ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

TRƢƠNG PHƢƠNG DUNG KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

TRƢƠNG PHƢƠNG DUNG KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT

TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân Hà Nội – 2015

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới

PGS.TS Nguyễn Thúy Vân, người đã dành nhiều thời gian quý báu tận tình

chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Triết học - Trường

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gian Hà Nội đã góp ý

tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.

Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp

đỡ, động viên của bạn bè và những người thân trong gia đình. Tôi xin chân

thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Học viên

Trƣơng Phƣơng Dung

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, chưa

từng được công bố. Các tài liệu sử dụng tham khảo đã được trích nguồn đầy

đủ và chính xác.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Trƣơng Phƣơng Dung

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................... 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ............................................................. 8

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 8

6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 9

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ........................................................................ 9

8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 9

B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC

VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ............................................................... 10

1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nƣớc pháp quyền, đạo đức và pháp luật 10

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................... 10

1.1.2.Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội.

......................................................................................................................... 18

1.1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong nhà

nước và xã hội. ................................................................................................ 22

1.2. Tính tất yếu của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng

nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .................. 27

1.2.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ............................................... 27

1.2.2. Sự cần thiết phải kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. .............................. 30

1.3. Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. .................................................. 33

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 37

2.1. Thực trạng kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ..................................................... 37

2.1.1. Khái quát lịch sử kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội ở

Việt Nam. ......................................................................................................... 37

2.1.2. Những kết quả đã đạt được và một số hạn chế tồn tại của việc kết hợp

pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay. ....................................................................................... 43

2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp đạo đức và pháp luật trong

xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ....... 69

2.2.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức, của pháp

luật cũng như ý nghĩa của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ...................................... 69

2.2.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng cố và

phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ............................................................... 71

2.2.3. Chú trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, ý thức pháp luật trong gia

đình, nhà trường, xã hội. ................................................................................. 75

2.2.4. Đánh giá đúng vai trò của dư luận xã hội và dựa vào những luồng dư

luận tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội.

......................................................................................................................... 78

2.2.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm pháp luật.

......................................................................................................................... 81

KẾT LUẬN .................................................................................................... 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NNPQ : Nhà nước pháp quyền

NNPQ XHCN : Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong

iến trúc thượng tầng, có vai trò rất quan trọng đối với việc điều chỉnh các

quan hệ xã hội. Trong xã hội Á Đông truyền thống, đạo đức vốn được xem là

công cụ chủ yếu của các nhà cầm quyền dùng để điều chỉnh hành vi con

người, nhằm đem lại sự ổn định cho xã hội. Dần dần, sự phát tiển của xã hội

làm cho các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phong phú và phức tạp, mà

nếu chỉ dựa vào đạo đức, trật tự xã hội hông được bảo đảm. Khi đó, pháp

luật xuất hiện với chức năng điều chỉnh hành vi con người mang tính bắt

buộc. Cả đạo đức và pháp luật đều có những thế mạnh và điểm yếu riêng. Tuy

vậy, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng, tác động, ảnh hưởng

và bổ sung cho nhau. Thực tiễn quản lý xã hội của các quốc gia cho thấy

hông thể tách rời mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, ngay cả hi xây

dựng NNPQ: một nhà nước thượng tôn pháp luật, thì những qui phạm pháp

luật vẫn phải luôn có mối quan hệ với các qui phạm đạo đức.

Trong điều kiện Việt Nam xây dựng NNPQ, pháp luật giữ vai trò đặc

biệt quan trọng, mọi hoạt động của nhà nước và công dân đều chịu sự điều tiết

của pháp luật; sự bình đẳng trước pháp luật là quyền và nghĩa vụ của tất cả

mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam trong một thời gian

dài chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi trọng đạo lý, ứng xử theo đạo

lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Người Việt đã quen với lối ứng xử

“trăm cái lý hông bằng tý cái tình”. Có thể nói, hiện nay thói quen xử sự theo

đạo lý vẫn còn ngự trị trong lối sống của không ít người. Vì vậy, trong điều

kiện xây dựng NNPQ, khi pháp luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà

nước thực hiện chức năng quản lý thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng

trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính trong nét đặc thù này, đặt ra

yêu cầu nhận thức đúng đắn về vai trò, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp

1

luật; Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội

nhập quốc tế làm gia tăng tính phức tạp trong các quan hệ xã hội và đời sống

xã hội nói chung. Song song với những ảnh hưởng tích cực là không ít những

ảnh hưởng tiêu cực như lối sống thực dụng, xa rời các giá trị truyền thống

v.v… Trong điều kiện đó, để nhà nước điều hòa một cách có hiệu quả nhất

các quan hệ xã hội thì cần phải kết hợp chặt chẽ pháp luật với việc phát huy

các giá trị đạo đức.

Chính vì thế, nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong điều

kiện Đổi mới, xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay là việc làm có ý

nghĩa quan trọng và cần thiết, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền

Việt Nam có một môi trường pháp lý thực sự tôn nghiêm, bên cạnh việc giữ

gìn và phát huy được các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài Kết hợp

đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay để viết Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam là một vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm. Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa

pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học ở

một số lĩnh vực như: Luật học, Đạo đức học và Triết học.

Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu theo hai mảng sau:

Nhóm công trình nghiên cứu về đạo đức, pháp luật, về vai trò của

đạo đức và pháp luật trong xã hội gồm có:

Lê Quang Thưởng (1994), Tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức truyền

thống và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Văn Tỉnh (1994),

Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện

pháp luật, Xã hội và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn

2

Quốc Việt (2002), Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá

trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp

khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Ba (2002), Vai trò của

đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị

trường, Tạp chí Triết học, số 5; Nguyễn Bình Đặng Lục (2005), Vai trò của

pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội; Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã

hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Trong đó, nổi bật là các công trình:

Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam (Nxb Khoa

học xã hội, 2000) của hai tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy. Sách đề cập đến

vấn đề pháp luật và đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối toàn diện, theo

tiến trình lịch sử của sự phát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc

trưng của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam,

thứ triết lý được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dân tộc và đang biến đổi

do tác động của các nhân tố phát triển của xã hội hôm nay. Có thể nói, trong

từng chương của cuốn sách đều đã đề cập đến vị trí, vai trò của đạo đức và

pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó.

Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ ra đặc điểm cũng như sự tương tác giữa pháp

luật với đạo đức, hông đề cập một cách cụ thể vai trò của đạo đức và pháp

luật trong quản lý xã hội.

Tác giả Nguyễn Quốc Việt có đề tài nghiên cứu: “Bảo lưu những giá

trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam hiện nay” (Đề tài nghiên cứu cấp Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,

2002). Đây là công trình tuy chỉ tiếp cận một khía cạnh của mối quan hệ giữa

đạo đức với pháp luật, nhưng tác giả đã đề cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong

điều kiện hiện nay của nước ta. Đó là việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo

3

đức truyền thống của dân tộc trong điều kiện mới, cụ thể là trong quá trình cải

cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế.

Tác giả đã nêu ra và luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá

trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo

lưu các giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta hiện nay... Bên cạnh đó, tác giả

cũng đề xuất nhiều giải pháp bao gồm các phương pháp, cách thức bảo lưu

các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam hiện nay.

Trong nội dung nghiên cứu này, phải kể đến công trình điển hình là

cuốn sách Pháp luật và đạo đức của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Nxb Tư

pháp, Hà Nội, 2007). Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về

pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong đó, tác giả đã đề

cập một cách tương đối toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò của pháp luật

và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự thống nhất,

sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công trình cũng

giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp luật và

đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng đề cập đến thực trạng

đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Qua đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng

pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả không luận

giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức của con người...

ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, và chưa phân tích

mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam hiện nay.

Tiếp theo là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của tác

giả Nguyễn Minh Đoan (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009). Đây là một

cuốn sách viết về vai trò của pháp luật với nội dung khá rõ ràng và dễ hiểu.

4

Trong đó, tác giả phân tích sâu sắc về vai trò của pháp luật đối với nhà nước,

đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của Đảng...

Thông qua bốn chương của cuốn sách, tác giả nhấn mạnh rằng, pháp luật là

công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý xã hội quan trọng, có

hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giả cũng hẳng định pháp luật không phải là

công cụ quản lý duy nhất, càng không phải là công cụ quản lý vạn năng.

Thông qua luận giải của tác giả, người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng

về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.

Nhóm công trình nghiên cứu về sự kết hợp, mối quan hệ giữa đạo

đức và pháp luật trong đời sống xã hội có các công trình:

Triệu Vũ (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng

giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,

số 11; Trần Hậu Thành (1998), Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp

chí Giáo dục lý luận, số 5; Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh (2000), Về

quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 6; Hoàng

Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế

thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học

Đại học Quốc gia Hà Nội; Lương Hồng Quang (2002), Tư tưởng Hồ Chí

Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luận văn Thạc sĩ

Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh; hàng loạt công trình nghiên cứu

chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa pháp luật và

đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/ 1999;

Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, 2002; Vấn đề

kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước

ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 12/2002; Nguyễn Thúy Hoa (2006), Kết hợp

pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước tại Việt Nam hiện nay, Luận văn

5

Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Tạ Thị Thu

Đông (2012), Kết hợp đạo đức và pháp luật – cơ sở và giải pháp trong việc

quản lý xã hội, xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Phát triển

nhân lực, số 3; Nguyễn Văn Năm (2012), Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án

Tiến sĩ Đại học Luật Hà Nội.

Xin điểm qua một số công trình nghiên cứu ở nội dung này như:

Đề tài nghiên cứu: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản

lý xã hội ở nước ta hiện nay" của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Đề tài Khoa

học cấp Bộ, 2002). Đây là công trình nghiên cứu một cách khá toàn diện các

vấn đề như vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản

lý xã hội; tác giả cũng bước đầu nghiên cứu những biểu hiện việc kết hợp

giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên cơ sở đó,

tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật

với đạo đức.

Tác giả Lương Hồng Quang có đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp

pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, 2002), và tác giả Tạ Thị Thu Đông có đề tài Tư tưởng Hồ Chí

Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) nghiên cứu

về mối quan hệ giữa đạo đức, pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những

đề tài này đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

đạo đức và pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng

Hồ Chí Minh. Hai tác giả đều có sự phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư

tưởng của Hồ Chủ tịch và khẳng định, đạo đức là gốc, là cơ sở để xây dựng

pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ

trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật xã hội, thuần phong mỹ tục của dân

tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh mẽ đến đạo đức. Pháp luật

ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạo đức, là công cụ hữu

6

hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện để các giá trị

đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn hẳng định, cần phải có

sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể

nói, các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ

giữa pháp luật với đạo đức.

Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ

giữa pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN ở Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập

những khía cạnh của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên luận

văn hông đề cập một cách cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận văn trình bày về

những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật với

đạo đức cũng như đề cập đến vai trò của pháp luật, đạo đức trong quản lý xã

hội nhưng chưa chỉ ra đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức

trong giai đoạn hiện nay; chưa luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp

luật với đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội.

Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu về đạo đức và pháp

luật, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật nói chung, hay là mối quan hệ

đạo đức và pháp luật trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Các tác giả đã

nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt của đạo đức và pháp luật, sự

ảnh hưởng qua lại một cách mật thiết giữa chúng; chỉ ra vai trò của đạo đức

và pháp luật trong đời sống xã hội với tư cách là những phương tiện quan

trọng điều chỉnh hành vi con người. Một số công trình nghiên cứu vấn đề kết

hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói

chung. Tuy nhiên, các công trình chưa đề cập một cách cụ thể sự kết hợp đạo

đức với pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiên nay. Đây là hướng nghiên cứu mà tác giả luận văn

muốn hướng đến.

7

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về đạo

đức, pháp luật, nhà nước pháp quyền, luận văn đi vào làm rõ tính tất yếu và

thực trạng sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm

kết hợp đạo đức và pháp luật một cách hiệu quả hơn.

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện

những nhiệm vụ sau:

Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, về

đạo đức và pháp luật, về mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật.

Hai là, làm rõ tính tất yếu và thực trạng của việc kết hợp đạo đức và

pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Ba là, bước đầu đề xuất một số giải pháp phát huy hiệu quả việc kết

hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng: Sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình xây

dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.

- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật

trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, từ thời kỳ Đổi mới đến nay, thể

hiện trong các văn iện Đảng, trong hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật

trong giai đoạn hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan niệm của triết học Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về lý luận

NNPQ XHCN, về pháp luật và đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn tham hảo, sử

dụng kết quả các công trình trong nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài

nước có liên quan trực tiếp đến nội dung của luận văn.

8

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương

pháp của phép biện chứng duy vật như: Phương pháp phân tích và tổng hợp,

phương pháp thống nhất logic – lịch sử, hái quát hóa…

6. Đóng góp mới của luận văn

- Trên cơ sở lý giải sự cần thiết và thực trạng kết hợp giữa đạo đức và

pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân ở Việt Nam hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số giải pháp

mang tính định hướng cho việc nâng cao hiệu quả của sự kết hợp giữa đạo

đức và pháp luật trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm những

vấn đề lý luận về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ

XHCN ở Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo

dùng trong công tác nghiên cứu những vấn đề liên quan, tiếp cận ở cả góc độ

triết học, đạo đức và pháp luật.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 2 chương, 5 tiết.

9

B. NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP

ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nƣớc pháp quyền, đạo đức và pháp luật.

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

* Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành cách đây hơn hai

nghìn năm. Lúc đầu đó chỉ là những ý tưởng, những quan niệm của các nhà tư

tưởng về những yếu tố, những khía cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức

quyền lực nhà nước, phát huy vai trò của pháp luật và giải quyết mối quan hệ

giữa nhà nước và pháp luật. Sau đó những ý tưởng này được phát triển thành

tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại. Nội dung chủ yếu của tư tưởng nhà

nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp luật nhằm bảo vệ các giá trị xã

hội như tự do, công bằng, bình đẳng và phát triển.

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, do đòi hỏi của lịch sử và xuất phát từ

khát vọng về tự do, dân chủ, có hai thời kỳ xuất hiện nhiều tư tưởng, quan

điểm tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền. Đó là thời kỳ nhà nước cổ đại

Hy Lạp, La Mã hi mà nhà nước chiếm hữu nô lệ đã thể hiện hết tính chất tàn

bạo, dã man của nó và thời kỳ cách mạng tư sản ở châu Âu khi giai cấp tư sản

phát động các cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, xây

dựng nền cộng hoà và xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.

Những tư tưởng tích cực tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ

cổ đại ở phương Tây thể hiện rõ nét ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ

này như Solong, Socrat, Platon, Aristot, Xixeron v.v…

Solong (638-559 tr.CN) được coi là người đầu tiên nêu ý tưởng về nhà

nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước Athen bằng việc đề

10

cao vai trò của pháp luật. Theo ông, chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự

và tạo nên sự thống nhất, ông chủ trương giải phóng tất cả mọi người bằng

pháp luật, nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực hiện dân chủ, tự do và

công bằng, vì vậy, hãy kết hợp sức mạnh quyền lực nhà nước với pháp luật.

Nhà nước Athen với những tư tưởng cải cách của Solong được xem là nhà

nước dân chủ nhất cho đến thời điểm đó.

Heraclit (520-460 tr.CN) cho rằng pháp quyền là phương tiện quan

trọng để chống lại cực quyền, ông kêu gọi nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ

pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình.

Platon (427-374 tr.CN) quan niệm tinh thần thượng tôn pháp luật phải

là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải tôn trọng

pháp luật; nhà nước sẽ suy vong nếu pháp luật không còn hiệu lực hoặc chỉ

phụ thuộc vào chính quyền; Xixeron (106-43 tr.CN) đưa ra quan niệm: nhà

nước phải là một cộng đồng pháp lý.

Quan niệm của các nhà tư tưởng cổ đại tuy được nêu ở những góc độ

hác nhau nhưng tựu trung đều cổ vũ cho việc đề cao pháp luật và xây dựng

nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật công bằng. Những ý tưởng đó

có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát các lý thuyết về tính tối cao của

pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước và nhà nước pháp quyền nói chung.

Những quan điểm, tư tưởng về nhà NNPQ thời kỳ cổ đại được tiếp tục

phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ

phong kiến chuyên chế, độc tài và vô pháp luật ở châu Âu thế kỷ 17, 18.

Trong thời kỳ này tư tưởng về nhà nước pháp quyền được phát triển khá

phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết

chính trị - pháp lý, tiêu biểu là quan điểm của các nhà tư tưởng: J.Lock, S.L.

Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant, Hegel, Monh. Trong đó, đáng chú ý là học

thuyết của J.Lock, S.L.Montesquieu và J.J.Rousseau.

11

John Lock (1632-1704) là người đặt nền móng cho sự ra đời học thuyết

về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đưa ra tư tưởng về nhà nước trong cuốn

“Khảo luận thứ hai về chính quyền”. J.Loc nhận thấy nguy cơ của quyền lực

tuyệt đối, quyền của độc tài dù trao cho một cá nhân hay một nhóm người.

Ông cho rằng dạng nhà nước tốt nhất là quyền lực của hệ thống chính quyền

được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh và mỗi nhánh có quyền hạn

riêng đủ cần thiết để thực hiện chức năng của mình. Ông cho rằng một hệ

thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập dựa trên duy nhất hiến pháp

chung của quốc gia. Trách nhiệm lập pháp là của quốc hội và nhiệm vụ của

nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao.

Tiếp sau John Lock, Montesquieu (1698-1755) trong tác phẩm

“Tinh thần pháp luật” đã đề ra lý thuyết phân chia quyền lực, một trong

những nội dung chủ yếu của NNPQ tư sản. Ông quan niệm, khi nắm trong

tay quyền lực con người thường có xu hướng lạm dụng nó, vì vậy, phân

chia quyền lực để tránh lạm quyền. Theo ông, mỗi quốc gia đều có ba thứ

quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để

chống độc quyền thì ba thứ quyền lực này phải được tổ chức sao cho có

tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau.

J.J.Rousseau (1712-1788) trong “Bàn về khế ước xã hội” đã coi hế

ước xã hội là cơ sở để giải quyết các vấn đề về nhà nước, pháp luật và công

dân. Ông đã bàn cặn kẽ về “tam quyền” theo lý thuyết của Montessquieu.

“Khế ước xã hội” là ý chí chung, là quyền lực tối cao được thiết lập từ những

cá thể thành viên hợp lại. Ý chí chung của toàn thể dân chúng hi được công

bố nó trở thành luật.

Đến I.Kant (1724-1804) – học giả người Đức, lý thuyết về nhà nước

pháp quyền tư sản với tính cách là một học thuyết triết học – chính trị tương

đối hoàn chỉnh đã được xác định. Ông triệt để tán thành việc áp dụng lý

12

thuyết phân quyền. Theo ông ở đâu áp dụng nguyên tắc này thì ở đó có

NNPQ, nếu không chỉ là chuyên quyền.

Lý luận inh điển về NNPQ phát triểm mạnh ở nước Đức vào nửa đầu

thế kỷ XIX. Robert Fon Mohn, Karl Teodor Valker - hai nhà luật học người

Đức, là những người đầu tiên dùng thuật ngữ NNPQ đã được lập luận trong

triết hoc của Canter, Hegen. Mohn và Val er đề ra nguyên tắc về tính tối cao

của luật như là tiêu chuẩn quan trọng nhất của NNPQ. Theo Mohn, trong ba

loại quyền trong NNPQ thì quyền lập pháp có vị trí cao nhất, không thể không

có sự kiểm tra của các cơ quan tư pháp lớn hơn sự hoạt động lập pháp mà chỉ

lớn hơn các cơ quan hành pháp mà thôi. Theo Mohn và Val er, trong những

tiêu chuẩn của NNPQ đó là sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật, thừa

nhận mục đích sống còn của tất cả mọi người không phụ thuộc vào địa vị xã

hội của họ. Tính tối cao của luật, sự ngự trị của pháp luật thể hiện qua quyền

lực nhân dân dưới thình thức chủ quyền của nghị viện.

Như vậy, từ thế kỷ XVII-XVIII, trong triết học pháp quyền đã thiết lập

nguyên tắc bình đẳng về hình thức pháp luật của tất cả mọi người tham gia

các quan hệ pháp luật, bằng sự thống nhất về bản chất của lợi ích và nhu cầu.

Trong quan niệm cổ điển của thuyết pháp quyền tự nhiên của J.J.Rousseau, cơ

chế kiểm tra của bộ máy chính trị - nhà nước được dùng để cân bằng lợi ích

của toàn dân, của các nhóm, các giai tầng và các lợi ích cá nhân. Và sự cân

bằng đó chỉ có thể đạt được, vẫn theo tư tưởng của J.J.Rousseau, khi có sự

phân quyền và tôn trọng tính tối cao của luật và không chỉ là trật tự pháp luật

tối ưu mà còn là tổ chức chính trị lý tưởng nói chung.

Ở phương Đông, mầm mống về tư tưởng NNPQ cũng xuất hiện từ thời

cổ đại. Đó là tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia như:

Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi… Quản Trọng chủ trương đề cao “Luật,

lệnh, hình, chính”, vua phải giữ pháp, không vì vua muốn mà thay đổi lệnh,

lệnh đáng tôn hơn vua. Hàn Phi coi pháp là chuẩn mực cao nhất của việc cai

13

trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng, không

câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Học

thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử là sự tiếp thu những điểm ưu trội của ba

trường phái trong Pháp gia: “pháp” (Thương Ưởng), “thuật” (Thân Bất Hại),

“thế” (Thận Đáo); từ đó, phát triển và xây dựng một hệ thống lý luận pháp trị

tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời.

Sự phân tích trên cho thấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền nói chung,

đặc biệt ở phương Tây là cả một quá trình phát triển kế tiếp và nối dài, có sự

kế thừa và hoàn thiện trong quá trình vận động đó, để đi đến những quan điểm

chung thống nhất về nhà nước pháp quyền.

* Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền

Nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền trong

lịch sử tư tưởng nhân loại, có thể rút ra những điểm chung, khái quát về đặc

trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau:

- Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của nhân dân, là biểu hiện

tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp

quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của nhà nước

pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực

chính trị thuộc về nhân dân.

- Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ

Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm chủ quyền của nhân dân bằng pháp luật, là

nhà nước thượng tôn pháp luật, trong đó pháp luật phải phản ánh "ý chí chung

của nhân dân", "lợi ích chung của xã hội".

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ được

các quyền tự do, dân chủ của công dân.

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về

những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với

nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình.

14

- Nhà nước pháp quyền tư sản có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước

theo nguyên tắc tam quyền phân lập, có sự phân chia, đối trọng và kiểm soát

quyền lực nhà nước giữ ba bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm sự độc lập của Toà án và

tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật. Có cơ chế giám sát sự tuân thủ

pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.

Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn

bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp

pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Khi kế thừa, tiếp thu tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền

trong lịch sử tư tưởng nhân loại là kế thừa, tiếp thu những mặt tích cực, hợp

lý, tiến bộ, hái quát trong các đặc trưng nêu trên. Đó là thành quả trí tuệ, là

kết tinh của khát vọng dân chủ, tự do và nhân quyền của nhân loại.

NNPQ ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của

mỗi một quốc gia, dân tộc. Không thể có một nhà nước pháp quyền chung

chung cho mọi quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của NNPQ được xác định bởi

hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất rất đa dạng, phong phú và phức

tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý

xã hội của mỗi dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá. Các yếu

tố này không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong

quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức

độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền.

Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh

tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà

nước pháp quyền thích hợp.

15

* Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

NNPQ với tư cách là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà

nước và xã hội đã được xây dựng ở nhiều quốc gia tư bản phát triển và đang

phát triển.

Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng NNPQ đang đặt ra như một tất yếu lịch

sử và tất yếu khách quan dựa trên quá trình nhận thức, tiếp thu tư tưởng tiến

bộ của nhân loại, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam với những đặc thù riêng.

Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã hẳng định chủ trương “đẩy nhanh công

cuộc xây dựng NNPQ XHCN trên nhiều mặt và xác định phải tiếp tục đẩy

mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng

cường pháp chế”, “xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về

nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa

các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn

bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,

hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [12,

tr.126]. Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là

đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân

dân và vì nhân dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy

lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà

nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến

là “tam quyền phân lập”. Còn chúng ta xác định quyền lực nhà nước là tập

trung, thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp thực hiện quyền lực.

Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam với những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại

Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao

16

năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa và ỷ luật, kỷ cương” [13, tr.247].

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang những đặc

trưng sau:

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự

của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hồ Chí

Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì

dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” [31, tr.515].

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn trọng,

thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và

hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến

pháp và Luật trong đời sống xã hội.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức

theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp

và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp

và tư pháp.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chịu

trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công

dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực

hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển

với các nước láng giềng, các nhà nước và các dân tộc khác trên thế giới; tôn

trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia.

Trên đây là những đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN ở Việt Nam.

Sau một thời gian dài của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến nay

17

yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã chính thức trở thành một

nguyên tắc định hướng cho quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà

nước Việt Nam.

NNPQ được nhận diện là phương thức tổ chức dân chủ quyền lực nhà

nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực cũng như

thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội.

Về mặt tư duy lý luận, điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền tư sản là ở cơ chế vận

hành của nhà nước. Nếu các nhà nước pháp quyền tư sản có cơ chế vận hành

phổ biến là “tam quyền phân lập”, thì NNPQ XHCN ở Việt Nam có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp

và tư pháp. Điều này để nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất,

cũng chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước

và pháp luật.

1.1.2. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong

xã hội.

- Thuật ngữ "đạo đức" trong tiếng Anh là Morality, trong tiếng Pháp là

Morale…, có gốc từ Latinh là Moris, có nghĩa là lề thói, đạo nghĩa. Thuật ngữ

này được hình thành từ rất sớm trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ

IV trước công nguyên, gắn với tên tuổi nhà tư tưởng vĩ đại Arixtốt (384-322)

trước công nguyên. Thời kỳ xa xôi người ta quan niệm đạo đức là những

chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh hành vi con người, sao cho tạo nên mối

quan hệ hài hòa giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội. Theo

tiếng Hy Lạp cổ Ethos là luân lý, là thói quen, là phong tục tập quán, thông

qua đó mà điều chỉnh hành vi của con người. Sau này, người phương Tây

cũng dùng từ "Ethique" với nghĩa là đạo đức học.

Ở phương Đông, Trung Quốc là nơi mà các nhà tư tưởng nói đến đạo

đức nhiều nhất, điển hình là Nho giáo. Trong tiếng Trung Quốc, chữ "đạo

18

đức" có nghĩa là Đạo lý và Đức hạnh, là con đường đúng đắn (phép tắc) mà

hành vi con người phải theo. Trong Nho giáo đạo đức được lý giải ở cương

thường, hay mở rộng ra là luân thường. Đó là mối quan hệ vua - tôi, cha mẹ -

con cái, chồng - vợ, anh - em, bạn bè.

- Đạo đức, được đề cập trong từ điển tiếng Việt là “những tiêu chuẩn,

những nguyên tắc xử sự được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi,

quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội” [52, tr.280]; hay “Đạo

đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,

chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người

trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bới niềm

tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [18, tr.8]. Mặc

dù có sự khác nhau về câu chữ song nhìn chung theo những cách hiểu này đạo

đức được xem như là loại công cụ, phương tiện điều chỉnh hành vi con người

trong các mối quan hệ xã hội.

- Đạo đức Mác - lênin khẳng định đạo đức là một hình thái ý thức xã

hội, là tập hợp những hành vi đánh giá cách ứng xử của con người trong quan

hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi

truyền thống và thông qua dư luận xã hội.

Tóm lại, một cách chung nhất, đạo đức là những chuẩn mực xã hội nhằm

điều chỉnh hành vi con người và là cơ sở để đánh giá xử sự của mỗi con người.

Như vậy, đạo đức được xem là một phương thức điều chỉnh hành vi của

con người. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi

con người: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức… Đối với đạo

đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc

đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính

nghĩa và phi nghĩa. Các hái niệm, khuôn khép và qui tắc hành vi của con

người thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc

khác. Và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một

19

giai cấp nhất định. Những khuôn khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu

cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân.

Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ quốc, nhà nước,

giai cấp mình và giai cấp đối địch…) và đối với người khác. Những chuẩn

mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay một giai

cấp, dân tộc thừa nhận. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình

đối với xã hội và đối với người khác (khuôn khép hành vi) là tiền đề của hành

vi đạo đức của cá nhân. Đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu

sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của

mình và trong hoàn cảnh nào đó còn chịu sự khiển trách của lương tâm… Cá

nhân phải chuyển hóa những đòi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng

thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của

sự chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những

khuyến khích, những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã hội… Do

vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức

là sự lựa chọn của con người.

Đạo đức nói chung, là kết quả phát triển tác động qua lại lẫn nhau của

nhiều yếu tố, như: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật… mà

trước hết là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Theo quan điểm của chủ

nghĩa Mác, đạo đức là sự phản ánh của đời sống kinh tế của mỗi thời đại. Tức

là các yêu cầu về đạo đức bắt nguồn từ điều kiện kinh tế, đời sống xã hội ở

các giai đoạn lịch sử khác nhau thì phải có nội dung hác nhau. Do đó, hi

các quan hệ kinh tế xã hội đã thay đổi thì các quy tắc đạo đức cũng có sự vận

động, biến đổi. Đồng thời đạo đức cũng có tính độc lập tương đối của nó so

với tồn tại xã hội.

*Vai trò của đạo đức trong xã hội.

Trong đời sống xã hội, cùng với pháp luật, đạo đức là một trong những

công cụ quan trọng nhất để điều chỉnh hành vi con người. Trước hết, cần phải

20

khẳng định rằng đạo đức là một trong những công cụ điều chỉnh xuất hiện

sớm nhất trong lịch sử loài người, nó xuất hiện ngay từ khi bắt đầu hình thành

xã hội loài người. Đạo đức ra đời bắt nguồn từ nhu cầu tất yếu của đời sống

xã hội. Ở đâu có đời sống xã hội thì ở đó cần có đạo đức. Những chuẩn mực

đạo đức không chỉ giúp giữ trật tự xã hội, giải quyết các tranh chấp… mà nó

còn là công cụ hướng thiện, hướng cho xã hội đến những mục tiêu cao cả như

lương thiện, nhân đạo, nhân văn; đạo đức giúp cho từng cá nhân hoàn thiện

nhân cách, lối sống từ trong gia đình đến các quan hệ xã hội. Sự tu dưỡng đạo

đức giúp cho mỗi người hình thành lên lẽ sống đúng đắn, có những xử sự tốt

được mọi người tôn trọng.

Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến các loại công cụ điều chỉnh hác đối với

hành vi con người. Bởi lẽ đạo đức được xác định là cơ sở của tất cả các

phương tiện điều chỉnh khác, nói cách khác, các loại quy tắc ứng xử khác bao

gồm cả pháp luật, đều được hình thành trên nền tảng đạo đức xã hội. Điều đó

có nghĩa là điều chỉnh quan hệ xã hội bằng các công cụ khác phải thuận

chiềuvới sự điều chỉnh bằng đạo đức, nói cách khác, các quy phạm xã

hội khác phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi nếu trái

đạo đức tức là trái lẽ phải ở đời, trái nguyên lí tự nhiên, trái yêu cầu,

nguyên tắc của cuộc sống, do vậy, chúng không thể tồn tại được. Một

quy tắc xử sự nào đó hông phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã

hội sẽ khó có thể đi vào đời sống.

Là hệ thống chuẩn mực chung, đạo đức góp phần quan trọng trong việc

củng cố, gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ

tục của dân tộc. Đồng thời đạo đức góp phần đảm bảo cho xã hội phát triển

lành mạnh, ổn định, bền vững, đảm bảo văn minh và tiến bộ xã hội. Như vậy,

đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời là động lực để xã hội phát triển.

21

1.1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật

trong nhà nước và xã hội.

- Khái niệm pháp luật được hiểu một cách phổ biến nhất "là hệ thống

các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí

của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội"

[8, tr.64]. Pháp luật, về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giữa con

người với con người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử

sự, mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã

hội, sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân

theo, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm.

Với tư cách là hệ thống các quy tắc xử sự, pháp luật là công cụ điều

chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp

cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.

Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp

luật tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã có các iểu pháp luật chủ nô,

pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp

luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự

nhiên phi giai cấp của con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan

niệm. Pháp luật, như Mác – Ăngghen phân tích, chỉ phát sinh, tồn tại và phát

triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở

tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính xã hội, bởi

vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung của

xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Về mặt này, pháp luật xã hội

chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội. Pháp luật còn là

một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội.

Theo Lênin, một đạo luật là một biện pháp chính trị. Trong lịch sử, bất

cứ giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện và thực hiện

chính trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung,

22

trực tiếp chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện

quyền lực của Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính

trị của nó.

* Vai trò của pháp luật trong nhà nước và xã hội:

Pháp luật với tư cách là nguyên tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ

vai trò đặc biệt quan trọng trong nhà nước và đời sống xã hội nói chung. Pháp

luật được thừa nhận và sử dụng là công cụ để tổ chức và quản lý xã hội. Nhà

nước với tư cách là tổ chức quyền lực chung của xã hội, nó được xã hội uỷ

quyền thay mặt xã hội để ban hành pháp luật, vì vậy pháp luật phải phù hợp

với ý chí nhân dân, theo tinh thần của Rousseau, nhà nước ban hành pháp luật

nhưng phải có sự phê chuẩn của nhân dân và chỉ khi có sự phê chuẩn nó mới

trở thành luật. Mọi thành viên trong xã hội dù trên cương vị nào cũng đều

phải sống và làm việc theo pháp luật. Và nếu có sự mâu thuẫn nào giữa pháp

luật với các qui phạm xã hội khác thì pháp luật luôn có hiệu lực cao nhất. Vai

trò của pháp luật trong nhà nước và xã hội được thể hiện như sau:

Một là, pháp luật là công cụ để thiết lập và tăng cường quyền lực nhà

nước, công cụ tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Trước hết, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của

nhà nước. Sự tồn tại và hoạt động của nhà nước phải trên cơ sở của hiến pháp,

trong khuôn khổ của hiến pháp- văn bản thể hiện tập trung ý chí của nhân

dân. Ngày nay, trên thực tế, sau những cuộc đấu tranh giành chính quyền, lực

lượng nào giành được chính quyền cũng luôn tìm cách hợp pháp hóa sự tồn

tại của chính quyền đó bằng cách tổ chức bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến

pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở của hiến pháp.

Có nhiều công cụ, phương tiện để thực hiện việc kiểm soát và hạn chế

quyền lực nhà nước, trong đó pháp luật là công cụ, phương tiện quan trọng

bậc nhất. Pháp luật qui định sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan trong

23

bộ máy nhà nước. Nói cách khác, pháp luật qui định chức năng, nhiệm vụ

quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Một cơ quan hông thể làm

tất cả mọi việc cho dù đó là cơ quan tối cao. Nhờ có các qui định cụ thể trong

pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước xác định được một cách rõ ràng

quyền hạn và trách nhiệm của mình, nắm bắt được hình thức, phương pháp,

trình tự thủ tục tiến hành hoạt động. Thông qua pháp luật, các cơ quan, nhân

viên nhà nước biết được một cách rõ ràng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể,

họ được làm gì, hông được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào…

Thông qua pháp luật để kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân

viên nhà nước, xác định được tính chất hợp pháp, bất hợp pháp trong hành vi

của họ. Pháp luật qui định chế độ kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ

quan trong bộ máy nhà nước. Pháp luật qui định vai trò của công dân và các

thiết chế xã hội trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhân viên

nhà nước… Pháp luật qui định quyền tham gia quản lý nhà nước của công

dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, miting, biểu tình, lập hội…, quyền

khiếu nại, tố cáo những hành vi lạm quyền, xâm hại quyền lợi của nhân dân.

Pháp luật qui định chế độ trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước với nhau

cũng như giữa chúng với nhân dân. Dựa vào pháp luật có thể đánh giá hả

năng hoàn thành nhiệm vụ, qui kết tình trạng trốn tránh trách nhiệm, thoái

thác nhiệm vụ hay lạm quyền, vượt quyền trong hành vi của nhà chức trách,

nhờ đó có điều kiện để ngăn chặn, giảm thiểu, xóa bỏ những hiện tượng này.

Pháp luật qui định thời gian nắm giữ quyền hạn, chức vụ; pháp luật qui định

điều kiện tuyển dụng, phẩm chất tư cách của nhân viên nhà nước, chế độ thi

cử, thăng, giáng, khảo hạch, thuyên chuyển, điều động… đối với họ. Như vậy,

một mặt, pháp luật tạo nên khung pháp lý, hành lang pháp lý cho tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước, mặt khác, pháp luật là công cụ quan trọng để

giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.

24

Hai là, pháp luật là cơ sở để xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước, để

nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.

Để bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu

quả thì nó cần phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của pháp luật và

trong khuôn khổ của pháp luật. Có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng

nhất để tổ chức bộ máy nhà nước, qui định con đường hình thành, cơ cấu tổ

chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước,

xác lập mối quan hệ công tác giữa các cơ quan, nhân viên nhà nước với nhau,

giữa cơ quan, nhân viên nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong xã hội…

Nhờ có pháp luật, việc tổ chức bộ máy nhà nước trở nên khoa học, bộ máy

nhà nước trở nên nhịp nhàng, đồng bộ, tránh được sự chồng chéo, trùng lặp

hoặc bỏ trống trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Đồng thời, pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý các lĩnh

vực khác nhau của đời sống xã hội. Quản lý xã hội là công việc hó hăn,

phức tạp, đòi hỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng,

minh bạch. Dưới góc độ này, pháp luật thiết lập khuôn khổ, giới hạn cho hoạt

động của bộ máy nhà nước, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc,

cách thức hoạt động, giúp cho các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện

chức năng quản lý xã hội một cách dễ dàng, có hiệu quả.

Ba là, pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người,

bảo đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội.

Ngày nay, quyền con người đã trở thành một giá trị chung được cả loài

người công nhận. Và trong điều kiện xã hội dân chủ, pháp luật thực sự đóng

vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền ấy.

Vai trò quan trọng này của pháp luật thể hiện trước hết ở việc pháp luật

ghi nhận các quyền, tự do, dân chủ của con người. Đồng thời, pháp luật qui

định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm hại từ phía các

chủ thể khác, kể cả nhà nước. Để đảm bảo quyền, tự do, dân chủ của con

25

người, đòi hỏi quyền lực nhà nước phải bị hạn chế và có sự kiểm soát. Mặt

khác, sự xâm hại các quyền và tự do cá nhân đều phải bị trừng trị nghiêm

khắc. Như vậy, có thể khẳng định rằng, chỉ trên cơ sở pháp luật, bằng các qui

định của pháp luật thì các quyền con người mới được bảo đảm, bảo vệ và có

điều kiện để được hiện thực hóa.

Tuy vậy, quyền con người, tự do cá nhân cũng cần trong khuôn khổ và

phải có điểm dừng, nó không thể được hiểu là được làm tất cả những gì mình

muốn hay muốn làm gì thì làm. “Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh

ta không còn tự do nữa vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm

trái luật cả” [33, tr.99]. Quyền, tự do cá nhân phải có sự kết hợp hài hòa với

lợi ích chung của cộng đồng, mỗi người vừa tôn trọng cái chung, vừa có điều

kiện để tự do hành động nhằm đạt được sự thỏa mãn nguyện vọng và lợi ích

riêng của mình. Vì vậy, vấn đề quyền, tự do cá nhân luôn phải được đặt trong

sự tôn trọng quyền, tự do của người khác, tôn trọng và tuân thủ những qui tắc

chung của cộng đồng.

Nói cách khác, quyền tự do của mỗi người phải bị giới hạn bởi quyền

tự do của người khác. Pháp luật là phương tiện để mỗi cá nhân phải ràng buộc

đối với cá nhân khác và xã hội. Đồng thời, quyền, tự do, dân chủ của cá nhân

phải luôn đi èm với nghĩa vụ. Một mặt cá nhân được làm tất cả trừ những

việc bị pháp luật cấm, mặt khác, họ hông được làm những gì có hại cho

người khác, cho cộng đồng.

Bốn là, pháp luật chính là khuôn mẫu ứng xử cho mọi cá nhân, tổ chức

trong xã hội.

Để xã hội tồn tại trong trạng thái ổn định, trật tự, các quyền, lợi ích của

các thành viên trong cộng đồng được bảo đảm và bảo vệ, đòi hỏi xử sự của

mỗi người phải dựa trên những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu

nhất định. Có nhiều loại chuẩn mực cho hành vi con người, trong đó pháp luật

là một loại chuẩn mực quan trọng.

26

Pháp luật mô hình hóa các quan hệ xã hội thành các khuôn mẫu, chuẩn

mực cho hành vi ứng xử của con người, để họ bắt chước làm theo khi ở trong

điều kiện hoàn cảnh nhất định. Nó định hướng hành vi của cá nhân hay nhóm

xã hội trong những điều kiện nhất định; nó qui định những mục tiêu cơ bản,

những giới hạn, những điều kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh

vực quan trọng nhất của đời sống. Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên”

cho ứng xử của con người, nó nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước qui định

để mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho

phép. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành

vi nào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào

bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ

thể nào đó. Dưới góc độ xã hội, có thể nói, pháp luật là kết quả của sự “chọn

lọc” và “đào thải” một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội, trải qua bao

biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lý, để

giữ lại những cách xử sự phổ biến, hợp lý, khách quan.

Tóm lại, nói một cách tổng thể nhất, pháp luật là công cụ để thiết lập và

tăng cường quyền lực nhà nước, công cụ để tổ chức và kiểm soát quyền lực

nhà nước; là khuôn mẫu ứng xử của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội; là

công cụ quan trọng nhất để điều tiết các quan hệ xã hội, định hướng cho sự

phát triển của các quan hệ xã hội; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn

xã hội; bảo đảm và bảo vệ quyền con người, bảo đảm dân chủ, công bằng và

bình đẳng trong xã hội; cùng với các công cụ quản lý xã hội khác, pháp luật

giữ vai trò quan trọng đảm bảo sự phát triển ôn định, bền vững của xã hội.

1.2. Tính tất yếu của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây

dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

1.2.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

Đạo đức và pháp luật đều là những hình thái ý thức xã hội, bị quy định

bởi tồn tại xã hội. Về lý luận cũng như thực tiễn, đạo đức và pháp luật luôn có

27

mối quan hệ hăng hít, gắn bó. Trước hi nhà nước và pháp luật ra đời, xã

hội được điều chỉnh bằng các qui phạm xã hội, trong đó có qui phạm đạo đức.

Khi pháp luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội thì

đạo đức vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Sở dĩ như vậy bởi giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ hỗ trợ nhau cho

nhau; pháp luật và đạo đức đều có những điểm mạnh, điểm yếu mà khi kết

hợp lại chúng bổ sung cho nhau, điểm mạnh của pháp luật sẽ hỗ trợ cho điểm

yếu của đạo đức, ngược lại điểm mạnh của đạo đức sẽ bổ sung cho điểm yếu

của pháp luật.

Cùng tham gia điều chỉnh hành vi con người, pháp luật điều chỉnh hành

vi con người ở mức độ tối thiểu, nhằm giữ cho xã hội trong vòng ổn định; đạo

đức điều chỉnh hành vi con người ở mức tối đa với mong muốn cho xã hội

ngày càng nhân văn, nhân đạo.

Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức được thể hiện một cách đầy đủ, tập

trung thông qua sự tác động qua lại giữa chúng đối với nhau. Đạo đức có tác

động mạnh mẽ đến việc hình thành các qui định cụ thể trong hệ thống pháp

luật cũng như quá trình thực hiện pháp luật. Ngược lại, pháp luật có thể ghi

nhận, khẳng định, luật hóa những quan điểm, quan niệm, qui tắc đạo đức hay

phủ định, loại trừ nó, ngăn chặn sự hình thành và loại bỏ nó khỏi đời sống xã

hội, ngặn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.

Pháp luật ra đời trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, do

kinh tế quyết định, nhưng đồng thời pháp luật muốn đi vào đời sống phải bao

hàm trong nó những giá trị đạo đức, phải nhằm mục đích hướng tới một xã

hội nhân văn, tiến bộ.

Bản chất của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức là sự thống nhất,

đồng bộ giữa chúng. Hơn thế nữa, đạo đức còn là cơ sở của pháp luật, là gốc

của pháp luật; là nền tảng tinh thần của xã hội, đạo đức không chỉ tác động

đến việc hình thành nên các qui định cụ thể trong pháp luật mà còn tác động

28

đến việc pháp luật đi vào đời sống. Đạo đức là môi trường cho sự phát sinh,

tồn tại và phát triển của pháp luật, hay nói cách khác, có thể coi đạo đức là

chất liệu làm nên các qui định của pháp luật. Khi pháp luật phù hợp với quan

điểm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ được thực hiện một cách

nghiêm chỉnh, ngược lại nếu pháp luật trái với đạo đức xã hội, nó sẽ khó có

thể đi .vào đời sống.

Ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp

luật, người có phẩm chất đạo đức tốt trong mọi trường hợp sẽ chấp hành pháp

luật nghiêm chỉnh, nếu thiếu luật nhưng con người có đạo đức thì họ sẽ không

vi phạm hoặc biết kiềm chế tối đa sự vi phạm. Ngược lại đối với những người

ý thức đạo đức thấp ém thường coi thường pháp luật, dễ có hành vi vi phạm

pháp luật. Bởi lẽ dù có pháp luật mà thiếu lương tâm người ta sẵn sàng bất

chấp luật, xuyên tạc luật, lợi dụng luật… Có thể nói ý thức đạo đức cá nhân là

cơ sở để mỗi người nhận thức và hành xử theo pháp luật.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng có những tác động không nhỏ đến đạo

đức. Nhờ có pháp luật, đạo đức có thêm sức mạnh để củng cố, khẳng định vị trí, vai

trò trong đời sống xã hội. Có thể nói pháp luật là phương tiện quan trọng làm cho

những quan niệm, quan điểm, những chuẩn mực đạo đức của giai cấp cầm quyền

được truyền bá một cách phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, những quan

điểm đó là những quan điểm phải phù hợp với suy nghĩ, lối sống của nhân dân thì

mới được quần chúng nhân dân dễ dàng tiếp nhận.

Pháp luật giúp cho những chuẩn mực đạo đức mang giá trị tích cực

trong truyền thống được giữ gìn, kế thừa và phát huy trong đời sống; đồng

thời pháp luật ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Điều đó thể hiện sự

vi phạm các chuẩn mực đạo đức không chỉ bị dư luận xã hội lên án mà còn chịu sự

tác động từ pháp luật, những biện pháp nhà nước. Bên cạnh đó, pháp luật cũng loại

trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức không chính thống (của các lực lượng

29

đối lập), những tư tưởng lạc hậu (của xã hội cũ), xây dựng các tư tưởng đạo đức

mới phù hợp hơn với thực tiễn phát triển của xã hội.

Như vậy, đạo đức và pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại chặt

chẽ, bổ sung cho nhau. Pháp luật cần đạo đức để hỗ trợ, bổ sung cho nó trong

trường hợp pháp luật còn hạn chế, khiếm khuyết, nó cũng cần đạo đức để tạo

ra động lực thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống.

1.2.2. Sự cần thiết phải kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến

mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, pháp

luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh hành vi con người và điều chỉnh các

quan hệ xã hội. Tuy nhiên, xét một cách cụ thể Việt Nam xây dựng nhà nước

pháp quyền trong điều kiện kinh tế - xã hội mang tính đặc thù riêng. Không

như những quốc gia phương Tây, nơi mà truyền thống pháp lý đã hình thành

từ rất sớm, mọi vấn đề đều được giải quyết trên cơ sở pháp luật.

Khác với xã hội phương Tây, xã hội Á đông, trong đó có Việt Nam,

đạo đức rất được coi trọng, nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong đời sống và

cả trong việc hình thành những qui định trong hệ thống pháp luật cũng như

trong việc thực thi pháp luật. Trong thực tiễn truyền thống, người ta ứng xử

với nhau trước hết bằng đạo lý, sau đó mới bằng pháp lý, thể hiện trong quan

niệm “trăm cái lý hông bằng tý cái tình”. Chính trong những đặc điểm, hoàn

cảnh lịch sử đặc thù ấy, nền văn hóa Phương Đông - văn hóa làng xã với hệ

thống các quy phạm đạo đức có điều kiện phát huy vai trò điều chỉnh các mối

quan hệ giữa người với người trong cộng đồng xã hội.

Ở Việt Nam trong xã hội cũ, đạo đức được đặt ra để dành cho vua,

quan lại và giai cấp thống trị, pháp luật được đặt ra dành cho dân chúng,

“quan thì xử theo lễ, dân thì xử theo luật”, “lễ nghi không tới thứ dân, hình

phạt không tới trượng phu”, trái lại, trong điều kiện nhà nước pháp quyền,

30

pháp luật và đạo đức có ý nghĩa như nhau đối với tất cả mọi thành viên trong

xã hội, không có bất cứ ngoại lệ hay sự phân biệt đối xử nào. Tuy nhiên hệ

thống pháp luật của ta vẫn chưa thực sự đầy đủ và đồng bộ, ý thức pháp luật

của một bộ phận nhân dân còn chưa cao, chưa đồng đều.

Pháp luật và đạo đức dù cùng là những công cụ điều chỉnh hành vi con

người, điều chỉnh các quan hệ xã hội, song chúng không thể thay thế cho

nhau. Pháp luật chỉ có thể điều chỉnh được những quan hệ xã hội mà hành vi

của các chủ thể bị chi phối bởi các yếu tố lý trí, ý chí con người. Còn đối với

những quan hệ xã hội mà hành vi của các chủ thể bị chi phối bởi yếu tố tình

cảm, lương tâm, chẳng hạn quan hệ tình bạn, tình yêu, tình làng nghĩa xóm…

lại thuộc về lĩnh vực đạo đức, pháp luật hông phát huy được tác dụng điều

chỉnh. Vì vậy, một mình yếu tố pháp luật chưa bao giờ là đủ. Theo quan điểm

của chủ tịch Hồ Chí Minh thì đạo đức là gốc, pháp luật là chuẩn, gốc có

vững thì cây mới xanh tốt; đạo đức, lệ có vững thì pháp luật mới được đảm

bảo. Có pháp luật nhưng nếu hông có lương tâm thì người ta sẽ bất chấp

luật, lách luật, bẻ cong luật…; hoặc ngược lại, có những hành vi pháp luật

không cấm, nhưng nếu trái với đạo đức xã hội thì không nên làm. Kết hợp đạo

đức và pháp luật trong mối quan hệ hỗ trợ của nó thì hiệu quả điều chỉnh các

quan hệ xã hội cao hơn.

Như trên đã phân tích, cả đạo đức và pháp luật đều có những thế mạnh

riêng và điểm yếu riêng. Thế mạnh của pháp luật là khả năng điều chỉnh rõ

ràng, dứt khoát, theo ý chí của giai cấp cầm quyền đối với các quan hệ xã hội

cơ bản của đất nước. Sự điều chỉnh này thống nhất trên một phạm vi rộng

theo những trình tự, cơ chế luật định, đặc biệt là sự đảm bảo thực hiện pháp

luật bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước với hệ thống cơ quan bảo vệ pháp

luật: Tòa án, Quân đội, Cảnh sát, Nhà tù… Trong hi đó, thế mạnh của đạo

đức lại là khả năng tham gia điều chỉnh tất cả mọi mối quan hệ xã hội, mọi

31

góc độ tình cảm trong đời sống giữa cá nhân và nhà nước, cá nhân với cá

nhân và cá nhân với chính bản thân mình. Bằng cơ chế điều chỉnh từ bên

trong, đạo đức tác động đến đời sống tình cảm, danh dự, uy tín của con người

để từ đó hình thành nhiều cách xử sự phù hợp với chuẩn mực chung của xã

hội, thực hiện chúng bằng niềm tin nội tâm, sự tự giác và sức ép của dư luận

xã hội. Bên cạnh đó, đạo đức có thể hỗ trợ cho pháp luật để các văn bản pháp

luật ban hành ra phù hợp với thực tiễn và đi vào cuộc sống một cách thuận lợi

hơn. Đồng thời pháp luật có thể giúp ghi nhận, củng cố những giá trị đạo đức

truyền thống tốt đẹp và cổ vũ, bảo vệ những giá trị đạo đức mới.

Như vậy, kết hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng NNPQ

ở Việt Nam là một tất yếu. Ý thức đạo đức cá nhân luôn luôn là nhân tố hết

sức quan trọng thúc đẩy việc thực hiện pháp luật. Pháp luật chỉ có thể được

thực hiện nghiêm chỉnh khi mỗi cá nhân trong xã hội đều là những người có ý

thức đạo đức tốt, mỗi người đều tự ý thức được một cách sâu sắc vai trò, bổn

phận, trách nhiệm của mình trong đời sống cộng đồng. Bởi vậy, xây dựng

NNPQ cũng chính là làm cho đạo đức xã hội được coi trọng và phát huy vai

trò tích cực của nó. Bằng việc xây dựng NNPQ, các quan niệm, quan điểm

đạo đức xã hội, đặc biệt là các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được

giữ gìn, bảo lưu và phát huy vai trò tích cực của nó trong điều kiện mới, góp

phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội mới văn minh nhưng luôn

giữ vững truyền thống, tạo lập nền tảng văn hóa tinh thần vững chắc cho công

cuộc hợp tác, hội nhập quốc tế.

Như vậy, bên cạnh những ưu thế vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều

có những hạn chế nhất định; song giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, tác

động qua lại, bổ sung cho nhau. Do vậy, cả đạo đức và pháp luật đều cần được

coi trọng. Đặc biệt trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN hiện nay, chức năng

của cả đạo đức và pháp luật phải được thực hiện trong sự kết hợp chặt chẽ với nhau.

32

1.3. Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Lý luận và thực tiễn cho thấy, không có pháp luật, hông có đạo đức

tồn tại độc lập mà chúng tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, gắn bó, tương trợ

lẫn nhau. "Trên thực tế, không một lĩnh vực quan hệ xã hội nào từ lĩnh vực

chính trị, ngoại giao, kinh tế - kinh doanh, quân sự, hành chính pháp lý mà lại

không có quan hệ ít nhiều với đạo đức, từ các phạm trù của đạo đức: thiện, ác,

tốt, xấu, công bằng, nhân đạo, lương tâm, vinh, nhục..." [36, tr.15]. Xuất phát

từ lý luận và thực tiễn xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay, chúng ta

thấy rằng sự kết hợp đạo đức và pháp luật phải được thể hiện, được chứa

đựng trong một hình thức tồn tại hợp pháp, để cả đạo đức và pháp luật phát

huy được vai trò trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; bên cạnh đó không

được vi phạm nguyên tắc pháp chế, vi phạm nguyên tắc hiến định là nhà nước

quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.

Bất kỳ một hệ hống pháp luật hay một nền đạo đức nào cũng luôn phản

ánh các đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử,

tín ngưỡng... của dân tộc đó. Bởi vậy, mỗi dân tộc có những quan niệm, chuẩn

mực đạo đức riêng, hệ thống pháp luật phải phù hợp với các điều kiện kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội của dân tộc mình. Chỉ có kết hợp hài hòa các giá trị

của cả đạo đức và pháp luật, mới có thể tác động tích cực nhất tới con người,

nhằm xây dựng con người có văn hóa pháp lý cao, có phẩm chất đạo đạo đức

lành mạnh, tích cực trong cộng đồng xã hội.

Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ thể hiện

ở những phương diện sau đây:

Một là, hoạt động xây dựng pháp luật luôn đặt trên nền tảng những giá

trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; góp phần giữ gìn và phát huy

các giá trị đạo đức tốt đẹp đó.

33

Có thể nói bất kỳ một hệ thống pháp luật nào bao giờ cũng ra đời, tồn

tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất định. Thực tiễn cho thấy, đạo

đức có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các qui định trong pháp luật.

Những quan điểm, tư tưởng, các chuẩn mực đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư

tưởng chủ đạo trong việc xây dựng nên các qui định của pháp luật.

Sự tác động của đạo đức đến hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở

chỗ: Trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng đạo đức, các nhà làm luật đặt ra các

qui phạm pháp luật không trái với đạo đức xã hội, mà phù hợp với những

quan điểm, tư tưởng đạo đức ấy, và cao nhất là thể chế hóa chúng thành

những qui phạm pháp luật.

Có thể nói, hơn bao giờ hết, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị

trường, hợp tác và hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống của dân tộc Việt

Nam đang đứng trước những thách thức gay gắt. Bởi vậy, việc kết hợp giữa

pháp luật với đạo đức phải đảm bảo một mặt nhằm giữ gìn, bảo tồn, phát huy

các giá trị truyền thống, mặt khác nhằm loại trừ những quan niệm, qui tắc đạo

đức lạc hậu, phản tiến bộ, trái thuần phong, mỹ tục của dân tộc, ngăn chặn sự

thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc giữ gìn các giá

trị truyền thống là nhằm tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển. Nói cách

khác, giữ gìn các giá trị truyền thống là để phục vụ phát triển chứ hông được

cản trở phát triển. Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức nhằm xây dựng

một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng

bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn người Việt, nhất là đối với thế hệ trẻ, những người

ít chịu ảnh hưởng bởi truyền thống, đang có xu hướng xa dần truyền thống.

Đồng thời, pháp luật ghi nhận, củng cố và bảo vệ những quan niệm,

quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức truyền thống tiến bộ.

Pháp luật chính là sự thừa nhận một cách chính thức của nhà nước đối

với đạo đức. Với tư cách là hệ thống qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành và

đảm bảo thực hiện, pháp luật tác động mạnh mẽ đến đạo đức, nó góp phần

34

củng cố, bảo vệ và phát huy những giá trị đạo đức tố đẹp và làm cho các

chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong toàn xã hội. Việc pháp luật ghi

nhận, củng cố các quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức diễn ra theo hai

cách: Một là, ghi nhận trực tiếp, nâng lên và thể chế hóa thành luật; hai là, ghi

nhận gián tiếp thông qua việc pháp luật qui định “nghiêm cấm các hành vi trái

với đạo đức xã hội”.

Hai là, pháp luật loại trừ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu,

đồng thời góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức mới, tiến bộ,

phù hợp với điều kiện xã hội hiện nay.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ tương đối mạnh

mẽ, các quan niệm đạo đức truyền thống ăn sâu bám rễ trong tâm lý mỗi

người dân, nó trở thành thói quen sử xự được lặp đi lặp lại của mỗi cá nhân,

mỗi giá đình, dòng họ hay của cả cộng đồng. Việc trong thói quen ứng xử ấy

có những quan niệm, tư tưởng đã lạc hâu, bảo thủ thì cũng hông dễ gì ngày

một ngày hai mà từ bỏ, bởi lẽ có những quan niệm, qui tắc hành xử đã tồn tại

hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm nay.

Trong những trường hợp này, pháp luật với tính cách là những qui

phạm mang tính bắt buộc, đảm bảo thực hiện, được xem là phương tiện hữu

hiệu để loại bỏ những tư tưởng đạo đức lạc hậu. Điều này thể hiện ở chỗ, một

mặt thông qua tuyên truyền, vận động người dân không thực hiện các chuẩn

mực đạo đức cũ đã lỗi thời (tục cưới xin linh đình, bắt buộc sinh con trai…);

có những qui định xử phạt rõ ràng nếu vi phạm. Mặt khác, pháp luật ghi nhận

những chuẩn mực đạo đức mới, khuyến khích các chủ thể hưởng ứng, thực

hiện theo những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ hơn.

Ba là, kết hợp đạo đức và pháp luật phải góp phần ngăn chặn sự suy

thoái, xuống cấp của đạo đức.

Suy thoái đạo đức là hiện tượng mà những chuẩn mực đạo đức xã hội

trở nên kém giá trị, mất tác dụng, hông còn ý nghĩa trong điều chỉnh suy

35

nghĩ và hành vi của con người, không còn phát huy sự ảnh hưởng tích cực

trong đời sống xã hội, hông còn ý nghĩa là rào cản, ngăn ngừa những hành vi

bất chính, bất thiện...

Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, pháp luật là công cụ hữu hiệu để

diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại của đạo đức. Bằng việc ghi nhận thành

pháp luật các quan niệm, quan điểm đạo đức, nhà nước bảo đảm cho các quan

niệm, quan điểm đạo đức đó được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Đặc

biệt, bằng việc xử lý nghiêm minh những kẻ có hành vi đi ngược với các giá

trị đạo đức xã hội, trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi phi nhân cách,

pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá trị đạo đức của xã hội, ngăn chặn

sự tha hóa xuống cấp của đạo đức.

Tóm lại, kết hợp giữa đạo đức với pháp luật là nhằm làm cho pháp luật

và đạo đức trở nên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau, gắn bó với nhau

một cách chặt chẽ, hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển. Sự kết hợp này được thể

hiện trên nhiều phương diện, trong đó pháp luật phải hàm chứa trong nó giá

trị đạo đức, pháp luật phải ghi nhận và thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng

đạo đức tiến bộ thành các chuẩn mực xử sự chung của mọi người. Ngược lại,

đạo đức phải hỗ trợ cho quá trình thực hiện các quy định của pháp luật vào

trong cuộc sống thông qua sự nhận thức, ý thức tự giác về nghĩa vụ và bổn

phận của công dân đối với việc giữ gìn ổn định trật tự chung xã hội nói chung

và đối với việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Có như

vậy mới phát huy một cách tích cực nhất hiệu quả điều chỉnh của cả pháp luật

và đạo đức – với tư cách là hai hệ thống qui phạm quan trọng nhất để điều

chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.

36

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta đã và đang thu được những thành

tựu quan trọng. Dân chủ trong xã hội ngày càng được mở rộng và mang tính

thực chất; hệ thống pháp luật đang ngày càng trở nên hoàn thiện; quyền lực

nhà nước được tổ chức và kiểm soát bởi pháp luật; các quyền con người,

quyền công dân ngày càng được tôn trọng, bảo đảm, pháp luật ngày càng phát

huy vai trò to lớn, tích cực trong việc điều chỉnh hành vi con người, quản lý

xã hội. Bên cạnh đó, các quan niệm, quan điểm, các chuẩn mực đạo đức

truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng đang được củng cố, phát huy vai trò

tích cực của mình đối với pháp luật.

Ra đời vào những thời điểm khác nhau của lịch sử, pháp luật và đạo

đức luôn là phương tiện điều chỉnh phổ biến và cơ bản nhất đối với hành vi và

các mối quan hệ xã hội của con người. Vị trí, vai trò, tính chất của sự kết hợp

giữa pháp luật và đạo đức được nhân thức, khai thác, sử dụng không hoàn

toàn giống nhau, chúng luôn có sự biến đổi qua từng thời kỳ lịch sử.

2.1.1. Khái quát lịch sử kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý

xã hội ở Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam, tư tưởng về đường lối trị nước được hình

thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước phong kiến.

Sự kết hợp giữa tư tưởng “đức trị” với “pháp trị” trong đường lối trị nước đã

có ngay từ hi đất nước giành được độc lập, gắn với các triều đại Ngô, Đinh,

Tiền Lê, Lý, Trần. Nhưng điều đó thể hiện rõ nhất ở thời Lê sơ, với việc kế

thừa chủ trương “đức chủ, pháp bổ” của nhà Trần - một triều đại từng bước

37

đề cao địa vị của Nho giáo trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Đường lối trị

nước ở thời Trần so với thời Lý là một bước phát triển mạnh mẽ. Đó hông

còn đơn thuần là đường lối “đức trị” với tinh thần “từ bi bác ái” của nhà Phật

như thời Lý, mà là đường lối kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trên tinh thần

“đức chủ, pháp bổ”. Ở thời Trần, mặc dù Nho giáo chưa phát triển đến mức

thịnh trị, nhưng do nhu cầu xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập

quyền, cho nên nhà Trần phải dựa vào Nho giáo. Yếu tố chủ đạo trong tư

tưởng trị nước của Nho giáo là đạo đức, tức là dùng đạo đức xã hội và chuẩn

mực đạo đức cá nhân (tam cương, ngũ thường) để điều chỉnh mối quan hệ và

hành vi của các cá nhân trong xã hội. Ở thời kỳ này, đường lối “đức trị” giữ vị

trí chủ đạo trong cách cai trị của nhà Trần. Nội dung “đức trị” thời kỳ này thể

hiện tập trung ở hai vấn đề: một là, sự tu thân sửa đức của nhà vua làm

gương cho dân chúng, là cơ sở giáo hoá toàn xã hội; hai là, sự chăm lo

của nhà vua và những người đứng đầu đến đời sống của người dân thông

qua các chính sách giáo hoá, dưỡng dân và chăm lo đời sống vật chất của

nhân dân. Ý thức được tầm quan trọng của yếu tố đạo đức trong nhân

cách nhà vua, các vua nhà Trần đã đặc biệt chú trọng đến việc tu thân sửa

đức của bản thân và giáo dục con cái về đạo đức để có được những người

kế vị sáng suốt. Điều này được thể hiện thông qua việc uốn nắn, nhắc nhở,

quở phạt của Thượng hoàng đối với các vị vua đương triều cũng như việc

vua Trần Thái Tông đích thân viết bài minh để dạy hoàng tử về trung

hiếu, hoà tốn, ôn, lương, cung, iệm, v.v... nhằm rèn giũa nhân cách, lý

tưởng cho người kế vị. Tuy nhiên, giai cấp thống trị thời nhà Trần mặc dù

giương cao ngọn cờ và kiên trì nguyên tắc “đức trị”, coi “đức trị” là

đường lối chủ đạo trong cách trị dân trị nước, nhưng đó hông phải là

đường lối đức trị thuần túy mà đã có sự kết hợp nhất định với “pháp trị”

theo tinh thần “đức chủ, pháp bổ” như đã nói ở trên.

38

Đến thời Lê sơ, chủ trương trị nước phải có pháp luật và lễ nghĩa để

sửa tốt lòng dân được thực hiện nghiêm chỉnh. Nếu ở nhà Trần đường lối

“đức trị” là chủ đạo có sự hỗ trợ của pháp luật thì đến thời Lê sơ, vai trò của

pháp luật đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố đức trị. Nói cách hác, đó là

đường lối trị nước đức trị kết hợp với pháp trị theo đúng nghĩa của nó. Vua Lê

Thái Tổ khẳng định: “Từ xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có

pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các

tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ, biết thế nào là thiện ác,

điều thiện thì làm, chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp” [23,

tr.291]. Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu lên ngôi, việc lập pháp đã được

vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng. Năm 1428, ông đã hạ lệnh cho các quan

bàn định pháp lệnh cai trị quân dân. Nổi bật trong đường lối pháp trị của Lê

Thái Tổ là việc đề cao pháp luật mà trọng tâm là việc thưởng phạt nghiêm

minh. Hình phạt dưới thời Lê Thái Tổ mặc dù chưa chặt chẽ, song, có thể nói

là rất nghiêm khắc. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã hạ lệnh cho các quan ở inh đô

và lộ, huyện, xã rằng, “Kẻ nào du thủ du thực, đánh cờ đánh bạc, thì quan ty

và quân dân bắt nộp để trị tội. Đánh bạc thì chặt 5 ngón tay, đánh cờ thì chặt

một phân ngón tay, những kẻ không phải là việc quan mà vô cớ tụ họp uống

rượu thì xử phạt 100 trượng” [23, tr.298]. Mặt khác, dù rất coi trọng pháp luật

trong việc trị nước, nhưng nhà Lê sơ hông để các yếu tố pháp trị chiếm ưu

thế triệt để. Ngay từ đầu, triều Lê sơ đã đề ra chủ trương, một mặt ấn định

luật lệ, măt hác là chế tác lễ nhạc... Đến thời vua Lê Thánh Tông, đường lối

trị nước dựa trên sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị đã có được bước phát

triển mạnh mẽ. Dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo với những quy tắc

cơ bản về cương, thường mà chính những quan niệm này của Nho giáo đã

được tầng lớp cai trị triều Lê sơ vận dụng thành những điều huấn, và được

nâng lên ở tầm quy phạm pháp luật trong bộ luật nổi tiếng dưới thời Lê Thánh

Tông - Bộ luật Hồng Đức. “Các qui phạm đạo đức được thể hiện trong tất cả

39

các chương, điều của Bộ luật Hồng Đức, hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp”

[23, tr.132]. Sự thịnh trị của triều đại này dưới thời Lê Thánh Tông đã chứng

minh tính hợp lý của đường lối trị nước kết hợp giữa đức trị và pháp trị, đáp

ứng được đòi hỏi của thời đại. Nhờ đó, triều đại này đã trở thành triều đại

phong kiến trung ương tập quyền nổi tiếng nhất trong lịch sử chế độ phong

kiến Việt Nam. Đường lối trị nước kết hợp giữa đức trị với pháp trị dưới thời

Lê sơ được các triều đại sau kế thừa.

Như vậy trong lịch sử, sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong trị nước

đã được nhìn nhận và sử dụng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trong xã hội cổ

truyền Việt Nam, pháp luật phát triển mờ nhạt, chậm chạp hơn đạo đức và các

quy tắc xã hội khác. Nhu cầu về pháp luật và vai trò của pháp luật ở Phương

Đông nói chung, ở Việt Nam nói riêng hông cao như ở Phương Tây cổ đại.

Những đặc thù lịch sử, văn hóa, hí hậu địa lý, những đặc trưng của chế độ sở

hữu ruộng đất làng xã đó tạo điều kiện cho sự tồn tại thuận lợi và phát huy

sức mạnh của đạo đức, của phong tục tập quán, hương ước, tín điều tôn giáo.

Đồng thời chính các quy phạm xã hội này lại là lực cản cho sự phát triển của

pháp luật. “Lối sống trọng tình nghĩa, đạo lý, lối ứng xử thiên về tình cảm với

tính cách là giá trị truyền thống, niềm tự hào của dân tộc, góp phần làm ổn

định xã hội, tạo nên nét độc đáo của quan hệ người với người nhưng lại là một

trong những nhân tố kìm hãm sự phát triển của ý thức pháp luật và các quan

hệ pháp lý” [20, tr.188].

Do vậy, tư duy pháp lý của người Việt Nam còn thấp mà nặng về tư

duy đạo đức, tư duy luân lý. Đến thời nhà Lý, nước ta mới chính thức có pháp

luật thành văn (Bộ Hình thư ban hành năm 1402). Trong số những bộ luật của

thời kỳ phong kiến Việt Nam, bô luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình luật) dưới

thời Lê Thánh Tông được coi là tiêu biểu nhất. Bộ luật được xây dựng trên cơ

sở đạo đức Nho giáo là cơ bản, ngoài ra cũng thể hiện các giá trị đạo đức

truyền thống của dân tộc. Trong chế độ phong kiến, pháp luật và đạo đức có

40

quan hệ hết sức chặt chẽ. Đạo đức Nho giáo là cơ sở của pháp luật, nó chỉ đạo

nội dung của pháp luật, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng như

việc bảo vệ pháp luật. Ngược lại, nhờ có pháp luật và bằng pháp luật mà

các quan niệm, chuẩn mực đạo đức Nho giáo được truyền bá một cách phổ

biến, rộng khắp và thâm nhập một cách sâu sắc trong đời sống xã hội, tạo

nên truyền thống coi trọng đạo lý, thói quen xử sự theo đạo lý trong xã hội

Việt Nam.

Nhìn từ một góc độ khác, với ưu thế điều chỉnh của đạo đức, con người

dường như hòa tan vào cộng đồng, vai trò cá nhân ít được thể hiện. Trong

xã hội cổ truyền, con người hầu như hông có hái niệm về quyền pháp lý

mà chủ yếu là bổn phận, đạo đức. Pháp luật đối với người dân quá xa lạ và

đồng nghĩa với trừng phạt nên họ thường thờ ơ, chống đối, không có thói

quen sống theo pháp luật, coi trọng tục lệ hơn pháp luật. Cuộc sống với

những quan hệ xã hội thuần nhất, giản đơn về cơ bản được điều chỉnh bằng

đạo đức và tập tục.

Vào giai đoạn tiếp theo của lịch sử, cơ chế bao cấp khiến các quan hệ

trao đổi dân sự trong xã hội trở nên vắng bóng và tẻ nhạt. Điều đó càng làm

cho con người ít có cơ hội va chạm với pháp luật. Xã hội nông nghiệp với

các quan hệ hàng xóm láng giềng là chủ yếu tất yếu đưa đến cách xử sự

trọng tình cảm. Gặp cái gì không vừa ý, người ta ứng xử theo lối “chín bỏ

làm mười”, thông cảm, chiếu cố cho nhau. Gặp cái gì bất công, họ nhẫn

nhịn, “một sự nhịn, chín sự lành”, chưa có ý thức đấu tranh cho công bằng,

bình đẳng, công lý.

Bước sang thời kỳ đổi mới, dưới tác động của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật và đạo đức đều có sự biến đổi mạnh

mẽ. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng, dần khẳng định

được vị thế, chiếm lĩnh được “thị phần” xã hội của mình trong tương quan với

đạo đức. Ngày càng có nhiều các quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng

41

pháp luật. Trước đây do nhận thức chưa đầy đủ, chúng ta đánh giá chưa thật

đúng đắn về vai trò của pháp luật và đạo đức. Song điều đó dần dần đã được

thay đổi. Văn iện Đại hội lần thứ 6 của Đảng đã hẳng định: “quản lý xã hội

phải bằng pháp luật chứ không thể chỉ bằng đạo lý” [9, tr.121]. Có thể nói,

Đại hội 6 là một bước ngoặt, đánh dấu sự thay đổi hết sức quan trọng trong tư

duy của Đảng trên nhiều bình diện, trong đó có tư duy quản lý nhà nước.

Theo đó, Đảng đã nhận thức được vai trò to lớn của pháp luật trong quản lý

xã hội, vì vậy đã hẳng định “quản lý xã hội phải bằng pháp luật”. Pháp luật

thực sự là công cụ hữu hiệu nhất để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của

đời sống xã hội, là công cụ hữu hiệu để bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích

của công dân. Nhờ vai trò tích cực đó của pháp luật, nền kinh tế xã hội nước

ta trong hai chục năm qua đã có sự phát triển khá mạnh mẽ. Do nhu cầu hợp

tác và hội nhập nền kinh tế, do ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, pháp luật

của nhà nước ta trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng khá lớn của pháp

luật các nước trong khu vực và trên thế giới.

Cùng với việc xây dựng và xác lập vai trò của pháp luật, là việc giữ

gìn, củng cố và phát huy các giá trị đạo đức tiến bộ. Các quan niệm, quan

điểm đạo đức cách mạng, nhất là các quan điểm đạo đức cách mạng theo quan

điểm Hồ Chí Minh được tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò tích cực của

chúng. Đó là các quan điểm, tư tưởng cán bộ, đảng viên phải trung thành với

sự nghiệp của Đảng, trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh

vì độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân, một lòng một dạ, toàn tâm toàn ý

phục vụ nhân dân, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho

dân phải hết sức tránh”, đồng thời phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét

sạch chủ nghĩa cá nhân. Những tư tưởng đạo đức tiến bộ, nhân đạo trên của

chủ tịch Hồ Chí Minh là những giá trị có ích cần tiếp tục được học tập, noi

gương trong quá trình xây dựng đất nước.

42

Bên cạnh những quan điểm đạo đức truyền thống, nhiều quan điểm

mới có ý nghĩa tích cực đối với đời sống, phản ánh các quan hệ xã hội trong

điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước

được hình thành, đó là những quan điểm sống và làm việc theo Hiến pháp và

pháp luật; quan điểm là giàu chính đáng cho bản thân và xã hội; quan điểm

cạnh tranh lành mạnh… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, tích cực thì nền

kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó. Nền kinh tế thị trường dễ

làm con người chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, coi đồng tiền là trên

hết, bất chấp đạo lý, tình cảm. Không ít trường hợp vì đồng tiền mà chà đạp

lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, anh em, bạn bè. Bên cạnh đó, một số

quan niệm, quan điểm cũ, lạc hậu vẫn chưa được xóa bỏ triệt để. Đó là tư

tưởng gia trưởng, coi thường phụ nữ; tư tưởng coi thường lớp trẻ “trứng khôn

hơn vịt”, “già lên lão làng”… Đồng thời, một số quan niệm đạo đức mới lệch

lạc, không phù hợp với truyền thống thuần phong mỹ tục của dân tộc đang có

xu hướng thịnh hành như hôn nhân thử nghiệm, lựa chọn giới tính thai nhi...

Tình hình vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn mức

độ nghiêm trọng. Tình trạng tham nhũng đã trở thành quốc nạn. Đứng trước

thực trạng đó, việc nhìn nhận, nghiên cứu kết hợp đạo đức và pháp luật một

cách hiệu quả là hết sức cần thiết và có ý nghĩa.

2.1.2. Những kết quả đã đạt được và một số hạn chế tồn tại của việc

kết hợp pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Quản lý

xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [10,

tr.129]. Đây là những quan điểm chỉ đạo hết sức kịp thời của Đảng trong việc

thừa nhận và phát huy vai trò của đạo đức và pháp luật trong quản lý đời sống

xã hội.

43

Dưới sự chỉ đạo sáng suốt này, trong thời gian qua, sự kết hợp giữa đạo

đức và pháp luật đã được nhận thức và xử lý đúng đắn, sáng tạo, mang đến

những kết quả nhất định như sau.

2.1.2.1. Những kết quả đã đạt được

Thứ nhất, pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.

Có thể nói, hơn bao giờ hết, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị

trường, hợp tác và hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống của dân tộc Việt

Nam đang đứng trước những thách thức gay gắt. Bởi vậy, việc kết hợp giữa

pháp luật với đạo đức một mặt góp phần giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị

truyền thống, mặt khác loại trừ những quan niệm phản tiến bộ và ngăn chặn

sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.

Bước vào thời kỳ Đổi mới, pháp luật của nhà nước có tác động mạnh

mẽ tới đạo đức và toàn bộ đời sống xã hội. Nó không chỉ làm cho các quan

niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong toàn xã hội, mà

quan trọng hơn, nó đảm bảo cho đạo đức được thực hiện nghiêm chỉnh hơn,

đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá

trị của chúng.

Để củng cố, giữ gìn và phát huy những quan niệm quan điểm đạo đức

tiến bộ; ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức, nhà nước ta đã thể

chế hoá các quan điểm, quan niệm đạo đức và thừa nhận các qui tắc đạo đức

thành các quy phạm pháp luật. Theo đó, pháp luật xác định rõ các hành vi

được phép thực hiện, các hành vi bắt buộc phải thực hiện, các hành vi bị ngăn

cấm; đồng thời qui định các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với chủ thể vi

phạm các qui định đó. Nhờ đó, đạo đức không chỉ được thực hiện tùy thuộc

vào lương tâm và tình cảm của chủ thể, nó đã được pháp luật hoá, đã trở

thành những qui tắc xử sự có ý nghĩa bắt buộc đối với mọi chủ thể trong xã

hội. Qua đó, chúng được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp nhà nước.

44

Pháp luật cũng qui định nghĩa vụ của nhà nước và xã hội trong việc

giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục

của dân tộc.

Hiến pháp năm 1992 qui định: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy

những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ chí Minh..." (Điều 30). "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,

chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán,

truyền thống và văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình” (Điều 5).

Như chúng ta biết, đạo đức được hình thành dựa trên sự thừa nhận của

cả cộng đồng, vì vậy, thông thường nó sẽ được thực hiện một cách khá

nghiêm chỉnh. Mặt hác, đạo đức được đảm bảo thực hiện bằng dư luận xã

hội, sự tác động có khi còn có sức mạnh hơn cả biện pháp cưỡng chế nhà

nước. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với những người có đạo đức, dư luận sẽ

trở nên vô tác dụng đối với những kẻ thất đức, hông có lương tâm, trong

trường hợp này, nếu chỉ bằng sự tác động theo kiểu “nói suông” của dư luận

xã hội thì sẽ không thể có kết quả. Trong những điều kiện hoàn cảnh nhất

định, do sự nhận thức hạn chế, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, chính trị,

xã hội..., dẫn đến không nhận thức được một cách đầy đủ vai trò của đạo đức,

làm cho đạo đức xã hội bị xuống cấp... Trong những trường hợp đó, pháp luật

được xem là một trong những công cụ quan trọng để diệt trừ cái ác, ngăn chặn

sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, bảo vệ, giữ gìn, phát huy các giá trị đạo

đức của dân tộc.

Tùy trường hợp mà pháp luật có qui định các thành viên trong xã hội

được làm gì, hông được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào sao cho

phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chẳng hạn, điều 7, Luật tổ chức

Tòa án Việt Nam năm 2002 qui định: “Tòa án xét xử công khai, trừ trường

hợp cần xét xử kín để bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc”. Trường hợp

45

khác, pháp luật lại qui định: "nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức xã hội". Sự

vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội sẽ không chỉ bị lên án bởi dư luận xã

hội mà còn bị tác động bởi các biện pháp nhà nước. Các quan niệm, chuẩn

mực đạo đức đã được thể chế hóa thành pháp luật sẽ được nhà nước bảo đảm

cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.

Trong Luật chống tham nhũng (2005); Luật thực hành tiết kiệm chống

lãng phí (2005) đều có quy định: Cán bộ công chức phải có nếp sống lành

mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; hông được hách

dịch, cửa quyền, tham nhũng, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo

đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ,

công việc được giao. Đối với một số ngành nghề đặc thù mà yếu tố đạo đức

ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc, pháp luật còn có những quy định

riêng về tiêu chuẩn đạo đức như nghề y, nghề luật sư, nghề báo chí, nghề giáo

dục… Cụ thể, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân qui định thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, điều tra viên phải

có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực. Luật giáo dục qui định

tiêu chuẩn đạo đức đối với nhà giáo. Luật báo chí qui định nhà báo phải là

người có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà

nước quy định. Luật luật sư qui định luật sư có nghĩa vụ tuân theo quy tắc đạo

đức nghề nghiệp luật sư, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan... Bộ trưởng

Bộ y tế đã có Quyết định số 2088/BYT ngày 06/11/1996 ban hành Bản "Qui

định về y đức" trong đó qui định khá cụ thể, chi tết về các tiêu chuẩn đạo đức

đối với những người làm công tác y tế…

Một hi được thể chế hóa thành pháp luật, việc thực hiện những chuẩn

mực đạo đức đó trở thành nghĩa vụ của toàn thể xã hội, các cá nhân, tổ chức

dù không muốn cũng phải thực hiện theo. Các cơ quan nhà nước trong phạm

vi chức năng của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện những qui định đó

bằng nhiều biện pháp như tuyền truyền, giáo dục, tổ chức, hành chính, kinh

46

tế... Đặc biệt, bằng việc xử lý nghiêm những chủ thể có hành vi đi ngược với

các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật góp phần bảo vệ và giữ gìn các giá trị đạo

đức của xã hội, ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức.

Thứ hai, nhiều quan điểm, tư tưởng đạo đức nhân văn truyền thống của

dân tộc được thể hiện rõ nét trong hệ thống pháp luật Việ Nam.

Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ

luật và văn bản dưới luật có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị,

các quan điểm, các chuẩn mực đạo đức. Những năm gần đây, hàng loạt các

văn bản pháp luật của nhà nước đã thể hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo

đức thành chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh những quan hệ phát triển không

ngừng của đời sống xã hội như Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Luật Lao

động (2002), Pháp lệnh cán bộ công chức (2003), Luật Dân sự (2005)... Các

bộ luật trên đều được xây dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền

thống tốt đẹp của dân tộc.

Pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình phản ánh khá rõ các quan

niệm, quan điểm đạo đức. Có thể nói “so với các lĩnh vực pháp luật khác, luật

hôn nhân và gia đình là lĩnh vực có quan hệ mặn nồng nhất với đạo đức [16,

tr.8], bởi vì đạo đức chính là “gia pháp”, “gia phong”. Hiến pháp (1992) quy

định Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình: “quan hệ hôn nhân và gia đình

thực hiện theo quy định của luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo

vệ”[26, Đ.4]. Trên tinh thần đó, pháp luật quy định tương đối đầy đủ, cụ thể

về hôn nhân, về các điều kiện kết hôn, về trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành

viên trong gia đình với nhau: “cha, mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành

những công dân tốt, con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông, bà,

cha mẹ” [17, Đ.64]; “các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự

chăm sóc, giúp đỡ nhau phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia

đình Việt Nam” [24, Đ.41]. Luật hôn nhân và gia đình cũng qui định cấm tảo

hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ; cấm kết hôn đối

47

với những người đang có vợ hoặc có chồng, những người cùng dòng máu

về trực hệ, giữa những người có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời,

giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố

dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những

người cùng giới tính.

Luật Hôn nhân và gia đình (2000) có nhiều điểm rất tiến bộ mà thực

chất đó là sự luật hóa các quy phạm đạo đức trong xã hội, đó là truyền thống

“kính già, yêu trẻ”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “môi hở, răng lạnh”…

Trên nền tảng những quan điểm, tư tưởng đạo đức đó, các nhà lập pháp đã

xây dựng thêm chương 7, đó là "Quan hệ giữa ông, bà nội, ngoại và cháu,

giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình”. Đây là một biểu hiện

cụ thể của việc khuyến khích, duy trì và phát triển mô hình gia đình truyền

thống nhiều thế hệ, phát huy vai trò của người cao tuổi trong chăm sóc, giáo

dục con cháu.

Cũng dựa trên cơ sở đạo đức truyền thống, Bộ luật Hình sự Việt Nam

hông quy định nghĩa vụ tố giác tội phạm đối với những người thân thích

trong gia đình, trừ những tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc một số tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện sự

dung hòa giữa pháp luật và đạo đức, bởi theo quan niệm, quan điểm truyền

thống của dân tộc, con tố giác cha, vợ tố giác chồng, cháu tố giác ông bà vẫn

là những vấn đề mà dư luận xã hội nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau,

thậm chí trái ngược nhau. Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, đó còn bị

coi là phạm tội: “con cháu tố giác ông bà, cha mẹ, vợ tố giác chồng… đều xử

tội lưu đi châu xa, tố cáo ông bà, cha mẹ và ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng

vào hàng cơ thân của chồng… dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay tội

đồ…” [41, Đ.40].

Với quan điểm đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, xây

dựng, củng cố gia đình Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ế thừa và phát huy các

48

truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, Luật hôn nhân và gia đình (năm

2000) qui định việc pháp luật bảo hộ quan hệ hôn nhân và gia đình; Với việc

ban hành Luật phòng chống bạo lực gia đình, nhà nước thể hiện rõ quan điểm

giữ gìn và bảo vệ các giá trị gia đình. Luật người cao tuổi qui định nghĩa vụ

phụng dưỡng người cao tuổi của con cháu của họ và những người khác có

nghĩa vụ nuôi dưỡng cấp dưỡng theo qui định của pháp luật (Điều 10). Luật

người khuyết tật qui định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế

xã hội, các thành viên trong gia đình và mọi thành viên trong xã hội đối với

việc chăm sóc, bảo vệ, giúp đỡ người khuyết tật (Điều 7, 8).

Tinh thần thương yêu, giúp đỡ người khác là một truyền thống đặc

trưng trong đời sống của người Việt, nó cũng là sợi dây gắn kết các cá nhân

xích lại gần nhau. Tư tưởng đạo đức quý báu này đã được thể hiện một cách

sâu sắc, trở thành một nguyên tắc chỉ đạo trong toàn bộ quá trình xây dựng

pháp luật ở Việt Nam.

Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện trong các

chính sách xã hội. Trong pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng

(2005) quy định: Nhà nước dành một phần ngân sách hàng năm để đảm bảo

việc thực hiện chế độ ưu đãi (Điều 3), mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội có

trách nhiệm vận động, tham gia chăm sóc người có công với nước và gia đình

họ bằng nhiều hình thức, nội dung thiết thực.

Pháp luật hiện hành cũng có những quy định về vấn đề nhận cha mẹ

nuôi là thương binh, là người có công với cách mạng mà độ tuổi của con nuôi

không cần giới hạn dưới 15 tuổi, vấn đề quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi

với con nuôi cũng được quy định chặt chẽ, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các bên, đặc biệt là của phía người có công với cách mạng

được nhận là cha, mẹ nuôi [26, Đ.68]. Đây là những quy định vừa mang tính

nhân bản sâu sắc vừa là một trong những phương thức giáo dục con cháu, các

thế hệ về sau có hiệu quả.

49

Ngoài nhóm đối tượng được hưởng các chính sách ưu đãi xã hội ở trên,

Đảng và Nhà nước ta còn dành sự quan tâm cả về vật chất, tinh thần cho đối

tượng thuộc diện cứu trợ xã hội. Đó là những “người già cô đơn, trẻ mồ côi,

người tàn tật nặng, người gặp rủi ro do thiên tai và nhiều lý do bất khả kháng

khác mà bản thân họ và gia đình họ không thể tự khắc phục được” [34, Đ.1].

Bên cạnh đó, tính nhân đạo cũng thể hiện trong các quy định về xử lý

người có hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật không chỉ nhằm trừng trị kẻ vi

phạm mà còn nhằm giáo dục, cải tạo họ cũng như, răn đe và phòng ngừa đối

với người khác.

Xuất phát từ tư tưởng, quan điểm đạo đức: “Đánh ẻ chạy đi, hông

đánh ẻ chạy lại” rất nhiều quy định xử lý của pháp luật khuyến khích, tạo cơ

hội cho người phạm tội được hoàn lương, được nhanh chóng tái hòa nhập với

cộng đồng xã hội; xử lý vi phạm pháp luật cũng chỉ rõ hông được xâm hại,

làm tổn thương đến danh dự, nhân phẩm, uy tín con người,… Từ xưa đến nay,

người già và trẻ em luôn là đối tượng được pháp luật đặc biệt chiếu cố. Quốc

triều hình luật của triều Lê đặc biệt chiếu cố người già, trẻ em, người tàn tật

và phụ nữ phạm tội. Theo Quốc triều hình luật, người già từ 70 tuổi trở lên,

trẻ em từ 15 tuổi trở xuống, người tàn phế có thể chuộc tội bằng tiền. Người

già từ 80 tuổi trở lên, trẻ em từ 10 tuổi trở xuống, người bị ác tật mà ăn trộm,

đánh người bị thương thì được chuộc tội bằng tiền. Nhóm tuổi này mà phạm

tội phản nghịch, giết người thì nhà vua sẽ quyết định hình phạt. Riêng nhóm

từ 90 tuổi trở lên và từ bảy tuổi trở xuống dầu có phạm phải tội chết thì cũng

được miễn án tử hình.

Quy định này thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với

người phạm tội. Người phạm tội là phụ nữ có thai, người già, thành khẩn khai

báo, ăn năn hối cải... thì đều được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi có hai

tình tiết giảm nhẹ, họ được nhận hình phạt dưới mức thấp nhất của khung

hình phạt mà điều luật quy định, thậm chí được chuyển sang hình phạt khác

50

thuộc loại nhẹ hơn. Pháp luật hiện hành không truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người chưa đủ 14 tuổi. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ

phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vào thời điểm phạm tội hoặc xét xử, người

phạm tội là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không

bị áp dụng hình phạt tử hình. Nếu đã có án tử hình nhưng chưa thi hành án, họ

được chuyển sang hình phạt tù chung thân. Người chưa thành niên phạm tội

không phải chịu hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.

Thể hiện chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội,

Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 qui định:

Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên

phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn

chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành

niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã

thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa

thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình

phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

Thể hiện rõ chính sách nhân đạo đối với người ăn năn hối cải, nhà nước

ban hành Luật đặc xá nhằm động viên, khuyến hích người bị kết án phạt tù

ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động, cải tạo. Đồng thời, luật cũng qui

định trách nhiệm của nhà nước và xã hội trong việc giúp đỡ người được đặc

xá ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.

Bên cạnh một số giá trị đạo đức nhân văn đã được “luật hóa”, rất nhiều

các quan điểm, tư tưởng truyền thống cũng được ghi nhận và khẳng định dưới

nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn với tư tưởng: “Một cây làm chẳng nên

non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, ông cha ta đã hẳng định: Đại đoàn

kết dân tộc tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, là nhân tố quyết

định sự thành công trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước.

51

Hiến pháp Việt Nam quy định nguyên tắc bình đẳng, đoàn ết, tương

trợ giữa các dân tộc:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực hiện

chính sách bình đẳng, đoàn ết, tương trợ giữa các dân tộc… Pháp luật quy

định các cá nhân, tổ chức trong xã hội có trách nhiệm củng cố và tăng cường khối

đại đoàn ết toàn dân, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc [13, tr.14].

Tóm lại, pháp luật Việt Nam hiện hành được xây dựng trên nền tảng

đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, thể chế hóa há đầy đủ các

quan niệm đạo đức nhân đạo tốt đẹp của nhân dân, nhằm giữ gìn và phát huy

giá trị của nó trong đời sống. Có thể nói, xã hội càng phát triển, tính nhân đạo,

nhân văn trong hệ thống pháp luật Việt Nam càng thể hiện rõ nét.

Ba là, pháp luật góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức

mới, đồng thời loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ.

Việc ghi nhận những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ được tiến hành

song song với việc loại bỏ quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu. Bằng việc ban hành

hàng loạt văn bản qui phạm pháp luật mới, nhất là các văn bản về tổ chức bộ

máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ của cán bộ, công chức, hôn nhân và gia

đình…, pháp luật một mặt ghi nhận những chuẩn mực đạo đức mới, mặt khác

xóa bỏ những quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, không còn phù hợp với điều

kiện mới như: trọng nam khinh nữ, đa thê, gia trưởng, coi thường lớp trẻ, cá

nhân chủ nghĩa…

Theo quan niệm đạo đức cũ, trong gia đình, vai trò quyết định thuộc về

người gia trưởng. Vợ, con phải hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng, người

cha theo quan niệm “tam tòng, tứ đức”; “phu xướng phụ tùy”… Theo pháp

luật phong kiến Việt Nam, đặc biệt là bộ luật Hồng Đức đã quy định một cách

khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con cái, anh em với nhau, nhưng

do chịu ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm của Nho giáo nên các quan hệ này

thường đề cao vai trò của người chồng, người cha, người con trai trưởng, của

52

sự phân cấp thứ bậc trong xã hội. Ở đó có sự phân biệt đối xử giữa con trai

với con gái, trọng nam khinh nữ, "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", coi

người phụ nữ chỉ như là người ở trong gia đình; tư tưởng đa thê, "trai anh

hùng năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng"...

Pháp luật Việt Nam hiện hành ngoài việc kế thừa và phát huy những

yếu tố nhân văn của pháp luật phong kiến nói chung, bộ luật Hồng Đức nói

riêng, ngay từ khi mới ra đời đã có những qui định nhằm loại bỏ những quan

niệm đạo đức lạc hậu này. Mặc dầu vậy, cho đến nay những quan niệm đạo

đức lạc hậu này vẫn còn ảnh hưởng trong một bộ phận không nhỏ dân cư. Vì

vậy, pháp luật hiện hành phải tiếp tục tìm cách loại bỏ chúng. Hiến pháp năm

1992 qui định "công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính

trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt

đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ" (Điều 63); "hôn nhân theo

nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng" (Điều

64). Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định "vợ chồng bình đẳng với

nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình" (Điều 19).

Luật này cũng có các qui định cấm cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự

nguyện, tiến bộ, cấm vợ chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến

danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy

định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia

đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống

bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, pháp luật tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia

quản lý nhà nước và xã hội, tạo mọi điều kiện để phụ nữ giảm nhẹ gánh nặng

gia đình. Điều này rất phù hợp với xu thế của thời đại mới, khi mà phụ nữ

ngày càng có xu hướng tham gia tích cực vào các công tác xã hội, phát triển

sự nghiệp bản thân và có khả năng độc lập về mọi mặt trong đời sống.

Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định: Nhà nước và xã hội tạo điều

kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của

53

mình trong xã hội; chăm lo phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội để giảm nhẹ

gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, nghỉ

ngơi bên cạnh việc làm tròn bổn phận của người mẹ.

Trước đó, việc nhà nước ban hành các qui định nhằm loại trừ tư tưởng

trọng nam khinh nữ, tư tưởng đa thê, tư tưởng "phu xướng - phụ tuỳ"... thì

đồng thời nó cũng làm hình thành trong đời sống xã hội những tư tưởng nam

nữ bình đẳng, hôn nhân tự nguyện, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng...

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu

trong việc loại bỏ những tư tưởng đạo đức cũ, đã trở nên lạc hậu so với thời

đại; vừa góp phần bồi đắp nên những quan niệm đạo đức mới, khẳng định và

làm cho những quan niệm đạo đức mớinày tồn tại một cách chắc chắn trong

đời sống xã hội.

Bốn là, những quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã

phát huy vai trò, sức mạnh của mình trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, đã

thực sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật, tạo điều kiện để pháp luật được thực

hiện nghiêm chỉnh trong đời sống.

Cùng với pháp luật và những công cụ quản lý hác, đạo đức góp phần

điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

giáo dục con người mới. Đạo đức, phong tục tập quán, qui định của các tổ

chức xã hội, các cộng đồng dân cư..., mỗi yếu tố giữ vai trò nhất định trong

đời sống xã hội, tuy nhiên chúng góp phần hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật, tạo

ra sự trật tự xã hội trên tất các các lĩnh vực của cuộc sống nhất là đối với các

quan hệ xã hội mà pháp luật hông điều chỉnh. Trước hết, sự phù hợp của

pháp luật với đạo đức xã hội là cơ sở quan trọng đảm bảo cho pháp luật được

thực hiện một cách đầy đủ, đúng đắn trong cuộc sống.

Bởi lẽ, khi pháp luật phù hợp với đời sống hiện thực, phản ánh đúng ý

chí và nguyện vọng cộng đồng, nó sẽ được cộng đồng thừa nhận và thực hiện

nghiêm chỉnh, tự nguyện, tự giác. Chính trong trường hợp như vậy, pháp luật

54

đã mang tính đạo đức, và ngược lại, “đạo đức là pháp luật tối cao”. Các quan

điểm, quan niệm về pháp luật vì thế cũng trở thành các quan niệm, tư tưởng

đạo đức, “các yêu cầu của pháp luật cũng được chuyển tải vào các quan niệm,

chuẩn mực đạo đức, ý thức và hành vi đạo đức của con người” [39, tr.30];

Cho nên để được nhìn nhận là một người có nhân cách cao đẹp thì trước hết

phải là một người thực hiện pháp luật một cách mẫu mực, làm gương sáng

cho mọi người chung quanh. Theo quan điểm này đạo đức đã thực sự hỗ trợ

cho pháp luật. Bởi vì, sự đánh giá của cộng đồng đối với một thành viên nào

đó không chỉ về mặt đạo đức mà còn cả ý thức pháp luật của họ. Sẽ không thể

được đánh giá là một con người hoàn hảo từ góc nhìn của đạo đức nếu người

đó có những hành vi phạm pháp.

Nhiều quan niệm, quan điểm đạo đức được thể hiện trong các phong

tục, tập quán hay thói quen xử sự của một cộng đồng dân cư cũng được phản

ánh trong luật thông qua việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán tốt

đẹp và biến chúng thành các tập quán pháp, chúng có tác dụng thay thế pháp

luật trong một số trường hợp nhất định. Theo Bộ luật Dân sự (2005) qui định:

“Trong trường hợp pháp luật hông có quy định và các bên không có thỏa

thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định

tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không

được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật này”[24, Đ3].

Phải nhận thấy rằng, về cơ bản, pháp luật nước ta được thực hiện một

cách tương đối nghiêm chỉnh. Tuyệt đại đa số các cá nhân, tổ chức trong xã

hội đều thực hiện một cách đúng đắn các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình;

kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Nhờ đó, các

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước được bảo vệ, trật tự xã

hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống được bảo đảm. Để có được kết quả

đó, đạo đức đóng góp một phần không nhỏ. Gia đình, nhà trường, các thiết

chế xã hội đã phát huy vai trò của mình trong vấn đề giáo dục nhân cách, lối

55

sống. Chính vì vậy, về cơ bản, nhìn chung các thành viên trong xã hội đều có

ý thức đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, tôn trọng mọi người, tôn trọng các

qui tắc sống chung của cộng đồng... Đây chính là nhân tố quan trọng đảm bảo

cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh như trong đời sống.

Trong xã hội cổ đại, xã hội phong kiến và xã hội hiện đại, đạo đức chưa

bao giờ mất đi vai trò điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con

người. Bởi lẽ, xa rời đạo đức là xa rời chính bản thân các giá trị của con

người, của dận tộc, của quốc gia. Giữa đạo đức và pháp luật có sự hỗ trợ rất

hăng hít cho nhau. Như trên đã trình bày, pháp luật nhà nước ta đã thừa

nhận tập quán pháp có thể thay thế cho pháp luật trong những trường hợp

chưa quy định và nội dung tập quán ấy hông trái ngược với các quy định của

pháp luật. Đạo đức xã hội là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật. Đồng thời, đạo đức là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc thực hiện pháp

luật. Bên cạnh sự hiểu biết pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật thì ý thức

đạo đức, phẩm chất đạo đức, nhân cách là nhân tố chủ quan hết sức quan

trọng đảm bảo cho các hành vi hợp pháp được thực hiện. Ngược lại, đạo đức

xã hội xuống cấp, ý thức đạo đức cá nhân thấp kém là một trong những

nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật gia tăng. Trong trường hợp không có

các qui định của pháp luật để áp dụng, đạo đức như là một nhân tố bổ sung,

thay thế cho pháp luật, đảm bảo cho quyết định áp dụng pháp luật của nhà

chức trách trở nên đúng đắn, hợp lý, hợp tình.

2.1.2.2. Một số hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những kết quả đã đạt được ở trên, việc kết hợp đạo đức và

pháp luật còn tồn tại một số hạn chế.

Một là, trong một số trường hợp, việc phân định ranh giới điều chỉnh

giữa pháp luật và đạo đức chưa rõ ràng gây khó khăn, lúng túng trong quá

trình thực hiện.

56

Như chúng ta đã biết, cả đạo đức và pháp luật đều có chung một mục

đích điều chỉnh. Song chúng có sự khác nhau trong cách thức và phạm vi điều

chỉnh. Về cách thức, pháp luật thông qua các qui phạm pháp luật để điều

chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách qui định cho chủ thểnhững hành vinào

được phép, những hành vi nào bắt buộc và những hành vi nào bị ngăn cấm.

Đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định cho chủ thể những

hành vinào nên làm, không nên làm, cần phải làm, hông được làm. Nói cách

khác, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định các quyền,

nghĩa vụ cho chủ thể còn đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng

cách xác định những nghĩa vụ, bổn phận cho chủ thể.

Như vậy, có nghĩa là cách thức và phạm vi điều chỉnh của đạo đức và

pháp luật không hoàn toàn trùng khớp nhau. Pháp luật điều chỉnh hành vi con

người bằng cách tác động vào ý chí và lý trí của chủ thể, trong những trường

hợp nhất định và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh nhà nước. Trong hi đó,

đạo đức lại có khả năng thâm nhập điều chỉnh tất cả mọi mối quan hệ, đặc

biệt là những quan hệ tình cảm hay góc độ tình cảm - yếu tố nằm sâu bên

trong con người - nơi mà pháp luật hông phát huy được tác dụng của nó.

Các giá trị đạo đức như sự yêu thương, lòng chung thủy, kính trọng…

đó là những phạm trù tình cảm nằm lẩn khuất bên trong ý thức của con người.

Người ta không thể cân, đong, đo, đếm những giá trị tình cảm ấy, không thể

đề ra giới hạn tối thiểu hay tối đa để định lượng như trong điều chỉnh bằng

pháp luật. Ngược lại, pháp luật không thể yêu cầu hay bắt buộc các chủ thể

phải yêu thương, kính trọng, biết ơn lẫn nhau... Bởi đó là yếu tố tình cảm, mà

người ta vẫn thường nói “tình cảm không thể ép buộc”. Tuy nhiên, trong một

số quy định của pháp luật hiện hành, những chuẩn mực đạo đức đó được “luật

hóa” thành quy định của pháp luật. Điều này rõ ràng rất mang tính hình thức

bởi sau hi quy định ra như vậy lại không thể có một cơ chế kiểm soát hay

biện pháp xác định nào cho những chuẩn mực pháp luật ấy. Chẳng hạn: “Vợ

57

chồng chung thủy, yêu thương, quý trọng nhau” [26, Đ.18]; “con có bổn phận

yêu quý, kính trọng, biết ơn cha mẹ” [26, Đ.35]; “cháu có bổn phận kính

trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ngoại” [26, Đ.47]. Dù qui định như

vậy nhưng trên thực tế pháp luật không thể cho phép hay bắt buộc buộc các

tình cảm đó của chủ thể. Yêu thương ai, tôn trọng ai, chung thuỷ với ai là xuất

phát từ tình cảm của họ.

Nếu chỉ xét về mặt nội dung, sự quy định trên là hoàn toàn phù hợp với

ý chí và nguyện vọng chung của nhân dân. Đây cũng là điều kiện cần phải có

để duy trì một mô hình gia đình bền vững. Tuy nhiên, nếu pháp luật chỉ xác

định nghĩa vụ mà hông qui định biện pháp bảo đảm thực hiện thì những qui

định đó hó có thể được thực hiện nghiêm chỉnh. Tính cụ thể, minh bạch là

một đặc điểm quan trọng của pháp luật. Nhưng trong nhiều trường hợp pháp

luật lại không thể định lượng một cách cụ thể, chính xác, nhất là trong các

quạn hệ tình cảm…

Có lẽ xuất phát từ việc muốn bảo lưu, giữ gìn các chuẩn mực đạo đức

tốt đẹp của dân tộc mà các nhà lập pháp đã luật hóa các chuẩn mực đạo đức.

Tuy nhiên cần nhận thức đúng đắn về vai trò của pháp luật và đạo đức trong

xã hội, cần phân biệt được một cách rõ ràng về phạm vi điều chỉnh, mức độ

điều chỉnh, ưu điểm cũng như những hạn chế của mỗi loại phương tiện trong

điều chỉnh. Nếu sự luật hóa các giá trị đạo đức mà nói chung chung thì rất khó

thực hiện. Hơn nữa, có một số giá trị đạo đức không thể luật hóa. Bởi vì nếu

không thể định lượng được các giá trị tình cảm này thì việc quy định các giá

trị đạo đức đó thành luật sẽ bị mang tính hình thức, không khả thi. Vậy nên

chăng các nhà lập pháp chỉ quy định những hành vi nào là hông yêu thương,

không chung thủy, không tôn trọng, không biết ơn, tức là phải có những

chuẩn mực xử sự nhất định.

Hai là, trong một số trường hợp việc luật hóa các quan niệm, quan

điểm, tư tưởng đạo đức còn chưa cụ thể khó thực hiện trên thực tế.

58

Đạo đức thường hông có tính xác định về hình thức, đó là những quan

niệm, những giá trị chung, phổ biến được thừa nhận; song tính xác định về

hình thức lại là một trong những đặc điểm quan trọng của pháp luật. Thông

qua các qui phạm pháp luật, các chủ thể biết được trong điều kiện nào, họ

được làm gì, phải làm gì hay hông được làm gì…, hậu quả sẽ phải gánh chịu

như thế nào nếu làm trái điều đó. Nói cách hác, trong pháp luật, sự cho phép,

bắt buộc hay cấm đoán luôn được xác định rất rõ ràng, và để đảm bảo việc

thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam hiện

hành vẫn tồn tại một số qui định hó xác định về tính hình thức.

Nói như vậy bởi vì, trong một số trường hợp, sự thể chế hóa đạo đức

thành pháp luật lại quá khái quát, dẫn tới khó thống nhất cách hiểu và thực

hiện quy định đó trên thực tế. Chẳng hạn trong các bộ luật như Luật Dân sự,

Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại đều có quy định các giao dịch, hợp

đồng “không được trái với đạo đức xã hội”. Trên thực tế, đánh giá một hành

vi nào đó là trái hay hông trái đạo đức xã hội không hề đơn giản. Cùng là

một hành vi nhưng có các cách đánh giá hác nhau thậm chí đối lập nhau. Sở

dĩ có điều này là bởi vì đạo đức thường hông được quy định trong một văn

bản nào nhất định, ở các địa phương hác nhau có cách giải thích tên gọi, tiêu

chí khác nhau. Trong xã hội Việt Nam hiện nay chỉ có một hệ thống pháp luật

duy nhất và thống nhất trên cả nước, nhưng có sự tồn tại những hệ thống đạo

đức hác nhau như đạo đức giai cấp, đạo đức tôn giáo… Về cơ bản, các hệ

thống đạo đức này mặc dù hông đối lập nhau nhưng cũng hông đồng nhất.

Bên cạnh đó, xã hội trong thời kỳ đổi mới đang diễn ra sự thay đổi

trong các quan niệm, quan điểm đạo đức, cái mới, cái cũ đan xen... Vì vậy mà

dễ dẫn tới sự không thống nhất trong quan niệm, quan điểm đạo đức. Mặt

hác, như trên đã trình bày, đạo đức thường hông xác định về hình thức bởi

vậy, hành vi đạo đức cũng như sự đánh giá về hành vi đó hông phải hoàn

toàn có sự thống nhất. Do đó, sự quy định thiếu cụ thể trong pháp luật hiện

59

hành sẽ gây hó hăn cho các chủ thể trong việc thực hiện và trong xử lý

cácvi phạm nếu có.

Tương tự, trường hợp pháp luật qui định tiêu chuẩn đạo đức đối với cán

bộ, công chức nhà nước, những người làm một số nghề nhất định cũng chưa

cụ thể. Pháp luật qui định “có phẩm chất đạo đức” hoặc “phẩm chất đạo đức

tốt”... một cách quá khái quát. Mặc dù "phẩm chất đạo đức" ở đây có thể

được hiểu là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung với nước, hiếu với

dân, khiêm tốn, giản dị... Tuy nhiên, ngay chính các phạm trù đạo đức này

cũng đã là rất hái quát, được hiểu rất rộng và như trên đã nói, sự nhận thức

về nó cũng như sự thực hiện chúng không phải luôn có sự thống nhất giữa

mọi người. Ví dụ thật hó để có một qui chuẩn chung cho việc xem xét chuẩn

mực đạo đức “giản dị” của cán bộ, công chức trong điều kiện đời sống vật

chất đang được cải thiện và nâng cao rõ rệt như hiện nay…

Nguyên nhân của tình trạng trên đây có thể do ĩ thuật lập pháp còn

những hạn chế. Mặc dù đã được nâng cao một cách cơ bản, song nhìn chung

ĩ thuật lập pháp ở nước ta vẫn còn đang ở trình độ thấp. Cũng có thể là xuất

phát từ quan niệm cho rằng văn bản luật cần khái quát, các vấn đề cụ thể, chi

tiết sẽ được qui định trong văn bản dưới luật. Tuy nhiên, các trường hợp được

viện dẫn trên đây hầu như chưa được qui định chi tiết hay giải thích một cách

cụ thể. Thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân của tình trạng này đó là do

ảnh hưởng của tư duy xây dựng pháp luật cũ.

Trước đây, hông ít người có quan niệm pháp luật cần phải được qui

định một cách khái quát nhất để có thể bao quát tất cả các trường hợp. Chẳng

hạn, khi ban hành một văn bản mới thay thế các văn bản cũ, trước đây hầu

như mọi trường hợp đều qui định: “Các qui định trước đây trái với văn bản

này đều bãi bỏ”. Mới đầu, có thể thấy cách mà nhà làm luật qui định là hết

sức khái quát, chỉ bằng một qui định ngắn gọn, nhà làm luật đã bãi bỏ tất cả

những qui định cũ trái với nội dung của văn bản mới. Tuy nhiên trong thực

60

tiễn, khi áp dụng từng qui định cụ thể, hông ít trường hợp xảy ra tranh chấp

vì không thể xác định một cách rõ ràng qui định đó trái hay hông trái với các

qui định mới. Vì vậy, khi thể chế hoá các quan niệm đạo đức thành pháp luật

đòi hỏi phải rất cụ thể, đảm bảo để các chủ thể xác định được một cách rõ

ràng họ được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay hông được làm gì...

khi ở trong điều kiện hoàn cảnh xác định nào. Có như vậy mới có được sự

thống nhất trong thực hiện. Bởi vì như đã nói ở phần trên, một trong những

thuộc tính của pháp luật là minh bạch, cụ thể, xác định.

Ba là, nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu chưa được xóa bỏ

một cách triệt để.

Một trong những ưu điểm của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức

ở nước ta hiện nay, đó là pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc loại bỏ

các quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, không còn phù hợp trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức cũ,

không phù hợp vẫn còn tồn tại. Chẳng hạn, tư tưởng gia trưởng, tính cục bộ,

thói cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, tư tưởng coi thường lớp

trẻ... vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong một bộ phận dân cư, ể cả trong

nhiều cán bộ, công chức, nhà nước.

“Thực tiễn cho thấy vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân

lấy việc giữ chức này, chức nọ làm mục đích của mình với động cơ danh phận

rõ ràng”, “Mong muốn thông qua cương vị, chức vụ để tìm cách vinh thân,

phì gia”, “nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ còn là cái áo khoác bên ngoài cho

toan tính, những thủ đoạn, cho hành vi đối phó nhau, thỏa hiệp nhau để chia

ghế và giữ ghế” [53, tr.112]. Bên cạnh đó, bệnh gia trưởng còn khá phổ biến

trong xã hội, nó không chỉ tồn tại trong các gia đình ở nông thôn mà còn cả

trong các gia đình cán bộ, công chức, kể cả trong các cơ quan nhà nước. Một

số cán bộ, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức tự cho mình là “ông chủ” của cơ

quan, tổ chức đó, dẫn đến coi thường người hác, coi thường cấp dưới, coi

61

thường nhân viên, độc đoán, chuyên quyền, tự cho mình quyền quyết định

mọi vấn đề, biến cơ quan thành nhà của mình, biến các quan hệ công thành

quan hệ tư, biến quan hệ cơ quan thành quan hệ gia đình. Bệnh gia trưởng gây

tác động xấu trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó còn là một trong

những nguyên nhân sinh ra các bệnh giáo điều, kinh nghiệm, thiếu dân chủ.

Tình trạng củng cố vây cánh, hiện tượng kéo bè, kéo cánh, cục bộ, địa phương

chủ nghĩa… trong các cơ quan, tổ chức không phải là hiếm. Nhiều địa

phương có xu hướng mạnh ai nấy làm, yêu cầu có “qui chế riêng”, hông chú

ý đến tính chỉnh thể thống nhất cũng như yêu cầu phát triển chung của cả

nước. Trong xã hội, làm gì, ở đâu, bao giờ người ta cũng trước tiên nghĩ đến

lợi ích của bản thân mình. Vì lợi ích cục bộ, hi được giao soạn thảo các văn

bản qui phạm pháp luật, một số cơ quan luôn tìm cách giành thuận lợi về phần

mình, hó hăn đẩy cho cơ quan hác hoặc cho đối tượng bị quản lý. Trong

tư duy của hông ít người vẫn còn tàn dư của tư tưởng trọng nam khinh nữ, tư

tưởng cần phải có con trai để nối dõi tông đường, trong tuyển dụng nhân viên,

cất nhắc cán bộ vẫn có tư tưởng ưu tiên nam giới, việc tiếp nhận cán bộ nữ

vào làm việc rất hó hăn… Đặc biệt, thói đạo đức giả vẫn tồn tại dai dẳng

trong xã hội ta hiện nay, kể cả trong các cán bộ, đảng viên, công chức nhà

nước, thậm chí ngay cả một số cán bộ cao cấp. Biểu hiện của thói đạo đức giả

đó là lời nói hông đi đôi với việc làm, nói một đằng làm một nẻo, dùng thuật

ngụy biện, lối nói hoa mỹ, sách vở để che đậy bản chất thực sự của mình, tìm

cách đổ lỗi cho hách quan, cho người khác, lấy bệnh thành tích để che đậy

sự yếu kém của bản thân, xu nịnh người khác, xu nịnh cấp trên…

Các hiện tượng kể trên có nhiều nguyên nhân, có cả các nguyên nhân

về kinh tế xã hội, cả các nguyên nhân trong bản thân pháp luật và quá trình tổ

chức, thực thi pháp luật. Cơ chế xây dựng pháp luật cũng làm cho hiện tượng

cục bộ, địa phương chủ nghĩa có điều kiện để tồn tại và phát triển. Trong hệ

thống pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều qui định cần thiết, chẳng hạn, chưa

62

có các qui định về xử lý các hành vi kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn ết trong

các cơ quan, tổ chức... Dẫn đến, trên thực tế các hiện tượng như trên xảy ra

nhưng chưa có các qui định của pháp luật để xử lý. “Rất nhiều hành vi không

phù hợp đạo đức, hông “ổn” về phương diện đạo đức, song pháp luật lại bỏ

trống, không xử hoặc chưa có qui định” [38, tr.31]. Công tác tuyên truyền phổ

biến pháp luật ở nhiều nơi, nhiều chỗ chưa thật tốt. Dân chủ ở cơ sở chưa

được phát huy đúng mức. Công tác quản lý, kiểm tra, giáo dục, rèn luyện cán

bộ còn yếu. Chưa có cơ chế đảm bảo sự giám sát, thực hiện quyền miễn

nhiệm, bãi nhiệm của nhân dân đối với các chức vụ dân bầu. Công tác tuyên

truyền, giáo dục đạo đức trong xã hội nhiều hi chưa được coi trọng hoặc

thực hiện chưa hiệu quả.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, pháp luật không phải là công cụ vạn

năng, pháp luật không thể loại bỏ được tất cả các quan niệm, quan điểm, qui

tắc đạo đức lạc hậu, không còn phù hợp. Pháp luật cũng hông phải là công

cụ duy nhất để giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức. Để làm được việc

này đòi hỏi phải nghiên cứu và sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau.

Bốn là, hiện tượng suy thoái về đạo đức chưa được pháp luật ngăn

chặn hiệu quả trên thực tế.

Như tất cả chúng ta đều biết, trong xã hội Việt Nam hiện nay, hiện

tượng suy thoái về đạo đức, lối sống ngày càng diễn ra phổ biến với những

biểu hiện rõ nét, có thể coi đây là một hiện tượng đáng báo động. Đồng thời

cũng nảy sinh nhiều tư tưởng, ý thức và những tiêu chí đạo đức đi ngược lại

với những giá trị truyền thống của dân tộc và nó đã ảnh hưởng đến nhiều bộ

phận, tầng lớp trong nhân dân, trở thành một “vấn nạn” trong công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong thời kỳ phong kiến, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng trong

điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, sự kết hợp

pháp luật và đạo đức theo phương châm “nội nho, ngoại pháp”, “đức chủ,

63

pháp bổ” đã trở thành đường lối cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam,

sự coi trọng đạo đức đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhưng

trong điều kiện hiện nay, đạo đức bị thoái hóa, xuống cấp, nó hông còn được

coi trọng như trước đây.

Ở khía cạnh cá nhân, sự thoái hóa của đạo đức biểu hiện ở sự suy thoái

của phẩm chất đạo đức, ý thức coi thường các giá trị đạo đức truyền thống,

không chú trọng việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức, mất lòng tin vào các giá trị

đạo đức xã hội, không còn tình cảm đạo đức, sự xấu hổ và lòng tự trọng

không còn, danh dự cá nhân hông được coi trọng...

Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, con người ngày càng có biểu

hiện coi nhẹ, xa rời những giá trị truyền thống. Đạo đức, nhân phẩm con

người dường như không phải là thứ đáng được đề cao. Ngược lại, lối sống

thực dụng ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội.

Ngày nay người ta tìm mọi cách để kiếm tiền, tất cả vì đồng tiền, đặt

vật chất, tiền bạc lên trên hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách… Người ta

ngày càng “điên cuồng hơn trong việc đuổi theo những thụ hưởng vật chất”

[1, tr.8], èm theo đó là “tệ sùng bái nước ngoài”, coi thường những giá trị

văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… Đồng tiền vừa

được xem là phương tiện trao đổi vừa là mục đích của sự trao đổi, lợi nhuận

không chỉ chi phối mạnh mẽ mọi suy tư, tình cảm ý thức kinh doanh, mà còn

đi vào mọi suy tư và hoạt động của nhiều lĩnh vực xã hội khác, trong các hoạt

động xã hội và cả trong đời sống tinh thần, trong quan hệ gia đình. Đối với

hông ít người tiền là cái quyết định tất cả, và nó được coi như một chuẩn

mực để đánh giá con người. Suy thoái đạo đức khiến người ta không còn mặn

mà với những chuẩn mực đạo đức truyền thống; khiến người ta thản nhiên

làm trái những chuẩn mực đạo đức xã hội mà không cảm thấy xấu hổ hay day

dứt lương tâm.

64

Sự suy thoái đạo đức, lối sống diễn ra trên nhiều đối tượng, trong đó có

cả một bộ phận cán bộ, đảng viên. Như Đại hội lần thứ X đã nhận định “tình

trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận

không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí

vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả.” [12, tr.22].

Nhìn chung, tình trạng đạo đức xã hội xuống cấp biểu hiện trong rất

nhiều mặt của đời sống. Trong xã hội ít nhiều diễn ra các hiện tượng con cái

có những hành vi thể hiện sự bất hiếu đối với cha mẹ, trò không lễ phép với

thầy cô, chồng đối xử vũ phu với vợ..., nhiều vụ án gian lận trong nhiều lĩnh

vực khiến dư luận không khỏi bức xúc. Đó là những hành vi vi phạm pháp

luật và đạo đức nghiêm trọng.

Trước tình hình đó, vai trò của pháp luật chưa được phát huy hết trong

việc ngăn chặn có hiệu quả sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Nguyên

nhân như trên đã đề cập, các qui định của pháp luật về việc giữ gìn và phát

huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc phần lớn mang tính khái

quát, chung chung, ít có những qui định mang tính giải pháp cụ thể. Việc

trừng trị các hành vi suy thoái về đạo đức còn hạn chế, nhiều hành vi suy

thoái nhưng hông thể trừng trị bằng pháp luật mà nguyên nhân là sự qui định

của pháp luật chưa phù hợp, nhiều trường hợp, rào cản lại xuất phát từ chính

các chuẩn mực đạo đức. Pháp luật đã có các qui định về xử lý những người có

hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người

có công nuôi dưỡng… Chẳng hạn pháp luật có quy định về việc xử lý hành vi

ngược đãi cha mẹ, ông bà, vợ chồng con cháu, người có công nuôi dưỡng

mình [25, Đ.151], hoặc quy định xử lý hành vi kết hôn hoặc chung sống như

vợ chồng giữa người đã có vợ, có chồng với người khác, giữa những người

chưa có vợ, có chồng với người đã có vợ, có chồng [25, Đ.147]. Tuy nhiên,

trên thực tế, những hành vi này hầu như rất ít bị xử lý vì theo quy định của

pháp luật hiện hành, vì chúng chỉ bị xử lý hi có đơn yêu cầu của người bị hại

65

hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính nay lại có hành vi tái diễn. Trong khi

đó, các ông bố, bà mẹ, người vợ nhiều khi không dám và không muốn tố giác

vì muốn “êm cửa, êm nhà”, vì sợ “vạch áo cho người xem lưng”... Nhiều

trường hợp can tâm nhẫn nhục vì không muốn ảnh hưởng đến công tác, tâm

lý sợ phải ra công đường, cho rằng ra đó là xấu xa, tội lỗi. Vì thế, nhiều quan

điểm, quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc mặc dù đã được pháp luật ghi

nhận và bảo vệ nhưng vẫn bị xâm phạm.

Năm là, đạo đức trong xã hội bị xuống cấp là một trong những nguyên

nhân khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.

Sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức lại là một trong những nguyên

nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng vi phạm pháp luật gia tăng cả về số lượng và

mức độ nghiêm trọng, một số tội phạm nghiêm trọng mới, được hình thành

dưới nhiều vỏ bọc tinh vi, xảo trá. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hành

động trái pháp luật, trong đó đáng ể nhất là sự phát triển của nền kinh tế thị

trường gây ra những mặt trái làm ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục, sự tha hóa

biến chất, lối sống thực dụng của một bộ phận nhân dân. Ở Việt Nam hiện

nay, xã hội có xu hướng coi trọng các giá trị vật chất, đánh giá con người

nặng về đồng tiền mà coi thường các giá trị danh dự, nhân phẩm - mặt trái của

kinh tế thị trường và tác động tiêu cực của một số luồng văn hóa phản động từ

bên ngoài vào nước ta.

Trên các phương tiện thông tin đại chúng liên tiếp xuất hiện nhiều vụ

giết người hết sức man rợ gây xôn xao dư luận. Những kẻ gây án có tuổi đời

thậm chí rất trẻvà đều tự mình gây án với một thái độ hết sức thản nhiên.

Chính điều này đã hiến dư luận đặt câu hỏi: tại sao cái ác lại dễ bộc phát đến

như thế? Vì sao các vụ án giết người đang ngày càng gia tăng và rất dã man?

Các vụ án như: giết bạn học bằng cách cho uống thuốc ngủ rồi bỏ vào

bao vứt xuống sông; giết chị dâu, chặt xác ra làm nhiều khúc bỏ vào bao tải

vứt ra đường; giết vợ rồi suýt giết cả con chỉ vì ghen tuông; đâm chết bạn gái

66

chỉ vì bị từ chối tình yêu… Những thông tin này dường như liên tục được đưa

lên các phương tiện truyền thông hàng ngày và có lượng người đọc, truy cập

rất cao… Chưa bao giờ người dân lại cảm thấy bất an như hiện nay. Mạng sống

của con người rất dễ bị tước đoạt, kể cả những lý do rất vu vơ hông ai ngờ.

Nhiều hành vi vi phạm pháp luật gây ra những hậu quả cực kì nghiêm

trọng, có những vụ gây thất thoát tài sản của nhà nước lên tới nhiều nghìn tỉ

đồng. Tình hình phụ nữ, người chưa thành niên vi phạm pháp luật có chiều

hướng gia tăng. Vụ án Lê Văn Luyện, kẻ chưa đủ 18 tuổi cùng lúc ra tay giết

ba người trong một gia đình, trong đó có em nhỏ 18 tháng tuổi là một vụ án

gây chấn động dư luận. Nhiều trường hợp, có cả vợ, chồng, anh, em, bố mẹ,

con cái cùng tham gia vào một đường dây vi phạm pháp luật. Nhiều vụ vi

phạm pháp luật có liên quan tới cán bộ, công chức nhà nước, liên quan tới các

cơ quan có chức năng bảo vệ sự tôn nghiêm của luật pháp. Hành vi vi phạm

pháp luật mà giữa người vi phạm và nạn nhân có mối quan hệ đạo đức hết sức

gần gũi như quan hệ trong gia đình, quan hệ thầy trò… làm băng hoại đạo đức

xã hội xuất hiện ngày càng nhiều. Hành vi chống đối chính quyền, chống

người thi hành công vụ ngày càng trở thành phổ biến. Như đã đề cập, chất

lượng vệ sinh lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh đang là những vấn đề

nhức nhối dư luận hiện nay. Thậm chí một số người nước ngoài sống tại Việt

Nam cảm thấy đáng sợ vì ở đây tràn lan thực phẩm nhiễm độc. Một tình trạng

đáng báo động nữa là trong xã hội ta hiện nay đang xuất hiện một hiện tượng

nghịch lý: tình trạng người lớn sợ trẻ con, người ngay sợ kẻ gian. Tuy nhiên,

thực trạng trên đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng nửa nổi nửa chìm, tình

hình vi phạm pháp luật ẩn có thể nói là không kém phần nghiêm trọng.

Một số bộ phận đã tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, dẫn đến lối sống thực

dụng, đồng tiền được coi là chìa khóa vạn năng của cuộc sống. Trong cơ chế

thị trường hiện nay, Nhà nước khuyến khích mọi công dân làm giàu hợp

pháp. Dư luận rất đồng tình, ủng hộ và cổ vũ cho hoạt động làm giàu chính

67

đáng. Tuy vậy, hệ thống pháp luật cũng như hệ thống quản lý tài chính hiện

nay chưa cho phép chúng ta xác định được thu nhập của các tổ chức, đặc biệt

là các cá nhân có được từ nguồn gốc nào, hợp pháp hay bất hợp pháp. Lợi

dụng tình hình này, một số người đã tiến hành các hoạt động làm ăn phi pháp.

Đối với những người này, về kinh tế họ không từ một thủ đoạn nào để thu

được lợi nhuận từ việc trốn thuế, buôn lậu đến lừa đảo, gian dối; về chính trị,

họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi; về xã hội, họ đánh giá

con người dựa trên các giá trị vật chất, coi thường danh dự, nhân phẩm của

người hác. Dư luận xã hội vì không có khả năng để phân biệt đâu là đồng

tiền hợp pháp, đâu là đồng tiền bất hợp pháp nên đã hông có những phản

ứng tích cực đối với các hành vi làm giàu bất chính. Thậm chí có những

trường hợp như giám đốc Tăng Minh Phụng - một tên lừa đảo, có những hành

vi buôn lậu, đưa hối lộ làm thiệt hại cho Nhà nước và xã hội hàng tỷ đồng,

còn được đưa lên mặt báo như một tấm gương doanh nghiệp trẻ làm ăn phát

đạt. Điều này càng tạo điều kiện cho những kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa làm

giàu bất chính trong khi những người làm ăn chính đáng thì lại chịu thiệt thòi

vì những rào cản hông đáng có từ phía pháp luật hiện hành như các thủ tục

hành chính rườm rà, môi trường đầu tư hông thông thoáng.

Một bộ phận hác, đặc biệt là thanh thiếu niên, vì muốn có cuộc sống

hưởng thụ nhưng hả năng tài chính hông cho phép thì con đường ngắn nhất

để đạt được mục đích là vi phạm pháp luật. Đó là một trong những nguyên

nhân liên tiếp diễn ra các vụ trộm cắp, thậm chí là giết người cướp của… mà

các phương tiện thông tin đại chúng vẫn thường đưa tin.

Có thể nói, tình hình vi phạm pháp luật gia tăng trong xã hội là một

trong những cản trở to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền

ở nước ta hiện nay. Nguyên nhân của tình trạng trên là rất nhiều, có cả những

nguyên nhân chủ quan của người vi phạm, cả những nguyên nhân khách quan

thuộc về đời sống kinh tế xã hội, trong đó sự thoái hóa, xuống cấp của đạo

68

đức là một trong những nguyên nhân cơ bản. Đạo đức xã hội xuống cấp,

những chuẩn mực đạo đức hông còn ý nghĩa ràng buộc, chi phối hành vi,

hông còn ý nghĩa ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật; Ý thức đạo

đức suy giảm dẫn đến thái độ coi thường pháp luật. Đó chính là nguyên nhân

sâu xa của tình trạng vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng.

2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp đạo đức và pháp luật

trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Từ thực trạng của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng

nhà nước pháp quyền ở Việt Nam được trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy

rằng, kết hợp đạo đức và pháp luật thực sự trở thành một yêu cầu, một

nguyên tắc để nhà nước thực hiện chức năng quản lý trong xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên muốn nâng cao hiệu quả

của việc kết hợp này cần phải có những biện pháp phù hợp.

Để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những

khiếm khuyết, tồn tại trong mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, đảm bảo

kết hợp một cách chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội ở

nước ta, cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:

2.2.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức, của

pháp luật cũng như ý nghĩa của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thực tế cho thấy, trong quản lý xã hội nói chung không thể dùng pháp

luật thay thế cho đạo đức, hoặc đạo đức thay thế cho pháp luật. Kết hợp giữa

đạo đức với pháp luật chính là nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật dân

chủ, phù hợp với các giá trị chân, thiện, mỹ, bảo đảm, bảo vệ các quyền, các

giá trị con người. Đồng thời, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức cũng là

làm cho các giá trị đạo đức thẩm thấu vào trong các qui định của pháp luật,

làm cho lương tâm, tình cảm con người trở thành động lực thúc đẩy việc thực

69

hiện pháp luật; làm cho pháp luật và đạo đức trở nên thống nhất với nhau, hòa

quyện vào nhau, trở thành tiền để của nhau, thúc đẩy nhau phát triển.

Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng NNPQ. Đó là nhà nước đề

cao pháp luật, quản lý nhà nước bằng pháp luật. Tuy nhiên như phần trên đã

phân tích, ta thấy pháp luật không thể điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã

hội cũng như hông thể điều chỉnh được mọi khía cạch, mọi mức độ của các

quan hệ đó. Sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ không phải khi nào

cũng đem lại kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, xây dựng NNPQ XHCN

hiện nay phải quan tâm đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, phải nhận

thức sâu sắc về ý nghĩa thiết thực của việc kết hợp pháp luật và đạo đức ở một

quốc gia có nền văn hóa pháp triển lâu đời. Trong xã hội “Nếu con người chỉ

sống có tình với nhau theo phương châm “chín bỏ làm mười”, “bán anh em xa

mua láng giềng gần” mà quên rằng xã hội còn có bọn trộm cướp, lừa đảo, cửa

quyền… Thì tình nghĩa chỉ là sợi dây trói người trung thực và mở cửa cho

nhân cách xấu xuất hiện. Ngược lại, nếu trong xã hội nhất cử, nhất động đều

được quy chuẩn theo luật thì con người sẽ trở thành cỗ máy” [19, tr.91].

Để tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao nhận thức về tầm

quan trọng của hoạt động kết hợp pháp luật và đạo đức trong xây dựng và

quản lý nhà nước cần phải tiến hành những hoạt động cụ thể sau:

Một là, phải đẩy mạnh việc nghiên cức khoa học về vấn đề việc kết hợp

pháp luật và đạo đức trong hoạt động xây dựng NNPQ mà trước hết là nghiên

cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phương thức kết hợp này

trong đường lối trị nước của các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là

các triều đại phong kiến Trung Quốc, đây là cái nôi của hai học thuyết chính

trị Đức trị và Pháp trị nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam cũng như

các nước khác trong khu vực. Nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về

các phương thức kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội thông qua

hoạt động thực tiễn của Người.

70

Hai là, cần đào tạo chuyên sâu đội ngũ giáo viên, tuyên truyền viên

nắm vững kiến thức khoa học pháp lý, thấm nhuần sâc sắc các giá trị đạo đức

truyền thống tiến bộ của dân tộc và đặc biệt có nhận thức khách quan, khoa

học về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, cũng như ý nghĩa lý luận, ý

nghĩa thực tiễn của việc kết hợp các công cụ quản lý xã hội này. Từ đó có

những hoạt động thiết thực nhằm phổ biến, nâng cao nhận thức về pháp lý, về

việc cần thiết kết hợp đạo đức và pháp luật trong điều kiện xây dựng NNPQ

hiện nay. Bởi vì nếu nhận thức hông đúng về vị trí, vai trò của pháp luật và

đạo đức còn có thể dẫn đến pháp luật hông được xây dựng trên cơ sở của

đạo đức, không phù hợp với các giá trị đạo đức, bởi vậy không những không

phát huy được vai trò của đạo đức trong việc thúc đẩy sự thực hiện pháp luật,

mà có khi còn gây ra sự cản trở mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật.

2.2.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng

cố và phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ nhất, phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nói

đến NNPQ là đề cập tới sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội với tư

cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ biến. Về mặt hình thức pháp lý,

NNPQ phải đảm bảo sự cai trị của pháp luật, sự ràng buộc của pháp luật đối

với nhà nước, xã hội và mọi công dân. Về mặt nội dung pháp lý, pháp luật phải

mang tính pháp quyền, đảm bảo yêu cầu hách quan, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Thực tế cho thấy không thể có sự kết hợp đạo đức và pháp luật một cách hiệu quả

nếu như bản thân hệ thống pháp luật ấy còn nhiều hạn chế như chồng chéo, chắp

vá, còn thiếu những văn bản cần thiết nhưng lại thừa những văn bản mà sau khi

ban hành hông đem lại hiệu quảthiết thực. Một qui định của pháp luật luôn phải

được xem xét trên cả hai bình diện, tư tưởng và cách biểu đạt, vì vậy, trong hoạt

động xây dựng pháp luật phải chú ý cả hai bình diện này. Thực tế có không ít

trường hợp vì lỗi diễn đạt mà làm sai lệch hẳn tư tưởng của nhà làm luật. Phải dân

71

chủ hoá đời sống xã hội cũng như hoạt động xây dựng pháp luật, phải để cho nhân

dân tham gia nhiều hơn, tích cực hơn, tham gia thực sự đông đảo vào các giai

đoạn của qui trình xây dựng pháp luật. Để pháp luật thực sự phản ánh đúng ý

chí, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích của nhân dân.

Từ cơ sở lý luận trên cho thấy xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật

là nội dung yêu cầu không thể tách rời trong quá trình xây dựng NNPQ. Quá

trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải đạt được những yêu cầu cơ bản như:

nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính

thống nhất của hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật, đảm bảo tính tối cao

của Hiến pháp.

Trong điều kiện xây dựng NNPQ hiện nay của Việt Nam, điều cốt yếu

là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và

pháp luật trong NNPQ XHCN không thể là sản phẩm tùy tiện, tự do duy ý chí

của Nhà nước và các nhà làm luật mà ngược lại Hiến pháp và pháp luật phải

phù hợp với bản chất khách quan của điều kiện kinh tế xã hội, của các quan

hệ xã hội trong điều kiện cụ thể, phù hợp với ý chí của toàn dân và các

nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp luật được ban hành phải toàn

diện, đồng bộ, cụ thể, minh bạch, đảm bảo tính khả thi...

Việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật trong điều kiện xây

dựng NNPQ XHCN phải mang tính pháp quyền, tức là phải phản ánh một

cách khách quan các quan hệ xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật.

Thực tế đã có nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi

vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng

định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động

tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày

càng nghiêm minh hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định

hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn.

72

Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện

vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc

đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trò vô

cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội.

Thứ hai, phải giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức truyền thống

tốt đẹp của dân tộc, loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, định hướng

hình thành các giá trị đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ trong điều kiện nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời thể chế các giá trị

đạo đức này vào trong quá trình xây dựng pháp luật.

Để xây dựng được các qui định pháp luật có chất lượng, có hiệu quả thì

bản thân nhà làm luật phải là những người có đạo đức cách mạng trong sáng,

thấm nhuần một cách sâu sắc các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống

của dân tộc cũng như những quan điểm đạo đức mới tiến bộ. Nhà làm luật

phải nghiên cứu thật ĩ các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội trước khi

bắt tay soạn thảo văn bản, phải xác định được quan niệm, qui tắc đạo đức nào

là tốt đẹp, tiến bộ cần thừa nhận, giữ gìn và phát huy, quan niệm, qui tắc đạo

đức nào không còn phù hợp cần phải loại bỏ...

Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi

trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành

một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh

tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân

sự… đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống,

hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng

cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và

khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm

thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và

bình đẳng xã hội. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức,

tính khách quan, khoa học và duy lý thay cho sự tuỳ tiện vấn dựa trên cơ sở

73

kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với

nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi

thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình

trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ

cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là

nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân

trong giai đoạn mới.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc

đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và

xã hội hóa tri thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và

của toàn xã hội cũng được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh của đạo đức

cũng biến đổi và phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự biến đổi đó được

biểu hiện ở tính duy lý cao hơn trong việc đánh giá, lựa chọn những giá trị và

chuẩn mực đạo đức. Mỗi người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn

trong việc tôn trọng pháp luật, có bản lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng

và lẽ phải, biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói,

việc chuyển sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội với thói quen

theo “lệ”, và nặng về đạo đức sang điều chỉnh bằng pháp luật, đề cao tính

nhân bản là một trong những chuyển biến quan trọng nhất trong đời sông xã

hội. Bởi lẽ, việc hình thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để

nâng cao ý thức đạo đức và năng lực thực hiện những hành vi đạo đức của

mỗi cá nhân, đồng thời là cơ sở để phát triển đạo đức của xã hội.

Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá

trị chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con

người và xã hội. Pháp luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những

quy phạm, điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy

phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm

74

đoán. Đồng thời, chúng còn xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình

phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Ngoài ra, pháp luật còn thực hiện điều

chỉnh mối quan hệ giữa con người và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ

bên ngoài. Trong hi đó, đạo đức lại điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận

xã hội, bằng sự giác ngộ và sự thôi thúc từ bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống

nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Do vậy, có

thể nói, pháp luật không những là công cụ để quản lý xã hội, mà còn tạo môi

trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức.

2.2.3. Chú trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, ý thức pháp luật

trong gia đình, nhà trường, xã hội.

Con người ta sinh ra không phải “bản tính thiện” hay “bản tính ác” mà

“Thiện ác đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [30, tr.31]

như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Chỉ trên cơ sở thấm nhuần các quan niệm,

quan điểm đạo đức, nắm vững các quy định của pháp luật thì mới có cơ sở

cho việc thực hiện chúng một cách đứng đắn trên thực tế.

Vì vậy, trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, để pháp luật

được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh thì phải chú trọng yếu tố đạo đức.

Do vậy, chú trọng giáo dục pháp luật phải được thực hiện trong sự kết hợp,

lồng ghép với việc giáo dục nâng cao đạo đức, bổn phận công dân, có như vậy

pháp luật và đạo đức mới có điều kiện phát huy sức mạnh của mình với tư

cách là hai công cụ cơ bản để quản lý xã hội.

Việc giáo dục đạo đức, pháp luật được tiến hành cho các đối tượng phải

đạt được những mục đích cụ thể sau đây:

Thứ nhất, giáo dục pháp luật, phải nhằm hình thành sâu sắc và mở rộng

hệ thống tri thức về pháp luật, có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình, đồng thời không xâm phạm đến quyền và lợi ích người khác, bảo

đảm quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, lợi ích chung xã

hội; Giáo dục đạo đức phải tạo nên nhận thức về các giá trị, chuẩn mực về

75

đạo làm người, về đối nhân xử thế, phải biết kế thừa những giá trị đạo đức

truyền thống tiêu biểu của dân tộc, phải đón bắt kịp thời những giá trị đạo đức

tinh hoa của nhân loại, nhưng cao hơn hết là xây dựng hệ thống chuẩn mực

đạo đức xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, giáo dục pháp luật, đạo đức phải nhằm hình thành tình cảm,

lòng tin với pháp luật, với các giá trị đạo đức của dân tộc.

Thứ ba, giáo dục pháp luật, đạo đức nhằm hình thành ở mỗi con người

những động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực trong cuộc sống.

Muốn đạt được mục đích trên, phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức, pháp

luật một cách tích cực ở cả gia đình, nhà trường và xã hội.

Gia đình là môi trường lí tưởng trong việc giáo dục con người, trước

hết là về giáo dục đạo đức và tiếp đến là giáo dục ý thức pháp luật, gia đình

có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân

cách con người. Gia đình là cái nôi của tình thương và trách nhiệm, tình cảm

và trách nhiệm trong gia đình là cơ sở của tình cảm và trách nhiệm trước đồng

loại. Chính vì vậy, có thể nói, các hệ thống đạo đức đều hướng tới việc thiết

lập và củng cố, giữ gìn trật tự, ổn định trong gia đình trước hết. Việt Nam và

các nước Á Đông hác chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo,

vì vậy đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn ổn định, trật

tự trong gia đình. Việc giáo dục đạo đức đạt kết quả tốt là điều kiện để thực

hiện giáo dục ý thức pháp luật mang lại hiệu quả hơn. Không chỉ gia đình

truyền thống mà cả gia đình hiện đại đều phải duy trì, bảo vệ mô hình của

mình, xác định trách nhiệm, bổn phận của các thành viên trong gia đình chủ

yếu dựa trên những chuẩn mực đạo đức.

Giáo dục ở gia đình phải kết hợp với giáo dục ở nhà trường. Nhà

trường là một thiết chế rất quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức, pháp

luật bởi nó thực hiện đồng thời các chức năng: dạy chữ, dạy nghề và dạy

người. Sau gia đình và đồng thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho con

76

người hình thành nhân cách, lối sống. Giáo dục pháp luật, đạo đức trong nhà

trường “có vai trò đặc biệt lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách

thế hệ trẻ. Nó trở thành nền tảng, hành trang cơ bản cho thế hệ trẻ đạt được

những thành tựu và vững bước vào đời” [16, tr.174,175]. Vì vậy trong nhà

trường phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ

công dân, coi trọng công tác giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc. Khẩu

hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" cần phải được thực hiện một cách triệt để

trong môi trường học đường. Thời gian qua, do quá chú trọng công tác “dạy

chữ, dạy nghề”, nên công tác “dạy người”, giáo dục kỹ năng sống cho học

sinh có phần bị coi nhẹ. Nhiều học sinh rất xứng đáng với danh hiệu “trò giỏi”

nhưng thiếu ĩ năng sống, hi hòa mình vào đời sống cộng đồng trở nên hết

sức bỡ ngỡ, lúng túng. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, công tác giáo dục đạo

đức, pháp luật trong các trường học cần phải được chú trọng hơn, với nội

dung chương trình phù hợp với từng cấp học, từng loại đối tượng khác nhau,

trong đó cần phải nhấn mạnh và coi trọng trước hết là giáo dục đạo đức, sau

đó mới đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Chương trình nói lời hay, làm việc tốt

cần được tiếp tục phát huy, nhân rộng trong các trường học…

Ngoài ra, cũng cần tuyên truyền pháp luật, đạo đức cho nhân dân nói

chung, bằng những hình thức hác nhau. Trong đó, thông tin đại chúng đóng

vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Vì vậy, cần sử

dụng thông tin đại chúng như là công cụ hữu hiệu trong công tác giáo dục

pháp luật, đạo đức. Hoặc thiết thực hơn với hình thức tuyên truyền pháp luật,

đạo đức được thực hiện thông qua việc đóng góp ý iến xây dựng luật, xây

dựng các hương ước, quy ước làng xã, xây dựng nội quy, quy chế sinh hoạt ở

cơ quan; qua các hình thức sân khấu hóa; qua hoạt động tư vấn và trợ giúp

pháp lý; qua các phiên tòa xét xử lưu động... Đặc điểm của hoạt động tuyên

truyền này là nó theo sát đời sống thực tế, gắn bó với nguyện vọng của đông

đảo các tầng lớp nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền dân chủ, đồng thời

77

thực hiện sự giám sát của nhân dân, chống sự lạm dụng, cục bộ, phiến diện

trong công tác xây dựng luật pháp. Nó cũng là phương thức hiệu quả nhất để

chuyển tải các giá trị đạo đức thành giá trị pháp luật, làm cho văn bản pháp

luật nhanh chóng đi vào đời sống sau khi ban hành.

Bên cạnh đó, các thiết chế xã hội hác như: tổ chức Đảng Cộng sản,

Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,

Hội người cao tuổi, Đội thiếu niên tiền phong... cũng có vai trò quan trọng

trong việc giáo dục pháp luật, đạo đức đối với các thành viên, hội viên trong

tổ chức đó nói riêng, các thành viên trong xã hội nói chung.

Một người vi phạm đạo đức thường là vi phạm pháp luật và ngược lại

vi phạm pháp luật cũng là vi phạm đạo đức. Đạo đức và pháp luật không tự

nhiên mà có. Để con người có được ý thức đạo đức và ý thức pháp luật đều là

kết quả giáo dục lâu dài. Giáo dục cho con người có đạo đức cũng là giáo dục

cho con người biết tôn trọng pháp luật, kỷ cương phép nước. Như vậy, giáo

dục đạo đức, pháp luật cho công dân là một việc làm quan trọng có ý nghĩa

thiết thực trong việc xây dựng NNPQ XHCN của chúng ta hiện nay.

2.2.4. Đánh giá đúng vai trò của dư luận xã hội và dựa vào những

luồng dư luận tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan

hệ xã hội.

Dân gian có câu: "Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn

còn trơ trơ" để nói về sức mạnh của dư luận xã hội. Khác với các biện pháp

cưỡng chế nhà nước, sự phán xét của "tòa án lương tâm" nhiều khi còn có tác

động mạnh mẽ hơn đối với chủ thể, nó không chỉ diễn ra trong hiện tại mà

"triền miên, day dứt, thậm chí trong suốt cả cuộc đời người vi phạm" [36,

tr.17]. Bởi vậy, dư luận xã hội là biện pháp đảm bảo rất quan trọng của đạo

đức. Mọi quan hệ xã hội chỉ được khuyến khích, củng cố khi phù hợp với

những chuẩn mực đạo đức xã hội, trái lại nó sẽ nhận được sự phản đối, sự tẩy

chay của dư luận xã hội.

78

Cho nên, dư luận xã hội luôn là một vấn đề chiếm vị trí quan trọng

trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Dư luận có sự tác động đối với

nhiều lĩnh vực hác nhau trong đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực pháp luật,

đặc biệt là ý thức pháp luật của con người và nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Dư luận xã hội được hiểu là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất

phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những

vấn đề mang tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan

tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động

thực tiễn của họ. Trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy, hi chưa có nhà nước,

chưa có pháp luật dư luận xã hội đã từng được sử dụng để điều hòa các mối

quan hệ xã hội, định hướng hành vi của con người.

Dư luận xã hội tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của con người.

Thông qua dư luận xã hội, con người sẽ ý thức được đâu là hành vi vi phạm

pháp luật cần lên án hoặc đâu là những hành vi hợp pháp cần được khích lệ,

cổ vũ, động viên. Chẳng hạn, những vụ vi phạm pháp luật hình sự đặc biệt

nghiêm trọng như giết người dã man, xâm hại an ninh quốc gia,… đã gây xôn

xao dư luận trong xã hội, khiến cho dư luận xã hội hết sức căm phẫn, đòi

trừng phạt nghiêm khắc kẻ phạm tội. Trên cơ sở của dư luận xã hội, cá nhân

sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội,

với chuẩn mực pháp luật. Sức mạnh đặc trưng của dư luận xã hội khiến cho

mỗi cá nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét trước khi thực hiện một hành vi

pháp luật nào đó: hành vi đó đúng hay sai? phù hợp hay không phù hợp với

các quy định của pháp luật hiện hành? Nếu thực hiện một hành vi nào đó thì

có bị dư luận xã hội lên án hoặc phải chịu sự xử lý theo các nguyên tắc luật

định hay hông? Điều đó cho thấy, dư luận xã hội có ảnh hưởng tới sự hình

thành và phát triển ý thức pháp luật của cá nhân. Qua đó, dư luận xã hội luôn

có tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật, hành vi của con người.

79

Một trong những đặc điểm cơ bản của dư luận xã hội là tính lan truyền.

Dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì càng có xu hướng thống nhất về nội

dung các phán xét, đánh giá, càng làm cho mọi người trong xã hội nhận thức

sâu sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng

pháp luật. Do đó, dư luận xã hội có vai trò to lớn trong việc phổ biến, tuyên

truyền những giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật đến với các

chủ thể trong xã hội, trong đó có từng cá nhân con người.

Như vậy, dư luận xã hội luôn hỗ trợ cùng pháp luật trong việc nâng cao

ý thức pháp luật, điều chỉnh hành vi của con người, duy trì trật tự trong toàn

xã hội cũng như trong mỗi cộng đồng. Nó góp phần giáo dục nhận thức đúng

đắn về điều tốt, cái xấu, điều gì đúng pháp luật, điều nào sai pháp luật… để từ

đó, nó răn đe con người cần tránh xa những cái xấu xa trong xã hội. Đồng

thời, dư luận xã hội cũng góp phần nâng cao sự hiểu biết pháp luật của người

dân và cũng là phương tiện để các cơ quan nhà nước có thể đánh giá được khả

năng nhận thức, việc sử dụng pháp luật và phản ứng của nhân dân đối với các

vấn đề pháp luật, từ đó tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật như thế

nào cho phù hợp với khả năng nhận thức và thực hiện pháp luật ở đại đa số

quần chúng nhân dân. Chúng ta có thể xem dư luận xã hội như là "người lính

canh giữ", bảo vệ những quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội, cũng như

các giá trị, lợi ích chính đáng của con người.

Thông qua việc tạo ra những “ huôn mẫu tư duy”, “ huôn mẫu hành

động” cho các thành viên trong xã hội, dư luận xã hội hướng con người theo

gương người tốt, việc tốt trong lĩnh vực chấp hành pháp luật. Điều đó nói lên

rằng, dư luận xã hội có ảnh hưởng tích cực tới tâm trạng của con người trước

luật pháp. Dư luận xã hội có sức mạnh rất to lớn trong việc tác động đến ý

thức và hành vi con người. Do vậy, trong quá trình xây dựng, nâng cao ý thức

pháp lý đối với từng cá nhân, nhà nước cần khéo léo phát huy những luồng dư

luận có tác động tích cực. Tạo dựng dư luận rộng rãi để lên án một cách mạnh

80

mẽ các hiện tượng vi phạm pháp luật cũng như vi phạm đạo đức, làm cho các

thành viên trong xã hội không thờ ơ trước cái ác, cái bất công; thu hút sự tham

gia nhiệt tình của mọi người dân vào công cuộc đấu tranh phòng và chống vi

phạm pháp luật, vi phạm đạo đức.

2.2.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp

luật, vi phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm

pháp luật.

Có thể nói trong thời gian vừa qua, tình hình vi phạm pháp luật

ngày càng trở nên phức tạp, số lượng vụ việc vi phạm pháp luật ngày càng

gia tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao, mức độ nghiêm trọng ngày

càng lớn. Hiện tượng vi phạm các chuẩn mực đạo đức truyền thống cũng

ngày càng phổ biến.

Những hiện tượng đó làm cho đời sống xã hội mất ổn định, các giá trị

xã hội bị đảo lộn, hậu quả để lại cho xã hội hết sức nặng nề. Chính vì vậy,

tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm

đạo đức là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài.

Quan điểm chỉ đạo là phải xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật,

bất kể người vi phạm là ai, giữ cương vị gì trong bộ máy của Đảng, Nhà

nước, tổ chức xã hội. Các hành vi vi phạm pháp luật đồng thời làm đạo đức xã

hội bị thoái hoá, xuống cấp càng phải xử lý nghiêm minh hơn. Trong xử lý

các vi phạm pháp luật phải triệt để tôn trọng các qui định của pháp luật về

nhân phẩm con người, xử lý nghiêm minh các hành vi mớm cung, ép cung,

dùng nhục hình... Chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật phải luôn

xác định mình vừa là người chấp pháp, vừa là người thi hành đạo đức. Thông

qua việc áp dụng các biện pháp chế tài pháp lý, nhà chức trách có thẩm quyền

không những phải tuyên truyền những qui định pháp luật cho nhân dân mà

đồng thời tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Việc xử lý vi

81

phạm pháp luật vừa nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật vừa nhằm

giữ gìn, bảo vệ các chuẩn mực đạo đức.

Cần có các biện pháp cụ thể để thu hút sự tham gia đông đảo của mọi

tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi

phạm các chuẩn mực đạo đức, lập lại trật tự kỉ cương xã hội. Công tác đấu

tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức phải được coi là công

việc của toàn xã hội, mọi người đều phải có trách nhiệm tham gia một cách

tích cực. Tuy nhiên cần phải đảm bảo an toàn cho những người tích cực, dũng

cảm đấu tranh chống vi phạm pháp luật, đồng thời có các biện pháp khuyến

khích về vật chất và tinh thần thoả đáng cho họ.

Để thực hiện công việc phức tạp và to lớn này, cần phát huy sức mạnh

tổng hợp của toàn xã hội, của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan

chuyên trách bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, thông

tin đại chúng, các chức sắc tôn giáo, các già làng trưởng bản, các cộng đồng

dân cư… Cần tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức để từng bước xóa bỏ chúng. Tăng cường sức mạnh của các cơ

quan chuyên trách bảo vệ pháp luật như công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh

tra… đảm bảo vừa vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, vừa có phẩm chất

chính trị, đạo đức, được trang bị các điều kiện vật chất ĩ thuật đủ mạnh để có

thể phản ứng kịp thời, có hiệu quả trước các vi phạm pháp luật, không bị sa

ngã trước những cám dỗ trong cuộc sống. Tăng cường công tác kiểm tra giám

sát việc thực hiện pháp luật và đạo đức, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm

minh mọi vi phạm pháp luật.

Cần có cơ chế động viên, khuyến hích, hen thưởng kịp thời, đặc biệt

có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người dũng cảm đấu tranh chống lại cái

ác, cái bất công, tôn vinh, nêu gương sáng để học tập những cá nhân, tổ chức

có thành tích trong công cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật, vi phạm

đạo đức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng các chuẩn mực đạo đức

82

trong tình hình mới. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp

luật, giáo dục đạo đức trong nhân dân. Cần tạo ra môi trường gia đình, xã hội

lành mạnh và an toàn, mang tính nhân văn cao, tạo ra những hoàn cảnh và

điều kiện tốt để mọi người phát huy cái tốt, cái tích cực, loại trừ cái tiêu cực.

Đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức là công

việc phức tạp. Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý vừa phải đảm bảo

đúng pháp luật, vừa phải đảm bảo khả năng bất lợi thấp nhất cho người bị truy

cứu. Trách nhiệm pháp lý luôn có tính chất bất lợi cho người bị truy cứu, vì

vậy, trong hoạt động của mình, cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền cần

tận dụng mọi khả năng có thể trong phạm vi luật định để sao cho biện pháp

cưỡng chế nhà nước được áp dụng đối với họ là biện pháp “ít bất lợi nhất”.

Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý phải luôn quán triệt phương châm

“đánh ẻ chạy đi, hông đánh người chạy lại”. Vì vậy, nhà nước và xã hội

luôn tạo mọi điều kiện để những người “lầm đường lạc lối” quay trở lại con

đường lương thiện, “làm lại cuộc đời”. Tuyệt đối tránh tình trạng đẩy người vi

phạm vào bước đường cùng, “ hông còn gì để mất”. Đồng thời, để khuyến

hích người vi phạm tích cực sửa chữa sai phạm, cần có biện pháp miễn,

giảm, xóa trách nhiệm pháp lý cho họ một cách kịp thời. Hoạt động này được

thực hiện tốt, không chỉ giáo dục được người vi phạm, mà còn loại bỏ cơ hội

tái phạm của họ. Ngược lại, nếu hoạt động này bị coi nhẹ thì đó lại là một

trong những nguyên nhân của tình trạng tái vi phạm.

Trên thực tế, nhiều hoạt động giáo dục cải tạo người vi phạm trong thời

gian giam giữ đã được thực hiện bằng những việc cụ thể như: Theo quy định,

trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân thường xuyên được học pháp

luật, giáo dục công dân, phổ biến thông tin thời sự, chính sách. Để giúp họ có

niềm tin trong cuộc sống, năm 2011, Tổng cục VIII đã chỉ đạo các trại giam

tổ chức thi viết tự truyện với chủ đề “Sự hối hận và niềm tin hướng thiện”, lôi

cuốn hàng chục nghìn phạm nhân tham gia, với nhiều trang viết hàm chứa nội

83

dung văn học, có giá trị tác động trở lại giáo dục, cảm hóa phạm nhân. Các

bài dự thi đã được Nhà xuất bản Công an nhân dân lựa chọn, biên tập thành

cuốn sách “Sự hồi sinh từ trong tuyệt vọng” được dư luận xã hội quan tâm.

Trong công tác giáo dục cải tạo, hơi dậy khát vọng hoàn lương, hướng

thiện cho phạm nhân là việc làm rất quan trọng, góp phần hình thành nhân

cách tích cực cho họ. Để giúp cho phạm nhân nhận rõ tội lỗi, hối hận về hành

vi phạm tội đã gây ra, xóa bỏ mặc cảm và sự thù hận, Tổng cục VIII đã chỉ

đạo các trại giam phát động phong trào viết thư “Gửi lời xin lỗi” người bị hại,

thân nhân người bị hại, chính quyền địa phương. Hàng nghìn lá thư đã được

gửi đi từ các trại giam. Sau đó, đã diễn ra Hội nghị sơ ết và tổ chức giao lưu,

gặp mặt giữa người viết thư (phạm nhân) và người nhận thư (người bị hại,

thân nhân người bị hại hoặc đại diện cơ quan, chính quyền địa phương...). Tại

buổi gặp mặt, người bị hại hoặc thân nhân người bị hại đều sẵn sàng tha thứ

và mong muốn phạm nhân tích cực cải tạo tiến bộ để trở thành người có ích

cho xã hội, sớm trở về với gia đình. Hình thức giáo dục này mang đậm tính

nhân văn, truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam “đánh ẻ chạy đi,

hông đánh người chạy lại”, có tác dụng tích cực trong công tác giáo dục cải

tạo phạm nhân và đang được dư luận xã hội đánh giá cao [55].

Thiết nghĩ, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp trừng phạt, xử lý theo

qui định của pháp luật đối với người vi phạm pháp luật, những hoạt động gáo

dục cải tạo, hướng thiện là rất cần thiết và phải được thực hiện một cách tích

cực. Các hoạt động này được thực hiện tốt, không chỉ giáo dục được người vi

phạm, mà còn có thể loại bỏ nguy cơ tái phạm của họ.

84

KẾT LUẬN

Với vai trò là những công cụ quan trọng bậc nhất trong điều chỉnh các

quan hệ xã hội, đạo đức và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN hiện nay ở nước ta, mối quan

hệ đạo đức và pháp luật càng trở nên mật thiết. Để thực hiện tốt vai trò của

mình, cả đạo đức và pháp luật cần có sự bổ sung, khắc phục cho nhau dựa

trên những thế mạnh và điểm yếu vốn có. Vì vậy, kết hợp đạo đức và pháp

luật là một tất yếu nhằm mang lại hiệu quả điều chỉnh hành vi con người cũng

như điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách hiệu quả hơn. Đảng, Nhà nước ta

đã xác định: quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng

cao đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống và các quan

niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

Trong những năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được xây dựng

trên nền tảng đạo đức cách mạng, đạo đức của nhân dân lao động. Để bảo vệ

và phát huy các giá trị đạo đức, nhà nước đã luật hoá các quan niệm, quan

điểm, qui tắc đạo đức truyền thống, định hướng và xây dựng những giá trị đạo

đức tiến bộ trong thời kỳ mới. Đồng thời pháp luật nước ta cũng đã góp phần

quan trọng vào việc loại bỏ các quan niệm, qui tắc đạo đức cũ lạc hậu cũng

như ngăn chặn sự thoái hoá, xuống cấp của đạo đức dưới tác động của nền

kinh tế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc kết hợp

đạo đức và pháp luật cũng còn một số hạn chế, tồn tại. Đó là, trong một số

trường hợp chưa phân biệt rõ phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức,

nhiều qui định của pháp luật còn thiếu tính cụ thể, khó thực hiện trên thực tế.

Đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp làm gia tăng các hành vi vi phạm pháp

luật, gây ra những tổn thất và những ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội.

Để hạn chế những khuyết điểm nói trên, phát huy những mặt tích cực

của mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật cũng như việc kết hợp chúng trong

điều kiện xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiên nay, cần thực hiện tốt và

85

đồng bộ nhiều giải pháp hác nhau. Trong đó đặc biệt chú trọng một số gải

pháp sau:

- Đổi mới, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức, của pháp

luật cũng như ý nghĩa của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng

NNPQ XHCN ở Việt Nam.

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng cố và

phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN

ở Việt Nam.

- Chú trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, ý thức pháp luật trong gia

đình, nhà trường, xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau.

- Đánh giá đúng vai trò của dư luận xã hội và dựa vào những luồng dư

luận tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội.

- Tăng cường công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm pháp luật.

Trong phạm vi nghiên cứu có hạn và trong khuôn khổ một luận văn

thạc sĩ triết học, còn nhiều vấn đề về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây

dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay mà tác giả chưa thể đặt ra và chưa

có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Tuy vậy, nghiên cứu khoa học là

một quá trình. Tác giả luận văn hi vọng trong thời gian tới có thể tiếp tục

nghiên cứu và hai thác đề tài một cách sâu sắc hơn.

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Tuyết Ba (2002), “Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế

- xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, số 5.

2. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị

quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. G.Bandxelaze (1985), Đạo đức học, tập 1,2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Nguyễn Thị Kim Bình (2008), Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò

của nó trong lịch sử, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số

3.

5. Hoàng Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Chuyên đề Khoa học xã hội (1997), Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo

đức với việc điều chỉnh hành vi con người trong quản lý xã hội, Tạp chí

Đại học Quốc gia, số 4.

7. Hoàng Đình Cúc (2007), Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông,

tháng 9.

8. Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp

luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ 6,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp

hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Trần Hồng Đức (2004), Thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa của

nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện

nay, Luận văn ThS. Triết học, Đại học KHXH &NV - Đại học Quốc gia Hà

Nội.

16. Nguyễn Hồng Hà (2001), Văn hoá truyền thống dân tộc với việc giáo dục

thế hệ trẻ, Viện văn hoá và Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

17. Hiến pháp Việt Nam (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình đạo đức học

(dùng cho hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đỗ Huy, (2002), Đạo đức học – Mỹ học & đời sống văn hóa nghệ thuật,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1996), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

22. Trần Trọng Kim, (2001), Nho giáo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

23. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, bản

dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 2.

24. Luật Dân sự (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Luật Hình sự (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Bình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình

hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

28. C. Mác – Ph.ănggen (1960), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.

88

29. C. Mác – Ph.ănggen (1993), Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

30. Hồ Chí Minh (1993), Nhật ký trong tù, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb giáo dục, Hà Nội.

34. Nghị định 17/2000/NĐ-CP về chính sách cứu trợ xã hội.

35. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực của Nho

giáo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

36. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp

luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội”, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 7.

37. Hoàng Thị Kim Quế (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức

trong quản lý xã hội ở nước ta, Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

38. Hoàng Thị Kim Quế (2002), “Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp

luật với giáo dục và nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết

học.

39. Hoàng Thị Kim Quế (2005), “Đời sống pháp luật”, Tạp chí Luật học, số

4.

40. Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

41. Quốc triều Hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Rousseuau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

43. Vũ Xuân Thái (1999), Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, NXBVăn hóa

Thông tin, Hà Nội.

44. Trần Hậu Thành, (1998), Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp chí

Giáo dục lý luận chính trị, số 5.

89

45. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb

Lý luận chính trị, Hà Nội.

46. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương đông cổ đại, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

48. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn, Viện Triết học (2003), Mấy vấn

đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hện nay, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận Nhà nước-pháp

lý, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Pháp luật Việt Nam trong tiến trình

hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

51. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), Mối quan hệ giữa

tập tục và pháp luật, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.

52. Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

53. Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với

con người hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Raymond Wacks (2011), Triết học Luật pháp, Nxb Tri thức, Hà Nội.

55. C.N.O, Công an nhân dân, Đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, cải tạo

phạm nhân góp phần đảm bảo an ninh, an toàn trại giam. Cập nhật ngày

20/08/2014.

Link: http://www.cand.com.vn/vi-VN/trongmatdan/2014/8/241506.cand

90