ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
LẠI THỊ MAI
QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
LẠI THỊ MAI
QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. HOÀNG THỊ HẠNH
Hà Nội - 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 7
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu....................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7
CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT .................................. 8
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................... 8
1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp quyền
của Kant ...................................................................................................... 11
1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant ........................................ 21
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 27
2.1. Quan niệm của Kant về đạo đức ......................................................... 27
2.1.1. “Tự do” phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant .................. 29
2.1.2. Các quy luật hay định lý xác định hành vi đạo đức ............................. 36
2.1.3. Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của Kant................................ 43
2.1.4. Sự thiện tối cao trong đạo đức học của Kant ...................................... 50
2.2. Quan niệm của Kant về pháp quyền .................................................. 56
2.2.1. Mục đích của triết học pháp quyền ..................................................... 57
2.2.2. Trách nhiệm pháp lý ........................................................................... 65
2.2.3. Các quyền cơ bản trong triết học pháp quyền ..................................... 76
2.2.4. Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà nước .......................... 81
CHƢƠNG 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT.................................................................... 90
3.1. Đạo đức - cơ sở hình thành pháp quyền ............................................. 90
3.2. Triết học pháp quyền của Kant - sự tiếp tục triển khai những nguyên
lý của triết học đạo đức trong thực tiễn .................................................... 95
3.3. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant 99
3.3.1. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức của Kant ................... 99
3.3.2. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về pháp quyền của Kant ............ 101
3.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức và pháp quyền
trong triết học Kant đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................... 104
KẾT LUẬN ............................................................................................... 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 113
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kant người sáng lập triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng vĩ đại mà cho
đến ngày nay những tác phẩm của Kant vẫn đang được các nhà nghiên cứu
quan tâm và tìm hiểu. Các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học, các
luận văn, luận án tiến sĩ, các sách chuyên khảo về ông vẫn đều đặn được in ra.
Bởi di sản của ông để lại hết sức phong phú và phức tạp đi vào nhiều vấn đề,
nhiều khía cạnh, nêu lên những ý tưởng mới, trừu tượng, nhiều mâu thuẫn.
Cho đến nay dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về Kant nhưng không phải
ai cũng hiểu ông một cách hoàn toàn giống nhau, người ta có thể chấp nhận
hoặc phê phán ông từ nhiều phía khác nhau. Nhưng dù phê phán thế nào thì
người ta cũng đều thừa nhận rằng Kant là nhà triết học, nhà văn hóa vĩ đại của
nhân loại. Nhiều tư tưởng của ông từng là cơ sở cho không ít quan niệm triết học
và các cuộc tranh luận trên thế giới. Trong đó tư tưởng về đạo đức và pháp
quyền là một trong những vấn đề cốt yếu trong triết học thực tiễn của Kant.
Kant đã đặt ra và giải quyết hàng loạt các vấn đề thực tiễn không chỉ
ảnh hưởng tới sự phát triển tư tưởng triết học Châu Âu mà còn trên khắp thế
giới và cho đến ngày nay vẫn là vấn đề cấp thiết và cần được nghiên cứu.
Trên cơ sở tài liệu mà nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu về nhiều vấn đề
trong đó có những vấn đề thuộc lĩnh vực triết học thực tiễn của Kant như đạo
đức và pháp quyền. Tác giả luận văn muốn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề đạo
đức và pháp quyền trong triết học của Kant.
Trong thời đại ngày nay với sự bùng nổ của tri thức khoa học con
người đang đứng trước nghịch lý, mâu thuẫn không dễ giải quyết. Cùng với
sự phát triển của tri thức khoa học, phương tiện công nghệ mới, đời sống vật
1
chất tuy được đảm bảo, nhưng con người ngày càng xuống cấp suy thoái về
mặt đạo đức, bất chấp pháp luật. Mất phương hướng trong nhiều vấn đề của
cuộc sống, sinh thái môi trường, chiến tranh, xung đột sắc tộc, khoảng cách
giàu nghèo, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, con người dùng chính những
thành tựu khoa học công nghệ để chống lại loài người.
Vì vậy vấn đề đạo đức và pháp quyền càng cần được nghiên cứu và là
vấn đề vô cùng cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng mang tính thời đại. Pháp
quyền hiện thân của nó là nhà nước ấn định trình độ tổ chức thực tiễn đạo
đức. Với những ai phủ nhận sạch trơn pháp quyền, thì sự rao giảng đạo đức sẽ
mất đi những cầu nối và điểm tựa trong môi trường thực tế. Từ những lý do
nhận thức và thực tiễn đó tôi chọn đề tài“Quan niệm về đạo đức và pháp
quyền trong triết học Immanuel Kant”để làm luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Kant
về đạo đạo và pháp quyền.
Nhóm các công trình bàn về vấn đề đạo đức phải kể đến“Triết học cổ
điển Đức:Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”. Đây là những bài
viết của nhiều tác giả được in thành “Kỷ yếu hội thảo quốc tế”, kỷ niệm 200
năm ngày mất của Kant. Kỷ yếu có nhiều bài viết về đạo đức học, tiêu biểu
phải kể đến“Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện thời của nó” của
Nguyễn Trọng Chuẩn.“Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng của nó đối
với nền triết học phương Tây” của Ngô Thị Mỹ Dung, “Chủ nghĩa nhân đạo
trong đạo đức học của I.Cantơ:Aỏ tưởng hay hiện thực?(Qua phân tích ý
tưởng của I.Cantơ về một nền hòa bình vĩnh cửu) của Nguyễn Quang Hưng
hay “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim
Lai.“Đạo đức học Cantơ và tư tưởng văn hóa hòa bình” của Vũ Thị Thu Lan.
“I.Cantơ và phạm trù nghĩa vụ đạo đức” của Võ Minh Tuấn. Những bài viết
2
này đã tập trung làm rõ những nội dung và ý nghĩa của đạo đức học Kant như:
Bổn phận và nghĩa vụ đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, lý tưởng về một nền hòa
bình vĩnh cửu, tự do ý chí. Đó là những đóng góp có giá trị cho việc nghiên
cứu có tính hệ thống hơn quan niệm về đạo đức của Kant.
Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình khác nghiên cứu về đạo đức học
của Kant như cuốn sách mang tên“Triết học Kant” của Trần Thái Đỉnh được
nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1972. Ở đây Trần Thái Đỉnh đã
trình bày toàn bộ hệ thống triết học Kant một cách cụ thể, sâu sắc, thông qua
các tác phẩm của triết gia này, nội dung cuốn sách đề cập đến là quan niệm
của Kant về nguyên tắc, động cơ, đối tượng, mệnh lệnh của lý tính thực hành.
Tiếp theo là công trình của Nguyễn Văn Huyên mang tên“Triết học
Imanuen Cantơ” được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1996, học
giả đã hệ thống lại toàn bộ triết học Kant. Ngoài ra còn kể đến các nghiên cứu
của Nguyễn Huy Hoàng với tác phẩm “Chân dung triết gia Đức” (2000).
Hay những nghiên cứu về đạo đức học của Kant của tác giả Vũ Thị Thu Lan
được thể hiện trong luận văn thạc sỹ với đề tài “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo
đức học của Cantơ” (2004). Lê Công Sự trong tác phẩm“Triết học cổ điển
Đức” (2006) của nhà xuất bản Thế giới. Nhìn chung các tác phẩm này đã
đánh giá khá toàn diện và sâu sắc về đạo đức học của Kant.
Gần đây luận án tiến sỹ của Vũ Thị Thu Lan với đề tài “Đạo đức học
của Kant và những giá trị, hạn chế của nó” (2010). Trong luận án trên Vũ
Thị Thu Lan đã khái quát những phạm trù cơ bản của đạo đức học Kant như:
Thiên hướng, ý chí, lý tính thực tiễn, nguyên tắc... Tác giả đi sâu làm rõ vấn
đề mệnh lệnh tuyệt đối, thấy được Kant xây dựng đạo đức học như một khoa
học, làm sâu sắc hơn hệ thống các phạm trù.
Nhóm các công trình nghiên cứu về pháp quyền của triết học Kant
có“Một số quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương
3
Tây”của Nguyễn Vũ Hảo, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, được
nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2012. Tác giả đã khái
quát các tư tưởng về nhà nước pháp quyền từ thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại
tới thời kỳ cận hiện đại ở phương Tây trong đó nêu lên đóng góp của Kant
cho việc xây dựng và phát triển học thuyết về nhà nước pháp quyền.
“Quan niệm của I.Kant về pháp quyền trong nhà nước với tư cách
cộng đồng luật pháp” của Đặng Hữu Toàn được in trong Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế (2012). Tác giả đi sâu phân tích nhiều khía cạnh vấn đề nhà
nước với tư cách cộng đồng luật pháp về vai trò của pháp quyền trong nhà
nước, quan niệm của Kant về một nhà nước lý tưởng.
Cùng bàn về vấn đề triết học pháp quyền cuốn sách“Triết học chính trị
xã hội của I. Kant, J.G. Fichte và G.W.F. Hegel” của Nguyễn Quang Hưng
được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2013. Tác giả đã
làm rõ nhiều vấn đề nêu lên tư tưởng quan trọng trong quan niệm về pháp
quyền của Kant, phân tích các quyền riêng tư, quyền con người, luật công,
trình bày rõ các hình thức quyền lực nhà nước mà Kant đã kế thừa từ các bậc
tiền bối nhất là các nhà khai sáng Pháp Montesquieu và Rousseau về phân
chia quyền lực trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
“Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XX”,được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật ấn hành năm 2016 của Ngô
Thị Mỹ Dung. Trong đó tác giả đã cố gắng trình bày và phân tích một cách có
hệ thống tư tưởng triết học pháp quyền Đức từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX,
tác giả phân tích một cách cơ bản vấn đề nhà nước và pháp luật, triết học pháp
quyền. Theo tác giả, Kant đã khẳng định quyền tự nhiên, nghĩa vụ của con
người cũng như hình thức và quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho những
quyền và nghĩa vụ đó được thực thi. Con người trong triết học pháp quyền
4
của Kant được hiểu là chủ thể độc lập, chủ thể tự quyết và tự ban hành luật.
Nhóm những công trình bàn về mối quan hệ giữa pháp quyền và đạo
đức có: “Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học pháp quyền trong
triết học Immanuel Kant” của Ngô Thị Mỹ Dung được đăng trên Tạp chí
Khoa học xã hội, Viện KHXH vùng Nam bộ, số 05, 2007, tr.17 -21. Trong bài
viết này, tác giả trình bày nội dung cơ bản triết học đạo đức và triết học pháp
quyền của Kant. Theo tác giả triết học pháp quyền của Kant là sự tiếp tục
triển khai những nguyên lý của triết học đạo đức trong thực tiễn.
Tiếp theo là “Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời sống xã hội
khác trong quan điểm đạo đức học của Kant” của Nguyễn Văn Sanh. In trong
tác phẩm “Triết học cổ điển đức những vấn đề nhận thức luận và đạo đức
học”. Ở đây tác giả khái quát quan niệm của Kant về mối quan hệ giữa đạo
đức với các lĩnh vực đời sống xã hội như quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo,
đạo đức và văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật để thấy
Kant đã làm sáng tỏ tính đặc thù của đạo đức theo sự phân định với pháp luật,
động lực bên ngoài và bên trong của hành vi xã hội.
Trong luận văn có phần giới thiệu về điều kiện, tiền đề, sự ra đời triết
học Kant cũng như tiểu sử của ông. Về vấn đề này luận văn chủ yếu khai thác
các tài liệu như “I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của
Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên). Will Durant (1994), “Tuyển tập danh tác
triết học từ Plato đến Derrida”, Ted Honderich (chủ biên) (2002). Câu
chuyện triết học (qua chân dung Plato Aristote Bacon Kant Spinoza Volttaire
Spencer), Samuel Enoch Stumpf (2004), “Lịch sử triết học và các luận đề”,
Nxb lao động. Forrest E. Baird (2006), Hành trình cùng triết học, Nhà xuất
bản văn hóa thông tin Hà Nội. Phần cuối tập 2 của “Phê phán lý tính thuần
túy” của Immanuel Kant do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải xuất bản
5
2014.
Các công trình, bài viết của các tác giả trước đó về Kant có ưu điểm đã
phân tích và chỉ rõ thế nào là đạo đức, bản chất, đặc điểm trong quan niệm
của Kant. Bàn về triết học thực tiễn của Kant có rất nhiều đề tài, nhưng chưa
có đề tài nào nghiên cứu sâu, hệ thống hóa cả về đạo đức và pháp quyền trong
triết học Kant, đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng, vì lý do đó nên tác giả luận
văn muốn góp phần làm rõ hơn quan niệm của Kant về triết học đạo đức và
triết học pháp quyền làm cơ sở giải quyết các vấn đề đời sống xã hội Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là: Phân tích những điều kiện, tiền đề hình
thành quan niệm đạo đức và pháp quyền, làm rõ những nội dung cơ bản về
đạo đức và pháp quyền, mối quan hệ giữa chúng trong triết học Kant, qua đó
chỉ ra giá trị và hạn chế của nó.
- Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng đạo đức và pháp
quyền trong triết học Kant.
+ Phân tích những quan niệm cơ bản về đạo đức và pháp quyền, mối
quan hệ giữa chúng trong triết học Kant.
+ Chỉ ra giá trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền
của Kant.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quan niệm về đạo đức và pháp
quyền trong triết học Kant.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các nội
6
dung cơ bản về đạo đức và pháp quyền trong triết học Kant.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó tiếp cận nghiên cứu nội dung đạo
đức và pháp quyền trong triết học Kant.
+ Luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phân tích quan điểm của Kant về
đạo đức và pháp quyền trong các tác phẩm chủ yếu như: Phê phán lý tính thực
hành, Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán khả năng suy diễn, Hướng tới một
nền hòa bình vĩnh cửu.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng cách tiếp cận khách quan, biện chứng
+ Luận văn vận dụng phương pháp triết học chủ yếu như phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống nhất logic và lịch sử, phương pháp khái quát hóa,
trừu tượng hóa, phương pháp thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn cho thấy rõ ràng, sâu sắc hơn quan niệm
của Kant về đạo đức và pháp quyền, những điều liên quan trực tiếp tới cuộc
sống hiện thực, thêm vào đó cũng thấy con người ngày càng đánh mất tự do,
đạo đức, bất chấp pháp luật. Luận văn phân tích rõ mối quan hệ, sự tác động
giữa đạo đức và pháp quyền, chỉ ra những giá trị và hạn chế chủ yếu trong
quan niệm về đạo đức và pháp quyền của Kant.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập
và nghiên cứu các môn lịch sử triết học, triết học Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 8 tiết.
CHƢƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN CỦA KANT
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren
và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng
lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm
quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên
lỗi thời.
Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh,
Pháp... đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Những
thành tựu kinh tế mà đỉnh cao là cách mạng công nghiệp ở Anh càng khẳng
định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới cùng với
cuộc cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở
đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại. Những thành tựu
về kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục tạo điều kiện, tiền đề quan trọng cho
sự phát triển khoa học nói chung, triết học nói riêng. Những tiến bộ của khoa
học với việc phát minh ra điện tạo bước nhảy vọt từ công trường thủ công tới
công nghiệp cơ khí. Bên cạnh sự phát triển của khoa học như một nhu cầu
lịch sử, triết học thâm nhập vào cuộc sống, tìm tòi và khám phá sức mạnh lý
tính con người, trong đó triết học I.Kant là một ví dụ điển hình cho khuynh
hướng đó.
Trong khi nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt, thì ở
nước Đức cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, sự
phân tán về kinh tế và chính trị là lực cản lớn của nước Đức trên con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước Đức nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
8
XIX vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, suốt từ năm 1618 đến năm
1648 xảy ra liên tiếp các cuộc chiến tranh với nước láng giềng làm tình hình
đất nước kiệt quệ, trì trệ. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hà khắc, tư tưởng dân
chủ, tiến bộ bị chèn ép. Nước Đức so với các nước châu Âu khác như Anh lạc
hậu hơn 200 năm, với Pháp 50 năm.
Về kinh tế, nền kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến
lạc hậu, ruộng đất tập trung chủ yếu trong tay các địa chủ, những tàn dư của
chế độ nông nô khiến cho năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân hết sức
bấp bênh, khốn khổ và cùng cực.
Về chính trị, triều đình Phổ đứng đầu là Vua Friedrich Wilhem II rất
bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ chuyên
chế hà khắc, dã man.
Về tư tưởng, hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý
luận. Thần học là khoa học cơ bản trong các trường đại học tổng hợp, triết
học thỏa hiệp với tôn giáo.
Trước một thực trạng xã hội rối ren, phức tạp và mâu thuẫn chồng chất,
mặc dù kinh tế, chính trị nước Đức thời kỳ này còn lạc hậu, nhưng triết học,
nghệ thuật và văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Nước Đức là nơi sinh ra
nhiều nhà tư tưởng nhà văn nổi tiếng như Gớt, Sinlơ, Hécđơ…Fichte những
tác phẩm của họ toát lên tinh thần bất thuận và thái độ phẫn nộ đối với sự bất
công trong xã hội đương thời. Giai cấp tư sản Đức ra đời muộn hơn so với
nước khác cho nên đã tiếp thu được kinh nghiệm của các dân tộc đi trước, kế
thừa có chọn lọc, phát triển trong điều kiện của mình, bất chấp sự khó khăn về
vật chất, tri thức và tư tưởng có sự tiến bộ xa hơn. Mặc dù bị nước Anh và
Pháp vượt xa về kinh tế, song nước Đức với cuộc cách mạng trong lĩnh vực lý
9
trí đạt nhiều thành tựu về văn hóa triết học.
Thời kỳ này mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao, mâu thuẫn giữa lý tưởng
và hiện thực xã hội. Nước Đức tuy lạc hậu hơn hẳn về kinh tế và chính trị dẫn
đến mâu thuẫn xã hội càng khó giải quyết. Một mặt các triết gia Đức thừa
nhận tiến trình lịch sử là không thể đảo ngược nhưng mặt khác các triết gia
Đức không chấp nhận cái giá phải trả cho tự do và dân chủ.
Các nhà tư tưởng Đức lấy tư duy triết học làm vũ khí phê phán và
chuyển tải tư tưởng cách mạng, đối với họ triết học là nơi thể hiện khát vọng
cải tạo hiện thực của con người. Những thành tựu tiêu biểu nhất mà các nhà
triết học Đức đạt được trong thời kỳ này là phép biện chứng. Thực tiễn đặt ra
nhu cầu phải thay đổi tư duy. Các nhà triết học Đức dưới tác động của chuyển
biến kinh tế, chính trị xã hội tại Anh, Pháp đã tìm cách thay đổi tư duy. Trong
xã hội tư bản phép biện chứng thâm nhập trong mọi khoa học, thể hiện tính
năng động và phát triển của thời đại, tồn tại trong hệ thống duy tâm, tư tưởng
tiến bộ, cách mạng hòa chung với các yếu tố bảo thủ.
Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí thức
Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến Kant. Bối cảnh lịch sử, tiền đề thực
tiễn của triết học Kant là cách mạng Pháp và hiện thực nước Đức nửa sau thế
kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Cách mạng Pháp, lý tưởng của các nhà khai
sáng được hiện thực hóa, tác động không nhỏ đến định hướng về dân chủ, nhân
văn trong triết học Kant, khơi dậy tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ
nghĩa giáo điều và bảo thủ trong khoa học lẫn chính trị. Triết học Kant được ví
như “triết học Đức của cách mạng Pháp”, vì sao vậy? Như trên cũng đã nói,
hiện thực nước Đức được thể hiện ở hệ thống triết học Kant một mặt phản ánh
khát vọng chiến thắng lý trí trước những điều phi lý, muốn vượt qua cuộc sống
hiện thực khắc nghiệt. Mặt khác chịu ảnh hưởng của hiện thực, buộc nhà triết
10
học phải chấp nhận giới hạn của sự tự do, tuân thủ các chuẩn mực phổ biến đã
trở thành “mệnh lệnh tuyệt đối”. Mâu thuẫn của triết học Kant cũng chính là
mâu thuẫn của thực tại được tái hiện lại trong hệ thống lý luận.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng triết học thực tiễn
của Kant (trong đó có tư tưởng về đạo đức và pháp quyền) là sản phẩm tất
yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu
thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó.
1.2. Những tiền đề lý luận hình thành quan niệm đạo đức và pháp
quyền của Kant
Cũng như những hệ thống triết học khác, triết học Kant không phải là
sản phẩm thuần túy của tư duy cá thể, mà có sự kế thừa chọn lọc, tinh hoa trí
tuệ nhân loại của các tư tưởng, quan điểm, các trường phái triết học trước đó,
có phê phán, lựa chọn và phát triển những tư tưởng mới, thể hiện sự phát triển
tất yếu của lịch sử. Sau thế kỷ XVIII sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của
khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm dần khẳng định vai trò của mình,
làm lu mờ phương pháp tư duy siêu hình cũ. Sự ra đời về thuyết nguyên tử
của Danton (1766 - 1844), phát minh về điện của Galvani (1737 - 1798), học
thuyết về sự xuất hiện tự nhiên của trái đất từ những hạt tinh vân đầu tiên của
Laplace (1749 - 1827) đánh vào thành trì quan niệm “phi vật chất”. Những
thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của triết học Kant.
Bối cảnh lịch sử và tư tưởng của các nhà triết học ảnh hưởng mạnh mẽ
tới triết học Kant thể hiện trong những tác phẩm của ông ở hai thời kỳ chính
là tiền phê phán, và thời kỳ phê phán. Trong đó phải kể đến triết học Hy Lạp
La Mã cổ đại với những quan điểm của Socrate, Plato, Aristotle hay sau này
là các nhà khai sáng pháp như Rousseau…Cùng với đó triết học Kant ra đời,
11
hình thành và phát triển còn dưới sự ảnh hưởng bởi tư tưởng của các bậc tiền
bối trong lịch sử tại Pháp, Anh, Đức với những khám phá mới trong khoa học,
thiên văn học, vật lý.
Nhà triết học Socrate (470 - 399 Tr.CN) người thầy của Plato, là một
triết gia nổi tiếng đặc biệt quan tâm tới những vấn đề về con người, ông cho
rằng triết học không có gì khác là sự nhận thức của con người về chính bản
thân mình, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi người là nhận thức được điều
thiện, điều ác. Đề cao vai trò tri thức khái niệm trong hoạt động của con
người, nền tảng đức hạnh chính là tri thức. Kết quả của sự dốt nát, ngu ngốc
là những hành vi trái với đạo đức. Muốn đến được với tri thức thì con người
cần hoàn thiện nhân cách, phân biệt rõ ràng giữa cái thiện và cái ác, hạnh
phúc chính là đức hạnh.
Người nào nhận thức được đức hạnh là gì thì mới hiểu được hạnh phúc
là gì. Kết quả của sự không hiểu biết cái thiện chính là cái ác và bất hạnh.
Socrate bàn nhiều đến khía cạnh đạo đức trong triết học của mình, nền tảng
của đạo đức chính là chân lý và tri thức. Đóng góp lớn nhất trong triết học của
Socrate là thấy được mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận trong hoạt động
thực hành đạo đức của con người. Điểm nổi bật trong triết học của Socrate là
việc đề cao tri thức, đạo đức của con người là vấn đề trung tâm mà sau này
trong triết học đạo đức của Kant bàn nhiều tới vấn đề cái thiện, đạo đức, đức
hạnh và sự tự do của con người.
Bên cạnh quan niệm về đạo đức, Socrate còn đề cập đến tư tưởng về
pháp luật, theo Socrate luật pháp không thể tồn tại bên ngoài nhà nước, muốn
có công bằng phải phục tùng pháp luật, luật pháp là điều kiện cần thiết để
duy trì sự tồn tại của nhà nước. Ông viết: “bất cứ một đạo luật nào, mặc dù
còn thiếu sót đến đâu, cũng mang tính cứu sinh hơn tình trạng phạm pháp.
Nếu như mọi công dân đều tuân thủ theo pháp luật, thì nhà nước mà trong đó
12
họ đang sống sẽ trở nên hùng mạnh và phồn thịnh hơn nhiều” [Dẫn theo 74,
tr.3]. Dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực, giá
trị cao nhất là công lý, nghĩa là người ta tuân thủ pháp luật nhà nước. Tư
tưởng đề cao pháp luật đó, sau này Kant tiếp thu và phát triển trong hệ thống
tư tưởng pháp quyền của mình.
Một trong những học trò xuất sắc của Socrate là Plato triết gia vĩ đại
với nhiều ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại. Trong
hệ thống tư tưởng của mình Plato bàn về khía cạnh đạo đức. Ông cho rằng,
nhân cách đạo đức con người chỉ có thể có trong một nhà nước lý tưởng.
Quan niệm đạo đức của Plato thiên về tính chất xã hội. Trong xã hội, Plato
chia làm ba hạng người tương ứng với mỗi hạng người đó là phần linh hồn
của con người. Hạng người được xếp vị trí cao nhất trong xã hội đó là những
nhà triết học, những nhà thông thái, họ am hiểu mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hoạt động của họ chủ yếu chịu ảnh hưởng của lý tính. Họ là những người
nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong nhà nước lý tưởng, có thể lãnh đạo nhà
nước lý tưởng, biết kiềm chế cảm xúc, có ước mơ và lý tưởng sống hướng đến
cái cao cả, công lý.
Hạng người thứ hai trong xã hội mà Plato đề cập đến là những người
lính làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội cho nhà nước lý
tưởng, bên trong linh hồn của họ là lòng gan dạ, ý chí quật cường. Hạng
người thấp nhất trong xã hội đó là những người nông dân, những thợ thủ
công, chịu sự chi phối của cảm tính, họ phù hợp với công việc lao động chân
tay vì bản tính khi mới ra đời họ đã được gần với các sự vật cảm tính rồi,
những người sống chủ yếu bằng cảm tính để sản xuất ra của cải vật chất đảm
bảo điều kiện, nhu cầu sống của bộ máy nhà nước, họ là lực lượng lao động
chính trong xã hội.
Theo Plato trong xã hội không thể thiếu một trong ba hạng người đó, xã
13
hội muốn tồn tại phải duy trì sự tồn tại của cả ba hạng người, mỗi người phải
làm đúng và đủ bổn phận trách nhiệm của mình, từ đó dẫn dắt con người
hướng đến hành động những điều thiện. Điều ác sinh ra từ sở hữu cá thể, sở
hữu tư nhân, vì vậy điều cần làm ở xã hội lý tưởng là phải dẹp bỏ sở hữu tư
nhân, đó là nguyên nhân chính sinh ra tính ích kỷ, làm phát sinh tình trạng bất
hòa giữa người với người. Mỗi cá nhân trong xã hội phải sống vì nhà nước,
coi nhà nước là mục đích cao nhất. Hệ thống quan niệm đạo đức có tác động
đến Kant sau này khi ông bàn về các vấn đề thượng đế, phạm trù tự do, linh
hồn con người.
Về nhà nước pháp quyền trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato cho
rằng, người cầm quyền phải gạt ý chí, quyền lợi cá nhân của bản thân sang
một bên để tuân thủ ý chí, mục đích của pháp luật. Plato thấy sự suy tàn
nhanh chóng của nhà nước, nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm
dưới quyền lực của một người nào đó. Còn ở đâu mà pháp luật đứng trên nhà
cầm quyền, còn họ chỉ là nô lệ của pháp luật thì có sự cứu thoát của nhà nước.
Trong tác phẩm “Nền cộng hòa” Plato thấy tính giai cấp của pháp luật và cho
rằng pháp luật được làm bởi đảng cầm quyền vì lợi ích riêng của đảng ấy. Có
thể thấy rằng, Plato cảm nhận được sự nguy hại của chính thể quân chủ
chuyên chế, lên tiếng bảo vệ cho một hệ thống pháp luật được xây dựng trên
chính thể dân chủ cộng hòa. Plato cho rằng phải coi pháp luật là tối thượng,
chiếm vai trò hàng đầu, đề cao sự tự nguyện, tự giác của mỗi người trong việc
chấp hành luật và chính là tư tưởng đề cao pháp luật này đến triết học Kant
cũng đã đề cập đến. Kant cũng đề cao vai trò của pháp luật, sự tự giác của
mỗi người.
Aristotle bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp cổ đại, một
trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, là học
trò của Plato với phương châm “thầy là đáng quý, nhưng chân lý quý hơn”,
14
Aristotle phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Plato. Aristotle quan tâm
nhiều tới nhân bản học, quan niệm về con người, Aristotle quan niệm hai bộ
phận cấu thành con người là linh hồn và thể xác, trong linh hồn con người tồn
tại ba dạng, linh hồn thực vật, linh hồn động vật và linh hồn lý tính khi con
người chết đi thì linh hồn lý tính vẫn luôn tồn tại. Khi bàn tới lĩnh vực đạo
đức học, Aristotle cũng kế thừa một số vấn đề đạo đức của Plato về cái thiện.
Aristotle cho rằng mục đích cuộc sống chính là hướng thiện, nền tảng đạo đức
là thuyết mục đích luận, cái thiện chính là hạnh phúc. Bên cạnh cái thiện còn
tồn tại vấn đề về tự do, tự do ở đây được Aristotle hiểu là sự lựa chọn hành vi
đạo đức để đạt được cái thiện, những hành vi mang tính tự do lựa chọn có ý
thức và phải phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, phạm trù tiếp theo mà
Aristotle bàn đến chính là nhân đức, con người muốn có nhân đức thì phải có
những thói quen tốt.
Aristotle hiểu nhân đức như thế nào? Ông cho rằng có hai loại nhân
đức đó là nhân đức đạo đức và nhân đức tri thức. Muốn có nhân đức tri thức
con người cần phải học tập và được giáo dục, nhân đức đạo đức do tập quán
thói quen mà thành, Aristotle cho rằng hành vi của con người như trộm cắp,
giết người cần phải loại bỏ để có nhân đức. Tư tưởng về cái thiện và hành vi
đạo đức của Aristotle sau này đã được Kant kế thừa và phát triển.
Không chỉ bàn về các vấn đề đạo đức Aristotle còn bàn về vấn đề pháp
quyền, nhà nước. Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào thế kỷ thứ IV trước
công nguyên là cơ sở thực tiễn cho ông đi đến những quan điểm về nhà nước
với tư tưởng chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố hay ba phương diện:
lập pháp, hành chính và phân xử. Aristotle cho rằng nhà nước là một tổ chức
phức tạp, tập hợp những cá thể khác nhau về nhiệm vụ, tài sản, phẩm chất đạo
đức, trình độ hiểu biết, luật pháp không phải là cái có sẵn mà xây dựng nên từ
những giá trị truyền thống, phong tục tập quán lâu đời, có tính chất bền vững.
15
Trong nhà nước luật pháp phải giữ vị trí tối thượng: “hãy để luật pháp, chứ
không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn luôn để tư lợi
và tình cảm xen vào” [1,tr.24].
Bước sang triết học thời kỳ cận đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII với những
đại biểu tiêu biểu như Phranxis Becon nhà triết học vĩ đại thời cận đại của chủ
nghĩa duy vật Anh. Becon bàn về quan niệm đạo đức chủ yếu đề cập trong
vấn đề con người. Con người theo Becon là kết quả của tạo hóa, khoa học giải
thích con người đồng thời cũng là khoa học giải thích các vấn đề về thế giới tự
nhiên. Kế thừa quan niệm về con người của Aristotle, Becon cho rằng, trong
con người có ba dạng linh hồn thực vật, linh hồn động vật thuộc về linh hồn
cảm tính, còn linh hồn lý tính có nguồn gốc từ thượng đế. Quan niệm về
thượng đế của Becon về sau đã được Kant đề cập đến trong triết học của mình.
Thomas Hobbes (1588 - 1679) nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ
nghĩa duy vật anh thế kỷ XVII. Theo ông bản tính đạo đức của con người khi
sinh ra đều như nhau, nhưng trong mỗi con người đều có khát vọng, mong
muốn riêng tư, đều có tính ích kỷ, độc ác chính là nguyên nhân gây ra các
chiến tranh xung đột, yêu bản thân mình hơn tất cả. Công lý, khoa học và
pháp quyền luôn luôn bị bác bỏ bởi ngòi bút và thanh kiếm. Ông cho rằng,
khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng, thì con người càng bất
hạnh, cuộc đấu tranh sinh tồn của con người càng khó khăn, điều đó thúc đẩy
con người đi đến khế ước xã hội, nguồn gốc sinh ra nhà nước, pháp quyền.
Nhà nước có quyền xử phạt những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người,
nhưng sự xuất hiện của nhà nước lại có mặt hạn chế, làm giảm khát vọng tự
nhiên nhất định của con người, do vậy tự do con người bị thu hẹp lại. Các đạo
luật của nhà nước đều hợp lý và tất yếu, cá nhân trong xã hội phải tuân theo
luật mà nhà nước ban hành. Quan niệm đề cao pháp luật của nhà nước, hay
16
phạm trù tự do sau này được Kant nhắc tới trong quan niệm về tự do của mình.
Tiếp tục phát triển các quan niệm của Hobbes, John Locke (1632 -
1704) đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Với tác phẩm
“Khảo luận về lý trí con người” Locke đã xây dựng các vấn đề nhận thức của
mình. Bằng cái nhìn mới về hiện thực khách quan, Locke cho rằng toàn bộ tri
thức con người có được nhờ nhận thức gọi là “ý niệm”. Sau này Kant tiếp thu
và ảnh hưởng bởi ý niệm này của Locke trong phần đạo đức học của mình.
Bên cạnh đó về vấn đề nhà nước, pháp quyền, Locke cho rằng xã hội dân sự
thuộc trạng thái văn minh, chính quyền nhà nước được thiết lập, căn cứ vào
tính chất, cách thức lập pháp để xác định chính quyền nhà nước.
Locke cho rằng, nhà nước tồn tại dưới ba dạng: Thứ nhất, là nền dân
chủ hoàn hảo đó là quyền lực toàn thể của cộng đồng, tất cả đều có thể thực
hiện quyền lực này trong việc làm ra luật cho cộng đồng và thực thi các luật
đó bằng các quan chức do chính họ bổ nhiệm. Thứ hai, đó là chính thể đầu sỏ,
khi quyền làm luật đặt vào trong tay số người chọn lọc và những người thừa
kế hay kế vị này. Thứ ba, là chính thể quân chủ, nếu quyền lập pháp đặt vào
tay của một người. Điểm nổi bật trong học thuyết của Locke là khởi thảo học
thuyết về sự phân chia quyền lực, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng về vai trò
quyền lực nhà nước của Hobbes, Locke cho rằng, khi một cộng đồng quốc gia
mới thành lập, hành động đầu tiên cần làm là thiết lập cơ quan quyền lực lập
pháp, đó là cơ quan quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, quyền lực
thiêng liêng. Khi luật pháp được cơ quan lập pháp xác lập, ban hành rộng rãi
thì nhiệm vụ cần phải làm tiếp theo là giám sát, và thực thi.
Muốn Luật pháp được xã hội giám sát và thực thi có hiệu quả, Locke
cho rằng cần thành lập một cơ quan nhà nước khác, cơ quan đó gọi là hành
pháp. Quyền lực của cơ quan hành pháp mang tính cưỡng chế đơn phương,
mọi công dân phải tuân thủ pháp luật, nếu không sẽ bị trừng phạt. Locke là
17
người đã đặt nền móng cho chế độ nhà nước dân chủ tự do đối lập với chế độ
quân phiệt, chuyên chế và bạo chính. Locke cho rằng: “Tự do không phải là,
như đã nói với chúng ta, quyền tự do để mỗi người làm điều mà mình muốn
(vì ai có thể tự do cho được khi mà ý thích của những người khác có thể áp
chế anh ta?), mà là quyền tự do để sắp đặt và bố trí như anh ta muốn, đối với
con người, hành động, tài sản, cũng như toàn bộ sở hữu của anh ta, trong
khuôn khổ cho phép của hệ thống luật mà anh ta sống dưới sự chi phối của
nó, nơi anh không phải chịu sự khuất phục trước ý chí độc đoán của người
khác, mà là tự do tuân theo ý chí của chính mình” [28,tr.93-94].
Locke đề cao các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của các cá nhân như
quyền sống, tự do phát triển nhân cách, tự do sở hữu.
Nhà triết học ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành triết học Kant
là Hume, người đã đánh thức Kant khỏi “cơn ngái ngủ giáo điều” và đem đến
cho Kant một cái nhìn mới có tính phê phán với khả năng của kinh nghiệm.
Kant đã kế thừa thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri của Hume trên tinh thần
phê phán.
Hume phê phán các quan niệm coi linh hồn con người như một thực
thể, không có vật chất, không có tinh thần. Dưới hình thức duy tâm, thần bí,
quan niệm Hume đặc biệt đề cao vai trò cá nhân con người phù hợp xu hướng
dân chủ, tự do cá nhân, đòi giải phóng nhân cách con người của giai cấp tư
sản cách mạng. Hume cho rằng, hành động có đạo đức bắt đầu với hành vi
của tác nhân hành động cho đến người nhận tác nhân đó. Ông cho rằng, con
người có hai loại tính cách, thứ nhất là bản năng, thứ hai là nhân tạo. Nếu một
tác nhân nào đó làm ảnh hưởng đến người nhận sẽ có người thứ ba quan sát
các hành vi đó để rồi đánh giá hiện tượng đó là đức hạnh hay là hành vi có tội
lỗi, trái với đạo đức. Hành vi đạo đức chỉ có ở con người gồm có bốn phạm trù,
đó là những phẩm chất tốt mang lại điều thiện như hiền lành, dũng cảm, thứ hai
18
đó là: những phẩm chất tư lợi gồm cần cù, nhẫn nại, phẩm chất thứ ba con
người cần phải có chính là sự thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, làm cho bản
thân và người khác cảm thấy dễ chịu, phẩm chất thứ tư là sự hài hước, tự trọng.
Kant kế thừa các quan niệm của Hume về những khía cạnh đạo đức
khác nhau, song Kant tin vào các chuẩn mực đạo đức. Ảnh hưởng của Hume
tại Đức có cơ sở hiện thực là sự phản ánh trong lĩnh vực triết học ở bình diện
nhân sinh, Kant nêu ra và phân tích nhiều vấn đề mà Hume chưa hề đề cập
đến, những vấn đề vượt xa khuôn khổ của nước Đức, trở thành vấn đề nhân
loại. Nhiều ý tưởng của Kant cho đến nay vẫn thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu như ý tưởng về nền hòa bình vĩnh cửu một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong thời đại ngày nay.
Rousseau nhà tư tưởng người Pháp, có sức hút lớn đối với Kant thời
trẻ, trong vấn đề đạo đức học, ông cho rằng đức hạnh là khoa học cao siêu,
triết học đích thực là lắng nghe tiếng nói của lương tâm. Khẳng định bản chất
con người có tự do, nhưng trong quá trình phát triển tự do của con người luôn
bị kìm hãm. Kant tiếp thu ảnh hưởng của Rousseau từ phương diện của chủ
nghĩa nhân đạo, hướng con người tới điều thiện, xóa bỏ thói xấu, sự bất bình
đẳng , khẳng định giá trị cao đẹp. Tuy nhiên Rousseau theo quan điểm vô
thần, còn Kant thì ngược lại ông thỏa hiệp, dung hòa giữa hữu thần và vô
thần, công nhận con người như một lý tưởng cần thiết cho đạo đức. Rousseau
dường như tách con người độc lập với tự nhiên, còn Kant thì đặt con người
trong mối quan hệ với thế giới xung quanh. Rousseau đi tìm nguồn gốc bất
bình đẳng trong xã hội ở lĩnh vực pháp luật.
Tiếp thu tư tưởng của Montesquieu, Rousseau bổ sung học thuyết về
nhà nước pháp quyền tư sản với những quan điểm mới và sâu sắc hơn.
Rousseau cho rằng, để cho xã hội tồn tại và phát triển được, mọi công dân
phải thực hiện tuân theo bản cam kết hay còn gọi là khế ước ủy quyền cho các
19
đại biểu trong bộ máy nhà nước. Khế ước xã hội như là sự thỏa thuận thì nhân
dân có quyền thay thế bằng nhà nước mới. Mọi công dân trong xã hội muốn
thực hiện quyền công dân thì phải xóa bỏ quyền lực tối cao của vua, quyền
lực đó được chuyển về tay nhân dân. Mỗi công dân chỉ giao một phần quyền
của mình cho xã hội như là một cơ thể chung, ý chí chung. Khi con người
tham gia vào bộ máy nhà nước, khế ước xã hội thì mỗi cá nhân cần phải từ bỏ
trạng thái tự nhiên tức trạng thái chưa có pháp luật để chuyển sang trạng thái
dân sự, trạng thái có nhà nước và pháp luật. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước là
thực hiện ý chí quyền lực chung cho mỗi công dân. Mỗi công dân trong xã hội
phải có trách nhiệm với nhà nước.
Quyền lực nhà nước luôn phải thuộc về nhân dân không một cá nhân
nào có quyền quyết định tất cả. Tư tưởng này của Rousseau ảnh hướng to lớn
đến xã hội châu âu thể hiện rõ trong hiến pháp của nước Pháp năm 1791. Và
Kant cũng đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ đó khi ông viết “Trong tôi tràn đầy
khát vọng nhận thức... Đã có lúc tôi nghĩ rằng chính điều này mới đem đến
niềm kiêu hãnh cho nhân loại, và tôi coi thường lớp tiện dân ngu dốt,
Rousseau đã sửa chữa tôi. Sự kiêu căng mê muội một thời biến mất; tôi bắt
đầu học cách tôn trọng con người”.[Dẫn theo 9, tr.963].
Không chỉ Hume mà Rousseau cũng đã đánh thức cơn mê ngủ nơi
Kant, người có ảnh hưởng đến nhận thức, sửa chữa Kant như một nhà đạo
đức. Kế thừa những tư tưởng đó Kant viết tác phẩm về thẩm mỹ với tiêu đề
“Tìm hiểu cảm xúc về cái đẹp và cái cao thượng” (1764). Trong tác phẩm
này, Kant thể hiện tình cảm con người, sức mạnh hoạt động tạo ra giá trị,
Kant khai thác ở Rousseau quan niệm về sự băng hoại đạo đức, sự đánh mất
bản tính tự nhiên của con người kế thừa một phần trong học thuyết về đạo đức
và quan niệm về pháp quyền.
Nghiên cứu những tiền đề hình thành lý luận triết học Kant cho chúng
20
ta thấy hệ thống triết học Kant là một mắt xích trong lịch sử tư tưởng triết học
nhân loại, là sự tổng hợp khái quát những giá trị tư tưởng của thời đại trước
ông, để qua đó hình thành và phát triển hệ thống triết học mang tầm cỡ lớn
lao, thế hệ sau kế thừa tư tưởng thế hệ trước, sự tổng hợp lý tưởng cảm tính
và lý tính, duy vật và duy tâm trong một hệ thống hoàn chỉnh.
1.3. Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Kant
Immanuel Kant sinh ngày 22 - 4 - 1724, trưởng thành trong một gia
đình trung lưu nghèo gốc Scốtlen tại Kenitbec thuộc Đông Đức. Cha mẹ ông
thuộc giáo phái sùng đạo, chính điều này đã ảnh hưởng tới tư tưởng của Kant.
Thủa nhỏ ông theo học tại trường địa phương Collegium Fredericianum. Mùa
thu năm 1740 ông vào học Khoa Triết học trường Đại học Kenitbec. Ở đại
học ông được trang bị các kiến thức không chỉ triết học mà còn cả những môn
khoa học tự nhiên. Dưới sự giảng dạy của nhà triết học Martin Knutzen
hướng tư tưởng Kant theo truyền thống duy lý của Châu Âu, người thầy này
đã kích thích sự quan tâm của Kant hướng tới vật lý học Newton, chính sự
quan tâm này góp một phần không nhỏ trong sự phát triển triết học độc đáo và
phê bình của Kant.
Tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, Kant tới làm gia sư cho một gia đình
giàu có mãi cho tới năm 1755 ông mới quay trở lại đại học và được nhận làm
giảng viên. Thời kỳ đầu các bài giảng của Kant tập trung vào thế giới bên
ngoài, liên quan chủ yếu tới các vấn đề vật lý học. Năm 1770, Kant được đề
nghị làm giáo sư triết học điều mà ông từng ao ước bấy lâu. Trong bài giảng
khai mạc, Nghị luận về mô thể và các nguyên lý về các thế giới khả giác và
khả tri, Kant tuyên bố ý định của ông là xây dựng lại triết học. Những năm
sau đó ông cẩn thận và âm thầm suy tư về mọi ý niệm của mình, mãi đến tuổi
trung niên ông mới triển khai các quan điểm, các tác phẩm quan trọng của
21
Kant được viết khi ông ở độ tuổi từ 57 cho đến 67, điểm đặc biệt ở Kant là
phong cách viết hàn lâm rất khó đọc nhưng các bài giảng của ông lại rất được
sinh viên ưa thích.
Dù không lập gia đình, không bao giờ ông ra khỏi khu vực sinh sống và
có một cuộc đời lập dị, nhưng ông lại có rất nhiều bạn bè quan tâm tới vấn đề
tri thức và chính trị của thời đại. Ông thành công trong lĩnh vực giảng dạy và
là một người thầy vui tính. Thiên hạ mô tả ông như chiếc đồng hồ, giờ giấc
sinh hoạt của ông vô cùng chính xác, để giữ gìn sức khỏe và tận dụng tối đa
thời gian cho giảng dạy ông đã thực hiện nghiêm ngặt thời khóa biểu của
mình, chính nhờ có nếp sống khoa học và kỷ luật nên Kant đã cho ra đời hàng
loạt các tác phẩm nổi tiếng. Năm 1797 vị giáo sư già yếu cáo từ giảng đường
đại học về nghỉ hưu, sống những năm tháng cuối đời một cách ung dung, tự
tại và tạ thế vào ngày 12-12-1804 hưởng thọ 80 tuổi.
Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái được nhiều thành
công, năm 1786 Kant được bầu làm Viện sĩ hàn lâm khoa học Hoàng gia Phổ
tại Berlin, năm 1794, ông trở thành Viện sĩ danh dự Viện hàn lâm khoa học
Saint Peterburg đến năm 1798 cả Viện hàn lâm khoa học Italy và Viện hàn
lâm khoa học Paris đều bầu ông làm viện sĩ. Sự nghiệp vẻ vang là vậy nhưng
trong cuộc sống hàng ngày của Kant không có gì nổi bật, người đời phong
cho ông tên hiệu “cách mạng” là vì triết lý của ông. Tuy nhiên chữ cách mạng
ở đây không liên quan đến vấn đề chính trị mà chỉ là những đột phá cấp tiến
vào hệ thống tri thức cổ truyền. Nhiều ý tưởng cải cách mạnh mẽ, làm đảo lộn
thế giới tư tưởng không những ở Đức mà trên toàn thế giới. Sự nghiệp triết
học của Kant diễn ra qua hai thời kỳ:
Thời kỳ tiền phê phán (1746 - 1770)
Kant chủ yếu nghiên cứu các vấn đề toán học và khoa học tự nhiên với
nhiều phát minh nổi tiếng về các lĩnh vực này. Ông xuất bản một tác phẩm
22
quan trọng trong thời kỳ đầu này là “Lịch sử tự nhiên phổ quát và lý thuyết
các tầng trời” (1755), giải thích cấu trúc vũ trụ theo vật lý học của Newton.
Thời kỳ này tư tưởng của Kant nhấn mạnh vào thế giới nội tâm và bản chất
đạo đức, đặc biệt Kant tập trung vào triết học tự nhiên, trong thời kỳ đầu Kant
chịu ảnh hưởng lớn của quan niệm duy tâm và thần học của Leibniz (1646 -
1716), về sau lập trường của ông chuyển dần sang quan niệm duy vật máy
móc của Newton và Descartes, đi đến xây dựng một thế giới quan độc lập.
Bên cạnh những quan niệm duy tâm, về cơ bản Kant thể hiện như một
nhà duy vật khoa học tự nhiên với luận điểm: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây
dựng thế giới từ nó; nghĩa là hãy đưa cho tôi vật chất tôi sẽ chỉ cho mọi người
thấy thế giới ra đời từ vật chất như thế nào” [Dẫn theo 63, tr.379]. Thời kỳ
này với nhiều thành công trong khoa học, Kant có niềm tin vào khả năng nhận
thức của con người. Ông cho ra đời một khối lượng lớn các bài viết trong đó
các tư tưởng triết học và khoa học tự nhiên đan xen lẫn nhau. Tác phẩm cơ
bản của ông trong thời kỳ này là: “Những suy nghĩ về giá trị chân chính của
lực sống” (1746), hay “Vấn đề trái đất có già đi không, theo quy luật vật lý
học” (1754), “Lịch sử tự nhiên phổ quát và lý thuyết các tầng trời” (1755).
“Sự ứng dụng siêu hình học có liên quan tới hình học trong triết học tự nhiên”
(1756). “Triết lý hảo trong bốn hình thái tam đoạn luận (1762)”, “Cơ sở khả dĩ
cho việc chứng minh sự tồn tại của thượng đế” (1763), “Thử đưa đại lượng phủ
định vào triết học” (1763), “Quan sát bằng cảm tính cái đẹp và cái cao cả”
(1764), “Cơ sở đầu tiên của sự khác nhau trong các mặt không gian” (1768),
“Về hình thức các nguyên tắc của thế giới cảm tính và siêu cảm tính” (1770).
Trong thời kỳ tiền phê phán, các quan niệm duy tâm thần bí của triết
học Leibniz, Wolf và quan niệm duy vật siêu hình của Descartes. Newton có
ảnh hưởng tới Kant rất lớn, Kant đã mượn phương pháp kinh nghiệm của
Newton làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Trong lĩnh vực vật lý học, khi
23
phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn Kant đã lý giải sâu sắc
hơn lý thuyết về sự vận động và đứng im. Tới lĩnh vực sinh học, Kant đề ra tư
tưởng phân loại động vật. Trong nhân loại học, Kant đề xuất tư tưởng về lịch
sử tự nhiên của loài người, lý giải sự hình thành và phát triển của loài người.
Bên cạnh đó Kant đã ứng dụng các nguyên tắc của khoa học tự nhiên hiện đại
vào giải thích kết cấu của hệ thống mặt trời và sự nảy sinh hệ thống đó. Chính
ông là người đầu tiên tìm tòi khám phá ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái
đất và mặt trăng tạo nên hiện tượng thủy triều. Trong tác phẩm “Sự ma sát
của thủy triều” ông giải thích rằng sở dĩ có sự lên xuống của thủy triều là do
sức hút của mặt trăng lên trái đất, sự tác động qua lại giữa mặt trăng và trái
đất làm ảnh hưởng đến độ xoay vòng của chúng. Sự quay chậm lại của trái đất
khi thủy triều lên hoặc xuống là do ma sát của thủy triều.
Năm 1755 Kant cho ra đời tác phẩm “Lịch sử tự nhiên đại cương và lý
thuyết về thiên hà”, trong tác phẩm này, Kant có cái nhìn tổng quát về sự hình
thành của vũ trụ. Theo ông vũ trụ nguyên thủy tràn đầy các hạt vật chất nằm
trong trạng thái hỗn mang, nhờ lực vạn vật hấp dẫn, thông qua lực hút và lực
đẩy, các hạt vật chất dần dần quy tụ lại thành những khối vân tinh, do ma sát
khi va chạm nên chúng nóng lên. Hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ là
mặt trời, những hành tinh nào gần mặt trời thì càng nặng còn hành tinh ở xa
mặt trời thì nhẹ dần, ông suy đoán rằng, còn có những hành tinh khác giống
với trái đất của chúng ta. Theo Kant vũ trụ thường xuyên diễn ra một cách tự
nhiên quá trình sinh ra và biến đi của những hệ thống vũ trụ. Có thể thấy rằng,
tuy vũ trụ luận của Kant nhìn từ góc độ khoa học hiện đại có phần trở nên lạc
hậu. Nhưng nó cũng có ý nghĩa cách mạng và hoàn chỉnh hơn so với các học
thuyết vũ trụ trước kia, đem lại một cái nhìn mới. Khẳng định một điều rằng,
không chỉ trái đất mà còn cả vũ trụ này chính là kết quả của quá trình tiến hóa
lâu dài của giới tự nhiên, quan điểm này đã công phá vào thành trì quan niệm
24
siêu hình thời đó, khi cho rằng thế giới không có sinh, không có tử tồn tại
vĩnh viễn vô cùng tận. Ông đã nêu lên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
cho rằng vũ trụ là một hệ thống vô cùng lớn, bao hàm những hệ thống nhỏ.
Với học thuyết về lịch sử hình thành vũ trụ, Kant đặt nền móng cho quan
niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.
Thời kỳ phê phán từ năm 1770 cho đến cuối đời
Ở thời kỳ này, Kant tập trung nghiên cứu những vấn đề xã hội và con
người. Ông cho rằng, con người không nhận thức được thế giới, điểm đáng
chú ý thời kỳ này là tư tưởng của Kant dần hướng đến các vấn đề tín ngưỡng,
hoài nghi khả năng nhận thức thế giới của con người. Do ảnh hưởng của
nhiều biến động xã hội đương thời, bế tắc trong việc tìm kiếm quan điểm mới
về triết học, chịu tác động của tư tưởng triết học mới như chủ nghĩa tâm lý
của Locke, thuyết bất khả tri của Hume, chủ nghĩa duy lý của Descartes và
Leibniz, cho nên lập trường tư tưởng của Kant đã có sự thay đổi rõ nét, đi từ
triết học miêu tả sang triết học phê phán. Theo ông, triết học cần khẳng định
vị thế con người và vì vậy cần trả lời cho ba câu hỏi lớn đó là: Tôi có thể biết
được cái gì? Tôi cần phải làm gì? và Tôi có thể hy vọng vào cái gì? ba vấn đề
trăn trở của thời đại, phản ánh ba khía cạnh trong mối quan hệ giữa con người
với thế giới.
Vấn đề thứ nhất (Tôi có thể biết được cái gì?) đây là vấn đề mang tính
nhận thức luận đơn thuần được nghiên cứu trong “Phê phán lý tính thuần túy”.
Vấn đề thứ hai (Tôi cần phải làm gì?) đây là vấn đề thuần túy thực tiễn
mục đích của tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn”.
Vấn đề thứ ba (Tôi có thể hy vọng cái gì?) đây là vấn đề bao hàm cả lý
luận và thực tiễn được nghiên cứu trong “Phê phán năng lực phán đoán”.
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm quan trọng khác của Kant như “Các
25
nền tảng siêu hình học của khoa học tự nhiên” (1786), “ Tôn giáo trong giới
hạn của lý trí đơn thuần” (1793), “Hướng tới hòa bình vĩnh cửu” (1795), và
“Các cơ sở của siêu hình học đạo đức” (1797).
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Socrates (469 - 399 Tr.CN), Kant cho
rằng bản chất của triết học là sự tự ý thức của con người về chính mình. Kant
khẳng định con người là trung tâm mọi vấn đề, vì vậy cho nên triết học Kant
được các nhà tư tưởng ví như cuộc cách mạng Copecnich trong lịch sử triết
học. Trong đó triết học về đạo đức và pháp quyền có một vị trí và ý nghĩa
26
quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học của ông.
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC, PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT
2.1. Quan niệm của Kant về đạo đức
Kant cho rằng tri thức thực sự có giá trị khi nó giúp con người trở thành
con người trên mảnh đất vững chãi của hoạt động vươn đến sự hoàn thiện đạo
đức cao nhất. Con người cần có một nhân cách tốt, ý thức được việc bản thân
làm. Quan niệm về triết học đạo đức nằm trong phạm trù thực tiễn theo nghĩa
rộng. Khái niệm thực tiễn hiện diện ở mọi phương diện, đời sống xã hội, hoạt
động sinh sống của con người, trong đó trọng tâm nhất vẫn là lĩnh vực đạo
đức, mà hạt nhân quan trọng là hoạt động tự do của con người. Triết học thực
tiễn ra đời nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến cuộc sống của con
người mà Kant đề ra như “Tôi cần phải làm gì?”, “Tôi có thể hy vọng gì?”
hay “Con người là gì?” và câu hỏi “Tôi cần phải làm gì”? câu trả lời chính là
nằm ở phần đạo đức học.
Đạo đức học trong triết học thực tiễn của Kant hiểu theo nghĩa rộng là
nội dung xuyên suốt, cốt lõi toàn bộ tư tưởng của ông. Nguyên nhân sâu xa
của đạo đức học chính là những quan điểm đạo đức - chính trị của các nhà
khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, tiêu biểu là quan điểm của nhà triết học nổi
tiếng Rousseau. Mác nhận xét rằng, triết học Kant là “lý luận Đức của cách
mạng Pháp”. Khi bàn đến vấn đề đạo đức - chính trị, Rousseau cho rằng xã
hội chỉ là mới được thiết lập trên nền tảng công bằng và lý tính mà thôi. Và
trong đó thì nhân dân được sở hữu sử dụng quyền lập pháp, chủ trương đề cao
giáo dục. Xã hội muốn phát triển thì ưu tiên đầu tư cho giáo dục, chính giáo
dục là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Tư tưởng này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của Kant. Năm
1764 Kant thừa nhận rằng không ai khác ngoài Rousseau với tinh thần nhân
27
văn cao đẹp, tình cảm yêu thương đối với nhân dân, đối với mọi người đã
khiến cho Kant sớm tỉnh ngộ, và mong muốn sống có ích cho đời, đối lập
hoàn toàn với quan điểm trước kia khi ông coi nhân dân chỉ là những kẻ ngu
nguội, thì nay Kant đã nhận thức được vấn đề và những sai lầm của mình
trong cách nhìn nhận và đánh giá.
Tiếp tục kế thừa tư tưởng khai sáng của Rousseau và các nhà tư tưởng
trước, Kant đề cao trách nhiệm công dân, ông cho rằng mỗi công dân cần có
trách nhiệm với bản thân mình và với mọi người cần phải bỏ thói hư tật xấu
vốn tồn tại bấy lâu nay. Điều cần làm là tiếp tục đứng lên đấu tranh thủ tiêu
áp bức, bóc lột, khẳng định giá trị cao đẹp của con người trong cuộc sống.
Nếu Rousseau theo quan điểm thần luận tự nhiên đến gần hơn với tư tưởng
thần luận, thì Kant tìm kiếm sự dung hòa giữa thần luận và vô thần, phủ định
sự tồn tại của thượng đế như một thực thể tối cao. Nhưng mặt khác lại cho
rằng, thượng đế chỉ như một lý tưởng siêu việt, cần thiết cho hoạt động của
con người trong sinh hoạt đạo đức.
Mặt khác nếu Rousseau có xu hướng xem con người trong sự tồn tại
độc lập với tự nhiên và xã hội, có sự tách biệt giữa con người với thế giới bên
ngoài thì Kant đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, con
người có quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, chịu sự tác động của ngoại
cảnh và điều kiện xã hội, sự biến đổi của tự nhiên. Con người gắn bó mật thiết
với tự nhiên dựa vào tự nhiên để tồn tại và phát triển. Kant cho rằng đạo đức
hình thành, phát triển bên ngoài triết học, song tư duy triết học lại cần phải
hướng đến phục vụ cho đạo đức. Trong đó thì lý tính giữ khả năng định
hướng cho môi trường sinh hoạt đạo đức, tôi luyện những con người đạo đức.
Kant cho rằng, tính hiện thực của đạo đức biểu hiện cụ thể qua lý tính
thực tiễn, thừa nhận mọi hoạt động tự do tự chủ của con người, lý tính thực
tiễn là cái quyết định đối với lý tính lý luận, lý tính lý luận chịu sự chi phối
28
của lý tính thực tiễn. Tư tưởng này đối lập với quan niệm của các nhà triết
học trước Kant khi cho rằng lý tính lý luận chiếm ưu thế trước lý tính thực
tiễn, tức là nhờ có tri thức và thông qua tri thức mà ta xác định có hay không
sự tự do, rồi sau đó mới tính đến hiện thực đạo đức. Trong triết học Kant sự
luận chứng cho khoa học và luận chứng cho đạo đức liên hệ hữu cơ với nhau.
Kant nhấn mạnh nhiều hơn đến triết học thực tiễn, đề cao tính thực tiễn đó
chính là nhấn mạnh tính thực dụng của triết học.
Đạo đức học nơi Kant tạo dựng bản chất chính là xây dựng nền tư
tưởng nhân văn sâu sắc về con người, phê phán chủ nghĩa tự nhiên đạo đức,
phê phán quan niệm cho rằng đạo đức được nhìn nhận từ góc độ vũ trụ luận,
sinh học và tâm lý học. Khi bàn đến vấn đề triết học và đạo đức, lòng tin của
Kant vào con người thể hiện ở quan niệm cho rằng, con người với tính cách là
chủ thể đạo đức có toàn quyền tạo ra luật cho bản thân mình, nguyên tắc tối
cao mà đạo đức học hướng tới chính là tôn trọng phẩm giá con người.
Quy luật đạo đức theo Kant chính là thượng đế ban cho con người,
nhưng mặt khác ông lại khẳng định rằng đạo đức không phụ thuộc vào tôn
giáo, đạo đức không cần tới sự can thiệp hay cứu cánh từ tôn giáo. Đạo đức
giúp con người làm chủ bản thân, còn lý trí thực tiễn, niềm tin tôn giáo phải
phục vụ cho đạo đức. Nhờ sinh hoạt đạo đức mà con người đặt niềm tin vào
cái tuyệt đối, giữa đạo đức và tôn giáo không đối lập nhau mà có mối liên hệ
mật thiết qua lại với nhau. Nhưng tôn giáo chỉ là điểm tựa cho đạo đức phát
triển chứ không thể chi phối đạo đức.
2.1.1. “Tự do” phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant
Tự do là một ý niệm cần phải được giả định do kinh nghiệm của chúng
ta về sự bó buộc đạo đức, đó là vì “Tôi phải nên, tôi có thể”, rất khó để chứng
minh ý chí của mỗi con người là tự do. Kant cho rằng chúng ta buộc phải giả
định bằng lý trí rằng có sự tự do, vì tự do và đạo đức hợp nhất không thể
29
phân ly với nhau đến độ người ta định nghĩa tự do thực hành là sự độc lập của
ý chí đối với mọi việc. Con người chỉ có trách nhiệm, bổn phận khi họ có tự
do. Tự do phải được giả định, vì vậy nó là định đề đầu tiên của đạo đức học là
phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant.
Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”, Kant đã đưa ra một định
nghĩa về tự do.
“Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng chế
do các xung động của cảm năng gây ra. Tự do thực hành giả định tiên quyết
rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế,
nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy định
nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có một tính nhân quả nào tạo
ra được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi
ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật
tự thời gian theo những quy luật thường nghiệm, do đó không thể hoàn toàn
tự mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện…” [18,Tr.XXIV].
Tự do ở đây được Kant xem như là sự tự do có trước kinh nghiệm, theo
tự do lý tưởng. Tự do này hoàn toàn độc lập với quy luật của tự nhiên. Vì vậy
con người tự ban bố và hành động theo quy luật đạo đức mà không bị ràng
buộc với bất kỳ một xu hướng cảm năng hay điều kiện nào.
“Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng
chế do các xung đột của cảm năng gây ra [..]. Tự do thực hành giả định tiên
quyết rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì
thế nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy
định nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có tính nhân quả tạo ra
được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược
lại sức mạnh và sự ảnh hưởng của tự nhiên” [18, tr.XXIV]. Khởi điểm của
nghiên cứu đạo đức học là ý chí tự do, ý chí đã dẫn dắt con người tới tự do.
30
Nhờ những quy luật đạo đức mà con người biết mình được tự do. Và cũng
chính nhờ những quy luật đạo đức mà tự do của con người đạt tới thực tại
khách quan. Khái niệm về tự do được chứng minh bằng một quy luật tất
nhiên của lý tính thuần túy thực hành, nó tạo nên viên đá đỉnh vòm cho toàn
bộ tòa nhà triết học của Kant. Mọi khái niệm khác đều phụ thuộc vào khái
niệm tự do. Tự do tồn tại hiện thực, tự do theo Kant hiểu là ý niệm duy nhất
trong mọi ý niệm của lý tính tư biện. Kant viết: “Tự do là một ý niệm thuần
túy siêu nghiệm” [20, tr.861]. Tự do chính là ý niệm duy nhất trong mọi ý
niệm là điều kiện của luân lý, các ý niệm về thượng đế và sự bất tử không
phải là điều kiện của quy luật luân lý.
Trong chương I cuốn “Phê phán lý tính thực hành”, Kant bắt đầu bằng
một loạt các ví dụ chứng minh, rằng mục tiêu để ta thấy được tất cả những
nguyên tắc hành động dựa trên thực nghiệm đều không xứng đáng với bản
chất cao quý của sự tự do. Kant khẳng định rằng không có đạo đức thì con
người không thể có tự do. Kant chứng minh một cách rõ ràng về mệnh đề này
khi cho rằng, đạo đức chính là con người hành động theo lẽ phải, dù hành
động đó có thể gây thiệt hại đối với chính chủ thể, vì bổn phận làm người
buộc con người phải làm như vậy.
Dưới hình thức những “mệnh lệnh tuyệt đối” con người mới thấy mình
tự do. Trong tự do đó con người có thể làm hay không làm theo mệnh lệnh
của con tim và quy luật đạo đức, bởi vì ai cũng có thể nhận thức được quy
luật đạo đức khi hành động. Chính những quy luật đạo đức là nguyên nhân,
cầu nối cho ta biết đến tự do. Ta nhận thức được tự do vì hành vi của ta không
bị kích động bởi những sự kiện khả giác. Tự do là khi ta công nhận hoạt động
của chính mình như là một “vật tự thân”, tự động. Kant cho rằng tự do cũng
như tự chịu trách nhiệm, nếu ta nhìn nhận lại chính mình, cho rằng mình là
hữu thể tự do, ta có bổn phận phải thực hành những mệnh lệnh của quy luật
31
đạo đức. Nếu không có quy luật đạo đức thì con người sẽ không biết và không
thấy rằng mình đang có tự do, ngược lại không có tự do con người sẽ không
có được hành vi đạo đức.
Theo Kant bản chất của sinh hoạt đạo đức thực chất là sinh hoạt tự do,
mà tự do đó không bị chi phối bởi dư luận, bởi định kiến xã hội. Tự do ở đây
có nghĩa là khi quyết định, con người nhìn vào hình thức tuyệt đối của quy
luật đạo đức, nhìn vào lý trí. Tự do xuất phát từ sự nhận thức chính mình, tự
quyết, tự làm, Kant cho rằng tự do mà Kant hướng tới không chỉ đơn thuần là
tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do đi lại. Ở đây tự do có nghĩa mỗi người
hoàn toàn tự quyết định hành vi đạo đức của mình mà không bị ràng buộc hay
chi phối bởi các mối quan hệ khác, bởi tư lợi, dư luận. Bản chất của hành vi
đạo đức chính là hướng tới tự do, tự do là phạm trù rộng, lý trí thuần túy tự
tạo ra luật cho mình mới chính là tự do tích cực.
Tự do cũng chính là “sự tự trị” của lý trí thuần túy thực hành. “Sự tự
trị” là nguyên tắc duy nhất của tất cả các quy luật đạo đức. Danh từ tự trị hàm
chứa trong danh từ tự do, cho ta thấy quan niệm rõ ràng về tự do. Con người
không bị chi phối bởi những quyền lực bên ngoài khi hoạt động, sinh sống.
Sự tự trị đó thuộc về ý chí, đó chính là bản chất của hành vi đạo đức. Tư
tưởng này thể hiện sự mong muốn có đôi chút ảo tưởng của Kant về vấn đề
đạo đức. Từ sự tự trị hay “sự tự chủ” Kant đưa tới những khái niệm “nhân vị”
hay “nhân phẩm”.
Tự do có hai loại một là sự tích cực hai là sự tiêu cực, vậy nghĩa tích
cực được Kant hiểu như thế nào? Đó chính là khi con người không bị chi phối
bởi quyền lợi cá nhân, theo nghĩa tiêu cực thì tự do là sự tự quyết của chủ thể.
Tự định đoạt mục đích, số phận, hành động, tự tạo ra luật cho những hành vi
của mình đối với chính mình, đối với cộng đồng, đó chính là nội dung nói lên
ý nghĩa khái niệm “sự tự trị”. Nguyên tắc cao nhất của đạo đức là “sự tự trị
32
của ý chí”. Kant đã nêu ra sự tương quan giữa tự do và quy luật đạo đức như
trên đã trình bày. Bên cạnh đó Kant cho rằng tự do chính là đối tượng mà đạo
đức học hướng tới, nhờ có quy luật đạo đức mà con người tự do. Những quyết
định tự do trong lĩnh vực đạo đức đưa con người tới với nhau, gắn kết tạo
thành một cộng đồng, trong cộng đồng đó bao gồm những người biết hành
động theo lẽ phải, tự trọng, cho mình và cho người. Mỗi người phải hành
động sao cho hành vi của mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức, như người
tạo ra luật và ý thức về bổn phận trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
Mục tiêu đối tượng mà đạo đức nhắm tới không đâu khác chính là sự tự
do. Tự do là động lực thúc đẩy khiến con người trở nên người hơn. Điều mà
con người luôn luôn theo đuổi không phải có thêm quyền lợi, mà mong sao
cho mình được tự do hơn. Hành động của con người phải phù hợp với quy
luật đạo đức phổ quát. Kant chủ trương “ý chí tự do và ý chí quy phục luật
đạo đức cũng là một”. Khi luận giải ý chí tự do chỉ phục tùng các quy tắc đạo
đức, Kant cho rằng cần phải làm rõ khái niệm tính nhân quả với tư cách là
“tính tất yếu tự nhiên” và “khái niệm tính nhân quả với tư cách là tự do”.
Không thể gán ép tự do cho thực thể mà sự tồn tại của tự do được xác
định theo thời gian. Vấn đề tự do là vấn đề tính có năng lực chịu trách nhiệm
và khả năng xuất hiện tính nhân quả nội tại. Giải pháp khi xem xét vấn đề tự
do hoàn toàn không phụ thuộc vào tính nhân quả nằm trong hay nằm ngoài
chủ thể. Nếu tự do ý chí của con người chỉ là tự do tâm lý và tương đối, chứ
không phải tự do tiên nghiệm và tuyệt đối thì theo Kant về thực chất không
khác gì tự do để thích nghi. Để cứu lấy tự do, muốn có tự do, chỉ có con
đường đó là sự tồn tại của sự vật theo thời gian, tính nhân quả theo quy luật
tất yếu tự nhiên. Kant luận chứng cho khả năng xuất hiện tự do cần phải thừa
nhận sự khác biệt giữa hiện tượng và vật tự nó chính sự khác nhau này trở
thành luận điểm trung tâm trong hệ thống triết học của Kant và được Kant thể
33
hiện cụ thể trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”.
Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”, khi nói về “Antinomia”
của lý tính thuần túy, Kant đề cập đến tự do và tất yếu. Tiếp đến những tác
phẩm như “Đặt cơ sở cho siêu hình học”, “Phê phán lý tính thực hành” Kant
tiếp tục đề cập đến vấn đề tự do và tất yếu. Vấn đề cần quan tâm theo Kant là
tự do có thể được thực hiện hay không đối với hành vi mà theo bản chất của
nó có thể được xác định với tư cách cái tất yếu. Quy luật tất yếu không ảnh
hưởng đến sự tự do, tự do và tính tất yếu của quy luật tự nhiên có thể tồn tại
độc lập với nhau và không làm phương hại đến nhau.
Trong tác phẩm phê phán lý tính thuần túy Kant chứng minh giữa tự do
và tất yếu không tồn tại “Antiomia” có tính logic. Cơ sở của tự do chính là
quy luật luân lý, quy luật luân lý không thể tồn tại trong mỗi con người khi
con người chưa có tự do. Ta chỉ ý thức được tự do khi ta có ý thức về quy luật
luân lý. Kant cho rằng những hành vi tự do là những hành vi mang tính thiện,
mang tính đạo đức đều là những hành vi tốt đẹp được đánh giá tương ứng với
ý đồ. Kant tách biệt lĩnh vực đạo đức tự do với lĩnh vực tự nhiên. Vì lĩnh vực
đạo đức không mang ý nghĩa là những hành động nói chung vì hành động nói
chung muốn tồn tại phải có nguyên nhân. Mà đó chính là ý đồ là nghĩa vụ,
động cơ, cơ sở để Kant xác định nguyên tắc của tự do lựa chọn, và hành động
tự do không phụ thuộc vào yêu cầu của hiện thực được cảm nhận một cách
cảm tính.
Sở dĩ có được tự do là bởi có sự khác biệt giữa phạm vi hiện tượng luận
với “vật tự nó”. Tự ý thức là một lý tính thuần túy thực hành, còn lý tính thực
hành là hoàn toàn đồng nhất với khái niệm tích cực về tự do. Chính quy luật
luân lý chứ không phải cái khác được con người ý thức một cách trực tiếp
mới là cái đầu tiên xuất hiện cho ta và dẫn ta tới khái niệm về tự do. Trong
hoạt động thực tiễn của con người, tự do chính là cơ sở, là bản chất của quy
34
luật luân lý, quy luật luân lý lại là cơ sở cho nhận thức về tự do. Và ngược lại
quy luật luân lý không thể tồn tại trong mỗi con người chúng ta nếu không có
tự do. Tự do gắn với mối liên hệ nhân quả.
Trong phạm trù tự do này còn bao hàm cả quan niệm về sự thiện ác, tốt
xấu, thiện và ác không có gì khác hơn là kết quả của phạm trù tính nhân quả
từ tự do. Thiện và ác có cách lý giải khá mới mẻ về mối quan hệ giữa các
chức năng phán đoán với phạm trù. Trong “Phê phán lý tính thuần túy”, các
phạm trù thuần túy của giác tính được rút ra từ chức năng phán đoán và được
gọi là phạm trù về tự nhiên, nó tồn tại song song với phạm trù tự do. Tự do là
một loại nhân quả, tự do được nhận thức như là một loại hình đặc biệt của
tính nhân quả thực hành. Chức năng của phạm trù tự do nhằm quy định ý chí
một cách thống nhất chứ không phải nhắm đến các điều kiện cảm tính nhằm
thực hiện các mục đích, phạm trù tự do mang lại tính thực tại thực hành,
khách quan cho những phạm trù còn lại. Tự do đó là lý tưởng đạo đức cao cả
của nhân loại hướng tới. Vì vậy, phạm trù tự do có vị trí đặc biệt quan trọng
và trở thành phạm trù trung tâm trong đạo đức học của Kant. Chính Kant đã
thừa nhận điều này khi cho rằng “khái niệm tự do là chiếc chìa khóa để giải
thích sự tự trị của ý chí” [Dẫn theo 24, tr.437].
Đạt đến đỉnh cao trong sự tự trị của ý chí là ý chí tự do. Ý chí không bị
quy định bởi bất cứ cái gì ngoài bản thân mình, không phụ thuộc vào bất kỳ
sự tác động bên ngoài nào. Ý chí tự do hay tự trị, tự do đối với mọi hành vi có
nguồn gốc cảm tính, nó hoàn toàn độc lập với quy luật của tự nhiên, độc lập
với quy luật nhân quả, đó là tự do theo nghĩa chính xác nhất, tức theo nghĩa
tiên nghiệm. Phạm trù tự do có quan hệ mật thiết với “mệnh lệnh tuyệt đối”
và phạm trù “nghĩa vụ đạo đức” hay “bổn phận đạo đức”. Đối với Kant tự do
là năng lực của con người, xuất phát từ chính trong bản thân con người, tự do
là khi con người tự giác phục tùng sự bắt buộc, sự cưỡng chế của các quy tắc
35
đạo đức, biết tuân thủ nghĩa vụ. Lĩnh vực đạo đức không phải là lĩnh vực nào
khác mà là lĩnh vực tự do của con người. Tự do có khi con người nhận thức
được nghĩa vụ mà mình phải làm, thực hiện nghĩa vụ đó xuất phát từ nội tâm
của mình. Có được tự do nghĩa là con người hành động một cách có đạo đức,
và trở thành con người có đạo đức. Để đạt được tự do, con người phải có lòng
tin vào đạo đức, thực hiện bổn phận và nghĩa vụ của mình, để đạt tới cái thiện,
cũng là đạt đến tự do.
Có thể thấy rằng trong quan niệm về đạo đức học của Kant, phạm trù tự
do chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết
triết học của ông. Như “viên đá đỉnh vòm” cho cả tòa nhà của lý tính thuần
túy”. Kant khẳng định rằng “tạo nên viên đá đỉnh vòm cho toàn bộ tòa nhà
của một hệ thống của lý tính thuần túy, kể cả của lý tính tư biện” [18, tr.26].
2.1.2. Các quy luật hay định lý xác định hành vi đạo đức
Triết học đạo đức của Kant là đạo đức học về hành vi, trách nhiệm, vì
ông cho rằng chỉ những hành vi xuất phát từ trách nhiệm đạo đức mới được
xem là hành vi đạo đức. Nội dung triết học đạo đức của Kant nhằm trả lời cho
câu hỏi, tôi cần phải làm gì để hành vi của tôi được đánh giá là hành vi đạo
đức? Tiêu chuẩn của hành vi đạo đức theo Kant là tính chất của ý chí, hành vi
có đạo đức là hành vi xuất phát từ một ý chí tốt. Một ý chí tốt là một ý chí vô
điều kiện, không bị chi phối bởi bất kỳ nguyên nhân nào. Kant cho rằng ý chí
không phải là cái gì phi lý tính, không phải là “sức mạnh tối tăm từ một vực
sâu ẩn mật” [18, tr.XIX] theo nghĩa của Schopenhauer, mà là cái gì hợp lý
tính của bản thân lý tính trong quan hệ với hành vi. Ý chí là chỗ phân biệt một
hữu thể có lý tính đó là con người với hữu thể đơn thuần là tự nhiên như thú
vật hành động theo những quy luật do tự nhiên mang lại chứ không phải do
chúng tưởng tượng nên.
Ý chí như là sự thôi thúc bên trong, phân biệt với cưỡng chế từ bên
36
ngoài. Kant lấy ví dụ rằng có thể bảo thú vật có một ý chí khi chúng tuân theo
các bản năng và nhu cầu nội tại. Nhưng Kant hiểu ý chí một cách chặt chẽ
hơn, đó là nếu ý chí đó có ở nơi thú vật các bản năng và nhu cầu tuy có hợp
quy luật, nhưng đó là quy luật mang tính tất yếu, tuân theo các động lực hành
động riêng, thực chất là tuân theo “ý chí của tự nhiên”. Ý chí riêng chỉ có
được khi năng lực hành động dựa theo quy luật tự do tự mình hình dung,
tưởng tượng mới có ý chí riêng, tức chỉ con người mới có ý chí riêng. Nói
cách khác, bản chất của ý chí biểu thị năng lực giữ khoảng cách với động lực
tự nhiên tuy không triệt tiêu chúng nhưng không để cho chúng trở thành cơ sở
quy định tối hậu.
Kant nhấn mạnh rằng giá trị đạo đức của hành vi không nằm ở đâu
khác ngoài chính nguyên tắc của ý chí, “ý chí biểu thị năng lực giữ khoảng
cách với các động lực tự nhiên” [18, tr.XIX]. Một hành vi dẫn tới kết quả xấu
vẫn được coi là tốt, nếu nó xuất phát từ một ý chí tốt. Hành vi có đạo đức là
hành vi xuất phát từ ý chí tốt, từ trách nhiệm. Một hành vi vì trách nhiệm là
hành vi phải làm mà không bị chi phối bởi bất kỳ điều kiện nào. Ví dụ như
hành vi bảo toàn tính mạng, chỉ có thể được xem là hành vi có đạo đức, nếu
thất bại và đau khổ tràn ngập trong lòng, người ta không muốn sống chút nào
và mong cái chết, vậy mà vẫn ý thức rằng, mình phải có trách nhiệm bảo toàn
sự sống.
Có những hành vi xuất phát từ ý thức ngẫu nhiên phù hợp với các quy
định về trách nhiệm được Kant gọi là hành vi phù hợp với trách nhiệm. Hành
vi thực hiện vì trách nhiệm diễn tả động cơ của người thực hiện, còn một hành
vi phù hợp với trách nhiệm diễn tả hành vi khách quan mà không để ý đến
động cơ của người thực hiện hành vi đó.
Theo Kant, trách nhiệm buộc ý chí và hành vi của con người phải tôn
trọng quy luật đạo đức bắt nguồn từ lý tính. Con người thực hiện một hành vi
37
đạo đức bởi đó là luật. Quy luật đạo đức là một yêu cầu tự thân, một mệnh
lệnh tuyệt đối và vì vậy có thể cưỡng bức ý chí con người thực hiện hành vi
đạo đức thông qua ý thức về trách nhiệm.
Lương tâm là một phạm trù quan trọng của hành vi đạo đức và được
Kant ví như một lời phán xử của một quan năng kỳ diệu có trong bản thân con
người. Một ai đó có thể dùng mọi cách để biện hộ cho hành vi trái với luân lý
của mình, cho rằng đó là hành vi vô ý, không cố ý hay do sự bất cẩn của bản
thân, tất cả muốn biện minh cho hành vi sai trái bằng cách khẳng định bản
thân vô tội. Nhưng chính bản thân chủ thể đó thấy rằng vị luật sư bên trong
anh ta không có cách nào làm cho kẻ tố cáo ở ngay chính bản thân anh ta im
lặng. Anh ta nhận thức được hành vi trong giây phút phạm phải sai lầm, nghĩa
là anh ta cũng đang trong trạng thái tỉnh táo và tự do. Đó chính là lương tâm,
cơ sở cho lòng hối hận của anh ta về những hành vi tội lỗi mà mình gây ra.
Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”, Kant có viết: “Hành
động như thể châm ngôn hành động của chúng ta là phải trở thành một luật tự
nhiên phổ quát” [18, tr.139]. Chúng ta hiểu rằng không bằng lý luận mà bằng
cảm thức linh động, con người phải tránh lối cư xử mà nếu mọi người áp
dụng thì xã hội sẽ không được ổn định. Trong khi con người muốn dối trá thì
bản thân họ lại tuyệt đối không muốn sự dối trá ấy phải là một quy luật phổ
quát. Do đó lương tâm trỗi dậy và ngăn cản hành vi dối trá đó ngay dù sự dối
trá ấy có lợi cho bản thân họ. Sự phòng xa là giả dối, châm ngôn của nó là chỉ
lương thiện khi đó là phương cách tốt nhất mà thôi.
Một hành vi được coi là thiện không phải vì đem lại những kết quả tốt
đẹp, hay vì nó khôn ngoan, mà bởi vì nó tuân theo bổn phận nội tâm, tuân
theo quy luật đạo đức không do kinh nghiệm của riêng ai, mà được thiết lập
tiên nghiệm cho mọi hành vi của bản thân chủ thể trong quá khứ, hiện tại và
38
tương lai.
Trong lịch sử triết học trước Kant cũng có những nhà triết học đề cập
nhiều đến quan niệm về hành vi đạo đức, trong đó không thể không kể đến đó
chính là Arixtốt, ông cho rằng hành vi đạo đức là hành vi có điều kiện, hạnh
phúc là đích mà hành vi đạo đức hướng đến. Nhưng Kant đi ngược lại với
quan điểm này và cho rằng hành vi đạo đức là những hành vi hoàn toàn vô
điều kiện, hiểu một cách đơn giản là nghĩa vụ, bổn phận của con người đối
với chính mình, và với người khác. Quan niệm này cho thấy sự khác biệt về
bản chất hành vi đạo đức của Kant so với Arixtốt. Bên cạnh đó Kant cho rằng
hành vi đạo đức phải đảm bảo những yêu cầu cụ thể về nguyên tắc, mục đích
của hành vi đạo đức.
Hành vi đạo đức phải lấy “mệnh lệnh tuyệt đối” làm nguyên tắc thực
hiện, hành vi đạo đức xác định đối tượng của nó chính là cái thiện và cái ác.
Kết quả mà nó tạo ra chính là tự do. Đối tượng của hành vi đạo đức phải được
hình dung từ một ý chí tự do, không bị bó buộc, quy định bởi ham muốn dục
vọng, hay bị áp đặt bởi một đối tượng bên ngoài nào đó. Cái thiện và cái ác
chính là đối tượng tối cao mà hành vi hướng tới vướn tới và được xác định
nhờ quy luật luân lý.
Trong lịch sử triết học các trường phái như Epiqya, Khắc kỷ và Kitô
giáo lấy hạnh phúc làm đối tượng mục đích của hành vi đạo đức. Họ đưa ra
những quan điểm khác nhau về đạo đức. Hành vi đạo đức ngoài bản chất, đối
tượng, còn bao hàm động cơ hành động, động cơ là cơ sở quy định chủ quan
đối với ý chí của một hữu thể, động cơ hành động bao hàm sự tham gia của
yếu tố chủ quan vào trong hành động, động lực bên trong thúc đẩy hành vi
mỗi chủ thể. Hành vi con người xuất phát từ những động cơ bên trong. Kant
cho rằng có hai loại động cơ, thứ nhất là hạnh phúc riêng tư, thứ hai là lòng
tôn kính đối với quy luật luân lý. Hành vi đạo đức là hành vi lấy lòng tôn kính
39
đối với quy luật luân lý làm động cơ hành động.
Kant phân biệt có hai loại hành vi đạo đức, hành vi từ bổn phận nghĩa
vụ và hành vi phù hợp với nghĩa vụ và bổn phận. Bản chất của hành vi thể
hiện qua những thuộc tính cơ bản như lấy nguyên tắc thực hành là mệnh lệnh
tuyệt đối, đối tượng mà hành vi đạo đức hướng tới chính là cái thiện và cái ác,
và được quy định nhờ luật luân lý, hành vi đạo đức lấy lòng tôn kính đối với
quy luật luân lý làm động cơ thực hiện. Kant cho rằng hành vi đạo đức phải
tuân theo quy luật phổ biến. dưới sự quy định trực tiếp của đạo đức. Ai cũng
có thể thực hiện được hành vi đạo đức và nó phải phù hợp với bổn phận trách
nhiệm, xuất phát từ lương tâm, lấy thực tiễn sinh hoạt đạo đức làm thước đo.
Con người phải biết xác định hành vi đạo đức và xác định thực hiện hành vi
vì mục đích gì? Tại sao con người lại phải hành xử để có đạo đức? câu hỏi đó
chính là cơ sở để hành vi đạo đức tồn tại. Hành vi đạo đức mà con người thực
hiện phải xuất phát từ mục đích đúng đắn.
Đạo đức học của Kant bắt đầu bằng câu hỏi “Tôi cần phải làm cái gì?”
khi xác định được động cơ hành động hành vi đạo đức, bản chất hành vi đạo
đức. Với câu hỏi “tôi có thể hy vọng điều gì?”. Nhưng mục đích của hành vi
đạo đức không chiếm vị trí cao nhất mà nó chỉ được ý thức sau khi con người
ý thức đầy đủ về nghĩa vụ đạo đức. Mục đích hành vi đạo đức hướng tới là sự
thiện tối cao, là lý tưởng con người hướng đến.
Kant phân biệt triệt để về mặt phương pháp trong lĩnh vực thực hành
giữa ý chí độc lập hoặc không độc lập hoàn toàn với cơ sở quy định cảm tính,
phân biệt lý tính thực hành thường nghiệm với lý tính thực hành thuần túy.
Khi lý tính thực hành thường nghiệm chịu sự quy định một phần từ bên ngoài
như dục vọng và nhu cầu, do thói quen và đam mê dẫn dắt con người đưa đến
những hành vi, thì lý tính thuần túy thực hành là hoàn toàn độc lập với mọi
điều kiện thường nghiệm và chỉ dựa vào bản thân chúng.
40
Để xác định nguyên tắc hành vi đạo đức, ông đưa ra một số định lý như sau:
Định lý 1:“Mọi nguyên tắc thực hành tiền - giả định một đối tượng (chất
liệu) của quan năng ham muốn như là cơ sở quy định cho ý chí thì đều có tính
thường nghiệm và không thể mang lại các quy luật thực hành” [18, tr.42].
Theo định lý này thì mọi ham muốn đều có đối tượng thực hiện. Nếu lòng
ham muốn đối tượng đó có trước quy tắc thực hành và là điều kiện cho việc ta
biến quy tắc ấy thành một nguyên tắc, thì điều cần làm đầu tiên là chủ thể
phải cho rằng: nguyên tắc bao giờ cũng có tính thường nghiệm, cơ sở quy
định sự lựa chọn là tưởng tượng về một đối tượng nào đó. Và nó phải được
tiền - giả định như là điều kiện cho sự quy định của ý chí. Nhưng không thể
biết được một cách tiên nghiệm đối với biểu tượng về một đối tượng rằng liệu
nó có mang lại sự vui sướng hay không vui sướng nên nguyên tắc quy định sự
lựa chọn đó bao giờ cũng phải có tính thường nghiệm như là điều kiện và nó
không mang lại một quy luật thực hành, vì nếu ai cũng lấy mục tiêu nào đó
làm chuẩn mực để thực hiện hành vi thì xã hội sẽ bị suy đồi về đạo đức.
Tiếp theo đến định lý 2:“Mọi nguyên tắc thực hành mang tính chất
liệu, xét như bản thân chúng, đều thuộc cùng một loại và phục tùng nguyên
tắc chung của việc yêu chính mình hay hạnh phúc riêng tư” [18, tr.43]. Ở
định lý này Kant cho rằng sự vui sướng của con người sinh ra từ hiện hữu của
một sự việc nào đó, của một hành vi nào đó đã được thực hiện, nó thuộc về
giác quan như xúc cảm. Sự vui sướng chỉ có tính thực hành trong chừng mực
quan năng ham muốn bị quy định bởi cảm giác về sự dễ chịu được chủ thể
đón nhận, ý thức của một hữu thể có lý tính về sự dễ chịu của đời sống vốn
không ngừng đi theo nó là toàn bộ sự sinh tồn của con người và đó chính là
hạnh phúc, nguyên tắc làm cho hạnh phúc trở nên cơ sở tối cao để quy định ý
chí chính là nguyên tắc của việc yêu chính bản thân mình, hay còn gọi là hạnh
41
phúc riêng tư.
Định lý 3:“Một hữu thể có lý tính, khi phải suy tưởng về những châm
ngôn của mình như là những quy luật thực hành phổ biến, chỉ có thể suy
tưởng chúng như là những nguyên tắc quy định ý chí không phải do chất liệu
mà chỉ do hình thức của chúng” [18, tr.50].
Ở đây Kant nói đến “chất liệu” của nguyên tắc thực hành là đối tượng
của ý chí, Kant hiểu khái niệm “một đối tượng” của lý tính thực hành là sự
hình dung về một đối tượng như là về một kết quả có thể tạo ra bởi sự tự do,
có nghĩa là mối quan hệ của ý chí với hành vi, nhờ có đối tượng được hiện
thực hóa. Nếu đối tượng được xem như là cơ sở quy định cho quan năng ham
muốn của bản thân mỗi người, thì việc nhận biết sự hiện hữu của vật chất để
thực hiện nó bởi sự tự do, năng lực của bản thân chủ thể phải đi trước xem xét
vật chất đó có phải là một đối tượng của lý tính thực hành không. Nếu đối
tượng đó nằm trong phạm vi quyền lực của bản thân chủ thể, thì chủ thể đó có
mong muốn tiến hành hành vi làm cho đối tượng trở thành hiện thực hay không,
vì vậy khả thể luân lý của hành vi phải đi trước, trong trường hợp này không
phải đối tượng mà chính là quy luật của ý chí là cơ sở quy định hành vi.
Định lý thứ 4:“Sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của mọi quy luật
luân lý và của mọi nghĩa vụ phù hợp với chúng; ngược lại, sự ngoại trị của sự tự
do lựa chọn không chỉ không thể làm cơ sở cho bất lỳ bổn phận nào mà còn đối
lập lại với nguyên tắc của bổn phận và với luân lý của ý chí” [18, tr.60].
Quy luật của ý chí thuần túy vốn tự do mang ý chí vào lĩnh vực khác
với lĩnh vực thường nghiệm, dựa trên những nguyên tắc chủ quan chúng đều
xoay quanh nguyên tắc của hạnh phúc tiêng tư. Mọi ý muốn đều có đối tượng,
vì thế một chất liệu không thể được thể hiện trong hình thức ban bố quy luật
một cách phổ quát.Qua định lý này Kant cho rằng nếu dựa trên nguyên tắc tự
trị của ý chí, trí tuệ bình thường nhất cũng thấy dễ dàng, nếu dựa theo nguyên
42
tắc giả định về tính ngoại trị của ý chí, đòi hỏi phải có sự thông hiểu về ý chí
bên ngoài mới biết phải làm gì. Con người muốn truy tìm hạnh phúc của cuộc
đời thì phải suy nghĩ tìm ra phương pháp hành động, không nên áp đặt một
hình thức hành động nào lên cá nhân khác dù với ý chí chủ quan của mình.
Kant lên án hành vi vị kỷ, lợi ích cá nhân, không phù hợp với đạo đức.
2.1.3. Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của Kant
Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với
học thức và pháp luật của Rousseau, Kant cho rằng, các nguyên lý đạo đức là
độc lập với mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người. Nguyên lý đạo đức
cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm theo yêu cầu của lý trí,
hay là “Mệnh lệnh tuyệt đối”. Tư tưởng của Kant về mệnh lệnh tuyệt đối phản
ánh nội dung cơ bản trong đạo đức học của ông, nó thể hiện trong các tác
phẩm như “Cơ sở siêu hình học của đạo đức” (1785); “Tôn giáo chỉ trong giới
hạn của lý tính” (1793) đặc biệt thể hiện tập trung trong tác phẩm “Phê phán
lý tính thực hành” (1797). “Mệnh lệnh tuyệt đối” là nguyên tắc cơ bản chi
phối mọi hành vi đạo đức.
Mệnh lệnh tuyệt đối gồm có ba định thức cơ bản:
Thứ nhất, đó chính là nguyên lý phổ quát quy định tất cả hoạt động của
con người. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào
đó để những hành vi của mình phù hợp với một pháp chế phổ biến. Mỗi người
hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó trở thành quy luật phổ quát,
nghĩa là điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến. Nhưng bên cạnh đó
mệnh lệnh tuyệt đối cần ngăn chặn những hành vi trái với đạo lý.
Thứ hai, mệnh lệnh tuyệt đối cho rằng luôn phải coi con người như là mục
đích chứ không phải phương tiện, mọi hành vi của mỗi cá nhân luôn phải
hướng tới giá trị tích cực nào đó để đạt được mục đích làm cho cuộc sống của
43
con người tốt đẹp hơn.
Thứ ba, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi ở mỗi người hãy hành động theo ý chí
tự do của chính mình nhưng ý chí tự do đó không được vượt ra khỏi pháp chế
phổ quát, vượt ra khỏi pháp luật, quyền tự chủ con người phải được đề cao,
bài trừ thói hư tật xấu còn tồn tại trong mỗi cá nhân.
“Mệnh lệnh tuyệt đối” có vị trí đặc biệt trong triết học đạo đức của
Kant bởi chức năng của nó là tiêu chuẩn cho sự đánh giá các quy tắc chủ
quan, dựa trên những nguyên tắc chủ quan tối cao, cơ sở cho sự định đoạt ý
chí, tạo nên giá trị hành vi. Mệnh lệnh tuyệt đối mang tính hình thức, là khuôn
mẫu phổ quát cho mọi hành vi đạo đức của con người. Tính hình thức quyết
định tính chất của ý chí, đòi hỏi tính tự quyết của ý chí, thể hiện ở sự độc lập
của ý chí và sự tự ban hành luật. Với Kant sự tự quyết của ý chí là nguyên tắc
cao nhất của tính chất đạo đức và chính là tự do. Mệnh lệnh tuyệt đối mang
tính phổ biến, phù hợp giữa nguyên tắc chủ quan của chủ thể hành động với
lý tính chung của mọi người trong cộng đồng xã hội.
Theo Kant, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh
tuyệt đối mới được coi là hành động có đạo đức. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi
hoạt động của con người phải tuân theo quy tắc sau:
Mỗi người đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý
muốn sao cho ai cũng làm được như thế.
Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được
quyền như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó.
Mỗi người đều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành
động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được.
Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant hướng mọi người tới hoạt động cộng
đồng, đòi hỏi con người sống phải phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và
44
người khác, bỏ thói hèn hạ và sự nhún nhường giả dối. Người sống theo lẽ
phải và tôn trọng sự thật là người có đạo đức. Mệnh lệnh tuyệt đối là nghĩa vụ
của công dân đối với xã hội. Mọi hành vi đạo đức đều phải được thực hiện vì
con người, bởi sự tồn tại của con người là cái cao quý nhất trên thế gian.
Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người
trong xã hội phải thực hiện. Kant cho rằng cần phân biệt “mệnh lệnh tuyệt
đối” với “mệnh lệnh giả thiết”, mệnh lệnh tuyệt đối có giá trị cho mọi thực thể
lý tính và nó diễn ra ở mọi thời đại còn mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh có
điều kiện, đặt điều kiện tồn tại một ý muốn ban đầu, đòi hỏi ý muốn tiếp theo
xảy ra và ý muốn tiếp theo rất cần thiết phải có để đáp ứng ý muốn ban đầu.
Trong mệnh lệnh giả thiết, Kant phân biệt mệnh lệnh giả thiết có vấn đề và
mệnh lệnh giả thiết khẳng định.
Mệnh lệnh giả thiết thể hiện cụ thể rõ ràng trong các quy tắc của sự
khôn ngoan, thông minh có giá trị đối với không chỉ một người mà còn đối
với nhiều người, nó có thể đem lại hạnh phúc cho người thực hiện nó. Còn
những lời khuyên khôn ngoan là những mệnh lệnh mang tính thực dụng, giúp
con người thỏa mãn mục đích. Thông qua mệnh lệnh giả thiết con người có
thể thực hiện những mục tiêu của mình một cách rõ ràng, cụ thể và trực tiếp,
nhưng mệnh lệnh giả thiết chỉ là mệnh lệnh tương đối, người nào đó muốn đạt
được một mục đích nào đó thì cần có những phương tiện để đạt được mục
đích ấy, nguyên tắc của nó luôn là “nếu ai muốn đạt được một mục đích nào
đó, thì cũng muốn có những phương tiện cần thiết để đặt được mục đích đó”
[18, tr.229-232].
Tuy nhiên, mệnh lệnh giả thiết dù chứa đựng những nguyên tắc của ý
chí nhưng nó không thể nào trở thành quy luật của thực tiễn được, nên nó
không có giá trị chung cho tất cả mọi người và mọi thực thể lý tính [18,
tr.229-232]. Trái với mệnh lệnh giả thiết mệnh lệnh tuyệt đối tự nó là một quy
45
luật thực tiễn “mệnh lệnh tuyệt đối là mệnh lệnh diễn tả một hành vi tự nó là
cần thiết mà không cần đến mối quan hệ với một mục đích khác, là một hành
vi tất yếu - khách quan” [18, tr.229].
Theo Kant mệnh lệnh tuyệt đối chính là mệnh lệnh vô điều kiện, nó
không chịu ảnh hưởng của sự tự ái, hay của những thiện cảm, hay mọi yếu tố
khác bên ngoài. Kant cho rằng, nếu nghĩ tới một mệnh lệnh giả thiết nói
chung, không biết trước rằng, nó sẽ hàm chứa điều gì cho tới khi những điều
kiện được đưa ra cho tôi. Nhưng khi con người nghĩ tới một mệnh lệnh tuyệt
đối, biết ngay rằng, nó hàm chứa điều gì.
Kant cho rằng mệnh lệnh tuyệt đối mang tính hình thức, nó là khuôn
mẫu cho mọi thước đo hành vi đạo đức của con người, con người dù làm gì đi
chăng nữa đều có một khuôn mẫu, một chuẩn mực nhất định. Kant muốn xây
dựng một học thuyết triết học đạo đức thuần túy. Trong triết học đạo đức, tính
hình thức của mệnh lệnh tuyệt đối quyết định tính chất của lý trí và ngược lại,
ý chí lại lấy hình thức của mệnh lệnh tuyệt đối làm tôn chỉ hành động. Một
nguyên tắc được cho là khách quan khi nó loại bỏ những quy định nội dung.
Gía trị đạo đức của một hành vi chỉ có trong nguyên tắc của cái phổ
quát, tức là trong nguyên tắc của ý chí. Mặc dù nguyên tắc của ý chí có trong
tất cả các mệnh lệnh, và chỉ có mệnh lệnh tuyệt đối mới có những tính chất để
có thể đồng thời có giá trị áp dụng cho mọi thực thể có lý tính. Không dừng
lại ở đó Kant cho rằng “chẳng hạn khi dự định bỏ qua một lời hứa, người ta
cần phải tự vấn chính mình rằng: Liệu tôi có thỏa mãn hay không khi hành vi
hứa hão với mục đích thoát ra khỏi tình thế bối rối trở thành quy luật ứng xử
chung của toàn bộ cộng đồng, áp dụng cho tất cả mọi người kể cả chính
mình? Ai cũng có thể dối trá khi gặp khó khăn không thể giải quyết được? Và
ngay lập tức tôi nhận ra rằng trong khi tôi muốn nói lời nói dối tôi hoàn toàn
không muốn rằng lời nói dối trở thành một quy luật ứng xử chung. Vì nếu như
46
vậy, sẽ không tồn tại lời hứa nữa, vì sẽ vô ích khi viện ý chí của tôi về các
hành động tương lai đối với những ai không tin vào viện cớ này, hay nếu họ
hấp tấp tin như thế, họ sẽ lại đối xử với tôi như kiểu trả lại những đồng xu
giống nhau. Và như vậy nguyên tắc của tôi, ngay khi tôi muốn nó trở thành
một quy luật chung, sẽ tự hủy diệt chính nó” [18, tr.215].
Từ những quan điểm nêu trên về hành vi đạo đức, quy tắc ứng xử của
con người trong xã hội, Kant cho rằng việc nói dối của một người nào đó
không thể được coi là một hành vi có đạo đức, cho dù nó chỉ là những lời hứa
suông không gây hại gì tới người khác. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính
thức hành” Kant trình bày luận điểm của mình về mệnh lệnh tuyệt đối như sau
“Hãy hành động như thể nguyên tắc tối cao của ý chí của anh mọi lúc đồng
thời có thể trở thành nguyên tắc của một quy luật chung” [18, tr.215].
Mệnh lệnh tuyệt đối mà Kant trình bày trước đó không chỉ rõ nội dung
của đạo đức mà chỉ đề ra nguyên tắc chung mang tính khuôn mẫu có thể áp
dụng vào những trường hợp cụ thể. Khi con người thực hiện một hành vi nào
đó thì cần phải suy nghĩ xem liệu ý muốn chủ quan tối cao của bản thân có thể
trở thành phổ quát hay không? Và nó có thể được áp dụng cho tất cả mọi
người trong những hoàn cảnh giống nhau không? Một hành vi được coi là
hành vi vô đạo đức hay đi ngược lại những điều phải, thì đó chính là những
điều mà không thể áp dụng cho tất cả mọi người, mọi trường hợp.
Nguyên tắc của mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện ở sự tôn trọng phẩm giá
của con người, coi mọi người là mục đích chứ không phải là phương tiện.
Mệnh lệnh tuyệt đối kêu gọi con người hãy đối xử bình đẳng và chân thành
với nhau, đối xử với người khác như đối xử với chính bản thân mình, con
người cần phải tôn trọng phẩm giá của mình và của những người xung quanh,
không bao giờ biến mình và người khác thành phương tiện phục vụ cho
những mục đích riêng. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan
47
trọng trong triết học đạo đức của Kant. Kant cho rằng khi con người lao động
tạo ra giá trị của cải vật chất thì những cái đó có thể trao đổi, làm vật ngang
giá. Nhưng phẩm chất của con người không thể đi trao đổi, mua bán trên thị
trường được đó là hành vi phi đạo đức và vô nhân tính, phẩm giá đó chỉ có ở
con người mà không thể có ở các loài động vật khác.
Mệnh lệnh tuyệt đối dựa trên sự tự trị của ý chí đó chính là sự độc lập
của ý chí, đó là nguyên tắc quyết định quy luật đạo đức. Kant viết “Sự tự trị
của ý chí là nguyên tắc duy nhất của tất cả các quy luật đạo đức và của những
bổn phận phù hợp với chúng” [18, tr.244-245]. Sự tự trị của ý chí chính là tự
do, phẩm giá của con người được đề cao trong đó. Con người chính là chủ thể
tự ban hành luật cho chính mình, đó chính là mệnh lệnh tuyệt đối là nguyên
tắc tối cao, tồn tại sâu trong tiềm thức của con người và được thể hiện ra khi
có điều kiện phù hợp. Nhân cách con người nằm ở tự do, giải đáp cho câu hỏi:
Con người là gì?.
Con người hành động vì bổn phận và dưới sự chi phối, chỉ đạo của
mệnh lệnh tuyệt đối, mệnh lệnh tuyệt đối bắt con người phải thực hành hành
vi đạo đức, tôn trọng quy luật đạo đức. Và nó có ở những con người có nhân
cách tốt đẹp, hướng thiện mà con vật không thể có. Kant đi đến khẳng định
con người hãy hành động vì bổn phận là hành vi đạo đức. Con người chỉ có
thể trở lên nhân cách hơn khi thông qua những hành vi có đạo đức. Bổn phận
là sự thể hiện nhân cách của con người đối với người xung quanh. Nhưng bên
cạnh đó, Kant cũng cho rằng cần phân biệt sự khác nhau giữa hành vi được
thực hiện vì bổn phận và hành vi thực hiện “phù hợp với bổn phận”. Hành vi
vì bổn phận diễn tả động cơ của người thực hiện hành vi đó và nó phải được
xuất phát từ một ý chí tốt còn ngược lại hành vi “phù hợp với bổn phận” diễn
tả hành vi khách quan mà không để ý đến động cơ của người thực hiện hành
48
vi đó.
Kant phân biệt hành vi vì bổn phận và hành vi phù hợp với bổn phận,
mọi hành vi được thực hiện phù hợp với trách nhiệm mà pháp luật quy định,
ban hành hoặc nó mang lại lợi ích cụ thể nhưng lại không xuất phát từ ý chí
tốt, đó được gọi là hành vi “phù hợp với bổn phận”. Kant lấy ví dụ minh họa
cho điều đó như sau: “Ví dụ như có một cửa tiệm nằm ở vị trí tốt, nơi đông
người qua lại và một chủ cửa tiệm khôn ngoan đã không nâng giá các mặt
hàng lên mà bán với một giá cố định cho tất cả mọi người, đối với một đứa trẻ
cũng như bất cứ mọi người nào khác. Như vậy ông ta đã kinh doanh một cách
ngay chính. Tuy nhiên, điều đó không thể đủ để khẳng định rằng, hành vi đó
thực hiện vì bổn phận bởi qua đó ông ta có được những lợi ích khác. Hành vi
đó không xuất phát vì bổn phận và cùng không phải từ sự thiện cảm, mà chỉ
vì mục đích lợi ích mà thôi” [18,tr.209].
Ngược lại với điều đó thì bảo toàn tính mạng là bổn phận mỗi người.
Nhưng hành vi này chỉ được xem là hành vi thực hiện vì bổn phận nếu như
thất bại mà mong tới cái chết, chỉ muốn kết liễu cuộc sống của mình trên trần
thế khi người ta mắc phải những đau khổ, những bế tắc không thể nào gỡ ra
được nhưng lại ý thức được rằng mình vẫn phải có bổn phận bảo toàn sự sống
của chính mình. Hành vi đó không xuất phát từ sự thiện cảm, từ sự yêu
thương, từ sự sợ hãi mà chính là từ bổn phận làm người, nên nó được coi là
hành vi có đạo đức.
Mọi mệnh lệnh đều dựa trên nền tảng của ý chí, nhưng trong đó thì
không phải mệnh lệnh nào cũng mang tính khách quan. Chỉ có mệnh lệnh tuyệt
đối là hình thức tối cao nhất, nó có thể cưỡng bức ý chí của con người hành
động và làm theo một quy luật đạo đức chung. Quan điểm này của Kant sau
này được Fichte đề cao và kế thừa, cho rằng con người sống trong một xã hội
với nhiều mối quan hệ song trùng cần phải hành động vì bổn phận đạo đức tồn
49
tại trong chính bản thân mỗi người. Fichte cho rằng lương tâm không bao giờ
nhầm lẫn, nó chính là tòa án tối cao soi sáng chỉ đường dẫn lối cho con người
thực hiện những hành vi có đạo đức. Hành động vì bổn phận là cơ sở cuối cùng
và duy nhất của nhận thức con người. Những hành vi xuất phát từ ham muốn
thấp hèn của bản năng đều không được thừa nhận là hành vi có đạo đức.
Quan niệm về mệnh lệnh tuyệt đối của Kant sau này Ăngghen nhận xét
rằng không thể có một quy luật đạo đức chung vượt lên trên tính lịch sử, tính
dân tộc, hay tính giai cấp, Ănghen viết: “Chúng ta gạt bỏ mọi mưu toan muốn
buộc chúng ta phải nhận bất cứ một giáo điều đạo đức nào, coi đó là quy luạt
đạo đức vĩnh viễn, cuối cùng, mãi mãi không thay đổi, với cái lý do rằng thế
giới đạo đức cũng có những nguyên lý vĩnh hằng của nó, những nguyên lý
đứng trên lịch sử và trên những sự khác biệt về dân tộc. Ngược lại, chúng ta
khẳng định rằng, xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế cuả xã hội lúc bấy giờ, và vì
cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo
đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp”
[32, tr.137].
Ăngghen cho rằng, quan hệ đạo đức của con người gắn liền với đời
sống hiện thực, với những quan hệ kinh tế cụ thể. Các quan niệm về đạo đức
thay đổi theo tiến trình phát triển của thực tiễn xã hội của từng dân tộc ở từng
thời đại. Mác cho rằng đạo đức luôn gắn liền với phương thức sản xuất, khi
phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức sớm muộn cũng thay
đổi theo. Thiện ý trong triết học đạo đức của Kant, cũng chính là sự phản ánh
tình trạng bất lực và nghèo nàn của những thị dân Đức thể kỷ XVII - XVIII.
2.1.4. Sự thiện tối cao trong đạo đức học của Kant
Một trong những nội dung cơ bản của đạo đức học Kant là quan niệm
về “cái thiện”, gắn với định đề “sự bất tử của linh hồn”. Theo Kant, sự bất tử
50
của linh hồn là “sự kéo dài đến vô tận của sự hiện hữu và nhân cách của cùng
một hữu thể có lý tính (điều này được người ta gọi là sự bất tử của linh
hồn)”[18,tr.220]. Con người muốn đạt được “sự thiện tối cao” cần phải đạt
đến sự tương ứng hoàn toàn giữa quy luật luân lý với tâm hồn. Trong cái thiện
tối thượng ấy vấn đề trung tâm mà cái thiện hướng tới chính là đức hạnh, nó
phụ thuộc vào ý chí hoạt động của con người, là sản phẩm của thời đại, hoạt
động sinh hoạt cộng đồng.
Theo Kant, tuy đức hạnh là “cái thiện” cao nhất là điều kiện tối thượng
nhất cho việc bản thân ta xứng đáng được hưởng hạnh phúc, nhưng chỉ có
mỗi đức hạnh không thôi thì chưa phải là “cái thiện hoàn hảo” vì con người
không chỉ muốn chứng minh mình xứng đáng có quyền được hưởng hạnh
phúc nhờ có đức hạnh mà còn muốn được hưởng hạnh phúc. Con người là
chủ thể của hoạt động có đạo đức, nghĩa là không bao giờ và không khi nào
chỉ như là phương tiện cho bất kỳ ai, dù đó có là thượng đế quyền năng đi
chăng nữa, nhân tính trong con người là thiêng liêng nhất, là lẽ sống là quy
luât luân lý. Đức hạnh hiện hữu có lý trí, chỉ hoàn toàn thỏa mãn khi có sự kết
hợp giữa đức hạnh với hạnh phúc, dù không phải lúc nào đức hạnh với hạnh
phúc đi liền với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đức hạnh là nguồn gốc tạo ra
hạnh phúc.
Kant khẳng định rằng luật đạo đức sai khiến chúng ta hành động không
phải để được hạnh phúc, mà để hành động cho đúng. Sự hiện diện của một
hiện hữu có lý tính đòi hỏi trong mỗi chúng ta phải suy nghĩ về cái thiện tối
thượng. Trong cái thiện tối thượng đó bao gồm cả đức hạnh và hạnh phúc.
Muốn đạt đến cái thiện tối thượng, con người không thể giới hạn kinh nghiệm
vào thế giới mối liên hệ giữa đức hạnh và hạnh phúc, vào quy luật đạo đức.
Kant phân biệt cái thiện với cái ác khi cho rằng “Cái ta gọi là thiện phải
là một đối tượng của quan năng ham muốn trong sự phán đoán của bất kỳ con
51
người có lý tính nào; và cái ác là đối tượng của sự xa lánh trong mắt mọi
người, vì thế, bên cạnh giác quan, phán đoán này đòi hỏi phải có lý tính. Do
đó mới có tính trung thực như là đối lập lại với dối trá; công lý đối lập với bạo
hành v.v..”[18,tr.111].
Trong việc đánh giá cái thiện so với cái ác tự thân, phân biệt cái thiện
với cái ác thì hành vi nào phù hợp với quy luật là cái thiện tự thân, một ý chí
mà“châm ngôn”của nó luôn phù hợp với quy luật là thiện một cách tuyệt đối
trong một phương diện và là điều kiện tối cao của mọi điều thiện. Lấy đối
tượng của sự vui sướng làm tiền đề. Khái niệm về sự thiện không thể là cơ sở
cho quy luật, mà nó phải dựa vào quy luật. Cái thiện không thể trực tiếp quy
định ý chí mà phải dựa vào ý chí. Dù đặt đối tượng của sự vui sướng với mục
đích mang lại cái thiện tối cao ở trong hạnh phúc. Cái thiện không thể quy
định trước quy luật luân lý, trái lại chỉ được quy định sau như là kẻ tiếp nhận
đòi hỏi luân lý rằng con người không được theo đuổi hạnh phúc một cách
thiếu suy nghĩ, phải kiểm tra“châm ngôn” dưới viễn tượng của cái thiện.
Cái thiện muốn có được giá trị quy phạm, đạo đức học phải dựa trên
nguyên tắc cái phải là, như là cái tiên nghiệm tối hậu, qua đó cái thiện được
phân chất luân lý với cái ác. Cái thiện có được là kết quả của sự tự do, thế
giới đạo đức buộc con người phải giả định sự hiện diện của “Thượng đế” như
là nền tảng của sự liên hệ tất yếu giữa đức hạnh và hạnh phúc. Khi hiểu hạnh
phúc là tình trạng một hiện hữu này có lý trí trong thế giới mà đối với hiện
hữu này trong toàn thể kinh nghiệm của nó, mọi sự diễn tiến theo ước mơ và
ý chí. Hạnh phúc đòi hỏi sự hòa hợp giữa ý chí của một người với thể xác của
người ấy, ý chí và thể xác có sự hòa hợp thống nhất với nhau.
Muốn có được cái thiện tối cao thì đức hạnh và hạnh phúc phải đi đôi
với nhau, cần phải giả định sự tồn tại của một nguyên nhân cho toàn thể thiên
nhiên, chứa đựng nền tảng mối quan hệ giữa hạnh phúc và đức hạnh, là sự
52
hòa hợp giữa đạo đức và hạnh phúc. Và về mặt đạo đức phải giả định sự hiện
diện của Thượng đế, như vậy không có nghĩa Kant cho rằng không có đạo
đức nếu không có tôn giáo. Kant chỉ ra rằng một người có thể nhận ra bổn
phận đạo đức của mình mà không cần đến ý niệm về “Thượng đế”, nhưng bên
cạnh đó ông lại cho rằng nhờ có ý niệm về cái thiện tối cao như là đối tượng
và cái đích của lý trí thuần túy thực hành, luật đạo đức dẫn đến tôn giáo. Nhờ
ý chí hoàn hảo mới hy vọng đạt được cái thiện tối thượng.
Khái niệm về cái tối cao có nghĩa là cao nhất, cũng có thể là cái hoàn
hảo, hoàn thiện. Đức hạnh như là sự xứng đáng để được hạnh phúc, là điều
kiện cao nhất của tất cả những gì tỏ ra là đáng mong ước của ta, mọi nỗ lực
theo đuổi hạnh phúc của ta, nên đó là cái thiện hay cái tối cao nhất. Nhưng
đức hạnh không phải vì điều đó là cái thiện toàn bộ, hoàn hảo như là đối
tượng của những ham muốn của hữu thể có lý tính hữu hạn, để có được như
vậy cần có cả hạnh phúc. Con người lấy chính mình làm mục đích của hạnh
phúc. Con người cần có hạnh phúc và xứng đáng được hạnh phúc. Đức hạnh
và hạnh phúc có thể cùng nhau tạo nên sự thiện tối cao trong mỗi con người,
và đồng thời sự phân phối hạnh phúc có tỷ lệ tương đương với luân lý giá trị
của con người.
Sự thiện tối cao là cái toàn bộ, cái thiện hoàn tất, nhưng trong đó đức
hạnh với tư cách là điều kiện, bao giờ cũng là cái thiện cao nhất, không có
điều kiện nào có thể đứng cao hơn đức hạnh, hạnh phúc tuy mang lại sự sung
sướng cho con người, dễ chịu cho những ai được hưởng nó, nhưng hạnh phúc
lại không phải là cái tốt tuyệt đối về mọi phương diện so với đức hạnh mà nó
phải lấy cách ứng xử đúng đắn về luân lý làm điều kiện tiên quyết.
Khi hạnh phúc và đức hạnh hợp nhất với nhau trong khái niệm về sự
thiện tối cao thì chúng phải có sự liên kết với nhau một cách chặt chẽ, theo
quy luật nhân quả. Sự kết nối giữa hạnh phúc và đức hạnh có thể được hiểu
53
theo hai cách. Thứ nhất, hoặc nỗ lực trở thành có đức hạnh và theo đuổi hợp
lý về hạnh phúc không phải là hai việc khác nhau mà chúng hoàn toàn đồng
nhất làm một việc. Nguyên tắc của đức hạnh phục vụ cho mưu cầu hạnh phúc,
đức hạnh tạo nên hạnh phúc, con người phải ý thức được đức hạnh như là
nguyên nhân tạo nên kết quả. Khác với quan niệm của Kant các nhà tư tưởng
Hy Lạp cổ đại không xem đức hạnh và hạnh phúc là hai yếu tố khác nhau của
sự thiện tối cao, nhưng họ lại cho rằng trong hai yếu tố đó thì sẽ có một cái
làm khái niệm cơ bản.
Những người theo Phái Epiqya thì bảo rằng “có ý thức về châm ngôn
dẫn tới hạnh phúc, chính là đức hạnh; còn những người theo Phái Khắc kỷ lại
bảo rằng “có ý thức về đức hạnh của mình, chính là hạnh phúc”. Phái Epiqya
cho rằng sự khôn ngoan tương ứng với luân lý, Phái Khắc kỷ lại cho rằng chỉ
có luân lý mới là sự hiền minh thực sự. Do hạn chế lịch sử mà các nhà triết
học trước Kant không thấy được sự khác biệt giữa hai khái niệm “hạnh phúc”
và “đức hạnh”. Họ thủ tiêu sự khác biệt cơ bản, không hợp nhất hai khái niệm
ấy trong nguyên tắc. Những người theo phái Epiqya cho rằng khái niệm đức
hạnh vốn đã được bao hàm trong châm ngôn tăng tiến hạnh phúc riêng của
mỗi người, còn theo các nhà Khắc kỷ thì ngược lại, cho rằng cảm giác về
hạnh phúc vốn đã được chứa đựng trong ý thức về đức hạnh.
Nhà Khắc kỷ khẳng định rằng đức hạnh là sự Thiện - tối cao, còn hạnh
phúc chỉ là ý thức về việc sở hữu nó như là thuộc về trạng thái của chủ thể.
Các nhà triết học theo phái Epiqya thì lại khẳng định hạnh phúc là sự thiện tối
cao toàn bộ, còn đức hạnh chỉ là hình thức của châm ngôn cho việc theo đuổi
hạnh phúc, sử dụng phương tiện để đạt hạnh phúc.
Qua việc phân tích trên, ta nhận ra rằng những châm ngôn của đức
hạnh và những châm ngôn của hạnh phúc riêng tư là khác nhau xét về mặt
thực hành tối cao, mặc dù chúng đều thuộc về sự thiện tối cao, nhưng trong
54
cùng một chủ thể chúng lại ngăn cản lẫn nhau, vì thế câu hỏi: “Làm thế nào
sự thiện tối cao đó có thể có được một cách thực hành?” vẫn mãi là câu hỏi
không được giải quyết. Và trong triết học thực hành của Kant cho thấy điều gì
đã làm cho vấn đề khó giải quyết đến thế đó là hạnh phúc và luân lý là hai yếu
tố hoàn toàn khác nhau về loại của sự thiện tối cao. Vì thế sự hợp nhất của
chúng không được nhận thức mà sự hợp nhất của chúng được nhận thức bằng
cách tổng hợp tức là đức hạnh và hạnh phúc chứ không phải đức hạnh là hạnh
phúc, sự hợp nhất này được nhận thức như là sự hợp nhất tiên nghiệm, tất yếu
một cách thực hành, không phải rút ra từ kinh nghiệm, sự diễn dịch về khái
niệm này phải là có tính siêu nghiệm. Sự thiện tối cao được tạo ra phải bằng
sự tự do của ý chí một cách tất yếu tiên nghiệm vì thế tính siêu việt chỉ được
phép dựa duy nhất trên những nguyên tắc tiên nghiệm của nhận thức mà thôi.
Theo Kant, tuy đức hạnh là cái cao nhất và là điều kiện cao nhất cho
việc mỗi chúng ta sống trong xã hội này xứng đáng được hưởng hạnh phúc,
nhưng chỉ riêng đức hạnh không thì chưa đủ, chưa phải là sự thiện hoàn hảo
như là đối tượng của những ham muốn của hữu thể có lý tính, bởi chúng ta
không chỉ muốn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng mình xứng đáng được
hưởng hạnh phúc nhờ đức hạnh mà còn muốn thực sự hưởng hạnh phúc đó.
Và vì vậy quan niệm về sự thiện - tối cao trong đạo đức học phải có nhiệm vụ
giải thích: Tại sao ta vẫn có thể hy vọng rằng mình được thực sự dự phần vào
hạnh phúc một khi ta nhân danh đức hạnh để từ chối việc theo đuổi và thực
hiện các mục đích chất liệu cảm tính? Làm thế nào để có thể có được một sự
hòa giải giữa tự nhiên và luân lý. Kant bác bỏ quan niệm xa xưa của Socrates
cho rằng kẻ công chính sẽ sống hạnh phúc, còn kẻ đồi bại sẽ sống bất hạnh.
Cuộc đời trần tục cho thấy kinh nghiệm của người có đức hạnh khi so sánh sự
bất hạnh của mình với hạnh phúc của người có tội. Kant không khẳng định
rằng con người xấu là kẻ phi luân, không biết sự ràng buộc của lý tính thuần
55
túy thực hành. Mà ông cho rằng, kẻ xấu là người tuy biết đến giá trị luân lý
nhưng quá ít cắn rứt lương tâm nên vẫn có thể hưởng thụ cuộc sống sung
sướng khi đặt hạnh phúc riêng của mình lên trên luân lý.
Sự ham muốn hạnh phúc là động cơ cho những châm ngôn đức hạnh,
hoặc châm ngôn đức hạnh phải là nguyên nhân tác động của hạnh phúc. Sự
ham muốn hạnh phúc cá nhân không có tính luân lý. Sự thiện tối cao là mục
đích tối cao tất yếu của ý chí có thể được quy luật luân lý quy định. Sự tương
ứng giữa tâm hồn con người và quy luật luân lý là điều kiện cao nhất của sự
thiện tối cao. Sự thiện tối cao chỉ có thể có được với giả định tiên quyết về sự
bất tử của linh hồn, nó gắn liền với quy luật luân lý, trong sự thiện tối cao ấy,
hạnh phúc được hiểu là một hữu thể có lý tính, mọi sự đều diễn ra đúng theo
nguyện vọng và ý chí trong toàn bộ sự hiện hữu của mình.
Theo đuổi sự thiện tối cao như là nghĩa vụ được thêm vào cho quy luật
cơ bản của lý tính thuần túy thực hành, muốn theo đuổi sự thiện tối cao, con
người phải hành động hướng đến sự thiện tối cao, nhờ có sự thiện tối cao mà
con người hiểu rõ hơn về mục tiêu của hành động luân lý, hướng đến sự hoàn
thiện về luân lý. Khác với khái niệm về đời sống của con người có tính chất
sinh vật và chính trị trong triết học - Aristotle, Kant còn đặt vấn đề sự thiện
tối cao trong viễn tượng một cuộc đời theo nghĩa khả niệm - siêu cảm tính.
2.2. Quan niệm của Kant về pháp quyền
Các nhà nghiên cứu triết học phương Tây cho rằng, triết học pháp
quyền là một ngành chuyên sâu của khoa triết học. Đối tượng nghiên cứu của
nó vẫn là con người và xã hội loài người được cụ thể hóa trong lĩnh vực pháp
quyền. Vấn đề cơ bản của triết học pháp quyền là pháp luật và quyền con
người trong việc ban hành pháp luật.
Một tư tưởng lý luận nào đó đều không ra đời trên những mảnh đất
trống rỗng mà dựa trên sự khái quát thực tiễn thời đại và sự tiếp thu những tư
56
tưởng tiến bộ trước đó. Kế thừa tư tưởng khai sáng của các bậc tiền bối là đề
cao vai trò lý tính và sự tiến bộ của con người, Kant đã nghiên cứu con người
như một chủ thể hoạt động tích cực trong mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền,
tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây.Tiếp
tục triển khai những nguyên tắc cơ bản của triết học đạo đức đó là không bao
giờ được đối xử với con người như là phương tiện mà là mục đích. Bên cạnh
đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực triết học lịch sử, triết học tôn giáo, thì triết học
pháp quyền cũng là một lĩnh vực được Kant quan tâm nghiên cứu và có nhiều
nội dung sâu sắc trong đó vấn đề con người đặc biệt là tự do, quyền, và phẩm
giá con người là vấn đề cơ bản nhất. Tuy vấn đề này đã được bàn đến từ thời
kỳ cổ đại, nhưng đến thời kỳ Kant với sự phát triển của khoa học, kinh tế,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi sự cần thiết phải giải phóng
con người khỏi những trói buộc của thời đại thì vấn đề về triết học pháp
quyền được chú ý bàn luận và đưa ra những quan điểm tư tưởng có tính chất
tiến bộ, cách mạng.
Thuật ngữ pháp quyền bao gồm hai yếu tố sự tối thượng của pháp luật
và yêu cầu phân chia quyền lực. Xung quanh thuật ngữ này vẫn còn nhiều
tranh cãi. Pháp quyền cũng có thể được hiểu là những gì có trước và đứng lên
trên việc ban bố luật lệ của nhà nước và làm chức năng định hướng cho nó, nếu
người ta muốn có một pháp quyền công chính. Với Kant, nguyên tắc pháp quyền
phải dựa trên lý tính thuần túy, phải đảm bảo giá trị hiệu lực phổ biến và tất yếu.
Kant phát triển nguyên tắc pháp quyền của mình từ mệnh lệnh nhất quyết.
2.2.1. Mục đích của triết học pháp quyền
Vấn đề về pháp quyền và tự do được Kant giải quyết và bàn đến trong
các tác phẩm: “Đặt nền móng cho siêu hình học của đạo đức học” xuất bản
năm 1785 “Tiến tới hòa bình vĩnh cửu - một phác thảo triết học” (1795) và
57
“Siêu hình học của đạo đức” (1797).
Trong tác phẩm “Siêu hình học của đạo đức”, ông định nghĩa pháp luật
như sau:“Pháp luật là một khái niệm ám chỉ những điều kiện theo đó ý chí
của người này có thể dung hợp được với ý chí của người kia theo một luật
định tự do chung”.[Dẫn theo 48, tr.61].
Từ đây, Kant đi tới nguyên tắc chung của pháp quyền đó là “Một khi
cách hành xử, và nói chung, hoàn cảnh của tôi chấp nhận hay không xâm hại
tới tự do của bất kỳ người nào khác theo luật định chung, thì việc ngăn trở tôi
sẽ bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, cái luật định chung đó là: hãy đối xử
với người khác sao cho việc sử dụng ý chí của bạn có thể chấp nhận hay
không xâm hại tự do của người khác theo luật định chung. Đó chính là luật
định đặt lên đôi vai mà tôi phải tuân thủ” [Dẫn theo 48, tr.62].
Mục đích triết học pháp quyền của Kant là tìm lời giải đáp cho vấn đề: thế
nào là tự do và làm thế nào để đảm bảo được quyền tự do đó, tiến tới xây dựng một
“vương quốc của tự do” và một nền hòa bình vĩnh cửu trên toàn thế giới.
Kant cho rằng, mục đích của triết học pháp quyền là xây dựng nhà
nước pháp quyền tốt nhất trên toàn thế giới. Là sự liên minh tự do của những
quốc gia trong đó các dân tộc cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở độc lập chủ
quyền về lãnh thổ và một nền hòa bình vĩnh cửu trong tương lai. Điều tốt nhất
cho mọi người và đỉnh cao của hệ thống lập pháp chính là hai mục tiêu cơ bản
đó là tự do và bình đẳng. Cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì quốc gia đó bị
giảm sút sức lực bấy nhiêu và muốn có tự do phải có sự bình đẳng. Mục tiêu
của một thể chế nhà nước chính là tự do và bình đẳng và nó cũng tùy thuộc
vào từng hoàn cảnh mỗi quốc gia dân tộc, nên không giống nhau. Mỗi dân tộc
sẽ lựa chọn cho mình một thể chế phù hợp.
Theo Kant, quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao từ
cổ đại đến hiện đại thực chất đều là quá trình phát triển tự do. Tự do chính là
58
cái đích mà pháp quyền hướng tới. Qúa trình đó diễn ra thông qua những
bước chuyển hóa dần từ trạng thái tồn tại đơn thuần động vật sang trạng thái
có tính người, từ sự lệ thuộc vào bản năng có sẵn, ràng buộc gắn bó mật thiết
tới thiên nhiên, sang chỉ đạo của lý tính, và sau cùng là bắt tự nhiên phải phục
vụ cho mục đích của con người.
Kant cũng cho rằng, động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội,
hay sự phát triển của nhà nước đối với việc hình thành triết học pháp quyền là
chiến tranh. Kant thừa nhận có trạng thái chiến tranh xảy ra, nó tồn tại trong
mỗi một con người hay xã hội khi có điều kiện thích hợp. Chiến tranh được
Kant xem như là một hiện tượng tự nhiên có lợi ích, kích thích sự phát triển
toàn diện các mặt của đời sống và qua đó năng lực bản chất con người được
bộc lộ rõ hơn.
Nhưng mặt khác Kant lại kịch liệt phê phán lên án những cuộc chiến
tranh phi nghĩa, những cuộc chiến tranh trừng phạt theo kiểu cá lớn nuốt cá
bé, sự áp bức, xâm chiếm thuộc địa dành thị phần, vơ vét của cải về chính
quốc. Chiến tranh phi nghĩa đó sẽ không đem lại sự tiến bộ gì cho xã hội,
thậm chí làm thụt lùi sự phát triển mọi mặt, sự đồi bại của văn hóa, làm cho
nhà nước, pháp quyền trong nhà nước không còn công bằng, liêm chính.
Khác với Hobbes, nếu Hobbes coi chiến tranh là phương thức hành
động, chiến tranh là tình trạng của tất cả chống lại tất cả, thì ở Kant không coi
chiến tranh là phương thức hành động mà chỉ là một phương tiện cần thiết để
khẳng định quyền của một dân tộc bằng sức mạnh quân sự mà thôi.
Như trên đã nói mục đích của triết học pháp quyền là nhằm tiến tới
“vương quốc tự do” và một nền hòa bình vĩnh cửu trên toàn thế giới không
riêng gì một quốc gia nào. Muốn làm được điều đó mỗi quốc gia phải hoàn
thiện luật pháp nhằm đảm bảo sự tự do và phẩm giá của con người. Điều cần
59
thiết nhất là xây dựng một hiến pháp nhà nước ở mọi quốc gia.
Trong tác phẩm “Hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu”, một “phác
thảo triết học” viết năm (1795), Kant đã nêu ra những ý tưởng táo bạo của
mình để có thể bảo đảm nền hòa bình lâu dài trên khắp các châu lục. Kant suy
ngẫm về một dân tộc hùng cường, có thể thành lập liên minh hòa bình giữa
các dân tộc là điều trong tầm với. Như vậy thì chiến tranh có thể chấm dứt
vĩnh viễn, theo Kant tình trạng hòa bình trong xã hội không phải tình trạng tự
nhiên. Muốn đạt được hòa bình phải có sự ký kết giữa các quốc gia dân tộc
dựa trên quan điểm đạo đức.
Nền hòa bình vĩnh cửu đó không thuần túy chỉ là ý chí của một cá nhân
về tình trạng yên ổn tạm thời. Đó cũng không phải là việc theo đuổi hạnh
phúc hay muốn thoát khỏi sự sợ hãi của chiến tranh. Mà con người cần tìm
kiếm hòa bình là một điều tốt đẹp nhất cho cuộc sống của con người. Hòa
bình không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, mà đó là sự nỗ lực tự thực
hiện, phải là sự gắn kết giữa cá nhân với tập thể, phải tạo điều kiện hành động
để chuẩn bị cho hòa bình. Và điều kiện đó là gì? Kant khẳng định điều kiện
đó là khi hòa bình được thiết lập thì đó không phải là trạng thái tự nhiên, vì
nếu là trạng thái tự nhiên thì nó còn bị đe dọa bởi chiến tranh. Trong tác phẩm
“Hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu”, Kant còn đưa ra sáu điều khoản sơ
bộ và ba điều khoản chung cần thiết cho một nền hòa bình vĩnh cửu trong
tương lai. Kant mổ xẻ nhiều vấn đề trong những điều khoản sơ bộ đó, từ
những nguy cơ mầm mống tiềm ẩn chiến tranh dù hiệp ước hòa bình có được
ký kết giữa các dân tộc với nhau, cho đến vấn đề cần phải loại bỏ đội quân
thường trực, phê phán gay gắt việc lạm dụng quyền lực kinh tế của các cường
quốc mạnh làm phương tiện cho sự cạnh tranh không tốt đẹp.
Trong những điều khoản sơ bộ, Kant đề cập đến những nội dung chủ
yếu sau: Thứ nhất, hòa ước không có hiệu lực khi có những điều khoản bảo
60
lưu để chuẩn bị điều kiện cho chiến tranh sẽ diễn ra trong tương lai. Thứ hai,
không một quốc gia độc lập nào, dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ có thể cấm
đoán quốc gia khác mua bán, trao đổi. Chính quyền không thể coi lãnh thổ
như một loại tài sản riêng được, điều này áp dụng trong quá khứ và hiện tại.
Thứ ba, mỗi quốc gia cần có quân đội riêng nhằm sử dụng vào nhu cầu phòng
vệ không được gây hủy diệt đối phương bằng quân đội. Chạy đua vũ trang sẽ
gây ra chiến tranh, có ba loại quyền lực chủ yếu cho quốc gia đó là sự liên
minh chính trị, tài chính và quân đội, nhưng quân đội tác hại nhất vì kích
động bất ổn ở ngoài nước và thúc đẩy gây hấn trong nước.Thứ tư, vấn đề nợ
công là vấn đề chính quyền cần quan tâm, muốn phát triển cơ sở hạ tầng và
đầu tư cho sản xuất vay nợ là điều cần thiết. Thứ năm, không quốc gia nào có
quyền can thiệp bằng vũ lực vào hiến pháp, và chính quyền nước khác. Thứ
sáu, không quốc gia nào được phép gây ra nhũng biện pháp thù nghịch, khiêu
khích tạo ra tình trạng lừa đảo, mâu thuẫn.
Tiếp theo, Kant đề cập đến ba điều khoản chung: Thứ nhất, là hiến
pháp dân sự của từng quốc gia phải theo thể chế cộng hòa. Trong thể chế cộng
hòa này gồm có ba đặc điểm cơ bản đó là người dân được hưởng tự do, bình
đẳng và phải thượng tôn luật pháp. Mọi việc làm của nhà nước người dân phải
có quyền quản lý, rà soát. Có hai loại hiến pháp cộng hòa và dân chủ, hiến
pháp cộng hòa đề cập đến hình thức của chính quyền còn hiến pháp dân chủ
quan tâm đến quyền tối thượng. Vấn đề mà hiến pháp quan tâm là: Ai cai trị
và cai trị như thế nào? Một nhà nước phải có sự đảm bảo dân chủ, chính
quyền thuộc đa số nhân dân, ý muốn của nhân dân là chuyên chính và tất yếu.
Trong thể chế cộng hòa quyền hành pháp bị tách khỏi quyền lập pháp. Phân
quyền là cần thiết, giới hành pháp ít thì tinh thần của chế độ đại nghị càng thể
hiện rõ. Chính quyền theo thể chế cộng hòa sẽ cai trị tốt hơn chính quyền theo
61
thể chế khác.
Thứ hai, luật quốc tế phải dựa trên nền tảng của liên bang các quốc gia
tự do. Nếu tình trạng chiến tranh diễn ra đó là tình trạng vô luật, kìm hãm và
phá hủy sự phát triển của nhân loại. Quốc gia cần phải phát triển an ninh, mục
đích của việc thiết lập liên bang hòa bình là ngăn ngừa chiến tranh. Luật pháp
phải cấm đoán chiến tranh, tạo điều kiện để kiến tạo hòa bình, cần phải liên
minh quốc tế, được sự ủng hộ của các quốc gia.
Thứ ba, quyền công dân trong thế giới đại đồng phải bị hạn chế, khi
điều kiện hiếu khách không cho phép. Bảo vệ ngoại kiều không nhằm mục
tiêu nhân đạo thực chất là nhân quyền. Trên thế giới cần có một ngôn ngữ
chung để con người có thể trao đổi, gần nhau qua công việc, chia sẻ thông
cảm cho nhau qua trách nhiệm chung. Nhân quyền là bình đẳng không ai trên
thế giới có nhiều hơn người khác cả. Kant đưa ra thí dụ như vấn đề vi phạm
nhân quyền ở một nơi xa sẽ được cộng đồng nhân loại cùng quan tâm, lý
tưởng và chuẩn mực chung đưa tới du nhập về quyền công dân đại đồng hay
gọi là nhân quyền được Kant nêu ra một cách rõ ràng, cần đối xử với người
ngoại quốc như những người bình thường khác. Luật pháp tạo ra là phải cấm
đoán các hành vi phân biệt đối xử. Khi người ngoại quốc đến nước khác sinh
sống phải tuân theo luật lệ địa phương, có quyền lưu trú trong thời gian dài.
Chiến tranh là một tình trạng tự nhiên còn hòa bình là một trạng thái do
pháp luật tạo dựng, mục đích của luật pháp chính là hướng đến một nền hòa
bình vĩnh cửu. Chúng ta cần hiến pháp cộng hòa để kiến tạo nên hòa bình, và
để đạt được điều đó cần có các nguyên tắc như tụ do, bình đẳng giữa các
quốc gia, dân tộc.
Kant cho rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể bị cuốn hút và rơi vào
vòng xoáy của chiến tranh, điều cần làm là tạo dựng nền hòa bình lâu dài
thông qua hành động có chủ định của con người. Con người không chỉ là
62
công dân quốc gia, mà còn là công dân thế giới. Quyền công dân thế giới
không được để bản thân trở thành công cụ phương tiện cho người khác và
cũng không lợi dụng người khác vào mục đích của mình.
Trong tư luật phải phủ hợp với nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con
người, không bao giờ được đối xử với người khác như là một vật nào đó. Để
bảo vệ quyền làm người luật pháp phải thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó Kant
đề ra những điều kiện nhằm đảm bảo cho hòa bình, đó chính là vai trò của
thiên nhiên, mật ước, sự đóng góp tri thức. Thiên nhiên có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc đem lại sự hòa hợp cho con người. Thiên nhiên tạo điều
kiện để con người có thể chung sống với nhau dù ở nơi nào, thiên nhiên cung
ứng phương tiện cho việc sinh tồn của con người. Có ba lĩnh vực con người
cần tham gia để thỏa mãn sự đòi hỏi của thiên nhiên đó là luật công, quyền
đại đồng và luật quốc tế.
Dân chúng cần đoàn kết lại tự vệ chống chiến tranh, chống hành động
xâm lược. Tuân thủ đúng luật công, hiến pháp cộng hòa là một công cụ để
bảo vệ luật công. Lý do để dân chúng sống tách biệt nhau vì có dị biệt hay
khác biệt về ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán, tôn giáo. Đó chính là
nguồn gốc tạo ra sự phân hóa xã hội, luật quốc tế là một phương tiện gắn kết
hữu hiệu. Cần tạo ra liên minh giữa các nước, để ngừa những vụ xung đột hay
chiến tranh xảy ra. Hòa bình không thể do một cường quốc nào áp đặt lên
nước khác, mà đó là sự liên mình, hài hòa cùng chung sống. Luật quốc tế và
quyền công dân là sợi dây kết nối cộng đồng quốc tế. Muốn duy trì hòa bình
quốc tế, phải có trao đổi thương mại, kinh tế văn hóa giữa các quốc gia.
Trong trạng thái hòa bình thế giới ngoài những luật được ban bố công
khai, còn tiềm ẩn, tồn tại những mật ước không chính thức được đàm phán và
ngầm hiểu giữa các quốc gia trong việc ngoại giao, chính sách đối ngoại là mối
63
quan tâm chung của giới hiểu biết, có kiến thức.Chính quyền nên tham khảo ý
kiến của những người tri thức. Tôn trọng ý kiến của họ, cần tạo điều kiện cho họ
được tham gia đóng góp vào những công việc chung của nhà nước.
Mục đích của triết học pháp quyền không nằm đâu xa là hướng tới một
nền hòa bình vĩnh cửu, mục đích cao cả của nó là bảo vệ quyền con người. Tư
tưởng đó không bó hẹp trong một quốc gia, hay một dân tộc nào, mà mở rộng
trên phạm vi toàn nhân loại. Thể hiện khát vọng hòa bình, không có chiến
tranh, trên thực tế, thế giới chưa khi nào đạt đến một nền hòa bình hoàn toàn,
lịch sử từ xưa tới nay cho thấy một thực trạng diễn ra, xung đột lợi ích, kinh
tế, chính trị, những bất ổn vẫn luôn diễn ra ở nhiều quốc gia, nội chiến, ngoại
chiến vẫn tiếp diễn ở một vài khu vực trên thế giới. Tư tưởng mong ước của
Kant phải chăng còn xa rời hiện thực, ý tưởng mà Kant đưa ra nằm trong sự
tiến triển vô cùng tận mà con người chỉ có thể tiến gần đến sự hoàn thiện đó.
Kant cho rằng, con người cần phải hướng hành động của mình tới mục
đích cao cả đó, vì nó đòi hỏi lý tính thực tiễn và bởi con người là một “thực
thể tư duy”. Liên minh thế giới cho bình hòa, hiến pháp theo thể chế cộng
hòa, là phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu. Nguyên tắc bình đẳng
giữa các dân tộc, và không được can thiệp vào hoạt động nội bộ của dân tộc
khác của Kant đề ra sau này được ghi vào “Hiến Chương của Liên Hợp
Quốc”, thể hiện tư tưởng tiến bộ, tinh thần văn cao đẹp, mục đích mà pháp
quyền hướng tới không đâu xa là sự liên minh bình đẳng, tôn trọng chủ quyền
lãnh thổ giữa các quốc gia. Thể hiện khát vọng nhằm giải phóng con người
khỏi gông cùm của chế độ phong kiến hà khắc, xây dựng một thế giới hòa
bình của tất cả các dân tộc và vì sự tự do, phồn vinh của nhân loại. Trên tất cả
trong tư tưởng pháp quyền của Kant, mục đích con người hướng đến là sự tự
do. Khái niệm tự do ở Kant không chỉ giới hạn trong quyền tự nhiên của con
người, mà còn là quyền làm người. Đây thực sự là tư tưởng tiến bộ, mang
64
đậm tinh thần nhân đạo nói lên mối quan hệ giữa quyền tự nhiên và quyền
con người thông qua sự thừa nhận của pháp luật. Kant đã chi tiết hóa vấn đề
trong hình thức một hiệp ước hòa bình toàn cầu. giống như việc giải thích tình
trạng công dân trong khuôn khổ một nhà nước như là tập hợp một số đông
người dưới những quy định của pháp luật.
Kant xác định mục tiêu của triết học pháp quyền như là chuẩn mực tối
cao của mọi chính sách, Kant gọi là “học thuyết pháp quyền được thực thi”.
Điều này không được hiểu rằng nhà làm luật sẽ làm chủ thế giới, làm chủ đất
nước. Kant chỉ muốn nhấn mạnh đến sự hài hòa, tương hợp giữa nguyên tắc
của pháp quyền với luân lý, hướng theo nghĩa vụ phải bảo vệ hòa bình trong
tinh thần “công dân thế giới”. Tư tưởng pháp quyền được Kant đề cập một
cách có hệ thống. Triết học pháp quyền của Kant kêu gọi con người phải
hướng đến các quyền tự do đó chính là mục đích tối cao và tốt đẹp nhất.
Không bao giờ được để mình trở thành phương tiện mà luôn là mục đích và
cũng không bao giờ được sử dụng người khác chỉ như là phương tiện để đạt
mục đích của chính mình.
2.2.2. Trách nhiệm pháp lý
Một vấn đề quan trọng khác mà Kant đề cập trong triết học pháp quyền
của ông chính là trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý không đơn thuần
theo cách hiểu thông thường mà người ta gán cho nó theo nghĩa tiêu cực là
chịu sự trừng phạt hay gây ra những hậu quả xấu làm ảnh hưởng đến cộng
đồng và xã hội, là hành vi cần được lên án, phê phán, hay vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý mà Kant đề xuất ở đây được hiểu và phân tích theo ý
nghĩa tích cực là nghĩa vụ của mỗi người, mỗi chủ thể đối với chính bản thân
mình, và đối với người khác. Đối với bản thân mình, con người hãy là người
biết nhận thức về quyền lợi trong sinh hoạt xã hội, trong các mối quan hệ với
65
người thân, bạn bè, cộng đồng.
Phải biết khẳng định giá trị của bản thân mình, giá trị của một người,
không bao giờ, và không được để mình chỉ là phương tiện cho mục đích của
người khác, mà đối với người khác hãy đồng thời là mục đích. Trách nhiệm
pháp lý là trách nhiệm tồn tại bên trong, không phải là cái chung chung trừu
tượng bên ngoài con người, nó xuất phát từ quyền làm người của mỗi cá
nhân. Với mọi người hay đối xử đúng luật, tuân thủ pháp luật, không được và
không cho phép mình làm bất cứ điều gì bất công như trộm cướp, chiếm
đoạt.. Con người cần tránh xa những mối liên hệ, những tổ chức, những tập
thể mà có thể gây bất công, mang đến sự bất hạnh cho người khác. Quan điểm
này của Kant thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tình thương và sự quý trọng mỗi
con người, sống và tồn tại trong xã hội, con người nên chỉ nhận những cái gì
thuộc về mình, là của mình. Cần đấu tranh cho những điều phi nghĩa, những
điều không đúng sự thật làm tổn hại tới chính mình và tới mọi người.
Khẳng định giá trị người nơi Kant xuất phát từ quyền làm người, con
người không được để mình chỉ là phương tiện công cụ mà đối với người khác
đồng thời là mục đích. Nó giống như việc nhận thức được nghĩa vụ của mình
phải làm đối với mọi người, hãy đối xử đúng luật và chỉ nhận cái thuộc về
mình, bản chất vấn đề đó là sự chuyển hóa nguyên tắc tôn trọng phẩm giá của
con người trong tư tưởng đạo đức của Kant. Mỗi chủ thể cần phải nhận thức
về quyền làm người của mình cũng như quyền tự do của mình để có thể hành
động đúng theo nguyên tắc. Nhưng để những quyền trên được đảm bảo thì
cần phải có một nhà nước hợp lý tính, tồn tại dựa trên những nguyên tắc pháp
quyền thuần túy.
Kế thừa tư tưởng Montesquieu về nguyên tắc phân quyền, khi cho rằng
cần phải sử dụng luật pháp trong nhà nước pháp quyền, nhà nước trước hết
phải là một cộng đồng người ở đó quan hệ giữa người và người đều bị quy
66
định bởi pháp luật, giải thích nguyên nhân của sự xung đột giữa con người với
con người từ chính những lợi ích, đòi hỏi cần phải thiết lập luật pháp giữa con
người với nhau. Kế thừa sự phân chia luật của Montesquieu và Rousseau về
phân chia quyền lực trong cơ cấu bộ máy nhà nước, Kant cho rằng một nhà
nước muốn tồn tại được cần tối thiểu phải có ba hình thức quyền lực, tức “tam
quyền phân lập”.
Để ba quyển lực này có thể hạn chế sự chuyên quyền, độc đoán, ba
quyền lực này cần phải độc lập với nhau. Vì chính phủ cộng hòa tồn tại dựa
trên nguyên tắc phân chia quyền lực và chỉ có hình thức nhà nước này mới có
thể đảm bảo được tự do cá nhân mà không bị cản trở quyền tự do của những
người còn lại. Và ba quyền mà Kant đề cập đến là quyền hành pháp, lập pháp,
và tư pháp đó là chủ trương tam quyền phân lập. Mỗi một nhà nước cần có ba
hình thức quyền lực này, chúng đối trọng nhau.So với các nhà triết học tiền
bối khai sáng Pháp như Montesquieu và Rousseau về quan niệm triết học
pháp quyền của Kant còn nhiều hạn chế, nhưng ông cũng đã tiếp thu những tư
tưởng mang tính cách mạng của Rousseau khi cho rằng “lập pháp là đỉnh cao
nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới” [67,tr.72]. Lập
pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sự chuyên quyền. Không nên dùng
bạo lực để thi hành lập pháp, lập pháp phải đảm bảo quyền tự do bình đẳng
cho mọi người. Kant cho rằng quyền lập pháp là quyền của nhà xây dựng
pháp luật, quyền hành pháp là quyền điều hành, thi hành và tuân thủ theo luật
pháp, còn quyền tư pháp là quyền kiểm định, công nhận việc thực thi pháp
luật của bản thân nhà nước. Và không phải ai đến tuổi trưởng thành cũng đều
được cho là công dân. Mà công dân đó phải là công dân của một nhà nước,
một quốc gia cụ thể, được thừa nhận. Kant khẳng định cần phải sử dụng luật
pháp trong nhà nước pháp quyền, phải có những đạo luật để gắn quyền hạn và
67
nghĩa vụ của mỗi người.
Tiếp thu tư tưởng của Rousseau về xã hội dân sự, lập pháp có vai trò
quan trọng đối với việc xác lập quyền hạn là cơ sở để đo lường sự phải trái
trong mỗi quan hệ xã hội giữa người này với người khác. Kant cho rằng nhà
nước không phải là cơ quan đứng trên pháp luật mà phải tuân thủ, tôn trọng
pháp luật. Người thống trị cai quản một quốc gia cũng không phải là một
người cai trị, mà chỉ đơn thuần là những người có thể là luật sư mới có thể
phán quyết. Nhân dân có quyền tự phán quyết chính bản thân họ thông qua
các công dân của họ, những người được lựa chọn thông qua bầu cử tự do.
Tiếp thu tư tưởng của Locke và cho rằng luật chỉ có thể cấm những hành vi
làm tổn hại đến xã hội. Quyền của công dân được mở rộng hơn so với những
người nắm quyền lực trong tay.
Kant cũng nêu ra tư tưởng chống lại sự độc đoán chuyên quyền bằng
việc nhà nước cần ban bố các đạo luật quy định nguyên tắc trừng phạt những
hành vi sai trái. Kant cho rằng các quyền mà lập pháp có thể là ý chí liên kết
các dân tộc với nhau. Những người do cơ quan lập pháp liên kết xã hội công
dân hay xã hội dân sự. Tức là trong một nhà nước gọi là công dân nhà nước.
Cùng với đó là quyền công dân bất khả xâm phạm, đó là quyền bất ly thân là
sự tự do trong khuôn khổ pháp luật, sự tự do ấy phải được pháp luật thừa
nhận. Không đi ngược lại với ý chí chung. Quyền lập pháp là ý chí hợp nhất
của mọi công dân trong xã hội, chỉ thuộc về nhân dân, quyền lập pháp là
quyền tối cao trong nhà nước và mọi quyền khác đều phải xuất phát từ quyền
lập pháp. Hành pháp là quyền thuộc về người cầm quyền theo luật và tuân thủ
theo quyền lực lập pháp. Người được trao quyền hành pháp được phép đưa ra
những quy tắc ứng xử để định hướng và duy trì hoạt động của mọi công dân
trong xã hội theo luật pháp. Tư pháp là quyền do quyền lực hành pháp bổ
nhiệm. Người nào đó được bổ nhiệm quyền này là người quản lý pháp luật
68
theo luật đã định không thay đổi, người đó chỉ có được quyền quản lý, mà
không có quyền sửa đổi, bổ sung và sẽ bị thay thế nếu không thực thi được
nhiệm vụ quyền hạn mà mình nắm giữ.
Trong ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì tính tối cao nhất, quan
trọng của quyền lập pháp là phải được thực hiện bởi tòa án do nhân dân bầu ra
và chỉ được phán quyết hành động của một công dân nào đó trong nhà nước
ấy theo luật pháp đã ban hành. Kant tiếp tục khẳng định sự bình đẳng của ba
quyền này, chúng tồn tại một cách song song, mỗi quyền giữ vị trí, có chức
năng nhất định. Sự phân chia giữa ba quyền này không chỉ cần thiết đối với
sự tồn tại của nhà nước dưới chế độ cộng hòa mà rất cần thiết đối với việc
ngăn chặn sự chuyên chế, lạm dụng quyền lực nhằm mục đích riêng. Mục
đích của ba quyền này là đem lại sự thịnh vượng, tự do, phát triển cho quốc
gia, dân tộc.
Nhưng khi so sánh sự quan trọng của ba quyền này, Kant vẫn dành sự
ưu tiên cho quyền lập pháp. Vì theo ông quyền lập pháp là cái thuộc về ý chí
tối cao, ý chí hợp nhất của mọi công dân trong một cộng đồng xã hội Kant
cho rằng “quyền lập pháp chỉ có thể thuộc về ý chí hợp nhất của nhân dân,
trên thực tế, vì mọi luật pháp đều phải xuất phát từ ý chí hợp nhất đó, nên lẽ
đương nhiên là nhà nước không có quyền được đối xử với một ai đó một cách
không theo luật. Tuy nhiên, khi một ai đó quyết định một vấn đề gì về một cá
nhân khác, thì bao giờ cũng có một khả năng diễn ra là anh ta đối xử với cá
nhân đó một cách không theo luật, song anh ta lại không bao giờ có khả năng
như vậy trong quyết định về chính bản thân mình... Do vậy, chỉ có ý chí hợp
nhất và nhất trí của tất cả mọi người với nghĩa là mỗi người đối với tất cả và
tất cả đối với mỗi người cùng thông qua một quyết định, tức là ý chí của nhân
dân được hợp nhất một cách phổ biến, mới có thể trở thành ý chí lập pháp.
Tư tưởng về quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của Kant nêu ra kế
69
thừa, tiếp thu mô hình của Montesquieu nhưng còn xem đó là các suy luận tất
yếu của lý tính thuần túy thực hành. Quyền cai trị thuộc về lập pháp, quyền
lập pháp đại diện của dân chúng, dân chúng là người giám sát. Để tránh lạm
dụng quyền lực thì các cơ quan quyền lực phải có sự kiềm chế lẫn nhau theo
kiểu quyền lực ngăn cản quyền lực. Quyền thi hành của hành pháp, cơ quan
hành pháp chỉ được tham gia vào những công việc lập pháp với chức năng là
ngăn cản, nhưng không có quyền can thiệp tranh luận vào công việc, cũng
không có quyền được ban hành pháp luật. Chỉ được quyền đưa ra ý kiến, phản
đối một điều nào đó của cơ quan lập pháp. Điều đó tránh được sự chuyên chế
của cơ quan lập pháp.
Kant cho rằng, cơ quan lập pháp có vai trò xem xét các đạo luật mà nó
soạn thảo ra, những người hành pháp là bất khả xâm phạm. Quyền lực hành
pháp phải vận dụng chức năng của mình là ngăn cản để tham gia vào việc lập
pháp nếu không thì cơ quan lập pháp sẽ bị tước mất ưu quyền. Trái lại nếu
quyền lực lập pháp tham gia vào cơ quan hành pháp thực hiện nhiệm vụ ngăn
cản thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu. Bên cạnh việc đề cập đến cơ quan lập
pháp, hành pháp, Kant cũng đề cập đến cơ quan tư pháp hay quyền tư pháp,
quyền tư pháp của thẩm phán
quyền tư pháp được tách ra độc lập với quyền lập pháp và hành pháp. Nhưng
chúng luôn luôn bình đẳng với nhau, có sự ràng buộc tạo nên sự vận động
nhịp nhàng cho hệ thống pháp quyền. Kant phân chia các nhánh quyền lực
như vậy để thấy được sự đối trọng trong ba quyền lực, trong một nhà nước
pháp quyền, các quyền đó luôn luôn được đề cao và không quyền nào được
phép can thiệp quá sâu vào quyền khác. Kant cho rằng “một chính quyền vừa
đồng thời làm chức năng lập pháp thì gọi là độc tài chuyên chế. Cũng thế nếu
lập pháp hay hành pháp nắm luôn chức năng của tư pháp” [18, tr.LIV].
Nhà nước lý tính theo quan niệm của Kant là một nhà nước cộng hòa
70
theo nghĩa của Rousseau, vì ông xem chủ quyền đích thực thuộc về ý chí hợp
nhất một cách phổ biến của nhân dân. Chủ quyền được thực hiện như thế nào
dù là chuyên chế, hay quý tộc, dân chủ thì thước đo cho tính hợp pháp của nó
bao giờ cùng là những gì nhân dân không thể quyết định được về chính mình
thì nhà lập pháp cũng không thể quyết định trên đầu họ được. Theo Kant,
nghĩa vụ của mọi người là phải ra sức tạo ta tình trạng hài hòa tối đa giữa hiến
pháp với những nguyên tắc pháp quyền vì điều này là bổn phận do lý tính đề
ta bằng một mệnh lệnh nhất quyết.
Kant cho rằng cần phải cải cách lập pháp mới có thể mang lại thành
công chứ không phải cuộc cách mạng, hay những cuộc chiến tranh xung đột.
Ông loại trừ một quyền đề kháng chính đáng vì cho đó là điều tự mâu thuẫn
trong một tình trạng pháp quyền không thể có quyền vi phạm pháp quyền.
Tình trạng hài hòa tối đa giữa hiến pháp với những nguyên tắc pháp quyền do
mệnh lệnh nhất quyết quy định đó chính là quy luật tối cao. Kant cho rằng cần
có một nền hòa bình giữa các dân tộc với nhau. Vì vậy nền hòa bình vĩnh cửu
không phải là một không tưởng, không được có chiến tranh, dù là giữa tôi với
anh ở trong trạng thái tự nhiên hay giữa các quốc gia với nhau.
Có thể nói rằng tư tưởng về sự phân chia quyền lực ở Kant không có gì
mới hay phát triển hơn Montesquieu, Locke hay Rousseau. Nhưng ta thấy ở
Kant tinh thần tự do, với tư cách là nguyên tắc thuần túy của lý tính, quan
niệm về pháp quyền cũng có giá trị ngay trong trạng thái tự nhiên, được Kant
hiểu rằng tình trạng mà trong đó mọi người đều nắm quyền trong tay và do đó
không bao giờ có thể an toàn trước bạo lực đối với nhau.
Kant cho rằng, tình trạng tự nhiên như trên đã nói không phải là trạng
thái bất công mà là trạng thái vô luật pháp. Đó là tình trạng con người sống,
sinh hoạt tự do không theo khuôn khổ pháp luật, không tuân theo một luật
định nào, con người đứng ngoài pháp luật. Và muốn pháp quyền đi vào đời
71
sống thì mọi người cần phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Cần có kỷ
cương, có phép tắc, cần tôn trọng luật pháp đã ban hành, tức là con người cần
phải thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên của mình. Trong đó mỗi người chỉ làm
theo ý mình, điều đầu tiên cần phải làm là đi theo tình trạng công dân, biện
pháp hiệu quả đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân và ngăn ngừa
hành vi lạm quyền là phải thiết lập một pháp chế nhằm giới hạn quyền lực
nhà nước. Kant đề cập đến khái niệm công dân, phải hiểu công dân ở đây
không theo nghĩa xã hội học chỉ một tầng lớp hay một giai cấp mà là chỉ
chung các đặc điểm của một thành viên nhà nước.
Thực chất “tình trạng công dân” mà Kant đề cập đến cũng như Hobbes,
Locke và Rousseau hiểu như một tình trạng mà trong đó mỗi người được quy
định bằng pháp luật những gì phải được công nhận như là của mình và được
phân phát một quyền lực vừa đủ. Nhưng quyền lực đó không phải là quyền
lực của mình mà là một quyền lực từ bên ngoài, bao gồm cả sự tự do đối với
các quyền của con người.
Trong sự tự do đó công dân không tuân thủ pháp luật nào khác ngoài
pháp luật đang quy định họ đó chính là sự bình đẳng giữa các công dân với
nhau trong mối quan hệ xã hội. Nói đến quyền tự do trong nhà nước pháp
quyền, Kant cũng đã kế thừa rất nhiều điểm hợp lý của J.Locke khi cho rằng
tự do là một trạng thái mà trong đó, luôn có “một quy tắc để sống theo đó, nó
tồn tại thường trực và chung cho mọi người trong xã hội, được định ra từ
quyền lập pháp đã được xã hội dựng lên” [28,tr.57]. Đó là sự tự do của mỗi
người, tự do ý chí, tự do hành động, tự do đó hiện diện trong mọi hành động
của mỗi người nó không vi phạm những quy định chung và không phải làm
theo ý chí của bất kỳ người nào.
Tự do thuộc về bản chất của con người, khi sinh ra con người đã có
quyền được hưởng tự do, tự do là tự bản thân nó, không ai ban phát, không ai
72
thay thế được, gắn với sự sinh tồn, phát triển của con người. Luật đầu tiên của
tự do là con người phải được chăm lo cho sự sống của mình. Con người có
quyền tự do tham gia vào khế ước xã hội, khi tham gia vào khế ước xã hội
con người không những không mất đi quyền tự do mà quyền đó chỉ chuyển từ
tự do trong trạng thái tự nhiên sang tự do dân sự có nhà nước. Tự do theo tư
tưởng của Kant là tự do tuân thủ pháp luật, không phải con người muốn làm
gì thì làm. Tự do đó phải tuân theo quy định chung, không phải là sự bó buộc
hay cản trở.
Kế thừa tư tưởng của các nhà triết học trước đó, đặc biệt là mô hình
“khế ước xã hội” của Rousseau khẳng định con người phải làm theo luật, chỉ
cho phép làm những điều mà luật pháp không cấm. Kant cũng như các nhà
triết học tiền bối Rousseau sử dụng mô hình “khế ước” cho ra đời tình trạng
pháp quyền với đầy đủ quyền lực. Theo Kant, chỉ có ý chí hợp nhất và đồng
thuận của mọi người, do đó chỉ có ý chí của nhân dân được hợp nhất nói
chung mới có tính ban bố quy luật. Nhưng không được hiểu “khế ước” như là
một sự kiện lịch sử có thật, ngược lại chỉ như ý niệm về hành vi thành lập nhà
nước, và chỉ theo đó mới có thể suy tưởng được tính hợp pháp của nhà nước.
Khác với Hobbes và Locke, Kant không dừng lại ở việc hiểu khế ước chỉ như
là vấn đề của sự khôn ngoan để bảo vệ sự an toàn và tài sản, mà là việc thực
hiện ý niệm về pháp quyền do lý tính đề ra cho ta bởi chính con người. Nói
cách khác, việc đi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái pháp quyền là một
nghĩa quan trọng mà con người phải thực thi.
Kant biện minh tính chính đáng của pháp quyền từ lý tính thực hành,
nhưng không phải là nhà nước hiện thực mà nhà nước trong ý niệm, muốn tồn
tại được phải dựa trên nguyên tắc thuần túy về pháp quyền làm chuẩn mực
cho bất lỳ sự hợp nhất hiện thực nào thành một cộng đồng. Kant cho rằng bất
kỳ nước nào muốn là cái gì nhiều hơn một tổ chức cưỡng chế đơn thuần phải
73
là nhà nước pháp quyền, ở đó pháp quyền và pháp luật được đo lường dựa
theo các “nguyên tắc tiên nghiệm” sau đây: Thứ nhất, sự tự do của mỗi thành
viên của xã hội, với tư cách là con người. Thứ hai, sự bình đẳng của mỗi
thành viên với những thành viên khác, với tư cách là thần dân. Thứ ba, sự tự
chủ của mỗi thành viên với tư cách là công dân. Kant xem nghĩa vụ đức hạnh
không có tính cưỡng chế về pháp luật. Rút ra nguyên tắc về sự phân quyền từ
ý niệm nhà nước. Trong một nhà nước chính đáng bao gồm ba quyền lực độc
lập như đã nêu trên. Khẳng định luật là quan trọng hơn cả, nó khắc vào lòng
người dân, tạo lập nên hiến pháp chân chính phục vụ vì lợi ích nhân dân.
Luật pháp phải công minh cho tất cả mọi người, không một ai tồn tại
trong xã hội lại có thể đứng trên luật pháp, hay đứng ngoài luật pháp, luật
chính là ý chí chung được nhân dân thừa nhận. Xét theo sự phát triển của lịch
sử triết học từ cổ đại tới cận đại, thời cổ đại và trung cổ quan hệ thân nhân
chiếm vị trí cao, thì vai trò của pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ đó,
nhưng đến thời cận đại, khi phương thức sản xuất công nghiệp phát triển,
quan hệ tư hữu chiếm địa vị thống trị xã hội, con người có xu hướng gia tăng
nhu cầu về bình đẳng, công bằng, thì pháp luật càng được đề cao.
Theo Kant luật là những quy định, những nguyên tắc, điều khoản của ý
chí chung, nó mang tính khái quát cho tất cả mọi người, ý chí chung đó phải
phản ánh lợi ích chung của xã hội, lợi ích chung phải là nền tảng cơ bản của
pháp luật. Bên cạnh đó tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: Nhà nước quân
chủ, nhà nước quý tộc, và nhà nước dân chủ. Trong nhà nước quân chủ, quân
vương là người đứng đầu. Hình thức nhà nước quân chủ là hình thức đơn giản
nhất bởi vì đứng đầu là vua, chỉ riêng mình vua là người ban hành luật pháp
cho quốc gia. Kant cho rằng tất cả các thể chế cộng hòa đích thực không phải
là cái gì khác ngoài cái hệ thống đại diện cho nhân dân, vì nhân dân, phục vụ
cho nhân dân, tư tưởng lấy dân là gốc là một tư tưởng vô cùng tiến bộ, và có ý
74
nghĩa nhân văn sâu sắc mà ta thấy ở Kant. Thể chế phải nhân danh nhân dân,
quan tâm tới quyền đại biểu liên kết toàn thể các công dân trong một nhà
nước lại với nhau. Người đứng đầu quốc gia được coi là đại diện cho toàn thể
nhân dân, dân tộc, thì người đó không chỉ đơn thuần là đại diện cho người cai
trị mà chính bản thân anh ta là người thống trị vì nhân dân, người ta thấy
trong người đứng đầu quốc gia đó sự thể hiện cho một thứ quyền lực tối cao,
từ đó phân cấp toàn bộ quyền lợi của mọi người từ già đến trẻ đơn thuần là
những người bị trị.
Tiếp thu tư tưởng của Rousseau về chủ quyền nhân dân, khi cho rằng
chính quyền là sự thể hiện ý chí của đại đa số. Không thể phân chia, luôn luôn
nằm trong tay nhân dân, và không được hạn chế bằng bất cứ đạo luật nào, và
đạo luật đó không trao cho cá nhân nào. Kant ủng hộ tư tưởng về chủ quyền
nhân dân của Rousseau ông giải thích “mọi nhà nước có ba quyền lực : lập
pháp chỉ thuộc về “ý niệm về chủ quyền tập thể của nhân dân”, hành pháp
thuộc về người cầm quyền theo luật và tuân thủ quyền lực lập pháp và tư pháp
do quyền lực hành pháp bổ nhiệm. Tổng thể và sự nhất trí ba quyền lực này
có thể ngăn ngừa sự chuyên chế và đảm bảo phồn vinh cho quốc gia”
[70,tr.24-28].
Như vậy có thể thấy, dưới sự tác động của hiện thực khách quan, trên
phương diện kế thừa tư tưởng của các nhà triết học tiền bối cùng với bộ óc
thiên tài, Kant đã để lại nhiều tư tưởng có giá trị không chỉ trong lĩnh vực đạo
đức mà còn cả lĩnh vực pháp quyền với việc bổ sung và hoàn thiện quan điểm
tam quyền phân lập. Tư tưởng về tự do, về trách nhiệm pháp lý, tính nhân văn
của luật pháp, mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, nền dân chủ nhân dân. Tư
tưởng về triết học pháp quyền của Kant là một mắt xích trong quá trình phát
triển lịch sử nhân loại, bổ sung và hoàn thiện sự phát triển thực tiễn xã hội của
75
nước Đức và châu Âu đương thời.
2.2.3. Các quyền cơ bản trong triết học pháp quyền
Kant đề ra cho pháp quyền những chuẩn mực và nguyên tắc mang tính
định hướng. Ông cho rằng, một khi hành vi của con người không xâm hại tới
sự tự do của những người xung quanh, theo luật ban hành, thì điều đó có
nghĩa là cũng không có ai có quyền ngăn cản hành vi của tôi, nếu ngăn cản, sẽ
bị coi là vi phạm pháp luật. Định luật chung được Kant nêu ra với nội dung
hãy hành xử với người khác sao cho việc bản thân sử dụng ý chí của chính
mình có thể chấp nhận hay không xâm hại tự do của người khác, cộng đồng
xung quanh theo luật đã ban hành tất cả mọi người trong xã hội phải tuân thủ
dù muốn hay không.
Một trong các nội dung quan trọng về quyền con người mà Kant đề
cập đó chính là quyền riêng tư. Đây là một trong những quyền quan trọng, cơ
bản mỗi người đều được bảo vệ. Kant cho rằng quyền riêng tư của mỗi người
trong xã hội chỉ có giá trị được khẳng định và tôn trọng khi quyền đó được
cộng đồng xã hội công nhận trong đó có quyền sở hữu với một sự vật, đó là
quyền mà cá nhân và những người khác trong cái sở hữu chung, ý chí của tất
cả mọi người liên kết với nhau, cá nhân không có quyền sử dụng vật của
người khác khi không được sự cho phép. Kant khẳng định từ quyền riêng tư
trong trạng thái tự nhiên dẫn tới định đề về luật công, tức là trong mối quan hệ
với người khác bạn cần có sự chia sẻ đối với tất cả mọi người liên quan trong
một trạng thái hợp pháp. Và nguyên nhân của điều đó lại nằm ngay trong
chính bản thân khái niệm pháp quyền, nó đối lập với quyền lực.
Bên cạnh quyền riêng tư, Kant đề cập đến quyền sở hữu đất đai. Ông
cho rằng đất đai vốn dĩ là của tự nhiên, là tài sản chung của tất cả mọi người
trên thế giới, toàn nhân loại, bản chất nó không thuộc về riêng ai. Và theo lẽ
tự nhiên thì mọi người đều có quyền sở hữu đất đai, họ được thừa hưởng từ tự
76
nhiên, và đó là một hành vi đúng pháp luật, như một luật định bất di bất dịch.
Nhưng Kant cũng khẳng định rằng quyền sở hữu đất đai của mỗi người thì
phải được quy định, phải có sự giám sát quản lý của xã hội dân sự và mỗi
quốc gia quản lý, tùy thuộc vào vị trí địa lý, tùy thuộc vào văn hóa, lịch sử
của quốc gia đó, mỗi quốc gia có thể chế chính trị khác nhau, không quốc gia
nào có quyền xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác, quyền sở hữu đất đai này
phải tuân theo những nguyên tắc xác định. Nhưng đây là quyền sở hữu thiêng
liêng của mỗi người mà xã hội đều phải tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo. Kant
cho rằng tất cả mọi công dân trong một xã hội đều nằm trong một trạng thái
sở hữu chung đất đai trên toàn bộ trái đất, người này đối với người kia có
quyền sử dụng và không được sử dụng ý chí của mình chống lại hay đối lập
lại việc sở hữu của người khác. Việc phân chia cái của chính bản thân người
đó với cái của người khác trên một khoảnh đất thì chỉ tồn tại trong trạng thái
xã hội dân sự và chỉ riêng ở xã hội dân sự này mới có quyền phán quyết bằng
luật pháp, cái gì là đúng luật và phù hợp với luật pháp thì cái đó được công
nhận. Kant tiếp tục trình bày quan điểm của mình khi đề cập đến luật công và
luật nhà nước, ông cho rằng các quy luật được phép công bố nhằm mục đích
đem lại kỷ cương luật pháp và đó chính là pháp luật chung, là hệ thống các
quy luật, các chuẩn tắc được ban bố cho một dân tộc, mỗi người có mối liên
hệ tác động qua lại lẫn nhau, đó là trạng thái mỗi cá nhân của một dân tộc
trong tương quan với những cá nhân khác cùng một cộng đồng là luật công
dân, và cái chỉnh thể chung đó là nhà nước.
Từ những quan niệm trên Kant cho rằng nhà nước là một hiệp đoàn gắn
kết một cộng đồng người bằng các chế tài pháp luật mang tính tiên nghiệm.
Nhà nước nằm trong ý niệm vẫn theo những nguyên tắc pháp luật, theo những
chuẩn mực, quy định rõ ràng minh bạch. Tiếp đến Kant phân tích vấn đề luật
nhân dân hay còn gọi là pháp quyền nhân dân. Nơi nào mà nhà nước được ví
77
như một người có nhân cách đạo đức một nhà nước chuyên chính chống lại
trạng thái tự do vốn có của người khác sẽ bị coi là dẫn tới trạng thái chiến
tranh. Thực chất luật nhân dân mà Kant nhắc tới hay đề cập tới là luật quan hệ
quốc tế hay gọi là luật chính trị quốc tế theo cách hiểu hiện đại ngày nay. Vì
Kant sống trong thời điểm mà chưa có các tổ chức quốc tế nên danh từ mà
Kant sử dụng là để ám chỉ cơ chế cần có pháp luật, các chế tài dùng trong
quan hệ giữa các quốc gia để đảm bảo những nguyên tắc ngoại giao, phát
triển chung của nhân loại.
Kant bàn đến khía cạnh quốc gia dân tộc, luật nhân dân hay luật dân
tộc gồm những yếu tố như : Thứ nhất, quan hệ giữa các quốc gia chống lại
nhau trong một trạng thái phi luật pháp. Yếu tố thứ hai, là trạng thái chiến
tranh, luật của kẻ mạnh; yếu tố thứ ba, là một liên minh giữa các dân tộc; yếu
tố thứ tư, là mối liên hệ không có tính ép buộc.
Kant cho rằng, ở trạng thái tự nhiên thì các quốc gia, dân tộc nằm
trong trạng thái chiến tranh bởi các nước lớn bao giờ cũng muốn chèn ép các
nước nhỏ, muốn áp bức các nước nhỏ. Và trong trạng thái tự nhiên này ở các
quốc gia có quyền tuyên bố chiến tranh với nước khác là quyền cho phép
trong đó một quốc gia có cơ sở pháp lý theo đuổi việc chống lại một quốc gia
khác. Và trong tình hình đó việc trả thù hay phản kháng của quốc gia này đối
với quốc gia khác là điều dễ xảy ra. Kant phản đối tình trạng chiến tranh xảy
ra giữa các nước trong quan hệ chính trị quốc tế, không tán thành việc phát
động chiến tranh, hay trừng phạt giữa các quốc gia với nhau. Không thể coi
cuộc chiến tranh giữa các quốc gia độc lập chống lại nhau là cuộc chiến tranh
trừng phạt được bởi sự trừng phạt chỉ được coi trong quan hệ với bề trên đối
với kẻ dưới.
Kant bàn tới quyền được hưởng một nền hòa bình của các quốc gia.
Mọi quốc gia trên thế giới đều có quyền được hưởng tự do và bình đẳng như
78
các quốc gia khác. Quyền được hưởng một nền hòa bình hay một sự tập trung
lập khi các nước láng giềng vẫn đang có chiến tranh và tiếp tục củng cố nền
hòa bình đã được đảm bảo, ông nhấn mạnh việc cần phải thiết lập mối quan
hệ qua lại của nhiều quốc gia cùng phòng thủ hay tự vệ trước những khả năng
tấn công từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Kant luận chứng về nguyên tắc trong
chính trị quốc tế rằng ở trạng thái tự nhiên các dân tộc hay những cá nhân đơn
lẻ và để trạng thái này có thể được luật pháp hóa, để thực hiện điều này tất cả
quyền lợi của các dân tộc trong đó việc sở hữu của tôi hay của bạn trong các
quốc gia chỉ mang tính tạm thời.
Kant đề cập đến quyền công dân thế giới. Ông cho rằng bản thân các
dân tộc khi ở trạng thái tự nhiên đều nằm trong một cộng đồng chung cùng
tồn tại và sinh sống trên một lãnh thổ, nhưng lại không có quyền sở hữu
chung về pháp lý trong việc sử dụng hay sở hữu chung lãnh thổ đó, mà họ chỉ
trao đổi vật chất qua lại với nhau. Quyền đó dựa trên sự gắn kết giữa tất cả
các dân tộc với mục đích thiết lập một luật định chung cho việc trao đổi, qua
lại và đó được gọi là quyền công dân thế giới.
Kant cho rằng có sự xung đột trong xã hội là điều tất nhiên, và tồn tại
xung đột lợi ích các quốc gia là điều chắc chắn sẻ xảy ra sớm hay muộn. Mặt
khác, Kant lên án phê phán chiến tranh, phản đối các cuộc chiến tranh dù diễn
ra dưới bất kỳ hình thức nào. Đặc biệt là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà nạn
nhân trước hết là những người dân vô tội. Ông cho rằng, không được phép
gây ra chiến tranh dù đó là cuộc chiến tranh xảy ra giữa hai cá nhân trong
trạng thái tự nhiên, hay chiến tranh giữa các quốc gia với nhau và đó là quyền
cần phải ngăn cấm. Trong xã hội mọi công dân đều có quyền bỏ phiếu xây
dựng quyền lập pháp của một quốc gia. Luật ở đây theo Kant hiểu đó là sự
ràng buộc tự do của người này bằng những người khác dựa trên điều kiện quy
định tự do của bản thân mỗi người phải được dựa trên những điều kiện quy
79
định rằng tự do của tôi phải phù hợp với luật định chung và pháp luật chung
đơn thuần là một trạng thái phù hợp với nguyên tắc, gắn với quyền lập pháp.
Một công dân trong quốc gia là người có quyền bỏ phiếu cho quyền lập pháp
ban hành. Kant cho rằng cần phải coi trọng vai trò của hệ thống luật pháp, nếu
xã hội thiếu luật pháp thì điều tất yếu xảy ra là xã hội đó sẽ bị loạn lạc, rơi vào
khủng hoảng, các quyền của con người sẽ bị xâm phạm. Kant cho rằng mọi
hạn chế, giới hạn hay sự ràng buộc là dành cho những người làm lập pháp,
còn những kẻ bị trị thì không bị hạn chế, hay ràng buộc.
Một quốc gia nào đó chịu sự chỉ đạo của một hệ thống lập pháp hợp lý
để có thể phán quyết. Điều cần làm là nên hay không phản kháng lại những
điều đó? và cần phải tuân thủ theo những điều đã định. Kant quan niệm rằng
khi có sức mạnh tối cao của pháp luật thì pháp luật phải hướng tới hạnh phúc,
sự giàu đẹp, phồn vinh của nhân dân nhưng đó không phải là mục địch hướng
tới hiến pháp công dân mà chỉ như là công cụ, phương tiện để đảm bảo cho
trạng thái đúng pháp luật để chống lại các thế lực thù địch, là mầm mống tiềm
ần cho sự phản đối từ những người bị trị, khơi mào cho các cuộc nổi loạn và
đó là một sự phạm tội trầm trọng vì làm hỏng luật pháp. Kant nhấn mạnh
rằng lập pháp không phải là cơ quan cao nhất đứng trên quốc gia, dân tộc nào,
mà đơn thuần chỉ là đại diện cho một quốc gia, dân tộc đó. Quyền hạn của
những nhà lập pháp là sự ủy nhiệm của quốc gia đối với nó. Nếu điều gì mà
chính dân tộc không quyết định được thì những nhà lập pháp cũng không thể
nào có quyền quyết.
Tư tưởng của Kant thể hiện sự tiến bộ phê phán mạnh mẽ các xung đột
chiến tranh diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, hay giữa dân tộc này với dân
tộc kia, và cho rằng đó là hành vi vô nhân tính, phản đạo đức, vạch trần bản
chất dã man của con người, thể hiện trong chiến tranh phi nghĩa của dân tộc
80
này xâm lược dân tộc khác.
Kant cho rằng dù trách nhiệm có làm tổn thương chính bản thân chủ thể
nhưng không vì thế mà chủ thể đó trốn tránh trách nhiệm mà mình cần phải
làm. Đó chính là quan niệm về một số quyền mà Kant cho rằng mỗi người cần
phải có và nhất thiết phải có, phải làm và tuân theo nó, thể hiện sự uyên bác
của Kant không chỉ trong lĩnh vực bản thể luận và nhận thức luận mà đặc biệt
trong lĩnh vực pháp quyền. Tư tưởng của Kant có ảnh hưởng sâu sắc, không
nhỏ đến ngành nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại sau này.
2.2.4. Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà nước
Sự tồn tại của pháp quyền trong nhà nước được Kant trình bày trong
các tác phẩm như “Phê phán lý tính thực hành”, “Phê phán lý tính thuần túy”,
“Phê phán khả năng suy diễn”, “Hướng tới một nền hòa bình vĩnh
cửu”(1795), “Những cơ sở siêu hình học đầu tiên của học thuyết về pháp
quyền” (1797). Theo Kant vấn đề tạo dựng một nhà nước với tư cách cộng
đồng, dùng pháp quyền làm nền tảng để tồn tại. Điều cần làm là phải xóa bỏ
hệ thống chuyên quyền độc đoán, dưới sự quản lý của cá nhân, thay vào đó là
hệ thống dưới sự quản lý của nhà nước một cách dân chủ, đề cao quyền lực pháp
luật tới mức tối đa. Kant giải thích và chỉ ra mối quan hệ giữa pháp quyền và luật
pháp dưới thể chế cộng đồng luật pháp. Do ảnh hưởng của quan niệm duy tâm,
Kant lý giải mối quan hệ đó trên tinh thần duy tâm tiên nghiệm.
Kant cho rằng dưới chế độ cộng hòa thì nhà nước là tập hợp của nhiều
người, của tất cả mọi công dân trong xã hội phải tuân thủ các đạo luật pháp
quyền mà nhà nước ban bố. Mọi hoạt động của công dân trong nhà nước đó đều
hướng đến một mục đích cao nhất là sự tự do, tự do trong tư tưởng, tự do trong
hành động, tự do của bản thân phải phù hợp với tự do của người khác và đặc biệt
không nằm ngoài khuôn khổ luật pháp, phù hợp với pháp luật chung. Trong phê
81
phán lý tính thực hành Kant cho rằng “một hành vi nào đó là công chính, là khi
nó hay dựa theo châm ngôn của nó làm cho tự do của mỗi người có thể cùng tồn
tại với tự do của bất kỳ ai theo một quy luật phổ biến” [18, tr.LI].
Hay trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”, Kant cũng đã nêu
quan điểm của mình về sự tự do của con người trong khuôn khổ luật pháp
dưới thể chế cộng hòa là “việc kiến lập một nền tự do tối đa cho con người
theo luật pháp, làm cho tự do của mỗi người chỉ có thể đứng vững cùng chung
tự do với mọi người (chứ không phải sự hạnh phúc chỉ là kết quả đương nhiên
của tự do) ít ra cũng là một ý niệm tất yếu được đặt làm nền tảng và ở vị trí
hàng đầu không những trong hiến pháp của một nhà nước, mà cả trong toàn
bộ luật pháp của nó” [18, tr.613].
Kant quan niệm rằng nhà nước dưới chế độ cộng hòa phải đảm bảo gắn
kết giữa những công dân với nhau dưới sự quản lý của nhà nước trong khuôn
khổ luật pháp, theo dõi và quản lý đảm bảo tự do và bình đẳng, dân chủ cho
mọi người trong xã hội đó. Sứ mệnh của nhà nước cộng hòa là đem lại hạnh
phúc, tự do cho mỗi người và cho cả cộng đồng, chống lại sự lạm quyền,
chuyên chế, độc đoán. Tư tưởng về tự do trong nhà nước pháp quyền của
Kant ảnh hưởng bởi tư tưởng của Rousseau về các quyền làm chủ của nhân
dân khi Rousseau cho rằng, với “khế ước xã hội”, con người mất đi cái tự do
thiên nhiên và cái quyền nhỏ nhoi được làm những điều muốn làm và chỉ làm
được với sức lực hạn chế của mình; nhưng mặt khác con người thu lại quyền
tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có được. Trong trạng thái
dân sự con người có quyền tự do tinh thần khiến anh ta trở thành người chủ
thực sự của chính mình vì rằng làm theo kích thích của dục vọng là nô lệ và
tuân theo quy tắc tự mình đặt lại là tự do” [67, tr.46].
Bên cạnh đó Kant còn kế thừa ở Rousseau tư tưởng về sự chiếm hữu
chung, cái được coi là cơ sở cho quyền chiếm hữu cá nhân. Kế thừa tư tưởng
82
về “Luật tự nhiên” của Rousseau nhấn mạnh đến sự tự do bản tính tự nhiên
của con người, từ bỏ tự do là từ bỏ mọi phẩm chất con người. Kant cho rằng
tự do là quyền bẩm sinh, độc lập với mọi luật ban hành, đó là quyền tự nhiên
của mỗi con người không ai có thể tước đoạt. Kant nhấn mạnh rằng con người
sinh ra là tự do và bình đẳng. Sự bình đẳng bẩm sinh này phải nằm trong
nguyên tắc của tự do bẩm sinh, không có sự phân biệt giữa bình đẳng bẩm
sinh với nguyên tắc bẩm sinh. Ở trạng thái tự nhiên, con người được tự do
tranh chấp, tự do kiềm chế lẫn nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
mang tính bản năng, tự phát. Nhưng khi chuyển sang trạng thái xã hội, trạng
thái con người sống trong cộng đồng, có mối quan hệ giữa người này với
người kia thì con người mới ý thức được hành động mình làm, tự do đó mới
là tự do thực sự khi hành động của họ phải thông qua pháp luật, được pháp
luật thừa nhận. Bản chất con người khi sinh ra đều được tự do và đó chính là
quyền mà con người có được nhờ pháp luật mang lại.
Kant phát triển và mở rộng tư tưởng của nhà triết học tiền bối Rousseau
về sự liên kết giữ những con người với nhau trong nhà nước pháp quyền.
Rousseau cho rằng cộng hòa dân chủ trong một quốc gia là sự đảm bảo duy trì
trật tự xã hội và sự bình đẳng của các công dân muốn làm được điều đó thì
mỗi công dân phải nhất trí với nhau về lợi ích cơ bản, thống nhất cao trong
các quyết sách chính trị, quyền cao nhất chính là quyền tự do, trong đó ý thức
con người quyết định sự liên kết tự nguyện, nhấn mạnh sự liên kết tự nguyện
ấy bằng con đường nhất thể hóa các quyền của con người từ trạng thái tự
nhiên sang trạng thái dân sự. Tư tưởng này được Kant phát triển thành khái
niệm về “ý chí hợp nhất” tức là sự hợp nhất phổ biến của nhân dân. Thống
nhất mọi cá nhân trong nhà nước pháp quyền, bàn tới vấn đề này trong tác
phẩm“Những cơ sở đầu tiên của học thuyết về pháp quyền”, Kant cho rằng
khi hiểu về pháp quyền tự nhiên, là tổng thể những gì tồn tại hiện hữu trước
83
tiên, đứng cao hơn việc ban bố ra luật lệ nhằm thực hiện mục tiêu định hướng
cho nhà nước điều đó chứng tỏ mong muốn xây dựng một nhà nước pháp
quyền công chính, thì không phải chỉ đơn giản là những quy tắc, luật lệ mang
tính áp bức, cưỡng chế, không có sự đồng thuận của mọi người dân.
Kant đặt câu hỏi: Pháp quyền thực chất là cái gì? và để giải đáp cho câu
hỏi này, Kant nêu ra lập luận cần phải làm sáng tỏ những việc làm nào là
đúng với pháp luật, những việc làm nào trái với pháp luật quy định, là công
chính hay không công chính nếu dựa theo một tiêu chuẩn phổ biến để thấy
được cả pháp quyền công chính và pháp quyền không công chính, việc đó khó
có thể tìm thấy trong lĩnh vực kinh nghiệm. Pháp luật theo tư tưởng của Kant
là sự hợp nhất ý chí của nhiều người theo quy luật phổ biến của tự do. Pháp
luật đặt ra những điều kiện để có thể cưỡng chế hành vi được cho là trái luật
tùy tiện, sai trái của con người trong cộng đồng xã hội. Nhưng bên cạnh đó,
pháp luật cũng phải đảm bảo tự do cá nhân.
Kant cho rằng, pháp quyền của lý tính như là cơ sở của pháp quyền tự
nhiên, lý tính thực tiễn thuần túy là nền tảng cơ bản làm điểm tựa cho những
nguyên tắc pháp quyền được thực thi một cách hiệu quả, đảm bảo được tính
hiệu lực, phổ biến rộng rãi. Nguồn gốc hình thành các đạo luật là ý chí hợp
nhất, sự tồn tại hợp lý của pháp quyền cũng dựa trên ý chí hợp nhất trong nhà
nước cộng hòa. Luật pháp được ban bố ra cũng dựa trên ý chí hợp nhất đó, ý
chí hợp nhất chính là ý chí của toàn thể nhân dân, là sự đồng thuận của mọi
người trong một xã hội có nhà nước. Kant khẳng định sự tồn tại của nhà nước
dưới chế độ cộng hòa với tư cách cộng đồng luật pháp là cấu trúc hoặc mô
hình lý luận, lý tưởng chứ không chỉ đơn thuần là hiện thực kinh nghiệm.
Nhưng sự tồn tại của nhà nước đó phải có nghĩa vụ đối với công dân, tuân thủ
theo ý chí chung của mọi công dân, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng trong tổ
chức đời sống thực tiễn, đời sống pháp luật, nó như là sự đòi hỏi của lý tính
84
thực tiễn thuần túy.
Kant phát triển quan điểm về “mệnh lệnh nhất quyết” trong đạo đức
học của mình để ứng dụng vào vấn đề pháp quyền, ông cho rằng “mệnh lệnh
nhất quyết” hay “mệnh lệnh tuyệt đối” với tư cách không chỉ là quy luật cơ
bản của luân lý mà còn là luân lý của mỗi cá nhân, là quyền riêng tư, là quy
luật cơ bản của những nguyên tắc, hành vi đạo đức. Nguyên tắc của pháp
quyền trong triết học Kant chính là mệnh lệnh nhất quyết được vận dụng và
thực hiện cho những mối quan hệ bên ngoài của từng cá nhân khi họ tự do và
bình đẳng. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi mỗi công dân, cá nhân trong xã hội
phải tôn trọng quyền và nghĩa vụ của nhau bình đẳng trước pháp luật, phổ
biến rộng rãi trong dân chúng, từ đó xây dựng nên nguyên tắc pháp quyền.
Kant cho rằng hành vi của mỗi người được cho là “công chính” tức là hợp với
pháp luật, không thực hiện sai trái theo luật pháp quy định, ban bố đó chính là
hành vi làm cho tự do của mỗi người phù hợp tự do của mọi người trên nền
tảng tự do phổ biến nói chung.
Pháp quyền theo Kant chính là tổng thể tất cả những điều kiện, mà dưới
những điều kiện đó thì sự tùy tiện của mỗi người có thể hợp nhất với sự tùy
tiện của những người khác và phải tuân theo một quy luật chung, quy luật
chung đó chính là sự tự do. Và việc ban bố luật pháp dưới sự quản lý của nhà
nước cộng hòa được coi là đúng đắn khi nó thực hiện được “mệnh lệnh nhất
quyết” đó chính là sự phổ biến cao nhất của tự do trong đời sống cộng đồng
xã hội khi mọi công dân được tự do và bình đẳng quyết định hành vi của mình
trước pháp luật.
Trong nhà nước cộng hòa với sự đề cao pháp luật thì mỗi công dân
sống trong nhà nước đều có quyền tự do ngôn luận, tự do đóng góp ý kiến
tham gia trực tiếp vào những công việc chung nhằm mục tiêu phát triển cộng
đồng, và bên cạnh đó mỗi người đều phải tự mình phục tùng và thực hiện tất
85
cả những quyết định chung, mang tính phổ quát, con người được làm mọi
điều mình muốn nhưng không vi phạm quyền của người khác và không trái
với các nguyên tắc pháp luật. Tự do của công dân phải được hiểu là sự phục
tùng, chấp hành các đạo luật mà bản thân cá nhân đó tán thành, đồng thuận và
ủng hộ.
Tự do trong nhà nước cộng hòa phải trở thành quyền không thể nào có
thể tước đoạt được của mỗi người. Tự do của người này có được phải phù hợp
với tự do của người khác và phải công nhận điều đó, tôn trọng mục đích tự do
của mỗi người. Nếu một người nào đó có ý định ngăn cản sự tự do của người
khác thì điều tất yếu sẽ xảy ra là tự do của người đó cũng sẽ bị ngăn cản như
vậy dưới những nguyên tắc pháp luật mà nhà nước đã ban bố. Trong nhà nước
cộng hòa, bên cạnh đảm bảo tự do của mỗi người thì mọi công dân phải có
quyền tự do lập hiến, tức là với tư cách quyền của họ không phải tuân theo bất
cứ một đạo luật nào không thuộc đạo luật do họ chấp nhận và đồng thuận. Sự
bình đẳng đó chính là quyền mà một người chấp nhận người khác ở vị trí cao
hơn nhưng chỉ là người bắt buộc phải làm những điều mà anh ta bắt buộc họ
làm như một nghĩa vụ hợp lý. Nhưng một điều đáng lưu ý là quan niệm của
Kant về tự do và bình đẳng xét trong bình diện xã hội đương thời mà ông
sống với thực tiễn tự do và bình đẳng trong thực tế lại không có sự tương
đồng với nhau, thậm chí là không phù hợp. Và Kant đã nhận thức được điều
này một cách sâu sắc, tư tưởng của Kant về vấn đề tự do và bình đẳng chưa
thực sự phù hợp và còn xa lạ với quan niệm của thực tiễn đương thời.
Kant đề cập đến tư tưởng về “người công dân tích cực” và “người công
dân thụ động” sự trái ngược giữa họ trong mọi hành vi, hoạt động xã hội,
trong việc tuân thủ luật pháp, theo ông mỗi cá nhân xét về vị trí trong xã hội
của họ, về chức danh, tài sản, những người phải phục tùng người khác, thì
không có quyền được nói, được thể hiện ý kiến của mình và tham gia vào các
86
quyết sách của nhà nước. Quan niệm này thể hiện hạn chế cũng như mâu
thuẫn của Kant một mặt thừa nhận tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người,
mặt khác ông phân biệt và bảo vệ sự bất bình đẳng khi so sánh giữa người
công dân tích cực với người công dân không tích cực. Ở đây thể hiện hạn chế
của lịch sử thời đại mà Kant sống đã ảnh hưởng tới sự hình thành tư tưởng
không triệt để của triết gia. Bên cạnh đó Kant khẳng định rằng những công
dân thụ động vẫn có quyền giữ lại cho bản thân mình tự do và bình đẳng
nhưng chỉ về mặt hình thức, họ vẫn có quyền yêu cầu nhà nước áp dụng
những đạo luật do nhà nước đã ban hành nếu những đạo luật đó không đối
kháng với các quyền không thể tước đoạt của họ.
Kant cho rằng động cơ của chủ thể hành động quyết định tới tính chất
của hành vi và là cơ sở đề phân biệt sự không giống nhau giữa tính đạo đức
và tính hợp pháp, tức là giữa sự tự nguyện quy phục quy luật đạo đức với sự
phù hợp mà pháp luật đòi hỏi. Phân biệt rõ ràng giữa đạo đức và pháp luật,
trách nhiệm sự tự nguyện của nhà từ thiện với nghĩa vụ pháp lý. Thấy được sự
khác biệt giữa nhà nước với tư cách là cộng đồng luật pháp với nhà thờ với tư
cách là cộng đồng đạo đức. Nhà thờ là nơi quy định các trách nhiệm thuộc
phạm trù đạo đức, còn nhà nước là nơi quy định trách nhiệm pháp lý.
Theo Kant trong nhà nước dưới chế độ cộng hòa, mỗi công dân là một
giá trị tuyệt đối, có quyền công dân khi họ sống trong cộng đồng nhà nước.
Đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, cá nhân khác không thể thay thế.
Không ai có quyền bắt công dân phải hy sinh lợi ích của mình để phục vụ lợi
ích của người khác. Không ai có thể có quyền mượn danh người khác thực
hiện những hành vi sai trái của mình, hay cho dù hành vi đó là có ý đồ tốt
đẹp. Kant phát triển mệnh lệnh nhất quyết của mình, theo mệnh lệnh này thì
không chỉ là quy luật cơ bản của luân lý trong nghĩa hẹp mà còn là đức lý.
Kant đề cập đến giá trị tự thân của mỗi người trong nhà nước pháp quyền, ý
87
chí chung của cộng đồng, không tán thành cơ chế đặc quyền khi cơ chế đó đi
ngược lại ý chí chung của mọi người. Ngay cả những người dẫn đầu, những
người quản lý nhà nước, hay nhà vua đều không có quyền lấy người khác làm
vật hy sinh cho mục đích riêng. Mỗi công dân đều có giá trị tự thân và phải
ngăn chặn sự chuyên quyền độc đoán, không để sự chuyên quyền gây nguy
hại đến lợi ích chung.
Hoạt động của nhà nước phải dựa trên các đạo luật được sự tín nhiệm
của quần chúng nhân dân, phù hợp với hiến pháp, pháp luật. Từ đó tạo dựng
sự ủng hộ và niềm tin nơi nhân dân. Kant cho rằng chỉ có nhân dân mới có thể
là người đứng đầu nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, có
quyền và có khả năng yêu cầu nhà nước phải chấp hành pháp luật. Nhà nước
phải có trách nhiệm đối với công dân, và ngược lại công dân cũng phải có bổn
phận xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhân dân vừa là người lãnh đạo cũng
vừa là người chịu sự quản lý. Nhà nước cộng hòa lý tưởng theo Kant phải phù
hợp với quy luật của tự do.
Kế thừa tư tưởng của Rousseau về quyền lực tối cao của nhân dân, bản
chất của quyền lực tối thượng không là gì khác hơn sự thi hành ý chí của cả
tập thể nên chủ quyền tối thượng không thể được chuyển nhượng. Quyền lực
nhân dân là cái không thể thực hiện được, về nguyên tắc chính quyền hiện
hữu phải hoàn toàn phục tùng ý chí của nhân dân. Theo Kant nhà nước với tư
cách là cộng đồng luật pháp, được hình thành do những mâu thuẫn nội tại của
xã hội. Nhà nước ra đời để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong lòng xã
hội, ngăn cản những gì cản trở tự do của mỗi người, điều hòa sự cân bằng
trong xã hội, trên cơ sở lợi ích con người phải được đề cao. Trong đó pháp
quyền phải được đề cao, mỗi người phải được tự chủ, tự do, công dân phải có
nghĩa vụ trách nhiệm hài hòa tối đa giữa hiến pháp và những nguyên tắc pháp
quyền. Con người sinh ra tồn tại và phát triển không phải nhờ vào sự tùy tiện
88
của một người nào đó, mà chính là các quyền và sức mạnh của bản thân.
Quan niệm về nhà nước với tư cách cộng đồng luật pháp còn nhiều điểm chưa
thực sự phù hợp với hiện thực, thậm chí có những quan điểm về quyền lực tối
cao đối lập với hiện thực, còn mạng nặng tính lý tưởng khi lý giải về sự xuất
hiện quyền lực tối cao.
Có thể thấy rằng quan niệm về nhà nước với tư cách là cộng đồng luật
pháp của Kant thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc, tinh thần yêu tự do, dân chủ,
muốn xây dựng một xã hội đề cao pháp luật, sử dụng các đạo luật, quy tắc để
giáo dục, hướng con người đến những hành vi tốt đẹp, lý giải sự tồn tại của
nhà nước pháp quyền, hay nhà nước với tư cách là cộng đồng luật pháp, mục
đích cao nhất mà nhà nước cộng hòa là hướng tới một nền hòa bình, tự do
hạnh phúc cho mọi công dân. Ông đã tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng độc
đáo của Rousseau, chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ, dựa trên nguyên
89
tắc tôn trọng quyền lực tối cao của luật pháp.
CHƢƠNG III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP QUYỀN
TRONG TRIẾT HỌC KANT
3.1. Đạo đức - cơ sở hình thành pháp quyền
Việc đưa đạo đức vào quá trình lịch sử là sự kế tục và đào sâu phân tích
quan hệ của đạo đức và pháp quyền. Đạo đức được hiểu là thành tố của tinh
thần khách quan nào đó, loài người chỉ tự sản sinh ra mình trong bản thân quá
trình lịch sử. Mục đích khi đó là chuyển sang trạng thái hòa bình toàn cầu
chung, giống như cái nôi trong đó mọi mầm mống khởi thủy của loài người sẽ
phát triển.
Kant xác định đạo đức học có nhiệm vụ đề cao con người hiện thực,
điều này có nghĩa là sự phát triển năng lực cá nhân trong điều kiện cộng đồng
các quốc gia có hiến pháp hoàn toàn công bằng. Trong tác phẩm “Siêu hình
học của đạo đức”, Kant trình bày một cách có hệ thống học thuyết đạo đức
của ông, với mục đích đảm bảo về mặt lý luận, hợp nhất các lĩnh vực văn hóa
trong đó có pháp luật. Theo quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác -
Lênin giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau. Đạo
đức và pháp quyền là hai hình thái ý thức xã hội cơ bản, giữa chúng có mối
quan hệ mật thiết, trong đó những phong tục tập quán là cơ sở để hình thành
các quy phạm pháp luật, đến lượt mình các quy phạm pháp luật tác động trở
lại, củng cố các quan niệm đạo đức điều này thể hiện rõ trong tư tưởng triết
học của Kant.
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền, Kant thể hiện
ra thái độ phê phán gay gắt xã hội đương thời mà ông đang sống, một xã hội
xuất phát từ tiền đề cá nhân tự do trong đó manh nha tội ác, bạo loạn, phản
ánh cuộc sống hiện thực hết sức khắc nghiệt. Kant đã nhận thức được điều đó,
90
sau này triết gia hậu thế Nietzsche cũng lo lắng về điều đó.
Kant cho rằng, sự hợp nhất giữa hạnh phúc và đức hạnh là“giá trị tối
cao”, theo Kant, con người không chỉ là một “thực thể cảm tính” mong muốn
có hạnh phúc mà bên cạnh đó còn là “thực thể tư duy” luôn hướng tới cuộc
sống đức hạnh. Nhưng trong cuộc sống mà con người đã trải qua, nhiều kẻ
không có đức hạnh lại có hạnh phúc, ngược lại những người có đức hạnh lại
bất hạnh. Câu hỏi đặt ra là: Vậy con người cần phải làm gì để vươn tới giá trị
tối cao đó? Kant cho rằng, con người cần phải hành động theo “mệnh lệnh
tuyệt đối”. Phải tôn trọng phẩm giá của con người, đối xử với mọi người là
mục đích chứ không phải là phương tiện.
Khi Kant coi hành vi đạo đức là hành vi định hướng vào toàn thể loài
người và sự hưng thịnh của họ với tư cách phúc lợi tối cao. Quan hệ pháp lý
định hướng vào ý chí hữu hạn của những cá thể và những mối liên hệ bên
ngoài, lạnh nhạt của họ. Kant đã phản ánh đúng quan hệ thực tế đương thời
giữa đạo đức và pháp luật: toàn bộ sự nhân từ hiện hành hoàn toàn sinh ra từ
nỗi sợ hãi bị trừng phạt hay những mất mát. Động cơ của chủ thể hành động
quyết định tính chất của hành vi là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa tính
đạo đức và tính hợp pháp của hành vi.
Kant đạo đức hóa những vấn đề xã hội, đây là một bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử đạo đức phương Tây. Kant muốn xây dựng một học thuyết
pháp quyền độc lập với đạo đức nhưng thực tế, triết học đạo đức của ông luôn
là cơ sở cho học thuyết pháp quyền. Trong triết học đạo đức, tự do được Kant
hiểu là sự độc lập tự quyết trong hành vi, thì trong triết học pháp quyền, tự do
được xem là sự tự ban hành luật, tự giác thực thi luật pháp. Luật pháp hướng
tới mục đích cao cả đó chính là đạo đức.
Tư tưởng về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền thể hiện cụ thể
và sâu sắc hơn trong tác phẩm “Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu” được Kant
91
hoàn thành vào năm (1795) sau sự kiện ký kết Hiệp ước hòa bình giữa Baden
và nước Pháp chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và các nước quân chủ Châu
Âu. Hướng tư duy của Kant tới suy tư về một nền hòa bình trên toàn thế giới,
có thể xây dựng liên minh hòa bình giữa các quốc gia, dân tộc. Kant đã đưa ra
những phác thảo nguyên tắc đạo đức, cơ sở của luật quốc tế, mong muốn xây
dựng một thế giới đại đồng. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp
vốn có trong triết học Kant, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức học. Kant lập
luận cho sự tồn tại hài hòa giữa tự nhiên, giữa những mệnh lệnh, nguyên tắc,
lý tính đạo đức, phản bác lại những quan điểm đối nghịch khi cho rằng đạo
đức và pháp quyền không có sự tương đồng, hoàn toàn đối lập nhau, hay pháp
quyền hình thành không liên quan gì tới lĩnh vực đạo đức, ông kịch liệt lên án
những người cho rằng không thể có một nền hòa bình vĩnh cửu.
Kant cho rằng giữa đạo đức và pháp quyền có sự thống nhất về mặt
nguyên tắc. Sự hòa hợp giữa luật pháp và đạo đức phải được đo lường bằng
tiêu chuẩn pháp luật, được công khai minh bạch, theo nguyên tắc công bố áp
dụng trong luật quốc tế, nếu đó là một công bố về ý chí của một quốc gia nào
đó, được coi như điều kiện pháp lý. Kant cho rằng sự hình thành luật quốc tế
vô cùng cần thiết và quan trọng nếu không có luật thì hiệu năng của công
pháp quốc tế sẽ không thực hiện được.
Pháp quyền là những nguyên tắc, quy định mang tính cưỡng chế răn đe
con người về quyền hạn tối cao, về lợi ích còn đạo đức là con đường đúng đắn
hướng con người thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó. Những mâu thuẫn
giữa đạo đức và pháp quyền được chế định bởi khát vọng vị kỷ về lợi ích
riêng của những cá nhân riêng biệt ở mỗi quốc gia khác nhau. Hành vi đạo
đức phải phù hợp với yêu cầu của “mệnh lệnh tuyệt đối”. Và các nguyên tắc,
quyết định của pháp quyền cần phải xuất phát từ lợi ích của cả dân tộc, từ tính
92
bổn phận pháp lý thuần túy.
Tư tưởng nhân văn của Kant đã ảnh hưởng đến sự phát triển quan điểm
về triết học thực tiễn về đạo đức và pháp quyền trong triết học sau ông. Đặc
biệt phải kể đến tư tưởng triết học thực tiễn của Fichte (1762 - 1804). Kế thừa
tư tưởng nhân văn của triết học đạo đức Kant, triết học thực tiễn của Fichte
xem con người là trung tâm của mọi vấn đề triết học, khẳng định quyền tự do
của con người. Fichte cho rằng con người vừa là một “thực thể cảm tính” với
bản năng tự nhiên vừa là “thực thể lý tính” với bản năng tinh thần. Nếu Kant
cho rằng, hành vi đạo đức là hành vi xuất phát từ một “ý chí tốt” thì Fichte
cũng lập luận rằng ý chí đạo đức là ý chí lý tính thuần túy, mang tính phổ quát
và tất yếu. Cũng như Kant, Fichte cho rằng chỉ những hành vi xuất phát từ
bổn phận tồn tại trong lương tâm mỗi người mới là hành vi có đạo đức. Fichte
khẳng định quyền lực chỉ có thể có khi nó là ý chí pháp luật. Sử dụng quyền
lực và giám sát thông qua phân quyền giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước nào đó được cho là pháp quyền khi hiện thực hóa những quyền cá nhân
của con người.
Trong tác phẩm “Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu” Kant đưa ra
nguyên tắc đạo đức mà ông cho rằng pháp quyền cần phải dựa vào đó để xác
lập nền hòa bình cho mọi quốc gia trên thế giới. Bổn phận của con người do
lý tính quyết định, Kant đặc biệt đề cao vai trò của lý tính trong việc nhận biết
các quy tắc đạo đức là chuẩn mực hay không. Lý tính có thể tạo nên sự đồng
thuận, hòa bình chung sống giữa các quốc gia với nhau nhằm hướng tới mục
đích chung. Con người muốn đạt được mục đích cao cả đó phải hoàn thiện
nhân cách đạo đức của mình.
Kant cho rằng, xét về phương diện lý luận thì đạo đức và pháp quyền
không mâu thuẫn nhau, mục đích của đạo đức và pháp quyền đều có sự thống
nhất đều tuân thủ quy luật khách quan mà nguồn gốc hình thành chính là lý
93
tính. Nhưng mặt khác Kant cho rằng trên thực tế, đạo đức và pháp quyền có
sự khác nhau. Pháp quyền và đạo đức góp phần sửa đổi những hạn chế tiêu
cực của một chế độ nhà nước nào đó. Đạo đức không phụ thuộc vào mục đích
của pháp quyền, đạo đức và pháp quyền có thể dung hợp với nhau nhằm bảo
vệ quyền của con người.
Kant thừa nhận tự do ý chí của cá nhân, bên cạnh đó ông đồng ý rằng,
hạn chế tự do bằng luật pháp vì mục đích chung là nên làm. Nhưng cần tạo ra
sự thống nhất về ý chí chung đó để đạt được nền hòa bình vĩnh cửu. Muốn đạt
được nền hòa bình vĩnh cửu cần nâng cao tinh thần pháp luật, thượng tôn luật
pháp, sở dĩ khó có thể đạt tới nền hòa bình vĩnh cửu là do con người tự đặt
mình trên pháp luật, không coi trọng pháp luật. Kant kịch liệt phê phán các
hình thức chiến tranh phi nghĩa nhưng mặt khác lại cho rằng chiến tranh tự nó
là một hiện tượng tự nhiên hữu ích nhằm để bảo vệ bản sắc, độc lập các dân
tộc, kích thích sự phát triển và cần phải duy trì những quy tắc pháp quyền tối
thượng cơ sở cần thiết của đạo đức.
Sự tương đồng giữa đạo đức và pháp quyền còn được thể hiện trong sự
tiến bộ thường xuyên của các nhà nước qua từng giai đoạn lịch sử. Kant cho
rằng sự phát triển của nhân loại sẽ dẫn tới sự phát triển của đạo đức, và nhờ
có đạo đức mà có thể hiện thực hóa được các mục đích pháp quyền. Đạo đức
là mục đích chân chính của nền văn minh nhân loại, trong đó lý tính là
nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của đạo đức, nhằm đưa đến một
xã hội công dân dựa trên pháp quyền. Kant cho rằng khi luật pháp được xây
dựng trên móng nhà của lý tính thực tiễn. Thì xã hội có thể hòa bình vĩnh cửu.
Cùng với những mặt tương đồng giữa đạo đức và pháp quyền, Kant cũng cho
rằng sự bất đồng giữa đạo đức và pháp quyền không phải không có, nếu pháp
quyền cứng rắn thì đạo đức là mềm dẻo hơn, nguyên nhân sinh ra sự bất đồng
này là sự ích kỷ của con người, lòng tham lam, tư tưởng vụ lợi. Kant cho rằng
94
luật quốc tế cần phải dựa trên mối quan hệ hài hòa giữa đạo đức và pháp
quyền. Tư tưởng của Kant về nền hòa bình vĩnh cửu là một tư tưởng tiến bộ,
có ý nghĩa lớn đối với tiến trình hòa bình thế giới.
3.2. Triết học pháp quyền của Kant - sự tiếp tục triển khai những
nguyên lý của triết học đạo đức trong thực tiễn
Trong tác phẩm “Siêu hình học của đạo đức” (1797), Kant cho rằng:
“Triết học đạo đức và triết học pháp quyền đều là những học thuyết về trách
nhiệm, bổn phận”[Dẫn theo 38, tr.109]. Giữa đạo đức và pháp quyền trong
triết học Kant đều có đối tượng nghiên cứu chung là con người và xã hội loài
người, vấn đề tự do và làm thế nào để đạt được tự do. Nhưng giữa chúng có
sự khác biệt rõ rệt. Khi triết học đạo đức nói về trách nhiệm bên trong, thì triết
học pháp quyền chỉ quan tâm đến trách nhiệm bền ngoài có thể cưỡng chế
được của hành vi mà không hỏi đến quan niệm đạo đức, cái mà từ đó các
trách nhiệm được thực hiện hay vi phạm. [Dẫn theo 38, tr.109].
Khác với triết học pháp quyền của Fichte ngay từ đầu khẳng định sự
khác biệt giữa đạo đức và pháp quyền, ở Kant sự phân biệt giữa đạo đức và
pháp quyền chỉ rõ ràng khi xuất bản lần thứ hai “Siêu hình học của đạo đức”
năm 1798. Lần xuất bản này người ta thấy tiêu đề tác phẩm có đề cập đến học
thuyết pháp quyền, điều trong lần xuất bản đầu tiên 1797 chưa thấy có. Ông
chỉ ra tính đặc thù của đạo đức theo con đường phân định nó với pháp quyền.
Mặc dù triết học đạo đức và triết học pháp quyền ở Kant được xem là
hai lĩnh vực độc lập, nhưng chúng có chung một đối tượng nghiên cứu, đó là
vấn đề tự do.Tự do ý chí trong triết hoc của Kant là tự do đạo đức và pháp
luật. Tuy nhiên trong khi triết học đạo đức tìm cách giải thích khái niệm tự do
là gì, con người có tự do hay không, nhằm hướng con người sống và hành
động có đạo đức, thì triết học pháp quyền lại đề cập đến vấn đề căn nguyên
95
của tự do và làm thế nào để có thể đảm bảo được quyền tự do đó?.
Theo Kant con người là “một thực thể lý tính” cần phải hướng tới giá
trị đạo đức tối cao: sự hợp nhất giữa đức hạnh, sự cảm nhận hạnh phúc và xây
dựng một “vương quốc tự do” là mục đích chung của toàn thế giới. Pháp
quyền là một trong những phương hướng giúp con người tiến dần đến sự
hoàn thiện, tuyệt đối đó. Vấn đề cơ bản mà Kant quan tâm trong triết học đạo
đức và triết học pháp quyền là vấn đề tự do và cùng với nó là quyền và phẩm
giá con người. Tự do là quyền tự nhiên, quyền sống và là quyền làm người
của mỗi cá nhân. Để đảm bảo quyền tự do đó mỗi người phải nhận biết quyền
và nghĩa vụ của mình, không bao giờ để bản thân hay bất cứ ai biến mình trở
thành phương tiện mà luôn là mục đích. Mặt khác quyền tự do đó cần phải
được đảm bảo bằng pháp luật và quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước
phù hợp nhất có thể đảm bảo quyền tự do của con người là hình thức chính
phủ cộng hòa với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp độc lập
với nhau.Trong đó quyền lập pháp phải thuộc về công dân, quyền tư pháp do
đại diện công dân bầu ra thông qua bầu cử tự do. Kant cho rằng chỉ hình thức
nhà nước này mới có thể đảm bảo tự do cá nhân mà không cản trở quyền tự
do của những người còn lại.
Trên thực tế, những vấn đề về giá trị pháp quyền (tự do, công bằng,
quyền con người,…) mà triết học pháp quyền của Kant quan tâm cũng đồng
thời là những giá trị đạo đức tối cao mà con người hướng tới là mục tiêu của
các thể chế chính trị pháp quyền hiện đại. Cho nên việc nghiên cứu tư tưởng
pháp quyền khó có thể tách rời với triết học đạo đức. Một trong những vấn đề
cơ bản của triết học đạo đức là đi tìm “gía trị tối cao” đây không chỉ là mục
đích của hành vi đạo đức mà còn là mục đích của triết học pháp quyền. Quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức là mối quan hệ bổ sung cho nhau trong quá trình
điều chỉnh hành vi của con người. Trong hệ thống các quan hệ xã hội, có
96
nhiều nhóm quan hệ là đối tượng điều chỉnh chung của cả pháp luật lẫn đạo
đức. Nhưng lại có nhiều quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của đạo đức
nhưng lại không thể là đối tượng điều chỉnh của pháp luật, và cũng có những
quan hệ xã hội chỉ là đối tượng điểu chỉnh của pháp luật mà đạo đức không
thể can thiệp. Khi đánh giá hành vi con người xuất phát từ tiêu chí pháp luật
và đạo đức, có những hành vi hợp pháp đồng thời là hành vi hợp đạo đức.
Nhưng bên cạnh đó cũng có những hành vi hợp pháp, nhưng không hợp đạo
đức và ngược lại.
Triết học đạo đức tìm lời giải đáp cho câu hỏi “cái tốt nhất cho con
người là gì?,triết học pháp quyền quan tâm tới vấn đề: làm thế nào để có thể
thực hiện được những giá trị tối cao đó?.
Chúng ta nhận thấy rằng tư tưởng pháp quyền của Kant luôn gắn liền
với những tư tưởng đạo đức mà nguyên tắc cơ bản của nó là giá trị tuyệt đối
của con người trong mọi quan hệ xã hội. Sự khẳng định giá trị người xuất
phát từ quyền làm người và nghĩa vụ của mỗi người đối với bản thân, với mọi
người, chính là sự thể hiện tư tưởng về giá trị tuyệt đối và nguyên tắc tôn
trọng phẩm giá con người.
Kant bàn về luật hình sự đối với mọi công dân trong một quốc gia. Duy
chỉ người đứng đầu quốc gia đó thì được miễn trừ truy tố, luật hình sự là luật
chống lại kẻ vi phạm pháp luật, nhưng theo Kant không thể trừng phạt người
đứng đầu quốc gia mà người ta chỉ có thể tước quyền cai trị của ông ta. Bên
cạnh đó, trong luật hình sự Kant đã tán thành hình phạt tử hình, bởi ông cho
rằng nếu công lý lụi tàn thì cuộc sống của con người trên trái đất này chẳng có
giá trị gì. Như vậy, giữa tư tưởng của triết học đạo đức và triết học pháp
quyền đã có sự mâu thuẫn, và đó là một trong những hạn chế của triết học
Kant.
Theo Kant muốn thực hiện được quy luật đạo đức, con người cần phải
97
có niềm tin là mình có tự do và có sự tồn tại của Thượng đế để trợ giúp cho
hành vi đạo đức của mình. Chính ở điểm này đạo đức và pháp luật liên quan
tới tôn giáo khi Kant cho rằng có một lực lượng vô hình nào đó chính là
Thượng đế đã thôi thúc con người làm theo đạo đức. Quan niệm trên cho thấy
ở Kant đạo đức và pháp luật gặp nhau ở tôn giáo.“Chân” là yếu tố đại diện
cho pháp luật, “thiện” đại diện cho đạo đức. Sự thống nhất giữa đạo đức và
pháp luật được hiểu theo nghĩa cái gì đúng với chuẩn mực đạo đức cũng phù
hợp với luật pháp. Chính là sự thống nhất giữa “Chân - Thiện - Mỹ”, toàn bộ
triết học Kant hướng tới là con người hoàn thiện. Đạo đức, pháp quyền, tôn
giáo đều là những lĩnh vực gắn liền với nhau.
Kant phân biệt các động lực bên ngoài và bên trong của hành vi xã hội.
Các động lực bên ngoài là động lực pháp lý và được thực hiện nhờ bạo lực.
Các động lực bên trong sinh ra từ ý thức về bổn phận nội tâm và thực chất nội
tại của bản thân công việc là các động cơ của đạo đức. Hay pháp luật chỉ có
quan hệ với hành vi, còn đạo đức với niềm tin Kant viết: “Đạo đức học nghiên
cứu hành vi cần phải trở nên như thế nào nếu hành vi đó không xuất hiện từ
một bạo lực nào đó, mà chỉ do có một niềm tin đạo đức”.
Kant không đơn giản xuất phát từ tiền đề là cá nhân tự do, ông đồng
thời chỉ ra sự tha hóa của con người với tư cách chủ thể của những chuẩn mực
pháp lý. Đạo đức khắc phục sự tha hóa đó, thể hiện như là bước chuyển lập
pháp thành đạo đức. Đây không những là vấn đề thời Kant sống mà còn là
vấn đề cấp thiết của xã hội hiện đại, khi mà cuộc sống xã hội đòi hỏi phải đề
cao nguyên tắc pháp quyền và đồng thời cũng đặt lên hàng đầu các quyền tự
do cá nhân. Kant nhận thấy luật pháp và đạo đức là hai mặt đối lập bổ sung
cho nhau, là sự thống nhất mang tính hình thức của tính chủ quan và tính
khách quan trong hành vi.
Dù còn nhiều hạn chế khi Kant không hề đề cập đến bản chất giai cấp
98
của pháp quyền, tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, coi ý chí thuần túy là
nguyên tắc của hành động. Nhưng những tư tưởng của ông về tự do, bình
đẳng như những giá trị tuyệt đối của con người và phương thức để có thể đảm
bảo được quyền và phẩm giá con người trong triết học đạo đức và triết học
pháp quyền luôn đọng lại trong lịch sử tư tưởng văn minh thế giới, tạo động
lực cho cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay.
3.3. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức và pháp quyền
của Kant
3.3.1. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về đạo đức của Kant
Kant là người đầu tiên đặt toàn diện vấn đề trong nhiều khảo hướng đạo
đức, nỗ lực này của ông đã định hình cho khuôn mẫu giá trị mới, lý thuyết
đạo đức mà con người cần hướng tới nhằm hoàn thiện chính mình. Kant
chứng minh các nguyên tắc đạo đức có thể kết hợp toàn diện với nhau, động
lực thúc đẩy xã hội tiến bộ, văn minh, hòa bình trên toàn nhân loại. Nhưng
những tư tưởng của Kant bên cạnh mặt tích cực, quan niệm của ông cũng
không tránh khỏi những hạn chế.
Thứ nhất, Kant đề cao tính nghĩa vụ của đạo đức.
Tính chất nghĩa vụ là một trong những đặc trưng cơ bản của đạo đức
học. Kant phê phán việc đề cao mục đích, lấy mục đích làm cơ sở hình thành
cho hành vi đạo đức. Kant quan niệm rằng hành vi chỉ thực sự có giá trị đạo
đức khi được quan niệm là những nghĩa vụ đạo đức thuần túy, chứ không phải
vì bất cứ một mục đích nào. Ý thức có tính nghiêm ngặt không cho phép bất
cứ một điều kiện nào được phép tham gia vào hành vi đạo đức. Hành vi đạo
đức vừa là hình thức bên ngoài vừa thể hiện ở động cơ chủ quan bên trong.
Hành vi đạo đức phù hợp với quy luật luân lý, xuất phát từ động cơ thuần túy
trong sự tôn kính với quy luật. Lập trường đạo đức học của Kant được xếp
vào lập trường đạo đức nghĩa vụ đây là một trong những đặc trưng cơ bản
99
nhất trong hệ thống đạo đức học của Kant.
Thứ hai, về lập trường giai cấp.
Đạo đức học của Kant thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, hướng tới khám
phá những giá trị chung, phổ quát của nhân loại. Quy luật đạo đức, hành xử
đạo đức chung cho nhân loại. Kant không phân biệt giai cấp, dân tộc, đây là
điểm hợp lý của Kant, nhưng Kant lại bỏ quên những giá trị đặc thù của thời
đại, dân tộc là hạn chế của ông.
Thứ ba, Kant đã thấy được mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị.
Đạo đức là phần căn bản nhất của đời sống xã hội, còn chính trị - pháp
quyền - lịch sử lại chỉ là đạo đức học ứng dụng. Trong hệ thống triết học của
Kant đạo đức chính là cơ sở, nền tảng của xã hội và lĩnh vực chính trị - pháp
quyền - lịch sử là sự triển khai đạo đức học. Đạo đức chính là mục đích tối
cao, các lĩnh vực còn lại sẽ nhắm tới thực hiện mục đích tối cao đó.
Thứ tư, Kant đề cao tính thực tiễn của đạo đức.
Đạo đức làm cho nó hiện thực trong cuộc sống của mọi người. Mục
đích trong toàn bộ hệ thống triết học của Kant là giải quyết vấn đề trong thực
tiễn cuộc sống để tìm ra nguyên tắc cơ bản cho thực tiễn, hoạt động của con
người. Kant muốn tìm ra phương pháp đạo đức thích hợp, phổ biến giúp cho
dân chúng hướng tới đời sống đạo đức có hiệu quả nhất, hạn chế lớn ở Kant là
ông không cho thấy vai trò điều kiện kinh tế - xã hội đối với đời sống đạo đức
của con người, nhấn mạnh tính phổ quát quy luật đạo đức mà lại không tính
đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thứ năm, đạo đức học của Kant có tính nhân đạo.
Kant lấy con người làm mục đích tối cao cho toàn bộ hệ thống lý luận
của mình, ông cho rằng cần đối xử với con người không phải là phương tiện
mà chính là mục đích, lấy sự thiện tối cao làm mục đích lý tưởng. Khi khẳng
100
định tính tiên nghiệm của lý tính, Kant đồng thời thừa nhận tính chất tiến bộ
về mặt lịch sử của nó trong đời sống hiện thực của con người. Chính niềm tin
vào lý tính đã đưa Kant đến sự giáo điều của tính khuôn mẫu, hình thức,
muốn tư duy của con người phải tuân theo những hình thức xác định của lý
tính như những công thức toán học khô cứng, không có sự mềm dẻo, không
có sự uyển chuyển, vận động theo sự vận động của hiện thực.
Thứ sáu, Kant đứng trên lập trường duy lý để xem xét vấn đề đạo đức.
Kant là nhà triết học chịu ảnh hưởng lớn của phong trào khai sáng với
tư tưởng đề cao giải phóng lý trí khỏi sự nô dịch của thần học, tôn giáo. Kant
đã có đóng góp lớn cho nền triết học phương Tây. Nhưng khi coi lý tính là
nguồn gốc duy nhất để xác định giá trị hành vi, gạt bỏ mặt tình cảm con người
và yếu tố lợi ích trong mọi quan hệ xã hội thì học đạo đức của Kant rơi vào
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng. Kant cho rằng tính hình thức của một quy luật
đạo đức là điều kiện tiên quyết để có thể cưỡng chế con người thực hiện hành
vi đạo đức là phi thực tế, vì ý chí đạo đức của con người luôn bị chi phối bởi
điều kiện sống cụ thể bởi những quan hệ kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy vậy khi
để cho ý niệm “Thượng đế”, “Linh hồn bất tử” tham gia vào đạo đức học, ông
đã thấy được vai trò của nhân tố khác bên cạnh những năng lực tư duy trí tuệ
của cuộc sống.
3.3.2. Gía trị và hạn chế trong quan niệm về pháp quyền của Kant
Gía trị trong triết học pháp quyền của Kant
Thứ nhất, khẳng định quyền con người, tư tưởng mang đậm tính nhân
văn, nhân đạo của Kant.
Kant cho rằng con người sinh ra là tự do và bình đẳng, khẳng định
được giá trị người, quyền tự nhiên, nghĩa vụ của con người cũng như hình
thức và quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho quyền con người được thực
101
thi. Đây chính là những ý tưởng mang đậm chất nhân văn, thể hiện khát vọng
của giai cấp tư sản tiến bộ Đức trong thế kỷ XVIII nhằm giải phóng con
người khỏi những gông cùm của chế độ phong kiến hà khắc lúc bấy giờ.
Thứ hai, tư tưởng hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu của Kant có ý
nghĩa thời sự đối với thời đại ngày nay.
Những vấn đề Kant đặt ra, nhất là vấn đề chiến tranh và hòa bình, sự
độc lập, tự chủ của một dân tộc, nhân phẩm, quyền con người luôn luôn là
vấn đề cả nhân loại quan tâm, hướng đến.
Thứ ba, tư tưởng pháp quyền của Kant ảnh hưởng đến công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, vai trò của triết học pháp
quyền nói chung và triết học pháp quyền của Kant nói riêng vẫn rất quan
trọng đối với sự phát triển từng quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Bất kỳ một
quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên luật pháp.
Thứ tư, tư tưởng về công bằng xã hội - mục đích của triết học pháp
quyền của Kant có giá trị sâu sắc.
Để đạt được mục đích của triết học pháp quyền, Kant cho rằng phải có
sự bình đẳng và an toàn về mặt pháp lý. Điều này có giá trị sâu sắc đặc biệt
với thời đại ngày nay, với nền kinh tế thị trường có mặt ở hầu hết các nước
trên thế giới, thị trường đòi hỏi những cơ chế tự điều chỉnh từ phía các công
cụ chính trị để thích nghi với điều kiện mới.
Thứ năm, tư tưởng pháp quyền của Kant về sự liên minh giữa các quốc
gia đã phần nào trở thành hiện thực ở Châu Âu và Châu Á.
Với việc tăng cường thống nhất trong Liên minh Châu Âu xuất phát từ
lịch sử và sự ràng buộc chung về tiêu chí của một nhà nước pháp quyền hiện
đại, quan trọng nhất là quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm, thân thể con
102
người. Liên minh Châu Âu là liên minh kinh tế - chính trị bao gồm 28 thành
viên thuộc Châu Âu. Hoạt động theo cơ chế phát triển thị trường chung, thông
qua hệ thống luật pháp, tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên
nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người. Hay hiệp hội các nước
Đông Nam Á (Asean) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội
của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Asean gồm có 11 quốc gia
thành viên với mục đích xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, an ninh
quốc phòng của các nước trong khu vực.
Hạn chế trong triết học pháp quyền của Kant
Thứ nhất, do hạn chế bởi tính quy định của lịch sử thời đại nên nhiều
tư tưởng pháp quyền của Kant chỉ mang tính lý tưởng, xa rời hiện thực, khó
có thể thể áp dụng vào hiện thực.
Trên quan điểm của chủ nghĩa duy lý Kant đã tuyệt đối hóa vai trò của
lý tính và sức mạnh tinh thần, ông cho rằng nhà nước được hình thành dựa trên
khế ước mà Kant tiếp thu tư tưởng của Rousseau và luật tự nhiên là phổ biến
nên tư tưởng pháp quyền của Kant còn mang nặng tính duy tâm, phi lịch sử.
Thứ hai, những nhận định của Kant về sự liên minh giữa các dân tộc,
về một nền hòa bình vĩnh cửu lâu dài trên toàn thế giới dựa trên sự tin tưởng
lẫn nhau là phi thực tế.
Vì thực tế cho thấy trên thế giới vẫn luôn xảy ra xung đột chiến tranh,
khủng bố để tranh giành địa vị thống trị, tiềm lực kinh tế, các lớn nuốt cá bé,
nước giàu lấn át nước nghèo trên mọi phương diện.
Thứ ba, tư tưởng pháp quyền của Kant chứa đựng nhiều mâu thuẫn
Một mặt lấy khái niệm tự do làm cơ sở lập luận cho những vấn đề pháp
quyền, theo đó chỉ có nhân dân mới có thể là người đứng đầu nhà nước,
quyền lập pháp thuộc về công dân. Mặt khác, Kant lại cho rằng chỉ những
103
“công dân tích cực” mới có quyền tham gia bầu cử hiến pháp chung, ông đã
mâu thuẫn với chính những lập luận của mình. Thực tế hiện nay trong xã hội
phương Tây cho thấy quyền lập pháp tối cao không thuộc về nhân dân, mà
thuộc về giai cấp tư sản, giai cấp nắm nhiều tiềm lực về kinh tế. Có thể thấy
tư tưởng của Kant chỉ nằm trong ý tưởng và suy nghĩ cá nhân, không xuất
phát từ thực tế cuộc sống, chỉ đơn thuần dựa trên niềm tin lý tính của một triết
gia duy lý điển hình.
Thứ tư, Kant đề xuất việc thiết lập hiến pháp cộng hòa và đề cao
nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
Với tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, triết gia người Đức đã đề xuất
quan điểm các nước, đặc biệt là các nước lớn không nên can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước khác. Nhưng những nỗ lực đó cho đến nay đều thất
bại vì thiếu cơ sở cho việc điều hành một thể chế công quyền, lãnh đạo cũng
không từ bỏ quyền lực độc tài để chấp nhận dân chủ, nhất là khi bạo lực và
mầm mống đe dọa bạo lực vẫn còn.
Tình trạng chiến tranh xung đột bạo lực hiện nay vẫn thường xuyên
diễn ra trên thế giới. Kant cho rằng sự tiến hóa tuần tự về thể chế con người là
chủ yếu trong việc xây dựng hòa bình thế giới. Những nguyên tắc về luật
pháp với đạo đức có thể tổng hợp lại với nhau. Nhưng tương lai họ thấy một
nền hòa bình không thể nào kỳ vọng được vì hợp tác thể chế luôn thất bại, lý
do của sự thất bại đó là do các tác nhân không thể giải quyết vấn đề hòa bình
dựa vào những hậu quả do quyền lợi vị kỷ và quốc gia.
3.4. ý nghĩa của việc nghiên cứu tƣ tƣởng về đạo đức và pháp quyền
trong triết học Kant đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Kế thừa tư tưởng Khai sáng của các bậc tiền bối khi đề cao vai trò của
lý tính và sự tiến bộ của con người. Kant đã đi sâu nghiên cứu con người
104
trong mọi lĩnh vực đặc biệt là đạo đức và pháp quyền. Con người trong triết
học Kant không chỉ là “một thực thể tự nhiên” mà còn là “một thực thể tự do”
tức tự quyết và tự ban hành luật. Mục đích con người hướng tới là tự do, bình
đẳng. Những tư tưởng nhân văn của Kant đã có ý nghĩa không những đến sự
hình thành và phát triển của nền triết học cổ điển Đức, mà còn đến sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện các thể chế chính trị pháp quyền trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Triết học pháp quyền của Kant xuất phát từ triết học đạo đức về vấn đề
“bản tính tự nhiên” của con người như tham lam, ích kỷ, thiện ác.. để luận
giải cho “luật tự nhiên” như: chung sống thành cộng đồng xã hội, duy trì nòi
giống đi đến khẳng định quyền tự nhiên của con người cần có: quyền tự
quyết, tự ban hành luật, quyền sống, quyền tự do, sau đó đưa ra các hình thức
và phương thức quyền lực nhà nước trên cơ sở kế thừa tư tưởng về tam quyền
phân lập của các bậc tiền bối như Locke, Montesquieu, Rousseau để đảm bảo
quyền tự nhiên của con người.
Tư tưởng triết học pháp quyền của Kant cho rằng mỗi nhà nước cần
đảm bảo quyền tự nhiên của con người, con người không hoàn toàn tự do
trong việc ban hành luật mà phải dựa trên nhân quyền. Tư tưởng này đã tác
động không nhỏ tới thể chế chính trị pháp quyền phương Tây nói riêng và thể
chế chính trị pháp quyền trên thế giới nói chung. Trong xu thế toàn cầu hóa,
quốc tế hóa hiện nay vai trò của triết học đạo đức và pháp quyền càng phải được
đề cao đối với sự phát triển của từng quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam.
Nội dung quan trọng xuyên suốt trong tư tưởng triết học pháp quyền
của Kant là vấn đề con người, quyền tự nhiên của con người. Mục đích cao
nhất mà triết học pháp quyền hướng tới là đạt được sự công bằng, bình đẳng.
Bình đẳng là điều rất cần thiết trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần như hiện nay ở Việt Nam. Trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
105
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, thông qua đó ban hành luật nhằm đảm bảo
lợi ích kinh tế cho cá nhân, tập thể. Chức năng của pháp quyền là điều chỉnh
mọi hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Nhưng pháp luật
cũng cần thay đổi để phù hợp với chuẩn mực đạo đức, phải tính toán và có
định hướng cho sự phát triển, đảm bảo lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng.
Bên cạnh tư tưởng về pháp quyền tự nhiên, đảm bảo quyền con người
thì tư tưởng về sự liên minh giữa các quốc gia độc lập cùng tồn tại và phát
triển vì một nền hòa bình vĩnh cửu của Kant đã phần nào trở thành hiện thực
không những ở Châu Âu với việc thành lập và phát triển liên minh châu Âu
xuất phát từ lịch sử ràng buộc chung về tiêu chí của một nhà nước pháp quyền
hiện đại, quan trọng nhất là quyền bất khả xâm phạm về nhân quyền mà còn
hình thành phát triển ở châu Á với sự ra đời của tổ chức Asean. Tuy nhiên ta
thấy rằng tư tưởng pháp quyền mỗi thời đại, mỗi dân tộc không phải hoàn
toàn giống nhau, mỗi dân tộc đều có một thể chế chính trị pháp quyền riêng,
nhưng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học pháp quyền như quyền tự
nhiên bất khả tước đoạt của con người có thể áp dụng cho mọi nền văn hóa,
mọi quốc gia dân tộc. Vì vậy việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức và pháp quyền
của Kant có ý nghĩa nhất định đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trên một số khía cạnh sau:
Vận dụng sáng tạo tư tưởng phân chia và thống nhất quyền lực trong tổ
chức bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thực tế cho thấy Việt Nam đã trải qua nhiều lần thay đổi hiến pháp
nhưng nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công
và phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân làm
chủ trong đó cơ quan cao nhất là Quốc hội. Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung
trong đó thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước, phân biệt rõ chức năng
106
nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát.
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ sự
kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đứng đầu là chủ
tịch nước có quyền ký các luật đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ có thể
trình dự án luật cho Quốc hội thảo luận và thông qua đó thực chất là một hình
thức kiểm soát lập pháp từ hành pháp. Khi Quốc hội giám sát công việc của
Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện kiểm soát Nhân dân tối cao
cũng có nghĩa là cơ quan lập pháp có quyền can thiệp vào cơ quan hành pháp
và tư pháp. Ba ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng vừa có sự độc lập vừa có sự hợp tác trong hoạt động của mình. Khi xây
dựng, hoàn thiện thể chế chính trị pháp quyền ở nước ta điều cấp thiết là
chúng ta phải nghiên cứu một cách hệ thống, có chọn lọc kế thừa những tư
tưởng tiến bộ của các triết gia phương Tây trong đó có Kant, kế thừa nguyên
tắc tam quyền phân lập nhưng cần phải loại bỏ những khuynh hướng không
phù hợp với thể chế, điều kiện hoàn cảnh đất nước để vận dụng một cách phù
hợp nhất.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính dân chủ trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Thực chất của vấn đề dân chủ là dân chủ về kinh tế, chính trị
và văn hóa. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân chủ được thể
hiện ở cả ba lĩnh vực trên, muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền
việc đầu tiên cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng và phát huy
sức mạnh pháp luật trong việc ban hành và thực thi. Mọi lĩnh vực quan trọng
của đời sống xã hội đều được điều chỉnh bằng các bộ luật đáp ứng mục đích cao
nhất là quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng luật pháp, đảm bảo điều kiện hội
107
nhập với thế giới và khu vực, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Trên cơ sở tiếp thu thành tựu tư tưởng về triết học pháp quyền trong
lịch sử, khi hoàn thiện thể chế pháp quyền, cần phải làm rõ vấn đề lý tính của
pháp luật, pháp luật phải phù hợp với hiện thực khách quan, tạo tiền đề cho
các lĩnh vực khác trong xã hội phát triển. Tăng cường tính dân chủ trong việc
thực thi luật pháp, Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã xác định phải đẩy mạnh cải
cách, tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Sau
đó đến Đại hội X, Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy: cán bộ, công chức: phương thức hoạt động” [5,
tr.253]. Trong nghị quyết nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện
mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện
quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không
có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” [6, tr.44]. Đại hội
XI, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân
và vì dân, do Đảng lãnh đạo” [7, tr.246].
Qúa trình xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời gian qua của nước
ta đã minh chứng khẳng định tính đúng đắn về lý luận đi lên nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng là phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại. Phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân với phương châm “dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” được thực hiện sát sao, nhiều bộ luật được xây dựng
108
và đưa vào cuộc sống.
Chú trọng hợp thức hóa các quyền cơ bản của con người trong các đạo luật
Trong quan niệm về triết học pháp quyền của Kant, ông đã đề cập đến
quyền tự nhiên của con người trong nhà nước nhằm đảm bảo những quyền đó
được thực hiện một cách công bằng, cho nên Việt Nam xây dựng nhà nước
pháp quyền phải thấy được tầm quan trọng của quyền con người trong quan
niệm của Kant. Nhà nước ra đời phải đảm bảo quyền con người, tăng cường
kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu lớn nhất mà Đảng và nhà nước ta hướng tới là
đảm bảo quyền con người, ngay trong những dòng đầu tiên của bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Hồ Chí Minh có
viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [17, tr.1].
Việt Nam đã đưa cách tiếp cận của thế giới về nhân quyền vào Hiến
pháp được sửa đổi bổ sung qua nhiều năm trong đó Hiến pháp 2013 nêu rõ:
“bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiên mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” [14, tr.9-10]. Việc quy
định các quyền cơ bản của con người trong Hiến pháp là điều quan trọng và
109
phải làm sao cho các quyền ấy đi vào cuộc sống, vận dụng trong thực tiễn.
KẾT LUẬN
Triết học Kant như một cột mốc vĩ đại trong tiến trình lịch sử tư tưởng
nhân loại. Kant đi vào lịch sử như một nhà nhân đạo sâu sắc với nhiều đóng
góp quan trọng trong lĩnh vực triết học thực tiễn. Triết học thực tiễn của Kant
dựa trên tiêu chí hướng thiện, cho con người và vì con người, tiêu chí đánh
giá mọi hành động của cá nhân và cộng đồng, quyền cơ bản của mỗi người,
lợi ích chung của nhân loại phải được coi trọng hàng đầu. Kế thừa những tư
tưởng tiến bộ của triết học Kant, các nhà nghiên cứu triết học cổ điển Đức,
các nhà triết học Mác - xít, nhiều trào lưu triết học hiện đại đều cho rằng, con
người là trung tâm của các vấn đề triết học.
Tất cả các vấn đề triết học từ triết gia Kant trở đi đều đề cập đến giá trị
con người, ý nghĩa cuộc sống của con người, mặc dù lý giải về những vấn đề
này khác nhau. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm chủ quan, triết học thực
tiễn của Kant đã tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, coi ý chí thuần túy của con
người là nguyên tắc của hành động, nó không đề cập đến hoàn cảnh và hiệu
quả của hành vi đối với bản thân chủ thể hành động và xã hội. Kant chỉ hiểu
thực tiễn là hoạt động đạo đức, pháp quyền, văn hóa, tôn giáo chứ không phải
là toàn bộ hoạt động vật chất của con người mang tính lịch sử - xã hội nhằm
cải tạo tự nhiên xã hội, nên triết học thực tiễn của Kant nói chung hay mối
quan hệ giữa đạo đức và pháp quyền của Kant nói riêng mang tính lý tưởng,
xa rời cuộc sống hiện thực đương thời.
Tuy nhiên ý tưởng của Kant về liên minh giữa các quốc gia dân tộc nay
đã trở thành hiện thực với mô hình liên minh châu Âu. Nguyên tắc bình đẳng
giữa các dân tộc và không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác của Kant
đề ra, sau này được ghi vào Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Những tư tưởng
triết học của ông, nhất là tư tưởng về triết học đạo đức và triết học pháp quyền
110
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu triết học, luật học và nhân
học trên toàn thế giới. Ông đã giúp chúng ta biết kính trọng những mệnh lệnh
của quy luật đạo đức, tức quy luật làm người, chứng minh cho chúng ta thấy
rằng, các nguyên tắc về pháp quyền và đạo đức có thể kết hợp với nhau, cổ vũ
cho quyền tự quyết cá nhân, động lực thúc đẩy tiến trình hòa bình thế giới.
Cái cao cả nhất trong triết học Kant hướng tới là giá trị chân - thiện -
mỹ làm sao cho con người trở nên hoàn thiện, sự phát triển khoa học, pháp
luật phải phù hợp với đạo đức. Kant đóng góp không nhỏ cho sự phát triển
quan niệm về triết học đạo đức và pháp quyền ở Phương Tây nói riêng và nền
chính trị pháp lý và tư tưởng nhà nước của nhân loại nói chung. Tư tưởng triết
học Kant đã khơi dậy nguồn cảm hứng cho các trường phái triết học từ thế kỷ
XIX đến nay.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng trong triết học đạo đức cũng như
triết học pháp quyền của Kant, các nhà triết học cổ điển Đức, và các nhà triết
học Mác cùng nhiều trào lưu triết học hiện đại đều có chung một quan điểm
cho rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chìa khóa để giải quyết mọi
vấn đề. Đề cao giá trị và cuộc sống của con người, cái đích mà triết học
hướng đến là vì con người và cho con người. Con người chính là chủ thể của
quá trình hoạt động thực tiễn. Triết học Mác - Lênin là sự kế thừa những giá
trị hợp lý của triết học Kant về mặt lý luận. Trong đó triết học đạo đức như
ngọn đèn soi sáng mang đến thông điệp hòa bình cho nhân loại, mong muốn
một cuộc sống bình đẳng, không có chiến tranh, không có áp bức, con người
gắn kết, yêu thương cùng chung sống trên trái đất.
Có thể thấy rằng lịch sử phát triển của triết học toàn nhân loại nói
chung và lịch sử phát triển triết học Châu Âu từ thế kỷ XIX là quá trình không
ngừng tiếp thu, truyền bá, đấu tranh, cải biến xã hội, và triết học Kant đóng
góp không nhỏ cho sự phát triển chung đó. Triết học đạo đức và pháp quyền
111
của Kant ảnh hưởng sâu sắc đến các phong trào giải phóng dân tộc, giải
phóng tư tưởng, giải phóng con người, hướng con người đến với tự do, đến
với chân lý. Hiện nay trong sự hội nhập toàn cầu hóa nền kinh tế, con người
ngày càng tiến xa hơn trong sự phát triển văn minh của mình thì những giá trị
đạo đức và pháp quyền mà Kant tạo dựng ngày càng trở nên cần thiết hơn bao
giờ hết trong cuộc sống của con người. Chính vì điều đó mà triết học Kant
cần được nghiên cứu sâu hơn để giúp con người định hướng bản thân mình,
112
phát triển những giá trị nhân văn cao đẹp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristotle (2013), Chính trị luận, dịch và chú giải Nông Duy Trường, Nxb.
Thế giới.
2. Bùi Thị Thùy Dương (2012), Những điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền XNCN Việt Nam, “Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế”, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học trung cổ Tây Âu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Dương Phú Hiệp (2012), Đặc điểm của sự hình thành nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr. 253.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Sđd, tr.44.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr. 246.
8. Đặng Hữu Toàn (2013), Quan niệm của Kant về pháp quyền trong nhà
nước với tư cách cộng đồng luật pháp, Triết học, số 8 (267).
9. Đinh Ngọc Thạch, Doãn Chính (2018), Lịch sử triết học Phương Tây tập 1 từ
triết học cổ đại đến triết học cổ điển Đức, Nxb. Chính trị Quốc Gia sự thật.
10. Đinh Ngọc Vượng (1992), Tam quyền phân lập, Viện thông tin khoa học
xã hội Việt Nam.
11. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương lịch
sử triết học Phương Tây hiện đại cuối thế kỉ XIX- nửa đầu thế kỉ XX, Nxb.
Tổng hợp TP. HCM
113
12. Đỗ Minh Hợp (2010), Nhập môn triết học, Nxb. Giáo dục Hà Nội.
13. Johanner Hirschberger (1991), Lịch sử triết học, tập 1, người dịch
Nguyễn Quang Hưng, hiệu đính Phạm Quang Minh, Nxb. Herder.
14. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
15. Hoàng Thị Hạnh (2009), Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật - vận dụng
vấn đề này trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Thông tin KHXH.
16. Hoàng Thị Hạnh (2009), Góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật, Thông tin KHXH.
17. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
18. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thực hành, Nxb. Tri thức (Bùi Văn
Nam Sơn dịch và chú giải 2004).
19. Immannuel Kant, Phê phán khả năng suy diễn, Nxb. Văn học ( Bùi Văn
Nam Sơn dịch và chú giải 2007).
20. Immanuel Kant, Phê phán lý tính thuần túy, Nxb. Văn học ( Bùi Văn
Nam Sơn dịch và chú giải 2004).
21. Lê Anh Đào (2006), Về khái niệm nhà nước pháp quyền, Tạp chí khoa
học chính trị, số 2, Tr.28 - 32.
22. Lê Tôn Nghiêm (2007), Đâu là căn nguyên tư tưởng? Hay con đường
triết lý từ Kant đến Heidegger, Nxb. Văn học.
23. Lê Công Sự (2009), J. Locke và triết lí về con người, Nghiên cứu con
người, số 3.
24. Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức, Nxb. Thế giới.
25. Lê Công Sự (2007), Thomas Hobbes và triết lí về con người, Nghiên cứu
con người, số 2.
26. Lê Công Sự (2008), Quan điểm của J. Locke về sự hình thành và bản
114
chất của quyền lực nhà nước, Thông tin chính trị học, số 3 (38).
27. Lê Thị Thủy (2004), Một số khía cạnh đạo đức trong triết học Cantơ, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia.
28. J. Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Người dịch Lê Tuấn
Huy, Nxb.Tri thức.
29. Lý Anh, Vương Tiếu Lý (2005), Tinh hóa trí tuệ nhân loại, Người dịch,
Nguyễn Tuấn Minh, Nxb. Lao động.
30. C. Mác và Ăngghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 1.
31. C. Mác và Ănghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 3.
32. C. Mác và Ăngghen (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 20.
33. Bernard Morichere & nhóm giáo sư triết học các trường đại học Pháp
(2010), Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại, Nxb.Văn hóa
thông tin
34. Mai Vũ Dũng, Quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật trong “Nam sơn tùng thoại”. Tạp chí triết học số 6/ 2008.
35. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Người dịch Hoàng Thanh
Đạm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Hữu Toàn (1997),
I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Nxb. Khoa học Xã hội.
37. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện
thời của nó, Triết học cổ điển Đức những vấn đề nhận thức luận và đạo
đức học, Nxb. Chính trị quốc gia.
38. Ngô Thị Mỹ Dung (2016), Lịch sử tư tưởng triết học pháp quyền Đức,
Nxb.Chính trị Quốc gia sự thật.
39. Ngô Thị Mỹ Dung,“Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học pháp
quyền trong triết học Immanuel Kant” tạp chí Khoa học xã hội, Viện
115
KHXH vùng Nam bộ, số 05, 2007, tr.17 -21.
40. Ngô Thị Mỹ Dung (2004), Triết học đạo đức của Cantơ và ảnh hưởng
của nó đối với nền triết học phương Tây, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
41. Ngô Thị Mỹ Dung, Sự kế thừa tư tưởng triết học đạo đức của Immanuel
Kant trong triết học thực tiễn của Johann Gottlied Fichte, Tạp chí Khoa
học xã hội, Viện KHXH vùng Nam bộ, số 06, 2009, tr.03 – 08.
42. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb. Văn
nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
43. Nguyễn Bá Dương (2012), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học
quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Chí Hiếu (2005), Triết học Cantơ dưới nhãn quan của G.W.F.
Heghen, Tạp chí triết học, số 4.
45. Nguyễn Vũ Hảo (2004), Tư tưởng của I.Cantơ về sự thống nhất của lý
luận nhận thức, đạo đức học trong nhân học, Triết học cổ điển Đức
những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị quốc gia.
46. Nguyễn Thị Hoài (2012), Một vài khía cạnh đạo đức trong tổ chức nhà
nước. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
47. Ted Honderic (2002), Hành trình cùng triết học, Nxb.Văn hóa Thông tin
Hà Nội.
48. Nguyễn Quang Hưng (2013), Triết học chính trị xã hội của I. Kant, J.G.
Fichte và G.W.F.Hegel, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Nguyễn Quang Hưng (2004), Chủ nghĩa nhân đạo trong đạo đức học của
I. Cantơ: ảo tưởng hay hiện thực? (qua phân tích ý tưởng của I. Cantơ về
một nền hòa bình vĩnh cửu).Triết học cổ điển Đức những vấn đề nhận
thức luận, Nxb. Chính trị Quốc gia.
116
50. Nguyễn Văn Huyên (1996), Triết học Imanuen Cantơ, Nxb. Khoa học Xã hội.
51. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2004), Tư tưởng của J.J.Rousseau về quyền
con người, Tạp chí triết học, số 6 (277).
52. Nguyễn Kim Lai (2004), Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của
Cantơ, Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức
học, Nxb. Chính trị Quốc gia.
53. Nguyễn Thế Nghĩa (2004), Quan niệm của I.Cantơ về mối quan hệ giữa ý
chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức.Triết học cổ điển Đức:
Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia.
54. Nguyễn Thế Nghĩa (2004), Quan niệm của I.Cantơ về mối quan hệ giữa ý
chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức, Tạp chí khoa học xã hội,
số 12.
55. Nguyễn Văn Sanh (2004), Quan hệ giữa đạo đức với các lĩnh vực đời
sống xã hội khác trong quan điểm đạo đức học của Cantơ.Triết học cổ
điển Đức: những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị
Quốc gia.
56. Nguyễn Anh Tuấn (2012), Nguồn gốc của pháp quyền và nhà nước từ
góc nhìn đạo đức học.Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
57. Nguyễn Thị Kim Thanh (2012), Vai trò của đạo đức trong xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
58. Nguyễn Đình Thi (1994), Triết học Kant, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
59. Nguyễn Quang Thông, Tống Văn Chung (1990), Lịch sử triết học cổ đại
Hy - La. Tập 1, tủ sách Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Thúy (2014), Sự phát triển quan niệm về nhà nước pháp
quyền trong triết học Phương Tây cận đại, luận văn thạc sỹ triết học,
Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.
117
61. Nguyễn Ước (2009), Các chủ đề triết học, Nxb. Tri thức.
62. Nguyễn Thúy Vân (2012), Cách tiếp cận triết học khái niệm nhà nước pháp
quyền, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
63. Nguyễn Hữu Vui (2007), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia.
64. Phạm Công Nhất (2012), Vài nét về lịch sử hình thành nhà nước, nhà
nước pháp quyền và quan niệm về mô hình, đặc điểm tổ chức nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
65. Phạm Thái Việt (2004), Phạm trù“thực tiễn” trong triết học cổ điển
Đức.Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học,
Nxb. Chính trị Quốc gia
66. Phan Thành Nhâm, Lê Thị Vinh (2012), Bảo vệ quyền con người trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
67. Quang Chiến (chủ biên), Chân dung triết gia Đức, Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây.
68. Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, người dịch Hoàng Thanh Đạm,
Nxb. thành phố Hồ Chí Minh.
69. Samuel Enoch Stumpf (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb.Lao động.
70. Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến Derrida, Nxb. Văn hóa thông tin.
71. Tư Tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh (2001),
(Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân biên dịch).
72. Trần Thái Đỉnh (1972), Triết học Kant. Nxb. Văn hóa thông tin.
73. Trần Đăng Sinh (2012), Vấn đề dân chủ trong nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam.Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
118
74. Trần Đăng Sinh (chủ biên) (2009), Lịch sử triết học, Nxb. Đại học sư phạm.
75. Trịnh Duy Huy (2004), Quan hệ giữa cá thể và cộng đồng trong học
thuyết đạo đức học của Cantơ.Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận
thức luận và đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia.
76. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nxb. Khoa học Xã hội.
77. Trần Hậu Thành (2000), Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân chia
phối hợp giữa các quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước,
tạp chí lý luận chính trị số 6, t24 -28.
78. Trần Hậu Thành (2000), Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, Phân viện
Hà Nội. Tạp chí Lý luận chính trị số 2.
79. Vũ Thị Thu Lan (2004), Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của
Kant, Viện triết học (luận văn thạc sỹ).
80. Vũ Đình Phòng, Lê Huy Hòa (2003), Những luận thuyết nổi tiếng thế
giới, Nxb. Văn hóa thông tin.
81. Vương Đức Phong - Ngô Đình Hiếu (2003), Thập đại tùng thư - 10 nhà
119
tư tưởng lớn thế giới (Phong Đảo dịch). Nxb Văn hóa thông tin.