ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ---------------------------------

LÊ THỊ HUYỀN TRANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ

ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP TRONG THỰC HÀNH TÂM LÝ HỌC

LÂM SÀNG CHO TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ---------------------------------

LÊ THỊ HUYỀN TRANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ

ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP TRONG THỰC HÀNH TÂM LÝ HỌC

LÂM SÀNG CHO TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Mã số: Thí điểm

Người hướng dẫn khoa học: TS. Amie Pollack

TS. Trần Thành Nam

HÀ NỘI - 2017

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được trân trọng gửi lời cảm ơn tới Trường Đại học Giáo dục và các

thầy, cô của chương trình đào tạo Thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành

niên vì đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành chương trình học

và bảo vệ luận văn.

Tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự tôn trọng tới TS. Trần

Thành Nam và TS. Amie Pollack, những người đã giúp tôi trong suốt 13 tháng kể từ

khi bắt đầu ý tưởng nghiên cứu, định hướng, phát triển và cho tới ngày hoàn thiện

đề tài đúng hạn. Nhờ có trợ giúp nhiệt tình của TS. Trần Thành Nam mà tôi còn

thực hiện thêm nhiều bài báo cáo tại các Hội nghị khoa học và tạp chí chuyên

ngành. Ngoài ra tôi cũng nhận được sự tư vấn và hướng dẫn của GS. TS. Barh

Weiss trong quá trình chuẩn bị cơ sở lý luận và bảng hỏi. Tôi luôn cảm thấy biết ơn

và may mắn vì đã được làm việc với những người giỏi về chuyên môn và giàu có về

đạo đức như vậy.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các anh, chị, bạn, em từ cộng đồng

Alumni các khóa 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 chương trình Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị

thành niên của Trường Đại học Giáo dục vì đã hỗ trợ về tài liệu, đóng góp ý kiến,

cung cấp thông tin để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ và

tham gia trả lời Phiếu khảo sát của các thầy, cô, anh, chị, bạn, em ở Bệnh viện,

Trung tâm tâm lý, Trường đại học/Viện nghiên cứu, Trung tâm Giám định pháp y

tâm thần, Trường tiểu học/phổ thông, những người đang làm cho các đơn vị khác và

cả những người làm nghề tự do. Những ý kiến trả lời đó đã thực sự đóng góp rất lớn

cho thành công của đề tài.

Do điều kiện thời gian cũng như tài liệu và hiểu biết còn hạn chế nên không

thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi kính mong các thầy, cô và độc giả giúp tôi khắc

phục những hạn chế để hoàn thiện luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

Ngày 24 tháng 2 năm 2017

i

Lê Thị Huyền Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ “Đánh giá năng lực áp dụng

nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong thực hành tâm lý học lâm sàng

cho trẻ em và vị thành niên” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu

trong luận văn là số liệu trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Ngày 25 tháng 2 năm 2017

ii

Lê Thị Huyền Trang

DANH MỤC VIẾT TẮT

Nội dung Nội dung tiếng Anh Nội dung tiếng Việt viết tắt

American Psychological APA Hiệp hội tâm lý Hoa Kỳ Association

American Board of Professional Ủy ban Tâm lý học chuyên nghiệp ABPP Psychology Hoa Kỳ

CSSKTT Chăm sóc sức khỏe tâm thần

ĐLC Độ lệch chuẩn

ĐTB Điểm trung bình

International Union of Liên đoàn Khoa học tâm lý quốc IUPS Psychological Science tế

iii

National Board for Certified Hội đồng nhà tham vấn được cấp NBCC Counselors phép (Hoa Kỳ)

Lời cảm ơn .............................................................................................................................. i

Lời cam đoan ......................................................................................................................... ii

Danh mục viết tắt .................................................................................................................. iii

Mục lục ................................................................................................................................. iv

Danh mục bảng .................................................................................................................... vii

Danh mục biểu đồ ............................................................................................................... viii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.................................... 6

1.1. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................... 6

1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về thực hành đạo đức nghề trên thế giới ............................... 6

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu thực hành đạo đức hành nghề ở Việt Nam ................................. 16

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu................................................................. 19

1.2.1. Đạo đức, Đạo đức nghề nghiệp .................................................................................. 19

1.2.2. Tâm lý học, Nhà tâm lý học và Dịch vụ tâm lý ......................................................... 21

1.2.3. Tâm lý học lâm sàng và Nhà tâm lý học lâm sàng .................................................... 21

1.2.4. Nguyên tắc và tiêu chuẩn ........................................................................................... 22

1.2.5. Khái niệm năng lực áp dụng và lý thuyết Bloom ...................................................... 22

1.2.6. Trẻ em và Vị thành niên ............................................................................................ 23

1.2.7. Hoạt động đánh giá năng lực áp dụng của người thực hành tâm lý học lâm sàng cho

trẻ em và vị thành niên ......................................................................................................... 24

1.3. Cơ sở nền tảng đánh giá năng lực của nhà tâm lý lâm sàng ......................................... 24

1.3.1. Luật Việt Nam hiện hành ........................................................................................... 24

1.3.2. Hướng dẫn đạo đức của các Hiệp hội nghề tâm lý trên thế giới ................................ 28

1.3.3. Hướng dẫn thực hành đạo đức trong y tế (y đức) ...................................................... 34

1.3.4. Hướng dẫn thực hành đạo đức trong ngành Công tác xã hội .................................... 36

1.3.5. Hướng dẫn thực hành đạo đức của luật sư ................................................................. 36

1.3.6. Hướng dẫn thực hành đạo đức tại một số cơ sở cung cấp dịch vụ tâm lý ở Việt Nam

............................................................................................................................................. 37

1.4. Các nguyên tắc đạo đức sử dụng để đánh giá năng lực áp dụng của nhà tâm lý lâm

sàng ở Việt Nam .................................................................................................................. 38

Tiểu kết chương 1. ............................................................................................................... 42

CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................. 43

2.1.1. Tiến trình nghiên cứu ................................................................................................. 43

iv

2.1.2. Các giai đoạn nghiên cứu ........................................................................................... 44

2.2. Chọn mẫu điều tra ......................................................................................................... 45

2.3. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ...................................................................................... 46

2.3.1. Miền Bắc .................................................................................................................... 46

2.3.2. Miền Trung ................................................................................................................ 46

2.3.3. Miền Nam .................................................................................................................. 46

2.4. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................................ 47

2.5. Đặc điểm khách thể nghiên cứu .................................................................................... 48

2.5.1. Tuổi ............................................................................................................................ 48

2.5.2. Giới tính ..................................................................................................................... 48

2.5.3. Trình độ chuyên môn ................................................................................................. 48

2.5.9. Giám sát hành nghề .................................................................................................... 51

2.6. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 51

2.6.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, thang đo.......................................................... 51

2.6.2. Phương pháp phỏng vấn ............................................................................................ 66

2.6.3. Phương pháp thống kê toán học ................................................................................. 67

2.6.4. Đạo đức nghiên cứu ................................................................................................... 68

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................................... 69

3.1. Thực trạng thực hành năng lực đạo đức nghề nghiệp của nhà tâm lý lâm sàng trẻ em và

vị thành niên ......................................................................................................................... 69

3.1.1. Những vấn đề chung .................................................................................................. 69

3.2.2. Trong lĩnh vực bảo mật .............................................................................................. 72

3.1.3. Trong lĩnh vực quan hệ đa chiều/sóng đôi ................................................................. 74

3.1.4. Trong lĩnh vực ứng xử với đồng nghiệp .................................................................... 75

3.1.5. Trong lĩnh vực năng lực ............................................................................................. 78

3.1.6. Trong lĩnh vực đánh giá và chẩn đoán ....................................................................... 79

3.1.7. Trong lĩnh vực can thiệp và trị liệu ............................................................................ 81

3.1.8. Trong lĩnh vực quảng cáo và phát ngôn..................................................................... 84

3.1.9. Chưa phân loại ........................................................................................................... 86

3.1.10. So sánh ĐTB giữa hành vi, năng lực ra quyết định đạo đức và lý lẽ biện minh ..... 87

3.2. Mối quan hệ giữa các đặc điểm nhân khẩu học và nguồn hỗ trợ thông tin đối với kết

quả thực hành năng lực đạo đức nghề nghiệp của nhà tâm lý ............................................. 88

3.2.1. Các biến nhân khẩu học ............................................................................................. 88

3.2.2. Sử dụng nguồn hỗ trợ ................................................................................................ 91

v

3.3. Kiểm định hồi quy dự báo sự ảnh hưởng của các yếu tố nhân khẩu học tới tổng điểm

năng lực thực hành đạo đức nghề nghiệp ............................................................................ 94

Tiểu kết chương 3. ............................................................................................................... 96

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 98

ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................... 102

1. Đề xuất khuyến nghị chung ........................................................................................... 102

2. Đối với từng chủ thể ...................................................................................................... 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 104

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 108

vi

Bảng 1.1. Các nguyên tắc đạo đức hành nghề tâm lý của các quốc gia .............................. 28

Bảng 1.2: Các tiêu chuẩn cụ thể trong Quy điều đạo đức đối với nhà tâm lý ..................... 29

ở các quốc gia trên thế giới .................................................................................................. 29

Bảng 2.1. Tiến tình nghiên cứu ............................................................................................ 43

Bảng 2.2. Sự tham gia của khách thể ở các vùng miền ....................................................... 47

Bảng 3.1. ĐTB tổng các câu hỏi .......................................................................................... 69

Bảng 3.2. ĐTB của các lĩnh vực khảo sát ............................................................................ 70

Bảng 3.3. So sánh ĐTB các lĩnh vực của các miền ............................................................. 71

Bảng 3.4. Phân tích ĐTB của lĩnh vực bảo mật................................................................... 72

Bảng 3.5. Phân tích ĐTB của lĩnh vực quan hệ đa chiều .................................................... 74

Bảng 3.6. Phân tích ĐTB lĩnh vực ứng xử với đồng nghiệp ............................................... 75

Bảng 3.7. Phân tích ĐTB của lĩnh vực năng lực ................................................................. 78

Bảng 3.8. Phân tích ĐTB của lĩnh vực đánh giá và chẩn đoán............................................ 79

Bảng 3.9. Phân tích ĐTB của lĩnh vực can thiệp và trị liệu ................................................ 81

Bảng 3.10. Phân tích ĐTB của lĩnh vực quảng cáo và phát ngôn ....................................... 84

Bảng 3.11. Phân tích một số câu hỏi chưa phân loại ........................................................... 86

Bảng 3.12. So sánh ĐTB giữa thực hành với ra quyết định đạo đức và lý lẽ biện minh ..... 87

Bảng 3.13. Thống kê so sánh ĐTB của biến trình độ học vấn ............................................ 89

Bảng 3.14. Kết quả kiểm định bằng One-Way ANOVA với biến trình độ học vấn ........... 89

Bảng 3.15. Thống kê so sánh ĐTB của biến chuyên ngành đào tạo ................................... 90

Bảng 3.16. Kết quả kiểm định One-Way ANOVA với biến chuyên ngành đào tạo ........... 91

Bảng 3.17. Kiểm định tương quan giữa tìm nguồn hỗ trợ và tổng điểm ............................. 92

Bảng 3.18. Dự báo sự ảnh hưởng của các yếu tố nhân khẩu học tới tổng điểm .................. 94

vii

DANH MỤC BẢNG

Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ số người trả lời khảo sát của từng tỉnh/thành phố .................................. 47

Biểu đồ 3.1. Tần suất thực hành đạo đức trong lĩnh vực bảo mật ....................................... 73

Biểu đồ 3.2. Tần suất thực hành đạo đức trong lĩnh vực quan hệ đa chiều ......................... 75

Hình 3.3. Tần suất thực hành đạo đức trong lĩnh vực ứng xử với đồng nghiệp .................. 76

Biểu đồ 3.4. Tần suất thực hành đạo đức trong lĩnh vực năng lực ...................................... 78

Biểu đồ 3.5. Tần suất thực hành đạo đức trong đánh giá và chẩn đoán .............................. 80

Biểu đồ 3.6. Tần suất thực hành đạo đức trong can thiệp và trị liệu ................................... 82

Biểu đồ 3.7. Thống kê tỷ lệ lựa chọn các lý lẽ biện minh ................................................... 83

trong lĩnh vực can thiệp và trị liệu ....................................................................................... 83

Biểu đồ 3.8. Tần suất thực hành đạo đức trong lĩnh vực quảng cáo .................................... 85

Biểu đồ 3.9. Thống kê tỷ lệ lựa chọn phương án trả lời nhóm câu chưa phân loại ............. 86

viii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, ngành tâm lý học nói chung và tâm lý học lâm sàng nói riêng chưa

được Nhà nước công nhận là một ngành nghề độc lập để được cấp mã số nghề trong

hệ thống nghề quốc gia. Dịch vụ tâm lý cũng chưa được cấp mã ngành kinh doanh

trong hệ thống ngành nghề để được đăng ký kinh doanh. Các quy phạm pháp luật

chuyên ngành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội về dịch vụ tâm lý và hoạt động

của nhà tâm lý chưa có mà chỉ đang sử dụng các quy phạm pháp luật chung của Bộ

luật dân sự và một số văn bản khác có liên quan. Mặc dù toàn quốc có 2 hiệp hội

tâm lý là Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam và Hội Tâm lý Xã hội Việt

Nam là nơi đăng ký hoạt động của các nhà tâm lý. Tuy nhiên, chưa có tổ chức nào

trong số đó ban hành Quy tắc đạo đức nghề nghiệp để hướng dẫn thực hành cho các

thành viên của mình. Điều này tạo nên lỗ hổng lớn, tạo môi trường cho sự vi phạm

trong lĩnh vực đòi hỏi chất lượng cao về chuyên môn và đạo đức này.

Thực tế, ngành tâm lý ra đời khá sớm ở Việt Nam, nếu so sánh với Luật sư

hay Công tác xã hội. Tuy nhiên, việc đào tạo ở trong nước nhiều năm liền chỉ chú

trọng vào nghiên cứu và giảng dạy và ít ứng dụng thực tiễn. Ngành Tâm lý học lâm

sàng Việt Nam chỉ ra đời khá bằng việc Chính phủ cho phép giảng dạy từ năm 1997

nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác trị liệu tâm lý trẻ em. Ngay cả khi được

đào tạo thì số lượng học viên tâm lý học lâm sàng cũng khá thấp so với các ngành

tâm lý học khác. Số lượng cán bộ tâm lý lâm sàng được đào tạo ở nước ngoài một

cách chuyên nghiệp rất hiếm hoi, manh mún. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu khám

chữa bệnh, các đơn vị cung cấp dịch vụ tâm lý phải tuyển dụng những người được

đào tạo tâm lý học chung hoặc ngành tâm lý khác không phải là tâm lý lâm sàng.

Thậm chí, một số nơi còn sử dụng những người chưa từng được đào tạo chuyên

ngành tâm lý như Bác sĩ, Điều dưỡng, Công tác xã hội, Giáo dục đặc biệt để làm

một số dịch vụ như nhà tâm lý học lâm sàng.

Mặc dù số lượng các cơ sở cung cấp dịch vụ tâm lý ngày càng tăng lên ở các

thành phố lớn và đang vươn tới những vùng xa hơn, nhưng theo một số nghiên cứu

và trao đổi của những người hành nghề chuyên nghiệp cho thấy chất lượng dịch vụ

1

rất đáng lo ngại. Việc sử dụng trắc nghiệm, đưa ra các đánh giá chẩn đoán tùy tiện

hay áp dụng các phương pháp trị liệu không dựa vào thực chứng khá phổ biến. Trên

thị trường còn xuất hiện nhiều nhà tâm lý tự phong, quảng cáo phát ngôn thiếu

chuẩn mực hoặc mang tính lừa đảo, gây hoang mang cho dân chúng. Đây là nguồn

cơn của những hiểu lầm, nghi ngờ về phẩm chất và giá trị của các nhà tâm lý học

lâm sàng chuyên nghiệp và ngành tâm lý học lâm sàng non trẻ.

Vì những lẽ đó và xét thấy cần phải tạo ra môi trường dịch vụ tâm lý lâm

sàng lành mạnh, hiệu quả, an toàn cho xã hội; trả lại thanh danh cho những nhà tâm

lý học lâm sàng và ngành tâm lý học lâm sàng, tác giả đã lựa chọn đề tài “đánh giá

năng lực áp dụng nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong thực hành

tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên”. Nghiên cứu này sẽ điều tra xem

những người đang thực hành đánh giá, can thiệp về tâm lý lâm sàng cung cấp dịch

vụ có ý thức và họ đã và đang áp dụng các nguyên tắc đạo đức hành nghề chung

được quy định và giới thiệu trong các chương trình đào tạo hay không. Đồng thời,

nghiên cứu cũng tìm kiếm những khó khăn hoặc cản trở mà những người này gặp

phải khi thực hành đạo đức, ứng xử nghề nghiệp. Đây là bước khởi đầu cho những

nghiên cứu tiếp theo như là xây dựng Quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho các nhà tâm

lý nói chung và tâm lý học lâm sàng nói riêng, phát hành hướng dẫn chi tiết xử lý

các tình huống lưỡng nan về đạo đức, xây dựng Bộ đánh giá năng lực thực hành tâm

lý (trong đó có năng lực thực hành đạo đức), hoàn thiện chương trình giáo dục đạo

đức và ứng xử nghề nghiệp trong đào tạo tâm lý thực hành.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này sẽ đánh giá năng lực áp dụng các nguyên tắc đạo đức và ứng

xử nghề nghiệp được thừa nhận và mang tính phổ biến trong quá trình thực hành

tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên. Từ đó sẽ đề xuất áp dụng một số

nguyên tắc đạo đức, ứng xử cơ bản để bảo vệ danh xưng nghề nghiệp và quyền lợi

khách hàng.

3. Câu hỏi nghiên cứu

- Những người đang đánh giá và/hoặc can thiệp tâm lý lâm sàng cho trẻ em

và vị thành niên có thực hiện theo các nguyên tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp hay

không? Năng lực áp dụng các nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của

2

những người này đạt mức độ như thế nào so với chuẩn bình quân của thế giới?

- Các nguyên tắc đạo đức nào thường được họ áp dụng trong hành nghề? Những

lĩnh vực nào thường xuất hiện các vi phạm đạo đức và chuẩn mức nghề nghiệp?

- Khi gặp các vấn đề cần sử dụng chuẩn mực đạo đức, ứng xử thì họ có thể

dựa vào các nguồn nào? Có những yếu tố nào có thể giúp cải thiện năng lực áp dụng

nguyên tắc đạo đức cơ bản của các nhà tâm lý học lâm sàng khi thực hành dịch vụ?

4. Giả thiết khoa học

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên những giả thiết khoa học sau đây:

- Giả thiết 1: có nhiều cá nhân hiện đang thực hành đánh giá, can thiệp tâm

lý cho trẻ em và vị thành niên không hành xử theo những quy chuẩn đạo đức nghề

nghiệp của nhà tâm lý học lâm sàng. Mức độ năng lực thực hành đạo đức của những

người này thấp hơn so với mức chuẩn bình quân của thế giới.

- Giả thiết 2: những nguyên tắc đạo đức mà những nhà cung cấp dịch vụ tâm

lý thường áp dụng gồm (1) tránh gây hại, (2) tôn trọng nhân phẩm, (3) bảo mật.

Những hành vi vi phạm quy chuẩn đạo đức thường xuất hiện bao gồm (a) nguyên

tắc giữ bí mật; (b) các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ song chiều/ đa chiều.

- Giả thiết 3: phần đông những cá nhân quan tâm đến các tiêu chuẩn đạo đức

trong ứng xử nghề nghiệp không biết tìm nguồn hỗ trợ nào có giá trị. Những yếu tố

về giáo dục, đào tạo hay kinh nghiệm, địa bàn làm việc có thể giúp cải thiện năng

lực thực hành đạo đức của nhà tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan đến tiêu chuẩn và quy tắc đạo đức, ứng xử

hành nghề tâm lý lâm sàng và tìm ra những lĩnh vực thường xuyên xuất hiện vi phạm

- Nghiên cứu xây dựng bộ công cụ đo lường năng lực áp dụng nguyên tắc

đạo đức hành nghề tâm lý lâm sàng thông qua các tình huống giả định

- Khảo sát thực trạng áp dụng các nguyên tắc đạo đức, ứng xử của những

người cung cấp dịch vụ CSSKTT cho trẻ em và vị thành niên.

6. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

6.1. Khách thể nghiên cứu

Những người đang cung cấp các dịch vụ đánh giá và trị liệu tâm lý ở Việt

Nam trong đó có cung cấp dịch vụ cho trẻ em và vị thành niên

6.2. Đối tượng nghiên cứu

Năng lực áp dụng các nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong quá

3

trình cung cấp dịch vụ tâm lý cho trẻ em và vị thành niên

7. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để đo đạc năng lực áp dụng

các nguyên tắc đạo đức, ứng xử của những người đang cung cấp dịch vụ đánh giá

và trị liệu tâm lý và nhận diện một số nguyên tắc cơ bản cần thiết khi hành nghề.

Địa bàn khảo sát là toàn quốc nhưng tập trung vào một số thành phố dự đoán có số

lượng những người cung cấp dịch vụ tâm lý nhiều như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí

Minh, Đà Nẵng. Những người được hỏi là bất kỳ ai đang đang cung cấp dịch vụ

đánh giá và/hoặc trị liệu tâm lý. Thời gian nghiên cứu là 13 tháng từ tháng 11/2016

đến hết tháng 11/2016.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

8.1 Nghiên cứu lý luận

- Nghiên cứu các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp phổ quát thường sử dụng

trên thế giới và và ở Việt Nam

- Nghiên cứu các lĩnh vực mà nhà tâm lý thường gặp khó khăn và vi phạm

khi ra quyết định đạo đức

- Đề xuất một số nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cơ bản phù hợp với xu

hướng chung của thế giới trong khi vẫn đảm bảo giá trị đạo đức Việt Nam để làm

chuẩn mực đối chiếu trong khi chưa có văn bản chính thức

8.2 Nghiên cứu thực tiễn

- Bảng hỏi về nhân khẩu học

- Thang đo về hành vi đạo đức đã được thực hiện trong thực hành tâm lý

- Bảng hỏi về các tình huống lưỡng nan để thăm dò quyết định đạo đức của

nhà tâm lý

- Bảng hỏi về những lý lẽ biện minh cho các hành vi liên quan đến đạo đức

- Thang đo về những nguồn để tham khảo có liên quan đến đạo đức

- Phỏng vấn không cấu trúc các chuyên gia và những người thực hành tâm lý

lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên

9. Đóng góp của nghiên cứu

- Tìm ra mức độ năng lực áp dụng các quy tắc đạo đức của những người đang thực

hành tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên

- Tìm ra được các yếu tố có thể giúp cải thiện năng lực thực hành đạo đức cho nhà

4

tâm lý lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên

- Tìm ra được 6 nguyên tắc đạo đức cơ bản phù hợp với xu hướng chung của thế

giới và phản ảnh được các giá trị đạo đức truyền thống và pháp luật Việt Nam

- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của Bộ đánh giá năng lực thực hành đạo đức

cho nhà tâm lý Việt Nam

10. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm 3 phần:

Phần mở đầu

Phần nội dung gồm 3 chương

- Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

- Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu

- Chương 3. Kết quả nghiên cứu

Phần kết luận và kiến nghị

Tài liệu tham khảo

5

Các phụ lục

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử nghiên cứu

1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về thực hành đạo đức nghề trên thế giới

Ngành tâm lý học nói chung đã ra đời từ rất sớm vào khoảng thế kỷ XVI.

Tuy nhiên, việc phát triển quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử nghề nghiệp để hướng

dẫn cho các nhà tâm lý học có một lịch sự tương đối ngắn. Năm 1953, Quy tắc đạo

đức đặc biệt cho các nhà tâm lý học mới được ban hành bởi Hiệp hội tâm lý Hoa Kỳ

(APA) , nó được phát triển dựa trên kinh nghiệm sau một cuộc khảo sát điều tra tình

huống khó xử mà các nhà tâm lý học phải đối mặt trong quá trình hành nghề ở các

lĩnh vực tâm lý khác nhau [12]. Như vậy, nghiên cứu về thực hành đạo đức nghề

nghiệp đã xuất hiện trước cả khi quy tắc đạo đức nghề nghiệp được ban hành.

Tuy nhiên, mặc dù Quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho các nhà tâm lý được tạo

ra là để hướng dẫn và trợ giúp nhà tâm lý hành nghề tốt hơn nhưng vẫn có vô số sự vi

phạm hoặc khó khăn khiến nhà tâm lý bị lúng túng trong việc xác định một hành vi

nào đó là đạo đức hay phi đạo đức. Ellen Linden và Johanna Radestrom (2008) sau

khi nghiên cứu về các tình huống lưỡng nan của Thụy Điển và Nam Phi, tiến hành

đối chiếu kết quả đã thực hiện từ các năm trước đó trên hai quốc gia này đã nhận định

rằng “nhận thức đạo đức của các nhà tâm lý học không phát triển tích cực”[45]. Đây

là vấn đề cần bàn thảo một cách nghiêm túc và có những nghiên cứu để tìm ra các

biện pháp có hiệu quả để cải thiện thực hành đạo đức của các nhà tâm lý.

1.1.1.1. Khảo sát quốc gia về đạo đức trong tham vấn của Gibson và Pope

Năm 1993, Gibson và Pope đã thực hiện cuộc khảo sát cấp độ quốc gia về

đạo đức trong tham vấn đối với các nhà tâm lý được cấp chứng chỉ hoạt động dịch

vụ tham vấn tâm lý tại Hoa Kỳ[7]. Một chương trình máy tính được chạy để chọn ra

mẫu ngẫu nhiên với tổng cộng 1.024 nhà tham vấn được cấp chứng nhận bởi Ủy

ban nhà tham vấn được cấp phép (NBCC). Những người này được mời trả lời bảng

hỏi với 88 hành vi khác nhau và nhóm nghiên cứu đã thu được 579 phiếu trả lời. Độ

tuổi trung bình của người trả lời dao động từ 35 – 50, với 51% là nữ giới, 35% là

nam giới và 14% không tiết lộ giới tính của họ. Phần lớn người trả lời có trình độ

6

thạc sĩ 67%, trong khi tiến sĩ là 23%. Kiểm định Khi bình phương (Chi-square test)

chỉ ra rằng những người tham gia không khác biệt đáng kể về giới hạn bằng cấp và

mức độ chấp hành kỷ luật so với những nhà tham vấn khác mà NBCC đã cấp bằng.

Tổng cộng có 68% người trả lời báo cáo đang làm việc trong nhiều tổ chức, 29%

cho biết họ đã hoàn thành một khóa học chính thức về đạo đức, 68% báo cáo đã

được tiếp cận các hướng dẫn về đạo đức được tích hợp trong nhiều môn học khác

nhau, và có 27% cho biết họ không có hướng dẫn đạo đức nào trong chương trình

học của họ.

Nghiên cứu đưa ra bảng hỏi để người tham gia lựa chọn hành vi nào trong số

88 hành vi đã liệt kê là đạo đức và mức độ tự tin của họ đối với sự lựa chọn đó.

Bảng 2 yêu cầu người tham gia trình bày xếp hạng đối với 16 nguồn thông tin đạo

đức. Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra độ tin cậy của bảng hỏi bằng kiểm định độ tin

cậy ổn định bên trong Chronbach Alpha đã chỉ ra .88 đối với thang xác định hành vi

có đạo đức hoặc không; và .97 đối với thang đo về mức độ tự tin.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 21 hành vi mà trong đó ít nhất 90% số người

đánh giá là phi đạo đức, trong đó gần một phần tư (24%) trong số này là hành vi

liên quan đến tình dục. Khoảng gần một phần năm (19%) số hành vi bị coi là phi

đạo đức liên quan đến lỗi về sự chấp thuận hay quyền đồng ý của khách hàng.

Khoảng 14% tập trung vào việc cung cấp tham vấn khi không có năng lực hoặc

năng lực bị suy giảm do mệt mỏi hoặc say rượu. Có 11 hành vi mà có ít nhất 90%

số người tham gia đã đánh giá là có đạo đức. Khoảng hơn một phần tư (27%) số này

có liên quan đến bảo mật, nhóm còn lại phân loại khá đa dạng.

Nghiên cứu cũng chỉ ra có sự khác nhau giữa nhận thức về hành vi đạo đức

hoặc phi đạo đức giữa các nhóm nhân khẩu học khác nhau. Trong khi những người

trẻ có vẻ coi “giúp khách hàng khiếu nại đồng nghiệp” là có đạo đức thì những

người lớn tuổi cho rằng “cung cấp tham vấn cho một trong những nhân viên của

bạn” là có đạo đức. Người trả lời là nam giới có dễ dàng chấp nhận và tham gia vào

các hoạt động tình dục với khách hàng hơn nữ giới. Gibson và Pope đã so sánh kết

quả này với các nghiên cứu trước đây của Pope, Keith-Spiegel và Tabachnick

(1986); Pope, Tabachnick và Keith-Spiegel (1987); Pope và Vetter (1991) thì thấy

có sự phù hợp. Những người trả lời làm việc cho các tổ chức tư nhân vốn bị phụ

7

thuộc trực tiếp vào việc thanh toán phí của khách hàng cảm thấy dễ tổn thương về

tài chính và thu nhập hơn nên khá đề cao đối với việc thu phí. Vì thế mà “chấm dứt

tham vấn khi khách hàng không thể trả phí” hoặc “tính phí cho cả những lần bỏ

hẹn” đều được họ coi là hành vi đạo đức.

Đối với bảng 2 để đo độ tự tin của nhà tâm lý đối với các lựa chọn của mình.

Có 21 mục mà người trả lời có độ tự tin trung bình đạt mức ít nhất là 9,9. Hơn một

phần tư (29%) có liên quan tới bảo mật và khoảng 24% có liên quan vấn đề tình dục.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra một số hành vi còn đang gây tranh cãi. Đây là hành

vi đã được định nghĩa mà có ít nhất 40% số người tham gia đánh giá là phi đạo đức.

Có hàng tá các hành vi đáp ứng được tiêu chí này, trong số đó có 42% liên quan đến

phí và 42% khác liên quan đến một số vấn đề về mối quan hệ kép/sóng đôi.

Nghiên cứu cũng dành một phần để điều tra thái độ của người tham gia đối

với các nguồn cung cấp hướng dẫn thực hành đạo đức. Theo đó thì nguồn có độ tin

cậy sắp xêp theo thứ tự giảm dần theo quan điểm của các nhà tâm lý là tiêu chuẩn

đạo đức của Hiệp hội Tâm lý Hoa kỳ (APA), Ủy ban đạo đức Hoa Kỳ (AACD), Tạp

chí tham vấn và phát triển, Hội đồng cấp phép bang (NBCC) và các đồng nghiệp.

Những người tham gia đã đưa ra đánh giá thấp nhất của họ, theo thứ tự tăng dần, là

các văn bản của các ủy ban đạo đức của địa phương, công trình nghiên cứu lâm

sàng và lý thuyết được công bố, các quyết định của tòa án, luật tiểu bang và liên

bang, và các cơ quan mà họ đã từng làm việc.

Vì đây là nghiên cứu lần đầu tiên nên vẫn có một số điểm hạn chế. Trước

hết, người tham gia là những người được cấp chứng nhận bởi NBCC nên kết quả

nghiên cứu không thể dùng để khái quát hóa cho tất cả những người chưa được

NBCC cấp chứng nhận. Ngoài ra, chuẩn mực đạo đức cụ thế có thể không được

phản ánh trong niềm tin của số đông. Bảng hỏi có có một số câu nội dung phức tạp

nhưng lại không có nỗ lực nào được thực hiện để cung cấp và phân tích độc lập về

các vấn đề đạo đức phức tạp thể hiện trong 88 hành vi. Hơn nữa, bảng hỏi được áp

dụng cho các nhà tham vấn Mỹ nên nếu được tham khảo và sử dụng vào các quốc

gia khác không cùng trình độ hoặc có nền văn hóa tương tự thì kết quả cũng có

nhiều điểm khác đi.

8

1.1.1.2. Các nghiên cứu về tình huống lưỡng nan trong thực hành đạo đức

Ngay cả khi có các hướng dẫn thực hành đạo đức chính thức được ban hành,

các nhà tâm lý vẫn gặp những khó khăn khi áp dụng chúng trong những công việc

hàng ngày của mình. Các tình huống lưỡng nan xảy ra và nhà tâm lý cảm thấy lúng

túng hoặc mơ hồ khi quyết định hành vi đạo đức. Các tình huống lưỡng nan sẽ là

thách thức lớn đối với các nghiên cứu liên quan đến đánh giá năng lực áp dụng các

nguyên tắc đạo đức của nhà tâm lý. Nhiều nghiên cứu khác nhau được thực hiện ở

các quốc gia khác nhau đã cho thấy điều này. Do đó, tìm hiểu sâu về các tình huống

lưỡng nan sẽ giúp nghiên cứu này thiết kế bảng hỏi và thang đo hợp lý hơn, phân

loại các nhân tố dựa trên nội dung câu hỏi đồng thời đưa ra các nhận định khách

quan hơn khi phân tích và đánh giá kết quả thu được từ các trả lời của người tham

gia nghiên cứu.

E. Lindén & J. Rådeström (2008) [45] đã dẫn chiếu nghiên cứu của Colnerud

(1995) , mà theo đó khó khăn về đạo đức có thể được phân loại theo ba cấp độ khác

nhau tùy thuộc vào sự phức tạp của việc ra quyết định bao gồm vấn đề đạo đức,

xung đột đạo đức và tình huống khó xử đạo đức. Một vấn đề đạo đức xảy ra khi các

nhà tâm lý học không thể tìm thấy một giải pháp cho tình hình trước mắt. Tuy

nhiên, họ vẫn có khả năng giải quyết nếu nghiên cứu thêm về nội dung của vấn đề,

các quy tắc và hướng dẫn về đạo đức, hay hỏi ý kiến các đồng nghiệp và người

giám sát, các nhà chuyên môn khác. Một mâu thuẫn/xung đột đạo đức được xác

định bởi một tình huống mà hai hoặc nhiều lợi ích xung đột nhau. Với mâu thuẫn

đạo đức thì chỉ một giải pháp được đưa ra sau khi đánh giá về các lợi ích bị ảnh

hưởng. Đối với tình huống lưỡng nan về đạo đức được xem xét như là một tình

huống mà cách hành xử phù hợp không được đưa ra hay hiển nhiên đúng và không

bao gồm một giải pháp duy nhất. Trong một số hoàn cảnh mà có hai hoặc nhiều hơn

các nguyên tắc đạo đức điều chỉnh hành vi theo hướng mâu thuẫn/loại trừ nhau;

hoặc một huống khó xử phát sinh khi pháp luật và đạo đức va chạm. Như vậy có

nghĩa là khi ở hoàn cảnh lưỡng nan, các nhà tâm lý phải đối mặt với khó khăn khi ra

quyết định đạo đức: nếu thực hành nguyên tắc đạo đức này thì họ buộc phải phớt lờ

hoặc vi phạm nguyên tắc đạo đức khác. E. Lindén & J. Rådeström (2008) cũng dẫn

chiếu của Burke, Harper, Rudnick & Kruger (2006) rằng tình huống lưỡng nan về

9

đạo đức có thể là trường hợp mà các nhà tâm lý học phải đối mặt với nhu cầu của tổ

chức, hệ thống pháp luật, giám sát và đồng thời đảm bảo các lợi ích tốt nhất cho

thân chủ trước khi quyết định điều gì là hợp đạo đức nhất để làm.

Các tình huống lưỡng nan thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên

cứu tâm lý trên thế giới. Bởi việc ra các quyết định đạo đức trong tình huống lưỡng

nan có nguy cơ ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ mà nhà tâm lý cung cấp cho thân

chủ. Thông qua lựa chọn của nhà thực hành tâm lý, nó cũng thể hiện giá trị hiệu lực

của quy tắc đạo đức chính thống nào đó trên thực tế và sự quản lý đối với ngành

nghề mang ý nghĩa nhân đạo này.

Pope và Vetter (1992) là những người đầu tiên tiến hành các cuộc điều tra về

sự cố đạo đức nhằm thu thập các trải nghiệm khó khăn mà các nhà thực hành tâm lý

ở Mỹ phải đối mặt trong thời gian một năm trước khi cuộc điều tra được thực hiện

[13]. Nghiên cứu được thực hiện trên một mẫu với số thư mời được phát ra cho

1.319 người và số thư trả lời là 679 người (chiếm tỷ lệ 51%) là thành viên của APA.

Các nhà tâm lý được yêu cầu “mô tả một vài từ chi tiết hơn về những sự cố mà họ

hoặc đồng nghiệp của họ đã phải đối mặt trong năm vừa qua hoặc hai thách thức,

phiền toái về đạo đực của chính họ”. Kết quả thu được cho thấy đã có 703 sự cố đạo

đức đã được đưa ra. Pope và Vetter đã sử dụng phân tích nội dung để phát triển một

hệ thống cho việc phân tích các đáp ứng với tình huống khó xử được báo cáo. Hệ

thống này cho phép sắp xếp các tình huống thành 23 loại theo các vấn đề về đạo

đức được đưa ra bởi tình trạng khó xử hoặc bối cảnh nghề nghiệp. Có 5 loại tình

huống lưỡng nan được báo cáo nhiều nhất gồm bảo mật (18%), mối quan hệ đa

chiều hoặc mâu thuẫn (17%), nguồn thanh toán (14%) thiết lập học thuật (academic

setting) (8%) và tâm lý học tư pháp (5%).

Thiết kế bởi Pope và Vetter (1992) đã được tiếp tục sử dụng lại trong nhiều

nghiên cứu điều tra tình huống khó xử đạo đức của các nhà tâm lý học tại các nước

như Thụy Điển (Colnerud, 1997), Nam Phi (Slack & Wassenaar, 1999), Canada

(Sinclair & Pettifor, 1996), Phần Lan (Colnerud, Hansson, Salling & Tikkanen,

1996), Na Uy (Odland & Nielsen, 1996), Vương quốc Anh (Lindsay & Colley,

1995), New Zealand và Mexico [12]. Do sử dụng cùng một phương pháp đã cho

phép Pettifor & Sawchuk (2006) thực hiện so sánh quốc tế giữa các quốc gia. Ở mỗi

10

nước, số người trả lời giới hạn từ 102 đến 679 và tổng số mẫu thu được từ 9 quốc

gia lên tới 2698 người. Theo đó, những tình huống lưỡng nan được báo cáo chung

nhiều nhất cho tổng thể mẫu là bảo mật (25%), quan hệ đa chiều (13%), và năng lực

(8%). Ngoài ra, một số tình huống xuất hiện với tần xuất cao nhưng đơn lẻ ở các

nước như ứng xử với đồng nghiệp (Canada và Na Uy), vấn đề tình dục và đánh giá

(Mexico). Nghiên cứu của Phần Lan bổ sung 3 loại mới để phản ánh tình huống

lưỡng nan đặc hiệu ở nước này gồm các tình huống gia đình khó khăn (10%), mâu

thuẫn với khách hàng (11%) và thiếu thời gian/nguồn lực (3%) [12].

Tuy nhiên, Pettifor & Sawchuk (2006) cũng chỉ ra rằng có sự hạn chế trong

việc so sánh kết quả thu được giữa các quốc gia mặc dù tiến hành trên cùng một câu

hỏi khảo sát và bảng phân loại của Pope và Vetter (1992). Trong đó, điểm đáng lưu

ý cho những nhà nghiên cứu khi áp dụng bảng hỏi và các phân tích có nguồn gốc từ

các quốc gia khác với quốc gia là đối tượng hiện tại của nhà nghiên cứu. Bởi lẽ việc

phân loại mang tính định tính của Pope và Vetter (1992) còn nhiều hạn chế, chỉ hữu

ích cho một vài quốc gia đơn lẻ, cảnh báo thận trọng khi đưa ra những khái quát cho

các quốc gia khác. Từ bình diện quốc tế, văn hóa thổ dân bản địa và phi phương

Tây, vốn là nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt trong nhận thức và phân loại tình

huống lưỡng nan, đã không được giới thiệu. Điều này dẫn đến cảnh báo về việc cố

gắng đồng nhất quy tắc đạo đức giữa các quốc gia khi xây dựng nguyên tắc đạo đức

phổ quát toàn cầu cho các nhà tâm lý. Nó cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối

với Việt Nam khi đang cố gắng học hỏi quốc tế để xây dựng Bộ quy tắc đạo đức

nghề nghiệp cho các nhà tâm lý đang hành nghề.

Nối tiếp các nghiên cứu trước đó, Ellen Lindén & Johanna Rådeström (2008)

đã sử dụng lại câu hỏi và bảng phân loại của Pope và Vetter (1992) tại Thụy Điển

và Nam Phi [45]. Ở lần điều tra này, số mẫu được phát bảng hỏi gồm 295 nhà tâm

lý học ở Thụy Điển và 312 nhà tâm lý học ở Nam Phi đã yêu cầu mô tả các tình

huống mà họ xác định là có khó khăn về đạo đức. Kết quả thu được có 53 nhà tâm

lý học ở Thụy Điển mô tả 61 sự cố và 21 nhà tâm lý học ở Nam Phi mô tả 24 trường

hợp. Điều này tương ứng với tỷ lệ đáp ứng 20% ở Thụy Điển và 8% ở Nam Phi. Tỷ

lệ này được Ellen Lindén & Johanna Rådeström (2008) đánh giá là thấp so với mẫu

nghiên cứu trước đó thực hiện bởi Colnerud (1997) và Slack & Wassenaar (1999).

11

Tuy nhiên, điểm đặc biệt là nghiên cứu đã tiến hành phân tích rất kỹ bối cảnh của

mỗi quốc gia về lịch sử, địa lý, dân tộc, chính trị, tôn giáo, văn hóa và sự phát triển

cũng như khác biệt quốc tế trong quá trình phân tích nhân khẩu học. Từ đó, Ellen

Lindén & Johanna Rådeström (2008) đã chỉ ra rằng các tình huống lưỡng nan gặp

phổ biến nhất là bảo mật (18% ở Thụy Điển và 13% ở Nam Phi), đánh giá xếp thứ

hai (16% ở Thụy Điển và 13% ở Nam Phi) và sau đó là quan hệ mơ hồ, sóng đôi,

mâu thuẫn lần lượt xếp thứ 4 ở Thụy Điển và thứ 3 ở Nam Phi (chiếm 13% tổng số

trả lời gặp cả ở Thụy Điển lẫn Nam Phi).

1.1.1.3. Nghiên cứu về thực hành đạo đức tại Trung Quốc

Trung Quốc là một quốc gia có quan hệ địa chính trị, văn hóa, tôn giáo khá

gần gũi với Việt Nam và chúng ta là nước chịu nhiều sự ảnh hưởng từ quốc gia này.

Trong khi đó, Quy tắc đạo đức cho các nhà tâm lý Trung quốc phát hành năm 2007

được trình bày tại mục 1.3.2.3 sẽ cho thấy có nhiều điểm tương đồng về hình thức

và nội dung với bản Các nguyên tắc đạo đức và các chuẩn mực cho các nhà tâm lý

Hoa Kỳ (2002, sửa đổi 2010). Vì thế, tìm hiểu các kết quả nghiên cứu từ Trung

Quốc có thể gợi ý hoặc tạo ra sự so sánh thú vị đối với Việt Nam.

Mingyi Qian và cộng sự (2008) cung cấp thông tin rằng, khác với nhiều nước

trên thế giới, chính phủ Trung Quốc dường như đang cố gắng thiết lập tham vấn và

trị liệu tâm lý như là hai ngành nghề khác nhau bằng cách giữ hai kỳ thi quốc gia

khác nhau và hệ thống đánh giá và cấp giấy chứng nhận riêng biệt. Chỉ có bác sĩ

được phép nộp đơn dự kỳ thi quốc gia để trở thành nhà tâm lý trị liệu

(psychotherapist); do đó tâm lý trị liệu được Chính phủ coi như một chuyên khoa

trong lĩnh vực y học. Tuy nhiên, kỳ thi chứng nhận cho nhà tham vấn (counselor)

được cung cấp cho các cá nhân là người một trường đại học hoặc trình độ cao đẳng

trong tâm lý học, giáo dục, y học, triết học, báo chí, xã hội và hoàn thành một khóa

học của chính phủ được ủy quyền đào tạo nghề ngắn hạn. Trong khi đó, "các nhà

tâm lý học" (psychologist) thực ra không thuộc về một nghề nghiệp được công nhận

hợp pháp tại Trung Quốc. Mặc dù Bộ Giáo dục Trung Quốc của Cộng hòa Nhân

dân Trung Hoa về mặt pháp lý công nhận ngành học của tâm lý học, nhưng không

có kỳ thi chứng nhận hoặc đăng ký hệ thống quốc gia để công nhận nghề này. Còn

Hiệp hội tâm lý và vẫn ban hành Quy tắc đạo đức trong thực hành lâm sàng và tham

12

vấn áp dụng cho cả nhà trị liệu tâm lý và tham vấn tâm lý Trung Quốc [14].

Theo Qian và cộng sự (2008), thiết kế 88 hành vi của Gibson và Pope (1993)

đã được Zhang và Cộng sự sử dụng để tiến hành một nghiên cứu trên 145 nhân viên

tư vấn và tâm lý trị liệu Trung Quốc năm 2007. Những người tham gia có độ tuổi

dao động 23-65 và 65,5% là nữ. Đa số người tham gia có bằng cử nhân (51,4%),

38,6% có bằng thạc sĩ và 7,1% có bằng tiến sĩ. Gần một nửa số người tham gia

(44,8%) là giáo viên trung học, 33,8% làm việc tại các bệnh viện và 8,3% là các nhà

thực hành cá nhân. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng so với người Mỹ, dường như

chuyên gia Trung Quốc ít coi các mục khảo sát là hành vi đạo đức hơn người Mỹ

trong cuộc khảo sát trước đó được tiến hành bởi Gibson và Pope (1993). Một số

lượng lớn người tham gia Trung Quốc coi là "không thông báo cho khách hàng về

mục đích của việc đánh giá tâm lý", "ghi âm ghi hình một phiên trị liệu mà không

có được sự đồng ý của khách hàng" và "không thông báo cho khách hàng về ngoại

lệ giữ bí mật" là hành vi đạo đức. Các hành vi "gọi khách hàng bằng tên riêng thay

cho tên gia đình", " cho phép khách hàng gọi bằng tên riêng thay cho tên gia đình","

bắt tay với các khách hàng "và" ôm khách hàng " cũng được ít người Trung Quốc

coi là hành vi đạo đức hơn. Nguyên nhân là do một số cách cư xử giữa các cá nhân

được chấp nhận rộng rãi ở Mỹ thì lại bị gán nhãn là không phù hợp ở Trung Quốc,

và ngược lại. Tóm lại, theo các chuyên gia thì các trường hợp vi phạm đạo đức và

tình huống khó xử đạo đức là phổ biến ở Trung Quốc [14].

1.1.1.4. Các lĩnh vực được phát hiện nhiều tình huống lưỡng nan khi thực hành đạo

đức nghề nghiệp

Về bảo mật

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề bảo mật có vẻ là một trong những

vấn đề đạo đức thường gặp nhất và nghiêm trọng mà nhà tâm lý học phải đối mặt.

Ellen Lindén & Johanna Rådeström (2008) dẫn ra con số khoảng 10% báo cáo vi

phạm bí mật mà Pope và Tabachnick (1994) đã thu được, nhưng trên thực tế thì

Tabachnick và cộng sự (1991) thống kê được có hơn một phần ba (1/3) các nhà tâm

lý học đã thừa nhận tiết lộ thông tin bí mật với các đồng nghiệp và đại đa số tin rằng

điều này là phi đạo đức [45]. Kết quả ở Slovakia cho thấy những nhà tâm lý làm

việc tại trường học (tiểu học/phổ thông và đại học) cũng phải thường xuyên đối mặt

với tình trạng khó xử liên quan đến ranh giới bảo vệ sự riêng tư của khách hàng.

13

Những tình huống họ phải xử lý liên quan đến bảo mật là những khách hàng có xu

hướng tự tử, cố gắng tự hủy hoại bản thân và bị lạm dụng tình dục [11]. Petra

Lajciakova (2016) khẳng định kết quả nghiên cứu về tiết lộ thông tin hay khó khăn

thường xuyên của nhà tâm lý về bảo mật là phù hợp với các nghiên cứu trước đây

của Dalen (2006), Sullivan và cộng sự (2002), Bodenhorn (2006); Cappuzzi (2002);

Kitchener và Anderson (2000); Lawrence và Kurpius (2000) [11].

Về quan hệ sóng đôi/đa chiều

Nghiên cứu ở Slovakia cũng cho thấy những nhà tâm lý làm việc trong

trường học cũng gặp khó khăn với vấn đề mối quan hệ và vai trò có tính đa chiều.

Ví dụ như mỗi kỳ thi kết thúc họ được giao làm thành viên ban kỷ luật, đòi hỏi họ

phải tiếp cận và giải quyết vấn đề theo thẩm quyền được giao [11]. Trong khi đó,

Ellen Lindén & Johanna Rådeström (2008) cho biết những phát hiện từ các cuộc

điều tra quốc gia của Helbok và cộng sự (2006), Campbell & Gordon (2003) thì

nhà tâm lý ở nông thôn thường phải đối mặt việc duy trì tính bảo mật của khách

hàng và quan hệ sóng đôi do họ các mối quan hệ xã hội và các mối quan hệ kinh

doanh chồng chéo trong một cộng đồng có quy mô dân số nhỏ. Các nhà tâm lý học

đã biết nội dung của quy tắc đạo đức nhưng thường phải vật lộn trong việc lựa chọn

làm thế nào để áp dụng các quy tắc trong lợi ích tốt nhất của khách hàng. Các tình

huống lưỡng nan được báo cáo thường xuyên nhất đứng thứ hai trong các tình

huống khó xử liên quan đến mối quan hệ sóng đôi hoặc mơ hồ. Điều đó cho thấy

rằng, các quan hệ sóng đôi xảy ra trong thực tế thường xuyên hơn là các báo cáo

dưới dạng “có” hoặc “không” tham gia quan hệ sóng đôi từ các nhà tâm lý [45].

Về ứng xử với đồng nghiệp

Ứng xử với đồng nghiệp, đặc biệt là với những đồng nghiệp có vi phạm về đạo

đức chưa ba giờ là dễ dàng đối với nhà tâm lý. Pettifor & Sawchuk (2006) cho biết

những khó khăn về đạo đức liên quan đến năng lực và ứng xử với các đồng nghiệp đã

được xếp hạng thứ ba và bốn trong các lần xuất hiện trong nghiên cứu tại 9 quốc gia

gồm Mỹ, Thụy Điển, Nam Phi, Vương quốc Anh, Mexico, Canada, Na Uy, Phần Lan

và New Zealand sử dụng thiết kế phân loại 23 lĩnh vực của Pope và Vetter (1992) [12].

Về đánh giá và chẩn đoán.

Qian và cộng sự (2008) đã dẫn chiếu các nghiên cứu trước đó của Qian và

14

cộng sự (2006); Deng và cộng sự (2008) rằng một số nhà tâm lý đã tiến hành đánh

giá không cần thiết để tăng thu nhập của họ, hoặc để cung cấp cho khách hàng với

kết quả giám định mà không có lời giải thích hoặc dán nhãn đối với trẻ em bằng sử

dụng kết quả trắc nghiệm thông minh [14]. Trong khi đó, Lindén & Johanna

Rådeström (2008) đưa ra kết luận của Knauss (2001) thì các vấn đề đạo đức thường

xuyên nhất trong việc đánh giá tâm lý học sinh trong môi trường trường học là quy

trình có sự đồng ý và tham gia của cha mẹ. Nhà tâm lý cung cấp dịch vụ vì lợi ích

tốt nhất của trẻ em hay vì lợi ích tốt nhất của những người yêu cầu đánh giá là câu

hỏi không dễ dàng có câu trả lời phù hợp. Ngoài ra , nhiều nhà tâm lý quan tâm là

chất lượng dịch vụ đánh giá, chẩn đoán nếu công cụ đánh giá được thiết kế bởi các

nước phương Tây trong khi chưa được chuẩn hóa tại các quốc gia phi phương Tây

như Việt Nam [45].

Về can thiệp trị liệu

Trong các nghiên cứu tại 9 quốc gia (nêu ở mục tình huống lưỡng nan) sử dụng các

thiết kế của Pope và Vetter (1992) liên quan đến can thiệp nghi vấn và có hại được

xếp loại là tiến thoái lưỡng nan thứ sáu về đạo đức thường xuyên nhất [12]. Còn

Lindén & Johanna Rådeström (2008) dẫn chiếu phát hiện trong thống kê của Pope

và Tabachnick (1994) thấy rằng 22% các nhà tâm lý học thừa nhận việc điều trị gây

hại đã xảy ra [45].

Về năng lực chuyên môn

Những nhà tâm lý làm việc trong trường đại học ở Slovakia đã cảm giác rằng

họ thiếu khả năng và kiến thức vì phải giảng bài về các chủ đề vượt quá giới hạn

của họ về kinh nghiệm và đào tạo; trong khi những nhà tâm lý làm việc ở trường

học cấp thấp hơn thì phải đối mặt với tình trạngcác giáo viên, người quản lý hoặc

cha mẹ học sinh can thiệp vào tất cả các vấn đề, yêu cầu giải quyết theo cách của

họ. Thiếu kiến thức, không đủ năng lực để phân tích một cách chính xác tình huống

khó xử, sợ hãi quá mức và không có khả năng hoạt động độc lập đối với người liên

quan là những gì mà phần lớn những nhà tâm lý đang làm việc trong trường học ở

Slovakia phải đối mặt [11]. Như vậy, vấn đề năng lực của nhà tâm lý có thể là sự

thiếu tự tin hoặc mất tự do khi làm công việc của mình.

Pope và Vetter (1992) đã xếp năng lực chuyên môn đứng vị trí thứ ba trong

23 loại khó khăn mà các nhà tâm lý Mỹ phải đối mặt trong quá trình hành nghề

15

[13]. Điều này cũng xảy ra tương tự với 8 nước còn lại sử dụng cùng phân loại của

Pope và Vetter (1992) [13]. Thống kê của Gibson và Pope (1993) cũng cho thấy có

64% các nhà tham vấn sẵn sàng “đưa lời khuyên cá nhân trên đài, ti vi”, 7% các nhà

tham vấn vẫn “làm việc mặc dù quá mệt mỏi”, không đảm bảo đầy đủ năng lực khi

cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây trên thế giới cho thấy có vẻ

năng lực đã không phải là khó khăn của các nhà tâm lý nữa, do sự phát triển mạnh

mẽ của giáo dục và yêu cầu cao hơn về trình độ của người xin cấp chứng chỉ hành

nghề [7]. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, năng lực chuyên môn có thể sẽ vẫn phải tính

đến khi mà việc đào tạo tâm lý và tuyển dụng còn nhiều bất cập.

Về quảng cáo, phát ngôn

Quảng cáo và phát ngôn chưa bao giờ được ghi nhận là một khó khăn khi

quyết định thực hiện hành vi đối với nhà tâm lý. Tuy nhiên, trong báo cáo của

Gibson và Pope (1993) cho thấy có tới 22% nhà tham vấn “nói với thân chủ rằng

giá trị của họ là không có hiệu lực” và 66% “nói với thân chủ về thất vọng đối với

thân chủ” [7]. Ngoài ra, trong bối cảnh nghề tâm lý đang được hình thành với nhiều

người mạo danh nhà tâm lý để tư vấn thì lĩnh vực này vẫn cần được quan tâm để

nghiên cứu.

1.1.1.5. Các lĩnh vực khảo sát năng lực áp dụng nguyên đạo đức nghề nghiệp

Trong khuôn khổ của luận văn này, các lĩnh vực nghiên cứu sẽ được quan

tâm để gồm 7 lĩnh vực chính mà có báo cáo các nhà tâm lý thường xuyên gặp khó

khăn khi ra quyết định đạo đức và có vi phạm đạo đức đã được thống kê. Bảy lĩnh

vực bao gồm bảo mật, quan hệ đa chiều, ửng xử với đồng nghiệp, năng lực, đánh

giá và chẩn đoán, can thiệp và trị liệu, quảng cáo và phát ngôn. Bảng hỏi và thang

đo sẽ được xây dựng trên cơ sở các lĩnh vực này và được thực hiện để tiến hành

điều tra đối với người đang cung cấp dịch vụ tâm lý.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu thực hành đạo đức hành nghề ở Việt Nam

Do hạn chế chưa có Quy tắc đạo đức hành nghề cho nhà tâm lý ở Việt Nam,

chưa có tổ chức quản lý hay cấp phép hành nghề cho các nhà tâm lý nên việc thống

kê và nghiên cứu về thực hành đạo đức nghề nghiệp còn nhiều hạn chế. Dưới đây là

thống kê một số nghiên cứu tham khảo được cho tới thời điểm này.

1.1.2.1. Nghiên cứu của Trần Đình Lâm

Trần Đình Lâm (2003) đã thực hiện nghiên cứu về thái độ của nhà tư vấn về

16

những sai phạm trong hoạt động tham vấn tâm lý [23]. Nghiên cứu đã được tiến hành

trên 20 nhà tư vấn và 10 cử nhân tâm lý được đào tạo về lý thuyết và thực hành tư

vấn tâm lý với bảng hỏi 19 câu hỏi mở cho khách thể là nhà tư vấn, 18 câu hỏi cho

khách thể là cử nhân nhằm thu thập thông tin trực tiếp từ người làm tư vấn hiện nay

và phân tích 10 ca tư vấn thu thập được trên các chuyên mục tư vấn của đài, báo, tạp

chí và các ca tư vấn trên mạng internet được cung cấp từ các nhà tư vấn.

Kết quả cho thấy, công việc của các cán bộ tư vấn chủ yếu là đưa ra lời

khuyên hoặc giải pháp dựa trên kinh nghiệm cá nhân bất kể là khách hàng có thực

hiện được hay không và họ cũng biết là không đem lại hiệu quả gì cho khách hàng.

Trình độ tư vấn phản ánh sự thiếu chuyên nghiệp trong hành nghề tư vấn bởi các

quy định chuẩn về trình độ tư vấn chưa có nên ai cũng có thể làm tư vấn tâm lý.

Những cán bộ tâm lý được phỏng vấn đều cho rằng đào tạo về tư vấn chưa có hiệu

quả và chưa giải quyết được yêu cầu của thực tiễn. Các nhà tư vấn được đào tạo

chuyên ngành tâm lý không chứng minh được có khả năng vượt trội so với các

ngành học khác (ví dụ như Văn học). Quyền lợi của thân chủ được đảm bảo hay

không phải trông đợi vào “Lương tâm” của nhà tư vấn. Các cán bộ tư vấn thiếu tôn

trọng các giá trị cá nhân của khách hàng, ngầm phê phán hành vi của khách hàng,

áp đặt giá trị của mình lên giá trị của khách hàng làm cho khách hàng không tự tin

và không tự giải quyết được vấn đề của mình. Đa số các nhà tư vấn không có hành

vi tích cực trước những sai phạm của người khác. Có sự mâu thuẫn giữa nhận thức

và hành vi của nhà tư vấn trước những hoạt động sai phạm trong tư vấn tâm lý. Các

nhà tâm lý cũng khó có thể nhận biết được đầy đủ về các sai phạm của bản thân nếu

không có sự giám sát. Tóm lại, các ca tư vấn trên đài, báo, tạp chí không đảm bảo

thực thi các nguyên tắc đạo đức hành nghề như tôn trọng nhân phẩm và giá trị cá

nhân của khách hàng, thiếu năng lực chuyên môn, sự chính xác và trách nhiệm.

Hạn chế của nghiên cứu là chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là đạo đức

nghề nghiệp, nhưng mạnh dạn tham khảo các hướng dẫn đạo đức hành nghề của các

nước có nghề tâm lý phát triển và dùng quy tắc của Hiệp hội tham vấn Hoa Kỳ

ACA và sử dụng 11 nguyên tắc (cam kết) tham khảo từ các nguyên tắc tư vấn của

Hiệp hội tư vấn Canada. Vì nghiên cứu các trường hợp tư vấn qua phương tiện

truyền thông công cộng với thời gian cung cấp dịch vụ rất ngắn nên nghiên cứu

không đánh giá về mức độ bảo mật, việc đánh giá hay trị liệu cũng như mối quan hệ

với đồng nghiệp.

17

1.1.2.2. Nghiên cứu của Tô Thị Hạnh

Tô Thị Hạnh (2007) đã thực hiện nghiên cứu trên 15 người làm tham vấn từ

các 4 trang mạng internet cung cấp dịch vụ tham vấn tâm lý, 10 người cung cấp

dịch vụ tham vấn qua điện thoại và 5 người làm tham vấn trực tiếp độc lập trên địa

bàn Hà Nội. Nghiên cứu tiến hành quan sát các nhà tư vấn làm việc tại 4 cơ sở tham

vấn tâm lý là chủ sở hữu các website www.tamsubantre.org; www.tuoiomai.net;

www.gioitinhtuoiteen.org.vn; và www.ulsa.edu. Kết quả cho thấy, một số tư vấn

viên có thái độ bộc lộ ra ngoài như bực tức, khó chịu … thông qua lời nói hoặc lựa

chọn khách hàng. Chỉ có 1/4 cơ sở thông báo cho khách hàng về giới hạn bảo mật

và những trường hợp tiết lộ thông tin. Có 1/4 cơ sở có địa điểm để lưu trữ hồ sơ

khách hàng ổn định và cố định, có 3/4 cơ sở còn lại thì các tư vấn viên lưu trữ ở đâu

cũng được và không có việc giám sát bảo mật thông tin. Cơ sở có nơi lưu trữ hồ sơ

thì hoạt động lưu trữ mang tính tập trung và tất cả các tư vấn viên đều có quyền truy

cập vào hồ sơ khách hàng của nhau. Ở 2/4 cơ sở, quản trị viên công nghệ thông tin

đều có quyền truy cập vào hồ sơ của khách hàng. Tô Thị Hạnh (2007) kết luận

“những người hành nghề tham vấn qua mạng đã có những kiến thức cơ bản về đạo

đức hành nghề tham vấn” nhưng vẫn “xảy ra các hoạt động không công bằng hay có

nguy cơ ảnh hưởng tới quyền lợi của họ (khách hàng) như lựa chọn khách hàng,

chậm trễ trong trả lời thư, không lưu trữ thông tin về ca tham vấn” [20]

1.1.2.3. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức

Trần Thị Minh Đức là một trong những người tiên phong nghiên cứu và

giảng dạy các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho các nhà tâm lý ở Việt Nam. Bà

là người đã giới thiệu “các nguyên tắc đạo đức căn bản” trong quá trình giảng dạy

tại các trường Đại học và điều này ảnh hưởng tới nhiều thế hệ các nhà tâm lý của

Việt Nam hiện nay. Các nguyên tắc bao gồm (1) giữ bí mật, (2) thân chủ trọng tâm,

(3) chấp nhận thân chủ, (4) tôn trọng thân chủ, (5) tin tưởng vào khả năng tự giải

quyết của thân chủ, (6) nhà tham vấn không gắn mình vào mối quan hệ cá nhân với

thân chủ, và (7) bảo vệ phúc lợi của thân chủ [18].

Trần Thị Minh Đức sử dụng bộ câu hỏi 88 hành vi thiết kế bởi Gibson và

Pope (1993) để điều tra thử nghiệm đối với 176 sinh viên ngành tâm lý và 20 nhà

tham vấn đang hành nghề tại Hà Nội. Kết quả điều tra cho thấy các sinh viên đều có

18

nhận thức tốt hơn về mối quan hệ sóng đôi, mối quan hệ tình dục với khách hàng là

vi phạm đạo đức nghề nghiệp so với các nhà tham vấn Mỹ (theo điều tra năm 1993).

Trong nhóm hành vi ứng xử đúng về đạo đức với đồng nghiệp, người tham gia ở

Việt Nam có nhận thức không tốt bằng những đồng nghiệp ở Mỹ (trong cuộc điều

tra năm 1993). Tuy vậy, người Mỹ cũng thể hiện sự sai lầm đáng kể ở một số hành

vi không đúng về đạo đức, chẳng hạn như “tính phí thù lao theo phần trăm lương

của khách hàng” (12,1% ở Việt Nam và 55% ở Mỹ) [43].

Trần Thị Minh Đức (2016) đã thực hiện điều tra nhận thức của nhà tâm lý về

bảo mật với số mẫu thu được n = 124 nhà tâm lý đang thực hành tại Hà Nội, trong

đó 54,5% là giảng viên tâm lý học, 14,9% là nhà thực hành chuyên nghiệp, 10,7%

là nhà nghiên cứu tâm lý và 19,8% là nhà tâm lý đang làm công việc khác. Tiêu

chuẩn bảo mật được dựa trên cơ sở tham khảo quy tắc đạo đức của Hiệp hội tham

vấn Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, Hiệp hội Tham vấn và Trị liệu Tâm lý

Canada, Hiệp hội các nhà trị liệu Gestalt Châu Âu và các Hiệp hội tâm lý khác từ

Thụy Sỹ, Philippines và Hội nghề Công tác xã hội Quốc gia. Kết quả thu được cho

thấy “chỉ có 44,5% các nhà tâm lý có nhận thức đúng khi cho rằng các nhà tham

vấn phải nói với khách hàng về ngoại lệ, giới hạn của việc giữa bí mật thông tin

khách hàng”. Qua tổng hợp 16 tình huống đòi hỏi hành vi đạo đức thuộc hai nhóm

“các nhà tham vấn phải nói với khách hàng về ngoại lệ, giới hạn của việc giữa bí

mật thông tin khách hàng” và “tình huống không được tiết lộ bí mật của khách

hàng”, Trần Thị Minh Đức (2016) kết luận rằng “chỉ có 50,8% số nhà tâm lý được

khảo sát thật sự có các hiểu biết đúng đắn về các tình huống ứng xử đạo lý liên quan

đến bảo mật” [19].

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu

1.2.1. Đạo đức, Đạo đức nghề nghiệp

Nội dung và mục tiêu của đạo đức luôn mang tính nhân văn cao cả. Thứ

nhất, đạo đức thường có nội dung và hướng tới sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ

bản của con người. Các quyền cơ bản được chia thành ba nhóm gồm (1) được sống

trọn vẹn cuộc đời với thể chất và tinh thần khỏe mạnh, (2) được nhận sự tôn trọng

và bảo vệ từ những người khác, và (3) được tự do biểu đạt ý chí của mình và tự do

thực hiện các ý chí đó. Thứ hai, sự ra đời của quy tắc đạo đức là để hướng tới xây

19

dựng một cộng đồng lành mạnh, bình đẳng, đoàn kết – tương hỗ, nhân ái và vì sự

phát triển. Thứ ba, quy tắc đạo đức được xây dựng để nhằm kiềm chế và ngăn chặn

sự tấn công các quyền cơ bản của con người và lợi ích cộng đồng.

Khái niệm đạo đức được phổ biến khá rộng rãi và được đề cập nhiều trong

các văn bản chính thức. Theo Từ điển Tiếng Việt ghi nhận đạo đức là “những tiêu

chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của

con người đối với nhau và với xã hội” [24]. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định

“Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời

sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” [27].

Tuy nhiên, nếu khái niệm về đạo đức nghề nghiệp chỉ dừng ở sự tự nguyện

hoặc “Lương tâm” [23] của người hành nghề thì sẽ không ngăn chặn được hành vi

thiếu ý thức hoặc được thực hiện bởi một lỗi cố ý có chủ đích. Bởi lẽ, nhờ công việc

đặc biệt của mình mà nhà tâm lý được tiếp cận với những thông tin vốn có thể gây

hại cho khách hàng hoặc người nào đó. Và để bảo vệ những người yếu thế và tránh

sự lạm dụng, đạo đức nghề nghiệp không thể ngang hàng với đòi hỏi đạo đức thông

thường, nó là đặc trưng riêng của nghề nghiệp, có nhiệm vụ lấp đầy phần khuyết

thiếu mà pháp luật không thể bao quát hết cho ngành nghề đó. Đạo đức hành nghề

thể hiện tính chất chuyên nghiệp của một ngành nghề nào đó, góp phần quan trọng

trong quá trình ra quyết định của chuyên gia, giúp chuyên gia làm rõ những trách

nhiệm của mình đối với xã hội, mang lại sự yên tâm cho xã hội đồng thời giúp các

chuyên gia duy trì sự công bằng và liêm chính khi hành nghề cũng như trong quan

hệ với thân chủ và cộng sự.

Tô Thị Hạnh (2007) lại có tư tưởng “đạo đức trong tham vấn là làm đúng,

làm có trách nhiệm, làm hết mình vì công việc. Nó không chỉ là không làm điều xấu

cho thân chủ mà còn mà là phải là làm hết sức vì lợi ích của thân chủ” [20]. Tuy

nhiên, nhà tâm lý khi hành nghề không chỉ phục vụ cộng đồng xã hội mà còn cố

gắng xây dựng cộng đồng tâm lý học chuyên nghiệp. Khác với nội dung của đạo

đức thông thường, nhà tâm lý khi hành nghề không sử dụng bạo lực tinh thần.

Ngược lại, Nhà tâm lý sử dụng các biện pháp tích cực như khuyến khích, khen

thưởng, ca ngợi để hướng những người khác và bản thân vào các suy nghĩ, cảm xúc,

hành vi tích cực thay thế cho điều tiêu cực. Vì thế, nhà tâm lý tự đặt ra cho mình

những nguyên tắc, tiêu chuẩn và có trách nhiệm phải tuân theo nó. Sự tự vấn và tự

trừng phạt bản thân của người vi phạm được ưu tiên sử dụng trước khi các thiết chế

20

xã hội thực hiện nhiệm vụ trừng phạt người vi phạm. Lê Thị Huyền Trang và Trần

Thành Nam (2016) đã đưa ra quan điểm rằng “đạo đức hành nghề cần được hiểu là

một tập hợp những nguyên tắc, quy tắc hay chuẩn mực ứng xử do một hiệp hội nhà

nghề nào đó thừa nhận hoặc ban hành dựa trên các giá trị cơ bản của xã hội và

nghề nghiệp nhằm điều chỉnh hành vi của những người hành nghề trong quan hệ

với nhau, với người khác và với xã hội. Chúng vừa phải được các thành viên của

hiệp hội cam kết tự nguyện thực hiện, vừa phải được đảm bảo thi hành bởi một cơ

quan chuyên môn của hiệp hội đó” [36].

1.2.2. Tâm lý học, Nhà tâm lý học và Dịch vụ tâm lý

Tâm lý học là ngành khoa học độc lập nghiên cứu về sự hình thành, vận hành

và phát triển của hoạt động tâm lý – một hiện tượng tinh thần được sinh ra do thế

giới khách quan tác động vào não của con người [33]. Nhà tâm lý là “một người

được đào tạo về nghiên cứu tâm lý hoặc thực hành lâm sàng về tâm lý và thường

tích cực tham gia vào một trong những lĩnh vực này. Những người như vậy thường

có trình độ tiến sĩ tâm lý và được yêu cầu phải có giấy phép để tham gia vào thực

hành lâm sàng trong hầu hết các lĩnh vực, mặc dù trong một số khu vực, một số

hoạt động được thực hiện mà không có bằng tiến sĩ” [5]. Trong giới hạn Luận văn

này, khái niệm “nhà tâm lý” được hiểu là những người được đào tạo chuyên ngành

tâm lý hoặc tự nhận mình là nhà tâm lý để quảng cáo và cung cấp dịch vụ tâm lý

cho cộng đồng.

Dịch vụ là “công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số

đông, có tổ chức và được trả công” [24]. Bộ luật dân sự mô tả về Hợp đồng dịch vụ

“là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc

cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung

ứng dịch vụ” [29]. Như vậy, dịch vụ tâm lý có thể hiểu là công việc do người có

chuyên môn tâm lý thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn, tư vấn, đánh giá, trị

liệu hay các hoạt động hỗ trợ tâm lý khác và được trả công trên cơ sở thỏa thuận

với bên yêu cầu dịch vụ.

1.2.3. Tâm lý học lâm sàng và Nhà tâm lý học lâm sàng

Theo APA, “tâm lý học lâm sàng là ngành tâm lý học đặc thù, cung cấp liên

tục và toàn diện CSSKTT và hành vi đối với cá nhân và gia đình; tư vấn cho các cơ

quan và cộng đồng; đào tạo, giáo dục và giám sát; và thực hành dựa trên nghiên

21

cứu. Đó là một ngành đặc thù theo bề rộng - một ngành mà khái quát bao gồm bệnh

tâm thần nghiêm trọng - và được chỉ rõ bởi sự toàn diện và tích hợp các kiến thức

và kỹ năng từ một mảng rộng lớn của ngành trong và ngoài tâm lý thích hợp. Phạm

vi của tâm lý học lâm sàng bao gồm tất cả các lứa tuổi, nhiều sự đa dạng và hệ

thống đa dạng” [38]. Trong khi đó, Từ điển Cambridge định nghĩa tâm lý học lâm

sàng là “một ngành của tâm lý học, áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học tâm lý

để trị liệu những rối loạn tâm thần hoặc để nghên cứu cách chữa trị các rối loạn

tâm thần” [5]. Nói theo cách của Ủy ban Tâm lý học chuyên nghiệp Hoa Kỳ

(ABPP) thì “tâm lý học lâm sàng là sự kết hợp của thực hành chung và một nhà

cung cấp dịch vụ y tế chuyên khoa tâm lý học chuyên nghiệp” [39].

Nhà tâm lý học lâm sàng “là cá nhân có bằng tiến sĩ về tâm lý thực hiện áp

dụng các trắc nghiệm, đánh giá, trị liệu, tư vấn hoặc các nhiệm vụ tâm lý khác đối

với cá nhân riêng lẻ hoặc một nhóm người mắc rối loạn tâm thần” [5]. ABPP thì

ghi nhận rằng “nhà tâm lý lâm sàng cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp cho việc

chẩn đoán, đánh giá, thẩm định, điều trị và phòng ngừa các rối loạn tâm lý, tình

cảm, tâm sinh lý và hành vi trên tuổi thọ” [39].

1.2.4. Nguyên tắc và tiêu chuẩn

Nguyên tắc là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt

việc làm” [24]. Nguyên tắc có đặc điểm là tính bao trùm (một số các quy phạm cụ

thể, một lĩnh vực), tính hệ thống (chỉ mối quan hệ giữa các nguyên tắc), tính ổn định

(khả năng ít thay đổi) và tính phổ quát (thừa nhận rộng rãi). Trong phạm vi nghiên

cứu này, “nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp tâm lý học lâm sàng là những

quy phạm đạo đức cơ bản nhất, khái quát nhất, do cộng đồng những người hành

nghề thừa nhận và/hoặc được Hiệp hội nhà nghề ban hành có khả năng chi phối

một loạt những việc làm của người thực hành tâm lý học lâm sàng”. Tiêu chuẩn là

“cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng” [24].

Một số tài liệu sử dụng một từ khác có ý nghĩa gần giống là chuẩn mực. Trong

phạm vi nghiên cứu này, từ tiêu chuẩn và chuẩn mực sẽ được sử dụng thay thế với ý

nghĩa tương đương nhau; từ năng lực áp dụng đôi khi có thể được thay thế bằng từ

năng lực thực hành.

1.2.5. Khái niệm năng lực áp dụng và lý thuyết Bloom

Từ điển Tiếng Việt (2000) đã diễn giải năng lực là “phẩm chất tâm lý và sinh

22

lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất

lượng cao” [24]. Trong lĩnh vực tâm lý, “năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo

của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho

hoạt động đó có kết quả”[37]. Áp dụng được hiểu là “đem dùng trong thực tế điều

đã nhận thức được” [24]. Benjamin Bloom (1913-1999) là người tiên phong trong

việc đưa ra lý thuyết về mô hình năng lực ASK được hợp thành bởi 3 yếu tố

Attitude (phẩm chất/thái độ thuộc về xúc cảm, tình cảm), Skill (kỹ năng, thao tác)

và Knowledge (nhận thức, khả năng tư duy). Bloom cũng phát kiến ra Phân loại bậc

thang nhận thức mà sau này được, Lorin Anderson, một cựu sinh viên của Bloom,

và David Krathwohl thực hiện một số thay đổi để thành 6 bậc gồm Ghi nhớ

(remember) được hiểu là gọi lại được các nhân tố và khái niệm cơ bản; Hiểu

(understand) là giải thích ý tưởng hoặc khái niệm; Áp dụng (apply) là sử dụng

thông tin trong hoàn cảnh mới; Phân tích (analyze) là tìm các liên kết giữa các ý

tưởng; Đánh giá (evaluate) là đánh giá, chứng minh một luận điểm hoặc một quyết

định cụ thể; và Sáng tạo (create) là tạo ra một sản phẩm mới hoặc nguyên bản. Từ

những thông tin trên và trong phạm vi nghiên cứu này, “năng lực áp dụng các

nguyên tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp được hiểu là khả năng của cá nhân sử

dụng các kiến thức về đạo đức nghề nghiệp để cư xử với thân chủ/khách hàng, đồng

nghiệp và những người liên quan nhằm đạt mục tiêu cung cấp dịch vụ có chất

lượng”. Việc đảm bảo rằng những hoạt động dịch vụ tâm lý được cung cấp mang

tính nhân văn không chỉ dựa vào việc có hay không có quy tắc đạo đức sẵn có mà

còn phụ thuộc vào năng lực áp dụng của đối tượng bị điều chỉnh bởi quy tắc đó.

Ellen Lindén & Johanna Rådeström (2008) chỉ ra rằng một quy tắc đạo đức không

bao giờ có thể bao trùm được hết tất cả các tình huống và các nhà tâm lý học sẽ luôn dựa vào khả năng suy ngẫm về hành vi của mình và ra quyết định [45] .

1.2.6. Trẻ em và Vị thành niên

Khái niệm trẻ em và vị thành niên không chỉ được mô tả rõ ràng trong Từ

điển tiếng Việt mà còn được thừa nhận chính thức trong hệ thống pháp luật quốc gia

và quốc tế. Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận trẻ em là người dưới 18

tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia quy định độ tuổi sớm hơn [16]. Ở Việt Nam,

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện hành chỉ công nhận trẻ em “là công

23

dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [26], nhưng Luật trẻ em năm 2016, có hiệu lực

từ 1/7/2017 sẽ mở rộng hơn đối tượng trẻ em thành “là người dưới mười sáu tuổi”

[31]. Điều đó có nghĩa là, những người dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào việc họ

là công dân Việt Nam, công dân nước khác hoặc người không có quốc tịch, có hay

không có cư trú thường xuyên trên lãnh thổ Việt Nam đều được Nhà nước Cộng

hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam coi là trẻ em. Đây là điểm hết sức quan trọng vì nó

liên quan đến chính sách bảo hộ và ưu đãi đối với đối tượng được xác định là “còn

non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt” này.

Từ điển tiếng Việt ghi nhận “vị thành niên là chưa đến tuổi được pháp luật

công nhận là công dân đầy đủ các quyền và nghĩa vụ” [24]. Ở Việt Nam, Bộ luật

dân sự quy định “người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” [29]. Nghiên cứu

này quan tâm tới khách thể là những nhà tâm lý đang cung cấp dịch vụ tâm lý lâm

sàng cho trẻ em và vị thành niên, tức là tất cả những đối tượng chưa đủ 18 tuổi.

1.2.7. Hoạt động đánh giá năng lực áp dụng của người thực hành tâm lý học lâm

sàng cho trẻ em và vị thành niên

Trong phạm vi nghiên cứu này, hoạt động đánh giá năng lực của người thực

hành tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên sẽ được thực hiện bởi những

người có chuyên môn cao về tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị thành niên, dựa

trên các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cơ bản được thừa nhận rộng rãi ở Việt

Nam. Việc đánh giá sẽ tính đến các nhân tố có tạo thành năng lực như yếu tố sinh

lý, bẩm sinh (giới tính, độ tuổi), sự giáo dục (trình độ đào tạo và chuyên ngành đào

tạo), kinh nghiệm và sự từng trải (kinh nghiệm và giám sát) và ý chí nỗ lực của bản

thân để thiết kế công cụ đo cho phù hợp.

1.3. Cơ sở nền tảng đánh giá năng lực của nhà tâm lý lâm sàng

1.3.1. Luật Việt Nam hiện hành

1.3.1.1. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nghề nghiệp

Luật pháp vừa là công cụ đánh giá hành vi của nhà tâm lý, vừa là nguồn để

xây dựng đạo đức nghề tâm lý. Nói luật pháp là công cụ đánh giá vì đây là ranh giới

bắt buộc chấp hành, mối liên hệ giữa hai hình thái này được thể hiện ở chỗ “pháp

luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa” [22]. Với những nước chưa có

quy tắc đạo đức nghề tâm lý như Việt Nam để điều chỉnh chuyên sâu hành vi của

24

người hành nghề thì có thể áp dụng các nguyên tắc chung của pháp luật như là các

nguyên tắc “sàn”, nguyên tắc cơ sở. Vượt qua ngưỡng này không chỉ phản ánh giá

trị đạo đức của người hành nghề không chỉ vô cùng thấp mà còn xâm phạm đến

quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, thậm chí là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần

phải loại trừ. Sẽ không thể chấp nhận được nếu một người hành nghề được coi là có

giá trị nhân bản lại có hành vi đi ngược với các giá trị xã hội. Ở các nước phát triển,

nghề tâm lý và nhà tâm lý chịu sự quản lý, giám sát rất chặt chẽ bởi các cơ quan nhà

nước và phải tuân theo luật pháp chuyên ngành dành cho ngành nghề này.

Song, pháp luật và đạo đức nghề nghiệp cũng có sự mâu thuẫn nhất định nên

trong những trường hợp cụ thể, việc lựa chọn tuân theo pháp luật hay quy tắc đạo

đức là một vấn đề nan giải. Mappes và cộng sự (1985) chỉ ra 3 lĩnh vực có thể tồn

tại mâu thuẫn giữa đạo đức và pháp luật gồm: quảng cáo, bảo mật thông tin và

quyền truy cập hồ sơ của thân chủ. Pháp luật có thể cho phép (quyền) và bắt buộc

(nghĩa vụ) nhà tâm lý thực hiện hay không thực hiện một hành vi nào đó, nhưng

hành vi đó lại đe dọa phá vỡ quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Mappes và cộng sự

(1985) gợi ý cách thức để dung hòa các mâu thuẫn bằng cách chủ động hợp tác với

Đoàn Luật sư, các cơ quan lập pháp, tư pháp để vừa bảo vệ quyền lợi cho công

chúng lẫn ngăn ngừa các rủi ro cho nhà tâm lý khi cung cấp dịch vụ. Đồng thời, các

Ủy ban đạo đức cần tăng cường giáo dục thành viên, tuyên truyền đại chúng hay

cung cấp thông tin qua các tạp chí chuyên ngành nhằm cải thiện nhận thức của nhà

tâm lý [10].

1.3.1.2. Các văn bản pháp luật điều chỉnh về ngành dịch vụ tâm lý

Vì hoạt động tư vấn tâm lý là hoạt động hướng đến con người, bảo vệ quyền

con người và vì con người, cho nên các văn bản sau đây cần được quan tâm như

Hiến pháp 2013, các Điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam

là thành viên hoặc công nhận, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 (có hiệu lực

từ 1/1/2017), Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em 2004 (từ 1/6/2017 là Luật Trẻ

em), Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989, Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009, Luật

người khuyết tật 2010 và các văn bản khác có liên quan. Những nguyên tắc được rút

ra sau đây được khái quát từ các nội dung trong Chương II Hiến pháp 2013 về

Quyền con người và bảo vệ quyền con người. Các luật và văn bản dưới luật đã nêu

ở trên có nhiệm vụ cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành các nguyên tắc cơ bản được

25

ghi nhận trong Hiến pháp.

1.3.1.3. Các nguyên tắc pháp luật mang tính đạo đức

A – Nguyên tắc bảo vệ quyền con người và nhân phẩm

Theo Hiến pháp 2013 thì quyền con người được Nhà nước đảm bảo thực

hiện và “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý

do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe

của cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14). Mỗi người phải “tôn trọng quyền của người

khác” cũng như không được “xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác” (điều

15). Quyền con người được Nhà nước bảo hộ một cách toàn vẹn và đầy đủ về “tính

mạng” (Điều 19), “về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực,

truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức

khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” (Điều 20). Các cá nhân cũng có quyền tự do

biểu đạt ý kiến, suy nghĩ của mình theo quy định của pháp luật (Điều 25) [28]. Các

quyền này được tiếp tục chi tiết và cụ thể hóa tại Chương III của Bộ luật dân sự các năm 2005 và Điều 34, Điều 35 Bộ Luật dân sự năm 2015 [29] .

B – Nguyên tắc bình đẳng

Hiến pháp quy định rằng “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và

“Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã

hội” (Điều 16). “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”

(Khoản 1, điều 26) [28]. Có một điểm cần lưu ý, quyền bình đẳng giới chỉ ghi nhận

2 giới nam và nữ trong Hiến pháp và chưa quy định đối với người có giới tính thứ

ba. Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định rằng “không được lấy bất kỳ lý do nào

để phân biệt đối xử” (Điều 3) trong các quan hệ dân sự [29]. Tuy nhiên, bình đẳng

không có nghĩa là cào bằng hay ngang hàng tuyệt đối. Nhà nước cũng dành sự quan

tâm tới trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ và một số đối tượng đặc biệt

khác để thực hiện sự bảo hộ riêng rẽ đối với họ. Các chế độ ưu tiên sẽ được quy

định trong từng trường hợp cụ thể tại các luật chuyên ngành.

C – Nguyên tắc bảo mật

Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định rằng “Mọi người có quyền bất khả xâm

phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh

dự, uy tín của mình . Thông tin về đời sống riêng tư , bí mật cá nhân, bí mật gia đình

26

được pháp luâ ̣t bảo đảm an toàn” . “Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái

luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của

người khác” [28]. Trong Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “việc thu thập,

lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá

nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông

tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ

trường hợp luật có quy định khác. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông

tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết

được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận

khác” [29]. Đối với trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên thì từ 1/6/2017, việc công bố, tiết lộ

thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ phải được sự đồng ý của trẻ

theo Điều 6, Luật Trẻ em [31].

D – Nguyên tắc tự bảo vệ

Đây là 1 nguyên tắc cơ bản nhằm chống lại sự gây hại của các chủ thể khác

trong xã hội và đem lại sự bồi hoàn thích đáng nếu sự tổn hại do hành vi vi phạm

của người khác gây ra là có thật. Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định rằng “Mọi

người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về

những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Và “nghiêm cấm việc

trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống,

vu cáo làm hại người khác”. “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật

chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” [28]. Người bị

thiệt hại có quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ theo các quy định của pháp

luật. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, nhà tâm lý có thể gặp những

mối nguy cơ tiềm tàng do biết được những thông tin bí mật liên quan đến tội phạm

hay sự tấn công của người khác. Với nguyên tắc này, nhà tâm lý có công cụ hữu

hiệu để bảo vệ thân chủ, bảo vệ người bị hại hoặc bảo vệ chính mình trước sự tấn

công phi lý của chủ thể khác.

E – Nguyên tắc chịu trách nhiệm

Được suy ra từ các nguyên tắc trên, nguyên tắc này được hiểu là khi tham gia

quan hệ xã hội nếu chủ thể xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác thì sẽ

phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm cũng

27

như ảnh hưởng của hậu quả lên các chủ thể liên quan. Theo Điều 15, Hiến pháp

2013, quyền không tách rời khỏi nghĩa vụ, mỗi người đều “có trách nhiệm thực hiện

nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” [28]. Trường hợp nhà tâm lý là bên

cung ứng dịch vụ vi phạm các thỏa thuận hoặc các nguyên tắc pháp luật thì phải bồi

thường thiệt hại thực tế phát sinh do hành vi vi phạm gây ra [29]. Trường hợp nhà

tâm lý không tuân thủ các quy định về nghề nghiệp thì tùy mức độ vi phạm mà phải

chịu trách nhiệm trước nhà nước về mặt hành chính hoặc hình sự.

1.3.2. Hướng dẫn đạo đức của các Hiệp hội nghề tâm lý trên thế giới

1.3.2.1. Khái quát chung

Hiện nhiều quốc gia trên thế giới đã có tổ chức/hội/hiệp hội/cộng đồng các nhà

tâm lý như American Psychological Association (Mỹ), Canadian Psychological

Association (Canada), Singapore Psychological Society (Singapore), Australian

Psychological Society (Australia), Chinese Psychological Society (Trung Quốc),

Japanese Psychological Society (Nhật Bản), European Federation of Psychological

Association (Cộng đồng Châu Âu). Các tổ chức này đã ban hành các nguyên tắc đạo

đức và quy tắc ứng xử cho riêng họ. Dù mỗi một Hiệp hội các nhà Tâm lý học ở các

nước đều có những bộ quy điều đạo đức hành nghề riêng và thường xuyên được chỉnh

sửa nhưng điều thú vị là họ luôn chia sẻ với nhau ở những nguyên tắc chung. Bảng

thống kê sau đây liệt kê các nguyên tắc đạo đức của các quốc gia sẽ cho thấy điều đó.

Bảng 1.1. Các nguyên tắc đạo đức hành nghề tâm lý của các quốc gia

Các nguyên tắc Mỹ [1] Trung Quốc [4] Australia [2] Nhật Bản [9] Cộng đồng Châu Âu [6]

tâm và X X X

X X X X

X

X X X X X

X X X X X

X

X

X

28

Thiện không gây hại Tin cậy và trách nhiệm Chính trực Công bằng Tôn trọng quyền con người và nhân phẩm Đảm bảo năng lực hành nghề Đúng mực Giải thích và sự chấp thuận Bảo mật X

Mặc dù có những tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung các quốc gia vẫn

hướng tới những giá trị chung với một số các nguyên tắc chung cơ bản. Đó là

nguyên tắc bảo vệ nhân phẩm và quyền con người, nguyên tắc bảo mật, nguyên tắc

có trách nhiệm, nguyên tắc chính trực. Một số quốc gia có thể đặt rất ít các nguyên

tắc (Australia) nhưng lại ghi nhận một quy phạm nào đó vốn là các nguyên tắc của

các quốc gia khác vào phần các tiêu chuẩn cụ thể. Điều này càng được thể hiện các

giá trị đạo đức của con người nói chung ở các quốc gia là ít có chênh lệch. Sự khác

biệt chỉ nằm ở quan điểm của người dân quốc gia đó coi trọng quy phạm nào hơn để

đề nó lên thành nguyên tắc hoặc chuyển nó xuống thành các chuẩn mực cụ thể hoặc

là đặt nguyên tắc nào ở vị trí ưu tiên hơn.

Những tiêu chí cụ thể trong các Bộ Quy chế đạo đức hành nghề là sự cụ thể

hóa các nguyên tắc chung để đưa ra các quy định về năng lực; trách nhiệm của nhà

tâm lý; mối quan hệ giữa nhà tâm lý và bệnh nhân; tính bảo mật, các phương pháp

trong đánh giá dụng trắc nghiệm; mối quan hệ nghề nghiệp; nghiên cứu và giảng

dạy. Bảng 2 dưới đây so sánh về các nội dung chuẩn mực được đề cập đến trong Bộ

Quy điều đạo đức của các nước trên thế giới.

Bảng 1.2: Các tiêu chuẩn cụ thể trong Quy điều đạo đức đối với nhà tâm lý

ở các quốc gia trên thế giới

Trung Cộng đồng Các tiêu Mỹ Singapore Australia Quốc Châu Âu chuẩn cụ thể [1] [15] [2] [6] [4]

Xử lý các vấn X X X X X đề đạo đức

Năng lực X X X X hành nghề

Quan hệ con X X X X X người

Riêng tư và X X X X X bảo mật

Quảng cáo

hoặc tuyên X X X

29

bố công khai

Tôn trọng X X X X nghề nghiệp

Lưu trữ hồ sơ X X

Phí dịch vụ X X X X

Giáo dục và X X đào tạo

Nghiên cứu X X X X X và xuất bản

Đánh giá và X X X X X thẩm định

Trị liệu X X X

1.3.2.2. Hoa Kỳ

Trong số các quốc gia từng ban hành Bộ quy chuẩn đạo đức thì văn bản của

người Mỹ mang tính cụ thể, sâu sắc và khá toàn diện. Đây là Các nguyên tắc đạo

đức của Nhà tâm lý và Quy tắc ứng xử được APA ban hành năm 2002 và được sửa

đổi năm 2010 [1]. Văn bản này đưa ra 5 nguyên tắc chung như sau:

Nguyên tắc A: Thiện tâm và không gây hại. Nhà tâm lý đấu tranh để đem lại

quyền lợi và cẩn trọng để không làm điều gì tổn hại cho thân chủ của họ.

Nguyên tắc B: Tin cậy và trách nhiệm. Nhà tâm lý thiết lập mối quan hệ

trung thực và tin cậy với thân chủ, luôn nhắc nhở mình ý thức về trách nhiệm khoa

học và nghề nghiệp với xã hội, với một cộng đồng cụ thể và với người mình đang

làm việc cùng.

Nguyên tắc C: Chính trực. Nhà tâm lý luôn tìm cách để tăng cường sự chính

xác, trung thực và tin cậy trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giảng dạy và thực

thành tâm lý học

Nguyên tắc D: Công bằng. Nhà tâm lý phải luôn đảm bảo sự công bằng cho

tất cả mọi người trong việc tiếp cận với các lợi ích của công việc tâm lý và phải

được hưởng chất lượng phục vụ, quy trình, thủ tục như nhau từ nhà tâm lý

Nguyên tắc E: Tôn trọng con người và phẩm giá của họ. Nhà tâm lý tôn

trọng các giá trị của mỗi thân chủ cũng như quyền riêng tư, đảm bảo tính bảo mật

30

và quyền tự quyết của thân chủ.

1.3.2.3. Trung Quốc

Một đại diện khác ở Châu Á là Trung Quốc có vẻ khá ảnh hưởng trước

những tư tưởng của người Mỹ, nếu so sánh các hướng dẫn thực hành đạo đức mà

Hiệp hội tâm lý của nước này ban hành. Cơ cấu nguyên tắc và các chuẩn mực được

thiết kế khá giống của Mỹ, nhưng có sự khác biệt là người Trung Quốc đã đưa vấn

đề xử lý vi phạm vào trong Quy tắc đạo đức trong thực hành tâm tham vấn và trị

liệu lâm sàng năm 2007 [4]. Theo Quy tắc đạo đức của Hiệp hội Tâm lý Trung

Quốc, các nguyên tắc đạo đức chung gồm:

Lợi ích: Mục đích đầu tiên khi nhà tâm lý lâm sàng và tham vấn

(NTLLS&TV) cung cấp dịch vụ là lợi ích cho những người tìm tìm

kiếm dịch vụ chuyên nghiệp. Nhà tâm lý lâm sàng và tham vấn

phải đảm bảo quyền của những người này. Họ phải chú trọng cung

cấp dịch vụ phù hợp cho những người cần và chăm sóc chu đáo để

tránh gây hại

Trách nhiệm: NTLLS&TV phải duy trì chất lượng dịch vụ cao và có trách nhiệm

đối với hành vi của mình. Họ phải chấp nhận các trách nhiệm pháp

lý cũng như là đạo đức nghề nghiệp và bảo vệ danh tiếng của nghề

Chính trực: NTLLS&TV phải chú trọng thúc đẩy sự trung thực và chính xác

trong các ứng xử của mình khi thực hành, nghiên cứu hoặc giảng

dạy

Công bằng: NTLLS&TV phải cư xử với công việc và với những người liên

quan đến nghề nghiệp của mình cũng như với những nhà chuyên

môn khác một cách công bằng và bình đẳng. Họ phải đưa ra những

biện pháp hợp lý để phòng ngừa những hành vi không phù hợp

xuất phát từ những thành kiến mang tính cơ hội hoặc giới hạn năng

lực và kỹ thuật mà họ sử dụng

Tôn trọng: NTLLS phải thể hiện sự tôn trọng với từng cá nhân, tôn trong

quyền của cá nhân về riêng tư, bảo mật và tự quyết định

Các chuẩn mực cụ thể gồm: (1) Quan hệ nghề nghiệp, (2) Quyền riêng tư và

bảo mật, (3) Tôn trọng nghề nghiệp, (4) Đánh giá và thẩm định, (5) Giáo dục, đào

31

tạo và giám sát, (6) Nghiên cứu và xuất bản và (7) Xử lý các vấn đề đạo đức.

1.3.2.4. Canada

Quy tắc đạo đức cho nhà tâm lý Canada phiên bản thứ 3 do Hiệp hội Tâm lý

Canada (Canadian Psychological Association) ban hành năm 2000 là một văn bản

rất đáng để nghiên cứu và tham khảo [3]. Quy tắc này thiết lập cấu trúc gồm 4

nguyên tắc cơ bản, ở mỗi nguyên tắc lại có từng hướng dẫn cụ thể trong từng hoàn

cảnh cụ thể. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ những nhà lập quy đã thấu hiểu

những khó khăn của nhà tâm lý trong quá trình ra quyết định đạo đức trước những

tình huống lưỡng nan. Vì thế, ngay từ những trang đầu, bản quy tắc đã khuyến

khích các nhà tâm lý, khi phải đối mặt với những vấn đề đạo đức, thực hiện theo

quy trình ra quyết định đạo đức và lựa chọn hướng hành động tuân theo thứ tự ưu

tiên đối với mức độ quan trọng của các nguyên tắc. Các nguyên tắc và thứ tự ưu tiên

như sau:

Nguyên tắc I: Tôn trọng phẩm giá của người. Đây là nguyên tắc có giá trị ưu

tiên hành động cao nhất, ngoại trừ trường hợp có căn cứ cho thấy tồn tại một mối

nguy hiểm rõ ràng và đe dọa tới sự an toàn thể chất của bất kỳ người nào.

Nguyên tắc II: Chịu trách nhiệm chăm sóc. Nguyên tắc được coi trọng thứ

hai. Trách nhiệm chăm sóc đòi hỏi năng lực và phải được thực hiện chỉ trong điều

kiện tôn trọng phẩm giá con người.

Nguyên tắc III: Liêm chính/chính trực trong mối quan hệ. Nguyên tắc này

được ưu tiên thứ ba, các giá trị như sự cởi mở và thẳng thắn có thể cần phải phụ

thuộc vào các giá trị quy định tại nguyên tắc I và II.

Nguyên tắc IV: Trách nhiệm với xã hội. Đây là nguyên tắc có mức độ ưu tiên

thấp nhất trong bốn nguyên tắc khi nó mâu thuẫn với một hoặc nhiều nguyên tắc

khác. Khi phúc lợi của một người dường như mâu thuẫn với lợi ích cho xã hội,

thường vẫn có thể tìm cách để đảm bảo lợi ích của xã hội mà không vi phạm sự tôn

trọng và chăm sóc có trách nhiệm đối với cá nhân. Tuy nhiên nếu điều này là không

thể, nhân phẩm và hạnh phúc của một người không nên bị hy sinh chỉ vì sự đánh giá

tốt hơn của xã hội.

Quy tắc cũng chỉ ra rằng ngay cả khi thiết lập trật tự trên thì các nhà tâm lý

vẫn phải đối mặt với tình huống khó xử đạo đức mà khó có thể giải quyết và vốn

32

không thể lường trước được. Khi đó, họ được khuyên nên tuân theo quy trình ra

quyết định đạo đức gồm 10 bước hoặc giải pháp có thể phụ thuộc vào lương tâm cá

nhân. Nếu các nhà tâm lý chứng minh rằng họ đã nỗ lực hết sức để áp dụng các

nguyên tắc nhưng việc giải quyết các cuộc xung đột đã phải phụ thuộc vào lương

tâm cá nhân của nhà tâm lý thì họ sẽ được coi là đã tuân thủ quy tắc này.

1.3.2.5. Liên hiệp Khoa học Tâm lý Quốc tế (IUPS)

Nhiều nhà tâm lý nổi tiếng thế giới đã cố gắng xây dựng quy tắc chung áp

dụng cho tất cả các nhà tâm lý trên toàn nhưng họ cũng nhận ra rằng mỗi quốc gia

có thể chi tiết thêm theo cách phù hợp với văn hóa địa phương [45]. Liên hiệp Khoa

học Tâm lý Quốc tế là một tổ chức quốc tế bao gồm các thành viên là các hiệp hội

tâm lý đang hoạt động ở 86 quốc gia và các vùng lãnh thổ trên thế giới (không bao

gồm Mỹ). Tổ chức này đã ban hành Tuyên bố toàn cầu về các nguyên tắc đạo đức

cho các nhà tâm lý [8]. Tuyên bố này quy định 4 nguyên tắc cơ bản gồm: (I) Tôn

trọng nhân phẩm của con người; (II) Năng lực chăm sóc cho phúc lợi của con

người; (III) Sự chính trực; và (IV) Trách nhiệm đối với xã hội về nghề nghiệp và

khoa học [8].

Bàn luận

Có một số nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng có thể áp dụng các quy tắc đạo

đức ở Mỹ, Canada, Châu Âu để đánh giá năng lực đạo đức nghề nghiệp của nhà tâm

lý Việt Nam; trong khi có một số khác thì lại muốn áp dụng của Nga và các nước

thuộc Liên Xô cũ. Mỗi bên đều đưa ra những lập luận của mình và có vẻ hầu hết

đều nghe rất có lý. Liệu việc áp dụng đó có thực sự đúng và có hiệu quả khi phải

cân nhắc nó với sự khác biệt về văn hóa và pháp luật? Nghiên cứu quy tắc đạo đức

hành nghề của các quốc gia trên thế giới thông qua việc thống kê, phân tích, so

sánh, đánh giá thì nhận thấy mặc dù có những tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung

các quốc gia vẫn hướng tới những giá trị chung với một số các nguyên tắc chung cơ

bản, hay nói cách khác thì các giá trị đạo đức của con người nói chung ở các quốc

gia ít có chênh lệch. Đó là nguyên tắc bảo vệ nhân phẩm và quyền con người,

nguyên tắc bảo mật, nguyên tắc có trách nhiệm, nguyên tắc chính trực. Nguyên

nhân do loài người mặc dù xuất phát từ nhiều chủng tộc khác nhau nhưng qua thời

gian và quá trình toàn cầu hóa đã tới gần nhau hơn và cùng chia sẻ một số giá trị

33

chung. Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc và đa văn hóa nên việc dung hòa các tiêu

chuẩn đạo đức vốn không dễ dàng khi mà quyền cá nhân và gìn giữ bản sắc vốn rất

được tôn trọng ở quốc gia này. Người Mỹ đã làm được điều đó và chúng ta có thể

dễ dàng nhìn thấy một số các quy tắc của họ được tham khảo ở các quốc gia khác

như Trung Quốc hay Cộng đồng châu Âu.

Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố mà vẫn có sự khác biệt nằm ở

điểm nguyên tắc nào được ưu tiên hay không ưu tiên. Nó cho thấy mức độ quan

trong của nguyên tắc đó đối với từng dân tộc khi người dân quốc gia đó coi trọng

quy phạm nào hơn để đề nó lên thành nguyên tắc hoặc chuyển nó xuống thành các

chuẩn mực cụ thể hoặc là đặt nguyên tắc này ở vị trí ưu tiên hơn nguyên tắc khác.

Đây chính là tính không gian của nguyên tắc. Các nguyên tắc cũng thay đổi theo

thời gian khác nhau phụ thuộc vào quá trình biến đổi về nền tảng kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội của dân tộc đó và cả những kết quả nghiên cứu. Ví dụ, Australia có

thể đặt rất ít các nguyên tắc nhưng lại ghi nhận một quy phạm vốn là các nguyên tắc

của các quốc gia khác vào phần các tiêu chuẩn cụ thể. Trong Bộ quy tắc của Mỹ

quy định chi tiết và rõ ràng về quan hệ tình dục giữa nhà tâm lý với những đối

tượng liên quan thì quy tắc ở Nhật hoặc Trung Quốc, Singapore lại không như vậy.

Hơn nữa, chúng ta sẽ gặp vấn đề trong việc phiên dịch và diễn giải khái

niệm. Jean L.Pettifor và Tyson R.Sawchuk (2006) đã chỉ ra rằng các nước khác

nhau sẽ có cách hiểu khác nhau đối với một khái niệm [12]. Điều này là do sự khác

biệt về mặt văn hóa, kinh tế, chính trị, tôn giáo gây ra. Ví dụ cụ thể về Liên hiệp

Khoa học Tâm lý Quốc tế đã ban hành Tuyên bố toàn cầu về các nguyên tắc đạo

đức cho các nhà tâm lý[8]. Điều đó có nghĩa các quốc gia thành viên hoàn toàn có

thể sử dụng tuyên bố này như là quy tắc đạo đức áp dụng trong lãnh thổ của mình.

Tuy nhiên thực tế là, mỗi nước thành viên của tổ chức này đều vẫn tồn tại quy tắc

riêng của họ và vẫn đang tích cực sửa đổi bổ sung để hoàn thiện chúng. Có vẻ xây

dựng quy tắc đạo đức ở mỗi quốc gia cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng độc lập, chủ

quyền và vấn đề bản sắc đạo đức của dân tộc.

1.3.3. Hướng dẫn thực hành đạo đức trong y tế (y đức)

Vấn đề đạo đức nghề nghiệp được đặt ra trong xã hội loài người từ rất sớm.

Người ta cho rằng, cha đẻ của Y học phương Tây Hypocrate là tác giả đầu tiên của

34

lời thề đạo đức dành cho những người hành nghề thầy thuốc. Lời thề này hiện

không chỉ được ngành y tế sử dụng mà còn được các ngành liên quan như tham vấn,

trị liệu tâm lý ứng dụng và phát triển. Đã có hàng chục tổ chức, hiệp hội nghề tâm

lý ở nhiều nước trên toàn thế giới đã ban hành các Quy tắc đạo đức cho riêng thành

viên của họ, trong đó phổ biến ở các nước phương Tây.

Quy tắc đạo đức ngành y tế cũng có thể coi là một công cụ để đánh giá hành

vi thực hành của nhà tâm lý. Bởi lẽ thực tế hiện nay cho thấy, một số nhà tâm lý

đang hoạt động trong các cơ sở y tế, đặc biệt tương lai ngành tâm lý lâm sàng sẽ gắn

chặt với các hoạt động CSSKTT trong khi một số bác sĩ có xu hướng hoạt động

song song hai chuyên ngành y tế và tâm lý. Ngành tâm lý và ngành y tế mặc dù là

những nghề khác nhau, nhưng trong quá khứ đã từng có những giai đoạn hoạt động

thống nhất và cho đến nay vẫn có những điểm chung.

Ở Việt Nam, y đức cũng ra đời cùng với sự phát triển của nền y học cổ

truyền. Chu Văn An (1292-1370), trong tập Y học yếu giải tập chú di biên , đã thể

hiện tư tưởng làm người phải có “Nhân, Minh, Trí”, trong đó mấu chốt của nghề

thuốc là phải có lòng “Nhân”. Đến thời Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-

1791) thì những quan điểm về y đức mới được cụ thể, rõ ràng hơn. Trong cuốn Hải

Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, ông cho rằng “nghề thuốc là nghề thanh cao, nghề có

lòng nhân”, “đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người

ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người làm phận

sự của mình mà không cầu lợi kể công”. “Làm thầy thuốc mà không có lòng thương

chung (từ) giúp đỡ người khác (tế) làm hằng tâm, không nghiền ngẫm sâu sắc tìm

cách cứu sống người mà chỉ chăm chăm kể lợi tính công, lấy của hại người thì còn

khác gì bọn giặc cướp”. Từ đó, ông dặn dò học trò hàng ngày phải luyện Tám chữ

xây gồm “Nhân, Minh, Đức, Trí, Lượng, Thành, Khiêm, Cần” (nghĩa là biết quan

tâm đến người khác, sáng suốt, đức độ, thông minh, rộng lượng, thành thần, khiêm

tốn, chăm chỉ-chịu khó); đồng thời cần tránh Tám tội gồm “Lười, Keo, Tham, Dối,

Dốt, Ác, Hẹp hòi và Thất đức” [34]. Đây có thể coi là Bộ quy tắc đạo đức nghề

nghiệp đầu tiên của Việt Nam.

Hiện tại, quy định về y đức bao gồm 12 điều đã không chỉ giới hạn hiệu lực

là bộ quy tắc của Hiệp hội nghề. Y tế là nghề duy nhất ở Việt Nam hiện nay mà quy

35

định đạo đức nghề nghiệp được đề lên thành luật bằng việc được ban hành kèm theo

Quyết định số 2088/BYT-QĐ ngày 6/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Điều đó cho

thấy mức độ đánh giá, quan tâm của Nhà nước đối với lĩnh vực này. Theo văn bản

đó, các nhân viên y tế như Bác sĩ, Y sĩ, Điều dưỡng, Hộ lý, Dược sĩ và cả những

Nhà tâm lý đang làm việc trong các cơ sở y tế phải có “tinh thần trách nhiệm cao,

tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh, coi họ đau đớn như

mình đau đớn” [17].

1.3.4. Hướng dẫn thực hành đạo đức trong ngành Công tác xã hội

Công tác xã hội là ngành nghề mới chính thức được Thủ tướng Chính Phủ

công nhận ở Việt Nam từ năm 2010, được xếp ngạch viên chức và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước [32]. Mặc dù ở một số nước phát triển có Hiệp hội nghề công

tác xã hội và họ ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp để các thành viên thực hành,

nhưng ở Việt Nam mới chỉ có các nhóm nhỏ hoạt động phi chính thức và chưa ban

hành đạo đức hành nghề. Tuy vậy, trong chương trình đào tạo nghề công tác xã hội

tại các trường đại học ở Việt Nam đều có giới thiệu đến quy tắc đạo đức hành nghề

của Hiệp hội Quốc gia về Công tác xã hội Hoa Kỳ.

Nguyễn Thị Thu Hà (2012) cho rằng mặc dù chưa hề có những quy điều đạo

đức chung cho tất cả những người làm công tác xã hội ở Việt Nam hiện tại, song thực

tế cho thấy, các nhân viên xã hội đã thực hiện những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo

đức của nghề công tác xã hội, bao gồm: (1) Nhân quyền và phẩm giá con người, (2)

Theo đuổi sự công bằng xã hội, (3) Phục vụ cho lòng nhân đạo, (4) Các tiêu chuẩn

đạo đức (trách nhiệm của người làm công tác xã hội), (5) Tính bảo mật [44].

1.3.5. Hướng dẫn thực hành đạo đức của luật sư

So với tâm lý, nghề luật sư xuất hiện khá muộn vào cuối những năm 1980

sau khi Việt Nam có những thay đổi cơ bản về đường lối chính sách. Tuy vậy, hoạt

động tổ chức của luật sư nhanh chóng được luật hóa và đi vào quy củ. Ngoài quy

định của Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật

sư năm 2012 thì các luật sư còn phải tuân thủ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề

nghiệp đã được ban hành [21]. Đây là một trong những Bộ Quy tắc đạo đức nghề

nghiệp khá hoàn chỉnh và có hiệu lực thi hành cao trong đội ngũ Luật sư. Văn bản

này có 6 chương với 27 quy tắc, quy định khá chi tiết về những hành vi được làm và

không được làm dành cho Luật sư trong mối quan hệ với Tổ quốc-Nhà nước, khách

36

hàng, đồng nghiệp, các cơ quan tố tụng và cơ quan, tổ chức khác. Một số các quy

định về đạo đức của luật sư có sự tương đồng với nhà tâm lý như: độc lập, trung

thực, tôn trọng sự thật khách quan; bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng; bảo mật

thông tin, bảo vệ danh dự, uy tín của nghề. Quy tắc cũng hướng dẫn thực hành khá

cụ thể cho các luật sư lựa chọn hành vi đạo đức trong các trường hợp có sự xung đột

lợi ích, sự cạnh tranh hoặc tranh chấp với các đồng nghiệp hoặc với chính khách

hàng của mình. Quy tắc cũng hướng dẫn bao phủ hoạt động cung cấp dịch vụ kể từ

khi tiếp xúc khách hàng cho đến khi chấm dứt quan hệ dịch vụ. Ngoài Quy tắc đạo

đức và ứng xử, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đang phối hợp với tổ chức JICA (Nhật

Bản) để xây dựng Sổ tay Luật sư chia thành nhiều tập để hướng dẫn cả về chuyên

môn nghiệp vụ và đạo đức hành nghề cho luật sư và những người tập sự hành nghề

luật sư. Với cách tổ chức và văn bản quy định đầy đủ như vậy nên đội ngũ luật sư

hiện nay phát triển khá mạnh và chuyên nghiệp.

1.3.6. Hướng dẫn thực hành đạo đức tại một số cơ sở cung cấp dịch vụ tâm lý ở

Việt Nam

Trong khi chưa có văn bản hướng dẫn chính thức về thực hành đạo đức ở

Việt Nam, một số cơ sở cung cấp dịch vụ tâm lý đã tự mình xây dựng các tiêu

chuẩn để áp dụng riêng cho mình. Trong giới hạn của nghiên cứu này, chúng tôi

trình bày tóm tắt những văn bản hướng dẫn thực hành của trung tâm tham vấn Share

(tại Hà Nội) và Trung tâm Tham vấn Tâm lý Family (tại Đà Nẵng).

1.3.6.1. Trung tâm tham vấn và trị liệu tâm lý Share

Trung tâm tham vấn và trị liệu tâm lý Share thuộc Công ty CP Tham vấn,

Nghiên cứu và Tâm lý học cuộc sống có trụ sở đặt tại Hà Nội. Trung tâm Share đã

đưa ra các nguyên tắc đạo đức trong tham vấn bao gồm (1) bí mật, (2) tôn trọng sự

khác biệt, (3) trung thực, (4) nhiệt tình và quan tâm đến các nhu cầu của khách

hàng, (5) tôn trọng quyền tự quyết của khách hàng, (6) giữ đúng mối quan hệ nghề

nghiệp và (7) luôn có trách nhiệm nâng cao chuyên môn. Nội dung chi tiết của 7

nguyên tắc này phản ánh tương đối cụ thể những việc nhà tham vấn được làm và

không được làm, nó cho thấy mức độ chuyên nghiệp của cơ sở này trong thực hiện

cung cấp dịch vụ. Ngoài 7 nguyên tắc nêu trên, Share còn đưa ra hướng dẫn cụ thể

quy định hành vi, lời nói và việc làm của nhà tham vấn và nhấn mạnh tất cả những

nguyên tắc đạo đức trong tham vấn của trung tâm đều dựa trên cơ sở “đặt lợi ích

37

của khách hàng lên trên hết” [41].

1.3.6.2. Trung tâm Family

Công ty TNHH MTV Nghiên cứu và Tham vấn Tâm lý Family là một

công ty hoạt động trong lĩnh vực Tâm lý đầu tiên của Đà Nẵng. Mục tiêu của

Công ty là cung cấp dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý cho mọi lứa tuổi;

nghiên cứu và tham vấn các vấn đề liên quan đến bạo lực, hôn nhân gia đình;

đánh giá khả năng phát triển trí tuệ; đánh giá, hỗ trợ và can thiệp tâm lý cho

những trường hợp trải qua sang chấn sau thiên tai, thảm hoạ; và hỗ trợ giáo

dục kỹ năng sống. Mặc dù không hoàn toàn xây dựng các thành các nguyên

tắc đạo đức như Share, nhưng công ty này cũng đưa ra một vài điều cam kết

về dịch vụ hết sức ngắn gọn, bao gồm: (1) tuân thủ nguyên tắc bảo mật thông

tin cho khách hàng; (2) tôn trọng quyền và nhân phẩm của khách hàng; (3)

nâng đỡ, hỗ trợ tâm lý khách hàng; (4) Chia sẻ, thấu cảm khách hàng; (5)

Chuyên nghiệp, trung thực và nâng cao năng lực [40].

1.4. Các nguyên tắc đạo đức sử dụng để đánh giá năng lực áp dụng của nhà

tâm lý lâm sàng ở Việt Nam

Lê Thị Huyền Trang (2016) xây dựng những nguyên dưới đây dựa trên tham

khảo từ các văn bản pháp luật, nhiều Bộ quy tắc đạo đức của các nước khác nhau

trên thế giới hay của các ngành nghề gần với nghề tâm lý và từ các giá trị đạo đức

truyền thống đã và đang được thừa nhận ở Việt Nam [35]. Những nguyên tắc cơ bản

được xây dựng với nỗ lực truyền tải giá trị cao đẹp của nghề nghiệp với xã hội và

với kỳ vọng xa hơn để trở thành hướng dẫn thực hành đạo đức cho nhà tâm lý Việt

Nam. Những nguyên tắc này sẽ được sử dụng làm cơ sở nhằm đánh giá năng lực áp

dụng các nguyên tắc đạo đức của các nhà tâm lý học lâm sàng cho trẻ em và vị

thành niên.

A. Nguyên tắc nhân từ và tránh gây hại.

Lý do hình thành nguyên tắc:

Nghề tâm lý ra đời để giúp đỡ thân chủ là những người đang gặp các vấn đề

về tâm lý và bệnh tật nên mặc dù không phải là bác sĩ hay điều dưỡng thì họ cũng là

những người “thầy thuốc tinh thần”. Lòng yêu thương, thái độ quan tâm và chăm

38

sóc con người đến phút cuối cùng (nhân từ) của thầy thuốc là di sản được truyền tải

nguyên vẹn từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, là sợi chỉ mảnh nhưng bền chắc để

nhà tâm lý duy trì động lực vượt qua khó khăn của bản thân để hỗ trợ những người

khác cũng đang gặp khó khăn. Thiếu vắng nhân từ thì mọi sự cứu chữa có thể sẽ trở

thành vô nghĩa, mọi nỗ lực giúp đỡ có thể gây hại và hành vi của nhà tâm lý có thể

trở thành mối họa đối với nghề nghiệp.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý thấu hiểu các khó khăn, những điều cản trở thân chủ đang tìm

kiếm một cuộc sống khỏe mạnh về tinh thần. từ đó mà hết lòng giúp đỡ, cổ vũ thân

chủ và gia đình họ trong suốt quá trình dịch vụ, cố gắng không bỏ mặc thân chủ

ngay cả khi có những cản trở tiếp tục đánh giá và trị liệu. Các hoạt động của nhà

tâm lý hướng tới việc tạo ra hoặc bảo vệ lợi ích tinh thần của thân chủ. Họ cần cố

gắng đánh giá, lường trước các nguy cơ tiềm tàng và thực hiện các biện pháp phòng

ngừa để bảo vệ thân chủ tránh rơi vào các tình huống nguy hiểm. Nhà tâm lý tích

cực giảm thiểu những thiệt hại đối với thân chủ ngay cả khi thiệt hại đó đang xảy ra

và chưa hoàn toàn chấm dứt hoặc tận tâm khắc phục chúng bằng nỗ lực của bản

thân. Nghiêm cấm nhà tâm lý có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc có hành vi

khiến cho thân chủ bị mất an toàn. Khi có các tình huống xung đột về lợi ích, nhà

tâm lý cố gắng từng bước dung hòa các bên và bảo toàn lợi ích của thân chủ.

B. Nguyên tắc tôn trọng quyền con ngƣời và nhân phẩm

Lý do hình thành nguyên tắc:

Đây không chỉ là nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp mà còn là nguyên tắc Hiến

định áp dụng cho mọi công dân, cơ quan tổ chức khi hành xử với người khác.

Nhưng cũng như bác sĩ hay luật sư, với nhà tâm lý thì nguyên tắc này còn phải được

áp dụng với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Vì nhà tâm lý có khả năng phát hiện và thấu

hiểu những suy nghĩ và hành động của thân chủ, họ có kiến thức đủ để lý giải

những cơ chế gây ra nó. Cho nên, nhà tâm lý phải tôn trọng và bảo vệ quyền lợi

chính đáng của thân chủ ngay kể cả khi người đó không được sự ủng hộ hay chấp

nhận của số đông xã hội.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý tôn trọng các quyền con người được quy định trong các Công

39

ước quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện hành, tuyệt đối không xúc phạm phẩm giá

của thân chủ ngay cả khi họ mắc sai lầm, mà thay vào đó nỗ lực hết sức để giúp họ

nhận ra và thực hành phẩm giá của mình. Vấn đề của thân chủ cần phải được nhà

tâm lý đánh giá một cách khách quan để đảm bảo rằng những đặc điểm tốt đẹp của

thân chủ không bị che lấp hoặc bỏ lỡ.

C. Nguyên tắc bảo mật

Lý do hình thành nguyên tắc:

Giống như nhiều nghề khác, nhà tâm lý có nghĩa vụ bảo mật thông tin mình

có được trong quá trình hành nghề. Nguyên tắc bảo mật giúp nhà tâm lý gửi một

“thư bảo đảm” đến thân chủ, khiến thân chủ đủ tin tưởng để bộc lộ được tâm tư,

tình cảm và suy nghĩ sâu kín của mình, điều mà họ có thể suốt đời không tiết lộ với

ai. Thân chủ cho đi thông tin của mình để kỳ vọng một lợi ích, cũng giống như ngân

hàng chờ đợi tiền lãi phía sau một khoản vay có bảo đảm; nếu mất sự bảo đảm thì

mối quan hệ khó mà vững bền và sẽ đe dọa đến thành công của đánh giá hoặc trị

liệu. Ngoài ra, giữ gìn bảo mật là phương pháp để nhà tâm lý thực hiện nguyên tắc

“tránh gây hại” cho thân chủ.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý dự liệu khả năng thông tin của thân chủ bị phát tán cho những

người không liên quan và lập các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa. Các biện pháp

phòng ngừa và ngăn chặn đã được lập ra phải được nhà tâm lý tuân thủ nhằm tránh

việc vô ý để lộ hoặc cố ý tiết lộ dữ liệu của thân chủ cho những người không nằm

trong phạm vi được tiếp cận thông tin. Nhà tâm lý không tiết lộ bí mật của thân chủ

mà không vì mục đích nâng cao chất lượng dịch vụ, trừ những trường hợp phải tiết

lộ bí mật vì lý do pháp luật hoặc để bảo vệ sự toàn vẹn về thân thể của người khác.

Nhà tâm lý cố gắng để lấy được sự đồng ý của thân chủ hoặc trong những trường

hợp bắt buộc thì tối thiểu phải thông báo cho thân chủ biết trước khi việc tiết lộ

thông tin được thực hiện.

D. Nguyên tắc công bằng

Lý do hình thành nguyên tắc:

Khác với nguyên tắc đảm bảo sự “bình đẳng” của công dân như pháp luật đã

quy định, nguyên tắc đạo đức hành nghề tâm lý không điều chỉnh hành vi của thân

chủ nên sự “bình đẳng” sẽ không được đề cập. Ngược lại, quy tắc đạo đức nghề

40

điều chỉnh hành vi của người cung cấp dịch vụ nhằm đem lại lợi ích cho thân chủ,

vì thế ở một vị trí đối xứng, nguyên tắc “công bằng” được lựa chọn như một giải

pháp để đảm bảo quyền “bình đẳng” của thân chủ. Khi theo đuổi nguyên tắc này,

nhà tâm lý có thể phản ứng chống lại việc lạm dụng quyền con người, hay lợi ích

của số đông để tấn công con người. Vì thế, khi nằm trong mối liên hệ với nguyên

tắc “nhân từ và tránh gây hại” và nguyên tắc “tôn trọng quyền con người và nhân

phẩm”, nguyên tắc “công bằng” là thứ phát nhằm đảm bảo cho hai nguyên tắc trên

được thực hiện đầy đủ.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý phải cố gắng để đảm bảo rằng tất cả các thân chủ được hưởng lợi

ích tương đương từ việc cung cấp dịch vụ tâm lý, phù hợp với yêu cầu đánh giá

hoặc trị liệu của từng khách hàng. Nghiêm cấm việc phân biệt đối xử giữa các thân

chủ vì mục đích chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chủng tộc, giới tính hoặc lý do

không chính đáng khác.

E. Nguyên tắc tin cậy và chính trực

Lý do hình thành nguyên tắc:

Trong cuộc sống bình thường, tin cậy và chính trực cũng là đòi hỏi chung

của mọi người. Tuy nhiên, trong thực hành tâm lý thì tin cậy và chính trực còn đòi

hỏi nhiều hơn thế. Xây dựng mối quan hệ tin tưởng, thẳng thắng, trung thực với

thân chủ nghĩa là nhà tâm lý đã gieo cho họ niềm tin vào sự bình phục, rằng mối

quan hệ này đủ an toàn để họ sẵn sàng chia sẻ những bí mật. Từ đó, thân chủ sẽ hợp

tác với nhà tâm lý tốt hơn. Ngược lại, nhà tâm lý cũng nhờ niềm tin này mà cố gắng

hơn trong hoạt động trợ giúp của mình. Ngoài ra, sự chính trực còn đảm bảo cho

các hoạt động chuyên nghiệp hơn, chính xác và khoa học hơn.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý thiết lập mối quan hệ tin cậy với những người mà họ làm việc

cùng và tránh đến mức tối đa những tình huống hoặc những hành vi có thể tạo ra sự

nghi ngờ, đố kỵ dù với bất kỳ lý do gì. Nhà tâm lý theo đuổi sự chính xác, trung

thực trong hành động, không lừa dối hoặc gian lận và phải tìm mọi cách khắc phục

nhanh chóng để giảm thiểu những hậu quả do mất lòng tin gây ra.

F. Nguyên tắc trách nhiệm với nghề nghiệp, khoa học và xã hội.

Lý do hình thành nguyên tắc:

Bất kỳ ngành nghề nào cũng đòi hỏi người thực hành phải có trách nhiệm và

41

nghề tâm lý cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Nếu không có trách nhiệm thì các

hoạt động sẽ tùy tiện, các hậu quả là không thể kiểm soát và loài người không thể

tiến bộ hay văn minh. Trách nhiệm nghề nghiệp thường được quy định bởi pháp

luật, đôi khi quy phạm pháp luật hàm chứa các công cụ hữu dụng để nhà tâm lý

thực hành đạo đức. Vì thế, khi thực hành nguyên tắc này đòi hỏi nhà tâm lý cần có

những hiểu biết nhất định về luật pháp như là ngưỡng tối thiểu về đạo đức.

Nội dung nguyên tắc:

Nhà tâm lý tuân thủ đầy đủ và chính xác những nghĩa vụ của mình đối với

thân chủ, xã hội và nghề nghiệp. Trường hợp có những cản trở thực hiện nghĩa vụ,

nhà tâm lý cần trao đổi thẳng thắn với những người liên quan để tìm cách giải quyết

càng sớm càng tốt. Khi mắc những sai lầm thì nhà tâm lý không trốn tránh hay đổ

lỗi cho người khác, sẵn sàng chịu trách nhiệm về hành vi của mình và nỗ lực tối đa

để khắc phục những hậu quả do hành vi sai trái gây ra. Nhà tâm lý nhận thức và ít

nhất thực hành đúng các quy phạm pháp luật quy định cho ngành, nghề tâm lý và

coi nó là điều đạo đức tối thiểu, hiển nhiên cần làm.

Tiểu kết chƣơng 1.

Đây là một chương đặc biệt quan trọng mà trước hết là đối với đề tài luận

văn này. Đề tài chỉ có thể thực hiện được nếu câu hỏi về cơ sở lý luận, hình mẫu

đánh giá được định hình rõ ràng trong hoàn cảnh chưa có Quy tắc đạo đức nghề

nghiệp chính thức cho các nhà tâm lý ở Việt Nam được trả lời một cách thuyết

phục. Với nội dung nghiên cứu cả chiều ngang và chiều sâu, luận văn đã cho thấy

nhà tâm lý đang hành nghề trong một môi trường mà ở đó các mối quan hệ và các

quy phạm xã hội đan chéo, ràng buộc nhau phức tạp như thế nào. Rất nhiều quy tắc

đã được phân tích để tìm ra những nguyên tắc cơ bản có thể chấp nhận được làm

mực thước để đánh giá, đồng thời xác định các khu vực mà nhà tâm lý còn gặp

nhiều khó khăn khi ra quyết định đạo đức để nhằm thiết kế bảng hỏi sao cho năng

lực áp dụng các nguyên tắc đạo đức cơ bản nêu trên được phản ánh một cách trung

thực và chính xác nhất. Điều thứ hai, những nguyên tắc được giới thiệu trong

chương này có thể trở thành bước đầu tiên để hình thành Quy tắc đạo đức và ứng xử

nghề nghiệp đầu tiên cho nhà tâm lý Việt Nam; những lĩnh vực nổi cộm về đạo đức

có thể gợi ý cho các nghiên cứu thực tiễn xa hơn hoặc giúp người quản lý tập trung

42

vào các hướng dẫn thực hành chi tiết, bên cạnh những nguyên tắc đạo đức cơ bản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu nƣớc ngoài

1. American Psychological Association (2002, revised 2010). Ethical

Principles of Psychologists and Code of Conduct.

2. Australian Psychological Society (2007). Code of Ethics.

3. Canadian Psychological Association (2000, 2014). Canadian Code of

ethics [for psychologists.

4. Chinese Psychological Society (2007). Code of Ethics for Counseling and

Clinical Practice.

5. David Matsumoto (2009). The Cambridge Dictionary of Psychology. San

Francisco State University, Hoa Kỳ

6. European Federation of Psychological Association (1995, revised 2005).

Meta-Code of Ethics.

7. Gibson, W.T. và Pope, K.S. (1993). The ethics of counseling: a national

survey of certified councelors. Jounal of counseling and development, 71,

330-336.

8. International Union of Psychological Science (2008). The Universal

Declaration of Ethical Principles for Psychologists.

9. Japanese Psychological Society. Ethical Principles of Psychologists.

10. Mappes, D. C., Robb G. P. and Engels, D. W. (1985), Conflict between

ethics and law in counseling and psychotherapy. Journal of counseling and

development, 64, 246-252.

11. Petra Lajciakova, 2016. Dilemmas in Psychological Counseling:

Experience from Slovakia. The Online Journal of Counseling and Education,

5(2), 23-34

12. Pettifor, J. L. và Sawchuk, T. R. (2006). Psychologists’ perceptions of

ethically troubling incidents across international borders. International

104

Journal of Psychology, 43 (3), 216 – 225

13. Pope, K. S. và Vetter, V. A. (1992). Ethical Dilemmas Encountered by

Members of the American Psychological Association: A National Survey.

American Psychologist, 47 (3), 397-411

14. Qian, M. J., Gao, J., Yao, P., Rodriguez, M. (2008). Professional ethical

issues and the development of professional ethical standards in counseling

and clinical psychology in China. Ethics and Behavior, 19 (4), 290-309

15. Singapore Psychological Society. Code of Professional Ethics.

16. United Nations (1989). The International convention of children’s rights.

Tài liệu trong nƣớc

17. Bộ trƣởng Bộ Y tế (1996). Quyết định số 2088/BYT-QĐ ngày 6/11/1996 về

việc ban hành “Quy định về Y đức”. Hà Nội

18. Trần Thị Minh Đức (2011), Giáo trình tham vấn tâm lý, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

19. Trần Thị Minh Đức (2016), Nhận thức của Nhà tâm lý về các tình huống

bảo mật thông tin khách hàng. Tạp chí Tâm lý học, số 2 (203), 1-10.

20. Tô Thị Hạnh (2007). Xây dựng nguyên tắc đặc đức cho hoạt động tham vấn

qua internet. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại

học Quốc gia Hà Nội

21. Hội đồng Luật sƣ Toàn Quốc, Liên đoàn Luật sƣ Việt Nam (2011). Quyết

định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011 về Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề

nghiệp Luật sư Việt Nam. Hà Nội

22. Khuyết danh

23. Trần Đình Lâm. (2003). Thái độ của Nhà tư vấn về những sai phạm trong

hoạt động tham vấn tâm lý. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

24. Hoàng Phê và cộng sự (2000). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng

25. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XI (2004), Bộ luật tố tụng dân

sự số 24/2004/QH11. Ban hành ngày 15/6/2004, Hà Nội.

26. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XI (2004). Luật bảo vệ, chăm

105

sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11. Ban hành ngày 26/4/2004, Hà Nội

27. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XI (2005), Bộ luật dân sự số

33/2005/QH11. Ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội.

28. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII (2013), Hiến pháp nước

CHXHCN Việt Nam. Ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.

29. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII (2015), Bộ luật dân sự số

91/2015/QH13. Ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.

30. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII (2015), Bộ luật tố tụng

hình sự số 101/2015/QH13. Ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.

31. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam khóa XIII (2016). Luật trẻ em số

102/2016/QH13. Ban hành ngày 5/4/2016, Hà Nội.

32. Thủ tƣớng Chính phủ (2010). Quyết định số 32/2010/QĐ-TTgvề phê duyệt

đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020. Ban hành ngày

25/3/2010, Hà Nội

33. Nguyễn Xuân Thức và cộng sự (2007). Giáo trình tâm lý học đại cương.

NXB Đại học Sư Phạm

34. Lê Hữu Trác (2012). Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, tập 1. NXB Y học, Hà

Nội.

35. Lê Thị Huyền Trang (2016). Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ công

cụ đánh giá thực hành đạo đức cho nhà tâm lý Việt Nam. Kỷ yếu Hội nghị

nghiên cứu khoa học cho học viên sau đại học năm 2016, Đại học Giáo dục,

Đai học Quốc gia Hà Nội, 136-147.

36. Lê Thị Huyền Trang & Trần Thành Nam (2016). Một vài định hướng xây

dựng Bộ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Nhà tâm lý trong bối cảnh Việt

Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế tâm lý học học đường lần thứ 5,

116-130

37. Nguyễn Quang Uẩn (2000). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, 192-195.

Tài liệu từ nguồn Website

38. American Psychological Association. Nguồn:

http://www.apa.org/ed/graduate/specialize/clinical.aspx

106

39. American Board of Professional Psychology. Nguồn:

http://www.abpp.org/i4a/pages/index.cfm?pageid=3307

40. Công ty TNHH MTV Nghiên cứu và Tham vấn Tâm lý Family. Cam kết.

Nguồn: http://www.tamlyfamily.com/gi%E1%BB%9Bi-thi%E1%BB%87u/

41. Công ty CP Tham vấn, Nghiên cứu và Tâm lý học cuộc sống. Nguyên tắc

Đạo đức tham vấn – trị liệu tâm lý của SHARE. Nguồn:

http://tuvantamly.com.vn/nguyen-tac-dao-duc-tham-van-tri-lieu-tam-ly-cua-

share-2/

42. Cục quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y Tế (2015). Dự thảo Chiến lược quốc

gia về sức khỏe tâm thần giai đoạn 2016-2025. Nguồn:

http://kcb.vn/duthao/du-thao-quyet-dinh-phe-duyet-chien-luoc-quoc-gia-ve-

suc-khoe-tam-than-giai-doan-2016-2025

43. Trần Thị Minh Đức, Nhận thức về hành vi đạo đức trong thực hành tham

vấn.Nguồn:

http://repositories.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/7320/1/Nhan%20th

uc%20ve%20hanh%20vi%20dao%20duc%20trong%20thuc%20hanh%20tha

m%20van.pdf

44. Nguyễn Thị Thu Hà (2012). Đạo đức nghề công tác xã hội trên thế giới và

những vấn đề đặt ra cho Việt Nam. Tạp chí Cộng sản (phiên bản online).

Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-

Traodoi/2012/16937/Dao-duc-nghe-cong-tac-xa-hoi-tren-the-gioi-va-

nhung.aspx

45. Lindén, E. và Rådeström, J. (2008). Ethical dilemmas among psychologists

in Sweden and South Africa.

107

Nguồn:http://www.divaportal.org/smash/get/diva2:117336/FULLTEXT01.pdf