỡ lòng trong vùng
Thiên Chúa giáo, mở trường dân lập ở những nơi có điều kiện, mở trường quốc lập
ở những nơi cần thiết, hoặc dời trường cho gần vùng giáo những nơi có điều kiện
trung độ” {12, tr.2}. Ty Giáo dục đã nghiên cứu sắp xếp giáo viên quốc lập ở vùng
Thiên chúa giáo, lựa chọn những giáo viên có ít nhiều khả năng chính trị và công
tác quần chúng để làm cơ sở, có tác dụng thu hút học sinh.
Vì vậy, năm 1958, bên cạnh tình trạng phong trào giáo dục chưa được đẩy
mạnh, có nơi chưa có trường lớp, các con em chưa dám đến học trường công thì
nhiều nơi đã vận động được số đông con em Công giáo đi học, có nơi trên 1.000
em (huyện Nga Sơn) {12, tr.3}. Đó thực sự là những tiến bộ khởi đầu đáng khích
lệ.
Năm học 1958-1959, Ngành Giáo dục đã huy động được đông đảo con em
đồng bào Thiên chúa giáo ra lớp, hầu hết các vùng có đồng bào thiên chúa giáo,
các thôn xóm hẻo lánh đều có trường hoặc lớp phổ thông và vỡ lòng cho con em
theo học. Cũng có nơi vì không tìm được giáo viên, trường phổ thông đã cử người
sang phụ trách giảng dạy ở các lớp này. Có nơi các giáo viên phổ thông phải đến
từng xóm, từng nhà để kiểm tra trình độ và huy động các em ra lớp như Thọ
Xương... Trong kỳ khai giảng đầu năm, nhiều nơi đã động viên được đông đảo phụ
huynh tham dự buổi lễ. Riêng trường Nga Thái (Huyện Nga Sơn) đã có trên 60 phụ
huynh tới dự. Nhờ đó mà nhà trường đã có dịp để tuyên truyền với giáo dân về
mục đích và nhiệm vụ của nhà trường, tạo được niềm tin trong nhân dân.
Thanh Hoá cũng đã mở thêm 1 trường cấp II giữa vùng công giáo toàn Tổng
Nga Liên để thu hút số em học lên lớp 5 của vùng; trên 60 trường cấp 1 trong tỉnh
đóng rải rác ở các huyện, nhiều nhất là ở vùng ven biển các huyện: Nga Sơn, Tĩnh
Gia, Hậu Lộc, một số xã ở huyện Đông Sơn, Thọ Xương, Thọ Xuân, Hoàng Hoá,
Nông Cống, Hà Trung... Năm học 1958-1959, số trẻ em đi học đã tăng hơn năm
trước trên 61%. Nhiều nhất là ở các lớp 1, 2. Riêng tại Hà Trung, toàn huyện có
182 học sinh thuộc gia đình công giáo thì đã có tới 151 em học lớp 1, 2. Tại Vĩnh
Lộc, trong số 190 học sinh của toàn huyện thì đã có 177 em. Nếu tính riêng trong
10 xã ở các huyện trên thì đã có tới 1480 học sinh cấp 1; 133 em học sinh cấp II.
Nếu tính tỷ lệ so với giáo dân thì năm 1955-1956 cứ 8,7 giáo dân mới có 1 học
sinh. Nhưng đến năm học 1959-1960, cứ 5,3 người đã có 1 học sinh. Nếu so với tỷ
lệ chung của toàn tỉnh là 4, 9 người thì có 1 học sinh {97, tr.7}.
Như vậy, tỷ lệ con em đồng bào Thiên chúa giáo đi học gần ngang bằng tỷ lệ
chung. Điều đó cũng cho thấy rằng, thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ
mở mang văn hoá cho đồng bào các vùng Thiên chúa giáo, ngành Giáo dục Thanh
Hoá đã chấp hành một cách nghiêm túc và đã thu được những thành tích đáng tự
hào.
Quán triệt tinh thần “không để học sinh thất học”, tất cả học sinh, con em
nhân dân trong toàn tỉnh đến tuổi đều được vận động đi học. Điều đó thể hiện quan
điểm giáo dục của Đảng về nhà trường phổ thông trong chế độ ta là nhà trường
nhận con em nhân dân và con em các thành phần khác vào học và nhà trường có
trách nhiệm dạy cho tốt các em trở thành những người tốt.
2.2. 4. Về hoạt động đảm bảo các điều kiện dạy và học
Góp phần vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, việc cải tiến giảng
dạy, học tập đã đưa lại kết quả khả quan. Chuyển biến rõ rệt nhất là phong trào cải
tiến giảng dạy theo phương châm gắn liền bài giảng với cuộc sống và sản xuất.
Cuộc vận động “ra sức thi đua dạy thật giỏi, học thật chăm để giành phần thưởng
của Bác” đã tiếp thêm khí thế cải tiến học tập, cải tiến giảng dạy một cách mạnh
mẽ. Để gắn liền giảng dạy với đời sống và sản xuất ở địa phương, các trường đã tổ
chức cho giáo viên đi sâu vào thực tế địa phương tham gia các cuộc vận động cải
tiến quản lý HTX, tăng tính thực tế cho nội dung giảng dạy.
Bên cạnh đó, các trường tổ chức cho giáo viên học tập nguyên lý giáo dục và
vận dụng vào giảng dạy, tổ chức thực tập mẫu liên trường, từng khu vực, phong
trào kết nghĩa giữa các trường để trao đổi kinh nghiệm, tài liệu, giáo án. Cũng
trong năm 1960, ngành giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức huấn luyện đào tạo cho
1057 giáo viên dân lập cấp II cho miền xuôi và quốc lập cho miền núi. Bồi dưỡng
chương trình lớp 7 cho 417 giáo viên cấp I; 100 giáo viên cấp I miền núi học
chương trình lớp 5; tổ chức 4 lớp theo chương trình trung cấp sư phạm năm thứ
nhất ngoài giờ cho 195 giáo viên cấp I {86, tr.117}. Năm 1963, Thanh Hoá thành
lập Trường Sư phạm cấp I. Năm 1964 thành lập Trường Sư phạm cấp II miền núi.
Năm 1969, mở thêm 2 trường sư phạm cấp I và một trường sư phạm 4+3 cho vùng
cao nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên, góp phần vào công cuộc phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục. Tính riêng năm học 1962-1963, số lượng giáo viên phổ
thông đã tăng đáng kể so với năm 1961-1962. Giáo viên cấp I: 110,78%; Giáo viên
cấp II: 154,86%; Giáo viên cấp III: 154,0% {49, tr.11}.
Một sự kiện quan trọng đối với giáo dục Thanh Hoá là việc thành lập các
phòng giáo dục tại các huyện, thị nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục, tạo điều kiện
cho việc chỉ đạo được sát sao hơn. Nhờ đó, giữa các ngành học đã phối hợp ngày
càng nhịp nhàng và chặt chẽ. Cụ thể giáo viên, học sinh phổ thông tham gia giảng
dạy các lớp BTVH, các lớp mẫu giáo kết nghĩa với các lớp phổ thông, giáo viên vỡ
lòng kết nghĩa với giáo viên phổ thông để trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm giảng
dạy, chuẩn bị cho lớp vỡ lòng chuyển lên cấp I.
Một nhân tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển giáo dục phổ thông
Thanh Hoá từ sau cách mạng là vai trò của Liên đoàn giáo giới (1946-1951) sau
này là Công đoàn giáo dục. Thông qua tổ chức này, Đảng bộ Thanh Hoá đã lãnh
đạo công tác giáo dục một cách chặt chẽ.
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Công đoàn đã tập trung động viên
phong trào thi đua Hai tốt, tiến hành xây dựng các điển hình tiên tiến với nhiệm vụ
là nâng cao nhận thức cho quần chúng, làm cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên
trong ngành thấm nhuần thêm đường lối, phương châm nguyên lý giáo dục của
Đảng, nhận thức cho được mục tiêu phương thức đào tạo của nhà trường XHCN,
xây dựng được phong trào cách mạng sôi nổi trong quần chúng nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của ngành, quyết tâm cải tiến công tác quản lý và chỉ đạo giáo
dục.
Trên tinh thần đó, từ 1961-1963 công đoàn giáo dục Thanh hoá đã góp phần
tích cực trong việc xây dựng điển hình Hải Nhân. Công đoàn đã thực hiện các cuộc
vận động lớn theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng như phong trào “Đã là
giáo viên phải là người tiên tiến”, “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương sáng
cho học sinh noi theo”, “Giỏi việc trường, đảm việc nhà”... Các cuộc vận động
thực hiện nề nếp, thâm nhập vào thực tế sản xuất ở địa phương, đi sát học sinh để
tự rèn luyện mình và để tạo thêm điều kiện làm cho nhà trường gắn liền với đời
sống, tự học tập tích luỹ thường xuyên về vốn sống, về kiến thức, về lý luận và
phương pháp bộ môn, học tập áp dụng và đúc kết kinh nghiệm... đã có tác dụng
nhất định góp phần nâng cao chất lượng của cuộc vận động thi đua Hai tốt...
Qua mỗi cuộc vận động như thế, với sự hướng dẫn, tác động tích cực của
các tổ chức Công đoàn, cán bộ giáo viên trong ngành lại vững vàng hơn trong
chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, và cao nhất là trưởng thành về
mặt nhân cách. Không chỉ chỉ đạo phong trào chung toàn tỉnh, Công đoàn còn tập
trung chỉ đạo theo điểm và diện, theo từng chủ đề với nhiều hình thức phong phú
đa dạng.
*
* *
10 năm chỉ đạo sự nghiệp giáo dục Thanh Hoá trong tình hình miền Bắc đi
vào cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng CNXH, làm cơ sở cho đấu tranh thống
nhất nước nhà, GDPT Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đó là
thực hiện việc xây dựng hệ thống trường phổ thông 10 năm, đặt cơ sở ban đầu cho
nhà trường XHCN ở địa phương. Cải tạo và cải cách căn bản nền giáo dục cũ, xây
dựng hệ thống giáo dục mới: dân tộc, dân chủ và tiến bộ, chuyển mạnh vào quỹ
đạo của nền giáo dục XHCN.
Các cấp học đều được xây dựng và phát triển cả về số lượng-chất lượng.
Mặc dù, sự phát triển và mức độ hoàn chỉnh giữa các ngành học, bậc học còn khác
nhau, nhưng lần đầu tiên có sự phát triển cân đối, đồng bộ và nhịp nhàng trong hệ
thống giáo dục phổ thông của tỉnh; tạo được tiền đề, điều kiện đưa sự nghiệp giáo
dục tiến lên một bước mới.
Nhìn chung, từ sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cơ sở của nền giáo dục
XHCN đã được xây dựng và phát triển ở Thanh Hoá. Hay nói cách khác, nền
GDPT Thanh Hoá đã chuyển mạnh vào quỹ đạo của nền giáo dục XHCN. Điều đó
chứng tỏ đường lối giáo dục của Đảng đã được xác lập; đấu tranh thắng lợi, khắc
phục những tư tưởng quan điểm giáo dục lạc hậu. Bước đầu đã thiết lập một nền
giáo dục mới XHCN, tạo cơ sở vững chắc cho việc đẩy mạnh phát triển giáo dục
XHCN phục vụ tích cực sự nghiệp đào tạo con người XHCN-nguồn nhân lực quý
báu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chương 3
Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển GDpt
Từ năm 1965 đến 1975
3.1. Chủ trương chuyển hướng phát triển GDPT thời chiến của Đảng
Trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt, cuối
năm 1964, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam thực hiện chiến lược chiến
tranh cục bộ, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân đối với miền Bắc nhằm phá huỷ tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc,
cắt đứt sự chi viện của từ Bắc vào Nam, làm lung lay ý chí chiến đấu cứu nước của
nhân dân ta.
Trong tình thế chiến tranh, BCH Trung ương Đảng (khoá III) đã tiến hành
hội nghị lần thứ 11 (25/3/1965) và đề ra nhiệm vụ cho cả hai miền Nam-Bắc.
Nhiệm vụ của Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn và trực
tiếp chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vì vậy phải chuyển hướng xây dựng nền
kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến; mỗi vùng có thể tự đảm bảo một
phần nhu cầu thiết yếu về đời sống và học hành. Chuyển hướng công tác tư tưởng
và tổ chức, đảm bảo yêu cầu vừa sản xuất, vừa chiến đấu; xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc và tăng cường lực lượng quốc phòng nhằm bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.
Sự nghiệp cách mạng đã đặt ra cho công tác giáo dục những yêu cầu vô cùng
to lớn. Riêng đối với GDPT:
- Phải tiếp tục thoả mãn yêu cầu học tập của con em nhân dân, đồng thời
phải đảm bảo cung cấp đủ học sinh tốt nghiệp cấp II và cấp III cho sự
nghiệp đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề.
- Phải giữ vững và nâng cao dần chất lượng giáo dục.
- Phải phát triển và củng cố các lớp mẫu giáo để giáo dục và bảo vệ trẻ
em, chuẩn bị nâng cao chất lượng cho cấp I và để góp phần giải phóng
sức lao động của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ làm tròn nhiệm vụ 3
đảm đang {84, tr. 4}.
Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi giáo viên và học sinh phải phát huy tác
dụng tích cực nhất của mình đối với sản xuất và chiến đấu. Nhà trường phải thể
hiện rõ tác dụng trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật của địa phương hơn bất cứ
lúc nào; phải chuyển mạnh mẽ hơn nữa việc thực hiện đường lối phương châm
giáo dục của Đảng; phải phục vụ những yêu cầu cách mạng trong cả nước; đặt
nhiệm vụ cả nước lên trên, đồng thời vẫn phải chăm lo đáp ứng những yêu cầu
cách mạng của địa phương.
Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ lâu dài, chủ yếu, nhà trường phổ thông còn có
nhiệm vụ phải đáp ứng từng bước yêu cầu nhiều mặt của cách mạng trong từng
thời kỳ và ở từng địa phương. Hoàn cảnh sản xuất và chiến đấu tạo điều kiện cho
nhà trường gắn với cuộc sống mật thiết hơn; trường lớp sống ngay trong lòng dân,
giữa khí thế sản xuất và chiến đấu sôi nổi của quần chúng. Học sinh qua thử thách
trong lao động sản xuất và tiếp xúc với thực tế xã hội đã được rèn luyện khá toàn
diện, có kiến thức khoa học, có chí khí, có thực tế cuộc sống, sẵn sàng vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là một trong những thời kỳ gay go, quyết liệt nhất trong lịch sử dân tộc
ta và ngành giáo dục, nhưng cũng là thời kỳ huy hoàng, oanh liệt nhất. Đứng trước
tình hình mới, đòi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương chuyển hướng công tác
giáo dục thích hợp với điều kiện thời chiến, nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ
của cách mạng.
Giáo dục được xác định phải trở thành một mặt trận quan trọng, góp phần
tạo nên sức mạnh đánh thắng đế quốc Mỹ. Hội nghị lần thứ 11 (25/3/1965) của
BCH Trung ương Đảng (khoá III) đã nhấn mạnh:
Trong công cuộc cách mạng XNCN về mặt tư tưởng, giáo dục là vấn đề
chủ yếu. Ngành giáo dục không chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức
văn hoá mà còn bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động làm
chủ nước nhà, có giác ngộ XHCN; làm cho thế hệ thanh niên sung sướng
và tự hào rằng mình là người chủ đấu tranh xây dựng và bảo vệ CNXH,
chủ nghĩa cộng sản… {40, tr.215}.
Muốn chuẩn bị cho thanh niên trở thành những con người như vậy, nhà
trường phải thực sự là đơn vị chống Mỹ cứu nước, thật sự là một tập thể gương
mẫu về giảng dạy, học tập, lao động, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Chỉ thị chuyển hướng 88/TTg ngày 5/8/1965 của Thủ tướng Chính phủ nêu
rõ:
Hiện nay, cả nước ta đang có chiến tranh, nhiệm vụ chống Mỹ cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng…công tác giáo dục phải chuyển hướng
phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị nói trên theo chức năng, nhiệm vụ của
mình và phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, cần ra sức phấn đấu để
giữ vững và phát triển sự nghiệp giáo dục cả về quy mô và chất lượng
cho phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, góp phần chống Mỹ cứu nước,
phục vụ tốt công cuộc bảo vệ và xây dựng miền Bắc, chi viện miền
Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị điều kiện để tiến lên sau khi chiến
tranh kết thúc {43, tr.116}.
Như vậy, phương hướng, nhiệm vụ chung xuyên suốt cả thời kỳ này là
chuyển hướng công tác giáo dục phù hợp với thời chiến, bảo đảm an toàn, duy trì,
phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo cán bộ, giữ vững và nâng cao chất lượng
giáo dục. Phải thắng Mỹ trên mặt trận giáo dục, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu
dài của cách mạng.
Điều kiện quan trọng đầu tiên để xây dựng giáo dục trong thời chiến là phải
coi trọng công tác đảm bảo phòng không, an toàn cho học sinh và giáo viên. Các
trường học đều phải có đủ hào giao thông và hầm trú ẩn đúng quy cách; phải dời
các lớp học xa các mục tiêu địch có thể bắn phá. ở những nơi thường xuyên bị uy
hiếp, lớp học được phân tán thành những lớp học nhỏ, giảm bớt giờ học ở lớp, tăng
cường hướng dẫn học sinh học ở nhà. Để đảm bảo công tác phòng không, nhà
trường phải dựa vào lực lượng thầy, trò và phụ huynh học sinh là chính. Đoàn
Thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ và dân các xã tích cực giúp đỡ nhà trường.
Hai là nội dung giảng dạy phải được cải tiến để phục vụ thiết thực sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước theo nguyên tắc “dạy ít mà tinh, học để vận dụng vào sản
xuất và chiến đấu”. Nội dung giảng dạy giải quyết tốt các vấn đề chính như: tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức tác phong cách mạng; cung
cấp những kiến thức khoa học cơ bản thiết thực, vững chắc, gắn chặt với đời sống,
sản xuất và chiến đấu; rèn luyện kỹ năng về kỹ thuật sản xuất, quốc phòng, phục
vụ yêu cầu từng vùng từng địa phương; bồi dưỡng sức khoẻ của học sinh...
Ba là phải tổ chức lực lượng giáo viên và học sinh để phục vụ đắc lực 3
nhiệm vụ của nhà trường trong giai đoạn cách mạng mới: Nhà trường là lực lượng
tuyên truyền; Nhà trường là lực lượng sản xuất; Nhà trường là lực lượng chiến đấu.
Việc bảo đảm được ba nhiệm vụ to lớn của nhà trường trong giai đoạn cách
mạng mới không phải là giảm bớt yêu cầu chất lượng trong giảng dạy mà chính là
phải quyết tâm nâng cao chất lượng một cách toàn diện thì giáo viên và học sinh
mới có đủ tinh thần, đủ khả năng làm đầy đủ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Mỗi
giáo viên, học sinh đều nỗ lực thực hiện khẩu hiệu “giặc đến là đánh thắng, giặc đi
là học tập tốt, sản xuất tốt”.
Trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng việc học tập của học sinh vẫn cố gắng
được duy trì, quyền lợi của học sinh vẫn được đảm bảo. Mọi hoạt động của nhà
trường đều nhằm phục vụ cho giảng dạy tốt và học tập tốt. Rõ ràng, “Chế độ ta đã
dành tất cả cái gì tốt đẹp nhất cho các em. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta
cũng phải tạo những điều kiện, những phương diện tốt nhất cho học sinh, cho con
em chúng ta học tập, vui chơi” {35, tr.30}. Ngành Giáo dục quyết tâm thực hiện
lời dạy của Hồ Chủ tịch:
Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt học tốt: Trên
nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt phải phấn đấu nâng
cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các
vấn đề cho cách mạng nước ta đề ra, và trong một thời gian không xa
đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật {70, tr.102-103}.
Trong tình hình mới, giáo dục được xác định phải phục vụ nhiệm vụ chống
Mỹ cứu nước và tiếp tục xây dựng CNXH. Các định hướng về phát triển giáo dục
nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng được nêu trên của Đảng là cơ sở để
Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông ở địa phương
phát triển trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở bảo đảm an toàn cho các trường học, Chỉ thị 07 CT/TU của Tỉnh
uỷ về Phát huy những thành tích đã đạt được, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy
mạnh hơn nữa công tác giáo dục nhằm phục vụ tốt cho yêu cầu cách mạng trước
mắt và lâu dài đã đề ra phương hướng giáo dục trong thời kỳ này là:
Phải quán triệt sâu sắc đường lối giáo dục của Trung ương Đảng và vận
dụng một cách sáng tạo và hoàn cảnh thực tế, sát với từng vùng trong
tỉnh. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất phát triển và chiến đấu đánh bại mọi
âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ mà ra sức đẩy mạnh công tác giáo dục
phát triển nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu học tập của nhân dân, tạo điều
kiện tiếp thu và áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và chiến đấu,
đảm bảo cung cấp kịp thời những người có trình độ văn hoá nhất định
cho yêu cầu phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng, đào tạo cán bộ
cho yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Chỉ thị nhấn mạnh: “bất kỳ trong tình huống nào, bất kỳ chiến tranh diễn ra
ác liệt đến đâu, cũng vẫn giữ vững được bước tiến bộ và đà phát triển của công tác
giáo dục để phục vụ tốt hơn nữa cho sản xuất; chỉ đạo, xây dựng con người mới và
nâng cao đời sống nhân dân” {11, tr.5}.
Theo đó, các biện pháp thực hiện cũng được đề ra. Cụ thể:
- Tiếp tục phát triển các ngành học với tốc độ thích hợp với từng cấp, từng
ngành và từng vùng trong toàn tỉnh. Đối với cấp I, bằng mọi cách đảm bảo cho con
em nhân dân đến tuổi đều được đi học, ít nhất là phải đưa từ 85-90% trẻ em ở độ
tuổi 6-7 vào lớp 1. Đối với cấp II, đảm bảo cho 75% học sinh hết cấp I đang ở độ
tuổi 10-11 vào học lớp 5 để có thể trong 3-4 năm tiếp theo, hàng năm, toàn tỉnh có
20.000-25.000 học sinh tốt nghiệp cấp II. Đối với cấp III, vận dụng mọi khả năng
hiện có, ra sức tạo thêm điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa, phấn đấu 3-4 năm
tiếp theo có từ 4.000-5.000 học sinh tốt nghiệp cấp III. Đối với GDPT miền núi,
phát triển nhanh, mạnh tất cả các ngành học bằng mọi hình thức tổ chức học tập
phù hợp với đặc điểm của địa phương. Phát triển các trường Thanh niên dân tộc
vừa học, vừa làm, các trường văn hoá tập trung để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ
dân tộc.
- Ra sức cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng tinh giản, thiết
thực, vững chắc và toàn diện.
Đi đôi với việc phát triển về số lượng, là nâng cao chất lượng ở tất cả các cấp
học, đặc biệt là ở các trường cấp II, cấp III; quan tâm hơn nữa tới việc rèn luyện về
tư tưởng và chính trị nhằm đào tạo cho được lớp người có kiến thức văn hoá, có
giác ngộ chính trị và đạo đức cách mạng.
- Tích cực xây dựng đội ngũ giáo viên vững mạnh về cả 3 mặt: chính trị, tư
tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng và nghiệp vụ chuyên môn. Coi trọng hơn nữa
việc bồi dưỡng tại chức, tự học, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm, tham quan học
tập tại chỗ ở những đơn vị tiên tiến xuất sắc trong sản xuất và chiến đấu. Đặc biệt
chú ý đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nữ, mạnh dạn đề bạt và tích cực bồi dưỡng giáo
viên nữ đảm đương các nhiệm vụ trong các lãnh đạo, chỉ đạo của ngành giáo dục.
Quan tâm đầy đủ đến các chính sách, chế độ đãi ngộ đối với giáo viên, quan tâm
giúp đỡ giải quyết những khó khăn trong công tác và sinh hoạt tạo điều kiện cho
giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Phát huy tác dụng của nhà trường đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
đối với sản xuất và đời sống. Một yêu cầu cấp thiết đối với giáo dục trong hoàn
cảnh chiến tranh là nhà trường phải đào tạo được những con người có phẩm chất
chính trị và đạo đức cách mạng đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất và chiến
đấu. Giáo dục thanh niên, không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những
cuộc đấu tranh của xã hội. Do vậy, càng những lúc gay go, khó khăn càng phải
tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức cho học sinh. Nhờ vậy mà với tinh
thần “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy thật tốt, học thật tốt”
chúng ta đã làm cho đế quốc Mỹ “không những thất bại thảm hại trên mặt trận
chính trị, quân sự, mà ta đã thắng chúng ta trên mặt trận giáo dục và đào tạo cán
bộ” {44, tr.251}.
- Chú ý xây dựng cơ sở vật chất, làm tốt công tác phòng tránh, đảm bảo an
toàn cho giáo viên và học sinh. Phải dựa vào nhân dân và có sự giúp đỡ một phần
của Nhà nước để ngay trong thời chiến vẫn đảm bảo đầy đủ trường lớp, bàn ghế,
đồ dùng dạy học, sách giáo khoa, giấy bút, ánh sáng... cho việc giảng dạy và học
tập. Trường lớp phải phân tán, có đủ hầm hào chắc chắn, phải che phòng chu đáo
và bố trí giờ giấc hợp lý để đảm bảo an toàn tính mạng và bảo đảm sức khoẻ lâu
dài cho giáo viên và học sinh.
Trong tình hình mới, thực hiện những nhiệm vụ mới, Đảng bộ Thanh Hoá đã
thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu làm cho giáo dục thực sự là một mặt trận cách
mạng. Những người làm công tác giáo dục thực sự là những người cách mạng.
Những điều giảng dạy thực sự thúc đẩy các hoạt động cách mạng. Thế hệ trẻ thực
sự là những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng.
Sau chiến tranh, một yêu cầu bức thiết và cấp bách lúc này là việc nâng chất
lượng giáo dục nhằm mục đích đưa công tác giáo dục chính trị và tư tưởng gắn
chặt với nhiệm vụ của trường học; nội dung chương trình giáo dục và phương pháp
giáo dục đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ Thanh Hoá lần thứ VII (4/1969) đã khẳng định, đối với GDPT, trong bất cứ tình
huống nào, sự nghiệp giáo dục cũng phải phát triển, từng bước thoả mãn yêu cầu
học tập cho con em nhân dân, đáp ứng yêu cầu cho việc phát triển kinh tế, văn hoá
và chuẩn bị cho lực lượng sau này. Trước mắt:
- Cải tiến nội dung, lề lối tổ chức chỉ đạo
- Lấy vấn đề đào tạo bồi dưỡng giáo viên làm khâu trung tâm
- Dựa vào dân, khôi phục xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị nhà trường
- Gắn việc học tập trong nhà trường với việc lao động, sản xuất. Tiếp tục
thực hiện khâu trung tâm là đưa lao động sản xuất vào nhà trường. Trên cơ sở đó,
từng bước cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục, bảo đảm và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
Xác định lao động sản xuất trong nhà trường là khâu trung tâm nhằm tạo ra
một bước ngoặt cách mạng trong sự nghiệp giáo dục. Nghị quyết Đại hội cũng nêu
rõ phương hướng tổ chức lao động sản xuất trong nhà trường: Lao động sản xuất
để giải quyết những nhu cầu của nhà trường.
Tiếp đến, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần 8 (năm 1975) xác định
phương hướng, nhiệm vụ của GDPT thời kỳ này là:
- Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cách mạng
quan hệ sản xuất và cách mạng kỹ thuật, hướng tập trung vào nhiệm vụ
và nội dung giáo dục, xây dựng con người mới mà tiêu chuẩn cơ bản và
quan trọng nhất là lao động với tinh thần say sưa, lao động với ý thức làm
chủ tập thể, lao động với năng suất cao.
- Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục một cách vững chắc và cân đối
giữa các ngành học, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện. Nhanh chóng phổ cập vỡ lòng và cấp I đúng độ tuổi, đảm bảo cho
tất cả học sinh học hết cấp I được vào cấp II; mở rộng cấp III một cách
vững chắc.
- Tiếp tục chỉ đạo phong trào thi đua “Hai tốt”, xây dựng và thực hiện
nghiêm túc các quy chế dạy và học, chú trọng rèn luyện, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên về mọi mặt, nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường
sự phạm theo hướng tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
trong cải cách giáo dục, tăng phương tiện cho việc dạy và học...{24,
tr.124}.
Việc chiến tranh kéo dài, ác liệt đã là một thách thức rất lớn đối với việc
phát triển giáo dục. Giáo dục trong hoàn cảnh không ổn định như vậy đòi hỏi phải
có sự chỉ đạo luôn cơ động và thích nghi. Đảng bộ Thanh Hoá đã có nhiều cố gắng
nhằm đáp ứng những yêu cầu đó. Những chủ trương đúng đắn, tổ chức chỉ đạo
khoa học, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, mọi hoạt động
giáo dục đã nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến, từ thời chiến sang
thời bình nhằm tạo bước chuyển biến sâu sắc trong giáo dục-đào tạo nói chung và
GDPT nói riêng, thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu
mới của cách mạng.
3.2. Quá trình tổ chức thực hiện
Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã cho máy bay,
tàu chiến bắn phá làng xóm, trường sở, giết hại nhiều người dân, nhiều thầy giáo
và học trò của Thanh Hoá. Chỉ tính trong 4 năm, từ 1965-1968, đế quốc Mỹ đã
đánh phá tất cả 454 lần vào 131 trường học. Trong đó, có 73 trường cấp I, 49
trường cấp II, 5 trường cấp III, lớp mẫu giáo và vỡ lòng. Trong số 454 lần, có 92
lần chúng đánh vào lúc học sinh đang học, giết chết 32 giáo viên, 592 học sinh,
làm thương 54 giáo viên, 704 học sinh; phá huỷ 789 phòng học, nhiều bàn ghế, đồ
dùng giảng dạy… Huyện Quảng Xương có 14 trường bị đánh phá, Huyện Hà
Trung có 11 trường bị bắn cháy và phá hỏng, 128 học sinh, giáo viên bị chết và bị
thương. Điển hình là các vụ đánh phá trường Hải Hoà, (Tĩnh Gia) và Trường Hà
Phú (Hà Trung) {100, tr.9}.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai (12/1972), Thanh Hoá
một lần nữa trở thành trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Riêng thị xã Thanh
Hoá, bom đạn Mỹ đã tàn phá 25 trường học, giết hại 30 giáo viên, giáo sinh; 30
giáo viên, giáo sinh bị thương {123, tr.12}
Tuy nhiên, điều đó không làm cho thầy trò Thanh Hoá nản chí, không làm
cho sự nghiệp giáo dục Thanh Hoá lùi bước. Trái lại, trong hoàn cảnh vừa chiến
đấu, vừa sản xuất, vừa chiến đấu vừa học tập, thầy trò các trường đã vượt muôn
vàn khó khăn để trong bất kỳ tình huống nào cũng đảm bảo được học tập; sự
nghiệp giáo dục của Thanh Hoá vẫn vững bước tiến lên.
3.2.1. Chỉ đạo công tác phòng không, sơ tán
Công việc đầu tiên và cấp bách của Đảng bộ Thanh Hoá đối với ngành giáo
dục thời kỳ này là chỉ đạo công tác phòng không, sơ tán các trường học, đảm bảo
an toàn cho thầy và trò, chăm lo sức khoẻ học sinh, đảm bảo việc giảng dạy và học
tập và các hoạt động giáo dục khác của nhà trường. Đây là công việc to lớn, khó
khăn và phức tạp. Với những chủ trương kịp thời của Đảng bộ tỉnh, nên mặc dù
trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh hay trong điều kiện khắc nghiệt của thời tiết
(bão gió, lụt lội…) giáo dục Thanh Hoá vẫn từng bước phát triển và đạt được
những thành tích to lớn có ý nghĩa quan trọng, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng
của tỉnh, của cả nước.
Nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh, giáo viên trong năm học
chống Mỹ cứu nước đầu tiên, ngay từ năm học 1965-1966, các trường học tiến
hành sơ tán triệt để. Trong nội thị, các trường cấp I được chuyển về học tại các hợp
tác xã trong huyện Đông Sơn, Quảng Xương và ngoại tỉnh. Các trường thuộc các
huyện xung quanh thị xã phải sẵn sàng tiếp nhận vô điều kiện số học sinh thị xã
xin sơ tán về. Các trường cấp II được chia nhỏ về từng xã. Các xã có điều kiện thì
thành lập trường cấp II. Các xã chỉ có vài lớp đầu cấp thì gắn vào với trường cấp I.
Mỗi huyện thí điểm 1-2 trường cấp I-II. Riêng trường cấp III dưới 9 lớp phân làm
2 chi, từ 9-10 lớp trở lên chia thành 3 chi đặt ở những khu vực trung độ để hạn chế
bớt số học sinh phải đi trọ {14, tr.7}. Theo đó, học sinh sơ tán về địa phương nào
thì tiếp tục được học tại đó. Tại nơi sơ tán, các Ban đại diện nhân dân được thành
lập nhằm tạo nên sự gắn bó giữa chính quyền với nhân dân, đảm bảo mọi hoạt
động có hiệu quả. Những khu vực đông học sinh sơ tán về, Ty giáo dục đã điều
động giáo viên ở thị xã đến giảng dạy. Các nhà trường đã tranh thủ được sự giúp
đỡ một phần của Nhà nước, đồng thời, dựa vào dân để đảm bảo đầy đủ trường lớp,
bàn ghế, đồ dùng dạy học, sách giáo khoa, giấy bút, ánh sáng cho việc giảng dạy
và học tập ngay trong thời chiến. Đặc biệt là học sinh sơ tán vẫn được hưởng
những quyền lợi như cấp học bổng, miễn giảm học phí…như trước.
Các trường học nằm trong khu vực trọng điểm phòng không, sát trục giao
thông quan trọng, kề bên các cầu phà nhất quyết không dùng. Các trường thuộc
khu vực khác chỉ đặt mỗi buổi 2 lớp. Các lớp còn lại đặt ở nhà dân, trụ sở hợp tác
xã… Các trường chủ động bám trụ đào hào giao thông, đắp hầm chữ A trên đường
đi học. Học sinh đội mũ rơm, áo ngụy trang khi đến lớp. Trước sự đánh phá ngày
càng ác liệt của đế quốc Mỹ, các buổi học đã được tổ chức vào ban đêm. UBND
tỉnh yêu cầu kiểm tra lại nơi đặt lớp học, phải đảm bảo là nơi an toàn nhất, sơ tán
dễ dàng nếu bị đánh phá. Những vùng bị đánh phá ác liệt chia lớp làm 2, giáo viên
dạy 2 buổi. Cấp I chỉ học 2 môn văn-toán. Các lớp cấp II, cấp III cách nhau ít nhất
100m theo hướng “Trường tương đối tập trung, lớp triệt để phân tán”. Mỗi lớp tối
đa 40 học sinh. ở những vùng trọng điểm, mỗi lớp chỉ có khoảng 30 học sinh. ở
miền núi và vùng rẻo cao, số học sinh mỗi lớp của mỗi cấp được bố trí thích hợp
với tình hình, đặc điểm của từng địa phương theo phương châm “Thầy tìm trò,
trường gần dân”. Vì vậy, có nơi dù ít học sinh nhưng vẫn mở lớp đảm bảo an toàn
và sức khoẻ cho học sinh.
Tại các địa phương đã nhanh chóng tiếp nhận, tổ chức học tập, sinh hoạt cho
học sinh sơ tán. Trong đó, Đông Sơn nhận 2430 học sinh; Quảng Xương: 800 học
sinh; các huyện khác: 1000 học sinh. Tính đến năm 1968, về phổ thông cấp I, cấp
II đạt 95% học sinh có nơi học tập. {98, tr.7}.
Nét đặc biệt của GDPT Thanh Hoá trong thời kỳ này là các lớp ở khu phố
nông nghiệp do không tổ chức sơ tán nên vẫn tiếp tục học tập với nhiều hình thức
độc đáo, trong đó nổi bật là hình thức học trong hang. Với các tỉnh vùng ven biển,
mặc cho bom đạn giặc Mỹ trút xuống, đại bác của giặc Mỹ từ ngoài biển bắn vào,
lớp vẫn học trong lòng đất, trong giao thông hào.
Với tinh thần lớp dù đặt ở đâu cũng phải có hầm hố bảo đảm, phải trồng
thêm cây cối che phòng kín đáo, nếu học sinh nhỏ thì dân quân, thanh niên, phụ
huynh đến đào hào hố và trồng cây bảo vệ các em, nếu vì vấn đề đào hào hố, trồng
cây nguỵ trang mà ảnh hưởng đến đất tăng gia của dân thì hợp tác xã cần cắt đất
tạm bù nơi khác, tuyệt đối không được vì tiếc một ít đất mà các em không có hào
hố an toàn, các trường phổ thông Thanh Hoá đã thực hiện thắng lợi chủ trương
phòng không, sơ tán của Đảng bộ tỉnh trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại
ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ.
3.2.2. Tiếp tục phát triển GDPT
Bằng quyết tâm bất kể trong tình huống nào sự nghiệp giáo dục cũng phải
tiếp tục phát triển mạnh mẽ, con em nhân dân Thanh Hoá vẫn phải được học hành
tiến bộ, nên mặc dù điều kiện học tập thời kỳ này gặp rắt nhiều khó khăn, nhưng số
học sinh phổ thông ở toàn tỉnh sụt không đáng kể. Năm học 1966-1967, ngay ở
khu vực thị xã, Hàm Rồng và một số nơi khác, hằng ngày vẫn phải trực tiếp chiến
đấu với kẻ thù nhưng vẫn đảm bảo học tập đều đặn. Trong số 2 ngàn học sinh cấp
II ở thị xã chỉ sụt có 7 em {14, tr.4}. Đó là một hiện tượng rất đáng mừng trong
việc phát triển kế hoạch giáo dục và chính cũng là tác dụng của kinh nghiệm vận
động học sinh của các giáo viên trường Hải Nhân mà các nơi đã tích cực vận dụng
một cách sáng tạo.
Trong 2 năm chống chiến tranh phá hoại, các cấp phổ thông đều được tập
trung phát triển. Chỉ tính riêng huyện Hoằng Hoá, đã có 47 trường cấp 1, 34 trường
cấp II và 2 trường cấp III. Huyện Thạch Thành với dân số 54.000 mà đã có tới
10.000 học sinh phổ thông. Nếu so với trước khi có phong trào Hải Nhân thì cấp I
tăng gấp đôi, cấp II tăng gấp ba lần và cấp III tăng gấp 7 lần {95, tr.23}.
Tại các vùng miền biển, các trường phổ thông Thuỷ sản cấp II ở miền biển
được giữ vững và củng cố. Các trường này chiêu sinh con em ngư dân trong độ
tuổi có thể lấy tới 14-15, thực sự là trường vừa học, vừa làm. Để đáp ứng yêu cầu
phát triển công nghiệp địa phương và phát triển nghề cá, Ban Cán sự Giáo dục
cùng với Thị uỷ chuyển trường Lam Sơn thành trường phổ thông công nghiệp cấp
III và tổ chức thí điểm một số trường phổ thông Thuỷ sản cấp III tại Hậu Lộc. Các
Ty Công nghiệp và Thuỷ sản tại các huyện vùng biển đã cùng với ngành Giáo dục
cùng xây dựng 2 trường này, cung cấp phương tiện, cử cán bộ chuyên môn sang
dạy kỹ thuật, bố trí cơ sở thực hành cho học sinh…
Tại miền núi và vùng dân tộc ít người, sự nghiệp GDPT được phát triển
không ngừng. Hệ thống trường lớp ngày càng được mở rộng. Việc vận động
phương châm “Thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, Nhà trường và nhân dân
phối hợp” đã có kết quả bước đầu. Hầu hết các chòm bản có từ 30 hộ trở lên đều đã
có các lớp phổ thông cấp I. Xã nào cũng có trường cấp I hoàn chỉnh. Trong số 149
xã của 8 huyện miền núi đã có 125 xã có trường cấp 2 và trong số 8 huyện đã có 6
huyện có trường cấp 3. {126, tr.14}.
Từ năm 1968, các hình thức trường lớp thích hợp được phát triển rộng rãi
như hình thức lớp 1 đặc biệt; hình thức nội trú theo thời vụ; hình thức các lớp
ghép...Nhờ đó mà từng bước giải quyết được tình trạng bỏ học nhất là ở các lớp
dưới, tạo điều kiện cho các em học tập đều đặn. Dân tộc Tính cứ 4,8 người dân có
1 học sinh; dân tộc Thổ cứ 3,5 người dân có 1 học sinh phổ thông {126, tr.16}.
Sau chiến tranh, các trường lớp trong toàn tỉnh đã nhanh chóng được di
chuyển từ nơi sơ tán về địa phương. Việc khôi phục trường lớp, ổn định cơ sở vật
chất, tổ chức việc dạy-học được tiến hành nhanh chóng. Các trường tổ chức khai
giảng năm học mới. Năm học 1973-1974, học sinh cấp I tăng 6,2%, cấp II tăng
15%; cấp III tăng 27% (so với năm học 1972-1973). Hầu hết học sinh mãn khoá
lớp 4, lớp 5, trên 30% học sinh mãn khoá lớp 7 vào học lớp 8 {27, tr.8}.
Đặc biệt, trong thời kỳ này, nhiều học sinh quá tuổi vỡ lòng được thu nhận
vào lớp 1 đặc biệt. Đây cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện để
nhanh chóng thực hiện chủ trương phổ cập cấp I. Tính đến năm học 1974-1975,
toàn tỉnh đã có trên 66 vạn người đi học, trong đó có gần 3,3 vạn học sinh mẫu
giáo bé, trên 9,4 vạn học sinh vỡ lòng, 30,5 vạn học sinh cấp I với 601 trường, trên
16,4 vạn học sinh cấp II với 540 trường, gần 2,2 vạn học sinh cấp III với 29
trường. Trung bình cứ mỗi xã có 7 lớp vỡ lòng và mẫu giáo, 1-2 trường cấp I (có
50 xã có trường cấp I) với quy mô bình quân mỗi trường miền xuôi 15 lớp, miền
núi 14 lớp. 93% số xã và khu phố có trường cấp II (522 trường/560 xã) với quy mô
bình quân mỗi trường miền xuôi 8 lớp, miền núi 5 lớp. Toàn tỉnh có 29 trường cấp
III với quy mô bình quân mỗi trường miền xuôi 17 lớp, miền núi 8 lớp {125,
tr.14}.
Tóm lại, sự nghiệp GDPT Thanh Hoá thời kỳ này đã phát triển với tốc độ
nhanh, quy mô lớn. Mạng lưới trường lớp đã được tổ chức ở khắp nơi trong tỉnh.
Nhờ đó, đáp ứng được nguyện vọng sâu xa của nhân dân là được học hành, ai đến
tuổi đi học đều có chỗ học, tạo cơ sở để thực hiện sự công bằng giữa mọi người,
mọi gia đình trong xã hội, sự bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước xoá bỏ sự cách
biệt giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay.
Bên cạnh những tiến bộ về phát triển số lượng, công tác GDPT đã có những
chuyển biến trong việc giữ vững và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, “Trường lớp là trận địa, giáo viên là chiến sĩ,
quyết tâm dạy thật tốt, học thật tốt, xây dựng nhà trường chống Mỹ cứu nước”. Các
đợt thi đua nhân kỷ niệm các ngày lịch sử với nội dung phong phú được phát động
liên tục trong năm học. Đặc biệt là phong trào thi đua “Hai tốt” do Hồ Chủ tịch
phát động, sau gần 10 năm thực hiện đã có nhiều điển hình xuất sắc được hình
thành. Ngay từ ngày khai giảng năm học 1964-1965, phong trào “thi đua Hai tốt
“Làm theo Hải Nhân, học tập, đuổi kịp và tiến vượt Hải Nhân” đã trở thành khẩu
hiệu hành động của các trường học, giáo viên và học sinh Thanh Hoá.
Phong trào thi đua Hải Nhân do Tỉnh uỷ phát động chính là biểu hiện cụ thể
và sinh động của phong trào thi đua “Dạy thật tốt, học thật tốt phục vụ sản xuất,
phục vụ quốc phòng”. Phong trào được phát động sâu rộng trong các nhà trường ở
tỉnh nhằm đưa sinh hoạt nhà trường vào nền nếp đồng thời từng bước nâng cao
chất lượng giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết, phẩm chất, đạo đức của học sinh.
Thực hiện phong trào thi đua Hai tốt, học tập và làm theo các điển hình tiên
tiến trong ngành giáo dục (1971-1975), ngành Giáo dục Thanh Hoá tổ chức cuộc
vận động ở các địa phương với phương châm “Tích cực, kiên trì, vững chắc, sáng
tạo”. Cuộc vận động được tiến hành trong 3 năm 1971-1974 đã tạo được sự chuyển
biến về tư tưởng theo mục tiêu, nguyên lý phương châm giáo dục của Đảng ở các
cấp bộ Đảng, chính quyền, ngành giáo dục và quần chúng nhân dân.
Hội nghị sơ kết tình hình 4 năm thực hiện cuộc vận động thi đua Hai tốt, học
tập và làm theo các điển hình tiên tiến trong ngành giáo dục (1971-1975) đã tuyên
dương các điển hình tiên tiến xuất sắc như: Trường cấp I Hải Nhân 10 năm giữ
vững ngọn cờ đầu trong giáo dục phổ thông cấp I toàn miền Bắc; Trường cấp I Phù
Nhi (Quan Hoá) “Điển hình đặc sắc của sự thực hiện phương châm phát triển giáo
dục miền núi-Thầy tìm trò, trường gần dân, quy mô nhỏ, nhà nước cùng nhân dân
phối hợp”; Hoằng Trinh, huyện Hoằng Hoá-đơn vị tiên tiến liên tục đã kiên trì
giáo dục toàn diện.
Trong 2 năm học học (1972-1973 và 1973-1974) đã có nhiều điển hình đã
nổi lên như Trường cấp II Tố Như - mặt mạnh truyền thống và nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động dạy và học... Trường cấp III Như Xuân thể hiện tinh thần và khí
thế thi đua học tập và làm theo tiên tiến khá sôi nổi; Trường cấp I Hoằng Lộc,
Hoằng Trinh (Hoằng Hoá), Đông Hoà (Đông Sơn), Thọ Hải (Thọ Xuân), Yên Quý
(Yên Định), Cẩm Tân (Cẩm Thuỷ), Hoà Lộc (Hậu Lộc), Quảng Đức (Quảng
Xương)…cấp III Lam Sơn, Thọ Xuân I… Một điều kỳ diệu là trong khó khăn-gian
khổ, trong đạn bom khói lửa, chất lượng giáo dục vẫn không ngừng phát triển.
Điển hình là các trường huyện Hoằng Hoá-Huyện có phong trào giáo dục khá nhất
tỉnh {28, tr.12}.
Hội nghị cũng khẳng định GDPT Thanh Hoá đã hình thành được một mạng
lưới các đơn vị tiên tiến khá vững chắc ở tất cả các bậc học, ở cả miền xuôi và
miền núi. Các điển hình tiên tiến là những thực tế chứng minh cho tinh thần cách
mạng của cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường…Nếu năm học 1971-1972, cấp
I: 42 đơn vị tiên tiến; cấp II: 40; cấp III: 5 thì đến năm học 1974-1975, số lượng
đơn vị tiên tiến các cấp đã tăng tương ứng là: 171(cấp I); 170 (cấp II); 5 (cấp III)
{125, tr.7}. Đó cũng là những điển hình sinh động thực hiện những nguyên lý giáo
dục mà Đảng ta đề ra: Sự nghiệp giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, giáo
dục phải kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động xã hội; công tác giáo dục là sự
nghiệp cách mạng của quần chúng do Đảng lãnh đạo.
Trong thời chiến, ngành giáo dục Thanh Hoá không chỉ đảm bảo phát triển
giáo dục địa phương mà còn có những đóng góp xã hội tích cực. Đó là sự tham gia
của một bộ phận giáo viên, học sinh vào lực lượng vũ trang nhân dân, chiến đấu
trực tiếp chống đế quốc Mỹ. Là huyện dẫn đầu toàn tỉnh trong việc chi viện cho
miền Nam, Hoằng Hoá đã có 100 giáo viên lên đường nhập ngũ, 30 giáo viên làm
công tác giáo dục, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đắp đê, làm thuỷ lợi,
giao thông…Mỗi năm, có hàng ngàn lượt giáo viên, học sinh tham gia các công tác
xã hội trên. Trường cấp III huyện Hậu Lộc trong khoảng 10 năm (1964-1965), từ
ngày thành lập đến ngày kết thúc kháng chiến chống Mỹ có 6.866 học sinh đã có
gần một ngàn người lên đường đánh giặc; 133 người trong số này là liệt sĩ...
Đáng ghi nhận và cần phải nhắc đến là nhiều tấm gương của học sinh, giáo
viên của tỉnh đã được tuyên dương. Đặc biệt là những tấm gương quên mình cứu
bạn của em Trần Thị Vệ, Nguyễn Bá Ngọc (học sinh cấp I); ý chí của thế hệ trẻ đối
với đất nước trước sự xâm lược của kẻ thù, coi “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận
tuyến chống quân thù” của Lê Mã Lương-học sinh cấp II nhập ngũ khi vừa 17
tuổi…Hình ảnh của các em vừa có tác dụng giáo dục tinh thần dũng cảm, giáo dục
lòng tự hào về truyền thóng anh hùng của dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
tinh thần ba sẵn sàng, xả thân vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước vừa có tác dụng
nhen lên trong tâm hồn non trẻ của các em khí phách anh hùng, bồi dưỡng cho học
sinh thái độ học tập đúng đắn.
Có thể nói, qua những năm tháng rèn luyện, nhà trường thực sự trở thành
pháo đài của CNXH. Nhà trường đã tích cực vận dụng chức năng, lực lượng của
mình để phát huy tác dụng đối với địa phương, góp phần đắc lực vào việc đẩy
mạnh công cuộc cách mạng tư tưởng-văn hoá cách mạng, vào sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước.
3.2.3. Về hoạt động đảm bảo các điều kiện dạy và học
Sau hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, sau trận bão lụt năm
1973, hầu hết các trường lớp bị tàn phá. Chỉ tính riêng các trường phổ thông và sư
phạm đã bị thiệt hại trên 4.000 phòng học, trên 4.000 bộ bàn ghế, hàng vạn cuốn
sách giáo khoa và nhiều dụng cụ, thiết bị khác {25, tr.4}. Trước tình hình đó, Hội
nghị Thường vụ Tỉnh uỷ (tháng 10/1973) bàn về tình hình phát triển cấp III phổ
thông đã được tổ chức. Hội nghị thảo luận và chủ trương mở rộng quy mô trường
cấp III Lam Sơn, chia trường Lam Sơn thành 3 trường:
- Trường cấp III phổ thông Lam Sơn: 15 lớp
- Trường phổ thông cấp III thị xã 2: 15 lớp
- Trường Phổ thông cấp III năng khiếu về văn và toán của tỉnh: 6 lớp.
Mặc dù giáo dục phổ thông Thanh Hoá lúc này gặp rất nhiều khó khăn về
xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở rộng quy mô phát triển giáo dục nhưng
đây là một thực tế đòi hỏi cần phải giải quyết cấp bách. Vì vậy, tháng 11/1973,
UBHC tỉnh đã quyết định:
- Thành lập và xây dựng trường phổ thông cấp III thị xã
- Các lớp học cấp III năng khiếu về văn toán (học tại trường cấp III Lam
Sơn) khi có điều kiện sẽ tách thành trường riêng.
- Trường cấp III Lam Sơn được mở thêm 2 lớp 8 phổ thông với 100 học sinh
ngay trong năm học 1973-1974.
Do vậy, đến năm học 1974 - 1975, mạng lưới trường lớp đã được tổ chức ở
khắp nơi trong tỉnh. Trước sự phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh của ngành
giáo dục, UBHC tỉnh đã có chủ trương huy động mọi khả năng để tu bổ, mở rộng,
xây dựng mới trường sở, mua sắm thiết bị cho việc giảng dạy của giáo viên và học
tập của học sinh.
Thực hiện chủ trương này, Ban vận động kiến thiết trường sở của xã, huyện,
tỉnh được thành lập với nhiệm vụ lập quy hoạch xây dựng trường sở, mua sắm thiết
bị, vận động nhân dân đóng góp tiền, vật liệu...để xây dựng trường sở. Đồng thời,
có nhiệm vụ xin vốn, vật liệu từ các ngành; tổ chức thi công hoặc giao thầu cho các
đơn vị khác thi công...
Bên cạnh việc xây dựng trường sở, các nhiệm vụ giải quyết trang thiết bị cần thiết cho nhà trường
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh cũng được đề cập tới. Năm
1975, Ty Giáo dục Thanh Hoá có chủ trương phấn đấu xây dựng mỗi trường một
tủ sách ba ngăn, trong đó: ngăn sách giáo khoa dùng chung cho học sinh bảo đảm
từng bước cung cấp đủ sách cho học sinh không phải trả tiền hoặc chỉ phải trả một
số tiền lộ phí rất nhỏ. Phấn đấu đảm bảo cung cấp học sinh của các cấp học đủ sách
giáo khoa, sách đọc thêm; cho giáo viên đủ sách hướng dẫn, sách nghiệp vụ, sách
bồi dưỡng và sách tham khảo.
Cơ sở vật chất trường học giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát
triển giáo dục. Cơ sở vật chất thiếu thốn, nhà trường không những không thực hiện
được nhiệm vụ rèn luyện, đào tạo con người lao động mới theo yêu cầu của công
cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước mà còn làm ảnh hưởng
đến cả sức khoẻ của người học và người dạy lâu dài về sau. Nếu không có cơ sở
vật chất và thiết bị, nếu dạy và học không có thí nghiệm và thực hành thì việc dạy
và học chỉ là sách vở, trừu tượng. Cùng với nguồn vốn từ Nhà nước, nhờ huy động
sự đóng góp tích cực của nhân dân, ngành Giáo dục đã bước đầu đảm bảo được số
lượng trường lớp, thiết bị cơ sở vật chất cho trường học, đáp ứng nhu cầu học tập
ngày càng tăng của học sinh trong tỉnh.
Để phát triển giáo dục một cách vững chắc, nâng cao chất lượng giáo dục
một cách toàn diện, một trong những biện pháp cơ bản là tiến hành phát triển, đào
tạo, bồi dưỡng đội cán bộ quản lý và giáo viên các cấp.
Nhiệm vụ trung tâm của giáo dục là bồi dưỡng nâng cao chất lượng giáo
viên. Nó xuất phát từ vai trò của người thầy giáo là nhân tố quyết định của nhà
trường XHCN. Nhận rõ tầm quan trọng của người thầy giáo, Ty Giáo dục đã tổ
chức hội nghị hiệu trưởng cấp I, cấp II để học tập chỉ thị 16CT/BD của Bộ Giáo
dục về công tác bồi dưỡng văn hoá và nhiệm vụ cho giáo viên. Bên cạnh đó, hàng
nghìn giáo viên cấp I đã tham gia học trung học hoàn chỉnh. Hàng nghìn giáo viên
cấp II chưa toàn cấp được cử đi bồi dưỡng tập trung tại trường. Hầu hết cán bộ
quản lý các huyện miền núi được bồi dưỡng về nghiệp vụ. Hàng nghìn cán bộ quản
lý các trường cấp I, II miền xuôi được bồi dưỡng ngắn hạn. Đặc biệt một số huyện
đã phát động được phong trào tự học và bước đầu đạt được kết quả đáng khả quan
như Nông Cống, Thạch Thành, Hậu Lộc… Ngoài việc bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, giáo viên còn thường xuyên được bồi dưỡng về tình hình nhiệm vụ,
đường lối chính sách của Đảng, của ngành.
Bên cạnh đó, các chế độ chính sách đối với giáo viên và những người làm
công tác giáo dục cũng được thực hiện đầy đủ, đặc biệt là đối với GDPT ở miền
núi:
Cán bộ, giáo viên công tác ở miền núi sau 3 năm được phụ cấp thâm niên
bằng 3% lương chính. Sau đó, mỗi năm được thêm 1% cho đến nhiều
nhất không quá 25% lương chính.
Cán bộ, giáo viên công tác liên tục ở miền núi cứ 3 năm được cộng thêm
1 năm để tính tuổi công tác khi xét hưu trí.
Giáo viên dạy trường nội trú sẽ được hưởng 5% so với lương chính
Giáo viên cấp I nếu được Phòng Giáo dục giao trách nhiệm dạy lớp trên
vì thiếu giáo viên hoặc dạy lớp ghép... thì được hưởng tiền phụ cấp.
Tất cả các khoản phụ cấp khu vực, chuyển vùng được thực hiện theo chế
độ đã được quy định.
Đối với giáo viên ở miền xuôi lên công tác ở miền núi được nghỉ hè 1
tháng 15 ngày nguyên lương theo quy định. Nếu quá xa được cộng thêm
ngày đi về. Giáo viên người dân tộc ít người được nghỉ tết của dân tộc
mình. Thời gian nghỉ bằng thời gian nghỉ tết nguyên đán{135, tr.29}.
Nhằm đẩy mạnh nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên hơn nữa, đội ngũ
hướng dẫn viên đã được xây dựng để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng. Ban bồi
dưỡng do UBHC Thanh Hoá phụ trách cũng được thành lập. Kết quả qua đợt bồi
dưỡng hè 1969, giáo viên đã tiếp thu những kiến thức, phương pháp, kỹ năng cơ
bản về chính trị, văn hoá và nghiệp vụ. Bên cạnh đó, nhiều hình thức hoạt động đã
diễn ra như xây dựng mạng lưới chuyên môn liên trường, tổ chức nhiều lớp chuyên
đề để nâng cao năng lực giáo viên. Cải tiến nội dung và phương pháp với phong
trào 3 kỹ (soạn kỹ, giảng kỹ, chấm kỹ).
Song song với công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên
đã và đang được đẩy mạnh, bằng các hình thức bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng tại
chức và phát động phong trào tự học tập bồi dưỡng trong các trường.
Về phát triển giáo viên, số giáo viên cũng tăng lên nhanh chóng qua từng năm.
Năm 1972-1973 từ 17.000 giáo viên đã tăng lên gần 20.000 (năm học 1973-1974).
Trong đó, số giáo viên trẻ chiếm gần 80% {28, tr.8}. ở miền núi, số lượng giáo
viên cũng ngày càng tăng qua các năm. Riêng giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số
cũng có những bước phát triển đáng khích lệ. Như vậy, số giáo viên miền xuôi lên
công tác chiếm tỷ lệ khá cao. Do hoàn cảnh thực tế của miền núi, và do yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng mà miền núi, miền xuôi ngày càng được củng cố mối
quan hệ khăng khít và hỗ trợ nhau về mọi mặt. Để tiến hành ổn định đội ngũ giáo
viên miền núi, Ty Giáo dục đã tăng cường đào tạo giáo viên địa phương, đồng thời
có chủ trương thuyên chuyển giáo viên miền xuôi. Năm 1970, ngành Giáo dục đã
bàn tới vấn đề kết nghĩa giữa các huyện miền núi, miền xuôi với nội dung không
những chỉ nhằm giải quyết theo hướng ổn định đội ngũ giáo viên miền núi mà còn
nhằm tương trợ nhau một cách thường xuyên về mặt kinh nghiệm giảng dạy, tài
liệu giáo khoa, xây dựng cơ sở vật chất và phương pháp chỉ đạo của phòng, hoạt
động của tổ nghiệp vụ...
Có thể nói, sự nghiệp giáo dục ở miền núi phát triển đã phục vụ ngày càng
tốt hơn đối với 3 cuộc cách mạng ở 8 huyện vùng này. Trước hết đó là vấn đề đào
tạo lớp người mới cho các dân tộc ở miền núi. Công tác giáo dục đã làm cho cán
bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên và quần chúng nhân dân thuộc các dân tộc
biết chữ tạo cơ sở để nâng cao trình độ giác ngộ về tư tưởng, tiếp thu văn hoá, khoa
học kỹ thuật. Để đào tạo đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của
ngành, đồng thời thực hiện khẩu hiệu “Dân tộc nào có giáo viên của dân tộc ấy”,
trong 10 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã quyết
định cho mở các trường sư phạm ở miền núi, nhằm đào tạo con em các dân tộc trở
thành giáo viên-“lực lượng cốt cán cho ngành” của các dân tộc.
Trong suốt chặng đường phát triển, ngành Giáo dục Thanh Hoá đào tạo xây
dựng được một đội ngũ giáo viên đông đảo, đáp ứng kịp thời yêu cầu sự nghiệp
giáo dục của tỉnh và yêu cầu chi viện tiền tuyến cũng như yêu cầu của giáo dục
vùng giải phóng miền Nam. Với việc mạnh dạn phát triển các trường sư phạm,
ngành giáo dục Thanh Hoá đã chấm dứt được việc đào tạo cấp tốc và có điều kiện
để nâng cao yêu cầu đào tạo lên trình độ 10+3 đối với giáo viên cấp II ở miền xuôi;
7+3 đối với giáo viên cấp II ở miền núi; 10+2 đối với giáo viên cấp I ở miền xuôi;
7+2 đối với giáo viên cấp I miền núi.
3.2.4. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên mặt trận giáo dục
Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ
tịch đã có chủ trương chuyển các cháu học sinh ở Vĩnh Linh, Quảng Bình sơ tán ra
các địa phương ở Bắc khu IV để nuôi dạy, học tập. Đây là công tác có tầm quan
trọng đặc biệt và có ý nghĩa chính trị rất lớn.
Thanh Hoá được Trung ương giao nhiệm vụ trung chuyển các cháu học sinh
miền trong sơ tán ra các tỉnh miền ngoài và nhận một số cháu để nuôi dạy học tập.
Việc đón tiếp và nuôi dạy học sinh miền trong ra sơ tán được lãnh đạo tỉnh coi đó
là kế hoạch đột xuất đặc biệt mà các ngành, các cấp, các địa phương trong tỉnh có
liên quan phải quan tâm đúng mức và ưu tiên đặc biệt. Ban Đón tiếp đã tổ chức
trung chuyển học sinh ra các tỉnh miền Bắc, đến các huyện, xã trong tỉnh và tổ
chức cấp phát quần áo, đồ dùng... cho các cháu do nhân dân Thanh Hoá nuôi
dưỡng.
Tính đến tháng 3/1968, Thanh Hoá đã tổ chức đón tiếp 7.040 người, trong
đó có 6.635 học sinh. Riêng 10 ngày, từ ngày 1-10/3/1968, đã đón tiếp 6.185 học
sinh. Mặc dù địch thường xuyên đánh phá ác liệt nhưng công tác trung chuyển
luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hơn 18 tháng thực hiện kế hoạch, Ban Đón tiếp Kế
hoạch 8 Thanh Hoá đã đảm bảo an toàn tuyệt đối cho 34.223 người di chuyển trên
các tuyến đường dài hơn 500 km {127, tr.9}. Tổ chức tốt việc cấp phát tư trang cho
các cháu thuộc diện nhân dân Thanh Hoá nuôi dưỡng.
Tại Thanh Hoá, số học sinh từ miền trong ra học tập từ đầu kế hoạch đến
13/1/1968 gồm: 3.572 học sinh cấp I; 724 học sinh cấp II; 19 học sinh cấp III và
998 cháu học mẫu giáo vỡ lòng. 3.766 học sinh đợt I được học tập tại Thọ Xuân,
Yên Định, Thiệu Hoá đã tổ chức và khai giảng ngay từ đầu kỳ I niên khoá 1967-
1968. Số học sinh ra đợt 2, đợt 3 cũng được tổ chức học tập ngay học kỳ II tại
huyện Triệu Sơn, Thọ Xuân...{127, tr.13}. Cũng trong năm đó, Ban lãnh đạo nuôi
dạy các cháu ở tỉnh được thành lập với nhiệm vụ đẩy mạnh tiếp đón nuôi dạy các
cháu từ huyện xuống. Các trường có học sinh miền trong sơ tán ra đến học không
những quan tâm dạy học các cháu mà còn chú ý đến việc giáo dục toàn diện, kết
hợp giữa gia đình, học đường và đoàn thể để giáo dục. Đồng thời, phân công giáo
viên về các hợp tác xã tìm hiểu tình hình của các cháu; hàng tháng tổ chức sinh
hoạt cho các cháu... Nhìn chung, vấn đề ăn ở học tập và sức khoẻ của học sinh dần
được đi vào ổn định và nề nếp. Nó thể hiện ý nghĩa chính trị và tình cảm giữa các
địa phương, giữa gia đình và các cháu...
Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh cũng quan tâm chỉ đạo chặt chẽ các trường có
học sinh K8 để bố trí công tác hợp lý, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết
lương bổng và các chế khác kịp thời cho giáo viên. ở nhiều trường, giáo viên đã
quan tâm, chăm sóc, luôn gần gũi, động viên các cháu. Nhà trường cung cấp đủ
sách giáo khoa, bố trí các cháu có khả năng làm cán bộ học sinh, cán bộ đội thiếu
niên tiền phong, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu...
Sau 18 tháng thực hiện kế hoạch, lãnh đạo tỉnh đã bước đầu rút ra một số
kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm của các địa phương trong việc nuôi dạy học
sinh từ miền trong ra như: công tác chính trị tư tưởng phải đặt lên hàng đầu, tiến
hành thường xuyên; công tác chính trị tư tưởng phải lấy việc nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, động viên cổ vũ người tốt việc tốt, phải nghiêm khắc phê phán quan
điểm phong kiến và tư tưởng tư lợi; vấn đề lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các
ngành là quyết định.
Việc tổ chức, quản lý và bảo vệ, nuôi dưỡng các cháu từ trong ra là một
nhiệm vụ quan trọng của nhà trường và có một ý nghĩa chính trị to lớn. Ngành
Giáo dục Thanh Hoá thời kỳ này đã nỗ lực hết mình nhằm xứng đáng với trách
nhiệm của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Bên cạnh công tác nuôi dạy học sinh từ miền trong sơ tán ra, ngành Giáo
dục Thanh Hoá thời kỳ này tiếp tục xây dựng các trường học sinh miền Nam nội
trú. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc nuôi dạy học
sinh miền Nam, các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hà
Bắc... đã xây dựng thêm các khu trường nội trú mới bảo đảm đủ chỗ ăn, ở học tập
cho 10.000 học sinh và cán bộ, giáo viên, nhân viên phục vụ trong 2 năm 1974-
1975. Riêng Thanh Hoá xây dựng trường học sinh nội trú cho 2.000 học sinh.{46,
tr.23}. Năm 1974, hai trường học sinh miền Nam đặt tại huyện Hà Trung, Thanh
Hoá được thành lập là Trường Học sinh miền Nam số 16 và Trường Học sinh miền
Nam số 17 với nhiệm vụ tổ chức tốt việc nuôi, dạy học sinh miền Nam theo đúng
đường lối, chính sách, quy chế, thông tư, chỉ thị của Chính phủ, Bộ Giáo dục và
Uỷ ban Hành chính tỉnh Thanh Hoá...
Chủ trương xây dựng trường học sinh miền Nam nội trú đã thể hiện sự quan
tâm của Đảng, Chính phủ, địa phương đối với con em học sinh miền Nam. Từ năm
1954, giáo dục Thanh Hoá đã tiếp nhận và tổ chức tốt việc học tập cho con em
miền Nam và nhiều cán bộ miền Nam. Đó là những hạt giống quý của cách mạng
miền Nam sau này.
Việc nuôi dưỡng và đào tạo học sinh Lào cũng được xác định là một trong
những công tác rất khẩn trương, phức tạp và quan trọng. Theo sự thoả thuận giữa
Đảng ta và Đảng Nhân dân Lào, ta đồng ý nhận đào tạo 4.000 học sinh Lào gửi
sang Việt Nam trong 2 năm 1969 và 1970, từ lớp vỡ lòng trở lên. Học sinh gồm
con em cán bộ, bộ đội, thương binh, tử sĩ và gia đình có công với cách mạng.
Thanh Hoá là tỉnh được phân công nhận đào tạo và nuôi dưỡng học sinh Lào
nhiều nhất trong các tỉnh được phân bố. Số học sinh Lào được chia về 2 trường:
Trường Phổ thông miền núi 3 và 4 đặt tại Huyện Ngọc Lặc và Thọ Xuân. Đội ngũ
học sinh này không những là một lực lượng nòng cốt kế tục sự nghiệp của cách
mạng Lào mà còn là lớp người củng cố, giữ vững và phát triển mối quan hệ hữu
nghị lâu dài giữa 2 Đảng, 2 dân tộc. Các trường đã có cố gắng bước đầu bố trí sắp
xếp các em có nơi ăn, nơi ở, học tập... nhằm đào tạo cho các cháu Lào có sức khoẻ,
có văn hoá, có tinh thần yêu nước, yêu lao động, yêu nhân dân để sau này trở về
nước sẵn sàng tham gia chiến đấu và xây dựng nước Lào hoà bình, độc lập, trung
lập, thống nhất dân chủ và thịnh vượng.
Năm 1973, thực hiện chủ trương của Chính phủ, UBHC tỉnh đã có chỉ thị
yêu cầu:
- Ty Giáo dục chủ trì, với sự tham gia của các ngành Tài chính, Lương thực,
Thương nghiệp, Công an, Y tế tổ chức kiểm tra toàn bộ công tác nuôi, dạy, quản
lý, xây dựng của 2 trường.
- Ty Giáo dục cùng với Ban Giám hiệu 2 trường tiến hành đợt giáo dục tư
tưởng, chính trị trong cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong công tác.
Đồng thời với việc chấn chỉnh đó, UBHC tỉnh đã quyết định giao nhiệm vụ
quản lý trực tiếp và toàn diện 2 trường nội trú học sinh Lào số 3 và 4 cho Ty Giáo
dục. Theo đó, Ty Giáo dục Thanh Hoá đã phát động cho các trường đã có kế hoạch
đẩy mạnh tăng gia sản xuất, một số trường có thể tự đảm đương công tác phục vụ
học sinh. Các em tham gia làm vệ sinh công cộng, đào hầm phòng không, rất tích
cực... Các tiêu chuẩn lương thực chủ yếu cho các cháu được Ty Giáo dục đảm bảo
tương đối. Các chế độ trang cấp, chăn màn, quần áo, dày dép...đã được thực hiện
bảo đảm và chu đáo.
Công tác học tập cũng có nhiều thành tích đáng kể. ở cả 2 trường Phổ thông
miền núi 3 và 4, có 58 lớp từ lớp 1 đến lớp 5. Qua năm học 1970-1971, các cháu
đều được lên lớp. Riêng học kỳ I của năm học 1971-1972, thi kiểm tra, nói chung
đều đạt yêu cầu từ 90% trở lên, có lớp đạt 100% {109, tr.12}.
Có thể nói, nhiệm vụ tiếp nhận, đào tạo học sinh Lào là một công tác rất
quan trọng và cấp thiết cho việc xây dựng đất nước Lào sau này. Và đây cũng là
biểu hiện của tình hữu nghị, thân thiết giữa hai dân tộc anh em Lào-Việt. Việc hợp
tác giúp đỡ xây dựng ngành giáo dục cho nước bạn Lào đã trở thành nhiệm vụ
quốc tế thường xuyên, liên tục với quy mô ngày càng lớn về nhiều mặt, cả ở nước
bạn và ở nước ta.
*
* *
Nhìn chung, trong 10 năm vừa chiến đấu vừa sản xuất, giáo dục của Thanh
Hoá cùng với giáo dục miền Bắc đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng,
những người làm công tác giáo dục thực sự là những chiến sĩ trên mặt trận giáo
dục, thế hệ học trò được rèn luyện trong hoàn cảnh chiến tranh đã trở thành những
người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng.
Chủ trương chuyển hướng giáo dục với quy mô rộng lớn trong toàn tỉnh đã
được Đảng bộ Thanh Hoá chỉ đạo sát sao, kịp thời. Từng bước xây dựng được hệ
thống trường lớp tương đối hoàn chỉnh ở khắp các nơi trong tỉnh. Nhờ vậy, sự
nghiệp GDPT ở Thanh Hoá không những được duy trì mà còn tiếp tục phát triển
mạnh ở tất cả các cấp, các vùng khác nhau, từ miền xuôi lên miền ngược, vùng
đồng bằng đến vùng biển... đáp ứng được yêu cầu học tập của đại bộ phận thanh,
thiếu niên. Công tác GDPT đã góp phần đắc lực vào thắng lợi của công cuộc cách
mạng xây dựng CNXH của địa phương và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của dân tộc.
Tuy nhiên, đối với những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ
mới, bên cạnh những thành tựu đó, ngành giáo dục phổ thông Thanh Hoá cũng bộc
lộ những tồn tại.
Một là chất lượng đào tạo con người mới về mọi mặt, việc chuẩn bị cho thế
hệ trẻ đi vào cuộc sống, đi vào xã hội, lao động sản xuất và hoạt động cách mạng
còn thấp.
Hai là công tác giáo dục có giai đoạn ở trong tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng vì vậy đã hạn chế tác dụng của giáo dục phục vụ ba cuộc cách mạng và
nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN. Phổ cập cấp I tiến hành chậm chạp và đứng
trước nhiều khó khăn. Công tác giáo dục ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh của
miền núi, ở miền biển, vùng đồng bào theo Thiên chúa giáo chưa được quan tâm
đúng mức, nên tốc độ phát triển còn chậm so với các địa bàn khác trong tỉnh. Theo
điều tra của Ty Giáo dục, trí dục của học sinh vùng thấp chỉ đạt từ 85-90%, vùng
giữa chỉ đạt 70-80%; vùng cao chỉ đạt từ 40-50% so với học sinh miền xuôi.
Ba là cơ sở vật chất thiết bị của các nhà trường còn nghèo nàn và thiếu thốn
nhiều, đặc biệt là ở các trường miền núi, vùng dân tộc ít người... Trải qua chiến
tranh kéo dài và ác liệt, thiên tai, bão lụt làm cho nhiều phòng học, nhà ở, bàn ghế,
đồ dùng dạy học bị phá hoại và hư hỏng. Số lượng trường sở do nhân dân mới xây
dựng trong năm 1962 so với năm 1961 tăng gấp 2 lần; phòng học bằng 2,1 lần; số
lượng bàn ghế tăng 12,3%. Tuy vậy, so với tốc độ phát triển trường lớp và học sinh
vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu về số lượng cũng như nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện.
Bốn là trình độ về mọi mặt của đội ngũ giáo viên còn thấp. Đời sống của đa
số cán bộ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Vị trí của giáo dục và người thầy về
nhận thức có được xác định rõ hơn, nhưng trong thực tế đời sống xã hội và chính
sách đầu tư cho giáo dục và người thầy giáo chưa thể hiện rõ.
Dẫu còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung, giáo dục phổ thông Thanh Hoá đã
phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị: chống Mỹ cứu nước và xây dựng địa
phương trong thời chiến, đồng thời chuẩn bị tiềm lực đáng kể về dân trí, về lực
lượng lao động và cán bộ cho công cuộc xây dựng đất nước.
10 năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thanh
Hoá đã nghiêm túc thực hiện chủ trương đường lối giáo dục của Đảng, kiên trì làm
công tác chính trị, tư tưởng nhất là những khi có chuyển biến lớn về tình hình và
nhiệm vụ cách mạng. Rõ ràng là việc học ở nhà trường đã có sắc thái mới. Một
điều rất đáng nói là không những tự bản thân các đơn vị của ngành giáo dục đã làm
một cuộc hoà đồng, hội nhập vào phong trào xã hội rộng lớn mà chính phong trào
ấy cũng đã vang dội, làm nên sinh khí hoạt động của Ngành. GDPT bám sát từng
biến chuyển, sự kiện của đất nước, dân tộc, quê hương để vận động và tham gia.
Những thành tựu của GDPT Thanh Hoá trong 10 vừa sản xuất và chiến đấu
đã tạo nên nguồn lực lớn lao, tạo cơ sở vững chắc để giáo dục Thanh Hoá bước
tiếp sang một thời kỳ mới-thời kỳ cùng cả nước đi lên xây dựng CNXH và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện đất nước hoà bình và thống nhất.
Kết luận
Trong hai thập kỷ (1954-1975), sự nghiệp GDPT của Thanh Hoá đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, những biến đổi sâu sắc nhằm đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân, yêu cầu của cách mạng.
Nhiệm vụ lâu dài, xuyên suốt của ngành giáo dục-đào tạo nói chung, ngành
GDPT nói riêng được Đảng ta xác định là bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người
lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN có văn hoá và kỹ thuật, có sức
khoẻ, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở nhận
thức tầm quan trọng đó, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã quán triệt vận dụng sáng tạo
những quan điểm chỉ đạo của Trung ương vào điều kiện cụ thể của địa phương, đề
ra những quyết sách đúng đắn phù hợp với sự phát triển qua hai thời kỳ cụ thể
(1954 - 1965) và (1965-1975). Đó cũng chính là quá trình vận động lâu dài và đầy
khó khăn của ngành giáo dục Thanh Hoá từ những ngày đầu tuyên truyền mục đích
về việc học tập dưới chế độ mới, đến khi đào tạo nên những con người mới.
Những thành tựu mà giáo dục Thanh Hoá đạt được là do sự vận động của
truyền thống hiếu học lưu truyền từ ngàn xưa trên mảnh đất này được tổ chức phát
huy, kết tinh bởi đường lối, cơ chế do dân, vì dân của chế độ mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của chính quyền nhân dân.
GDPT Thanh Hoá trong hơn hai mươi năm (1954-1975) đã vượt lên nhiều
hoàn cảnh khó khăn để phục hồi và phát triển, có ý nghĩa quan trọng góp phần thúc
đẩy sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ. Trong quá trình xây dựng, GDPT
Thanh Hoá có những địa bàn vô cùng khó khăn. Đó là cả một miền núi rộng lớn,
với vùng cao chiếm một tỷ lệ đáng kể. Có những vùng chậm phát triển ở nông thôn
và ven biển. Có những vùng ảnh hưởng của nhà thờ còn khá sâu sắc trong tư tưởng
cũng như trong phong tục tập quán của nhân dân... Trải qua bao lần thiên tai, địch
hoạ, cứ mỗi lần như thế các trường học phổ thông lại đứng trước những thử thách
vô cùng khắc nghiệt. Số học sinh có những năm giảm nhiều, đội ngũ giáo viên
chao đảo nhất là không thể dồn tâm sức vào công việc, sự nghiệp của mình. Tuy
nhiên, dù gian nan như vậy, ngành GDPT đều vượt qua giữ nhịp độ để ổn định và
phát triển.
Qua hai mươi năm (1954-1975), giáo dục Thanh Hoá đã tổ chức xây dựng,
phát triển được mạng lưới giáo dục phong phú và hiệu quả. Các bậc học đều được
xây dựng và phát triển cả về số lượng-chất lượng. Cùng với sự phát triển về số
lượng, nền giáo dục mới XHCN đem lại cho nhân dân Thanh Hoá niềm tin vào
cách mạng, vào ánh sáng khoa học, đem trí thức phục vụ cho sản xuất, chiến đấu
và nâng cao đời sống. Trình độ dân trí, trình độ học vấn của tầng lớp nhân dân
ngày càng được nâng lên. Vì vậy, trình độ giác ngộ chính trị, năng lực sản xuất,
chiến đấu của nhân dân cũng đã có những biến chuyển sâu sắc.
Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào đó, ngành GDPT Thanh Hoá cũng
còn không ít hạn chế, thiếu sót. Những tồn tại này ngoài những yếu tố khách quan
thì chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất là do các cấp Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể và nhân
dân chưa có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về quan điểm đường lối giáo dục, về vị
trí, nội dung, mục tiêu và phương pháp giáo dục. Chưa thực sự xem giáo dục là
ngành có chức năng tái sản xuất lực lượng lao động có kỹ thuật của xã hội; chưa
thấy mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục và kinh tế, chưa xem giáo dục là một bộ
phận rất lớn, rất quan trọng của sự nghiệp cách mạng, có quan hệ đến mọi mặt của
đất nước hiện tại cũng như tương lai.
Thứ hai là do công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chưa có vị trí
xứng đáng trong toàn bộ quá trình chỉ đạo phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục. Công tác bồi dưỡng giáo viên còn nặng tính chất chắp vá. Việc bồi dưỡng
chính trị, quan điểm giáo dục chưa được coi trọng đúng mức. Tỷ lệ giáo viên bồi
dưỡng tập trung hàng năm còn thấp. Việc phát động phong trào động viên tinh thần
tự học của đông đảo giáo viên và cán bộ quản lý trong ngành hiệu quả chưa
cao...đã ảnh hướng lớn đến tư tưởng của giáo viên, đến việc khẳng định vị trí của
người giáo viên trong xã hội.
Thứ ba là do công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo sự nghiệp giáo dục của các
cấp Đảng, chính quyền, các ngành chưa tốt biểu hiện ở các mặt như: chế độ chức
trách của các cấp, các ngành đối với công tác giáo dục chưa được xác định cụ thể.
Kế hoạch giáo dục hàng năm chưa được coi là một bộ phận của kế hoạch Nhà
nước, do đó chưa được quan tâm chỉ đạo cũng như tạo ra những cơ sở và điều kiện
tối thiểu nhằm bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra.
Tuy còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót nhưng có thể khẳng định được
những thành tựu mà ngành GDPT đã đạt được trong hai mươi năm là hết sức to
lớn, đáng ghi nhận. Nó đã đặt những nền tảng ban đầu hết sức quan trọng cho
ngành GDPT Thanh Hoá tiến những bước dài vững chắc trong tương lai, có những
đóng góp xã hội tích cực.
Hai mươi năm xây dựng, phát triển giáo dục của Đảng bộ và nhân dân
Thanh Hoá nói riêng, của cả miền Bắc nói chung đã cho thấy:
Nếu không cải tạo được thế hệ cũ và giáo dục thế hệ mới theo lập trường
quan điểm của giai cấp vô sản thì không thể có thắng lợi của CNXH. Vì vậy, nhà
trường phải thực sự là cái lò giáo dục con người. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà
trường không thể chỉ là nơi truyền đạt kiến thức khoa học kỹ thuật mà trước tiên
phải là nơi giáo dục thanh niên về lý tưởng, về đạo đức mới, về đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục của nhà trường phải thực hiện phương châm học gắn liền với lao
động - lý luận đi với thực tiễn, hay nói cách khác, học đi đôi với hành. Phải qua lao
động sản xuất mới đào tạo được người lao động phát triển toàn diện, nâng cao
được chất lượng văn hoá một cách vững chắc và đúng hướng. Lênin cũng đã viết:
Người ta không thể hình dung được một xã hội lý tưởng tương lai mà
trong đó, nền giáo dục lại sẽ không kết hợp với lao động sản xuất của thế
hệ trẻ: giáo dục và giảng dạy nếu thoát ly lao động sản xuất, hoặc lao
động sản xuất không đồng thời có sự giáo dục và giảng dạy thích hợp thì
đều không thể đạt tới trình độ cần thiết cho sự phát triển của kỹ thuật và
tình trạng của những tri thức khoa học được {62, tr.135}.
Phương châm “dựa vào dân”, nhân dân tham gia xây dựng và phát triển giáo
dục đã được mang lại những kết quả tích cực, khả quan cho ngành giáo dục Thanh
Hoá. Nhờ đó, đã huy động được một lực lượng hùng hậu, sức mạnh đoàn kết trong
nhân dân địa phương để cùng tham gia công tác giáo dục. Mọi người, mọi ngành,
mọi gia đình tuỳ theo chức năng của mình mà có những hành động tự giác, đúng
đắn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đúng theo quan điểm đường lối giáo
dục của Đảng và mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Đây thực chất là việc xã hội hoá giáo dục bước đầu được thực hiện. Hội cha
mẹ học sinh được thành lập khắp nơi. Công đoàn ngành giáo dục, Nông hội tỉnh,
Thanh niên tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, công đoàn giáo dục tỉnh... đã phối hợp
chặt chẽ với nhà trường thể hiện mối liên hệ giữa nhà trường-gia đình-xã hội.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương vào thực tiễn địa phương để đề
ra những quyết sách đúng đắn về phát triển giáo dục - đào tạo và GDPT phù hợp
với từng giai đoạn trong tiến trình phát triển. Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục
là quá trình quán triệt những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà
nước vào tình hình thực tiễn địa phương, từ đó vạch ra định hướng phát triển, đề ra
những giải pháp đúng đắn giải quyết những khó khăn, tạo ra động lực của sự phát
triển. Trên tinh thần quán triệt những tư tưởng phát triển giáo dục qua các kỳ Đại
hội Đảng, Nghị quyết của Trung ương về phát triển giáo dục-đào tạo, trên cơ sở
nắm vững thực tiễn, với tinh thần chủ động, sáng tạo, Đảng bộ Thanh Hoá đã đề ra
những định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm nhất đối với giáo dục-đào tạo và
GDPT trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Quá trình thực thi Nghị quyết cũng là quá
trình quán triệt sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng bộ đến mọi cấp uỷ Đảng,
các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội. Trong đó, bộ máy nhà
nước từ tỉnh đến xã-phường đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các kế
hoạch, đề án với mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp cụ thể, những cơ chế chính sách
đảm bảo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của giáo dục-đào tạo và GDPT trên cơ sở
nắm vững đường lối, mục tiêu giáo dục của Đảng. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển, giáo dục là con đường ngắn nhất và cơ bản nhất để phát huy nguồn
lực con người, hình thành lớp người đủ bản lĩnh, đủ trình độ tiếp thu những kiến
thức phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
Giáo dục là một bộ phận của cách mạng tư tưởng-văn hoá đồng thời đào tạo
lực lượng tương lai cho văn hoá. Nó luôn gắn với một thể chế nhất định, luôn
phụng sự cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng. Giáo dục-đào tạo nói chung và
GDPT nói riêng đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là tạo ra con người có khả năng
đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Vì giáo dục chuyên lo đào tạo thế hệ mới,
đào tạo những con người sống trong xã hội ngày mai-những con người toàn diện
về đức, trí, mỹ, thể có tình cảm cách mạng tốt đẹp, có những trí thức đầy đủ đáp
ứng được đòi hỏi của việc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Những chặng đường đi qua đã tạo tiền đề vững chắc cho ngành giáo dục
Thanh Hoá tiếp tục bước đi trên chặng đường phía trước với những mục tiêu mới.
Kết quả đó cũng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng bộ cùng các cấp chính quyền
với chủ trương và biện pháp đúng đắn đã tạo ra những bước chuyển biến quan
trọng trong lĩnh vực giáo dục.
Với những nhận thức, thành tựu và kinh nghiệm đã đạt được trong 20 năm
này, Đảng bộ Thanh Hoá tiếp tục lãnh đạo phát triển hơn nữa GDPT địa phương,
đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp với xu thế thời đại và phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh trong tương lai, góp phần phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Tài liệu tham khảo
BCH tỉnh Đảng bộ (1969), Báo cáo bổ sung một số vấn đề về phát triển 1.
kinh tế, văn hoá miền núi và công tác dân tộc trong những năm tới.
BCH tỉnh Đảng bộ (1972), Báo cáo sơ kết việc thi hành Nghị quyết 220 2.
của Bộ Chính trị về “Chuyển hướng và đẩy mạnh mọi mặt công tác ở
miền Bắc để tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
BCH tỉnh Đảng bộ (1967), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục năm 3.
1966-1967.
BCH tỉnh Đảng bộ (1954), Báo cáo năm 1953 của tỉnh Thanh Hoá. 4.
BCH tỉnh Đảng bộ (1956), Báo cáo tổng kết năm 1955. 5.
BCH tỉnh Đảng bộ (1963), Báo cáo tổng kết công tác năm 1962. 6.
BCH tỉnh Đảng bộ (1968), Báo cáo tổng kết năm 1967. 7.
BCH tỉnh Đảng bộ (1965), Báo cáo tổng kết tình hình công tác năm 8.
1964. Phương hướng nhiệm vụ năm 1965.
BCH tỉnh Đảng bộ (1969), Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế-văn 9.
hoá ba năm 1969-1971
10. BCH tỉnh Đảng bộ (1958), Chỉ thị Đẩy mạnh công tác vùng Thiên chúa
giáo.
11. BCH tỉnh Đảng bộ (1967), Chỉ thị Phát huy những thành tích đã đạt
được, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục
nhằm phục vụ tốt cho yêu cầu cách mạng trước mắt và lâu dài.
12. BCH tỉnh Đảng bộ (1958), Chỉ thị về công tác văn hoá - giáo dục đối
với Trường Văn hoá biệt lập trong vùng Thiên chúa giáo
BCH tỉnh Đảng bộ (1964), Chỉ thị về công tác giáo dục 13.
BCH tỉnh Đảng bộ (1965), Chỉ thị về việc lãnh đạo chuẩn bị năm học 14.
mới của hệ thống giáo dục phổ thông
15. BCH tỉnh Đảng bộ (1954), Chỉ thị về việc lãnh đạo phát triển các
trường dân lập.
16. BCH tỉnh Đảng bộ (1961), Chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo công
tác giáo dục phổ thông.
17. BCH tỉnh Đảng bộ (1963), Chỉ thị về việc tăng cường tổ chức bộ phận
công tác miền núi của các ngành
18. BCH tỉnh Đảng bộ (1960), Chỉ thị về việc tuyên truyền rộng rãi chống
Mỹ-Diệm nhân cuộc đảo chính xảy ra ở Sài Gòn
19. BCH tỉnh Đảng bộ (1971), Nghị quyết của tỉnh uỷ về việc thi hành Nghị
quyết 181/NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận
động Thanh niên
20. BCH tỉnh Đảng bộ, Phương hướng nhiệm vụ giáo dục trong kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1960-1965)
21. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ V
(25/2 - 5/3/1961)
22. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VI
(8 - 16/7/1963)
23. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VII
(21102 - 4/11/1969)
24. BCH tỉnh Đảng bộ, Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII
(19 - 28/5/1975).
25. Ban Chuyển trường lớp (1954), Văn bản về việc chuyển hướng phát
triển giáo dục 1954.
26. Ban Dân tộc tỉnh (1973), Bản đề nghị về mở trường phổ thông và đầu
tư cho xây dựng các trường ở miền núi.
27. Ban Khoa giáo (1974), Báo cáo tình hình công tác khoa giáo năm 1973
và một số phương hướng, nhiệm vụ công tác khoa giáo năm 1974
28. Ban Khoa giáo (1975), Báo cáo tình hình công tác khoa giáo năm 1974.
29. Ban Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1957), Báo cáo số liệu phổ thông từng
cấp của niên khoá 1955 - 1956.
30. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1990), Bác Hồ với Thanh Hoá,
Thanh Hoá với Bác Hồ, Nxb Thanh Hoá.
31. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1994), Những sự kiện lịch sử Đảng
bộ Thanh Hoá (1954-1975), Nxb Thanh Hoá
32. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá (1986), Thanh Hoá làm theo lời
Bác, Nxb Thanh Hoá.
33. Ban Văn xã (1957), Kế hoạch vận động nhân dân xây dựng dân lập và
xây dựng trường sở.
34. Báo cáo của Đảng đoàn ngành Giáo dục tại Hội nghị của Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ ban chuyên đề về công tác giáo dục (1975).
35. Báo cáo sơ lược về tình hình công tác dân lập trong năm học 1957 -
1958 (1958).
36. Báo cáo tổng kết tình hình học sinh miền Nam ở Thanh Hoá (1958).
37. Báo cáo tổng kết và phương hướng Đại hội Công đoàn giáo dục Thanh
Hoá lần thứ 13 (1975).
38. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1975), Báo cáo kiểm điểm tình hình sinh hoạt,
nuôi dưỡng học sinh Lào tại Việt Nam.
39. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1972), Chỉ thị về việc tăng cường công tác tổ
chức cán bộ đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chuyển hướng giáo dục trong
tình hình mới.
40. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1995), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và
đào tạo (1945-1995), Nxb GD, Hà Nội.
41. Bộ Giáo dục (1974), Quyết định thành lập 2 trường học sinh miền Nam
đặt tại Hà Trung, Thanh Hoá.
42. Bộ Giáo dục (1972), Thông báo số 3 về tình hình lao động sản xuất
trong trường học.
43. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1995), Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ Giáo
dục - Đào tạo, Nxb GD, Hà Nội.
Bộ Giáo dục (1955), Văn bản về việc học sinh miền Nam vượt tuyến. 44.
Bộ Giáo dục (1974), Văn bản về việc chuyển học sinh ở B ra về trường 45.
16.
46. Các văn bản của Thủ tướng, Bộ Giáo dục, UBHC tỉnh về công tác xây
dựng trường học sinh miền Nam (1974).
47. Các văn bản của UBHC tỉnh, Ty Giáo dục về việc tổ chức, sắp xếp
trường lớp theo hướng mở cửa ngành giáo dục (1954).
48. Các văn bản của UBKCHC Liên khu 4, UBKCHC tỉnh, Ty Giáo dục về
việc đón tiếp và mở trường học cho học sinh miền Nam ra tập kết
(1954).
49. Chi cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1963), Báo cáo tổng hợp tình hình
thực hiện kế hoạch giáo viên phổ thông năm 1962 - 1963.
50. Chi cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (1963), Nhận xét tình hình thực hiện
kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông năm 1963.
Chiến sĩ thi đua ngành giáo dục (1968-1969 (1969). 51.
Chuyển mạnh nhà trường phục vụ nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, Nxb 52.
Giáo dục.
53. Công văn của UBKCHC tỉnh về quy định học phí và lương giáo viên
các trường tư thục (1951).
Danh sĩ Thanh Hoá với việc học thời xưa (1994), Nxb Thanh Hoá 54.
Hoàng Đình Di (1981), Hệ thống giáo dục phổ thông mới, Nxb ST, Hà 55.
Nội.
56. Lê Duẩn - Trường Chinh (1972), Thấu suốt đường lối của Đảng đưa sự
nghiệp giáo dục tiến lên mạnh mẽ, vững chắc, Nxb ST, Hà Nội.
57. Lê Duẩn - Trường Chinh - Phạm Văn Đồng - Tố Hữu (1979), Về đường
lối giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb ST, Hà Nội.
58. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về công tác giáo dục trong
thời gian tới.
59. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1956), Chỉ thị về việc tuyên truyền giải thích
mục đích đi học của học sinh dưới chế độ ta.
60. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá (1957), Tài liệu học tập Đường lối dựa vào
nhân dân để củng cố và phát triển ngành giáo dục phổ thông.
61. Phạm Văn Đồng (1970), Công tác giáo dục và người thầy giáo Xã hội
chủ nghĩa, Nxb ST, Hà Nội.
62. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ XHCN, Nxb
ST, Hà Nội.
63. Phạm Minh Hạc (1986), Vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục, Nxb
ST, Hà Nội.
64. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục
vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hồ sơ về công tác giáo dục phổ thông và trường tư thục (1957). 65.
Nguyễn Văn Huyên (1990), Những bài nói và viết về giáo dục, Nxb 66.
Giáo dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển
chất lượng nguồn nhân lực: Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Kế hoạch và quy hoạch mạng lưới các trường trong tỉnh năm 1970
(1970).
69. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2000), Lịch sử Đảng bộ thành phố Thanh
Hoá, Nxb Thanh Hoá.
Hồ Chí Minh (1962), Bàn về giáo dục, Nxb GD, Hà Nội. 70.
Hồ Chí Minh (1974), Những lời dạy của Bác Hồ đối với học sinh, Nxb 71.
ST, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh (1984), Thi đua yêu nước, Nxb Thanh Hoá
73. Hồ Chí Minh (1997), Về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nxb
CTQG, Hà Nội.
74. Một số tài liệu về Đại hội thi đua Ngành Giáo dục Thanh Hoá (1965-
1968).
75. Một số văn kiện của Trung ương Đảng và Chính phủ về công tác khoa
học giáo dục (1960-1965), (1969), Nxb ST, Hà Nội.
76. Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh
Thanh Hoá (1930-1980), Nxb Thanh Hoá.
77. Nắm vững đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng để nhận thức rõ
chứ năng, mục tiêu, phương thức giáo dục của nhà trường phổ thông ta
(1973).
78. Những bài nói và viết về giáo dục của Nguyễn Văn Huyên (1990), Nxb
GD, Hà Nội.
79. Võ Thuần Nho (chủ biên), (1980), 35 năm phát triển giáo dục phổ
thông, Nxb GD, Hà Nội.
80. Phủ Thủ tướng (1974), Chỉ thị về việc đẩy mạnh xây dựng các trường
học sinh miền Nam.
81. Phủ Thủ tướng (1972), Chỉ thị về việc chuyển hướng công tác giáo dục
trong tình hình mới.
82. Phủ Thủ tướng (1974), Quyết định về việc xây dựng các trường học
sinh miền Nam nội trú.
83. Phủ Thủ tướng (1967), Thông tư quy định tiêu chuẩn nhận học sinh
miền Nam vào các trường nội trú.
84. Phủ Thủ tướng (1967), Thông tư về việc tăng cường lãnh đạo công tác
giáo dục phổ thông trong tình hình chống Mỹ cứu nước.
85. Phủ Thủ tướng (1969), Văn bản về việc tiếp nhận và đào tạo học sinh
Lào.
86. Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá (1995), 50 năm phát triển Giáo
dục-Đào tạo Thanh Hoá, Sự kiện - thành tựu, Nxb Thanh Hoá, Thanh
Hoá.
87. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về công tác giáo dục trong thời gian
tới.
88. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1964), Chỉ thị về giáo dục trong tình hình và
nhiệm vụ mới.
89. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về lãnh đạo phát triển các trường
dân lập.
90. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về nhiệm vụ học tập.
91. Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930 -
1954).
92. Nguyễn Khánh Toàn (1950), Những vấn đề về giáo dục.
93. Nguyễn Khánh Toàn (1966), Sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, thể
thao, Nxb Sự thật, Hà Nội.
94. Nguyễn Khánh Toàn (1991), Nền giáo dục Việt Nam, lý luận và thực
hành, Nxb GD, Hà Nội.
95. Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá (1967), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua
học tập, đuổi kịp, tiến vượt Hải Nhân (1964 - 1967).
96. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1957), Bản tổng kết niên khoá 1956 - 1957.
97. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1960), Báo cáo công tác của các trường vùng
Thiên Chúa giáo.
98. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1968), Báo cáo sơ kết tình hình giáo dục-đào
tạo tỉnh thực hiện kế hoạch 2 năm 1966 - 1968.
99. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo sơ kết tình hình giáo dục lao
động và tổ chức lao động trong sản xuất trong các nhà trường phổ
thông.
100. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1968), Báo cáo tội áo chiến tranh của đế quốc
Mỹ đối với các nhà trường trong tỉnh Thanh Hoá.
101. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Báo cáo tổng kết công tác đón tiếp học
sinh miền Nam.
102. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1961), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục
trong kế hoạch 3 năm 1958-1961.
103. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Báo cáo tổng kết năm 1958- 1959,
phương hướng, nhiệm vụ giáo dục năm học 1961 - 1962.
104. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Báo cáo tổng kết số lượng phổ thông
từng cấp của niên khoá 1958-1959.
105. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1965), Báo cáo tổng kết phong trào học tập
Bắc Lý (1964-1965)
106. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Báo cáo tổng kết về lớp huấn luyện
đào tạo giáo viên dân lập của Ty Giáo dục Thanh Hoá.
107. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1965), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển
giáo dục phổ thông năm học 1965 - 1966.
108. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng.
109. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Báo cáo về việc kiểm tra tình hình hai
trường phổ thông miền núi 3 và 4.
110. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị bổ sung Chỉ thị số 37 ngày 22-
1-1955 về khai giảng niên khoá 1955.
111. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1963), Chỉ thị kế hoạch thực hiện công tác
dồn lớp.
112. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị tái giảng học kỳ II-1955.
113. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị triệu tập hội nghị giáo dục
miền núi.
114. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Chỉ thị về những biện pháp đề cao chất
lượng.
115. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1975), Chỉ thị về việc đảm bảo sách giáo khoa
đủ dùng cho học sinh trong năm học 1974 - 1975 và 1975 - 1976.
116. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1955), Chỉ thị về việc đề cao chất lượng phổ
thông.
117. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1958), Chỉ thị về việc tăng cường giáo dục tư
tưởng chính trị trong nhà trường.
118. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Chỉ thị về vịêc tăng cường sẵn sàng
chiến đấu và phòng không nhân dân trong tình hình mới.
119. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1959), Chương trình đào tạo giáo viên miền
núi của Ty Giáo dục Thanh Hoá.
120. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1954), Hướng dẫn chuyển giáo viên quốc lập
sang dân lập.
121. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1966), Kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi cấp
II phổ thông năm học 1966 - 1967.
122. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1957), Mấy vấn đề về trường lớp, giáo viên và
học sinh của trường dân lập.
123. Ty Giáo dục Thanh Hoá (1972), Thông báo tố cáo tội ác của đế quốc
Mỹ đánh phá trường học, giết hại giáo viên và học sinh Thanh Hoá
trong thời gian từ 27/4 - 14/6/1972.
124. Uỷ ban Dân tộc (1967), Thông tư hướng dẫn về việc thu nhận học sinh
miền Nam vào trường nội trú.
125. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Báo cáo sơ kết tình hình 4 năm thực
hiện cuộc vận động Thi đua Hai tốt, học tập và làm theo các điển hình
tiên tiến trong ngành Giáo dục (1971 - 1975).
126. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1960), Báo cáo tổng kết tình hình và phương
hướng, mục tiêu phát triển giáo dục miền núi Thanh Hoá.
127. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1968), Báo cáo tổng kết kế hoạch đón tiếp các
cháu học sinh miền trong ra sơ tán.
128. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Báo cáo về vấn đề kết hợp công tác
chuyển kinh phí với việc Đề cao chất lượng phổ thông.
129. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1967), Chỉ thị về chăm sóc bồi dưỡng đào tạo
con em liệt sĩ.
130. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1972), Chỉ thị về công tác giáo dục trong năm
học 1972 - 1973.
131. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1966), Chỉ thị về việc khai giảng năm học 1966
- 1967.
132. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về xây dựng tu bổ trường học
133. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về tăng cường công tác giáo dục
134. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về việc tăng cường lãnh đạo
công tác giáo dục trong thời gian cuối năm học 1973 - 1974 và chuẩn
bị năm học 1974 - 1975.
135. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về việc thực hiện các chính sách
của Đảng và Chính phủ đối với sự nghiệp giáo dục ở miền núi.
136. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Chỉ thị về xây dựng trường sở thuộc
ngành Giáo dục.
137. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Chỉ thị về việc xây dựng, tu bổ trường
sở, dụng cụ cho các trường phổ thông trong năm 1957.
138. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1959), Chương trình đào tạo giáo viên dân lập
139. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Dư địa chí Thanh Hoá, Nxb Văn hoá-
Thông tin.
140. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1966), Kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục
phổ thông năm học 1965 - 1966.
141. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Nghị quyết của UBHC tỉnh Thanh Hoá
về việc xây dựng trường sở thuộc ngành giáo dục trong 2 năm 1974 -
1975.
142. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1965), Phương hướng giáo dục cấp I năm học
1965 - 1966.
143. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1961), Phương hướng phát triển giáo dục phổ
thông trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
144. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định cấp phát trang phục mùa hè
năm 1958 cho học sinh miền Nam.
145. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định của UBHC tỉnh về chế độ
chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng cao và vùng xa xôi hẻo lánh
miền núi Thanh Hoá.
146. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Quyết định của UBHC tỉnh về việc giao
nhiệm vụ xây dựng và quy định một số chế độ tạm thời quản lý xây
dựng trường học sinh miền Nam từ Trung Quốc chuyển về (chương
trình T.74).
147. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1975), Quyết định của UBHC tỉnh về việc
thành lập ký túc xã cho học sinh các trường phổ thông cấp III ở miền
núi.
148. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Quyết định của UBHC tỉnh về việc mở
lớp 8 ở các trường cấp III thuộc các huyện miền núi.
149. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Quyết Nghị thành lập Trường Phổ
thông cấp I Thống Nhất I.
150. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1954), Quyết Nghị thành lập Trường Phổ
thông cấp I Thống Nhất II.
151. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1974), Tình hình giáo dục miền núi trong
những năm qua và phương hướng nhiệm vụ trong hai năm 1974 - 1975.
152. UBHC tỉnh Thanh Hoá (1957), Về chế độ thu học phí và chế độ miễn
giảm cho các trường miền núi
153. UBKCHC Liên khu IV (1954), Văn bản về việc đón tiép học sinh Trị
Thiên.
154. Uỷ ban Liên lạc Kinh tế với nước ngoài (1972), Văn bản về việc chỉ đạo
quản lý nuôi dưỡng học sinh Lào.
155. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Thanh Hoá - Thiên nhiên - Xã hội -
Con người thư mục tổng quát, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hoá.
156. Văn kiện Đại hội thi đua “Hai tốt” chống Mỹ cứu nước ngành Giáo
dục (1967), Nxb GD, Hà Nội.
157. Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Liên khu IV (1945-1954), Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHụ lục 1
Các trường dân lập đầu tiên chính thức được Ty Giáo dục cấp giấy phép cho
hoạt động.
TT
Tên trường
Tên xã
Huyện
Số lớp
Như Xuân
Như Xuân
1 lớp 5
1
Thành Kim
Thành Kim
Thạch Thành
5 lớp: 1, 2, 3, 4, 5
2
Đông Anh
Đông Anh
Đông Sơn
3 lớp: 1, 2, 3
3
Đông Yên
Đông Yên
Đông Sơn
1 lớp 1
4
Thị Trân
4 lớp: 1, 2, 3, 4
Thị Trân
5
Dân Quyền
Dân Quyền
Nông Cống
3 lớp: 1, 2, 3
6
Dân Lý
Nông Cống
3 lớp: 1, 2, 3
Dân Lý
7
Dân Lực
Nông Cống
3 lớp: 1, 2, 3
Dân Lực
8
Thang Bình
Thang Bình
Nông Cống
4 lớp: 2 lớp 1, 2 lớp 3
9
10 Quảng Châu
Quảng Châu
Quảng Xương
4 lớp: 1, 2, 3, 4
11 Quảng Lộc
Quảng Lộc
Quảng Xương
3 lớp: 2 lớp 1; 1 lớp 2
Nguồn: {47, tr. 32}
Phụ lục 2
Tổng hợp tình hình lớp, học sinh các cấp I, II, III cuối năm 1958 - 1989
Quốc lập
Dân lập
Tư thục
Tổng cộng
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Lớp
Lớp
Lớp
Lớp
T. số
Nữ
T. số
Nữ
T. số
Nữ
T. số
Nữ
Cấp I
263
Lớp 1
12.884
5.256
392
20.757
8.409
655
33.641
13.665
446
Lớp 2
18.656
6.984
3.717
1.317
82
528
22.373
8.301
440
Lớp 3
15.978
5.984
475
153
11
451
16.453
6.137
367
Lớp 4
10.987
2.883
193
52
5
372
11.180
2.935
1+2 ghép
14
0
14
3+4
Cộng
1.530
58.505
21.107
490
25.142
9.931
2.020
83.647
31.038
Cấp II
44
Lớp 5
2.154
389
19
1.004
204
63
3.158
593
44
Lớp 6
1.807
251
18
802
130
62
2.609
381
43
Lớp 7
1.669
232
8
377
44
51
2.046
276
131
Cộng
5.630
872
45
2.183
378
7.813
1.250
Cấp III
6
Lớp 8
274
24
2
8
363
33
89
9
6
Lớp 9
284
14
1
7
342
22
58
8
5
Lớp 10
261
13
5
261
13
Cộng
17
819
51
3
68
147
17
20
Nguồn: {104, tr.12}.
Phụ lục 3
Thống kê tình hình trường lớp, giáo viên sau công tác chuyển hướng phát
triển giáo dục:
Tên Huyện
Số trường
Số GV
Số trường
Số GV
Số trường
Số GV
Số
Số
Quốc lập
Quốc lập
chuyển
chuyển
quốc lập còn
còn lại
trường
trường
lại
mới mở
đã cho
trước chuyển
trước
hoá
chuyển
mở
vào
hoá
trong
HKII
C.I
C. II
C.I
C.II
C.I
C.II
HK I
11
Nông Cống
36
4
142
15
21
4
82
60
4
Quảng Xương
45
4
157
11
34
4
121
36
2
7
Tĩnh Gia
33
2
113
14
19
2
68
47
1
9
Nga Sơn
18
2
67
4
14
2
53
14
3
Hậu Lộc
20
2
67
8
12
2
49
18
2
Hà Trung
24
2
77
11
93
2
43
34
1
Cẩm Thuỷ
12
1
32
2
10
1
26
6
7
Thạch Thành
12
2
40
2
10
2
33
7
1
1
Thọ Xuân
54
4
189
27
27
4
97
92
25
Thiệu Hoá
26
3
109
8
18
3
82
27
5
Yên Định
24
3
86
9
25
3
61
25
5
Đông Sơn
21
3
94
7
1
14
2
57
35
10
2
Vĩnh Lộc
20
2
66
23
13
2
51
15
1
Hoằng Hoá
53
4
170
16
37
4
105
65
7
...
0
1
4
0
0
1
4
0
Cbộ vỡ lòng
21
21
Cbộ phục vụ
7
7
công tác khác
Tổng
10
398
39
1441
141
1
482
257
38
959
94
Tổng
437
142
295
Nguồn: {86, tr.21}
Phụ lục 4
Tình hình học sinh phổ thông cuối năm 1962 - 1963 của tỉnh Thanh Hoá
Năm học
Thực hiện
Tỷ lệ thực hiện
1961 - 1962
Kế
Tổng số
Nữ
So với
So với kế
hoạch
năm trứoc
hoạch
Tổng số HS PT 223.596
253.884
240.614
104.369
107,61
94,77
193.356
211.880
200.869
90.025
103,78
94,80
Cấp I
Lớp 1
53.899
55.475
24.982
52.497
Lớp 2
53.930
52.992
24.026
50.699
Lớp 3
55.660
54.244
21.653
51.679
Lớp 4
30.047
49.169
19.364
45.994
Cấp II
38.922
36.798
13.210
132,37
94,51
27.791
Lớp 5
14.300
16.736
6.049
15.800
Lớp 6
7.774
14.280
4.852
13.563
Lớp 7
5.717
7.906
2.309
7.435
Cấp III
2.269
3.082
2.957
1.134
130,32
95,94
Lớp 8
1.164
1.526
216
1.448
Lớp 9
603
1.058
877
1.016
Lớp 10
502
498
41
493
Nguồn: {50, tr.9}
Phụ lục 5
Tình hình trường, lớp cuối năm 1962 - 1963
Năm
Kế
Thực hiện
Tỷ lệ %
1961 - 1962
hoạch
T. phố N. thôn Cộng Với năm trước So với KH
Tổng số trường 685
117,63
96,70
10
691
726
701
6
587
618
593
592
Cấp I
3
97
100
100
85
Cấp II
8
8
8
Cấp III
5.771
5.297 105,68
91,78
5.012
Tổng số lớp
4.992
4.518 102,21
90,50
4.420
Cấp I
1.374
1.183
1.270
Lớp 1
1.212
1.121
1.209
Lớp 2
1.220
1.144
1.214
Lớp 3
1.186
1.070
727
Lớp 4
717
717
131,80
100
544
Cấp II
301
301
265
Lớp 5
265
265
151
Lớp 6
151
151
128
Lớp 7
62
62
129,16
100
48
Cấp III
28
28
23
Lớp 8
23
23
14
Lớp 9
11
11
11
Lớp 10
Nguồn: {49, tr.13}.
Phụ lục 6
Tổng hợp tình hình thi tốt nghiệp phổ thông niên khoá 1962-1963
HS tốt
Kế
HS
HS
Tỷ lệ tốt nghiệp
nghiệp năm
hoạch
dự thi
tốt
So với
So với
So với
1961 - 1962
nghiệp
năm
kế
tỷ lệ dự
trước
hoạch
thi
Tổng cộng
28.088
52.389 50.658 43.773 155,84% 83,55%
3 cấp
23.866
45.817 42.975 37.674 157,85% 82,22%
87%
Cấp I
Trong đó nữ
8.704
18.003 15.451
6.132
7.160
5.797 148,64% 94,53%
81%
3.900
Cấp II
Trong đó nữ
816
2.319
1.770
322
440
523
302
93,78% 68,63%
57%
Cấp III
Trong đó nữ
20
41
15
Nguồn: {50, tr.16}
PHụ lục 7
Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển giáo viên phổ thông năm 1962-1963.
Năm
1961 - 1962
Kế
Thực hiện
Tỷ lệ
(người)
hoạch
Tổng
Nữ
So với
So với
số
1961 - 1962
kế hoạch
745
117,18%
99,11%
Giáo viên dạy phổ
5.364
6.342
5.886
thông
Giáo viên cấp I
4.477
4.560
587
110,78%
98,81%
5.020
Giáo viên cấp II
720
1.115
149
154,86%
104,20%
1.071
Khoa học xã hội
521
Khoa học tự nhiên
594
114
Giáo viên cấp III
74
112
9
154,0%
101,78%
Khoa học xã hội
52
Khoa học tự nhiên
62
104,30%
69,78%
Giáo viên khác
93
139
97
Chính trị
37
75
42
Ngoại ngữ
11
17
14
TTTD
45
47
41
Nguồn: {49, tr.11}
Phụ lục 8
Tình hình phát triển giáo dục phổ thông cấp I năm học 1965 - 1966
Cấp I
Cấp II
Cấp III
TT
Huyện
Trườn
Lớp
Trường Lớp
Lớp HS tuyển
Học
Học
g
vào lớp 8
sinh
sinh
231 198 186 386 197 252 381
10419 9512 9770 19017 10652 13453 18821
24 25 26 47 24 31 46
3705 2967 3396 8062 4133 4068 7274
66 55 61 149 71 74 140
16 14 17 35 15 19 36
6 6 6 13 8 6 12
165 165 165 385 220 165 330
1 2 3 4 5 6 7
9 245 307 266 280 141 230
4 100 123 86 104 63 90
8 9 12 8 7 6 6
165 220 330 220 220 110 220
505 13575 16516 14101 15238 7847 12063 3.309 171.489
1 31 37 30 33 15 29 398
211 5710 6868 4459 5480 3645 5040 1.186 65.018
1 25 27 18 24 12 16 275
Đông Sơn Hà Trung Hậu Lộc Hoằng Hoá Nga Sơn Nông Cống Quảng Xương 8 Sầm Sơn Thị xã 9 10 Thiệu Hoá 11 Thọ Xuân 12 Tĩnh Gia 13 Triệu Sơn 14 Vĩnh Lộc 15 Yên Định Miền xuôi
156 130 94 181 154 181 153
4790 5491 2453 4859 5100 4433 6246
26 23 17 27 22 25 26
16 34 8 23 22 9 38
892 245 1735
4 7 2 3 6 3 10
6 4 3
110 110 110
16 Bá Thước 17 Cẩm Thuỷ 18 Lang Chánh 19 Như Xuân 20 Ngọc Lặc 21 Quan Hoá 22 Thạch Thành
138
5078
26
28
993
11
1
50
23 Thường
Xuân
40
192
1.187
38.450
178
7.172
Miền núi
590
4.495 209.939
315
1364 72.190
127
3.450
Tổng
Nguồn: {107, tr.5-7}
Phụ lục 9
Tình hình phát triển trường lớp phổ thông tại các huyện miền núi qua các
năm học:
Cấp học
Số lượng
1960-1961
1964-1965
1970-1970
1973-1974
Trường
122
187
180
176
Lớp
356
954
2.153
2.487
Cấp I
Tổng Học sinh
13.656
26.177
52.754
70.438
HS dân tộc
9.950
12.487
23.172
38.424
Trường
6
47
118
126
Lớp
19
120
454
608
Cấp II
Tổng Học sinh
898
4.832
12.885
20.348
HS dân tộc
294
1.802
6.177
9.585
Trường
3
6
6
Lớp
9
38
51
Cấp III
Tổng Học sinh
392
1.934
971
HS dân tộc
192
422
309
Nguồn: {126, tr.21}
(Đơn vị tính: %)
Tỷ lệ Trường, lớp, học sinh năm 1965 so với năm 1960 và năm 1971 so với
1964:
Năm
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Trườn
Lớp
HS
Trườn
Lớp
HS
Trường Lớp
HS
g
g
Tỷ lệ năm 65
153,5
267,9
191,9
783,9
631,5
538
so với năm 60
Tỷ lệ năm 71
96,2
226,6
201,4
251,1
378,3
266,6
200
422,2 490,8
so với năm 65
Nguồn: {126, tr.21}
Phụ lục 10
Thống kê số lượng trường lớp, học sinh các cấp qua các năm học:
Số
Số
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Số cán
Năm học
trường
học sinh
cấp I
cấp II
cấp III
bộ GV
1945-1946 183
13.339
13.235
104
0
210
1954-1955 544
67.129
56.725
9.689
715
1.615
1964-1965 826
243.758
180.094
59.271
4.393
6.955
1974-1975 1.804
326.905
323.222
178.146
25.557
18.374
Nguồn: {86, tr.157}
Phụ lục 11
Thống kê số lượng giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số các năm học:
1959 - 1960
1964 - 1965
1970 - 1971
Dân tộc
Cấp I Cấp II Cấp III Cấp I Cấp II Cấp III Cấp I Cấp II Cấp III
Mường
81
9
132
24
2
312
210
9
Thái
30
3
39
13
52
32
2
Thổ
4
5
7
38
19
2
Mọi
26
8
Mèo
9
0
Tổng
115
12
176
44
2
437
269
13
Nguồn: {108, tr.32}
Phụ lục 12
Thống kế tình hình ra vào trường của học sinh Lào tại trường miền núi số 3
Ngày nhận Ngày giao
Số lượng vào
Số lượng ra
9/6/70 7/7/72 9/72 9/72 10/72 3/11/72
Tổng số Riêng Nữ Tổng số Riêng Nữ 91 112 99 39 44 73 35 222 58 67 90 21 8 33 3 10 1 91 4 1 1 69 33 192 1 6 302 1.102
36 61 47 15 13 9 18 71 24 23 22 11 0 18 1 7 0 36 3 1 428
0 22 27 100 0 3 152
1/12/69 24/12/69 6/2/70 12/3/70 27/4/70 5/5/70 20/5/70 29/5/70 23/6/70 5/7/70 27/7/70 28/7/70 7/8/70 29/8/70 18/10/70 18/11/70 4/8/71 16/8/71 23/8/71 20/11/72
Nguồn: {109, tr.16}
Phụ lục 13
UBKCHC Liên khu IV Việt Nam dân chủ cộng hoà
Ban Thư ký văn xã Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Trích yếu
Số 718-TK/VX
V/v chuyển hướng lớp
Quốc lập sang dân lập Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hành chính LK4
Liên khu 4, ngày 28 tháng 4 năm 1954
Kính gửi các ông Chủ tịch UBKCHC
các tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh và Quảng Bình
I. Tiếp theo Chỉ thị số 600-VX ngày ắ của Uỷ ban Liên khu và theo chủ
trương mới của Bộ Giáo dục thì việc dân lập hoá một số trường quốc lập sẽ chỉ đạt
trong phạm vi các trường cấp I, còn các Trường cấp II, cấp III vẫn giữ nguyên ở
quốc lập. Vậy đối với các Trường quốc lập II, III các uỷ ban chỉ cần đặt vấn đề
phân phối, sắp xếp sao cho thuận tiện được cho đại đa số con em nhân dân lao
động. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển trường lớp này, việc học tập để thấm
nhuần chủ trương chuyển trường lớp vẫn cần tiến hành cho cả các giáo viên và học
sinh cấp II, III.
Còn đối với cấp I, chủ trương của Bộ là dân lập hoá tất cả, song xét tình hình
chính trị của Liên khu 4 cũng như theo khả năng quỹ địa phương của các tỉnh, Khu
chủ trương trong năm nay chỉ chuyển một số và số trường và các giáo viên cấp I
còn giữ lại quốc lập số nằm trong phạm vi Ngân sách địa phương đã phân phối cho
các tỉnh trong hội nghị Tài chính Liên khu đầu tháng 4 vừa qua.
II. Về việc chỉ đạo riêng việc chuyển trường lớp, để rút kinh nghiệm trước
cho các tỉnh thì sau hội nghị Tài chính vừa qua, số kinh phí dành cho Nghệ An có
tăng lên do có việc chuyển trường lớp sẽ rất ít nên việc chỉ đạo này sẽ không đem
lại nhiều kinh nghiệm, Một mặt về thời gian gấp rút nên Khu chủ trương không chỉ
đạo riêng trước ở Nghệ An mà vẫn để các tỉnh cứ xúc tiến ngay việc chuyển trường
lớp theo đúng lịch đã vạch kèm theo chỉ thị số 600-VX ngày 3/4/1954 của Khu.
Như vậy tỉnh nào cũng cần chỉ đạo riêng để rút kinh nghiệm áp dụng trong phạm vi
tỉnh mình.
Uỷ ban Khu đã uỷ cho Khu giáo dục và cử cán bộ vào góp ý kiến xây dựng
kế hoạch cho Quảng Bình cũng như cử cán bộ đến trực tiếp giúp đỡ tỉnh Thanh
Hoá và Hà Tĩnh trong thời gian chỉ đạo riêng của các tỉnh.
Uỷ ban khu cần nhắc lại các tỉnh là việc chuyển trường lớp này rất quan
trọng, có ảnh hưởng lớn về phương diện chính trị nên các uỷ ban có trách nhiệm
trực tiếp lãnh đạo sát sao công việc tiến hành cũng như đặt vấn đề quan trọng đúng
mức đối với các Uỷ ban Huyện, xã, phải luôn đề cao cảnh giác, không để mở kẽ hở
nào cho địch có thể lợi dụng phản lại tuyên truyền của ta.
Sao kính gửi:
- Bộ Giáo dục để tường trình
- Khu Giáo dục để biết
K.T Chủ tịch UBKCHC Liên khu IV
Phụ lục 14
UBHC Thanh Hoá Việt nam dân chủ cộng hoà
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 1362-TKVX
Thanh Hoá ngày 24 tháng 8 năm 1962
Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá
- Chiếu Sắc lệnh số 63/SL ngày 22 tháng 11 năm 1945 và các văn bản kế tiếp
ấn định nguyên tắc tổ chức chính quyền dân chủ nhân dân
- Căn cứ kế hoạch phát triển trường lớp trong niên khoá 1962 – 1963
- Xét đề nghị của ông Ty - Trưởng Ty Giáo dục Thanh Hoá
Nay Quyết định
Điều 1: Thành lập những trường phổ thông quốc lập, dân lập cấp 2, trường
phổ thông có học nghề có tên dưới đây bắt đầu từ niên khoá 1962 - 1963:
1. Huyện Thọ Xuân
Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Xuân Vinh gồm: 2 lớp 5; 3 lớp 6
Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Thọ Nguyên gồm: 3 lớp 5; 3 lớp 6
Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Xuân Thọ gồm: 2 lớp 5; 2 lớp 6
2. Huyện Yên Định
Trường Phổ thông Dân lập cấp 2 Định Công gồm 2 lớp 5 và 2 lớp 6
Trường Phổ thông nông nghiệp Định Hoà gồm 2 lớp 5 thứ nhất; 2 lớp 5 thứ
hai.
3. Huyện Thiệu Hoá
Chuyển Trường Phổ thông dân lập cấp II Thiệu Lý thành trường cấp II
Thiệu Đô gồm 3 lớp 5; 3 lóp 6; 1 lớp 7
Trường Phổ thông cấp II dân lập Thiệu Thịnh gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6
Trường Phổ thông dân lập cấp II Thiệu Vũ gồm 3 lớp 5 và 2 lớp 6
4. Huyện Hà Trung
Chuyển Trường Phổ thông dân lập cấp II Hà Tiên thành Trường Dân lập cấp
II Hà Giang gồm 4 lớp 5 và 3 lớp 6; 2 lớp 7.
5. Huyện Nga Sơn
Trường Phổ thông dân lập cấp II Nga Văn gồm 3 lớp 5, 2 lớp 6, 1 lớp 7
6. Huyện Đông Sơn
Trường Phổ thông dân lập cấp II Đông Khê gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6
7. Huyện Tĩnh Gia
Trường Phổ thông dân lập cấp II Hải Lĩnh gồm 2 lớp 5 và 1 lớp 6
Trường Phổ thông cấp II Thành Sơn gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6 và 1 lớp 7
8. Huyện Nông Cống
Trường Phổ thông dân lập cấp II Nông Trường gồm 3 lớp 5 và 1 lớp 6
9. Huyện Hoằng Hoá
Trường Phổ thông dân lập cấp II Hoàng Xuân gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6
Trường phổ thông dân lập cấp II Hoàng Đạt gồm 4 lớp 5; 3 lớp 6 và 1 lớp 7
Trường Phổ thông dân lập cấp II Hoàng Phụ gồm 2 lớp 5, 1 lớp 6
Chuyển trường phổ thông cấp II Hoàng Hoá thành trường quốc lập cấp II
Hoàng Vĩnh gồm 3 lớp 5; 3 lớp 6, 2 lớp 7.
Trường Phổ thông công nghiệp Hoàng Đại gồm 2 lớp 5 thứ nhất và 2 lớp 5
thứ hai.
Trường Phổ thông nông nghiệp Hoàng... gồm 2 lớp 5 thứ nhất
10. Huyện Quảng Xương
Trường Phổ thông Dân lập cấp II Quảng Thịnh gồm 3 lóp 5, 1 lớp 6
Trường Phổ thông Ngư nghiệp Quảng Hùng gồm 2 lớp 5 thứ nhất
11. Huyện Thạch Thành
Trường Phổ thông quốc lập cấp II Thạch Cẩm gồm 2 lớp 5
12. Huyện Như Xuân
Trường Phổ thông nông lâm nghiệp Mậu Lâm gồm 2 lớp 5 thứ nhất
13. Huyện Quan Hoá
Trường Phổ thông quốc lập cấp I, II Quan Hoá gồm 1 lớp 5
14. Huyện Ngọc Lặc
Trường Phổ thông nông lâm nghiệp Đô Lương gồm 2 lớp 5 thứ nhất
Điều 2: Nay giải thể trường cấp II dân lập Phan Đình Giót, chuyển học sinh qua
học tại các trường cấp II thị xã khác vì thiếu trường sở cần thiết.
Điều 3. Các trường cấp II phổ thông và phổ thông có học nghề kể trên đều thuộc
hệ thống các trường cấp II trong tỉnh và thuộc quyền quản lý của Ty Giáo dục
Thanh Hoá và UBHC các huyện kể trên.
Điều 4. Ông Chánh Văn phòng UBHC tỉnh, Ông Ty-Trưởng Ty Giáo dục Thanh
Hoá, ông Ty trưởng Ty Tài chính, ôg Chủ tịch UBHC các huyện và thị xã chiếu
quyết định thi hành.
Nơi nhận:
Thanh Hoá ngày 27 tháng 8 năm 1962
Uỷ viên
- Ty Giáo dục, Tài chính - UBHC các huyện để thi hành
Đã ký
- Văn phòng lưu
K/T Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá
Đỗ Văn Kiệm
Phụ lục 15
UBHC Tỉnh Thanh Hoá Việt nam dân chủ cộng hoà
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 291 VG/UBTH Thanh Hoá, ngày 24 tháng 3 năm 1975
Quyết định của Uỷ ban hành chính tỉnh
Về chế độ chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng cao và
vùng xa xôi hẻo lánh miền núi ThanhHoá
Công tác giáo dục giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của
các dân tộc ở miền núi.
Từ trước tới nay, để tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục miền núi phát triển
không ngừng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 75/TTg/VG ngày 20/6/1965
ban hành chế độ cấp áo cho giáo viên công tác ở vùng cao; chỉ thị số 20/TTg/VG
ngày 10-3-1969.
Về công tác giáo dục ở miền núi: Thường vụ Hội đồng Chính phủ ra Nghị
quyết số 109/CP ngày 19/6/1973 về một số chsnh sách cụ thể đối với đồng bào các
dân tộc và cán bộ vùng cao; Liên Bộ Giáo dục – Tài chính có Thông tư số 18/TT-
LB ngày 26/8/1966 về chế độ cấp không sách giáo khoa cho học sinh vùng cao,
theo thông tư số 30/TT-LB ngày 28/81974 hướng dẫn thi hành chế độ chỉ tiêu cho
sự nghiệp giáo dục ở miền núi.
Để thực hiện cá chỉ thị nghị quyết của Chính phủ và các thông tư liên bộ nói
trên, UBHC tỉnh sẽ nghiên cứu để có các quyết định về chế độ chỉ tiêu cho sự
nghiệp giáo dục ở miền núi nói chung, riêng đối với vùng cao và vùng xa xôi hẻo
lánh, UBHC tỉnh quyết định như sau:
1. Về các xã được công nhận vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh
Trong khi chờ đợi quyết định mới của Chính phủ về việc công nhận các xã
vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh mà UBHC tỉnh đã đề nghị, thì vẫn tiếp tục thực
hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Chính phủ đối với vùng cao ở 18 xã đã
được Chính phủ công nhận sau đây:
Phù Nhì, Tam Chung, Quang Chiểu, Trung Lý, Trung Sơn, Trung Thanh,
Tam Lư, Sơn Lư, Sơn Điện, Sơn Thuỷ (Quan Hoá), Lâm Phú, Yên Khương (Lang
Chánh), Bát Mọt, Xuân Liên, Xuân Lệ, Xuân Chính (Thường Xuân), Thành Sơn
(Bá Thước), Xuân Thái (Như Xuân).
2. Về việc mở các hệ thống trường lớp và chế độ đối với trường nội trú, học
sinh nội trú vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh
a. Tất cả các lớp vỡ lòng đều được giao cho trường phổ thông cấp I quản lý
và giáo viên trong biên chế Nhà nước giảng dạy.
b. ở mỗi chòm hoặc liên chòm gần nhau được mở các lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp
2 phổ thông không có nội trú. ở mỗi xã, được tổ chức nội trú cho các trường phổ
thông cấp I, cấp II để thu nhận học sinh từ lớp 3 trở lên mà nhà ở xa trường phải ăn
ở lại trường mới học được.
c. Trường phổ thông nội trú được cấp:
- Tiền tập thể phí tính theo đầu học sinh ở nội trú 0,50đ một tháng học để
mua dầu đèn, sắm dụng cụ văn nghệ, thể dục thể thao.
- Tiền mua dụng cụ nấu ăn và chia thức ăn theo tiêu chuẩn 5 đồng một người
thực tế có ăn ở trường, năm sau cấp bổ sung để mua bù các thứ đã hư hỏng.
- Tiền thuê cấp dưỡng để phục vụ cho cán bộ, giáo viên và học sinh thực tế
có ăn ở trường (tỷ lệ cấp dưỡng phục vụ theo thông tư số 14/TTg/TN ngày
8/2/1969 của Thủ tướng Chính phủ).
- Kinh phí mua loa truyền thanh và chi phí thường xuyên: nếu trường ở xa
hệ thống truyền thanh thì được cấp một đài bán dẫn có thêm loa và được tiền mua
pin hàng tháng.
- Hàng năm nhà trường được tổ chức cho học sinh đi thăm quan cơ sở kinh
tế, văn hoá, di tích lịch sử và được cấp tiền tàu xe.
d. Học sinh ở nội trú hoặc nửa nội trú được cấp:
- Tiền vệ sinh phí 0,50đ một tháng cho học sinh gái đã đến tuổi trưởng
thành.
- Một chiếc chiếu dùng trong 1 năm
- Những con gia đình có khó khăn thì được mượn chăn, áo rét trong những
tháng học.
- Những học sinh học ở các trường nội trú, nếu gia đình có khó khăn về
lương thực, thu nhập thấp, bình quân nhân khẩu dưới 13 kg lương thực quy thóc
đối với học sinh cấp I, 15kg gạo đối với học sinh cấp II, cấp III.
e. Chế độ học phẩm và học bổng
- Học sinh được cấp tiền học phẩn 0,70đ một tháng đối với cấp I, 1 đồng một
tháng đối với cấp II và cấp III.
- Đối với học sinh cấp I, ngoài con liệt sĩ được cấp học bổng, cứ 10 em học
sinh được cấp 1 xuất học bổng, mỗi xuất một tháng học, để xét cấp cho những học
sinh gia đình có khó khăn. Đối với học sinh cấp II, cấp III thì mỗi học sinh được
cấp 9đ trong một tháng học. Những học sinh (kể cả cấp I, cấp II, cấp III) ở nội trú,
gia đình có nhiều khó khăn, có xã chứng thực thì được cấp học bổng loại đặc biệt
18 đồng một tháng học.
g. Học sinh vỡ lòng, phổ thông, bổ túc văn hoá được cấp sách giáo khoa để
học tập, theo đúng thông tư số 18/TT-LB ngày 26/8/1966 của Liên bộ Giáo dục-
Tài chính.
h. Học sinh ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh phải xuống vùng thấp học, vì ở
nhà không có trường và phải ăn ở tại trường cũng được hưởng mọi chế độ như học
sinh học ở các trường vùng cao có ký túc xá.
3. Về chế độ đối với cán bộ, giáo viên công tác ỏ vung cao, vùng xa xôi hẻo
lánh
a. Bồi dưỡng chính trị, văn hoá, nghiệp vụ: Cán bộ, giáo viên được tổ chức
học tập chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ, ưu tiên, xét chọn đi học các
trường của Đảng và Chính phủ, ưu tiên xét chọn đi học các trường trung cấp, đại
học, ưu tiên cấp phát tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn giảng dạy. Mỗi trường
phổ thông, bổ túc văn hoá được cấp kinh phí mua báo Nhân dân, báo Thanh Hoá,
báo Người giáo viên nhân dân, tạp chí Nghiên cứu giáo dục, chuyên san cấp học,
ngành học.
b. Lao động tiền lương: việc phân bổ tỉ lệ nâng bậc lương thường xuyên
hàng năm cho các huyện và các trường vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh phải cao
hơn các nơi khác. Giáo viên dạy các trường phổ thông có nội trú và ăn ở tập thể
trong trường, ngoài giờ dạy con chính thức nhận nhiệm vụ quản lý học sinh nội trú
thì được phụ cấp bằng 5% lương chính. Giáo viên dạy kiêm lớp được tính toán như
sau: Nếu ghép 2 lớp được hưởng 5đ, ghép 3 lớp được hưởng 10đ và kiêm cả vỡ
lòng, bổ túc văn hoá, phổ thông thì được hưởng 15đ một tháng.
c. Phương tiện sinh hoạt:
- Việc cấp áo bông, chăn bông cho giáo viên công tác ở vùng cao theo chỉ thị
số 73/TTg/VG và chỉ thị số 20/TTg/VG của Thủ tướng chính phủ phải được kịp
thời và thường xuyên hàng năm.
- Giáo viên được mua gạo trước hoặc sau 3 tháng và nếu cách vùng khoảng
5km trở lên, cửa hàng lương thực nơi đó phải trả tiền cước vận chuyển.
- Nếu số giáo viên cần ăn ở tập thể mà không đủ tiêu chuẩn để thuê một cấp
dưỡng và cũng không có điều kiện tổ chức ăn ghép với cơ quan khác thì được cấp
tiền cấp dưỡng phí từ 2đ80 đến 3đ một tháng để tự tổ chức nấu ăn (thông tư số
28/TTg-LB ngày 9/9/1970 của Liên bộ Nội thương-Tài chính).
- Cán bộ, giáo viên thường xuyên công tác ở vùng cao được cấp tiêu chuẩn
lương thực cho mỗi người 21 kg một tháng kể cả ăn sáng. (Nghị quyết số 109/CP
ngày 19/6/1973 của Hội đồng Chính phủ).
d. Khám và chữa bệnh
- Giáo viên ở xã bệnh viện huyện từ một buổi đường trở lên, khi đau ốm,
được điều trị ở trạm y tế xã hoặc ở cơ sở y tế cơ quan, đơn vị gần nhất từ 1-10
ngày, sau thời gian đó nếu chưa khỏi thì chuyển về bệnh viện huyện. Tiền thuốc và
tiền bồi dưỡng được thanh toán như điều trị ở bệnh viện huyện nhưng giáo viên
phải xuất trước sau mới được thanh toán lại. Trường hợp phải thuê người cáng đi
trạm xá hoặc bệnh viện thì được thanh toán tiền thuê.
- Trước khi chuyển vùng, giáo viên nào ốm đau bệnh tật, được kiểm tra sức
khoẻ toàn diện ở bệnh viện huyện và tuỳ tình hình sức khoẻ của giáo viên, y bác sĩ
hướng dẫn điều trị nội trú, ngoại trú hoặc cho đi điều dưỡng.
Trên đây là các chế độ chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở vùng núi cao, vùng
xa xôi hẻo lánh. Các cấp, các ngành chịu trách nhiệm thi hành quyết định này để
K/T Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hoá
Phó Chủ tịch
Đã kỳ
tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục miền núi phát triển.