BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ---------------------------------------
ĐINH THỊ NGA ĐÁNH GIÁ TÍCH LŨY HG, AS Ở MỘT SỐ LOÀI NHUYỄN THỂ HAI MẢNH VỎ KHU VỰC ĐÔNG BẮC BỘ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG AN TOÀN THỰC PHẨM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Hà Nội – Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ---------------------------------------
Đinh Thị Nga ĐÁNH GIÁ TÍCH LŨY HG, AS Ở MỘT SỐ LOÀI NHUYỄN THỂ HAI MẢNH VỎ KHU VỰC ĐÔNG BẮC BỘ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG AN TOÀN THỰC PHẨM
Chuyên ngành: Kỹ thuật Môi trường
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Văn Diệu Anh
Hà Nội – Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đinh Thị Nga, xin cam đoan rằng: Đề tài luận văn thạc sỹ “Đánh giá
tích lũy Hg, As ở một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ khu vực Đông Bắc Bộ và
đề xuất giải pháp sử dụng an toàn thực phẩm” do tôi thực hiện với số liệu được
cung cấp từ đề tài 2016-2017 “Đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường
đến việc nuôi hản sản khu vực Đông Bắc Bộ” do TS. Lê Xuân Sinh – Trưởng phòng
Hóa Môi trường biển – Viện Tài nguyên & Môi trường biển làm chủ nhiệm và được
sự đồng ý của chủ nhiệm đề tài. Đề tài được thực hiện với sự hướng dẫn của TS.
Văn Diệu Anh – Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường – Trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội. Các dữ liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực, các tài liệu được
trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung mà tôi trình bày trong
luận văn này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn
Đinh Thị Nga
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, các thày giáo, cô giáo Viện
Khoa học và Công nghệ Môi trường – Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã
truyền dạy cho tôi những kiến thức bổ ích và tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá
trình học tập để hoàn thành khóa học.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo TS. Văn Diệu Anh – người trực tiếp hướng dẫn và luôn tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình làm Luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Phòng Hóa môi trường biển – Viện Tài
nguyên & Môi trường biển, đặc biệt là TS. Lê Xuân Sinh – Trưởng phòng đã tạo
điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu giúp tôi hoàn
thành Luận văn tốt nghiệp
Tôi cũng xin cảm ơn tới các cơ quan, đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ tôi
trong quá trình điều tra, thu thập tài liệu phục vụ đề tài.
Hải Phòng, ngày 24 tháng 05 năm 2017
Học viên
Đinh Thị Nga
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ v
DANH SÁCH CÁC BẢNG ....................................................................................... vi
DANH SÁCH CÁC HÌNH ...................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................................... 3
1.1.Tổng quan chung về As, Hg ........................................................................... 3
1.1.1. Đặc tính của As, Hg .................................................................................. 3
1.1.2. Các dạng tồn tại của As, Hg trong môi trường. ........................................ 4
1.1.3. Các tác động của As và Hg đối với môi trường ....................................... 7
1.2. Tình hình nghiên cứu tích lũy kim loại nặng trong sinh vật trong nước
và trên thế giới ..................................................................................................... 10
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .......................................................... 10
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................ 12
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 16
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 16
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 16
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 20
2.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 25
2.2.1. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu ................................................. 25
2.2.2. Phương pháp xử lý mẫu .......................................................................... 26
2.2.3. Phương pháp phân tích As, Hg ............................................................... 29
2.2.4. Phương pháp đánh giá tích lũy sinh học thông qua các hệ số BAF, BSAF
........................................................................................................................... 29
2.2.5. Phương pháp xác định mức độ tiêu thụ thực phẩm an toàn .................... 30
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TÍCH LŨY THỦY NGÂN, ASEN Ở
MỘT SỐ LOÀI NHUYỄN THỂ HAI MẢNH VỎ .............................................. 31
3.1. Hiện trạng môi trường khu vực nghiên cứu .............................................. 31
3.1.1. Thông số chất lượng nước ....................................................................... 31
3.1.2. Nồng độ asen, thủy ngân trong môi trường nước ................................... 32
iii
3.1.3. Nồng độ asen, thủy ngân trong trầm tích ................................................ 33
3.2. Hàm lượng As, Hg trong các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ ..................... 35
3.2.1. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu tu hài ......................................... 36
3.2.2. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu ngán ........................................ 389
3.2.3. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu ngao trắng ................................. 41
3.3. Đánh giá mối quan hệ giữa mức độ tích lũy As, Hg trong sinh vật và
nồng độ As, Hg trong môi trường ...................................................................... 44
3.3.1. Xác định mối quan hệ độc chất trong mô sinh vật và môi trường nước . 44
3.3.2. Xác định mối quan hệ độc chất trong mô sinh vật và môi trường trầm
tích ..................................................................................................................... 45
CHƯƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT SỬ DỤNG AN TOÀN THỰC
PHẨM ....................................................................................................................... 47
4.1. Cở sở đề xuất sử dụng an toàn thực phẩm ................................................ 47
4.2. Khuyến cáo mức độ sử dụng thực phẩm ................................................... 50
4.2.1. Khuyến cáo mức độ sử dụng tu hài làm thực phẩm ................................ 50
4.2.2. Khuyến cáo mức độ sử dụng ngán làm thực phẩm ................................. 51
4.2.3. Khuyến cáo mức độ sử dụng ngao trắng làm thực phẩm ........................ 51
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 53
KHUYẾN NGHỊ………………………………………………………………….55
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………….…………………………………….56
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADI : (AcceptedDailyIntake)-Lượng ăn vào hàng ngày chấp nhận được
BAF : (Bio Accumulation Factor) - Hệ số tích lũy sinh học
BSAF : (Biota-sendiment accumulation factor)
Hệ số tích lũy sinh học trầm tích
BOD : (Biochemical oxygen Demand) Nhu cầu oxy sinh hóa
BYT : Bộ Y Tế
COD : (Chemical Oxygen Demand) Nhu cầu oxy hóa học
DO : (Dissolved Oxygen) Lượng oxy hòa tan
EPA (USA) : (Environmental Protection Agency) Cục bảo vệ môi trường Mỹ
EU : (European Union) Liên minh châu Âu
FAO : (Food and Agricultrue Organization) Tổ chức lương thực quốc tế
GC : (Gas Chromatography) Sắc ký khí
HPLC : (High Performance Liquid Chromatography)
Sắc ký lỏng hiệu năng cao
IARC : (International Agency for Research on Cancer)
Cơ quan nghiên cứu quốc tế về ung thư
KLN : Kim loại nặng
PCB : Polyclobiphenyl
POPs : (Persistant Organic Pollutants)
Các hợp chất hữu cơ bền vững trong môi trường
PTWI : (Provisional tolerable weekly intake)
Lượng ăn vào hàng tuần có thể chấp nhận tạm thời
TB : Trung bình
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TSS : (Total Suspended Solids) Tổng chất rắn lơ lửng
WHO : (World Heath Organization) Tổ chức y tế thế giới
WTO : (World Trade Organization) Tổ chức thương mại quốc tế
v
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 1.1.Tổng hợp các nghiên cứu về tích lũy kim loại nặng trong loài hai mảnh vỏ
ở Việt Nam ........................................................................................................ 12
Bảng 2.1. Phân chia mẫu tu hài theo kích thước ....................................................... 27
Bảng 2.2. Phân chia mẫu ngán theo kích thước ........................................................ 28
Bảng 2.3. Phân chia mẫu ngao trắng theo kích thước ............................................... 28
Bảng 3.1. Hệ số tích lũy BAF của As, Hg đối với các loài sinh vật nghiên cứu ...... 44
Bảng 3.2. Hệ số tích lũy sinh học BSAF của các sinh vật nghiên cứu ..................... 45
Bảng 3.3. So sánh hệ số BAF và hệ số BSAF .......................................................... 46
Bảng 4.1. Hệ số ADI và tiêu chuẩn của độc chất theo quy chuẩn an toàn thực phẩm
........................................................................................................................... 48
Bảng 4.2.Mức độ sử dụng thực phẩm đảm bảo tránh tích lũy Hg đối với ngườicó thể
khối 60 kg .......................................................................................................... 49
Bảng 4.3. Mức độ sử dụng thực phẩm đảm bảo tránh tích lũy As ............................ 49
đối với người có thể khối 60 kg ................................................................................ 49
Bảng 4.4. Mức độ sử dụng tu hài đảm bảo tránh tích lũy các độc chất đối với người
có thể khối 60 kg ............................................................................................... 50
Bảng 4.5. Mức độ sử dụng ngán đảm bảo tránh tích lũy các độc chất đối với người
có thể khối 60 kg ............................................................................................... 51
Bảng 4.6. Mức độ sử dụng ngao trắng đảm bảo tránh tích lũy các độc chất đối với
người có thể khối 60 kg..................................................................................... 52
vi
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 1.1.Sơ đồ các nguồn tích tụ thủy ngân trong các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ.... 6
Hình 1.2.Vòng tuần hoàn thuỷ ngân trong môi trường [27] ....................................... 9
Hình 2.1.Sơ đồ phân bố loài tu hài ............................................................................ 17
Hình 2.2 Sơ đồ phân bố loài ngán ............................................................................. 18
Hình 2.3. Biến động diện tích nuôi ngao khu vực cửa sông Bạch Đằng [9] ............ 20
Hình 2.4.Sơ đồ thu mẫu tại khu vực nghiên cứu ....................................................... 21
Hình 2.5.Cácdòng thải từ lục địa đưa ra biển ven bờ Đông bắc Bắc Bộ .................. 23
Hình 2.6.Các kích thước cần đo ở loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ .............................. 27
Hình 2.7. Thước Panmer ........................................................................................... 27
Hình 2.8.Thiết bị khô lạnh ........................................................................................ 29
Hình 3.1. Nồng độ As trong môi trường nước tại các vị trí thu mẫu ........................ 32
Hình 3.1. Nồng độ Hg trong môi trường nước tại các vị trí thu mẫu ....................... 33
Hình 3.3.Hàm lượng As trong môi trường trầm tích tại các vị trí thu mẫu .............. 34
Hình 3.4. Hàm lượng Hg trong môi trường trầm tích tại các vị trí thu mẫu ............. 35
Hình 3.5. Biến thiên mức độ tích lũy asen trong tu hài theo thời gian thu mẫu và
theo kích thước .......................................................................................................... 37
Hình 3.6.Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong tu hài theo thời gian thu mẫu
và theo kích thước ..................................................................................................... 38
Hình 3.7.Biến thiên mức độ tích lũy asen trong ngán theo thời gian thu mẫu và theo
kích thước .................................................................................................................. 40
Hình 3.8.Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong ngán theo thời gian thu mẫu và
theo kích thước .......................................................................................................... 41
Hình 3.9. Biến thiên mức độ tích lũy asen trong ngao trắng theo thời gian thu mẫu
và theo kích thước ..................................................................................................... 42
Hình 3.10. Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong ngao trắng theo thời gian thu
mẫu và theo kích thước ............................................................................................. 43
vii
MỞ ĐẦU
Xã hội càng phát triển, công nghiệp hóa càng nhanh thì tỷ lệ chất thải độc hại
từ sản xuất công nghiệp và những ảnh hưởng bất lợi từ các hoạt động của con người
tác động vào môi trường càng tăng nhanh. Các chất độc hại còn sinh ra do rò rỉ từ
quá trình sản xuất, vận chuyển và lưu trữ các chất độc. Các loại ô nhiễm hóa học
sinh ra từ quá trình sản xuất công nghiệp và khai thác quá mức tài nguyên thiên
nhiên đang ngày càng làm nguy hại cho sinh quyển.Các tác động ấy không những
ảnh hưởng đến loài người mà cả các sinh vật sống trên trái đất. Các độc chất được
tích lũy sinh học qua chuỗi thức ăn và đi vào cơ thể con người. Chúng gây ra những
sự biến đổi, tồn lưu và tác động đến sức khỏe của con người.
Trong môi trường biển ven bờ, nhóm động vật nhuyễn thể sống tầng đáy đã
được các nhà khoa học trong và ngoài nước chọn làm đối tượng nghiên cứu độc
chất trong cơ thể chúng do chúng có khả năng tích lũy sinh học cao, ít di chuyển
nhiều, ăn lọc mùn bã hữu cơ,… Điều này đi kèm với nguy cơ mất an toàn cho con
người khi sử dụng chúng làm thực phẩm. Hiện nay, hầu hết các nước phát triển đã
có những tiêu chuẩn an toàn đối với việc tiêu thụ thủy sản nói chung và nhóm động
vật nhuyễn thể nói riêng. Nuôi trồng thủy hải sản ở nước ta ngày nay đang có xu
hướng phát triển mạnh, nhất là khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận và sự kiện Việt Nam trở
thành thành viên 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đã mở ra cho Việt
Nam một tiềm năng xuất khẩu lớn, đặc biệt là thủy hải sản. Một trong những mặt
hàng thủy hải sản sản xuất được thị trường thế giới ưa chuộng là nhuyễn thể hai
mảnh vỏ.
Các sản phẩm thủy hải sản, trong đó có các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ có
giá trị kinh tế cao, thường xuyên được sử dụng đang được người tiêu dùng quan tâm
về chất lượngan toàn thực phẩm.Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam các nghiên cứu về
tích lũy các chất ô nhiễm có tính độc ở các loài thủy hải sản phân bố ngoài tự nhiên
hoặc nuôi ở vùng biển ven bờ còn thiếu hoặc ở mức độ nghiên cứu lý thuyết.Trong
đó, khu vực Đông Bắc Bộ có hệ động vật nhuyễn thể phong phú và đa dạng. Các
nghiên cứu về chất lượng thực phẩm với các loài hải sản có giá trị kinh tế cao (tu
hài và ngán) và hải sản thường xuyên sử dụng là ngao trắng còn đang bỏ ngỏ nên rất
1
cần thiết triển khai nghiên cứu về sự tích lũy các độc chất đối với những loài sinh
vật này.
Luận văn:“Đánh giá tích lũy Hg, As ở một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ
khu vực Đông Bắc Bộ và đề xuất giải pháp sử dụng an toàn thực phẩm”được
thực hiện với những mục tiêu, nội dung chủ yếu và phạm vi nghiên cứu sau:
Mục tiêu của luận văn:
- Đánh giá mức độ tích lũycác hợp chất asen, thủy ngân trong 03 loài nhuyễn
thể hai mảnh vỏ: tu hài Lutrariarhynchaena, ngánAustriellacorrugatavà ngao trắng
Meretrixlyrata phân bố tại vùng Đông Bắc Bộ.
- Xác định hệ số tích tụ sinh học BAF, BSAFcủa các hợp chất asen, thủy
ngân trong các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ nghiên cứu và đề xuất một số khuyến
cáo sử dụng thực phẩm an toàn, góp phần vào việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Nội dung nghiên cứu chủ yếu gồm:
- Khảo sát nồng độ các hợp chất củaasen, thủy ngântrong nước, trầm tích và
03 loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại khu vực nghiên cứu.
- Tính toán hệ số tích lũy BAF, BSAF của 03 loài nhuyễn thể và đánh giá
mức độ tích lũy sinh học.
- Đề xuất các biện pháp khuyến cáo, ngăn ngừa nguy cơ tích lũyasen, thủy
ngân trong cơ thể, góp phần vào việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là 2 tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc Bộ là Hải
Phòng và Quảng Ninh với các địa điểm cụ thể gồm:
- Khu vực vịnh Lan Hạ, đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng
(lấy mẫu tu hài)
- Khu vực Hoàng Tân, tỉnh Quảng Ninh (lấy mẫu ngán)
- Khu vực xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng (lấy mẫu ngao
trắng).
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan chung về As, Hg
1.1.1.Đặc tính của As, Hg
Asen (As)
Asen là nguyên tố hóa học có ký hiệu As và số nguyên tử 33, khối lượng
nguyên tử là 74,92. As là một á kim có nhiều dạng thù hình: màu vàng (phân tử phi
kim) và một vài dạng màu đen và xám (á kim). Ba dạng có tính kim loại của asen
với cấu trúc tinh thể khác nhau cũng được tìm thấy trong tự nhiên (các khoáng vật
asensensustricto và hiếm hơn là asenolamprit cùng parasenolamprit), nhưng nói
chungasen hay tồn tại dưới dạng các hợp chất asenua và asenat. As và các hợp chất
của nó được sử dụng như là thuốc trừ dịch hại, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu và trong
nhiều loại hợp kim.
Trong tiếng Việt, As thường bị gọi nhầm là thạch tín - vốn là từ chỉ quặng
oxit của nó - asentrioxit (As2O3), cũng là chất độc như asen. Nhưng thạch tín là
arsenolit, một dạng khác của asen và có độc, hình thành thứ cấp như là sản phẩm
phong hóa (oxi hóa) của các khoáng vật sulfua chứa asen trong các mạch nhiệt dịch.
Trạng thái ôxi hóa phổ biến nhất của asen là -3 (asenua), +3 (asenit: phần lớn
các hợp chất asen hữu cơ), +5 (asenat: phần lớn các hợp chất vô cơ chứa ôxy của
3- vuông trong khoáng
asen ổn định). Asen cũng dễ tự liên kết với chính nó, chẳng hạn tạo thành các cặp
As-As trong sulfua đỏ hùng hoàng (α-As4S4) và các ion As4
cobanasenua có tên skutterudit. Ở trạng thái ôxi hóa +3, tính chất hóa học lập thể
của asen chịu ảnh hưởng bởi sự có mặt của cặp electron không liên kết.
Cần phân biệt giữa asen vô cơ và asen hữu cơ, trong khi asen vô cơ có độc
tính mạnh, asen hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên từ sự phân hủy các loài cá, hải sản,
có độc tính thấp hơn nhiều và đào thải nhanh chóng khỏi cơ thể con người[1].
Do sự phân bố của asen và nguồn gốc của nó mà asen tồn tại dưới nhiều
2- có màu sáng, ánh… Ngoài ra,asen còn
dạng thù hình khác nhau như dạng rắn (tinh thể) ở trong các quặng, đá, đất trầm tích
-, H3AsO3, HAsO4
tạo ra các chất H3AsO4
tồn tại trong không khí khi nóng sẽ phản ứng với O2, kim loại và phi kim loại để tạo
thành các hợp chất vô cơ.
3
4As + 3O2 2As2O3
2As + 3Cl2 2AsCl3
và còn phản ứng với axit:
2As + 5HNO3 +2H2O = 3H3AsO4 + 5NO
Asen với cacbon và hydro tạo ra hợp chất asen hữu cơ. Các hợp chất hữu cơ
của asen thường ít độc hại so với các hợp chất vô cơ.
Asen vô cơ từ các khu vực ô nhiễm công nghiệp tồn tại dưới dạng asenate
(As+5), asenite (As+3), asen nguyên tố (As0) và ở dạng khí arsine (AsH3). Ở môi
trường khử trong lòng đất, các vi khuẩn kỵ khí methanogenicbacteria khử asenate
(As+5) thành asenite (As+3) và methyl hóa chúng tạo axit methylasenic
(CH3AsO(OH)2) hay axit dymethylasenic (CH3)2AsO(OH)2. Những hợp chất này có
thể methyl hóa tiếp tạo trimethylarsinic bay hơi rất độc và dimethylarsine (As+3) rất
độc, ngược lại As+5 lại bền vững trong môi trường hiếu khí như môi trường nước
mặt [7].
Thủy ngân (Hg)
Thủy ngân ký hiệu Hg, có số nguyên tử 80, là một kim loại nặng có ánh bạc,
có dạng lỏng ở nhiệt độ thường. Thủy ngân được sử dụng trong các nhiệt kế, áp kế
và các thiết bị khoa học khác. Thủy ngân thu được chủ yếu bằng phương pháp khử
khoáng chất chu sa.
Thủy ngân có tính dẫn nhiệt kém nhưng dẫn điện tốt.
Thủy ngân tạo ra hợp kim với phần lớn các kim loại, bao gồm vàng, nhôm và
bạc, đồng nhưng không tạo với sắt. Do đó, người ta có thể chứa thủy ngân trong
bình bằng sắt. Telua cũng tạo ra hợp kim, nhưng nó phản ứng rất chậm để tạo ra
telurua thủy ngân. Hợp kim của thủy ngân được gọi là hỗn hống.
Thủy ngân có hệ số nở nhiệt là hằng số khi ở trạng thái lỏng, hoạt động hóa
học kém kẽm và cadmium. Trạng thái ôxi hóa phổ biến của nó là +1 và +2. Rất ít
hợp chất trong đó thủy ngân có hóa trị +3 tồn tại [1].
1.1.2. Các dạng tồn tại của As, Hg trong môi trường Asen (As)
Trong môi trường, asen tồn tại dưới các dạng sau: - Hợp chất vô cơ chứa trong các quặng như As2S3, FeAsS, As2O3
4
- Muối của asen gồm Asenat và Asenic
- Asen hữu cơ như ClCH=CHAsCl, (C6H5)2AsCl, (C6H5)2AsCN
Trong các dạng asen thường gặp thì asen vô cơ hoá trị III (AsIII) rất dễ tan
và có độc tính gấp 50 lần so với asen vô cơ hoá trị V (AsV) và độc gấp hàng trăm
lần so với monomethylarsonic acid (MMA) và dimethylarsinic acid (DMA). Trong
khi arsen vô cơ (AsIII và AsV ) được cho là chất gây ung thư thì các dạng methyl
(MMA và DMA) được xác định là xúc tiến quá trình ung thư. Arsenobetaine (AsB)
và arsenocholine (AC) với nhiều nhóm thế methyl được cho là không có độc tố [1].
Do các hoạt động của con người mà asen dạng vô cơ tồn tại trong nước biển.
Ở pH=8.1 của nước biển, asen tồn tại chủ yếu ở dạng asenat ( [H2AsO4]- có kích
thước và pK2a rất gần giống với của ion photphat [H2PO4]-. Trong khi đó, nguồn
dinh dưỡng cho các loài tảo chính là photphat. Do sự giống nhau này mà asen dạng
vô cơ dễ dàng hấp thụ trong tảo và được tảo chuyển hóa thành các dạng asen hữu
cơ khác. Cá nhỏ xem tảo như thức ăn, cá lớn ăn cá nhỏ, và cứ như thế asen dạng
hữu cơ tích tụ dần. Các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ là những động vật ăn lọc,
chúng ăn các chất hữu cơ trong nước và hấp thụ asen vào trong cơ thể [18].
Thủy ngân
Trong đời sống hàng ngày, thủy ngân tồn tại ở nhiều dạng và được ứng dụng
rộng ở nhiều lĩnh vực như sau [7]:
+ Thuỷ ngân nguyên tố, dưới dạng lỏng (kí hiệu Hg0). Đây là một dạng quen
thuộc và thường thấy trong các nhiệt kế.
+ Thuỷ ngân dưới dạng khí (kí hiệu Hg0), là thuỷ ngân dưới tác dụng của
nhiệt chuyển thành hơi.
+ Thuỷ ngân vô cơ như là (HgO, Hg(OH)2, Hg2Cl2, HgCl2, HgI2, HgCN2,
Hg(NO3)2, Hg(CNO)2,…) có độ hòa tan khác nhau. Các hợp chất thủy ngân vô cơ
được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực y tế, quân sự, công nghiệp và được sử dụng để
làm sơn chống hà.
+ Thủy ngân hữu cơ: Hầu hết các hợp chất thủy ngân hữu cơ khó hòa tan
((CH3)2Hg phân huỷ chậm và(CH3)Hg+ hầu như không phân huỷ), không tham gia
phản ứng trong môi trường axit yếu hoặc ái lực yếu của thủy ngân và liên kết C-O.
Các dạng thủy ngân hữu cơ dạng RHgX được sử dụng chủ yếu trong các loại thuốc
bảo vệ thực vật, y tế.
5
+ Ngoài ra, một số dạng khác (HgS) khó hoà tan, tồn tại trong trầm tích, cặn
lắng của sông khi pH thấp nó có thể hoà tan một phần tạo thành Hg+2đi vào chuỗi
thức ăn.
Trong nước tự nhiên, các hợp chất của thủy ngân dễ bị khử hoặc bay hơi nên
hàm lượng thủy ngân trong nước rất nhỏ. Nó có thể tồn tại ở dạng kim loại, dạng
ion vô cơ hoặc dạng hợp chất hữu cơ. Trong môi trường giàu oxi, thủy ngân tồn tại
chủ yếu dạng hóa trị II. Trong môi trường biển, thủy ngân tồn tại dạng ion, trong
hạt lơ lửng, dạng phức và dạng metyl thủy ngân. Hầu hết thủy ngân trong nước cửa
sông được liên kết với các phần tử chất rắn có kích thước lớn hơn 0,45µm [6].
Thủy ngân trong trầm tích rất ít vì bị lôi cuốn bởi các hạt rắn lơ lửng [6].
Như vậy, các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ sẽ bị phơi nhiễm thủy ngân khi sử
dụng lượng lớn mùn bã hữu cơ làm thức ăn vì đã xác định có mối tương quan chặt
giữa nồng độ thủy ngân, lượng chất rắn lơ lửng trong nước và lượng mùn bã hữu
cơ. Quá trình tích tụ thủy ngân trong nhuyễn thể 2 mảnh vỏ ở cả hai pha (thủy ngân
hòa tan và dạng hạt liên kết với chất rắn lơ lửng). Dạng thủy ngân liên kết chất rắn
lơ lửng chiếm 58% so với dạng hòa tan trong nước. Thủy ngân sẽ tích lũy vào
trong mô thịt và một phần thải qua dạ dày như sau [6]:
Hình 1.1.Sơ đồ các nguồn tích tụ thủy ngân trong các loài nhuyễn thể 2
mảnh vỏ
6
1.1.3. Các tác động của As và Hg
Asen
Asen được hấp thụ qua hô hấp, tiêu hóa và qua da, trong đó qua tiêu hóa là
chính. Asen được bài tiết qua thận, nước tiểu và qua tóc, móng tay. Asen tích tụ
trong cơ thể chủ yếu trong các mô, trong cơ.
Biểu hiện nhiễm độc cấp tính của asen là tổn thương mạnh đến hệ tiêu hóa,
rối loạn thần kinh, khi nồng độ nhiễm lên tới 60mg/l thì có thể gây chết.
Nhiễm độc mãn tính: Tiếp xúc với asen ở nồng độ thấp sẽ gây viêm da,
nhiễm sắc tố da, móng tay- chân đen dễ rụng. Thời gian nhiễm độc kéo dài sẽ gây
ung thư da, ung thư bàng quan và ung thư phổi [1].
Theo chỉ dẫn 67/548/EEC của Liên minh châu Âu, asen được phân loại là
"độc" và "nguy hiểm cho môi trường". IARC công nhận các hợp chất của asen là
các chất gây ung thư nhóm 1 và EU liệt kê TrioxitAs, PentoxitAs và các muối
Asenat là các chất gây ung thư loại 1.
Thủy ngân (Hg)
Tính độc của Hg trong môi trường rất cao vì khả năng tích tụ theo chuỗi thức
ăn và khả năng đào thải thấp. Các biến chứng khi nhiễm thủy ngân là nghiêm trọng,
đặc biệt là thủy ngân hữu cơ (dạng cực độc là metyl thủy ngân). Dưới đây là một số
tính độc thường thấy của các hợp chất thủy ngân:
- Hg nguyên tố: không độc, trơ và được đào thải nhanh.
- Hg dạng hơi: rất độc, có thể theo đường hô hấp phổi máu não
gây độc.
- Hg dạng muối vô cơ HgCl2, Hg2Cl2 ít tan, ít độc vì thường là hợp chất
không tan.
- Hg+2 là ion độc nhưng khó vận chuyển qua màng sinh học của tế bào (khó
xâm nhập qua màng sinh học của tế bào) nhưng có khả năng kết hợp với lưu huỳnh
trong cấu trúc của Enzim để đi vào tế bào:
- Metyl thủy ngân là hình thái độc nhất của thủy ngân, có thể hoà tan trong
mỡ hoặc các thành phần lipit của màng trong não, được tích tụ trong các tế bào với
chu kì bán dài. Metyl thủy ngân có thể được vận chuyển từ mẹ sang con khi mẹ bị
nhiễm độc. Metyl thủy ngân tích lũy ở thủy sản vì không thể loại bỏ theo quá trình
7
chế biến thủy sản do metyl thủy ngân liên kết chặt với protein trong tế bào, 95%
metyl thủy ngân sẽ hấp thụ vào trong các bộ phận của loài cá sau 2 ngày và tồn tại
trong cơ thể từ 70÷90 ngày. Vì vậy, metyl thủy ngân sẽ đi vào cơ thể người thông
qua việc ăn cá, gây ra bệnh Minamata tại Nhật Bản (mất điều khiển thần kinh trung
ương) khi mà cơ thể hấp thu một lượng metyl thủy ngân cao hơn 0,1µg/kg/ngày
[18].
Thủy ngân là chất độc có khả năng tích lũy sinh học, được hấp thụ qua da,
các cơ quan hô hấp và tiêu hóa của động vật.Khả năng hấp thụ vào cơ thể của thủy
ngân phụ thuộc vào dạng tồn tại của thủy ngân:
- Hơi thủy ngân: dễ hấp thụ qua hô hấp
- Metyl thủy ngân: dễ hấp thụ qua da, tiêu hóa, hô hấp
- Muối thủy ngân, thủy ngân lỏng: khó hấp thụ, thủy ngân hấp thụ qua đường
tiêu hóa và đào thải ngay ra ngoài cơ thể theo đường phân.
- Metyl thủy ngân là hình thái độc nhất của thủy ngân, có thể hoà tan trong
mỡ hoặc các thành phần lipit của màng trong não, được tích tụ trong các tế bào với
chu kì bán dài. Metyl thủy ngân có thể được vận chuyển từ mẹ sang con khi mẹ bị
nhiễm độc. Metyl thủy ngân tích lũy ở thủy sản vì không thể loại bỏ theo quá trình
chế biến thủy sản do metyl thủy ngân liên kết chặt với protein trong tế bào, 95%
metyl thủy ngân sẽ hấp thụ vào trong các bộ phận của loài cá sau 2 ngày và tồn tại
trong cơ thể từ 70÷90 ngày. Vì vậy, metyl thủy ngân sẽ đi vào cơ thể người thông
qua việc ăn cá, gây ra bệnh Minamata tại Nhật Bản (mất điều khiển thần kinh trung
ương) khi mà cơ thể hấp thu một lượng metyl thủy ngân cao hơn 0,1µg/kg/ngày.
Thủy ngân vào cơ thể thường tích tụ trong máu, tế bào thần kinh của não,
thận và các mô mỡ.
Biểu hiện nhiễm độc cấp tính là ho, khó thở, thở gấp, sốt, buồn nôn, hôn mê,
đau dạ dày và co thắt ở vùng ngực. Trường hợp nặng dẫn đến tử vong.
Biểu hiện nhiễm độc mãn tính: vàng da do suy yếu chức năng của gan, rối
loạn tiêu hóa do suy yếu chức năng của men tiêu hóa, viêm lợi do đào thải thủy
ngân qua nước bọt tích tụ ở chân răng, các bệnh về thần kinh như đau đầu, rối loạn
thần kinh, nói lắp, run tay, mất cảm giác, co giật,… và có thể bị teo vỏ tiểu não.
8
Chứng bệnh Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân. Thủy ngân tấn công
hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết và ảnh hưởng tới miệng, các cơ hàm và răng. Sự
phơi nhiễm thủy ngân kéo dài gây ra các tổn thương não và gây tử vong. Nó có thể
KhÝ quyÓn
gây ra các rủi ro hay khuyết tật đối với thai nhi [1]
2 3
Thuû quyÓn
7 4 8 5 1 8
§Þa quyÓn
6 10 9
Hình 1.2.Vòng tuần hoàn thuỷ ngân trong môi trường [27]
1. Thủy ngân bay hơi từ môi trường nước
2. Thủy ngân phát sinh từ ống khói nhà máy công nghiệp vào khí quyển
3. Thủy ngân phát sinh vào không khí từ hoạt động núi lửa
4. Thủy ngân bay hơi từ môi trường đất
5. Thủy ngân đi vào chuỗi thức ăn từ thủy hải sản
6. Trao đổi thủy ngân từ môi trường đất vào môi trường nước
7. Thủy ngân từ môi trường không khí vào môi trường đất
8. Thủy ngân từ môi trường không khí vào môi trường nước
9. Thủy ngân từ môi trường nước vào môi trường trầm tích
10. Thủy ngân đưa vào môi trường đất từ hoạt động khai khoáng
9
1.2. Tình hình nghiên cứu tích lũy kim loại nặng trong sinh vật trong
nước và trên thế giới
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Từ những năm 40 của thế kỷ 20, đã có những nghiên cứu về sự tích lũy của
KLN trong mô của các loại động vật thân mềm. Các nghiên cứu được tổng hợp
trong nghiên cứu trên thế giới về loài hai mảnh vỏ cho thấy như sau:
- Nhiều nghiên cứu chi tiết về tích lũy thủy ngân trong loài hai mảnh vỏ cho
thấy khả năng tích tụ thủy ngân cao. Đặc biệt sự tập trung cao của các KLN được
tìm thấy trong một vài loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ cho thấy vai trò chỉ thị kim loại
nặng nói chung và thủy ngân nói riêng là rõ rệt [29].
- Nghiên cứu của Y. Modassir (2000) về ảnh hưởng độ muối đến độc tính
thủy ngân trong trai Polymesoda erosa ở Philipine. Kết quả nghiên cứu cho thấy
ảnh hưởng của độ muối rõ rệt, tỷ lệ tử vong tăng khi độ muối tăng. Thí nghiệm LC50
sau 96h nồng độ thủy ngân là 0,58ppm, 0,35 ppm, 0,26 ppm tương ứng 5‰, 20‰và
30‰ở nhiệt độ phòng. Tích lũy thủy ngân trong mô sinh vật lớn hơn bộ phận mang
và một số bộ phận khác. Lượng thủy ngân trong mô sinh vật phụ thuộc nồng độ môi
trường và thời gian phơi nhiễm. Tích lũy đạt cực đại khi độ muối cao (30‰).
- Nghiên cứu về Meretrix meretrix của Wang Y và các đồng sự (2005)ở biển
BOHAI, Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đưa ra mức tích lũy thủy ngân trong mô
ngao có giá trị trung bình 10-90 ng/g ướt. Đây là một trong kết quả quan trọng để so
sánh mức độ tích lũy thủy ngân của loài ngaoMeretrix lyrata theo phân vùng địa lý
[37].
- Nghiên cứu của Abdullah MH (2007) về mức độ tích lũy kim loại nặng
(Cd, Cu, Cr, Pb và Zn) ở loài ngaoMeretrix meretrix. Nghiên cứu chỉ ra rằng, mối
quan hệ chặt chẽ giữa hàm lượng kim loại nặng trong nước và trầm tích ở cửa sông
Sabah, phía bắc Borneo, Malaysia [25].
- Nghiên cứu của Claude R. JoirisU (1998) cho thấy mức độ tích lũy thủy
ngân trong loài hai mảnh Anadara_Senilia. Senilis ở Ghana và Nigeria. Nồng độ
thủy ngân tổng khá khác nhau theo không gian với giá trị trung bình là 0,1 µg/g khô
đối với các đầm phá kín; 0,2 µg/g khô µg/g khô đối với cửa sông; 0,3 µg/g khô đối
với các đầm phá mở. Nồng độ thủy ngân có xu hướng cao trong suốt mùa khô ở phá
10
nhưng lại thấp ở vùng cửa sông. Nồng độ metyl thủy ngân trung bình chiếm từ 20 ÷
60%, phụ thuộc vào vị trí thu mẫu và mùa. Ảnh hưởng của tuổi sinh vật trong phá
có biểu hiện rõ, nồng độ thủy ngân tổng tăng lên theo độ dài [28].
- Nghiên cứu của Sayler G.S (1975) về vai trò của một số vi khuẩn kháng
thủy ngân đã được thực hiện để xác định vai trò của chúng trong việc tích lũy thủy
ngân trong một chuỗi thức ăn đơn giản. Hàu(Crassostrea virginica) được thí nghiệm
203Hg của hàu theo các điều kiện kiểm soát được so với sự hấp thu của 203Hg bởi
trong một hệ thống bể có sục khí DO và nồng độ 203HgC12 là 10µg/lít. Sự hấp thu
hàu trong điều kiện đối chứng không có thủy ngân. Tổng thời gian thí nghiệm 4
ngày cho thấy thành phần của 203Hg trong cột nước liên quan đến các chất lơ lửng,
tương ứng với sự gia tăng khi tính tổng số. Thủy ngân tích tụ trong hàu ở mang và
nội tạng cao hơn so với các bộ phận khác. Nồng độ thủy ngân trong mô hàu lớn hơn
200 lần ở bể thí nghiệm khi cho thêm thủy ngân so với bể đối chứng không thêm
thủy ngân [31].
- Nghiên cứu của Helena do A. Kehrig (2001), tại vịnh Guanabara khu vực
bờ biển đông nam Brazil. Đây là khu vực có hệ sinh thái bị ảnh hưởng nặng nề bởi
chất hữu cơ, dầu và một số các hợp chất độc hại khác, bao gồm thủy ngân. Nghiên
cứu đánh giá các loài thủy sản bị nhiễm thủy ngân tổng (HgT) và metyl thủy ngân
(HgMe). Có tổng cộng 291 mẫu vật được thu thập ở vịnh trong thời kỳ khác nhau
giữa 1988 và 1998. Hàm lượng tổng thủy ngân và metyl thủy ngân trong loài vẹm
khác nhau tùy vào chất lượng nước từng khu vực nghiên cứu. Mức độ tích tụ metyl
thủy ngân trong cá tạp tương tự như mức độ tích tụ trong động vật thân mềm, tuy
nhiên khác nhau về tỷ lệ HgT/HgMe (cá ăn thịt >98%, cá tạp -54% và động vật thân
mềm 33%). Nồng độ HgTvà HgMe trong các loài sinh vật đều thấp vì liên quan đến
hàm lượng chất lơ lửng (Thủy ngân được hấp thụ vào các hạt rắn lơ lửng nên ít tồn
tại trong cột nước làm giảm khả năng hấp thụ vào sinh vật). Kết quả của nghiên cứu
hiện nay cho thấy ảnh hưởng của mẫu vật có kích thước, độ nhạy cảm theo mùa và
những thay đổi chất lượng nước, thói quen ăn, mức độ dinh dưỡng và mức độ ô
nhiễm môi trường của sinh vật cửa sông với thủy ngân và metyl thủy ngân [32].
Nghiên cứu của P. Bustamante và các đồng sự (2006) về thủy ngân tổng và
thủy ngân hữu cơ trong động vật thân mềm trong biển Đông Bắc Atlantic. Nghiên
11
cứu phân tích 20 loài động vật thân mềm (n = 278) từ vịnh Biscay đến đảo Faroe.
Tổng thủy ngân trong mô sinh vật dao động từ 40 ÷ 3560 ng/g khô. Thực tế, từ 75%
đến 95% tổng thủy ngân và thủy ngân hữu cơ vẫn còn tồn lưu trong mô sinh vật. Vì
thế, thủy ngân hữu cơ có ái lực mạnh với protein trong động vật thân mềm. Giống
và kích thước ảnh hưởng tới sự tích tụ thủy ngân đối với họ mực ống. Tổng thủy
ngân và thủy ngân hữu cơ bị ảnh hưởng bởi phân vùng địa lý Biển Celtic> Vịnh
Biscay> đảo Faroe, tương ứng với nồng độ thủy ngân trong nước biển các khu vực
đó. Tại khu vực đảo Faroe và biển Celtic, động vật đáy thân mềm chứa nồng độ
thủy ngân cao hơn so với các khu vực ngoài biển khơi. Khuyến cáo sử dụng động
vật thân mềm không phải là con đường chính dẫn đến tích tụ thủy ngân như sử dụng
cá (đặc biệt là thủy ngân hữu cơ).
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu sử dụng các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ đánh giá ô nhiễm kim
loại nặng là vấn đề có tính thực tiễn nhằm phát triển hệ thống chỉ thị sinh học ở
nước ta.Tuy nhiên, các nghiên cứu về kim loại nặng (bao gồm thủy ngân) trong
loài hai mảnh vỏ ở Việt Nam còn khá mới mẻ và chưa đồng bộ. Tổng quan các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nghiên cứu tích lũy asen, thủy ngân trong sinh vật
nhuyễn thể hải mảnh vỏ như tu hài, ngán và ngao trắng có ý nghĩa to lớn trong việc
quan trắc môi trường, an toàn thực phẩm - một trong những nhu cầu bức xúc hiện
nay.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu kim loại nặng trong loài hai mảnh ở Việt
Nam ở bảng 1.1.
Bảng 1.1.Tổng hợp các nghiên cứu về tích lũy kim loại nặng trong loài
hai mảnh vỏ ở Việt Nam
Loài Nguyên tố Tham khảo Khu vực nghiên cứu
Trai (Sinanodonta) Đặng Kim Chi, Hoàng
Ốc (Angulyagra và Cr, Cd Miền Bắc Thu Hương, Vũ Thị Hồng
SinotaiaHass) Hưng,2005 [3]
Ngao trắng Bến Tre Cu, Pb, Zn, Quảng Ninh, Nguyễn Công Thành,
Meretrixlyrata As, Cd, Hg Hải Phòng, 2013
12
Loài Nguyên tố Tham khảo
Khu vực nghiên cứu Thái Bình, Dương Thanh Nghị,2009,
Thanh Hóa, Trạm quan trắc và phân
Nghệ An tích môi trường biển ven
bờ phía Bắc(2004 – 2012)
[17]
Ngao trắng Bến Tre Bùi Đặng Thanh, 2010 As, Cd, Cu Hải Phòng Meretrixlyrata [15]
Ngao dầu Nguyễn Văn Khánh, Trần Cửa Đại- Đà (Meretrixmeretrix) Hg Duy Vĩnh và nnk, 2009 Nẵng Hến (Corbiculasp.) [8]
Vẹm xanh Đầm Nha Phu, Đào Việt Hà, 2002 Cu Pernaviridis Nha Trang [12]
Đông Nam Các loài ngao Sn, Hg, Nguyen Phuc Cam Tu và Bộ - Việt Meretrix spp. Sb, Cs, Ba nnk, 2010 [13] Nam
Vịnh Vân Hàu Cd, Cr, Cu, Lê Thị Vinh, 2005 Phong, Khánh (Saccostreacucullata) Pb, và Zn [23] Hòa
Cần Giờ - Phạm Kim Phương, Chu Ngao trắng Bến Tre As, Cd, Pb Thành Phố Phạm Ngọc Sơn, Nguyễn Meretrixlyrata Hg Hồ Chí Minh Thị Dung, 2008 [12]
Nghêu Cửa sông Hg Lê Xuân Sinh, 2012 [6] Meretrixlyrata Bạch Đằng
Đỗ Đăng Khoa, Trần Tu hài Vân Đồn, As, Hg Thanh, Thái Thanh Bình, Lutraria Rynchaena Quảng Ninh 2014 [5]
Theo thống kê các kết quả nghiên cứu tại khu vực phía Nam, hai tác giả
Nguyễn Phúc Cẩm Tú và Phạm Kim Phương xác định xu thế tích tụ thủy ngân ở
dạng tổng tích tụ trong mô thịt nghêu Meretrix lyrata.
13
Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong các loài hai mảnh vỏ tại
khu vực miền Trung: So sánh QCVN 8-2:2011/BYT đối với Hg, Cd, Pb cho thấy,
các loài nhuyễn thể động vật hai mảnh vỏ tại các cửa sông đã có dấu hiệu nhiễm
kim loại nặng. Cụ thể, sự nhiễm bẫn Hg đã được phát hiện trong các loài Hến và
Hàu thu tại khu vực cửa Thuận An vào tháng 8/2012. Theo nghiên cứu của Đào
Việt Hà (2002), hàm lượng kim loại nặng trong Vẹm xanh (Perna viridis
Linnaeus),1758) tại Đầm Nha Phu (Khánh Hòa) dao động từ 0,003 - 0,21 mg/kg
tươi đối với Cd và từ 0,14 - 1,11 mg/kg đối với Pb. Trong nghiên cứu về sự tích tụ
Pb trong số loài động vật hai mảnh vỏ tại một số điểm ven biển Đà Nẵng, Lê Thị
Mùi (2007) trình bày hàm lượng Pb từ 1,13 - 2,12 mg/kg tươi. Nghiên cứu của Ngô
Văn Tứ và cộng sự (2009) ở đầm Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế) cho thấy hàm lượng
trung bình kim loại nặng trong Vẹm xanh (Perna viridis Linnaeus, 1758) là 0,67
mg/kg tươi đối với Pb và 0,14 mg/kg tươi đối với Cd. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Khánh và cs. (2010) trình bày kết quả hàm lượng Hg trong động vật
hai mảnh vỏ tại Cửa Đại (Quảng Nam) từ 0,038 - 0,118 mg/kg tươi đối với loài
Ngao dầu (Meretrix meretrix L.) và từ 0,036 - 0,112 mg/kg tươi đối với loài Hến
(Corbicula sp.) Theo một nghiên cứu khác của Lê Thị Vinh (2012) về hàm lượng Cr
trên đối tượng Hàu Saccostrea cucullata từ 0,28 đến 1,03 mg/kg tại khu vực vịnh
Vân Phong (Khánh Hòa) [7].
Khu vực phía Bắc: Nghiên cứu của Lê Xuân Sinh, 2014 về tích lũy thủy
ngân trong nghêu trắng Bến Tre tại khu vực Đồng Bài, Cát Hảicho thấy quá trình
tích tụ thủy ngân của nghêu trắng qua quá trình lọc thức ăn từ lớp nước đáy và chủ
yếu từ dạng thủy ngân liên kết chất rắn lơ lửng (chiếm trên 50÷74%). Mức độ tích
tụ metyl thủy ngân chiếm 23,1 ÷ 38,7% trong tổng các dạng thủy ngân phát hiện
được trong ruột nghêu [6].Nghiên cứu của Đỗ Đăng Khoa, Trần Thanh, Thái Thanh
Bình, 2014, hàm lượng As trong thịt tu hài nuôi tại các xã nghiên cứu (Vân Đồn,
Quảng Ninh) dao động 1,014 - 1,060 µg/g, cao hơn giới hạn cho phép và tỉ lệ thuận
với kích thước vỏ. Hàm lượng Hg trong thịt tu hài nuôi tại Vân Đồn dao động 0,197
- 0,315 µg/g, thấp hơn giới hạn cho phép và tỉ lệ thuận với kích thước vỏ [5].
14
Nghiên cứu của Dương Thanh Nghị và cs (2009) cho thấy, kết quả phân tích
hàm lượng asen trong ngao trắng tại cửa sông Lạch Tray, Hải Phòng trung bình là
0,19mg/kg khô, tại Đồ Sơn, Hải Phòng trung bình là 0,23mg/kg khô [17].
15
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài sinh vậtnhuyễn thể hai mảnh vỏ phân bố tại bãi triều của khu vực
ven biển Đông Bắc Bộ là:ngán tập trung tại thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh;
loài tu hài ở trong khu vực Vịnh Cát Bà – Hải Phòng; loài ngao trắng ở bãi Đồng
Bài, huyện Cát Hải – Thành phố Hải Phòng.
Tu hài
Tu hài (tên khoa học là Lutraria rhynchaena) là một loài nhuyễn thể hai
mảnh vỏ thuộc họ Mactridae trong bộ Veneroida. Chúng còn được gọi dưới tên ốc
vòi voi hay con thụt thò. Tu hài sống trong nước mặn, rải rác trên các trương cát
ngầm và thềm cát có san hô ở vùng biển ấm.Chúng có thể thích nghi với môi trường
nước trong với độ mặn ổn định, có thủy triều lên xuống hay ở các vùng bãi bùn cửa
sông nước lợ.Chúng thích nghi nhiệt độ từ 10-350C và độ mặn từ 25-45‰.Tuy
nhiên khoảng nhiệt độ và độ mặn thích hợp của chúng là từ 18- 300C và 25- 30‰.
Môi trường đáy thích hợp cho đời sống của chúng là cát pha xác san hô hoặc mảnh
vụn nhỏ nhuyễn thể. Tu hài là loài ăn theo phương thức lọc, thức ăn chủ yếu là tảo
khuê. Khi nước triều lên, tu hài thò vòi lên mặt cát để ống xi phông lọc thức ăn.
Thức ăn thay đổi theo giai đoạn phát triển và theo điều kiện môi trường. Thành
phần thức ăn của nhuyễn thể chủ yếu là mùn bã hữu cơ, sinh vật phù du trong đó có
thực vật phù du chiếm tỷ lệ cao hơn động vật phù du [13].
Tu hài phân bố ở khu vực Đông Bắc Bộ rộng trong tự nhiên và nuôi thương
mại. Tu hài phân bố trong tự nhiên không nhiều, rời rạc và khó bắt. Vịnh Lan Hạ
(đảo Cát Bà – Thành phố Hải Phòng) là khu vực tập trung nuôi tu hài đầu tiên ở khu
vực Đông Bắc Bộ với số lượng lớn. Môi trường nước ở đây độ mặn cao, nguồn thức
ăn đảm bảo để phát triển nghề nuôitu hài.
Tu hài thường được nuôi trong lồng treo, chứa đầy cát vỏ nhuyễn thể nên tu
hài là loài sống trong nước và ăn lọc. Môi trường cát chỉ là giá thể để loài tu hài
bám. Hiện tại ở khu vực Cát Bà có hai cách nuôi là treo rổ cát ở bè hoặc xếp rổ cát
lên các bãi triều thấp (nước triều luôn ngập các rổ cát).
16
Hình 2.1.Sơ đồ phân bố loài tu hài
Chú thích: Tu hài ký hiệu là Lr
Thuận lợi lớn nhất khi nuôi giống tu hài này là không phải cho ăn, chỉ mất
tiền đầu tư ban đầu về giống, lồng. Đáng chú ý, do đặc tính sinh học, tu hài nuôi
không làm ảnh hưởng mà còn góp phần làm trong sạch môi trường nước biển,
tương tự đặc tính của giống tu hài bản địa. Để nuôi được tu hài, chỉ cần làm các
lồng rất đơn giản với diện tích khoảng 10 - 15m2/ô, cho ô lồng chìm ở độ sâu 2 -
3m, đổ cát vào các ô đó tạo môi trường giống như tự nhiên, gồm một tập hợp cát, vỏ
nhuyễn thể, vụn san hô được thiên nhiên làm sạch (không phải cát mịn hoặc cát xây
dựng). Về thức ăn, tu hài hầu như chỉ ăn các sinh vật có sẵn trong biển như tảo,
rong, rêu, lại ít bị dịch bệnh, vì thế nguồn lợi tu hài mang lại rất lớn.
Ngán
Ngán (tên khoa học là Austriella corrugata) thuộc họ Ngán (Lucinidae), là
loài nhuyễn thể, hai mảnh vỏ sống ở vùng nước mặn và nước lợ.Ngán phân bố chủ
yếu tại vùng triều, nằm sâu dưới bùn (từ 0,5 – 1m) trong các rễ cây đước, bần, sú
vẹt… của các khu hệ rừng ngập mặn nơi có độ mặn trung bình là 25‰, và nước có
độ trong thấp. Ngán có vỏ sần sùi màu trắng xám do sống sâu dưới đáy bùn cát. Khi
17
ở dưới nước, ngán thường thò chiếc xúc tu to và dài để thở và kiếm thức ăn, nếu
thấy mặt nước động là chui nhanh xuống dưới bùn để trốn kẻ thù [13].
Tại Việt Nam, loại ngán to và ăn được duy nhất chỉ có tại khu vực cửa sông
Bạch Đằng nơi giáp ranh giữa Quảng Ninh và Hải Phòng. Ngán là đặc sản của
Quảng Ninh[2].
Trước đây ngán không chỉ phân bố ở Hoàng Tân –Quảng Yên mà phân bố ở
nhiều khu vực nhưng ngán tại Hoàng Tân có đặc điểm nổi trội về kích thước. Ngán
miền Bắc phân bố hiện nay theo điều tra chỉ tập trung ở khu vực nghiên cứu là xã
Hoàng Tân –Quảng Yên – tỉnh Quảng Ninh.
Hình 2.2 Sơ đồ phân bố loài ngán
Chú thích: Ngán ký hiệu là Ac
Ngán bắt được từ môi trường tự nhiên, phân bố ở rừng ngập mặn (độ sâu
60cm). Ngán sống trong bãi triều có cấp hạt là bùn bột nhỏ. Ngán được thu bắt
quanh năm nên giảm số lượng và kích thước. Để bắt ngán phải nhờ những người có
kinh nghiệm nhìn phát hiện ra lỗ mà ngán sống và dùng dụng cụ (dùi dắt có độ dài
1m). Những người bắt ngán bằng kinh nghiệm phát hiện khu vực có ngán sinh sống
và họ dùng dùi sắt xâm sâu xuống bùn và khi chạm vào Ngán họ sẽ dùng tay móc
sâu (60cm) để bắt ngán.
18
Ngao trắng
Ngao trắng (tên khoa học là Meretrixlyrata) thuộc họ Veneridae chuyên sống
ở vùng nước ven biển có độ mặn cao, nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở
vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Ngao trắng có thân hình tròn, màu
trắng,phân bố ở vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, từ Đài Loan đến Việt Nam.
Môi trường sống của ngao trắng là các bãi có chất đáy cát bùn(tỷ lệ cát thích hợp là
60 - 70%) hay sống vùi trong đáy cát bùn của vùng triều, chủ yếu ở giải triều giữa
và dưới triều, chịu được độ mặn từ 7-25 ‰. Ngao là loài sống đáy, chân phát triển
để đào cát vùi mình xuống dưới, để hô hấp và kiếm mồi, ngao thò vòi nước lên mặt
bãi tạo thành một lỗ hình bầu dục (từ lỗ này biết được chỗ ở của ngao), tuy nhiên do
vòi rất ngắn nên ngao không thể chui sâu vào cát mà thước nằm sâu dưới mặt cát
vài cm, khi trời lạnh, ngao chui xuống sâu hơn, song không quá 10cm. Ngao là loài
ăn lọc, phương thức bắt mồi bị động. Khi triều lên,ngao thò vòi lên mặt cát hút nước
để lọc mồi ăn. Thức ăn của ngao chủ yếu là các loại tảo, các mảnh vụn và chất vẩn
cặn hữu cơ trong nước. Ngao có thể ngậm vỏ không ăn trong một thời gian dài [14].
Nghề nuôi ngaoMeretrixlyrata ở cửa sông Bạch Đằng: phát triển từ rất sớm,
diện tích ngao nuôi khoảng 23,9ha (2000) tăng lên đến 155,5 ha (2007) và ổn định
cho đến nay [9]. Hiện nay, đối tượng nuôi chủ yếu là ngao trắng Bến Tre
(Meretrixlyrata), một loài ngao có xuất xứ từ tỉnh Bến Tre. Loài ngao Bến Tre
nhanh chóng phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng cửa sông Bạch Đằng. Quy
trình nuôi ngaođơn giản, năng suất cao nên loài ngaoMeretrixlyrata dần dần lấn át
các loài bản địa như ngao dầu (Meretrixmeretrix), ngao lụa (Paphiaundulata). Toàn
bộ bãi triều khu vực xã Đồng Bài, Cát Hải, Hải Phòng đã được khai thác để nuôi
ngao, năng suất hiện nay khoảng 30 tấn/ha, tổng sản lượng nuôi hàng năm ở khu
vực này khoảng 4.500tấn/năm (theo điều tra thực tế). Giá trị kinh tế của nghề nuôi
ngao Bến Tre rất cao, một tấn ngao sau thời gian nuôi một năm có giá khoảng 15 ÷
20 triệu đồng (điều tra thực tế). Nghề nuôi ngao đã giúp các hộ dân sống trong khu
vực huyện Cát Hải thoát nghèo. Cơ sở hạ tầng và nhà cửa của các hộ dân tại khu
vực nuôi ngao phát triển hơn trước năm 2000, khi nghề nuôi ngao chưa phát triển.
Sản lượng ngao cung cấp làm thực phẩm dồi dào cho cộng động ven biển, nguồn
nguyên liệu cho ngành chế biến thủy sản và xuất khẩu.
19
Năm 2007 Năm 2000
Hình 2.3. Biến động diện tích nuôi ngao khu vực cửa sông Bạch Đằng [9]
Chú thích: Diện tích nuôi ngao biến động từ 23,9ha (2000) tăng lên đến 155,5 ha (2007) Cải tạo bãi: Đối với bãi triều thấp được với tỷ lệ bùn lớn nên cần bơm cát vào
bãi để đảm bảo tỷ lệ cát/bùn mà ngao phát triển thích hợp là 8/2.
Thời gian thả giống: Hiện tại ngao được thả tập trung vào một đợt bắt đầu từ
tháng 5 âm lịch. Thời gian thả giống này tránh được tháng 2 ÷ 3 âm lịch, gây chết
ngao hàng loạt. Tuy nhiên lại gây ra hiện tượng khan hiếm ngao giống dẫn đến
không kiểm soát được chất lượng nguồn giống. Khi ngao đạt kích thước thương
phẩm cùng lúc làm giảm giá mua và nhu cầu tiêu thụ không đáp ứng được hết.
Kích thước giống: Kích thước tối ưu từ 400 ÷ 500 cá thể /kg. Thí nghiệm thả
ngao giống ngao tấm (2 ÷ 3 nghìn cá thể /kg) và kết quả thu được là giống bị phát
tán 100%.
Thu hoạch: Thu hoạch ngao lúc nước kiệt để ngao không ngậm đất trong
miệng. Ngao thu bằng cào thủ công là chủ yếu, đối với Nam Định dùng thuyền máy
để khai thác [16].
Cân nặng hay số lượng cá thể không được sử dụng để tìm xu thế giữa ngao
và tháng tuổi vì cân nặng của ngao không ổn định phụ thuộc nhiều các yếu tố:
lượng nước trong ruột ngao, thành phần bùn và cát trong ngao.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là bãi triều các huyện Cát Hải (Hải Phòng)
và thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh). Hai khu vực này là nơi phân bố tập trung chủ
yếu của các loài sinh vậthai mảnh vỏ và là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
20
MCII
MCIII
MCI
Hình 2.4.Sơ đồ thu mẫu tại khu vực nghiên cứu
Trong đó:
- MCI: Khu vực vịnh Lan Hạ, đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải
Phòng (lấy mẫu nước, trầm tích và tu hài)
- MC II: Khu vực Hoàng Tân, tỉnh Quảng Ninh (lấy mẫu nước, trầm tích và
ngán)
- MCIII: Khu vực xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng (lấy
mẫu nước, trầm tích và ngao trắng)
2.12.1. Vị trí địa lý
Khu vực nghiên cứu là vùng nuôi trồng thủy sản khu vực Đông Bắc Bộ, bao
gồm thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh:
Hải Phòng là một thành phố ven biển có các hệ sinh thái nước ngọt, nước lợ,
nước mặn đa dạng và phong phú. Theo ước tính, nguồn lợi thuỷ sản mỗi năm ở
21
vùng cửa sông Bạch Đằng có khoảng 4,5 tấn tu hài, 3000 tấn sò lông, 5000 tấn
ngao, 1000 tấn ngán, 2000 tấn sò huyết [14].
Tỉnh Quảng Ninh có diện tích phân bố các loài nhuyễn thể ở huyện Yên
Hưng, huyện Quảng Yên và sá sùng ở đảo Quán Lạn - huyện Vân Đồn. Sản lượng
loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao như tu hài là 100 ÷ 150 tấn trong năm 2007 và
500 tấn trong năm 2008. Theo thống kê của huyện Vân Đồn, sản lượng khai thác sá
sùng ở Minh Châu năm 1996 là 12 tấn khô; năm 1997 là 10 tấn và năm 1998 từ 6
đến 8 tấn [14].
2.1.2.2. Nguồn thải As, Hg ra môi trường khu vực nghiên cứu
Asen (As) trong tự nhiên có mặt trong nguồn nước ngầm; thuốc trừ sâu;
thuốc diệt cỏ; nước thải công nghiệp như công nghiệp chế biến thuốc nhuộm, xà
phòng; nước thải công nghiệp luyện kim; trong hoạt động khai khoáng;…
Thủy ngân (Hg) được sử dụng làm sơn chống thấm, chất xúc tác, chất ăn
mòn, bột màu, thuốc nổ thuốc bảo vệ thực vật. Thủy ngân phát sinh ra ngoài môi
trường chủ yếu do hoạt động khai khoáng quặng, trong nước thải công nghiệp, nước
thải sinh hoạt, nước rỉ rác, rác thải công nghiệp [1].
Hiện trạng các chất ô nhiễm có tính độc trong môi trường ven bờ Đông Bắc
Bộ (bao gồm hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng) cần phải nghiên cứu do phải tiếp
nhận các nguồn thải từ lục địa qua nhiều cửa sông (cửa Bạch Đằng, cửa Văn Úc,
cửa Lục,..) (hình 1.2). Tại vùng cửa sông Bạch Đằng – Hải Phòng, hàng năm dòng
chảy sông đổ ra biển khoảng 10,5 nghìn tấn chất COD; 4,4 nghìn tấn BOD5; gần 1
nghìn tấn nitơ tổng số; 343 tấn Photphos tổng số và khoảng 6 tấn kim loại nặng các
loại. Dự báo đến năm 2020, tải lượng ô nhiễm đưa từ cửa sông Bạch Đằng ra biển
sẽ tăng từ 1,7 đến 2,4 lần [15].
22
Hình 2.5.Cácdòng thải từ lục địa đưa ra biển ven bờ Đông bắc Bắc Bộ
- Nguồn công nghiệp: Đây là lĩnh vực thải lượng lớn thủy ngân vào môi
trường không khí và nước. Thủy ngân được ứng dụng rất nhiều trong các lĩnh vực
đời sống nên nó có mặt trong nguồn thải của nhiều lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là
nhiệt điện, luyện kim.
Thủy ngân được sử dụng trong thành phần không thể thiếu khi sản xuất bóng
đèn.Lượng thủy ngân sử dụng cho sản xuất đèn đứng hàng thứ ba gần bằng với
lượng thủy ngân sử dụng trong các bộ chuyển mạch, thiết bị đo, điều khiển cho ô tô
và dây điện ở Mỹ. Trong các vật dụng hàng ngày (đèn huỳnh quang) là nguồn gây ô
nhiễm thủy ngân vì mỗi bóng đèn compact để đạt được độ sáng nhất định và tiết
kiệm điện năng so với bóng đèn huỳnh quang và các loại bóng đèn thông thường
khác nhà sản xuất phải dùng một lượng thuỷ ngân nhất định (0,05ml thuỷ
ngân/bóng)[29]. Theo Hiệp hội sản xuất Điện tử Mỹ thì mỗi bóng đèn chứa thủy
ngân có hiệu suất năng lượng cao hơn 3-4 lần/1 đơn vị chiếu sáng so với các loại
đèn chiếu sáng khác. Số lượng bóng đèn chứa thuỷ ngân được sử dụng trong thương
mại và công nghiệp chiếm tới 2/3 và theo yêu cầu của quy định chung về chất thải
của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, sản phẩm sau khi sử dụng phải được chôn
lấp tại các bãi chôn lấp chất thải độc hại hoặc đưa đến các cơ sở tái chế. Tuy nhiên,
tỷ lệ tái chế thuỷ ngân chỉ dừng ở mức 28%. Đèn sử dụng cho mục đích sinh hoạt
23
chiếm tới 1/3 nhưng chỉ tái chế được gần 2%. Việc xử lý bòng đèn đã qua sử dụng
cho mục đích sinh hoạt hiện không có quy định cụ thể. Đối với Việt Nam thì tỷ lệ
tái chế thấp và mới là mô hình thử nghiệm [7].
Khu vực duyên hải Đông Bắc Bộ, cửa sông Bạch Đằng là nơi hội tụ của
nhiều con sông đi qua các tỉnh có nhiều khu, cụm công nghiệp như tỉnh Hải Dương.
Hải Dương là tỉnh tiếp giáp với Hải Phòng và có nhiều con sông (Sông Kinh Thầy,
sông Hàn, sông Kinh Môn) bắt với sông Bạch Đằng đổ ra cửa Cấm – Nam Triệu.
Tại khu vực cửa sông Bạch Đằng cho thấy các hoạt động công nghiệp diễn ra sôi
động và có nhiều nhà máy trong nguồn thải có chứa thủy ngân [6].
Đối với khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh, nguồn phát thải kim loại nặng vào
môi trường chủ yếu từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và khai thác than. Tại
Quảng Ninh, công nghiệp than chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất công nghiệp, là
nguồn ô nhiễm chủ yếu gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường và tài nguyên
vùng Vịnh Hạ Long – Bái Tử Long.
Đối với khu vực Hải Phòng, các nguồn kim loại nặng chủ yếu là từ công
nghiệp. Các ngành sản xuất chính có phát thải kim loại nặng là công nghiệp giấy,
sơn, nhựa, thép [6].
- Nguồn nông nghiệp: sử dụng thuốc diệt loài gặm nhấm, diệt nấm, thuốc
trừ sâu,… Trong đó có loại thuốc có chứa asen, thủy ngân, đồng,…
Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn năm 2016, nếu như trước năm 1985 khối lượng hóa chất bảo vệ thực vật dùng
hằng năm khoảng 6.500 - 9.000 tấn thì trong 3 năm gần đây, hằng năm Việt Nam
nhập và sử dụng từ 70.000 - 100.000 tấn, tăng gấp hơn 10 lần. Trong đó, có tới 80%
thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam đang được sử dụng không đúng cách, không cần
thiết và rất lãng phí. Lượng thuốc bảo vệ thực vật dư thừa thẩm thấu xuống đất và
nguồn nước, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Do ý thức của người dân còn kém nên sau
khi sử dụng thuốc, vỏ bao bì được vứt ngay xuống đồng ruộng. Căn cứ vào số lượng
thuốc bảo vệ thực vật sử dụng hằng năm thì môi trường nông nghiệp Việt Nam có
khoảng từ 150 - 200 tấn thuốc từ bao bì thải loại vào đồng ruộng gây ô nhiễm môi
trường [2].
24
Theo nghiên cứu của Paul N. Williams và cộng sự, cây lúa trong quá trình
phát triển hấp thụ asen trong đất và thuốc trừ sâu; asen được tích tụ trong hạt gạo.
Khả năng hấp thụ asen của cây lúa cao hơn các loại cây lương thực khác, do đó hàm
lượng asen trong hạt gạo cao hơn so với các loại hạt khác, và có thể lên tới 0,32
µg/g [35].
- Nguồn y học: Được sử dụng nhiều trong lĩnh vực này như quá trình sản
xuất và bảo quản vắcxin, nha khoa, công nghệ mỹ phẩm. Thủy ngân có trong một số
dụng cụ y khoa: Huyết áp kế, nhiệt kế. Riêng nhiệt kế vì thân làm bằng thủy tinh
nên dễ vỡ, làm thủy ngân có trong đó sẽ thoát ra ngoài thành những hạt tròn nhỏ lăn
tròn trên mặt đất. Nếu không sớm thu hồi, xử lý thì chúng sẽ bốc hơi vào không khí,
và xâm nhập vào cơ thể người qua con đường hô hấp, thấm qua da, gây độc.
- Nguồn sinh hoạt: Nguồn thải thủy ngân bắt nguồn từ việc đốt, hay chôn
lấp các chất thải đô thị. Trong nước thải sinh hoạt, đôi khi chứa hàm lượng thuỷ
ngân lớn hơn 10 lần so với thuỷ ngân trong tự nhiên (0,001- 0,0001 ppm),thủy ngân
được hấp thụ vào các chất cặn lắng của nước và suối, đó trở thành nguồn lưu giữ
thuỷ ngân. Đặc biệt việc sử dụng nhiệt kế, pin, bóng đèn compact có chứa thủy
ngân thải ra môi trường không theo quy định chất thải nguy hại là điều đáng báo
động [15].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu
Mẫu nước, trầm tích và sinh vật được thu thập tại 3 vị trí Hoàng Tân, tỉnh
Quảng Ninh; Khu vực vịnh Lan Hạ, đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải
Phòng; Khu vực xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng vào 02 đợt
(tháng 7/2016 và tháng 12/2016) (hình 2.1).Mỗi nhóm tập hợp từ 20-30 cá thể để
đảm bảo đủ lượng mẫu trộn phân tích các thông số về độc chất.
- Phương pháp lấy mẫu nước biển ven bờ theo TCVN5998:2005. Mẫu nước
biển sau khi lấy được bảo quản và lưu giữ theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6663-
3:2008 (tương đương tiêu chuẩn chất lượng ISO 5667-3:2003): Mẫu nước được thu
theo 02 đợt (tháng 7/2016 và tháng 12/2016) vào chai PE, bảo quản ở nhiệt độ 4ºC.
- Phương pháp lấy trầm tích theo ISO 5667-19: 2004: Mẫu trầm tích được
thu theo 02 đợt khảo sát (tháng 7/2016 và tháng 12/2016) vào túi zipper. Mẫu trầm
25
tích được bảo quản ở nhiệt độ -20ºC trong điều kiện tối, kín khí theo TCVN 6663-
15: 2004.
- Phương pháp thu mẫu và bảo quản mẫu sinh vật theo APHA 10200: ngao,
ngán được lấy ở thời điểm nước cạn trơ bãi, thu mẫu tu hài ở các ô nuôi nghiên cứu.
Mẫu được đựng trong thùng mẫu bảo quản lạnh ở 4oC, vận chuyển về phòng thí
nghiệm Viện TNMT biển để tiến hành xử lý mẫu ngay sau đó.
2.2.2.Phương pháp xử lý mẫu
2.2.2.1. Mẫu môi trường
Dựa theo các tiêu chuẩn của USEP-2002 và tiêu chuẩn của Việt Nam
(TCVN6193:1996) để phân tích các mẫu kim loại nặng trong môi trường:
- Mẫu nước:
Mẫu nước được axit hóa bằng axit HNO3 đậm đặc với tỷ lệ 1ml HNO3/50ml
mẫu.
- Mẫu trầm tích
Mẫu trầm tích được đông khô bằng thiết bị chuyên dụng trong vòng 24h sau
khi lấy. Sau khi mẫu khô, đem nghiền nhỏ mịn.
Mẫu cho vào túi có khóa kéo và bảo quản ở tủ hút chuyên dụng ở nhiệt độ
phòng 250C và được phân tích ngay.
22.2. 2. Mẫu sinh vật
a. Phương pháp xác định kích thước của mẫu sinh vật
Kích thước của các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ được xác định theo hướng dẫn
tại sổ tay của Trung tâm bảo tồn Sinh vật biển & Phát triển Cộng đồng (2009),
Trương Quốc Phú (2006) [20]:
26
Hình 2.6.Các kích thước cần đo ở loài Hình 2.7. Thước Panmer
nhuyễn thể hai mảnh vỏ
Dùng thước Panmer để xác định các kích thước cần đo là: chiều dài x chiều
rộng x chiều cao (mm).
b. Phân chia kích thước các sinh vật được nghiên cứu như sau:
Bảng 2.1. Phân chia mẫu tu hài theo kích thước
Chiều dài STT Khối lượng TB (g)/ cá thể (mm)
Nhóm 1 28,95 60-65
Nhóm 2 37,26 66-70
Nhóm 3 42,97 71-75
Nhóm 4 57,94 75-80
Nhóm 5 67,87 81-85
27
Bảng 2.2. Phân chia mẫu ngán theo kích thước
STT Chiều dài (mm) Khối lượng TB (g)/ cá thể
Nhóm 1 41-45 22,0
Nhóm 2 46-50 27,9
Nhóm 3 51-55 36,1
Nhóm 4 56-60 53,9
Nhóm 5 61-65 85,3
Bảng 2.3. Phân chia mẫu ngao trắng theo kích thước
Chiều dài STT Khối lượng TB (g)/ cá thể (mm)
Nhóm 1 25-30 13,37
Nhóm 2 31-35 14,24
c. Xử lý mẫu sinh vật
Phân tách động vật thân mềm (tu hài, ngán và ngao trắng) thành hai hợp
phần (mô và dạ dày) theo tài liệu hướng dẫn “Hình thái và Giải phẫu Động vật thân
mềm (Mollusca)” của tác giả Trương Quốc Phú, 1999 [13]. Cách tiến hành như sau:
- Dùng dao tiểu phẫu của y tế với lưỡi dao được sử dụng một lần.
- Dùng dao cậy miệng động vật hai mảnh vỏ và thấm hết lớp nước trong
miệng bằng giấy thấm.
- Lách nhẹ dao vào khe giữa hai vỏ, cắt đứt cơ khép vỏ. Sau đó dễ dàng mở
tách hai vỏ để lấy ruột cho lên đĩa.
- Dùng dao tách phần cơ, mô và màng để lấy dạ dày. Chú ý: quá trình làm tỉ
mỉ mới tách hoàn toàn mô, cơ bám vào dạ dày.
Phần mô của mẫu sinh vật được được xay bằng máy xay nghiền chuyên dụng
để đồng nhất mẫu. Sau đó được đông khô bằng thiết bị chuyên dụng trong vòng
48h. Sau khi mẫu khô, đem ra nghiền nhỏ mịn. Mẫu được cho vào các túi kín có
khóa kéo và bảo quản trong tủ chuyên dụngcó tia cực tím để khử khuẩn ở nhiệt độ
250C. Các mẫu sinh vật trong luận văn sau khi xử lý được phân tích trong vòng 1
tháng.
28
Hình 2.8.Thiết bị khô lạnh
2.2.3. Phương pháp phân tích As, Hg
Hàm lượng asen và thủy ngân tổng trong các mẫu môi trường và mẫu sinh vật
được định lượng bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS). Đối với các mẫu
phân tích asen được hóa hơi hydrua, mẫu phân tích thủy ngân hóa hơi lạnh theo các
tài liệu của: APHA 3500 80, AOAC 97, APHA 3500 80, TCVN 6626- 2000,
HPLC/GC, FAO FNP 14/7, TCVN 4331:1986, NOAA – ASEAN Canada.
2.2.4. Phương pháp đánh giá tích lũy sinh học thông qua các hệ số BAF,
BSAF
Để đánh giá mức độ tích lũy chất ô nhiễm trong môi trường và sinh vật, người
ta dựa vào các hệ số tích lũy sinh học như BAF (Bio Accumulation Factor) [37].
Hệ số tích lũy sinh học là tỷ lệ của sự tập trung chất ô nhiễm trong sinh vật
sống dưới nước tại nguồn phơi nhiễm chất ô nhiễm thông qua tiếp xúc trực tiếp với
sinh vật sống. Hệ số BAF này thay đổi không đáng kể theo thời gian được định
nghĩa theo công thức (2.1):
(2.1)
Trong đó:
- Ct: nồng độ chất ô nhiễm trong cơ thể sinh vật (mg/kg mô khô).
- Cw: nồng độ chất ô nhiễm trong nước (mg/l)
- BAF là hệ số tích lũy sinh học
29
1 lít nước biển với khối lượng xấp xỉ1kg nên bỏ qua đơn vị BAF (l/kg)
Hệ số tích lũy sinh học trầm tích (BSAF: Biota-sendiment accumulation
factor).Hệ số tích tụ sinh học trầm tích thể hiện mức độ tích lũy chất ô nhiễm từ
trầm tích vào cơ thể sinh vật. Hệ số BSAF được xác định theo công thức (2.2).
(2.2)
Trong đó:
- Ct là nồng độ của chất ô nhiễm trong mô sinh vật (mg/kg).
- Cs là nồng độ của chất ô nhiễm trong trầm tích (mg/kg).
- BSAF hệ số tích lũy sinh học trầm tích.
2.2.5. Phương pháp xác định mức độ tiêu thụ thực phẩm an toàn
Hệ số ADI (Aceptable Daily Intake) là hệ số chấp nhận được độc chất hàng
ngày mà không ảnh hưởng đến sức khỏe. ADI cho phép tính toán lượng chất cụ thể
(thường là các hóa chất phụ gia thực phẩm, hoặc dư lượng thuốc thú y, thuốc trừ
sâu) trong thức ăn hoặc nước uống vào cơ thể mà không ảnh hưởng đến sức khỏe.
ADI được thể hiện theo khối lượng cơ thể, thường là số milligrams (của độc chất)
cho mỗi kg trọng lượng cơ thể /ngày.
Theo tài liệu hướng dẫn của ASEAN- Canada CPMS –II (1999) [26] được
tính theo công thức (2.3) sau:
ADI = (Mức độ tiêu thụ trong ngày) x (BAF) x (EC) (2.3)
Mức độ tiêu thụ thực phẩm = ADI/ ((BAF) x Quy chuẩn MT)) (kg).
Trong đó:
- ADI là mức độ tiêu thụ trong ngày (µg/kg thể khối/ngày).
- BAF là hệ số tích lũy sinh học
- EC: tiêu chuẩn môi trường (µg/l), trong luận văn này sử dụng quy chuẩn
môi trường cho nước nuôi trồng thủy sản QCVN 10-MT: 2015/BTNMT.
30
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TÍCH LŨY THỦY NGÂN, ASENỞ
MỘT SỐ LOÀI NHUYỄN THỂ HAI MẢNH VỎ
3.1. Hiện trạng môi trường khu vực nghiên cứu
3.1.1. Thông số chất lượng nước
Các điểm thu mẫu của đề tài ở 03 vị trí với các đặc tính tương đối khác nhau:
Khu vực lấy mẫu tu hài ở vịnh Lan Hạ, Cát Bà, Cát Hải, Hải Phòng – khu vực xa
bờ, ít chịu tác động của các nguồn thải từ lục địa. Khu vực lấy mẫu ngán tại Hoàng
Tân, Hoàng Yên, Quảng Ninh là khu vực tiếp nhận nguồn nước từ cửa sông Bạch
Đằng, nơi có nhiều hoạt động của con người. Khu vực lấy thu mẫu ngao trắng là xã
Đồng Bài, huyện Cát Hải là khu vực gần bờ. Kết quả phân tích các mẫu môi trường
thu theo hai đợt khảo sát tháng 7/2016 và 12/2016được thể hiện chi tiết trong bảng
1, phụ lục I.
Kết quả từ bảng 1 cho thấy, các thông số nhiệt độ và hàm lượng DO ở cả ba
khu vực nghiên cứu không sự khác nhau nhiều. Nhiệt độ dao động khá lớn thể hiện
đặc điểm khí hậu phân mùa rõ rệt của khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh. Hàm lượng
DO dao động từ 5,88÷6,90mg/l và không có khác biệt nhiều theo mùa cho thấy sự
trao đổi nước ở vị trí thu mẫu khá tốt.
Độ pH là thông số môi trường quan trọng liên quan đến sự hòa tan của các
ion kim loại. Khi giá trị pH càng cao thì tính kết tủa của một số kim loại cũng tăng
và ngược lại. Kết quả phân tích cho thấy pH ở khu vực Vịnh Lan Hạ - Cát Bà (8,3),
cao hơn so với khu vực Hoàng Tân (7,7) và khu vực Đồng Bài, huyện Cát Hải (7,8).
Giá trị pH ở khu vực thu mẫu tu hài có giá trị ít biến động từ 8,2 ÷ 8,3. Giá trị pH ở
khu vực Đông Bài dao động từ 7,6 ÷ 7,9.
Độ muối trong môi trường biển là thông số quan trọng để đánh giá sự phân
bố của hệ sinh vật thích hợp với từng dải độ muối khác nhau. Kết quả phân tích cho
thấy, tu hài sống trong môi trường có độ muối cao (trung bình năm là 29‰) và
không bị ảnh hưởng của khối nước ngọt lục địa nên ít thay đổi (từ 27 đến 32‰).
Trong khi đó, các loài ngao trắng và ngán sống ở bãi triều ven bờ, chịu ảnh hưởng
của khối nước ngọt từ lục địa và khối nước mặn từ biển nên độ muối đo được tại
các khu vực này dao động lớn từ 18 ÷ 29‰, độ muối trung bình khu vực Hoàng Tân
là 22‰, độ muối trung bình khu vực Đồng Bài (Cát Hải) là 26‰.
31
3.1.2. Nồng độ asen, thủy ngân trong môi trường nước
Nồng độ As, Hg trong môi trường nước qua 2 đợt khảo sát tại 3 khu vực thu
mẫu được thể hiện trong bảng 2, phụ lục I
a. Asen
Trong môi trường nước tại khu vực nghiên cứu, nồng độ asen phát hiện cao
nhất ở Đồng Bài (trung bình 3,7 µg/l), thấp hơn là mẫu nước ở Hoàng Tân (trung
bình 3,6µg/l) và thấp nhất tại khu vực vịnh Lan Hạ - đảo Cát Bà (1,9 µg/l) (hình
3.2). Tại 2 thời điểm thu mẫu là tháng 7/2016 và tháng 12/2016, kết quả phân tích
cho thấy, không có sự khác biệt nhiều về nồng độ asen trong môi trường nước tại
các khu vực lấy mẫu. Với quy định về nồng độ asen trong nước nuôi trồng thủy sản
của Bộ Tài nguyên và Môi trường theo quy chuẩn QCVN 10-MT: 2015/BTNMT(20
µg/l), môi trường nước tại các vị trí thu mẫu chưa có biển hiện ô nhiễm asen.
Hình 3.1. Nồng độ As trong môi trường nước tại các vị trí thu mẫu
Hàm lượng As trong khu vực vịnh Lan Hạ, Cát Bà có giá trị thấp nhất và khu
vực Hoàng Tân, Quảng Ninh và Đồng Bài, Cát Hải là do vịnh Lan Hạ là khu vực xa
bờ, ít ảnh hưởng bởi các dòng thải từ lục địa. Ngược lại, hai khu vực còn lại nồng
độ có giá trị cao hơn do gần bờ nên chịu ảnh hưởng của các dòng thải từ lục địa.
32
b. Thủy ngân
Trong môi trường nước tại 03 vị trí thu mẫu, nồng độ thủy ngân đều thấp hơn
quy chuẩn QCVN 10-MT: 2015/BTNMT (1µg/l). Nồng độ thủy ngân trong mẫu
nước thu tại khu vực Đồng Bài là cao nhất (0,33µg/l) và dao động lớn nhất (0,28
0,36µg/l) (hình 3.2).
Hình 3.1. Nồng độ Hg trong môi trường nước tại các vị trí thu mẫu
3.1.3. Hàm lượng asen, thủy ngân trong trầm tích
Hàm lượng asen, thủy ngân trong trầm tích qua 2 đợt khảo sát tại 3 địa điểm
thu mẫu được thể hiện trong bảng 3, phụ lục I. Mẫu trầm tích của tu hài là giá thể
cát – vỏ nhuyễn thể nuôi tu hài.
a. Asen
Hình 3.4 biểu diễn hàm lượng asen biến động trong trầm tích thu tại 03 vị trí
trong hai đợt khảo sát (tháng 7/2016 và tháng 12/2016).Kết quả phần tích cho thấy,
hàm lượng phân tích asen, thủy ngântheo 2 đợt thu mẫu không có khác biệt nhiều
tại 3 địa điểm lấy mẫu. Hàm lượng asen trong trầm tích cao nhất tại điểm thu mẫu
ngán với giá trị trung bình khoảng 6,00mg/kg.Hàm lượng asen tại Đồng Bài, Cát
Hải thấp hơn với giá trị trung bình 4,07mg/kg. Hàm lượng asenthấp nhất tương ứng
với vị trí thu mẫu cát trong rổ nuôi tu hài. Tại cả 3 điểm thu mẫu, hàm lượng asen
thấp hơn rất nhiều giới hạn cho phép (Theo QCVN 43:2012/BTNMT thìgiá trị giới
33
hạn của các thông số trong trầm tích cho nước mặn, nước lợ đối với asen là
41,6mg/kg).
Hình 3.3.Hàm lượng As trong môi trường trầm tích tại các vị trí thu mẫu
b. Thủy ngân
Mẫu trầm tích được lấy tại 03 vị trí trên các bãi triều, riêng môi trường trầm
tích khu vực nuôi tu hài tại Cát Bà thì lấy mẫu cát vỏ nhuyễn thể là giá thể nuôi tu
hài. Hàm lượng thủy ngân phát hiện cao nhất ở bãi triều thu mẫu ngán và thấp nhất
ở trong mẫu cát trong rổ nuôi tu hài (hình 3.4). Hàm lượng thủy ngân trong trầm
tích giá thể nuôi tu hài ở Vịnh Lan Hạ, Cát Bà thấp hơn tiêu chuẩn nhiều lần. Trong
khi đó, hàm lượng thủy ngân ở Hoàng Tân, Quảng Ninh và Đồng Bài, Cát Hải đều
cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
34
Hình 3.4. Hàm lượng Hg trong môi trường trầm tích tại các vị trí thu mẫu
Nhận xét chung về hàm lượng asen, thủy ngân trong nước, trầm tích:
Nhìn chung, hàm lượng asen và thủy ngân trong nước và trầm tích tại khu
vực nghiên cứu có xu hướng phân bố thấp nhất ở Lan Hạ, Cát Bà và cao nhất ở
Hoàng Tân, Quảng Ninh. Tại cả ba địa điểm lấy mẫu, hàm lượng asen và thủy ngân
trong nước đều thấp hơn giá trị quy chuẩn về chất lượng nước biển ven bờ, điều này
cho thấy khu vực này chưa có dấu hiệu ô nhiễm asen và thủy ngân trong nguồn
nước. Đối với mẫu trầm tích, cả ba địa điểm thu mẫu thuộc phạm vi nghiên cứu đều
chưa có dấu hiệu ô nhiễm asen, riêng đối với thủy ngân, khu vực nuôi ngán ở
Hoàng Tân, Quảng Ninh và khu vực nuôi ngao ở Đồng Bài, Cát Hải hàm lượng
thủy ngân trong trầm tích cao hơn giá trị tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là khu vực
nuôi ngán. Hàm lượng asen và thủy ngân trong nước cũng như trầm tích theo hai
đợt lấy mẫu vào tháng 7/2016 và tháng 12/2016 không có sự sai khác đáng kể tại cả
3 vị trí khảo sát.
3.2. Hàm lượng asen, thủy ngân trong các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ
Theo quy chuẩn QCVN8-2:2011/BYT không quy định hàm lượng asen, thủy
ngân cho các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mô tu
hài, ngán, ngao trắngđược xác định trong luận văn để đánh giá mức độ tích lũy asen,
thủy ngân của các loài sinh vật nghiên cứu.
35
Ở pH=8.1 của nước biển, asen tồn tại chủ yếu ở dạng asenat có cấu trúc
tương tự như photphat [H2PO4]-. Trong khi đó, nguồn dinh dưỡng cho các loài tảo
chính là photphat. Do sự giống nhau này mà asen dạng vô cơ dễ dàng hấp thụ trong
tảo và được tảo chuyển hóa thành các dạng asen hữu cơ khác.
Đối với dạng Hg+, có độc tính thấp vì trong môi trường nước có thành phần
Cl- lớn nên tạo dạng không tan (Hg2Cl2), bị đào thải ra ngoài. Trong môi trường
nước có hàm lượng ôxy hòa tan cao (trung bình 6,8mgO2/l) như vùng cửa sông
Bạch Đằng, thủy ngân tồn tại chủ yếu dạng hóa trị II. Dạng Hg2+ khi xâm nhập vào
cơ thể nghêu có thể được liên kết với animo axit có chứa lưu huỳnh của protein gây
tích tụ trong mô thịt nghêu.Dạng metyl thủy ngân (CH3Hg+) tan trong mỡ và xâm
nhập qua màng tế bào tích tụ trong mô mỡ.
Kết quả của luận văn nghiên cứu tập trung dạng thủy ngân là dạng asen tổng
và thủy ngân tổng (HgT).Các dạng tồn tại khác của asen và thủy ngân cần có những
nghiên cứu sâu hơn.
3.2.1. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu tu hài
a. Asen:
Nồng độ asen trong môi trường nước khu vực vịnh Lan Hạ dao động trong
khoảng1,75 ÷ 2,05(µg/l), hàm lượng asen trong trầm tích 0,0076 ÷ 0,5(mg/kg).
Bảng 3.4 thể hiện kết quả phân tích hàm lượng asen trong mô thịt tu hài theo 05
nhóm kích thước có chiều dài từ nhỏ đến lớn. Kết quả phân tích cho thấy có sự tích
lũyAs trong tất cả các mẫu mô tu hài. Hàm lượng asen trong mô tu hài dao động từ
0,10-0,13mg/kg.Không có sự khác nhau đáng kể về hàm lượng asen trong các nhóm
tu hài có kích thước khác nhau.
Biểu diễn mối quan hệ giữa chiều dài và hàm lượng As trong mô thịt tu hài
theo hai đợt khảo sát (hình 3.5). Mức độ tích tụ As trong mô thịt tu hài không theo
xu hướng rõ ràng, phân bố hàm lượng As trong hai đợt tu mẫu không có sự khác
biệt.
36
mm
Hình 3.5. Biến thiên mức độ tích lũy asen trong tu hài theo thời gian thu mẫu
và theo kích thước
Kết quả nghiên cứu của Đỗ Đăng Khoa, Trần Thanh, Đặng Thanh Bình, hàm
lượng asen trong mô thịt tu hài tại khu vực Vân Đồn, Quảng Ninh năm 2012 cho
thấy, hàm lượng asen trong mô thịt tu hài dao động 1,014 - 1,060 mg/kg và biến
động không đáng kể [5]. Đối chiếu kết quả phân tích cho thấy, khu vực vịnh Lan
Hạ, Cát Bà có giá trị nhỏ hơn khoảng 10 lần cho thấy hàm lượng asen trong mô thịt
tu hài khu vực vịnh Lan Hạ an toàn hơn khu vực Vân Đồn, Quảng Ninh.
Nguyên nhân của sự tích lũy hàm lượng asen trong tu hài ở vịnh Lan Hạ, Cát
Bà (2016) có giá trị thấp hơn tại Vân Đồn Quảng Ninh (2012) có thể là do hàm
lượng asen trong môi trường nước tại khu vực vịnh Lan Hạ có giá trị thấp hơn. Kết
quả nghiên cứu của Đỗ Đăng Khoa, Trần Thanh, Đặng Thanh Bình, nồng độ asen
tại Vân Đồn, Quảng Ninh dao động 10,818 µg/l đến 14,329 µg/l, trung bình 12,86 ±
1,37 µg/l [5], trong khi đó, hàm lượng As đo được tại Hoàng Tân, Quảng Ninh là
3,6µg/l – nhỏ hơn nhiều so với kết quả tại Vân Đồn, Quảng Ninh.
b. Thủy ngân
Sau khi phân tách, xử lý và phân tích trên máy AAS-HVG1, hàm lượng thủy
ngân trong mô thịt tu hài đối với 05 nhóm kích thước khác nhau được thể hiện trong
bảng 1, phụ lục II.Hàm lượng thủy ngân trong tu hài dao động từ 0,022-
37
0,033mg/kg. Nhóm kích thước nhỏ nhất trong 05 nhóm (nhóm có chiều dài từ 60-
65mm) không phát hiện độc chất thủy ngân trong mô thịt. Mặc dù hàm lượng thủy
ngân khác nhau không đáng kể đối với các nhóm tu hài có kích thước khác nhau,
tuy nhiên, có thể thấy nhóm có kích thước lớn hơn có xu hướng tích lũythủy ngân
trong mô thịt cao hơn.
Biểu diễn mối quan hệ giữa kích thước và hàm lượng thủy ngân trong mô
thịt theo hai chuỗi số liệu phân tích (hình 3.6) cho thấy, mức độ tích lũy thủy ngân
trong mô thịt tu hài theo các nhóm kích thước không có sự khác nhau đáng kể theo
cả hai đợt lấy mẫu.
Hình 3.6.Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong tu hài theo thời gian thu
mẫu và theo kích thước
Kết quả nghiên cứu của Đỗ Đăng Khoa, Trần Thanh, Đặng Thanh Bình tại
khu vực Vân Đồn, Quảng Ninh năm 2012 cho thấy, hàm lượng thủy ngân trong mô
thịt tu hài nuôi tại Vân Đồn dao động từ 0,197 - 0,315 mg/kg [5]. Hàm lượng thủy
ngân trong tu hài cũng có xu hướng tăng theo kích thước, tương tự như kết quả
nghiên cứu trong luận văn. Tương tự như asen, hàm lượng thủy ngân trong tu hài tại
vịnh Lan Hạ, Cát Bà (0,022-0,033mg/kg) thấp hơn nhiều lần so với tại Vân Đồn,
Quảng Ninh. Kết quả có thể là do nồng độ thủy ngân trông môi trường nước tại
vịnh Lan Hạ, Cát Bà trung bình là 0,19µg/l, thấp hơn nhiều so với hàm lượng thủy
ngân tại Vân Đồn, Quảng Ninh (trung bình 1,303µg/l).
38
3.2.2. Hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu ngán
Hiện chưa có nghiên cứu nào về hàm lượng asen, thủy ngân tích lũy trong
mẫu ngán. Do đó, đánh giá hàm lượng asen, thủy ngân trong mẫu ngán và xu hướng
tích tụ của asen, thủy ngân trong ngán là nghiên cứu mới của đề tài.
a. Asen:
Hàm lượng asen trong môi trường trầm tích bãi triều phân bố ngán đã phát
hiện hàm lượng asen cao nhất trong các bãi triều nghiên cứu trong phạm vi của luận
văn. Đối với ngán, chúng sống sâu dưới bùn đáy và có kích thước lớn hơn so với
ngao.Sự tích lũyasen trong mẫu ngán theo 05 nhóm có kích thước khác nhau và kết
quả phân tích thể hiện ở bảng 2, phụ lục II. Từ bảng 2, phụ lục II có thể thấy, sự tích
lũy asen trong ngán tăng dần theo kích thước (tương ứng với độ tuổi). Đặc biệt là
đối với nhóm có kích thước lớn (nhóm 4 và nhóm 5) hàm lượng asen trong ngán
tăng cao hẳn so với các nhóm kích thước bé hơn (nhóm 1, 2, 3). Với nhóm ngán có
kích thước từ 41 - 55mm, hàm lượng asen trong mô thịt thấp nhất.Nhóm kích thước
lớn nhất (chiều dài 61-65mm) có hàm lượng asen cao nhất, lên tới 2,91mg/kg,gấp
10 lần so với nhóm kích thước bé nhất.
39
Biểu diễn mối quan hệ giữa hàm lượng asen và chiều dài để đánh giá mức độ
tích tụ theo thời gian thu mẫu và theo kích thước (hình 3.7). Xu thế tích lũy asen
của loài ngán khá rõ ràng trong tháng 7khi mà hàm lượng asen trong mô ngán tăng
dần theo kích thước. Đối với mẫu ngán thu vào tháng 12, ngoại trừ kết quả đối với
nhóm mẫu kích thước lớn nhất (61-65mm) có sự khác biệt, đối với các nhóm còn lại
cũng thể hiện sự gia tăng về mức độ tích lũy asen theo kích thước.
mm
Hình 3.7.Biến thiên mức độ tích lũy asen trong ngán theo thời gian thu mẫu và
theo kích thước
b. Thủy ngân
Kết quả khảo sát hiện trạng môi trường tại các bãi ngán cũng cho thấy các
hàm lượng độc chất cao hơn so với các vị trí bãi thu tu hài và ngao trắng. Kết quả
phân tích hàm lượng thủy ngân trong mẫu ngán được thể hiện ở bảng 2, phụ lục
II.Mức độ tích lũy thủy ngân trong hai đợt quan trắc khác nhau phát hiện được mức
độ tích lũy khác nhau ở nhóm có kích thước lớn (56-60mm và 61-65mm). Mẫu thu
trong tháng 7 đã phát hiện hàm lượng thủy ngân cao nhất với hàm lượng
0,55mg/kg.
40
Như minh họa ở hình 3.8, sự tích lũy hàm lượng thủy ngân trong mẫu ngán
đối với nhóm có kích thước bé (41-45 và 46-50) không khác nhau đáng kể.Tuy
nhiên, từ nhóm có kích thước 51-55mm trở lên, xu thế tích lũy thủy ngân tăng dần
theo nhóm kích thước được thể hiển rõ nét.
mm
Hình 3.8. Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong ngán theo thời
gian thu mẫu và theo kích thước
Ngán là loài sống lâu năm, ngán có thể thu hoạch được phải mất 2-3 năm,
trong khi đó với tu hài và ngao trắng chỉ mất 1 năm. Do đó, xu hướng tích lũy các
độc chất trong ngán cũng thể hiện rõ nét theo kích thước. Hàm lượng asen, thủy
ngân trong ngán có tại thời điểm tháng 7 có xu hướng cao hơn tháng 12 có thể là do
thời điểm trước tháng 7 là mùa mưa, nước mưa mang theo dinh dưỡng cũng như
hàm lượng thủy ngân từ vùng lục địa ra cửa sông đổ ra biển.
3.2.3. Hàm lượng As, Hg trong mẫu ngao trắng
a. Asen
Asen trong môi trường nước khu vực bãi triều thu mẫu ngao trắng dao động
từ 3,30-3,89(µg/l) và trong trầm tích đáy bãi triều 2,88 ÷ 5,25 (mg/kg). Tiến hành
phân tích hàm lượng asen trong mẫu ngao trắng để đánh giá khả năng tích lũy. Do
mẫu ngao trắng có kích thước nhỏ nên chỉ phân thành 2 nhóm có kích thước 25-
30mm và 31-35mm (bảng 3, phụ lục II).
Kết quả bảng 3, phụ lục II cho thấy, có sự khác nhau khôngđáng kể về hàm
lượng asen trong hai nhóm có kích thước khác nhau. Tuy nhiên, kết quả phân tích
mẫu ngao thuđược vào đợt tháng 12 có xu hướng cao hơn mẫu thu vào đợt tháng 7
41
ở cả hai nhóm kích thước. Hàm lượng asen trong tất cả các mẫu ngao dao động từ
0,11-0,19mg/kg.Đợt thu mẫu tháng 12, hàm lượng asen ở nhóm ngao trắng có kích
thước lớn có xu hướng cao hơn nhóm có kích thước bé.Nghiên cứu của Dương
Thanh Nghị và cs (2009), kết quả phân tích hàm lượng asen trong ngao trắng tại cửa
sông Lạch Tray, Hải Phòng trung bình là 0,19mg/kg khô, tại Đồ Sơn, Hải Phòng
trung bình là 0,23mg/kg khô [17]. So sánh với kết quả nghiên cứu trên cho thấy,
hàm lượng asen trong ngao trắng phân tích được trong luận văn có giá trị nhỏ hơn
nhưng không có sự khác biệt đáng kể.
Hình 3.9 biểu thị mức độ tích lũy asen trong ngao trắng theo thời gian thu
mẫu và theo kích thước. Hàm lượng asen trong ngao trắng trong 02 nhóm kích
thước thời điểm tháng 7 và tháng 12 cho thấy, không có sự khác biệt về khả năng
tích lũy asen đối với các nhóm ngao có kích thước khác nhau, tuy nhiên các nhóm
ngao thu mẫu vào đợt tháng 12 có xu hướng tích lũy asen cao hơn đợt thu mẫu
tháng 7.
Hình 3.9. Biến thiên mức độ tích lũy asen trong ngao trắng theo thời
gian thu mẫu và theo kích thước
b. Thủy ngân
42
Kết quả phân tích độc chất thủy ngân trong mô ngao trắng được thể hiện
trong bảng 3, phụ lục II. Kết quả cho thấy, hàm lượng thủy ngân trong ngao dao
động từ 0,09-0,11mg/kg và không có sự sai khác đáng kể về hàm lượng thủy ngân
trong hai nhóm mẫu ở hai thời điểm lấy mẫu khác nhau.
Biểu diễn mối quan hệ giữa hàm lượng thủy ngân và chiều dài theo hai chuỗi
số liệu theo hai thời điểm thu mẫu (hình 3.10). Tương tự như asen, mức độ tích lũy
thủy ngân trong ngao trắng không có sự khác nhau giữa các nhóm kích thước.
Hình 3.10. Biến thiên mức độ tích lũy thủy ngân trong ngao trắng theo
thời gian thu mẫu và theo kích thước
Hàm lượng tổng thủy ngân trung bình trong mô thịt ngao trắng trong luận
văn cao hơn hàm lượng thủy ngân trong ngao trắng Meretrix lyrata ở vùng cửa sông
Bạch Đằng trong Luận án tiến sĩ của Lê Xuân Sinh (2014) ở giai đoạn thu hoạch (từ
tháng 1 đến tháng 5) là 64,6 ng/g khô (0,0646 mg/kg khô). Sự tích tụ thủy ngân
tổng tìm thấy ở mô thịt nghêu Meretrix lyrata nuôi ở Cần Giờ - thành phố Hồ Chí
Minh cũng có giá trị tương đương với nghiên cứu trong luận án của Lê Xuân
Sinh(60ng/g khô) [6].
Từ các kết quả về tích lũy asen, thủy ngân trong các loài sinh vật khảo sát
cho thấy mức độ tích lũy cả asen và thủy ngân trong ngán là cao nhất và trong tu hài
là thấp nhất. Cả 3 sinh vật nghiên cứu đều có mức độ tích lũy asen trong cơ thể cao
43
hơn so với mức độ tích lũy thủy ngân. Điều này có thể là do nồng độ của asen trong
môi trường (nước và trầm tích) tại khu vực phân bố các loài sinh vật này đều cao
hơn nồng độ thủy ngân. Xu hướng tăng hàm lượng asen, thủy ngân trong cơ thể
sinh vật theo kích thước được nhận thấy rõ nét nhất đối với ngán.
3.3.Đánh giá mối quan hệ giữa mức độ tích lũyAs, Hg trong sinh vật và
nồng độ As, Hg trong môi trường
3.3.1. Xác định mối quan hệ độc chất trong mô sinh vật và môi trường
nước
Hệ số tích tụ BAF giúp nghiên cứu đánh giá được mức độ tích lũy asen, thủy
ngân giữa các loài sinh vật khác nhau và giữa các nhóm kích thước của cùng một
loại sinh vật.
Bảng 3.1. Hệ số tích lũy BAF của As, Hg đối với các loài sinh vật nghiên cứu
Mẫu Sinh vật Hệ số BAF Hệ số BAF Kích thước Loài của Hg của As (mm)
55 - 60-65
58 124 66-70
153 Tu hài 71-75 61
158 76-80 61
55 81-85 166
83 375 41-45
103 656 46-50
200 563 Ngán 51-55
442 719 56-60
61-65 533 1359
36 303 25-30 Ngao trắng 31-35 42 333
Ghi chú: “-“: không xác định
Từ các kết quả ở bảng 3.7 cho thấy, mức độ tích lũy asen và thủy ngân từ
môi trường nước vào sinh vật là tương đối cao. Đối với cả ba loài nghiên cứu, mức
độ tích lũy của thủy ngân vào cơ thể sinh vật cao hơn mặc dù nồng độ của các hợp
44
chất thủy ngân trong nước thấp hơn so với asen. Điều này cho thấy mức độ tác động
lớn hơn của ô nhiễm thủy ngân đến hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng.Trong ba
loài nghiên cứu thì ngán là sinh vật có khả năng tích lũy cả asen và thủy ngân cao
nhất.Hệ số BAF của ngán cao hơn của tu hài và ngao nhiều lần. Ngoài ra, ngán là
loài có khả năng tích lũy asen và thủy ngân từ môi trường nước (thể hiện qua hệ số
BAF) tăng nhanh theo kích thước cơ thể.
3.3.2. Xác định mối quan hệ độc chất trong mô sinh vật và môi trường
trầm tích
Các loài sinh vật nghiên cứu sống trong môi trường bùn đáy, khi nước triều
rút chúng ẩn mình sâu dưới lớp bùn (cát) bãi triều. Loài ngán ẩn sâu lớp bùn từ 0,6-
1m, loài ngao trắng ẩn mình dưới lớp bùn cát (5-10cm). Loài tu hài sống trong các
rổ cát, cát đóng vai trò giá thể để tu hài sinh trưởng và phát triển.Kết quả phân tích
về độc chất trong cát vỏ nhuyễn thể rất nhỏ nên tích lũy độc chất từ nguồn này là
không đáng kể.Chính vì vậy, nghiên cứu chỉ hệ số BSAF đối với các loài sống trong
bùn, cát như ngán và ngao trắng mà không tính hệ số BSAF của tu hài.
Bảng 3.2. Hệ số tích lũy sinh học BSAF của các sinh vật nghiên cứu
Mẫu Sinh vật Hệ số BSAF Hệ số BSAF Kích thước Loài của Hg của As (mm)
41-45 0,05 0,07
46-50 0,06 0,12
Ngán 51-55 0,12 0,11
56-60 0,26 0,14
61-65 0,32 0,26
25-30 0,03 0,10 Ngao trắng 31-35 0,04 0,11
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tích lũy BSAF có giá trị rất thấp thể hiện
xu thế tích lũy độc chất trong mô sinh vật và môi trường trầm tích chưa chặt chẽ. So
sánh giữa hệ số BAF với hệ số BSAF của các sinh vật nghiên cứu được thể hiện
trong bảng 3.9:
45
Bảng 3.3. So sánh hệ số BAF và hệ số BSAF
Mẫu Sinh vật Hệ số Hệ số Tỷ số Hệ số Hệ số Tỷ số
BAF BSAF BAF BAF BSAF BAF Kích
của Hg của Hg /BSAF của As của As /BSAF Loài thước
của Hg của As (mm)
41-45 375 0,07 5.357 83 0,05 1660
46-50 656 0,12 5.446 103 0,06 1717
Ngán 51-55 563 0,11 5118 200 0,12 1667
56-60 719 0,14 5136 442 0,26 1700
61-65 1359 0,26 5227 533 0,32 1665
25-30 303 0,10 3030 36 0,03 1200 Ngao
trắng 31-35 333 0,11 3027 42 0,04 1050
Bảng 3.9 cho thấy, hệ số BSAF nhỏ hơn hàng nghìn lần so với hệ số BAF.
Điều này khẳng định, ngao, ngán sống ẩn mình trong lớp bùn đáy nhưng ít có sự
trao đổi chất với môi trường bùn đáy. Chúng là những sinh vật ăn lọc và chỉ tích lũy
các độc chất trong môi trường nước.
46
CHƯƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT SỬ DỤNG
AN TOÀN THỰC PHẨM
Hiện nay, chúng ta đang phải tiếp xúc với nhiều chất ô nhiễm từ nhiều nguồn
khác nhau qua các con đường: tiếp xúc qua da, hô hấp và ăn uống. Trong đó, sử
dụng thực phẩm đúng cách đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế các chất ô
nhiễm tích lũy vào trong cơ thể. Để tránh nguy cơ tích lũy As, Hgkhi sử dụng các
loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ hàng ngày nhằm đảm bảo an toàn cho sức khỏe, luận văn
tập trung tính toán để đề xuất mức độ sử dụng tu hài, ngán, ngao trắng làm thực
phẩm.
4.1. Cở sở đề xuất sử dụng an toàn thực phẩm
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong
thực phẩm QCVN 8-2:2011/BYT quy định lượng ăn vào hàng tuần có thể chấp
nhận được tạm thời PTWI.
PTWI (ProvisionalTolerableWeeklyIntake): Lượng ăn vào hàng tuần có thể
chấp nhận được tạm thời: lượng một chất ô nhiễm kim loại nặng được đưa vào cơ
thể hàng tuần mà không gây ảnh hưởng có hại đến sức khoẻ con người (đơn vị tính:
mg/kg thể trọng).
Theo Quy chuẩn của Bộ Y tế chỉ quy định giá trị PTWI. Do vậy, để tính toán
lượng ăn vào hàng ngày chấp nhận được cần thông qua hệ số ADI.
ADI (AcceptedDailyIntake): Lượng ăn vào hàng ngày có thể chấp nhận
được.
ADI = PTWI/7
Theo tài liệu hướng dẫn của ASEAN- Canada CPMS –II (1999):
ADI = (Mức độ tiêu thụ thực phẩm/ trong ngày) x (BAF) x (Quy chuẩn MT)
Mức độ tiêu thụ thực phẩm = ADI/ ((BAF) x Quy chuẩn MT)) (kg).
Để đáp ứng được mục tiêu sử dụng thực phẩm an toàn nhất có thể, luận văn
sử dụng hệ số BAF đối với nhóm sinh vật có hệ số BAF lớn nhất tương đương với
sinh vật thuộc nhóm kích thước lớn nhất
47
Bảng 4.1. Hệ số ADI và tiêu chuẩn của độc chất theo quy chuẩn an toàn
thực phẩm
PTWI Quy chuẩn QCVN 8- ADI QCVN 10- Độc 2:2011/BYT (µg/kg thể khối/ STT MT:2015/BTNMT chất (µg/kg thể khối/ ngày) µg/l tuần)
1 (As) 15 2,14 20
2 (Hg) 5 0,71 1
Các nghiên cứu về mức độ sử dụng an toàn thực phẩm thường tính cho người
trưởng thành có khối lượng trung bình 60kg [11]. Đối với người có khối lượng cao
hoặc thấp hơn thì nhân lượng thực phẩm nên tiêu thụ với hệ số α (với α = 60/số cân
nặng của người cụ thể). Mức tính toán mức độ sử dụng thực phẩm an toàn bao giờ
cũng có hệ số dư so với thực tế vì trong đời sống hàng ngày mỗi cơ thể tiếp nhận
nhiều độc chất qua hệ hô hấp, hệ tiêu hóa và tiếp xúc qua da.
Mức độ sử dụng tu hài, ngán ngao trắng để đảm bảo không tích lũyHgđược
thể hiện ở bảng 4.2:
48
Bảng 4.2.Mức độ sử dụng thực phẩm đảm bảo tránh tích lũy Hg đối với
ngườicó thể khối 60 kg
Lượng Mức tiêu thụ thực phẩm Hệ số ADI trong 1 ngày Mẫu Hệ số Tiêu chuẩn sử (µg/kg thể đối với người sinh vật BAF (µg/l) dụng/kg khối/ngày) 60kg thể khối (g) (kg/kg)
Tu hài 166 1,00 0,71 0,0043 258
Ngán 1.359 1,00 0,71 0,0005 30
Ngao 0,71 333 1,00 0,0021 126 trắng
Kết quả về số lượng sử dụng các loài sinh vật làm thực phẩm đối với người
có khối lượng 60 kg để đảm bảo không tích lũy độc chất As được thể hiện ở bảng
4.3.
Bảng 4.3. Mức độ sử dụng thực phẩm đảm bảo tránh tích lũy As
đối với người có thể khối 60 kg
Lượng thực Mức tiêu
Hệ số ADI Tiêu phẩm sử thụ trong 1 Mẫu Hệ số (µg/kg thể chuẩn dụng/kg thể ngày đối với sinh vật BAF khối/ngày) (µg/l) khối người 60kg
(kg/kg) (g)
Tu hài 2,14 61 20 0,0018 107
Ngán 2,14 533 20 0,0002 12
Ngao 2,14 42 20 0,0025 150 trắng
49
4.2. Khuyến cáo mức độ sử dụng thực phẩm
4.2.1. Khuyến cáo mức độ sử dụng tu hài làm thực phẩm
Kết quả tính toán mức độ sử dụng tu hài đảm bảo không tích lũy các KLN
asen, thủy ngânđược thể hiện chi tiết trong phụ lục III. Kết quả được chuyển đổi về
số lượng cá thể với khối lượng đã phân loại thành 05 nhóm khác nhau. Kết quả này
giúp cho người sử dụng nhận biết nhanh về mức độ sử dụng thực phẩm tu hài theo
ngày.
Để đảm bảo tránh tích lũy song song cả asen, thủy ngântrongtu hài, chúng ta
phải lựa chọn mức độ sử dụng tối ưu nhằm đảm bảo an toàn. Bảng 4.4 khuyến cáo
người tiêu dùng sử dụng tu hài đối với từng loại độc chất theo 3 trường hợp:
(1): Sử dụng đảm bảo an toàn với độc chất thủy ngân.
(2): Sử dụng đảm bảo an toàn với độc chất asen.
(3): Sử dụng đảm bảo an toàn với cả hai nhóm độc chất thủy ngân, asen
Bảng 4.4. Mức độ sử dụng tu hài đảm bảo tránh tích lũy các độc chất đối
với người có thể khối 60 kg
Đơn vị: cá thể/ngày
Đối với Khối lượng Kích thước Đối với Đối với cả thủy Loại TB (g)/ cá (mm) thủy ngân asen ngân, thể asen
28,95 15 6 6 Loại 1 60-65
37,26 12 5 5 Loại 2 66-70
42,97 10 4 4 Loại 3 71-75
57,94 7 3 3 Loại 4 76-80
67,87 6 3 3 Loại 5 81-85
.
- Với loại kích thước 60-65mm (khối lượng trung bình là 28,95g) nên sử
dụng là 6 cá thể/ngày.
- Với loại 66-70mm (khối lượng trung bình 37,26g) nên sử dụng là 5 cá thể/
ngày.
- Loại 71-75mm thì sử dụng 4 cá thể/ngày.
50
- Loại 76-80mm cá thể/kg nên sử dụng 3 cá thể/ngày.
- Loại có kích thước lớn nhất là 81-85mm nên sử dụng 3 cá thể/ ngày hoặc ít
hơn vì ngoài những nhóm độc chất trên còn nhiều nhóm độc chất mà chưa được
nghiên cứu tới như các nhóm POPs, vi sinh vật hay dạng độc chất mới (độc chất
nano).
4.2.2. Khuyến cáo mức độ sử dụng ngán làm thực phẩm
Kết quả tính toán mức độ sử dụng ngán đảm bảo không tích lũy các KLN
asen, thủy ngân được thể hiện trong phụ lục III. Kết quả tính mức độ sử dụng ngán
trong thực phẩm hàng ngày theo bảng 4.5.
Bảng 4.5. Mức độ sử dụng ngán đảm bảo tránh tích lũy các độc chất đối
với người có thể khối 60 kg
Đơn vị: cá thể/ngày
Đối với cả Khối Kích thước Đối với Đối với thủy ngân, Loại lượng TB thủy ngân asen (mm) asen (g)/ cá thể
Loại 1 41-45 22,0 3 1 1
Loại 2 46-50 27,9 2 1 1
Loại 3 51-55 36,1 2 1 1
Loại 4 56-60 53,9 1 0 0
Loại 5 61-65 85,3 1 0 0
- Ngán là loại đặc sản có giá trị kinh tế cao (500.000đ/kg) nên người tiêu
dùng không sử dụng ngán nhiều trong ngày. Điều này cũng phù hợp với kết quả tính
toán nhằm đảm bảo người sử dụng thực phẩm không bị tích lũy các độc chất.
- Các loại ngán có kích thước lớn từ 56-65mm, không nên sử dụng thường
xuyên. Còn đối với loại nhỏ hơn từ 41-55mm nên sử dụng 01 cá thế/ ngày.Như vậy
mức sử dụng ngán làm thực phẩm trong ngày rất hạn chế nhằm đảm bảo sức khỏe
người tiêu dùng.
4.2.3. Khuyến cáo mức độ sử dụng ngao trắng làm thực phẩm
Kết quả tính toán mức độ sử dụng ngao trắng đảm bảo không tích lũycác
KLN asen, thủy ngânđược thể hiện trong phụ lục III. Kết quả tính mức độ sử dụng
ngao trắng trong thực phẩm hàng ngày theo bảng 4.6.
51
Bảng 4.6. Mức độ sử dụng ngao trắng đảm bảo tránh tích lũy các độc
chất đối với người có thể khối 60 kg
Đơn vị: cá thể/ngày
Khối Đối với cả Kích thước Đối với Đối với lượng TB thủy ngân, Loại thủy ngân asen (mm) (g)/ cá thể asen
13,37 27 33 28 Loại 1 25-30
14,42 26 31 26 Loại 2 31-35
Với ngao trắng có kích thước tương ứng với loại 25-30mm nên sử dụng 28
cá thể/ngày; loại có kích thước 31-35mm sử dụng 26 cá thể/ngày.
52
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đã làm rõ về sự tích lũyasen, thủy ngân của 3 loài
nhuyễn thể hai mảnh vỏ phân bố tại khu vực Đông Bắc Bộ (gồm 2 tỉnh Hải Phòng
và Quảng Ninh) là tu hài (Lutrariarhynchaena; ngao trắng (Meretrixlyrata) và ngán
(Austriellacorrugata). 03 vùng nghiên cứu là vịnh Lan Hạ (Cát Bà), Hoàng Tân
(Quảng Yên – Quảng Ninh) và Đồng Bài (Cát Hải). Một số các kết quả chính của
đề tài là:
- Kết quả phân tích các mẫu môi trường (nước và trầm tích) tại vị trí nghiên
cứu theo hai đợt khảo sát (tháng 7/2016 và tháng 12/2016) cho thấy nồng độ asen
trong môi trường nước tại các khu vực nghiên cứu dao động từ 1,9- 3,7µg/l, nồng
thủy ngân dao động từ 0,19-0,33µg/l. Nồng độ asen và thủy ngân tại 3 khu vực
nghiên cứu đều thấp hơn giới hạn cho phép theo QCVN10-MT:2015/BTNMT
chứng tỏ môi trường nước tại các khu vực này chưa có biểu hiện ô nhiễm asen, thủy
ngân.
- Hàm lượng asen trong trầm tích tại 3 địa điểm nghiên cứu dao động từ
0,25-6,07µg/g, thấp hơn nhiều giới hạn cho phép theo QCVN43:2012/BTNMT.
Hàm lượng thủy ngân trong trầm tích tại khu vực lấy mẫu tu hài là vịnh Lan Hạ
(Cát Bà) có giá trị rất nhỏ (0,19µg/g), trong khi đó hàm lượng thủy ngânở Hoàng
Tân, Quảng Ninh (1,7µg/g) và Đồng Bài, Cát Hải (1µg/g) đều cao hơn tiêu chuẩn
cho phép theo QCVN43:2012/BTNMT (0,7µg/g).
- Tại 3 địa điểm nghiên cứu, hàm lượng asen, thủy ngân trong môi trường
nước và trầm tích tại khu vực vịnh Lan Hạ, Cát Bà đều có giá trị thấp hơn nhiều so
với 2 khu vực còn lại và đều đảm bảo quy chuẩn cho phép.
- Đối với 3 loài sinh vật nghiên cứu cho thấy mức độ tích lũy asen trong cơ
thể cao hơn thủy ngân. Hàm lượng asen trong mẫu tu hài dao động từ 0,10-
0,13mg/kg, thủy ngân trong tu hài 0,022-0,033mg/kg. Hàm lượng asen trong mẫu
ngán dao động từ 0,27-2,91mg/kg, thủy ngân 0,12-0,55mg/kg. Hàm lượng asen
trong ngao trắng 0,11-0,19mg/kg, thủy ngân 0,09-0,11mg/kg. Xu hướng tăng hàm
53
lượng asen, thủy ngân trong cơ thể sinh vật theo kích thước được nhận thấy rõ nét
nhất đối với ngán.
- Bước đầu xác định đượchệ số tích lũy sinh học BAF và BSAF của các loài
sinh vật (tu hài, ngán và ngao trắng) và đây là kết quả nghiên cứu mới của đề tài.
Mối quan hệ giữa hàm lượng độc chất trong mô thịt các loài nghiên cứu và trong
môi trường thể hiện rõ qua hệ số tích lũy sinh học BAF. Hệ số BSAF tính toán được
có giá trị rất nhỏ thể hiện các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống trong môi trường
bùn đáy nhưng ít trao đổi chất với môi trường bùn đáy.
- Nghiên cứu của luận văn đề xuất mức độ sử dụng các loài sinh vật nghiên
cứu trong thực phẩm hàng ngày mà không gây nguy cơ tích lũy các độc chất thủy
ngân, asen. Đối với tu hài là 3-6 cá thể/ngày, ngán chỉ sử dụng 1 con 1 ngày và
không nên sử dụng thường xuyên, ngao trắng là 26-28 cá thể/ngày.
54
KHUYẾN NGHỊ
Nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xác định hàm lượng asen, thủy ngân
trong 3 loài sinh vật trên. Trên thực tế, ngoài asen, thủy ngân, các loài sinh vật trên
còn có thể tích lũy nhiều loại độc chất khác như các hợp chất hữu cơ bền vững trong
môi trường POPs hay các kim loại nặng khác như Cd, Pb, Cr, Sn… Để khẳng định
lượng cá thể tu hài, ngán, ngao trắng sử dụng để đảm bảo an toàn thực phẩm, cần có
thêm các nghiên cứu về các độc chất khác.
Luận văn là những nghiên cứu bước đầu về hàm lượng asen, thủy ngân tổng
trong 3 loài sinh vật nghiên cứu. Để khuyến cáo quy trình xử lý tu hài, ngán, ngao
trắng trước khi sử dụng làm thực phẩmcần có những nghiên cứu sâu hơn về quy luật
tích lũy và đào thải asen, thủy ngân trong cơ thể 3 loài sinh vật trên.
Từ kết quả phân tích trong luận văn cho thấy, khu vực vịnh Lan Hạ có hàm
lượng asen, thủy ngân trong nước và trầm tích đảm bảo giới hạn cho phép theo quy
chuẩn QCVN10-MT:2015/BTNMT với chất lượng nước mặt và quy chuẩn
QCVN43:2012/BTNMT đối với chất lượng trầm tích. Do đó, nghiên cứu đề xuất
phát triển mô hình nuôi tu hài tại vịnh Lan Hạ.
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phương Anh, Độc học môi trường, NXB Đại học Bách Khoa, 2007, pp2-
51.
2. Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo về công tác
Bảo vệ thực vật 2016, pp4-6.
3. Đặng Kim Chi, Hoàng Thị Thu Hương, Nguyễn Hồng Hưng (2005) Sinh vật tích tụ
- một công cụ đánh giá ô nhiễm kim loại nặng, Tạp chí Bảo vệ môi trường, pp 25-
28.
4. Đào Việt Hà (2002) Hàm lượng kim loại nặng trong vẹm xanh (Permaviridis) tại
đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hoà, Tuyển tập báo cáo khoa học hội nghị khoa học Biển
Đông, NXB Nông nghiệp, pp 638-642.
5. Đỗ Đăng Khoa, Trần Thanh, Thái Thanh Bình, Đánh giá tích tụ asen (As) và thủy
ngân (Hg) trong thịt loài tu hài (Lutraria Rhynchaena) nuôi tại vùng biển Vân Đồn,
Quảng Ninh, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Kỳ 1 – tháng 11/2014, pp
85-89.
6. Lê Xuân Sinh, Nghiên cứu tích lũy thủy ngân trong nghêu trắng Bến Tre (Metrix
lyrata), Luận án tiến sĩ 2014.
7. Nguyễn Văn Khánh, Trần Duy Vinh, Lê Hà Yến Nhi, Hàm lượng kim loại nặng
(Hg, Cd, Pb, Cr) trong các loài động vật hai mảnh vỏ ở một số cửa sông tại khu vực
miền Trung Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 4; 2014)
8. Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp (2009), Nghiên cứu sự tích tụ kim loại nặng
cadmium (Cd) và chì (Pb) của loài hến (Corbicula sp.) vùng cửa sông ở thành phố
Đà Nẵng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng - số 1 (30), pp 23-34
9. Trần Đình Lân, Lucs Hen (2009) Nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược cảng
Hải Phòng. Đề tài hợp tác Việt – Bỉ, Thư viện Viện Tài nguyên và Môi trường
Biển.
10. Vũ Đức Lợi (2008) Nghiên cứu xác định một số dạng thủy ngân trong các mẫu sinh
học và môi trường. Luận án tiến sĩ, LATS Hoá học : 62.44.29.01, Thư viện Quốc
gia.
56
11. Dương Thanh Nghị (2009) Đánh giá khả năng tích tụ các chất ô nhiễm hữu cơ bền
và kim loại nặng trong môi trường nước, trầm tích, sinh vật ven biển Hải Phòng.
Báo cáo đề tài cấp thành phố Hải Phòng, Thư viện Viện Tài nguyên và Môi trường
biển.
12. Phạm Kim Phương, Nguyễn Thị Dung, Chu Phạm Ngọc Sơn (2008) Nghiên cứu
ảnh hưởng của nồng độ kim loại nặng (Cd, Pb, As,Hg) lên sự tích tụ và đào thải
của ngao (Meretrixlyrata). Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 46, số 2, pp 89-95
13. Trương Quốc Phú (2006) Hình thái và giải phẫu động vật thân mềm Lớp Bivalvia
(Pelecypoda). NXB Nông nghiệp, Chương 7, trang 36-48.
14. Trương Quốc Phú (1999) Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh hóa và kĩ
thuật nuôi ngao Meretrixlyrata (Sowerby) đạt năng suất cao. Luận án tiến sĩ, Đại
học Cần Thơ.
15. Bùi Đặng Thanh (2010) Nghiên cứu quy luật tích tụ kim loại nặng của con ngao ML
ở cửa biển bằng phương pháp mô hình hóa, Luận án tiến sĩ Thiết bị Công nghệ Hóa
họctrường, Đại học Bách khoa Hà Nội
16. Nguyen Phuc Cam Tu, Nguyen Ngoc Ha, TetsuroAgusa, TokutakaIkemoto, Bui
CachTuyen, Shinsuke Tanabe, Ichiro Takeuchi (2010) Concentration of trace
elements in Meretrix spp. (Mollusca: Bivalva) along the coasts of Viet Nam.
Fisheries. Science. (2010). Vol.76, pp.677–686 (DOI 10.1007/s12562-010-0251-5).
17. Nguyễn Công Thành (2013), Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của
môi trường Ngao nuôi ven biển và đề xuất giải pháp phòng tránh, giảm thiểu ảnh
hưởng”, Đề tài cấp thành phố Hải Phòng 2013.
18. Trần Đức Thạnh, Cao Thị Thu Trang, Vũ Thị Lựu (2007), Báo cáo tổng kết đề tài:
Đánh giá khả năng tích tụ và phân tán các chất ô nhiễm vùng cửa sông ven biển
Việt Nam. Lưu trữ tại Thư viện Viện Tài nguyên và Môi trường biển.
19. Trung tâm dịch vụ thí nghiệm thành phố Hồ Chí Minh (2017), Xác định các dạng
hợp chất của asen và thủy ngân trong thực phẩm.
20. Trung tâm bảo tồn Sinh vật biển & Phát triển Cộng đồng (MCD) (2009), Sổ tay
hướng dẫn kĩ thuật nuôi ngao, Hà Nội, Việt Nam
57
21. Trạm quan trắc và phân tích môi trường biển ven bờ phía Bắc (2004-2012) Báo cáo
tổng hợp kết quả quan trắc môi trường vùng biển phía Bắc. Tổng cục môi trường,
Bộ Tài nguyên và Môi trường
22. Le Xuan Sinh, 2016. Determination of Mercury Accumulation Factor in Hard Clam
(Meretrixlyrata) at Bach Dang Estuary, Viet Nam. Environment and Natural
Resources Research Vol. 6, No. 3; October, 2016. Pp 18-24.
doi:10.5539/enrr.v6n3p18.
23. Lê Thị Vinh (2005) Ảnh hưởng của hạt nix từ nhà máy đóng tàu hyundai-vinashin
tới hàm lượng kim loại trong hàu saccostreacucullata, Vịnh Vân Phong. Phụ trương
tạp chí khoa học và công nghệ biển, 2005, pp 198 – 204.
24. Nguyễn Huy Yết (2008) Báo cáo tổng kết đề tài: Nghiên cứu hiện trạng và các giải
pháp bảo vệ và phát triển vùng ngao giống ven biển Nam Định. Lưu trữ tại Thư viện
Viện Tài nguyên và Môi trường biển.
25. Abdullah MH, Sidi J, Aris AZ (2007) Heavy metals (Cd, Cu, Cr, Pb and Zn) in
Meretrixmeretrix Roding, water and sediments from estuaries in Sabah, North
Borneo. Int J SciEduc 2:69–74
26. ASEAN - Canada CPMS - II (1999), Appendix B: Glossary of selected terms
relevan to aquatic toxicity data and criteria derivation, pp III-18
27. Bustamante.P, Lahay. E, Durnez. C. Churlaud. C, Caurant.F (2006) Total and
organic Hg concentrations in cephalopods from the North Eastern Atlantic waters:
Influence of geographical origin and feeding ecology. Science of the Total
Environment 368 (2006) 85–596.
28. Claude R. JoirisU, Maureen I. Azokwu, Fred A. Otchere, Ishaque B. Ali (1998)
Mercury in the bivalve Anadara_Senilia. senilisfrom Ghana and Nigeria. The
Science of the Total Environment 224_1998, pp181-188.
29. Dean w. boening (1997), “An evaluation of bivalves as biomonitors of heavy metals
pollution in marinewaters”, Lockheed Martin Environmental Services Assistance
Team, Port Orchard, WA 98366, U.S.A
30. Deocadiz, E.S., V.R. Diaz và P.-F.J. Otico (1999) ASEAN water quality criteria for
mecury. Methodology and Criteria for 18 Pamameters ASEAN Marine Water
Quality Criteria, pp XIII-1, pp. XIII-41.
58
31. EPA (1997) Fate and transport of mercury in the environment. Volume III.
Mercury study report to congress. Epa-452/r-97-005, Office of air quality planning
& standards and office of research and development. Environmental Protection
Agency, USA
32. Helena do A. Kehrig, Monica Costa, Isabel Moreira and Olaf Malm (2001)
Metylmercury and Total Mercury in Estuarine Organisms from Rio de Janeiro,
Brazi. ESPR - Environ Sci&Pollut Res 8 (4) 2001.
33. L. Zhang, M.H. Wong (2006), “Environmental mercury contamination in China:
Sources and impacts”, Environment International 33 (2007) 108–121.
34. Modassir, Y., (2000) Effect of salinity on the toxicity of mercury in mangrove clam,
polymesodaerosa(lightfoot 1786). Asian Fisheries Science 13(2000), Asian
Fisheries Society, Manila, Philippines, pp: 335-341.
35. Sayler G.S, J. D. Nelson, JR., and R. R. Colwell (1975) Role of bacteria in
bioaccumulation of mercury in the oyster crassostreavirginica. Applind
microbiology, july 1975. Vol. 30, No. 1. pp 91-96
36. Sloan, J.J., R. H. Dowdy, S. J. Balogh and E. Nater (2001) Distribution of
Mercury in Soil and its Concentration in Runoff from a Biosolids-Amended
Agricultural Watershed. J Environ Qual. 2001 Nov-Dec;30(6):2173-9
37. Wang Y, Liang L, Shi J, Jiang G (2005) Study on the contamination of heavy metals
and their correlations in mollusks collected from coastal sites along the Chinese
Bohai Sea. Environment 31:1103–1113.
38. William J. Adams and Carolyn D. Rowland (2003) Aquatic Toxicology Test
Methods. Handbook of ecoloxicology, second Edition, Chapter 2, 2003 by CRC
Press LLC.
39. Williams PN, Villada A, Deacon C, Raab A, Figuerola J, Green AJ, et al: Greatly
enhanced arsenic shoot assimilation in rice leads to elevated grain levels compared
to wheat and barley, Environmental science & technology. 2007;41(19):6854-9.
59
PHỤ LỤC I HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NGHIÊN CỨU Bảng 1.Thông số chất lượng môi trường nước khu vực thu mẫu
STT KV thu mẫu KV mẫu ngán KV mẫu ngao trắng QC10-
(Hoàng Tân, (xã Đồng Bài, Cát Hải) Tu hài MT:2015/B
(Vịnh Lan Hạ, Cát Quảng Ninh) TNMT
g n á h T
ố s g n ô h T
Bà) Cho vùng
biển ven bờ Khoảng TB Khoảng TB Khoảng TB
24,8÷31, 26,9÷30, T7 27,80 28,60 27,9÷30,3 28,50 Nhiệt 8 3 1 độ - 15,5÷26, 15,5÷26, (0C) T12 21,0 15,5÷26,5 21,0 21,0 5 5
T7 8,2÷8,3 7,6÷7,8 7,7 7,6÷7,9 7,8 8,3 2 pH 6,5÷8,5 T12 8,2÷8,3 7,6÷7,8 7,7 7,6÷7,9 7,8 8,3
6,67÷6,7 5,88÷6,6 6,28 5,88÷6,68 6,18 6,71 T7 5 8 DO 3 ≥ 5 (mg/) 6,80÷6,9 5,90÷6,7 6,85 T12 6,33 5,90÷6,70 6,30 0 5
29 T7 27÷32 18 ÷28 22 18 ÷29 26 4 - 29 T12 27÷32 18 ÷28 22 18 ÷29 26 Độ muối (‰)
Ghichú: “–“: không quy định
1
Bảng 2. Nồng độ As, Hgtrong môi trường nước tại các khu vực thu mẫu
STT Thông số Tháng KV thu mẫu Tu hài (Vịnh Lan Hạ, Cát Bà) (µg/l) KV mẫu ngán (Hoàng Tân, Quảng Ninh) (µg/l) KV mẫu ngao trắng (xã Đồng Bài, Cát Hải) (µg/l)
Khoảng TB Khoảng TB Khoảng TB
QCVN 10-MT: 2015/B TNMT cho nước biển ven bờ (µg/l)
3,30÷3,8 T7 1,75 ÷ 2,05 3,30÷3,89 1,90 3,60 3,70 9 1 As 20 3,40÷4,0 T12 1,70÷ 2,00 3,30÷3,90 1,90 3,60 3,70 0
0,28÷0,3 T7 0,17 ÷ 0,20 0,29÷0,35 0,19 0,32 0,33 6 2 Hg 1 0,28÷0,3 T12 0,17 ÷ 0,20 0,30÷0,34 0,19 0,32 0,33 6
2
Bảng 3. Hàm lượng As, Hg trong trầm tích tại các khu vực thu mẫu
Tháng ST T Thông số KV thu mẫu tu hài (Vịnh Lan Hạ, Cát Bà) (mg/kg) KV mẫu ngán (Hoàng Tân, Quảng Ninh) (mg/kg) KV mẫu ngao trắng (xã Đồng Bài, Cát Hải) (mg/kg) QCVN 43:2012/B TNTM (mg/ kg)
Khoảng TB Khoảng TB Khoảng TB
3,88÷8,2 2,88÷5,2 T7 0,0076÷0,5 0,25 6,07 4,07 5 5 1 As 41,6 3,80÷8,2 2,88÷5,2 T12 0,0076÷0,5 0,25 6,00 4,07 5 0
0,0015 ÷ 1,41÷1,9 0,91÷1,1 T7 0,003 1,70 1,01 0,0045 0 8 2 Hg 0,7 0,0015 1,41÷1,9 0,92÷1,0 T12 0,003 1,70 1,00 ÷0,0045 8 0
3
PHỤ LỤC II HÀM LƯỢNG ASEN, THỦY NGÂN TRONG CÁC LOÀI NHUYỄN THỂ HAI MẢNH VỎ Bảng 1. Hàm lượng As, Hg trong tu hài theo hai đợt thu mẫu
Hàm lượng As trong Hàm lượng Hg Khối lượng Chiều dài tu hài (mg/kg) (mg/kg) STT TB (g)/ cá (mm) Tháng 7 Tháng 12 Tháng 7 Tháng 12 thể
60-65 Nhóm 1 28,95 0,11 0,10 - -
66-70 Nhóm 2 37,26 0,10 0,12 0,022 0,025
71-75 Nhóm 3 42,97 0,13 0,10 0,029 -
76-80 Nhóm 4 57,94 0,11 0,12 - 0,030
81-85 Nhóm 5 67,87 0,11 0,10 0,030 0,033
Ghichú: “-“ không phát hiện được
4
Bảng 2. Hàm lượng As, Hg trong loài ngán theo hai đợt thu mẫu
Hàm lượng As Hàm lượng Hg Chiều dài Khối lượng (mg/kg) (mg/kg) STT (mm) TB (g)/ cáthể Tháng 7 Tháng 12 Tháng 7 Tháng 12
Nhóm 1 41-45 22,0 0,33 0,12 0,12 0,27
Nhóm 2 46-50 27,9 0,31 0,21 0,21 0,43
Nhóm 3 51-55 36,1 0,78 0,18 0,18 0,66
Nhóm 4 56-60 53,9 1,51 0,34 0,12 1,67
Nhóm 5 61-65 85,3 0,93 0,55 0,32 2,91
Bảng 3.Hàm lượng As, Hg trong loài ngao trắng theo hai đợt thu mẫu
Hàm lượng As Hàm lượng Hg Chiều dài Khối lượng (mg/kg) (mg/kg) STT (mm) TB (g)/ cáthể Tháng 7 Tháng 12 Tháng 7 Tháng 12
Nhóm 1 25-30 13,37 0,11 0,16 0,09 0,11
Nhóm 2 31-35 14,24 0,12 0,19 0,11 0,11
5
PHỤ LỤC III
ẢNH KHẢO SÁT VÀ PHÂN TÍCH MẪU
Lồng nuôi tu hài
Thu mẫu tu hài tại bè Thu mẫu tu hài ở bãi triều
6
Thu mẫu ngao trắng tại Cát Hải Đo kích thước tu hài
Phân tách ruột và vỏ tu hài Phân tách thịt và dạ dày tu hài
Xay nghiền mẫu Mẫu vật được khô lạnh trước
khi phân tích độc tố
7
Ngán Phân tách ngán
Dụng cụ bắt ngán Phân tích KLN bằng thiết bị HVG+AAS
8
Bomb phá mẫu sinh vật, trầm tích Dụng cụ tiểu phẫu mẫu sinh vật
9
Phụ lục IV
Cách tính mức độ an toàn thực phẩm
Mức độ tiêu thụ thực phẩm = ADI/ ((BAF) x Quychuẩn MT))
Mức độ sử dụng thực phẩm an toàn với Hg
Mức tiêu thụ Tiêu Mức tiêu thụ Mức tiêu thụ trong 1 ADI BAF trong 1 ngày trong 1 ngàyvới chuẩn ngàyđốivới (µg/l) (kg/kg) người 60kg (kg) người 60kg (g)
Tu hài 0,71 166 1,00 0,0043 0,258 258
Ngán 0,71 1359 1,00 0,0005 0,030 30
Ngao trắng 0,71 333 1,00 0,0021 0,126 126
10
Số cá thể
tu hài có thể tiêu thụ
Kích thước Khối lượng Mức tiêu thụ trong 1 trong 1 ngày đối với Tu hài Mô (g)* (mm) trung bình (g) ngày với người 60kg (g) người 60kg
an toàn với Hg
Loại1 15 258 60-65 28,95 17,37
Loại2 12 258 66-70 37,26 22,36
Loại 3 10 258 71-75 42,97 25,78
Loại 4 7 258 76-80 57,94 34,76
Loại 5 6 258 81-85 67,87 40,72
*: Tỷ lệ mô/cá thể của tu hài là 0,6/1
11
Số cá thể
Mức tiêu thụ trong 1 ngán có thể tiêu thụ trong 1 Kích thước Khối lượng trung Mô (g)** ngày với người 60kg ngày đối với người 60kg an Ngán (mm) bình (g) toàn với Hg (g)
Loại 1 41-45 22,0 10,54 30 3
Loại 2 46-50 27,9 13,40 30 2
Loại 3 51-55 36,1 17,35 30 2
Loại 4 56-60 53,9 25,87 30 1
Loại 5 61-65 85,3 40,97 30 1
**: Tỷlệmô/cá thể của ngán là 0,48/1
Số cá thể Mức tiêu thụ Ngao Kích thước Khối lượng ngao trắng có thể tiêu thụ Mô (g)*** trong 1 ngày với trắng (mm) trung bình (g) trong 1 ngày đối với người người 60kg (g) 60kg an toàn với Hg
Mẫu 1 25-30 13,37 4,54 126 28
Mẫu 2 31-35 14,24 4,84 126 26
***: Tỷ lệ mô/cá thể của ngao trắng là 0,34/1
12
Mức độ sử dụng thực phẩm an toàn với As
Mức tiêu thụ
Mức tiêu thụ trong 1 ngày đối Tiêu Mức tiêu ADI BAF trong 1 ngày với với người 60kg chuẩn thụ/ngày (kg) người 60kg (g) (g) an toàn với
As
Tuhài 2,14 61 20 0.0018 0.107 107
Ngán 2.14 533 20 0.0002 0.012 12
Ngao trắng 2.14 42 20 0.0025 0.150 150
13
Số cá thể Mức tiêu thụ trong Kích thước Khối lượng trung tu hài có thể tiêu thụ trong 1 Mô (g)* 1 ngày với người Tu hài (mm) bình (g) ngày đối với người 60kg an 60kg (g) toàn với As
60-65 28.95 17.37 107 6 Mẫu 1
66-70 37.26 22.36 107 5 Mẫu 2
71-75 42.97 25.78 107 4 Mẫu 3
75-80 57.94 34.76 107 3 Mẫu 4
81-85 67.87 40.72 107 3 Mẫu 5
*: Tỷ lệ mô/cá thể của tu hài là 0,6/1
14
Số cá thể
Mức tiêu thụ trong 1 ngán có thể tiêu thụ Kích thước Khối lượng trung Ngán Mô (g)** ngày với người 60kg trong 1 ngày đối với (mm) bình (g) người 60kg an toàn (g)
với As
Mẫu 1 1 12 41-45 22.0 10.54
Mẫu 2 1 12 46-50 27.9 13.40
Mẫu 3 1 12 51-55 36.1 17.35
Mẫu 4 0 12 56-60 53.9 25.87
Mẫu 5 0 12 61-65 85.3 40.97
**: Tỷ lệ mô/cá thể của ngán là 0,48 / 1
15
Số cá thể
ngao trắng
có thể tiêu Mức tiêu thụ Kích thước Khối lượng trung Số cá thụ trong 1 Ngao trắng Mô(g)*** trong 1 ngày với (mm) bình (g) thể/kg ngày đối với người 60kg (g) người 60kg
an toàn với
As
Mẫu 1 30-31 13,37 75 4,54 150 33
Mẫu 2 31-35 14,24 70 4,84 150 31
***: Tỷ lệ mô/cá thể của ngao trắng là 0,34/1
16