BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -----------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG MAI

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG NUÔI TRỒNG VÀ KINH DOANH MỘT SỐ LOÀI LAN RỪNG TẠI SA PA – LÀO CAI

Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS. TS. NGÔ QUANG ĐÊ

Hà Nội – 2009

1

LỜI NÓI ĐẦU

Luận văn được hoàn thành tại Trường Đại học Lâm nghiệp theo chương trình

đào tạo cao học Lâm nghiệp hệ chính quy, khoá học 2006 - 2009.

Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn này, tác giả rất cảm ơn

sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, Khoa đào tạo sau Đại học và của

các bạn bè đồng nghiệp. Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn GS.TS Ngô Quang

Đê, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ để bản luận văn này được

hoàn thành.

Tác giả cũng xin cảm ơn các cán bộ của VQG Hoàng Liên – Lào Cai và nhân

dân địa phương đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tác giả thu thập số liệu để hoàn thành

bản luận văn này.

Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên

bản luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được

những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các nhà khoa học cũng như của bạn bè

đồng nghiệp để bản luận văn được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, Ngày 20 tháng 10 năm 2009

Tác giả

Nguyễn Thị Phương Mai

2

Mục lục

Trang

TRANG PHỤ BÌA LỜI NÓI ĐẦU Mục lục Danh mục các bảng biểu Danh mục các hình ảnh ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................................... 1 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................................. 3 1.1. Ở nước ngoài ................................................................................................................... 3 1.2. Ở Việt Nam ..................................................................................................................... 5 1.3. Giới thiệu về họ Lan ....................................................................................................... 9 1.3.1. Đặc điểm chung ....................................................................................................... 9 1.3.2. Đặc điểm hình thái ................................................................................................... 9 1.3.2.1. Cơ quan sinh dưỡng .............................................................................................. 9 1.3.2.2. Cơ quan sinh sản ................................................................................................ 10 1.3.3. Đặc điểm về phân loại ........................................................................................... 10 1.3.4. Giới thiệu về chi Cymbidium Sw ............................................................................ 11 1.3.5. Giới thiệu về chi Dendrobium Sw .......................................................................... 13 Chương 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 15 2.1. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 15 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 15 2.3. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................................... 15 2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái và phân bố của 6 loài lan ........................................ 15 2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 6 loài lan . 16 2.3.3. Nghiên cứu các biện pháp nhân giống và nuôi dưỡng 6 loài lan ............................... 16 2.3.4. Đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng tại Sa Pa ................................ 16 2.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 16 2.4.1. Phương pháp luận trong nghiên cứu ..................................................................... 16 2.4.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 17 2.4.2.1. Phương pháp kế thừa .......................................................................................... 17 2.4.2.2. Phương pháp điều tra ngoại nghiệp ................................................................... 17 2.4.2.3. Phương pháp nội nghiệp ..................................................................................... 19 Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- KINH TẾ- XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU ......... 21 3.1. Đặc điểm tự nhiên ......................................................................................................... 21 3.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................................. 21 3.1.2. Địa hình, địa mạo .................................................................................................. 21 3.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng ......................................................................................... 21 3.1.3.1. Địa chất............................................................................................................... 21 3.1.3.2. Thổ nhưỡng ......................................................................................................... 22

3

3.1.4. Khí hậu thuỷ văn .................................................................................................... 23 3.1.4.1. Khí hậu ................................................................................................................ 23 3.1.4.2. Thủy văn .............................................................................................................. 25 3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ............................................................................................... 25 3.2.1.Tình hình dân sinh .................................................................................................. 25 3.2.1.1. Dân số ................................................................................................................. 25 3.2.1.2. Dân tộc ................................................................................................................ 26 3.2.2. Tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội ....................................................................... 26 3.2.3. Tình hình sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng ...................................................... 27 Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ...................................................... 28 4.1. Kết quả điều tra các loài Lan trong tự nhiên ở khu vực nghiên cứu ............................. 28 4.2. Đặc điểm hình thái và phân bố của 6 loài Lan nghiên cứu ........................................... 30 4.2.1. Lan Trần mộng xuân ( Cymbidium lowianum Rchb.f.) ......................................... 30 4.2.2. Lan Kiếm hồng hoàng (Cymbidium iridioides D.Don.) ........................................ 31 4.2.3. Lan Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle.) .................................................. 31 4.2.4. Lan Kiếm thanh ngọc (Cymbidium ensifolium (L.)Sw. .......................................... 32 4.2.5. Lan Hoàng thảo kiều (Dendrobium densiflorum Lindl.) ....................................... 33 4.2.6. Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.) .......................................... 34 4.3. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 6 loài Lan nghiên cứu ............... 36 4.3.1. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 4 loài thuộc chi lan Kiếm (Cymbidium) .................................................................................................................... 36 4.3.1.1. Ánh sáng ............................................................................................................. 36 4.3.1.2. Nhiệt độ ............................................................................................................... 37 4.3.1.3. Ẩm độ .................................................................................................................. 37 4.3.2. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 2 loài thuộc chi Hoàng thảo (Dendrobium)................................................................................................................... 39 4.3.2.1. Ánh sáng ............................................................................................................. 39 4.3.2.2. Nhiệt độ ............................................................................................................... 39 4.3.2.3. Ẩm độ .................................................................................................................. 40 4.4. Các biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 6 loài lan nghiên cứu ...................................... 41 4.4.1. Các biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 4 loài thuộc chi Cymbidium ................... 41 4.4.1.1. Biện pháp nuôi dưỡng 4 loài thuộc chi Cymbidium .......................................... 41 4.4.1.2. Biện pháp nhân giống 4 loài thuộc chi Cymbidium............................................ 46 4.4.2. Biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 2 loài thuộc chi Dendrobium ........................ 50 4.4.2.1. Biện pháp nuôi dưỡng 2 loài thuộc chi Dendrobium ........................................ 50 4.4.2.2. Biện pháp nhân giống 2 loài thuộc chi Dendrobium ........................................ 51 4.5. Đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng tại Sa Pa ......................................... 53 Chương 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 63 5.1. Kết luận ......................................................................................................................... 63 5.2. Tồn tại ........................................................................................................................... 65 5.3. Khuyến nghị .................................................................................................................. 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

4

Danh mục các bảng biểu

Trang

Bảng 3.1: Bảng tổng hợp các yếu tố khí tượng năm 2005 – 2008 .......................................... 23 Bảng 4.1: Kết quả điều tra các loài Lan trên OTC ................................................................. 28 Bảng 4.2: Bảng điều tra các loài lan trong tự nhiên ở khu vực nghiên cứu ................................ 29 Bảng 4.3: Sinh trưởng của 4 loài thuộc chi Cymbidium trong tự nhiên ................................. 38 Bảng 4.4: Sinh trưởng của 2 loài thuộc chi Dendrobium trong tự nhiên ................................ 41 Bảng 4.5: Bảng một số dấu hiệu nhận biết bệnh của Lan thông qua lá cây ........................... 45 Bảng 4.6: Biểu tổng hợp tình hình sinh trưởng các loài Lan được nuôi trồng ....................... 53 Bảng 4.7: Biểu kiểm tra sự thuần nhất về sinh trưởng theo tiêu chuẩn Pearson ......................... 54 Bảng 4.8: Những loài Lan được nuôi trồng tại Sa Pa .............................................................. 56 Bảng 4.9: Bảng kết quả cơ cấu thu nhập của các hộ dân ........................................................ 58

Danh mục các hình ảnh

Trang

Hình 1.1: Cấu tạo chung chi lan Kiếm (Cymbidium Sw.)......................................................... 12 Hình 1.2: Cấu tạo chung chi Hoàng thảo (Dendrobium Sw.) ..................................................... 13 Hình 4.1: Lan Trần mộng xuân (Cymbidium lowianum Rchb.f.) ........................................... 30 Hình 4.2: Lan Kiếm hồng hoàng (Cymbidium iridioides D.Don.) ......................................... 31 Hình 4.3: Một cành Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle) .......................................... 31 Hình 4.4: Hình ảnh lan Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle.) .................................... 32 Hình 4.5: Lan Kiếm thanh ngọc (Cymbidium ensifolium (L.)Sw............................................ 33 Hình 4.6: Lan Hoàng thảo kiều (Dendrobium densiflorum Lindl.) .......................................... 34 Hình 4.7: Hoàng thảo thủy tiên trắng trưởng thành (Dendrobium farmeri Paxt.) ......................... 34 Hình 4.8: Hoa Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.) ...................................... 35 Hình 4.9: Cây con Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.) ................................ 35 Hình 4.10: Hình ảnh lá Lan bị ảnh hưởng bởi ánh sáng ......................................................... 37 Hình 4.11: Hình ảnh tách chiết cây đồng thời với thay giá thể địa Lan ................................. 49 Hình 4.12: Hình ảnh ươm tạo cây mới từ củ già .................................................................... 50 Hình 4.13: Các bước nhân giống Dendrobium bằng cắt cành ................................................ 53

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng nhiệt đới Việt Nam là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, rừng

không chỉ cung cấp gỗ, chất đốt, bảo vệ môi trường sống mà chúng còn cung cấp

cho con người các lâm đặc sản ngoài gỗ. Trong rừng có rất nhiều loài sinh vật

quý hiếm, Lan rừng nhiệt đới là một trong số những loài như vậy.

Theo tác giả Trần Hợp, trên thế giới Lan rừng có khoảng 750 chi với khoảng

20.000 – 25.000 loài (R.L Dressler, 1981 và A.L Takhtajan, 1987). Ở Việt Nam, họ

Phong lan có khoảng 137 – 140 chi và trên 800 loài, trong đó có nhiều chi và loài

hoàn toàn mới trong hệ thực vật toàn cầu. Với số lượng chi và loài trên cho thấy họ

Lan (Orchidaceae) là họ lớn nhất trong những họ thuộc lớp một lá mầm và là một

trong hai họ lớn nhất của hệ thực vật bậc cao có mạch ở nước ta [10].

Thiên nhiên đã ban tặng cho loài này một vẻ đẹp lạ thường, sự đa dạng

của hoa tạo nên sự say mê của con người. Từ xa xưa, Phong lan được coi là

thanh cao quân tử trong bộ tứ bình “Mai – Lan – Cúc – Trúc”. Với vẻ đẹp thanh

cao vương giả ấy, mà người ta thường gọi Lan là “Hoàng hậu của các loài

hoa”[20] là món trang sức đẹp nhất mà thiên nhiên đã ban tặng cho loài người và

con người chưa bao giờ ngừng chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt mỹ ấy.

Lan không phải là cây ký sinh như tơ hồng, tầm gửi, nó là cây hoàn toàn

tự dưỡng nhờ ánh sáng, không khí và hơi nước. Nếu rễ bám vào cây rồi buông

thân cây cành xuống thì gọi là Phong lan. Nếu rễ bám vào đất, hoặc hốc đã có

mùn thì gọi là địa Lan [23]. Lan là một họ lớn, chúng phân bố khắp nơi trên thế

giới. Phong lan không những phân bố rộng mà chúng còn sống ở nhiều điều kiện

khác nhau trừ sa mạc và ốc đảo [6].

Ngoài tác dụng thẩm mỹ, Lan còn có nhiều tác dụng khác như làm bánh

với hương vị đậm đà, lá Lan có thể làm rau như Anoectochilus, trà Lan được chế

biến từ lá của loài Jumelle faragrans ở quần đảo Mascarene, Lan còn có thể dùng

làm thuốc [16]. Ngoài ra Lan còn góp phần không nhỏ vào việc cải tạo môi

trường sống, cung cấp các tinh chất thơm cho ngành công nghiệp hóa mỹ phẩm,...

2

Nền kinh tế của Việt Nam những năm qua đã có những bước phát triển vượt

bậc góp phần nâng cao mức sống của người dân nhất là dân cư các thành phố lớn.

Bên cạnh đó, việc Việt Nam ra nhập WTO đã kéo theo làn sóng đầu tư

vào Việt Nam ngày càng lớn. Các dự án đầu tư không chỉ là các khu công

nghiệp, khu chế xuất mà có cả các khu nghỉ dưỡng cao cấp phục vụ nhu cầu du

lịch, tổ chức các sự kiện trong nước và quốc tế. Chính vì thế mà nhu cầu về các

loại hoa tươi trong đó có hoa Lan ngày càng lớn.

Chơi Lan cũng là một thú chơi tao nhã của những người yêu hoa. Hiện

nay, người yêu hoa đang muốn hướng tới một giò Lan với phong cách tự nhiên,

hoang dã và không gì khác là Lan rừng. Tuy nhiên, khi mua về nuôi trồng ở môi

trường trong nhà thì gặp rất nhiều vấn đề như Lan không phát triển, héo rũ,

không ra hoa,...Vì vậy, việc tìm hiểu các đặc tính của Lan rừng, cách chăm sóc gây

trồng chúng là công việc rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người chơi Lan hiện nay.

Lan là loài hoa có giá trị kinh tế cao nên trong những năm gần đây đời

sống của các nghệ nhân trồng Lan đã được cải thiện rõ rệt. Đồng bào dân tộc

miền núi trước đây thấy Lan đẹp mà thưởng thức, hiện nay cuộc sống hiện đại đã

cho họ một hình thức kinh doanh vừa có hiệu quả kinh tế lại vừa giữ được thú

chơi tao nhã của mình. Huyện Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai là nơi có rất nhiều loài

Lan sinh sống, một số loài còn là đặc hữu của vùng. Theo thống kê của vườn

quốc gia Hoàng Liên thì cả nước có hơn 630 loài Lan thì ở đây đã có gần 300

loài. Điều đó chứng tỏ rằng Sa Pa là một trong những trung tâm phân bố của các

loài Lan Việt Nam. Một vấn đề đáng chú ý là nguồn tài nguyên quý giá này đang

có nguy cơ bị thu hẹp và suy thoái do hiện tượng phá rừng, do quá trình khai

thác, sử dụng và kinh doanh Lan rừng còn găp nhiều khó khăn.

Để có thể sản xuất kinh doanh hoa Lan đúng hướng, không làm mất đi

nguồn gen quý thì việc điều tra đánh giá nguồn tài nguyên, tìm hiểu về đặc điểm

sinh thái, sinh trưởng, cập nhật thông tin về tình trạng các loài, xác định các biện

pháp kỹ thuật là rất cần thiết nhằm góp phần đưa ra các giải pháp bảo tồn phát

triển bền vững nguồn tài nguyên sinh vật nói chung và hoa Lan nói riêng. Vì vậy,

Tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Đánh giá khả năng nuôi trồng và kinh doanh

một số loài Lan rừng tại khu vực Sa Pa – Lào Cai”

3

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Ở nước ngoài

Theo tác giả Nguyễn Xuân Linh, Phong lan được biết đến đầu tiên ở

Phương Đông (Trung Quốc) do Khổng Tử phát hiện ra vào khoảng năm 551-

479 trước công nguyên. Nhưng khi đó Lan chỉ được chú ý đến vẻ đẹp của lá và

hương thơm của hoa, chứ màu sắc của hoa chưa được chú ý do quan niệm thẩm

mỹ thời ấy là chuộng tao nhã chứ không thích phô trương sặc sỡ. Cây Lan biết

đến đầu tiên ở Trung Quốc là Kiến Lan (tìm thấy đầu tiên ở Phúc Kiến - Trung

Quốc), đó là Cymbidium ensifolium là một loài bán địa Lan [14].

Tác giả Lê Văn Chương cho biết ở Phương tây, mặc dù được biết đến sau

nhưng Lan được chú ý trước hết là công dụng về dược liệu của nó, sau đó là vẻ

đẹp của hoa cùng với các đặc tính về thực vật mà sự khảo sát rất có hệ thống [2].

Theophrastus được xem là ông tổ của thực vật học và cũng có thể nói là người

đầu tiên mở ra ngành học về Lan. Ông đã dùng chữ Orkis là chữ Hy lạp để chỉ

những cây Lan thường có hai củ tìm thấy ở vùng Địa Trung Hải. Sau đó, chữ

Orchis đã dược Dioscorides dùng để mô tả hai loài địa Lan trong quyển sách về

dược liệu của ông và được Linnaeus ghi lại trong quyển “Các loài cây cỏ” vào

năm 1753; Năm 1836 John Lindley đã sử dụng từ Orchidaceae để đặt tên cho họ

Lan và đặt nền tảng hiện đại cho môn học về Lan [22].

Theo Bùi Xuân Đáng thì từ năm 1510 người Châu Âu mới thực sự biết

đến hoa Lan qua những trái Vanilla dùng làm hương thơm cho bánh kẹo, sau đó

đến các loài Hạc Đính rồi Kiếm lan… Hoa Lan chính thức gia nhập vào ngành

hoa cây cảnh trên thế giới khoảng 400 năm nay và ngày càng được ưa chuộng

trên thế giới [8].

Từ năm 1731 các nhà khoa học và các nhà thảo mộc ở Châu Âu và Châu

Mỹ mới bắt đầu nghiên cứu về Lan; họ tìm cách phân loại theo các tiêu chuẩn:

4

điều kiện tăng trưởng, sự sinh sản, và hình dáng của các loài Lan. Đã có nhiều hệ

thống phân loại đã được đưa ra: hệ thống phân loại của Lindley (1836) đã chia

họ Lan ra làm 7 tông, còn George Bentham (1881) chia họ Lan ra 5 tông,.... đa số

đều dựa trên những tiêu chuẩn cơ bản như đặc điểm, cấu trúc của hoa, số lượng

và bản chất của phấn khối. Sự đánh giá các tiêu chuẩn ấy vẫn còn mang tính chủ

quan của tác giả nên các hệ thống phân loại này vẫn chưa phản ánh đúng tiến

trình tiến hóa trong tự nhiên của các loài Lan [22].

Từ khi Lan được nuôi trồng thì yêu cầu nhân giống Lan cũng xuất hiện

theo. Tác giả Nguyễn Thiện Tịch cho biết bí mật của việc nảy mầm của hạt Lan

đã được tìm ra vào năm 1899, khi Noel Bernard khảo sát các hạt Neottia nidus-

avis nảy mầm tự nhiên trong rừng vùng Fontainebleau (Pháp). Ông thấy các cây Lan

con đều nhiễm nấm. Năm 1904 Noel Bernard mới thành công trong việc phân lập

các nấm từ rễ Lan rồi cho nhiễm vào các hạt Lan. Bằng cách này, Noel Bernard là

người đầu tiên làm cho 100% hạt Lan nảy mầm. Sau đó Noel Bernard và Burgeff đã

hình thành phương pháp gieo hạt Lan có nhiễm nấm trong chai thạch (phương pháp

gieo hạt cộng sinh). Năm 1922, Knudson đã nhận thấy vai trò của nấm với hạt Lan là

sự cung cấp đường và đã thành công trong việc thay thế nấm bằng đường ở môi

trường thạch để gieo hạt (phương pháp gieo hạt không cộng sinh) [22].

Theo Bùi Xuân Đáng, giáo sư Georges Morel (1960) người Pháp đã phát

minh ra phương pháp Meristem (Phương pháp nuôi cấy mô phân sinh), tức là cắt

mầm hay rễ Lan thành mảnh nhỏ rồi cho vào trong một dung dịch đặc biệt, sử

dụng máy để lắc đều. Vài tuần sau, từ mảnh Lan này sẽ phát triển thành những

cây Lan nhỏ có thể đem đi trồng. Phương pháp này đã khắc phục được những

khó khăn của cách gieo Lan bằng hạt do đặc điểm hạt Lan nhỏ và quá trình xử lý

nảy mầm cũng rất phức tạp [8].

Judy White (1996), trong cuốn Taylor’s Guides to Orchids đã giới thiệu

một số loài Lan phổ biến trồng ở gia đình như: Cattleya, Cymbidium,

Dendrobium, Phalaenopsis, Vanda, Oncidium,... Không chỉ giới thiệu về điều

5

kiện sống, yêu cầu nhiệt độ và ánh sáng để cây sinh trưởng phát triển mà trong

đó tác giả còn miêu tả những nét đặc trưng của một số loài Lan. Cuốn sách như

là một cẩm nang cho những ai yêu thích việc trồng Lan [28].

Bill Lavarack và cộng sự (2000), trong cuốn Dendrobium and its relatives

đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về một số loài trong chi Dendrobium;

tác giả đã trình bày từ vấn đề phân loại và danh pháp, đặc điểm phân bố và

nguồn gốc của một số loài trong chi Dendrobium. Bên cạnh đó, tác giả còn mô tả

đặc điểm sinh học và sinh thái học của hơn 400 loài, vấn đề nuôi trồng và lai

giống của các loài này. Qua cuốn sách này, tác giả cũng đã giúp cho những

người yêu Lan biết được môi trường sống và cách thức trồng, chăm sóc một số

loài trong chi Dendrobium nhằm đạt được hiệu quả cao nhất [27].

Trong cuốn Orchid grower’s companion: cultivation, propagation, and

varieties của David P. Banks (2005) đã cung cấp cho những hiểu biết cơ bản về

họ Lan: cấu tạo của cây, lịch sử nuôi trồng, sự phân bố của chúng,.... Cuốn sách

cũng cung cấp những kỹ năng cơ bản trong việc nuôi trồng, chăm sóc hoa Lan.

Qua đó giúp chúng ta biết được nhu cầu nhiệt độ, độ ẩm, chế độ phân bón, cách

thức nhân giống và một số bệnh hại Lan thường gặp. Cuốn sách này cũng giới

thiệu đặc điểm của một số loài thuộc các chi: Bulbophylium, Cattleya,

Coelogyne, Cymbidium, Dendrobium, Paphiopedium, Phalaenopsis, Vanda,...

Qua đó đã giúp người đọc nhận biết được một số loài Lan thường gặp [26].

1.2. Ở Việt Nam

Phong lan thuộc ngành Ngọc Lan (Mangnoliophyta), lớp Hành (Liliopsida),

Phân lớp Hành (Lilidae), Bộ Lan (Orchidales), Họ Lan (Orchidaceae) [1].

Việc phát hiện, thuần hóa và gây trồng hoa Lan đã có một lịch sử lâu dài

so với các loài cây thực phẩm. Từ đời nhà Trần, vua Trần Anh Tông là người

chơi Phong lan nổi tiếng đã xây dựng vườn “Ngũ bách Lan viên” gây trồng tới

500 loài Lan khác nhau [16]. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là sưu tập để thưởng

ngoạn chứ chưa đi sâu mô tả nghiên cứu về loài hoa này.

6

Theo Bùi Xuân Đáng, việc tìm kiếm Lan rừng của Việt Nam chúng ta

trước kia không thấy sách vở nào ghi chép, nhưng những người nước ngoài đến

Việt Nam sưu tầm hoa Lan đều viết sách hoặc có tường trình công việc của

mình. Người đầu tiên khảo sát Lan ở Việt Nam là một nhà truyền giáo người Bồ

Đào Nha, Joannis de Loureiro đã đến Nam Kỳ vào năm 1743. Ông đã xuất bản

cuốn Cây cỏ tại Nam Kỳ vào năm 1790. Trong tài liệu này có ghi lại những loại

Lan Aerides (Giáng Hương) và Thrixspermum (Mao tử) [7].

Theo Nguyễn Thiện Tịch thì F.Gainepain và A.Gullanmin đã mô tả 101

giống gồm 750 loài cho cả 3 nước Đông Dương trong bộ “Thực vật chí Đông

Dương” do H. Lecomte chủ biên ở quyển 6, xuất bản năm 1932 - 1934. Một số

tác giả khác cũng đề cập đến Lan Việt Nam như Schmid, Tixer và Gunna

Seidenfaden (1975) [22].

Tác giả Bùi Xuân Đáng cũng cho biết, năm 1992 giáo sư Gunnar

Seidenfaden người Đan Mạch đã cho phát hành cuốn Hoa Lan tại Đông Dương

bao gồm 200 giống với 2000 loài, trong đó có 136 giống và 720 loài của Việt

Nam. Giáo sư Seidenfaden ghi rõ sách vở tra cứu, hình vẽ, tuy nhiên còn có nhiều

cây không được mô tả rõ ràng do vấn đề ngôn ngữ [7].

Cũng theo Nguyễn Thiện Tịch, năm 1972 giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong

cuốn “Cây cỏ Miền Nam Việt Nam” có mô tả 289 giống Lan ở Việt Nam ở quyển

II về đặc điểm hình thái lá, hoa, thân, rễ và nơi phân bố của chúng. Năm 1993,

giáo sư Phạm Hoàng Hộ tái bản lại bộ Cây cỏ Việt Nam, đã bổ sung thêm 364

loài Lan nâng tổng số Lan có ở Việt Nam lên 653 loài [22]; trong bộ sách này, số

loài tuy được mô tả ít hơn nhưng không khác nhiều so với mô tả của Gunnar

Seidenfaden. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ có ghi rõ tên khoa học, tên tiếng Việt, địa

điểm tìm thấy Lan và đã mô tả về cây, về hoa, kèm theo hình vẽ và giải thích để

giúp người đọc hình dung ra được cây Lan [7].

Đặc biệt trong tác phẩm “Phong lan Việt Nam” của TS. Trần Hợp đã miêu

tả và phân loại chi tiết được 800 loài thuộc 138 chi [10]. Họ Lan đang ngày càng

7

gây được sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước vì thế mà nhiều

giá trị quý của họ Lan đang ngày càng được phát hiện không những về khoa học

mà còn có giá trị kinh tế.

Tài liệu được công bố gần đây theo bảng trích yếu cập nhật hoá về các

loài Phong lan của chuyên gia cao cấp về hoa Lan của thế giới Leonid

Averyanov và Anna L. Averyanov (2003) ở Việt Nam hiện đã biết 897 loài, 152

chi. Đặc biệt trong tác phẩm Lan Hài Việt Nam (2004) của Leonid Averyanov,

Phillip Cribb, Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp đã có mô tả chi tiết 22 loài Lan

thuộc chi Lan Hài (Paphiopedilum). Đây là nhóm thực vật thuộc nhóm IA trong

sách đỏ Việt Nam chúng đều là các loài quý hiếm nhiều loài đặc hữu đang có

nguy cơ cao bị tuyệt chủng ở mức độ cao [11].

Trong cuốn “Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa – Phan Si Pan”

(1998) của GS.TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời đã có số liệu thống

kê được 110 loài Lan thuộc 42 chi có phân bố trên dãy Hoàng Liên [19].

Ngoài những công trình nghiên cứu về tính đa dạng và đặc điểm phân bố

của hệ Lan ở Việt Nam, cũng có những tác giả đi vào nghiên cứu kỹ thuật trồng

những loài Lan phổ biến, có giá trị kinh tế. Cuốn “Hoa Lan- nuôi trồng và Kinh

doanh” của Phan Thúc Huân (2005) đã giới thiệu về lịch sử nghề trồng Lan, các

giống Lan phổ biến ở Đông Nam Á. Tác giả cũng trình bày đặc điểm hình thái,

phân loại, quá trình sinh trưởng và yêu cầu sinh thái, kỹ thuật nhân giống và

chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho một số loài Phong lan ở Việt Nam [12].

Cuốn sách “Kỹ thuật trồng và kinh doanh Phong lan” của tác giả Việt

Chương (2006), “Trồng hoa Lan” của Nguyễn Công nghiệp (2006) đều đã mô tả

sự phân bố địa lý và môi trường tự nhiên của họ Lan. Sau đó tác giả còn hướng

dẫn các bước chăm sóc Lan cơ bản như tưới nước, bón phân, ánh sáng, nhiệt độ,

vấn đề sang chậu cho Lan và phòng trừ sâu bệnh hại. Cuốn sách cũng hướng dẫn

các phương pháp nhân giống cơ bản có thể tiến hành. Cuối cùng tác giả giới thiệu

sơ lược về những loại Lan phổ biến được trồng hiện nay như Cattleya,

8

Cymbidium, Dendrobium, Oncidium, Phalaenopsis,… nhằm giúp người đọc có

thể tìm ra loại cây trồng phù hợp với điều kiện của bản thân [3][18].

Cuốn “Cẩm nang nuôi trồng và kinh doanh Phong lan” của Huỳnh văn

Thới (2005) là tác phẩm đúc kết kinh nghiệm nuôi trồng Phong lan của nhiều

nghệ nhân trong việc trồng hoa cây cảnh. Cuốn sách cung cấp cho người đọc

những kỹ thuật về sinh lý, sinh thái, về cách trồng và chăm sóc một số loài Lan,

biết chọn giống phù hợp với môi trường,... Bởi vì chỉ có biết rõ về cây Lan mới

có thể mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh đạt hiệu quả cao [21].

Đề tài “Thử nghiệm nhân giống, trồng hoa Phong lan và một số loài hoa

ôn đới khác tại Sa Pa – Lào Cai” của Công ty Du lịch tỉnh Lào Cai - Viện Di

truyền Nông nghiệp - Bộ NN &PTNT và Trung tâm giống Nông Lâm nghiệp

Lào Cai thực hiện 5/2000 - 5/2003. Đề tài nghiên cứu khả năng thích ứng của

hoa Lan và một số loài hoa ôn đới ở Sa Pa. Năm loài Lan (Kiếm Đà Lạt, Hồ điệp,

Hạc đính, Lan Hoàng thảo, Kiếm Sa Pa) và chín loài hoa ôn đới khác đã được

lựa chọn. Qua quá trình trồng và thử nghiệm dự án đã đưa ra kết luận các loài

Lan Kiếm Đà Lạt, Kiếm Sa Pa, Hoàng thảo, Hạc đính có thể trồng được ở Sa Pa.

Riêng Hồ điệp không phù hợp do không chịu được thời tiết lạnh đặc biệt là

sương muối và gió ở khu vực này. Đề tài đã xây dựng được quy trình và nhân

giống thành công một số loài Lan bằng phương pháp nuôi cấy mô và tách mầm

(với một số loài Kiếm, Hoàng thảo của Sa Pa)[4].

Sa Pa lại được coi là trung tâm đa dạng của các loài Lan ở Việt Nam, thế

nhưng đến nay vẫn chưa có công trình đáng kể nào nghiên cứu về đặc điểm,

khả năng nuôi trồng và kinh doanh các loài Lan ở đây nhằm đáp ứng nhu cầu

ngày càng lớn của những người chơi Lan.

Tuy vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như ở

Việt Nam đều đi vào mô tả đặc điểm chung về hình thái của các loại Lan giúp

cho người chơi có thể nhận biết được các loài hoa, một số công trình nghiên

cứu cũng chỉ đưa ra kỹ thuật gây trồng, cách thức nuôi dưỡng chung cho các

9

loài Lan khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế thì mỗi loài Lan ở những khu

vực khác nhau lại có nhu cầu dinh dưỡng và yêu cầu sinh thái khác nhau, đặc

biệt là với các loại Lan rừng. Vì thế, việc nghiên cứu cụ thể đặc điểm của từng

loài là việc làm rất cần thiết để tạo thuận lợi cho quá trình chăm sóc, nuôi

dưỡng Lan sau này.

1.3. Giới thiệu về họ Lan

1.3.1. Đặc điểm chung

Họ Lan được đánh giá là một trong những loài hoa cao cấp trong vương

quốc thảo mộc, gồm hơn 25000 loài khác nhau, cùng với những loài mới được

khám phá và mô tả theo từng năm. Do chúng được phân bố ở hầu khắp mọi nơi

nên các loài Lan cũng rất khác nhau; Phong lan là những loài sống phụ sinh trên

vỏ, thân các loài thảo mộc khác; Địa lan là những loài sống trên mặt đất, trên các

vách đá có rêu hay ở các kẽ đá có đất; Hoại lan là những loài sống nhờ vào chất

mục nát trong đất, hay sống ngầm trong đất.

1.3.2. Đặc điểm hình thái

1.3.2.1. Cơ quan sinh dưỡng

- Giả hành (thân củ): chỉ xuất hiện trên các loài Lan đa thân. Bộ phận này được

cấu tạo từ các màng chồng chất lên nhau, chúng mang lá, mang hoa và là nơi

chứa chất dinh dưỡng, nước rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của Lan.

- Thân: Thân vẩy giả có nhiều hình dạng khác nhau tùy loài Lan. Trên thân có

đốt, trên mỗi đốt mọc một nhánh hoặc lá bao. Chỉ có các loài đơn thân và một số

loài của giống Dendrobium và Epidendrum là vừa có giả hành, vừa có thân. Thân

thường mang rễ và lá do đây là cơ quan dự trữ nước và chất dinh dưỡng

- Lá: là cơ quan dinh dưỡng của hoa Lan, là xưởng chế tạo chất dinh dưỡng

bằng quang hợp. Phiến lá thường có hình lưỡi kiếm dài, số lượng và hình dạng

lá khác nhau tùy chủng loại Lan. Lá có thể mọc đối xứng qua gân chính, lá

mọc sát nhau ở gốc hay xếp cách có bẹ úp lên nhau, chia đốt đều đặn, có khi lá

thoái hóa thành vẩy hay phình lên, mọng nước, hình dạng rất khác nhau.

10

- Căn hành (thân rễ): bộ phận này chỉ gặp ở Lan đa thân. Căn hành là nơi

cấu tạo các cơ quan dinh dưỡng mới, trên căn hành có các mắt sống, chết hoặc

hưu niên. Đây là bộ phận nối liền các thân củ và có mọc các đám rễ để nuôi

sống cây Lan

- Rễ: rễ ở Lan đa thân thường được hình thành từ căn hành. Ở các loài đơn thân

thì rễ mọc thẳng từ thân và thường xen kẽ với lá. Rễ trên không của các loài

Lan phụ sinh có một trục chính bao quanh bởi mô không chặt, giống bọt biển

gọi là mạc. Mạc có thể hấp thụ hơi nước của không khí, cũng như tích trữ nước

1.3.2.2. Cơ quan sinh sản

mưa và sương đọng để cung cấp cho cây.

- Hoa: Ở loài Lan hoa thường tập hợp thành cụm hoa, chùm hay bông. Hoa

lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao hoa dạng cánh, rời nhau, xếp thành 2 vòng: 3

phiến hoa ngoài cùng gọi là 3 lá đài, thường cùng màu và có cùng kích thước với

nhau. Nằm kế bên trong và xen kẽ với 3 lá đài là 3 cánh hoa, trong đó 2 cánh bên

thường giống nhau về màu sắc và hình dạng. Cánh hoa còn lại nằm phía dưới của

hoa, thường có màu sắc và hình dạng đặc sắc khác hẳn 2 cánh kia, được gọi là cánh

môi hay lưỡi. Chính cánh môi này quyết định phần lớn giá trị thẩm mỹ ở hoa Lan.

- Quả: quả Lan khi khô, mở thành 3- 6 mảnh. Hạt rất nhỏ và nhiều, thường

không có nội nhũ. Do nhẹ nên hạt dễ phát tán nhờ gió. Ở nhiều loài, trong quả có

lông hút nước dùng để bắn hạt đi. Phôi trong hạt phát triển yếu, không phân hóa

thành cơ quan. Hạt Lan muốn nẩy mầm cần có nấm cộng sinh.

1.3.3. Đặc điểm về phân loại

Họ Lan (Orchidacea) là họ lớn thuộc lớp một lá mầm, phân bố khắp nơi trên thế giới.

Dựa vào môi trường sống có thể chia họ Lan làm 3 nhóm:

- Phong lan: Những loài sống phụ sinh trên vỏ, thân cây gỗ: Cattleya, Oncidium,

Dendrobium, Phalaenopsis, Aerides, Biermannia, ...

- Địa lan: Những loài sống trên mặt đất, trên các vách đá có rêu hay ở các kẽ đá

có đất: Cymbidium, Phaius, Paphiopedilum,...

11

- Hoại lan: Một số loài hoại sinh không có diệp lục và sống nhờ vào chất mục nát

trong đất, có loài ở Châu Úc lại sống ngầm dưới đất như nấm (Lan Rhizanthella

Gardeni được tìm thấy ở miền Tây Úc năm 1928 cùng với một giống Lan khác)

Dựa vào cấu tạo và phát triển của thân có thể chia họ Lan làm 2 nhóm:

- Nhóm đơn thân: đây là nhóm mà thân phát triển vô hạn về phía đỉnh ngọn theo

chiều thẳng đứng cho nên những phát hoa chỉ xuất phát từ một bên thân mà

không bao giờ ở đỉnh ngọn. Nhóm đơn thân được chia làm 2 nhóm phụ:

+ Nhóm phụ lá mọc đối: nhóm này lá được xếp thành 2 hàng mọc đối nhau, lá

trên một hàng xen kẽ với lá của hàng kia. Gồm các chi: Vanda, Aerides (Dáng

hương), Phalaenopsis (Hồ điệp),...

+ Nhóm phụ lá dẹp thẳng hay tròn: Papilionanthe, Luisia (san hô),...

- Nhóm đa thân: đời sống của cây gồm nhiều đơn vị nối tiếp nhau, bởi sự phát

triển liên tục của những chồi nách ở về phía gốc và có những kỳ nghỉ sau mùa

tăng trưởng. Căn cứ vào cách ra hoa nhóm này được chia làm 2 nhóm phụ:

+ Nhóm ra hoa phía trên: Cymbidium, Dendrobium, Oncidium,...

+ Nhóm ra hoa ở đỉnh: Cattleya, Laelia, Epidendrum,...

1.3.4. Giới thiệu về chi Cymbidium Sw

Đây là chi Lan lớn có thể gặp phổ biến một số loài ở khu vực Sa Pa. Chi

Lan Kiếm thuộc nhóm có giả hành lớn, lá hình giáo dài, hoa hầu hết có kích

thước lớn. Chi này có cả nhóm Lan đất và phụ sinh, thường phân bố trong các

khu rừng già ẩm ướt. Đây là nhóm Lan hiện đang được người dân khai thác rất

nhiều để nuôi trồng làm cảnh.

Theo tài liệu về thực vật ở Đông Dương, từ năm 1932, Henri Lecompte

cho rằng chi này có 120 loài. Đến năm 1978 Jean Carmard sắp xếp lại và xác

định chi này có khoảng 60 loài. Những nhà phân loại học Việt Nam như Phạm

Hoàng Hộ, Võ Văn Chi... đã giới thiệu ở nước ta có khoảng 12 loài. Các loài

thuộc chi Cymbidium phân bố chủ yếu ở châu Á, từ dãy Hymalaya đến Nam

Trung Quốc (Vân Nam), các nước Đông Dương, Thái Lan ... và một vài loài

12

phân bố ở các châu lục khác.

Phần lớn các loài trong chi này sống ở các vùng rừng núi khá cao, khô và

lạnh, một vài loài khác chịu được điều kiện nóng ẩm của rừng nhiệt đới.

Chi Cymbidium gồm những loài cây thân thảo, đa niên, đẻ nhánh hàng năm

tạo thành những bụi nhỏ. Có loài rễ mọc bám trên vỏ cây, mặt đất (bì sinh hay

phụ sinh); có loài rễ ăn sâu trong bọng cây, trong đất mùn (địa sinh hay thực

sinh). Rễ mới thường chỉ mọc ở những cây con, cây mẹ khó ra rễ mới mà chỉ

thấy phân nhánh từ củ rễ.

Thân ngầm (căn hành) của những loài

này thường ngắn, nối những củ Lan với nhau.

Các củ Lan thực chất là những cành ngắn của

căn hành. Củ già, khi bị tách khỏi căn hành cũ,

có thể mọc ra đoạn căn hành mới, từ đó mọc

lên những cây con. Do đó người ta xếp

Cymbidium vào nhóm Lan đa thân (sympodial).

Củ Lan (giả hành) thường có dạng con quay

hay dạng hột xoài, đường kính từ 1 - 15 cm, củ

thường tươi và được bọc trong các bẹ lá.

Lá thường có hai dạng: dạng vảy đính

theo một đoạn căn hành và dạng thực đính trên

giả hành. Lá thực thường có cuống lá, giữa bẹ Hình 1.1: Cấu tạo chung chi lan Kiếm (Cymbidium Sw.)

lá và cuống lá có một tầng phân cách. Khi

phiến lá rụng, vẫn còn đoạn bẹ ôm lấy giả hành. Có một số loài không có cuống lá.

Tùy theo từng loài mà phiến lá rất khác nhau, có loài có gân dọc nổi rõ

nhưng cũng có loài gân chìm trong thịt lá. Lá có dạng dải, dạng mũi mác hay

dạng phiến. Đầu lá nhọn hay chia thành 2 thùy. Kích thước của bản lá biến động

từ 0,5 - 6cm. Chiều dài lá thay đổi từ 10 - 150cm.

Chồi hoa thường xuất hiện bên dưới giả hành, trong các nách lá, tách các bẹ

13

già, đâm ra bên ngoài. Thông thường, mỗi giả hành chỉ cho hoa một lần. Chồi hoa

thường xuất hiện đồng thời với chồi thân, những chồi hoa no tròn hơn, còn chồi thân

hơi dẹp. Các lá đầu tiên ở chồi thân mọc đâm ra 2 phía hình đuôi cá, còn ở chồi hoa

các lá bao hoa luôn ôm chặt quanh phát hoa. Cụm hoa đứng thẳng hay cong thòng,

thường dài và mang nhiều hoa. Hoa to, 3 lá đài và 2 cánh hoa rời và giống nhau.

Môi có 3 thùy, trong đó 2 thùy bên dựng đứng, thùy giữa có 2 sọc nổi nhô lên. Trụ

khá cao, 2 phấn khối nói với một vĩ phấn chung nằm trên một gót đĩa to.

1.3.5. Giới thiệu về chi Dendrobium Sw

Dendrobium Sw (chi Hoàng Thảo) rất phong phú về chủng loại, với

khoảng 1600 loài phân bố trên các vùng thuộc châu Á nhiệt đới, tập trung nhiều

nhất ở Đông nam Á và châu Úc. Ở Việt Nam đây là chi Lan lớn nhất với 97 loài

được ghi nhận chiếm 12,9% tổng số loài Lan (Averyanov). Trên dãy Hoàng Liên

có phân bố khoảng 25 loài từ độ cao 800 – 2300m [12].

Dendrobium là nhóm Lan đa thân, giả

hành dài, lá phát triển trên toàn bộ giả hành,

trên thân có nhiều mắt ngủ. Căn hành với

khoảng cách các mắt ngắn hơn Cattleya. Hoa

lớn cánh môi phẳng, cụm hoa ít phát trên toàn

bộ giả hành, cuống của cụm hoa buông vuông

góc với trục giả hành.

Dendrobium được chia làm 2 nhóm

theo dạng thân của chúng:

- Dạng thòng hay Nobile là dạng thân mềm

thường ở vùng hơi lạnh như ở Đà Lạt, Sa Pa,...

- Dạng đứng hay Phalaenopsis là dạng thân Hình 1.2: Cấu tạo chung chi

cứng thường sống ở vùng có khí hậu nóng hơn Hoàng thảo (Dendrobium Sw.)

Hai dạng này đều giống nhau trong

14

việc tạo lập giả hành mới và biệt hóa chồi sơ khởi ở nách lá dọc theo giả hành;

nhưng chúng lại rất khác biệt trong việc tạo lập chồi hoa.

- Ở Dendrobium nobile ra hoa từ chồi sơ khởi của giả hành đã trưởng thành.

Như Long tu (Dendrobium primulinum), Giả hạc (Dendrobium anosmum) chúng

chỉ ra hoa với giả hành đã rụng hết lá

- Ở Dendrobium phalaenopsis thì hoa mọc ở cả giả hành cũ và mới. Ở giả

hành mới, chồi non nhất ở gần ngọn là chồi đầu tiên phát triển thành vòi hoa.

Hình dạng của Dendrobium cũng rất nhiều kiểu:

- Nhóm có giả hành dài và mang lá dọc theo chiều dài của giả hành

thường rụng hết lá khi ra hoa như Long tu (Dendrobium primulinum), Ý thảo

(Dendrobium gratiosissimum),...

- Nhóm giả hành to, ngắn tận cùng thường có 2 -3 lá dai, bền, không rụng.

Phát hoa tập trung ở phần này tạo thành chùm đứng hay thòng như: Thủy tiên

trắng (Dendrobium farmeri), Thủy tiên vàng (Dendrobium thyrisflorum), Vảy cá

(Dendrobium lindleyi),...

- Nhóm giả hành mảnh mai, dài hay ngắn, có lá dọc theo chiều dài của

chúng, lá dai bền và không rụng. Hoa thường mọc cô độc ở nách lá như Hoàng

thảo hương duyên (Dendrobium ellipsophyllum),....

15

Chương 2

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

- Xác định khả năng nuôi trồng một số loài Lan rừng tại Sa Pa

- Xác định các biện pháp nhân giống và nuôi dưỡng một số loài Lan rừng ở các

giai đoạn phát triển khác nhau

- Xác định khả năng sản xuất kinh doanh một số loài Lan rừng tại Sa Pa

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: 4 loài thuộc chi: lan Kiếm (Cymbidium) và 2 loài thuộc chi

Hoàng thảo (Dendrobium) tại Sa Pa - Lào Cai. Đây là những loài có giá trị về mặt

kinh tế, có giá trị về mặt thẩm mỹ và được các hộ dân nuôi trồng với số lượng lớn

+ Lan Trần mộng xuân (Cymbidium lowianum Rchb.f.)

+ Lan Kiếm hồng hoàng (Cymbidium iridioides D.Don.)

+ Lan Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L. Castle)

+ Lan Kiếm thanh ngọc (Cymbidium ensifolium Sw.)

+ Lan Hoàng thảo kiều (Dendrobium densiflorum Lindl) hay Thủy tiên mỡ gà

+ Lan Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.)

- Địa điểm nghiên cứu:

+ Khu phân bố tự nhiên điển hình của 6 loài Lan rừng chọn nghiên cứu ở vườn

quốc gia Hoàng Liên

+ Một số nhà vườn, cơ sở kinh doanh Lan rừng ở thị trấn Sa Pa

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái và phân bố của 6 loài lan

- Đặc điểm khu vực phân bố của loài: tiểu khí hậu, đai độ cao, cấu trúc rừng

- Đặc điểm hình thái: thân, lá, rễ, hoa và quả

- Đối chiếu các đặc điểm để tìm ra sự khác biệt về hình thái giữa cây sinh trưởng

16

ngoài tự nhiên và cây được nuôi trồng (nếu có)

2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới sinh trưởng

của 6 loài lan

- Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới quá trình sinh trưởng của Lan trong

điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm,...

2.3.3. Nghiên cứu các biện pháp nhân giống và nuôi dưỡng 6 loài lan

- Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng tới quá trình sinh trưởng của Lan rừng trong

điều kiện gây trồng

- Các hình thức nhân giống Lan rừng đang được sử dụng

- Cách thức tiến hành như thế nào? Những lưu ý trong quá trình nhân giống

- Đánh giá và tìm ra hình thức nhân giống có hiệu quả nhất

2.3.4. Đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng tại Sa Pa

- Quy mô của các cơ sở sản xuất kinh doanh Lan hiện có ở Sa Pa

- Thị trường tiêu thụ chủ yếu của hoa Lan Sa Pa

- Hiệu quả kinh tế từ quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng

- Khả năng phát triển, mở rộng về quy mô và thị trường tiêu thụ của hoa Lan Sa Pa

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Phương pháp luận trong nghiên cứu

Cơ sở sinh thái học đã chỉ ra rằng: trong đời sống của mình bản thân mỗi

loại cây rừng đều chịu sự tác động tổng hợp của các nhân tố sinh thái. Với mỗi

nhân tố sinh thái, mỗi loài cây đều có khả năng sinh trưởng và phát triển trong

một giới hạn nhất định gọi là biên độ sinh thái. Loài cây nào có biên độ sinh thái

càng rộng thì loài cây đó có khả năng thích ứng càng cao (thể hiện qua tình hình

sinh trưởng cũng như chất lượng của chúng). Các nhân tố sinh thái ảnh hưởng tới

sinh trưởng của các loài thực vật bao gồm nhân tố khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ, độ

ẩm,...), đất đai và mối quan hệ lâm học với các loài cây xung quanh; Bên cạnh

17

đó, điều kiện địa hình (độ cao, hướng phơi,..) cũng có ảnh hưởng tới sự sinh

trưởng của các loài thực vật do nó có tác dụng phân phối lại các nhân tố sinh

thái. Có thể coi tình hình sinh trưởng và chất lượng của các loài cây là sự phản

ánh mối quan hệ tương tác giữa chúng với các nhân tố sinh thái.

Ở đề tài này, đối tượng nghiên cứu là những thực thể sống cùng với môi

trường sống của nó. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh thái và sinh

trưởng được tiến hành nghiên cứu trong vườn ươm, các cơ sở nuôi trồng kết hợp

với điều tra thực địa nơi loài phân bố trong tự nhiên.

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu

2.4.2.1. Phương pháp kế thừa

- Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu.

2.4.2.2. Phương pháp điều tra ngoại nghiệp

- Các kết quả nghiên cứu có liên quan với nội dung nghiên cứu của đề tài.

Điều tra sơ bộ:

- Sau khi tham khảo tài liệu nghiên cứu, tiến hành phỏng vấn cán bộ lâm nghiệp,

nhân dân địa phương về tình hình xuất hiện các loài Lan nghiên cứu trong khu vực

- Căn cứ vào bản đồ địa hình và bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng, xác định khu

vực điều tra

- Điều tra sơ thám ngoài thực địa để nắm bắt được đặc điểm địa hình và sự phân

bố của các loài Lan trong tự nhiên tại Sa Pa: dạng địa hình, đai độ cao, phân biệt

các kiểu rừng, các trạng thái rừng, đồng thời đánh giá sơ bộ về thành phần loài

cũng như mức độ sinh trưởng và phát triển của thực vật

- Xác định các tuyến điều tra và dự kiến lập ô tiêu chuẩn ngoài thực địa

+ Phương pháp xác lập tuyến điều tra: Dựa trên những thông tin thu được về

khu vực phân bố của các loài Lan nghiên cứu, xác lập các tuyến điều tra điển

hình theo các đai độ cao. Các tuyến, điểm điều tra đó đi qua các dạng sinh cảnh

đặc trưng, đặc biệt phù hợp với sự phân bố, hoàn cảnh sống của các loài Lan như

18

khu vực rừng già, khe suối,...

+ Phương pháp lập ô tiêu chuẩn: Từ tuyến điều tra xác lập được, lập các ô tiêu chuẩn 1000m2 là hình chữ nhật có kích thước 25m x 40m, cạnh dài của ô tiêu

chuẩn song song với đường đồng mức. Điều tra trực tiếp tại hiện trường theo

phương pháp thống kê.

Điều tra tỉ mỉ:

- Thu thập số liệu về đặc điểm phân bố:

+ Phỏng vấn cán bộ và nhân dân địa phương về các loài Lan nghiên cứu: thành

phần loài, địa điểm xuất hiện, đặc điểm hình thái, sinh trưởng

+ Trên mỗi tuyến điều tra đều tiến hành ghi chép thông tin về: dạng địa hình, đai

độ cao, sự xuất hiện của các loài Lan nghiên cứu và tình hình phân bố của chúng,

các loài cây gỗ mà Lan sinh sống + Sau khi nắm bắt được các thông tin trên các tuyến lập các ô tiêu chuẩn 1000m2

ở các độ cao khác nhau. Trong mỗi ô tiêu chuẩn, điều tra số lượng cá thể của mỗi

loài Lan nghiên cứu và một số loài Lan cùng sinh sống.

- Thu thập số liệu về một số đặc điểm hình thái:

Để nghiên cứu đặc điểm hình thái của các loài Lan, tôi sử dụng phương pháp

quan sát kết hợp với đo đếm, mô tả ở thực địa và nơi nuôi trồng

+ Đặc điểm thân cây: Lan đơn thân hay đa thân? Dạng thân

+ Đặc điểm rễ: hình dạng của rễ, độ lớn của rễ, số lượng rễ, cách thức mọc

+ Đặc điểm lá: cách thức mọc của lá, hình dạng, màu sắc, chiều dài và chiều rộng lá

+ Đặc điểm về nụ, hoa, quả: màu sắc, kích thước, số lượng

- Thu thập số liệu về tình hình sinh trưởng:

Để thu thập số liệu về tình hình sinh trưởng các loài lan, Tôi sử dụng phương

pháp phỏng vấn kinh nghiệm của người dân địa phương là chủ yếu

+ Quan sát, mô tả tình hình sinh trưởng (thân, lá, rễ, hoa, quả) của các loài Lan

nghiên cứu trong ô tiêu chuẩn được thiết lập

+ Quan sát, mô tả tình hình sinh trưởng (thân, lá, rễ, hoa, quả) của các loài Lan

19

nghiên cứu tại nơi nuôi trồng

+ Tìm hiểu các biện pháp chăm sóc Lan được sử dụng: chế độ tưới nước, bón

phân, điều kiện ánh sáng,...

+ Điều tra tình hình sinh trưởng tại các địa điểm và đánh giá theo mức độ: tốt,

trung bình và xấu

 Cây tốt: cây sinh trưởng nhanh, không bị sâu bệnh; lá, thân và rễ không có

những biến đổi khác thường về màu sắc

 Cây trung bình: Cây sinh trưởng bình thường, có thể bị bệnh nhưng không

nguy hại nhiều, các bộ phận của cây như thân, lá và rễ có thể có những biến đổi

bất thường về màu sắc nhưng với số lượng ít khoảng 20-30%

 Cây xấu: Cây bị bệnh hại với mức độ nhiều trên 30%, các bộ phận của cây như

thân, lá, rễ bị biến đổi màu, mềm yếu.

- Thu thập số liệu về khả năng nhân giống:

+ Phỏng vấn các cán bộ kỹ thuật và người sản xuất Lan về kinh nghiệm nhân

giống: các hình thức nhân giống phổ biến, thời điểm tiến hành nhân giống, cách

thức tiến hành nhân giống

+ Tìm hiểu khả năng ra chồi, tỷ lệ và thời gian ra rễ của các gốc sau khi tách

- Thu thập số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh các loài Lan nghiên cứu

+ Quy mô của các cơ sở sản xuất kinh doanh Lan tại Sa Pa

+ Thị trường tiêu thụ chủ yếu của các loại Lan ở Sa Pa

2.4.2.3. Phương pháp nội nghiệp

+ Hiệu quả do kinh doanh hoa Lan mang lại

- Tổng hợp kết quả điều tra thành bảng mô tả về đặc điểm của các loài Lan nghiên cứu

- Xác định tỷ lệ sinh trưởng (tốt, trung bình, xấu) tại thực địa và tại nơi sản xuất

làm cơ sở rút ra kết luận nghiên cứu

ni n

N % = x 100% ( 2.1)

20

Trong đó: - N% là tỷ lệ sinh trưởng theo từng loại ( tốt, trung bình, xấu)

- ni là tổng số cây theo từng loại( tốt, trung bình, xấu)

- n là tổng số cây của loài ( tại cùng một nơi)

- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để so sánh về khả năng sinh trưởng

giữa Lan ngoài tự nhiên và Lan được nuôi trồng

Để so sánh về khả năng sinh trưởng của Lan ở hai môi trường sống khác

2

2

ii

nhau ta có thể dùng tiêu chuẩn Pearson

TS

n

f x

i

j

Ta

Tb

      

  1   

( 2.2)

là tần số quan sát của mẫu i cấp chất lượng j Trong đó: f ij

Tai là tổng tần số quan sát của mẫu thứ i

Tb j là tổng tần số quan sát của cấp chất lượng j

a

b

a

b

TS

TS là tổng tần số quan sát của toàn thí nghiệm

f

i

j



Ta

Tb

ij

i

1 

j

1 

i

1 

j

1 

n

05

tra bảng với k = (a-1)(b-1) bậc tự + Nếu 2 tính được ở công thức (2.2) 2

do thì giả thuyết Ho: sinh trưởng của Lan ở ngoài tự nhiên và trong điều kiện

nuôi trồng là như nhau được chấp nhận.

n

05

tra bảng với k = (a-1)(b-1) bậc tự do thì giả thuyết Ho: sinh + Nếu2 tính được 2

trưởng của Lan ở ngoài tự nhiên và trong điều kiện nuôi trồng là như nhau bị bác bỏ.

- So sánh kết quả điều tra về khả năng nhân giống của các loài Lan nghiên cứu

với các tài liệu tham khảo khác để xác định phương thức hiệu quả nhất và các

yếu tố ảnh hưởng tới quá trình nhân giống.

21

Chương 3

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- KINH TẾ- XÃ HỘI

KHU VỰC NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm tự nhiên

3.1.1. Vị trí địa lý

Vườn quốc gia (VQG) Hoàng Liên thuộc địa phận hành chính 6 xã: San

Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ thuộc huyện Sa Pa – tỉnh Lào Cai và Mường

Khoa, Thân Thuộc của huyện Than Uyên – tỉnh Lai Châu. Tọa độ địa lý: 22°07'-

22°23' độ vĩ Bắc và 103°00'-104°00' kinh Đông, cách thành phố Lào Cai khoảng

40 km và Hà Nội khoảng 350 km về phía Đông Nam. VQG Hoàng Liên có ranh

giới tiếp giáp với huyện Văn Bàn, Sa Pa, thành phố Lào Cai của tỉnh Lào Cai và

2 huyện Phong Thổ, Than Uyên của tỉnh Lai Châu.

3.1.2. Địa hình, địa mạo

VQG gồm hệ thống các đỉnh núi cao trên 2000m thuộc dãy Hoàng Liên

Sơn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Đặc biệt có đỉnh Fansiphan cao

3143m so với mặt nước biển. Đây có thể coi là đỉnh núi cao nhất Việt Nam nói

riêng và Đông Dương nói chung. Các hệ chính của dãy núi thoải dần theo hướng

Đông Bắc – Tây Nam tạo thành hai sườn chính của dãy Hoàng Liên Sơn trong đó

sườn Đông Bắc thuộc huyện Sa Pa và sườn Tây Nam thuộc huyện Than Uyên.

Phần lớn các đỉnh núi có độ cao trung bình từ 2000 – 2500m còn độ cao có bình

độ thấp nhất phía Sa Pa là 380m (xã Bản Hồ)

Dạng địa hình chủ yếu gồm: núi cao, thung lũng, sườn đồi núi. Mức độ chia

cắt theo chiều ngang và chiều thẳng đứng rất mạnh tạo ra sự phức tạp của địa hình

và độ dốc lớn. Độ dốc trung bình phổ biến từ 20º - 30º, có nơi dốc đến 40º và dốc

đứng. Hiện tượng sạt lở đất, lở núi xảy ra ở nhiều nơi trên các sườn núi cao.

3.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng

3.1.3.1. Địa chất

Khu vực VQG có các loại đá chính thuộc hai nhóm mắc ma axit và đá biến

22

chất gồm Granit, Amphibolit, Filit, Đá vôi,... Trong đó đá Granit là phổ biến nhất.

Từ các loại đá mẹ Gneis, Granit lớp phủ thổ nhưỡng được phong hóa trong

điều kiện chủ yếu là thoát nước tốt, trên các đai độ cao khác nhau, đất Feralit hình

thành trong các điều kiện phong hóa địa hình cao. Từ 500m trở lên, tính chất điển

hình của chúng không còn nữa. Tuy nhiên, quá trình Feralit hóa trong một số

trường hợp vẫn còn xuất hiện ở những độ cao lớn hơn (tới 1600m). Từ độ cao

1800m, đất chuyển sang loại đất nhiều mùn dạng thô thuộc loại Alit trên núi cao.

Trải qua quá trình hoạt động địa chất lâu dài, những hoạt động xâm thực,

bào mòn, bồi tụ đã tạo nên các thung lũng phủ đầy phù sa màu mỡ nằm dải rác

3.1.3.2. Thổ nhưỡng

trong VQG Hoàng Liên.

Khu vực VQG được hình thành bởi 8 loại đất chính sau:

1) Đất mùn thô than bùn màu xám trên núi cao, phân bố từ 1700 - 2800m

2) Đất mùn Alit màu vàng nhạt trên núi cao, phân bố từ 1700 - 2800m

3) Đất Feralit màu vàng đỏ trên núi cao phát triển trên đá Axit từ 700 - 1700m

4) Đất Feralit màu vàng đỏ núi cao phát triển trên đá biến chất từ 700 - 1700m

5) Đất Feralit vàng đỏ vùng núi phát triển trên đá Axit từ 300 - 700m

6) Đất Feralit vàng đỏ núi cao phát triển trên đá biến chất từ 300 - 700m

7) Đất Feralit biến đổi do trồng lúa

8) Đất dốc tụ trồng lúa

Nhìn chung, các loại đất ở đây có tầng A1 và B1 phát triển, hàm lượng

mùn cao, phần lớn là dạng viên nhỏ, độ tơi xốp cao, độ ẩm lớn, độ dày tầng đất

phổ biến là ở mức độ trung bình (từ 50 - 120cm); thành phần cơ giới là đất thịt

nhẹ, thịt trung bình (đối với các loại đất từ 1- 6) và đất thịt trung bình, thịt nặng

(đối với các loại trồng lúa). Tính chất đất rừng còn thể hiện rõ, thuận lợi cho việc

trồng và phục hồi lại rừng, trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương

thực, cây dược liệu và trồng hoa.

Tuy nhiên, do địa hình có độ dốc cao nên đất dễ bị rửa trôi và bào mòn,

23

gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất.

3.1.4. Khí hậu thuỷ văn

3.1.4.1. Khí hậu

Do vị trí địa lý và đặc điểm địa hình núi cao, hướng núi của dãy núi

Hoàng Liên theo hướng Tây Bắc – Đông Nam quyết định chế độ khí hậu của

vùng. Sườn Đông đón gió Đông và Đông Bắc nên thường xuyên ẩm ướt và lạnh.

Sườn Tây chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam nên ấm hơn. Tuy nhiên, do điều

kiện địa hình chi phối nên khí hậu ở đây vẫn thuộc kiểu khí hậu lạnh, độ ẩm cao

và có thời kỳ khô hạn. Chế độ sinh khí hậu ở Sa Pa (từ 1500m trở lên) theo sự

phân chia của Giáo sư Lâm Công Định (1992): Mùa hè ẩm ướt từ tháng 5 đến

tháng 9, mùa đông từ tháng 10 đến tháng 4. Ở Sa Pa, khí hậu lạnh và luôn có

mây mù (160 ngày mây mù trong một năm).

Khí hậu của dãy Hoàng Liên vẫn mang các đặc điểm chung của khí hậu

miền Bắc của Việt Nam, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa hè nóng ẩm,

mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Tuy nhiên, ở đây khí hậu còn mạng sắc

thái riêng của miền núi cao và được thể hiện qua các trị số của các yếu tố hình

thành khí hậu sau:

Nhiệt độ:

Bảng 3.1: Bảng tổng hợp các yếu tố khí tượng năm 2005 – 2008 khu vực Sa Pa – Lào Cai

Tháng T0 T.b

T0 T.b (max) 18,5 T0 T.b (min) 2,0 Độ ẩm (%) 79 Lg mưa (mm) 32,2 1 10,2

2 20,2 11,3 2,2 75 74,2

3 26,1 14,5 6,1 74 91,3

4 26,8 17,2 11,3 79 154,5

5 26,5 18,1 12,8 88 233,3

6 27,5 19,6 15,9 88 526,8

7 27,0 20,4 17,3 87 414,1

24

8 26,5 15,0 20,0 90 324,1

9 24,5 13,0 18,9 82 324,1

10 22,1 10,7 16,3 87 86

11 22,4 7,5 12,7 82 76

12 20,3 4,0 10,4 87 37,8

- Nhiệt độ không khí trung bình năm có chỉ số phổ biến từ 13 – 21ºC, lớn ở sườn

Tây và nhỏ ở sườn Đông.

- Nhiệt độ không khí cao nhất vào tháng 6, tháng 7 từ 16 - 27ºC, có khi lên tới 29,4º.

- Nhiệt độ không khí thấp nhất vào tháng 12 và tháng 1, nhiều năm xuống dưới 5ºC, ngày lạnh nhất xuống 0oC, đôi khi nhiệt độ có thể xuống dưới -3ºC.

- Độ ẩm trung bình cả năm là 83,1%, cao nhất là tháng 8 (90%), thấp nhất là

tháng 3 (74%).

- Lượng mưa trung bình năm 197,8mm, lượng mưa tháng 1 thấp nhất là 32,2mm,

lượng mưa tháng 6 cao nhất là 526,8mm.

Chế độ gió:

- Hướng gió chủ yếu là Tây Bắc, mùa đông có gió Đông Bắc khô lạnh và rét đậm

- Gió hại: hàng năm có gió Tây xuất hiện vào tháng 3, tháng 4 nhất là phía Than

Uyên. Gió này mang hơi nóng và khô nên ảnh hưởng đến sinh trưởng của các

loài sinh vật.

Tuyết, mưa đá:

- Tuyết thường xuất hiện theo chu kỳ, khoảng từ 4 - 6 năm/1 lần, tuyết rơi dày từ

20 - 80cm. Vào mùa đông và những ngày rét đậm trên các đỉnh núi cao thường

có tuyết phủ.

- Mưa đá thường xuất hiện vào các tháng 4 - 5, số ngày có mưa đá bình quân từ 2

- 6 ngày/ năm, đường kính hạt mưa đá nhỏ khoảng 1cm.

Nhìn chung, khí hậu của khu vực Sa Pa có nhiều đặc điểm khác so với

những nơi khác, có tuyết rơi vào mùa đông là một đặc trưng của khu vực này.

25

Tuy nhiên, do về mùa đông nhiệt độ thấp, có sương muối và băng giá đã tạo nên

những khó khăn nhất định trong việc gieo ươm, gây trồng và ảnh hưởng đến tốc

3.1.4.2. Thủy văn

độ sinh trưởng của các loài cây trồng.

VQG Hoàng Liên không có sông lớn chảy qua. Do đặc điểm địa hình của

khu vực, VQG Hoàng Liên được tạo thành từ hai sườn chính: sườn Đông Bắc

dốc thoải về phía sông Hồng và sườn Tây Nam dốc thoải về phía sông Đà. Vì

vậy, trong khu vực cũng tạo nên hai hệ suối chính:

- Hệ suối thuộc khu vực Đông Bắc huyện Sa Pa bắt nguồn từ Fansipan,

Séo Trung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung Hồ bắt nguồn từ Bản Hồ. Ba suối

này gặp nhau tại Bản Dền tạo thành ngòi Bốt đổ ra sông Hồng. Vì địa hình dốc,

chia cắt mạnh nên về mùa đông chúng chính là suối cạn song về mùa mưa, đặc

biệt là vào các tháng có lượng mưa tập trung (tháng 6, 7, 8 và 9) thường có lũ và

lũ quét. Tuy vậy, trên những suối này lượng nước vẫn chảy thường xuyên và vẫn

đủ lưu lượng để xây dựng những trạm thủy điện nhỏ cung cấp cho nhu cầu tại chỗ.

- Hệ suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên gồm hai suối chính:

suối Nậm Bé (thuộc xã Mường Khoa) bắt nguồn từ Fansipan và suối Nậm Pao,

Nậm Chăng (thuộc xã Thân Thuộc). Cả hai suối chính này đều chảy ra con ngòi

lớn Nậm Mu và đổ ra sông Đà. Lưu lượng nước trên hai suối chính này cũng

đảm bảo khả năng xây dựng những trạm thủy điện nhỏ phục vụ tại chỗ cho nhu

cầu người dân nơi đây, đồng thời cung cấp nước cho những khu bình địa để

trồng cây công nghiệp và phục vụ sinh hoạt.

Ngoài hai hệ suối chính thuộc hai sườn của dãy Hoàng Liên nói trên còn

một con suối bắt nguồn từ lưu vực thuộc xã Sa Pả và một phần từ Sa Pa, chảy

theo hướng Đông Bắc đổ vào sông Hồng tại thành phố Lào Cai.

3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội

3.2.1.Tình hình dân sinh

3.2.1.1. Dân số

Tính đến năm 2008 thì dân số sống trong khu vực VQG Hoàng Liên là

26

38200 người với hơn 4000 hộ dân. Mật độ dân số bình quân chung trong khu vực điều tra là 56 người/km2, mật độ dân số thấp nhất là 10,7 người/km2 (xã Bản Hồ) và mật độ dân số cao nhất là 192 người/km2 (Thị trấn Sa Pa và Sử Pán).

Dân cư ở đây phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các xã Sa Pả, thị

trấn Sa Pa, Hầu Thào, Sử Pán và các vùng thấp thuộc xã Mường khoa và Lâm

trường Sa Pa. Tỷ lệ tăng dân số bình quân 2,63%/năm nhưng một số dân tộc có

tỷ lệ sinh cao như người H’Mông (3,6%), Dao (3,2%). Tổng số người đến tuổi

3.2.1.2. Dân tộc

lao động trong khu vực chiếm khoảng 41,9% tổng số nhân khẩu.

Trong khu vực điều tra có 7 dân tộc cư trú, trong đó dân tộc H’Mông

chiếm 40%, dân tộc Kinh chiếm 18,57%. Ngoài ra còn có các dân tộc khác như:

Dao, Dáy, Thái,... Cơ cấu dân tộc ở các xã cũng khác nhau. Các xã có gần 100%

người H’Mông như xã Hầu Thào, Sử Pán, San Sả Hồ, Tả Van, Lao Chải. Người

Kinh tập trung chủ yếu ở thị trấn Sa Pa, Sa Pả, Thân Thuộc, Mường Hoa. Còn

các dân tộc khác rải rác ở các vùng đất thấp và ven các con suối lớn.

3.2.2. Tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội

Kinh tế địa phương có tính chất tự cung tự cấp và chậm phát triển. Các hoạt

động kinh tế chủ yếu là trồng cây lương thực bằng hình thức định canh (ruộng bậc

thang), hình thức du canh phát nương làm rẫy vẫn tồn tại, chăn nuôi còn mang tính

tự nhiên. Ngoài ra còn có các hoạt động trồng và thu hái các lâm đặc sản rừng, săn

bắn động vật phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và trao đổi hàng hóa.

Ngoài các hoạt động kinh tế trên, trong vùng đệm, nhất là khu vực thị trấn,

thị trường buôn bán trao đổi hàng hóa cũng đã phát triển nhưng chưa đáp ứng

được nhu cầu. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tuyệt đại đa số đồng bào

dân tộc thiếu ăn, mỗi năm thiếu ăn từ 3 - 5 tháng, có nhiều hộ thiếu ăn từ 6 - 8

tháng. Đời sống vật chất đã thiếu nhiều, đời sống tinh thần lại càng thiếu hơn.

Đói nghèo hiện vẫn là vấn đề thách thức đối với người dân nơi đây.

27

3.2.3. Tình hình sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng

Việc sử dụng đất đai và khai thác tài nguyên trước đây không được quản

lý chặt chẽ. Rừng và đất rừng không được bảo vệ thích đáng. Tập quán du canh,

du cư, phát nương làm rẫy đã làm diện tích rừng giảm nhanh chóng. Rừng và đất

rừng thuộc VQG Hoàng Liên chưa được quy hoạch rõ ràng, chưa có chủ thực sự

để quản lý, chưa được sử dụng và bảo vệ tài nguyên theo quy hoạch.

Nạn săn bắn chim thú rừng bừa bãi chưa được ngăn chặn triệt để. Một số loài thực

vật quý hiếm như Pơ mu, Hoàng đàn giả vẫn bị khai thác và buôn bán trái phép.

Đánh giá chung

Thuận lợi:

- Khí hậu, đất đai ở đây tương đối thuận lợi cho việc gieo ươm, gây trồng và sinh

trưởng của các loài thực vật, trong đó có họ Lan.

- Diện tích đất chưa sử dụng còn lớn là một lợi thế trồng và mở rộng quy mô sản

xuất kinh doanh

- Nơi đây có nguồn giống Lan rừng phong phú, là trung tâm đa dạng của các loài Lan

- Thị trường tiêu thụ hoa Lan đang còn mở rộng

- Có sự quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện của chính quyền địa phương

cũng như các cơ quan quản lý chuyên môn.

- Nguồn lao động ngay tại địa phương rất phong phú

Khó khăn:

- Chưa có những đầu tư thoả đáng cho công tác sưu tập, nghiên cứu và bảo tồn

và phát triển các loài Lan rừng.

- Dân cư ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc, trình độ văn hóa còn thấp lại quen

với hình thức sản xuất nhỏ lẻ, tự cấp tự túc nên chưa có khả năng áp dụng khoa

học kỹ thuật vào sản xuất mà chủ yếu là nuôi trồng Lan theo kinh nghiệm.

- Đời sống của người dân ở Sa Pa tuy đã được cải thiện song vẫn còn nhiều khó

khăn, vì vậy vấn đề đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh chưa được quan

tâm đúng mức.

28

Chương 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Kết quả điều tra các loài Lan trong tự nhiên ở khu vực nghiên cứu

Từ những thông tin thu được từ người dân và các cán bộ của VQG Hoàng

Liên về khu vực phân bố chủ yếu của 6 loài Lan nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành

điều tra theo các tuyến với việc mở các OTC ở các độ cao khác nhau. Trong các

OTC, tiến hành điều tra các loài Lan bắt gặp và thu được kết quả như Bảng 4.1:

Bảng 4.1: Kết quả điều tra các loài Lan trên OTC

OTC Số loài Số cá thể OTC Số loài Số cá thể

01 5 27 10 7 39

02 6 28 11 6 33

03 4 18 12 5 19

04 7 30 13 6 34

05 5 21 14 5 25

06 4 21 15 5 23

07 3 18 16 6 25

08 5 25 17 3 22

09 4 21 18 5 26

Với 18 OTC điều tra so với diện tích gần 30.000ha của VQG Hoàng Liên

chỉ là diện tích rất nhỏ, nhưng chúng tôi đã xác định được 37 loài Lan thuộc 15

chi khác nhau (Bảng 4.2); thêm vào đó là điều kiện địa hình phức tạp, nhiều loài

Lan lại sống phụ sinh trên những cây cao hay ở những vách đá nguy hiểm không

thể điều tra hết được. Vì vậy, có thể thấy rằng các loài Lan ở VQG Hoàng liên là

rất đa dạng.

29

Bảng 4.2: Bảng điều tra các loài lan trong tự nhiên ở khu vực nghiên cứu

TT Tên khoa học Tên phổ thông Số loài Tỷ lệ

1 Agrostophyllum Blume Chi lan Càng cua 1 2.7%

2 Anoectochilus Blume. Chi lan Sứa 2 5.4%

3 Bulbophyllum Chi lan Lọng 6 16.2%

4 Ceratostylis. Chi lan Vòi sừng 2 5.4%

5 Cleisostoma Blume. Chi lan Miệng kín 2 5.4%

6 Coelogyne Lindl. Chi lan Thanh đạm 3 8.1%

7 Cymbidium Sw. Chi lan Kiếm 6 16.2%

8 Dendrobium Sw. Chi lan Hoàng thảo 5 13.5%

9 Epigeneium Gagnep. Chi lan Môi dày 1 2.7%

10 Eria Lindl. Chi lan Len 4 10.8%

11 Eulophia R.br. Chi lan Luân 1 2.7%

12 Holcoglossum Schltr Chi lan Tóc tiên 1 2.7%

13 Liparis L.c.rich. Chi lan Tai dê 1 2.7%

14 Panisea Lindl. Chi lan Khúc thần 1 2.7%

15 Trichotosia Blume. Chi lan Nhung 1 2.7%

Qua Bảng 4.2 ta thấy: chi có số loài lớn nhất là Cymbidium và

Bullbophyllum với 6 loài chiếm 16,22% tổng số loài điều tra. Tiếp đến là chi

Dendrobium với 5 loài điều tra được chiếm 13,51%, chi Eria với 4 loài chiếm

10,81%. Bên cạnh đó cũng có những chi trong quá trình điều tra chỉ bắt gặp một

loài: Agrostophyllum, Epigeneium, Eulophia, Liparis, Holcoglossum, Panisea,

Trichotosia. So sánh với tài liệu của VQG Hoàng Liên còn có một phát hiện là chi

lan Khúc thần ở đây chỉ mới phát hiện một loài ở độ cao 1800m.

Trong quá trình điều tra, gặp các chi sống ở đất như: Anoectochilus,

Eulophia,…chi sống ở lớp đất mùn trên vách đá như: Epigeneium, Liparis,…chi

sống trên thân cây như: Ceratostylis, Bulbophyllum, Agrostophyllum,

30

Dendrobium Sw, Coelogyne,…

Đối với các loài Lan sống phụ sinh trên thân cây, chúng không chỉ sống phụ

sinh trên một loài cây mà chúng thường sống trên nhiều loài cây khác nhau thuộc họ

Fagaceae (họ Dẻ), Lauraceae (họ Re), Ericaceae (họ Đỗ Quyên), Theaceae (họ

Chè), Magnoliaceae (họ Ngọc Lan),… Chính sự đa dạng về cây giá thể cũng đã giúp

cho các loài Lan có khả năng thích nghi cao hơn và phân bố rộng hơn trong tự nhiên.

4.2. Đặc điểm hình thái và phân bố của 6 loài Lan nghiên cứu

4.2.1. Lan Trần mộng xuân ( Cymbidium lowianum Rchb.f.)

- Sinh thái: Là địa Lan, cây sống nơi đất ẩm nhưng đôi khi sống phụ sinh

trong các hốc đá, cây ưa sáng vừa phải. Thường phân bố trong các khu rừng ẩm

ướt ở độ cao 1200 – 2000m. Đây là loài thường cho hoa vào mùa xuân khoảng từ

tháng 1 – 3.

- Hình thái: Địa Lan củ giả hình trái xoan dẹt, mọc sát nhau. Lá hình dải

hẹp dài 30 - 90cm, rộng từ 2 - 3cm, có đốt sát cuống. Cụm hoa thẳng dài mọc từ

gốc củ giả, hơi cong ở đầu, có 10 - 15 hoa ở đỉnh. Hoa lớn 10 - 12cm có màu vàng

lục, cánh môi chia 3 thùy màu vàng, thùy giữa cong lại, mép uốn lượn, đỉnh môi

có một vết bớt màu đỏ hồng. Hiện tại đây là một trong ít giống Lan Sa Pa có hoa

đẹp lại nở vào dịp tết, vì vậy đây là loài rất có giá trị cần chú ý chăm sóc.

Hình 4.1: Lan Trần mộng xuân (Cymbidium lowianum Rchb.f.)

31

4.2.2. Lan Kiếm hồng hoàng (Cymbidium iridioides D.Don.)

- Sinh thái: Loài lan này thường mọc trên các vách đá, có khi mọc trên

các cây gỗ lớn. Chúng phân bố trong các khu rừng già ở độ cao từ 1100 - 1600m.

Mùa ra hoa của lan Kiếm hồng hoàng từ khoảng tháng 10 đến tháng 11.

- Hình thái: Loài này có củ giả lớn thuôn dài. Lá hình giáo hẹp dài 30 - 90

cm, rộng 2 - 3 cm, đỉnh lá chia 2 thùy nhọn không đều, gân lá nổi rõ. Cụm hoa

thẳng mọc từ gốc củ giả, cao hơn lá, có khi mang tới 20 hoa. Hoa lớn khoảng

10cm, màu vằn nâu đỏ. Cánh tràng màu nâu đỏ có viền màu lục vàng. Cánh môi

lớn dày chia ba thùy, có đốm đỏ sẫm, mép hoa uốn lượn và có lông mịn.

Hình 4.2: Lan Kiếm hồng hoàng (Cymbidium iridioides D.Don.)

4.2.3. Lan Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle.)

- Sinh thái: Lan sống phụ sinh

có thể trồng được trên đất, thường phân

bố trong các khu rừng già ở độ cao từ

1300 - 2000m. Mùa ra hoa tháng 10 - 12

- Hình thái: Lan sống phụ sinh,

củ giả to. Lá hình giáo dài 40 - 80cm,

rộng 0,7 - 1,2cm, đầu lá nhọn. Cụm hoa

Hình 4.3: Một cành Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle)

32

thẳng đứng cao 50 - 100cm, thường có khoảng 15- 20 hoa. Hoa mọc thưa trên

cuống chung. Cánh hoa màu nâu có các giải màu xanh nhạt. Cánh môi lượn sóng

màu trắng, có các vệt màu đỏ sẫm.

Hình 4.4: Hình ảnh lan Kiếm thu (Cymbidium tracyanum L.Castle.)

4.2.4. Lan Kiếm thanh ngọc (Cymbidium ensifolium (L.)Sw.

- Sinh thái: Loài Lan này thường sống trên mặt đất, có khi sống trên mặt

đá có rêu. Loài này thường mọc ở trong các khu rừng già ẩm ướt. Phân bố ở độ

cao trên 1400m. Kiếm thanh ngọc ra hoa vào mùa xuân, kéo dài từ tháng 2 – 3.

- Hình thái: Lan đất mọc bụi dày, củ giả nhỏ, được các bẹ lá che lại. Lá

hình dải hẹp, dài 40 - 80cm, rộng 1,5 - 3,5cm, đầu lá nhọn có 3 gân lồi ở mặt

dưới lá. Phát hoa mọc từ bẹ lá, cụm hoa thẳng, cao 20 - 40cm, có 6 - 10 hoa lớn 5

- 7cm, xếp thưa. Cánh hoa dạng mũi mác, mỏng nhỏ, màu xanh vàng với nhiều

sọc đỏ nâu nằm liền nhau. Lá đài giống cánh hoa. Cánh môi thuôn, 2 thùy bên

ngắn rộng và tròn, có nhiều đốm đỏ nâu. Trục hợp nhụy màu trắng vàng, phần

bụng có chấm đỏ. Hoa có mùi thơm dễ chịu.

33

Hình 4.5: Lan Kiếm thanh ngọc (Cymbidium ensifolium (L.)Sw.

4.2.5. Lan Hoàng thảo kiều (Dendrobium densiflorum Lindl.)

(hay còn gọi là Thủy tiên mỡ gà)

Theo tác giả Trần Hợp loài này có tên gọi là Lan Hoàng thảo thủy tiên vàng

(Dendrobium thyrsiflorum Reichenb. f. hoặc Dendrobium densiflorum Lindl

ex Wall.)[9].

- Sinh thái: Đây là loài có biên độ sinh thái khá rộng. Có thể nuôi trồng

được ở nhiều khu vực khác nhau. Phân bố ở độ cao 1300 – 1800m ở các khu vực

ven suối. Thích hợp với điều kiện khô thoáng không thích hợp với điều kiện ẩm

ướt. Mùa ra hoa từ tháng 4 – 6.

- Hình thái: Lan sống phụ sinh, thân có bốn cạnh, phình rộng ở giữa, thắt

lại theo các đốt, thuôn ở gốc. Thân dài từ 30 – 50cm màu nâu bóng có chia đốt dài

5 -10cm. Lá có từ 3 – 5 chiếc, mọc tập trung ở ngọn, hình bầu dục, đầu nhọn, gốc

tù dài cứng, dài từ 8 -12cm, rộng từ 3 - 6cm. Cụm hoa mọc từ các đốt ở đỉnh, hoa

nhiều mọc tập trung xung quanh trục tạo thành chùm ngả xuống rất đẹp. Cánh hoa

màu vàng tươi hay trắng vàng. Cánh môi lớn, rộng ở đỉnh, họng ngắn ở gốc, mép

có răng cưa, màu vàng đậm ở giữa, dày và có lông mịn, hoa có mùi thơm.

34

Hình 4.6: Lan Hoàng thảo kiều (Dendrobium densiflorum Lindl.)

4.2.6. Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.)

- Sinh thái: Lan sống phụ

thường mọc ở các khu vực ven suối

ở độ cao 800 - 1500m (suối Cát

Cát). Thích hợp với điều kiện khô

thoáng ít khi gặp trong các khu rừng

già ẩm ướt. Mùa ra hoa thường vào

mùa xuân khoảng tháng 1 – 3.

- Hình thái: Đây là loài Lan

sống phụ sinh, thân có bốn cạnh,

thuôn hẹp ở gốc, rộng ở giữa, cao

20 - 40cm, lóng dài. Lá 2 - 4 chiếc

Hình 4.7: Hoàng thảo thủy tiên trắng hình trái xoan thon dài 8 - 15cm,

trưởng thành (Dendrobium farmeri Paxt.) rộng 3 - 5cm, đầu tù, mọc sát nhau

ở đỉnh. Hoa mọc thành chùm dài ở giả hành không lá, buông thõng xuống, có

nhiều hoa xếp dày trên cuống chung dài 25- 30cm. Hoa to khoảng 5cm, cánh hoa

có màu trắng với cánh môi gần tròn, mép có lông ngắn, có răng nhỏ không đều,

màu vàng đậm. Hoa có hương thơm dịu.

35

Hình 4.8: Hoa Hoàng thảo thủy tiên

Hình 4.9: Cây con Hoàng thảo thủy

trắng (Dendrobium farmeri Paxt.)

tiên trắng (Dendrobium farmeri Paxt.)

Qua quá trình quan sát tìm hiểu tại thực địa và ở các nhà vườn tôi

thấy rằng:

- Những cây sinh trưởng trong tự nhiên thường có lá nhỏ và ít hơn những

cây được nuôi trồng tại nhà

- Chiều dài của phát hoa và độ lớn của mỗi bông hoa ở trong tự nhiên cũng

nhỏ hơn những cây được nuôi trồng.

- Màu sắc hoa của những cây được nuôi trồng thường đậm hơn những cây ở

trong rừng tự nhiên nhưng khả năng chống chịu với sâu bệnh hại lại kém

hơn những cây sống trong tự nhiên.

Giải thích về sự khác biệt này có thể là do: khi nuôi dưỡng tại vườn

những cây Lan này được chăm sóc, bón phân thường xuyên nên khả năng

sinh trưởng được phát huy tối đa. Vì vậy sự tăng trưởng của các bộ phận

(thân, lá, hoa,…) thường tốt hơn những cây ở ngoài tự nhiên không được

chăm sóc. Mặt khác, ở trong tự nhiên do phải đấu tranh sinh tồn nên chỉ

những cây nào có sức chống chịu với sâu bệnh tốt mới có thể tồn tại được.

Vì vậy, khi điều tra những cây trong rừng thường ít phát hiện cây bị sâu

bệnh hơn những cây được nuôi trồng.

36

4.3. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 6 loài Lan

nghiên cứu

Bất kỳ một loài sinh vật nào cũng cần có môi trường sống để có thể tồn tại

và phát triển, môi trường đó bao gồm các yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm

không khí và nước,…. Đối với hoa Lan cũng vậy, chúng cũng có những yêu cầu

riêng đối với môi trường sống, chỉ khi có môi trường sống thích hợp chúng mới

có thể sinh trưởng phát triển bình thường. Tùy vào mỗi loài Lan nhưng quan

trọng nhất cho sự phát triển của hầu hết các loài là điều kiện nhiệt độ, ánh sáng,

độ ẩm và nước,…. Các yếu tố này có ý nghĩa quyết định tới khả năng sinh trưởng

và khả năng ra hoa của các loài Lan.

4.3.1. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 4 loài thuộc

chi lan Kiếm (Cymbidium)

4.3.1.1. Ánh sáng

Là điều kiện rất quan trọng đối với Cymbidium đặc biệt là sau khi cây tăng

trưởng và trước khi bắt đầu mùa ra hoa, ánh sáng trong thời kỳ ra hoa cũng ảnh

hưởng tới màu sắc của hoa có thể làm hoa có màu đậm hay nhạt đi. Cymbidium cần

nhiều ánh sáng nhưng phải có nhiệt độ lạnh để phát triển vì nếu nhiệt độ cao cây

Lan sẽ không ra hoa được nhưng nếu không đủ ánh sáng thì cây sẽ phát triển kém.

Cymbidium cần khoảng 50 - 70% ánh sáng trực tiếp, nếu nhiều ánh sáng

cây sẽ dễ ra hoa, có nhiều hoa và màu sắc sẽ đẹp hơn; nếu thiếu ánh sáng sẽ làm

hoa bị nhạt màu.

Lá Lan có thể cho ta biết cây có nhận đủ ánh sáng hay không - Nếu đủ ánh

sáng lá Lan sẽ có màu xanh nhạt hoặc màu xanh hơi vàng. - Còn khi thấy cây còi

cọc chậm lớn, lá cây vàng úa hay có những đốm nâu lớn hoặc là bị uốn cong

nghĩa là cây quá nhiều nắng, lúc này cần di chuyển cây vào chỗ ít nắng hơn nếu

không cây sẽ bị héo chết. - Còn khi lá Lan xanh mướt là do cây bị thiếu sáng, cây

vẫn mọc song sẽ khó ra hoa được.

37

(b) Lá (a) Lá thừa ánh sáng (b) Lá thiếu ánh sáng

4.3.1.2. Nhiệt độ

Hình 4.10: Hình ảnh lá Lan bị ảnh hưởng bởi ánh sáng

Nhiệt độ là yếu tố then chốt trong việc ra hoa của Cymbidium, bởi đây là

loài hoa cần có nhiệt độ thay đổi ngày nóng, đêm lạnh.

- Trong mùa tăng trưởng, từ tháng 4 đến tháng 10 để cây phát triển lá và

giả hành thì nhiệt độ ban ngày khoảng 27 - 320C, ban đêm nhiệt độ vào khoảng

10 - 150C, nhiệt độ tối thích là 13 - 240C. Nếu không có sự cách biệt giữa ngày

và đêm tối thiểu từ 13 - 160C thì hầu như Cymbidium sẽ không ra hoa [5].

- Vào thời kỳ ra hoa, nhiệt độ ban đêm cần phải lạnh từ 10 - 15,50C để cây

phát triển chồi hoa. Nhiệt độ tối ưu cho cây vào thời kỳ chuẩn bị ra hoa là

khoảng 7,5 - 130C vào ban đêm và 18,5 - 240C vào ban ngày [25].

- Sau khi cây đã có chồi hoa, cần nền nhiệt độ trong khoảng từ 13 - 240C

để cành hoa phát triển tốt. Cymbidium sẽ nở hoa trong vòng một tháng mà không

tàn, nhất là ở nhiệt độ mát mẻ, khoảng 15 - 210C [13].

- Cymbidium sau kỳ ra hoa cần có thời gian nghỉ khoảng 2 tháng trước khi

4.3.1.3. Ẩm độ

vào mùa hoa mới.

Nước là yếu tố cần thiết cho sự sống của mọi sinh vật, nước là thành phần

quan trọng chiếm tỷ lệ 60 - 90% trọng lượng của cây Lan. Tuy nhiên nếu thiếu

nước hay thừa nước đều không tốt cho sự sinh trưởng của cây Lan. Điều kiện tốt

38

nhất cho Cymbidium là độ ẩm tương đối của không khí từ 60 -70% và độ ẩm của

giá thể là khoảng 70 - 80% .

Cymbidium cần đủ nước khi cây đang ở giai đoạn phát triển, và khi cây đã

ngừng tăng trưởng thì nhu cầu về nước giảm đi nhưng ở giai đoạn hình thành

chồi, cây rất cần duy trì đủ độ ẩm. Những sự thay đổi bất ngờ về môi trường giai

đoạn này đều có thể làm cho chồi non bị rụng.

Khu vực điều tra được tiến hành ở độ cao 1000 – 1800m, đây là khu vực

sống của những loài cây gỗ lớn thường xanh thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Re

(Lauraceae), họ Mộc Lan (Magnoliceae),….. và một số cây thuộc ngành phụ hạt

Trần lá kim như Pơ mu (Fokiena hodginsii), Thông nàng (Podocarpus

imbricatus) và loài trúc vùng cao (Arudinara sp),…

Kết quả tính toán ở Bảng 4.3 cho thấy: Kiếm thanh ngọc (Cym.

Ensifolium) và Trần mộng xuân (Cym. Lowianum) có mức sinh trưởng tốt đạt

trên 80% số cây được điều tra. Còn hai loài Kiếm hồng hoàng (Cym. Iridioides)

và Kiếm thu (Cym. Tracyanum) cũng có mức sinh trưởng khá tốt xấp xỉ 80%.

Như vậy, có thể nói rằng cả 4 loài kiếm này đều đã có sự phù hợp với môi trường

sống ở khu vực điều tra.

Bảng 4.3: Sinh trưởng của 4 loài thuộc chi Cymbidium trong tự nhiên

(Tỷ lệ phần trăm trong bảng được tính theo công thức 2.1)

Tình hình sinh trưởng Số lượng Tên loài điều tra Tốt Trung bình Xấu

Trần mộng xuân 25 20 80,0% 4 16,0% 1 4,0%

Kiếm hồng hoàng 19 15 78,95% 3 15,79% 1 5,26%

Kiếm thu 17 13 76,47% 4 23,53%

Kiếm thanh ngọc 17 14 82,35% 3 17,65%

39

4.3.2. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 2 loài thuộc

chi Hoàng thảo (Dendrobium)

4.3.2.1. Ánh sáng

Dendrobiun là giống ưa sáng, ánh sáng tốt nhất để Dendrobium phát triển

là 70%. Vì thế, khi làm giàn che ở dưới thấp nên che sáng 30% và khi làm giàn

che trên cao nên che sáng 40% là thích hợp nhất với Dendrobium.

Đối với các loài thuộc giống Dendrobium, thiếu ánh sáng sẽ gây ra sự

thoái hóa rõ rệt, số lượng hoa cũng rất ít, cây yếu ớt. Trái lại, thừa ánh sáng chỉ

làm cho cây xấu đi vì lá quá vàng hoặc các giả hành trơ trụi, nhưng cây sẽ thích

nghi dần và vẫn đảm bảo ra hoa nhiều và đẹp.

Ngoài ra thời gian chiếu sáng trong ngày cũng là điều kiện quyết định sự ra

hoa của một số loài chịu ảnh hưởng bởi quang chu kỳ, ví dụ: Lan Giả hạc, Long tu,

Kim điệp chỉ ra hoa với điều kiện có thời gian chiếu sáng ít hơn 10 giờ trong ngày.

Dendrobium cần nhiều ánh sáng vào sau thời kỳ tăng trưởng (từ khoảng

tháng 11), kết hợp với điều kiện ngày ngắn ở giai đoạn này mà một số loài sẽ

rụng lá để hình thành phát hoa; nhưng cũng có một số loài chỉ rụng một - hai lá

4.3.2.2. Nhiệt độ

ở các giả hành và thân già chứ không rụng hết lá [18].

Nhiệt độ ảnh hưởng rất nhiều đến sự tăng trưởng của Lan Dendrobium.

Vào mùa hè nóng nực cây phát triển nhanh hơn cho nên cần nhiều độ ẩm và

nước. Phần lớn các cây này thích hợp với nhiệt độ ban đêm vào khoảng 10 -

16°C và ban ngày khoảng 21 - 32°C [15].

Giống Dendrobium gồm nhiều loài thích nghi với các điều kiện sinh thái

khác nhau. Có thể tạm chia Dendrobium làm 2 nhóm chính: nhóm ưa lạnh và

nhóm ưa nóng.

Nhóm Dendrobium ưa lạnh sinh trưởng và phát triển tốt nhất ở nhiệt độ là 150C gồm các loài sống ở vùng có độ cao 1000m, như Vảy cá (Dendrobium

Linlleyi), Thủy tiên tím (Dendrobium amabile), Long nhãn kim điệp

40

(Dendrobium fimbriatum). Các loài này nếu được trồng ở nhiệt độ khoảng 250C

thì cây vẫn sống nhưng phát triển yếu hơn và hiếm khi ra hoa.

Nhóm Dendrobium ưa nóng lại thích hợp với nhiệt độ khoảng 250C.

Ngoài ra còn có một số loài Dendrobium trung gian, có thể sống được ở cả vùng

lạnh và vùng nóng. Tuy nhiên, ở vùng lạnh chúng sinh trưởng tốt hơn và ra hoa

nhiều hơn. Ví dụ như loài Long tu (Dendrobium primulinum), Hoàng thảo thủy

trắng (Dendrobium farmeri), Hoàng thảo kim điệp (Dendrobium

4.3.2.3. Ẩm độ

tiên chrysotoxum) thì nhiệt độ lý tưởng của chúng là 200C [17].

Dendrobium chỉ phát triển tốt trong điều kiện không khí ẩm và thoáng gió,

độ ẩm cần thiết để chúng sinh trưởng là 40 - 70% [17]. Giá thể quá ẩm cũng

không tốt cho sự sinh trưởng của Dendrobium vì có thể làm cho toàn bộ rễ bị

thối và có thể sẽ xuất hiện các cây con mọc từ phần ngọn của thân giả hành (còn

gọi là hiện tượng cây con Keiki).

- Dendrobium cần độ ẩm cao trong thời gian sinh trưởng từ tháng 5 đến tháng 11

để giúp cây sinh trưởng nhanh hơn

- Từ tháng 11 trở đi cây ngừng tăng trưởng và bước vào giai đoạn hình thành nụ

hoa (từ giữa tháng 11 đến tháng 2). Vì vậy giai đoạn này nhu cầu về độ ẩm của

Lan không cao.

- Trong thời kỳ nghỉ từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 4, các giả hành của

Dendrobium rụng lá và nhăn nheo nhưng khi mùa mưa đến, những chồi non sẽ

mọc lên rất nhanh và rất mạnh, các chồi hoa sẽ dần hình thành.

Mùa nghỉ là thời gian tuyệt đối cần thiết đối với giống Dendrobium thời

gian nghỉ 2 tháng sẽ giúp cây Lan đến tuổi thành thục. Quá trình khô hạn trong

mùa nghỉ từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 4 sẽ giúp cây dự trữ dưỡng chất để chuẩn

bị một mùa hoa mới. Thời gian nghỉ này sẽ quyết định phẩm chất hoa của mùa tới.

Từ kết quả điều tra cho thấy 2 loài Lan : Hoàng thảo kiều (Dendrobium

densiflorum) và Hoàng thảo thủy tiên trắng (Dendrobium farmeri) có mức sinh

41

trưởng khá tốt ở khu vực điều tra dọc theo suối Cát Cát (800 - 1800m), đặc biệt

là loài Hoàng thảo kiều có tỷ lệ cây tốt đạt trên 80%, còn Hoàng thảo thủy tiên

trắng có tỷ lệ cây tốt đạt gần 70%. Như vậy, có thể thấy rằng khu vực ven suối

Cát Cát vừa có điều kiện khô thoáng những vẫn thường xuyên ẩm mát đã có sự

phù hợp với yêu cầu sinh thái của loài này. Khu vực suối Cát Cát là nơi sinh

sống của một số loài cây gỗ thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Re (Lauraceae), họ Chè

(Theaceae), họ Mộc Lan (Magnoliceae), họ Sau Sau (Hamamelidaceae),,…..

Tầng cây bụi thấp có các loài thuộc họ Cam quít (Rutaceae), họ Cà phê (

Rubiceae),…Hai loài Lan này chủ yếu bắt gặp sống phụ sinh trên nhiều loài cây

khác nhau thuộc họ Fagaceae, Lauraceae, Theaceae, … đôi khi hai loài Lan này

cũng tìm thấy ở những cây gỗ ngả bên bờ suối. Tình hình sinh trưởng của 2 loài

Thủy tiên được thể hiện qua Bảng 4.4:

Bảng 4.4: Sinh trưởng của 2 loài thuộc chi Dendrobium trong tự nhiên

(Tỷ lệ phần trăm trong bảng được tính theo công thức 2.1)

Tình hình sinh trưởng Tên loài Tốt Trung bình Xấu

Hoàng thảo kiều 83,33% 2 11,11% 1 5,56% Số lượng điều tra 18 15

H. thảo thủy tiên trắng 19 68,42% 5 26,32% 1 5,26% 13

4.4. Các biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 6 loài lan nghiên cứu

4.4.1. Các biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 4 loài thuộc chi Cymbidium

4.4.1.1. Biện pháp nuôi dưỡng 4 loài thuộc chi Cymbidium

Một chu kỳ sinh trưởng phát triển của Cymbidium được đánh dấu từ vụ hoa

này đến vụ hoa tiếp theo, chiếm trọn 1 năm. Chu kỳ sinh trưởng này gắn liền với

những chuyển biến thời tiết trong năm. Vì vậy có thể chia chu kỳ thành từng mùa

trong năm. Vào mỗi mùa, cây có những đặc điểm sinh trưởng phát triển đặc thù

mà người trồng Lan cần dựa vào để tác động thêm những biện pháp kỹ thuật

nhằm đạt năng suất hoa cao nhất. Có thể chia chu kỳ này ra 3 mùa chính:

42

1. Mùa sinh trưởng

Theo kết quả điều tra từ các hộ gia đình, mùa sinh trưởng của

Cymbidium kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, đây là thời điểm lượng mưa tập

trung nhiều, ẩm độ không khí cao, nhiệt độ cao. Vì thế tất cả các bộ phận như

rễ, chồi con, lá và giả hành của cây đều phát triển mạnh. Đây là giai đoạn cây

mẹ vừa hình thành giả hành, phát triển thân lá và rễ của chính mình vừa nuôi

cả chồi hoa lẫn chồi con nên nhu cầu về nước, phân bón, ánh sáng của cây ở

giai đoạn này là cao nhất.

- Từ tháng 4 đến tháng 6, thân lá và bộ rễ cây tăng trưởng nhanh chóng.

Trong giai đoạn này chúng ta cần cung cấp đủ độ ẩm, cần bổ sung thêm đạm

(phun N:P:K 30:10:10) trên lá 1 tuần/1 lần nồng độ 1g/1 lít nước để cây phát

triển tốt hơn. Cây cần ánh sáng trực tiếp khoảng 60%.

- Từ tháng 6 cây bắt đầu phân hoá chồi hoa và chồi hoa này sẽ xuất hiện ở

nách lá trong khoảng giữa tháng 7 đến tháng 8 (đối với những giống ra hoa tháng

12 đến tháng 2). Thời gian này cần chú ý điều kiện nhiệt độ ngày/đêm để cây

hình thành chồi hoa được thuận lợi. Giai đoạn này người trồng cần bổ sung thêm

lân (P) nhằm giúp hoa phát triển tốt hơn và giúp giữ hoa tồn tại được lâu bền

hơn. Giai đoạn này cây cần ánh sáng trực tiếp 80%, tháng 8 và 9 là 100%.

- Cũng trong thời gian này chồi con của năm sau cũng bắt đầu phát triển với

tốc độ chậm. Đến cuối mùa sinh trưởng (khoảng tháng 10) cần bổ sung thêm kali

cho cây Lan để tăng khả năng chống chịu của cây khi vào mùa đông, đồng thời

cũng giúp cho màu sắc hoa thêm tươi hơn. Ở giai đoạn này hầu như không cần

phải che bớt ánh sáng trực tiếp vì nhu cầu của cây cao trong khi số giờ nắng

trong ngày lại thấp. Tốt nhất mở giàn che để cây hưởng 100% ánh sáng trực tiếp.

Trong mùa này cây sử dụng nước mưa là chính. Tuy nhiên trong những

đợt ngắn hạn (không có mưa từ 1 tuần trở lên) cần tưới bổ sung nhằm duy trì

độ ẩm cần thiết cho cây.

43

2. Mùa ra hoa

Mùa ra hoa được tính từ khi hoa xổ ra khỏi bao hoa cho đến khi hoa tàn (tháng

11 đến cuối tháng 2). Trong mùa này, nhiệt độ thấp dần và đạt cực tiểu vào tháng

12. Ẩm độ không khí giảm, lượng mưa ít dần và đến tháng 12 hầu như dứt hẳn.

Từ tháng 11 (giai đoạn hình thành nụ hoa) theo kinh nghiệm của người dân

khi cây ngừng tăng trưởng hay khi có gió lạnh thổi về, hoặc ban đêm lạnh xuống

sẽ giảm lượng phân bón và nước tưới. Thời gian sau đó chồi hoa vươn cao rất

nhanh, nụ hoa thoát khỏi lá hoa, số cành hoa trên một cây và số hoa trên một

cành đã ổn định, chồi con vẫn phát triển chậm.

Hoa nở từ tháng 1 đến tháng 2. Giai đoạn này chủ yếu tưới vừa ướt lá và

mặt đất trong vườn để giữ ẩm không khí (2-3 ngày tưới 1 lần), ánh sáng trực tiếp

chỉ cần dưới 50%. Chế độ sáng này giúp hoa lâu tàn và nở hoàn toàn, bộ lá trở lại

xanh đậm. Không nên để cành hoa nở hoàn toàn trên cây quá 3 tuần vì có thể làm

cây mất sức. Sau khi hoa tàn, cây bước vào mùa nghỉ.

3. Mùa nghỉ

Mùa nghỉ là thời gian sau khi hoa tàn cho đến khi bắt đầu mùa mưa (khoảng

cuối tháng 2 đến tháng 4). Giai đoạn này rất ít mưa, nhiệt độ có tăng nhưng biên

độ nhiệt giữa ngày và đêm còn cao, không khí khô và đôi khi có gió rét.

Cây mẹ tiếp tục hoàn chỉnh thân lá, chồi con phát triển chậm, nguồn dinh

dưỡng chủ yếu dựa vào giả hành của cây mẹ. Nhu cầu về dinh dưỡng, nước,

ánh sáng của cây ở giai đoạn này là thấp nhất. Nên ngưng bón phân cho cây,

che giàn còn 30 - 40% ánh sáng trực tiếp, tưới nước ít (4- 5 ngày/1 lần) để giữ

độ ẩm cho vườn Lan.

Giai đoạn nghỉ này rất cần thiết cho Lan, nó góp phần quyết định năng suất

hoa cho năm sau. Tưới nước và bón phân nhiều có thể làm giảm khả năng ra hoa

của cây. Giả hành cây mẹ có thể mất một phần nước, hơi nhăn, điều đó cũng

không ảnh hưởng đến cây.

44

Đây cũng là thời điểm thích hợp để tiến hành thay chậu, thay giá thể, tách

chiết cây và củ già. Một vài trận mưa đầu mùa trong tháng 4 báo hiệu chấm dứt

mùa nghỉ. Cây bước vào mùa sinh trưởng mới.

Ngoài việc sử dụng phân vô cơ, ở đây người dân cũng dùng thêm phân hữu

cơ (phân chuồng, phân gia cầm,...). Họ ủ cho thật hoai hoặc ngâm trong nước rồi

lọc bỏ cặn, dùng nước đó pha loãng để tưới cây. Tuy nhiên khi dùng phân hữu cơ

thì cần giảm bớt lượng đạm trong phân vô cơ bởi vì nếu quá nhiều đạm sẽ làm lá

cây mềm, dễ gãy, cây khó ra hoa và dễ nhiễm các loại bệnh trên lá.

Đối với Lan đa thân, một cây được gọi là phát triển khi các giả hành mới

luôn luôn mập và cao hơn giả hành cũ, ngược lại thì coi là thoái hóa. Ngoài ra,

một cây Lan được gọi là phát triển mạnh thì sự chênh lệch giữa 2 giả hành cũ và

mới là lớn, và ngược lại cây phát triển yếu thì sự chênh lệch này bé. Trong quá

trình chăm sóc các loài trong chi Cymbidium chúng ta cũng cần lưu ý một số

biểu hiện trên cây Lan để có biện pháp xử lý kịp thời (Bảng 4.5)

45

Bảng 4.5: Bảng một số dấu hiệu nhận biết bệnh của Lan thông qua lá cây

Dấu hiệu

Nguyên nhân

Cách xử lý

Quá nhiều ánh sáng mặt

Tăng độ che nắng hoặc

trời hay nước, là bình

Lá vàng

giảm tưới nước

thường nếu chỉ có lá già

bị rụng

Giữ nước, đưa cây đến một

Tự nhiên đối với một số

Lá chuyển vàng

chỗ ẩm độ kích thích thành

loài rụng lá

và rụng

lập chồi

Lá có những

Đưa cây tới nơi có nhiều

Quá nhiều ánh sáng hay bị

vùng đen hay

bóng râm hay phun thuốc

nhiễm bệnh đốm lá

nâu

ngừa bệnh

Lá mềm có sự

Hỗn hợp trong chậu bị dư

Giảm nước, giữ hỗn hợp

tăng trưởng yếu

nước

của chậu khô trong một

mềm tại gốc cây

tuần

Không có dấu

Thời điểm không thích

Giữ hỗn hợp chậu cho ấm

hiệu của sự tăng

hợp trong chu kỳ sinh

đều, không nên thúc cây

trưởng mới

trưởng của cây cho tăng

bằng cách bón phân hay

trưởng mới

tưới quá nhiều.

Xác định thời điểm trong

Cây không ra

Không tuân theo các điều

năm lúc cây sinh trưởng và

hoa

kiện về chu kỳ sinh trưởng

nghỉ ngơi. Giữ cây trong tối

và độ dài ngày

vào ban đêm

Đưa cây đến nơi có nhiệt

Chồi rụng

Nhiệt độ biến động quá lớn

độ điều hòa hơn

46

Hiện nay ngoài nhu cầu trồng những chậu Lan để thưởng thức thì nhu cầu

về hoa cắt cành của thị trường cũng rất lớn, vì thế để đảm bảo chất lượng hoa

đồng đều là việc làm rất cần thiết nhằm tăng giá trị của sản phẩm:

- Để tránh tình trạng chồi hoa bị ép giữa các giả hành làm cho hoa nở chậm, cành

nhỏ, ít hoa, cần khống chế một bụi (chậu) không quá 5 đơn vị và cắt tỉa bớt

những giả hành già, dành khoảng trống cho các giả hành sắp có hoa.

- Khi chồi hoa vươn cao khoảng 30 - 40 cm, cắm cọc để uốn cành hoa cho thẳng.

- Chú ý cho ánh sáng đến đồng đều từ các phía sau khi hoa xổ bao để các hoa phân

4.4.1.2. Biện pháp nhân giống 4 loài thuộc chi Cymbidium

bố đồng đều trên cành, tránh tình trạng các nụ hoa quay về phía nhiều ánh sáng hơn.

Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của các loài Lan rừng trong tự

nhiên, không muốn nguồn tài nguyên này bị cạn kiệt nhanh chóng do khai thác quá

mức. Đồng thời để chủ động về nguồn giống nên những hộ trồng Lan ở Sa Pa đã

thực hiện nhân giống một số loài Lan và đã có những kết quả tốt. Có nhiều phương

pháp để nhân giống các loài Lan: gieo hạt, tách chiết từ cây mẹ, nuôi cấy mô.

Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó.

Nhân giống Lan bằng gieo hạt có thể tạo ra số lượng cây con lớn, cây con cũng

có thể mang một số đặc điểm mới lạ so với cây giống – là nguồn gien mới làm đa

dạng thêm họ Lan. Tuy vậy, việc làm cho hạt Lan nảy mầm không hề đơn giản,

cần phải có kỹ thuật nên không phải ai cũng có thể thực hiện được. Bên cạnh đó,

thời gian để một cây Lan từ lúc nảy mầm đến lúc có thể ra hoa là rất dài (3 đến 4

năm, có khi lâu hơn) nên việc chăm sóc chúng cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.

Phương pháp nuôi cấy mô cũng có thể tạo ra cây con với số lượng lớn giống

hệt với cây lấy mẹ. phương pháp này không chỉ đòi hỏi có kỹ thuật mà chúng còn

cần có sự đầu tư về kinh tế rất lớn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng phòng nuôi

cấy,… không những thế thời gian để có một cây trưởng thành cũng rất dài.

Chính vì vậy, với điều kiện thực tế các hộ dân đã lựa chọn phương thức

đơn giản, dễ làm nhất là tách chiết cây. Phương thức này đã lợi dụng được đặc

47

điểm của chi Cymbidium đó là trong mỗi chu kỳ sinh trưởng đều có hình thành

chồi mới. Với cách làm này, chúng ta có thể tạo ra được một cây mới có thể cho

hoa vào ngay năm sau, tuy nhiên việc tách chiết này chỉ cho phép ta tạo ra số

lượng cây giống hạn chế tùy vào độ nhiều của gốc Lan tách.

Nhân giống (tách chiết cây) thường tiến hành đồng thời với thay giá thể

mới và sang chậu cho Lan, công việc này thường được thực hiện vào thời kỳ

nghỉ của cây. Bởi vì sau một thời gian nuôi dưỡng 2- 3 năm cây có thể phát triển

làm chật chậu, giá thể bị hoai mục bị chua không thể cung cấp đủ dinh dưỡng

cho cây, bộ rễ của cây bị hư hại hay có nhiều củ già không còn cho hoa ở chậu.

Khi tiến hành thay giá thể cần chú ý giữ gìn bộ rễ, không để cho bộ rễ bị hư hại

nặng. Cymbidium cần nhiều nước nhưng lại rất sợ úng ngập, vì vây tiêu chuẩn

của một giá thể tốt cho Cymbidium là:

- Giữ ẩm tốt

- Thoáng khí

- Chậm phân hủy

- Chứa nhiều dinh dưỡng

- Rẻ tiền, dễ kiếm và trữ lượng cao trong tự nhiên, pH giá thể từ 6,5-7.

Các loại vật liệu có thể dùng làm giá thể: dớn, dớn sợi, vỏ thông, mùn cưa,

xơ dừa, than vụn, gạch, đá vụn, lông gia súc và gia cầm, lá cây mục...

Các hộ dân cho biết, đến nay dớn vẫn là loại giá thể tốt nhất cho

Cymbidium vì nó có khả năng giữ ẩm cao, thông thoáng, giàu dinh dưỡng (nhất

là K và N), chậm phân hủy. Nhưng hiện nay trữ lượng dớn ngày càng ít đi, giá cả

lại khá đắt và việc khai thác dớn làm hư hại nhiều cho các khu rừng già. Vì thế

nuôi trồng Cymbidium ở qui mô lớn, dớn sẽ không đáp ứng được yêu cầu vì khó

tìm nguồn cung ứng lại không kinh tế.

Vỏ thông và mùn cưa là một loại giá thể có thể đáp ứng được các yêu cầu

về kỹ thuật và kinh tế nhưng lại nghèo dinh dưỡng. Vỏ thông và mùn cưa tươi

không dùng được vì hàm lượng dầu còn cao, có thể làm hư bộ rễ nên trước khi

48

sử dụng cần phải ủ cho hoai mục với thời gian ủ trên 6 tháng. Với hỗn hợp giá

thể này thì nếu trồng Lan ở quy mô lớn sẽ phải mất rất nhiều công để xử lý giá

thể mà chất lượng lại không cao.

Ở Sa Pa hiện nay, có một số hộ dân dùng hỗn hợp mùn lá + than củi vừa có

dinh dưỡng lại vừa có độ thông thoáng của giá thể, có hộ lại dùng bùn ao phơi

khô rồi chặt thành những cục với độ lớn khác nhau để làm giá thể trồng địa Lan -

với loại giá thể này có thể giữ ấm cho rễ vào mùa đông đồng thời lại mát vào

mùa hè. Các loại giá thể này cũng đã đáp ứng được một số tiêu chuẩn của giá thể

trồng địa Lan: giữ ẩm, thoáng khí, có chứa dinh dưỡng, lại rất dễ kiếm ở địa

phương. Vì vậy chúng có thể đáp ứng nhu cầu dùng làm giá thể khi mở rộng sản

xuất kinh doanh.

Nhân giống Cymbidium theo phương pháp tách chiết:

1. Chúng ta có thể tách chiết cây trước khi thay giá thể. Sau khi hoa đã nở

hết, dùng một dao nhọn và bén (được khử trùng) cắt đứt các căn hành nối các giá

hành với nhau. Một thời gian sau, khi giả hành già đâm chồi con mới, tiến hành

thay giá thể và tách các giả hành đã có chồi con ra chậu riêng.

2. Tách chiết cây đồng thời với thay giá thể (Hình 4.11)

- Đặt chậu nằm nghiêng, dùng một con dao dày và cứng luồn vào thành

chậu rồi bẩy cả khối giá thể ra khỏi chậu. Giũ bỏ hết giá thể cũ

- Cắt bỏ những rễ già, những rễ bị thối rữa, cắt tỉa bộ rễ còn 25-30 cm. Sau

khi cắt tỉa, làm sạch bộ rễ, rồi tiến hành tách chiết.

- Tách thành từng bụi nhỏ, bằng cách cắt rời các căn hành nối các giả hành

với nhau. Tách riêng, các giả hành già, chỉ giữ lại một giả hành già, một giả hành

còn nguyên lá và một chồi con (một đơn vị).

Một đơn vị đầy đủ như trên, có khả năng cho hoa vào mùa hoa kế tiếp, sau

khi tách chiết, cây sẽ được trồng vào từng chậu riêng.

- Sau khi thay giá thể, đặt cây vào chỗ râm mát, tưới ít nước để giữ ẩm. Khi

49

cây bắt đầu ra rễ mới, tưới và phun dinh dưỡng thường xuyên.

3. Ươm tạo cây từ củ già (Hình 4.12)

- Củ già sau khi được tách rời đem giâm trên giá thể ẩm, đặt ở chỗ mát

- Từ giả hành già mọc ra những chồi non, lúc đầu sống nhờ vào nguồn dinh

dưỡng từ giả hành già cho đến khi ra rễ mới, tạo thành một cây con hoàn chỉnh.

- Khi chồi con có rễ dài 5-10 cm thì có thể đem trồng như cây mới.

Tiếp tục ươm củ già. Nó sẽ còn có khả năng cho thêm một vài chồi con khác.

Hình 4.11: Hình ảnh tách chiết cây đồng thời với thay giá thể địa Lan

50

Hình 4.12: Hình ảnh ươm tạo cây mới từ củ già

4.4.2. Biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống 2 loài thuộc chi Dendrobium

4.4.2.1. Biện pháp nuôi dưỡng 2 loài thuộc chi Dendrobium

Dendrobiun là giống cây ưa sáng, ánh sáng hữu hiệu cho giống

Dendrobium là 70%. Nắm được nhu cầu ánh sáng của cây nên hầu hết các hộ

trồng Lan ở Sa Pa đều làm mái che cho vườn Lan của mình (bằng lưới nylon

hoặc bằng phên tre) vừa hạn chế được ánh nắng trực xạ chiếu vào nhưng đồng

thời cũng che cho Lan khỏi bị sương muối vào mùa đông. Các chậu Lan trên giá

đều được sắp xếp tạo khoảng cách nhất định nhằm tạo cho cây có đầy đủ ánh

sáng và độ thông thoáng cần thiết.

Trong suốt mùa tăng trưởng của Dendrobium (từ đầu tháng 4 đến tháng

11) tưới nước thường xuyên (mùa hè: 2 lần/tuần, mùa đông : 1 lần/tuần) để cung

cấp độ ẩm cho cây và bón phân NPK 30:10:10 để bổ sung thêm đạm với 2

51

lần/tuần để giúp cây phát triển mạnh đặc biệt là bộ lá

Vào giai đoạn gần cuối của mùa sinh trưởng dùng loại phân bón NPK

10:20:20 với chu kỳ bón 2 lần/1 tuần để giúp quá trình nuôi hoa dưỡng thân được

tốt hơn. Khi cây hoàn tất thời kỳ tăng trưởng hằng năm của nó (với loài ra hoa

mùa xuân, thường vào tháng 9 – 10), khoảng 4 tuần giảm dần lượng nước tưới

đến khi không còn gì. Vào thời điểm này cây cần có nhiều ánh nắng kết hợp với

điều kiện khí hậu tháng 12 ngày ngắn và nhiệt độ mát để hình thành phát hoa.

Hai loài Thủy tiên mỡ gà (Den. densiflorum) và Thủy tiên trắng (Den. farmeri)

thường chỉ rụng một đến hai lá ở các giả hành để báo hiệu thời kỳ bắt đầu hình

thành hoa.

Hạn chế tưới nước trong thời gian từ khi cây bắt đầu có nụ hoa (khoảng

tháng 11 trở đi), nếu không khí quá khô, có thể tưới đẫm nước mỗi tháng một

lần. Trong giai đoạn này cũng không cần bón phân cho hoa vì nếu bón có thể gây

nóng làm thui chột mầm hoa hoặc gây dị dạng cho hoa. Tránh để cây bị khô

nước dến khi cây nở hoa, thời gian hoa nở kéo dài khoảng 2- 3 tháng.

Mùa nghỉ của các loài thuộc giống Dendrobium rất cần thiết nó quyết định

phẩm chất hoa trong mùa tới, thường thời kỳ nghỉ kéo dài từ cuối tháng 2 đến

đầu tháng 4. Thời kỳ này không cần tưới nước hay bón phân cho cây, chỉ cần

4.4.2.2. Biện pháp nhân giống 2 loài thuộc chi Dendrobium

duy trì độ ẩm vủa đủ là được.

Cũng như các loài trong chi Cymbidium, các hộ dân nuôi trồng Lan ở đây

đã lợi dụng khả năng nhảy chồi và đâm cành của các loài Thủy tiên để tiến hành

nhân giống đối với: Thủy tiên mỡ gà và Thủy tiên trắng.

Người ta có thể dùng dao sắc đã khử trùng cắt đứt căn hành giữa các giả

hành vào cuối mùa khô và đợi cho đến khi các mắt ngủ ở gốc giả hành phát triển

thành chồi mới rồi tách ra để trồng. Việc tách chiết thường tiến hành cùng lúc với

việc thay chậu

Dendrobium là một giống Lan rất nhạy cảm khi cấu tạo giá thể không

thích hợp cho việc phát triển của nó. Chậu trồng Dendrobium phải là những

52

chậu có lỗ nhỏ để tạo độ thoáng và giúp cây không bị úng. Giá thể dành cho

Dendrobium có thể là xơ dừa đã được xử lý chống mốc, tốt nhất vẫn là giá thể

trồng bằng than củi vừa tạo độ thống thoáng lại vừa ít bị hư mục nên sẽ không

ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây Lan.

Khi giá thể trong chậu bị ẩm ướt chúng sẽ hư mục và lắng xuống đáy

chậu tạo thành một lớp mùn úng nước làm cho bộ rễ của cây bị thối.Do bản

năng sinh tồn, lúc này cây Lan sẽ mọc ra một số cây con trên ngọn thân của các

giả hành (còn gọi là cây con keiki) để duy trì nòi giống. Khi xảy ra hiện tượng

này chúng ta phải tiến hành thay chậu và giá thể mới cho Lan ngay [20].

Phương pháp nhân giống các cây con mọc trên ngọn thân (chiết cành) rất

đơn giản. Chúng ta có thể tách rời cây con khỏi thân cây mẹ bằng một vết cắt

chỗ tiếp giáp mà không cần cắt thêm một đoạn thân cây mẹ. Tuy nhiên, điều

quan trọng là nên cắt cây con vào thời điểm nào là tốt nhất? Thường khi thấy

cây con phát triển mạnh, có 5-7 lá và có nhiều rễ tốt dài 4- 5cm chúng ta có thể

tách ra khỏi giả hành để trồng mới. Nếu để cây con trên cây mẹ lâu sẽ làm cây

mẹ bị yếu, ảnh hưởng tới khả năng ra hoa trong vụ mới.

Ngoài ra Dendrobium là giống giả hành có thân, vì thế có thể nhân giống

bằng cách cắt từng đoạn thân mang mắt, từ đó nuôi chúng thành cây con mới.

- Dùng dao sắc cắt thân cây không còn lá và rễ thành từng đoạn từ 3 - 4 đốt.

- Phun thuốc để khỏi nhiễm nấm rồi để những khúc cây này lên một lớp sơ dừa.

Sau đó trải cát lên chiếc khay cao chừng 4-5 phân và để lớp sơ dừa và khúc cây

Lan lên trên cát. Để khay vào chỗ rợp mát và tưới nước cho thật đẫm, cứ vài

ngày lại phun nước một lần.

- Khoảng 6 tuần lễ sau, vì lý do sinh tồn, mầm non bắt đầu nứt ra từ các mấu đốt,

sau đó mọc rễ và chui qua lớp sơ dừa để tìm nước.

- Từ 8 -10 tuần các mầm non này ra lá và rễ đã dài khoảng 4 – 5cm

- Cắt thân thành những đoạn ngắn để trồng vào chậu dễ dàng, dùng dao thật sắc để

cắt, không làm thân cây bị dập. Phun thuốc chống nhiễm nấm và trồng vào chậu.

53

Hình 4.13: Các bước nhân giống Dendrobium bằng cắt cành

4.5. Đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng tại Sa Pa

Qua số liệu điều tra 20 hộ gia đình nuôi trồng cả 6 loài Lan này ta có biểu

tổng hợp tình hình sinh trưởng của các loài Lan được nuôi trồng (Bảng 4.6)

Bảng 4.6: Biểu tổng hợp tình hình sinh trưởng các loài Lan được nuôi trồng (Tỷ lệ phần trăm trong bảng được tính theo công thức 2.1)

Tình hình sinh trưởng Loài Tổng số (giò,chậu) Tốt Trung bình Xấu

Trần mộng xuân 2.580 2.382 92,32% 164 6,36% 34 1,32%

Kiếm hồng hoàng 2.227 2.123 95,33% 81 3,64% 23 1,03%

Kiếm thu 2.072 1.947 93,97% 100 4,83% 25 1,21%

Kiếm thanh ngọc 1.983 1.861 93,85% 105 5,30% 17 0,86%

Thủy tiên mỡ gà 2.057 1.935 94,07% 103 5,01% 19 0,92%

Thủy tiên trắng 1.862 1.729 92,86% 117 6,28% 16 0,86%

54

Qua Bảng 4.6 ta thấy rằng tỷ lệ những cây có sinh trưởng tốt ở mỗi loài

đều đạt trên 90%, cao nhất là Kiếm hồng hoàng 95,33%. Những cây có sinh

trưởng trung bình ở mức 7% có những loài chỉ đạt xấp xỉ 4%. Tỷ lệ những cây

sinh trưởng xấu ở mỗi loài cao nhất là 1,32% (Trần mộng xuân) và nhỏ nhất là

0,86% (Kiếm thanh ngọc, Thủy tiên trắng). Như vậy, có thể thấy rằng quá trình

chăm sóc Lan rừng ở các hộ gia đình bước đầu đã có những kết quả tốt cần được

ghi nhận.

Để kiểm tra xem sự sinh trưởng của các loài được nuôi trồng ở hộ gia đình

và trong tự nhiên có như nhau không, ta có thể kiểm tra theo tiêu chuẩn Pearson

(Tính theo công thức 2.2). Kết quả tính toán thể hiện ở Bảng 4.7:

Bảng 4.7: Biểu kiểm tra sự thuần nhất về sinh trưởng theo tiêu chuẩn Pearson

05

tra bảng với k = (2-1)(3-1) = 2

n

05

tra bảng Loài Kết luận 2 2 tính 2

Trần mộng xuân 5,30 5,99

Kiếm hồng hoàng 11,13 5,99 Sinh trưởng ở 2 nơi thuần nhất với nhau Sinh trưởng ở 2 nơi có sự khác nhau

Kiếm thu 12,60 5,99 Sinh trưởng ở 2 nơi có sự khác nhau

Kiếm thanh ngọc 5,15 5,99

Thủy tiên mỡ gà 5,50 5,99

Thủy tiên trắng 16,89 5,99 Sinh trưởng ở 2 nơi thuần nhất với nhau Sinh trưởng ở 2 nơi thuần nhất với nhau Sinh trưởng ở 2 nơi có sự khác nhau

Theo kết quả ở Bảng 4.7 thì chất lượng sinh trưởng của các loài Trần mộng

xuân, Kiếm thanh ngọc, Thủy tiên mỡ gà ở trong tự nhiên và tại các hộ nuôi trồng

là tương đương nhau; còn chất lượng sinh trưởng của loài Kiếm thu, Kiếm hồng

hoàng và Thủy tiên trắng có sự sai khác nhau giữa điều kiện nuôi trồng và trong tự

55

nhiên. Mặc dù vây, Sa Pa vẫn là trung tâm đa dạng của các loài Lan rừng ở Việt

Nam, điều kiện tự nhiên ở Sa Pa vẫn đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát triển của

hầu hết các loài Lan rừng, trong đó có chi Cymbidium và Dendrobium.

Trong quá trình nuôi trồng Lan, các hộ dân ở Sa Pa đã biết học tập, làm

theo tự nhiên để có được những kết quả nhất định. Họ đã vận dụng những hiểu

biết cơ bản về tập tính và yêu cầu sinh thái của những loài này trong tự nhiên để

có những tác động phù hợp vào quá trình sinh trưởng của chúng nhằm thu được

hiệu quả cao nhất. Ví dụ: Cymbidium cần có một khoảng thời gian lạnh về đêm khoảng 10 - 15,50C để hình thành hoa nếu không sẽ không ra hoa, Dendrobium

cần có thời gian ngủ nghỉ sau kỳ sinh trưởng khoảng 1 tháng trước khi tiếp tục

ra hoa, nếu giai đoạn này ta tưới nước bón phân có thể sẽ làm cây không ra hoa

nữa,…. Nhờ biết được đặc điểm này mà người nuôi trồng sẽ chủ động hơn trong

quá trình chăm sóc.

Bên cạnh việc nuôi dưỡng chăm sóc cho Lan rừng sinh trưởng, phát triển

tốt thì khả năng nhân giống những loài Lan này mới chỉ dừng lại ở mức lợi dụng

khả năng nảy chồi, đâm cành của các loài Lan này để tách chiết tạo ra những cây

Lan mới làm nguồn giống cho quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, cách làm này

chỉ có thể tạo ra số lượng cây giống hạn chế và cũng chỉ tiến hành làm được trên

quy mô sản xuất nhỏ. Muốn mở rộng sản xuất ngoài việc đầu tư kỹ thuật chăm

sóc nuôi dưỡng Lan còn cần nâng cao tỷ lệ nhân giống bằng các hình thức nhân

giống khác.

Hiện nay, Sa Pa có khoảng hơn 300 cơ sở tham gia nuôi trồng Lan rừng.

Các cơ sở kinh doanh này, chủ yếu là các hộ gia đình đơn lẻ dựa vào kinh

nghiệm và điều kiện đất đai của gia đình để sưu tầm các loài Lan rừng về gây

trồng nuôi dưỡng. Vì thế, quy mô và chất lượng của các cơ sở này cũng rất khác

nhau, có gia đình chỉ là tận dụng khoảnh vườn nhỏ quanh nhà song cũng có

những hộ đã đầu tư hàng trăm m2 đất để làm nơi trồng Lan kinh doanh. Tùy vào

56

điều kiện mỗi gia đình mà họ có thể chăm sóc Lan với số lượng khác nhau. Theo

kết quả điều tra 20 hộ nuôi trồng lan ở Sa Pa, số loài lan được nuôi trồng là 35

loài tập trung vào 9 chi (thể hiện ở Bảng 4.8). Tuy nhiên, có những hộ chỉ tập

trung vào nuôi trồng 10 - 15 loài thuộc các chi Lan có hoa đẹp được ưa chuộng:

Hoàng thảo (Dendrobium), Lan kiếm (Cymbidium), Giáng hương (Aerides lour),

Thanh đạm (Coelogyne Lindl.), Lan hài (Paphiopedilum Pfilzer),…. Và cũng có

những gia đình nuôi trồng tới 25 - 30 loài thuộc nhiều chi Lan khác nhau, trong

đó có cả những loài là đặc hữu của vùng thậm chí là đặc hữu của Việt Nam :

Biếc man (Biermannia), lan Miệng kín (Cleisostoma filiforme), Lan len

(Eria),… Tuy thế, các loài thuộc chi Hoàng thảo, lan Kiếm, Giáng hương và lan

Hài vẫn luôn được các hộ gia đình nuôi trồng với số lượng lớn để đáp ứng nhu

cầu của người chơi lan.

Theo kết quả tổng hợp ở Bảng 4.8: chi Hoàng thảo được nuôi trồng với số

lượng nhiều nhất là 10 loài, tiếp đến là chi lan Kiếm với 9 loài, chi lan Hài với 5

loài. Trong đó, mỗi loài đều được các hộ nuôi trồng với số lượng lớn.

Bảng 4.8: Những loài Lan được nuôi trồng tại Sa Pa

Tên khoa học Tên phổ thông Số loài TT

1 Aerides Lour Chi lan Dáng hương 2

2 Biermannia Chi lan Biếc man 2

3 Cleisostoma Blume. Chi lan Miệng kín 2

4 Coelogyne Lindl. Chi lan Thanh đạm 2

5 Cymbidium Sw. Chi lan Kiếm 9

6 Dendrobium Sw. Chi lan Hoàng thảo 10

7 Hygrochilus Pfitzer. Chi lan Cẩm báo 1

Paphiopedilum Pfitzer. Chi lan Hài 8 5

Phaius Lour Chi lan Hạc đính nâu 9 2

57

Bên cạnh những hộ nuôi trồng Lan thì hiện nay VQG Hoàng Liên cũng đã

sưu tập được một vườn Lan giống gốc gồm 172 loài, vườn cũng đã đầu tư xây

dựng phòng nuôi cấy mô và thử nghiệm việc nhân giống invitro với một vài loài

Lan: lan Kiếm, lan Hài và Hoàng thảo; đến nay những cây Lan con đầu tiên

của những loài này đã được đưa ra vườn ươm và đang trong quá trình chăm

sóc theo dõi.

Theo kết quả điều tra các hộ nuôi trồng Lan, ở đây cũng có những người

tới thu mua Lan rồi đi bán ở những tỉnh khác, thậm chí là vận chuyển về Hà Nội.

Với những đối tượng này, họ thường thu mua với số lượng tương đối lớn song

giá cả cũng không được cao chỉ 20.000 – 30.000VNĐ là được một giò Lan đẹp

và họ cũng chỉ thu mua một số loài đang được ưa chuộng: Hoàng thảo thủy tiên,

Giáng hương, Lan hài, Lan kiếm. Với phương thức này người trồng Lan không

phải chịu khoản chi phí cho quá trình vận chuyển và hoa Lan Sa Pa đến được với

nhiều người yêu Lan và được nhiều thị trường mới biết đến.

Những cơ sở nuôi trồng Lan ở Sa Pa còn cung cấp Lan cho thị trường hoa

cây cảnh ở thành phố Lào Cai, lượng Lan bán ra ở đây thường ổn định hơn song

giá cả cũng chỉ ở mức trung bình. Thường mỗi giò Lan đẹp chuẩn bị ra hoa giá

cũng chỉ 30.000- 40.000VNĐ, mỗi cành Lan cắt cũng chỉ bán với giá khoảng

5.000 – 7.000VNĐ. Tuy nhiên, với phương thức bán hàng này thì người trồng

Lan phải chi trả khoản phí vận chuyển, địa điểm bán,… Mặc dù vậy, nếu tính trên 1m2 đất thì thu nhập của người trồng Lan vẫn cao hơn rất nhiều so với

những người trồng lúa hay các loại hoa màu khác. Lý do là vì:

- Trồng Lan có thể thực hiện ở bất kỳ điều kiện đất đai như thế nào nhưng trồng

các loại cây khác thì phải có loại đất phù hợp mới có hiệu quả - Trên 1m2 đất có thể đặt được nhiều giò Lan: có thể làm giá treo hay có thể kết

hợp nuôi địa Lan phía dưới ở trên treo Phong lan. Đây là một đặc điểm có thể tạo

ra hiệu quả cao mà không một ngành nào có được. Bảng 4.9 là kết quả điều

tra thu nhập của một số hộ trồng Lan ở Sa Pa

58

Bảng 4.9: Bảng kết quả cơ cấu thu nhập của các hộ dân

Hoa Lan Nguồn khác

Trần Hữu Dương

Hộ kinh doanh VNĐ VNĐ Diện tích (m2) Tổng thu nhập (VNĐ/năm)

Trần Văn Cương

200 70.000.000 70.000.000 % 100 % 0.00 0

Lê Đức Hữu

420 90.000.000 90.000.000 100 0.00 0

380 86.000.000 86.000.000 100 0.00 0

Bình quân

Nguyễn Văn Đăng

82.000.000 82.000.000 100 0 0.00

Lê Văn Khôi

200 45.000.000 37.000.000 82,22 8.000.000 17,78

Nguyễn Ngọc Tiến

120 27.000.000 21.000.000 77,78 6.000.000 22,22

Trần Văn Khi

160 43.000.000 36.000.000 83,72 7.000.000 16,28

Đỗ Đức Hiếu

140 30.000.000 26.500.000 88,33 3.500.000 11,67

Đỗ Văn Bách

180 45.000.000 42.500.000 94,44 2.500.000 5,56

Nguyễn Xuân Lâm

150 30.000.000 23.300.000 77,67 6.700.000 22,33

Nguyễn Thị Lành

230 64.000.000 56.000.000 87,50 8.000.000 12,50

Bùi Văn Mạnh

100 38.000.000 32.600.000 85,79 5.400.000 14,21

Trần Đình Sâm

90 26.000.000 22.400.000 86,15 3.600.000 13,85

Nguyễn Văn Dũng

200 46.000.000 36.000.000 78,26 10.000.000 21,74

Đỗ Thị Châu

170 35.000.000 27.500.000 78,57 7.500.000 21,43

Nguyễn Hữu Khải

200 53.000.000 41.000.000 77,36 12.000.000 22,64

Nguyễn Văn Nghĩa

250 68.000.000 55.000.000 80,88 13.000.000 19,12

180 40.000.000 36.000.000 90,00 4.000.000 10,00

Bình quân

Dương Văn Thái

42.142.857 35.200.000 83,48 6.942.857 16,52

Đinh Văn Thụ

130 32.000.000 22.000.000 68,75 10.000.000 31,25

Đỗ Xuân Ba

80 23.000.000 13.400.000 58,26 9.600.000 41,74

200 50.000.000 34.000.000 68,00 16.000.000 32,00

Bình quân

35.000.000 23.133.333 65,00 11.866.667 35,00

59

Qua Bảng 4.9 ta có thể chia các hộ dân điều tra ra làm 3 nhóm theo tỉ lệ

thu nhập của các hộ như sau:

- Nhóm thứ nhất: nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào việc kinh doanh hoa

Lan. Nhóm hộ này gồm có 3 gia đình, họ tập trung tất cả kinh tế, lao động của

gia đình vào kinh doanh Lan mà không tham gia vào các hoạt động sản xuất

khác. Cả ba hộ này đều có sự đầu tư về diện tích và kỹ thuật để có thể duy trì số

lượng Lan lớn và có chất lượng tốt như vậy. Với thu nhập bình quân mỗi hộ

82.000.000 đồng/ năm cũng là nguồn thu nhập rất lớn, đặc biệt là với điều kiện

chung của địa bàn còn nhiều khó khăn về kinh tế.

- Nhóm thứ hai: Nguồn thu nhập từ hoa Lan chiếm hơn 75% tổng thu nhập

của gia đình trong năm. Nhóm này gồm 14 hộ, bên cạnh nguồn thu nhập từ hoa

Lan họ còn tham gia vào các hoạt động khác: làm nông nghiệp, làm thêm dịch vụ

du lịch,… Cũng như nhóm hộ 1, các hộ gia đình này cũng có sự đầu tư nhiều về

diện tích và kỹ thuật để nuôi trồng Lan. Tuy nhiên, quy mô sản xuất của những

hộ này còn nhỏ hơn của nhóm hộ 1, song cũng đã mang lại nguồn thu nhập khá

lớn cho họ

- Nhóm thứ ba: nguồn thu nhập từ hoa Lan chiếm tỉ lệ ít hơn 75% tổng thu

nhập của gia đình trong năm. Nhóm hộ 3, ngoài kinh doanh hoa Lan họ còn tham

gia vào các hoạt động sản xuất khác và các hoạt động này cũng là nguồn thu

đáng kể của họ. Mặc dù cũng có sự đầu tư vào kinh doanh Lan, nhưng quy mô

nuôi trồng còn nhỏ so với 2 nhóm hộ trên. Vì vậy, nguồn thu nhập từ hoa Lan

của họ cũng chỉ chiếm một tỉ lệ khoảng 65% tổng thu nhập của gia đình.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, việc tìm hiểu nhu cầu của

thị trường có tính chất quyết định tới sự thành công của quá trình kinh doanh.

Người kinh doanh phải mang tới cho khách hàng những sản phẩm mà họ thích

với chất lượng tốt nhất. Do vậy, các hộ nuôi trồng Lan đều tập trung vào một số

loài Lan đẹp được nhiều người ưa chuộng: Trần mộng xuân, Kiếm thu, Kiếm

hồng hoàng, Hoàng thảo hoa vàng, Hoàng thảo kim điệp, Hoàng thảo kiều,

60

Hoàng thảo thủy tiên, một vài loài Lan hài như Hài huyền, Hài vàng,…. Hầu hết

việc nhân giống các loài Lan này đều rất thuận lợi (bằng việc giâm cành hay tách

chiết nhưng tỷ lệ nhân giống không cao) chỉ có Lan hài là việc nhân giống có

khó khăn hơn. Nhu cầu của thị trường luôn có sự thay đổi, vì vậy trong quá trình

kinh doanh cần có sự tìm hiểu để có thể đáp ứng kịp thời nhằm có được hiệu quả

kinh tế cao nhất.

Qua Bảng 4.9 ta cũng thấy rằng: kinh doanh hoa Lan có vai trò rất quan

trọng đối với cuộc sống của người dân ở đây, chỉ với một khoảng diện tích vài

trăm m2 thậm chí có hộ chỉ có 80m2 nhưng hàng năm đều có thu nhập ổn định.

Đây có thể là cơ hội làm giàu cho người dân địa phương nếu biết khai thác và

tận dụng hợp lý những điều kiện sẵn có của địa phương và nguồn lực của bản

thân mình.

Theo những đánh giá ở trên, ta nhận thấy rằng tiềm năng để phát triển

ngành nuôi trồng hoa Lan ở Sa Pa còn rất lớn:

- Điều kiện khí hậu ở Sa Pa rất phù hợp cho sự sinh trưởng của các loài

Lan rừng

- Các loài Lan ở Sa Pa rất phong phú cả về chủng loại và số lượng. Tuy

nhiên, hiện nay việc khai thác Lan từ rừng tự nhiên chỉ khai thác lấy số lượng mà

không nghĩ đến việc bảo tồn phát triển nguồn giống trong tự nhiên dẫn đến tình

trạng một số loài quý hiếm bị khai thác đến kiệt quệ. Vì thế, trong quá trình khai

thác Lan cần đảm bảo sự “bền vững” để Lan tiếp tục sinh trưởng trong tự nhiên:

+ Hướng dẫn cho người dân khai thác vào mùa vụ mà không gây ảnh

hưởng đến khả năng nhân giống, sinh trưởng phát triển của cây Lan. Theo các

chuyên gia về Lan là GS. Phan Kế Lộc và Leonid Averyanov thì việc lấy mẫu và

khai thác Lan tự nhiên chúng ta lên tiến hành khai thác vào thời gian cuối đông

đầu xuân khi mà cây Lan tự nhiên đang trong giai đoạn ngủ nghỉ, các quả đã chín

phán tán ra ngoài môi trường để chuẩn bị nảy mầm.

61

+ Với những loài có số lượng ít có thể khai thác theo từng nhánh để lấy

về làm giống, tránh khai thác toàn bộ làm mất nguồn giống trong tự nhiên

+ Không khai thác Lan theo cách chặt cả cây giá thể mà Lan sống vì như

vậy cũng đồng nghĩa với việc làm mất đi nguồn giống trong tự nhiên

+ Đặc biệt trong quá trình thu mẫu và khai thác chúng ta cũng chỉ nên khai

thác một phần tức là khi khai thác chúng ta dùng dao cắt đi 2/3 của khóm Lan và

để lại 1/3 khóm, 1/3 khóm còn lại này sẽ tiếp tục sinh trưởng phát triển mà không

bị mất nguồn giống.

- Diện tích đất chưa sử dụng ở thị trấn Sa Pa còn tương đối lớn, là cơ sở

để mở rộng diện tích trồng Lan

- Người dân đã có kinh nghiệm trong việc nuôi trồng Lan rừng nên khi mở

rộng diện tích cũng không gặp phải nhiều khó khăn về vấn đề chăm sóc.

- Thị trường tiêu thụ hoa Lan còn rất rộng lớn, ngoài thị trường quen thuộc

là Lào Cai còn có thị trường các vùng lân cận và đặc biệt là thị trường Hà Nội

Tuy tiềm năng còn nhiều nhưng ngành nuôi trồng hoa Lan của Sa Pa cũng

cần có sự đầu tư nhiều và tập trung hơn nữa mới có thể chiếm lĩnh được thị

trường hoa Lan trong nước và phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Vì vậy, Tôi có một số

ý kiến đề xuất như sau:

- Qua quá trình điều tra tôi nhận thấy nhu cầu của người dân về các loài

thuộc chi lan Kiếm, lan Hoàng thảo và lan Hài là rất lớn, vì vậy có thể tiếp tục

mở rộng việc nuôi trồng các loài lan này để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường.

- Bên cạnh việc nuôi trồng các loài lan đáp ứng nhu cầu hiện tại, cần tuyển

chọn thêm những loài lan có hoa đẹp, có hương thơm để gây trồng để mở rộng

thành phần loài hoa, giới thiệu tới người chơi hoa nhằm giảm bớt áp lực lên

những những loài được nhiều người yêu thích. Qua đó cũng hạn chế được việc

người dân khai thác một số loài lan rừng quá mức.

- Cần có sự đầu tư về vốn để hình thành những trang trại sản xuất Lan

chuyên nghiệp quy mô lớn từ vài ngàn đến vài chục ngàn chậu với mục đích cắt

62

cành hoặc cung cấp hoa chậu cho thị trường tiêu dùng trong nước vào dịp lễ tết

hàng năm.

- Xây dựng các khu nhà kính nuôi trồng Lan để có thể chủ động trong việc

điều tiết nhiệt độ, độ thoáng khí, ẩm độ, phòng tránh tác hại của gió bão và

sương muối hại vào mùa đông, cách ly các tác nhân gây bệnh cho lan,...

- Xây dựng các phòng nuôi cấy mô nhằm tạo ra số lượng cây con lớn và

chất lượng tốt trong một thời gian ngắn nhất nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn

giống trong tương lai

- Đầu tư xây dựng các đại lý, kênh phân phối ở nhiều địa phương khác nhau

nhằm đưa Lan rừng Sa Pa đi xa hơn nữa và ngày càng được nhiều người biết đến.

- Bên cạnh việc đầu tư về vốn, cũng cần có sự đầu tư về con người để có

thể làm chủ công nghệ nuôi cấy mô, xây dựng được đội ngũ lao động có kỹ thuật

để theo dõi và chăm sóc Lan

- Tiến hành thử nghiệm nuôi cấy các loài Lan hiện có, xác định được môi

trường nuôi cấy phù hợp với từng loài.

- Xây dựng được quy trình và chế độ chăm sóc phù hợp đối với mỗi loài Lan

- Nghiên cứu vấn đề giống cây trồng, giá thể, kỹ thuật trồng, chăm sóc

và phòng chống sâu bệnh hại, nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm và nâng

cao năng suất cây trồng

- Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố tác động đến sinh trưởng và phát triển của

cây lan như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, dinh dưỡng,… cũng như việc quản lý các

yếu tố này nhằm có được hiệu quả cao nhất.

63

Chương 5

KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Từ những kết quả nghiên cứu được về khả năng nuôi trồng và kinh doanh

một số loài Lan rừng tại Sa Pa tôi đã rút ra một số kết luận như sau:

1. Sa Pa là một trung tâm đa dạng về các loài Lan ở nước ta, điều kiện khí

hậu tại đây phù hợp với sự sinh trưởng của 6 loài Lan nghiên cứu thuộc 2 chi: lan

Kiếm (Cymbidium) và chi Hoàng thảo (Dendrobium). Giữa chúng không có sự

khác biệt nhiều về mặt hình thái.

Trong quá trình điều tra bắt gặp 37 loài Lan thuộc 15 chi khác nhau, trong

đó có những loài là đặc hữu của Việt Nam như: Lan Tóc tiên bắc (Holcoglossum

lingulatum Aver.), Lan Thanh đạm tuyết ngọc (Coelogyne psectrantha Gagnep),

Lan Sứa Sa pa (Anoectochilus chapaensis Gagnep.)

Các loài Phong lan trong tự nhiên chúng không phải chỉ sống phụ sinh

trên một loài cây mà chúng thường sống trên nhiều loài cây khác nhau thuộc họ

Fagaceae (họ Dẻ), Lauraceae (họ Re), Ericaceae (họ Đỗ Quyên), Theaceae (họ

Chè), Magnoliaceae (họ Ngọc Lan),…

2. Đặc điểm hình thái và phân bố của 6 loài lan nghiên cứu

- Trần mộng xuân: Địa lan, phân bố ở độ cao 1200 - 2000m, mùa hoa tháng 1- 3

- Kiếm hồng hoàng: Địa lan, phân bố ở độ cao 1100 - 1600m, mùa hoa tháng 10 - 11

- Lan Kiếm thu: Có thể trồng ở đất, phân bố ở độ cao 1300 -2000m, mùa hoa từ

tháng 10 -12

- Kiếm thanh ngọc: Địa lan, phân bố ở độ cao trên 1400m, mùa hoa từ tháng 2 - 3

- Hoàng thảo kiều: Phong lan, phân bố ở độ cao 1300 – 1800m, mùa hoa tháng 4 - 6

- Hoàng thảo thủy tiên trắng: Phong lan, phân bố ở độ cao 800 – 1500m, mùa

hoa từ tháng 1 – 3.

64

3. Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái tới sinh trưởng của 6 loài

Lan nghiên cứu: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm

Với Cymbidium:

- Cymbidium cần khoảng 50 - 70% ánh sáng trực tiếp, để cây dễ ra hoa, có nhiều

hoa và màu sắc đẹp

- Cymbidium là loài hoa cần có nhiệt độ thay đổi ngày nóng, đêm lạnh. +) Trong mùa tăng trưởng, cần nhiệt độ ngày khoảng 27 - 320C, đêm từ 10 - 150C +) Thời kỳ ra hoa, ban đêm cần phải lạnh từ 10 - 15,50C để cây phát triển chồi hoa +) Để cành hoa phát triển tốt cần nền nhiệt độ trong khoảng từ 13 - 240C

- Điều kiện tốt nhất cho Cymbidium là độ ẩm không khí 60 - 70% và độ ẩm của

giá thể là 70 - 80%.

Với Dendrobium:

- Dendrobiun là giống ưa sáng, ánh sáng tốt nhất là 70%. Cần nhiều ánh sáng từ

sau thời kỳ sinh trưởng + điều kiện ngày ngắn ở tháng 12 để hình thành hoa

- Hầu hết Dendrobium thích hợp với nhiệt độ đêm 10 - 16°C và ngày 21 - 32°C.

- Độ ẩm cần thiết để Dendrobium sinh trưởng là 40 - 70%.

4. Các biện pháp nuôi dưỡng và nhân giống

Với Cymbidium:

- Quá trình sinh trưởng

+) Giai đoạn tăng trưởng: cung cấp đủ độ ẩm, bổ sung thêm đạm (30:10:10) trên

lá. Cây cần ánh sáng trực tiếp khoảng 60%

+) Phân hóa chồi: chú ý điều kiện nhiệt độ ngày/đêm để cây hình thành chồi hoa

được thuận lợi, ánh sáng 80 - 100%

+) Hình thành nụ hoa: cần điều kiện đêm lạnh, giảm lượng phân bón và nước tưới

+) Hoa nở: tưới vừa đủ ẩm (2 - 3 ngày/lần), ánh sáng 50%

- Mùa nghỉ: Kéo dài khoảng 2 tháng, nhu cầu dinh dưỡng thấp nhất, ngưng bón

phân, che giàn còn 30 - 40%, tưới nước 4 - 5 ngày/lần

- Nhân giống: các hộ dân đã biết lợi dụng khả năng hình thành chồi mới hàng năm

của Cymbidium để tách chiết thành các đơn vị nhỏ hơn để đem trồng. Tuy hình

65

thức nhân giống này có tỷ lệ sống cao nhưng tỷ lệ nhân giống của chúng lại thấp.

Với Dendrobium:

- Trong mùa tăng trưởng tưới nước thường xuyên và bổ sung đạm cho cây

- Hết kỳ tăng trưởng, giảm lượng nước tưới và phân bón cho cây trong khoảng 4

tuần để cây hình thành phát hoa

- Hạn chế tưới nước khi cây bắt đầu có nụ hoa, không cần bón phân cho hoa vì

nếu bón có thể gây nóng làm thui chột mầm hoa hoặc gây dị dạng cho hoa.

- Nhân giống: hầu hết các hộ đều lợi dụng khả năng nảy chồi, đâm cành của

Dendrobium để tách chiết cây con làm giống cho mùa sau. Cũng như

Cymbidium thì tỷ lệ nhân giống của hình thức này thấp, chỉ đáp ứng được ở quy

mô kinh doanh nhỏ.

5. Quá trình sản xuất kinh doanh Lan rừng tại Sa Pa

- Các cơ sở kinh doanh Lan có quy mô nhỏ, chủ yếu sản xuất theo kiểu hộ gia đình

- Qua điều tra 20 hộ gia đình, xác định được 35 loài lan thuộc 9 chi đã được nuôi

trồng với số lượng lớn. Trong đó các loài của chi Hoàng thảo, chi lan Kiếm, chi

lan Hài được người dân ưa chuộng nhất.

- Do chưa có phương tiện vận chuyển đi xa nên thị trường tiêu thụ chủ yếu Lan

Sa Pa là thành phố Lào Cai và các vùng lân cận.

- Mặc dù giá bán mỗi giò Lan không cao song bước đầu nó đã mang lại hiệu quả kinh

tế cho người dân, mang lại cơ hội làm giàu cho họ ngay trên mảnh đất của mình.

- Sa Pa có đủ các điều kiện để hình thành trung tâm sản xuất Lan theo hướng

chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên vẫn cần có sự đầu tư lớn cả về vốn và khoa học kỹ

thuật.

5.2. Tồn tại

Đề tài mới chỉ đánh giá được khả năng nuôi trồng và kinh doanh của 6 loài

Lan rừng, thuộc 2 chi lớn ở khu vực Sa Pa: chi Lan Kiếm và chi Hoàng thảo

Đánh giá khả năng nuôi dưỡng của các hộ dân bằng cách so sánh sự sinh

trưởng của một loài với sự sinh trưởng của chúng trong tự nhiên. Kết quả này chỉ

mang ý nghĩa tham khảo vì:

66

- Kết quả điều tra sự sinh trưởng của các loài trong OTC chưa thể đại diện hết

cho sự sinh trưởng của loài trên phạm vi phân bố rộng

- Sự sinh trưởng của các loài nuôi trồng mới chỉ được điều tra ở 20 hộ gia đình

nên cũng chưa phản ánh hết dược khả năng nuôi dưỡng Lan rừng ở trên địa bàn

nghiên cứu và cũng chưa thể hiện được khả năng nuôi dưỡng ở hộ nào tốt hơn.

Về khả năng kinh doanh Lan, đề tài mới chỉ điều tra nguồn thu nhập từ

nuôi trồng Lan ở các hộ gia đình mà chưa có những căn cứ chi tiết để tính hiệu

quả kinh tế do việc nuôi trồng Lan mang lại.

Đề tài cũng mới đưa ra định hướng phát triển chung của ngành trồng Lan

ở Sa Pa trong thời gian tới.

5.3. Khuyến nghị

Trên cơ sở những vấn đề nghiên cứu và những vấn đề còn tồn tại, đề tài có

một số khuyến nghị như sau:

Thông qua các biện pháp kỹ thuật như khoanh nuôi, áp dụng các biện

pháp nhân giống bảo tồn nguồn gen, cần có tác động trực tiếp vào các đối tượng

thường xuyên khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên: tạo điều kiện cho họ tiếp

cận với những loại cây trồng, vật nuôi có giá trị để phát triển kinh tế gia đình.

Từ những loài hoa Lan có giá trị mà trong tự nhiên không còn nhiều cần

có kế hoạch nhân nuôi phát triển nguồn giống để người dân có thể tiếp cận với

nguồn giống giá rẻ từ đó vừa có cơ hội tạo thu nhập cho người dân vừa bảo vệ

được nguồn Lan giống ngoài tự nhiên.

Để có thể đánh giá được hết tiềm năng của các hộ trồng Lan cần tiếp tục

đánh giá khả năng nuôi trồng và kinh doanh của nhiều loài Lan hơn nữa.

Đồng thời mở rộng phạm vi điều tra chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi

điều tra 20 hộ gia đình; bên cạnh đó, quá trình điều tra thực địa cũng cần bổ sung

thêm OTC nghiên cứu nhằm nâng cao độ tin cậy của kết quả điều tra.

Cần điều tra cụ thể hơn về hiệu quả kinh tế mà nghề trồng Lan mang lại,

từ đó đưa ra định hướng phát triển cụ thể hơn nhằm đưa Lan rừng Sa Pa đến với

người yêu Lan.