ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------o0o------
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẾ CỦA NHO GIA TIÊN TẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------o0o------
NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẾ CỦA NHO GIA TIÊN TẦN
Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. Nguyễn Tài Thư HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
1 PHẦN MỞ ĐẦU
10 PHẦN NỘI DUNG
10 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHO GIA TIÊN TẦN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ KINH TẾ
11 1.1. Nhân tính luận trong Nho gia Tiên Tần
16 1.2. “Ái nhân” - Tư tưởng quản lý xã hội mang tinh thần nhân đạo sâu
sắc
21 1.3. “Đạo chi dĩ đức” - Quan điểm về cơ chế điều hành quản lý của
Nho gia Tiên Tần
29 1.4. “An nhân” - Mục tiêu quản lý của Nho gia Tiên Tần
37 Chương 2: VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA NHO
GIA TIÊN TẦN VỚI VIỆC QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI
37 2.1. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên
Tần
59 2.2. Những vấn đề đạo đức có tính định hướng cho hoạt động kinh tế
của Nho gia Tiên Tần và ý nghĩa của nó trong quản lý kinh tế hiện đại
80 PHẦN KẾT LUẬN
83 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho gia là một hệ thống tư tưởng lớn, có vị trí quan trọng trong văn
hoá truyền thống của Trung Quốc và các nước Đông Á, trong đó có Việt
Nam. Tuy phải trải qua nhiều thăm trầm nhưng về cơ bản, Nho gia đã chiếm
vị trí thống trị trong xã hội phong kiến trước đây, là công cụ để giai cấp thống
trị quản lý quốc gia. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta cũng không thể
phủ định sự tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống tư tưởng này đối với
mọi mặt của đời sống. Do đó, việc nhận thức, nghiên cứu và chọn lọc tiếp thu
những tinh hoa tư tưởng để phục vụ cho con người, xã hội hiện đại là một vấn
đề rất cần thiết và có tính chiến lược lâu dài.
Về mặt lý luận, tư tưởng của Nho gia, đặc biệt là tư tưởng của Khổng
Tử đã và đang được quan tâm nghiên cứu rất sôi nổi. Trên thế giới hiện nay
đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền
thống và hiện đại này như: Nho gia và kết cấu nhân cách lý tưởng, Nho gia và
hình tượng người trí thức, Nho gia và vấn đề tu dưỡng cá nhân, Nho gia và
luân lý gia đình và Nho gia với quản lý hiện đại,... Mục đích của những
nghiên cứu này là góp phần khai thác tinh hoa truyền thống, làm cho xã hội
trở nên tốt đẹp hơn và phát triển bền vững.
Hiện nay nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho gia đã nghiên cứu kết hợp
giữa tư tưởng kinh tế của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng với kinh tế
hiện đại, nhằm tạo ra phương cách quản lý phù hợp với hoàn cảnh văn hoá, xã
hội đặc thù của nước mình. Và Việt Nam hiện nay cũng đã bước đầu quan tâm,
đề cập đến đề tài này ở một số góc độ, trong đó có góc độ kinh tế.
Tư tưởng Nho gia Tiên Tần chứa đựng những lý luận kinh tế và nguyên
tắc quản lý kinh tế rất có giá trị, mặc dù họ chỉ xem kinh tế là một thuộc tính của
tư tưởng chính trị - đạo đức, là điều kiện để đạt đến mục tiêu chính trị. Nhà Nho
1
rất coi trọng đạo đức con người và xã hội. Tinh thần này ảnh hưởng rất lớn tới tư
tưởng kinh tế của họ. Họ cho rằng tăng trưởng kinh tế ngoài biện pháp kinh tế
còn phải cần đến các biện pháp khác như chính trị, đạo đức.
Về mặt thực tiễn, sản xuất hàng hoá và cơ thế thị trường là động lực
làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng đồng thời cũng có thể là nguyên nhân
cho con người bị tha hoá, bị biến chất, chỉ biết quyền lợi ích kỷ của bản thân.
Hơn một thập kỷ trở lại đây, trước những biến động hết sức phức tạp của đời
sống xã hội, không chỉ ở nước ngoài, trong giới nghiên cứu Việt Nam đã có
xu hướng đặt lại, nghiên cứu trở lại vấn đề Nho gia trên tinh thần phê phán
nhằm gạn lọc, tiếp thu những nhân tố hợp lý, những giá trị chung của Nho
gia.
Trong thời đại hiện nay, kinh doanh không chỉ đơn thuần là hoạt động
để sinh ra lợi nhuận mà còn để nâng cao đời sống cho con người cả về vật
chất và tinh thần, hướng tới yếu tố văn hoá. Thực tế cho thấy chỉ có con
đường phát
triển nền kinh tế gắn liền với văn hoá, đạo đức mới đảm bảo sự phát triển
bền vững cho mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm
quan trọng của văn hoá, đạo đức ngày càng được khẳng định vững chắc hơn.
Ngày nay, chính phủ các quốc gia trên thế giới đều ý thức được rằng chỉ có
thể đạt được sự phát triển bền vững trên nền tảng một xã hội có văn hoá, đạo
đức. Nếu muốn đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường thì nhà kinh doanh không chỉ phải trang bị kiến thức, công nghệ mà
còn cần trang bị một nền tảng văn hoá, đạo đức vững chắc cho chính mình.
Đó chính là vấn đề xây dựng đạo đức trong kinh tế thị trường, mà tư tưởng
Nho gia là một hướng được quan tâm.
Vì vậy, lựa chọn đề tài “Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của Nho
gia tiên Tần”, tác giả hy vọng sẽ khai thác được những yếu tố tích cực của kho
tàng tri thức Nho gia vô giá, từ đó giúp cho chúng ta có được một nguồn vốn
2
nhân văn đa tầng, đa diện có ý nghĩa đối với quá trình phát triển, hoàn thiện
các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam ngày nay, trong đó có lĩnh vực
kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Các đề tài về sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội hiện đại, sự
kết hợp giữa tư tưởng Nho gia với các lĩnh vực trong thực tiễn cuộc sống đã
được giới học thuật nghiên cứu, bàn luận rất sôi nổi trong một thời gian dài
gần đây. Tư tưởng Nho gia với kinh tế hiện đại cũng là một trong số những
vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm, chú ý.
Ở Trung Quốc quê hương của Khổng Tử và Nho gia, vấn đề cũng đã
được tích cực nghiên cứu với mục tiêu kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
trên cơ sở đó tìm ra phương hướng cho lý luận và phương thức quản lý kinh
tế mang đặc sắc Trung Quốc. Cho tới nay, các học giả Trung Quốc đã cho ra
đời rất nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu về tư tưởng Nho gia và kinh tế
hiện đại có giá trị.
Nho gia và sự phát triển kinh tế là vấn đề được rất nhiều người quan
tâm, chú ý đặc biệt là từ sau khi Nhật Bản, một nước có truyền thống Nho
giáo, có sự phát triển thần kỳ về kinh tế và nhất là từ khi xuất hiện bốn con
rồng kinh tế mới ở châu Á. Thực tế cho thấy Nhật Bản và bốn nước công
nghiệp phát triển trên - vốn là những nước tôn sùng Nho gia trong quá khứ và
hiện nay - có sự phát triển kinh tế nhanh chóng, trong khi các nước xã hội chủ
nghĩa ở châu Á - phê phán Nho gia - lại có nền kinh tế phát triển chậm. Chính
hiện tượng này đã dẫn đến hai quan điểm trái ngược nhau:
* Quan điểm thứ nhất phủ nhận vai trò tích cực của Nho gia đối với sự
phát triển kinh tế. Phần nhiều các học giả của Việt Nam nghiêng theo quan
điểm này. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho rằng Nho gia từ Khổng
Tử trở đi ít bàn, ít quan tâm đến vấn đề kinh tế, đến lợi ích vật chất mà chỉ tập
3
trung vào vấn đề chính trị, đạo đức. Trong "Nho giáo xưa và nay", tác giả
Trần Đình Hượu cho rằng: "Những vấn đề kinh tế không được đặt ra theo góc
độ kinh tế mà theo góc độ chính trị xã hội, được giải quyết không theo cách
kinh tế mà theo cách đạo đức, hành chính. Nếu không làm được cho mọi
người no ấm hơn thì cũng làm cho mọi người vui với cảnh nghèo khổ trong
trật tự phận vị" [18, 100].
Giáo sư Hoàng Việt cũng có tư tưởng tương tự, ông cho Nho gia không
thể đóng vai trò gì trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam [18, 206 - 216].
Tác giả Tương Lai, trong bài viết "Đạo đức và vấn đề thực hiện ba lợi
ích", tạp chí Văn hoá Nghệ thuật số 5, 1982 nói rằng: "Nho giáo đối lập đạo
đức với lợi ích, đặc biệt là lợi ích vật chất".
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: "Nho giáo với tính chất giáo điều duy tâm
và bảo thủ như trên, vốn là sản phẩm của trì trệ đất nước, lại trở thành nhân tố
củng cố thêm sự trì trệ ấy. Tóm lại, nó cùng với chế độ quan liêu và nền kinh
tế xã hội Việt Nam tạo nên cái kiềng ba chân của tình trạng lạc hậu lâu dài
trên đất nước Việt Nam" [18, 336].
Giáo sư Trần Văn Giàu, trong bài viết "Đạo đức Nho giáo và đạo đức
truyền thống Việt Nam", Tạp chí Triết học số 1, 1987 cho rằng Nho gia cản
trở tiến trình hiện đại hoá. Có tác giả cho rằng Nho gia về cơ bản mâu thuẫn
với văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam và chữ Hán, Nho gia không
thuộc truyền thống dân tộc.
Tác giả Hà Thúc Minh thì khẳng định: "Không thể cho Nho giáo là
động lực phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay được" và "đối với các nước
đang trong tình trạng kinh tế chậm phát triển, thực ra không cần kỳ vọng gì
vào động lực Nho giáo" [28, 24]. Ông cho rằng Nho gia vào thời kỳ của nó
cũng chưa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, thì ngày nay, đối với nền
kinh tế thị trường thì càng khó có thể coi Nho gia là một động lực phát triển
4
kinh tế. Nho gia đối lập đạo đức với kinh tế "Vi nhân bất phú, vi phú bất
nhân", Nho gia đã cho rằng có cái nọ thì không có cái kia.
Như vậy, nhìn chung các học giả của Việt Nam phủ nhận vai trò tích
cực của Nho gia đối với sự phát triển kinh tế.
* Quan điểm thứ hai: Một số nhà nghiên cứu thế giới thì lại có quan
điểm khác. Nhà Đông phương học người Pháp, L.Vandermensch cho rằng
Nho gia đã làm cho kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc phát triển nhanh, còn Việt
Nam sở dĩ kinh tế phát triển chậm vì Nho gia ở Việt Nam không phát triển
bằng hai nước trên [18, 84].
Một giáo sư trường Đại học Kim Sơn, Hàn Quốc, ông Kim Nhật Tân
nói: "Nho giáo là nền văn hoá quan trọng nhằm thúc đẩy kinh tế các nước
Đông Á phát triển" [18, 303].
Một giáo sư Viện Dân tộc Trung ương của Đài Loan, ông Ngưu Kim
Chung, cho rằng: "Nho giáo ít nhất không gây trở ngại cho việc hiện đại hoá
và thậm chí nó còn có tác dụng tích cực" [18, 304].
Nhà nghiên cứu Nhật Bản Michi Morishima, trong cuốn "Chủ nghĩa tư
bản và Nho giáo", cho rằng Nho gia nằm trong di sản văn hoá, nếu khinh rẻ
nó thì sẽ không có sự phát triển [18, 300].
Song nhiều người cho rằng Nho gia không phải là động lực trực tiếp
đối với kinh tế, nhưng theo họ, nó tác động một cách gián tiếp đến sự phát
triển kinh tế thông qua con người. Điều đó thể hiện ở chỗ nó góp phần bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức của con người, nó góp phần xác lập mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội. Nho gia không đề cao chủ nghĩa cá nhân mà đề cao
tính cộng đồng, Nho gia không đề cao cuộc sống hưởng thụ mà đề cao tinh
thần tự lực, tự cường, ý chí cống hiến (Nghĩa) cho xã hội, chứ không phải ý
thức đòi hỏi hưởng thụ (Lợi). Thực tế phát triển kinh tế của Nhật Bản và bốn
con rồng châu Á, hoặc nhiều, hoặc ít đã chứng minh điều đó, và cho thấy đặc
5
điểm của hoạt động kinh tế theo kiểu phương Đông là kết hợp kinh tế thị
trường với đạo đức Nho gia.
Tóm lại, hai quan điểm trên mâu thuẫn với nhau và mỗi loại đều có lý
riêng của nó. Tuy nhiên hai khuynh hướng tư tưởng này có điểm chung là
chưa được trình bày một cách có hệ thống và có luận điểm còn khiên cưỡng.
Tất cả đều đang đòi hỏi được phân tích sâu và hệ thống lại có cơ sở hơn.
Ở Việt Nam, mặc dù vấn đề Nho gia vẫn rất được quan tâm nhưng đề
tài Nho gia với phát triển kinh tế còn khá mới mẻ và chưa được đi sâu nghiên
cứu nhiều. Hiện mới chỉ có một số tác phẩm dịch có liên quan đến đề tài như
cuốn: “Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại” của tác giả
Trung Quốc Phan Nải Việt, “Đạo của quản lý” của tác giả Trung Quốc Lê
Hồng Lôi,... Những tác phẩm này tuy có đề cập đến tư tưởng Khổng Tử và
quản lý kinh tế hiện đại nhưng chưa được đầy đủ và còn thiếu tính hệ thống.
Trong luận văn này, người viết sẽ đi sâu phân tích các quan niệm đạo đức
trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần, trên cơ sở đó vận dụng vào lĩnh
vực quản lý kinh tế ở Việt Nam, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Mặc dù đây mới chỉ là những nghiên cứu hoàn toàn trên phương diện nhận
thức, nhưng người viết hy vọng luận văn của mình sẽ là đóng góp có ý nghĩa
cho những nghiên cứu về khoa học kinh tế của chúng ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích nghiên cứu: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình
nghiên cứu liên quan đến đề tài, trên cơ sở phân tích một số vấn đề đạo đức
trong kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần, luận văn chỉ ra những khía cạnh hữu
dụng, có ý nghĩa của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần đối với quản lý kinh
tế ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung
làm rõ các vấn đề chủ yếu sau:
6
- Cơ sở lý luận của Nho gia Tiên Tần trong giải quyết vấn đề kinh tế.
- Các quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần
và vai trò của chúng trong quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Triết học Mác -
Lênin về xã hội và con người.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật của Triết học Mác - Lênin kết hợp với một số phương
pháp khác như: phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, phương pháp lôgíc
và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so
sánh, phương pháp liên ngành khoa học xã hội.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : một số quan niệm đạo đức trong tư tưởng
kinh tế của Nho gia Tiên Tần có ý nghĩa đối với sự vận hành kinh tế hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu :
- Tài liệu nghiên cứu về các nhà Nho Tiên Tần, trong đó chủ yếu là
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử.
- Tài liệu gốc có liên quan như sách Tứ thư, sách Tuân Tử.
- Luận văn chủ yếu tập trung khai thác một số phương diện đạo đức
tích cực, phù hợp với thời đại và có giá trị của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên
Tần, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn khẳng định và làm rõ một số phương diện đạo đức có giá trị
trong tư tưởng kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần đối với quản lý kinh tế hiện
đại. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
nghiên cứu về quản lý kinh tế và sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội
hiện đại.
7
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 6 tiết.
8
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHO GIA TIÊN TẦN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KINH TẾ
Tư tưởng quản lý xã hội của Nho gia ra đời từ rất sớm và theo các nhà
Nho, tư tưởng ấy có vai trò quan trọng và hiển hiện trong việc quản lý quốc
gia, xã hội cổ đại. Trong tư tưởng quản lý của mỗi nhà Nho tuy có những
điểm khác nhau, song đều mang đậm màu sắc nhân văn, đó là những lý luận
quản lý mang tính chất phổ quát với đặc điểm xuyên suốt là “dĩ nhân vi bản”
– lấy con người làm gốc. Ở Nho gia, vấn đề kinh tế vẫn chưa tách khỏi chính
trị - đạo đức, nói cách khác, kinh tế chỉ được nhìn nhận trên cơ sở chính trị -
đạo đức. Do vậy, các nhà Nho Tiên Tần quan niệm rằng, động lực chủ yếu,
đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội là ý thức, tư tưởng chính trị -
đạo đức. Các nhà Nho Tiên Tần xem kinh tế là một lĩnh vực của tư tưởng
chính trị - đạo đức. Vì vậy, người viết sẽ đi sâu phân tích các vấn đề mang
tính lý luận trong tư tưởng chính trị - đạo đức của các nhà Nho Tiên Tần làm
cơ sở cho tư tưởng kinh tế của họ. Bên cạnh đó, người viết cũng chú ý đến
các quan điểm, phương pháp quản lý cụ thể rất đa dạng và rất có giá trị với
quản lý kinh tế hiện đại.
Trước tiên, xét nền tảng nhân tính luận trong tư tưởng của Khổng Tử.
Trong nhân tính luận, ông cho rằng, tính của con người vốn lành, ngây thơ,
mộc mạc nhưng không phải là nhất thành bất biến mà có thể thay đổi, uốn nắn
được và khuynh hướng của nó là hướng về tính thiện và con người thông qua
giáo dục, tu dưỡng để đạt được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trên cơ sở
đó, Khổng Tử đề ra tư tưởng chung cho quản lý xã hội với tinh thần nhân đạo
9
sâu sắc “nhân giả ái nhân” - nhấn mạnh ý nghĩa của tình cảm yêu thương, tôn
trọng lẫn nhau giữa con người với con người. Về cơ chế quản lý, Khổng Tử
đề ra “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ” với mong muốn khuyến khích, khiến cho
con người có thể tự giác tuân thủ theo các quy định, nguyên tắc quản lý và
chủ động, tích cực trong công việc. Khổng Tử còn đưa ra mục tiêu quản lý
của mình, đó là “an nhân”. Mục tiêu quản lý này đóng vai trò là một loại mục
tiêu quản lý trừu tượng, có tính phổ biến và tinh thần của nó phù hợp với hoạt
động quản lý của các thời đại khác nhau và trong các xã hội khác nhau. Đây
là những điểm nổi bật nhất trong lý luận quản lý “dĩ nhân vi bản” của Khổng
Tử và đó chính là cơ sở để giải quyết những vấn đề kinh tế của Nho gia Tiên
Tần.
1.1. Nhân tính luận trong Nho gia Tiên Tần
Lịch sử của hoạt động quản lý cũng lâu đời như nền văn minh của nhân
loại, mọi hoạt động của con người đều cần có sự quản lý. Quản lý suy cho
cùng đều là quản lý con người. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của
hoạt động quản lý. Vì vậy, trong thực tiễn quản lý lâu dài của mình, loài
người đã nhận ra rằng: việc nghiên cứu con người, nhận thức con người là
một điều rất quan trọng để thực hiện mục tiêu quản lý, tiến hành quản lý,
khiến cho những người bị quản lý tự giác tuân thủ các quy định, phát huy tính
chủ động và năng động của mình. Những điều này đều có liên hệ rất mật thiết
với góc độ chính xác và sâu sắc của nhận thức nhân tính. Các nhà tư tưởng đã
phải tốn rất nhiều tâm sức vào việc nhận thức con người, tìm hiểu về nhân
tính và cũng đã đưa ra nhiều học thuyết về vấn đề này. Mặt khác, nhân tính
cũng là tiền đề tất yếu của lý luận quản lý. Trên thực tế, bất kỳ lý luận nào
cũng lấy một nhân tính luận nhất định làm tiền đề cơ bản của mình.
Các nhà tư tưởng Trung Quốc từ rất sớm đã đi sâu tìm hiểu và có được
một hệ thống quan niệm khá hoàn chỉnh về con người, về nhân tính và mối
quan hệ giữa con người và phương pháp quản lý con người. Trong số đó
10
không thể không nói đến tư tưởng Khổng Tử và những lý thuyết về nhân tính
đa dạng của Nho gia. Quan niệm nhân tính mà Khổng Tử đưa ra là tính của
con người có thể đào luyện, uốn nắn được. Xuất phát từ đó, các nhà Nho đã
đưa ra nhiều lý luận nhân tính khác như: “Tính thiện luận” của Mạnh Tử,
“Tính ác luận” của Tuân Tử, “Tính không thiện không ác luận” của Cáo Tử
và “Tính có thiện có ác luận” của Thế Thạc,... Với các đặc điểm riêng cơ bản
của tư tưởng Nho gia Tiên Tần, những lý luận này đã đề cập tới vấn đề nhân
tính từ góc độ khác nhau. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu con người và
nhân tính luận của các nhà Nho Tiên Tần có ý nghĩa quan trọng đối với việc
xác định chính xác tư tưởng kinh tế của họ.
Nhân tính là sự thống nhất giữa tính tự nhiên, tính xã hội và tính tinh
thần. Bản chất của con người người bao hàm trong tính xã hội của con người
còn tính tự nhiên cũng là “tự nhiên” đã bị xã hội hoá. Có thể thấy, nhân tính
khiến con người thoát khỏi tự nhiên, là thuộc tính đặc hữu của loài người, do
vậy, con người là quý giá nhất, linh thiêng nhất trong vũ trụ.
Người ta đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vấn đề này và đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa về con người, ví dụ: “Con người là động vật lý tính”, “con
người là động vật chính trị”, “con người là động vật tôn giáo”, “con người là
động vật văn hoá”, “con người là động vật kinh tế”,... nhưng nhận thức của
loài người về bản thân vẫn còn mông lung, nhận thức về nhân tính vẫn còn ở
những biểu hiện bề ngoài, chưa thật sự đi sâu vào bản chất bên trong của nó.
Con người là tồn tại xã hội phức tạp, nhân tính cũng là một vấn đề vô
cùng phức tạp. Nhận thức về con người và nhân tính có ý nghĩa thực tiễn quan
trọng và các nhà tư tưởng từ trước đến nay vẫn không ngừng theo đuổi,
nghiên cứu về nó. Trong tác phẩm “C. Mác, Ăngghen toàn tập”, tập 3, trang
11, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 1995, Các Mác viết: “Trong tính hiện thực
của nó bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận điểm của
11
Mác đã tiến thêm một bước đi sâu vào bản chất con người, đồng thời chỉ ra
một phương hướng đúng đắn cho những nghiên cứu sau này.
Học thuyết của Nho gia Tiên Tần, tiêu biểu là học thuyết của Khổng Tử
có bao hàm tư tưởng kinh tế rất phong phú. chúng còn có giá trị rất lớn trong
thời kỳ hiện đại của Trung Quốc. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng rất lớn đến các
nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapo và Việt Nam. Tư
tưởng kinh tế Khổng Tử mang màu sắc nhân bản rõ nét, nó xuất phát từ việc
coi trọng con người, lấy nhân tính thiện làm nền tảng, lấy trật tự đạo đức làm
hạt nhân, lấy an dân, phú dân làm mục tiêu quản lý, từ đó xây dựng nên mô
thức quản lý đầy nhân tính. Việc nghiên cứu những tư tưởng của Nho gia
Tiên Tần về con người và nhân tính trong quản lý thật sự có ý nghĩa đối với
vấn đề kinh tế hiện nay.
Khổng Tử rất coi trọng vị trí và tác dụng của con người trong xã hội.
Trước tiên, ông luôn khẳng định giá trị của con người, thừa nhận nhân cách
độc lập của con người. Trong “Hiếu kinh - Chương Thánh trị” có dẫn câu nói
của Khổng Tử: “Thiên địa chi tính, nhân vi quý” (giữa các loài có tính trong
trời đất, con người là quý nhất). Có thể nói, tư tưởng “quý nhân” của Khổng
Tử trong câu nói này chính là quan niệm nền tảng của quan điểm kinh tế của
Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần.
Khổng Tử luôn nhấn mạnh giá trị của con người. Con người quý hơn
đạo, “Tử viết: Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” (Khổng Tử nói:
Người phát huy được đạo, chứ đạo không phát huy được người) [30, 487];
con người quý hơn quỷ thần: “Tử viết: Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ” (
Khổng Tử nói: “Chưa biết thờ người, làm sao có thể thờ quỷ” [30, 393];
Trong sách Lễ ký - Lễ vận viết con người quý hơn cả trời đất: “Cố nhân giả,
thiên địa chi tâm dã, ngũ hành chi đoan đã, thực vị, biệt thanh, bị sắc nhi sinh
giả dã” (Con người là tâm của trời đất, đầu mối sinh ra ngũ hành, sinh ra biết
12
phân biệt mùi vị, âm thanh, màu sắc”. Tóm lại, theo Khổng Tử, con người là
quý giá nhất trên thế giới này, là linh hồn của vạn vật trong vũ trụ.
Thái độ khẳng định, đề cao giá trị con người này của Khổng Tử có ý
nghĩa trong mọi thời đại, đặc biệt là đối với xã hội bấy giờ. Bởi khi đó vẫn
còn tồn tại phổ biến những tư tưởng coi thường con người, coi thường giá trị
của con người. Người cai trị có thể sai khiến, đánh đập, thậm chí giết hại dân,
đối xử với dân như súc vật. Quản Tử từng chủ trương: “Người cai trị như
nước, nuôi dưỡng con người như nuôi dưỡng lục súc, dùng người như dùng
cây cỏ” (Quản Tử - Thất pháp). Khổng Tử còn thừa nhận, mỗi con người đều
có ý chí độc lập của riêng mình, và ý chí, nhân cách của con người cần phải
được tôn trọng, không thể bị làm tổn thương hoặc chà đạp.
Về vấn đề nhân tính, Khổng Tử đã đề xuất ra chủ trương tính con người
có thể xây dựng, rèn luyện và uốn nắn được. Đây chính là đặc điểm lớn nhất
trong nhân tính luận của Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần khác.
Khổng Tử nói: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” [30, 514]. Ý của
câu này là: Thiên tính (bản tính trời cho) của con người vốn là gần gũi với
nhau, không có sự phân biệt gì lớn lắm, nhưng khi trải qua những hoàn cảnh,
tập nhiễm sau này, giữa con người với con người sẽ dần dần kéo dài khoảng
cách, không còn giữ nguyên như trước nữa. Ở đây, Khổng Tử chưa đề cập
đến nhân tính của con người rốt cuộc là thiện hay ác. Ông chỉ khẳng định
nhân tính có thể cải biến được. Bản tính con người được trời trao cho, khi mới
sinh ra hoàn toàn không có hình thái cố định và có thể được xây dựng, rèn
luyện, biến đổi bởi hoàn cảnh sau này. Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái
tính cách cũng khác (hoặc là ác hoặc là thiện). Đối với Khổng Tử mà nói,
đương nhiên ông mong muốn nhân tính sau khi tập nhiễm là tính thiện, đây
cũng chính là căn cứ lập luận và mục đích cơ bản của “nhân học” của ông.
Lý luận nhân tính với khuynh hướng thiện của Khổng Tử đã trở thành
nền tảng chung trong các nhân tính luận của phái Nho gia. Trên cơ sở đó, các
13
nhà Nho Tiên Tần sau này đã đưa ra những nhân tính luận khác nhau, tiêu
biểu là “Tính thiện luận” của Mạnh Tử, “Tính ác luận” của Tuân Tử.
Mạnh Tử chủ trương “Luận tính thiện”, cho rằng thiên tính mà con
người được ban cho là lương thiện. Con người sinh ra đã có lòng trắc ẩn
(thương xót), tu ố (biết hổ thẹn), từ nhượng (từ chối không tiếp nhận) và thị
phi (biết phân biệt phải trái); khi đem mở rộng và phát triển chúng thì chúng
sẽ trở thành những bản tính lương thiện: nhân, nghĩa, lễ, trí. Do đó, theo
Mạnh Tử, con đường tạo dựng xây đắp nhân tính, dẫn dắt con người làm điều
thiện là ở chỗ “tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính” (Bảo tồn lương tâm mình, nuôi
dưỡng bản tính của mình) [30, 755]. Nổi bật lên ở đây là chữ “dưỡng”. Tồn
tâm dưỡng tính trước tiên phải bắt đầu từ người quản lý và nó cũng có quan
hệ rất lớn với người bị quản lý. Mạnh Tử chỉ ra: “Dĩ thiện phục nhân giả, vị
hữu năng phục nhân giả dã. Dĩ thiện dưỡng nhân, nhiên hậu năng thiên hạ.
Thiên hạ bất tâm phục nhi vượng giả, vị chi hữu dã” (Người quản lý dựa vào
điều thiện để khiến cho mọi người phải phục tùng thì chưa đủ, còn cần phải
dựa vào điều thiện đó để giáo dục, bồi dưỡng họ, sau đó mới có thể làm cho
họ phục tùng. Việc mọi người không tin phục người quản lý thì không thể tạo
ra được sự thịnh vượng) [30, 719], ý muốn đem cái thiện của nhân, nghĩa, lễ,
trí để đào luyện giáo dưỡng con người, như thế mới có thể làm cho người
trong thiên hạ thực sự quy phục. Vì vậy, “tồn tâm dưỡng tính” cho đến
“dưỡng nhân vi thiện” là con đường duy nhất để quản lý quốc gia.
Tuân Tử thì chủ trương “Tính ác luận”, cho rằng con người sinh ra vốn
đã có bản tính “cơ nhi dục bão, hàn nhi dục noãn, lao nhi dục tức, hiếu lợi nhi
ố hại” (Đói thì muốn ăn no, rét thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, thích lợi mà
ghét hại), nếu thuận theo tự nhiên, không tiến hành hạn chế thì sẽ dẫn đến
loạn. Vì vậy, con đường nhào nặn xây dựng nhân tính, dẫn dắt nhân dân làm
điều thiện chính là ở “hoá tính khởi nguỵ”, ở đây nổi bật là chữ “hoá”. Nội
dung của “hoá tính” ở đây bao gồm phương thức cử chỉ và phong tục tập
14
quán. Trong hoàn cảnh nhất định và tập quán hành vi nhất định, qua sự góp
nhặt, rèn luyện lâu ngày thì bản tính của con người có thể dần được cải biến.
Người quản lý hiểu đạo lý “hoá tính” nói trên thì cần đảm nhiệm trách nhiệm
giáo hoá lễ nghĩa, xây dựng nhân cách một cách tự giác. Tính người vốn là ác,
nhưng thông qua giáo hoá lễ nghĩa của người quản lý thì có thể tiến hành
những hạn chế cần thiết đối với tính, dẫn dắt tính theo cái thiện. Tuy có mang
dấu ấn của chế độ đẳng cấp phong kiến; nhưng việc Tuân Tử coi sự bồi
dưỡng tạo dựng con người làm nhân tố quan trọng của sự phát triển xã hội là
rất có ý nghĩa.
Nhân tính luận mà Khổng Tử đề xướng không chỉ chi phối tư tưởng
của các học giả thuộc phái Nho gia là Mạnh Tử và Tuân Tử mà cũng còn ảnh
hưởng đến các tư tưởng nhân tính của các biệt phái Nho gia khác. Ví dụ
“Luận tính vô thiện vô bất thiện” của Cáo Tử, “Luận tính hữu thiện hữu ác”
của Thế Thạc,...
Trong tư tưởng của các nhà Nho Tiên Tần, vấn đề nhân tính không chỉ
là tiền đề tất yếu của quan điểm kinh tế, mà hơn nữa là trọng tâm, hạt nhân
của toàn bộ hoạt động kinh tế. Mặc dù luận nhân tính chưa trực tiếp khẳng
định bản tính thiện của nhân tính, nhưng Khổng Tử luôn đề cao việc học tập,
tu dưỡng, cải tạo nhân tính để hướng tới nhân tính thiện. Định hướng đó đã
quy định phương pháp giáo dục, tu dưỡng đối với con người và đồng thời
cũng quy định các tư tưởng kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần.
1.2. “Ái nhân” - Tư tưởng quản lý xã hội mang tinh thần nhân đạo
sâu sắc
“Ái nhân”, theo Nho gia Tiên Tần là mục đích, ước vọng cao nhất của
con người và trong quan hệ giữa con người với con người. Tình cảm yêu
thương, tương thân tương ái là tiền đề của hài hoà, đoàn kết, hợp tác và cũng
là tiền đề của sự hoà hợp xã hội, sự hoà hợp giữa các thành viên trong cộng
đồng. Nếu con người mất đi lòng nhân ái, nhân tính trở nên tà ác, thì xã hội sẽ
15
đầy rẫy tội lỗi và bạo lực. Tình thương yêu giữa con người với con người là
một tiêu chí của xã hội văn minh, là điều kiện quan trọng không thể thiếu để
xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, khi xét đến động lực bên trong của quản
lý, trước tiên cần phải đề cập đến tư tưởng “nhân giả ái nhân” của Nho gia
Tiên Tần.
Trong toàn bộ học thuyết của Khổng Tử, chữ “nhân” chính là tư tưởng
hạt nhân, đồng thời đó cũng chính là sợi dây xuyên suốt lý luận quản lý của
ông, “nhân” là đối tượng trong quản lý. Theo Nho gia, bản chất của quản lý là
“trị nhân” (trị người), tiền đề của quản lý là “nhân tính”. Tóm lại, tất cả đều
không thể xa rời “nhân”.
Trong sách “Luận ngữ” của Khổng Tử, chữ “nhân” được xuất hiện hơn
109 lần. “Thuyết văn” giải thích chữ “nhân” như sau: “Nhân, thân dã, tòng
nhân tòng nhị”- kết cấu chữ “nhân” bao gồm chữ “nhân” là người và chữ
“nhị” là hai, ý nghĩa chỉ mối quan hệ giữa hai con người, giữa con người với
con người, thể hiện là: thừa nhận cả ta và người đều là hai con người như
nhau, hai con người có nhân cách độc lập, thể hiện quan hệ giữa con người
với con người. Con người là sinh vật xã hội hoá, không phải là những cá thể
sống đơn độc mà luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại, liên hệ lẫn nhau. Vì
vậy, quan hệ xã hội giữa con người với con người là mối quan hệ cơ bản nhất
của con người, của xã hội. Không có sự quan hệ qua lại, hợp tác giữa con
người với con người thì sẽ không có xã hội, quy luật xã hội, Khổng Tử đã
sớm thấy được tầm quan trọng của các mối quan hệ này. Vì vậy ông đặt trọng
tâm nghiên cứu của mình vào “con người”, mối quan hệ giữa họ và đưa ra
khái niệm “nhân”, tạo ra nền tảng tinh thần cho toàn bộ nền văn hoá Trung
Hoa.
Nội hàm của “nhân” vô cùng phong phú, nhưng cơ bản nhất là “ái
nhân”. Như học trò Phàn Trì hỏi Khổng Tử “nhân” là gì, Khổng Tử đã trả lời:
“Ái nhân” [30, 418]. Ái nhân theo Khổng Tử, ông yêu cầu giữa con người với
16
người phải yêu thương nhau, tôn trọng nhau. Tư tưởng ái nhân này của Khổng
Tử trước tiên được thể hiện ở sự khẳng định giá trị con người trong xã hội.
Trong “thiên Hương đảng, sách Luận ngữ” có ghi câu chuyện như sau: Một
hôm chuồng ngựa nhà Khổng Tử bị cháy, Khổng Tử mãn chầu trở về, biết tin
này liền vội vàng hỏi: “Người giữ ngựa có bị thương không?” chứ không hỏi
đến ngựa. Trong xã hội lúc bấy giờ, những người nô lệ không có được các
quyền của một con người, lại càng không được tôn trọng như một con người.
Họ bị coi như loài vật, bị sai bảo, đem buôn bán, biếu tặng, thậm chí là giết
hại. Giá trị của một nô lệ không bằng giá trị của một con ngựa. Nhưng ở đây,
khi chuồng ngựa bị cháy, Khổng Tử quan tâm hỏi đến trước tiên là người giữ
ngựa chứ không phải là ngựa. Điều này chứng tỏ, ông đặc biệt coi trọng con
người. Khổng Tử còn kịch liệt lên án và phản đối chế độ tuẫn tàng người, cho
đó là hành động bất nhân, vô nhân đạo. Trong “chương Lương Huệ Vương
thượng, sách Mạnh Tử” có viết: Khổng Tử trách mắng kẻ dùng hình người để
chôn theo người chết sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn.
Tóm lại, ý nghĩa căn bản đầu tiên trong tư tưởng “nhân giả ái nhân” là
khẳng định giá trị của con người. Trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, tư
tưởng này của Khổng Tử có lẽ khó được tiếp nhận, nhưng nó thật sự có ý
nghĩa tiến bộ và có giá trị cho đến tận ngày nay.
Mặt khác, Khổng Tử cho rằng, “ái nhân” phải được bắt đầu từ trong gia
đình, gia tộc, từ việc hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng, thương yêu anh em.
Trong “thiên Học nhi, sách Luận ngữ” có viết: Khổng Tử nói với học trò
Hữu Nhược: “Hiếu đễ dã giả, kỳ vị nhân chi bản dã” - hiếu đễ chính là gốc
của “nhân”. Vì vậy, Khổng Tử rất chú trọng giáo dục đức “hiếu” cho các học
trò của mình. Trong “Luận ngữ” có ghi lại rất nhiều lời dạy bảo của Khổng
Tử về đức hiếu đễ, chẳng hạn như: “Khi phụng dưỡng cha mẹ, nếu cha mẹ sai
thì khuyên can nhẹ nhàng, thấy ý cha mẹ không theo thì vẫn phải kính trọng
mà không được làm trái nghịch, chịu khó nhọc mà không oán giận” [30, 273]
17
và “... đối với cha mẹ mà không kính trọng thì nuôi dưỡng cha mẹ và nuôi
dưỡng súc vật có gì là khác biệt đâu?” [30, 228].
Hiếu đễ là sự thực hiện cái gốc căn bản của “nhân”, cũng là sự bắt đầu
của quá trình đào luyện, uốn nắn nhân tính, xây dựng nên mô thức quản lý
nhân tính. Theo Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần, một người mà đến cha
mẹ mình còn không có hiếu thì anh ta không thể có được tấm lòng nhân ái.
Vì vậy, việc yêu người phải bắt đầu từ những người thân thiết của mình trong
gia đình, gia tộc, sau đó mở rộng ra khắp mọi người và vạn vật xung quanh.
Tình cảm thương yêu con người cũng có thể khiến cho xã hội trở nên cân
bằng, yêu vạn vật sẽ tạo ra sự cân bằng trong sinh thái tự nhiên. Cân bằng xã
hội và trong sinh thái tự nhiên chính là điều kiện quan trọng để thực hiện mục
tiêu quản lý.
Trong học thuyết của Khổng Tử, “nhân” là nấc thang đạo đức cao nhất
của con người, của đời người. Muốn đạt được đến điều “nhân”, làm được đến
“ái nhân” không phải là chuyện dễ dàng. Trong “chương Ung Dã, sách Luận
ngữ” có viết: Có lần Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Nếu một người có thể đem ân
huệ đến cho mọi người, tạo cho mọi người cuộc sống ấm no đầy đủ thì có thể
coi là người nhân không?” Khổng Tử tra lời: “Người đó không chỉ là người
nhân mà đã là thánh nhân rồi! Đến đức Nghiêu Tuấn cũng khó mà làm được
như vậy. Người có nhân là người bản thân muốn lập mà lập cho người khác,
bản thân muốn thông đạt mà làm cho người khác cũng được thông đạt. Xuất
phát từ mong muốn bản thân mình mà thúc đẩy người khác. Đó có thể coi là
phương pháp để đạt đến điều nhân” [30, 314].
Còn trong “chương Nhan Uyên, sách Luận ngữ”, viết: Trọng Cung hỏi
làm thế nào để thực hành đạo nhân, Khổng Tử trả lời: “Lúc ra cửa phải trang
trọng, nghiêm chỉnh giống như sẽ gặp khách quý, sai khiến dân chúng phải
cẩn thận, trang nghiêm giống như hành đại lễ. Những gì mình không thích thì
không được áp dụng cho người khác. Như vậy, trong nước mới không có ai
18
oán hận ngươi, trong nhà không có ai oán hận ngươi” [30, 412] và để thưch
hành đạo nhân, Khổng Tử còn nói: “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi
đạt nhân” (bản thân muốn lập mà lập cho người khác, bản thân muốn thông
đạt mà làm cho người khác cũng được thông đạt) và “Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân” (Những gì mình không thích thì không được áp dụng cho người khác).
Khổng Tử cho rằng, xuất phát từ ý nguyện của mình để thúc đẩy người khác,
những gì mà người khác muốn thì mình giúp họ đạt được, những gì mà họ
không muốn thì không nên ép họ. Làm như vậy sẽ xử lý tốt được mối quan hệ
giữa con người với con người. Đó chính là “ái nhân”.
Trong sách “Đại học” còn trình bày cụ thể hơn về vấn đề này: “Những
việc mà mình không muốn người trên thi hành với mình thì không nên dùng
để đối đãi với người dưới; những việc mà mình không thích người dưới làm
thì không nên dùng nó để đối đãi với người trên; những gì mà người phía
trước mình không thích thì không nên áp dụng cho người phía sau; những gì
mà người phía sau mình không thích thì không nên áp dụng cho người bên
trái mình; những gì mà người bên trái mình không thích thì không nên áp
dụng cho người bên phải mình” [30, 29]
Trên thực tế, đây chính là một cách giải thích thuyết “ái nhân” của
Khổng Tử, theo đó “ái nhân” là “đạo trung thứ”. “Đạo trung thứ” là tư tưởng
xuyên suốt học thuyết của Khổng Tử. Tăng Tử từng nói: “Phu Tử chi đạo,
trung thứ nhi dĩ dã” (Đạo của Phu Tử chính là đạo trung thứ) [30, 270]. Theo
Tăng Tử, toàn bộ học thuyết của Khổng Tử có thể dùng hai chữ “trung thứ”
này để khái quát. Thật ra, cả “trung” và “thứ” đều là những nội dung quan
trọng của “nhân”. Ý nghĩa cơ bản của “trung” là: tận tâm tân lực, làm hết sức
mình một cách công chính, vô tư. Trong “Thuyết văn” ghi: “Trung, kính dã.
Tận tâm viết trung” (Trung là tận tâm, làm hết sức), “Quảng Vận” viết:
“Trung, vô tư dã” (Trung là vô tư). Vì vậy, “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục
đạt nhi đạt nhân” chính là đạo “trung”. Còn “thứ” là một mặt khác của
19
“nhân”. “Thuyết Văn” ghi: “Thứ, nhân dã” (Thứ là đức nhân), Chu Hy giải
thích: “Suy kỷ vị chi thứ. (Từ mong muốn của bản thân mình mà suy nghĩ cho
người khác gọi là thứ). Do đó, “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” chính là “thứ”.
Qua đây, ta có thể thấy sự khác biệt giữa “trung” và “thứ”. “Trung” là thái độ
chân thành đối với con người và vạn vật xuất phát từ nội tâm, lấy thái độ đó
để làm việc, mưu sự cho người khác. “Thứ” là dựa vào tấm lòng nhân ái của
mình để đoán định lòng người khác, từ đó xử lý được tốt đẹp, chính xác các
mối quan hệ xã hội và biết thông cảm, lượng giải cho những điều chưa được
chu toàn và không thoả đáng của người khác.
Đạo trung thứ của Khổng Tử có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với hậu thế.
Có người còn cho rằng: Người bình thường nếu nắm được đạo trung thứ thì sẽ
có thể trở thành người “nhân”, còn người quản lý mà nắm được đạo trung thứ
thì sẽ có khả năng quản lý tốt khắp cả thiên hạ.
Trong xã hội loài người, trong tổ chức doanh nghiệp từ xưa đến nay,
tình cảm yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, tương thân tương ái vẫn luôn được
khẳng định và hướng tới. Hiện nay, trong quản lý kinh tế hiện đại cũng cần
phải thực thi ái nhân bên cạnh việc áp dụng các chế độ kỷ luật nghiêm khắc.
Tóm lại, một doanh nghiệp nếu tạo ra được môi trường hợp tác tương
thân tương ái, tôn trọng, yêu thương lẫn nhau giữa các cán bộ quản lý, giữa
các nhân viên, cán bộ quản lý với nhân viên, giữa doanh nghiệp và người tiêu
dùng, xã hội thì doanh nghiệp này nhất định sẽ có được sức mạnh nội tại rất
lớn, khả năng cạnh tranh mạnh, và tất nhiên theo đó sẽ là những lợi ích kinh
tế lớn.
1.3. “Đạo chi dĩ đức” - Quan điểm về cơ chế điều hành quản lý của
Nho gia Tiên Tần
Trong thời đại của Khổng Tử có hai loại phương thức quản lý: một là
“đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ”, coi trọng sự dẫn dắt, chỉ dạy, giáo hoá; còn một
loại là “đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình”, nặng về cưỡng chế, trừng phạt.
20
Khổng Tử chỉ ra: hiệu quả của hai phương thức này hoàn toàn khác nhau. Nếu
người quản lý dùng đạo đức để dẫn dắt, dùng lễ pháp để ước thúc thì sẽ có
được hiệu quả “hữu sỉ thả cách” - người bị quản lý sẽ có cảm giác xấu hổ,
liêm sỉ và có thể tự giác sửa đổi những sai lầm của mình. Ngược lại, nếu dùng
pháp chế chính lệnh để dẫn dắt, dùng hình phạt để trừng trị thì sẽ tạo ra hiệu
quả “dân miễn nhi vô sỉ” - mọi người có thể tránh khỏi việc phạm pháp mà
không biết đến xấu hổ khi phạm pháp (Luận ngữ - Vi chính). Vì vậy, Khổng
Tử chủ trương dùng phương pháp “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ” để tiến hành
quản lý, bên cạnh đó sử dụng “lễ” như một biện pháp ước thúc bên ngoài, từ
đó đạt tới sự cân bằng và hài hoà trong quản lý và xã hội. Đó chính là “đức
trị” - biện pháp quản lý quan trọng của Nho gia Tiên Tần, là sợi dây xuyên
suốt tư tưởng quản lý của Khổng Tử. Nắm bắt được vấn đề này chính là đã
nắm bắt được đặc trưng tiêu biểu của tư tưởng quản lý xã hội của các nhà Nho
Tiên Tần.
Trong “Luận ngữ - Vi chính” có viết: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình,
dân miễn nhi vô sỉ; đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách” [30, 227]
“Đạo” ở đây có nghĩa là dẫn dắt, khuyến dụ, dạy bảo; “chính” dùng với nghĩa
hẹp, tức là chỉ chính trị và pháp luật. Còn chữ “cách” vốn có rất nhiều nghĩa,
có thể giải thích là “chính”, “kính”,... nhưng trong “Lễ ký - Tri y” có dẫn câu
nói của Khổng Tử là: “Phù dân, giáo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, tắc dân hữu cách
tâm. Giáo chi dĩ hình, tề chi dĩ hình, tắc dân hữu độn tâm” (Dẫn dắt dân bằng
đạo đức, chỉnh đốn dân bằng lễ thì dân sẽ quy thuận. Dẫn dắt dân bằng hình
pháp thì dân sẽ trốn tránh). Chữ “độn” ở đây có nghĩa là trốn tránh, ngược với
trốn tránh là thân cận, quy phục, hướng đến. Dựa vào đây, ông Dương Bá
Tuấn trong “Luận ngữ dịch chú” đã đem giải thích chữ “cách” là “quy phục
nhân tâm”. Tóm lại, đại ý câu nói này của Khổng Tử là: Dùng chính pháp để
dẫn dắt dân chúng, dùng hình phạt để chỉnh đốn họ thì họ chỉ tạm thời tránh
tội mà không có lòng liêm sỉ, không biết xấu hổ. Nếu dùng đạo để dẫn dắt họ,
21
dùng lễ để chỉnh đốn họ thì dân chúng không những biết xấu hổ, liêm sỉ mà
còn thật lòng quy phục.
Khổng Tử nhấn mạnh việc cai trị quốc gia nên coi giáo hoá đạo đức
làm gốc mà không nên nhấn mạnh một cách phiến diện các hình phạt, giết
chóc. Đây chính là cái gọi là “Thiện nhân vi bang bách niên, diệc khả dĩ thắng
tàn khử hát hĩ” (Nếu có những người lương thiện nối tiếp nhau làm việc nước
trong trăm năm, cũng có thể cảm hoá kẻ tàn bạo trở thành lương thiện) [30,
432]. Vì vậy, Khổng Tử mới nói rằng: “Thính tụng, ngô do dân dã, tất đã sử
vô tụng hồ” (Xử lý kiện tụng ta cũng giống như người khác. Nhưng theo ta thì
nhất định phải làm cho sự kiện tụng hoàn toàn bị mất đi thì mới tốt) [30, 415].
Có một lần, Quý Khang Tử xin thỉnh giáo Khổng Tử về việc cai trị: “Nếu như
giết hết những kẻ xấu mà gần gũi thân cận với người tốt thì thế nào?”, Khổng
Tử đáp: “Người xử lý việc chính trị, tại sao phải giết chóc? Người muốn làm
cho quốc gia trở nên tốt đẹp thì trăm họ sẽ tốt lên. Đức hạnh của người lãnh
đạo giống như gió, đức hạnh của nhân dân trăm họ giống như cỏ, gió thổi về
hướng nào thì cỏ ngả theo hướng đó” [30, 416]. Qua đây Khổng Tử đã khẳng
định làm việc chính sự là dùng đạo đức để dẫn dắt, quy thuận dân chúng.
Tuy nhiên, Khổng Tử cũng không hoàn toàn chủ trương không dùng
đến hình luật. Ông đã từng nói rằng: “Quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ”
(Người quân tử để tâm đến hình phạt, kẻ tiểu nhân để tâm đến ân huệ) [30,
272]. “Hoài hình” ở đây chính là chủ trương người thống trị phải quan tâm
đến hình pháp. Ông còn chỉ ra “Hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc”
(Hình phạt không đúng, không hợp lý thì dân không biết để tay chân vào đâu)
[30, 430]. Điều này chứng tỏ, Khổng Tử không phản đối “hình” mà chủ
trương hình phạt phải “trúng”, phải thích đáng, đúng mức. Mặt khác, theo
Khổng Tử, đạo đức so với hình pháp dễ được lòng dân hơn, từ đó có thể đạt
được hiệu quả quản lý cao hơn và lâu dài hơn. Phái Pháp gia và Hàn Phi Tử
đều cho rằng, quản lý bằng cách giáo hoá đạo đức không thể nhanh chóng
22
được như quản lý bằng hình pháp (Hàn Phi Tử). Nhưng theo Khổng Tử, cái
“nhanh” của pháp lệnh là cái nhanh kiểu “dục tốc bất đạt” (nhanh mà không
đạt). “Thuyết Uyển - Tạp ngôn” có dẫn lời Khổng Tử rằng: “Dưới roi vọt thì
không thể làm nên được một con hiếu, dưới hình phạt tàn sát không thể làm ra
được một người dân thuận”. Vì vậy, để đạt được đến hiệu qủa quản lý tích
cực, vững vàng và lâu dài thì chỉ có thể dựa vào “đức trị”, giáo hoá đạo đức
cho dân.
Giáo hoá bằng đạo đức chính là tiền đề của quản lý. Muốn làm cho các
nguyên tắc, quy định trong quản lý được thực thi rộng rãi thì người quản lý
phải lấy mình làm gương; muốn làm cho người bị quản lý quy phục một cách
nhanh chóng mà lâu bền thì người quản lý phải dẫn dắt dựa vào đạo đức. Do
vậy, Khổng Tử rất chú trọng việc tu dưỡng đạo đức của người quản lý, lãnh
đạo. Ông cho rằng: “Nếu dùng đạo đức để cai trị, quản lý thì người lãnh đạo
cũng giống như sao Bắc Đẩu, đứng yên ở một chỗ mà các sao khác quy về”
[30, 227] và “Làm cho mình trở nên ngay thẳng thì không phải ra mệnh lệnh
mà dân vẫn nghe theo” [30, 449].
Đệ tử Khổng môn trong quá trình “vi chính” đã ra sức thực thi quản lý
“đạo chi dĩ đức” và lưu lại hậu thế nhiều câu chuyện hay, có ý nghĩa. Dưới
đây là câu chuyện rất có ý nghĩa được ghi trong “Khổng Tử gia ngữ - Khuất
Tiết giải”: Mẫn Tử Khiên - học trò của Khổng Tử đảm nhiệm chức quan của
huyện Đan Phụ, ông rất chú trọng đến việc thi hành giáo hoá đạo đức. Sau ba
năm, Khổng Tử phái Vu Mã Kỳ đến huyện Đan Phụ xem xét tình hình. Khi
đến nơi, Vu Mã Kỳ gặp một người đánh cá trong đêm tối, thấy ông ta câu cá
lên rồi sau đó lại thả nó xuống sông.Vu Mã Kỳ cảm thấy rất kỳ lạ liền đến hỏi
nguyên do. Người đánh cá trả lời rằng: “Mã Kỳ Tử mong muốn mọi người
không bắt cá nhỏ, muốn để cho chúng lớn lên mới bắt (để bảo vệ nguồn cá).
Những con cá mà tôi vừa thả xuống hồ là những con cá nhỏ”. Vu Mã Kỳ nghe
xong rất cảm động, trở về nói với Khổng Tử: “Đức chính của Mẫn Tử Khiên
23
thật là đã đạt đến đỉnh điểm rồi. Đến một người dân bình thường trong bóng
tối cũng tự giác hành động tuân thủ theo quy củ, giống như là có hình phạt
nghiêm khắc đang ở ngay bên cạnh vậy. Xin hỏi thầy Mẫn Tử Khiên làm sao
có thể làm được như vậy?”. Khổng Tử trả lời: “Ta đã từng nói với Tử Khiên
rằng: Phải dựa vào tự giác đạo đức của nhân dân chứ không được đơn thuần
chỉ dùng hình pháp. Tử Khiên chính là đã vận dụng đạo lý này để quản lý
huyện Đan Phụ”.
Dùng ngôn ngữ hiện đại mà nói thì “đạo chi dĩ đức” của Nho gia chính
là nhấn mạnh tác dụng chỉ đạo của tinh thần và giá trị đạo đức. Nó yêu cầu
người quản lý thông qua mẫu hình hành vi của bản thân, đem truyền nhập
những quan niệm giá trị nhất định cho những thành viên trong tổ chức, làm
cho nó trở thành hành vi tự giác xuất phát từ nội tâm. Đây là một loại phương
pháp quản lý nhấn mạnh sự khống chế bên trong.
Khổng Tử cùng lúc nêu ra “tề chi dĩ lễ” (dùng lễ để ước thúc) và “đạo
chi dĩ đức” (dùng đạo đức để dẫn dắt) cho rằng, kết hợp cả hai sẽ tạo ra cơ
chế quản lý “đức trị” đạt hiệu quả cao. Trong xã hội cổ đại, nội dung của lễ
rất phong phú, nó bao gồm các điển chương chế độ, quy phạm hành vi đạo
đức. Nhưng mục đích chủ yếu của nó là dùng để ước thúc hành vi con người,
điều tiết các mối quan hệ xã hội, khiến cho những người thuộc các tầng lớp,
giai cấp khác nhau phải dựa vào phạm vi mà “lễ” quy định để hành động, từ
đó khiến cho quản lý xã hội đẳng cấp thời kỳ phong kiến đạt đến sự hài hoà,
có trật tự.
Trong tư tưởng của Khổng Tử, “lễ” là quy tắc cơ bản để quản lý quốc
gia, để điều chỉnh chế độ đẳng cấp, là quy phạm hành vi duy trì trật tự xã hội
đương thời. Trong “Lễ Ký - Khúc lễ thượng” chỉ ra: “Phù lễ giả, sở dĩ định
thân sơ, quyết hiềm nghi, biệt đồng dị, minh thị phi dã” (Lễ là để phân định
thân sơ, giải quyết hiềm nghi, phân biệt giống khác, làm rõ đúng sai). “Lễ ký -
Trọng ni yến cư” dẫn lời Khổng Tử: “Lễ là sắp xếp mọi việc được tề chỉnh.
24
Người quản lý nếu có được điều này tất sẽ có được tề chỉnh. Quản lý mà
không có lễ, giống như người mù không có chỗ dựa, không biết phải dò dẫm
như thế nào. Hay như căn phòng không có đuốc lúc đêm không thể nhìn thấy
gì. Nếu không có lễ thì chân tay không biết đặt như thế nào, tai mắt không
biết dùng như thế nào, tiến thoái lưỡng nan không biết phải làm thế nào”. Qua
đây có thể thấy, Khổng Tử coi “lễ” là quy phạm khống chế, xử lý mọi việc,
khiến cho mọi việc trở nên trật tự, tề chỉnh. Nếu như cai trị xã hội không dùng
lễ để ước thúc thì sẽ trở nên hỗn loạn, không có trật tự như người mù không
có người dẫn dắt, như ở trong căn phòng tối không có ánh đèn đuốc, mất hết
phương hướng, không biết phải làm thế nào mới đúng. Vì vậy, “lễ” đóng vai
trò là một quy phạm khống chế, điều chỉnh các loại quan hệ xã hội, liên kết xã
hội thành một thể thống nhất. Hơn nữa, “lễ” còn là tiêu chí để trị dân. Khổng
Tử cho rằng: “An thượng trị dân, mạc thiện ưu lễ” (Ngự trên ngôi cao mà cai
trị dân thì không gì tốt bằng lễ) (Lễ ký - Kinh giải). Vì vậy, Khổng Tử rất coi
trọng tác dụng của “lễ” trong quản lý quốc gia và coi đó là tiêu chuẩn tu
dưỡng cơ bản của người quản lý.
Mặt khác, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh nội dung của “lễ” là “nhân”.
“Nhân” và “lễ” có quan hệ với nhau, mối quan hệ này là mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức. “Lễ” đóng vai trò là hình thức của “nhân” nên phải xuất
phát từ “nhân”, nếu không thì sẽ không còn đúng theo nghĩa của nó nữa. “Lễ”
đòi hỏi mọi người phải tôn trọng lẫn nhau trên cơ sở tuân thủ theo danh phận,
địa vị của mình trong tổ chức, doanh nghiệp, xã hội. Nhưng sự tôn trọng này
cần phải xuất phát từ tấm lòng chân thành, không giả tạo. Trong “Luận ngữ -
Công Dã Tràng”, Khổng Tử lên án những kẻ dùng lời nói khéo, giả sắc mặt
hiền lành và cung kính thái quá là đáng hổ thẹn) [30, 289]. “Lễ” phải quán
triệt tinh thần của “nhân”, xa rời nội dung “nhân” thì mọi thể hiện trên
phương diện hình thức của “lễ” sẽ không còn ý nghĩa nữa: “Nhân nhi bất
nhân, như lễ hà” (Con người mà không có lòng nhân ái sẽ dùng lễ như thế
25
nào?) [30, 249]; “Lễ vân lễ vân, ngọc bạch vân hồ tai” (Lễ ư? Lẽ nào chỉ gồm
những lễ vật như gấm vóc ngọc ngà thôi sao?) [30, 518]. Chỉ có “lễ” và
những quy định lễ nghi phù hợp với “nhân” mới có thể điều tiết được các
quan hệ con người và con người với xã hội. Sự điều tiết này thực chất có tác
dụng mang tính ước thúc. Chức năng xã hội của “lễ” là thông qua sự ước thúc
bên ngoài để tiến tới chuyển hoá thành tính quy định tâm lý bên trong của con
người.
Do đó, Khổng Tử yêu cầu người quản lý muốn thực hiện “đức trị” thì
cần phải đặt tu dưỡng đạo đức lên hàng đầu, cần phải làm cố gắng hướng tới
thực hiện điều “nhân” mà theo ông “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” [30, 411],
nghĩa là người quản lý phải biết kiềm chế bản thân, khiến cho lời nói và hành
động đều phải phù hợp với lễ. Yêu cầu cụ thể là: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động:” (Không nhìn những gì không hợp với
lễ, không nghe những gì không hợp với lễ, không nói những gì không hợp với
lễ, không làm những gì không hợp với lễ) [30, 411]. Có thể thấy, lễ chính là
chế độ ước thúc từ bên ngoài.
Trong học thuyết của Khổng Tử, “lễ” có một vị trí rất quan trọng trong
tổ chức xã hội và quản lý hành chính. Vì vậy, ông nhấn mạnh “bất học lễ, vô
dĩ lập” [30, 502]; “bất tri lễ, vô dĩ lập dã” [30, 562] - tức là không học, không
biết điều lễ thì không thể lập thân trong xã hội được. Đương nhiên, chúng ta
không thể phủ nhận phạm trù “lễ” mà Khổng Tử đưa ra cũng có những điểm
sai lầm, mang tính hạn chế lịch sử, hạn chế xã hội và có phần kìm hãm sự
phát triển tự do của con người... Nhưng ở đây, chúng tôi chú trọng đến việc
chỉ ra những điểm đáng tiếp thu, học hỏi từ quan điểm quản lý chính trị, kinh
tế, xã hội của Khổng Tử, những điểm vẫn còn ý nghĩa, có tác dụng trên
phương diện quản lý. Vì vậy, trong những phần viết này chỉ nêu ra những
điểm tích cực mà không đi sâu tìm hiểu, đánh giá những điểm tiêu cực trong
tư tưởng của Khổng Tử.
26
Khổng Tử đã đem kết hợp giữa “đạo đức” với quản lý, cho rằng giáo
hoá đạo đức có thể khiến cho con người tự giác làm đúng theo những quy
chuẩn đạo đức, đúng với lương tâm, nhân cách, trách nhiệm, nghĩa vụ và
những giá trị tương ứng. Theo ông, đó mới là động lực nội tại lâu bền nhất
của hành vi con người.
Nền tảng căn cứ để Khổng Tử chủ trương dùng phương pháp “đạo chi
dĩ đức, tề chi dĩ lễ” tiến hành quản lý là những đánh giá về giá trị con người
của ông. Theo ông, con người là tồn tại quý giá nhất trong vũ trụ, trời đất, là
trung tâm của xã hội. Khổng Tử khẳng định, con người khác với con vật và
đặc trưng quan trọng khiến cho con người khác với con vật ở chỗ con người
có quan niệm về đạo đức và những quy định hành vi biểu hiện quan niệm này.
Từ đó, ông đặt ra “lễ” để quy phạm hành vi của con người, coi “lễ” là biểu
hiện bên ngoài của quan niệm đạo đức. Ông mong muốn dẫn dắt con người
bằng đạo đức, ước thúc con người bằng “lễ”, đề cao sự tu dưỡng bản thân, tự
giác hoàn thiện nhân cách của con người. Đồng thời, việc này phải được thực
hiện trước tiên ở những người quản lý. Người quản lý thực hiện làm gương,
sau đó mọi người nhìn vào noi theo.
Quản lý thực chất là quản lý con người, vì vậy, rõ ràng đạo đức và quản
lý có quan hệ mật thiết với nhau. Việc thông qua giáo hoá, tu tâm dưỡng tính
để khiến cho những quy phạm đạo đức xâm nhập, chuyển hoá thành tình cảm,
ý chí và quan niệm của con người có thể đưa đến kết quả quản lý rất ưu việt.
Nếu một người có khả năng tiếp thu quy phạm đạo đức, có được tự giác đạo
đức cao thì anh ta sẽ tự giác tuân thủ các chế độ quy định của tổ chức, doanh
nghiệp và xã hội. Những người như thế không cần người khác phải ép buộc
anh ta làm những việc nên làm, mà tự bản thân anh ta có được ý thức về điều
đó và tự giác làm. Hơn nữa, những người có nhân cách hoàn thiện luôn theo
đuổi mục tiêu tự khẳng định bản thân, mong muốn thực hiện giá trị nhân sinh
mạnh mẽ. Anh ta sẽ không ngừng cố gắng phấn đấu, thậm chí quên mình vì lý
27
tưởng. Mặt khác, những người có đạo đức cao luôn là những người có trách
nhiệm với công việc, gia đình và xã hội, ý thức được nghĩa vụ của bản thân
đối với mọi người, với gia đình, tổ chức, doanh nghiệp, quốc gia và xã hội.
Và việc phấn đấu thực hiện những trách nhiệm, nghĩa vụ này là điều đương
nhiên phải làm không cần gì đến ép buộc, cưỡng chế,...
Có thể nói rằng, nếu dùng “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ” để quản lý thì sẽ
đem lại hiệu quả quản lý tốt và bền vững. Tuy nhiên, có một điều cần phải
khẳng định là, con người vốn vô cùng phức tạp, hoàn cảnh xã hội thì đa biến,
do vậy, không thể tuyệt đối hoá tác dụng của đạo đức, rơi vào chủ nghĩa duy
đạo đức, đó là điều thật sự sai lầm. Nhưng chúng ta cũng không nên coi
thường tác dụng và giá trị của đạo đức, bởi nếu làm như vậy, chúng ta đã
đánh mất đi một số yếu tố rất có ý nghĩa trong quản lý của mọi thời đại.
Lý luận quản lý phương Tây hiện đại đặt nhu cầu sinh tồn của con
người vào vị trí hàng đầu trong các yếu tố kích thích tính tích cực, chủ động
và sáng tạo của con người, còn tư tưởng quản lý của Khổng Tử và Nho gia lại
đặt những nhu cầu đạo đức, xã hội lên vị trí trọng yếu. Nhưng lý luận quản lý
phương Tây hoàn toàn không phải không coi trọng nhu cầu đạo đức, tinh thần
của con người, còn Khổng Tử cũng hoàn toàn không coi nhẹ những điều kiện
vật chất sinh tồn của con người, chỉ chẳng qua là trọng điểm nhấn mạnh của
mỗi bên khác nhau mà thôi. Bản chất đạo đức và những hành vi có ý thức của
con người chính là một loại động lực nội tại vĩnh cửu thúc đẩy con người.
Trong con người luôn ẩn chứa tiềm năng cực kỳ phong phú, khi được phát
huy thì có thể sẽ trở thành sức mạnh vật chất cực lớn. Vì vậy, quản lý học
hiện đại càng ngày càng coi trọng tính đạo đức trong quản lý. Coi trọng sức
mạnh của đạo đức không phải là không cần những thoả mãn vật chất. Tinh
thần không thể tách rời với vật chất, dưới tiền đề nhu cầu vật chất được đáp
ứng thì tinh thần sẽ càng có giá trị hơn.
28
1.4. “An nhân” - Mục tiêu quản lý của Nho gia Tiên Tần
Mục tiêu kinh tế là tiêu điểm mà các lý luận kinh tế và thực tiễn kinh tế
theo đuổi. Mục tiêu cơ bản của quản lý của Khổng Tử là “an nhân”. Mà tư
tưởng quản lý của Khổng Tử là quản lý cả chính trị, kinh tế, xã hội. Dưới tiền
đề lớn này, các nhân vật đại diện cho Nho gia sau này cũng đã đưa ra những
mô hình mục tiêu cụ thể như “nhân chính” của Mạnh Tử, “vương chế” của
Tuân Tử, rồi “đại đồng” trong “Lễ ký - Lễ vận”. Cùng với sự thay đổi của
thời đại, những mô hình này có lẽ trở nên lạc hậu, nhưng lý tưởng cao đẹp
nhất bao hàm trong đó là “an nhân” thì luôn có ý nghĩa đối với hoạt động kinh
tế mọi thời đại.
Trong quản lý học hiện đại, quản lý không đơn giản là sản phẩm kinh tế
mà còn sáng tạo ra kinh tế. Chỉ có trở thành chủ thể của hoàn cảnh kinh tế,
đồng thời dựa vào những hoạt động có ý thức và mục đích để thay đổi hoàn
cảnh, đây mới đáng được gọi là quản lý chân chính.
Vì vậy, quản lý một doanh nghiệp phải định ra mục tiêu rõ ràng. Xác
định mục tiêu này phải căn cứ vào từng doanh nghiệp cụ thể, không thể chỉ
quan tâm đến cái trước mắt mà không suy xét đến lâu dài, cũng không thể chỉ
là sự đón đầu một làn sóng kinh tế mới. Tác dụng của mục tiêu đối với doanh
nghiệp cũng giống như tác dụng của la bàn đối với những người đi biển. Xác
định mục tiêu có thể khiến cho doanh nghiệp có thể đi đến điểm cần đến mà
không bị chi phối bởi các sự việc ngoài ý muốn.
Trong lịch sử, các lý luận quản lý tuy không đề xuất một cách chính
thức khái niệm “mục tiêu quản lý” nhưng đóng vai trò là tiêu điểm của lý luận
quản lý, mục tiêu quản lý tất nhiên là tồn tại trong bất cứ lý luận quản lý nào.
Đối tượng nghiên cứu trong học thuyết quản lý của Khổng Tử và các nhà
Nho Tiên Tần là quản lý quốc gia, quản lý chính trị, kinh tế, xã hội, nó cũng
rất coi trọng việc lập nên những mục tiêu quản lý, được đề cập trong thuyết
“nhân chính” của Mạnh Tử, “vương chế” do Tuân Tử chủ trương và “đại
29
đồng” trong “Lễ ký” miêu tả, nhưng lý tưởng “an nhân” do Khổng Tử đề xuất
chính là sợi chỉ xuyên suốt các mục tiêu cụ thể này.
Quan niệm “an nhân” là do Khổng Tử đề xuất ra. Khi Phàn Trì hỏi về
Nhân, Khổng Tử trả lời: Nhân là yêu người [30, 418]. Ông chỉ ra: “Tu kỷ dĩ
an nhân”, “du kỷ dĩ an bách tính” [30, 460]. Xét đối tượng “an nhân” của
Khổng Tử, không chỉ bao gồm những người quản lý, hơn nữa còn bao gồm
người bị quản lý. Trong “Luận ngữ - Quý Thị” viết: “Quân vô bần, hoà vô
quả, an vô khuynh” (Mọi người đều bằng nhau thì không nghèo, hoà hợp với
nhau thì không thấy ít, sống an định yên ổn thì không bị nghiêng đổ) [30,
503]. Trong những người bị quản lý không chỉ bao gồm người dân thông
thường, mà còn bao gồm cả những người cần phải đặc biệt quan tâm đến, ví
như những người goá bụa cô độc, người già và trẻ con: “Lão giả an chi,...,
thiếu giả hoài chi” (Người già được an vui,..., trẻ con thì được nuôi dưỡng,
dạy dỗ) [30, 290]; không chỉ bao gồm dân trong nước còn bao gồm cả những
người bên ngoài biên giới: “Viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Ký
lai chi, tắc an chi” (Nếu người ở xa không phục thì cần phải sửa văn đức để
người ta đến với mình. Khi người ta đã đến thì hãy giúp cho họ được an định)
[30, 503]. Từ đó có thể thấy, đối tượng “an nhân” của Khổng Tử rất rộng rãi
và phổ biến.
Khổng Tử cho rằng: “An nhân” đóng vai trò là mục tiêu cao nhất của
quản lý quốc gia, không chỉ là người quản lý thông thường mà chính là những
thánh vương như Nghiêu, Thuấn cũng vẫn chưa chắc có thể làm được, “Tu kỷ
dĩ an bách tính, Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh chư?” (Sửa mình để làm cho mọi
người được an lành, đến như vua Nghiêu, vua Thuấn còn khó làm được) [30,
460]. Trong “Luận ngữ - Ung Dã” cũng ghi lại câu chuyện: Tử cống hỏi đức
Khổng Tử: “Nếu có người làm ơn cho khắp nhân dân, mà hay cứu giúp mọi
người sẽ như thế nào? Có thể gọi là người nhân được chăng?” Khổng Tử đáp:
“Sao chỉ gọi là người nhân? Đó hẳn là bậc thánh. Đến như vua Nghiêu, vua
30
Thuấn còn lo ngại chẳng làm được đầy đủ như thế”. Người quản lý trong thực
tế khó mà hoàn toàn thực hiện được mục tiêu “an nhân”, vậy thì tại sao lại xác
lập nó làm mục tiêu căn bản của quản lý? Điều này chính đã phản ánh suy
nghĩ sâu xa của Khổng Tử. Mục đích của ông là coi “an nhân” là phương
hướng, mục tiêu mà phải người quản lý phải không ngừng nỗ lực vươn tới,
biến nó thành sự thôi thúc và khích lệ người quản lý làm cho tốt công việc
quản lý của mình.
Tư tưởng “an nhân” của Khổng Tử là nền tảng cho các mục tiêu quản
lý của các nhà Nho sau này. Nổi bật trên hết là mục tiêu “nhân chính” của
Mạnh Tử, mục tiêu “vương chế” của Tuân Tử và mục tiêu “đại đồng” trong
Lễ Ký, không có cái nào là không lấy “an nhân” làm hạt nhân căn bản của
mình.
Mục tiêu “nhân chính” của Mạnh Tử được đưa trong bối cảnh thời kỳ
Chiến Quốc, chư hầu tranh hùng, xã hội biến động, nhân dân khổ cực lầm
than. Mạnh Tử từ “bất nhẫn nhân chi tâm” (lòng không nỡ nhẫn tâm) mở rộng
ra thành “bất nhẫn nhân chi chính” (nền chính trị không nhẫn tâm), mục tiêu
là hướng tới “an nhân”. Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử, nói một cách
cụ thể chính là bảo vệ dân, yêu dân, dưỡng dân, giáo dục dân, trị dân, mà suy
cho cùng chính là an dân. Ông nói: “Dưỡng sinh tang tử vô hám, vương đạo
chi thuỷ dã” (Nuôi người sống được no ấm, chôn người chết được đủ lễ, đó là
bước đầu của một nền cai trị thịnh vượng); “Lê dân bất cơ bất hàn, nhiên nhi
bất vương giả, vị chi hữu dã” (Mọi người không bị đói không bị lạnh, thì thế
nào nền cai trị cũng được thịnh vượng); “Lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão; ấu
ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu. Thiên hạ khả vận ư chưởng” (Mình kính trọng bậc
cha anh mình, rồi từ đó, mình kính trọng bậc cha anh của mọi người; mình
thương yêu hàng con em mình, rồi tư đó thương yêu cả hàng con em của mọi
người. Nếu làm được như vậy thì việc quản lý sẽ dễ như trở bàn tay) [30,
594].
31
Trong thuyết "nhân chính", Mạnh Tử rất đề cao Nhân - Nghĩa. Theo
thuyết này, việc trị nước, chăm dân của các bậc vương giả phải vì nhân nghĩa
chứ không vì lợi. Khi Mạnh Tử vào yết kiến Lương Huệ Vương, nhà vua hỏi:
"Cụ không quản ngại đường xa ngàn dặm tới đây, chắc có điều gì dạy bảo để
làm lợi cho nước tôi chăng?". Mạnh Tử đáp: "Nhà vua cớ sao cứ phải nói đến
lợi, chỉ có nhân nghĩa (là nên nói đến) mà thôi! Nhà vua nói: làm gì để lợi cho
nước ta, đại phu nói: làm gì để lợi cho nhà ta, kẻ sĩ và thứ dân cùng nói: làm
gì để có lợi cho bản thân ta, trên dưới đua nhau tranh mối lợi, như vậy nước
sẽ nguy mất". ("Mạnh Tử kiến Lượng Huệ Vương. Vương viết: Tẩu bất viễn
thiên lý nhi lai, diệc tương hữu dĩ lợi ngô quốc hồ. Mạnh Tử đối viết: Vương
hà tất viết lợi, diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ. Vương viết hà dĩ lợi ngô quốc.
Đại phu viết hã dĩ lợi ngô gia. Sĩ thứ nhân viết hà dĩ lợi ngô thân. Thượng hạ
giao chinh lợi, nhi quốc nguy hĩ!" [30, 594].
“An nhân” cũng là điểm cơ bản của mục tiêu “vương chế” của Tuân Tử.
Mục tiêu “vương chế” được chế định từ góc độ thống trị, vì vậy ông nhận
thức được một cách rõ ràng, giữa sự an lành, yên ổn của nhân dân và sự an
lập của người quản lý có tồn tại một loại quan hệ nhân quả tất nhiên. Tuân Tử
chỉ ra: “Nếu như con ngựa kéo xe bị sợ hãi lồng lên, thì người ngồi trên xe sẽ
không được yên ổn, nếu như mọi người không được yên ổn dưới sự cai quản
của người quản lý thì người quản lý dù ở chức vị cao cũng sẽ không được yên
ổn... Khi mọi người được an định dưới sự cai trị của người quản lý thì người
quản lý cũng sẽ được yên ổn trên vị trí của mình” (Tuân Tử - Vương Chế).
Theo ông, “Nhân mạc quý hồ sinh, mạc lạc hồ an” (Đối với con người
không có gì quý bằng mạng sống, không có gì vui bằng được an bình) (Tuân
Tử - Cường Quốc), an lành là hạnh phúc và niềm vui lớn nhất của đời người.
Vì vậy, trong mục tiêu “vương chế” của Tuân Tử có nói nhiều lần cảnh
tượng: “Trong bốn biển cũng như trong một nhà, người ở gần không giấu
giếm tài năng của mình, người ở xa không sợ lao động cực khổ. Không có
32
quốc gia bị ngăn cách, phản đối lại vua. Tất cả đều bằng lòng với sai khiến
của vua mà cảm thấy vui vẻ” (Tuân Tử - Vương Chế). Trong môi trường đó
thì mọi vật đều phát huy được hết tác dụng của mình, con người thì phát huy
được hết tài năng của mình, người gần thì dốc sức tận tâm, người ở xa thì hết
lòng quy phục. Đó đúng là một bức tranh “an nhân”.
“An nhân” cũng là đường lối chính của mục tiêu “đại đồng”, qua “Lễ
vận đại đồng”, chúng ta sẽ thấy bức tranh về một xã hội đại đồng được miêu
tả như sau: “Khi đạo lớn được thi hành, thiên hạ là công hữu, những người
được lựa chọn là những người hiền đức và có tài năng, những gì được coi là
tín nghĩa, những gì cần phải tu tập là thân thiết hoà thuận. Mọi người không
chỉ yêu quý cha mẹ mình, không chỉ yêu thương con cái mình. Người già có
được nơi quy tụ, người trưởng thành có thể phát huy được sở trường của
mình, trẻ em được nuôi dưỡng, những người goá bụa cô độc và tàn tật đều
được nuôi dưỡng. Con trai có phân công chức nghiệp, con gái thì có nơi có
chốn tốt đẹp. Mọi người chỉ lo lắng cho tài sản hàng hoá bị rơi trên đất không
dùng được, mà không nhất định phải lấy làm của riêng, lo lắng không thể
cống hiến được hết khả năng của bản thân mà không nhất định phải mưu lợi
cho bản thân. Vì vậy, không có tính toán mưu kế, cũng không lừa dối lẫn
nhau, cửa lớn của các nhà cũng không cần phải đóng”. Đó được gọi là đại
đồng. Trong bức tranh này, “an nhân” là đường lối chủ yếu xuyên suốt. Mọi
người đều có được chỗ của mình, an cư lạc nghiệp; mọi người đều nói điều
tín nghĩa, quây quần hoà thuận, sống với nhau một cách an bình, xã hội an
định hoà bình, không bị biến động - Có thể nói đây đã đạt đến mức cao nhất
của “an nhân”.
Tóm lại, lý tưởng “an nhân” mà Khổng Tử đề xướng là mục tiêu căn
bản của tư tưởng quản lý kinh tế của Nho gia Tiên Tần.
Từ thời đại của Khổng Tử cho đến ngày hôm nay, nhân loại đã trải qua
quá trình phát triển hơn 26 thế kỷ. Thời đại đã tiến bộ, xã hội cũng đã thay đổi
33
rất lớn, các loại hình quản lý cũng ngày càng phức tạp. Do vậy, nội dung cụ
thể của “an nhân” chắc chắn cũng có những khác biệt - đó là khác biệt giữa sự
an định của thời đại nông nghiệp với sự an định của thời đại công nghiệp.
Thêm nữa, do sự thay đổi của xã hội mà đối tượng cụ thể của “an nhân” cũng
có khác biệt - đó là sự khác biệt giữa con người của xã hội tư hữu với con
người của xã hội công hữu. Do sự khác biệt của loại hình quản lý, cách làm
cụ thể của “an nhân” cũng có khác biệt - đó là khác biệt giữa theo đuổi sự an
định của tổ chức quốc gia với theo đuổi sự an định của tổ chức doanh nghiệp.
Nhưng với vai trò là một loại mục tiêu quản lý cơ bản, lý tưởng “an nhân”,
tinh thần “an nhân” không hề tiêu biến, không bị lạc hậu với thời gian.
Vì “an nhân” đóng vai trò là một loại nguyên tắc quản lý cụ thể, cần
thiết của một xã hội, nó không chỉ “mang tính thời đại”, mà còn “mang tính
giai cấp”. Liệu mục tiêu “an nhân” có thích hợp với hoạt động quản lý của bất
cứ quốc gia nào hay không? Muốn trả lời được vấn đề này phải tìm hiểu và
phân tích cụ thể nội dung và đối tượng trong mục tiêu “an nhân” này.
Trong chế độ áp bức bóc lột thời xưa, giữa người “an nhân” và người
được “an” không chỉ tồn tại mối quan hệ giữa người quản lý và người bị quản
lý mà còn tồn tại mối quan hệ giữa người áp bức bóc lột và người bị áp bức
bóc lột. Vì vậy, mục tiêu “an nhân” khi đó vừa đóng vai trò là lợi ích chung
của các thành viên trong cùng một xã hội, lại vừa phản ánh lợi ích đặc thù của
từng giai cấp, hay một cách khác, “an” của người này luôn là “bất an” của
người kia. Người quản lý đòi hỏi người dân phải biết “an” phận bản thân còn
nhân dân thì “bất an” với hiện trạng. Sự mâu thuẫn và đấu tranh này đã xuyên
suốt mấy nghìn năm lịch sử của xã hội giai cấp.
Xã hội tư bản là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, nó phá vỡ
các loại ước thúc của chế độ đẳng cấp phong kiến đối với con người, đặt con
người vào mạng lưới quan hệ khế ước tương đối “tự do”, từ đó đã giải phóng
34
sức sản xuất ở một trình độ nhất định. Nhưng nó vẫn chưa thể thay đổi về căn
bản mâu thuẫn giữa “an” và “bất an” trong xã hội giai cấp nói trên.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã tiêu diệt sự bóc lột, điều này khiến
cho lợi ích giữa người quản lý và người bị quản lý có khả năng đạt đến sự
nhất trí hoàn toàn, hoạt động quản lý có khả năng hình thành nên nền tảng an
định. Khi đó, con người thật sự trở thành mục tiêu của quản lý chứ không
phải là biện pháp, mọi người làm hết khả năng của mình, ai có chỗ của người
đó, giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội có được sự
lý giải và hoà hợp hoàn thiện, từ đó hợp tác chân tình với nhau, tự do phát
triển. Nhưng vấn đề bức thiết mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa đang phải đối
mặt hiện nay chính là: phải ra sức phát triển sản xuất, thoả mãn nhu cầu văn
hoá, vật chất ngày càng phát triển của quần chúng nhân dân, tạo ra sự thống
nhất giữa lợi ích và công bằng, khiến cho xã hội có được sự “an định” theo
đúng nghĩa của nó.
***
Trên đây là những trình bày, phân tích về một số phương diện chính trị
- đạo đức với vai trò là cơ sở lý luận của tư tưởng kinh tế của Khổng Tử và
các nhà Nho Tiên Tần. Tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần nhấn mạnh
khai thác tính tích cực của con người thông qua đạo đức của họ. Để làm được
điều này, ông đã xây dựng nên nền tảng nhân tính luận khẳng định giá trị con
người, hướng tới cái thiện, trên cơ sở đó đưa ra các tư tưởng “ái nhân” cùng cơ
chế quản lý chú trọng sự dẫn dắt bằng đạo đức...Qua đó ta thấy được rằng, tư
tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần chưa thoát khỏi chính trị và đạo đức, vấn
đề kinh tế chỉ được nhìn nhận trên phương diện chính trị và đạo đức. Nói cách
khác, khía cạnh kinh tế là một nội dung, phương diện của tư tưởng chính trị -
đạo đức, là điều kiện để đạt mục tiêu chính trị. Nội hàm của các khái niệm
đạo đức được nhìn nhận với vấn đề kinh tế không phải là đạo đức nói chung
mà là đạo đức làm cơ sở cho đường lối cai trị, quản lý kinh tế. Chính trị, đạo
35
đức chính là mục tiêu của hoạt động kinh tế, hiệu quả kinh tế trước hết là để
thực hiện trách nhiệm chính trị, đạo đức. Đây chính là nét đặc thù của tư
tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần.
Trong bối cảnh hiện nay, khi việc tìm hiểu, nghiên cứu động lực đạo
đức của con người, làm thế nào để khuyến khích tính tích cực tự giác phát huy
đạo đức nhân văn tiến bộ trong công việc vì lợi nhuận các cá nhân ngày càng
trở thành vấn đề quan trọng trong quản lý kinh tế, thu hút được sự quan tâm
của rất nhiều người, thì lý luận quản lý “dĩ nhân vi bản” của Khổng Tử và các
nhà Nho Tiên Tần rõ ràng là rất đáng để tìm hiểu, tham khảo và học hỏi.
36
Chương 2
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TƯ TƯỞNG KINH TẾ
CỦA NHO GIA TIÊN TẦN VỚI VIỆC QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Bên cạnh hệ thống lý luận khá đầy đủ là khá nhiều những quan niệm,
phương pháp quản lý kinh tế cụ thể của các nhà Nho Tiên Tần. Trong số đó
có không ít những điểm giá trị và vẫn hữu dụng đối với quản lý kinh tế hiện
đại. Trong chương này, luận văn sẽ trình bày và phân tích một số nội dung
chủ yếu trong tư tưởng kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần và phân tích các vấn
đề đạo đức từ góc độ phương pháp quản lý có giá trị nổi bật nhất đối với quản
lý kinh tế hiện đại.
Trước tiên là quan niệm về “nghĩa” và “lợi” trong tư tưởng các nhà nho
Tiên Tần. Làm kinh tế không thể không nói đến “lợi”, nhưng điểm đặc biệt
trong quan niệm của Khổng Tử về vấn đề này chính là ở chỗ: coi trọng
phương pháp, con đường để đạt đến “lợi”. Từ đó ông đưa ra mệnh đề “kiến
lợi tư nghĩa”, coi đó là chuẩn tắc để người quản lý xử lý quan hệ giữa “nghĩa”
và “lợi”. Thứ hai là nguyên tắc quản lý kinh tế rất được các nhà doanh nghiệp
hiện đại quan tâm - “hoà vi quý”. Các nhà Nho Tiên Tần rất chú trọng đến
việc điều hoà các mâu thuẫn để đạt được đến trạng thái quản lý hài hoà. Thứ
ba là quan niệm về “thành tín” - đây là một chuẩn tắc rất quan trọng trong xử
lý các mối quan hệ con người, doanh nghiệp và xã hội. Đặc biệt hiện nay,
“thành tín” còn được coi là một trong những nhân tố cơ bản cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Các quan niệm, phương pháp quản lý kinh tế bằng đạo đức của Khổng
Tử và của các nhà nho Tiên Tần rất phong phú và đa dạng, đề cập đến nhiều
phương diện cụ thể trong quản lý. Ở đây chỉ đưa một số khía cạnh mà người
viết cho là có ý nghĩa nổi bật nhất và đang được các nhà quản lý quan tâm
nhiều nhất.
37
2.1. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng kinh tế của Nho gia
Tiên Tần
2.1.1. Các quan điểm cơ bản trong tư tưởng kinh tế của Khổng Tử
Tư tưởng của Khổng Tử là một hệ thống hết sức phong phú, đa dạng.
Về hình thức, người ta cảm nhận dường như đó là những quan niệm có tính
chất tản mạn, rời rạc nhưng thực ra các quan điểm, tư tưởng của ông luôn có
sự liên hệ, gắn bó chặt chẽ với nhau, và tất cả đều được quán xuyến bởi một
hạt nhân như chính Khổng Tử đã nói: "Ngô đạo nhất dĩ quán chi" (Đạo ta lấy
một điều mà xuyên suốt tất cả) [30, 237]. Hạt nhân xuyên suốt tư tưởng của
ông chính là "nhân nghĩa", "trung thứ", "thời". Xung quanh hạt nhân ấy, hệ
thống tư tưởng của Khổng Tử không chỉ là những quan điểm chính trị - xã
hội, luân lý - đạo đức mang tính nhân bản sâu sắc, mà còn có cả những quan
điểm về kinh tế không kém phần độc đáo. Tuy nhiên từ trước tới nay, người ta
hầu như chỉ nói nhiều đến tư tưởng chính trị - xã hội và đạo đức - luân lý mà
ít chú ý đến tư tưởng kinh tế của ông. Trong luận văn này, chúng tôi muốn đi
vào tìm hiểu những di sản về tư tưởng kinh tế trong quan hệ với đạo đức của
Khổng Tử để từ đó rút ra một vài bài học bổ ích đối với công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế của đất nước ta hiện nay.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử nhiều lần đưa ra quan niệm của mình về
Đạo như trong thiên Học nhi, ông nói: "Quân tử ăn chẳng cầu no, ở chẳng cầu
sướng, làm việc cần mẫn, nói năng thận trọng, đến với người có đạo để tự sửa
mình. Có thể gọi là hiếu học vậy". (Tử viết" Quân tử thực vô cầu bão, cư vô
cầu an, mẫu ư cầu sự, nhi thân ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yếu, khả vị học
dã dĩ) [30, 212]. Hoặc ở thiên Lý nhân: "kẻ sĩ lập chí theo đạo, mà còn hổ
thẹn vì áo xấu cơm thô thì chưa đáng để cùng bàn luận" (Tử viết: "Sĩ chí ư
đạo, nhi sĩ ác y, ác thực giả, vị túc dữ nghị dã) [9, 272]. Trong thiên Hiến
Vấn, ông nói: "kẻ sĩ mà chỉ mong ăn ở sung sướng thì không đáng gọi là kẻ sĩ
38
vậy" (“Tử viết: Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hỹ" ) [30, 449]. Còn ở thiên Vệ
linh công, ông nói: "Người quân tử để tâm vào Đạo, không để tâm vào miếng
ăn. Cày ruộng thường phải đói. Học đạo, lộc đã ở trong đó. Người quân tử chỉ
lo Đạo, không lo nghèo". (Tử viết: Quân tử mưu đạo, bất mưu thực. Canh đã
nối tại kỳ trung hỹ, Học dã, lộc tại kỳ trung hỹ. Quân tử ưu đạo, bất ưu bần)
[30, 488]. Qua đây ta thấy, Khổng Tử rất đề cao việc học Đạo, thể hiện tinh
thần sẵn sàng hi sinh những nhu cầu thiết thực của bản thân vì Đạo.
Bên cạnh việc đề cao Đạo mà xem nhẹ đời sống vật chất, Khổng Tử
còn tỏ ra không quan tâm đến việc giảng dạy về kinh tế, sản xuất, như khi
"Phàn Trì xin học làm ruộng, Khổng Tử nói "Ta không bằng lão nông". Phàn
Trì xin học trồng rau, Khổng Tử nói" Ta không bằng lão làm vườn". Phàn Trì
ra khỏi, Khổng Tử nói: "Phàn Trì thật là tiểu nhân!". (Phàn Trì thỉnh học giá,
Tử viết: "Ngô bất như lão nông". Thỉnh học vi phố, viết: Ngô bất như lão phố.
Phàn Trì xuất, Tử viết:"Tiểu nhân tai Phàn Trì dã!" [30, 431].
Khổng Tử coi làm vườn, đi buôn là công việc của kẻ tiểu nhân, nghĩ
đến cũng là tiểu nhân. Hồi nhỏ ông phải làm những việc như vậy vì bất đắc dĩ
lắm. Thật vậy, nội dung giảng dạy của Nho giáo chủ yếu là lễ giáo, đạo đức
chứ không phải là sản xuất, khoa học, kinh tế. Mà nếu có nhắc đến thì Khổng
Tử chỉ ra những quan điểm mang tính chất nguyên tắc, vạch đường lối mà
thôi chứ không đưa ra các biện pháp kinh tế cụ thể giống như Mạnh Tử sau
này.
Khổng Tử nói: "Quân tử hiểu rõ nghĩa, tiểu nhân biết rõ lợi". ("Tử viết:
Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi" [30, 273]. Ông cho rằng, Nghĩa là
phẩm chất của người quân tử, còn Lợi là phẩm chất của kẻ tiểu nhân, đó là hai
hạng người trong xã hội mà "Quân tử chủ ở sự theo thiên lý để làm điều công
chính, tiểu nhân chủ ở sự theo tư dục để làm những điều tà khúc. Một đường
thì làm tôn phẩm giá của mình lên, một đường thì làm cho hạ phẩm giá của
39
mình xuống" [23, 119]. Từ quan niệm đó, Khổng Tử luôn ca ngợi những
người giản dị, tiết kiệm. Nhiễm Hữu là học trò của ông ra làm quan, nhưng vì
thu thuế quá nặng làm cho dân nghèo, nên ông không nhận là học trò của
mình nữa: "Họ Quý giàu hơn Chu công mà Cầu lại ra sức thu thuế vơ vét để
giúp thêm cho họ Quý, Khổng Tử nói: "Nhiễm Cầu chẳng phải là môn đồ của
ta nữa. Các trò nên nổi trống lên mà công kích y, được đấy!". (Quý thị phú ưu
Châu công, nhi Cầu dã vị tụ liếm nhi phụ ích chi. Tử viết: "Phi ngô đồ dã.
Tiểu tử minh cổ nhi công chi, khả dã") [30, 394].
Ngược lại, Nhan Hồi là người giản dị thì được ông khen: "Hồi quả là
người hiếu! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẹp. Người khác không
chịu nổi cảnh khổ ấy. Thế mà Hồi luôn luôn vui vẻ, không thay đổi. Hồi quả
là người hiền". (Tử viết: "Hiền tai Hồi dã, nhất đan tự, nhất biểu ẩm, tại lậu
hàng. Nhân bất kham kỳ ư! hồi bất dã cải kỳ lạc. Hiền tai Hồi dã") [30, 310].
Qua những điều trên ta thấy rằng, tuy Khổng Tử ít bàn về kinh tế, tỏ ra
xem nhẹ đời sống vật chất, nhưng thực ra ông làm thế để đề cao Nhân, Lễ,
Nghĩa. Ông coi Lễ là gốc của Nhân, biểu hiện thái độ của Lễ là ở kính, ở lòng
chí thành. Ông cho rằng, nếu do bất nghĩa mà giàu sang thì ông không bao giờ
chấp nhận, và coi sự giàu sang đó là không bền: "Giàu và sang là điều ai cũng
muốn. Nhưng để được giàu sau mà không phải đạo thì người quân tử không
chọn lấy". (Tử viết: "Phú dữ quí, thị nhân chi sở dục đã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi,
bất xử dã" [30, 271]. Đối với ông: "Bất nghĩa mà được giàu sang thì đối với ta
chỉ như phù vân". (Bất nghĩa nhi phú thả quí, ư ngã như phù vân) [30, 331].
Và nếu vì bất nghĩa mà được giàu sang thì ông thà ăn cơm thô, uống nước
suông, co cánh tay mà gối đầu thì niềm vui cũng có ở trong đó rồi. Khổng Tử
cũng không hoàn toàn phủ nhận điều Lợi, tuy nhiên ông khuyên người ta
không nên tham cái Lợi mà mù quáng "Thấy lợi nghĩ đến nghĩa" (Kiến Lợi tư
Nghĩa) [30, 452], đừng vì cái Lợi riêng mà làm phương hại đến cái Lợi
40
chung: "Làm việc theo lợi ích của mình thì sẽ chuốc lấy điều oán". (Tử viết:
Phóng ư lợi nhi hành, đa oán") [30, 272].
Như vậy, rõ ràng mục đích của Khổng Tử là đề cao những phẩm hạnh
đạo đức tối thượng của con người như Nhân - Lễ - Nghĩa để con người phấn
đấu đạt tới để hoàn thiện chính bản thân mình. Nhưng ông đã bàn tới những
điều này trong sự thống nhất với cái Lợi. Qua đó chúng ta thấy rằng cơ sở
xuất phát điểm của tư tưởng kinh tế Khổng Tử chính là Nhân - Nghĩa.
Sau khi khẳng định vai trò của Nhân - Nghĩa trong cuộc sống, con
người, Khổng Tử đã cổ vũ việc làm giàu. Ông chỉ phản đối và từ chối cái Lợi
không chính đáng, còn cái Lợi chính đáng thì nên nhận. Khổng Tử đã công
khai nói rằng: "Cái giàu mà đáng có được thì dẫu làm kẻ đánh xe hầu người ta
cũng làm. Còn như không đáng có được, thì ta cứ theo điều ta thích " (Tử
viết: "Phú nhi khả cầu dã tuy chấp tiên nhi sĩ ngô diệc vi chi. Như bất khả
cầu, tòng ngô sở hiếu" [30, 330].
Khổng Tử rất muốn cho dân giàu: "Khổng Tử đi sang nước Vệ, Nhiễm
Hữu đánh xe, Khổng Tử nói "Đông đúc thay!" Nhiễm Hữu nói: "dân đã đông
thì cần làm gì thêm?" Đáp: "Phải làm cho họ giàu có". "Đã giàu có rồi thì cần
làm gì thêm?". Đáp "Giáo dục họ". (Tử thích Vệ, Nhiễm Hữu bộc, Tử viết
"Thứ nhĩ tai!" Nhiễm Hữu viết: "Ký thứ hỹ, hựu hà gia yên?. Viết "Phú chi".
Viết "Ký phú hỹ, hựu hà gia yên?". Viết "giáo chi") [30, 432].
Khổng Tử cho rằng, "nước có đạo mà mình nghèo hèn là điều xấu hổ,
nước vô đạo mà mình giàu sang là điều xấu hổ" (Bang hữu đạo bần thả tiện
yên, sĩ dã. Bang vô đạo, phú thả quí yêu, sĩ dã) [30, 351] hay "Nghèo và hèn
là điều ai cũng ghét. Nhưng để bỏ được nghèo hèn mà chẳng phải đạo thì
người quân tử chẳng từ bỏ. Quân tử bỏ điều Nhân thì sao được gọi là quân
tử". ("Bần dữ tiện, thị nhân chi sở ố dã; bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khử dã.
Quân tử khử Nhân, ô hồ thành danh") [30, 271].
41
Ông còn cho rằng, làm giàu hay bỏ nghèo hèn chẳng phải đạo chính là
điều Nhân, và nếu bỏ điều Nhân đó không làm thì không phải người quân tử.
Như vậy Khổng Tử không phải chê bai những ai không thể làm giàu được mà
còn tán dương, cổ vũ khi người ta làm giàu. Khi Tử Cống hỏi thầy Khổng Tử
về thái độ cư xử của người giàu, kẻ nghèo ở đời, Khổng Tử đã bày tỏ ý kiến
của mình một cách rõ ràng: "Tử Cống nói: nghèo mà không xiểm nịnh, giàu
mà không kêu căng, thì thế nào? Khổng Tử đáp: Khá đấy! Song chẳng bằng
người nghèo mà vui, giàu mà chuộng lễ" ("Tử Cống viết: Bần nhi vô xiểm,
phú nhi vô kiêu, hà như? Tử viết: Khả dã, Vi nược bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ
giả dã") [30, 212 - 213].
Như vậy có thể thấy, Khổng Tử không chê giàu, ông chỉ chê giàu mà
không giữ được lễ giáo mà thôi. Ông cho rằng, ham thích giàu sang, ghét bỏ
nghèo hèn gần như là bản tính của con người, điều đó không có gì là sai trái
cả, chỉ có điều là giàu cũng như nghèo, phải theo đúng đạo lý.
Quan điểm kinh tế của Khổng Tử không chỉ lấy Nhân - Nghĩa làm xuất
phát điểm mà còn lấy "dân tín", lấy sự ổn định chính trị xã hội làm xuất phát
điểm và mục tiêu. Khi Tử Cống hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp rằng: "Đủ
lương thực, đủ binh lực, dân tin cậy". Tử Cống hỏi tiếp: "Trong 3 điều đó, nếu
bất đắc dĩ phải bỏ bớt thì bỏ điều nào trước?". Đáp:"Bỏ binh lực", Tử Cống
lại hỏi: "Trong hai điều còn lại đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt, thì bỏ điều nào
trước?". Đáp "Bỏ lương thực, Từ xưa đến nay ai cũng phải chết. Nhưng dân
mà không tin thì nước không đứng được (Tử Cống vấn chính. Tử viết: Túc
thực, túc binh, dân tín chi hỹ". Tử Cống viết: "Tất bất đắc dĩ nhi khử, ư tư tam
giả, hà tiên?". Viết "Khử binh", Tử Cống viết "Tất bất đắc dĩ nhi khử, ư tư nhị
giả hà tiên?". Viết :Khử thực, Tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập") [30, 413].
Trong tư tưởng trên của Khổng Tử thì "thực" chính là kinh tế, "binh"
chính là quân sự và "dân tín" chính là lòng tin của người dân đối với chế độ
42
chính trị, đối với nền tảng của xã hội. Theo Khổng Tử, đường lối căn bản để
xây dựng và phát triển một quốc gia tốt nhất là xây dựng và phát triển đồng
thời một chế độ chính trị tốt, với một nền kinh tế phồn thịnh và một nền quân
sự hùng mạnh. Nhưng đó là trong tình huống bình thường. Khi xuất hiện tình
huống khác thường thì quan điểm nhìn nhận, đánh giá và thực hiện những vấn
đề ấy để xây dựng một quốc gia mới bộc lộ rõ. Theo Khổng Tử, trong tình
huống đó, 3 điều căn bản để xây dựng quốc gia ấy không thể tiến hành đồng
thời, trong đó "thực", "binh" có thể bỏ, nhưng lòng tin của dân đối với chế độ
xã hội, với Nhà nước thì không thể bỏ. Ông đã phân tích và nhận định điều
này theo thứ tự sau: niềm tin của dân đối với kẻ cầm quyền hay chế độ chính
trị và sự ổn định chế độ chính trị ở địa vị thứ nhất, còn kinh tế ở địa vị thứ hai,
quân sự ở địa vị thứ ba. Như vậy, tuy không đặt vấn đề quản lý kinh tế lên
hàng đầu nhưng ý tưởng sâu xa và nổi bật của ông ở đây là phát triển kinh tế
đất nước không bao giờ được tách rời việc xây dựng, củng cố chế độ chính trị,
và phải xuất phát từ lòng dân, từ việc an dân.
Như thế, với nhãn quan của một nhà tư tưởng lớn, Khổng Tử đã luôn từ
góc độ chính trị để xem xét, nhìn nhận vấn đề kinh tế. Sự phát triển kinh tế
tức là "thực" tốt hay xấu có thể ảnh hưởng ít nhiều tới niềm tin của dân, tức
"dân tín" với chế độ xã hội, nhưng nếu không xây dựng được lòng tin của dân
đối với chế độ chính trị thì dù kinh tế phát triển thế nào đi nữa, cũng không có
ý nghĩa. Có lẽ vấn đề "dân tín" đã được ông đúc rút từ chính những biến cố
lịch sử lớn lao của đất nước Trung Hoa đương thời. Đó là thời kỳ thiên hạ
loạn lạc, chiến tranh tàn khốc đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và đời sống
của nhân dân Trung Hoa. Như vậy chữ Tín của dân đối với chế độ chính trị
quả là quan trọng. "Không kể về nội dung tư tưởng thì tư duy chính trị hiện
đại, khi đã đề cập đến những nguyên tắc hành chính căn bản cũng không vượt
quá xa so với hình dung của Khổng Tử" [49, 29]. Đối chiếu với thực tiễn hiện
đại, chúng ta thấy rằng, không có lý thuyết phát triển nào lại không đặt trên
43
tiền đề xã hội ổn định, có kỷ cương, có pháp luật. Và mặc dù "ức thương"
nhưng vấn đề lòng tin trong Nho giáo khi lược bỏ hạn chế do thời đại qui định
thì vẫn còn giá trị, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại.
Nho gia tuy đề cao vai trò của Nhân - Nghĩa, của "dân tín" trong cuộc
sống con người nhưng không vì thế mà bỏ qua vấn đề cơm áo của nhân dân.
Nho gia còn luôn ý thức được rằng, khi con người ta đủ ăn đủ mặc thì mới
thực hiện được nhân nghĩa, mới tin vào chế độ chính trị xã hội đương thời, và
nhờ vậy xã hội sẽ yên trị. Chính vì vậy Khổng Tử đã đưa ra các biện pháp để
giải quyết vấn đề nghèo cả bằng hành động và tâm lý. Về quan điểm phân
phối lợi ích kinh tế, Khổng Tử chủ trương phân phối sản phẩm xã hội có tính
chất bình quân, có vậy dân mới không bị bóc lột, tạo thế ổn định, cân bằng
trong xã hội dù đời sống kinh tế kém phát triển và dân còn nghèo: "Vua chư
hầu hay quan đại phu (kẻ có nước, có nhà) chẳng lo ít dân mà chỉ lo không
đều, chẳng lo nghèo mà chỉ lo không được an ninh. Là vì hễ đồng đều thì
chẳng nghèo, người hoà thì dân số không ít, có an ninh thì nước nhà không
nghiêng đổ" ("Khâu đã văn hữu quốc, hữu gia giả, bất hoạn quả, nhi hoạn bất
quân, bất hoạn bần, nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hoà vô quả, an vô
khuynh" [30, 503].
Chữ "quân" của Khổng Tử trong đoạn trên không có gì là cách mạng,
chỉ là nhân đạo, thực tế và ba chữ "quân vô bần" bất hủ này đã được dùng làm
châm ngôn cho tất cả các nhà trị dân trong 2500 năm nay. Đành rằng, Khổng
Tử muốn chống sự thôn tính, muốn duy trì chế độ phân phong của nhà Chu
nhưng ông cũng có tư tưởng "xã hội", nghĩa là trọng sự công bình trong xã
hội. Ông còn rất ghét sự "tụ liễm" (làm giàu) thêm cho kẻ giàu như chúng ta
thấy trong thiên Tiên tiến [30, 394], hay trong thiên Ung dã, khi Khổng Tử
làm quan ở nước Lỗ, Nhiễm Hữu và Tử Hoa là học trò của ông đều làm quan,
xin cấp lúa cho mẹ Tử Hoa, Khổng Tử cấp cho 6 đấu, Nhiễm Hữu không
44
nghe, cấp cho 160 đấu, ông liền nói:"Xích đi sứ sang Tề, cưỡi ngựa béo, mặc
áo lông chiên mịn. Ta từng nghe rằng: người quân tử cứu giúp người thiếu
thốn chứ không nối thêm cho người giàu" ("Xích chi thích Tề dã, thừa phì mã,
ý khinh cừu. Ngô văn chi dã: quân tử chân chấp, bất kế phú") [30, 308].
Nhưng Nguyên Tư, một môn sinh khác, vốn nghèo và thanh liêm, ông
cứ chiếu lệ nhà nước mà phát lương cho 900 đấu, Nguyên Tư cho rằng nhiều
quá, từ chối, ông bảo:"Đừng từ chối! Lấy mà cho (những người nghèo thiếu)
trong làng xóm chẳng được sao?". ("Vô, dĩ dữ nhĩ lân lý, hương đảng hỗ?")
[30, 308].
Cách sử xự của ông thật nhân ái, công bằng, hợp tình hợp lý: không
làm giàu thêm cho kẻ giàu rồi, có dư thì giúp người nghèo, nhưng trả lương
thì cứ theo phép nước, tuỳ theo đẳng cấp. Hiện nay trên thế giới, đâu đâu cũng
chỉ mong muốn đạt được sự phân phối bình quân như vậy.
Biện pháp giải quyết cái nghèo quan trọng của ông vẫn chính là tiết
kiệm. Chủ trương của ông coi tiết kiệm là có đức, ông rất ghét sự xa xỉ: "Xa
hoa thì tỏ ra kiêu, tiết kiệm thì quê. Thà quê còn hơn kiêu" ("Xã, tắc bất ổn,
kiệm, tắc cố. Dữ kỳ bất tốn dã, ninh cố") [30, 336]. Nhưng dù tiết kiệm thì
vẫn phải đúng mức và đúng nghi lễ trong các việc như phụng dưỡng cha mẹ,
tang ma, tế lễ, đón khách, còn các khoản khác nên chọn cách ít tốn kém.
Khổng Tử còn khuyên các vua "tiết dụng nhi ái", nhân nghĩa là "tiết kiệm tiêu
dùng mà thương yêu mọi người" [30, 210]. Với lời răn dạy tiết kiệm ấy của
Khổng Tử và sau này là của Mạnh Tử, Tuân Tử, đã đào tạo ra những quan
thanh liêm thường rất giản dị, coi vẻ đẹp của con người là đạo đức, là sự
thanh cao của tâm hồn chứ không phải ở sự xa xỉ, lãng phí trong nhà cửa,
quần áo, vật tiêu dùng.
Tuy nhiên, dù Nho giáo chủ trương phân phối quân bình và chủ trương
tiết kiệm trong đời sống thì sự thực, trong xã hội vẫn tồn tại tình trạng bất
45
bình đẳng, vẫn có kẻ giàu, người nghèo. Thật khó để thuyết phục việc chia
như trên là bình quân, là hợp lý để ai ai cũng vui với cái ít, không chê nghèo
mà sống "hoà mục". Để ngăn chặn tâm lý đó, Nho gia và Khổng Tử đều chủ
trương "an bần lạc đạo", sống theo Mệnh, theo Nghĩa, theo Lễ, tức là sống
đúng với phận, vị. Điều đó thể hiện rất rõ trong các luận điểm của sách Luận
ngữ: "Chết có số mệnh, giàu sang là ở trời" ("Tử sinh hữu mạng, phú quí tại
thiên") [30, 413]. Hoặc khi lên án việc làm giàu do bất nghĩa, ông nói "Bất
nghĩa mà được giàu sang thì đối với ta chỉ như phù vân" [30, 331], hoặc khi
ông đối lập giữa Nghĩa và Lợi để tỏ thái độ cực lực chống lại cái Lợi: "Quân
tử hiểu rõ cái Nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ cái Lợi" ("Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu
nhân dụ ư lợi") [30, 273].
Như vậy, khi đề cập đến Nghĩa và Lợi, Khổng Tử coi Nghĩa là cái hợp
với lẽ phải, là đạo lý mà chỉ người quân tử mới nhận thức và làm được, còn
lợi ích vật chất tầm thường là thứ mà kẻ tiểu nhân luôn ham muốn. Cho nên,
theo ông, đứng trước điều Nghĩa và Lợi, nếu phải chọn một, thì người quân tử
chọn theo Nghĩa. Bản thân cuộc đời Khổng Tử cũng là một tấm gương vì
nghĩa. Suốt đời ông tuyên truyền và phấn đấu cho một xã hội thái bình, thịnh
trị và trật tự kỷ cương.
Với xuất phát điểm của tư tưởng kinh tế là nhân nghĩa, là dân tín, hơn
nữa học thuyết của ông vốn là triết lý nhân sinh, nên khi đưa ra chính sách để
phát triển kinh tế, ông chủ trương "dân bản": "Nương theo mối lợi của dân mà
làm lợi cho họ" ("Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi") [30, 562]. Khổng Tử đã ý
thức được vai trò của việc dưỡng dân, nên ông đòi hỏi nhà cầm quyền quan
tâm đến dân. Tuy nhiên, với tư cách là một triết gia về chính trị chứ không
phải là một nhà kinh tế học, nên đối với chính sách kinh tế, ông chỉ đưa ra
nguyên tắc, vạch đường lối chứ không đưa ra những biện pháp kinh tế cụ thể.
Chính sách kinh tế của ông là "trọng nông ức thương". Để phát triển kinh tế,
46
ông chủ trương "dĩ nông vi bản", là vì "Trăm họ no đủ thì vua thiếu thốn với
ai? Trăm họ mà thiếu thốn thì vua đủ với ai?" (Bá tính túc, quân thù dữ bất
túc, Bá tính bất túc, quân thục dữ túc?") [30, 414]. Qua đó ông đề nghị các
nhà cải cách phải quan tâm đến nông nghiệp, phải coi trọng lễ cày tịch điền để
làm gương cho dân, phải ra chiếu khuyến nông để vỗ về, khuyến khích nông
dân cày cấy, rồi phải "sử dân dĩ thời", tức điều động dân phải hợp thời vụ, rồi
đánh thuế nhẹ, có định ngạch, được báo trước, vua quan phải tiết kiệm. Vì
nghề nông vất vả lại hay gặp bất trắc, lợi xuất không cao nên nhiều người
muốn nhiều lợi đã bỏ nghề nông mà buôn bán. Nho gia coi đó là nghề của kẻ
hèn hạ, nên xếp vào hạng cuối cùng trong tứ dân (Sĩ - Nông - Công - Thương)
và ban hành nhiều chính sách ức thương.
Tóm lại, tư tưởng kinh tế của Khổng Tử đã lấy "dân bản", “ái nhân”,
nhân, lễ, nghĩa, tín làm xuất phát điểm. Và mục tiêu hướng tới của nó là "dân
tín", “an nhân” là một chế độ chính trị, một xã hội tốt đẹp, ổn định. Khổng Tử
vẫn luôn đề cao những phẩm hạnh đạo đức tối thượng như: Nhân - Lễ - Nghĩa
- Tín để con người phấn đấu đạt tới hoàn thiện mình, nhưng bàn đến những
vấn đề này trong sự thống nhất với Lợi. Ông đã có công lớn trong việc đề cao
lòng nhân ái, quan tâm đến lợi ích kinh tế của con người, thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội và đó cũng chính là nguyện vọng suốt đời kinh bang tế thế của ông.
Tuy có những hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lập trường giai cấp, nhưng dù
sao, từ thế kỷ V trước Công nguyên mà Khổng Tử đã có những quan điểm về
kinh tế như vậy là hết sức đặc sắc.
2.1.2. Một số quan điểm cơ bản trong tư tưởng kinh tế của Mạnh Tử
Phản ánh cuộc chiến tranh khốc liệt giữa các nước chư hầu, các tập
đoàn quí tộc thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nhiều nhà triết học, nhiều môn phái
tư tưởng lớn đã xuất hiện. Các trường phái triết học đại diện cho địa vị, lợi ích
của các tầng lớp, giai cấp xã hội đã đấu tranh với nhau hết sức gay gắt. Mạnh
47
Tử (372 - 289 trước Công nguyên) là một trong những triết gia lớn thời kỳ đó.
Ông chủ trương chống lại thuyết "kiêm ái" của Mặc gia và chủ nghĩa "tự
nhiên vô vi" của Đạo gia, phát triển tư tưởng chính trị - đạo đức của Khổng
Tử theo khuynh hướng mới.
Trong hệ thống triết lý nhân sinh phong phú của Mạnh Tử, bên cạnh
thuyết "tính thiện" nổi tiếng còn có tư tưởng chính trị - xã hội đặc sắc, đã
khiến cho các nhà nghiên cứu triết học Trung Quốc sau này phải khái quát
toàn bộ triết học của ông bằng cái tên "Mạnh Tử: khẳng khái nhân sinh". Dựa
trên học thuyết "tính thiện", tiếp tục tư tưởng Đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử
đã kịch liệt phê phán phương pháp trị nước của các trường phái triết học Mặc
gia và Đạo gia. Và từ đó ông đề ra thuyết "nhân chính" trong đạo trị nước.
Nếu như Khổng Tử đề cao Nhân và sẵn sàng chết vì Nhân thì Mạnh Tử
kêu gọi người phải sẵn sàng chết vì Nghĩa. Ông đề cao Nghĩa đến mức đem
so sánh với mạng sống của con người "Sống là điều ta ham muốn, Nghĩa cũng
là điều ta ham muốn, nếu không giữ được cả hai điều ấy thì ta thà bỏ sự sống
để giữ lấy điều Nghĩa" ("Sinh, diệc ngã sở dục dã; Nghĩa diệc ngã sở dục dã,
nhị giả bất khả kiêm, xả sinh nhi thủ nghĩa giả dã") [30, 741].
Trong nội dung sách Mạnh Tử có đến ba phần tư nói về "nhân chính",
trong đó, ông rất coi trọng Nhân, Nghĩa: "Không ai ngăn cấm mà chẳng chịu
làm điều nhân, như vậy không phải là người sáng suốt hiểu biết. Không có
lòng nhân (bất nhân), không sáng suốt hiểu biết (bất trí), không có lễ nghĩa,
như vậy thì chỉ đáng làm đầy tớ cho người ta sai khiến mà thôi" ("Mạc chi
ngự nhi bất nhân, thị bất trí dã. Bất nhân bất trí, vô lễ vô nghĩa, nhân dịch dã)"
[30, 672].
Theo ông, có nhân thì được vinh dự, còn bất nhân thì phải chịu nhục
nhã. Ông còn cho rằng "Nhân, đó là lương tâm của con người; Nghĩa, đó là
đường đi của con người" ("Nhân, nhân tâm dã; Nghĩa, nhân lộ dã") [30, 744]
48
hay"Bất nhân mà được làm vua một nước (chư hầu) việc ấy đã từng có. Bất
nhân mà có cả thiên hạ, lên ngôi thiên tử, thì đó là chuyện chưa từng có"
(Mạnh Tử viết: "Bất nhân nhi đắc quốc giả, hữu chi hĩ; bất nhân nhi đắc thiên
hạ giả, vị chi hữu giã" [30, 757]. Theo ông, một ông vua mà thích làm điều
nhân thì không ai địch được. Vì vậy, khi yết kiến ông vua nào Mạnh Tử cũng
chỉ đem đạo Nhân - Nghĩa ra giảng, hi vọng tìm được hoặc đào tạo được một
vị nhân quân.
Ở đây, Mạnh Tử đã có sự phân biệt rất rõ ràng ý nghĩa, công dụng của
Nghĩa và Lợi. Khi ông gặp Tống Hinh (383 - 290 trước Công nguyên), đem
chữ Lợi để khuyên Tần và Sở đừng đánh nhau, Mạnh Tử đã phân tích trong
thiên Cáo Tử hạ: "Ý chí của ông rất lớn, nhưng lý lẽ của ông đưa ra thì không
tốt. Ông đem cái lợi mà nói với vua Tần, vua Sở, mà họ vui về điều lợi, bãi
binh thì binh lính sẽ vui vẻ nghỉ ngơi mà thích cái lợi; kẻ làm bề tôi sẽ chỉ vì
ham lợi mới thờ vua, kẻ làm con vì ham lợi mới thờ anh. Vậy mà vua tôi, cha
con, anh em rốt cuộc bỏ hết điều nhân, điều nghĩa, chỉ nghĩ đến lợi trong sự
giao thiệp với nhau. Như thế mà nước chẳng diệt vong thì là điều chưa từng
có. Còn ông đem Nhân Nghĩa mà nói với vua Tần, vua Sở, họ vui vẻ về điều
nhân, điều nghĩa mà bãi binh. Vậy vua tôi, cha con, anh em sẽ bỏ cái Lợi đi,
nghĩ đến Nhân - Nghĩa mà giao thiệp với nhau. Như thế mà nước chẳng hưng
vượng, là điều chưa từng có. Cần chi phải nói tới lợi?" [26, 120 - 121]. Như
vậy, nếu chỉ nghĩ tới lợi thì ắt sẽ mất nước, còn nghĩ đến nhân nghĩa thì thiên
hạ sẽ yên trị. Chính vì vậy mà ông đã chủ trương giáo dục theo Lễ.
Mạnh Tử rất coi trọng và đề cao Lễ, ông chỉ rõ thực chất của Lễ là hình
thức biểu hiện của Nhân, Nghĩa, là hình thức biểu hiện của thực hành đạo làm
người của Nho giáo theo những bậc khác nhau (5 bậc) ứng với Ngũ luân:
"Nhờ có Lễ mà giáo dục, rèn luyện được tâm tính con người, đưa con người
trở về với tính thiện bẩm sinh, đưa con người từ tính ác trở nên thiện" [5, 47].
49
Có được tác dụng trên vì giáo dục theo Lễ chỉ ra cho con người điều hay lẽ
phải, thấy rõ lợi ích của hành động theo Lễ sẽ đạt điều Nhân, cảm hoá được
người khác. Vì "lễ giảng điều tín, sửa điều hoà mục, đề cao lòng từ nhượng,
khiến người ta từ bỏ các mối tranh chấp vì lợi riêng để trở về với tính thiện
bẩm sinh" [26, 20 - 21] .
Như vậy, trong quan niệm của Nho gia nói chung và Mạnh Tử nói
riêng, Nghĩa và Lợi vừa là phạm trù đạo đức, vừa là phạm trù chính trị - xã
hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Khổng Tử về Nghĩa và Lợi, Mạnh
Tử cho rằng, Nghĩa là việc nên làm thì làm, không nên làm thì không làm:
"Người ta ai cũng có lòng thương xót chẳng nỡ đối với vịêc này hoặc vịêc
khác, nhưng nếu mình biết đem tấm lòng ấy mà phổ cập đến những việc mà
mình chưa thương xót chẳng nỡ, thì mình mới thật là người nhân vậy. Người
ta ai cũng có những việc mà mình chưa thèm làm, nhưng nếu mình biết nới
rộng khí tiết ấy mà chẳng thèm làm những việc mình đương làm, thì mới thật
là người nghĩa vậy” (Mạnh Tử viết: "Nhân giai hữu sở bất nhẫn, đạt chi ư kỳ
sở nhẫn, nhân giả, Nhân giai hữu sở bất vi, đạt chi ư kỳ sở vị, nghĩa giã") [8,
50].
Tuy nhiên cái gì nên làm, cái gì không nên làm thì Mạnh Tử không
bàn kỹ, ông thường cho rằng lòng tu ố (xấu hổ) là đầu mối của nghĩa, cái gì
làm ta xấu hổ, làm cho ta ghét thì đó là cái phi nghĩa và chỉ có "lương tâm",
"lương năng" mới giúp ta phân biệt được đâu là nghĩa, đâu không phải là
nghĩa. Điều đó cho ta thấy Mạnh Tử luôn gắn liền Nghĩa với hành vi đạo đức
cá nhân, đã hiểu được động cơ bên trong của những hành vi vì nghĩa.
Mạnh Tử nói thêm: "nếu coi Nghĩa là thứ yếu mà gạt ra sau, coi Lợi là
quan trọng mà đưa lên trước thì không cướp đoạt của nhau thì không thoả
lòng mãn nguyện. Chưa từng có ai có nghĩa mà lại không quí trọng nhà vua.
Nhà vua chỉ nên nói đến nhân nghĩa mà thôi, việc gì cứ phải nói đến lợi!"
50
("Cẩu vi hậu nghĩa nhi tiên lợi, bất đoạt bất yếm. Vị hữu nhân nhi di kỳ thân
giả dã, vị hữu nghĩa nhi hậu kỳ quân giả dã. Vương diệc viết nhân nghĩa nhi
dĩ hĩ, hà tất viết lợi!" [30, 595].
Do đề cao nghĩa ngang với nhân nên Mạnh Tử khuyên người ta chỉ nên
nói điều nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là mục đích của cuộc sống cá nhân, là
mục tiêu mà xã hội cần vươn tới:"Tôi vì nhân nghĩa mà thờ vua, con vì nhân
nghĩa mà thờ cha, em vì nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi, cha con, anh em đều
bỏ lợi, đối với nhau chỉ bằng tấm lòng hâm mộ nhân nghĩa. Quốc gia như thế
mà không hưng thịnh thì chưa từng có" ("Vi nhân thần giả, hoài nhân nghĩa dĩ
sự kỳ quân. Vi nhân tử giả, hoài nhân nghĩa dĩ sự kỳ phụ. Vi nhân đệ giả, hoài
nhân nghĩa dĩ sự kỳ huynh. Thị quân thần, phụ tử, huynh đệ, khử lợi, hoài
nhân nghĩa dĩ tương tiếp dã. Nhiên, nhi bất vương giả, vị chi hữu dã") [8, 51].
Không những Mạnh Tử hiểu rất rõ Lợi, mà còn phân biệt rõ cái lợi của
quốc gia, của dân tộc và của bản thân mỗi người khi ông đối thoại với Lương
Huệ Vương [30, 549]. Đối với Mạnh Tử, đã là người nhân thì nhất thiết
không được đi buôn, còn nếu là con buôn thì không thể có nhân được. "Vi
nhân bất phú, vi phú bất nhân" là luận điểm thể hiện chính sách trọng nông ức
thương, đã "vi phú" thì không thể "vi nhân" và ngược lại. Tuy đề cao Nghĩa
và coi Nghĩa là xuất phát điểm của học thuyết cai trị, nhưng Mạnh Tử cũng
nhận thấy rằng con người phải đủ ăn, đủ mặc thì mới làm nhân nghĩa được.
Thật vậy, ông đã yêu cầu nhà cầm quyền thi hành chế độ "bảo dân" và phép
cai trị nhân đức: người cai trị phải chăm lo đến đời sống cơm áo của nhân
dân, phải coi trọng việc dạy dân làm ruộng, ăn điều độ, dùng lễ tiết thích nghi,
vì "ăn uống đúng lúc, tiêu dùng đúng lễ, của cải sẽ dùng không hết" ("Thực
chi dĩ thời, dụng chi dĩ lễ, tài bất khả thăng dụng dã" [30, 735] và ông vua cai
trị nhất thiết phải là người có tài đức và chuộng đức. Hai nhiệm vụ quan trọng
nhất của vị nhân quân là dưỡng dân và giáo dân. Đặc biệt, Mạnh Tử rất quan
51
tâm đến vấn đề "hằng sản, hằng tâm", theo đó, muốn ổn định tư tưởng của
dân và an dân thì nhất thiết phải đi liền với ổn định về tài sản cho dân. Thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, trong ba, bốn trăm năm chiến tranh liên tiếp, dân
chúng Trung Hoa chịu biết bao nỗi điêu đứng mà trong số "bách gia chư tử"
chỉ có Mạnh Tử lên tiếng bênh vực dân đen, và là người đầu tiên, có lẽ là duy
nhất, vạch rõ chế độ kinh tế cứu dân. Mạnh Tử nói: "Không có hằng sản mà
vẫn có hằng tâm thì chỉ kẻ sĩ mới có thể như vậy. Còn người dân, không có
hằng sản thì sẽ không có hằng tâm. Đã không có hằng tâm thì buông thả, gian
tà, càn rỡ, quá quẫn, không điều gì là không làm, đến khi họ mắc vào lỗi lầm,
bề trên mới đem hình pháp ra mà trị tội họ, như thế là xua dân vào lưới bẫy.
Bậc nhân đức ở ngôi vị đâu có làm cái việc đánh bẫy dân như vậy" ("Vô hằng
sản nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng. Nhược dân, tắc vô hằng sản nhân vô
hằng tâm. Cẩu vô hằng tâm, phóng tích tà xỉ, vô bất vi dã. Cập hàm ư tội,
nhiên hậu tùng nhi hình chi, thị vòng dân dã. Yên hữu nhân nhân tại vị, vòng
nhân nhi khả vi dã. Thị cố, minh quân chế dân chi sản, tất sử ngưỡng túc dĩ sư
phụ mẫu, phủ túc dĩ súc thê tử, lạc trữ trung thân bão, hung niên miễn ư tử
vong, nhiên hậu khu nhi chi thiện, cố dân chi tùng chi dã khinh") [30, 612].
Theo Mạnh Tử, nếu dân đói thì chẳng những dân không thể làm nhân
nghĩa mà còn có thể trở nên hung bạo, "Người dân ngẩng đầu lên chẳng đủ
thờ cha mẹ, cúi xuống chẳng đủ nuôi vợ con, năm được mùa vẫn bị đói khổ,
năm mất mát chẳng khỏi nạn chết đói. Như thế chỉ lo chống đỡ cái chết còn e
không nổi, còn thì giờ đâu mà lo việc lễ nghĩa" [20, 108]. Ông lại nói: "những
năm dư dật thì con em nhiều người trở nên tử tế. Những năm đói kém thì con
em nhiều người trở nên hung bạo" [20, 108]. Vì vậy bậc minh quân phải chế
định điền sản cho dân để phụng dưỡng cha mẹ, đủ sức nuôi vợ con, năm được
mùa thì no đủ, năm mất mùa cũng không chết đói. Như vậy rồi thì đưa họ vào
con đường thiện, họ mới dễ theo. Mối lo hàng đầu là xã hội có yên hay không,
nên ông đã đưa ra biện pháp "chế sản" cho công bằng như chế độ "tỉnh điền".
52
Hơn ai hết, ông hiểu được qui luật sự tập trung tài sản là điều tự nhiên không
tránh được, tới lúc nào đó sẽ "bất quân" và xã hội sẽ loạn. Vì vậy, nhà cầm
quyền phải sắp xếp danh vị mọi người, theo đó mà có quyền, theo đó mà nhận
tài sản tương quan, hợp lý với địa vị. Ông đã chọn cách ôn hoà để phân chia
tài sản trong xã hội để khỏi có người giàu quá hoặc nghèo quá. Khi Đằng Vân
Công sai một viên quan tới hỏi về phép tỉnh điền, Mạnh Tử đáp: "Muốn làm
nhân chính thì trước hết phải vạch ranh giới ruộng đất. Nếu ranh giới không
phân minh thì mỗi khu trong tỉnh địa không đều nhau, thuế không đều nhau
mà số lúa phát cho quan không được công bình. Vì vậy bọn vua tàn bạo và
quan tham nhũng lơ là việc vạch ranh giới. Vạch ranh giới phân minh thì sự
chia ruộng cho dân và phát bổng lộc cho quan sẽ được ổn định một cách dễ
dàng [26,129 - 130].
Ngoài ra, để giải quyết cái nghèo, Mạnh Tử còn yêu cầu nhà cầm
quyền phải đồng cam cộng khổ với nhân dân, không nên có cuộc sống quá
chênh lệch với dân thường. Như ông nói với Lương Huệ Vương: "Bếp nhà
vua mà có thịt béo, tàu nhà vua có ngựa mập mà nhân dân thì chết đói nằm la
liệt ngoài đồng ruộng. Như vậy chẳng khác nào nhà vua khiến cho thú vật ăn
thịt người. Giống thú vật ăn thịt lẫn nhau, người ta còn ghét huống chi vua
làm cha mẹ dân, cầm quyền chính sự mà đến nỗi xua giống thú cho ăn thịt
người, đâu còn là cha mẹ dân nữa" [20, 110]. Để thực hiện nhân chính, ông
còn khuyên vua chúa nên sinh hoạt tiết kiệm và có thái độ của người giàu - kẻ
nghèo cần có: "Phú quí bất năng dâm. Bần tiện bất năng di. Uy vũ bất năng
khuất", nghĩa là "Giàu có sang trọng không hoang dâm, phóng túng, gặp
nghèo khó ti tiện không đổi tiết tháo. Uy thế, vũ lực không khuất phục được
mình" [47, 72].
Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương "nhân chính", Mạnh Tử
đề xuất một quan điểm hết sức độc đáo, đó là quan điểm "dân vi bang bản":
53
"dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" [30, 758], tức là nhân dân đáng quí
trọng nhất, sau đó đến xã tắc, còn vua thì thường vậy thôi. Như vậy, trong ba
vật báu của đất nước, nhân dân lao động có vai trò to lớn đối với sự tồn vong,
thịnh suy của đất nước. Đây là quan điểm đặc sắc trong học thuyết chính trị -
xã hội của Mạnh Tử. Xuất phát từ quan điểm "dân bản", ông đã đưa ra hai
nhiệm vụ quan trọng của vị nhân quân là dưỡng dân và giáo dân, và trước hết
là dưỡng dân.
Mạnh Tử đã đưa ra những biện pháp, chính sách kinh tế hết sức cụ thể.
Chủ trương của ông là trọng nông: "Hãy để nhà nông cày sâu cuốc bẫm, thuế
má nên lấy nhẹ thôi, như vậy sẽ có thể làm cho dân giàu lên được" ("Dị kỳ
điền trù, bạc kỳ thuế liếm, dân khả sứ phú dã") [30, 755].
Ông không chỉ là một triết gia, mà còn là một chính trị gia, kinh tế gia
nữa. Ông nghĩ tới cả những tiểu tiết như: phải đạc điền lại mà vạch ranh giới
ruộng đất cho phân minh, công bằng, chia cho mỗi gia đình bao nhiêu mẫu
ruộng và một số đất vườn để nhà nào cũng có thể trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa
mặc, nuôi heo, gà lấy thịt ăn; cấm dân dùng lưới nhặt quá để bắt cá, bắt rùa,
cấm đốn rừng không hợp thời, bổn phận nhà cầm quyền là không được làm
trái thời vụ cấy gặt của dân, nghĩa là đừng bắt họ làm xâu khi họ đang mắc
công việc đồng áng. Nếu Khổng Tử có chính sách "Sử dân dĩ thời" thì Mạnh
Tử cũng có chính sách "Bất vi nông thời" và yêu cầu nhà cầm quyền phải tiết
kiệm, đừng xa xỉ mà bắt dân phải nai lưng đóng thuế, ông mạt sát chế độ quan
thuế: "Ngày xưa, đặt ra cửa quan để phòng ngừa trộm cướp, ngày nay đặt ra
cửa quan cốt để làm trộm cướp" ("Cổ chi vi quan dã, tương dĩ ngự bạo; kim
chi vi quan dã, tương dĩ vi bạo") [26, 136]. Là vì xưa đặt ra chỗ tuần phòng ở
cửa ải, cửa sông, cửa biển để ngăn ngừa trộm cướp, ngày nay chỉ để thu thuế
cho nhiều, ông cho rằng như vậy là khác chi cướp của dân. Chính sách xã hội
của ông đặc biệt cưu mang bốn hạng người quan, quả, cô, độc. Ông đã vẽ ra
54
một bức tranh đầy đủ của nền kinh tế tiểu nông ở Trung Quốc bấy giờ. Ông
qui định tài sản của dân bằng phép "tỉnh điền". Tỉnh điền là chia ruộng đất
thành ô vuông, vạch theo hình chữ "tỉnh"), thành 9 ô vuông đều nhau, 8 ô giao
cho nông dân cày và tự thu hoạch. Ô ở giữa do 8 hộ cày và nộp cho vua.
Mạnh Tử tính mỗi hộ có 100 mẫu ruộng và 5 mẫu vườn để cấy lúa, trồng dâu
nuôi tằm, nuôi 2 con lợn nái và 5 gà mẹ thì đủ cung cấp cho một gia đình 9
người, người già có thể mặc áo lụa, ăn thịt, không phải lao động nặng, các
quan theo tước vị cao thấp mà được nhiều hơn. Thật là tốt đẹp và bình quân.
Khi đã chia xong không ai được lấn thêm bờ cõi, khai hoang thêm diện tích,
làm giàu ngoài phận. Những gia đình quan lại đã được hưởng lộc, không được
làm thêm nghề phụ, tranh lợi với dân" [12, 99].
Như vậy, chính sách kinh tế của ông thật đầy đủ, nhưng cái mà học
thuyết của ông quan tâm hàng đầu là trật tự theo Lễ, đúng như Trần Đình
Hượu đã khẳng định ở Nho gia, vấn đề kinh tế được đặt ra theo góc độ chính
trị - xã hội, được giải quyết không theo cách kinh tế mà theo cách đạo đức
hành chính. Nếu không làm cho mọi người no ấm hơn thì cũng làm cho mọi
người vui với cảnh nghèo khổ, trong trật tự phận vị, "an bần" chứ không "trí
phú". Tuy nhiên, đó là hạn chế do lịch sử và do chế độ đẳng cấp đương thời,
nếu gạt bỏ đi thì ta nhận thấy chính sách kinh tế xã hội của ông thật đầy đủ,
thật công bằng và nhân từ. Mạnh Tử luôn đặt lợi ích của nhân dân lao động,
của cộng đồng lên trên lợi ích của vua quan, của cá nhân. Có thể nói rằng:
"Với Mạnh Tử thì con tim ông luôn hướng về nhân dân, nhưng khối óc của
ông lại thuộc về giai cấp mà ông đại diện. Dù sao, về phương diện lịch sử,
Mạnh Tử cũng xứng đáng được đời sau tôn vinh là bậc Á thánh của Nho gia"
[7, 28].
Tóm lại, đường lối của học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là cốt
lấy sự ổn định, yên trị mà dưỡng dân. Đó là do hoàn cảnh đương thời. Thời
55
Chiến Quốc bấy giờ dân tình khổ sở vì vua chúa tranh quyền lợi, thiên hạ loạn
lạc. Bởi vậy Mạnh Tử hết sức công kích chiến tranh và những người vị danh,
vị lợi mà làm hại dân. Cho nên ông muốn đem cái đạo lớn của thánh hiền mà
khuyên răn mọi người, khiến cho ai nấy đều hồi tưởng lại, lấy nhân nghĩa mà
đối với quốc gia, cứu vớt muôn dân. "Chính sách của ông là chính sách cứu
đời vậy" [23, 295].
2.1.3. Một số quan điểm cơ bản trong tư tưởng kinh tế của Tuân Tử
Tuân Tử là một nhà Nho cuối thời Chiến Quốc. Thời kỳ này ở Trung
Quốc, Nho gia, Đạo gia và Mặc gia đều thịnh hành. Tuân Tử từ chỗ bài bác
các học phái để phát triển Nho gia. Tuân Tử lại là một cự tử trong Nho gia
nhưng vì cũng hấp thụ cái không khí của đời Chiến Quốc nên thiên về mặt
biện luận mà bỏ mất cái lối tâm học uyên bác của Nho gia. Tuy nhiên, tư
tưởng của ông vẫn ảnh hưởng rất lớn đến Nho gia về sau.
Tuân Tử tuân theo tôn chỉ của Nho gia, lấy nhân nghĩa, trí dũng, trung
hiếu mà giáo dục con người. Song "Khổng Tử lấy chữ Nhân nói gồm cả trực
giác mẫn huệ và lòng tự ái suốt đến vạn vật mà giữ có trật tự phân minh" [23,
316 - 317], còn ở Tuân Tử, chữ Nhân chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là ái nhân
mà thôi. Trong thiên Đại lược, sách Tuân Tử, ông nói: "Nhân ái giã, nghĩa lý
giã" nghĩa là "nhân là yêu vậy, nghĩa là lý vậy" [23, 317], và ở thiên Nghị
binh, sách Tuân Tử, ông nói rõ thêm: "Nhân giả ái nhân, nghĩa giả tuần lý",
tức là "nhân là yêu người, nghĩa là theo lý" [23, 317]. Vậy chữ Nhân của Tuân
Tử là một đức tính tốt, nói về lòng yêu thương người mà thôi, còn chữ Nghĩa,
ông thường hay đem đối lập với chữ Lợi. Tuân Tử rất coi trọng và đề cao Lễ,
"bằng con mắt của nhà tâm lý học phương Đông, với thế giới quan duy vật và
nhân sinh quan đúng đắn, Tuân Tử còn nêu rõ tác dụng to lớn của Lễ đối với
việc rèn luyện tâm tính, nhân cách con người. Ông gọi Lễ là: thuật trị khí
56
dưỡng tâm "tốt nhất, bởi nó làm cho con người đạt được đức tốt, đưa con tới
nhân nghĩa, trí, đạt tới chí thiện" [5, 47].
Hơn nữa, ở Tuân Tử đã có sự giải thích rõ ràng, đầy đủ, sâu sắc về
nguồn gốc của lễ theo lập trường duy vật triệt để: "Trời đất là cái đầu sự sinh,
lễ nghĩa là cái đầu sự trị, quân tử là cái đầu lễ nghĩa". ("Thiên địa giả sinh chi
thi giã, lễ nghĩa giả trị chi thi giã, quản giả lễ nghĩa chi thỉ giã") [23, 321].
Chữ "thi" ở đây tức là cái gốc, người quân tử chế ra lễ nghĩa để làm cho trên
có vua, có thầy, dưới có cha, có con, lập thành cái gốc lớn của thiên hạ. Nếu
không có cái gốc lớn ấy thì thành ra loạn. Nhưng chúng ta biết rằng nguồn
gốc thật sự của Lễ là do sự qui định của điều kiện kinh tế - xã hội, vì thế Tuân
Tử mới nói: "Tiên vương ghét cái loạn, cho nên chế lễ nghĩa để phân ra trật
tự" [23, 321]. Quan điểm về nguồn gốc của lễ của ông không có cái lương tri,
lương năng như quan niệm của Mạnh Tử, thành thử không được coi là phái
chính truyền, nhưng dựa trên quan điểm của ông, quan niệm về Lễ của Nho
gia ngày càng được phát triển đầy đủ hơn. Thế mới biết, trải qua hàng nghìn
năm lịch sử, các xã hội theo Nho gia đã giữ được sự ổn định theo gia đình và
trật tự ngoài xã hội, củng cố được mối quan hệ cương thường của Nho gia
chính là đã sống theo những nguyên tắc của Lễ.
Cũng như các nhà Nho trước ông, Tuân Tử không đặt Nghĩa và Lợi
trong quan hệ đối lập cực đoan mà ông còn bàn về Nhân Nghĩa trong sự thống
nhất với Lợi. Ông cho rằng Nghĩa và Lợi thì ai cũng muốn, tuy Lợi là cái
không thể bỏ đi nhưng người quân tử biết phân biệt cái khinh, cái trọng và
cũng chỉ khác tiểu nhân ở chỗ Nghĩa có thắng được Lợi không, như ông nói:
"Thích lợi, ghét hại thì quân tử, tiểu nhân như nhau, nhưng cái đạo cái lợi thì
quân tử khác tiểu nhân" ("Hiếu lợi ố hại thi quân tử tiểu nhân chi sở đồng dã;
nhược kỳ sở dĩ cầu chi chi đạo tắc dĩ hĩ") [8, 51].
57
Từ đó, ông khuyên người quân tử phải "nắm vững cái nghĩa": "làm việc
mà vì lợi, tranh hoá vật, tiền tài. Chỉ thấy cái lợi thôi, là cái dũng của con
buôn, đạo tặc. Chỉ theo cái nghĩa, không hướng về quyền, không ngó tới lợi,
trọng sự chết mà nắm vững cái nghĩa, không loạn đó là cái (đủ) của bậc sỹ,
quân tử" ("Vi sự lợi, tranh hoá tài, duy lợi chi kiến, thị cố đạo chi dũng dã.
Nghĩa chi sở tại, bất khuynh vu quyền, bất cố kỳ lợi, trọng tử chi nghĩa nhiêu
thị sĩ quân tử, chi dũng dã") [8, 51].
Theo ông, người quân tử biết phân biệt cái khinh, cái trọng nên hành
động bao giờ cũng hợp với đạo lý: "Nghĩa dữ lợi giả, nhân chi sở lưỡng hữu
giá" [23, 317] tức là nghĩa và lợi là người ta có cả vậy. Tuân Tử cho rằng
thánh nhân như Nghiêu, Thuấn cũng không thể làm cho dân mình mất cái
lòng thích lợi được, chỉ có thể khiến cho lòng thích lợi của dân không thắng
được lòng thích nghĩa mà thôi. Hễ người ta biết khiến lòng hiếu nghĩa thắng
được lòng dục lợi thì thành ra nước trị, mà để lòng dục lợi chiến thắng được
lòng hiếu nghĩa thì thành ra dở, nước sẽ đại loạn. "Nghĩa thắng được lợi là đời
trị, lợi đè được nghĩa là đời loạn" ("Nghĩa thắng lợi giả vi trị thế, lợi khắc
nghĩa giả vi loạn thế") [23, 317], cho nên "Nghĩa trước mà lợi sau là vinh, lợi
trước mà nghĩa sau là nhục" ("Tiên nghĩa nhi hậu lợi giả vinh, tiên lợi nhi hậu
nghĩa giả nhục") [23, 317].
Như vậy, Tuân Tử không hề coi thường Lợi nhưng trọng Nghĩa hơn
Lợi, Nghĩa trước Lợi sau chứ không như Mạnh Tử "chỉ nói nhân nghĩa mà
thôi". Cái lợi mà do cái nghĩa tạo ra là cái lợi chính đáng, không việc gì phải
bỏ, miễn là lúc nào cũng phải theo như lời Khổng Tử đã dạy: "Kiến lợi tư
nghĩa" tức là thấy điều lợi nghĩ đến điều nghĩa là được.
Tóm lại, tư tưởng của Nho gia Tiên Tần về vấn đề kinh tế đã phản ánh
tư tưởng của giai cấp quí tộc chủ nô, một giai cấp đang trên bước đường suy
tàn, một lực lượng bảo thủ đối với sự phát triển của lịch sử. Học thuyết Nho
58
gia nói chung và quan điểm về kinh tế nói riêng từ Khổng Tử, qua Mạnh Tử
đến Tuân Tử đã tương đối định hình.
Khổng Tử lấy "Nhân" để dạy người, và đây là hạt nhân trong học
thuyết chính trị - xã hội của ông. Trong quan niệm về Nghĩa và Lợi, ông cho
rằng Lợi là nhu cầu của cá nhân, của xã hội, còn Nghĩa là cái hợp lẽ phải, là
đạo lý, là trách nhiệm của cá nhân đối với người khác và đối với công việc
chung.
Đến Mạnh Tử, ông đứng trên lập trường của giai cấp quí tộc chủ nô
đang trên con đường chuyển hoá lên giai cấp địa chủ phong kiến. Giống như
Khổng Tử, ông cho rằng Lợi là nhu cầu của cá nhân, còn Nghĩa luôn gắn liền
với hành vi đạo đức cá nhân, ông rất đề cao Nghĩa. Theo ông, người nào giữ
được cái tâm sáng suốt thì biết "Nhân" là nhà rộng ta ở, "Nghĩa" là đường lớn
ta đi, và sẽ không bao giờ bị cái Lợi, cái dục làm cho lầm đường, lạc lối. Ông
cho rằng nếu ai cũng nghĩ đến lợi mà quên cả nhân nghĩa thì thành ra ai cũng
ham thích cái lợi riêng của mình, rồi chỉ tìm cách làm hại lẫn nhau, và từ đó
xã hội sẽ mất ổn định, thiên hạ rơi vào cảnh lầm than. Rút cục, cái tư lợi ấy
chính là cái hại chứ không phải thật là cái lợi, còn nhân nghĩa tuy không nói
đến lợi nhưng kỳ thực lại là cái lợi rất lớn. Nếu mọi người trong xã hội ai
cũng đem lòng lo cho cái lợi chung của tập thể trước cái lợi riêng của mình thì
trên dưới hoà thuận, thiên hạ yên trị và mọi người sẽ được hưởng hạnh phúc.
Cái lợi chung ấy mới thật là lợi, vì vậy những người làm vua không có quyền
lấy thiên hạ làm của riêng của mình mà có thể tuỳ tiện gây ra chiến tranh. Có
thể nói, tư tưởng của Mạnh Tử về Nghĩa và Lợi đã phản ánh được tình hình
chính trị - xã hội của giai đoạn chuyển tiếp từ thời Xuân Thu sang thời Chiến
Quốc.
Sang đến thời Chiến Quốc có Tuân Tử, một cự tử của Nho gia, ông vẫn
theo tôn chỉ của Nho gia lấy nhân nghĩa, trung tín làm cơ sở cho sự giáo hoá.
59
Tuy vậy, trái với Mạnh Tử "chỉ nói điều nhân nghĩa", Tuân Tử không đặt
Nghĩa và Lợi trong quan hệ đối lập cực đoan mà còn cho rằng, Nghĩa và Lợi
đều không thể thiếu trong bản thân mỗi người và trong xã hội. Tuân Tử không
bỏ hết điều lợi, nhưng ông cho rằng cái Lợi do cái Nghĩa mà ra là cái lợi lớn,
chính đáng và không việc gì phải bỏ. Thêm nữa, ông cho rằng nghĩa thắng lợi
thì nước trị, còn trái lại, lợi thắng nghĩa thì nước sẽ loạn. Như vậy, đối với
Tuân Tử, Lợi là nhu cầu của mỗi cá nhân, còn Nghĩa đã phát triển lên hẳn một
bước, nó không chỉ là trách nhiệm của cá nhân với người khác, với công việc
chung, mà Nghĩa chính là lợi ích của cộng đồng xã hội.
2.2. Những vấn đề đạo đức có tính định hướng cho hoạt động kinh
tế của Nho gia Tiên Tần và ý nghĩa của nó trong kinh tế hiện đại
2.2.1. ‘’Kiến lợi tư nghĩa” - Một định hướng để giải quyết vấn đề kinh
tế
Mối quan hệ giữa “nghĩa” và “lợi” không chỉ là vấn đề mà cá nhân con
người cần phải xử lý tốt, mà còn là vấn đề của một doanh nghiệp, một công ty
cần phải xử lý trong quá trình quản lý. “Kiến lợi tư nghĩa” hay là “kiến lợi
vong nghĩa”? Đây thật sự là một trong những quan niệm giá trị quan trọng
nhất trong thực tế từ xưa đến nay.
2.2.1.1. ‘’Kiến lợi tư nghĩa” - Quan niệm quản lý nghĩa lợi hợp nhất của
Nho gia Tiên Tần.
Quan hệ giữa nghĩa và lợi, trên thực tế là mối quan hệ giữa đạo đức và
lợi ích. Lợi ích và đạo đức là một thể thống nhất biện chứng, nếu đem đối lập
nghĩa và lợi là sai lầm và sẽ gây nhiều tác hại. Nếu chỉ chú trọng đến lợi mà
không quan tâm đến nghĩa là không đúng cũng như chỉ chú trọng đến nghĩa,
coi thường lợi là sai lầm. Con người sinh ra có cả hai mặt đạo đức và nhu cầu
vật chất - “nghĩa” và “lợi”, đó đều là những điều kiện cần thiết cơ bản cho sự
sinh tồn của con người và xã hội. Chỉ có “nghĩa” mà không có “lợi” thì tức là
60
con người và xã hội đã mất đi nền tảng sinh tồn cơ bản; ngược lại, nếu chỉ nói
đến “lợi” mà không quan tâm đến nghĩa thì sẽ nảy sinh tranh đoạt, xung đột,
thậm chí là tàn hại lẫn nhau, con người và xã hội sẽ không thể tồn tại tốt đẹp
được. Vì vậy, “kiến lợi tư nghĩa” (đứng trước điều lợi phải nghĩ cách đạt được
thông qua các phương pháp hợp đạo đức), “nghĩa lợi hợp nhất” (kết hợp
thống nhất giữa nghĩa và lợi) chính là nền tảng cho sự sinh tồn và phát triển
tốt đẹp của xã hội loài người và cũng chính là điều mà Khổng Tử rất quan
tâm.
“Kiến lợi tư nghĩa”, “nghĩa lợi hợp nhất” chính là chân lý trong quan
điểm nghĩa lợi của Khổng Tử. Khi trả lời làm thế nào mới có thể trở thành
một con người hoàn thiện, Khổng Phu Tử đã nói: “Kiến lợi tư nghĩa, kiến
nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả vi thành nhân
hĩ” – tức là thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa, thấy nguy thì không tiếc tính mạng, đã
hứa hẹn cho dù có lâu ngày cũng không được quên, được như thế có thể gọi là
người nhân [30, 452]. Theo ông, “kiến lợi tư nghĩa” chính là một trong những
yêu cầu cơ bản để tạo nên một người “nhân” - tức là một người có đạo đức
hoàn thiện. Đối với ông, đó là một trong chín điều mà người quản lý cần phải
để ý xem xét: “Quân tử hữu cửu tư: thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo
tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phẫn tư nạn, kiến đắc tư
nghĩa” (Người quản lý có chín điều cần phải suy nghĩ: nhìn phải sáng suốt,
nghe phải rõ ràng, sắc mặt ôn hoà, dung mạo cung kính, nói cho thành thật,
làm cho kính cẩn, có điều gì nghi hoặc thì phải hỏi, khi tức giận phải nghĩ tới
hậu quả sau đó, thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa) [30, 507]. “Đắc” cũng chính là
chỉ phần lợi ích cá nhân, những người quản lý trước tiên phải suy xét đến việc
lợi ích này có phù hợp với những chuẩn mực đạo đức đã được xã hội công
nhận hay không.
Trong hoạt động quản lý, “kiến lợi tư nghĩa” được coi là nguyên tắc chỉ
đạo của người quản lý. Trong “Khổng Tử gia ngữ - Khuất tiến giải” có ghi
61
câu chuyện về học trò Mẫn Tử Khiên của Khổng Tử như sau: Mẫn Tử Khiên
làm quan huyện Đan Phụ nước Lỗ. Một lần, nước Tề chuẩn bị sang tấn công
nước Lỗ mà Đan Phụ là một vùng mà quân Tề sẽ phải đi qua để tiến vào đánh
chiếm nước Lỗ. Thế là các phụ lão của huyện Đan Phụ liền họp nhau lại và
đến thỉnh cầu Mẫn Tử Khiên, xin cho dân được tự do thu hoạch lúa mạch đã
chín, kể cả lúa mà họ không trồng nếu có thể thì cứ thu hoạch cho hết. Nhưng
mặc dù các phụ lão đến xin nhiều lần nhưng Mẫn Tử Khiên vẫn không đồng
ý. Không lâu sau, quân xâm lược kéo đến cướp hết số lúa mạch chín đó. Đại
phu Quý Tôn Thị nước Lỗ nghe nói có chuyện này liền sai người đến chỉ trích
Mẫn Tử Khiên là không nghĩ đến trăm họ. Tử Khiên nghiêm túc nói: “Năm
nay không thu được lúa thì năm sau vẫn có thể trồng lại, nhưng nếu để cho
những người không trồng thừa thời cơ loạn lạc mà thu lương thực thì sẽ khiến
cho trăm họ có ý nghĩ mong muốn địch đến chiếm đánh để được thu hoạch
nhiều lúa hơn. Lúa của huyện Đan Phụ có thu được hay không, không có ảnh
hưởng mấy đến sự mạnh yếu của nước Lỗ, còn nếu khiến trăm họ có tâm lý
hám lợi thì phong khí xã hội sẽ bị hỏng đi và đem lại những tổn hại đến mấy
đời cũng không thể khôi phục lại được cho nước Lỗ. Cách giải quyết của Mẫn
tử Khiên ở đây tuy có chút cổ hủ, lạc hậu nhưng ở đây đã nói lên tầm quan
trọng của việc nhìn nhận đúng đắn mối quan hệ giá trị giữa “nghĩa” và “lợi”
đối với việc bảo vệ sự yên ổn lâu dài của quốc gia. Đó cũng chính là một biểu
hiện cụ thể của tư tưởng “kiến lợi tư nghĩa” của Khổng Tử.
2.2.1.2. Ý nghĩa của quan niệm “kiến lợi tư nghĩa” đối với quản lý kinh
tế hiện đại
Quan niệm “kiến lợi tư nghĩa”, “nghĩa lợi hợp nhất” giúp con người xử
lý được chính xác quan hệ giữa đạo đức và lợi ích, xử lý tốt vấn đề quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của người khác, cá nhân và tập thể, tập thể và
xã hội, đoàn thể và đoàn thể,... tức là những mối quan hệ giữa cái riêng - “tư
lợi” và cái chung - “công lợi”. Việc xử lý chính xác các mối quan hệ trong nội
62
bộ doanh nghiệp chính là nền tảng thúc tiến sự hài hoà, đoàn kết trong nội bộ
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất và lưu thông hàng hoá, không thể
không quan tâm đến lợi nhuận. Làm doanh nghiệp là phải tìm cách để kiếm
được lợi nhuận, nếu không thì doanh nghiệp không thể tồn tại, đất nước khó
có thể giàu mạnh, cuộc sống nhân dân không được nâng cao. Tuy nhiên, việc
giành được lợi nhuận của doanh nghiệp phải thông qua các biện pháp chính
đáng và hợp pháp, nếu không sẽ là giành lợi bất nghĩa. Vấn đề ở đây chính là
vấn đề quan hệ giữa “nghĩa” và “lợi”. Doanh nghiệp cần phải theo đuổi lợi
nhuận, nhưng cũng phải có biện pháp chính đáng, hợp đạo đức, thống nhất
được giữa “nghĩa” và “lợi”, chính là “kiến lợi tư nghĩa”, “đắc lợi tư nghĩa”.
Dù là doanh nghiệp hay cá nhân cũng không nên “kiến lợi vong nghĩa” (thấy
lợi mà quên nghĩa). Vì vậy, thống nhất giữa “nghĩa” và “lợi” cũng chính là
một nguyên tắc cơ bản trong số các nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp.
Một mặt doanh nghiệp phải chú trọng đến lợi, mặt khác cũng phải xử lý
tốt mối quan hệ nghĩa - lợi trong nội bộ doanh nghiệp. Lợi nhuận doanh
nghiệp là giá trị do người quản lý cùng công nhân viên sáng tạo. Vì vậy, việc
phân phối lợi ích cũng phải phù hợp với “nghĩa”, phải căn cứ vào lao động mà
mỗi người bỏ ra và những cống hiến của họ dành cho doanh nghiệp. Hai là,
những nhân viên quản lý cấp cao chỉ nên hưởng phần mà họ nên được hưởng,
không được vượt quá quy định. Nếu chiếm hữu nhiều hoặc tham ô tài sản là
không phù hợp với nghĩa. Từ đó, làm mất đi sự tín nhiệm từ phía nhân viên,
khiến cho trong nội bộ doanh nghiệp mất đi tính tích cực và sức mạnh đoàn
kết. Ba là, các thành viên của doanh nghiệp nên xây dựng giá trị quan “nghĩa
nhi hậu thủ”, “nghĩa dĩ thủ lợi”. Lợi ích vật chất là nền tảng vật chất cho sự
sinh tồn của mỗi cá nhân, nhưng mục tiêu làm việc không nên chỉ vì lợi ích
của bản thân. Chỉ có cống hiến cho xã hội, sáng tạo giá trị cho mọi người thì
bản thân mới thật sự trở nên có giá trị, và khi đã thực hiện giá trị của bản thân
63
thì nhất định sẽ được sự báo đáp từ xã hội - đó chính là lợi ích cao nhất mà cá
nhân có thể đạt đến. Hãy làm việc trước sau đó mới nói đến việc hưởng thụ,
trước tiên hãy làm việc, bỏ công sức lao động để cống hiến, sau đó mới tính
đến chuyện thu nhận lại, đây chính gọi là “nghĩa nhi hậu thủ”.
Quan điểm “kiến lợi tư nghĩa”, “nghĩa lợi hợp nhất” còn giúp xử lý tốt
quan hệ giữa doanh nghiệp và xã hội, là xuất phát điểm để doanh nghiệp nhận
được những hồi đáp hậu hĩnh từ xã hội. Bất cứ doanh nghiệp nào khi xử lý
mối quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp và xã hội đều nên coi trọng “làm lợi
cho người khác” làm điểm xuất phát - đó cũng chính là “lợi” xuất phát từ
“nghĩa”. Chỉ có như vậy thì mới có thể thật sự làm lợi cho bản thân. Các quan
hệ lợi ích trên thế giới rất rắc rối, phức tạp, lợi ích giữa con người với con
người, lợi ích giữa doanh nghiệp và xã hội, doanh nghiệp và quốc gia, doanh
nghiệp và doanh nghiệp là một chuỗi mắt xích nối với nhau liên tiếp. Chỉ khi
bạn đem lại lợi ích cho người khác, cho xã hội thì bạn mới có thể có được lợi
ích thực sự. Cống hiến càng nhiều thì lợi ích thu lại được sẽ càng lớn, cống
hiến và thu nhập luôn tỉ lệ thuận với nhau, đây chính là “nghĩa nhi hậu thủ”.
Ngoài mối quan hệ nghĩa - lợi với xã hội và công chúng ra, doanh
nghiệp còn có quan hệ với quốc gia. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đều
có nghĩa vụ phải nộp thuế cho quốc gia. Nộp thuế đúng thời hạn, đúng quy
định là phù hợp với “nghĩa”, trốn thuế là hành vi bất nghĩa. Nộp thuế là nghĩa
vụ của doanh nghiệp và cũng chính là sự nghiệp lợi dân ích nước, đây là việc
cần phải làm của mỗi một doanh nghiệp.
Mặt khác, việc xử lý chính xác cạnh tranh lợi ích giữa các doanh
nghiệp với nhau là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng một thị
trường tốt đẹp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp tất nhiên sẽ tồn tại cạnh tranh. Nhưng quan hệ cạnh tranh này
không phải là quan hệ “tôi sống thì anh phải chết” mà nó là quan hệ thúc đẩy
nhau cùng có lợi. Các doanh nghiệp phải thống nhất mục tiêu: đáp ứng các
64
nhu cầu con đường vật chất, văn hoá ngày càng cao, vì sự phát triển giàu
mạnh của đất nước. Mục tiêu của cạnh tranh lợi ích không phải là bên này
đánh đổ bên kia, mà là thông qua cạnh tranh để thúc đẩy lẫn nhau, cùng nâng
cao chất lượng sản phẩm, cải tiến và phát huy kỹ thuật mới, khai thác sản
phẩm mới và tiến tới sự phát triển chung.
2.2.2. “Hoà” - Một cơ sở để giải quyết các mối quan hệ kinh tế
Xét từ góc độ bản chất quản lý, một số nhà quản lý học cho rằng quản
lý chính là sự phối hợp hài hoà. Doanh nghiệp là một cơ cấu hữu cơ đa tầng
thứ, đa nhân tố, đa chức năng với con người là chủ thể. Chỉ có điều chỉnh,
phối hợp tốt các mối quan hệ con người và tổ chức trong ngoài doanh nghiệp
thì mới bảo đảm được thành công của doanh nghiệp. Nhà quản lý học người
Pháp Henry Fayol đã coi “phối hợp, điều phối chính là sự kết nối, liên kết,
điều hoà mọi hoạt động và năng lượng của doanh nghiệp”. Còn Gulick, nhà
quản lý học người Mỹ cũng coi “phối hợp” là một trong bảy chức năng quản
lý trong học thuyết quản lý của ông, cho rằng: phối hợp là làm cho công việc
giữa các bộ phận trong doanh nghiệp được trở nên hài hoà, nhất trí, cùng thực
hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp”. Nhà quản lý học người Mỹ, Koonzt
lại tiến thêm một bước coi “phối hợp là bản chất của quản lý”.
Các nhà Nho của Trung Quốc cổ đại sớm đã chú ý đến tác dụng của
chữ “hoà” trong quản lý, tức là thông qua việc phối hợp, điều hoà các nhân tố
mâu thuẫn trong quản lý để đạt đến trạng thái quản lý hoà hợp tốt nhất.
2.2.2.1. Tư tưởng “Hoà vi quý” của Nho gia Tiên Tần
Trong “Luận ngữ - Học nhi”, Khổng Tử đã đề xướng một cách rõ ràng:
“Lễ chi dụng, hoà vi quý, tiên vương chi đạo, tư vi mỹ, tiểu đại do chi” (Công
dụng của lễ nghi quý nhất là để điều hoà. Đạo của người quản lý do đó mà
được hoàn mỹ, việc lớn việc nhỏ đều theo đó mà trở nên thuận lợi, tốt đẹp)
[30, 212]. Theo đây, “hoà” là tác dụng quý giá nhất của “lễ”, nếu tách rời khỏi
65
lễ thì sẽ khó có thể lý giải và nắm bắt được hết hàm nghĩa của “hoà” được
Khổng Tử đề cập đến ở đây.
“Lễ” mà Khổng Tử đưa ra, mục đích chủ yếu là để điều tiết và cân đối
các mối quan hệ giữa con người với nhau, khiến cho các mối quan hệ đan
chéo phức tạp trong xã hội có thể tồn tại một cách hài hoà. “Hoà” trong “hoà
vi quý” chính là sự hài hoà được tạo ra do tác dụng của “lễ”. Theo Khổng Tử,
mọi người trong xã hội ai cũng có phận vị của người đó, không được sai lệch,
bằng không sẽ tạo ra hỗn loạn. Ông nói: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
tử”. (Vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề tôi, cha phải ra cha, con phải ra con).
Nếu có thể làm cho mọi người ai ở đúng phận vị của người đó, làm những
việc mình nên làm thì sẽ tạo ra sự hài hoà, có trật tự - đó gọi là “hoà”.
Khổng Tử rất coi trọng tác dụng của “hòa” trong quản lý, nhấn mạnh
tầm quan trọng của sự hoà hợp trong quan hệ con người, cho rằng “quản lý
người khác” cũng giống như “quản lý bản thân mình”, chỉ có đạt được đến sự
hoà hợp nhất trí trên dưới, trong ngoài thì mới có thể đạt đến trạng thái hài
hoà tốt đẹp nhất trong quản lý.
Về sự hoà hợp giữa người quản lý và người bị quản lý, trong “Trào Thi
ngoại truyện” có ghi lại câu chuyện như sau: Nhà Nhan Thị có ba người đánh
xe ngựa, mỗi người có một phương pháp điều khiển ngựa khác nhau. Dưới sự
điều khiển của Nhan Vô Phụ, ngựa dù biết trên xe có hàng hoá nhưng vẫn
cảm thấy nhẹ nhàng, biết trên xe có người nhưng vẫn cảm thấy thoải mái, do
đó càng chạy càng hăng. Nếu như con ngựa đó biết nói, nó sẽ nói rằng: “Hôm
nay chạy thật thích”. Dưới sự điều khiển của Nhan Luân, ngựa biết rằng trên
xe có chở hàng hoá nhưng cảm thấy bình thường, biết trên xe có người nhưng
cảm thấy cần phải kính trọng họ. Nếu con ngựa này biết nói, nó sẽ nói: “Chạy
mau lên một chút, có người đang thúc giục mình”. Còn khi Nhan Di điều
khiển ngựa, ngựa biết trên xe có hàng hoá thì cảm thấy nặng nhọc, biết trên xe
có người thì run sợ. Nếu con ngựa này biết nói thì nó sẽ nói rằng: “Chạy mau,
66
chạy mau, nếu không chủ nhân sẽ giết chết mình”. Trong ba cách điều khiển
này, Khổng Tử tán thưởng nhất cách của Nhan Vô Phụ, ông nói: “Hay thay
cách đánh xe của Nhan Vô Phụ”, ông chỉ ra: “Đánh xe ngựa cũng cần phải có
phương pháp cũng như cai quản dân phải có đạo. Phương pháp mà đúng thì
ngựa sẽ hợp tác và cảm thấy thoải mái; đạt được đạo thì dân sẽ an cư lạc
nghiệp mà quy tụ về”. Khổng Tử ở đây đã đem so sánh việc điều khiển ngựa
với việc quản lý. Tuy sự so sánh này có phần không được thoả đáng lắm,
nhưng câu chuyện cũng gợi mở nhiều ý nghĩa. Nếu phương pháp thích hợp thì
sẽ tạo ra sự phối hợp ăn ý giữa người đánh xe và ngựa, cả hai bên đều thoải
mái trong công việc. Cũng như vậy, nếu có được phương pháp quản lý thích
hợp thì người quản lý và người bị quản lý sẽ trở nên hoà hợp, sẽ tạo được một
môi trường sống và làm việc đoàn kết, tốt đẹp, thu hút được mọi người đến
với mình. Khi đó, tổ chức, doanh nghiệp sẽ ngày càng trở nên thịnh vượng.
Mặt khác, về sự phối hợp giữa người quản lý và nhân viên quản lý các
cấp, nguyên tắc mà Khổng Tử đề ra là: “Quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân
đồng nhi bất hoà” [30, 436] - tức là người quản lý cần phải biết điều hoà, tiếp
thu ý kiến của người khác nhưng không được nhất nhất nghe theo, chỉ có kẻ
tiểu nhân mới nhất nghe theo ý kiến của người khác mà không thể tự điều hoà
được. “Hoà” ở đây nói đến sự hoà hợp trên cơ sở thống nhất các mặt đối lập;
còn “đồng” là sự a dua theo một cách mù quáng. Điều mà Khổng Tử đề
xướng là “hoà” và phản đối “đồng”.
Có một câu chuyện khác trong “Tuân Tử - Tử đạo” nói về tư tưởng
“hoà nhi bất đồng” này của Khổng Tử: Một lần, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử:
“Con cái nghe theo lời cha, đó là hiếu phải không? Thần tử nghe lời vua, đó là
trung phải không?”. Ông ta hỏi ba lần nhưng Khổng Tử đều không trả lời. Sau
chuyện này, Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Con cái nghe theo lời cha, đương nhiên
là hiếu rồi. Thần tử nghe theo lời vua, đương nhiên là trung rồi. Lúc đó tại sao
thầy không trả lời?”. Khổng Tử nói: “Ngươi chưa thật sự hiểu đạo lý rồi.
67
Trước đây, nước lớn có bốn đại thần dám tranh luận thì xã tắc không bị nguy
vong, nước nhỏ có hai vị thần tử dám tranh luận thì tông miếu sẽ không bị
huỷ hoại; người cha mà có con dám tranh luận thì hành vi sẽ không vô lễ, kẻ
sĩ mà có bạn dám tranh luận thì hành vi sẽ không bất nghĩa. Vì vậy, con cái
chỉ theo lời cha thì làm sao có thể là hiếu đây? Thần tử chỉ toàn nghe theo lời
vua, làm sao có thể gọi là trung đây? Phải xem xem phục tùng này ở trong
tình huống nào thì mới có thể coi là hiếu là trung được”. Câu chuyện phần
nào tỏ rõ quan điểm “hoà nhi bất đồng” của Khổng Tử.
Trong “Tả truyện - Chiêu Công năm thứ 20” cũng có ghi lại một đoạn
phân biện rất rõ ràng “hoà” và “đồng” của Yến Anh như sau: “Đạo lý của hoà
thì cũng giống như chế biến món ăn, các loại phụ liệu như tương, dấm,
muối,... thứ nào quá ít thì cho thêm, thứ nào quá nhiều thì bớt đi, như thế khi
ăn vào mới có vị ngon, tâm tình mới thư thái... Âm thanh cũng giống như mùi
vị, nó được tạo thành bởi nhất khí, nhị thể, tam loại, tứ vật, ngũ thanh, lục
luật, thất âm, bát phong, cửu ca; nó là sự điều chỉnh thanh trầm, to nhỏ, nhanh
chậm, buồn vui, mạnh mẽ mềm mại, cao thấp, tiến lui... Người ắt nghe rồi sẽ
có thể khiến cho lòng mình được bình tĩnh lại, tính tình trở nên ôn hoà - đó
chính là tác dụng của hoà” còn “đồng” thì “giống như khi nấu nướng, lấy
nước để chế biến với nước, ai muốn ăn đây? Lại giống như đàn một dây, ai
muốn nghe đây?”. Do vậy “Đạo lý giữa quân thần cần hoà mà không đồng”,
tức là: “khi vua nói là được mà có chỗ không được, ta chỉ ra cái không được
để thành cái được; vua nói không được mà có cái được, ta chỉ ra cái được để
bỏ đi cái không được, vậy thì việc chính sự có thể cân bằng ổn định mà không
phạm vào lễ nghĩa”. Đây chính là sự giải thích một cách cụ thể nguyên tắc
“hoà nhi bất đồng” của Nho gia.
Từ những trình bày trên, ta thấy “đồng” là gia tăng thêm những sự vật
giống nhau, nó che đậy sự khác biệt giữa các sự vật. “Đồng” thể hiện trong
quan hệ giữa con người với con người là hiện tượng vâng dạ, bảo sao nghe
68
vậy, cầu đồng vô nguyên tắc hoặc thông đồng làm bậy. Trong quan hệ giữa
cấp trên với cấp dưới, nó thể hiện sự phục tùng tuyệt đối của cấp dưới đối với
cấp trên, từ đó tạo ra cách làm “trên bảo sao người nghe vậy”, một cách làm
việc thiếu sự linh hoạt, sáng tạo. Còn “hoà” là sự phối hợp hỗ trợ của những
sự vật khác nhau, là sự thống nhất trong đa dạng. Nó thừa nhận mâu thuẫn và
là sự điều hoà thống nhất của các mâu thuẫn. Trong mối quan hệ con người,
nó được thể hiện ở sự chung sống hoà thuận, có nguyên tắc. Trong quan hệ
cấp trên với cấp dưới, đó là sự bổ sung lẫn nhau cùng hoàn thiện, tạo ra một
môi trường hài hoà, có sức sống để cá nhân có thể phát huy khả năng sáng tạo
của mình.
Qua đây ta thấy, nếu coi “hoà vi quý” của Nho gia là đề xướng ôn hoà
vô nguyên tắc, không có tính đấu tranh thì không đúng với sự thực, chưa thấy
được nguyên tắc “hoà nhi bất đồng” - một nguyên tắc quan trọng trong quan
hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong lý luận quản lý của Khổng Tử và các nhà
Nho Tiên Tần nói chung.
Tóm lại, trên một phương diện nào đó, Nho gia Tiên Tần đã coi hoạt
động quản lý là một quá trình phối hợp, điều hoà quan hệ giữa người quản lý
và người bị quản lý, giữa người quản lý cấp cao và người quản lý các cấp. Tư
tưởng “hoà vi quý” đã đề xuất ra một biện pháp quản lý hữu dụng và được các
nhà doanh nghiệp hiện nay học tập, tiếp thu một cách rộng rãi.
2.2.2.2. Ý nghĩa của “Hoà vi quý” đối với quản lý kinh tế hiện đại
Trong doanh nghiệp hiện đại luôn tồn tại các mối quan hệ rất phức tạp.
Do bản thân mỗi cá nhân trong đó là khác nhau về tuổi tác, sự hiểu biết, kinh
nghiệm, quan niệm giá trị, cá tính, sở thích,.. thêm vào đó là sự phân công
công việc, vị trí vai trò của họ không giống nhau. Do đó tất nhiên sẽ tạo nên
mâu thuẫn và xung đột giữa họ. Điều này rõ ràng là rất bất lợi với việc hình
thành sức mạnh tổng thể của doanh nghiệp, thậm chí còn gây hại. Tư tưởng
69
“hoà vi quý” của các nhà nho Tiên Tần là phương pháp điều chỉnh phối hợp
hài hoà các mối quan hệ sẽ rất có ý nghĩa trên phương diện quản lý kinh tế.
“Hoà” có thể làm tiêu tan căng thẳng và xung đột giữa các cá nhân
thông qua sự điều chỉnh phối hợp hài hoà công việc và lợi ích của các cá
nhân. Mặt khác, các thành viên của doanh nghiệp qua hiểu biết, thông cảm lẫn
nhau mà trở nên đồng tâm nhất trí, chung sức hợp tác với nhau. Khi đó, quan
hệ giữa họ sẽ là quan hệ tôn trọng lẫn nhau vì mục đích chung, song giá trị
của mỗi người không hoà lẫn với người khác. Đây cũng chính là đòi hỏi của
Khổng Tử: “Quân tử quần mà không đảng”, tức là có thể tập hợp lại với nhau
nhưng không câu kết đảng phái, mưu lợi riêng, chú trọng đến đoàn kết mà
không câu kết với nhau. Với tư tưởng “hoà vi quý” của Khổng Tử, doanh
nghiệp sẽ đạt đến được sự lưu thông hoà hợp rộng rãi, song sự qua lại tiếp xúc
đó phải vượt qua những tư lợi cá nhân hoặc lợi ích bè phái, đạt đến sự tôn
trọng, tin tưởng lẫn nhau, hình thành sự hài hoà giữa con người với con
người, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một cơ cấu phân công phức tạp, chuyên môn hoá cao.
Mục đích của sự phân công là ở chỗ nâng cao chức năng riêng của bộ phận và
hiệu quả sản xuất. Nhưng các bộ phận khi hoạt động không thể tiến hành hoạt
động độc lập riêng rẽ. Do đó, phân công tất nhiên đòi hỏi phải có hợp tác.
Phân công càng tỉ mỉ thì càng đòi hỏi sự hài hoà cao trong hợp tác.
Xét từ một phương diện khác, doanh nghiệp là một phần trong toàn hệ
thống lớn của môi trường, hoàn cảnh bên ngoài. Sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp chịu một phần chế ước từ bên ngoài. Doanh nghiệp không thể
tiến hành điều khiển và cải tạo tổng thể hoàn cảnh, môi trường bên ngoài. Do
đó muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải thích ứng được với nó. Sự
thích ứng này, thực chất là làm cho môi trường bên ngoài, điều kiện của
doanh nghiệp và mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp đạt đến sự hài hoà,
cân đối. Ví dụ: Đối với khách hàng, doanh nghiệp phải thoả mãn nhu cầu của
70
họ, khai thác các sản phẩm thích hợp, giá thành hợp lý để có được sự hài lòng
của khách hàng, chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, trong mối quan hệ với các
nhà cung ứng vốn, nguyên vật liệu hoặc máy móc, cũng phải đảm bảo sự phối
hợp nhịp nhàng, không để xảy ra tình trạng thiếu cân đối làm ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp còn phải
thông qua các hoạt động quan hệ với bên ngoài để điều hoà mối quan hệ giữa
doanh nghiệp với chính quyền, báo chí truyền thông, các đoàn thể, đơn vị,
doanh nghiệp khác,... nhằm xây dựng những hình ảnh tốt đẹp của mình trong
đông đảo quần chúng xã hội, nâng cao tiếng tăm và uy tín, giành được sự ủng
hộ rộng rãi của họ, tạo một không gian phát triển tốt đẹp cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn là sự trao đổi
vật chất với môi trường bên ngoài, do đó cũng cần phải chú ý tạo sự hài hoà
với môi trường đó bằng cách bảo vệ môi trường, góp phần tạo sự cân bằng
sinh thái, sự hoà hợp giữa con người với thiên nhiên.
2.2.3. Thành tín của Nho gia - Một nguyên tắc để củng cố các mối
quan hệ kinh tế
Từ xưa đến nay, “thành tín” luôn là một phạm trù đạo đức quan trọng,
một trong số những chuẩn tắc đạo đức cơ bản nhất trong quan hệ con người.
Cho đến nay, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị của mình trong xã hội hiện đại.
Khi xét trên phương diện quản lý kinh tế, vận hành thị trường thì nó lại càng
có giá trị hơn. Đó chính là chuẩn tắc hành vi rất quan trọng dùng để xử lý
quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và doanh nghiệp, doanh nghiệp và
doanh nghiệp, doanh nghiệp và xã hội. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay, “thành tín” có thể được xem như một trong những
yếu tố nền tảng có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.2.3.1. Nho gia Tiên Tần bàn về chữ “tín” Thành tín là khái niệm quan trọng trong tư tưởng quản lý kinh tế của
các nhà nho Tiên Tần và cũng là một phần không thể thiếu cấu thành nên tư
71
tưởng quản lý đức trị của họ. Trong “Luận ngữ”, tuy Khổng Tử chưa nói rõ
đến khái niệm “thành” nhưng những nhấn mạnh của ông về “tín” trên thực tế
chính đã thể hiện hàm nghĩa cơ bản của “thành”. Trọng tâm việc giáo dục của
ông cũng luôn xoay quanh bốn phương diện: Văn học, đức hạnh, trung thực,
tín thật - “Tử dĩ tứ giáo: văn, hạnh, trung, tín” [30, 333]. Qua đây có thể thấy
được tầm quan trọng của vấn đề thành tín trong tư tưởng của Khổng Tử.
Theo Khổng Tử, thành tín trước tiên là vấn đề giữ chữ tín trong việc
quản lý, cai trị. “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín” [30, 210] - nếu
người quản lý biết giữ chữ tín thì mọi người cũng sẽ cẩn thận trong hành động
và công việc, không nghĩ đến cách che giấu, lừa gạt những người có quyền.
Đó chính là: “Thượng hiếu tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình” (Người trên
mà ham điều tín thì dân không dám không thành thực) [30, 431]; “Quân tử tín
nhi hậu lao kỳ dân” (Người quân tử phải làm cho dân tin rồi sau đó mới sai
khiến dân làm việc khó nhọc được) [30, 547]. Vì vậy, là người quản lý thì
nhất định phải giữ chữ tín với mọi người, phải khiến cho mọi người tín
nhiệm, tin tưởng, còn nếu không thì mọi người sẽ không theo - “Bất tín dân
bất tòng chi” (Tả truyện - Chiêu Công năm thứ 7).
Xuất phát từ góc độ giao lưu bè bạn, Khổng Tử nhấn mạnh phải biết
giữ chữ tín trong lời nói hành động. “Dữ bằng hữu giao ngôn nhi hữu tín” [30,
210] - “Bằng hữu” là chỉ loại hình quan hệ mang tính xã giao ngoài các mối
quan hệ đẳng cấp chính trị (quân thần) và quan hệ huyết thống ruột thịt (cha
con, anh em, chồng vợ). Theo Khổng Tử, nguyên tắc cơ bản để xử lý mối
quan hệ xã hội này chính là phải “ngôn nhi hữu tín” tức là nói lời phải giữ lấy
lời. Ông nói: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã” (Nếu một người không biết
giữ chữ tín, vậy thì căn bản không thể đứng vững được trong xã hội) [30,
232]. Ngược lại, “tín tắc nhân nhậm yên” (Nếu biết giữ chữ tín thì sẽ có được
sự ủng hộ và tín nhiệm của mọi người) [30, 516], từ đó làm việc gì cũng sẽ
được thuận lợi, thành công. Vì vậy, Khổng Tử coi “tín” là một trong những
72
phẩm chất cần thiết để tạo nên một doanh nghiệp hoàn thiện, dù ở trong
những tình huống khó khăn thì vẫn nên coi trọng chữ tín, giữ lấy sự tín nhiệm
của mọi người: “Thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa, thấy nguy thì không tiếc tính
mệnh, những lời nói ước hẹn lúc bình nhật cho dù lâu ngày cũng không quên,
được như thế có thể thành người hoàn thiện rồi” [30, 452].
“Tín” về bản chất là chỉ việc thực hiện lời hứa, vậy làm thế nào để thực
hiện lợi hứa đây? Khổng Tử cho rằng: “Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã” -
tức là điều quan trọng là ở chỗ những lời hứa hẹn, cam kết cần phải phù hợp
với “nghĩa”, nếu phù hợp thì sẽ có khả năng thực hiện được [30, 212]. Muốn
biết những lời hứa chủ quan có thể thực hiện được hay không hoặc có thể
thực hiện ở một mức độ nào đó thì phải căn cứ vào bản thân lời hứa đó có phù
hợp với hoàn cảnh khách quan thực tế hay không, đặc biệt là nó có thể dung
hợp với những lý lẽ và pháp luật xã hội hay không. Nếu không thì đó chỉ có
thể là những lời hứa hẹn “bất nghĩa”, mà như vậy thì sẽ không thực hiện được
hoặc chỉ có thể thực hiện thông qua các cách làm phi pháp. Loại “tín” đó chỉ
có thể coi là “tín” theo kiểu “nghĩa khí giang hồ” mà thôi và Khổng Tử gọi đó
là “tín” của kẻ “tiểu nhân”. Theo ông, kết quả của việc giữ chữ “tín” như vậy
có thể dẫn đến hỗn loạn. Do vậy, chữ tín phù hợp với nghĩa là tiền đề của việc
thực hiện điều tín, con người ta không nên tuỳ tiện đưa ra những lời hứa hẹn,
cam kết khinh suất, phải biết thận trọng trong lời nói: “Cổ gia ngôn chi bất
xuất, sỉ cung chi bất đãi dã” [30, 274]. Nói thì dễ mà thực hiện thì khó, đây là
một thực tế khách quan, vì vậy “Quân tử dục nột ư ngôn nhi mẫn ư hạnh” [30,
274] - người quân tử chậm chạp về lời nói mà nhanh nhẹn trong hành động.
“Ngôn cận ư nghĩa” (Nói lời phải hợp với nghĩa) là tiền đề thực hiện lời
hứa mà “nghĩa” là sự thích nghi với vạn vật, thống nhất giữa “lý” và “tình”, là
một quá trình kết hợp giữa nguyên tắc chung phổ biến với thực tế cụ thể. Như
vậy, làm được đến “tín cận ư nghĩa” hoàn toàn không phải là việc dễ dàng.
Khổng Tử cho rằng, trong trường hợp thông thường cần phải “ngôn tất tín,
73
hành tất quả” [30, 436] - tức là phải nói lời tín thật, hành động quả quyết.
Nhưng nếu chỉ biết làm đến như vậy thôi thì vẫn ở mức độ “tín” của kẻ “tiểu
nhân” mà thôi. Vì chữ “tín” của kẻ “tiểu nhân” không để ý đến phương tiện
có phù hợp với “nghĩa” hay không. Một người quân tử chân chính trong quá
trình theo đuổi “nghĩa”, đôi khi cũng không cần phải giữ “tín”. Khổng Tử đã
lấy Quản Trọng làm một ví dụ cụ thể cho trường hợp này. Trong Luận ngữ-
Hiến Vấn có ghi: Tề Hoàn Công giết công tử Củ, Quản Trọng không chết
theo chủ mà lại theo giúp Tề Hoàn Công xây dựng nghiệp bá, chỉnh đốn thiên
hạ. Sau này, Mạnh Tử cũng có bàn đến việc này: “Đại nhân giả, ngôn bất tất
tín, hành bất tất quả, duy nghĩa sở tại” [30, 719] - bậc quân tử, lời nói không
nhất thiết phải tín thực, hành động không nhất thiết phải quả quyết, chỉ cần
giữ được điều nghĩa. Nhưng để hiểu được điều “nghĩa” này thì cần phải giỏi
việc “học”. Khổng Tử nói: “Hiếu tín, bất hiếu học, kỳ tế dã tặc” [30, 517] tức
là một người biết giữ chữ tín mà không hiếu học thì sẽ không hiểu được đúng
sai, không hiểu được điều “nghĩa”, vì vậy sẽ rất dễ bị lợi dụng, có thể sẽ làm
hại đến bản thân và cả những người khác nữa. “Hiếu học” chính là một trong
những vấn đề lý luận quan trọng để thực hiện thành tín một cách chính xác,
đúng đắn nhất.
Tuy “hiếu học” có trợ giúp cho việc thực hiện “hiếu tín”, nhưng nó
không thể thay thế cho “hiếu tín”. “Hiếu học” có thể tạo ra một con người có
đức “trí”, có thể biết đến điều nghĩa, nhưng một người biết đến điều “nghĩa”
không đồng nghĩa với việc anh ta sẽ hành động, làm việc hoàn toàn dựa vào
yêu cầu của “nghĩa”. Ngay từ việc “tiểu nhân” không biết đến nghĩa nhưng
vẫn có thể “ngôn tất tín, hành tất quả”, có thể thấy rằng, việc thực hiện -
“hành chi” không đồng nghĩa với việc thông hiểu - “tri chi” và ngược lại nếu
thông hiểu cũng không đồng nghĩa với việc thực hiện. Do đó, Khổng Tử lại
đặc biệt đề xướng: “Ngôn trung tín, hành đốc kính” [30, 482]. Ở đây có đưa
ra khái niệm “trung” bên cạnh “tín”. “Trung” và “tín” tuy đều chỉ việc giữ lời
74
hứa với người khác nhưng trên thực tế chúng có những điểm chú trọng khác
nhau. “Tín” là xét lời nói, lời hứa hẹn, cam kết có tính chất văn bản, thực tế,
cụ thể, là một loại ước định giữa “ta” và “người khác”. Còn lời hứa hẹn hoặc
ước định này có xuất phát từ thành ý thật lòng của chủ thể hay không thì
không rõ. Việc lời hứa thiếu đi tính chất tình nguyện, sự chân thành mong
muốn của chủ thể sẽ làm giảm đi tính khả năng và hiệu quả trong việc thực
hiện. Còn “trung” thì có điểm khác, trong “Thuyết văn” có ghi: “Trung, kính
dã, tận tâm viết trung” - cho rằng, sự tận tâm chính là “trung”. Xuất phát từ
tận tâm, “trung” chính là sự thúc đẩy nội tại của bản thân chủ thể đối với việc
thực hiện chữ tín. Khi đó, “tín” với vai trò là một ước định hoặc lời hứa hẹn,
không chỉ là suy nghĩ thực tế của chủ thể mà chính trong bản thân chủ thể đã
có được “ý nguyện” chân thành, mong muốn thực hiện lời hứa đó. Vì vậy, có
thể thấy ý nghĩa của “trung tín” ở đây chính là tương đồng với khái niệm
“thành”.
Bên cạnh đó, Khổng Tử vẫn nhấn mạnh: nếu chỉ nói đến “trung tín” mà
không có “hiếu học” thì không thể được, vì “tín” trong “trung” chỉ phản ánh ý
nghĩ chân thực trong lòng chủ thể, còn những ý nghĩa đó có tích cực, đúng
đắn, tốt đẹp hay không, có khả năng thực hiện hay không thì bản thân “trung”
cũng không thể làm rõ được mà nó cần có sự hỗ trợ của “hiếu học”. Khổng
Tử nói: “Đốc tín hiếu học, thủ tử thiện đạo” - Nghĩa là nếu chỉ “đốc tín” mà
không “hiếu học” thì làm thế nào để biết được “thiện đạo”, nếu không biết
được “thiện đạo” thì việc quyết tâm “thủ tử” cũng chỉ là vô nghĩa.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được khá rõ ràng những
tư tưởng của Khổng Tử về vấn đề thành tín. Theo ông, trong việc thực thi
thành tín, ngoài những hoàn cảnh chế ước ngoại tại, coi tín dụng làm cơ bản
ra, bản thân chủ thể phải “tín cận kỳ nghĩa” - hiểu được chữ tín đó có phù hợp
với điều nghĩa, với đạo đức hay không, mà muốn biết được điều “nghĩa” thì
cần phải không ngừng học tập, rèn luyện và tích luỹ tri thức để trở thành một
75
người có đức “trí”, mặt khác phải xây dựng cho mình ý thức tự luật “trung
tín” và “đốc tín”.
2.2.3.2. Thành tín đối với quản lý kinh tế hiện đại
Cùng với sự phát triển của quản lý học nhân bản chủ nghĩa, sự nâng
cao nhận thức về giá trị của con người trong toàn bộ xã hội và cạnh tranh thị
trường ngày càng quyết liệt, vị trí của thành tín trong quản lý cũng ngày càng
trở nên quan trọng. Trong xã hội hiện đại, mọi người đều nhận thức một cách
sâu sắc rằng: thành tín không chỉ là yếu tố cơ bản để cá nhân lập nghiệp mà
còn là một trong những yếu tố nền tảng cho sự sinh tồn và phát triển của
doanh nghiệp, ý nghĩa “thành tín” trong quản lý chủ yếu có ba phương diện.
Thứ nhất, xây dựng nên cơ chế tín nhiệm trong nội bộ doanh nghiệp,
giữa người quản lý và người bị quản lý, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các
thành viên doanh nghiệp với nhau. Nếu nội bộ công ty không có được sự tín
nhiệm này, mọi người nghi ngờ, đố kỵ lẫn nhau thì doanh nghiệp không thể
có được sức mạnh đoàn kết tổng hợp. Chỉ có xây dựng một cơ chế hoàn toàn
tín nhiệm lẫn nhau thì mới có thể đoàn kết nhất trí mọi người trong doanh
nghiệp. Đoàn kết là sức mạnh, trên dưới tín nhiệm, tôn trọng lẫn nhau chính là
nguồn gốc sức mạnh. Sự hài hoà thật sự trong doanh nghiệp phần lớn được
xây dựng trên cơ sở mọi thành viên cùng đoàn kết hợp tác, tín nhiệm lẫn
nhau. Vì vậy, thành tín là điều tất yếu phải có trong quản lý doanh nghiệp
cũng như quản lý nói chung.
Thứ hai là xây dựng cơ chế tín nhiệm giữa doanh nghiệp với người tiêu
dùng. Một người không giữ chữ tín thì sẽ khó có thể thành công trong sự
nghiệp được. Cũng như vậy, một doanh nghiệp cũng không thể tồn tại vững
vàng và phát triển nếu không giữ được uy tín, danh tiếng. Do đó, có thể nói
thành tín là cái gốc cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, bất cứ
doanh nghiệp nào cũng đều phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, nghiên cứu
76
sự đổi mới trong tiêu dùng, những chính sách kinh doanh tiêu thụ thích hợp
với tình hình mới. Nhưng cho dù xét trên phương diện chiến lược hay chiến
thuật, doanh nghiệp đều cần phải dùng chất lượng sản phẩm và cơ chế dịch
vụ, phục vụ tốt để giành lấy thị trường. Chỉ có giữ được chữ tín mới là con
đường bền vững và lâu dài của sản xuất kinh doanh, là bí quyết để đạt đến
thành công. Một doanh nghiệp muốn đứng vững được trong làn sóng cạnh
tranh ngày càng dâng cao, điều cơ bản nhất là phải xem xem sản phẩm của họ
có giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng hay không. Muốn khiến cho
người tiêu dùng tín nhiệm sản phẩm của mình, cần phải dựa vào chất lượng
đáng tin cậy và tính ưu việt của sản phẩm. Trong thực tế, từ trước tới nay mọi
người luôn ưa chuộng và coi trọng những công ty có danh tiếng, thích mua
những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng bởi danh tiếng và những nhãn hiệu
này chính được xây dựng trên cơ sở tín nhiệm của khách hàng, của người tiêu
dùng đối với sản phẩm đó, doanh nghiệp đó.
Một khía cạnh không kém phần quan trọng và mang tính chất phổ biến
trong cạnh tranh doanh nghiệp, đó là vấn đề quảng cáo sản phẩm và hình
tượng công ty. Một trong những yếu tố cần thiết nhất trong quảng cáo, bên
cạnh tính mới mẻ, tự nhiên, sôi động... là tính chân thật. Tính chân thật là căn
cứ cơ bản nhất để truyền bá cơ chế thành tín của doanh nghiệp đối với người
tiêu dùng. Có những thông tin quảng cáo được đưa không đúng sự thực, dẫn
đến những hiểu lầm của khách hàng, lừa gạt người tiêu dùng, đây là hành vi
không đạo đức và đương nhiên sẽ bị mọi người phát hiện và phản đối. Chỉ có
những quảng cáo mang tính chân thực trên cơ sở thành tín mới có thể thật sự
giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, đem lại hiệu quả tốt đẹp cho
doanh nghiệp.
Xét cho cùng, một doanh nghiệp có thể thật sự thực hiện được cơ chế
thành tín hay không có liên quan nhiều đến vấn đề “lương tâm doanh nghiệp”.
Đây là một loại ý thức tập thể, là quan niệm đạo đức chung của toàn thể thành
77
viên doanh nghiệp, là sự chuyên hoá trách nhiệm và nghĩa vụ bên ngoài
doanh nghiệp thành yêu cầu đạo đức bên trong của toàn bộ các thành viên
doanh nghiệp. Lương tâm doanh nghiệp là một loại lương tâm nghề nghiệp,
nó có tác dụng quan trọng trong quyết sách, điều hành, đánh giá của quản lý
doanh nghiệp. Thứ nhất, lương tâm có tác dụng lựa chọn và quyết định trước
khi đưa ra quyết sách, làm cho hành vi doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của
quy phạm đạo đức doanh nghiệp. Thứ hai, trong quá trình thực hiện, lương
tâm đóng vai trò chỉ dẫn đạo đức, có tác dụng điều tiết và khống chế phương
hướng hành vi của doanh nghiệp, tiến hành khuyến khích ủng hộ những hành
vi và tư tưởng phù hợp với yêu cầu đạo đức, điều chỉnh và ngăn chặn những
quan niệm và hành vi phi đạo đức. Thứ ba, sau khi thực hiện, lương tâm đồng
thời là toà án bên trong con người, có tác dụng thẩm tra, đánh giá những hành
vi doanh nghiệp. Hành vi doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu đạo đức, khiến
mọi người có được sự thoả mãn lương tâm, có cảm giác được an ủi, vui vẻ;
nếu không phù hợp với yêu cầu đạo đức thì trách nhiệm lương tâm sẽ khiến
cho mọi người cảm thấy hối hận, bất an. Có thể thấy rằng, lương tâm doanh
nghiệp chính là cơ chế đạo đức bên trong của hành vi doanh nghiệp, có tác
dụng quan trọng trong quản lý kiểu “đức trị”.
Ý nghĩa thứ ba của “thành tín” trong quản lý doanh nghiệp hiện đại là
xây dựng cơ chế thành tín giữa các doanh nghiệp với nhau. “Tín dĩ đạo lợi”,
“tín dĩ sinh lợi” là nguyên tắc mà giữa các doanh nghiệp, các công ty cần phải
tôn trọng. Trong quan hệ kinh tế và giao lưu hợp tác kinh tế giữa các doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế, điều này được thể hiện rõ nét nhất thông qua hình
thức “hợp đồng kinh tế”. Đây là một sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng
hoá. Nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện trao đổi hàng hoá và được hoàn thiện
cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Nó là nhân tố không thể hiếu
trong việc tiến hành liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế. Tất nhiên trong các hợp đồng kinh tế luôn phải có những ràng buộc về mặt
78
pháp luật giữa hai bên hợp tác làm ăn, nhưng việc thực hiện những hợp đồng
đó chủ yếu là trên cơ sở thành tín. Trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng
tồn tại vấn đề tự giác ý thức thực hiện hợp đồng là một loại nghĩa vụ đạo đức,
hay là coi đó là một loại cưỡng chế pháp luật. Nếu ý thức được là một loại
nghĩa vụ đạo đức, vậy thì chủ thể nghĩa vụ tất nhiên có thể tự giác thực hiện
hợp đồng hơn nữa có thể làm rất tốt. Nếu coi việc thực hiện hợp đồng là một
sự cưỡng chế pháp luật, vậy thì chủ thể nghĩa vụ rất có thể sẽ có thái độ tiêu
cực, không nghiêm túc và vô trách nhiệm, cuối cùng có thể sẽ dẫn đến phải
đợi sự phán quyết của toà án, pháp luật hoặc có thể là một sự lừa gạt tiền bạc,
của cải thông qua hình thức ký hợp đồng. Do đó, thành tín chính là nền tảng
đạo đức để thực hiện hợp đồng, là điều quan trọng không thể thiếu trong việc
đưa doanh nghiệp đến thành công.
Chỉ có giữ được thành tín thì mới có thể có được uy tín. Uy tín chính là
biểu hiện của thành tín, là kết quả của cả một quá trình bồi đắp, phấn đấu gian
khổ, vất vả nhiều năm. Một doanh nghiệp có uy tín, được người tiêu dùng hài
lòng chính là doanh nghiệp “bất khả chiến bại”, nhưng nếu không biết giữ
thành tín thì danh tiếng nhiều năm đó sẽ bị mất đi rất nhanh. Uy tín của doanh
nghiệp bao gồm uy tín giữa doanh nghiệp với xã hội, giữa các doanh nghiệp
với nhau, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, và đó cũng chính là thứ tài
sản vô hình quý giá của doanh nghiệp. Thành tín chính là nền tảng để tạo
dựng nên uy tín, kiên trì thành tín thì sẽ có được uy tín tốt, đây cũng chính là
nền tảng đưa doanh nghiệp tiến đến thành công.
***
Như vậy, khuynh hướng chung của tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên
Tần là không tách rời Nghĩa và Lợi, luôn đặt Nghĩa lên trên Lợi, đặt lợi ích
cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân và từ đó yêu cầu cá nhân phấn đấu vì lợi
ích cộng đồng. Qua đây, ta cũng có thể thấy rằng, trong quan niệm của Nho
79
gia Tiên Tần, Nghĩa và Lợi vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù chính trị
- đạo đức.
Các quan niệm và phương pháp quản lý hữu dụng trong tư tưởng
Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần khác đã được nhiều nhà quản lý kinh tế,
quản lý doanh nghiệp sử dụng, kết hợp với thực tiễn quản lý để tạo ra hiệu
quả quản lý rất đáng ngạc nhiên. Quản lý hiện đại không thể phủ nhận được ý
nghĩa và giá trị của các quan niệm và phương pháp quản lý như “kiến lợi tư
nghĩa”, “hoà vi quý”, “thành tín”,... trong tư tưởng quản lý của họ.
80
KẾT LUẬN
Học thuyết nho gia Tiên Tần ra đời cách đây khoảng hai nghìn năm
trăm năm tại Trung Quốc, do vậy nó đương nhiên có rất nhiều mặt hạn chế,
lạc hậu, không còn phù hợp với xã hội hiện đại, thậm chí nó còn là một trong
những rào cản gây cản trở cho sự phát triển con người và xã hội. Nhưng
chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng và những tác dụng tích cực của tư
tưởng Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần trong xã hội ngày nay. Xét trên
một phương diện nào đó, đây là một học thuyết quản lý xã hội với mục tiêu là
quản lý, duy trì sự ổn định, trật tự xã hội, quốc gia đương thời chủ yếu bằng
đạo đức nhưng nó vẫn còn hàm chứa không ít những tư tưởng kinh tế mang
tính phổ biến, có giá trị vượt thời gian. Vì vậy, bên cạnh những điểm hạn chế
cần khắc phục, loại bỏ, chúng ta vẫn có thể chọn lọc tiếp thu, vận dụng những
tinh tuý, giá trị tốt đẹp của những tư tưởng này để phục vụ cho cuộc sống hiện
đại, cho hội nhập kinh tế thế giới, cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc đi
sâu tìm hiểu, nghiên cứu, khai thác. Tư tưởng kinh tế của Khổng Tử và các
nhà Nho Tiên Tần là một trong số những vấn đề đã, đang và sẽ còn rất được
quan tâm nghiên cứu.
Đặc điểm quan trọng nhất, xuyên suốt toàn bộ học thuyết của Khổng
Tử là chữ “nhân” - đó là sự khẳng định và coi trọng giá trị của con người và
nhấn mạnh tình cảm yêu thương giữa con người với con người. Đó là bản
chất và cũng là mục đích cao nhất của một xã hội phát triển bền vững. Do đó,
chữ “nhân” với vai trò là hạt nhân trong quản lý xã hội cũng đã tạo ra nét
riêng biệt của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần với lý luận quản lý “dĩ nhân
vi bản” - coi con người làm gốc và các quan niệm, phương pháp quản lý kinh
tế coi trọng đạo đức con người và mối quan hệ con người trong xã hội.
Sau hơn hai nghìn năm lịch sử, căn cứ vào những nhu cầu thực tế của
hoạt động kinh tế trong những thời kỳ khác nhau, người ta tiến hành chọn lọc,
81
bổ sung và phát huy tư tưởng kinh tế của Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần.
Trên cơ sở đó, đưa ra những lý luận quản lý kinh tế, phương pháp quản lý
kinh tế mang tính hiện thực và có hiệu quả trong thực tế quản lý kinh tế hiện
nay. Chúng ta có thể thấy sự kết hợp vận dụng thành công tư tưởng đạo đức
và kinh tế trong Nho gia Tiên Tần vào quản lý kinh tế hiện đại, quản lý doanh
nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, hay như ở Singapo, nó còn được gọi là
“phương thuốc cứu thế” và ở Trung Quốc hiện nay, tư tưởng quản lý kinh tế
của Khổng Tử nói riêng và Nho gia nói chung được coi là con đường để tạo ra
một phương thức quản lý kinh tế bền vững mang đậm màu sắc Trung Quốc.
Việt Nam cũng là một trong những nước chịu ảnh hưởng của Nho gia.
Nho gia đã từng đóng vai trò to lớn trong lịch sử Việt Nam và vẫn còn ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội của chúng ta ngày nay. Mặc dù
Nho gia có mang nhiều hạn chế lịch sử, có nhiều điểm tiêu cực và không còn
phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại, nhưng trong nó vẫn còn hàm
chứa rất nhiều chân lý tốt đẹp. Vậy chúng ta có thể tiếp thu những gì từ đó để
phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước? Đây là vấn đề đã và
đang được nhiều nhà nghiên cứu Nho gia của Việt Nam quan tâm. Ở đây,
người viết chỉ đi vào một khía cạnh nhỏ trong vấn đề lớn đó - Một số quan
niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần trong việc quản lý
kinh tế hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt lý luận quản lý “dĩ nhân vi bản”, trên cơ sở nhân tính luận
hướng con người đến cái thiện, Khổng Tử đã đề xướng ra tư tưởng quản lý xã
hội mang tinh thần nhân đạo sâu sắc: “Ái nhân” - đề cao tình cảm yêu thương
giữa con người với con người. Từ đó ông xây dựng nên một cơ chế quản lý
mang đặc thù riêng của mình: “Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ”. Bên cạnh đó là
các quan niệm, phương pháp quản lý cụ thể, rất có giá trị đối với quản lý kinh
tế hiện đại như: quan điểm về nghĩa lợi - “kiến lợi tư nghĩa”, phương pháp
quản lý “hoà vi quý”, vấn đề “thành tín” trong quản lý kinh tế.
82
Nho gia Tiên Tần đã đưa ra những cơ sở lý luận cơ bản làm nền tảng:
một nhân tính luận vững chắc qua bao thăng trầm của lịch sử, một tư tưởng
quản lý xã hội “ái nhân” mang tính nhân loại trường tồn, một mục tiêu quản
lý xã hội “an nhân” mà mọi dân tộc, mọi thời đại đều mơ ước và phấn đấu.
Trên nền tảng lý luận cơ bản ấy, các tư tưởng kinh tế mang đậm màu
sắc đạo đức được đề xướng bởi các nhà Nho Tiên Tần như Khổng Tử, Mạnh
Tử, Tuân Tử.
Những vấn đề đạo đức định hướng cho hoạt động kinh tế của Nho gia
Tiên Tần như: “kiến lợi tư nghĩa”, “hoà”, thành tín là những giá trị tư tưởng
có thể khai thác dưới góc độ quản lý kinh tế hiện đại. Việc khai thác và vận
dụng các giá trị tư tưởng kinh tế - đạo đức của Nho gia Tiên Tần vào đời sống
kinh tế xã hội hiện đại là điều không thể phủ nhận và ngày càng được quan
tâm rộng rãi, trong đó có Việt Nam.
Đương nhiên, người viết chưa dám khẳng định đây sẽ là một vấn đề
phù hợp đối với quản lý kinh tế của Việt Nam hiện nay, nhưng nó là vấn đề
rất cần được đi sâu nghiên cứu, khai thác và ứng dụng vào thực tiễn. Thông
qua luận văn này, người viết mong muốn gợi mở một hướng nhìn cho vấn đề
quản lý kinh tế của Việt Nam hiện nay và hy vọng những quan điểm và phân
tích nêu trên sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1938). Khổng giáo phê bình tiểu luận. Nxb Quan hải
Tùng thư. Huế.
2. Minh Anh (2000). “Hồ Chí Minh với Nho giáo”. Tạp chí Triết học (số
6), tr 16 - 18.
3. Nguyễn Thanh Bình (2000). “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và
hoàn thiện con người”. Tạp chí Giáo dục lý luận (số 5), tr 35 - 38.
4. Nguyễn Thanh Bình (2000). “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế
Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đăng trong: Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2000). Hội thảo khoa học Kỷ
niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr 340 -347.
5. Nguyễn Văn Bình (2002). “Quan niệm về Lễ của Nho giáo và những
bài học cho chúng ta ngày nay”. Tạp chí Triết học (số 4), tr 46 - 49.
6. Phan Văn Các (1991). ‘’Việc nghiên cứu Khổng Tử và Nho giáo ở
Trung Quốc trong thập kỷ 80”. Tạp chí Triết học (số 1), tr 61- 65.
7. Doãn Chính (2001). ‘’Góp phần tìm hiểu tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử”. Tạp chí Triết học (số 7), tr 24 - 28.
8. Hoàng Tăng Cường (2002). “Quan niệm của Nho giáo về nghĩa và lợi“.
Tạp chí Triết học (số 4), tr 50 - 52.
9. Nguyễn Thị Doan chủ biên (1996). Các học thuyết quản lý. Nxb Chính
trị Quốc gia. Hà Nội.
10. Phan Đại Doãn chủ biên (1998). Một số vấn đề về Nho gia Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
11. Nguyễn Đăng Duy (1998). Nho giáo với Văn hoá Việt Nam. Nxb Hà
Nội.
84
12. Quang Đạm (1994). Nho giáo xưa và nay. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
13. Cao Xuân Huy (1995). Tư tưởng triết học phương Đông gợi những
điểm nhìn tham chiếu. Nxb Văn học. Hà Nội.
14. Trần Đình Hượu (1997). Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hoá.
Hà Nội.
15. Trần Đình Hượu (2001). Các bài giảng về tư tưởng phương Đông.
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.
16. Đặng Cảnh Khang (1999). Các nhân tố phi kinh tế xã hội học về sự
phát triển. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
17. Vũ Khiêu (1995). Đức trị và pháp trị trong Nho giáo. Nxb Khoa học
Xã hội. Hà Nội.
18. Vũ Khiêu (1990). Nho giáo xưa và nay. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
19. Vũ Khiêu (1990). Nho giáo và đạo đức. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
20. Vũ Khiêu (1997). Nho giáo và phát triển ở Việt Nam. Nxb Khoa học
xã hội. Hà Nội.
21. Vũ Khiêu chủ biên (2000). Văn hoá Việt Nam xã hội và con người.
Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
22. Trần Trọng Kim (2001). Đại cương triết học Trung Hoa. Nxb Văn hoá
thông tin. Hà Nội.
23. Trần Trọng Kim (2001). Nho giáo. Nxb Văn hoá thông tin. Hà Nội.
24. Phạm Văn Khoái (2004). Khổng Phu Tử và Luận ngữ. Nxb Chính trị
Quốc gia. Hà Nội.
25. Nguyễn Hiến Lê (2006). Khổng Tử. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
26. Nguyễn Hiến Lê (1996). Mạnh Tử. Nxb Văn hoá. Hà Nội.
27. Lê Hồng Lôi (2004). Đạo của quản lý. (Lại Quốc Khánh, Trần Thị
Thuý Ngọc dịch), Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội.
28. Hà Thúc Minh (1996). “Phải chăng Nho giáo là động lực phát triển
kinh tế”. Tạp chí Triết học (số 6), tr 21 - 24.
85
29. Phan Ngọc (2004). Bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb Văn hoá Thông
tin. Hà Nội.
30. Ngữ văn Hán nôm, tập 1, Tứ thư (2002). Nxb Khoa học xã hội. Hà
Nội.
31. Lê Văn Quán (1997). Lịch sử triết học Trung Quốc. Nxb Giáo dục. Hà
Nội.
32. Bùi Thanh Quất chủ biên (1999). Lịch sử triết học. Nxb Giáo dục.
Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Vũ Minh Tâm chủ biên (1996). Tư tưởng triết học về con người. Nxb
Giáo dục. Hà Nội.
34. Lê Sỹ Thắng (1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập II). Nxb Khoa
học Xã hội. Hà Nội.
35. Lưu Vĩnh Thuỵ (2000). Kinh điển quản lý và kinh doanh - thành công
của các doanh nghiệp Châu Á. Nxb Thống kê. Hà Nội.
36. Nguyễn Tài Thư (1999). “Đôi điều về vai trò của Nho giáo trong thế
giới hiện đại”. Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn (số 8), tr 4 - 10.
37. Nguyễn Tài Thư. “Nho giáo - Những tranh luận và và vấn đề đặt ra”.
Tạp chí Triết học (số ), tr .
38. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập I).
Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
39. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1997). Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng tôn
giáo vào con người Việt Nam hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà
Nội.
40. Nguyễn Tài Thư (1997). Nho học và Nho học ở Việt Nam. Nxb Khoa
học xã hội. Hà Nội.
41. Nguyễn Tài Thư (1998). “Truyền thống Nho học và việc xây dựng con
người trong giai đoạn mới”. Tạp chí Cộng sản (số 2), tr .
86
42. Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục dịch (1990). Mạnh Tử Quốc văn
giải thích. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
43. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh (1999). “Vai trò của Nho giáo ở Việt Nam và
các nước châu Á trong thế giới hiện đại”. Khoa học Xã hội và Nhân
văn (số 8), tr 1 - 102.
44. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển
Đạo). Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
45. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển Lý).
Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
46. Trương Lập Văn chủ biên (1998). Triết học phương Đông (quyển
Tâm). Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
47. Nguyễn Khắc Viện (2000). Bàn về Đạo Nho. Nxb Thế giới. Hà Nội.
48. Phan Nải Việt (2003). Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh
hiện đại. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
49. Bùi Thanh Quất, Phan Chí Thành (2002). “Một số quan điểm chính trị
Khổng học với sự phát triển ở Việt Nam”. Tạp chí Triết học (số 1), tr
20 - 30.
50. Dan Waters (1998). Thế kỷ 21 - Phương thức quản lý vượt trên cả
người Nhật và người Trung Quốc. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
51. Harold, Koontzm Cyril O’donnell, Heinz Weihrich (1992). Những vấn
đề cốt yếu của quản lý. (Vũ Thiêu dịch). Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
Hà Nội.
52. Konosuke Matsushita (1994). Bản lĩnh trong kinh doanh và cuộc sống.
(Thanh Bình dịch). Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
53. Konosuke Matsushita (1997). Quyết đoán trong kinh doanh. (Trần
Quang Tuệ dịch) . Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
87
54. Marcus Buckingham, Curt Cuffman (2001). Phương cách quản lý của
các nhà quản trị hàng đầu thế giới. (Hà Thiện Thuyên dịch). Nxb Thanh
niên. Hà Nội.
88