ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

LẠI THỊ MAI

QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

LẠI THỊ MAI

QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. HOÀNG THỊ HẠNH

Hà Nội - 2018

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 7

6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu....................................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7

CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN

NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT .................................. 8

1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................... 8

1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp quyền

của Kant ...................................................................................................... 11

1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant ........................................ 21

CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 27

2.1. Quan niệm của Kant về đạo đức ......................................................... 27

2.1.1. “Tự do” phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant .................. 29

2.1.2. Các quy luật hay định lý xác định hành vi đạo đức ............................. 36

2.1.3. Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của Kant................................ 43

2.1.4. Sự thiện tối cao trong đạo đức học của Kant ...................................... 50

2.2. Quan niệm của Kant về pháp quyền .................................................. 56

2.2.1. Mục đích của triết học pháp quyền ..................................................... 57

2.2.2. Trách nhiệm pháp lý ........................................................................... 65

2.2.3. Các quyền cơ bản trong triết học pháp quyền ..................................... 76

2.2.4. Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà nước .......................... 81

CHƢƠNG 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 90

3.1. Đạo đức - cơ sở hình thành pháp quyền ............................................. 90

3.2. Triết học pháp quyền của Kant - sự tiếp tục triển khai những nguyên

lý của triết học đạo đức trong thực tiễn .................................................... 95

3.3. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant 99

3.3.1. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức của Kant ................... 99

3.3.2. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về pháp quyền của Kant ............ 101

3.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức và pháp quyền

trong triết học Kant đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................... 104

KẾT LUẬN ............................................................................................... 110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 113

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Kant người sáng lập triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng vĩ đại mà cho

đến ngày nay những tác phẩm của Kant vẫn đang được các nhà nghiên cứu

quan tâm và tìm hiểu. Các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học, các

luận văn, luận án tiến sĩ, các sách chuyên khảo về ông vẫn đều đặn được in ra.

Bởi di sản của ông để lại hết sức phong phú và phức tạp đi vào nhiều vấn đề,

nhiều khía cạnh, nêu lên những ý tưởng mới, trừu tượng, nhiều mâu thuẫn.

Cho đến nay dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về Kant nhưng không phải

ai cũng hiểu ông một cách hoàn toàn giống nhau, người ta có thể chấp nhận

hoặc phê phán ông từ nhiều phía khác nhau. Nhưng dù phê phán thế nào thì

người ta cũng đều thừa nhận rằng Kant là nhà triết học, nhà văn hóa vĩ đại của

nhân loại. Nhiều tư tưởng của ông từng là cơ sở cho không ít quan niệm triết học

và các cuộc tranh luận trên thế giới. Trong đó tư tưởng về đạo đức và pháp

quyền là một trong những vấn đề cốt yếu trong triết học thực tiễn của Kant.

Kant đã đặt ra và giải quyết hàng loạt các vấn đề thực tiễn không chỉ

ảnh hưởng tới sự phát triển tư tưởng triết học Châu Âu mà còn trên khắp thế

giới và cho đến ngày nay vẫn là vấn đề cấp thiết và cần được nghiên cứu.

Trên cơ sở tài liệu mà nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu về nhiều vấn đề

trong đó có những vấn đề thuộc lĩnh vực triết học thực tiễn của Kant như đạo

đức và pháp quyền. Tác giả luận văn muốn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề đạo

đức và pháp quyền trong triết học của Kant.

Trong thời đại ngày nay với sự bùng nổ của tri thức khoa học con

người đang đứng trước nghịch lý, mâu thuẫn không dễ giải quyết. Cùng với

sự phát triển của tri thức khoa học, phương tiện công nghệ mới, đời sống vật

1

chất tuy được đảm bảo, nhưng con người ngày càng xuống cấp suy thoái về

mặt đạo đức, bất chấp pháp luật. Mất phương hướng trong nhiều vấn đề của

cuộc sống, sinh thái môi trường, chiến tranh, xung đột sắc tộc, khoảng cách

giàu nghèo, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, con người dùng chính những

thành tựu khoa học công nghệ để chống lại loài người.

Vì vậy vấn đề đạo đức và pháp quyền càng cần được nghiên cứu và là

vấn đề vô cùng cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng mang tính thời đại. Pháp

quyền hiện thân của nó là nhà nước ấn định trình độ tổ chức thực tiễn đạo

đức. Với những ai phủ nhận sạch trơn pháp quyền, thì sự rao giảng đạo đức sẽ

mất đi những cầu nối và điểm tựa trong môi trường thực tế. Từ những lý do

nhận thức và thực tiễn đó tôi chọn đề tài“Quan niệm về đạo đức và pháp

quyền trong triết học Immanuel Kant”để làm luận văn thạc sĩ triết học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Kant

về đạo đạo và pháp quyền.

Nhóm các công trình bàn về vấn đề đạo đức phải kể đến“Triết học cổ

điển Đức:Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”. Đây là những bài

viết của nhiều tác giả được in thành “Kỷ yếu hội thảo quốc tế”, kỷ niệm 200

năm ngày mất của Kant. Kỷ yếu có nhiều bài viết về đạo đức học, tiêu biểu

phải kể đến“Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện thời của nó” của

Nguyễn Trọng Chuẩn.“Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng của nó đối

với nền triết học phương Tây” của Ngô Thị Mỹ Dung, “Chủ nghĩa nhân đạo

trong đạo đức học của I.Cantơ:Aỏ tưởng hay hiện thực?(Qua phân tích ý

tưởng của I.Cantơ về một nền hòa bình vĩnh cửu) của Nguyễn Quang Hưng

hay “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim

Lai.“Đạo đức học Cantơ và tư tưởng văn hóa hòa bình” của Vũ Thị Thu Lan.

“I.Cantơ và phạm trù nghĩa vụ đạo đức” của Võ Minh Tuấn. Những bài viết

2

này đã tập trung làm rõ những nội dung và ý nghĩa của đạo đức học Kant như:

Bổn phận và nghĩa vụ đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, lý tưởng về một nền hòa

bình vĩnh cửu, tự do ý chí. Đó là những đóng góp có giá trị cho việc nghiên

cứu có tính hệ thống hơn quan niệm về đạo đức của Kant.

Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình khác nghiên cứu về đạo đức học

của Kant như cuốn sách mang tên“Triết học Kant” của Trần Thái Đỉnh được

nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1972. Ở đây Trần Thái Đỉnh đã

trình bày toàn bộ hệ thống triết học Kant một cách cụ thể, sâu sắc, thông qua

các tác phẩm của triết gia này, nội dung cuốn sách đề cập đến là quan niệm

của Kant về nguyên tắc, động cơ, đối tượng, mệnh lệnh của lý tính thực hành.

Tiếp theo là công trình của Nguyễn Văn Huyên mang tên“Triết học

Imanuen Cantơ” được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1996, học

giả đã hệ thống lại toàn bộ triết học Kant. Ngoài ra còn kể đến các nghiên cứu

của Nguyễn Huy Hoàng với tác phẩm “Chân dung triết gia Đức” (2000).

Hay những nghiên cứu về đạo đức học của Kant của tác giả Vũ Thị Thu Lan

được thể hiện trong luận văn thạc sỹ với đề tài “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo

đức học của Cantơ” (2004). Lê Công Sự trong tác phẩm“Triết học cổ điển

Đức” (2006) của nhà xuất bản Thế giới. Nhìn chung các tác phẩm này đã

đánh giá khá toàn diện và sâu sắc về đạo đức học của Kant.

Gần đây luận án tiến sỹ của Vũ Thị Thu Lan với đề tài “Đạo đức học

của Kant và những giá trị, hạn chế của nó” (2010). Trong luận án trên Vũ

Thị Thu Lan đã khái quát những phạm trù cơ bản của đạo đức học Kant như:

Thiên hướng, ý chí, lý tính thực tiễn, nguyên tắc... Tác giả đi sâu làm rõ vấn

đề mệnh lệnh tuyệt đối, thấy được Kant xây dựng đạo đức học như một khoa

học, làm sâu sắc hơn hệ thống các phạm trù.

Nhóm các công trình nghiên cứu về pháp quyền của triết học Kant

có“Một số quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương

3

Tây”của Nguyễn Vũ Hảo, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, được

nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2012. Tác giả đã khái

quát các tư tưởng về nhà nước pháp quyền từ thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại

tới thời kỳ cận hiện đại ở phương Tây trong đó nêu lên đóng góp của Kant

cho việc xây dựng và phát triển học thuyết về nhà nước pháp quyền.

“Quan niệm của I.Kant về pháp quyền trong nhà nước với tư cách

cộng đồng luật pháp” của Đặng Hữu Toàn được in trong Kỷ yếu hội thảo

khoa học quốc tế (2012). Tác giả đi sâu phân tích nhiều khía cạnh vấn đề nhà

nước với tư cách cộng đồng luật pháp về vai trò của pháp quyền trong nhà

nước, quan niệm của Kant về một nhà nước lý tưởng.

Cùng bàn về vấn đề triết học pháp quyền cuốn sách“Triết học chính trị

xã hội của I. Kant, J.G. Fichte và G.W.F. Hegel” của Nguyễn Quang Hưng

được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2013. Tác giả đã

làm rõ nhiều vấn đề nêu lên tư tưởng quan trọng trong quan niệm về pháp

quyền của Kant, phân tích các quyền riêng tư, quyền con người, luật công,

trình bày rõ các hình thức quyền lực nhà nước mà Kant đã kế thừa từ các bậc

tiền bối nhất là các nhà khai sáng Pháp Montesquieu và Rousseau về phân

chia quyền lực trong cơ cấu bộ máy nhà nước.

“Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ

XX”,được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật ấn hành năm 2016 của Ngô

Thị Mỹ Dung. Trong đó tác giả đã cố gắng trình bày và phân tích một cách có

hệ thống tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX,

tác giả phân tích một cách cơ bản vấn đề nhà nước và pháp luật, triết học pháp

quyền. Theo tác giả, Kant đã khẳng định quyền tự nhiên, nghĩa vụ của con

người cũng như hình thức và quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho những

quyền và nghĩa vụ đó được thực thi. Con người trong triết học pháp quyền

4

của Kant được hiểu là chủ thể độc lập, chủ thể tự quyết và tự ban hành luật.

Nhóm những công trình bàn về mối quan hệ giữa pháp quyền và đạo

đức có: “Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học pháp quyền trong

triết học Immanuel Kant” của Ngô Thị Mỹ Dung được đăng trên Tạp chí

Khoa học xã hội, Viện KHXH vùng Nam bộ, số 05, 2007, tr.17 -21. Trong bài

viết này, tác giả trình bày nội dung cơ bản triết học đạo đức và triết học pháp

quyền của Kant. Theo tác giả triết học pháp quyền của Kant là sự tiếp tục

triển khai những nguyên lý của triết học đạo đức trong thực tiễn.

Tiếp theo là “Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời sống xã hội

khác trong quan điểm đạo đức học của Kant” của Nguyễn Văn Sanh. In trong

tác phẩm “Triết học cổ điển đức những vấn đề nhận thức luận và đạo đức

học”. Ở đây tác giả khái quát quan niệm của Kant về mối quan hệ giữa đạo

đức với các lĩnh vực đời sống xã hội như quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo,

đạo đức và văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật để thấy

Kant đã làm sáng tỏ tính đặc thù của đạo đức theo sự phân định với pháp luật,

động lực bên ngoài và bên trong của hành vi xã hội.

Trong luận văn có phần giới thiệu về điều kiện, tiền đề, sự ra đời triết

học Kant cũng như tiểu sử của ông. Về vấn đề này luận văn chủ yếu khai thác

các tài liệu như “I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của

Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên). Will Durant (1994), “Tuyển tập danh tác

triết học từ Plato đến Derrida”, Ted Honderich (chủ biên) (2002). Câu

chuyện triết học (qua chân dung Plato Aristote Bacon Kant Spinoza Volttaire

Spencer), Samuel Enoch Stumpf (2004), “Lịch sử triết học và các luận đề”,

Nxb lao động. Forrest E. Baird (2006), Hành trình cùng triết học, Nhà xuất

bản văn hóa thông tin Hà Nội. Phần cuối tập 2 của “Phê phán lý tính thuần

túy” của Immanuel Kant do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải xuất bản

5

2014.

Các công trình, bài viết của các tác giả trước đó về Kant có ưu điểm đã

phân tích và chỉ rõ thế nào là đạo đức, bản chất, đặc điểm trong quan niệm

của Kant. Bàn về triết học thực tiễn của Kant có rất nhiều đề tài, nhưng chưa

có đề tài nào nghiên cứu sâu, hệ thống hóa cả về đạo đức và pháp quyền trong

triết học Kant, đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng, vì lý do đó nên tác giả luận

văn muốn góp phần làm rõ hơn quan niệm của Kant về triết học đạo đức và

triết học pháp quyền làm cơ sở giải quyết các vấn đề đời sống xã hội Việt

Nam trong bối cảnh hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích của luận văn là: Phân tích những điều kiện, tiền đề hình

thành quan niệm đạo đức và pháp quyền, làm rõ những nội dung cơ bản về

đạo đức và pháp quyền, mối quan hệ giữa chúng trong triết học Kant, qua đó

chỉ ra giá trị và hạn chế của nó.

- Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:

+ Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng đạo đức và pháp

quyền trong triết học Kant.

+ Phân tích những quan niệm cơ bản về đạo đức và pháp quyền, mối

quan hệ giữa chúng trong triết học Kant.

+ Chỉ ra giá trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền

của Kant.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quan niệm về đạo đức và pháp

quyền trong triết học Kant.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các nội

6

dung cơ bản về đạo đức và pháp quyền trong triết học Kant.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:

+ Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác -

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó tiếp cận nghiên cứu nội dung đạo

đức và pháp quyền trong triết học Kant.

+ Luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phân tích quan điểm của Kant về

đạo đức và pháp quyền trong các tác phẩm chủ yếu như: Phê phán lý tính thực

hành, Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán khả năng suy diễn, Hướng tới một

nền hòa bình vĩnh cửu.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Luận văn sử dụng cách tiếp cận khách quan, biện chứng

+ Luận văn vận dụng phương pháp triết học chủ yếu như phân tích,

tổng hợp, so sánh, thống nhất logic và lịch sử, phương pháp khái quát hóa,

trừu tượng hóa, phương pháp thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch.

6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn cho thấy rõ ràng, sâu sắc hơn quan niệm

của Kant về đạo đức và pháp quyền, những điều liên quan trực tiếp tới cuộc

sống hiện thực, thêm vào đó cũng thấy con người ngày càng đánh mất tự do,

đạo đức, bất chấp pháp luật. Luận văn phân tích rõ mối quan hệ, sự tác động

giữa đạo đức và pháp quyền, chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu trong

quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập

và nghiên cứu các môn lịch sử triết học, triết học Mác - Lênin.

7. Kết cấu của luận văn

7

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 8 tiết.

CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN

NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT

1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội

Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren

và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ

XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng

lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm

quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên

lỗi thời.

Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh,

Pháp... đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Những

thành tựu kinh tế mà đỉnh cao là cách mạng công nghiệp ở Anh càng khẳng

định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới cùng với

cuộc cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở

đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại. Những thành tựu

về kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục tạo điều kiện, tiền đề quan trọng cho

sự phát triển khoa học nói chung, triết học nói riêng. Những tiến bộ của khoa

học với việc phát minh ra điện tạo bước nhảy vọt từ công trường thủ công tới

công nghiệp cơ khí. Bên cạnh sự phát triển của khoa học như một nhu cầu

lịch sử, triết học thâm nhập vào cuộc sống, tìm tòi và khám phá sức mạnh lý

tính con người, trong đó triết học I.Kant là một ví dụ điển hình cho khuynh

hướng đó.

Trong khi nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt, thì ở

nước Đức cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, sự

phân tán về kinh tế và chính trị là lực cản lớn của nước Đức trên con đường

phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước Đức nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ

8

XIX vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, suốt từ năm 1618 đến năm

1648 xảy ra liên tiếp các cuộc chiến tranh với nước láng giềng làm tình hình

đất nước kiệt quệ, trì trệ. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hà khắc, tư tưởng dân

chủ, tiến bộ bị chèn ép. Nước Đức so với các nước châu Âu khác như Anh lạc

hậu hơn 200 năm, với Pháp 50 năm.

Về kinh tế, nền kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến

lạc hậu, ruộng đất tập trung chủ yếu trong tay các địa chủ, những tàn dư của

chế độ nông nô khiến cho năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân hết sức

bấp bênh, khốn khổ và cùng cực.

Về chính trị, triều đình Phổ đứng đầu là Vua Friedrich Wilhem II rất

bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ chuyên

chế hà khắc, dã man.

Về tư tưởng, hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý

luận. Thần học là khoa học cơ bản trong các trường đại học tổng hợp, triết

học thỏa hiệp với tôn giáo.

Trước một thực trạng xã hội rối ren, phức tạp và mâu thuẫn chồng chất,

mặc dù kinh tế, chính trị nước Đức thời kỳ này còn lạc hậu, nhưng triết học,

nghệ thuật và văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Nước Đức là nơi sinh ra

nhiều nhà tư tưởng nhà văn nổi tiếng như Gớt, Sinlơ, Hécđơ…Fichte những

tác phẩm của họ toát lên tinh thần bất thuận và thái độ phẫn nộ đối với sự bất

công trong xã hội đương thời. Giai cấp tư sản Đức ra đời muộn hơn so với

nước khác cho nên đã tiếp thu được kinh nghiệm của các dân tộc đi trước, kế

thừa có chọn lọc, phát triển trong điều kiện của mình, bất chấp sự khó khăn về

vật chất, tri thức và tư tưởng có sự tiến bộ xa hơn. Mặc dù bị nước Anh và

Pháp vượt xa về kinh tế, song nước Đức với cuộc cách mạng trong lĩnh vực lý

9

trí đạt nhiều thành tựu về văn hóa triết học.

Thời kỳ này mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao, mâu thuẫn giữa lý tưởng

và hiện thực xã hội. Nước Đức tuy lạc hậu hơn hẳn về kinh tế và chính trị dẫn

đến mâu thuẫn xã hội càng khó giải quyết. Một mặt các triết gia Đức thừa

nhận tiến trình lịch sử là không thể đảo ngược nhưng mặt khác các triết gia

Đức không chấp nhận cái giá phải trả cho tự do và dân chủ.

Các nhà tư tưởng Đức lấy tư duy triết học làm vũ khí phê phán và

chuyển tải tư tưởng cách mạng, đối với họ triết học là nơi thể hiện khát vọng

cải tạo hiện thực của con người. Những thành tựu tiêu biểu nhất mà các nhà

triết học Đức đạt được trong thời kỳ này là phép biện chứng. Thực tiễn đặt ra

nhu cầu phải thay đổi tư duy. Các nhà triết học Đức dưới tác động của chuyển

biến kinh tế, chính trị xã hội tại Anh, Pháp đã tìm cách thay đổi tư duy. Trong

xã hội tư bản phép biện chứng thâm nhập trong mọi khoa học, thể hiện tính

năng động và phát triển của thời đại, tồn tại trong hệ thống duy tâm, tư tưởng

tiến bộ, cách mạng hòa chung với các yếu tố bảo thủ.

Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí thức

Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến Kant. Bối cảnh lịch sử, tiền đề thực

tiễn của triết học Kant là cách mạng Pháp và hiện thực nước Đức nửa sau thế

kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Cách mạng Pháp, lý tưởng của các nhà khai

sáng được hiện thực hóa, tác động không nhỏ đến định hướng về dân chủ, nhân

văn trong triết học Kant, khơi dậy tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ

nghĩa giáo điều và bảo thủ trong khoa học lẫn chính trị. Triết học Kant được ví

như “triết học Đức của cách mạng Pháp”, vì sao vậy? Như trên cũng đã nói,

hiện thực nước Đức được thể hiện ở hệ thống triết học Kant một mặt phản ánh

khát vọng chiến thắng lý trí trước những điều phi lý, muốn vượt qua cuộc sống

hiện thực khắc nghiệt. Mặt khác chịu ảnh hưởng của hiện thực, buộc nhà triết

10

học phải chấp nhận giới hạn của sự tự do, tuân thủ các chuẩn mực phổ biến đã

trở thành “mệnh lệnh tuyệt đối”. Mâu thuẫn của triết học Kant cũng chính là

mâu thuẫn của thực tại được tái hiện lại trong hệ thống lý luận.

Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng triết học thực tiễn

của Kant (trong đó có tư tưởng về đạo đức và pháp quyền) là sản phẩm tất

yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ

XIX, nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu

thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó.

1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp

quyền của Kant

Cũng như những hệ thống triết học khác, triết học Kant không phải là

sản phẩm thuần túy của tư duy cá thể, mà có sự kế thừa chọn lọc, tinh hoa trí

tuệ nhân loại của các tư tưởng, quan điểm, các trường phái triết học trước đó,

có phê phán, lựa chọn và phát triển những tư tưởng mới, thể hiện sự phát triển

tất yếu của lịch sử. Sau thế kỷ XVIII sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của

khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm dần khẳng định vai trò của mình,

làm lu mờ phương pháp tư duy siêu hình cũ. Sự ra đời về thuyết nguyên tử

của Danton (1766 - 1844), phát minh về điện của Galvani (1737 - 1798), học

thuyết về sự xuất hiện tự nhiên của trái đất từ những hạt tinh vân đầu tiên của

Laplace (1749 - 1827) đánh vào thành trì quan niệm “phi vật chất”. Những

thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển

của triết học Kant.

Bối cảnh lịch sử và tư tưởng của các nhà triết học ảnh hưởng mạnh mẽ

tới triết học Kant thể hiện trong những tác phẩm của ông ở hai thời kỳ chính

là tiền phê phán, và thời kỳ phê phán. Trong đó phải kể đến triết học Hy Lạp

La Mã cổ đại với những quan điểm của Socrate, Plato, Aristotle hay sau này

là các nhà khai sáng pháp như Rousseau…Cùng với đó triết học Kant ra đời,

11

hình thành và phát triển còn dưới sự ảnh hưởng bởi tư tưởng của các bậc tiền

bối trong lịch sử tại Pháp, Anh, Đức với những khám phá mới trong khoa học,

thiên văn học, vật lý.

Nhà triết học Socrate (470 - 399 Tr.CN) người thầy của Plato, là một

triết gia nổi tiếng đặc biệt quan tâm tới những vấn đề về con người, ông cho

rằng triết học không có gì khác là sự nhận thức của con người về chính bản

thân mình, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi người là nhận thức được điều

thiện, điều ác. Đề cao vai trò tri thức khái niệm trong hoạt động của con

người, nền tảng đức hạnh chính là tri thức. Kết quả của sự dốt nát, ngu ngốc

là những hành vi trái với đạo đức. Muốn đến được với tri thức thì con người

cần hoàn thiện nhân cách, phân biệt rõ ràng giữa cái thiện và cái ác, hạnh

phúc chính là đức hạnh.

Người nào nhận thức được đức hạnh là gì thì mới hiểu được hạnh phúc

là gì. Kết quả của sự không hiểu biết cái thiện chính là cái ác và bất hạnh.

Socrate bàn nhiều đến khía cạnh đạo đức trong triết học của mình, nền tảng

của đạo đức chính là chân lý và tri thức. Đóng góp lớn nhất trong triết học của

Socrate là thấy được mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận trong hoạt động

thực hành đạo đức của con người. Điểm nổi bật trong triết học của Socrate là

việc đề cao tri thức, đạo đức của con người là vấn đề trung tâm mà sau này

trong triết học đạo đức của Kant bàn nhiều tới vấn đề cái thiện, đạo đức, đức

hạnh và sự tự do của con người.

Bên cạnh quan niệm về đạo đức, Socrate còn đề cập đến tư tưởng về

pháp luật, theo Socrate luật pháp không thể tồn tại bên ngoài nhà nước, muốn

có công bằng phải phục tùng pháp luật, luật pháp là điều kiện cần thiết để

duy trì sự tồn tại của nhà nước. Ông viết: “bất cứ một đạo luật nào, mặc dù

còn thiếu sót đến đâu, cũng mang tính cứu sinh hơn tình trạng phạm pháp.

Nếu như mọi công dân đều tuân thủ theo pháp luật, thì nhà nước mà trong đó

12

họ đang sống sẽ trở nên hùng mạnh và phồn thịnh hơn nhiều” [Dẫn theo 74,

tr.3]. Dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực, giá

trị cao nhất là công lý, nghĩa là người ta tuân thủ pháp luật nhà nước. Tư

tưởng đề cao pháp luật đó, sau này Kant tiếp thu và phát triển trong hệ thống

tư tưởng pháp quyền của mình.

Một trong những học trò xuất sắc của Socrate là Plato triết gia vĩ đại

với nhiều ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại. Trong

hệ thống tư tưởng của mình Plato bàn về khía cạnh đạo đức. Ông cho rằng,

nhân cách đạo đức con người chỉ có thể có trong một nhà nước lý tưởng.

Quan niệm đạo đức của Plato thiên về tính chất xã hội. Trong xã hội, Plato

chia làm ba hạng người tương ứng với mỗi hạng người đó là phần linh hồn

của con người. Hạng người được xếp vị trí cao nhất trong xã hội đó là những

nhà triết học, những nhà thông thái, họ am hiểu mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội. Hoạt động của họ chủ yếu chịu ảnh hưởng của lý tính. Họ là những người

nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong nhà nước lý tưởng, có thể lãnh đạo nhà

nước lý tưởng, biết kiềm chế cảm xúc, có ước mơ và lý tưởng sống hướng đến

cái cao cả, công lý.

Hạng người thứ hai trong xã hội mà Plato đề cập đến là những người

lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội cho nhà nước lý

tưởng, bên trong linh hồn của họ là lòng gan dạ, ý chí quật cường. Hạng

người thấp nhất trong xã hội đó là những người nông dân, những thợ thủ

công, chịu sự chi phối của cảm tính, họ phù hợp với công việc lao động chân

tay vì bản tính khi mới ra đời họ đã được gần với các sự vật cảm tính rồi,

những người sống chủ yếu bằng cảm tính để sản xuất ra của cải vật chất đảm

bảo điều kiện, nhu cầu sống của bộ máy nhà nước, họ là lực lượng lao động

chính trong xã hội.

Theo Plato trong xã hội không thể thiếu một trong ba hạng người đó, xã

13

hội muốn tồn tại phải duy trì sự tồn tại của cả ba hạng người, mỗi người phải

làm đúng và đủ bổn phận trách nhiệm của mình, từ đó dẫn dắt con người

hướng đến hành động những điều thiện. Điều ác sinh ra từ sở hữu cá thể, sở

hữu tư nhân, vì vậy điều cần làm ở xã hội lý tưởng là phải dẹp bỏ sở hữu tư

nhân, đó là nguyên nhân chính sinh ra tính ích kỷ, làm phát sinh tình trạng bất

hòa giữa người với người. Mỗi cá nhân trong xã hội phải sống vì nhà nước,

coi nhà nước là mục đích cao nhất. Hệ thống quan niệm đạo đức có tác động

đến Kant sau này khi ông bàn về các vấn đề thượng đế, phạm trù tự do, linh

hồn con người.

Về nhà nước pháp quyền trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato cho

rằng, người cầm quyền phải gạt ý chí, quyền lợi cá nhân của bản thân sang

một bên để tuân thủ ý chí, mục đích của pháp luật. Plato thấy sự suy tàn

nhanh chóng của nhà nước, nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm

dưới quyền lực của một người nào đó. Còn ở đâu mà pháp luật đứng trên nhà

cầm quyền, còn họ chỉ là nô lệ của pháp luật thì có sự cứu thoát của nhà nước.

Trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato thấy tính giai cấp của pháp luật và cho

rằng pháp luật được làm bởi đảng cầm quyền vì lợi ích riêng của đảng ấy. Có

thể thấy rằng, Plato cảm nhận được sự nguy hại của chính thể quân chủ

chuyên chế, lên tiếng bảo vệ cho một hệ thống pháp luật được xây dựng trên

chính thể dân chủ cộng hòa. Plato cho rằng phải coi pháp luật là tối thượng,

chiếm vai trò hàng đầu, đề cao sự tự nguyện, tự giác của mỗi người trong việc

chấp hành luật và chính là tư tưởng đề cao pháp luật này đến triết học Kant

cũng đã đề cập đến. Kant cũng đề cao vai trò của pháp luật, sự tự giác của

mỗi người.

Aristotle bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp cổ đại, một

trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, là học

trò của Plato với phương châm “thầy là đáng quý, nhưng chân lý quý hơn”,

14

Aristotle phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Plato. Aristotle quan tâm

nhiều tới nhân bản học, quan niệm về con người, Aristotle quan niệm hai bộ

phận cấu thành con người là linh hồn và thể xác, trong linh hồn con người tồn

tại ba dạng, linh hồn thực vật, linh hồn động vật và linh hồn lý tính khi con

người chết đi thì linh hồn lý tính vẫn luôn tồn tại. Khi bàn tới lĩnh vực đạo

đức học, Aristotle cũng kế thừa một số vấn đề đạo đức của Plato về cái thiện.

Aristotle cho rằng mục đích cuộc sống chính là hướng thiện, nền tảng đạo đức

là thuyết mục đích luận, cái thiện chính là hạnh phúc. Bên cạnh cái thiện còn

tồn tại vấn đề về tự do, tự do ở đây được Aristotle hiểu là sự lựa chọn hành vi

đạo đức để đạt được cái thiện, những hành vi mang tính tự do lựa chọn có ý

thức và phải phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, phạm trù tiếp theo mà

Aristotle bàn đến chính là nhân đức, con người muốn có nhân đức thì phải có

những thói quen tốt.

Aristotle hiểu nhân đức như thế nào? Ông cho rằng có hai loại nhân

đức đó là nhân đức đạo đức và nhân đức tri thức. Muốn có nhân đức tri thức

con người cần phải học tập và được giáo dục, nhân đức đạo đức do tập quán

thói quen mà thành, Aristotle cho rằng hành vi của con người như trộm cắp,

giết người cần phải loại bỏ để có nhân đức. Tư tưởng về cái thiện và hành vi

đạo đức của Aristotle sau này đã được Kant kế thừa và phát triển.

Không chỉ bàn về các vấn đề đạo đức Aristotle còn bàn về vấn đề pháp

quyền, nhà nước. Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào thế kỷ thứ IV trước

công nguyên là cơ sở thực tiễn cho ông đi đến những quan điểm về nhà nước

với tư tưởng chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố hay ba phương diện:

lập pháp, hành chính và phân xử. Aristotle cho rằng nhà nước là một tổ chức

phức tạp, tập hợp những cá thể khác nhau về nhiệm vụ, tài sản, phẩm chất đạo

đức, trình độ hiểu biết, luật pháp không phải là cái có sẵn mà xây dựng nên từ

những giá trị truyền thống, phong tục tập quán lâu đời, có tính chất bền vững.

15

Trong nhà nước luật pháp phải giữ vị trí tối thượng: “hãy để luật pháp, chứ

không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn luôn để tư lợi

và tình cảm xen vào” [1,tr.24].

Bước sang triết học thời kỳ cận đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII với những

đại biểu tiêu biểu như Phranxis Becon nhà triết học vĩ đại thời cận đại của chủ

nghĩa duy vật Anh. Becon bàn về quan niệm đạo đức chủ yếu đề cập trong

vấn đề con người. Con người theo Becon là kết quả của tạo hóa, khoa học giải

thích con người đồng thời cũng là khoa học giải thích các vấn đề về thế giới tự

nhiên. Kế thừa quan niệm về con người của Aristotle, Becon cho rằng, trong

con người có ba dạng linh hồn thực vật, linh hồn động vật thuộc về linh hồn

cảm tính, còn linh hồn lý tính có nguồn gốc từ thượng đế. Quan niệm về

thượng đế của Becon về sau đã được Kant đề cập đến trong triết học của mình.

Thomas Hobbes (1588 - 1679) nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ

nghĩa duy vật anh thế kỷ XVII. Theo ông bản tính đạo đức của con người khi

sinh ra đều như nhau, nhưng trong mỗi con người đều có khát vọng, mong

muốn riêng tư, đều có tính ích kỷ, độc ác chính là nguyên nhân gây ra các

chiến tranh xung đột, yêu bản thân mình hơn tất cả. Công lý, khoa học và

pháp quyền luôn luôn bị bác bỏ bởi ngòi bút và thanh kiếm. Ông cho rằng,

khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng, thì con người càng bất

hạnh, cuộc đấu tranh sinh tồn của con người càng khó khăn, điều đó thúc đẩy

con người đi đến khế ước xã hội, nguồn gốc sinh ra nhà nước, pháp quyền.

Nhà nước có quyền xử phạt những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người,

nhưng sự xuất hiện của nhà nước lại có mặt hạn chế, làm giảm khát vọng tự

nhiên nhất định của con người, do vậy tự do con người bị thu hẹp lại. Các đạo

luật của nhà nước đều hợp lý và tất yếu, cá nhân trong xã hội phải tuân theo

luật mà nhà nước ban hành. Quan niệm đề cao pháp luật của nhà nước, hay

16

phạm trù tự do sau này được Kant nhắc tới trong quan niệm về tự do của mình.

Tiếp tục phát triển các quan niệm của Hobbes, John Locke (1632 -

1704) đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Với tác phẩm

“Khảo luận về lý trí con người” Locke đã xây dựng các vấn đề nhận thức của

mình. Bằng cái nhìn mới về hiện thực khách quan, Locke cho rằng toàn bộ tri

thức con người có được nhờ nhận thức gọi là “ý niệm”. Sau này Kant tiếp thu

và ảnh hưởng bởi ý niệm này của Locke trong phần đạo đức học của mình.

Bên cạnh đó về vấn đề nhà nước, pháp quyền, Locke cho rằng xã hội dân sự

thuộc trạng thái văn minh, chính quyền nhà nước được thiết lập, căn cứ vào

tính chất, cách thức lập pháp để xác định chính quyền nhà nước.

Locke cho rằng, nhà nước tồn tại dưới ba dạng: Thứ nhất, là nền dân

chủ hoàn hảo đó là quyền lực toàn thể của cộng đồng, tất cả đều có thể thực

hiện quyền lực này trong việc làm ra luật cho cộng đồng và thực thi các luật

đó bằng các quan chức do chính họ bổ nhiệm. Thứ hai, đó là chính thể đầu sỏ,

khi quyền làm luật đặt vào trong tay số người chọn lọc và những người thừa

kế hay kế vị này. Thứ ba, là chính thể quân chủ, nếu quyền lập pháp đặt vào

tay của một người. Điểm nổi bật trong học thuyết của Locke là khởi thảo học

thuyết về sự phân chia quyền lực, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng về vai trò

quyền lực nhà nước của Hobbes, Locke cho rằng, khi một cộng đồng quốc gia

mới thành lập, hành động đầu tiên cần làm là thiết lập cơ quan quyền lực lập

pháp, đó là cơ quan quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, quyền lực

thiêng liêng. Khi luật pháp được cơ quan lập pháp xác lập, ban hành rộng rãi

thì nhiệm vụ cần phải làm tiếp theo là giám sát, và thực thi.

Muốn Luật pháp được xã hội giám sát và thực thi có hiệu quả, Locke

cho rằng cần thành lập một cơ quan nhà nước khác, cơ quan đó gọi là hành

pháp. Quyền lực của cơ quan hành pháp mang tính cưỡng chế đơn phương,

mọi công dân phải tuân thủ pháp luật, nếu không sẽ bị trừng phạt. Locke là

17

người đã đặt nền móng cho chế độ nhà nước dân chủ tự do đối lập với chế độ

quân phiệt, chuyên chế và bạo chính. Locke cho rằng: “Tự do không phải là,

như đã nói với chúng ta, quyền tự do để mỗi người làm điều mà mình muốn

(vì ai có thể tự do cho được khi mà ý thích của những người khác có thể áp

chế anh ta?), mà là quyền tự do để sắp đặt và bố trí như anh ta muốn, đối với

con người, hành động, tài sản, cũng như toàn bộ sở hữu của anh ta, trong

khuôn khổ cho phép của hệ thống luật mà anh ta sống dưới sự chi phối của

nó, nơi anh không phải chịu sự khuất phục trước ý chí độc đoán của người

khác, mà là tự do tuân theo ý chí của chính mình” [28,tr.93-94].

Locke đề cao các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của các cá nhân như

quyền sống, tự do phát triển nhân cách, tự do sở hữu.

Nhà triết học ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành triết học Kant

là Hume, người đã đánh thức Kant khỏi “cơn ngái ngủ giáo điều” và đem đến

cho Kant một cái nhìn mới có tính phê phán với khả năng của kinh nghiệm.

Kant đã kế thừa thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri của Hume trên tinh thần

phê phán.

Hume phê phán các quan niệm coi linh hồn con người như một thực

thể, không có vật chất, không có tinh thần. Dưới hình thức duy tâm, thần bí,

quan niệm Hume đặc biệt đề cao vai trò cá nhân con người phù hợp xu hướng

dân chủ, tự do cá nhân, đòi giải phóng nhân cách con người của giai cấp tư

sản cách mạng. Hume cho rằng, hành động có đạo đức bắt đầu với hành vi

của tác nhân hành động cho đến người nhận tác nhân đó. Ông cho rằng, con

người có hai loại tính cách, thứ nhất là bản năng, thứ hai là nhân tạo. Nếu một

tác nhân nào đó làm ảnh hưởng đến người nhận sẽ có người thứ ba quan sát

các hành vi đó để rồi đánh giá hiện tượng đó là đức hạnh hay là hành vi có tội

lỗi, trái với đạo đức. Hành vi đạo đức chỉ có ở con người gồm có bốn phạm trù,

đó là những phẩm chất tốt mang lại điều thiện như hiền lành, dũng cảm, thứ hai

18

đó là: những phẩm chất tư lợi gồm cần cù, nhẫn nại, phẩm chất thứ ba con

người cần phải có chính là sự thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, làm cho bản

thân và người khác cảm thấy dễ chịu, phẩm chất thứ tư là sự hài hước, tự trọng.

Kant kế thừa các quan niệm của Hume về những khía cạnh đạo đức

khác nhau, song Kant tin vào các chuẩn mực đạo đức. Ảnh hưởng của Hume

tại Đức có cơ sở hiện thực là sự phản ánh trong lĩnh vực triết học ở bình diện

nhân sinh, Kant nêu ra và phân tích nhiều vấn đề mà Hume chưa hề đề cập

đến, những vấn đề vượt xa khuôn khổ của nước Đức, trở thành vấn đề nhân

loại. Nhiều ý tưởng của Kant cho đến nay vẫn thu hút sự quan tâm của các

nhà nghiên cứu như ý tưởng về nền hòa bình vĩnh cửu một vấn đề có ý nghĩa

quan trọng trong thời đại ngày nay.

Rousseau nhà tư tưởng người Pháp, có sức hút lớn đối với Kant thời

trẻ, trong vấn đề đạo đức học, ông cho rằng đức hạnh là khoa học cao siêu,

triết học đích thực là lắng nghe tiếng nói của lương tâm. Khẳng định bản chất

con người có tự do, nhưng trong quá trình phát triển tự do của con người luôn

bị kìm hãm. Kant tiếp thu ảnh hưởng của Rousseau từ phương diện của chủ

nghĩa nhân đạo, hướng con người tới điều thiện, xóa bỏ thói xấu, sự bất bình

đẳng , khẳng định giá trị cao đẹp. Tuy nhiên Rousseau theo quan điểm vô

thần, còn Kant thì ngược lại ông thỏa hiệp, dung hòa giữa hữu thần và vô

thần, công nhận con người như một lý tưởng cần thiết cho đạo đức. Rousseau

dường như tách con người độc lập với tự nhiên, còn Kant thì đặt con người

trong mối quan hệ với thế giới xung quanh. Rousseau đi tìm nguồn gốc bất

bình đẳng trong xã hội ở lĩnh vực pháp luật.

Tiếp thu tư tưởng của Montesquieu, Rousseau bổ sung học thuyết về

nhà nước pháp quyền tư sản với những quan điểm mới và sâu sắc hơn.

Rousseau cho rằng, để cho xã hội tồn tại và phát triển được, mọi công dân

phải thực hiện tuân theo bản cam kết hay còn gọi là khế ước ủy quyền cho các

19

đại biểu trong bộ máy nhà nước. Khế ước xã hội như là sự thỏa thuận thì nhân

dân có quyền thay thế bằng nhà nước mới. Mọi công dân trong xã hội muốn

thực hiện quyền công dân thì phải xóa bỏ quyền lực tối cao của vua, quyền

lực đó được chuyển về tay nhân dân. Mỗi công dân chỉ giao một phần quyền

của mình cho xã hội như là một cơ thể chung, ý chí chung. Khi con người

tham gia vào bộ máy nhà nước, khế ước xã hội thì mỗi cá nhân cần phải từ bỏ

trạng thái tự nhiên tức trạng thái chưa có pháp luật để chuyển sang trạng thái

dân sự, trạng thái có nhà nước và pháp luật. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước là

thực hiện ý chí quyền lực chung cho mỗi công dân. Mỗi công dân trong xã hội

phải có trách nhiệm với nhà nước.

Quyền lực nhà nước luôn phải thuộc về nhân dân không một cá nhân

nào có quyền quyết định tất cả. Tư tưởng này của Rousseau ảnh hướng to lớn

đến xã hội châu âu thể hiện rõ trong hiến pháp của nước Pháp năm 1791. Và

Kant cũng đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ đó khi ông viết “Trong tôi tràn đầy

khát vọng nhận thức... Đã có lúc tôi nghĩ rằng chính điều này mới đem đến

niềm kiêu hãnh cho nhân loại, và tôi coi thường lớp tiện dân ngu dốt,

Rousseau đã sửa chữa tôi. Sự kiêu căng mê muội một thời biến mất; tôi bắt

đầu học cách tôn trọng con người”.[Dẫn theo 9, tr.963].

Không chỉ Hume mà Rousseau cũng đã đánh thức cơn mê ngủ nơi

Kant, người có ảnh hưởng đến nhận thức, sửa chữa Kant như một nhà đạo

đức. Kế thừa những tư tưởng đó Kant viết tác phẩm về thẩm mỹ với tiêu đề

“Tìm hiểu cảm xúc về cái đẹp và cái cao thượng” (1764). Trong tác phẩm

này, Kant thể hiện tình cảm con người, sức mạnh hoạt động tạo ra giá trị,

Kant khai thác ở Rousseau quan niệm về sự băng hoại đạo đức, sự đánh mất

bản tính tự nhiên của con người kế thừa một phần trong học thuyết về đạo đức

và quan niệm về pháp quyền.

Nghiên cứu những tiền đề hình thành lý luận triết học Kant cho chúng

20

ta thấy hệ thống triết học Kant là một mắt xích trong lịch sử tư tưởng triết học

nhân loại, là sự tổng hợp khái quát những giá trị tư tưởng của thời đại trước

ông, để qua đó hình thành và phát triển hệ thống triết học mang tầm cỡ lớn

lao, thế hệ sau kế thừa tư tưởng thế hệ trước, sự tổng hợp lý tưởng cảm tính

và lý tính, duy vật và duy tâm trong một hệ thống hoàn chỉnh.

1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant

Immanuel Kant sinh ngày 22 - 4 - 1724, trưởng thành trong một gia

đình trung lưu nghèo gốc Scốtlen tại Kenitbec thuộc Đông Đức. Cha mẹ ông

thuộc giáo phái sùng đạo, chính điều này đã ảnh hưởng tới tư tưởng của Kant.

Thủa nhỏ ông theo học tại trường địa phương Collegium Fredericianum. Mùa

thu năm 1740 ông vào học Khoa Triết học trường Đại học Kenitbec. Ở đại

học ông được trang bị các kiến thức không chỉ triết học mà còn cả những môn

khoa học tự nhiên. Dưới sự giảng dạy của nhà triết học Martin Knutzen

hướng tư tưởng Kant theo truyền thống duy lý của Châu Âu, người thầy này

đã kích thích sự quan tâm của Kant hướng tới vật lý học Newton, chính sự

quan tâm này góp một phần không nhỏ trong sự phát triển triết học độc đáo và

phê bình của Kant.

Tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, Kant tới làm gia sư cho một gia đình

giàu có mãi cho tới năm 1755 ông mới quay trở lại đại học và được nhận làm

giảng viên. Thời kỳ đầu các bài giảng của Kant tập trung vào thế giới bên

ngoài, liên quan chủ yếu tới các vấn đề vật lý học. Năm 1770, Kant được đề

nghị làm giáo sư triết học điều mà ông từng ao ước bấy lâu. Trong bài giảng

khai mạc, Nghị luận về mô thể và các nguyên lý về các thế giới khả giác và

khả tri, Kant tuyên bố ý định của ông là xây dựng lại triết học. Những năm

sau đó ông cẩn thận và âm thầm suy tư về mọi ý niệm của mình, mãi đến tuổi

trung niên ông mới triển khai các quan điểm, các tác phẩm quan trọng của

21

Kant được viết khi ông ở độ tuổi từ 57 cho đến 67, điểm đặc biệt ở Kant là

phong cách viết hàn lâm rất khó đọc nhưng các bài giảng của ông lại rất được

sinh viên ưa thích.

Dù không lập gia đình, không bao giờ ông ra khỏi khu vực sinh sống và

có một cuộc đời lập dị, nhưng ông lại có rất nhiều bạn bè quan tâm tới vấn đề

tri thức và chính trị của thời đại. Ông thành công trong lĩnh vực giảng dạy và

là một người thầy vui tính. Thiên hạ mô tả ông như chiếc đồng hồ, giờ giấc

sinh hoạt của ông vô cùng chính xác, để giữ gìn sức khỏe và tận dụng tối đa

thời gian cho giảng dạy ông đã thực hiện nghiêm ngặt thời khóa biểu của

mình, chính nhờ có nếp sống khoa học và kỷ luật nên Kant đã cho ra đời hàng

loạt các tác phẩm nổi tiếng. Năm 1797 vị giáo sư già yếu cáo từ giảng đường

đại học về nghỉ hưu, sống những năm tháng cuối đời một cách ung dung, tự

tại và tạ thế vào ngày 12-12-1804 hưởng thọ 80 tuổi.

Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái được nhiều thành

công, năm 1786 Kant được bầu làm Viện sĩ hàn lâm khoa học Hoàng gia Phổ

tại Berlin, năm 1794, ông trở thành Viện sĩ danh dự Viện hàn lâm khoa học

Saint Peterburg đến năm 1798 cả Viện hàn lâm khoa học Italy và Viện hàn

lâm khoa học Paris đều bầu ông làm viện sĩ. Sự nghiệp vẻ vang là vậy nhưng

trong cuộc sống hàng ngày của Kant không có gì nổi bật, người đời phong

cho ông tên hiệu “cách mạng” là vì triết lý của ông. Tuy nhiên chữ cách mạng

ở đây không liên quan đến vấn đề chính trị mà chỉ là những đột phá cấp tiến

vào hệ thống tri thức cổ truyền. Nhiều ý tưởng cải cách mạnh mẽ, làm đảo lộn

thế giới tư tưởng không những ở Đức mà trên toàn thế giới. Sự nghiệp triết

học của Kant diễn ra qua hai thời kỳ:

Thời kỳ tiền phê phán (1746 - 1770)

Kant chủ yếu nghiên cứu các vấn đề toán học và khoa học tự nhiên với

nhiều phát minh nổi tiếng về các lĩnh vực này. Ông xuất bản một tác phẩm

22

quan trọng trong thời kỳ đầu này là “Lịch sử tự nhiên phổ quát và lý thuyết

các tầng trời” (1755), giải thích cấu trúc vũ trụ theo vật lý học của Newton.

Thời kỳ này tư tưởng của Kant nhấn mạnh vào thế giới nội tâm và bản chất

đạo đức, đặc biệt Kant tập trung vào triết học tự nhiên, trong thời kỳ đầu Kant

chịu ảnh hưởng lớn của quan niệm duy tâm và thần học của Leibniz (1646 -

1716), về sau lập trường của ông chuyển dần sang quan niệm duy vật máy

móc của Newton và Descartes, đi đến xây dựng một thế giới quan độc lập.

Bên cạnh những quan niệm duy tâm, về cơ bản Kant thể hiện như một

nhà duy vật khoa học tự nhiên với luận điểm: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây

dựng thế giới từ nó; nghĩa là hãy đưa cho tôi vật chất tôi sẽ chỉ cho mọi người

thấy thế giới ra đời từ vật chất như thế nào” [Dẫn theo 63, tr.379]. Thời kỳ

này với nhiều thành công trong khoa học, Kant có niềm tin vào khả năng nhận

thức của con người. Ông cho ra đời một khối lượng lớn các bài viết trong đó

các tư tưởng triết học và khoa học tự nhiên đan xen lẫn nhau. Tác phẩm cơ

bản của ông trong thời kỳ này là: “Những suy nghĩ về giá trị chân chính của

lực sống” (1746), hay “Vấn đề trái đất có già đi không, theo quy luật vật lý

học” (1754), “Lịch sử tự nhiên phổ quát và lý thuyết các tầng trời” (1755).

“Sự ứng dụng siêu hình học có liên quan tới hình học trong triết học tự nhiên”

(1756). “Triết lý hảo trong bốn hình thái tam đoạn luận (1762)”, “Cơ sở khả dĩ

cho việc chứng minh sự tồn tại của thượng đế” (1763), “Thử đưa đại lượng phủ

định vào triết học” (1763), “Quan sát bằng cảm tính cái đẹp và cái cao cả”

(1764), “Cơ sở đầu tiên của sự khác nhau trong các mặt không gian” (1768),

“Về hình thức các nguyên tắc của thế giới cảm tính và siêu cảm tính” (1770).

Trong thời kỳ tiền phê phán, các quan niệm duy tâm thần bí của triết

học Leibniz, Wolf và quan niệm duy vật siêu hình của Descartes. Newton có

ảnh hưởng tới Kant rất lớn, Kant đã mượn phương pháp kinh nghiệm của

Newton làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Trong lĩnh vực vật lý học, khi

23

phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn Kant đã lý giải sâu sắc

hơn lý thuyết về sự vận động và đứng im. Tới lĩnh vực sinh học, Kant đề ra tư

tưởng phân loại động vật. Trong nhân loại học, Kant đề xuất tư tưởng về lịch

sử tự nhiên của loài người, lý giải sự hình thành và phát triển của loài người.

Bên cạnh đó Kant đã ứng dụng các nguyên tắc của khoa học tự nhiên hiện đại

vào giải thích kết cấu của hệ thống mặt trời và sự nảy sinh hệ thống đó. Chính

ông là người đầu tiên tìm tòi khám phá ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái

đất và mặt trăng tạo nên hiện tượng thủy triều. Trong tác phẩm “Sự ma sát

của thủy triều” ông giải thích rằng sở dĩ có sự lên xuống của thủy triều là do

sức hút của mặt trăng lên trái đất, sự tác động qua lại giữa mặt trăng và trái

đất làm ảnh hưởng đến độ xoay vòng của chúng. Sự quay chậm lại của trái đất

khi thủy triều lên hoặc xuống là do ma sát của thủy triều.

Năm 1755 Kant cho ra đời tác phẩm “Lịch sử tự nhiên đại cương và lý

thuyết về thiên hà”, trong tác phẩm này, Kant có cái nhìn tổng quát về sự hình

thành của vũ trụ. Theo ông vũ trụ nguyên thủy tràn đầy các hạt vật chất nằm

trong trạng thái hỗn mang, nhờ lực vạn vật hấp dẫn, thông qua lực hút và lực

đẩy, các hạt vật chất dần dần quy tụ lại thành những khối vân tinh, do ma sát

khi va chạm nên chúng nóng lên. Hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ là

mặt trời, những hành tinh nào gần mặt trời thì càng nặng còn hành tinh ở xa

mặt trời thì nhẹ dần, ông suy đoán rằng, còn có những hành tinh khác giống

với trái đất của chúng ta. Theo Kant vũ trụ thường xuyên diễn ra một cách tự

nhiên quá trình sinh ra và biến đi của những hệ thống vũ trụ. Có thể thấy rằng,

tuy vũ trụ luận của Kant nhìn từ góc độ khoa học hiện đại có phần trở nên lạc

hậu. Nhưng nó cũng có ý nghĩa cách mạng và hoàn chỉnh hơn so với các học

thuyết vũ trụ trước kia, đem lại một cái nhìn mới. Khẳng định một điều rằng,

không chỉ trái đất mà còn cả vũ trụ này chính là kết quả của quá trình tiến hóa

lâu dài của giới tự nhiên, quan điểm này đã công phá vào thành trì quan niệm

24

siêu hình thời đó, khi cho rằng thế giới không có sinh, không có tử tồn tại

vĩnh viễn vô cùng tận. Ông đã nêu lên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và

cho rằng vũ trụ là một hệ thống vô cùng lớn, bao hàm những hệ thống nhỏ.

Với học thuyết về lịch sử hình thành vũ trụ, Kant đặt nền móng cho quan

niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.

Thời kỳ phê phán từ năm 1770 cho đến cuối đời

Ở thời kỳ này, Kant tập trung nghiên cứu những vấn đề xã hội và con

người. Ông cho rằng, con người không nhận thức được thế giới, điểm đáng

chú ý thời kỳ này là tư tưởng của Kant dần hướng đến các vấn đề tín ngưỡng,

hoài nghi khả năng nhận thức thế giới của con người. Do ảnh hưởng của

nhiều biến động xã hội đương thời, bế tắc trong việc tìm kiếm quan điểm mới

về triết học, chịu tác động của tư tưởng triết học mới như chủ nghĩa tâm lý

của Locke, thuyết bất khả tri của Hume, chủ nghĩa duy lý của Descartes và

Leibniz, cho nên lập trường tư tưởng của Kant đã có sự thay đổi rõ nét, đi từ

triết học miêu tả sang triết học phê phán. Theo ông, triết học cần khẳng định

vị thế con người và vì vậy cần trả lời cho ba câu hỏi lớn đó là: Tôi có thể biết

được cái gì? Tôi cần phải làm gì? và Tôi có thể hy vọng vào cái gì? ba vấn đề

trăn trở của thời đại, phản ánh ba khía cạnh trong mối quan hệ giữa con người

với thế giới.

Vấn đề thứ nhất (Tôi có thể biết được cái gì?) đây là vấn đề mang tính

nhận thức luận đơn thuần được nghiên cứu trong “Phê phán lý tính thuần túy”.

Vấn đề thứ hai (Tôi cần phải làm gì?) đây là vấn đề thuần túy thực tiễn

mục đích của tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn”.

Vấn đề thứ ba (Tôi có thể hy vọng cái gì?) đây là vấn đề bao hàm cả lý

luận và thực tiễn được nghiên cứu trong “Phê phán năng lực phán đoán”.

Bên cạnh đó còn có các tác phẩm quan trọng khác của Kant như “Các

25

nền tảng siêu hình học của khoa học tự nhiên” (1786), “ Tôn giáo trong giới

hạn của lý trí đơn thuần” (1793), “Hướng tới hòa bình vĩnh cửu” (1795), và

“Các cơ sở của siêu hình học đạo đức” (1797).

Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Socrates (469 - 399 Tr.CN), Kant cho

rằng bản chất của triết học là sự tự ý thức của con người về chính mình. Kant

khẳng định con người là trung tâm mọi vấn đề, vì vậy cho nên triết học Kant

được các nhà tư tưởng ví như cuộc cách mạng Copecnich trong lịch sử triết

học. Trong đó triết học về đạo đức và pháp quyền có một vị trí và ý nghĩa

26

quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học của ông.

CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC KANT

2.1. Quan niệm của Kant về đạo đức

Kant cho rằng tri thức thực sự có giá trị khi nó giúp con người trở thành

con người trên mảnh đất vững chãi của hoạt động vươn đến sự hoàn thiện đạo

đức cao nhất. Con người cần có một nhân cách tốt, ý thức được việc bản thân

làm. Quan niệm về triết học đạo đức nằm trong phạm trù thực tiễn theo nghĩa

rộng. Khái niệm thực tiễn hiện diện ở mọi phương diện, đời sống xã hội, hoạt

động sinh sống của con người, trong đó trọng tâm nhất vẫn là lĩnh vực đạo

đức, mà hạt nhân quan trọng là hoạt động tự do của con người. Triết học thực

tiễn ra đời nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến cuộc sống của con

người mà Kant đề ra như “Tôi cần phải làm gì?”, “Tôi có thể hy vọng gì?”

hay “Con người là gì?” và câu hỏi “Tôi cần phải làm gì”? câu trả lời chính là

nằm ở phần đạo đức học.

Đạo đức học trong triết học thực tiễn của Kant hiểu theo nghĩa rộng là

nội dung xuyên suốt, cốt lõi toàn bộ tư tưởng của ông. Nguyên nhân sâu xa

của đạo đức học chính là những quan điểm đạo đức - chính trị của các nhà

khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, tiêu biểu là quan điểm của nhà triết học nổi

tiếng Rousseau. Mác nhận xét rằng, triết học Kant là “lý luận Đức của cách

mạng Pháp”. Khi bàn đến vấn đề đạo đức - chính trị, Rousseau cho rằng xã

hội chỉ là mới được thiết lập trên nền tảng công bằng và lý tính mà thôi. Và

trong đó thì nhân dân được sở hữu sử dụng quyền lập pháp, chủ trương đề cao

giáo dục. Xã hội muốn phát triển thì ưu tiên đầu tư cho giáo dục, chính giáo

dục là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Tư tưởng này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của Kant. Năm

1764 Kant thừa nhận rằng không ai khác ngoài Rousseau với tinh thần nhân

27

văn cao đẹp, tình cảm yêu thương đối với nhân dân, đối với mọi người đã

khiến cho Kant sớm tỉnh ngộ, và mong muốn sống có ích cho đời, đối lập

hoàn toàn với quan điểm trước kia khi ông coi nhân dân chỉ là những kẻ ngu

nguội, thì nay Kant đã nhận thức được vấn đề và những sai lầm của mình

trong cách nhìn nhận và đánh giá.

Tiếp tục kế thừa tư tưởng khai sáng của Rousseau và các nhà tư tưởng

trước, Kant đề cao trách nhiệm công dân, ông cho rằng mỗi công dân cần có

trách nhiệm với bản thân mình và với mọi người cần phải bỏ thói hư tật xấu

vốn tồn tại bấy lâu nay. Điều cần làm là tiếp tục đứng lên đấu tranh thủ tiêu

áp bức, bóc lột, khẳng định giá trị cao đẹp của con người trong cuộc sống.

Nếu Rousseau theo quan điểm thần luận tự nhiên đến gần hơn với tư tưởng

thần luận, thì Kant tìm kiếm sự dung hòa giữa thần luận và vô thần, phủ định

sự tồn tại của thượng đế như một thực thể tối cao. Nhưng mặt khác lại cho

rằng, thượng đế chỉ như một lý tưởng siêu việt, cần thiết cho hoạt động của

con người trong sinh hoạt đạo đức.

Mặt khác nếu Rousseau có xu hướng xem con người trong sự tồn tại

độc lập với tự nhiên và xã hội, có sự tách biệt giữa con người với thế giới bên

ngoài thì Kant đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, con

người có quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, chịu sự tác động của ngoại

cảnh và điều kiện xã hội, sự biến đổi của tự nhiên. Con người gắn bó mật thiết

với tự nhiên dựa vào tự nhiên để tồn tại và phát triển. Kant cho rằng đạo đức

hình thành, phát triển bên ngoài triết học, song tư duy triết học lại cần phải

hướng đến phục vụ cho đạo đức. Trong đó thì lý tính giữ khả năng định

hướng cho môi trường sinh hoạt đạo đức, tôi luyện những con người đạo đức.

Kant cho rằng, tính hiện thực của đạo đức biểu hiện cụ thể qua lý tính

thực tiễn, thừa nhận mọi hoạt động tự do tự chủ của con người, lý tính thực

tiễn là cái quyết định đối với lý tính lý luận, lý tính lý luận chịu sự chi phối

28

của lý tính thực tiễn. Tư tưởng này đối lập với quan niệm của các nhà triết

học trước Kant khi cho rằng lý tính lý luận chiếm ưu thế trước lý tính thực

tiễn, tức là nhờ có tri thức và thông qua tri thức mà ta xác định có hay không

sự tự do, rồi sau đó mới tính đến hiện thực đạo đức. Trong triết học Kant sự

luận chứng cho khoa học và luận chứng cho đạo đức liên hệ hữu cơ với nhau.

Kant nhấn mạnh nhiều hơn đến triết học thực tiễn, đề cao tính thực tiễn đó

chính là nhấn mạnh tính thực dụng của triết học.

Đạo đức học nơi Kant tạo dựng bản chất chính là xây dựng nền tư

tưởng nhân văn sâu sắc về con người, phê phán chủ nghĩa tự nhiên đạo đức,

phê phán quan niệm cho rằng đạo đức được nhìn nhận từ góc độ vũ trụ luận,

sinh học và tâm lý học. Khi bàn đến vấn đề triết học và đạo đức, lòng tin của

Kant vào con người thể hiện ở quan niệm cho rằng, con người với tính cách là

chủ thể đạo đức có toàn quyền tạo ra luật cho bản thân mình, nguyên tắc tối

cao mà đạo đức học hướng tới chính là tôn trọng phẩm giá con người.

Quy luật đạo đức theo Kant chính là thượng đế ban cho con người,

nhưng mặt khác ông lại khẳng định rằng đạo đức không phụ thuộc vào tôn

giáo, đạo đức không cần tới sự can thiệp hay cứu cánh từ tôn giáo. Đạo đức

giúp con người làm chủ bản thân, còn lý trí thực tiễn, niềm tin tôn giáo phải

phục vụ cho đạo đức. Nhờ sinh hoạt đạo đức mà con người đặt niềm tin vào

cái tuyệt đối, giữa đạo đức và tôn giáo không đối lập nhau mà có mối liên hệ

mật thiết qua lại với nhau. Nhưng tôn giáo chỉ là điểm tựa cho đạo đức phát

triển chứ không thể chi phối đạo đức.

2.1.1. “Tự do” phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant

Tự do là một ý niệm cần phải được giả định do kinh nghiệm của chúng

ta về sự bó buộc đạo đức, đó là vì “Tôi phải nên, tôi có thể”, rất khó để chứng

minh ý chí của mỗi con người là tự do. Kant cho rằng chúng ta buộc phải giả

định bằng lý trí rằng có sự tự do, vì tự do và đạo đức hợp nhất không thể

29

phân ly với nhau đến độ người ta định nghĩa tự do thực hành là sự độc lập của

ý chí đối với mọi việc. Con người chỉ có trách nhiệm, bổn phận khi họ có tự

do. Tự do phải được giả định, vì vậy nó là định đề đầu tiên của đạo đức học là

phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant.

Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”, Kant đã đưa ra một định

nghĩa về tự do.

“Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng chế

do các xung động của cảm năng gây ra. Tự do thực hành giả định tiên quyết

rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế,

nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy định

nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có một tính nhân quả nào tạo

ra được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi

ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật

tự thời gian theo những quy luật thường nghiệm, do đó không thể hoàn toàn

tự mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện…” [18,Tr.XXIV].

Tự do ở đây được Kant xem như là sự tự do có trước kinh nghiệm, theo

tự do lý tưởng. Tự do này hoàn toàn độc lập với quy luật của tự nhiên. Vì vậy

con người tự ban bố và hành động theo quy luật đạo đức mà không bị ràng

buộc với bất kỳ một xu hướng cảm năng hay điều kiện nào.

“Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng

chế do các xung đột của cảm năng gây ra [..]. Tự do thực hành giả định tiên

quyết rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì

thế nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy

định nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có tính nhân quả tạo ra

được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược

lại sức mạnh và sự ảnh hưởng của tự nhiên” [18, tr.XXIV]. Khởi điểm của

nghiên cứu đạo đức học là ý chí tự do, ý chí đã dẫn dắt con người tới tự do.

30

Nhờ những quy luật đạo đức mà con người biết mình được tự do. Và cũng

chính nhờ những quy luật đạo đức mà tự do của con người đạt tới thực tại

khách quan. Khái niệm về tự do được chứng minh bằng một quy luật tất

nhiên của lý tính thuần túy thực hành, nó tạo nên viên đá đỉnh vòm cho toàn

bộ tòa nhà triết học của Kant. Mọi khái niệm khác đều phụ thuộc vào khái

niệm tự do. Tự do tồn tại hiện thực, tự do theo Kant hiểu là ý niệm duy nhất

trong mọi ý niệm của lý tính tư biện. Kant viết: “Tự do là một ý niệm thuần

túy siêu nghiệm” [20, tr.861]. Tự do chính là ý niệm duy nhất trong mọi ý

niệm là điều kiện của luân lý, các ý niệm về thượng đế và sự bất tử không

phải là điều kiện của quy luật luân lý.

Trong chương I cuốn “Phê phán lý tính thực hành”, Kant bắt đầu bằng

một loạt các ví dụ chứng minh, rằng mục tiêu để ta thấy được tất cả những

nguyên tắc hành động dựa trên thực nghiệm đều không xứng đáng với bản

chất cao quý của sự tự do. Kant khẳng định rằng không có đạo đức thì con

người không thể có tự do. Kant chứng minh một cách rõ ràng về mệnh đề này

khi cho rằng, đạo đức chính là con người hành động theo lẽ phải, dù hành

động đó có thể gây thiệt hại đối với chính chủ thể, vì bổn phận làm người

buộc con người phải làm như vậy.

Dưới hình thức những “mệnh lệnh tuyệt đối” con người mới thấy mình

tự do. Trong tự do đó con người có thể làm hay không làm theo mệnh lệnh

của con tim và quy luật đạo đức, bởi vì ai cũng có thể nhận thức được quy

luật đạo đức khi hành động. Chính những quy luật đạo đức là nguyên nhân,

cầu nối cho ta biết đến tự do. Ta nhận thức được tự do vì hành vi của ta không

bị kích động bởi những sự kiện khả giác. Tự do là khi ta công nhận hoạt động

của chính mình như là một “vật tự thân”, tự động. Kant cho rằng tự do cũng

như tự chịu trách nhiệm, nếu ta nhìn nhận lại chính mình, cho rằng mình là

hữu thể tự do, ta có bổn phận phải thực hành những mệnh lệnh của quy luật

31

đạo đức. Nếu không có quy luật đạo đức thì con người sẽ không biết và không

thấy rằng mình đang có tự do, ngược lại không có tự do con người sẽ không

có được hành vi đạo đức.

Theo Kant bản chất của sinh hoạt đạo đức thực chất là sinh hoạt tự do,

mà tự do đó không bị chi phối bởi dư luận, bởi định kiến xã hội. Tự do ở đây

có nghĩa là khi quyết định, con người nhìn vào hình thức tuyệt đối của quy

luật đạo đức, nhìn vào lý trí. Tự do xuất phát từ sự nhận thức chính mình, tự

quyết, tự làm, Kant cho rằng tự do mà Kant hướng tới không chỉ đơn thuần là

tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do đi lại. Ở đây tự do có nghĩa mỗi người

hoàn toàn tự quyết định hành vi đạo đức của mình mà không bị ràng buộc hay

chi phối bởi các mối quan hệ khác, bởi tư lợi, dư luận. Bản chất của hành vi

đạo đức chính là hướng tới tự do, tự do là phạm trù rộng, lý trí thuần túy tự

tạo ra luật cho mình mới chính là tự do tích cực.

Tự do cũng chính là “sự tự trị” của lý trí thuần túy thực hành. “Sự tự

trị” là nguyên tắc duy nhất của tất cả các quy luật đạo đức. Danh từ tự trị hàm

chứa trong danh từ tự do, cho ta thấy quan niệm rõ ràng về tự do. Con người

không bị chi phối bởi những quyền lực bên ngoài khi hoạt động, sinh sống.

Sự tự trị đó thuộc về ý chí, đó chính là bản chất của hành vi đạo đức. Tư

tưởng này thể hiện sự mong muốn có đôi chút ảo tưởng của Kant về vấn đề

đạo đức. Từ sự tự trị hay “sự tự chủ” Kant đưa tới những khái niệm “nhân vị”

hay “nhân phẩm”.

Tự do có hai loại một là sự tích cực hai là sự tiêu cực, vậy nghĩa tích

cực được Kant hiểu như thế nào? Đó chính là khi con người không bị chi phối

bởi quyền lợi cá nhân, theo nghĩa tiêu cực thì tự do là sự tự quyết của chủ thể.

Tự định đoạt mục đích, số phận, hành động, tự tạo ra luật cho những hành vi

của mình đối với chính mình, đối với cộng đồng, đó chính là nội dung nói lên

ý nghĩa khái niệm “sự tự trị”. Nguyên tắc cao nhất của đạo đức là “sự tự trị

32

của ý chí”. Kant đã nêu ra sự tương quan giữa tự do và quy luật đạo đức như

trên đã trình bày. Bên cạnh đó Kant cho rằng tự do chính là đối tượng mà đạo

đức học hướng tới, nhờ có quy luật đạo đức mà con người tự do. Những quyết

định tự do trong lĩnh vực đạo đức đưa con người tới với nhau, gắn kết tạo

thành một cộng đồng, trong cộng đồng đó bao gồm những người biết hành

động theo lẽ phải, tự trọng, cho mình và cho người. Mỗi người phải hành

động sao cho hành vi của mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức, như người

tạo ra luật và ý thức về bổn phận trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.

Mục tiêu đối tượng mà đạo đức nhắm tới không đâu khác chính là sự tự

do. Tự do là động lực thúc đẩy khiến con người trở nên người hơn. Điều mà

con người luôn luôn theo đuổi không phải có thêm quyền lợi, mà mong sao

cho mình được tự do hơn. Hành động của con người phải phù hợp với quy

luật đạo đức phổ quát. Kant chủ trương “ý chí tự do và ý chí quy phục luật

đạo đức cũng là một”. Khi luận giải ý chí tự do chỉ phục tùng các quy tắc đạo

đức, Kant cho rằng cần phải làm rõ khái niệm tính nhân quả với tư cách là

“tính tất yếu tự nhiên” và “khái niệm tính nhân quả với tư cách là tự do”.

Không thể gán ép tự do cho thực thể mà sự tồn tại của tự do được xác

định theo thời gian. Vấn đề tự do là vấn đề tính có năng lực chịu trách nhiệm

và khả năng xuất hiện tính nhân quả nội tại. Giải pháp khi xem xét vấn đề tự

do hoàn toàn không phụ thuộc vào tính nhân quả nằm trong hay nằm ngoài

chủ thể. Nếu tự do ý chí của con người chỉ là tự do tâm lý và tương đối, chứ

không phải tự do tiên nghiệm và tuyệt đối thì theo Kant về thực chất không

khác gì tự do để thích nghi. Để cứu lấy tự do, muốn có tự do, chỉ có con

đường đó là sự tồn tại của sự vật theo thời gian, tính nhân quả theo quy luật

tất yếu tự nhiên. Kant luận chứng cho khả năng xuất hiện tự do cần phải thừa

nhận sự khác biệt giữa hiện tượng và vật tự nó chính sự khác nhau này trở

thành luận điểm trung tâm trong hệ thống triết học của Kant và được Kant thể

33

hiện cụ thể trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”.

Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”, khi nói về “Antinomia”

của lý tính thuần túy, Kant đề cập đến tự do và tất yếu. Tiếp đến những tác

phẩm như “Đặt cơ sở cho siêu hình học”, “Phê phán lý tính thực hành” Kant

tiếp tục đề cập đến vấn đề tự do và tất yếu. Vấn đề cần quan tâm theo Kant là

tự do có thể được thực hiện hay không đối với hành vi mà theo bản chất của

nó có thể được xác định với tư cách cái tất yếu. Quy luật tất yếu không ảnh

hưởng đến sự tự do, tự do và tính tất yếu của quy luật tự nhiên có thể tồn tại

độc lập với nhau và không làm phương hại đến nhau.

Trong tác phẩm phê phán lý tính thuần túy Kant chứng minh giữa tự do

và tất yếu không tồn tại “Antiomia” có tính logic. Cơ sở của tự do chính là

quy luật luân lý, quy luật luân lý không thể tồn tại trong mỗi con người khi

con người chưa có tự do. Ta chỉ ý thức được tự do khi ta có ý thức về quy luật

luân lý. Kant cho rằng những hành vi tự do là những hành vi mang tính thiện,

mang tính đạo đức đều là những hành vi tốt đẹp được đánh giá tương ứng với

ý đồ. Kant tách biệt lĩnh vực đạo đức tự do với lĩnh vực tự nhiên. Vì lĩnh vực

đạo đức không mang ý nghĩa là những hành động nói chung vì hành động nói

chung muốn tồn tại phải có nguyên nhân. Mà đó chính là ý đồ là nghĩa vụ,

động cơ, cơ sở để Kant xác định nguyên tắc của tự do lựa chọn, và hành động

tự do không phụ thuộc vào yêu cầu của hiện thực được cảm nhận một cách

cảm tính.

Sở dĩ có được tự do là bởi có sự khác biệt giữa phạm vi hiện tượng luận

với “vật tự nó”. Tự ý thức là một lý tính thuần túy thực hành, còn lý tính thực

hành là hoàn toàn đồng nhất với khái niệm tích cực về tự do. Chính quy luật

luân lý chứ không phải cái khác được con người ý thức một cách trực tiếp

mới là cái đầu tiên xuất hiện cho ta và dẫn ta tới khái niệm về tự do. Trong

hoạt động thực tiễn của con người, tự do chính là cơ sở, là bản chất của quy

34

luật luân lý, quy luật luân lý lại là cơ sở cho nhận thức về tự do. Và ngược lại

quy luật luân lý không thể tồn tại trong mỗi con người chúng ta nếu không có

tự do. Tự do gắn với mối liên hệ nhân quả.

Trong phạm trù tự do này còn bao hàm cả quan niệm về sự thiện ác, tốt

xấu, thiện và ác không có gì khác hơn là kết quả của phạm trù tính nhân quả

từ tự do. Thiện và ác có cách lý giải khá mới mẻ về mối quan hệ giữa các

chức năng phán đoán với phạm trù. Trong “Phê phán lý tính thuần túy”, các

phạm trù thuần túy của giác tính được rút ra từ chức năng phán đoán và được

gọi là phạm trù về tự nhiên, nó tồn tại song song với phạm trù tự do. Tự do là

một loại nhân quả, tự do được nhận thức như là một loại hình đặc biệt của

tính nhân quả thực hành. Chức năng của phạm trù tự do nhằm quy định ý chí

một cách thống nhất chứ không phải nhắm đến các điều kiện cảm tính nhằm

thực hiện các mục đích, phạm trù tự do mang lại tính thực tại thực hành,

khách quan cho những phạm trù còn lại. Tự do đó là lý tưởng đạo đức cao cả

của nhân loại hướng tới. Vì vậy, phạm trù tự do có vị trí đặc biệt quan trọng

và trở thành phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant. Chính Kant đã

thừa nhận điều này khi cho rằng “khái niệm tự do là chiếc chìa khóa để giải

thích sự tự trị của ý chí” [Dẫn theo 24, tr.437].

Đạt đến đỉnh cao trong sự tự trị của ý chí là ý chí tự do. Ý chí không bị

quy định bởi bất cứ cái gì ngoài bản thân mình, không phụ thuộc vào bất kỳ

sự tác động bên ngoài nào. Ý chí tự do hay tự trị, tự do đối với mọi hành vi có

nguồn gốc cảm tính, nó hoàn toàn độc lập với quy luật của tự nhiên, độc lập

với quy luật nhân quả, đó là tự do theo nghĩa chính xác nhất, tức theo nghĩa

tiên nghiệm. Phạm trù tự do có quan hệ mật thiết với “mệnh lệnh tuyệt đối”

và phạm trù “nghĩa vụ đạo đức” hay “bổn phận đạo đức”. Đối với Kant tự do

là năng lực của con người, xuất phát từ chính trong bản thân con người, tự do

là khi con người tự giác phục tùng sự bắt buộc, sự cưỡng chế của các quy tắc

35

đạo đức, biết tuân thủ nghĩa vụ. Lĩnh vực đạo đức không phải là lĩnh vực nào

khác mà là lĩnh vực tự do của con người. Tự do có khi con người nhận thức

được nghĩa vụ mà mình phải làm, thực hiện nghĩa vụ đó xuất phát từ nội tâm

của mình. Có được tự do nghĩa là con người hành động một cách có đạo đức,

và trở thành con người có đạo đức. Để đạt được tự do, con người phải có lòng

tin vào đạo đức, thực hiện bổn phận và nghĩa vụ của mình, để đạt tới cái thiện,

cũng là đạt đến tự do.

Có thể thấy rằng trong quan niệm về đạo đức học của Kant, phạm trù tự

do chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết

triết học của ông. Như “viên đá đỉnh vòm” cho cả tòa nhà của lý tính thuần

túy”. Kant khẳng định rằng “tạo nên viên đá đỉnh vòm cho toàn bộ tòa nhà

của một hệ thống của lý tính thuần túy, kể cả của lý tính tư biện” [18, tr.26].

2.1.2. Các quy luật hay định lý xác định hành vi đạo đức

Triết học đạo đức của Kant là đạo đức học về hành vi, trách nhiệm, vì

ông cho rằng chỉ những hành vi xuất phát từ trách nhiệm đạo đức mới được

xem là hành vi đạo đức. Nội dung triết học đạo đức của Kant nhằm trả lời cho

câu hỏi, tôi cần phải làm gì để hành vi của tôi được đánh giá là hành vi đạo

đức? Tiêu chuẩn của hành vi đạo đức theo Kant là tính chất của ý chí, hành vi

có đạo đức là hành vi xuất phát từ một ý chí tốt. Một ý chí tốt là một ý chí vô

điều kiện, không bị chi phối bởi bất kỳ nguyên nhân nào. Kant cho rằng ý chí

không phải là cái gì phi lý tính, không phải là “sức mạnh tối tăm từ một vực

sâu ẩn mật” [18, tr.XIX] theo nghĩa của Schopenhauer, mà là cái gì hợp lý

tính của bản thân lý tính trong quan hệ với hành vi. Ý chí là chỗ phân biệt một

hữu thể có lý tính đó là con người với hữu thể đơn thuần là tự nhiên như thú

vật hành động theo những quy luật do tự nhiên mang lại chứ không phải do

chúng tưởng tượng nên.

Ý chí như là sự thôi thúc bên trong, phân biệt với cưỡng chế từ bên

36

ngoài. Kant lấy ví dụ rằng có thể bảo thú vật có một ý chí khi chúng tuân theo

các bản năng và nhu cầu nội tại. Nhưng Kant hiểu ý chí một cách chặt chẽ

hơn, đó là nếu ý chí đó có ở nơi thú vật các bản năng và nhu cầu tuy có hợp

quy luật, nhưng đó là quy luật mang tính tất yếu, tuân theo các động lực hành

động riêng, thực chất là tuân theo “ý chí của tự nhiên”. Ý chí riêng chỉ có

được khi năng lực hành động dựa theo quy luật tự do tự mình hình dung,

tưởng tượng mới có ý chí riêng, tức chỉ con người mới có ý chí riêng. Nói

cách khác, bản chất của ý chí biểu thị năng lực giữ khoảng cách với động lực

tự nhiên tuy không triệt tiêu chúng nhưng không để cho chúng trở thành cơ sở

quy định tối hậu.

Kant nhấn mạnh rằng giá trị đạo đức của hành vi không nằm ở đâu

khác ngoài chính nguyên tắc của ý chí, “ý chí biểu thị năng lực giữ khoảng

cách với các động lực tự nhiên” [18, tr.XIX]. Một hành vi dẫn tới kết quả xấu

vẫn được coi là tốt, nếu nó xuất phát từ một ý chí tốt. Hành vi có đạo đức là

hành vi xuất phát từ ý chí tốt, từ trách nhiệm. Một hành vi vì trách nhiệm là

hành vi phải làm mà không bị chi phối bởi bất kỳ điều kiện nào. Ví dụ như

hành vi bảo toàn tính mạng, chỉ có thể được xem là hành vi có đạo đức, nếu

thất bại và đau khổ tràn ngập trong lòng, người ta không muốn sống chút nào

và mong cái chết, vậy mà vẫn ý thức rằng, mình phải có trách nhiệm bảo toàn

sự sống.

Có những hành vi xuất phát từ ý thức ngẫu nhiên phù hợp với các quy

định về trách nhiệm được Kant gọi là hành vi phù hợp với trách nhiệm. Hành

vi thực hiện vì trách nhiệm diễn tả động cơ của người thực hiện, còn một hành

vi phù hợp với trách nhiệm diễn tả hành vi khách quan mà không để ý đến

động cơ của người thực hiện hành vi đó.

Theo Kant, trách nhiệm buộc ý chí và hành vi của con người phải tôn

trọng quy luật đạo đức bắt nguồn từ lý tính. Con người thực hiện một hành vi

37

đạo đức bởi đó là luật. Quy luật đạo đức là một yêu cầu tự thân, một mệnh

lệnh tuyệt đối và vì vậy có thể cưỡng bức ý chí con người thực hiện hành vi

đạo đức thông qua ý thức về trách nhiệm.

Lương tâm là một phạm trù quan trọng của hành vi đạo đức và được

Kant ví như một lời phán xử của một quan năng kỳ diệu có trong bản thân con

người. Một ai đó có thể dùng mọi cách để biện hộ cho hành vi trái với luân lý

của mình, cho rằng đó là hành vi vô ý, không cố ý hay do sự bất cẩn của bản

thân, tất cả muốn biện minh cho hành vi sai trái bằng cách khẳng định bản

thân vô tội. Nhưng chính bản thân chủ thể đó thấy rằng vị luật sư bên trong

anh ta không có cách nào làm cho kẻ tố cáo ở ngay chính bản thân anh ta im

lặng. Anh ta nhận thức được hành vi trong giây phút phạm phải sai lầm, nghĩa

là anh ta cũng đang trong trạng thái tỉnh táo và tự do. Đó chính là lương tâm,

cơ sở cho lòng hối hận của anh ta về những hành vi tội lỗi mà mình gây ra.

Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”, Kant có viết: “Hành

động như thể châm ngôn hành động của chúng ta là phải trở thành một luật tự

nhiên phổ quát” [18, tr.139]. Chúng ta hiểu rằng không bằng lý luận mà bằng

cảm thức linh động, con người phải tránh lối cư xử mà nếu mọi người áp

dụng thì xã hội sẽ không được ổn định. Trong khi con người muốn dối trá thì

bản thân họ lại tuyệt đối không muốn sự dối trá ấy phải là một quy luật phổ

quát. Do đó lương tâm trỗi dậy và ngăn cản hành vi dối trá đó ngay dù sự dối

trá ấy có lợi cho bản thân họ. Sự phòng xa là giả dối, châm ngôn của nó là chỉ

lương thiện khi đó là phương cách tốt nhất mà thôi.

Một hành vi được coi là thiện không phải vì đem lại những kết quả tốt

đẹp, hay vì nó khôn ngoan, mà bởi vì nó tuân theo bổn phận nội tâm, tuân

theo quy luật đạo đức không do kinh nghiệm của riêng ai, mà được thiết lập

tiên nghiệm cho mọi hành vi của bản thân chủ thể trong quá khứ, hiện tại và

38

tương lai.

Trong lịch sử triết học trước Kant cũng có những nhà triết học đề cập

nhiều đến quan niệm về hành vi đạo đức, trong đó không thể không kể đến đó

chính là Arixtốt, ông cho rằng hành vi đạo đức là hành vi có điều kiện, hạnh

phúc là đích mà hành vi đạo đức hướng đến. Nhưng Kant đi ngược lại với

quan điểm này và cho rằng hành vi đạo đức là những hành vi hoàn toàn vô

điều kiện, hiểu một cách đơn giản là nghĩa vụ, bổn phận của con người đối

với chính mình, và với người khác. Quan niệm này cho thấy sự khác biệt về

bản chất hành vi đạo đức của Kant so với Arixtốt. Bên cạnh đó Kant cho rằng

hành vi đạo đức phải đảm bảo những yêu cầu cụ thể về nguyên tắc, mục đích

của hành vi đạo đức.

Hành vi đạo đức phải lấy “mệnh lệnh tuyệt đối” làm nguyên tắc thực

hiện, hành vi đạo đức xác định đối tượng của nó chính là cái thiện và cái ác.

Kết quả mà nó tạo ra chính là tự do. Đối tượng của hành vi đạo đức phải được

hình dung từ một ý chí tự do, không bị bó buộc, quy định bởi ham muốn dục

vọng, hay bị áp đặt bởi một đối tượng bên ngoài nào đó. Cái thiện và cái ác

chính là đối tượng tối cao mà hành vi hướng tới vướn tới và được xác định

nhờ quy luật luân lý.

Trong lịch sử triết học các trường phái như Epiqya, Khắc kỷ và Kitô

giáo lấy hạnh phúc làm đối tượng mục đích của hành vi đạo đức. Họ đưa ra

những quan điểm khác nhau về đạo đức. Hành vi đạo đức ngoài bản chất, đối

tượng, còn bao hàm động cơ hành động, động cơ là cơ sở quy định chủ quan

đối với ý chí của một hữu thể, động cơ hành động bao hàm sự tham gia của

yếu tố chủ quan vào trong hành động, động lực bên trong thúc đẩy hành vi

mỗi chủ thể. Hành vi con người xuất phát từ những động cơ bên trong. Kant

cho rằng có hai loại động cơ, thứ nhất là hạnh phúc riêng tư, thứ hai là lòng

tôn kính đối với quy luật luân lý. Hành vi đạo đức là hành vi lấy lòng tôn kính

39

đối với quy luật luân lý làm động cơ hành động.

Kant phân biệt có hai loại hành vi đạo đức, hành vi từ bổn phận nghĩa

vụ và hành vi phù hợp với nghĩa vụ và bổn phận. Bản chất của hành vi thể

hiện qua những thuộc tính cơ bản như lấy nguyên tắc thực hành là mệnh lệnh

tuyệt đối, đối tượng mà hành vi đạo đức hướng tới chính là cái thiện và cái ác,

và được quy định nhờ luật luân lý, hành vi đạo đức lấy lòng tôn kính đối với

quy luật luân lý làm động cơ thực hiện. Kant cho rằng hành vi đạo đức phải

tuân theo quy luật phổ biến. dưới sự quy định trực tiếp của đạo đức. Ai cũng

có thể thực hiện được hành vi đạo đức và nó phải phù hợp với bổn phận trách

nhiệm, xuất phát từ lương tâm, lấy thực tiễn sinh hoạt đạo đức làm thước đo.

Con người phải biết xác định hành vi đạo đức và xác định thực hiện hành vi

vì mục đích gì? Tại sao con người lại phải hành xử để có đạo đức? câu hỏi đó

chính là cơ sở để hành vi đạo đức tồn tại. Hành vi đạo đức mà con người thực

hiện phải xuất phát từ mục đích đúng đắn.

Đạo đức học của Kant bắt đầu bằng câu hỏi “Tôi cần phải làm cái gì?”

khi xác định được động cơ hành động hành vi đạo đức, bản chất hành vi đạo

đức. Với câu hỏi “tôi có thể hy vọng điều gì?”. Nhưng mục đích của hành vi

đạo đức không chiếm vị trí cao nhất mà nó chỉ được ý thức sau khi con người

ý thức đầy đủ về nghĩa vụ đạo đức. Mục đích hành vi đạo đức hướng tới là sự

thiện tối cao, là lý tưởng con người hướng đến.

Kant phân biệt triệt để về mặt phương pháp trong lĩnh vực thực hành

giữa ý chí độc lập hoặc không độc lập hoàn toàn với cơ sở quy định cảm tính,

phân biệt lý tính thực hành thường nghiệm với lý tính thực hành thuần túy.

Khi lý tính thực hành thường nghiệm chịu sự quy định một phần từ bên ngoài

như dục vọng và nhu cầu, do thói quen và đam mê dẫn dắt con người đưa đến

những hành vi, thì lý tính thuần túy thực hành là hoàn toàn độc lập với mọi

điều kiện thường nghiệm và chỉ dựa vào bản thân chúng.

40

Để xác định nguyên tắc hành vi đạo đức, ông đưa ra một số định lý như sau:

Định lý 1:“Mọi nguyên tắc thực hành tiền - giả định một đối tượng (chất

liệu) của quan năng ham muốn như là cơ sở quy định cho ý chí thì đều có tính

thường nghiệm và không thể mang lại các quy luật thực hành” [18, tr.42].

Theo định lý này thì mọi ham muốn đều có đối tượng thực hiện. Nếu lòng

ham muốn đối tượng đó có trước quy tắc thực hành và là điều kiện cho việc ta

biến quy tắc ấy thành một nguyên tắc, thì điều cần làm đầu tiên là chủ thể

phải cho rằng: nguyên tắc bao giờ cũng có tính thường nghiệm, cơ sở quy

định sự lựa chọn là tưởng tượng về một đối tượng nào đó. Và nó phải được

tiền - giả định như là điều kiện cho sự quy định của ý chí. Nhưng không thể

biết được một cách tiên nghiệm đối với biểu tượng về một đối tượng rằng liệu

nó có mang lại sự vui sướng hay không vui sướng nên nguyên tắc quy định sự

lựa chọn đó bao giờ cũng phải có tính thường nghiệm như là điều kiện và nó

không mang lại một quy luật thực hành, vì nếu ai cũng lấy mục tiêu nào đó

làm chuẩn mực để thực hiện hành vi thì xã hội sẽ bị suy đồi về đạo đức.

Tiếp theo đến định lý 2:“Mọi nguyên tắc thực hành mang tính chất

liệu, xét như bản thân chúng, đều thuộc cùng một loại và phục tùng nguyên

tắc chung của việc yêu chính mình hay hạnh phúc riêng tư” [18, tr.43]. Ở

định lý này Kant cho rằng sự vui sướng của con người sinh ra từ hiện hữu của

một sự việc nào đó, của một hành vi nào đó đã được thực hiện, nó thuộc về

giác quan như xúc cảm. Sự vui sướng chỉ có tính thực hành trong chừng mực

quan năng ham muốn bị quy định bởi cảm giác về sự dễ chịu được chủ thể

đón nhận, ý thức của một hữu thể có lý tính về sự dễ chịu của đời sống vốn

không ngừng đi theo nó là toàn bộ sự sinh tồn của con người và đó chính là

hạnh phúc, nguyên tắc làm cho hạnh phúc trở nên cơ sở tối cao để quy định ý

chí chính là nguyên tắc của việc yêu chính bản thân mình, hay còn gọi là hạnh

41

phúc riêng tư.

Định lý 3:“Một hữu thể có lý tính, khi phải suy tưởng về những châm

ngôn của mình như là những quy luật thực hành phổ biến, chỉ có thể suy

tưởng chúng như là những nguyên tắc quy định ý chí không phải do chất liệu

mà chỉ do hình thức của chúng” [18, tr.50].

Ở đây Kant nói đến “chất liệu” của nguyên tắc thực hành là đối tượng

của ý chí, Kant hiểu khái niệm “một đối tượng” của lý tính thực hành là sự

hình dung về một đối tượng như là về một kết quả có thể tạo ra bởi sự tự do,

có nghĩa là mối quan hệ của ý chí với hành vi, nhờ có đối tượng được hiện

thực hóa. Nếu đối tượng được xem như là cơ sở quy định cho quan năng ham

muốn của bản thân mỗi người, thì việc nhận biết sự hiện hữu của vật chất để

thực hiện nó bởi sự tự do, năng lực của bản thân chủ thể phải đi trước xem xét

vật chất đó có phải là một đối tượng của lý tính thực hành không. Nếu đối

tượng đó nằm trong phạm vi quyền lực của bản thân chủ thể, thì chủ thể đó có

mong muốn tiến hành hành vi làm cho đối tượng trở thành hiện thực hay không,

vì vậy khả thể luân lý của hành vi phải đi trước, trong trường hợp này không

phải đối tượng mà chính là quy luật của ý chí là cơ sở quy định hành vi.

Định lý thứ 4:“Sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của mọi quy luật

luân lý và của mọi nghĩa vụ phù hợp với chúng; ngược lại, sự ngoại trị của sự tự

do lựa chọn không chỉ không thể làm cơ sở cho bất lỳ bổn phận nào mà còn đối

lập lại với nguyên tắc của bổn phận và với luân lý của ý chí” [18, tr.60].

Quy luật của ý chí thuần túy vốn tự do mang ý chí vào lĩnh vực khác

với lĩnh vực thường nghiệm, dựa trên những nguyên tắc chủ quan chúng đều

xoay quanh nguyên tắc của hạnh phúc tiêng tư. Mọi ý muốn đều có đối tượng,

vì thế một chất liệu không thể được thể hiện trong hình thức ban bố quy luật

một cách phổ quát.Qua định lý này Kant cho rằng nếu dựa trên nguyên tắc tự

trị của ý chí, trí tuệ bình thường nhất cũng thấy dễ dàng, nếu dựa theo nguyên

42

tắc giả định về tính ngoại trị của ý chí, đòi hỏi phải có sự thông hiểu về ý chí

bên ngoài mới biết phải làm gì. Con người muốn truy tìm hạnh phúc của cuộc

đời thì phải suy nghĩ tìm ra phương pháp hành động, không nên áp đặt một

hình thức hành động nào lên cá nhân khác dù với ý chí chủ quan của mình.

Kant lên án hành vi vị kỷ, lợi ích cá nhân, không phù hợp với đạo đức.

2.1.3. Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của Kant

Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với

học thức và pháp luật của Rousseau, Kant cho rằng, các nguyên lý đạo đức là

độc lập với mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người. Nguyên lý đạo đức

cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm theo yêu cầu của lý trí,

hay là “Mệnh lệnh tuyệt đối”. Tư tưởng của Kant về mệnh lệnh tuyệt đối phản

ánh nội dung cơ bản trong đạo đức học của ông, nó thể hiện trong các tác

phẩm như “Cơ sở siêu hình học của đạo đức” (1785); “Tôn giáo chỉ trong giới

hạn của lý tính” (1793) đặc biệt thể hiện tập trung trong tác phẩm “Phê phán

lý tính thực hành” (1797). “Mệnh lệnh tuyệt đối” là nguyên tắc cơ bản chi

phối mọi hành vi đạo đức.

Mệnh lệnh tuyệt đối gồm có ba định thức cơ bản:

Thứ nhất, đó chính là nguyên lý phổ quát quy định tất cả hoạt động của

con người. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào

đó để những hành vi của mình phù hợp với một pháp chế phổ biến. Mỗi người

hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó trở thành quy luật phổ quát,

nghĩa là điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến. Nhưng bên cạnh đó

mệnh lệnh tuyệt đối cần ngăn chặn những hành vi trái với đạo lý.

Thứ hai, mệnh lệnh tuyệt đối cho rằng luôn phải coi con người như là mục

đích chứ không phải phương tiện, mọi hành vi của mỗi cá nhân luôn phải

hướng tới giá trị tích cực nào đó để đạt được mục đích làm cho cuộc sống của

43

con người tốt đẹp hơn.

Thứ ba, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi ở mỗi người hãy hành động theo ý chí

tự do của chính mình nhưng ý chí tự do đó không được vượt ra khỏi pháp chế

phổ quát, vượt ra khỏi pháp luật, quyền tự chủ con người phải được đề cao,

bài trừ thói hư tật xấu còn tồn tại trong mỗi cá nhân.

“Mệnh lệnh tuyệt đối” có vị trí đặc biệt trong triết học đạo đức của

Kant bởi chức năng của nó là tiêu chuẩn cho sự đánh giá các quy tắc chủ

quan, dựa trên những nguyên tắc chủ quan tối cao, cơ sở cho sự định đoạt ý

chí, tạo nên giá trị hành vi. Mệnh lệnh tuyệt đối mang tính hình thức, là khuôn

mẫu phổ quát cho mọi hành vi đạo đức của con người. Tính hình thức quyết

định tính chất của ý chí, đòi hỏi tính tự quyết của ý chí, thể hiện ở sự độc lập

của ý chí và sự tự ban hành luật. Với Kant sự tự quyết của ý chí là nguyên tắc

cao nhất của tính chất đạo đức và chính là tự do. Mệnh lệnh tuyệt đối mang

tính phổ biến, phù hợp giữa nguyên tắc chủ quan của chủ thể hành động với

lý tính chung của mọi người trong cộng đồng xã hội.

Theo Kant, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh

tuyệt đối mới được coi là hành động có đạo đức. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi

hoạt động của con người phải tuân theo quy tắc sau:

Mỗi người đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý

muốn sao cho ai cũng làm được như thế.

Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được

quyền như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó.

Mỗi người đều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành

động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được.

Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant hướng mọi người tới hoạt động cộng

đồng, đòi hỏi con người sống phải phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và

44

người khác, bỏ thói hèn hạ và sự nhún nhường giả dối. Người sống theo lẽ

phải và tôn trọng sự thật là người có đạo đức. Mệnh lệnh tuyệt đối là nghĩa vụ

của công dân đối với xã hội. Mọi hành vi đạo đức đều phải được thực hiện vì

con người, bởi sự tồn tại của con người là cái cao quý nhất trên thế gian.

Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người

trong xã hội phải thực hiện. Kant cho rằng cần phân biệt “mệnh lệnh tuyệt

đối” với “mệnh lệnh giả thiết”, mệnh lệnh tuyệt đối có giá trị cho mọi thực thể

lý tính và nó diễn ra ở mọi thời đại còn mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh có

điều kiện, đặt điều kiện tồn tại một ý muốn ban đầu, đòi hỏi ý muốn tiếp theo

xảy ra và ý muốn tiếp theo rất cần thiết phải có để đáp ứng ý muốn ban đầu.

Trong mệnh lệnh giả thiết, Kant phân biệt mệnh lệnh giả thiết có vấn đề và

mệnh lệnh giả thiết khẳng định.

Mệnh lệnh giả thiết thể hiện cụ thể rõ ràng trong các quy tắc của sự

khôn ngoan, thông minh có giá trị đối với không chỉ một người mà còn đối

với nhiều người, nó có thể đem lại hạnh phúc cho người thực hiện nó. Còn

những lời khuyên khôn ngoan là những mệnh lệnh mang tính thực dụng, giúp

con người thỏa mãn mục đích. Thông qua mệnh lệnh giả thiết con người có

thể thực hiện những mục tiêu của mình một cách rõ ràng, cụ thể và trực tiếp,

nhưng mệnh lệnh giả thiết chỉ là mệnh lệnh tương đối, người nào đó muốn đạt

được một mục đích nào đó thì cần có những phương tiện để đạt được mục

đích ấy, nguyên tắc của nó luôn là “nếu ai muốn đạt được một mục đích nào

đó, thì cũng muốn có những phương tiện cần thiết để đặt được mục đích đó”

[18, tr.229-232].

Tuy nhiên, mệnh lệnh giả thiết dù chứa đựng những nguyên tắc của ý

chí nhưng nó không thể nào trở thành quy luật của thực tiễn được, nên nó

không có giá trị chung cho tất cả mọi người và mọi thực thể lý tính [18,

tr.229-232]. Trái với mệnh lệnh giả thiết mệnh lệnh tuyệt đối tự nó là một quy

45

luật thực tiễn “mệnh lệnh tuyệt đối là mệnh lệnh diễn tả một hành vi tự nó là

cần thiết mà không cần đến mối quan hệ với một mục đích khác, là một hành

vi tất yếu - khách quan” [18, tr.229].

Theo Kant mệnh lệnh tuyệt đối chính là mệnh lệnh vô điều kiện, nó

không chịu ảnh hưởng của sự tự ái, hay của những thiện cảm, hay mọi yếu tố

khác bên ngoài. Kant cho rằng, nếu nghĩ tới một mệnh lệnh giả thiết nói

chung, không biết trước rằng, nó sẽ hàm chứa điều gì cho tới khi những điều

kiện được đưa ra cho tôi. Nhưng khi con người nghĩ tới một mệnh lệnh tuyệt

đối, biết ngay rằng, nó hàm chứa điều gì.

Kant cho rằng mệnh lệnh tuyệt đối mang tính hình thức, nó là khuôn

mẫu cho mọi thước đo hành vi đạo đức của con người, con người dù làm gì đi

chăng nữa đều có một khuôn mẫu, một chuẩn mực nhất định. Kant muốn xây

dựng một học thuyết triết học đạo đức thuần túy. Trong triết học đạo đức, tính

hình thức của mệnh lệnh tuyệt đối quyết định tính chất của lý trí và ngược lại,

ý chí lại lấy hình thức của mệnh lệnh tuyệt đối làm tôn chỉ hành động. Một

nguyên tắc được cho là khách quan khi nó loại bỏ những quy định nội dung.

Gía trị đạo đức của một hành vi chỉ có trong nguyên tắc của cái phổ

quát, tức là trong nguyên tắc của ý chí. Mặc dù nguyên tắc của ý chí có trong

tất cả các mệnh lệnh, và chỉ có mệnh lệnh tuyệt đối mới có những tính chất để

có thể đồng thời có giá trị áp dụng cho mọi thực thể có lý tính. Không dừng

lại ở đó Kant cho rằng “chẳng hạn khi dự định bỏ qua một lời hứa, người ta

cần phải tự vấn chính mình rằng: Liệu tôi có thỏa mãn hay không khi hành vi

hứa hão với mục đích thoát ra khỏi tình thế bối rối trở thành quy luật ứng xử

chung của toàn bộ cộng đồng, áp dụng cho tất cả mọi người kể cả chính

mình? Ai cũng có thể dối trá khi gặp khó khăn không thể giải quyết được? Và

ngay lập tức tôi nhận ra rằng trong khi tôi muốn nói lời nói dối tôi hoàn toàn

không muốn rằng lời nói dối trở thành một quy luật ứng xử chung. Vì nếu như

46

vậy, sẽ không tồn tại lời hứa nữa, vì sẽ vô ích khi viện ý chí của tôi về các

hành động tương lai đối với những ai không tin vào viện cớ này, hay nếu họ

hấp tấp tin như thế, họ sẽ lại đối xử với tôi như kiểu trả lại những đồng xu

giống nhau. Và như vậy nguyên tắc của tôi, ngay khi tôi muốn nó trở thành

một quy luật chung, sẽ tự hủy diệt chính nó” [18, tr.215].

Từ những quan điểm nêu trên về hành vi đạo đức, quy tắc ứng xử của

con người trong xã hội, Kant cho rằng việc nói dối của một người nào đó

không thể được coi là một hành vi có đạo đức, cho dù nó chỉ là những lời hứa

suông không gây hại gì tới người khác. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính

thức hành” Kant trình bày luận điểm của mình về mệnh lệnh tuyệt đối như sau

“Hãy hành động như thể nguyên tắc tối cao của ý chí của anh mọi lúc đồng

thời có thể trở thành nguyên tắc của một quy luật chung” [18, tr.215].

Mệnh lệnh tuyệt đối mà Kant trình bày trước đó không chỉ rõ nội dung

của đạo đức mà chỉ đề ra nguyên tắc chung mang tính khuôn mẫu có thể áp

dụng vào những trường hợp cụ thể. Khi con người thực hiện một hành vi nào

đó thì cần phải suy nghĩ xem liệu ý muốn chủ quan tối cao của bản thân có thể

trở thành phổ quát hay không? Và nó có thể được áp dụng cho tất cả mọi

người trong những hoàn cảnh giống nhau không? Một hành vi được coi là

hành vi vô đạo đức hay đi ngược lại những điều phải, thì đó chính là những

điều mà không thể áp dụng cho tất cả mọi người, mọi trường hợp.

Nguyên tắc của mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện ở sự tôn trọng phẩm giá

của con người, coi mọi người là mục đích chứ không phải là phương tiện.

Mệnh lệnh tuyệt đối kêu gọi con người hãy đối xử bình đẳng và chân thành

với nhau, đối xử với người khác như đối xử với chính bản thân mình, con

người cần phải tôn trọng phẩm giá của mình và của những người xung quanh,

không bao giờ biến mình và người khác thành phương tiện phục vụ cho

những mục đích riêng. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan

47

trọng trong triết học đạo đức của Kant. Kant cho rằng khi con người lao động

tạo ra giá trị của cải vật chất thì những cái đó có thể trao đổi, làm vật ngang

giá. Nhưng phẩm chất của con người không thể đi trao đổi, mua bán trên thị

trường được đó là hành vi phi đạo đức và vô nhân tính, phẩm giá đó chỉ có ở

con người mà không thể có ở các loài động vật khác.

Mệnh lệnh tuyệt đối dựa trên sự tự trị của ý chí đó chính là sự độc lập

của ý chí, đó là nguyên tắc quyết định quy luật đạo đức. Kant viết “Sự tự trị

của ý chí là nguyên tắc duy nhất của tất cả các quy luật đạo đức và của những

bổn phận phù hợp với chúng” [18, tr.244-245]. Sự tự trị của ý chí chính là tự

do, phẩm giá của con người được đề cao trong đó. Con người chính là chủ thể

tự ban hành luật cho chính mình, đó chính là mệnh lệnh tuyệt đối là nguyên

tắc tối cao, tồn tại sâu trong tiềm thức của con người và được thể hiện ra khi

có điều kiện phù hợp. Nhân cách con người nằm ở tự do, giải đáp cho câu hỏi:

Con người là gì?.

Con người hành động vì bổn phận và dưới sự chi phối, chỉ đạo của

mệnh lệnh tuyệt đối, mệnh lệnh tuyệt đối bắt con người phải thực hành hành

vi đạo đức, tôn trọng quy luật đạo đức. Và nó có ở những con người có nhân

cách tốt đẹp, hướng thiện mà con vật không thể có. Kant đi đến khẳng định

con người hãy hành động vì bổn phận là hành vi đạo đức. Con người chỉ có

thể trở lên nhân cách hơn khi thông qua những hành vi có đạo đức. Bổn phận

là sự thể hiện nhân cách của con người đối với người xung quanh. Nhưng bên

cạnh đó, Kant cũng cho rằng cần phân biệt sự khác nhau giữa hành vi được

thực hiện vì bổn phận và hành vi thực hiện “phù hợp với bổn phận”. Hành vi

vì bổn phận diễn tả động cơ của người thực hiện hành vi đó và nó phải được

xuất phát từ một ý chí tốt còn ngược lại hành vi “phù hợp với bổn phận” diễn

tả hành vi khách quan mà không để ý đến động cơ của người thực hiện hành

48

vi đó.

Kant phân biệt hành vi vì bổn phận và hành vi phù hợp với bổn phận,

mọi hành vi được thực hiện phù hợp với trách nhiệm mà pháp luật quy định,

ban hành hoặc nó mang lại lợi ích cụ thể nhưng lại không xuất phát từ ý chí

tốt, đó được gọi là hành vi “phù hợp với bổn phận”. Kant lấy ví dụ minh họa

cho điều đó như sau: “Ví dụ như có một cửa tiệm nằm ở vị trí tốt, nơi đông

người qua lại và một chủ cửa tiệm khôn ngoan đã không nâng giá các mặt

hàng lên mà bán với một giá cố định cho tất cả mọi người, đối với một đứa trẻ

cũng như bất cứ mọi người nào khác. Như vậy ông ta đã kinh doanh một cách

ngay chính. Tuy nhiên, điều đó không thể đủ để khẳng định rằng, hành vi đó

thực hiện vì bổn phận bởi qua đó ông ta có được những lợi ích khác. Hành vi

đó không xuất phát vì bổn phận và cùng không phải từ sự thiện cảm, mà chỉ

vì mục đích lợi ích mà thôi” [18,tr.209].

Ngược lại với điều đó thì bảo toàn tính mạng là bổn phận mỗi người.

Nhưng hành vi này chỉ được xem là hành vi thực hiện vì bổn phận nếu như

thất bại mà mong tới cái chết, chỉ muốn kết liễu cuộc sống của mình trên trần

thế khi người ta mắc phải những đau khổ, những bế tắc không thể nào gỡ ra

được nhưng lại ý thức được rằng mình vẫn phải có bổn phận bảo toàn sự sống

của chính mình. Hành vi đó không xuất phát từ sự thiện cảm, từ sự yêu

thương, từ sự sợ hãi mà chính là từ bổn phận làm người, nên nó được coi là

hành vi có đạo đức.

Mọi mệnh lệnh đều dựa trên nền tảng của ý chí, nhưng trong đó thì

không phải mệnh lệnh nào cũng mang tính khách quan. Chỉ có mệnh lệnh tuyệt

đối là hình thức tối cao nhất, nó có thể cưỡng bức ý chí của con người hành

động và làm theo một quy luật đạo đức chung. Quan điểm này của Kant sau

này được Fichte đề cao và kế thừa, cho rằng con người sống trong một xã hội

với nhiều mối quan hệ song trùng cần phải hành động vì bổn phận đạo đức tồn

49

tại trong chính bản thân mỗi người. Fichte cho rằng lương tâm không bao giờ

nhầm lẫn, nó chính là tòa án tối cao soi sáng chỉ đường dẫn lối cho con người

thực hiện những hành vi có đạo đức. Hành động vì bổn phận là cơ sở cuối cùng

và duy nhất của nhận thức con người. Những hành vi xuất phát từ ham muốn

thấp hèn của bản năng đều không được thừa nhận là hành vi có đạo đức.

Quan niệm về mệnh lệnh tuyệt đối của Kant sau này Ăngghen nhận xét

rằng không thể có một quy luật đạo đức chung vượt lên trên tính lịch sử, tính

dân tộc, hay tính giai cấp, Ănghen viết: “Chúng ta gạt bỏ mọi mưu toan muốn

buộc chúng ta phải nhận bất cứ một giáo điều đạo đức nào, coi đó là quy luạt

đạo đức vĩnh viễn, cuối cùng, mãi mãi không thay đổi, với cái lý do rằng thế

giới đạo đức cũng có những nguyên lý vĩnh hằng của nó, những nguyên lý

đứng trên lịch sử và trên những sự khác biệt về dân tộc. Ngược lại, chúng ta

khẳng định rằng, xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước

đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế cuả xã hội lúc bấy giờ, và vì

cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo

đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp”

[32, tr.137].

Ăngghen cho rằng, quan hệ đạo đức của con người gắn liền với đời

sống hiện thực, với những quan hệ kinh tế cụ thể. Các quan niệm về đạo đức

thay đổi theo tiến trình phát triển của thực tiễn xã hội của từng dân tộc ở từng

thời đại. Mác cho rằng đạo đức luôn gắn liền với phương thức sản xuất, khi

phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức sớm muộn cũng thay

đổi theo. Thiện ý trong triết học đạo đức của Kant, cũng chính là sự phản ánh

tình trạng bất lực và nghèo nàn của những thị dân Đức thể kỷ XVII - XVIII.

2.1.4. Sự thiện tối cao trong đạo đức học của Kant

Một trong những nội dung cơ bản của đạo đức học Kant là quan niệm

về “cái thiện”, gắn với định đề “sự bất tử của linh hồn”. Theo Kant, sự bất tử

50

của linh hồn là “sự kéo dài đến vô tận của sự hiện hữu và nhân cách của cùng

một hữu thể có lý tính (điều này được người ta gọi là sự bất tử của linh

hồn)”[18,tr.220]. Con người muốn đạt được “sự thiện tối cao” cần phải đạt

đến sự tương ứng hoàn toàn giữa quy luật luân lý với tâm hồn. Trong cái thiện

tối thượng ấy vấn đề trung tâm mà cái thiện hướng tới chính là đức hạnh, nó

phụ thuộc vào ý chí hoạt động của con người, là sản phẩm của thời đại, hoạt

động sinh hoạt cộng đồng.

Theo Kant, tuy đức hạnh là “cái thiện” cao nhất là điều kiện tối thượng

nhất cho việc bản thân ta xứng đáng được hưởng hạnh phúc, nhưng chỉ có

mỗi đức hạnh không thôi thì chưa phải là “cái thiện hoàn hảo” vì con người

không chỉ muốn chứng minh mình xứng đáng có quyền được hưởng hạnh

phúc nhờ có đức hạnh mà còn muốn được hưởng hạnh phúc. Con người là

chủ thể của hoạt động có đạo đức, nghĩa là không bao giờ và không khi nào

chỉ như là phương tiện cho bất kỳ ai, dù đó có là thượng đế quyền năng đi

chăng nữa, nhân tính trong con người là thiêng liêng nhất, là lẽ sống là quy

luât luân lý. Đức hạnh hiện hữu có lý trí, chỉ hoàn toàn thỏa mãn khi có sự kết

hợp giữa đức hạnh với hạnh phúc, dù không phải lúc nào đức hạnh với hạnh

phúc đi liền với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đức hạnh là nguồn gốc tạo ra

hạnh phúc.

Kant khẳng định rằng luật đạo đức sai khiến chúng ta hành động không

phải để được hạnh phúc, mà để hành động cho đúng. Sự hiện diện của một

hiện hữu có lý tính đòi hỏi trong mỗi chúng ta phải suy nghĩ về cái thiện tối

thượng. Trong cái thiện tối thượng đó bao gồm cả đức hạnh và hạnh phúc.

Muốn đạt đến cái thiện tối thượng, con người không thể giới hạn kinh nghiệm

vào thế giới mối liên hệ giữa đức hạnh và hạnh phúc, vào quy luật đạo đức.

Kant phân biệt cái thiện với cái ác khi cho rằng “Cái ta gọi là thiện phải

là một đối tượng của quan năng ham muốn trong sự phán đoán của bất kỳ con

51

người có lý tính nào; và cái ác là đối tượng của sự xa lánh trong mắt mọi

người, vì thế, bên cạnh giác quan, phán đoán này đòi hỏi phải có lý tính. Do

đó mới có tính trung thực như là đối lập lại với dối trá; công lý đối lập với bạo

hành v.v..”[18,tr.111].

Trong việc đánh giá cái thiện so với cái ác tự thân, phân biệt cái thiện

với cái ác thì hành vi nào phù hợp với quy luật là cái thiện tự thân, một ý chí

mà“châm ngôn”của nó luôn phù hợp với quy luật là thiện một cách tuyệt đối

trong một phương diện và là điều kiện tối cao của mọi điều thiện. Lấy đối

tượng của sự vui sướng làm tiền đề. Khái niệm về sự thiện không thể là cơ sở

cho quy luật, mà nó phải dựa vào quy luật. Cái thiện không thể trực tiếp quy

định ý chí mà phải dựa vào ý chí. Dù đặt đối tượng của sự vui sướng với mục

đích mang lại cái thiện tối cao ở trong hạnh phúc. Cái thiện không thể quy

định trước quy luật luân lý, trái lại chỉ được quy định sau như là kẻ tiếp nhận

đòi hỏi luân lý rằng con người không được theo đuổi hạnh phúc một cách

thiếu suy nghĩ, phải kiểm tra“châm ngôn” dưới viễn tượng của cái thiện.

Cái thiện muốn có được giá trị quy phạm, đạo đức học phải dựa trên

nguyên tắc cái phải là, như là cái tiên nghiệm tối hậu, qua đó cái thiện được

phân chất luân lý với cái ác. Cái thiện có được là kết quả của sự tự do, thế

giới đạo đức buộc con người phải giả định sự hiện diện của “Thượng đế” như

là nền tảng của sự liên hệ tất yếu giữa đức hạnh và hạnh phúc. Khi hiểu hạnh

phúc là tình trạng một hiện hữu này có lý trí trong thế giới mà đối với hiện

hữu này trong toàn thể kinh nghiệm của nó, mọi sự diễn tiến theo ước mơ và

ý chí. Hạnh phúc đòi hỏi sự hòa hợp giữa ý chí của một người với thể xác của

người ấy, ý chí và thể xác có sự hòa hợp thống nhất với nhau.

Muốn có được cái thiện tối cao thì đức hạnh và hạnh phúc phải đi đôi

với nhau, cần phải giả định sự tồn tại của một nguyên nhân cho toàn thể thiên

nhiên, chứa đựng nền tảng mối quan hệ giữa hạnh phúc và đức hạnh, là sự

52

hòa hợp giữa đạo đức và hạnh phúc. Và về mặt đạo đức phải giả định sự hiện

diện của Thượng đế, như vậy không có nghĩa Kant cho rằng không có đạo

đức nếu không có tôn giáo. Kant chỉ ra rằng một người có thể nhận ra bổn

phận đạo đức của mình mà không cần đến ý niệm về “Thượng đế”, nhưng bên

cạnh đó ông lại cho rằng nhờ có ý niệm về cái thiện tối cao như là đối tượng

và cái đích của lý trí thuần túy thực hành, luật đạo đức dẫn đến tôn giáo. Nhờ

ý chí hoàn hảo mới hy vọng đạt được cái thiện tối thượng.

Khái niệm về cái tối cao có nghĩa là cao nhất, cũng có thể là cái hoàn

hảo, hoàn thiện. Đức hạnh như là sự xứng đáng để được hạnh phúc, là điều

kiện cao nhất của tất cả những gì tỏ ra là đáng mong ước của ta, mọi nỗ lực

theo đuổi hạnh phúc của ta, nên đó là cái thiện hay cái tối cao nhất. Nhưng

đức hạnh không phải vì điều đó là cái thiện toàn bộ, hoàn hảo như là đối

tượng của những ham muốn của hữu thể có lý tính hữu hạn, để có được như

vậy cần có cả hạnh phúc. Con người lấy chính mình làm mục đích của hạnh

phúc. Con người cần có hạnh phúc và xứng đáng được hạnh phúc. Đức hạnh

và hạnh phúc có thể cùng nhau tạo nên sự thiện tối cao trong mỗi con người,

và đồng thời sự phân phối hạnh phúc có tỷ lệ tương đương với luân lý giá trị

của con người.

Sự thiện tối cao là cái toàn bộ, cái thiện hoàn tất, nhưng trong đó đức

hạnh với tư cách là điều kiện, bao giờ cũng là cái thiện cao nhất, không có

điều kiện nào có thể đứng cao hơn đức hạnh, hạnh phúc tuy mang lại sự sung

sướng cho con người, dễ chịu cho những ai được hưởng nó, nhưng hạnh phúc

lại không phải là cái tốt tuyệt đối về mọi phương diện so với đức hạnh mà nó

phải lấy cách ứng xử đúng đắn về luân lý làm điều kiện tiên quyết.

Khi hạnh phúc và đức hạnh hợp nhất với nhau trong khái niệm về sự

thiện tối cao thì chúng phải có sự liên kết với nhau một cách chặt chẽ, theo

quy luật nhân quả. Sự kết nối giữa hạnh phúc và đức hạnh có thể được hiểu

53

theo hai cách. Thứ nhất, hoặc nỗ lực trở thành có đức hạnh và theo đuổi hợp

lý về hạnh phúc không phải là hai việc khác nhau mà chúng hoàn toàn đồng

nhất làm một việc. Nguyên tắc của đức hạnh phục vụ cho mưu cầu hạnh phúc,

đức hạnh tạo nên hạnh phúc, con người phải ý thức được đức hạnh như là

nguyên nhân tạo nên kết quả. Khác với quan niệm của Kant các nhà tư tưởng

Hy Lạp cổ đại không xem đức hạnh và hạnh phúc là hai yếu tố khác nhau của

sự thiện tối cao, nhưng họ lại cho rằng trong hai yếu tố đó thì sẽ có một cái

làm khái niệm cơ bản.

Những người theo Phái Epiqya thì bảo rằng “có ý thức về châm ngôn

dẫn tới hạnh phúc, chính là đức hạnh; còn những người theo Phái Khắc kỷ lại

bảo rằng “có ý thức về đức hạnh của mình, chính là hạnh phúc”. Phái Epiqya

cho rằng sự khôn ngoan tương ứng với luân lý, Phái Khắc kỷ lại cho rằng chỉ

có luân lý mới là sự hiền minh thực sự. Do hạn chế lịch sử mà các nhà triết

học trước Kant không thấy được sự khác biệt giữa hai khái niệm “hạnh phúc”

và “đức hạnh”. Họ thủ tiêu sự khác biệt cơ bản, không hợp nhất hai khái niệm

ấy trong nguyên tắc. Những người theo phái Epiqya cho rằng khái niệm đức

hạnh vốn đã được bao hàm trong châm ngôn tăng tiến hạnh phúc riêng của

mỗi người, còn theo các nhà Khắc kỷ thì ngược lại, cho rằng cảm giác về

hạnh phúc vốn đã được chứa đựng trong ý thức về đức hạnh.

Nhà Khắc kỷ khẳng định rằng đức hạnh là sự Thiện - tối cao, còn hạnh

phúc chỉ là ý thức về việc sở hữu nó như là thuộc về trạng thái của chủ thể.

Các nhà triết học theo phái Epiqya thì lại khẳng định hạnh phúc là sự thiện tối

cao toàn bộ, còn đức hạnh chỉ là hình thức của châm ngôn cho việc theo đuổi

hạnh phúc, sử dụng phương tiện để đạt hạnh phúc.

Qua việc phân tích trên, ta nhận ra rằng những châm ngôn của đức

hạnh và những châm ngôn của hạnh phúc riêng tư là khác nhau xét về mặt

thực hành tối cao, mặc dù chúng đều thuộc về sự thiện tối cao, nhưng trong

54

cùng một chủ thể chúng lại ngăn cản lẫn nhau, vì thế câu hỏi: “Làm thế nào

sự thiện tối cao đó có thể có được một cách thực hành?” vẫn mãi là câu hỏi

không được giải quyết. Và trong triết học thực hành của Kant cho thấy điều gì

đã làm cho vấn đề khó giải quyết đến thế đó là hạnh phúc và luân lý là hai yếu

tố hoàn toàn khác nhau về loại của sự thiện tối cao. Vì thế sự hợp nhất của

chúng không được nhận thức mà sự hợp nhất của chúng được nhận thức bằng

cách tổng hợp tức là đức hạnh và hạnh phúc chứ không phải đức hạnh là hạnh

phúc, sự hợp nhất này được nhận thức như là sự hợp nhất tiên nghiệm, tất yếu

một cách thực hành, không phải rút ra từ kinh nghiệm, sự diễn dịch về khái

niệm này phải là có tính siêu nghiệm. Sự thiện tối cao được tạo ra phải bằng

sự tự do của ý chí một cách tất yếu tiên nghiệm vì thế tính siêu việt chỉ được

phép dựa duy nhất trên những nguyên tắc tiên nghiệm của nhận thức mà thôi.

Theo Kant, tuy đức hạnh là cái cao nhất và là điều kiện cao nhất cho

việc mỗi chúng ta sống trong xã hội này xứng đáng được hưởng hạnh phúc,

nhưng chỉ riêng đức hạnh không thì chưa đủ, chưa phải là sự thiện hoàn hảo

như là đối tượng của những ham muốn của hữu thể có lý tính, bởi chúng ta

không chỉ muốn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng mình xứng đáng được

hưởng hạnh phúc nhờ đức hạnh mà còn muốn thực sự hưởng hạnh phúc đó.

Và vì vậy quan niệm về sự thiện - tối cao trong đạo đức học phải có nhiệm vụ

giải thích: Tại sao ta vẫn có thể hy vọng rằng mình được thực sự dự phần vào

hạnh phúc một khi ta nhân danh đức hạnh để từ chối việc theo đuổi và thực

hiện các mục đích chất liệu cảm tính? Làm thế nào để có thể có được một sự

hòa giải giữa tự nhiên và luân lý. Kant bác bỏ quan niệm xa xưa của Socrates

cho rằng kẻ công chính sẽ sống hạnh phúc, còn kẻ đồi bại sẽ sống bất hạnh.

Cuộc đời trần tục cho thấy kinh nghiệm của người có đức hạnh khi so sánh sự

bất hạnh của mình với hạnh phúc của người có tội. Kant không khẳng định

rằng con người xấu là kẻ phi luân, không biết sự ràng buộc của lý tính thuần

55

túy thực hành. Mà ông cho rằng, kẻ xấu là người tuy biết đến giá trị luân lý

nhưng quá ít cắn rứt lương tâm nên vẫn có thể hưởng thụ cuộc sống sung

sướng khi đặt hạnh phúc riêng của mình lên trên luân lý.

Sự ham muốn hạnh phúc là động cơ cho những châm ngôn đức hạnh,

hoặc châm ngôn đức hạnh phải là nguyên nhân tác động của hạnh phúc. Sự

ham muốn hạnh phúc cá nhân không có tính luân lý. Sự thiện tối cao là mục

đích tối cao tất yếu của ý chí có thể được quy luật luân lý quy định. Sự tương

ứng giữa tâm hồn con người và quy luật luân lý là điều kiện cao nhất của sự

thiện tối cao. Sự thiện tối cao chỉ có thể có được với giả định tiên quyết về sự

bất tử của linh hồn, nó gắn liền với quy luật luân lý, trong sự thiện tối cao ấy,

hạnh phúc được hiểu là một hữu thể có lý tính, mọi sự đều diễn ra đúng theo

nguyện vọng và ý chí trong toàn bộ sự hiện hữu của mình.

Theo đuổi sự thiện tối cao như là nghĩa vụ được thêm vào cho quy luật

cơ bản của lý tính thuần túy thực hành, muốn theo đuổi sự thiện tối cao, con

người phải hành động hướng đến sự thiện tối cao, nhờ có sự thiện tối cao mà

con người hiểu rõ hơn về mục tiêu của hành động luân lý, hướng đến sự hoàn

thiện về luân lý. Khác với khái niệm về đời sống của con người có tính chất

sinh vật và chính trị trong triết học - Aristotle, Kant còn đặt vấn đề sự thiện

tối cao trong viễn tượng một cuộc đời theo nghĩa khả niệm - siêu cảm tính.

2.2. Quan niệm của Kant về pháp quyền

Các nhà nghiên cứu triết học phương Tây cho rằng, triết học pháp

quyền là một ngành chuyên sâu của khoa triết học. Đối tượng nghiên cứu của

nó vẫn là con người và xã hội loài người được cụ thể hóa trong lĩnh vực pháp

quyền. Vấn đề cơ bản của triết học pháp quyền là pháp luật và quyền con

người trong việc ban hành pháp luật.

Một tư tưởng lý luận nào đó đều không ra đời trên những mảnh đất

trống rỗng mà dựa trên sự khái quát thực tiễn thời đại và sự tiếp thu những tư

56

tưởng tiến bộ trước đó. Kế thừa tư tưởng khai sáng của các bậc tiền bối là đề

cao vai trò lý tính và sự tiến bộ của con người, Kant đã nghiên cứu con người

như một chủ thể hoạt động tích cực trong mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền,

tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây.Tiếp

tục triển khai những nguyên tắc cơ bản của triết học đạo đức đó là không bao

giờ được đối xử với con người như là phương tiện mà là mục đích. Bên cạnh

đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực triết học lịch sử, triết học tôn giáo, thì triết học

pháp quyền cũng là một lĩnh vực được Kant quan tâm nghiên cứu và có nhiều

nội dung sâu sắc trong đó vấn đề con người đặc biệt là tự do, quyền, và phẩm

giá con người là vấn đề cơ bản nhất. Tuy vấn đề này đã được bàn đến từ thời

kỳ cổ đại, nhưng đến thời kỳ Kant với sự phát triển của khoa học, kinh tế,

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi sự cần thiết phải giải phóng

con người khỏi những trói buộc của thời đại thì vấn đề về triết học pháp

quyền được chú ý bàn luận và đưa ra những quan điểm tư tưởng có tính chất

tiến bộ, cách mạng.

Thuật ngữ pháp quyền bao gồm hai yếu tố sự tối thượng của pháp luật

và yêu cầu phân chia quyền lực. Xung quanh thuật ngữ này vẫn còn nhiều

tranh cãi. Pháp quyền cũng có thể được hiểu là những gì có trước và đứng lên

trên việc ban bố luật lệ của nhà nước và làm chức năng định hướng cho nó, nếu

người ta muốn có một pháp quyền công chính. Với Kant, nguyên tắc pháp quyền

phải dựa trên lý tính thuần túy, phải đảm bảo giá trị hiệu lực phổ biến và tất yếu.

Kant phát triển nguyên tắc pháp quyền của mình từ mệnh lệnh nhất quyết.

2.2.1. Mục đích của triết học pháp quyền

Vấn đề về pháp quyền và tự do được Kant giải quyết và bàn đến trong

các tác phẩm: “Đặt nền móng cho siêu hình học của đạo đức học” xuất bản

năm 1785 “Tiến tới hòa bình vĩnh cửu - một phác thảo triết học” (1795) và

57

“Siêu hình học của đạo đức” (1797).

Trong tác phẩm “Siêu hình học của đạo đức”, ông định nghĩa pháp luật

như sau:“Pháp luật là một khái niệm ám chỉ những điều kiện theo đó ý chí

của người này có thể dung hợp được với ý chí của người kia theo một luật

định tự do chung”.[Dẫn theo 48, tr.61].

Từ đây, Kant đi tới nguyên tắc chung của pháp quyền đó là “Một khi

cách hành xử, và nói chung, hoàn cảnh của tôi chấp nhận hay không xâm hại

tới tự do của bất kỳ người nào khác theo luật định chung, thì việc ngăn trở tôi

sẽ bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, cái luật định chung đó là: hãy đối xử

với người khác sao cho việc sử dụng ý chí của bạn có thể chấp nhận hay

không xâm hại tự do của người khác theo luật định chung. Đó chính là luật

định đặt lên đôi vai mà tôi phải tuân thủ” [Dẫn theo 48, tr.62].

Mục đích triết học pháp quyền của Kant là tìm lời giải đáp cho vấn đề: thế

nào là tự do và làm thế nào để đảm bảo được quyền tự do đó, tiến tới xây dựng một

“vương quốc của tự do” và một nền hòa bình vĩnh cửu trên toàn thế giới.

Kant cho rằng, mục đích của triết học pháp quyền là xây dựng nhà

nước pháp quyền tốt nhất trên toàn thế giới. Là sự liên minh tự do của những

quốc gia trong đó các dân tộc cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở độc lập chủ

quyền về lãnh thổ và một nền hòa bình vĩnh cửu trong tương lai. Điều tốt nhất

cho mọi người và đỉnh cao của hệ thống lập pháp chính là hai mục tiêu cơ bản

đó là tự do và bình đẳng. Cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì quốc gia đó bị

giảm sút sức lực bấy nhiêu và muốn có tự do phải có sự bình đẳng. Mục tiêu

của một thể chế nhà nước chính là tự do và bình đẳng và nó cũng tùy thuộc

vào từng hoàn cảnh mỗi quốc gia dân tộc, nên không giống nhau. Mỗi dân tộc

sẽ lựa chọn cho mình một thể chế phù hợp.

Theo Kant, quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao từ

cổ đại đến hiện đại thực chất đều là quá trình phát triển tự do. Tự do chính là

58

cái đích mà pháp quyền hướng tới. Qúa trình đó diễn ra thông qua những

bước chuyển hóa dần từ trạng thái tồn tại đơn thuần động vật sang trạng thái

có tính người, từ sự lệ thuộc vào bản năng có sẵn, ràng buộc gắn bó mật thiết

tới thiên nhiên, sang chỉ đạo của lý tính, và sau cùng là bắt tự nhiên phải phục

vụ cho mục đích của con người.

Kant cũng cho rằng, động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội,

hay sự phát triển của nhà nước đối với việc hình thành triết học pháp quyền là

chiến tranh. Kant thừa nhận có trạng thái chiến tranh xảy ra, nó tồn tại trong

mỗi một con người hay xã hội khi có điều kiện thích hợp. Chiến tranh được

Kant xem như là một hiện tượng tự nhiên có lợi ích, kích thích sự phát triển

toàn diện các mặt của đời sống và qua đó năng lực bản chất con người được

bộc lộ rõ hơn.

Nhưng mặt khác Kant lại kịch liệt phê phán lên án những cuộc chiến

tranh phi nghĩa, những cuộc chiến tranh trừng phạt theo kiểu cá lớn nuốt cá

bé, sự áp bức, xâm chiếm thuộc địa dành thị phần, vơ vét của cải về chính

quốc. Chiến tranh phi nghĩa đó sẽ không đem lại sự tiến bộ gì cho xã hội,

thậm chí làm thụt lùi sự phát triển mọi mặt, sự đồi bại của văn hóa, làm cho

nhà nước, pháp quyền trong nhà nước không còn công bằng, liêm chính.

Khác với Hobbes, nếu Hobbes coi chiến tranh là phương thức hành

động, chiến tranh là tình trạng của tất cả chống lại tất cả, thì ở Kant không coi

chiến tranh là phương thức hành động mà chỉ là một phương tiện cần thiết để

khẳng định quyền của một dân tộc bằng sức mạnh quân sự mà thôi.

Như trên đã nói mục đích của triết học pháp quyền là nhằm tiến tới

“vương quốc tự do” và một nền hòa bình vĩnh cửu trên toàn thế giới không

riêng gì một quốc gia nào. Muốn làm được điều đó mỗi quốc gia phải hoàn

thiện luật pháp nhằm đảm bảo sự tự do và phẩm giá của con người. Điều cần

59

thiết nhất là xây dựng một hiến pháp nhà nước ở mọi quốc gia.

Trong tác phẩm “Hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu”, một “phác

thảo triết học” viết năm (1795), Kant đã nêu ra những ý tưởng táo bạo của

mình để có thể bảo đảm nền hòa bình lâu dài trên khắp các châu lục. Kant suy

ngẫm về một dân tộc hùng cường, có thể thành lập liên minh hòa bình giữa

các dân tộc là điều trong tầm với. Như vậy thì chiến tranh có thể chấm dứt

vĩnh viễn, theo Kant tình trạng hòa bình trong xã hội không phải tình trạng tự

nhiên. Muốn đạt được hòa bình phải có sự ký kết giữa các quốc gia dân tộc

dựa trên quan điểm đạo đức.

Nền hòa bình vĩnh cửu đó không thuần túy chỉ là ý chí của một cá nhân

về tình trạng yên ổn tạm thời. Đó cũng không phải là việc theo đuổi hạnh

phúc hay muốn thoát khỏi sự sợ hãi của chiến tranh. Mà con người cần tìm

kiếm hòa bình là một điều tốt đẹp nhất cho cuộc sống của con người. Hòa

bình không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, mà đó là sự nỗ lực tự thực

hiện, phải là sự gắn kết giữa cá nhân với tập thể, phải tạo điều kiện hành động

để chuẩn bị cho hòa bình. Và điều kiện đó là gì? Kant khẳng định điều kiện

đó là khi hòa bình được thiết lập thì đó không phải là trạng thái tự nhiên, vì

nếu là trạng thái tự nhiên thì nó còn bị đe dọa bởi chiến tranh. Trong tác phẩm

“Hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu”, Kant còn đưa ra sáu điều khoản sơ

bộ và ba điều khoản chung cần thiết cho một nền hòa bình vĩnh cửu trong

tương lai. Kant mổ xẻ nhiều vấn đề trong những điều khoản sơ bộ đó, từ

những nguy cơ mầm mống tiềm ẩn chiến tranh dù hiệp ước hòa bình có được

ký kết giữa các dân tộc với nhau, cho đến vấn đề cần phải loại bỏ đội quân

thường trực, phê phán gay gắt việc lạm dụng quyền lực kinh tế của các cường

quốc mạnh làm phương tiện cho sự cạnh tranh không tốt đẹp.

Trong những điều khoản sơ bộ, Kant đề cập đến những nội dung chủ

yếu sau: Thứ nhất, hòa ước không có hiệu lực khi có những điều khoản bảo

60

lưu để chuẩn bị điều kiện cho chiến tranh sẽ diễn ra trong tương lai. Thứ hai,

không một quốc gia độc lập nào, dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ có thể cấm

đoán quốc gia khác mua bán, trao đổi. Chính quyền không thể coi lãnh thổ

như một loại tài sản riêng được, điều này áp dụng trong quá khứ và hiện tại.

Thứ ba, mỗi quốc gia cần có quân đội riêng nhằm sử dụng vào nhu cầu phòng

vệ không được gây hủy diệt đối phương bằng quân đội. Chạy đua vũ trang sẽ

gây ra chiến tranh, có ba loại quyền lực chủ yếu cho quốc gia đó là sự liên

minh chính trị, tài chính và quân đội, nhưng quân đội tác hại nhất vì kích

động bất ổn ở ngoài nước và thúc đẩy gây hấn trong nước.Thứ tư, vấn đề nợ

công là vấn đề chính quyền cần quan tâm, muốn phát triển cơ sở hạ tầng và

đầu tư cho sản xuất vay nợ là điều cần thiết. Thứ năm, không quốc gia nào có

quyền can thiệp bằng vũ lực vào hiến pháp, và chính quyền nước khác. Thứ

sáu, không quốc gia nào được phép gây ra nhũng biện pháp thù nghịch, khiêu

khích tạo ra tình trạng lừa đảo, mâu thuẫn.

Tiếp theo, Kant đề cập đến ba điều khoản chung: Thứ nhất, là hiến

pháp dân sự của từng quốc gia phải theo thể chế cộng hòa. Trong thể chế cộng

hòa này gồm có ba đặc điểm cơ bản đó là người dân được hưởng tự do, bình

đẳng và phải thượng tôn luật pháp. Mọi việc làm của nhà nước người dân phải

có quyền quản lý, rà soát. Có hai loại hiến pháp cộng hòa và dân chủ, hiến

pháp cộng hòa đề cập đến hình thức của chính quyền còn hiến pháp dân chủ

quan tâm đến quyền tối thượng. Vấn đề mà hiến pháp quan tâm là: Ai cai trị

và cai trị như thế nào? Một nhà nước phải có sự đảm bảo dân chủ, chính

quyền thuộc đa số nhân dân, ý muốn của nhân dân là chuyên chính và tất yếu.

Trong thể chế cộng hòa quyền hành pháp bị tách khỏi quyền lập pháp. Phân

quyền là cần thiết, giới hành pháp ít thì tinh thần của chế độ đại nghị càng thể

hiện rõ. Chính quyền theo thể chế cộng hòa sẽ cai trị tốt hơn chính quyền theo

61

thể chế khác.

Thứ hai, luật quốc tế phải dựa trên nền tảng của liên bang các quốc gia

tự do. Nếu tình trạng chiến tranh diễn ra đó là tình trạng vô luật, kìm hãm và

phá hủy sự phát triển của nhân loại. Quốc gia cần phải phát triển an ninh, mục

đích của việc thiết lập liên bang hòa bình là ngăn ngừa chiến tranh. Luật pháp

phải cấm đoán chiến tranh, tạo điều kiện để kiến tạo hòa bình, cần phải liên

minh quốc tế, được sự ủng hộ của các quốc gia.

Thứ ba, quyền công dân trong thế giới đại đồng phải bị hạn chế, khi

điều kiện hiếu khách không cho phép. Bảo vệ ngoại kiều không nhằm mục

tiêu nhân đạo thực chất là nhân quyền. Trên thế giới cần có một ngôn ngữ

chung để con người có thể trao đổi, gần nhau qua công việc, chia sẻ thông

cảm cho nhau qua trách nhiệm chung. Nhân quyền là bình đẳng không ai trên

thế giới có nhiều hơn người khác cả. Kant đưa ra thí dụ như vấn đề vi phạm

nhân quyền ở một nơi xa sẽ được cộng đồng nhân loại cùng quan tâm, lý

tưởng và chuẩn mực chung đưa tới du nhập về quyền công dân đại đồng hay

gọi là nhân quyền được Kant nêu ra một cách rõ ràng, cần đối xử với người

ngoại quốc như những người bình thường khác. Luật pháp tạo ra là phải cấm

đoán các hành vi phân biệt đối xử. Khi người ngoại quốc đến nước khác sinh

sống phải tuân theo luật lệ địa phương, có quyền lưu trú trong thời gian dài.

Chiến tranh là một tình trạng tự nhiên còn hòa bình là một trạng thái do

pháp luật tạo dựng, mục đích của luật pháp chính là hướng đến một nền hòa

bình vĩnh cửu. Chúng ta cần hiến pháp cộng hòa để kiến tạo nên hòa bình, và

để đạt được điều đó cần có các nguyên tắc như tụ do, bình đẳng giữa các

quốc gia, dân tộc.

Kant cho rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể bị cuốn hút và rơi vào

vòng xoáy của chiến tranh, điều cần làm là tạo dựng nền hòa bình lâu dài

thông qua hành động có chủ định của con người. Con người không chỉ là

62

công dân quốc gia, mà còn là công dân thế giới. Quyền công dân thế giới

không được để bản thân trở thành công cụ phương tiện cho người khác và

cũng không lợi dụng người khác vào mục đích của mình.

Trong tư luật phải phủ hợp với nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con

người, không bao giờ được đối xử với người khác như là một vật nào đó. Để

bảo vệ quyền làm người luật pháp phải thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó Kant

đề ra những điều kiện nhằm đảm bảo cho hòa bình, đó chính là vai trò của

thiên nhiên, mật ước, sự đóng góp tri thức. Thiên nhiên có vai trò vô cùng

quan trọng trong việc đem lại sự hòa hợp cho con người. Thiên nhiên tạo điều

kiện để con người có thể chung sống với nhau dù ở nơi nào, thiên nhiên cung

ứng phương tiện cho việc sinh tồn của con người. Có ba lĩnh vực con người

cần tham gia để thỏa mãn sự đòi hỏi của thiên nhiên đó là luật công, quyền

đại đồng và luật quốc tế.

Dân chúng cần đoàn kết lại tự vệ chống chiến tranh, chống hành động

xâm lược. Tuân thủ đúng luật công, hiến pháp cộng hòa là một công cụ để

bảo vệ luật công. Lý do để dân chúng sống tách biệt nhau vì có dị biệt hay

khác biệt về ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán, tôn giáo. Đó chính là

nguồn gốc tạo ra sự phân hóa xã hội, luật quốc tế là một phương tiện gắn kết

hữu hiệu. Cần tạo ra liên minh giữa các nước, để ngừa những vụ xung đột hay

chiến tranh xảy ra. Hòa bình không thể do một cường quốc nào áp đặt lên

nước khác, mà đó là sự liên mình, hài hòa cùng chung sống. Luật quốc tế và

quyền công dân là sợi dây kết nối cộng đồng quốc tế. Muốn duy trì hòa bình

quốc tế, phải có trao đổi thương mại, kinh tế văn hóa giữa các quốc gia.

Trong trạng thái hòa bình thế giới ngoài những luật được ban bố công

khai, còn tiềm ẩn, tồn tại những mật ước không chính thức được đàm phán và

ngầm hiểu giữa các quốc gia trong việc ngoại giao, chính sách đối ngoại là mối

63

quan tâm chung của giới hiểu biết, có kiến thức.Chính quyền nên tham khảo ý

kiến của những người tri thức. Tôn trọng ý kiến của họ, cần tạo điều kiện cho họ

được tham gia đóng góp vào những công việc chung của nhà nước.

Mục đích của triết học pháp quyền không nằm đâu xa là hướng tới một

nền hòa bình vĩnh cửu, mục đích cao cả của nó là bảo vệ quyền con người. Tư

tưởng đó không bó hẹp trong một quốc gia, hay một dân tộc nào, mà mở rộng

trên phạm vi toàn nhân loại. Thể hiện khát vọng hòa bình, không có chiến

tranh, trên thực tế, thế giới chưa khi nào đạt đến một nền hòa bình hoàn toàn,

lịch sử từ xưa tới nay cho thấy một thực trạng diễn ra, xung đột lợi ích, kinh

tế, chính trị, những bất ổn vẫn luôn diễn ra ở nhiều quốc gia, nội chiến, ngoại

chiến vẫn tiếp diễn ở một vài khu vực trên thế giới. Tư tưởng mong ước của

Kant phải chăng còn xa rời hiện thực, ý tưởng mà Kant đưa ra nằm trong sự

tiến triển vô cùng tận mà con người chỉ có thể tiến gần đến sự hoàn thiện đó.

Kant cho rằng, con người cần phải hướng hành động của mình tới mục

đích cao cả đó, vì nó đòi hỏi lý tính thực tiễn và bởi con người là một “thực

thể tư duy”. Liên minh thế giới cho bình hòa, hiến pháp theo thể chế cộng

hòa, là phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu. Nguyên tắc bình đẳng

giữa các dân tộc, và không được can thiệp vào hoạt động nội bộ của dân tộc

khác của Kant đề ra sau này được ghi vào “Hiến Chương của Liên Hợp

Quốc”, thể hiện tư tưởng tiến bộ, tinh thần văn cao đẹp, mục đích mà pháp

quyền hướng tới không đâu xa là sự liên minh bình đẳng, tôn trọng chủ quyền

lãnh thổ giữa các quốc gia. Thể hiện khát vọng nhằm giải phóng con người

khỏi gông cùm của chế độ phong kiến hà khắc, xây dựng một thế giới hòa

bình của tất cả các dân tộc và vì sự tự do, phồn vinh của nhân loại. Trên tất cả

trong tư tưởng pháp quyền của Kant, mục đích con người hướng đến là sự tự

do. Khái niệm tự do ở Kant không chỉ giới hạn trong quyền tự nhiên của con

người, mà còn là quyền làm người. Đây thực sự là tư tưởng tiến bộ, mang

64

đậm tinh thần nhân đạo nói lên mối quan hệ giữa quyền tự nhiên và quyền

con người thông qua sự thừa nhận của pháp luật. Kant đã chi tiết hóa vấn đề

trong hình thức một hiệp ước hòa bình toàn cầu. giống như việc giải thích tình

trạng công dân trong khuôn khổ một nhà nước như là tập hợp một số đông

người dưới những quy định của pháp luật.

Kant xác định mục tiêu của triết học pháp quyền như là chuẩn mực tối

cao của mọi chính sách, Kant gọi là “học thuyết pháp quyền được thực thi”.

Điều này không được hiểu rằng nhà làm luật sẽ làm chủ thế giới, làm chủ đất

nước. Kant chỉ muốn nhấn mạnh đến sự hài hòa, tương hợp giữa nguyên tắc

của pháp quyền với luân lý, hướng theo nghĩa vụ phải bảo vệ hòa bình trong

tinh thần “công dân thế giới”. Tư tưởng pháp quyền được Kant đề cập một

cách có hệ thống. Triết học pháp quyền của Kant kêu gọi con người phải

hướng đến các quyền tự do đó chính là mục đích tối cao và tốt đẹp nhất.

Không bao giờ được để mình trở thành phương tiện mà luôn là mục đích và

cũng không bao giờ được sử dụng người khác chỉ như là phương tiện để đạt

mục đích của chính mình.

2.2.2. Trách nhiệm pháp lý

Một vấn đề quan trọng khác mà Kant đề cập trong triết học pháp quyền

của ông chính là trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý không đơn thuần

theo cách hiểu thông thường mà người ta gán cho nó theo nghĩa tiêu cực là

chịu sự trừng phạt hay gây ra những hậu quả xấu làm ảnh hưởng đến cộng

đồng và xã hội, là hành vi cần được lên án, phê phán, hay vi phạm pháp luật.

Trách nhiệm pháp lý mà Kant đề xuất ở đây được hiểu và phân tích theo ý

nghĩa tích cực là nghĩa vụ của mỗi người, mỗi chủ thể đối với chính bản thân

mình, và đối với người khác. Đối với bản thân mình, con người hãy là người

biết nhận thức về quyền lợi trong sinh hoạt xã hội, trong các mối quan hệ với

65

người thân, bạn bè, cộng đồng.

Phải biết khẳng định giá trị của bản thân mình, giá trị của một người,

không bao giờ, và không được để mình chỉ là phương tiện cho mục đích của

người khác, mà đối với người khác hãy đồng thời là mục đích. Trách nhiệm

pháp lý là trách nhiệm tồn tại bên trong, không phải là cái chung chung trừu

tượng bên ngoài con người, nó xuất phát từ quyền làm người của mỗi cá

nhân. Với mọi người hay đối xử đúng luật, tuân thủ pháp luật, không được và

không cho phép mình làm bất cứ điều gì bất công như trộm cướp, chiếm

đoạt.. Con người cần tránh xa những mối liên hệ, những tổ chức, những tập

thể mà có thể gây bất công, mang đến sự bất hạnh cho người khác. Quan điểm

này của Kant thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tình thương và sự quý trọng mỗi

con người, sống và tồn tại trong xã hội, con người nên chỉ nhận những cái gì

thuộc về mình, là của mình. Cần đấu tranh cho những điều phi nghĩa, những

điều không đúng sự thật làm tổn hại tới chính mình và tới mọi người.

Khẳng định giá trị người nơi Kant xuất phát từ quyền làm người, con

người không được để mình chỉ là phương tiện công cụ mà đối với người khác

đồng thời là mục đích. Nó giống như việc nhận thức được nghĩa vụ của mình

phải làm đối với mọi người, hãy đối xử đúng luật và chỉ nhận cái thuộc về

mình, bản chất vấn đề đó là sự chuyển hóa nguyên tắc tôn trọng phẩm giá của

con người trong tư tưởng đạo đức của Kant. Mỗi chủ thể cần phải nhận thức

về quyền làm người của mình cũng như quyền tự do của mình để có thể hành

động đúng theo nguyên tắc. Nhưng để những quyền trên được đảm bảo thì

cần phải có một nhà nước hợp lý tính, tồn tại dựa trên những nguyên tắc pháp

quyền thuần túy.

Kế thừa tư tưởng Montesquieu về nguyên tắc phân quyền, khi cho rằng

cần phải sử dụng luật pháp trong nhà nước pháp quyền, nhà nước trước hết

phải là một cộng đồng người ở đó quan hệ giữa người và người đều bị quy

66

định bởi pháp luật, giải thích nguyên nhân của sự xung đột giữa con người với

con người từ chính những lợi ích, đòi hỏi cần phải thiết lập luật pháp giữa con

người với nhau. Kế thừa sự phân chia luật của Montesquieu và Rousseau về

phân chia quyền lực trong cơ cấu bộ máy nhà nước, Kant cho rằng một nhà

nước muốn tồn tại được cần tối thiểu phải có ba hình thức quyền lực, tức “tam

quyền phân lập”.

Để ba quyển lực này có thể hạn chế sự chuyên quyền, độc đoán, ba

quyền lực này cần phải độc lập với nhau. Vì chính phủ cộng hòa tồn tại dựa

trên nguyên tắc phân chia quyền lực và chỉ có hình thức nhà nước này mới có

thể đảm bảo được tự do cá nhân mà không bị cản trở quyền tự do của những

người còn lại. Và ba quyền mà Kant đề cập đến là quyền hành pháp, lập pháp,

và tư pháp đó là chủ trương tam quyền phân lập. Mỗi một nhà nước cần có ba

hình thức quyền lực này, chúng đối trọng nhau.So với các nhà triết học tiền

bối khai sáng Pháp như Montesquieu và Rousseau về quan niệm triết học

pháp quyền của Kant còn nhiều hạn chế, nhưng ông cũng đã tiếp thu những tư

tưởng mang tính cách mạng của Rousseau khi cho rằng “lập pháp là đỉnh cao

nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới” [67,tr.72]. Lập

pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sự chuyên quyền. Không nên dùng

bạo lực để thi hành lập pháp, lập pháp phải đảm bảo quyền tự do bình đẳng

cho mọi người. Kant cho rằng quyền lập pháp là quyền của nhà xây dựng

pháp luật, quyền hành pháp là quyền điều hành, thi hành và tuân thủ theo luật

pháp, còn quyền tư pháp là quyền kiểm định, công nhận việc thực thi pháp

luật của bản thân nhà nước. Và không phải ai đến tuổi trưởng thành cũng đều

được cho là công dân. Mà công dân đó phải là công dân của một nhà nước,

một quốc gia cụ thể, được thừa nhận. Kant khẳng định cần phải sử dụng luật

pháp trong nhà nước pháp quyền, phải có những đạo luật để gắn quyền hạn và

67

nghĩa vụ của mỗi người.

Tiếp thu tư tưởng của Rousseau về xã hội dân sự, lập pháp có vai trò

quan trọng đối với việc xác lập quyền hạn là cơ sở để đo lường sự phải trái

trong mỗi quan hệ xã hội giữa người này với người khác. Kant cho rằng nhà

nước không phải là cơ quan đứng trên pháp luật mà phải tuân thủ, tôn trọng

pháp luật. Người thống trị cai quản một quốc gia cũng không phải là một

người cai trị, mà chỉ đơn thuần là những người có thể là luật sư mới có thể

phán quyết. Nhân dân có quyền tự phán quyết chính bản thân họ thông qua

các công dân của họ, những người được lựa chọn thông qua bầu cử tự do.

Tiếp thu tư tưởng của Locke và cho rằng luật chỉ có thể cấm những hành vi

làm tổn hại đến xã hội. Quyền của công dân được mở rộng hơn so với những

người nắm quyền lực trong tay.

Kant cũng nêu ra tư tưởng chống lại sự độc đoán chuyên quyền bằng

việc nhà nước cần ban bố các đạo luật quy định nguyên tắc trừng phạt những

hành vi sai trái. Kant cho rằng các quyền mà lập pháp có thể là ý chí liên kết

các dân tộc với nhau. Những người do cơ quan lập pháp liên kết xã hội công

dân hay xã hội dân sự. Tức là trong một nhà nước gọi là công dân nhà nước.

Cùng với đó là quyền công dân bất khả xâm phạm, đó là quyền bất ly thân là

sự tự do trong khuôn khổ pháp luật, sự tự do ấy phải được pháp luật thừa

nhận. Không đi ngược lại với ý chí chung. Quyền lập pháp là ý chí hợp nhất

của mọi công dân trong xã hội, chỉ thuộc về nhân dân, quyền lập pháp là

quyền tối cao trong nhà nước và mọi quyền khác đều phải xuất phát từ quyền

lập pháp. Hành pháp là quyền thuộc về người cầm quyền theo luật và tuân thủ

theo quyền lực lập pháp. Người được trao quyền hành pháp được phép đưa ra

những quy tắc ứng xử để định hướng và duy trì hoạt động của mọi công dân

trong xã hội theo luật pháp. Tư pháp là quyền do quyền lực hành pháp bổ

nhiệm. Người nào đó được bổ nhiệm quyền này là người quản lý pháp luật

68

theo luật đã định không thay đổi, người đó chỉ có được quyền quản lý, mà

không có quyền sửa đổi, bổ sung và sẽ bị thay thế nếu không thực thi được

nhiệm vụ quyền hạn mà mình nắm giữ.

Trong ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì tính tối cao nhất, quan

trọng của quyền lập pháp là phải được thực hiện bởi tòa án do nhân dân bầu ra

và chỉ được phán quyết hành động của một công dân nào đó trong nhà nước

ấy theo luật pháp đã ban hành. Kant tiếp tục khẳng định sự bình đẳng của ba

quyền này, chúng tồn tại một cách song song, mỗi quyền giữ vị trí, có chức

năng nhất định. Sự phân chia giữa ba quyền này không chỉ cần thiết đối với

sự tồn tại của nhà nước dưới chế độ cộng hòa mà rất cần thiết đối với việc

ngăn chặn sự chuyên chế, lạm dụng quyền lực nhằm mục đích riêng. Mục

đích của ba quyền này là đem lại sự thịnh vượng, tự do, phát triển cho quốc

gia, dân tộc.

Nhưng khi so sánh sự quan trọng của ba quyền này, Kant vẫn dành sự

ưu tiên cho quyền lập pháp. Vì theo ông quyền lập pháp là cái thuộc về ý chí

tối cao, ý chí hợp nhất của mọi công dân trong một cộng đồng xã hội Kant

cho rằng “quyền lập pháp chỉ có thể thuộc về ý chí hợp nhất của nhân dân,

trên thực tế, vì mọi luật pháp đều phải xuất phát từ ý chí hợp nhất đó, nên lẽ

đương nhiên là nhà nước không có quyền được đối xử với một ai đó một cách

không theo luật. Tuy nhiên, khi một ai đó quyết định một vấn đề gì về một cá

nhân khác, thì bao giờ cũng có một khả năng diễn ra là anh ta đối xử với cá

nhân đó một cách không theo luật, song anh ta lại không bao giờ có khả năng

như vậy trong quyết định về chính bản thân mình... Do vậy, chỉ có ý chí hợp

nhất và nhất trí của tất cả mọi người với nghĩa là mỗi người đối với tất cả và

tất cả đối với mỗi người cùng thông qua một quyết định, tức là ý chí của nhân

dân được hợp nhất một cách phổ biến, mới có thể trở thành ý chí lập pháp.

Tư tưởng về quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của Kant nêu ra kế

69

thừa, tiếp thu mô hình của Montesquieu nhưng còn xem đó là các suy luận tất

yếu của lý tính thuần túy thực hành. Quyền cai trị thuộc về lập pháp, quyền

lập pháp đại diện của dân chúng, dân chúng là người giám sát. Để tránh lạm

dụng quyền lực thì các cơ quan quyền lực phải có sự kiềm chế lẫn nhau theo

kiểu quyền lực ngăn cản quyền lực. Quyền thi hành của hành pháp, cơ quan

hành pháp chỉ được tham gia vào những công việc lập pháp với chức năng là

ngăn cản, nhưng không có quyền can thiệp tranh luận vào công việc, cũng

không có quyền được ban hành pháp luật. Chỉ được quyền đưa ra ý kiến, phản

đối một điều nào đó của cơ quan lập pháp. Điều đó tránh được sự chuyên chế

của cơ quan lập pháp.

Kant cho rằng, cơ quan lập pháp có vai trò xem xét các đạo luật mà nó

soạn thảo ra, những người hành pháp là bất khả xâm phạm. Quyền lực hành

pháp phải vận dụng chức năng của mình là ngăn cản để tham gia vào việc lập

pháp nếu không thì cơ quan lập pháp sẽ bị tước mất ưu quyền. Trái lại nếu

quyền lực lập pháp tham gia vào cơ quan hành pháp thực hiện nhiệm vụ ngăn

cản thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu. Bên cạnh việc đề cập đến cơ quan lập

pháp, hành pháp, Kant cũng đề cập đến cơ quan tư pháp hay quyền tư pháp,

quyền tư pháp của thẩm phán

quyền tư pháp được tách ra độc lập với quyền lập pháp và hành pháp. Nhưng

chúng luôn luôn bình đẳng với nhau, có sự ràng buộc tạo nên sự vận động

nhịp nhàng cho hệ thống pháp quyền. Kant phân chia các nhánh quyền lực

như vậy để thấy được sự đối trọng trong ba quyền lực, trong một nhà nước

pháp quyền, các quyền đó luôn luôn được đề cao và không quyền nào được

phép can thiệp quá sâu vào quyền khác. Kant cho rằng “một chính quyền vừa

đồng thời làm chức năng lập pháp thì gọi là độc tài chuyên chế. Cũng thế nếu

lập pháp hay hành pháp nắm luôn chức năng của tư pháp” [18, tr.LIV].

Nhà nước lý tính theo quan niệm của Kant là một nhà nước cộng hòa

70

theo nghĩa của Rousseau, vì ông xem chủ quyền đích thực thuộc về ý chí hợp

nhất một cách phổ biến của nhân dân. Chủ quyền được thực hiện như thế nào

dù là chuyên chế, hay quý tộc, dân chủ thì thước đo cho tính hợp pháp của nó

bao giờ cùng là những gì nhân dân không thể quyết định được về chính mình

thì nhà lập pháp cũng không thể quyết định trên đầu họ được. Theo Kant,

nghĩa vụ của mọi người là phải ra sức tạo ta tình trạng hài hòa tối đa giữa hiến

pháp với những nguyên tắc pháp quyền vì điều này là bổn phận do lý tính đề

ta bằng một mệnh lệnh nhất quyết.

Kant cho rằng cần phải cải cách lập pháp mới có thể mang lại thành

công chứ không phải cuộc cách mạng, hay những cuộc chiến tranh xung đột.

Ông loại trừ một quyền đề kháng chính đáng vì cho đó là điều tự mâu thuẫn

trong một tình trạng pháp quyền không thể có quyền vi phạm pháp quyền.

Tình trạng hài hòa tối đa giữa hiến pháp với những nguyên tắc pháp quyền do

mệnh lệnh nhất quyết quy định đó chính là quy luật tối cao. Kant cho rằng cần

có một nền hòa bình giữa các dân tộc với nhau. Vì vậy nền hòa bình vĩnh cửu

không phải là một không tưởng, không được có chiến tranh, dù là giữa tôi với

anh ở trong trạng thái tự nhiên hay giữa các quốc gia với nhau.

Có thể nói rằng tư tưởng về sự phân chia quyền lực ở Kant không có gì

mới hay phát triển hơn Montesquieu, Locke hay Rousseau. Nhưng ta thấy ở

Kant tinh thần tự do, với tư cách là nguyên tắc thuần túy của lý tính, quan

niệm về pháp quyền cũng có giá trị ngay trong trạng thái tự nhiên, được Kant

hiểu rằng tình trạng mà trong đó mọi người đều nắm quyền trong tay và do đó

không bao giờ có thể an toàn trước bạo lực đối với nhau.

Kant cho rằng, tình trạng tự nhiên như trên đã nói không phải là trạng

thái bất công mà là trạng thái vô luật pháp. Đó là tình trạng con người sống,

sinh hoạt tự do không theo khuôn khổ pháp luật, không tuân theo một luật

định nào, con người đứng ngoài pháp luật. Và muốn pháp quyền đi vào đời

71

sống thì mọi người cần phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Cần có kỷ

cương, có phép tắc, cần tôn trọng luật pháp đã ban hành, tức là con người cần

phải thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên của mình. Trong đó mỗi người chỉ làm

theo ý mình, điều đầu tiên cần phải làm là đi theo tình trạng công dân, biện

pháp hiệu quả đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân và ngăn ngừa

hành vi lạm quyền là phải thiết lập một pháp chế nhằm giới hạn quyền lực

nhà nước. Kant đề cập đến khái niệm công dân, phải hiểu công dân ở đây

không theo nghĩa xã hội học chỉ một tầng lớp hay một giai cấp mà là chỉ

chung các đặc điểm của một thành viên nhà nước.

Thực chất “tình trạng công dân” mà Kant đề cập đến cũng như Hobbes,

Locke và Rousseau hiểu như một tình trạng mà trong đó mỗi người được quy

định bằng pháp luật những gì phải được công nhận như là của mình và được

phân phát một quyền lực vừa đủ. Nhưng quyền lực đó không phải là quyền

lực của mình mà là một quyền lực từ bên ngoài, bao gồm cả sự tự do đối với

các quyền của con người.

Trong sự tự do đó công dân không tuân thủ pháp luật nào khác ngoài

pháp luật đang quy định họ đó chính là sự bình đẳng giữa các công dân với

nhau trong mối quan hệ xã hội. Nói đến quyền tự do trong nhà nước pháp

quyền, Kant cũng đã kế thừa rất nhiều điểm hợp lý của J.Locke khi cho rằng

tự do là một trạng thái mà trong đó, luôn có “một quy tắc để sống theo đó, nó

tồn tại thường trực và chung cho mọi người trong xã hội, được định ra từ

quyền lập pháp đã được xã hội dựng lên” [28,tr.57]. Đó là sự tự do của mỗi

người, tự do ý chí, tự do hành động, tự do đó hiện diện trong mọi hành động

của mỗi người nó không vi phạm những quy định chung và không phải làm

theo ý chí của bất kỳ người nào.

Tự do thuộc về bản chất của con người, khi sinh ra con người đã có

quyền được hưởng tự do, tự do là tự bản thân nó, không ai ban phát, không ai

72

thay thế được, gắn với sự sinh tồn, phát triển của con người. Luật đầu tiên của

tự do là con người phải được chăm lo cho sự sống của mình. Con người có

quyền tự do tham gia vào khế ước xã hội, khi tham gia vào khế ước xã hội

con người không những không mất đi quyền tự do mà quyền đó chỉ chuyển từ

tự do trong trạng thái tự nhiên sang tự do dân sự có nhà nước. Tự do theo tư

tưởng của Kant là tự do tuân thủ pháp luật, không phải con người muốn làm

gì thì làm. Tự do đó phải tuân theo quy định chung, không phải là sự bó buộc

hay cản trở.

Kế thừa tư tưởng của các nhà triết học trước đó, đặc biệt là mô hình

“khế ước xã hội” của Rousseau khẳng định con người phải làm theo luật, chỉ

cho phép làm những điều mà luật pháp không cấm. Kant cũng như các nhà

triết học tiền bối Rousseau sử dụng mô hình “khế ước” cho ra đời tình trạng

pháp quyền với đầy đủ quyền lực. Theo Kant, chỉ có ý chí hợp nhất và đồng

thuận của mọi người, do đó chỉ có ý chí của nhân dân được hợp nhất nói

chung mới có tính ban bố quy luật. Nhưng không được hiểu “khế ước” như là

một sự kiện lịch sử có thật, ngược lại chỉ như ý niệm về hành vi thành lập nhà

nước, và chỉ theo đó mới có thể suy tưởng được tính hợp pháp của nhà nước.

Khác với Hobbes và Locke, Kant không dừng lại ở việc hiểu khế ước chỉ như

là vấn đề của sự khôn ngoan để bảo vệ sự an toàn và tài sản, mà là việc thực

hiện ý niệm về pháp quyền do lý tính đề ra cho ta bởi chính con người. Nói

cách khác, việc đi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái pháp quyền là một

nghĩa quan trọng mà con người phải thực thi.

Kant biện minh tính chính đáng của pháp quyền từ lý tính thực hành,

nhưng không phải là nhà nước hiện thực mà nhà nước trong ý niệm, muốn tồn

tại được phải dựa trên nguyên tắc thuần túy về pháp quyền làm chuẩn mực

cho bất lỳ sự hợp nhất hiện thực nào thành một cộng đồng. Kant cho rằng bất

kỳ nước nào muốn là cái gì nhiều hơn một tổ chức cưỡng chế đơn thuần phải

73

là nhà nước pháp quyền, ở đó pháp quyền và pháp luật được đo lường dựa

theo các “nguyên tắc tiên nghiệm” sau đây: Thứ nhất, sự tự do của mỗi thành

viên của xã hội, với tư cách là con người. Thứ hai, sự bình đẳng của mỗi

thành viên với những thành viên khác, với tư cách là thần dân. Thứ ba, sự tự

chủ của mỗi thành viên với tư cách là công dân. Kant xem nghĩa vụ đức hạnh

không có tính cưỡng chế về pháp luật. Rút ra nguyên tắc về sự phân quyền từ

ý niệm nhà nước. Trong một nhà nước chính đáng bao gồm ba quyền lực độc

lập như đã nêu trên. Khẳng định luật là quan trọng hơn cả, nó khắc vào lòng

người dân, tạo lập nên hiến pháp chân chính phục vụ vì lợi ích nhân dân.

Luật pháp phải công minh cho tất cả mọi người, không một ai tồn tại

trong xã hội lại có thể đứng trên luật pháp, hay đứng ngoài luật pháp, luật

chính là ý chí chung được nhân dân thừa nhận. Xét theo sự phát triển của lịch

sử triết học từ cổ đại tới cận đại, thời cổ đại và trung cổ quan hệ thân nhân

chiếm vị trí cao, thì vai trò của pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ đó,

nhưng đến thời cận đại, khi phương thức sản xuất công nghiệp phát triển,

quan hệ tư hữu chiếm địa vị thống trị xã hội, con người có xu hướng gia tăng

nhu cầu về bình đẳng, công bằng, thì pháp luật càng được đề cao.

Theo Kant luật là những quy định, những nguyên tắc, điều khoản của ý

chí chung, nó mang tính khái quát cho tất cả mọi người, ý chí chung đó phải

phản ánh lợi ích chung của xã hội, lợi ích chung phải là nền tảng cơ bản của

pháp luật. Bên cạnh đó tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: Nhà nước quân

chủ, nhà nước quý tộc, và nhà nước dân chủ. Trong nhà nước quân chủ, quân

vương là người đứng đầu. Hình thức nhà nước quân chủ là hình thức đơn giản

nhất bởi vì đứng đầu là vua, chỉ riêng mình vua là người ban hành luật pháp

cho quốc gia. Kant cho rằng tất cả các thể chế cộng hòa đích thực không phải

là cái gì khác ngoài cái hệ thống đại diện cho nhân dân, vì nhân dân, phục vụ

cho nhân dân, tư tưởng lấy dân là gốc là một tư tưởng vô cùng tiến bộ, và có ý

74

nghĩa nhân văn sâu sắc mà ta thấy ở Kant. Thể chế phải nhân danh nhân dân,

quan tâm tới quyền đại biểu liên kết toàn thể các công dân trong một nhà

nước lại với nhau. Người đứng đầu quốc gia được coi là đại diện cho toàn thể

nhân dân, dân tộc, thì người đó không chỉ đơn thuần là đại diện cho người cai

trị mà chính bản thân anh ta là người thống trị vì nhân dân, người ta thấy

trong người đứng đầu quốc gia đó sự thể hiện cho một thứ quyền lực tối cao,

từ đó phân cấp toàn bộ quyền lợi của mọi người từ già đến trẻ đơn thuần là

những người bị trị.

Tiếp thu tư tưởng của Rousseau về chủ quyền nhân dân, khi cho rằng

chính quyền là sự thể hiện ý chí của đại đa số. Không thể phân chia, luôn luôn

nằm trong tay nhân dân, và không được hạn chế bằng bất cứ đạo luật nào, và

đạo luật đó không trao cho cá nhân nào. Kant ủng hộ tư tưởng về chủ quyền

nhân dân của Rousseau ông giải thích “mọi nhà nước có ba quyền lực : lập

pháp chỉ thuộc về “ý niệm về chủ quyền tập thể của nhân dân”, hành pháp

thuộc về người cầm quyền theo luật và tuân thủ quyền lực lập pháp và tư pháp

do quyền lực hành pháp bổ nhiệm. Tổng thể và sự nhất trí ba quyền lực này

có thể ngăn ngừa sự chuyên chế và đảm bảo phồn vinh cho quốc gia”

[70,tr.24-28].

Như vậy có thể thấy, dưới sự tác động của hiện thực khách quan, trên

phương diện kế thừa tư tưởng của các nhà triết học tiền bối cùng với bộ óc

thiên tài, Kant đã để lại nhiều tư tưởng có giá trị không chỉ trong lĩnh vực đạo

đức mà còn cả lĩnh vực pháp quyền với việc bổ sung và hoàn thiện quan điểm

tam quyền phân lập. Tư tưởng về tự do, về trách nhiệm pháp lý, tính nhân văn

của luật pháp, mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, nền dân chủ nhân dân. Tư

tưởng về triết học pháp quyền của Kant là một mắt xích trong quá trình phát

triển lịch sử nhân loại, bổ sung và hoàn thiện sự phát triển thực tiễn xã hội của

75

nước Đức và châu Âu đương thời.

2.2.3. Các quyền cơ bản trong triết học pháp quyền

Kant đề ra cho pháp quyền những chuẩn mực và nguyên tắc mang tính

định hướng. Ông cho rằng, một khi hành vi của con người không xâm hại tới

sự tự do của những người xung quanh, theo luật ban hành, thì điều đó có

nghĩa là cũng không có ai có quyền ngăn cản hành vi của tôi, nếu ngăn cản, sẽ

bị coi là vi phạm pháp luật. Định luật chung được Kant nêu ra với nội dung

hãy hành xử với người khác sao cho việc bản thân sử dụng ý chí của chính

mình có thể chấp nhận hay không xâm hại tự do của người khác, cộng đồng

xung quanh theo luật đã ban hành tất cả mọi người trong xã hội phải tuân thủ

dù muốn hay không.

Một trong các nội dung quan trọng về quyền con người mà Kant đề

cập đó chính là quyền riêng tư. Đây là một trong những quyền quan trọng, cơ

bản mỗi người đều được bảo vệ. Kant cho rằng quyền riêng tư của mỗi người

trong xã hội chỉ có giá trị được khẳng định và tôn trọng khi quyền đó được

cộng đồng xã hội công nhận trong đó có quyền sở hữu với một sự vật, đó là

quyền mà cá nhân và những người khác trong cái sở hữu chung, ý chí của tất

cả mọi người liên kết với nhau, cá nhân không có quyền sử dụng vật của

người khác khi không được sự cho phép. Kant khẳng định từ quyền riêng tư

trong trạng thái tự nhiên dẫn tới định đề về luật công, tức là trong mối quan hệ

với người khác bạn cần có sự chia sẻ đối với tất cả mọi người liên quan trong

một trạng thái hợp pháp. Và nguyên nhân của điều đó lại nằm ngay trong

chính bản thân khái niệm pháp quyền, nó đối lập với quyền lực.

Bên cạnh quyền riêng tư, Kant đề cập đến quyền sở hữu đất đai. Ông

cho rằng đất đai vốn dĩ là của tự nhiên, là tài sản chung của tất cả mọi người

trên thế giới, toàn nhân loại, bản chất nó không thuộc về riêng ai. Và theo lẽ

tự nhiên thì mọi người đều có quyền sở hữu đất đai, họ được thừa hưởng từ tự

76

nhiên, và đó là một hành vi đúng pháp luật, như một luật định bất di bất dịch.

Nhưng Kant cũng khẳng định rằng quyền sở hữu đất đai của mỗi người thì

phải được quy định, phải có sự giám sát quản lý của xã hội dân sự và mỗi

quốc gia quản lý, tùy thuộc vào vị trí địa lý, tùy thuộc vào văn hóa, lịch sử

của quốc gia đó, mỗi quốc gia có thể chế chính trị khác nhau, không quốc gia

nào có quyền xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác, quyền sở hữu đất đai này

phải tuân theo những nguyên tắc xác định. Nhưng đây là quyền sở hữu thiêng

liêng của mỗi người mà xã hội đều phải tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo. Kant

cho rằng tất cả mọi công dân trong một xã hội đều nằm trong một trạng thái

sở hữu chung đất đai trên toàn bộ trái đất, người này đối với người kia có

quyền sử dụng và không được sử dụng ý chí của mình chống lại hay đối lập

lại việc sở hữu của người khác. Việc phân chia cái của chính bản thân người

đó với cái của người khác trên một khoảnh đất thì chỉ tồn tại trong trạng thái

xã hội dân sự và chỉ riêng ở xã hội dân sự này mới có quyền phán quyết bằng

luật pháp, cái gì là đúng luật và phù hợp với luật pháp thì cái đó được công

nhận. Kant tiếp tục trình bày quan điểm của mình khi đề cập đến luật công và

luật nhà nước, ông cho rằng các quy luật được phép công bố nhằm mục đích

đem lại kỷ cương luật pháp và đó chính là pháp luật chung, là hệ thống các

quy luật, các chuẩn tắc được ban bố cho một dân tộc, mỗi người có mối liên

hệ tác động qua lại lẫn nhau, đó là trạng thái mỗi cá nhân của một dân tộc

trong tương quan với những cá nhân khác cùng một cộng đồng là luật công

dân, và cái chỉnh thể chung đó là nhà nước.

Từ những quan niệm trên Kant cho rằng nhà nước là một hiệp đoàn gắn

kết một cộng đồng người bằng các chế tài pháp luật mang tính tiên nghiệm.

Nhà nước nằm trong ý niệm vẫn theo những nguyên tắc pháp luật, theo những

chuẩn mực, quy định rõ ràng minh bạch. Tiếp đến Kant phân tích vấn đề luật

nhân dân hay còn gọi là pháp quyền nhân dân. Nơi nào mà nhà nước được ví

77

như một người có nhân cách đạo đức một nhà nước chuyên chính chống lại

trạng thái tự do vốn có của người khác sẽ bị coi là dẫn tới trạng thái chiến

tranh. Thực chất luật nhân dân mà Kant nhắc tới hay đề cập tới là luật quan hệ

quốc tế hay gọi là luật chính trị quốc tế theo cách hiểu hiện đại ngày nay. Vì

Kant sống trong thời điểm mà chưa có các tổ chức quốc tế nên danh từ mà

Kant sử dụng là để ám chỉ cơ chế cần có pháp luật, các chế tài dùng trong

quan hệ giữa các quốc gia để đảm bảo những nguyên tắc ngoại giao, phát

triển chung của nhân loại.

Kant bàn đến khía cạnh quốc gia dân tộc, luật nhân dân hay luật dân

tộc gồm những yếu tố như : Thứ nhất, quan hệ giữa các quốc gia chống lại

nhau trong một trạng thái phi luật pháp. Yếu tố thứ hai, là trạng thái chiến

tranh, luật của kẻ mạnh; yếu tố thứ ba, là một liên minh giữa các dân tộc; yếu

tố thứ tư, là mối liên hệ không có tính ép buộc.

Kant cho rằng, ở trạng thái tự nhiên thì các quốc gia, dân tộc nằm

trong trạng thái chiến tranh bởi các nước lớn bao giờ cũng muốn chèn ép các

nước nhỏ, muốn áp bức các nước nhỏ. Và trong trạng thái tự nhiên này ở các

quốc gia có quyền tuyên bố chiến tranh với nước khác là quyền cho phép

trong đó một quốc gia có cơ sở pháp lý theo đuổi việc chống lại một quốc gia

khác. Và trong tình hình đó việc trả thù hay phản kháng của quốc gia này đối

với quốc gia khác là điều dễ xảy ra. Kant phản đối tình trạng chiến tranh xảy

ra giữa các nước trong quan hệ chính trị quốc tế, không tán thành việc phát

động chiến tranh, hay trừng phạt giữa các quốc gia với nhau. Không thể coi

cuộc chiến tranh giữa các quốc gia độc lập chống lại nhau là cuộc chiến tranh

trừng phạt được bởi sự trừng phạt chỉ được coi trong quan hệ với bề trên đối

với kẻ dưới.

Kant bàn tới quyền được hưởng một nền hòa bình của các quốc gia.

Mọi quốc gia trên thế giới đều có quyền được hưởng tự do và bình đẳng như

78

các quốc gia khác. Quyền được hưởng một nền hòa bình hay một sự tập trung

lập khi các nước láng giềng vẫn đang có chiến tranh và tiếp tục củng cố nền

hòa bình đã được đảm bảo, ông nhấn mạnh việc cần phải thiết lập mối quan

hệ qua lại của nhiều quốc gia cùng phòng thủ hay tự vệ trước những khả năng

tấn công từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Kant luận chứng về nguyên tắc trong

chính trị quốc tế rằng ở trạng thái tự nhiên các dân tộc hay những cá nhân đơn

lẻ và để trạng thái này có thể được luật pháp hóa, để thực hiện điều này tất cả

quyền lợi của các dân tộc trong đó việc sở hữu của tôi hay của bạn trong các

quốc gia chỉ mang tính tạm thời.

Kant đề cập đến quyền công dân thế giới. Ông cho rằng bản thân các

dân tộc khi ở trạng thái tự nhiên đều nằm trong một cộng đồng chung cùng

tồn tại và sinh sống trên một lãnh thổ, nhưng lại không có quyền sở hữu

chung về pháp lý trong việc sử dụng hay sở hữu chung lãnh thổ đó, mà họ chỉ

trao đổi vật chất qua lại với nhau. Quyền đó dựa trên sự gắn kết giữa tất cả

các dân tộc với mục đích thiết lập một luật định chung cho việc trao đổi, qua

lại và đó được gọi là quyền công dân thế giới.

Kant cho rằng có sự xung đột trong xã hội là điều tất nhiên, và tồn tại

xung đột lợi ích các quốc gia là điều chắc chắn sẻ xảy ra sớm hay muộn. Mặt

khác, Kant lên án phê phán chiến tranh, phản đối các cuộc chiến tranh dù diễn

ra dưới bất kỳ hình thức nào. Đặc biệt là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà nạn

nhân trước hết là những người dân vô tội. Ông cho rằng, không được phép

gây ra chiến tranh dù đó là cuộc chiến tranh xảy ra giữa hai cá nhân trong

trạng thái tự nhiên, hay chiến tranh giữa các quốc gia với nhau và đó là quyền

cần phải ngăn cấm. Trong xã hội mọi công dân đều có quyền bỏ phiếu xây

dựng quyền lập pháp của một quốc gia. Luật ở đây theo Kant hiểu đó là sự

ràng buộc tự do của người này bằng những người khác dựa trên điều kiện quy

định tự do của bản thân mỗi người phải được dựa trên những điều kiện quy

79

định rằng tự do của tôi phải phù hợp với luật định chung và pháp luật chung

đơn thuần là một trạng thái phù hợp với nguyên tắc, gắn với quyền lập pháp.

Một công dân trong quốc gia là người có quyền bỏ phiếu cho quyền lập pháp

ban hành. Kant cho rằng cần phải coi trọng vai trò của hệ thống luật pháp, nếu

xã hội thiếu luật pháp thì điều tất yếu xảy ra là xã hội đó sẽ bị loạn lạc, rơi vào

khủng hoảng, các quyền của con người sẽ bị xâm phạm. Kant cho rằng mọi

hạn chế, giới hạn hay sự ràng buộc là dành cho những người làm lập pháp,

còn những kẻ bị trị thì không bị hạn chế, hay ràng buộc.

Một quốc gia nào đó chịu sự chỉ đạo của một hệ thống lập pháp hợp lý

để có thể phán quyết. Điều cần làm là nên hay không phản kháng lại những

điều đó? và cần phải tuân thủ theo những điều đã định. Kant quan niệm rằng

khi có sức mạnh tối cao của pháp luật thì pháp luật phải hướng tới hạnh phúc,

sự giàu đẹp, phồn vinh của nhân dân nhưng đó không phải là mục địch hướng

tới hiến pháp công dân mà chỉ như là công cụ, phương tiện để đảm bảo cho

trạng thái đúng pháp luật để chống lại các thế lực thù địch, là mầm mống tiềm

ần cho sự phản đối từ những người bị trị, khơi mào cho các cuộc nổi loạn và

đó là một sự phạm tội trầm trọng vì làm hỏng luật pháp. Kant nhấn mạnh

rằng lập pháp không phải là cơ quan cao nhất đứng trên quốc gia, dân tộc nào,

mà đơn thuần chỉ là đại diện cho một quốc gia, dân tộc đó. Quyền hạn của

những nhà lập pháp là sự ủy nhiệm của quốc gia đối với nó. Nếu điều gì mà

chính dân tộc không quyết định được thì những nhà lập pháp cũng không thể

nào có quyền quyết.

Tư tưởng của Kant thể hiện sự tiến bộ phê phán mạnh mẽ các xung đột

chiến tranh diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, hay giữa dân tộc này với dân

tộc kia, và cho rằng đó là hành vi vô nhân tính, phản đạo đức, vạch trần bản

chất dã man của con người, thể hiện trong chiến tranh phi nghĩa của dân tộc

80

này xâm lược dân tộc khác.

Kant cho rằng dù trách nhiệm có làm tổn thương chính bản thân chủ thể

nhưng không vì thế mà chủ thể đó trốn tránh trách nhiệm mà mình cần phải

làm. Đó chính là quan niệm về một số quyền mà Kant cho rằng mỗi người cần

phải có và nhất thiết phải có, phải làm và tuân theo nó, thể hiện sự uyên bác

của Kant không chỉ trong lĩnh vực bản thể luận và nhận thức luận mà đặc biệt

trong lĩnh vực pháp quyền. Tư tưởng của Kant có ảnh hưởng sâu sắc, không

nhỏ đến ngành nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại sau này.

2.2.4. Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà nước

Sự tồn tại của pháp quyền trong nhà nước được Kant trình bày trong

các tác phẩm như “Phê phán lý tính thực hành”, “Phê phán lý tính thuần túy”,

“Phê phán khả năng suy diễn”, “Hướng tới một nền hòa bình vĩnh

cửu”(1795), “Những cơ sở siêu hình học đầu tiên của học thuyết về pháp

quyền” (1797). Theo Kant vấn đề tạo dựng một nhà nước với tư cách cộng

đồng, dùng pháp quyền làm nền tảng để tồn tại. Điều cần làm là phải xóa bỏ

hệ thống chuyên quyền độc đoán, dưới sự quản lý của cá nhân, thay vào đó là

hệ thống dưới sự quản lý của nhà nước một cách dân chủ, đề cao quyền lực pháp

luật tới mức tối đa. Kant giải thích và chỉ ra mối quan hệ giữa pháp quyền và luật

pháp dưới thể chế cộng đồng luật pháp. Do ảnh hưởng của quan niệm duy tâm,

Kant lý giải mối quan hệ đó trên tinh thần duy tâm tiên nghiệm.

Kant cho rằng dưới chế độ cộng hòa thì nhà nước là tập hợp của nhiều

người, của tất cả mọi công dân trong xã hội phải tuân thủ các đạo luật pháp

quyền mà nhà nước ban bố. Mọi hoạt động của công dân trong nhà nước đó đều

hướng đến một mục đích cao nhất là sự tự do, tự do trong tư tưởng, tự do trong

hành động, tự do của bản thân phải phù hợp với tự do của người khác và đặc biệt

không nằm ngoài khuôn khổ luật pháp, phù hợp với pháp luật chung. Trong phê

81

phán lý tính thực hành Kant cho rằng “một hành vi nào đó là công chính, là khi

nó hay dựa theo châm ngôn của nó làm cho tự do của mỗi người có thể cùng tồn

tại với tự do của bất kỳ ai theo một quy luật phổ biến” [18, tr.LI].

Hay trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”, Kant cũng đã nêu

quan điểm của mình về sự tự do của con người trong khuôn khổ luật pháp

dưới thể chế cộng hòa là “việc kiến lập một nền tự do tối đa cho con người

theo luật pháp, làm cho tự do của mỗi người chỉ có thể đứng vững cùng chung

tự do với mọi người (chứ không phải sự hạnh phúc chỉ là kết quả đương nhiên

của tự do) ít ra cũng là một ý niệm tất yếu được đặt làm nền tảng và ở vị trí

hàng đầu không những trong hiến pháp của một nhà nước, mà cả trong toàn

bộ luật pháp của nó” [18, tr.613].

Kant quan niệm rằng nhà nước dưới chế độ cộng hòa phải đảm bảo gắn

kết giữa những công dân với nhau dưới sự quản lý của nhà nước trong khuôn

khổ luật pháp, theo dõi và quản lý đảm bảo tự do và bình đẳng, dân chủ cho

mọi người trong xã hội đó. Sứ mệnh của nhà nước cộng hòa là đem lại hạnh

phúc, tự do cho mỗi người và cho cả cộng đồng, chống lại sự lạm quyền,

chuyên chế, độc đoán. Tư tưởng về tự do trong nhà nước pháp quyền của

Kant ảnh hưởng bởi tư tưởng của Rousseau về các quyền làm chủ của nhân

dân khi Rousseau cho rằng, với “khế ước xã hội”, con người mất đi cái tự do

thiên nhiên và cái quyền nhỏ nhoi được làm những điều muốn làm và chỉ làm

được với sức lực hạn chế của mình; nhưng mặt khác con người thu lại quyền

tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có được. Trong trạng thái

dân sự con người có quyền tự do tinh thần khiến anh ta trở thành người chủ

thực sự của chính mình vì rằng làm theo kích thích của dục vọng là nô lệ và

tuân theo quy tắc tự mình đặt lại là tự do” [67, tr.46].

Bên cạnh đó Kant còn kế thừa ở Rousseau tư tưởng về sự chiếm hữu

chung, cái được coi là cơ sở cho quyền chiếm hữu cá nhân. Kế thừa tư tưởng

82

về “Luật tự nhiên” của Rousseau nhấn mạnh đến sự tự do bản tính tự nhiên

của con người, từ bỏ tự do là từ bỏ mọi phẩm chất con người. Kant cho rằng

tự do là quyền bẩm sinh, độc lập với mọi luật ban hành, đó là quyền tự nhiên

của mỗi con người không ai có thể tước đoạt. Kant nhấn mạnh rằng con người

sinh ra là tự do và bình đẳng. Sự bình đẳng bẩm sinh này phải nằm trong

nguyên tắc của tự do bẩm sinh, không có sự phân biệt giữa bình đẳng bẩm

sinh với nguyên tắc bẩm sinh. Ở trạng thái tự nhiên, con người được tự do

tranh chấp, tự do kiềm chế lẫn nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

mang tính bản năng, tự phát. Nhưng khi chuyển sang trạng thái xã hội, trạng

thái con người sống trong cộng đồng, có mối quan hệ giữa người này với

người kia thì con người mới ý thức được hành động mình làm, tự do đó mới

là tự do thực sự khi hành động của họ phải thông qua pháp luật, được pháp

luật thừa nhận. Bản chất con người khi sinh ra đều được tự do và đó chính là

quyền mà con người có được nhờ pháp luật mang lại.

Kant phát triển và mở rộng tư tưởng của nhà triết học tiền bối Rousseau

về sự liên kết giữ những con người với nhau trong nhà nước pháp quyền.

Rousseau cho rằng cộng hòa dân chủ trong một quốc gia là sự đảm bảo duy trì

trật tự xã hội và sự bình đẳng của các công dân muốn làm được điều đó thì

mỗi công dân phải nhất trí với nhau về lợi ích cơ bản, thống nhất cao trong

các quyết sách chính trị, quyền cao nhất chính là quyền tự do, trong đó ý thức

con người quyết định sự liên kết tự nguyện, nhấn mạnh sự liên kết tự nguyện

ấy bằng con đường nhất thể hóa các quyền của con người từ trạng thái tự

nhiên sang trạng thái dân sự. Tư tưởng này được Kant phát triển thành khái

niệm về “ý chí hợp nhất” tức là sự hợp nhất phổ biến của nhân dân. Thống

nhất mọi cá nhân trong nhà nước pháp quyền, bàn tới vấn đề này trong tác

phẩm“Những cơ sở đầu tiên của học thuyết về pháp quyền”, Kant cho rằng

khi hiểu về pháp quyền tự nhiên, là tổng thể những gì tồn tại hiện hữu trước

83

tiên, đứng cao hơn việc ban bố ra luật lệ nhằm thực hiện mục tiêu định hướng

cho nhà nước điều đó chứng tỏ mong muốn xây dựng một nhà nước pháp

quyền công chính, thì không phải chỉ đơn giản là những quy tắc, luật lệ mang

tính áp bức, cưỡng chế, không có sự đồng thuận của mọi người dân.

Kant đặt câu hỏi: Pháp quyền thực chất là cái gì? và để giải đáp cho câu

hỏi này, Kant nêu ra lập luận cần phải làm sáng tỏ những việc làm nào là

đúng với pháp luật, những việc làm nào trái với pháp luật quy định, là công

chính hay không công chính nếu dựa theo một tiêu chuẩn phổ biến để thấy

được cả pháp quyền công chính và pháp quyền không công chính, việc đó khó

có thể tìm thấy trong lĩnh vực kinh nghiệm. Pháp luật theo tư tưởng của Kant

là sự hợp nhất ý chí của nhiều người theo quy luật phổ biến của tự do. Pháp

luật đặt ra những điều kiện để có thể cưỡng chế hành vi được cho là trái luật

tùy tiện, sai trái của con người trong cộng đồng xã hội. Nhưng bên cạnh đó,

pháp luật cũng phải đảm bảo tự do cá nhân.

Kant cho rằng, pháp quyền của lý tính như là cơ sở của pháp quyền tự

nhiên, lý tính thực tiễn thuần túy là nền tảng cơ bản làm điểm tựa cho những

nguyên tắc pháp quyền được thực thi một cách hiệu quả, đảm bảo được tính

hiệu lực, phổ biến rộng rãi. Nguồn gốc hình thành các đạo luật là ý chí hợp

nhất, sự tồn tại hợp lý của pháp quyền cũng dựa trên ý chí hợp nhất trong nhà

nước cộng hòa. Luật pháp được ban bố ra cũng dựa trên ý chí hợp nhất đó, ý

chí hợp nhất chính là ý chí của toàn thể nhân dân, là sự đồng thuận của mọi

người trong một xã hội có nhà nước. Kant khẳng định sự tồn tại của nhà nước

dưới chế độ cộng hòa với tư cách cộng đồng luật pháp là cấu trúc hoặc mô

hình lý luận, lý tưởng chứ không chỉ đơn thuần là hiện thực kinh nghiệm.

Nhưng sự tồn tại của nhà nước đó phải có nghĩa vụ đối với công dân, tuân thủ

theo ý chí chung của mọi công dân, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng trong tổ

chức đời sống thực tiễn, đời sống pháp luật, nó như là sự đòi hỏi của lý tính

84

thực tiễn thuần túy.

Kant phát triển quan điểm về “mệnh lệnh nhất quyết” trong đạo đức

học của mình để ứng dụng vào vấn đề pháp quyền, ông cho rằng “mệnh lệnh

nhất quyết” hay “mệnh lệnh tuyệt đối” với tư cách không chỉ là quy luật cơ

bản của luân lý mà còn là luân lý của mỗi cá nhân, là quyền riêng tư, là quy

luật cơ bản của những nguyên tắc, hành vi đạo đức. Nguyên tắc của pháp

quyền trong triết học Kant chính là mệnh lệnh nhất quyết được vận dụng và

thực hiện cho những mối quan hệ bên ngoài của từng cá nhân khi họ tự do và

bình đẳng. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi mỗi công dân, cá nhân trong xã hội

phải tôn trọng quyền và nghĩa vụ của nhau bình đẳng trước pháp luật, phổ

biến rộng rãi trong dân chúng, từ đó xây dựng nên nguyên tắc pháp quyền.

Kant cho rằng hành vi của mỗi người được cho là “công chính” tức là hợp với

pháp luật, không thực hiện sai trái theo luật pháp quy định, ban bố đó chính là

hành vi làm cho tự do của mỗi người phù hợp tự do của mọi người trên nền

tảng tự do phổ biến nói chung.

Pháp quyền theo Kant chính là tổng thể tất cả những điều kiện, mà dưới

những điều kiện đó thì sự tùy tiện của mỗi người có thể hợp nhất với sự tùy

tiện của những người khác và phải tuân theo một quy luật chung, quy luật

chung đó chính là sự tự do. Và việc ban bố luật pháp dưới sự quản lý của nhà

nước cộng hòa được coi là đúng đắn khi nó thực hiện được “mệnh lệnh nhất

quyết” đó chính là sự phổ biến cao nhất của tự do trong đời sống cộng đồng

xã hội khi mọi công dân được tự do và bình đẳng quyết định hành vi của mình

trước pháp luật.

Trong nhà nước cộng hòa với sự đề cao pháp luật thì mỗi công dân

sống trong nhà nước đều có quyền tự do ngôn luận, tự do đóng góp ý kiến

tham gia trực tiếp vào những công việc chung nhằm mục tiêu phát triển cộng

đồng, và bên cạnh đó mỗi người đều phải tự mình phục tùng và thực hiện tất

85

cả những quyết định chung, mang tính phổ quát, con người được làm mọi

điều mình muốn nhưng không vi phạm quyền của người khác và không trái

với các nguyên tắc pháp luật. Tự do của công dân phải được hiểu là sự phục

tùng, chấp hành các đạo luật mà bản thân cá nhân đó tán thành, đồng thuận và

ủng hộ.

Tự do trong nhà nước cộng hòa phải trở thành quyền không thể nào có

thể tước đoạt được của mỗi người. Tự do của người này có được phải phù hợp

với tự do của người khác và phải công nhận điều đó, tôn trọng mục đích tự do

của mỗi người. Nếu một người nào đó có ý định ngăn cản sự tự do của người

khác thì điều tất yếu sẽ xảy ra là tự do của người đó cũng sẽ bị ngăn cản như

vậy dưới những nguyên tắc pháp luật mà nhà nước đã ban bố. Trong nhà nước

cộng hòa, bên cạnh đảm bảo tự do của mỗi người thì mọi công dân phải có

quyền tự do lập hiến, tức là với tư cách quyền của họ không phải tuân theo bất

cứ một đạo luật nào không thuộc đạo luật do họ chấp nhận và đồng thuận. Sự

bình đẳng đó chính là quyền mà một người chấp nhận người khác ở vị trí cao

hơn nhưng chỉ là người bắt buộc phải làm những điều mà anh ta bắt buộc họ

làm như một nghĩa vụ hợp lý. Nhưng một điều đáng lưu ý là quan niệm của

Kant về tự do và bình đẳng xét trong bình diện xã hội đương thời mà ông

sống với thực tiễn tự do và bình đẳng trong thực tế lại không có sự tương

đồng với nhau, thậm chí là không phù hợp. Và Kant đã nhận thức được điều

này một cách sâu sắc, tư tưởng của Kant về vấn đề tự do và bình đẳng chưa

thực sự phù hợp và còn xa lạ với quan niệm của thực tiễn đương thời.

Kant đề cập đến tư tưởng về “người công dân tích cực” và “người công

dân thụ động” sự trái ngược giữa họ trong mọi hành vi, hoạt động xã hội,

trong việc tuân thủ luật pháp, theo ông mỗi cá nhân xét về vị trí trong xã hội

của họ, về chức danh, tài sản, những người phải phục tùng người khác, thì

không có quyền được nói, được thể hiện ý kiến của mình và tham gia vào các

86

quyết sách của nhà nước. Quan niệm này thể hiện hạn chế cũng như mâu

thuẫn của Kant một mặt thừa nhận tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người,

mặt khác ông phân biệt và bảo vệ sự bất bình đẳng khi so sánh giữa người

công dân tích cực với người công dân không tích cực. Ở đây thể hiện hạn chế

của lịch sử thời đại mà Kant sống đã ảnh hưởng tới sự hình thành tư tưởng

không triệt để của triết gia. Bên cạnh đó Kant khẳng định rằng những công

dân thụ động vẫn có quyền giữ lại cho bản thân mình tự do và bình đẳng

nhưng chỉ về mặt hình thức, họ vẫn có quyền yêu cầu nhà nước áp dụng

những đạo luật do nhà nước đã ban hành nếu những đạo luật đó không đối

kháng với các quyền không thể tước đoạt của họ.

Kant cho rằng động cơ của chủ thể hành động quyết định tới tính chất

của hành vi và là cơ sở đề phân biệt sự không giống nhau giữa tính đạo đức

và tính hợp pháp, tức là giữa sự tự nguyện quy phục quy luật đạo đức với sự

phù hợp mà pháp luật đòi hỏi. Phân biệt rõ ràng giữa đạo đức và pháp luật,

trách nhiệm sự tự nguyện của nhà từ thiện với nghĩa vụ pháp lý. Thấy được sự

khác biệt giữa nhà nước với tư cách là cộng đồng luật pháp với nhà thờ với tư

cách là cộng đồng đạo đức. Nhà thờ là nơi quy định các trách nhiệm thuộc

phạm trù đạo đức, còn nhà nước là nơi quy định trách nhiệm pháp lý.

Theo Kant trong nhà nước dưới chế độ cộng hòa, mỗi công dân là một

giá trị tuyệt đối, có quyền công dân khi họ sống trong cộng đồng nhà nước.

Đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, cá nhân khác không thể thay thế.

Không ai có quyền bắt công dân phải hy sinh lợi ích của mình để phục vụ lợi

ích của người khác. Không ai có thể có quyền mượn danh người khác thực

hiện những hành vi sai trái của mình, hay cho dù hành vi đó là có ý đồ tốt

đẹp. Kant phát triển mệnh lệnh nhất quyết của mình, theo mệnh lệnh này thì

không chỉ là quy luật cơ bản của luân lý trong nghĩa hẹp mà còn là đức lý.

Kant đề cập đến giá trị tự thân của mỗi người trong nhà nước pháp quyền, ý

87

chí chung của cộng đồng, không tán thành cơ chế đặc quyền khi cơ chế đó đi

ngược lại ý chí chung của mọi người. Ngay cả những người dẫn đầu, những

người quản lý nhà nước, hay nhà vua đều không có quyền lấy người khác làm

vật hy sinh cho mục đích riêng. Mỗi công dân đều có giá trị tự thân và phải

ngăn chặn sự chuyên quyền độc đoán, không để sự chuyên quyền gây nguy

hại đến lợi ích chung.

Hoạt động của nhà nước phải dựa trên các đạo luật được sự tín nhiệm

của quần chúng nhân dân, phù hợp với hiến pháp, pháp luật. Từ đó tạo dựng

sự ủng hộ và niềm tin nơi nhân dân. Kant cho rằng chỉ có nhân dân mới có thể

là người đứng đầu nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, có

quyền và có khả năng yêu cầu nhà nước phải chấp hành pháp luật. Nhà nước

phải có trách nhiệm đối với công dân, và ngược lại công dân cũng phải có bổn

phận xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhân dân vừa là người lãnh đạo cũng

vừa là người chịu sự quản lý. Nhà nước cộng hòa lý tưởng theo Kant phải phù

hợp với quy luật của tự do.

Kế thừa tư tưởng của Rousseau về quyền lực tối cao của nhân dân, bản

chất của quyền lực tối thượng không là gì khác hơn sự thi hành ý chí của cả

tập thể nên chủ quyền tối thượng không thể được chuyển nhượng. Quyền lực

nhân dân là cái không thể thực hiện được, về nguyên tắc chính quyền hiện

hữu phải hoàn toàn phục tùng ý chí của nhân dân. Theo Kant nhà nước với tư

cách là cộng đồng luật pháp, được hình thành do những mâu thuẫn nội tại của

xã hội. Nhà nước ra đời để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong lòng xã

hội, ngăn cản những gì cản trở tự do của mỗi người, điều hòa sự cân bằng

trong xã hội, trên cơ sở lợi ích con người phải được đề cao. Trong đó pháp

quyền phải được đề cao, mỗi người phải được tự chủ, tự do, công dân phải có

nghĩa vụ trách nhiệm hài hòa tối đa giữa hiến pháp và những nguyên tắc pháp

quyền. Con người sinh ra tồn tại và phát triển không phải nhờ vào sự tùy tiện

88

của một người nào đó, mà chính là các quyền và sức mạnh của bản thân.

Quan niệm về nhà nước với tư cách cộng đồng luật pháp còn nhiều điểm chưa

thực sự phù hợp với hiện thực, thậm chí có những quan điểm về quyền lực tối

cao đối lập với hiện thực, còn mạng nặng tính lý tưởng khi lý giải về sự xuất

hiện quyền lực tối cao.

Có thể thấy rằng quan niệm về nhà nước với tư cách là cộng đồng luật

pháp của Kant thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc, tinh thần yêu tự do, dân chủ,

muốn xây dựng một xã hội đề cao pháp luật, sử dụng các đạo luật, quy tắc để

giáo dục, hướng con người đến những hành vi tốt đẹp, lý giải sự tồn tại của

nhà nước pháp quyền, hay nhà nước với tư cách là cộng đồng luật pháp, mục

đích cao nhất mà nhà nước cộng hòa là hướng tới một nền hòa bình, tự do

hạnh phúc cho mọi công dân. Ông đã tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng độc

đáo của Rousseau, chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ, dựa trên nguyên

89

tắc tôn trọng quyền lực tối cao của luật pháp.

CHƢƠNG III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN

TRONG TRIẾT HỌC KANT

3.1. Đạo đức - cơ sở hình thành pháp quyền

Việc đưa đạo đức vào quá trình lịch sử là sự kế tục và đào sâu phân tích

quan hệ của đạo đức và pháp quyền. Đạo đức được hiểu là thành tố của tinh

thần khách quan nào đó, loài người chỉ tự sản sinh ra mình trong bản thân quá

trình lịch sử. Mục đích khi đó là chuyển sang trạng thái hòa bình toàn cầu

chung, giống như cái nôi trong đó mọi mầm mống khởi thủy của loài người sẽ

phát triển.

Kant xác định đạo đức học có nhiệm vụ đề cao con người hiện thực,

điều này có nghĩa là sự phát triển năng lực cá nhân trong điều kiện cộng đồng

các quốc gia có hiến pháp hoàn toàn công bằng. Trong tác phẩm “Siêu hình

học của đạo đức”, Kant trình bày một cách có hệ thống học thuyết đạo đức

của ông, với mục đích đảm bảo về mặt lý luận, hợp nhất các lĩnh vực văn hóa

trong đó có pháp luật. Theo quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác -

Lênin giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau. Đạo

đức và pháp quyền là hai hình thái ý thức xã hội cơ bản, giữa chúng có mối

quan hệ mật thiết, trong đó những phong tục tập quán là cơ sở để hình thành

các quy phạm pháp luật, đến lượt mình các quy phạm pháp luật tác động trở

lại, củng cố các quan niệm đạo đức điều này thể hiện rõ trong tư tưởng triết

học của Kant.

Khi đề cập đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền, Kant thể hiện

ra thái độ phê phán gay gắt xã hội đương thời mà ông đang sống, một xã hội

xuất phát từ tiền đề cá nhân tự do trong đó manh nha tội ác, bạo loạn, phản

ánh cuộc sống hiện thực hết sức khắc nghiệt. Kant đã nhận thức được điều đó,

90

sau này triết gia hậu thế Nietzsche cũng lo lắng về điều đó.

Kant cho rằng, sự hợp nhất giữa hạnh phúc và đức hạnh là“giá trị tối

cao”, theo Kant, con người không chỉ là một “thực thể cảm tính” mong muốn

có hạnh phúc mà bên cạnh đó còn là “thực thể tư duy” luôn hướng tới cuộc

sống đức hạnh. Nhưng trong cuộc sống mà con người đã trải qua, nhiều kẻ

không có đức hạnh lại có hạnh phúc, ngược lại những người có đức hạnh lại

bất hạnh. Câu hỏi đặt ra là: Vậy con người cần phải làm gì để vươn tới giá trị

tối cao đó? Kant cho rằng, con người cần phải hành động theo “mệnh lệnh

tuyệt đối”. Phải tôn trọng phẩm giá của con người, đối xử với mọi người là

mục đích chứ không phải là phương tiện.

Khi Kant coi hành vi đạo đức là hành vi định hướng vào toàn thể loài

người và sự hưng thịnh của họ với tư cách phúc lợi tối cao. Quan hệ pháp lý

định hướng vào ý chí hữu hạn của những cá thể và những mối liên hệ bên

ngoài, lạnh nhạt của họ. Kant đã phản ánh đúng quan hệ thực tế đương thời

giữa đạo đức và pháp luật: toàn bộ sự nhân từ hiện hành hoàn toàn sinh ra từ

nỗi sợ hãi bị trừng phạt hay những mất mát. Động cơ của chủ thể hành động

quyết định tính chất của hành vi là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa tính

đạo đức và tính hợp pháp của hành vi.

Kant đạo đức hóa những vấn đề xã hội, đây là một bước ngoặt quan

trọng trong lịch sử đạo đức phương Tây. Kant muốn xây dựng một học thuyết

pháp quyền độc lập với đạo đức nhưng thực tế, triết học đạo đức của ông luôn

là cơ sở cho học thuyết pháp quyền. Trong triết học đạo đức, tự do được Kant

hiểu là sự độc lập tự quyết trong hành vi, thì trong triết học pháp quyền, tự do

được xem là sự tự ban hành luật, tự giác thực thi luật pháp. Luật pháp hướng

tới mục đích cao cả đó chính là đạo đức.

Tư tưởng về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền thể hiện cụ thể

và sâu sắc hơn trong tác phẩm “Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu” được Kant

91

hoàn thành vào năm (1795) sau sự kiện ký kết Hiệp ước hòa bình giữa Baden

và nước Pháp chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và các nước quân chủ Châu

Âu. Hướng tư duy của Kant tới suy tư về một nền hòa bình trên toàn thế giới,

có thể xây dựng liên minh hòa bình giữa các quốc gia, dân tộc. Kant đã đưa ra

những phác thảo nguyên tắc đạo đức, cơ sở của luật quốc tế, mong muốn xây

dựng một thế giới đại đồng. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp

vốn có trong triết học Kant, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức học. Kant lập

luận cho sự tồn tại hài hòa giữa tự nhiên, giữa những mệnh lệnh, nguyên tắc,

lý tính đạo đức, phản bác lại những quan điểm đối nghịch khi cho rằng đạo

đức và pháp quyền không có sự tương đồng, hoàn toàn đối lập nhau, hay pháp

quyền hình thành không liên quan gì tới lĩnh vực đạo đức, ông kịch liệt lên án

những người cho rằng không thể có một nền hòa bình vĩnh cửu.

Kant cho rằng giữa đạo đức và pháp quyền có sự thống nhất về mặt

nguyên tắc. Sự hòa hợp giữa luật pháp và đạo đức phải được đo lường bằng

tiêu chuẩn pháp luật, được công khai minh bạch, theo nguyên tắc công bố áp

dụng trong luật quốc tế, nếu đó là một công bố về ý chí của một quốc gia nào

đó, được coi như điều kiện pháp lý. Kant cho rằng sự hình thành luật quốc tế

vô cùng cần thiết và quan trọng nếu không có luật thì hiệu năng của công

pháp quốc tế sẽ không thực hiện được.

Pháp quyền là những nguyên tắc, quy định mang tính cưỡng chế răn đe

con người về quyền hạn tối cao, về lợi ích còn đạo đức là con đường đúng đắn

hướng con người thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó. Những mâu thuẫn

giữa đạo đức và pháp quyền được chế định bởi khát vọng vị kỷ về lợi ích

riêng của những cá nhân riêng biệt ở mỗi quốc gia khác nhau. Hành vi đạo

đức phải phù hợp với yêu cầu của “mệnh lệnh tuyệt đối”. Và các nguyên tắc,

quyết định của pháp quyền cần phải xuất phát từ lợi ích của cả dân tộc, từ tính

92

bổn phận pháp lý thuần túy.

Tư tưởng nhân văn của Kant đã ảnh hưởng đến sự phát triển quan điểm

về triết học thực tiễn về đạo đức và pháp quyền trong triết học sau ông. Đặc

biệt phải kể đến tư tưởng triết học thực tiễn của Fichte (1762 - 1804). Kế thừa

tư tưởng nhân văn của triết học đạo đức Kant, triết học thực tiễn của Fichte

xem con người là trung tâm của mọi vấn đề triết học, khẳng định quyền tự do

của con người. Fichte cho rằng con người vừa là một “thực thể cảm tính” với

bản năng tự nhiên vừa là “thực thể lý tính” với bản năng tinh thần. Nếu Kant

cho rằng, hành vi đạo đức là hành vi xuất phát từ một “ý chí tốt” thì Fichte

cũng lập luận rằng ý chí đạo đức là ý chí lý tính thuần túy, mang tính phổ quát

và tất yếu. Cũng như Kant, Fichte cho rằng chỉ những hành vi xuất phát từ

bổn phận tồn tại trong lương tâm mỗi người mới là hành vi có đạo đức. Fichte

khẳng định quyền lực chỉ có thể có khi nó là ý chí pháp luật. Sử dụng quyền

lực và giám sát thông qua phân quyền giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà

nước nào đó được cho là pháp quyền khi hiện thực hóa những quyền cá nhân

của con người.

Trong tác phẩm “Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu” Kant đưa ra

nguyên tắc đạo đức mà ông cho rằng pháp quyền cần phải dựa vào đó để xác

lập nền hòa bình cho mọi quốc gia trên thế giới. Bổn phận của con người do

lý tính quyết định, Kant đặc biệt đề cao vai trò của lý tính trong việc nhận biết

các quy tắc đạo đức là chuẩn mực hay không. Lý tính có thể tạo nên sự đồng

thuận, hòa bình chung sống giữa các quốc gia với nhau nhằm hướng tới mục

đích chung. Con người muốn đạt được mục đích cao cả đó phải hoàn thiện

nhân cách đạo đức của mình.

Kant cho rằng, xét về phương diện lý luận thì đạo đức và pháp quyền

không mâu thuẫn nhau, mục đích của đạo đức và pháp quyền đều có sự thống

nhất đều tuân thủ quy luật khách quan mà nguồn gốc hình thành chính là lý

93

tính. Nhưng mặt khác Kant cho rằng trên thực tế, đạo đức và pháp quyền có

sự khác nhau. Pháp quyền và đạo đức góp phần sửa đổi những hạn chế tiêu

cực của một chế độ nhà nước nào đó. Đạo đức không phụ thuộc vào mục đích

của pháp quyền, đạo đức và pháp quyền có thể dung hợp với nhau nhằm bảo

vệ quyền của con người.

Kant thừa nhận tự do ý chí của cá nhân, bên cạnh đó ông đồng ý rằng,

hạn chế tự do bằng luật pháp vì mục đích chung là nên làm. Nhưng cần tạo ra

sự thống nhất về ý chí chung đó để đạt được nền hòa bình vĩnh cửu. Muốn đạt

được nền hòa bình vĩnh cửu cần nâng cao tinh thần pháp luật, thượng tôn luật

pháp, sở dĩ khó có thể đạt tới nền hòa bình vĩnh cửu là do con người tự đặt

mình trên pháp luật, không coi trọng pháp luật. Kant kịch liệt phê phán các

hình thức chiến tranh phi nghĩa nhưng mặt khác lại cho rằng chiến tranh tự nó

là một hiện tượng tự nhiên hữu ích nhằm để bảo vệ bản sắc, độc lập các dân

tộc, kích thích sự phát triển và cần phải duy trì những quy tắc pháp quyền tối

thượng cơ sở cần thiết của đạo đức.

Sự tương đồng giữa đạo đức và pháp quyền còn được thể hiện trong sự

tiến bộ thường xuyên của các nhà nước qua từng giai đoạn lịch sử. Kant cho

rằng sự phát triển của nhân loại sẽ dẫn tới sự phát triển của đạo đức, và nhờ

có đạo đức mà có thể hiện thực hóa được các mục đích pháp quyền. Đạo đức

là mục đích chân chính của nền văn minh nhân loại, trong đó lý tính là

nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của đạo đức, nhằm đưa đến một

xã hội công dân dựa trên pháp quyền. Kant cho rằng khi luật pháp được xây

dựng trên móng nhà của lý tính thực tiễn. Thì xã hội có thể hòa bình vĩnh cửu.

Cùng với những mặt tương đồng giữa đạo đức và pháp quyền, Kant cũng cho

rằng sự bất đồng giữa đạo đức và pháp quyền không phải không có, nếu pháp

quyền cứng rắn thì đạo đức là mềm dẻo hơn, nguyên nhân sinh ra sự bất đồng

này là sự ích kỷ của con người, lòng tham lam, tư tưởng vụ lợi. Kant cho rằng

94

luật quốc tế cần phải dựa trên mối quan hệ hài hòa giữa đạo đức và pháp

quyền. Tư tưởng của Kant về nền hòa bình vĩnh cửu là một tư tưởng tiến bộ,

có ý nghĩa lớn đối với tiến trình hòa bình thế giới.

3.2. Triết học pháp quyền của Kant - sự tiếp tục triển khai những

nguyên lý của triết học đạo đức trong thực tiễn

Trong tác phẩm “Siêu hình học của đạo đức” (1797), Kant cho rằng:

“Triết học đạo đức và triết học pháp quyền đều là những học thuyết về trách

nhiệm, bổn phận”[Dẫn theo 38, tr.109]. Giữa đạo đức và pháp quyền trong

triết học Kant đều có đối tượng nghiên cứu chung là con người và xã hội loài

người, vấn đề tự do và làm thế nào để đạt được tự do. Nhưng giữa chúng có

sự khác biệt rõ rệt. Khi triết học đạo đức nói về trách nhiệm bên trong, thì triết

học pháp quyền chỉ quan tâm đến trách nhiệm bền ngoài có thể cưỡng chế

được của hành vi mà không hỏi đến quan niệm đạo đức, cái mà từ đó các

trách nhiệm được thực hiện hay vi phạm. [Dẫn theo 38, tr.109].

Khác với triết học pháp quyền của Fichte ngay từ đầu khẳng định sự

khác biệt giữa đạo đức và pháp quyền, ở Kant sự phân biệt giữa đạo đức và

pháp quyền chỉ rõ ràng khi xuất bản lần thứ hai “Siêu hình học của đạo đức”

năm 1798. Lần xuất bản này người ta thấy tiêu đề tác phẩm có đề cập đến học

thuyết pháp quyền, điều trong lần xuất bản đầu tiên 1797 chưa thấy có. Ông

chỉ ra tính đặc thù của đạo đức theo con đường phân định nó với pháp quyền.

Mặc dù triết học đạo đức và triết học pháp quyền ở Kant được xem là

hai lĩnh vực độc lập, nhưng chúng có chung một đối tượng nghiên cứu, đó là

vấn đề tự do.Tự do ý chí trong triết hoc của Kant là tự do đạo đức và pháp

luật. Tuy nhiên trong khi triết học đạo đức tìm cách giải thích khái niệm tự do

là gì, con người có tự do hay không, nhằm hướng con người sống và hành

động có đạo đức, thì triết học pháp quyền lại đề cập đến vấn đề căn nguyên

95

của tự do và làm thế nào để có thể đảm bảo được quyền tự do đó?.

Theo Kant con người là “một thực thể lý tính” cần phải hướng tới giá

trị đạo đức tối cao: sự hợp nhất giữa đức hạnh, sự cảm nhận hạnh phúc và xây

dựng một “vương quốc tự do” là mục đích chung của toàn thế giới. Pháp

quyền là một trong những phương hướng giúp con người tiến dần đến sự

hoàn thiện, tuyệt đối đó. Vấn đề cơ bản mà Kant quan tâm trong triết học đạo

đức và triết học pháp quyền là vấn đề tự do và cùng với nó là quyền và phẩm

giá con người. Tự do là quyền tự nhiên, quyền sống và là quyền làm người

của mỗi cá nhân. Để đảm bảo quyền tự do đó mỗi người phải nhận biết quyền

và nghĩa vụ của mình, không bao giờ để bản thân hay bất cứ ai biến mình trở

thành phương tiện mà luôn là mục đích. Mặt khác quyền tự do đó cần phải

được đảm bảo bằng pháp luật và quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước

phù hợp nhất có thể đảm bảo quyền tự do của con người là hình thức chính

phủ cộng hòa với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp độc lập

với nhau.Trong đó quyền lập pháp phải thuộc về công dân, quyền tư pháp do

đại diện công dân bầu ra thông qua bầu cử tự do. Kant cho rằng chỉ hình thức

nhà nước này mới có thể đảm bảo tự do cá nhân mà không cản trở quyền tự

do của những người còn lại.

Trên thực tế, những vấn đề về giá trị pháp quyền (tự do, công bằng,

quyền con người,…) mà triết học pháp quyền của Kant quan tâm cũng đồng

thời là những giá trị đạo đức tối cao mà con người hướng tới là mục tiêu của

các thể chế chính trị pháp quyền hiện đại. Cho nên việc nghiên cứu tư tưởng

pháp quyền khó có thể tách rời với triết học đạo đức. Một trong những vấn đề

cơ bản của triết học đạo đức là đi tìm “gía trị tối cao” đây không chỉ là mục

đích của hành vi đạo đức mà còn là mục đích của triết học pháp quyền. Quan

hệ giữa pháp luật và đạo đức là mối quan hệ bổ sung cho nhau trong quá trình

điều chỉnh hành vi của con người. Trong hệ thống các quan hệ xã hội, có

96

nhiều nhóm quan hệ là đối tượng điều chỉnh chung của cả pháp luật lẫn đạo

đức. Nhưng lại có nhiều quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của đạo đức

nhưng lại không thể là đối tượng điều chỉnh của pháp luật, và cũng có những

quan hệ xã hội chỉ là đối tượng điểu chỉnh của pháp luật mà đạo đức không

thể can thiệp. Khi đánh giá hành vi con người xuất phát từ tiêu chí pháp luật

và đạo đức, có những hành vi hợp pháp đồng thời là hành vi hợp đạo đức.

Nhưng bên cạnh đó cũng có những hành vi hợp pháp, nhưng không hợp đạo

đức và ngược lại.

Triết học đạo đức tìm lời giải đáp cho câu hỏi “cái tốt nhất cho con

người là gì?,triết học pháp quyền quan tâm tới vấn đề: làm thế nào để có thể

thực hiện được những giá trị tối cao đó?.

Chúng ta nhận thấy rằng tư tưởng pháp quyền của Kant luôn gắn liền

với những tư tưởng đạo đức mà nguyên tắc cơ bản của nó là giá trị tuyệt đối

của con người trong mọi quan hệ xã hội. Sự khẳng định giá trị người xuất

phát từ quyền làm người và nghĩa vụ của mỗi người đối với bản thân, với mọi

người, chính là sự thể hiện tư tưởng về giá trị tuyệt đối và nguyên tắc tôn

trọng phẩm giá con người.

Kant bàn về luật hình sự đối với mọi công dân trong một quốc gia. Duy

chỉ người đứng đầu quốc gia đó thì được miễn trừ truy tố, luật hình sự là luật

chống lại kẻ vi phạm pháp luật, nhưng theo Kant không thể trừng phạt người

đứng đầu quốc gia mà người ta chỉ có thể tước quyền cai trị của ông ta. Bên

cạnh đó, trong luật hình sự Kant đã tán thành hình phạt tử hình, bởi ông cho

rằng nếu công lý lụi tàn thì cuộc sống của con người trên trái đất này chẳng có

giá trị gì. Như vậy, giữa tư tưởng của triết học đạo đức và triết học pháp

quyền đã có sự mâu thuẫn, và đó là một trong những hạn chế của triết học

Kant.

Theo Kant muốn thực hiện được quy luật đạo đức, con người cần phải

97

có niềm tin là mình có tự do và có sự tồn tại của Thượng đế để trợ giúp cho

hành vi đạo đức của mình. Chính ở điểm này đạo đức và pháp luật liên quan

tới tôn giáo khi Kant cho rằng có một lực lượng vô hình nào đó chính là

Thượng đế đã thôi thúc con người làm theo đạo đức. Quan niệm trên cho thấy

ở Kant đạo đức và pháp luật gặp nhau ở tôn giáo.“Chân” là yếu tố đại diện

cho pháp luật, “thiện” đại diện cho đạo đức. Sự thống nhất giữa đạo đức và

pháp luật được hiểu theo nghĩa cái gì đúng với chuẩn mực đạo đức cũng phù

hợp với luật pháp. Chính là sự thống nhất giữa “Chân - Thiện - Mỹ”, toàn bộ

triết học Kant hướng tới là con người hoàn thiện. Đạo đức, pháp quyền, tôn

giáo đều là những lĩnh vực gắn liền với nhau.

Kant phân biệt các động lực bên ngoài và bên trong của hành vi xã hội.

Các động lực bên ngoài là động lực pháp lý và được thực hiện nhờ bạo lực.

Các động lực bên trong sinh ra từ ý thức về bổn phận nội tâm và thực chất nội

tại của bản thân công việc là các động cơ của đạo đức. Hay pháp luật chỉ có

quan hệ với hành vi, còn đạo đức với niềm tin Kant viết: “Đạo đức học nghiên

cứu hành vi cần phải trở nên như thế nào nếu hành vi đó không xuất hiện từ

một bạo lực nào đó, mà chỉ do có một niềm tin đạo đức”.

Kant không đơn giản xuất phát từ tiền đề là cá nhân tự do, ông đồng

thời chỉ ra sự tha hóa của con người với tư cách chủ thể của những chuẩn mực

pháp lý. Đạo đức khắc phục sự tha hóa đó, thể hiện như là bước chuyển lập

pháp thành đạo đức. Đây không những là vấn đề thời Kant sống mà còn là

vấn đề cấp thiết của xã hội hiện đại, khi mà cuộc sống xã hội đòi hỏi phải đề

cao nguyên tắc pháp quyền và đồng thời cũng đặt lên hàng đầu các quyền tự

do cá nhân. Kant nhận thấy luật pháp và đạo đức là hai mặt đối lập bổ sung

cho nhau, là sự thống nhất mang tính hình thức của tính chủ quan và tính

khách quan trong hành vi.

Dù còn nhiều hạn chế khi Kant không hề đề cập đến bản chất giai cấp

98

của pháp quyền, tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, coi ý chí thuần túy là

nguyên tắc của hành động. Nhưng những tư tưởng của ông về tự do, bình

đẳng như những giá trị tuyệt đối của con người và phương thức để có thể đảm

bảo được quyền và phẩm giá con người trong triết học đạo đức và triết học

pháp quyền luôn đọng lại trong lịch sử tư tưởng văn minh thế giới, tạo động

lực cho cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay.

3.3. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền

của Kant

3.3.1. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức của Kant

Kant là người đầu tiên đặt toàn diện vấn đề trong nhiều khảo hướng đạo

đức, nỗ lực này của ông đã định hình cho khuôn mẫu giá trị mới, lý thuyết

đạo đức mà con người cần hướng tới nhằm hoàn thiện chính mình. Kant

chứng minh các nguyên tắc đạo đức có thể kết hợp toàn diện với nhau, động

lực thúc đẩy xã hội tiến bộ, văn minh, hòa bình trên toàn nhân loại. Nhưng

những tư tưởng của Kant bên cạnh mặt tích cực, quan niệm của ông cũng

không tránh khỏi những hạn chế.

Thứ nhất, Kant đề cao tính nghĩa vụ của đạo đức.

Tính chất nghĩa vụ là một trong những đặc trưng cơ bản của đạo đức

học. Kant phê phán việc đề cao mục đích, lấy mục đích làm cơ sở hình thành

cho hành vi đạo đức. Kant quan niệm rằng hành vi chỉ thực sự có giá trị đạo

đức khi được quan niệm là những nghĩa vụ đạo đức thuần túy, chứ không phải

vì bất cứ một mục đích nào. Ý thức có tính nghiêm ngặt không cho phép bất

cứ một điều kiện nào được phép tham gia vào hành vi đạo đức. Hành vi đạo

đức vừa là hình thức bên ngoài vừa thể hiện ở động cơ chủ quan bên trong.

Hành vi đạo đức phù hợp với quy luật luân lý, xuất phát từ động cơ thuần túy

trong sự tôn kính với quy luật. Lập trường đạo đức học của Kant được xếp

vào lập trường đạo đức nghĩa vụ đây là một trong những đặc trưng cơ bản

99

nhất trong hệ thống đạo đức học của Kant.

Thứ hai, về lập trường giai cấp.

Đạo đức học của Kant thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, hướng tới khám

phá những giá trị chung, phổ quát của nhân loại. Quy luật đạo đức, hành xử

đạo đức chung cho nhân loại. Kant không phân biệt giai cấp, dân tộc, đây là

điểm hợp lý của Kant, nhưng Kant lại bỏ quên những giá trị đặc thù của thời

đại, dân tộc là hạn chế của ông.

Thứ ba, Kant đã thấy được mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị.

Đạo đức là phần căn bản nhất của đời sống xã hội, còn chính trị - pháp

quyền - lịch sử lại chỉ là đạo đức học ứng dụng. Trong hệ thống triết học của

Kant đạo đức chính là cơ sở, nền tảng của xã hội và lĩnh vực chính trị - pháp

quyền - lịch sử là sự triển khai đạo đức học. Đạo đức chính là mục đích tối

cao, các lĩnh vực còn lại sẽ nhắm tới thực hiện mục đích tối cao đó.

Thứ tư, Kant đề cao tính thực tiễn của đạo đức.

Đạo đức làm cho nó hiện thực trong cuộc sống của mọi người. Mục

đích trong toàn bộ hệ thống triết học của Kant là giải quyết vấn đề trong thực

tiễn cuộc sống để tìm ra nguyên tắc cơ bản cho thực tiễn, hoạt động của con

người. Kant muốn tìm ra phương pháp đạo đức thích hợp, phổ biến giúp cho

dân chúng hướng tới đời sống đạo đức có hiệu quả nhất, hạn chế lớn ở Kant là

ông không cho thấy vai trò điều kiện kinh tế - xã hội đối với đời sống đạo đức

của con người, nhấn mạnh tính phổ quát quy luật đạo đức mà lại không tính

đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Thứ năm, đạo đức học của Kant có tính nhân đạo.

Kant lấy con người làm mục đích tối cao cho toàn bộ hệ thống lý luận

của mình, ông cho rằng cần đối xử với con người không phải là phương tiện

mà chính là mục đích, lấy sự thiện tối cao làm mục đích lý tưởng. Khi khẳng

100

định tính tiên nghiệm của lý tính, Kant đồng thời thừa nhận tính chất tiến bộ

về mặt lịch sử của nó trong đời sống hiện thực của con người. Chính niềm tin

vào lý tính đã đưa Kant đến sự giáo điều của tính khuôn mẫu, hình thức,

muốn tư duy của con người phải tuân theo những hình thức xác định của lý

tính như những công thức toán học khô cứng, không có sự mềm dẻo, không

có sự uyển chuyển, vận động theo sự vận động của hiện thực.

Thứ sáu, Kant đứng trên lập trường duy lý để xem xét vấn đề đạo đức.

Kant là nhà triết học chịu ảnh hưởng lớn của phong trào khai sáng với

tư tưởng đề cao giải phóng lý trí khỏi sự nô dịch của thần học, tôn giáo. Kant

đã có đóng góp lớn cho nền triết học phương Tây. Nhưng khi coi lý tính là

nguồn gốc duy nhất để xác định giá trị hành vi, gạt bỏ mặt tình cảm con người

và yếu tố lợi ích trong mọi quan hệ xã hội thì học đạo đức của Kant rơi vào

chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng. Kant cho rằng tính hình thức của một quy luật

đạo đức là điều kiện tiên quyết để có thể cưỡng chế con người thực hiện hành

vi đạo đức là phi thực tế, vì ý chí đạo đức của con người luôn bị chi phối bởi

điều kiện sống cụ thể bởi những quan hệ kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy vậy khi

để cho ý niệm “Thượng đế”, “Linh hồn bất tử” tham gia vào đạo đức học, ông

đã thấy được vai trò của nhân tố khác bên cạnh những năng lực tư duy trí tuệ

của cuộc sống.

3.3.2. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về pháp quyền của Kant

Gía trị trong triết học pháp quyền của Kant

Thứ nhất, khẳng định quyền con người, tư tưởng mang đậm tính nhân

văn, nhân đạo của Kant.

Kant cho rằng con người sinh ra là tự do và bình đẳng, khẳng định

được giá trị người, quyền tự nhiên, nghĩa vụ của con người cũng như hình

thức và quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho quyền con người được thực

101

thi. Đây chính là những ý tưởng mang đậm chất nhân văn, thể hiện khát vọng

của giai cấp tư sản tiến bộ Đức trong thế kỷ XVIII nhằm giải phóng con

người khỏi những gông cùm của chế độ phong kiến hà khắc lúc bấy giờ.

Thứ hai, tư tưởng hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu của Kant có ý

nghĩa thời sự đối với thời đại ngày nay.

Những vấn đề Kant đặt ra, nhất là vấn đề chiến tranh và hòa bình, sự

độc lập, tự chủ của một dân tộc, nhân phẩm, quyền con người luôn luôn là

vấn đề cả nhân loại quan tâm, hướng đến.

Thứ ba, tư tưởng pháp quyền của Kant ảnh hưởng đến công cuộc xây

dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới và Việt Nam hiện nay.

Đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, vai trò của triết học pháp

quyền nói chung và triết học pháp quyền của Kant nói riêng vẫn rất quan

trọng đối với sự phát triển từng quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Bất kỳ một

quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên luật pháp.

Thứ tư, tư tưởng về công bằng xã hội - mục đích của triết học pháp

quyền của Kant có giá trị sâu sắc.

Để đạt được mục đích của triết học pháp quyền, Kant cho rằng phải có

sự bình đẳng và an toàn về mặt pháp lý. Điều này có giá trị sâu sắc đặc biệt

với thời đại ngày nay, với nền kinh tế thị trường có mặt ở hầu hết các nước

trên thế giới, thị trường đòi hỏi những cơ chế tự điều chỉnh từ phía các công

cụ chính trị để thích nghi với điều kiện mới.

Thứ năm, tư tưởng pháp quyền của Kant về sự liên minh giữa các quốc

gia đã phần nào trở thành hiện thực ở Châu Âu và Châu Á.

Với việc tăng cường thống nhất trong Liên minh Châu Âu xuất phát từ

lịch sử và sự ràng buộc chung về tiêu chí của một nhà nước pháp quyền hiện

đại, quan trọng nhất là quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm, thân thể con

102

người. Liên minh Châu Âu là liên minh kinh tế - chính trị bao gồm 28 thành

viên thuộc Châu Âu. Hoạt động theo cơ chế phát triển thị trường chung, thông

qua hệ thống luật pháp, tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên

nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người. Hay hiệp hội các nước

Đông Nam Á (Asean) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội

của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Asean gồm có 11 quốc gia

thành viên với mục đích xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, an ninh

quốc phòng của các nước trong khu vực.

Hạn chế trong triết học pháp quyền của Kant

Thứ nhất, do hạn chế bởi tính quy định của lịch sử thời đại nên nhiều

tư tưởng pháp quyền của Kant chỉ mang tính lý tưởng, xa rời hiện thực, khó

có thể thể áp dụng vào hiện thực.

Trên quan điểm của chủ nghĩa duy lý Kant đã tuyệt đối hóa vai trò của

lý tính và sức mạnh tinh thần, ông cho rằng nhà nước được hình thành dựa trên

khế ước mà Kant tiếp thu tư tưởng của Rousseau và luật tự nhiên là phổ biến

nên tư tưởng pháp quyền của Kant còn mang nặng tính duy tâm, phi lịch sử.

Thứ hai, những nhận định của Kant về sự liên minh giữa các dân tộc,

về một nền hòa bình vĩnh cửu lâu dài trên toàn thế giới dựa trên sự tin tưởng

lẫn nhau là phi thực tế.

Vì thực tế cho thấy trên thế giới vẫn luôn xảy ra xung đột chiến tranh,

khủng bố để tranh giành địa vị thống trị, tiềm lực kinh tế, các lớn nuốt cá bé,

nước giàu lấn át nước nghèo trên mọi phương diện.

Thứ ba, tư tưởng pháp quyền của Kant chứa đựng nhiều mâu thuẫn

Một mặt lấy khái niệm tự do làm cơ sở lập luận cho những vấn đề pháp

quyền, theo đó chỉ có nhân dân mới có thể là người đứng đầu nhà nước,

quyền lập pháp thuộc về công dân. Mặt khác, Kant lại cho rằng chỉ những

103

“công dân tích cực” mới có quyền tham gia bầu cử hiến pháp chung, ông đã

mâu thuẫn với chính những lập luận của mình. Thực tế hiện nay trong xã hội

phương Tây cho thấy quyền lập pháp tối cao không thuộc về nhân dân, mà

thuộc về giai cấp tư sản, giai cấp nắm nhiều tiềm lực về kinh tế. Có thể thấy

tư tưởng của Kant chỉ nằm trong ý tưởng và suy nghĩ cá nhân, không xuất

phát từ thực tế cuộc sống, chỉ đơn thuần dựa trên niềm tin lý tính của một triết

gia duy lý điển hình.

Thứ tư, Kant đề xuất việc thiết lập hiến pháp cộng hòa và đề cao

nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.

Với tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, triết gia người Đức đã đề xuất

quan điểm các nước, đặc biệt là các nước lớn không nên can thiệp vào công

việc nội bộ của các nước khác. Nhưng những nỗ lực đó cho đến nay đều thất

bại vì thiếu cơ sở cho việc điều hành một thể chế công quyền, lãnh đạo cũng

không từ bỏ quyền lực độc tài để chấp nhận dân chủ, nhất là khi bạo lực và

mầm mống đe dọa bạo lực vẫn còn.

Tình trạng chiến tranh xung đột bạo lực hiện nay vẫn thường xuyên

diễn ra trên thế giới. Kant cho rằng sự tiến hóa tuần tự về thể chế con người là

chủ yếu trong việc xây dựng hòa bình thế giới. Những nguyên tắc về luật

pháp với đạo đức có thể tổng hợp lại với nhau. Nhưng tương lai họ thấy một

nền hòa bình không thể nào kỳ vọng được vì hợp tác thể chế luôn thất bại, lý

do của sự thất bại đó là do các tác nhân không thể giải quyết vấn đề hòa bình

dựa vào những hậu quả do quyền lợi vị kỷ và quốc gia.

3.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức và pháp quyền

trong triết học Kant đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam

Kế thừa tư tưởng Khai sáng của các bậc tiền bối khi đề cao vai trò của

lý tính và sự tiến bộ của con người. Kant đã đi sâu nghiên cứu con người

104

trong mọi lĩnh vực đặc biệt là đạo đức và pháp quyền. Con người trong triết

học Kant không chỉ là “một thực thể tự nhiên” mà còn là “một thực thể tự do”

tức tự quyết và tự ban hành luật. Mục đích con người hướng tới là tự do, bình

đẳng. Những tư tưởng nhân văn của Kant đã có ý nghĩa không những đến sự

hình thành và phát triển của nền triết học cổ điển Đức, mà còn đến sự hình

thành, phát triển và hoàn thiện các thể chế chính trị pháp quyền trên thế giới

trong đó có Việt Nam.

Triết học pháp quyền của Kant xuất phát từ triết học đạo đức về vấn đề

“bản tính tự nhiên” của con người như tham lam, ích kỷ, thiện ác.. để luận

giải cho “luật tự nhiên” như: chung sống thành cộng đồng xã hội, duy trì nòi

giống đi đến khẳng định quyền tự nhiên của con người cần có: quyền tự

quyết, tự ban hành luật, quyền sống, quyền tự do, sau đó đưa ra các hình thức

và phương thức quyền lực nhà nước trên cơ sở kế thừa tư tưởng về tam quyền

phân lập của các bậc tiền bối như Locke, Montesquieu, Rousseau để đảm bảo

quyền tự nhiên của con người.

Tư tưởng triết học pháp quyền của Kant cho rằng mỗi nhà nước cần

đảm bảo quyền tự nhiên của con người, con người không hoàn toàn tự do

trong việc ban hành luật mà phải dựa trên nhân quyền. Tư tưởng này đã tác

động không nhỏ tới thể chế chính trị pháp quyền phương Tây nói riêng và thể

chế chính trị pháp quyền trên thế giới nói chung. Trong xu thế toàn cầu hóa,

quốc tế hóa hiện nay vai trò của triết học đạo đức và pháp quyền càng phải được

đề cao đối với sự phát triển của từng quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam.

Nội dung quan trọng xuyên suốt trong tư tưởng triết học pháp quyền

của Kant là vấn đề con người, quyền tự nhiên của con người. Mục đích cao

nhất mà triết học pháp quyền hướng tới là đạt được sự công bằng, bình đẳng.

Bình đẳng là điều rất cần thiết trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều

thành phần như hiện nay ở Việt Nam. Trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo,

105

điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, thông qua đó ban hành luật nhằm đảm bảo

lợi ích kinh tế cho cá nhân, tập thể. Chức năng của pháp quyền là điều chỉnh

mọi hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Nhưng pháp luật

cũng cần thay đổi để phù hợp với chuẩn mực đạo đức, phải tính toán và có

định hướng cho sự phát triển, đảm bảo lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng.

Bên cạnh tư tưởng về pháp quyền tự nhiên, đảm bảo quyền con người

thì tư tưởng về sự liên minh giữa các quốc gia độc lập cùng tồn tại và phát

triển vì một nền hòa bình vĩnh cửu của Kant đã phần nào trở thành hiện thực

không những ở Châu Âu với việc thành lập và phát triển liên minh châu Âu

xuất phát từ lịch sử ràng buộc chung về tiêu chí của một nhà nước pháp quyền

hiện đại, quan trọng nhất là quyền bất khả xâm phạm về nhân quyền mà còn

hình thành phát triển ở châu Á với sự ra đời của tổ chức Asean. Tuy nhiên ta

thấy rằng tư tưởng pháp quyền mỗi thời đại, mỗi dân tộc không phải hoàn

toàn giống nhau, mỗi dân tộc đều có một thể chế chính trị pháp quyền riêng,

nhưng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học pháp quyền như quyền tự

nhiên bất khả tước đoạt của con người có thể áp dụng cho mọi nền văn hóa,

mọi quốc gia dân tộc. Vì vậy việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức và pháp quyền

của Kant có ý nghĩa nhất định đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trên một số khía cạnh sau:

Vận dụng sáng tạo tư tưởng phân chia và thống nhất quyền lực trong tổ

chức bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thực tế cho thấy Việt Nam đã trải qua nhiều lần thay đổi hiến pháp

nhưng nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công

và phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân làm

chủ trong đó cơ quan cao nhất là Quốc hội. Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung

trong đó thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước, phân biệt rõ chức năng

106

nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát.

Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ sự

kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đứng đầu là chủ

tịch nước có quyền ký các luật đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ có thể

trình dự án luật cho Quốc hội thảo luận và thông qua đó thực chất là một hình

thức kiểm soát lập pháp từ hành pháp. Khi Quốc hội giám sát công việc của

Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện kiểm soát Nhân dân tối cao

cũng có nghĩa là cơ quan lập pháp có quyền can thiệp vào cơ quan hành pháp

và tư pháp. Ba ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng vừa có sự độc lập vừa có sự hợp tác trong hoạt động của mình. Khi xây

dựng, hoàn thiện thể chế chính trị pháp quyền ở nước ta điều cấp thiết là

chúng ta phải nghiên cứu một cách hệ thống, có chọn lọc kế thừa những tư

tưởng tiến bộ của các triết gia phương Tây trong đó có Kant, kế thừa nguyên

tắc tam quyền phân lập nhưng cần phải loại bỏ những khuynh hướng không

phù hợp với thể chế, điều kiện hoàn cảnh đất nước để vận dụng một cách phù

hợp nhất.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính dân chủ trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,

do dân, vì dân. Thực chất của vấn đề dân chủ là dân chủ về kinh tế, chính trị

và văn hóa. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân chủ được thể

hiện ở cả ba lĩnh vực trên, muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền

việc đầu tiên cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng và phát huy

sức mạnh pháp luật trong việc ban hành và thực thi. Mọi lĩnh vực quan trọng

của đời sống xã hội đều được điều chỉnh bằng các bộ luật đáp ứng mục đích cao

nhất là quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng luật pháp, đảm bảo điều kiện hội

107

nhập với thế giới và khu vực, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Trên cơ sở tiếp thu thành tựu tư tưởng về triết học pháp quyền trong

lịch sử, khi hoàn thiện thể chế pháp quyền, cần phải làm rõ vấn đề lý tính của

pháp luật, pháp luật phải phù hợp với hiện thực khách quan, tạo tiền đề cho

các lĩnh vực khác trong xã hội phát triển. Tăng cường tính dân chủ trong việc

thực thi luật pháp, Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã xác định phải đẩy mạnh cải

cách, tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Sau

đó đến Đại hội X, Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh công cuộc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng

nhiệm vụ, tổ chức bộ máy: cán bộ, công chức: phương thức hoạt động” [5,

tr.253]. Trong nghị quyết nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu

vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện

mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện

quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường

lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không

có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” [6, tr.44]. Đại hội

XI, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân

và vì dân, do Đảng lãnh đạo” [7, tr.246].

Qúa trình xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời gian qua của nước

ta đã minh chứng khẳng định tính đúng đắn về lý luận đi lên nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng là phù hợp với xu thế phát triển của thời

đại. Phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân với phương châm “dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra” được thực hiện sát sao, nhiều bộ luật được xây dựng

108

và đưa vào cuộc sống.

Chú trọng hợp thức hóa các quyền cơ bản của con người trong các đạo luật

Trong quan niệm về triết học pháp quyền của Kant, ông đã đề cập đến

quyền tự nhiên của con người trong nhà nước nhằm đảm bảo những quyền đó

được thực hiện một cách công bằng, cho nên Việt Nam xây dựng nhà nước

pháp quyền phải thấy được tầm quan trọng của quyền con người trong quan

niệm của Kant. Nhà nước ra đời phải đảm bảo quyền con người, tăng cường

kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu lớn nhất mà Đảng và nhà nước ta hướng tới là

đảm bảo quyền con người, ngay trong những dòng đầu tiên của bản Tuyên

ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Hồ Chí Minh có

viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ

những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có

quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [17, tr.1].

Việt Nam đã đưa cách tiếp cận của thế giới về nhân quyền vào Hiến

pháp được sửa đổi bổ sung qua nhiều năm trong đó Hiến pháp 2013 nêu rõ:

“bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiên mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” [14, tr.9-10]. Việc quy

định các quyền cơ bản của con người trong Hiến pháp là điều quan trọng và

109

phải làm sao cho các quyền ấy đi vào cuộc sống, vận dụng trong thực tiễn.

KẾT LUẬN

Triết học Kant như một cột mốc vĩ đại trong tiến trình lịch sử tư tưởng

nhân loại. Kant đi vào lịch sử như một nhà nhân đạo sâu sắc với nhiều đóng

góp quan trọng trong lĩnh vực triết học thực tiễn. Triết học thực tiễn của Kant

dựa trên tiêu chí hướng thiện, cho con người và vì con người, tiêu chí đánh

giá mọi hành động của cá nhân và cộng đồng, quyền cơ bản của mỗi người,

lợi ích chung của nhân loại phải được coi trọng hàng đầu. Kế thừa những tư

tưởng tiến bộ của triết học Kant, các nhà nghiên cứu triết học cổ điển Đức,

các nhà triết học Mác - xít, nhiều trào lưu triết học hiện đại đều cho rằng, con

người là trung tâm của các vấn đề triết học.

Tất cả các vấn đề triết học từ triết gia Kant trở đi đều đề cập đến giá trị

con người, ý nghĩa cuộc sống của con người, mặc dù lý giải về những vấn đề

này khác nhau. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm chủ quan, triết học thực

tiễn của Kant đã tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, coi ý chí thuần túy của con

người là nguyên tắc của hành động, nó không đề cập đến hoàn cảnh và hiệu

quả của hành vi đối với bản thân chủ thể hành động và xã hội. Kant chỉ hiểu

thực tiễn là hoạt động đạo đức, pháp quyền, văn hóa, tôn giáo chứ không phải

là toàn bộ hoạt động vật chất của con người mang tính lịch sử - xã hội nhằm

cải tạo tự nhiên xã hội, nên triết học thực tiễn của Kant nói chung hay mối

quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền của Kant nói riêng mang tính lý tưởng,

xa rời cuộc sống hiện thực đương thời.

Tuy nhiên ý tưởng của Kant về liên minh giữa các quốc gia dân tộc nay

đã trở thành hiện thực với mô hình liên minh châu Âu. Nguyên tắc bình đẳng

giữa các dân tộc và không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác của Kant

đề ra, sau này được ghi vào Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Những tư tưởng

triết học của ông, nhất là tư tưởng về triết học đạo đức và triết học pháp quyền

110

đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu triết học, luật học và nhân

học trên toàn thế giới. Ông đã giúp chúng ta biết kính trọng những mệnh lệnh

của quy luật đạo đức, tức quy luật làm người, chứng minh cho chúng ta thấy

rằng, các nguyên tắc về pháp quyền và đạo đức có thể kết hợp với nhau, cổ vũ

cho quyền tự quyết cá nhân, động lực thúc đẩy tiến trình hòa bình thế giới.

Cái cao cả nhất trong triết học Kant hướng tới là giá trị chân - thiện -

mỹ làm sao cho con người trở nên hoàn thiện, sự phát triển khoa học, pháp

luật phải phù hợp với đạo đức. Kant đóng góp không nhỏ cho sự phát triển

quan niệm về triết học đạo đức và pháp quyền ở Phương Tây nói riêng và nền

chính trị pháp lý và tư tưởng nhà nước của nhân loại nói chung. Tư tưởng triết

học Kant đã khơi dậy nguồn cảm hứng cho các trường phái triết học từ thế kỷ

XIX đến nay.

Kế thừa và phát huy những tư tưởng trong triết học đạo đức cũng như

triết học pháp quyền của Kant, các nhà triết học cổ điển Đức, và các nhà triết

học Mác cùng nhiều trào lưu triết học hiện đại đều có chung một quan điểm

cho rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chìa khóa để giải quyết mọi

vấn đề. Đề cao giá trị và cuộc sống của con người, cái đích mà triết học

hướng đến là vì con người và cho con người. Con người chính là chủ thể của

quá trình hoạt động thực tiễn. Triết học Mác - Lênin là sự kế thừa những giá

trị hợp lý của triết học Kant về mặt lý luận. Trong đó triết học đạo đức như

ngọn đèn soi sáng mang đến thông điệp hòa bình cho nhân loại, mong muốn

một cuộc sống bình đẳng, không có chiến tranh, không có áp bức, con người

gắn kết, yêu thương cùng chung sống trên trái đất.

Có thể thấy rằng lịch sử phát triển của triết học toàn nhân loại nói

chung và lịch sử phát triển triết học Châu Âu từ thế kỷ XIX là quá trình không

ngừng tiếp thu, truyền bá, đấu tranh, cải biến xã hội, và triết học Kant đóng

góp không nhỏ cho sự phát triển chung đó. Triết học đạo đức và pháp quyền

111

của Kant ảnh hưởng sâu sắc đến các phong trào giải phóng dân tộc, giải

phóng tư tưởng, giải phóng con người, hướng con người đến với tự do, đến

với chân lý. Hiện nay trong sự hội nhập toàn cầu hóa nền kinh tế, con người

ngày càng tiến xa hơn trong sự phát triển văn minh của mình thì những giá trị

đạo đức và pháp quyền mà Kant tạo dựng ngày càng trở nên cần thiết hơn bao

giờ hết trong cuộc sống của con người. Chính vì điều đó mà triết học Kant

cần được nghiên cứu sâu hơn để giúp con người định hướng bản thân mình,

112

phát triển những giá trị nhân văn cao đẹp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristotle (2013), Chính trị luận, dịch và chú giải Nông Duy Trường, Nxb.

Thế giới.

2. Bùi Thị Thùy Dương (2012), Những điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền XNCN Việt Nam, “Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế”, Nxb. Đại

học Quốc gia Hà Nội.

3. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học trung cổ Tây Âu, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Dương Phú Hiệp (2012), Đặc điểm của sự hình thành nhà nước pháp

quyền Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr. 253.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Sđd, tr.44.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr. 246.

8. Đặng Hữu Toàn (2013), Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà

nước với tư cách cộng đồng luật pháp, Triết học, số 8 (267).

9. Đinh Ngọc Thạch, Doãn Chính (2018), Lịch sử triết học Phương Tây tập 1 từ

triết học cổ đại đến triết học cổ điển Đức, Nxb. Chính trị Quốc Gia sự thật.

10. Đinh Ngọc Vượng (1992), Tam quyền phân lập, Viện thông tin khoa học

xã hội Việt Nam.

11. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương lịch

sử triết học Phương Tây hiện đại cuối thế kỉ XIX- nửa đầu thế kỉ XX, Nxb.

Tổng hợp TP. HCM

113

12. Đỗ Minh Hợp (2010), Nhập môn triết học, Nxb. Giáo dục Hà Nội.

13. Johanner Hirschberger (1991), Lịch sử triết học, tập 1, người dịch

Nguyễn Quang Hưng, hiệu đính Phạm Quang Minh, Nxb. Herder.

14. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb.

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.

15. Hoàng Thị Hạnh (2009), Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật - vận dụng

vấn đề này trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam. Thông tin KHXH.

16. Hoàng Thị Hạnh (2009), Góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức và

pháp luật, Thông tin KHXH.

17. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.

18. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành, Nxb. Tri thức (Bùi Văn

Nam Sơn dịch và chú giải 2004).

19. Immannuel Kant, Phê phán khả năng suy diễn, Nxb. Văn học ( Bùi Văn

Nam Sơn dịch và chú giải 2007).

20. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thuần túy, Nxb. Văn học ( Bùi Văn

Nam Sơn dịch và chú giải 2004).

21. Lê Anh Đào (2006), Về khái niệm nhà nước pháp quyền, Tạp chí khoa

học chính trị, số 2, Tr.28 - 32.

22. Lê Tôn Nghiêm (2007), Đâu là căn nguyên tư tưởng? Hay con đường

triết lý từ Kant đến Heidegger, Nxb. Văn học.

23. Lê Công Sự (2009), J. Locke và triết lí về con người, Nghiên cứu con

người, số 3.

24. Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức, Nxb. Thế giới.

25. Lê Công Sự (2007), Thomas Hobbes và triết lí về con người, Nghiên cứu

con người, số 2.

26. Lê Công Sự (2008), Quan điểm của J. Locke về sự hình thành và bản

114

chất của quyền lực nhà nước, Thông tin chính trị học, số 3 (38).

27. Lê Thị Thủy (2004), Một số khía cạnh đạo đức trong triết học Cantơ, Kỷ

yếu hội thảo quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia.

28. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Người dịch Lê Tuấn

Huy, Nxb.Tri thức.

29. Lý Anh, Vương Tiếu Lý (2005), Tinh hóa trí tuệ nhân loại, Người dịch,

Nguyễn Tuấn Minh, Nxb. Lao động.

30. C. Mác và Ăngghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 1.

31. C. Mác và Ănghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 3.

32. C. Mác và Ăngghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 20.

33. Bernard Morichere & nhóm giáo sư triết học các trường đại học Pháp

(2010), Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại, Nxb.Văn hóa

thông tin

34. Mai Vũ Dũng, Quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về mối quan hệ giữa đạo

đức và pháp luật trong “Nam sơn tùng thoại”. Tạp chí triết học số 6/ 2008.

35. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Người dịch Hoàng Thanh

Đạm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

36. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Hữu Toàn (1997),

I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Nxb. Khoa học Xã hội.

37. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện

thời của nó, Triết học cổ điển Đức những vấn đề nhận thức luận và đạo

đức học, Nxb. Chính trị quốc gia.

38. Ngô Thị Mỹ Dung (2016), Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức,

Nxb.Chính trị Quốc gia sự thật.

39. Ngô Thị Mỹ Dung,“Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học pháp

quyền trong triết học Immanuel Kant” tạp chí Khoa học xã hội, Viện

115

KHXH vùng Nam bộ, số 05, 2007, tr.17 -21.

40. Ngô Thị Mỹ Dung (2004), Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng

của nó đối với nền triết học phương Tây, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Nxb.

Chính trị Quốc gia.

41. Ngô Thị Mỹ Dung, Sự kế thừa tư tưởng triết học đạo đức của Immanuel

Kant trong triết học thực tiễn của Johann Gottlied Fichte, Tạp chí Khoa

học xã hội, Viện KHXH vùng Nam bộ, số 06, 2009, tr.03 – 08.

42. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb. Văn

nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

43. Nguyễn Bá Dương (2012), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của

dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học

quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

44. Nguyễn Chí Hiếu (2005), Triết học Cantơ dưới nhãn quan của G.W.F.

Heghen, Tạp chí triết học, số 4.

45. Nguyễn Vũ Hảo (2004), Tư tưởng của I.Cantơ về sự thống nhất của lý

luận nhận thức, đạo đức học trong nhân học, Triết học cổ điển Đức

những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị quốc gia.

46. Nguyễn Thị Hoài (2012), Một vài khía cạnh đạo đức trong tổ chức nhà

nước. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

47. Ted Honderic (2002), Hành trình cùng triết học, Nxb.Văn hóa Thông tin

Hà Nội.

48. Nguyễn Quang Hưng (2013), Triết học chính trị xã hội của I. Kant, J.G.

Fichte và G.W.F.Hegel, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

49. Nguyễn Quang Hưng (2004), Chủ nghĩa nhân đạo trong đạo đức học của

I. Cantơ: ảo tưởng hay hiện thực? (qua phân tích ý tưởng của I. Cantơ về

một nền hòa bình vĩnh cửu).Triết học cổ điển Đức những vấn đề nhận

thức luận, Nxb. Chính trị Quốc gia.

116

50. Nguyễn Văn Huyên (1996), Triết học Imanuen Cantơ, Nxb. Khoa học Xã hội.

51. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2004), Tư tưởng của J.J.Rousseau về quyền

con người, Tạp chí triết học, số 6 (277).

52. Nguyễn Kim Lai (2004), Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của

Cantơ, Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức

học, Nxb. Chính trị Quốc gia.

53. Nguyễn Thế Nghĩa (2004), Quan niệm của I.Cantơ về mối quan hệ giữa ý

chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức.Triết học cổ điển Đức:

Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia.

54. Nguyễn Thế Nghĩa (2004), Quan niệm của I.Cantơ về mối quan hệ giữa ý

chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức, Tạp chí khoa học xã hội,

số 12.

55. Nguyễn Văn Sanh (2004), Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời

sống xã hội khác trong quan điểm đạo đức học của Cantơ.Triết học cổ

điển Đức: những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị

Quốc gia.

56. Nguyễn Anh Tuấn (2012), Nguồn gốc của pháp quyền và nhà nước từ

góc nhìn đạo đức học.Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học

Quốc gia Hà Nội.

57. Nguyễn Thị Kim Thanh (2012), Vai trò của đạo đức trong xây dựng nhà

nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế,

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

58. Nguyễn Đình Thi (1994), Triết học Kant, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.

59. Nguyễn Quang Thông, Tống Văn Chung (1990), Lịch sử triết học cổ đại

Hy - La. Tập 1, tủ sách Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Thúy (2014), Sự phát triển quan niệm về nhà nước pháp

quyền trong triết học Phương Tây cận đại, luận văn thạc sỹ triết học,

Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

117

61. Nguyễn Ước (2009), Các chủ đề triết học, Nxb. Tri thức.

62. Nguyễn Thúy Vân (2012), Cách tiếp cận triết học khái niệm nhà nước pháp

quyền, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

63. Nguyễn Hữu Vui (2007), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia.

64. Phạm Công Nhất (2012), Vài nét về lịch sử hình thành nhà nước, nhà

nước pháp quyền và quan niệm về mô hình, đặc điểm tổ chức nhà nước

pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế,

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

65. Phạm Thái Việt (2004), Phạm trù“thực tiễn” trong triết học cổ điển

Đức.Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học,

Nxb. Chính trị Quốc gia

66. Phan Thành Nhâm, Lê Thị Vinh (2012), Bảo vệ quyền con người trong

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa

học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

67. Quang Chiến (chủ biên), Chân dung triết gia Đức, Trung tâm văn hóa

ngôn ngữ Đông Tây.

68. Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, người dịch Hoàng Thanh Đạm,

Nxb. thành phố Hồ Chí Minh.

69. Samuel Enoch Stumpf (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb.Lao động.

70. Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến Derrida, Nxb. Văn hóa thông tin.

71. Tư Tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh (2001),

(Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân biên dịch).

72. Trần Thái Đỉnh (1972), Triết học Kant. Nxb. Văn hóa thông tin.

73. Trần Đăng Sinh (2012), Vấn đề dân chủ trong nhà nước pháp quyền

XHCN ở Việt Nam.Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

118

74. Trần Đăng Sinh (chủ biên) (2009), Lịch sử triết học, Nxb. Đại học sư phạm.

75. Trịnh Duy Huy (2004), Quan hệ giữa cá thể và cộng đồng trong học

thuyết đạo đức học của Cantơ.Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận

thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia.

76. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nxb. Khoa học Xã hội.

77. Trần Hậu Thành (2000), Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân chia

phối hợp giữa các quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước,

tạp chí lý luận chính trị số 6, t24 -28.

78. Trần Hậu Thành (2000), Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, Phân viện

Hà Nội. Tạp chí Lý luận chính trị số 2.

79. Vũ Thị Thu Lan (2004), Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của

Kant, Viện triết học (luận văn thạc sỹ).

80. Vũ Đình Phòng, Lê Huy Hòa (2003), Những luận thuyết nổi tiếng thế

giới, Nxb. Văn hóa thông tin.

81. Vương Đức Phong - Ngô Đình Hiếu (2003), Thập đại tùng thư - 10 nhà

119

tư tưởng lớn thế giới (Phong Đảo dịch). Nxb Văn hóa thông tin.