ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--***-- ĐÔNG THỊ HỒNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI – 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--***-- ĐÔNG THỊ HỒNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị

Mã số: 5.02.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÍ MẠNH HỒNG HÀ NỘI - 2005

MỤC LỤC

Mở đầu.......................................................................................................... 2

Chương 1. Vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật đối với quá trình

công nghiệp hoá - hiện đại hoá..............................................................

8

1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá trình

công nghiệp hoá - hiện đại hoá............................................................... 8

1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp hoá

- hiện đại hoá.......................................................................................... 22

1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống đào tạo

công nhân kỹ thuật.................................................................................. 32

Chương 2. Thực trạng hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật trong quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.....................................................

43

2.1. Khái quát về hệ thống công nhân kỹ thuật trước thời kỳ đổi mới.......... 43

2.2. Tình hình đào tạo công nhân kỹ thuật trong những năm đổi mới.......... 49

2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam... 77

Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo

công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá...

85

3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra đối

với đào tạo công nhân kỹ 85

thuật................................................................

93 3.2. Định hướng để phát triển đào tạo công nhân kỹ

thuật............................

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đoà tạo công nhân kỹ thuật. 95

Kết luận............................................................................................................ 104

1

Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................... 106

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là giai đoạn phát triển tất yếu mà mọi quốc

gia đều phải đi qua, song mỗi nước đều có những cách thức phát triển riêng tuỳ

thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và đặc trưng về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá

của từng nước. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta được thực

hiện trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ

xã hội theo hướng phát triển bền vững, trong đó nhân tố con người là trung tâm,

kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá với những bước đi thích

hợp. Trong số các nguồn lực về tài chính, công nghệ, thiết bị, nguồn tài

nguyên… thì ngày nay nguồn lực con người trở thành nguồn lực quan trọng nhất

cho tiến trình phát triển của đất nưóc. Nếu chúng ta quan tâm và đặt đúng vị trí

con người, chúng ta sẽ thành công. Vì thế mà trong "Chiến lược ổn định và phát

triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" Đảng ta đã khẳng định: "... Mục tiêu và

động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh

tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy

tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc...".

Nghiên cứu về nguồn nhân lực, tức là nghiên cứu về yếu tố con người,

những khả năng, tiềm năng của con người và cách khơi dậy mọi tiềm năng của

mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cộng đồng dân tộc để tạo nên sức mạnh

tổng thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Để đạt được mục tiêu trên thì giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức to lớn.

Giáo dục - đào tạo tham gia trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong việc nâng

cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ tay nghề, xử lý công

3

nghệ, tổ chức quản lý và năng lực thực tiễn của người lao động - lực lượng chủ

yếu đối với sự phát triển bền vững. Vì thế mà Đại hội Đảng IX đã khẳng định:

"Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con

người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền

vững" [2, tr.26].

Để cho giáo dục đào tạo thực sự đảm nhận được đúng vai trò của nó thì

phát triển hợp lý quy mô và cơ cấu giáo dục đào tạo là một đòi hỏi bức thiết.

Như Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ cơ cấu đào

tạo hiện nay của chúng ta còn bất hợp lý. Điều đó thể hiện ở sự bất hợp lý giữa

cơ cấu dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học; cơ cấu ngành

nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu bậc học, cơ cấu xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực đào

tạo nghề, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung

cấp kỹ thuật đang trở nên hết sức bức xúc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu

quả giải quyết việc làm, đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đội ngũ công nhân

kỹ thuật nước ta hiện nay không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá -

hiện đại hoá. Vì thế cần phải đào tạo được một đội ngũ lao động có trình độ tay

nghề, có chuyên môn nghiệp vụ cao, có trình độ văn hoá, có sức khoẻ, có tác

phong công nghiệp, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới để đáp ứng

được nhu cầu của nền kinh tế thị trường cả về số lượng và chất lượng. Làm thế

nào để tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao năng suất lao động, chất lượng

sản phẩm, hiệu quả sản xuất ? đủ sức cạnh tranh với thị trường trong nước và

quốc tế ? tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội? Làm thế nào để chúng ta có

một cơ cấu kinh tế hợp lý?... Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải đẩy

mạnh công tác trong lĩnh vực dạy nghề và giáo dục nghề nghiệp nhằm phát triển

mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật để phục vụ sự

4

nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.

Tuy nhiên hiện nay đào tạo nghề ở Việt Nam lại chưa đáp ứng được đòi

hỏi của thực tiễn cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân kỹ thuật:

chương trình dạy nghề chưa được cập nhật, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với kỹ

thuật công nghệ mới; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu cả về số lượng và

chất lượng, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới; quy mô đào tạo còn nhỏ

so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn chưa

rộng khắp; thiếu đội ngũ công nhân làm việc trong những ngành công nghệ cao;

kinh phí đầu tư cho đào tạo nghề còn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mất

cân đối giữa các ngành nghề đào tạo... Do đó việc phân tích thực trạng đào tạo

nghề trong đó có đào tạo công nhân kỹ thuật để tìm ra những biện pháp thích

hợp có khả năng thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một công

việc rất có ý nghĩa. Với những lý do trên đây tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đào tạo

công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá".

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Do có vị trí hết sức quan trọng nên dạy nghề là vấn đề được nhiều nhà

khoa học và những người hoạch định chính sách quan tâm. Tuy nhiên trong sự

phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền

kinh tế thị trường thì số lượng và chất lượng lao động của đội ngũ công nhân

càng được đặc biệt quan tâm và đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ hơn.

Gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã có nhiều bài viết và công trình

nghiên cứu về giáo dục - đào tạo, về cách mạng khoa học công nghệ, về đào tạo

nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội...

Những bài viết đó tập trung chủ yếu vào từng mảng vấn đề, đề cập đến

5

những khía cạnh khác nhau như giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế xã

hội, giáo dục đào tạo với việc tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề đối với xuất

khẩu lao động ... như:

- Giáo sư Vũ Văn Tảo với bài "Đào tạo gắn với việc làm", Tạp chí Xuân

2000 đã khẳng định đào tạo cần phải gắn với việc làm.

- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nêu việc triển khai

công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm

trong bài "Về triển khai công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia

về giải quyết việc làm", Tạp chí Lao động - xã hội 149/1999.

- Vũ Đình Cự đã nêu những bất cập của giáo dục đào tạo trong cuốn "Giáo

dục - đào tạo hướng tới thế kỷ 21", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội

1998.

- Phạm Văn Đức khẳng định vai trò của nguồn lực con người trong công

nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bài: "Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con

người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí Triết học, số

6/1998.

- "Đầu tư cho con người với vấn đề giải quyết việc làm" của nhóm tác giả

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội 1995 đã giới thiệu về đặc điểm

nguồn nhân lực và những người cần đào tạo lại để tạo cơ hội giải quyết việc làm,

đồng thời giới thiệu khái niệm mô hình đào tạo giải quyết việc làm cho người lao

động ở một số nước trên thế giới.

- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực

của GS.VS. Phạm Minh Hạc trong Tạp chí Lao động xã hội, số 218…

Nhìn chung, tuy khai thác ở từng khía cạnh, từng mảng khác nhau nhưng

các tác giả đều coi giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp

6

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và khẳng

định quan điểm của Đảng ta coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi

giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản nhằm nâng cao đời sống người

lao động, phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện

nay. Tuy nhiên vẫn còn ít những công trình khoa học nghiên cứu tập trung, có

tính chất hệ thống lĩnh vực đào tạo công nhân kỹ thuật với tư cách là một kênh

phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang

biến đổi rất nhanh hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

* Mục đích

Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo công nhân kỹ thuật trong việc phát

triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, luận văn cố gắng đề xuất một số định

hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất lượng của hệ thống

đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại

hoá

* Nhiệm vụ

- Làm rõ vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật trong phát triển nguồn

nhân lực ở các nước đang phát triển đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.

- Làm rõ thực trạng của đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta trong những

năm gần đây.

- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và chất

lượng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật ở nước ta trong thời gian tới.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý của Kinh tế chính trị,

7

quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con

người; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các luận điểm khoa học của

các nhà khoa học về những vấn đề có liên quan đến đề tài của luận văn.

* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử luận văn

chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, đối chiếu

và so sánh, lô-gíc và lịch sử, phương pháp thống kê và hệ thống hoá.

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu: hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt

Nam với tư cách là kênh phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.

* Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ đề tài này, tác giả nghiên cứu

lĩnh vực đào tạo nghề từ khi đổi mới đến nay.

6. Đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu và giảng dạy kinh tế chính trị Mác-Lênin về vấn đề nguồn lực

con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở

vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng

tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta và dành cho những người quan

tâm đến đề tài.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương với 8 tiết:

Chương 1: Vai trò của công nhân kỹ thuật đối với quá trình công nghiệp

8

hoá - hiện đại hoá.

Chương 2: Thực trạng đào tạo hệ thống công nhân kỹ thuật trong quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo

công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Chương 1

VAI TRÕ CỦA ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá

1.1.1. Nguồn nhân lực trong tăng trưởng và phát triển kinh tế hiện đại

Mỗi một quá trình lao động sản xuất đều là sự kết hợp của 3 yếu tố: tư liệu

lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao

động là những điều kiện vật chất cần thiết của mọi quá trình lao động. Máy móc

thiết bị dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng đều do sức lao động tạo nên và phải

thông qua hoạt động tích cực của con người mới phát huy được đầy đủ hiệu quả.

Dù cơ sở vật chất của sản xuất có hoàn thiện đến đâu, dù doanh nghiệp có các

phương tiện kỹ thuật gì đi nữa thì quá trình sản xuất ở đó cũng chỉ có thể thực

hiện với sự hoạt động có mục đích của con người để làm cho những tư liệu vật

chất kỹ thuật đó vận hành được. Dựa vào những hoạt động lao động có mục đích

của mình con người làm cho các vật thể tự nhiên thích ứng với mình, cải biến tự

nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình. Nếu con người không sử dụng sức lao

9

động của mình để tác động vào tư liệu lao động và đối tượng lao động thì tư liệu

lao động và đối tượng lao động chỉ là những vật chết. Chính “lao động đã nắm

lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những công dụng

mới có về mặt khả năng thành công dụng có hiệu lực hiện thực” [19, tr.274].

Nâng cao trang bị kỹ thuật là một nhân tố cơ bản chủ yếu để tăng năng suất lao

động. Nếu không có máy móc thiết bị vật tư thì không thể có năng suất cao,

không thể có tư liệu sản xuất mở rộng. Nhưng trang bị kỹ thuật không phải là

nhân tố duy nhất hàng đầu để tăng năng suất kể cả khi chúng ta có nhiều những

kỹ thuật tiên tiến hiện đại nhất vì khi đó nếu không có con người với trình độ và

tính tổ chức cao, phù hợp với yêu cầu của công nghệ, kỹ thuật thì quá trình sản

xuát vẫn bị đình trệ. Vì thế: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại

là công nhân, là người lao động” [17, tr.38].

Như vậy, người lao động là nhân tố vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một

đất nước nào muốn phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là ngày nay, khi mà khoa

học công nghệ phát triển như vũ bão, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới

diễn ra sâu rộng, khi mà chúng ta đang đứng trước thềm của kỷ nguyên phát

triển mới của xã hội loài người - chuyển sang nền kinh tế tri thức thì các nhà

kinh tế đều khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo

dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các chương trình đảm bảo việc làm và an sinh

xã hội... là đầu tư hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh

và bền vững của một quốc gia.

Như chúng ta đã biết, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức

đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế xã hội loài người. Nền kinh tế

tri thức dựa trên những trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh

học, công nghệ vật liệu mới... mà ở đó tri thức chiếm một hàm lượng chủ yếu

trong giá trị mới của sản phẩm, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP, là

10

yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế tri

thức cơ hội cho lao động thiếu kỹ năng ngày càng bị thu hẹp và đòi hỏi về trình

độ và kỹ năng của một người lao động bình thường ngày càng cao. Để có được

nền kinh tế tri thức cần phải xây dựng được cơ sở hạ tầng vững chắc để phát

triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đồng thời phải đầu tư

cho phát triển giáo dục và đào tạo hay chính xác hơn là phải đầu tư cho phát triển

nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể các tiềm năng (lao

động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã

được chuẩn bị ở mức nào đó có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Khi tham gia

vào các quá trình kinh tế xã hội thì con người đóng vai trò chủ động, sáng tạo và

chi phối toàn bộ quá trình đó và hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy mà

nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có mà nó

còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố như thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc,

thái độ, phong cách làm việc.

Nguồn nhân lực theo nghĩa tương đối hẹp được hiểu là nguồn lao động.

Chính vì thấy được vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực mà trong

quá trình phát triển kinh tế hiện đại, nơi mà tri thức chứ không phải tài nguyên

thiên nhiên, đất đai hay nguồn vốn nổi lên như là yếu tố dẫn dắt, chi phối hàng

đầu đối với quá trình tạo ra của cải mà ở nhiều nước đang định hình một mô hình

sản xuất mới: lấy con người làm trung tâm. Mô hình này là bước chuyển lên

trình độ văn minh cao hơn, ở đó con người là mục đích chứ không phải là

phương tiện của phát triển xã hội. Mô hình sản xuất lấy con người làm trung

tâm, coi trọng và đề cao tri thức trở thành triết lý cơ bản của chiến lược phát

11

triển của mọi quốc gia. Như vậy, sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã không

làm giảm đi vai trò của yếu tố con người mà ngược lại, nguồn nhân lực có chất

lượng cao về trí tụê và kỹ năng ngày càng trở thành lợi thế quan trọng cho mỗi

quốc gia.

Xem xét con người với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của sự phát triển

kinh tế xã hội, UNESCO nêu “con người đứng ở trung tâm của sự phát triển là

tác nhân và là mục đích của sự phát triển”. Trong học thuyết về tăng trưởng kinh

tế của mình nhà kinh tế Mỹ Gregory Mankiw đã đề cập một loại tư bản: vốn

nhân lực. Theo ông “Vốn nhân lực là kiến thức, tay nghề mà người lao động tiếp

thu được thông qua quá trình giáo dục đào tạo từ thời niên thiếu cho đến khi

trưởng thành, cũng như trong quá trình lao động. Vốn nhân lực tương tự như tư

bản hiện vật, nó làm tăng lực lượng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của chúng ta”.

Cũng theo Mankiw “sự đầu tư cho con người trong việc nâng cao chất lượng

cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của toàn xã hội và nhờ đó

tạo khả năng tăng năng suất lao động”. Nhận định này có vai trò rất quan trọng

trong vài thập kỷ gần đây. Một số các nước Châu Á có nền kinh tế tăng trưởng

nhanh đã áp dụng quan điểm này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

họ và họ đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Các nước Hàn Quốc, Hồng Kông,

Singapo đã có khả năng đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao

để phát triển đất nước và đã làm tăng thu nhập bình quân cao hơn gấp 5 - 6 lần

so với các nước Đông Nam Á.

Nghiên cứu nguyên nhân thành công của các nước này các nhà kinh tế đều

thống nhất nhận định rằng họ đã đầu tư nguồn nhân lực đủ sức thực hiện công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước họ.

Ở nước ta, nhận thức vai trò động lực của nguồn nhân lực đối với quá

12

trình phát triển đất nước Đảng đã chỉ đạo “lấy việc phát huy yếu tố con người

làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển rất nhanh và bền vững” [2, tr.9] và nguồn lực

con người đựơc coi là nội lực cơ bản nhất cần khai thác và phát huy để tiến hành

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Tóm lại, bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng, phát triển kinh tế

trong thời kỳ hiện nay đều phải quan tâm, đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chỉ

có đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực, đất nước đó mới nhanh chóng

thành công.

1.1.2. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực đối với các nước đang

phát triển

* Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với các nước đang phát triển

Các nước đang phát triển là những nước có mức thu nhập bình quân đầu

người thấp. Hiện nay dân số các nước đang phát triển chiếm đa số dân số thế giới

nhưng thu nhập chỉ chiếm 2% thu nhập thế giới. Các nhà kinh tế trên thế giới

thường lấy mức thu nhập bình quân đầu người 2.000 USD làm mốc, nếu đạt

được mức này sẽ phản ánh được sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và

đời sống xã hội, phản ánh khả năng giải quyết được những nhu cầu cơ bản của

con người. Hiện nay còn trên 100 nước đang phát triển có mức thu nhập dưới

2.000 USD; trong đó gần một nửa có mức thu nhập bình quân dưới 600 USD.

Điều này nói lên khả năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải

quyết những nhu cầu cơ bản của con người về vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế.

Các nước đang phát triển còn là những nước có tỷ lệ tích luỹ thấp. Muốn

có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn là ở chỗ, đối

với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, dân chúng đã

gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn.

13

Những nước có nền kinh tế tiên tiến thường để dành từ 20-30% thu nhập để tích

luỹ. Trong khi đó ở các nước nông nghiệp chỉ có khả năng tiết kiệm trên, dưới

10% thu nhập. Nhưng phần lớn số tiết kiệm này phải dùng để cung cấp nhà ở,

trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy

mô tiết kiệm cho tích luỹ phát triển kinh tế.

Các nước đang phát triển cũng là những nước có hoạt động kinh tế chủ

yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, kỹ thuật sản

xuất thủ công, lạc hậu, xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô (nông sản và khoáng

sản), năng suất lao đông thấp do thiếu vốn và yếu tố công nghệ kỹ thuật hiện đại.

Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển

động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Các nền kinh tế đạt được mức

độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ mức độ tăng của ngành công

nghiệp. Trải qua giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước

đang phát triển tuy đã có được những ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn

vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kỹ thuật thấp. Trong

khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến với

kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ công

nghệ của các nước đang phát triển từ 3-6 thập kỷ. Khoảng cách công nghệ quá

lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các

nước đi sau do quá trình phân công lao động mới đưa lại.

Các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa trong

quá trình phát triển. Đó là áp lực về dân số và việc làm. Dân số những nước đang

phát triển vốn đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này tạo ra một

hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn

tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm.

14

Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối

giữa tích luỹ và đầu tư đã kìm hãm sản xuất và dẫn đến thất nghiệp trầm trọng,

gây mất ổn định xã hội, nợ nước ngoài gia tăng.

Như vậy, hầu hết đang phát triển đang đều ở trong tình trạng: cơ sở vật

chất kỹ thuật nghèo nàn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động chưa

phát triển, khoa học kỹ thuật đang được xây dựng... Ở nhiều quốc gia, sản xuất

nông nghiệp vẫn đang còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Đó cũng là nguyên

nhân cơ bản làm cho các quốc gia này đang rất khó khăn trong việc giải quyết

hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội như: thất nghiệp, nghèo đói, bệnh dịch, sự

lạc hậu về y tế và giáo dục...

Để thoát khỏi tình trạng đó thì các nước đang phát triển không còn con

đường nào khác là lựa chọn con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Công

nghiệp hoá - hiện đại hoá là giải pháp quan trọng (nếu không muốn nói là quan

trọng nhất) nhằm xây dựng một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn. Chỉ

có công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới làm cho các nước đang phát triển thay thế

được lao động thủ công lạc hậu bằng lao động sử dụng máy móc, cơ khí hoá nền

kinh tế quốc dân; thay thế máy móc, thiết bị và công nghệ bằng máy móc thiết bị

và công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền

kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hoá - hiện đại

hoá đòi hỏi phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại mà hiện nay,

xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỉ trọng khu

vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng

tăng; tỉ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm

trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Vì thế chỉ có cách tiến hành công nghiệp hoá

- hiện đại hoá mới làm được điều đó. Ngày nay lực lượng sản xuất phát triển như

vũ bão, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do đó mà các

15

nước đang phát triển phải tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá để

xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế

nhiều ngành với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu

dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đảm bảo

đạt tới tiến bộ kinh tế, tiến bộ xã hội; công nghiệp hoá - hiên đại hoá còn để xây

dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại. Như thế có nghĩa là,

công nghiệp hoá không chỉ là sự phát triển công nghiệp mà còn là xây dựng quan

hệ phù hợp giữa công nghiệp và các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện cho các

ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, hưóng tới mục tiêu tiến

bộ xã hội, là con đường tất yếu đối với các nước đang phát triển.

* Phát triển nguồn nhân lực - yếu tố quan trọng đảm bảo thành công của

quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá

“Công nghiệp hoá - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện

các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng

lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng

với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát

triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã

hội cao".

Như vậy, có thể nói, về thực chất công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá

trình cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong

toàn bộ nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đó

không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỉ trọng của sản

xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ

cấu, gắn liền với việc đổi mới công nghệ một cách thường xuyên, tạo nền tảng

16

cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc

dân. Công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá, kết hợp với

những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra

ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động với tranh thủ những cơ hội

đi tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ

phát triển của khoa học và công nghệ thế giới.

Cũng có thể nói, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một quá trình xây dựng

xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo

phong cách của nền công nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế - xã hội

bền vững, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao

động. Nó không chỉ thể hiện ra ở các chỉ số khoa học - kỹ thuật - công nghệ hay

kinh tế - kỹ thuật mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một

chỉnh thể toàn vẹn (kinh tế - xã hội, vật chất - tinh thần), trên cơ sở giữ gìn và

phát huy bản sắc dân tộc, vì tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện.

Nói một cách khái quát, công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong thời đại ngày

nay là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình

độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khoa học và công nghệ hiện

đại, tiên tiến, ở nền kinh tế phát triển cao, xã hội được tổ chức khoa học và hợp

lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con

người, ở sự giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.

Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài

môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực

con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lý và

nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng

17

tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động và

vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không

giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.

Để xem xét vai trò của nguồn lực con người đối với công nghiệp hoá -

hiện đại hóa cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức

độ chi phối của nó đến sự thành, bại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng

thời phải đặt công nghiệp hoá trong tình hình này, khi cuộc cách mạng khoa học,

kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng

gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hoá gắn với

hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực luợng sản xuất.

Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa

lý,... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý

nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt

động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư

duy, có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với

nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai

thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con

người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu

thành lực luợng sản xuất, người lao động là một yếu tố quan trọng nhất, là lực

lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.

Như đã biết, muốn công nghiệp hoá phải có vốn và nó chỉ trở thành nguồn

lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay nhưng con

người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên

thiên nhiên và nhưng ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân

18

của nó không có năng lực khai thác. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hoá đời sống

kinh tế, sự hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực phát triển

quan trọng của nhiều nước. Nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có

điểm xuất phát thấp. Nhưng sức mạnh của "cái hích” đó đến đâu, tác động tích

cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn

lực đó. Xét đến cùng, thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì

mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm "nguồn lực” cũng không

còn lý do để tồn tại.

Hơn nữa, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể khai thác cạn kiệt, trong

khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, lại là nguồn lực vô tận. Tính

vô tận của trí tụê con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh

và tự sản sinh về mặt sinh học, mà con tự đổi mới không ngừng, phát triển về

chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó

là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát

triển như một quá trình vô tận, xét trên bình diện cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy,

con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài

nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có

sẵn trong tự nhiên.Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người

bằng trí tuệ và lao động của mình đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản

xuất mới nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không

ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá,

đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói

lên tính vô tận của trí tuệ con người. Đúng là, "Tri thức có tính chất lấy không

bao giờ hết” [24, tr.41].

Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đã được vật thể

hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và

19

đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa

học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công

nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Ở những nước này, lao

động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động

chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá tri sản lượng quốc gia, vi như ở Nhật Bản, riêng

nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40%. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ

đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước”

hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng

những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra

mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử

phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ ở vị

trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã từng có trong lịch sử.

Chính kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho

thấy, sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào

việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ

thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ không đạt được kết quả tốt nếu không lựa chọn

được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp

với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực

khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên và được tài trợ lớn

từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong việc công nghiệp hoá. Điều này

một lần nữa nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người - chủ thể trực

tiếp, hiện thực của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động

được định hướng bởi trí tuệ đó đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực

quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng

20

tăng lên khi trí tuệ hoá lao động đang trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy, trong

chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm,

quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính

bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ

liệu xác thực cho nhận thức về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong

quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Sự thành công của những nước này do

nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân mang tính đặc trưng đó

là họ đã sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu

tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao

động, đặc biệt là các yếu tố văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về

giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo

cho sự thắng lợi của công nghiệp hoá. Chẳng hạn để chuẩn bị cho công nghiệp

hoá Hàn Quốc đã có kế hoạch “trí tuệ hoá” toàn dân. Nhờ vậy ngay từ năm 1960

họ đã đạt được 100% lao động có trình độ văn hoá cấp I, đến năm 1990 thì 94%

người lao động đã tốt nghiệp cấp II và năm 1980 họ đã tới mặt bằng học vấn là

8,0 lớp. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm tới 20% tổng chi phí ngân sách nhà

nước [4. tr.58] hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản

phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần. Có

thể nói rằng, nền kinh tế của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ

vào sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây

dựng và sử dụng nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông Á là

những bài học bổ ích, rất đáng để cho các nước chuẩn bị bước vào công nghiệp

hoá, hiện đại hoá tham khảo.

Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực khi

người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những

21

yêu cầu mà quá trính công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi.

Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì “tất cả

cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”

tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ phản ánh qua trình độ học vấn và tài

năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở tài năng áp dụng những thành tựu khoa học để

sáng chế ra những kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, ở sự nhạy bén thích ứng nhanh

và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại có kỹ năng lao động nghề

nghiệp có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực

hiện biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, cơ

chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng lực này,

ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì đó là

phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp,

là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của con ngưòi.

Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người

lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là

phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri

thức thành sức mạnh vật chất. Nó bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ thể mà còn cả

sức khoẻ tinh thần, đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của

niềm tin và ý chí, là khả năng vận động trí lực... điều này càng có ý nghĩa quan

trọng khi lao động trí tuệ ngày một chiếm ưu thế.

Sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm

chất như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo

dưỡng thiết bị máy móc, có tinh thần hợp tác và tác và phong lao động công

nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với sản phẩm... Nghĩa

22

là người lao động phải có văn hoá lao động công nghiệp.

Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá còn đụng chạm đến

các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên mà chỉ có thể

giải quyết được nhờ trình độ cao của văn hoá sinh thái. Đây là vấn đề cấp bách,

sống còn không chỉ đối với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh công

nghiệp. Con người vốn có cội nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên

nhiên trong sự tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm

cao trước vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề cấp bách, sống còn không chỉ với

mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Con người vốn có cội

nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên nhiên trong sự tồn tại và phát

triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường

sinh thái cũng là một năng lực phẩm chất quan trọng của người lao động trong

quá trình tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nó biểu hiện ở chỗ người ta

cần đánh giá đúng những hậu quả do sản xuất công nghiệp gây ra mà các nước đi

trước đã trải qua như huỷ hoại nguồn nước, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn

kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên... dẫn đến mất cân bằng sinh thái, làm nguy hại

đến cuộc sống con người và sự phát triển lâu bền của đất nước. Ngoài ra cũng

cần thấy rằng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá khó có thể đạt được kết

quả tốt nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và

sáng tạo, có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao,

không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu, biết kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống và

hiện đại, sống khoan dung và tôn trọng sự đa dạng, khác biệt.

1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp

hoá - hiện đại hoá

1.2.1. Vị trí của đội ngũ công nhân kỹ thuật trong việc phát triển nguồn

23

nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá

Nguồn lao động nói chung, lao động qua đào tạo nghề nói riêng vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trình

độ, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và sự thay đổi cơ cấu kinh tế là yếu tố quan

trọng đòi hỏi tăng cường chất lượng và cơ cấu lao động. Tốc độ tăng trưởng kinh

tế nhanh cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật đòi hỏi ngày càng nhiều lao

động kỹ thuật. Mặt khác sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng tạo ra nhu cầu

chuyển đổi cơ cấu lao động theo các nghành nghề khác nhau đòi hỏi gia tăng quy

mô đào tạo mới, đào tạo lại và đào tạo nâng cao trình độ. Nền kinh tế càng phát

triển thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư nhằm thoả mãn nhu cầu kinh

tế - xã hội, đặc biệt là nhu cầu đào tạo nghề. Đồng thời bản thân quá trình phát

triển và phát triển ở trình độ nâng cao thì càng đòi hỏi không ngừng nâng cao

chất lượng nguồn lao động, trong đó có chất lượng qua đào tạo nghề.

Đại hội VIII của Đảng đã xác định đến khoảng năm 2020, nước ta về cơ

bản trở thành nước công nghiệp. Do đó thời kỳ 2001 - 2010 có ý nghĩa rất quan

trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mục tiêu của thời kỳ này là

phấn đấu tăng trưởng cao nhưng bền vững, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa

so với các nước trong khu vực, thực hiện đổi mới về cơ bản cơ cấu nền kinh tế

theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chính cuộc cách mạng khoa học

công nghệ đưa thế giớí chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông

tin. Trong kỷ nguyên thông tin và nền kinh tế tri thức các ngành sản xuất dịch vụ

chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ (2/3 giá trị là do khoa học và công nghệ

đem lại). Cách mạng khoa học công nghệ làm cho nhiều ngành nghề cũ, truyền

thống mất đi và cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới, cơ cấu ngành nghề và tỷ

trọng trong các lĩnh vực cũng thay đổi nhanh chóng. Trong nền kinh tế tri thức tỷ

trọng lao động trực tiếp giảm mạnh, lao động gián tiếp và dịch vụ tăng nhanh

24

xuất hiện và gia tăng nhanh chóng công nhân trí thức. Vì vậy, đào tạo công nhân

kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của giáo

dục nghề nghiệp. Lúc này, đòi hỏi người lao động không chỉ có kỹ năng nghề

nghiệp ở trình độ cao mà phải có nhiều kỹ năng khác nhau. Từ đó vấn đề bức

xúc đặt ra là phải đổi mới đào tạo nghề nghiệp từ đào tạo để tạo lập và phát triển

kỹ năng nghề nghiệp truyền thống sang cập nhật các kỹ năng mới, nhất là kỹ

năng sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ năng giải quyết và xử lý những

vấn đề sự cố phát sinh của máy móc thiết bị công nghệ cao, kỹ năng làm việc

theo nhóm, làm việc trong môi trường đa văn hoá. Có thể nói rằng giáo dục trong

đó có đào tạo nghề là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, phát triển

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Việt Nam là nước đang

phát triển ở trình độ thấp nhưng yếu tố khoa học công nghệ đang tác động mạnh

đến đào tạo công nhân kỹ thuật nhất là khi chúng ta phát triển các ngành kinh tế

quốc dân mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế

xuất và công nghệ cao, sản xuất các mặt hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu Việt

Nam không tập trung vào đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật sẽ dẫn đế hậu quả

nghiêm trọng là không đảm bảo nhu cầu cung cấp công nhân kỹ thuật cho nền

kinh tế quốc dân

Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập chúng ta phải ứng dụng có hiệu

quả công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở một số ngành và

lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân để tạo bước nhảy vọt về

công nghệ, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm chủ lực nhất là

công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, công nghệ vật liệu mới, công nghệ

sinh học... trên cơ sở hình thành các khu công nghệ cao vì thế mà nhu cầu đào

tạo cho ứng dụng các công nghệ nhập khẩu và cung cấp cho các khu công nghệ

cao sẽ ngày càng tăng đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và đào tạo đội ngũ công nhân

25

kỹ thuật tương ứng.

Xuất khẩu lao động và chuyên gia cũng là hướng mũi nhọn để tạo việc

làm và thạm gia vào thị trường lao động quốc tế và khu vực của Việt Nam hiện

nay. Tuy nhiên xu hướng xuất khẩu lao động chủ yếu là lao động có nghề và

chuyên môn trình độ cao. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, cạnh tranh trên thị

trường lao động là rất trực tiếp và quyết liệt. Bởi vậy, để chẩn bị nguồn cho xuất

khẩu lao động chỉ còn cách đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng yêu cầu

của thị trường tiếp nhận lao động nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,

Malayxia. Trung Đông...

Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nêu rõ: phát triển kinh tế,

công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Vấn đề quan trọng nhất

trong nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ

cấu đầu tư, cùng với nó là chuyển dịch cơ cấu lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện trong toàn bộ nền

kinh tế quốc dân, theo ngành lớn (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; công

nghiệp và dịch vụ) và hình thành các vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế động

lực) dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, nhu

cầu đời sống nhân dân và quốc phòng an ninh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tác động đến phát triển đội ngũ công nhân

kỹ thuật: Khi cơ cấu kinh tế chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá và áp dụng

công nghệ hiện đại, công nghệ cao làm thay đổi cơ cấu giá trị các ngành trong

GDP. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã xác định đến năm 2010 tỉ trọng

GDP của nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp - xây dựng là 40-41%, dịch vụ

42-43%. Tương ứng cơ cấu lao động là 50% - 23% - 27% và tỉ lệ qua đào tạo đạt

40% trong đó đào tạo nghề là 26%. Sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế

đến cơ cấu lao động và đào tạo công nhân kỹ thuật là sự tác động và ràng buộc

26

lẫn nhau trong tổng thể kinh tế vĩ mô không thể tách rời, vừa là điều kiện, vừa là

tiền đề của nhau. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là chuyển từ nền kinh tế truyền thống ở trình

độ thấp, dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế hiện đại, trình độ cao,

phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Khi ấy những ngành nghề truyền thống

không phù hợp sẽ dần mất đi đồng thời xuất hiện nhiều ngành nghề mới đã tác

động mạnh đến đào tạo công nhân kỹ thuật cho phù hợp. Số lao động đã được

đào tạo theo ngành nghề cũ cần được đào tạo lại, đào tạo bổ sung kỹ năng theo

yêu cầu của ngành nghề mới. Số công nhân mới tham gia đào tạo sẽ được tiếp

cận ngay với ngành nghề mới mà thực tế lao động sản xuất đã xuất hiện và đang

phát triển. Ví dụ như trong nông nghiệp xuất hiện nghề mới chủ yếu áp dụng

công nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công nghiệp, thú y, kiểm tra

chất lượng sản phẩm... đặc biệt là công nghệ sinh học đưa giống mới, cây trồng

vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất kinh doanh; trong công nghiệp xuất

hiện ngành nghề liên quan đến sử dụng công nghệ thông tin, phần mềm máy vi

tính, công nghệ chế biến nông sản, thuỷ sản, gia công may mặc, da giầy, lắp ráp

máy móc sử chữa thiết bị hiện đại, công nghệ vật liệu mới...

Như vậy đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành nhiệm vụ ngày càng quan

trọng đòi hỏi phải đổi mới một cách căn bản toàn diện hệ thống đào tạo kỹ thuật

thực hành đáp ứng được yêu cầu của thực tế và cập nhật công nghệ mới luôn

luôn thay đổi.

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập

trung bao cấp trước đây sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa. Quá trình này tác động mạnh đến việc phát triển công nhân kỹ thuật

trên nhiều mặt. Người lao động sẽ có nhiều cơ hội lao động việc làm và thắng

27

trong cạnh tranh là người có năng lực nghề nghiệp và phẩm chất vượt trội phù

hợp với yêu cầu công việc mà người sử dụng đang cần. Cơ chế cạnh tranh của

thị trường lao động sẽ tạo ra động lực khuyến khích người lao động học tập suốt

đời không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt: sức khoẻ, tri thức, tay nghề, tác

phong công nghiệp, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp... Có thể nói cơ chế thị

trường đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật chất lượng cao. Đây là nhu

cầu khách quan và không ngừng phát triển.

Như vậy, trong khi nhu cầu thị trường đang rất cần đội ngũ công nhân kỹ

thuật, chuyên gia thực hành có tay nghề cao thì quá trình đào tạo lại chưa thể đáp

ứng yêu cầu đó. Hơn nữa, hiện tượng phổ biến hiện nay là phần lớn học sinh tốt

nghiệp phổ thông lại có nguyện vọng thi vào các trường Đại học, không muốn

học nghề. Ngay cả cơ cấu đào tạo trong trường đại học cũng thiếu cân đối. Đa số

học sinh muốn đăng ký học những ngành nghề có thu nhập cao, dễ tìm được việc

làm, ít ham thích học các trường thuộc khối ngành khoa học cơ bản, khoa học kỹ

thuật mặc dù những ngành này có vai trò quan trọng trong quốc kế dân sinh. Số

liệu điều tra những năm gần đây cho thấy, số lượng sinh viên ngành văn hoá

nghệ thuật chiếm 1,3%; nông lâm ngư nghiệp chiếm 3,13%; khoa học chiếm

15,5%; khoa học công nghệ và kỹ thuật 15,2%, khoa học xã hội chiếm 42,78%

trong tổng số sinh viên đang học tại các trường cao đẳng, đại học trong cả nước.

Do đó tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao đẳng, đại học sau 6 tháng ra trường không tìm

được việc làm chiếm 27,53%, số làm đúng nghề đào tạo chỉ gần 30% (Điều tra

việc làm sinh viên tốt nghiệp 51 trường Đại học và Cao đẳng, 1999). Trong khi

đó hệ thống đào tạo nghề mới được phục hồi, tỉ lệ đào tạo vẫn còn thấp, tình

trạng thiếu lao động kỹ thuật trình độ cao còn khá lớn, đặc biệt là một số ngành

nghề kinh tế mũi nhọn.

Tâm lý chung của các em học sinh phổ thông là không muốn thi vào

28

trường nghề, dẫn tới tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” càng trở nên phổ biến hiện

nay. Trong lúc sinh viên đại học ra trường khó hoặc thậm chí không thể tìm được

việc làm thì các cơ sở kinh tế, sản xuất và dịch vụ, các doanh nghiệp đưa người

lao động đi làm việc ở nước ngoài lại không tuyển dụng được lao động kỹ thuật

theo yêu cầu của đối tác nước ngoài. Các trường đào tạo về khoa học cơ bản,

khoa học kỹ thuật là những ngành nghề thiết yếu lại chưa được chú trọng đúng

mức.

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vào khoảng 7%, mức GDP gấp 2

lần hiện nay và nhịp độ quy mô đào tạo như hiện nay thì nhu cầu đào tạo nghề

hàng năm khoảng 1,1 triệu người. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu ở

giai đoạn 3 từ thủ công lên cơ khí hoá (với cơ cấu lao động đại học/trung học

chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật bán lành nghề/lao động thủ công là

1/4/20/60/15) như nước ta hiện nay thì số lao động đã qua đào tạo phải đạt

khoảng 85% tổng số lao động đang làm việc, trong đó số đào tạo từ lành nghề trở

lên là 70% mới thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá được trong

khi đó cơ cấu lao động có trình độ đại học, cao đẳng/công nhân kỹ thuật tính

chung của nước ta năm 2002 là 1/1,33/4,17 [27, tr.136].

Tóm lại, đội ngũ công nhân kỹ thuật được đào tạo trong các trường dạy

nghề đã và đang có tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế của quốc gia và có

vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện phát triển mạnh

mẽ của nền kinh tế thị trường và sự mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài trong

xu thế toàn cầu hoá, vấn đề nâng cao chất lượng của lực lượng lao động công

nhân kỹ thuật càng trở nên cấp thiết để đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động

với tính cạnh tranh mạnh mẽ. Chính trình độ nghề của đội ngũ công nhân kỹ

thuật sẽ quyết định trực tiếp tới chất lượng sản phẩm làm ra ngay cả khi đã tiến

29

hành sản xuất- dịch vụ theo công nghệ hiện đại. Trái tim - khối óc - bàn tay

người thợ lành nghề là sự đảm bảo bền vững, chắc chắn nhất cho các sản phẩm

phục vụ đời sống con người.

1.2.2. Vai trò của hệ thống các trường dạy nghề trong đào tạo công

nhân kỹ thuật

Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, giáo dục -

đào tạo luôn chiếm vị trí quan trọng. Ngày nay, chắc chắn không một quốc gia

nào trên thế giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của giáo dục -

đào tạo đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực tiễn lịch sử đã

chứng minh rằng một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến

bộ vượt bậc cho mỗi quốc gia là giáo dục - đào tạo. Cùng với sự đóng góp lớn

lao đó, giáo dục - đào tạo đã tham gia trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong

chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nó là cái không thể thiếu được để nâng

cao trình độ văn hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, xử lý công

nghệ, tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong

xã hội hiện đại, trình độ và năng lực của người lao động đã trở thành nhân tố

quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho xã hội phát triển bền vững.

Không đâu xa, ngay bên cạnh chúng ta, Nhật Bản - một đất nước không

giàu tài nguyên, bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã trở thành cường quốc kinh tế

thứ hai trên thế giới. Người ta nhất trí với nhau rằng, trong những nguyên nhân

chính làm nên "sự thần kỳ Nhật Bản" suốt mấy chục năm qua có nguyên nhân là

nhờ vào giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực và sử dụng chúng một cách hợp lý.

Sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore cũng đã trở thành những “con

rồng Châu Á” và đang là những nền kinh tế năng động có năng lực cao trong thế

kỷ 21. Lý giải những nguyên nhân dẫn đến thành công của những xứ sở này,

30

người ta cho rằng đó là do nguồn nhân lực được giáo dục thường xuyên, liên tục

cũng như được khai thác sử dụng một cách hợp lý. Thực tiễn ở các nước trên thế

giới đã chứng minh vai trò cực kỳ to lớn của giáo dục - đào tạo đối với việc phát

triển nguồn nhân lực.

Ở nước ta, sau hơn gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Những thành tựu to lớn ấy đã cho

phép chúng ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn là đẩy nhanh

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định, để nhanh chóng

đưa sự nghiệp đó đến thắng lợi, chúng ta nhất thiết phải phát triển mạnh giáo dục

đào tạo, phát huy nguồn lực con người với tư cách là yếu tố cơ bản của sự phát

triển nhanh và bền vững. Điều đó cho thấy, trong quan điểm của Đảng ta, phát

triển mạnh giáo dục đào tạo trong đó có dạy nghề là yếu tố không thể thiếu được,

tham gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định để phát huy nguồn nhân

lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để việc dạy nghề thực sự đạt hiệu quả chúng ta không thể không kể đến

vai trò của các trường dạy nghề. Trường dạy nghề là sản phẩm của cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ nhất từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Dưới tác

động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hệ thống các trường dạy nghề ở

các nước đã và đang phát triển mạnh mẽ với nhiều loại hình đa dạng nhằm đáp

ứng nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật cho quá trình phát triển kinh tế các quốc

gia. Hệ thống các trường dạy nghề đã thực sự trở thành một bộ phận cấu thành

hệ thống giáo dục quốc dân của các nước với vai trò, vị trí, quy mô ngày càng

tăng và đặt ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý ở mức vĩ mô và vi mô.

Chiến lược phát triển của một quốc gia một mặt đặt ra những yêu cầu và

31

cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của nền giáo dục nói chung và nhà trường

nói riêng. Chính quá trình phát triển nhà trường đã tạo điều kiện và cơ hội thành

công cho chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Tính chất Quốc tế - Quốc gia -

Dân tộc trở thành một đặc trưng đậm nét của mô hình phát triển của nhà trường

nói chung và trường nghề nói riêng.

Việt Nam đang đứng trước những thách đố gay gắt của tương lai. Xã hội

Việt Nam đang chuyển mình trong sự giao thoa, vừa có cộng hưởng vừa có va

đập giữa các làn sóng Văn minh nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp.

Mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai không chỉ biểu hiện trong những

nét hài hoà, thích ứng mà còn bộc lộ trong cả những xung đột, mâu thuẫn trong

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và từng cá nhân như lối sống, cách nghĩ,

cách làm, nhu cầu tiêu dùng, giải trí... Để chuẩn bị hành trang cần thiết cho từng

cá nhân và cả cộng đồng góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam văn minh,

hiện đại, có khả năng thích ứng với nhịp sống của xã hội đang trên con đường

công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì cần xây dựng được mô hình phát triển nhà

trường dạy nghề Việt Nam hiện đại nhằm đào tạo lớp người có văn hoá, trí tuệ

phát triển, có sức khoẻ tốt, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp và giàu giá trị

nhân phẩm, đào tạo lao động kỹ thuật với nhiều trình độ khác nhau để đáp ứng

nhu cầu đa dạng về nhân lực của nền sản xuất xã hội. Bởi vì:

Ngành dạy nghề là một bộ phận của hệ thống kinh tế - xã hội, có chức

năng đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất ra của của vật chất cho xã hội. Ở

giai đoạn cơ khí hoá, tỷ lệ cơ cấu lực lượng lao động hợp lý mà các nước tiên

tiến đã áp dụng trong lĩnh vực công nghiệp là 1/4/60/20/15. Dạy nghề có thể

được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau song nếu đuợc đào tạo tại các

trường dạy nghề người học sẽ được đào tạo một cách chi tiết, đầu đủ và nghiêm

túc nhằm đảm bảo cho người học sau khi ra trường: Có được các kiến thức, kỹ

32

năng, kỹ xảo chuyên môn nghề nghiệp ở trình độ chuyên môn nhất định để có

thể làm việc theo nghề đó sau khi tốt nghiệp, đồng thời có thể giáo dục cho họ

những phẩm chất nghề nghiệp như lòng yêu nghề, đạo đức nghề nghiệp, ý thức

tổ chức, kỷ luật trong lao động sản xuất. Đó chính là phẩm chất, năng lực tạo nên

nhân cách người lao động mới. Qua dạy nghề người học còn nắm được các kiến

thức và cơ sở khoa học của nền sản xuất nói chung, có được kỹ năng, kỹ xảo sản

xuất, biết sử dụng các thiết bị sản xuất, các công cụ lao động điển hình, đơn giản,

phổ biến nhất để có thể tự chọn nghề và đổi nghề trong tương lai.

Qua dạy nghề người học có thể trở thành người lao động trực tiếp ở một

lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, được làm quen với các nguyên vật liệu, các thiết bị,

các thiết bị và các kỹ năng nghề nghiệp mới, cho phép họ có khả năng thích ứng

nhanh với mọi thay đổi mới của nền sản xuất hiện đại. Đội ngũ này với nghề

nghiệp chuyên môn thành thạo, có lòng yêu nghề, đạo đức nghề nghiệp sẽ góp

phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Để có thể làm việc dưới một chuyên môn nhất định, người học phải biết

được đối tượng lao động và công cụ lao động nghề mà mình đang học. Vì vậy,

nghề có đặc trưng là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, thời gian học lý

thuyết bao giờ cũng ít hơn thời gian học thực hành. Ví dụ: Tuyển sinh tốt nghiệp

Trung học cơ sở vào học nghề tiện, thời gian 3 năm, tay nghề khi tốt nghiệp là

bậc 3/7 thì học lý thuyết là 1.500 giờ, thực hành là 3.360 giờ, hay với những

nghề đòi hỏi các thành phẩm trí tuệ nhiều hơn như thợ sửa chữa các loại thì thời

gian thực hành sản xuất khoảng 60%. Như vậy, qua dạy nghề người học được

thực hành theo mỗi chuyên môn nhất định, có kỹ năng, kỹ xảo để chuẩn bị quá

trình sản xuất (hiểu nhiệm vụ, chuẩn bị vật liệu, phương tiện kỹ thuật, quy trình

33

công nghệ, các thao tác lao động).

Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc áp dụng các quy trình

công nghệ tiên tiến và sử dụng các phương tiện sản xuất hiện đại làm thay đổi

nội dung và tính chất lao động của người công nhân. Khi vận hành các phương

tiện sản xuất tự động hoặc sửa chữa các thiết bị hiện đại, phức tạp, người công

nhân phải tiến hành các thao tác tư duy kỹ thuật nhiều hơn là thao tác chân tay.

Ví dụ: khi sử dụng một máy tiện tự động thì hầu hết các thao tác trước đây của

người công nhân đều đã được tự động hoá theo chương trình. Nhiệm vụ còn lại

của người công nhân là điều khiển, quan sát và tập trung chú ý để theo dõi sự

hoạt động của máy tiện một cách liên tục, thường xuyên, khi có sự cố thì phán

đoán, nhanh chóng tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Các thiết bị hiện

đại đều kết hợp nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật như cơ khí, điện, điện tử, thậm

chí cả thuỷ lực, khí nén... Do vậy, để sửa chữa được những thiết bị này người

công nhân cần được trang bị một số kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau ở

mức độ cần thiết. Mặt khác họ phải rèn luyện khả năng tư duy kỹ thuật thành

thạo thì mới hoàn thành tốt được công việc. Đây là đội ngũ công nhân kỹ thuật

quan trọng, là đội quân tinh nhuệ trong nền sản xuất xã hội. Vì thế, đào tạo

những công nhân lành nghề để sau khi tốt nghiệp với khả năng sử dụng được

những công cụ ấy sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta.

Như vậy, trường dạy nghề có vai trò quyết định đến chất lượng đối với

việc đào tạo ra đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề, có trình độ, có kỹ năng,

có phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh để góp phần đảm bảo sự thành

công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống đào

34

tạo công nhân kỹ thuật

Các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng sự phát triển kinh tế bền vững phụ thuộc

chặt chẽ vào việc phát triển nguồn nhân lực. Nói cách khác, sự phát triển nguồn

nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Chính vì vậy mà các nước phát triển và các nước có tốc độ phát triển cao như các

nước NICs, Trung Quốc... đã có sự đầu tư rất lớn vào vấn đề đào tạo phát triển

nguồn nhân lực. Tuy nhiên việc đầu tư như thế nào, quản lý các hoạt động đào

tạo ra sao... sẽ ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực,

cũng như sự phát triển kinh tế. Điều này nó thể hiện ở chỗ đầu tư cho nguồn

nhân lực phải căn cứ vào nhu cầu thực tế và định hướng phát triển lâu dài của

nền kinh tế, chứ không phải áp đặt, duy ý chí.

Trong nền kinh tế thị trường, nếu thị trường lao động hoạt động một cách

hoàn hảo thì chính những quy luật tương tác trên thị trường sẽ định hướng tối ưu

cho việc đầu tư các nguồn lực của nền kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Khi thị

trường lao động hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai lệch thì Nhà nước sẽ phải

đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Kinh

nghiệm cho thấy, các nước có sự thành công trong lĩnh vực phát triển nguồn

nhân lực đều có sự đóng góp rất lớn của nhà nước.

Tuỳ theo đặc trưng của từng quốc gia mà hệ thống đào tạo có sự khác biệt.

Một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng hình thức giáo dục đào tạo tuần tự từ

giáo dục phổ thông đến đào tạo chuyên môn. Trong khi đó, một số nước khác lại

đưa vấn đề đào tạo nghề vào ngay bậc trung học hoặc áp dụng cả hai hình thức

này.

1. INDONEXIA

Trước cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997 Indonexia là một nước

35

có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Nhà nước đã có đầu tư thích đáng cho

giáo dục- đào tạo và đặc biệt đã có sự cải cách mạnh mẽ chương trình đào tạo

cho phù hợp với yêu cầu về khoa học kỹ thuật tiên tiến. Việc đưa giáo dục nghề

nghiệp vào bậc trung học, bên cạnh đó vẫn áp dụng hệ thống trung học phổ

thông đã tạo nên định hướng nghề sớm cho học sinh. Những học sinh theo học

trung học phổ thông khi tốt nghiệp đã có một trình độ tay nghề nhất định, có thể

tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những học sinh theo học trung

học phổ thông có định hướng vào các trường cao dẳng, đại học, trong đó những

ngành khoa học kỹ thuật cũng được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên cũng như

nhiều nước khác, ở Indonexia, số học sinh theo học trung học trung học phổ

thông vẫn chiếm đa số (2/3 số học sinh trung học). Sở dĩ có điều này là do có

khả năng chuyển tiếp lên bậc đại học, do uy tín và hấp dẫn của việc làm, nhất là

trong lĩnh vực dịch vụ thương mại đòi hỏi một quá trình đào tạo phổ thông rất cơ

bản. Mặt khác thường các xí nghiệp thích nhận những học sinh đã tốt nghiệp

trung học phổ thông sau đó đi học nghề hơn.

Trong thực tế, chất lượng giáo dục kỹ thuật phụ thuộc vào các môn học

thuộc chương trình giảng dạy có phù hợp với việc chuyên môn hoá sản xuất của

vùng có trường này. Ở những nơi có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và xí

nghiệp trong vấn đề giảng dạy, thực tập thì chất lượng đào tạo rất cao. Đây cũng

là một định hướng mà các nhà chức trách Indonexia đang quan tâm.

Một đặc điểm lớn ảnh hưởng đến vấn đề đào tạo nghề là đầu tư của nhà

nước còn hạn chế. Khu vực tư nhân hầu như đảm trách phần lớn các hoạt động

đào tạo nghề. Khu vực tư nhân hầu như nhận toàn bộ số học sinh đến xin học,

trong khi đó khu vực nhà nước bình quân chỉ nhận khoảng 50% số người đến xin

học. Do qui chế tuyển sinh của khu vực nhà nước chặt chẽ hơn, và chương trình

36

đào tạo qui củ hơn nên chất lượng đào tạo thuộc khu vực nhà nước cao hơn.

Ngoài hoạt động đào tạo nghề ở bậc trung học, các hình thức đào tạo nghề

khác còn chưa phát triển và không được quản lý một cách chặt chẽ, có hệ thống.

Những cơ sở đào tạo nghề chủ yếu thuộc khu vực phi chính thức. Chính vì vậy

mà nhà nước rất khó quản lý chất lượng đào tạo của các cơ sở này.

Để giảm bớt sự khác biệt giữa đào tạo với thực tiễn, Chính phủ đã quan

tâm đến việc đào tạo nghề tại các xí nghiệp. Hình thức này chủ yếu là vừa học

vừa làm. Nó có ưu điểm là rất thực tế, học và hành được gắn kết một các chặt

chẽ, học sinh dễ tiếp thu và tay nghề được nâng lên nhanh chóng, đáp ứng ngay

yêu cầu của công việc. Tuy vậy đào tạo nghề ở các xí nghiệp thường không có

tính hệ thống mà chủ yếu tập trung vào những kỹ năng, công việc mà xí nghiệp

đang cần. Các xí nghiệp thường áp dụng hình thức đào tạo ngắn hạn, đào tạo một

loại kỹ năng công việc nào đó nên học sinh thường bị phiến diện và hạn chế khả

năng tìm việc làm khi họ muốn chuyển đổi nghề, hay chuyển sang nơi làm khác.

Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề ở Inđônêia còn chưa phát triển, đặc biệt

vấn đề đào tạo nghề đã qua bậc phổ thông trung học còn chưa chính thống, chưa

có sự quản lý một cách chặt chẽ, tuy nhiên việc đưa giáo dục kỹ thuật vào trong

bậc học phổ thông là một cải cách lớn trong vấn đề đào tạo nghề. Nó tạo điều

kiện cho người lao động sớm tham gia vào thị trường lao động với một tay nghề

nhất định và có định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh.

2. THÁI LAN

Bắt đầu từ những năm 1950, Thái Lan đã tiến hành cải cách nền kinh tế,

đưa nền kinh tế từ lạc hậu và nghèo nàn trở thành một nước công nghiệp có tốc

độ tăng trưởng cao. Về nông nghiệp, Thái Lan chuyển đổi cơ cấu từ việc chỉ

trồng một số loại cây công nghiệp xuất khẩu sang ưu tiên hàng đầu cho cây

37

lương thực, đồng thời vẫn tập trung vào một số loại cây có giá trị xuất khẩu như

mía, hoa quả nhiệt đới. Về công nghiệp, tập trung phát triển hai nhóm ngành chủ

yếu: công nghiệp chế biến làm tăng giá trị hàng nông sản và khai khoáng và

Công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng tiêu dùng như may mặc,

giày, da... Trong thời gian này, Chính phủ thực hiện bảo hộ quá mức nền sản

xuất trong nước nên đã làm cho nền sản xuất công nghiệp chững lại vào cuối

những năm 1960, đầu những năm 1970. Ngay sau đó, Chính phủ đã áp dụng

chính sách sản xuất hướng ra xuất khẩu và chuyển dịch sang các ngành công

nghiệp có công nghệ cao vào cuối những năm 1980, đầu những năm1990.

Các chính sách cải cách kinh tế đã tạo cho Thái Lan trở thành một nước

công nghiệp phát triển nhanh ở Đông Nam Á. Đã bắt đầu xuất hiện vấn đề cần

giải quyết, đó là công nhân phải thích ứng với thị trường lao dộng, hay nói khác

đi là đã bắt đầu xảy ra hiện tượng thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao để đáp

nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề giáo dục - đào tạo trở

nên căng thẳng, đặc biệt là đào tạo nghề. Một đặc điểm hệ thống giáo dục khá

giống Việt Nam đó là tỉ lệ học sinh, sinh viên trong các ngành sư phạm, văn học,

luật, và các ngành xã hội khác chiếm tỉ lệ cao. Văn học và sư phạm tập hợp 2/3

số sinh viên; luật 24%. Trong khi đó các ngành như nông học, chế tạo hay các

ngành kỹ thuật khác lại rất ít học sinh đến học, chỉ chiếm từ 2-3% số học sinh.

Điều này đã làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt các kỹ sư và kỹ thuật viên

mà lại thừa các cử nhân văn chương, cử nhân luật.

Để khắc phục tình trạng này, chính sách giáo dục hiện nay nhằm củng cố

các mặt công tác đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề thông qua lựa chọn và ưu tiên

cho việc giảng dạy “kỹ năng trình độ” nhằm làm cho học sinh cảm nhận được

tầm quan trọng của công tác đào tạo kỹ thuật, và đào tạo khoa học. Bên cạnh đó

việc nâng cao giá trị, bằng kỹ thuật và chuyên nghiệp vào cuối bậc trung học

38

cũng được khuyến khích.

Cũng như ở Indoneia, Thái Lan áp dụng hình thức đào tạo nghề, kỹ thuật

ngay trong bậc trung học. Chương trình giảng dạy cũng được sửa đổi, các môn

học kỹ thuật được đưa vào cả trong chương trình trung học phổ thông. Do có sự

cải cách hợp lý mà tỷ lệ học sinh trung học kỹ thuật tăng lên và đồng thời sự mất

cân đối giữa sinh viên sư phạm, văn chương, luật,... với các ngành khoa học, kỹ

thuật được cải thiện.

Khu vực tư nhân đóng vai trò rất nhỏ trong vấn đề giáo dục - đào tạo nói

chung, đào tạo nghề nói riêng. Hệ thống đào tạo nghề và đào tạo chuyên nghiệp

nằm trong hệ thống quản lý của nhà nước ngay từ bậc trung học. Các cơ sở đào

tạo nghề tư nhân không phát triển hay nói cách khác, vấn đề đào tạo và đào tạo

nghề đã bị khu vực tư nhân bỏ qua.

Đối với người sử dụng lao động, nhà nước chưa có chính sách khuyến

khích, bắt buộc họ tham gia vào quá trình đào tạo. Sự kết hợp giữa đào tạo và

thực hành tại các xí nghiệp còn lỏng lẻo nên đã hạn chế chất lượng đào tạo nghề.

Với 19% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã không đủ để nâng cấp hệ thống

đào tạo quốc gia. Sự khủng hoảng tài chính hiện nay càng làm tăng áp lực đối

với ngân sách nhà nước cho giáo dục (ngược lại với Thái Lan, Malaixia lại rất

thành công trong việc kết hợp giữa giáo dục- đào tạo của Nhà nước với các

doanh nghiệp. Nhà nước bắt buộc người sử dụng phải khi tuyển lao động phải

đóng một khoản phí đào tạo. Khoản phí này sẽ được sử dụng để đầu tư cho giáo

dục. Điều này đã làm giảm áp lực đối với ngân sách Nhà nước và gắn trách

nhiệm đào tạo lên người sử dụng lao động. Hơn nữa, trong quá trình đào tạo sự

liên kết giữa các cơ sở đào tạo với các xí nghiệp trong vùng được thực hiện rất

39

chặt chẽ).

Như chúng ta đã đề cập ở trên, hệ thống giáo dục - đào tạo do Nhà nước

nắm giữ nên có sự thống nhất trên toàn quốc về chương ttrình giảng dạy và các

tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống bằng cấp, chứng chỉ được quản lý thống nhất.

Quy chế đào tạo của Thái Lan còn cho phép một học sinh có thể đồng thời theo

học một số chuyên ngành đào tạo khác nhau, làm tăng thêm cơ hội việc làm cho

họ.

Tóm lại, trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Nhà nước Thái Lan đóng vai

trò chủ đạo. Sự tham gia của khu vực tư nhân không đáng kể. Trong những điều

kiện như vậy và lượng vốn đầu tư có hạn của Nhà nước nên vấn đề giáo dục- đào

tạo vẫn chưa được giải quyết triệt để. Sự tham gia của khu vực tư nhân là hoàn

toàn cần thiếtmặc dù cần phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ của Nhà

nước.

3. TRUNG QUỐC

Trung Quốc là một nước có đặc điểm và quá trình phát triển kinh tế khá

giống Việt Nam. Đây là một quốc gia đông dân nhất trên thế giới có đường lối

phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đây nền kinh tế Trung

Quốc là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong suốt thời

kỳ này, nền kinh tế trì trệ, không phát triển và đời sống nhân dân ngày càng khó

khăn.

Nhận thức được tính tất yếu đổi mới kinh tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc

đã tiến hành cuộc cải cách kinh tế trên các mặt theo định hướng thị trường có sự

quản lý của Nhà nước. Bằng việc tập trung các nguồn lực vào một số ngành công

nghiệp mũi nhọn, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất và các đặc khu

kinh tế, công nghiệp Trung Quốc đã có sự phát triển vượt bậc và là động lực thúc

40

đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát triển kinh tế làm nảy sinh ra vấn đề về sự

không phù hợp giữa nhu cầu phát triển kinh tế và nguồn nhân lực. Chính vì vậy,

cùng với sự đổi mới kinh tế, giáo dục và đào tạo đã được quan tâm cải cách cho

phù hợp với yêu cầu thực tế.

Trước quá trình đổi mới, hệ thống quản lý giáo dục và đào tạo là hệ thống

quản lý tập trung. Các trường, các cơ sở đào tạo nghề đều thuộc quản lý nhà

nước và do ngân sách Trung ương chi trả. Vai trò của chính quyền địa phương và

các thành phần kinh tế khác rất mờ nhạt. Đặc điểm nổi bật trong đào tạo nghề

giai đoạn này là các trường, các cơ sở đào tạo nghề thuộc sự quản lý chuyên môn

của các Bộ. Các Bộ đều mở ra các cơ sở đào tạo nghề, thậm chí cả các trường

cao đẳng, đại học cho ngành mình. Song chi phí đào tạo lại lấy từ ngân sách

Trung ương. Chẳng hạn, Bộ Đường sắt mở các trường đại học, cao đẳng và các

cơ sở đào tạo nghề cho ngành mình trên toàn quốc. Bộ quản lý về mặt chuyên

môn, hành chính còn kinh phí đào tạo lấy từ ngân sách Trung ương. Do dàn trải

trên toàn quốc nên có rất nhiều cơ sở đào tạo thuộc một bộ. Trong khi đó có

những ngành nghề không cần có các cơ sở đào tạo riêng, nhất là những ngành có

tính đặc thù không cao. Đây là một sự lãng phí và gây ra sự kém năng động của

thị trường lao động sau này.

Quá trình cải tổ giáo dục và đào tạo bắt đầu từ việc giao nhiệm vụ đào tạo

cho các địa phương. Các địa phương sẽ căn cứ vào nhu cầu thực tế và lấy ngân

sách địa phương chi trả cho hoạt động giáo dục - đào tạo. Nếu ngân sách địa

phương không đủ thì có thể huy động từ các nguồn khác từ cộng đồng. Ở đây có

sự phân cấp khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền trong giáo dục - đào tạo. Bậc

tiểu học thường do cấp xã đảm nhiệm. Xã sẽ lấy nguồn kinh phí từ các khoản thu

thuế và một phần huy động từ nhân dân thông qua sự đóng góp bắt buộc từ phụ

huynh, các tổ chức sản xuất - kinh doanh, các hợp tác xã và các khoản quyên góp

41

khác. Giáo dục phổ thông cơ sở và phổ thông trung học do cấp huyện đảm

nhiệm. Đào tạo nghề và đào tạo chuyên nghiệp do cấp tỉnh thực hiện. Hình thức

đào tạo theo ngành dọc của các bộ, ngành trước đây dần dần bị xoá bỏ. Chính

quyền tỉnh căn cứ vào nhu cầu lao động của địa phương mà mở các khoá đào

tạo, các trường, các cơ sở. Chính quyền trung ương chỉ tập trung đào tạo một số

ngành có tính chung nhất như sư phạm, văn hoá, nghệ thuật,... Những ngành này

nếu để các địa phương thực hiện thì khó đáp ứng được yêu cầu chất lượng đào

tạo và cũng không có hiệu quả.

Tuy có sự phân cấp quản lý khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền, Bộ

Giáo dục vẫn quản lý thống nhất về chương trình giảng dạy; tiêu chuẩn đánh giá

chất lượng; bằng, chứng chỉ cấp cho học sinh. Mặt khác chất lượng đội ngũ giáo

viên được Bộ giáo dục quản lý chặt chẽ. Phần lớn giáo viên cấp đào tạo chuyên

nghiệp và đào tạo nghề hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Chỉ có 40-50% giáo

viên cấp tiểu học hưởng lương do cộng đồng trả, còn lại là hưởng lương từ ngân

sách Trung ương. Đây là một trong những biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên.

Tóm lại, đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo ở Trung Quốc là nhu cầu

khách quan nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sự chuyển đổi từ tập

trung sang phân cấp quản lý cho các địa phương trong sự quản lý về chất lượng

đào tạo của Nhà nước đã giảm được gánh nặng lên ngân sách Nhà nước mà vẫn

đảm bảo chất lượng đào tạo. Việc đào tạo căn cứ vào nhu cầu thực tế làm tăng

hiệu quả công tác đào tạo, tạo sự linh hoạt trên thị trường lao động. Mặt khác nó

cũng làm giảm bớt sự cồng kềnh kém hiệu quả của hệ thống quản lý tập trung.

Tuy nhiên hình thức này cũng nảy sinh sự mất cân đối giữa các vùng.

Những địa phương có tiềm lực kinh tế dồi dào thì giáo dục - đào tạo được đầu tư

nhiều hơn. Ngược lại, những vùng chậm phát triển, nghèo nàn thì đầu tư cho

42

giáo dục- đào tạo rất hạn chế, và chính điều này lại ảnh hưởng tiêu cực đến sự

phát triển kinh tế của vùng. Những vùng này cần có sự trợ giúp của Nhà nước và

sự tham gia của các thành phần kinh tế nhằm giảm bớt sự mất cân đối giữa các

vùng.

4. CÁC NƯỚC CHÂU MỸ LA TINH

Hệ thống đào tạo nghề các nước Châu Mỹ la tinh khá đặc biệt. Ở những

nước này, hệ thống đào tạo nghề hoàn toàn độc lập với hệ thống giáo dục chính

quy của Nhà nước. Kinh phí đào tạo chủ yếu được lấy từ các doanh nghiệp,

nghĩa là doanh nghiệp phải trả một khoản phí đào tạo căn cứ vào số lao động mà

họ sử dụng và mức lương của người lao động. Hệ thống đào tạo này được điều

hành bởi đại diện 3 bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Chính phủ.

Sự điều hành của đại diện 3 bên và kinh phí đào tạo khá ổn định dựa trên

quỹ lương các doanh nghiệp đã tạo nên tính năng động và đản bảo được chất

lượng đào tạo của hệ thống. Nhu cầu của người sử dụng lao động là căn cứ quan

trọng, có tính quyết định cho hệ thống lên kế hoạch đào tạo và thực hiện kế

hoạch này. Do vậy đào tạo được gắn chặt chẽ với việc làm và nhu cầu thực tế

của nền kinh tế. Sự tham gia điều hành của đại diện 3 bên mà không ảnh hưởng

tới hoạt động đào tạo.

Các cơ sở đào tạo nghề cũng được chuyên môn hoá theo các ngành dặc

thù như dệt - may, da - giày, hoá dầu,... Những cơ sở đào tạo chuyên ngành

thường được sự trợ giúp rất lớn về mặt tài chính và trong các hoạt động đào tạo

từ các doanh nghiệp hay hiệp hội các doanh nghiệp thuộc các ngành này.

Như chúng ta đã đề cập ở trên, nguồn kinh phí đào tạo chủ yếu lấy từ các

doanh nghiệp. Hiện nay đã có sự thay đổi trong vấn đề này theo hướng là các

43

bên đều tham gia. Chính phủ các nước đã có sự đầu tư hơn cho hệ thống đào tạo

nghề. Bên cạnh đó có các hình thức đào tạo nghề phải trả tiền đang phát triển

mạnh mẽ. Hình thức này đã chiếm tới gần 2/3 số học viên đào tạo nâng bậc.

Tóm lại, vấn đề đào tạo nghề hiện nay đang được các nước rất quan tâm vì

đây là vấn đề tác động trực tiếp đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, qua đó

có sự ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển bền vững nền kinh tế. Các nước đều

có hệ thống đào tạo nghề riêng của mình, căn cứ vào tính đặc thù của nước đó.

Tuy nhiên chúng ta có thể thấy, vai trò của nhà nước trong các hệ thống này rất

quan trọng. Đây là đòi hỏi khách quan cho sự phát triển bền vững của một quốc

gia.

Đối với Việt Nam, việc lựa chọn hệ thống nào cũng có thể dẫn đến sự cực

đoan hay không hiệu quả. Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của các nước đã áp

dụng trong thực tế. Việc xây dựng hệ thống cho riêng một quốc gia phải căn cứ

vào thực tiễn của nước đó mới có thể xây dựng được hệ thống có hiệu quả.

Như vậy, Việt Nam là một trong những nước đang phát triển nên việc xây

dựng một đất nước có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững là một yêu cầu

cấp thiết. Với đặc điểm của một nước đang phát triển như nước ta hiện nay mà

muốn thực hiện điều đó thì không còn con đường nào khác là tiến hành công

nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm đuổi kịp, đi tắt, đón đầu để phù hợp với

sự phát triển của nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hoá.

Muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công chúng ta phải tiến hành

đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Phải có một nguồn nhân lực chất lượng

cao, hoàn thiện cả về mặt thể lực và trí lực mới có thể đáp ứng sự phát triển như

vũ bão của khoa học công nghệ, của những ngành nghề mới phong phú và đa

dạng, của những thiết bị sản xuất tiên tiến hiện đại... Để đáp ứng yêu cầu trên thì

44

một nhân tố vô cùng quan trọng là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật. Việc đào

tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ bằng con đường giáo dục

nghề nghiệp là vấn đề trung tâm vì đội ngũ này thường chiếm các chỗ làm việc

chủ yếu trong các dây truyền sản xuất dịch vụ. Họ là lực lượng lao động tồn tại

lâu bền và có khả năng thích nghi cũng như phát triển dưới tác động của khoa

45

học kỹ thuật.

Chương 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HÓA

2.1. Khái quát về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật thời kỳ trước

đổi mới

Khái niệm đào tạo nghề đã xuất hiện trên cơ sở tồn tại sự phân công xã

hội của lao động. Nghề nghiệp là một loại lao động nhất định, lúc đầu chỉ là một

loại hình lao động đơn giản, không phân biệt. Sau đó, do kết quả của sự phát

triển công cụ lao động và phân công lao động xã hội, các nghề (với tư cách là lao

động được chuyên môn hoá) đã được tách ra. Từ một số nghề đơn giản dần dần

phát triển thành nhiều nghề hơn, chuyên sâu, phức tạp hơn. Sự phong phú đa

dạng của các nghề trong xã hội tuỳ thuộc vào sự phát triển khoa học kỹ thuật ở

từng nước, từng khu vực khác nhau. Theo E.A.Klimov thì: "Nghề nghiệp là lĩnh

vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới

hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có), nó tạo khả năng cho

con người sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho

việc tồn tại và phát triển”. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “nghề là công việc

chuyên làm theo sự phân công lao động trong xã hội. Nghề nghiệp là nghề để

sinh sống và để phục vụ xã hội”. Còn Karl Mark đã đưa ra một định nghĩa khái

quát về nghề như sau: "Nghề là một khâu độc lập của phân công lao động xã

hội". Như vậy, có thể nói rằng nghề nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một hình

thức lao động trong xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng

sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần cho xã hội.

Con người thông qua việc hành nghề để duy trì, phát triển cuộc sống cá nhân,

46

đồng thời góp phần xây dựng đất nước. Nghề nghiệp là một tổ hợp những

chuyên môn có quan hệ cùng loại với nhau. Một nghề bao gồm nhiều chuyên

môn. Có hai loại nghề khác nhau: Nghề được đào tạo và nghề không được đào

tạo.

Nghề không được đào tạo là nghề được hình thành tự phát, do tích luỹ

kinh nghiệm xã hội mà có hoặc do truyền nghề từ người này sang người khác, từ

đời này sang đời khác.

Nghề được đào tạo là nghề yêu cầu một trình độ trí thức, kỹ năng, kỹ xảo

nhất định. Trình độ này có được nhờ quá trình đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn,

nhằm tạo ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường và con người gắn bó lâu dài với

hoạt động đó như lẽ sống của mình.

Nghề được đào tạo có đặc trưng người làm nghề đó phải có trình độ trí

thức, kỹ năng, kỹ xảo làm ra sản phẩm để có thể trao đổi trên thị trường xã hội,

thu nhập của người lao động là nguồn sống chính của họ. Chính vì vậy mà nó trở

thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tưởng nghề nghiệp, từ đó hình

thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề được đào tạo đòi hỏi người vào học nghề đó

phải có trình độ học vấn, sức khoẻ và yêu cầu tâm lý phù hợp với nghề. Sau quá

trình đào tạo, người đó phải đạt được tiêu chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng,

kỹ xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi.

Nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử xã hội, nghĩa là nghề được nảy sinh

và phát triển trong quá trình tiến bộ của xã hội, của khoa học kỹ thuật. Có những

nghề ra đời và phát triển lâu dài thành nghề truyền thống như: nghề sơn mài,

nghề khảm trai... Nhưng lại có nghề dần dần bị thay thế bằng các tiến bộ khoa

học kỹ thuật như nghề sử dụng máy tính điện tử, đồng thời có những nghề mới ra

đời do thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại như nghề sửa chữa video, nghề lắp

47

máy thu hình... Như vậy, tên nghề đào tạo có thể trùng với một nghề công nhân,

nhân viên nghiệp vụ hoặc do nhiều nghề công nhân, nhân viên nghiệp vụ hợp

thành. Nội dung chuyên môn của nghề đào tạo là khối lượng kiến thức kỹ năng,

kỹ xảo là phẩm chất cần phải đào tạo trong một thời gian nhất định. ứng với mỗi

nghề đào tạo có một mục tiêu, chương trình đào tạo. Hệ thống mục tiêu đào tạo

nghề phân hoá theo chiều ngang được thể hiện ở bản danh mục nghề đào tạo do

nhà nước ban hành, đó là một văn bản pháp quy đối với đào tạo nghề.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới sẽ dẫn đến cuộc cách mạng

ngành nghề trong xã hội. Cuộc cách mạng khoa học trước đây đã giải phóng con

người ra khỏi lao động cơ bắp nặng nhọc. Cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ mới sẽ giải phóng con người khỏi những mệt nhọc trí tuệ nhờ máy móc bổ

xung và trợ giúp thêm cho sức mạnh trí tuệ con người. Ngành công nghiệp chế

tạo nặng đang được thay thế bằng ngành chế tạo có hàm lượng tri thức khoa học

và công nghệ cao. Ở những nước phát triển, các lĩnh vực dịch vụ tri thức và xử lý

thông tin ngày càng mở rộng. Nhờ đó, những công nhân làm công tác thông tin

thường được gọi là công nhân cổ trắng (white - collor worker) cũng tăng lên

trong tổng lực lượng lao động. Số công nhân cổ xanh (blue - collor work) ngày

càng giảm. Trong nền kinh tế thông tin sẽ thấy xuất hiện một lực lượng khác mà

người ta gọi là công nhân cổ vàng (gold collor worrker) - đó là những người lao

động có trình độ đại học. Người ta nhận thấy rằng loại công nhân này trước đây

chỉ là một lực lượng nhỏ hẹp, nay thì đã là một lực lượng đáng kể. Xu hướng

chung là công nhân cổ trắng và cổ vàng sẽ dần dần chiếm tỉ lệ cao hơn so với

công nhân cổ xanh trong nền kinh tế thông tin.

Các nghề đào tạo ghi trong danh mục nghề đào tạo có thể được đào tạo

ban đầu ở các trình độ hay các mức độ nghề khác nhau, đó là sự phân hoá mục

48

tiêu đào tạo nghề theo chiều sâu.

Như vậy, hệ thống mục tiêu giáo dục nghề nghiệp được đặc trưng bởi sự

phân hoá mục tiêu theo các nghề được đào tạo và theo các trình độ nghề khác

nhau. Đây là một hệ thống mở, thay đổi theo thời gian. Nó càng đa dạng, phong

phú và mềm dẻo thì đào tạo nghề càng linh hoạt và đáp ứng được nhu cầu.

Khái niệm nghề ở trên được xác định trong phạm vi hệ thống phân công

lao động xã hội còn trong luận văn này nghề được hiểu trong phạm vi hẹp là

nghề công nhân kỹ thuật.

Việc hình thành các cơ sở đào tạo nghề khác nhau ở nước nào cũng nhằm

xây dựng, phát triển đội ngũ nhân lực lao động kỹ thuật theo hệ thống mục tiêu

đào tạo nghề nghiệp nhất định để đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội

của nước đó.

Trên thế giới và các nước trong khu vực đang tồn tại hai khái niệm mà bản

thân chúng có những điểm khác biệt đó là giáo dục nghề nghiệp và huấn luyện

nghề nghiệp.

Giáo dục nghề nghiệp có tính hoàn thiện hơn, bao gồm cả mặt huấn luyện

nghề nghiệp. Đó là quá trình chuẩn bị đầy đủ nhân cách cho thanh thiếu niên

bước vào cuộc sống lao động nghề nghiệp. Như vậy, có thể nói rằng hệ thống

giáo dục nghề nghiệp thực hiện hai chức năng quan trọng trong xã hội đó là xã

hội hoá và nghề nghiệp hoá thế hệ trẻ. Vì vậy giáo dục nghề nghiệp không chỉ

phụ thuộc vào tình hình sản xuất mà còn phụ thuộc vào các vấn đề xã hội khác.

Đào tạo nghề thông qua giáo dục nghề nghiệp thường có thời gian tương

đối dài và ổn định, được xác định trong hệ thống giáo dục quốc dân của mỗi

nước, nhằm vào mục tiêu toàn diện với nội dung đầy đủ, thông thường và chủ

yếu là được tiến hành trong nhà trường. Nó là quá trình đào tạo nghề nghiệp cho

49

thanh thiếu niên.

Ngược lại huấn luyện nghề nghiệp chủ yếu chú trọng đến mặt huấn luyện

sao cho người học đạt được những yêu cầu của sản xuất đề ra nhằm mục tiêu tìm

được một việc làm hoặc tự tạo việc làm. Vì vậy quy mô về số lượng và trình độ

cần được đào tạo phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu sản xuất. Điều đó hoàn toàn

phù hợp với lợi ích của người học là để hành nghề ngay được.

Thời gian đào tạo của các khoá học của huấn luyện ngắn hạn thường là

ngắn và khác nhau, mục tiêu, nội dung cũng khác nhau ở các cơ sở đào tạo khác

nhau theo từng khoá học cụ thể.

Thực tế Việt Nam với cơ cấu lao động bất hợp lý cho thấy chúng ta chưa

quan tâm đến việc đào tạo nghề nghiệp, tình trạng thừa thầy, thiếu thợ đang tạo

ra khó khăn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Có thể nói, dạy nghề là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, so

với các bậc học khác thì nó được hình thành muộn nhất. Trước Cách mạng tháng

Tám, nước ta là một nước nông nghiệp, nhân dân chủ yếu làm nghề nông, ngoài

ra còn có các nghề thủ công, mỹ nghệ và cơ khí nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng.

Các nghề này đều được chuyển giao theo phương thức truyền nghề. Từ 1898 -

1945 là giai đoạn nước ta bị thực dân Pháp cai trị, dạy nghề mới được hình

thành, cả nước có 4 trường kỹ nghệ thực hành (miền Bắc: 2, miền Trung: 1, miền

Nam: 1). Các trường này chủ yếu đào tạo các nghề: kỹ nghệ sắt, sửa chữa đông

lực, điện để phục vụ cho chiến tranh và dịch vụ sửa chữa các phương tiện giao

thông. Thời kỳ này Vụ Giáo dục nghề nghiệp nằm trong Bộ Giáo dục được thành

lập. Từ 1954 lại đây Công nghiệp Việt Nam mới phát triển, đòi hỏi phải có đội

ngũ lao động được đào tạo. Vì vậy ngành Dạy nghề chính thức được hình thành

50

để đào tạo công nhân cho các ngành Công nghiệp.

Từ 1945 - 1954 nước ta chia thành 2 vùng: Vùng tự do thuộc Nhà nước

Việt Nam dân chủ Cộng hoà mới thành lập, vùng địch hậu do Pháp kiểm soát.

Vùng tự do mới thành lập có 4 trường dạy nghề: 2 trường canh nông và 2 trường

thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh đào tạo nghề chính quy còn phát triển hình thức đào

tạo nghề tại các xưởng quân khí để đào tạo cấp tốc công nhân sửa chữa, chế tạo

phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ này bộ phận quản lý đào tạo

công nhân nằm trong Vụ Chính trị - đào tạo công nhân thuộc Bộ Lao động.

Từ 1955 - 1965 nước ta tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc tiến hành

xây dựng Chủ nghĩa xã hội đã xây dựng hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp đòi hỏi

phải có một lượng lao động kỹ thuật lớn. Để chỉ đạo công tác đào tạo nghề, Nhà

nước thành lập Vụ đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ Lao động. Từ đó 56

trưòng Công nhân kỹ thuật cùng với hàng trăm trung tâm đào tạo nghề bên cạnh

các xí nghiệp được thành lập. Thời kỳ này dạy nghề bắt đầu phát triển và đã đào

tạo được 142.000 công nhân kỹ thuật trong và ngoài nước, đáp ứng được nhu cầu

về công nhân kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế ở miền Bắc.

Từ 1966 - 1975 là giai đoạn đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,

chúng ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc phải chi viện cho miền

Nam cả nhân tài, vật lực với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến". Tổng cục Dạy

nghề được thành lập để đủ sức đảm đương nhiệm vụ đó. Hàng loạt trường dạy

nghề được thành lập. Đến năm 1975 tại các tỉnh phía Bắc, chúng ta đã xây dựng

được 199 trường dạy nghề, 3 trường Sư phạm kỹ thuật. Chúng ta đã đào tạo

được 609.700 công nhân kỹ thuật trong nước và 10.350 công nhân kỹ thuật nước

ngoài với quy mô đào tạo 160.809 học viên/năm. Quy mô đào tạo trung bình của

51

một trường là 869 học viên, bình quân12 - 15 học sinh có một giáo viên, công

tác đào tạo nghề chủ yếu được thực hiện tại các trường công lập (theo số liệu

thống kê 1975).

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam tập trung xây dựng và phát triển

kinh tế. Ngành dạy nghề được phát triển mạnh mẽ trong cả nước. Tổng cục dạy

nghề được thành lập. Hệ thống các trường dạy nghề được hình thành và phát

triển đồng đều ở tất cả các địa phương,các trường dạy nghề ở miền Nam đã dần

dần được hình thành và đi vào hoạt động, hệ thống các trường dạy nghề được

chú trọng xây dựng để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất

nước. Vì thế, số lượng các trường dạy nghề đã phát triển nhanh. Đến năm 1980

cả nước có tới 366 trường (tăng 2 lần so với 1975), quy mô đào tạo khoảng

250.000 học viên (tăng 1,6 lần so với 1975), bình quân mỗi trường có quy mô

đào tạo khoảng 700 học viên một năm.

Trong những năm đầu của thập kỷ 80, Chính phủ chủ trương giải thể các

trường sơ cấp nông nghiệp của các huyện và thay vào đó là việc hình thành các

trung tâm dạy nghề, do đó hệ thống các trường dạy nghề được sắp xếp lại, đến

năm 1986 còn 269 trường với quy mô đào tạo khoảng 120.000 học viên.

Các trung tâm dạy nghề đã được hình thành và đào tạo thí điểm từ những

năm đầu của thập kỷ 80, nhưng năm 1986 mới ban hành quy chế trung tâm dạy

nghề quận, huyện, thị xã và từ đó hệ thống các trung tâm dạy nghề mới được

chính thức công nhận là một bộ phận của ngành giáo dục chuyên nghiệp trong hệ

thống giáo dục quốc dân thống nhất.

Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, hệ thống các trường dạy nghề chính quy

phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô đào tạo, các trung tâm dạy nghề cũng

đang hình thành và phát triển góp phần cung cấp nguồn nhân lực qua đào tạo chủ

52

yếu của nền kinh tế.

2.2. Tình hình đào tạo công nhân kỹ thuật trong những năm đổi mới

2.2.1. Những thay đổi chính sách có liên quan đến hệ thống dạy nghề

Trong gần 40 năm, từ 1960 đến 1997, hệ thống tổ chức quản lý đào tạo

nghề ở nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Năm 1963 chính phủ quyết

định thành lập Vụ đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ lao động (nay là Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội). Năm 1969, chính thức quyết định thành lập

Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật cũng thuộc Bộ lao động. Trong 10 năm

(1969 - 1978), hệ thống đào tạo trường, lớp công nhân kỹ thuật đã phát triển ở

khắp các ngành, vùng, địa phương. Hàng triệu lao động được đào tạo trong và

ngoài nước, cung cấp đội ngũ công nhân kỹ thuật có chất lượng cho cac ngành

kinh tế quốc dân.

Năm 1978 Chính phủ quyết định đổi tên Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ

thuật thành Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Chính phủ. Trong thời kỳ 1978 -

1986, đã có 366 trường dạy nghề. Sự nghiệp đào tạo công nhân kỹ thuật phát

triển mạnh, kể cả trong hợp tác quốc tế, do đó số công nhân kỹ thuật được đào

tạo tăng cả về số lượng và chất lượng.

Cũng năm 1978, Nhà nước sắp xếp lại Bộ, ngành, Tổng cục dạy nghề sáp

nhập vào Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp (và đổi tên là Bộ Đại học -

Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề); Tổng cục Dạy nghề trở thành Vụ Dạy

nghề.

Năm 1991, khi hợp nhất hai Bộ (Bộ Giáo dục, Bộ Đại học - Trung học

chuyên nghiệp và Dạy nghề) thành Bộ Giáo dục và Đào tạo thì Vụ Dạy nghề và

Vụ Trung học chuyên nghiệp nhập lại thành Vụ Trung học chuyên nghiệp và

Dạy nghề. Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã nhận định: “Giáo dục

53

chuyên nghiệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm mạnh, mất

cân đối lớn về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất.

Quy mô đào tạo nghề quá nhỏ bé, trình độ thiết bị nghề lạc hậu, không đáp ứng

được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Trước yêu cầu đổi

mới, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), Chính phủ đã

quyết định tái lập Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và

xã hội (Nghị định số 33/1998/NĐ-CP, ngày 23/5/1998). Với sự quan tâm của các

cấp các ngành, bốn năm qua sự nghiệp dạy nghề đang phục hồi và phát triển.

Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về dạy nghề, trong thời gian từ

1998 đến 2001, công tác nghiên cứu xây dựng văn bản pháp luật về dạy nghề đã

được Thủ tướng chính phủ chỉ đạo và ban hành nhằm tạo ra hành lang pháp lý

cho các ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân tổ chức thực hiện công tác dạy

nghề, vừa tăng cường công tác quản lý dạy nghề.

Mức đầu tư của Nhà nước cho dự án “Tăng cường năng lực dạy nghề”

thuộc "Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục-đào tạo 2001 - 2005” để

nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến chương trình, giáo trình và đào tạo, bồi

dưỡng giáo viên dạy nghề cho các trường, trung tâm dạy nghề tăng dần hàng

năm: năm 2001 là 90 tỷ đồng; năm 2002 là 110 tỷ đồng; năm 2003 là 130 tỷ

đồng; năm 2004 là 200 tỷ đồng. Kinh phí chương trình mục tiêu đã dành một tỷ

lệ thích đáng để đầu tư thích đáng cho 41 trường dạy nghề và 85 Trung tâm dạy

nghề trọng điểm của các Bộ, ngành, địa phương. Dự án Giáo dục kỹ thuật và dạy

nghề bằng vốn vay của Ngân hàng phát triển của Châu Á và các nhà tài trợ khác

cũng dành một phần kinh phí để mua sắm trang thiết bị dạy nghề cho 15 trường

thuộc dự án. Dự án Tăng cường trung tâm dạy nghề của Thuỵ Sỹ đã đầu tư cho

27 trung tâm dạy nghề. Trong 5 năm qua các Bộ, ngành, địa phương, doanh

nghiệp và các cơ sở dạy nghề cũng đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mua sắm

54

trang thiết bị dạy nghề.

Các Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về xã hội hoá các

hoạt động giáo dục, đào tạo... đã tạo ra khả năng huy động các nguồn lực cho mở

rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Nhiều cơ sở dạy nghề đã có

điều kiện tăng thêm đuợc kinh phí cho hiện đại hoá các trang bị, cơ sở vật chất

phục vụ cho dạy nghề, mở ra cho người lao động cơ hội học nghề.

Nhà nước cũng thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các cơ sở dạy

nghề qua thông tư số 32TC/TCT ngày 6/7/1996 của Bộ tài chính quy định miễn

giảm thuế đối với các cơ sở dạy nghề, bổ túc nghề cho người lao động đáp ứng

nhu cầu sản xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh hoặc công

nghệ của doanh nghiệp; cơ sở của các doanh nghiệp, tổ chức các nhân dạy nghề,

bổ túc nghề cho người có nhu cầu học nghề tìm việc làm.

Quyết định số 211/TTg ngày 7/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ đã phê

duyệt chương trình quốc gia Công nghệ thông tin cho phép các cơ sở dạy nghề

đào tạo về công nghệ thông tin bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Chính sách này

có tác dụng thúc đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho ngành công nghệ

thông tin, đáp ứng nhu cầu phát triển liên doanh, liên kết kinh tế với nước ngoài.

Quyết định số 07/2000 NQ/CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về xây dựng

và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn 2000 - 2005 khuyến khích các tổ

chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lục cho công

nghệ thông tin nói chung và công nghệ phần mềm nói riêng dưới hình thức

doanh nghiệp dịch vụ phần mềm và các hình thức khác. Đẩy mạnh sử dụng rộng

rãi Internet trong các trường nhằm phục vụ tốt cho việc đào tạo. Chính sách này

tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phần mềm liên donh với nước

55

ngoài trong lĩnh vực đào tạo nghề.

Nghị quyết số 27/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ về ứng dụng và phát

triển công nghiệp tự động hoá đã giao trách nhiệm cho các ngành tăng cường hệ

thống thiết bị thí nghiệm phục vụ đào tạo, cải tiến, bổ sung và hoàn thiện chương

trình, giáo trình, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, khuyến khích mọi

hình thức đào tạo trong và ngoài nước.

Các nghị quyết, nghị định trên đã khuyến khích đào tạo nghề phù hợp

được với xu thế hội nhập, hợp tác đào tạo nghề với nước ngoài phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.

Ngoài ra nhà nước đã ban hành chính sách xây dựng các cơ sở đào tạo

nghề chất lượng cao để đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao và các

ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn tại 3 miền của đất nước và đã có chính sách cụ

thể với từng ngành như Nghị quyết số 45/CP về đổi mới quản lý và phát triển

ngành du lịch; Thông tư liên bộ 06/LB-GD-DL của Bộ giáo dục và Tổng cục du

lịch về phối hợp với công tác đào tạo và dạy nghề...

2.2.2. Hiện trạng về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam

* Loại hình đào tạo

Hiện nay trong cơ cấu kinh tế ngành thì nước ta vẫn còn là một nước nông

nghiệp với 68% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và 77% dân số

sống ở nông thôn. Trình độ kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất (đặc biệt là sản

xuất công nghiệp) ở mức trung bình. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện

đại hoá đòi hỏi phải đẩy mạnh quá trình phải đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản

xuất để nhanh chóng đưa trình độ kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất nước ta

lên mức tiên tiến so với các nước trong khu vực. Thực tế phát triển của nền sản

xuất xã hội trên các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau đòi hỏi phải có lực lượng

56

lao động lao động kỹ thuật với các trình độ từ lao động thủ công kỹ thuật thấp,

lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn cho đến lao động trong sản xuất

công nghiệp và một bộ phận lao động trình độ cao phù hợp với sự phát triển của

trình độ sản xuất công nghiệp hiện đại. Như vậy, đào tạo nghề cần phải đào tạo

ra lực lượng lao động kỹ thuật với nhiều trình độ khác nhau để đáp ứng nhu cầu

đa dạng về nhân lực của nền sản xuất xã hội và tương ứng với nó mà có nhiều

loại hình đào tạo khác nhau cho phù hợp.

Loại hình dào tạo nghề có thể hiểu là mô hình đào tạo những người lao

động có chức năng trực tiếp thực hiên các quy trình, quy phạm sản xuất ở trình

độ sơ cấp vói những dấu hiệu đặc trưng: tính chất và diện nghề, mục tiêu đào

tạo, văn bằng chứng chỉ, trình độ tuyển sinh, những nét đặc trưng của nội dung

và quá trình đào tạo.

Hiện nay dạy nghề đang đào tạo hai trình độ theo hai loại hình là dạy nghề

ngắn hạn và dạy nghề dài hạn.

Dạy nghề ngắn hạn có thời gian đào tạo dưới một năm, khi người học học

hết chương trình ngắn hạn, có đủ điều kiện theo quy định thì được dự kiểm tra

kiến thức và kỹ năng nghề, nếu đạt yêu cầu thì được cấp chứng chỉ nghề.

Dạy nghề ngắn hạn được thực hiện tại trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề

độc lập hoặc gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cơ sở giáo dục khác. Loại

hình này dành cho những người có trình độ học vấn và sức khoẻ phù hợp với

nghề cần học và có thể tổ chức theo hình thức học lý thuyết và thực hành theo

lớp; kèm cặp tại xưởng, tại nhà, lấy thực hành là chính, vừa học, vừa làm;

chuyển giao công nghệ, đưa kiến thức khoa học, công nghệ mới và kinh nghiệm

sản xuất tiên tiến

Dạy nghề dài hạn có thời gian đào tạo từ 1 đến 3 năm tại các trường dạy

57

nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có

tham gia đào tạo nghề. Học sinh học hết chương trình nghề dài hạn có đủ điều

kiện quy định được dự thi tốt nghiệp, nếu đạt yêu cầu dược cấp bằng tốt nghiệp

đào tạo nghề. Loại hình này góp phần khai thác và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực cho dạy nghề, thực hiện các dịch vụ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ,

sản xuất kinh doanh phù hợp với ngành nghề đào tạo theo quy định của pháp

luật, tham gia phổ cập nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng đào tạo,

gắn dạy nghề với việc làm, bổ sung nguồn tài chính cho nhà trường.

Loại hình đào tạo được phát triển ở tất cả các loại hình sở hữu.

+ Đào tạo tại các trường dạy nghề công lập do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quyết định thành lập, đầu tư, tổ chức bộ máy quản lý và điều hành. Mô

hình này có thể cung cấp đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của

nền sản xuất trên cơ sở kỹ thuật hiện đại. Các bộ, ngành, địa phương và đặc biệt

là các tổng công ty tổ chức các trung tâm dạy nghề, các trường lớp dạy nghề tập

trung với quy mô tương đối lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao. Ở đây người

học được học tập có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực

hành, tạo điều kiện cho người học tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ dàng.

Việc đào tạo tương đối toàn diện cả lý thuyết lẫn thực hành giúp người học nắm

vững chắc các kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Với phương pháp đào tạo

này, người học có thể chủ động, độc lạp giải quyết công việc, có khả năng đảm

nhiệm đựơc những công việc phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Tuy nhiên

hình thức này đòi hỏi phải có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, có bộ máy quản

lý, đội ngũ giáo viên giảng dạy chuyên nghiệp. Quá trình học tập được chia làm

hai giai đoạn: giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn

+ Đào tạo nghề tại các trường dạy nghề ngoài công lập: mô hình này phát

58

triển mạnh ở các thành phố và thị xã và là khu vực thu hút tiềm lực trong nhân

dân để phát triển đào tạo nghề, chủ yếu là đào tạo nghề ngắn hạn và phổ cập

nghề. Mô hình này bao gồm các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề, các

lớp dạy nghề. Cơ chế hoạt động của các cơ sở này là chủ cơ sở tự lo cơ sở vật

chất , thực hiện đào tạo theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Tuy nhiên, việc phát triển

loại hình này chưa có sự quản lý thống nhất của nhà nước, nhất là quản lý về

chất lượng đào tạo.

+ Đào tạo nghề tại các doanh nghiệp: các doanh nghiệp có thể mở các lớp

đào tạo trong sản xuất hoặc tổ chức trường đào tạo riêng. Trường đào tạo công

nhân của doanh nghiệp có đội ngũ giáo viên chuyên trách và kiêm chức, có cơ sở

thực hành tay nghề cơ bản. Chương trình đào tạo đựoc xây dựng phù hợp với

công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Sau khi học lý thuyết, học sinh được thực

hành sản xuất ngay trên dây truyền sản xuất của doanh nghiệp. Tất cả đều dựa

vào kinh phí của doanh nghiệp, giáo viên hướng dẫn cũng của doanh nghiệp

(thường là công nhân có tay nghề cao trực tiếp kèm cặp và hướng dẫn trong quá

trình sản xuất). Người học được miễn phí, có thể được doanh nghiệp đài thọ một

khoản trợ cấp nhỏ hoặc trả một phần thu nhập trên cơ sở kết quả sản phảm làm

ra. Bên cạnh lớp đào tạo mới doanh nghiệp còn tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng

để người lao động có thể làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất và chất

lượng sản phẩm. Loại hình đào tạo này phục vụ rất sát yêu cầu của sản xuất cả

về quy mô và nội dung đào tạo, phù hợp với công nghệ của doanh nghiệp. Chính

vì thế mà mô hình này đuợc áp dụng ở một số công ty như Công ty FUJTSU

(Đồng Nai) của Nhật Bản, Trung tâm Đào tạo và cung ứng nhân lực dầu khí

Vũng Tàu (thuộc Tổng công ty Dầu mỏ và khí đốt), Công ty Giấy Bãi Bằng,

Công ty May 10…

+ Đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư của nước ngoài do

59

người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức

quốc tế đầu tư, xây dựng và tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật Việt

Nam. Các cơ sở đào tạo này chỉ được đào tạo nghề và tổ chức thực tập sản xuất

cho người học nghề theo đúng nghề đào tạo mà pháp luật cho phép. Mô hình này

cho phép mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài đã được đăng kỹ thường trú

hoặc tạm trú dài hạn tại Việt Nam có đủ trình độ và học vấn theo yêu cầu của

nghề đào tạo tại các cơ sở này có thể đăng ký dự tuyển vào học nghề.

+ Đào tạo nghề tại các cơ sở đào tạo nghề của các khu công nghiệp tập

trung và khu chế xuất. Thí dụ, trường cao đẳng về công nghệ và quản trị doanh

nghiệp thuộc Ban quản lý KCN-KCX Thành phố Hồ Chí Minh đang xây dựng sẽ

cung cấp hàng năm 1.000-1.500 lao động lành nghề cho các doanh nghiệp thuộc

các ngành kinh tế mũi nhọn như: điện tử, may, công nghệ thông tin,... Các

trường đào tạo loại này được đầu tư trang bị các thiết bị dạy nghề chất lượng

cao, hiện đại, đáp ứng nhu cầu về giảng dạy lý thuyết và thực hành tay nghề của

người học.

+ Đào tạo tại các Viện, Trung tâm đào tạo thuộc các trường đại học, các

Viện nghiên cứu, các Công ty. Các cơ sở này thực hiện các chương trình đào tạo,

bổ túc kiến thức. Chẳng hạn như: Viện Đào tạo Công nghệ thông tin Đại học

Quốc gia Hà Nội từ tháng 6/1997 đến 10/2001 đã tổ chức 99 khoá đào tạo cho

3.282 lượt người.

* Số lượng cơ cấu

Từ năm 1986 đến 1998 thì Tổng cục Dạy nghề sáp nhập với Bộ Đại học

với Trung học chuyên nghiệp, do đó chỉ còn một vụ quản lý dạy nghề trong Bộ

Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Các cơ quan quản lý nhà nước

về dạy nghề cũng sáp nhập vào các bộ phân tương ứng cùng cấp. Năm 1992 Bộ

60

Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề lại sáp nhập với Bộ Giáo dục,

do đó vụ dạy nghề lại sáp nhập với Vụ Trung học chuyên nghiệp thành Vụ

Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Với việc sáp nhập liên tục cơ quan quản

lý Nhà nước về dạy nghề vào các đơn vị khác đã suy yếu toàn bộ hệ thống dạy

nghề nói chung và dạy nghề nhà trường, trung tâm dạy nghề nói riêng cụ thể là:

Số lượng trường dạy nghề càng giảm: tính đến năm 1998 (thời điểm tái

thành lập tổng cục dạy nghề) còn 129 trường giảm 2,0 lần so với năm 1987. Số

học sinh học nghề hệ chính qui năm 1987 là 119.783, năm 1994 là 46489 học

sinh cho đến 1998 là 98.000 học sinh. Các trường dạy nghề phân bố chưa hợp lý,

có 27 tỉnh không có trường của địa phương quản lý, đặc biệt còn 15 tỉnh không

có trường dạy nghề của cả địa phương và trung ương đóng trong trên địa bàn.

Hệ thống các trung tâm dạy nghề quận huyện được phát triển mạnh trong

những năm đầu thập kỷ 1990 (năm 1990 có 240 trung tâm dạy nghề), nhưng đến

năm 1998 chỉ còn 86 trung tâm, giảm 2,57 lần, chỉ còn 21 tỉnh trong tổng số 61

tỉnh, thành phố có trung tâm dạy nghề. Các trung tâm dịch vụ việc làm ngày

càng được cùng cố và phát triển; các cơ sở đào tạo nghề tư nhân được mở ra

ngày càng nhiều và đa dạng, nhưng các cơ sở dạy nghề ngắn hạn cũng chủ yếu

tập trung ở các thành phố và thị xã, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa hầu như

không có cơ sở đào tạo nghề.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự giảm đi nhanh chóng các cơ sở dạy nghề

là chưa xây dựng được cơ sở dạy nghề, chưa có chiến lược phát triển dạy nghề

trên phạm vi toàn quốc và các vùng lãnh thổ. Việc thành lập, giải thể các cơ sở

dạy nghề chưa xuất phát từ mục tiêu quy hoạch dài hạn.

Số lượng đào tạo nghề hệ dài hạn cũng giảm đáng kể (từ 119.783 năm

61

1987 xuống còn 98.000 năm 1999). Cơ cấu ngành nghề đào tạo lại không hợp lý,

chưa chú trọng đến đào tạo ngành nghề cho nông lâm ngư nghiệp và phục vụ

chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn.

Số lượng được đào tạo nghề ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề ngày

càng tăng, chiếm trên 70% số lượng lao động qua đào tạo nghề ngắn hạn hàng

năm nhưng chưa đáp úng được nhu cầu của thị trường lao động về chất lượng, số

lượng, phân bố theo vùng, cũng như cơ cấu nghề đào tạo. Các trung tâm này chủ

yếu tập trung đào tạo một số ngành nghề như cơ khí; điện, diện tử, vi tính văn

phòng; may dân dụng, máy công nghiệp; sửa chữa ô tô, xe máy, lái xe... Chất

lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, nhiều nghề được đào tạo không phù hợp với

công nghệ sản xuất, trình độ nghề thấp, người học khó xin việc và dễ bị thấp

nghiệp, trừ sản phẩm của một số Trung tâm dạy nghề, Trung tâm dịch vụ việc

làm... được tài trợ bởi nước ngoài.

Sau khi tái thành lập Tổng cục Dạy nghề năm 1998 thì năm 1999 tổng số

trường dạy nghề công lập là 147 trường (năm 2000 là 157 trường) tăng 14% so

với năm 1998 và 138 trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp có

tham gia đào tạo nghề dài hạn. Số học sinh tăng từ 447000 năm 1997 lên

887.000 học sinh năm 2001. Đến 30/6/2004 cả nước có 226 trường dạy nghề.

Trong đó có 102 trường của Bộ, ngành Trung ương; 124 trường địa phương; 59

trường thuộc doanh nghiệp; 17 trường dạy nghề quân đội; 25 trường ngoài công

lập, 2 trường có vốn đàu tư nước ngoài. Mạng lưới các trường dạy nghề đã mở

rộng khắp các địa phương trong toàn quốc, nay chỉ còn lại 3 tỉnh mới thành lập

(Lai Châu, Đắc Nông, Hậu Giang) đang xây dựng đề án thành lập trường dạy

nghề. Ở những địa phương công nghiệp phát triển trên địa bàn có nhiều trường

như Hà Nội có 30 trường, Thành phố Hồ Chí Minh có 27 truờng, Hải Phòng có

62

14 trường, Đồng Nai có 9 trường. Các trường dạy nghề phân bố như sau:

Trường thuộc các Bộ, ngành quản lý có 84 trường (chiếm 57,1%) trong đó

chủ yếu thuộc các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 20 trường (26,2%);

Bộ Xây dựng là 17 trường (20,2%), Bộ Công nghiệp 16 trường (19%); Bộ Giao

thông - Vận tải 15 trường (17,7%), các Bộ, ngành còn lại 15 trường (17,8%).

Các trường thuộc các Bộ quản lý trực tiếp 42 trường (chiếm 50,0%), các Tổng

công ty, doanh nghiệp quản lý trực tiếp 42 trường (chiếm 50,0%).

Trường thuộc các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quản lý là 63

trường (chiếm 42,9%) và chủ yếu tập chung ở các thành phố, thị xã, trong đó

Thành phố Hà Nội (7 trường), Thanh Hoá (6 trường), Đồng Nai, Thành phố Hồ

Chí Minh, Hải Phòng.

- Số lượng các trường dạy nghề phân bố theo ngành:

Năm 2003 số lượng trường phân bố như sau: Ngành Công nghiệp 56

trường (chiếm 38,4%), Ngành Xây dựng 27 trường (chiếm 18,5%), Ngành Giao

thông 24 trường (chiếm 16,4%), Nông Lâm nghiệp 20 trường (chiếm 13,7%),

các ngành khác 19 trường (chiếm 13,0%).

Ngoại trừ một số trường có nghề đào tạo phục vụ theo yêu cầu đặc thù

chuyên ngành, còn nhìn chung số trườngcó nghề đào tạo trùng nhau khá phổ

biến, như nghề nguội có 66/147 trường tham gia đào tạo, kỹ thuật điện có 54/147

trường đào tạo, kỹ thuật sắt có 48/147 trường đào tạo. Sự mất cân đối trong

trường tổ chức đào tạo theo nghề một mặt phản ánh sự biến động của nhu cầu sử

dụng, mặt khác cũng phản ánh những ảnh hưởng của sự phân bố và phát triển hệ

thống thiếu quy hoạch.

- Số lượng trường dạy nghề phân theo vùng:

Số lượng trường dạy nghề phân theo vùng: Số lượng trường dạy nghề tập

63

trung nhiều nhất ở vùng Đồng bằng Sông Hồng là 48 trường (chiếm 32 %); vùng

Miền núi Trung du phía Bắc 26 trường (chiếm 17, 8%); vùng Đông Nam Bộ 25

trường (chiếm 17,5%); vùng Bắc Bộ 16 trường (chiếm 10,9); vùng Đồng bằng

Sông Cửu Long 13 trường (chiếm 8,9%); vùng Duyên Hải miền Trung 12 trường

(chiếm 12%); vùng Tây Nguyên 4 trường (chiếm 3%), thấp nhất là vùng Tây

Bắc 3 trường (chiếm 2,2%).

Mức độ tập trung cao ở các trường dạy nghề một mặt phản ánh mức độ

phát triển của các khu vực công nghiệp, các thành phố lớn, mặt khác cũng cho

thấy sự thiếu quan tâm trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch hệ thống

cơ sở dạy nghề.

- Các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy

nghề:

Toàn quốc có 138 trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp

có hoạt động dạy nghề dài hạn, trong đó có 93 trường thuộc Bộ, ngành quản lý

và 45 trường thuộc địa phương quản lý. Đặc biệt là 47 trường dạy nghề mới dạy

nghề mới chuyển lên trung học chuyên nghiệp, chủ yếu đào tạo công nhân kỹ

thuật, tỷ lệ đào tạo công nhân kỹ thuật của các trường này là 50%, có nhiều

trường trong năm 1998, 1999 vẫn còn 100% học sinh học nghề.

Ngành dạy nghề đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về lực lượng lao động,

số lượng công nhân qua đào tạo nghề từ 1998 đến nay ngày càng tăng làm thay

đổi dần cơ cấu lực lượng lao động theo hướng hợp lý hơn.

Bảng 2.1. Số lượng học sinh đào tạo chính quy từ 1986 đến 2004

Năm học Năm học

Chỉ tiêu đào tạo chính quy (học sinh) Chỉ tiêu đào tạo chính quy (học sinh)

64

1986 - 1987 52.854 1995 - 1996 45.000

1987 - 1988 56.956 1996 - 1997 57.000

1988 - 1989 70.055 1997 - 1998 75.000

1989 - 1990 74.505 1998 - 1999 97.000

1990 - 1991 71.388 1999 - 2000 126.000

1991 - 1992 20.453 2000 - 2001 130.000

1992 - 1993 25.159 2001 - 2002 146.000

1993 - 1994 26.279 2002 - 2003 165.000

1994 - 1995 34.000 2003 - 2004 198.000

65

Nguồn: Báo cáo của Tổng cục Dạy nghề 2004.

* Kết quả:

- Quy mô đào tạo:

Trước yêu cầu của nền kinh tế tri thức với tiến trình phát triển và hội

nhập, trước yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu

khách quan về cung - cầu lao động trên thị trường lao động trong nước, khu vực

và quốc tế thì học nghề đã trở thành vấn đề quan trọng đối với toàn bộ xã hội và

từng cá nhân. Việc học nghề, yêu nghề, có đạo đức nghề nghiệp, lao động có kỹ

năng, kỹ xảo sẽ tạo cơ hội cho người lao động có việc làm, tự tạo việc làm, ổn

định việc làm và có thu nhập cao, ổn định cuộc sống, chống đói nghèo.

Có được đội ngũ thợ lành nghề, giỏi nghề là vấn đề có tính quyết định

đến việc tiếp cận với công nghệ cao, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

của doanh nghiệp để từ đó để Việt Nam nâng cao uy tín, khả năng cạnh tranh

của doanh nghiệp, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Người giỏi nghề

được tôn vinh, được quý trọng, có thu nhập cao, được bình đẳng, quý trọng như

các nhà khoa học, các chuyên gia vì thế mà số lượng người sau khi tốt nghiệp

phổ thông trung học, số lượng thanh niên, học sinh có nguyện vọng, nhu cầu học

nghề ngày càng tăng.

Năm 1998 cả nước tuyển mới vào học nghề là 525.600 người, trong đó số

người học nghề dài hạn là 75.600 và số người học nghề ngắn hạn là 420.000;

năm 2004 tuyển mới vào học nghề là 1.154.000 người, trong đó số người học

nghề dài hạn là 198.000 và số người học nghề ngắn hạn là 947.000. Quy mô

tuyển sinh học nghề năm 2004 tăng 2,18 lần so với năm 1998, trong đó quy mô

tuyển sinh học nghề dài hạn tăng 2,62 lần và dạy nghề ngắn hạn tăng 1,8 lần.

66

Nhiều trường dạy nghề có số học sinh đăng ký dự tuyển gấp 2-3 lần chỉ tiêu

được giao, cá biệt có một số trường dạy nghề số học sinh đăng ký vào học vượt

chỉ tiêu được giao tới hơn 10 lần

Bảng 2.2. Số lượng học sinh ngắn hạn và dài hạn từ 1997 đến 2004

Đơn vị tính: học sinh

Dài hạn Ngắn hạn Tổng số Năm

1997 57.000 390.000 447.000

1998 75.600 450.000 525.500

1999 97.100 592.900 690.000

2000 130.200 662.000 792.200

2001 126.100 761.200 887.300

2002 146.500 858.500 1.005.000

2003 165.000 905.000 1.070.000

2004 198.000 947.000 1.145.000

Nguồn: Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề năm 2004

Với việc tăng nhanh quy mô đào tạo nghề, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề

năm 2002 đã đạt 14,5% góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên trên 20%.

Đến năm 2004 quy mô tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn đã tăng với tốc độ

khá nhanh (đạt198.000 học sinh)

- Chất lượng đào tạo:

Chất lượng đào tạo tại các trường dạy nghề cần phải được đánh giá theo

67

các chuẩn mực quốc gia và quốc tế để đảm bảo hiệu quả sản xuất - dịch vụ khi

hành nghề bởi vì chính trình độ của người công nhân kỹ thuật sẽ quyết định trực

tiếp tới chất lượng sản phẩm làm ra ngay cả khi đã tiến hành sản xuất dịch vụ

theo công nghệ hiện đại. Đánh giá đúng chất lượng dạy nghề là khâu hết sức

quan trọng vì nó đảm bảo cho ra đời của đội ngũ công nhân kỹ thuật chất lượng

cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Quá trình dạy nghề tạo nên những thay đổi về giá trị của người công nhân

kỹ thuật. Trước khi vào trường dạy nghề và sau khi tốt nghiệp ra khỏi trường, giá

trị nói chung của người lao động có thay đổi lớn. Điểm đánh giá cho sự thay đổi

ấy là mục tiêu đào tạo đạt được. Có thể nhận thấy chất lượng của các trường

nghề qua hai đối tượng, đó là đánh giá chất lượng dạy nghề qua năng lực hành

nghề của người tốt nghiệp ở trường dạy nghề - "sản phẩm đặc biệt" qua kiến

thức kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hành nghề, phẩm chất và tác phong nghề

nghiệp, khả năng thích ứng với thị trường lao động và đánh giá chất lượng dạy

nghề qua kết quả dạy nghề ở trường dạy nghề.

Đối với học sinh tốt nghiệp trường nghề cần xác định rõ mức độ đạt được

của mỗi học sinh tốt nghiệp:

Về kiến thức (7 bậc): Biết - Hiểu - Vận dụng - Phân tích, tổng hợp - Đánh

giá - Phát triển - Sáng tạo.

Về kỹ năng (7 bậc): Bắt chước - Hình thành kỹ năng ban đầu (theo chỉ

dẫn) - Hình thành kỹ năng cơ bản (đúng, độc lập) - Liên kết, phối hợp kỹ năng -

Hình thành các kỹ xảo - Phát triển kỹ năng, kỹ xảo - Sáng tạo.

Đối với các nhà trường dạy nghề thì phải căn cứ vào kết quả thi tốt nghiệp

của học sinh trong khoá học, năm học. Tỉ lệ tốt nghiệp trung bình, khá, giỏi và

68

không tốt nghiệp và khả năng tìm việc làm phù hợp với nghề được đào tạo.

Do yêu cầu khách quan của sản xuất của thị trường lao động cùng với sự

nỗ lực của nhiều cơ sở dạy nghề, chất lượng dạy nghề từng bước được nâng lên.

Sự tăng trưởng kinh tế trong những năm qua có sự đóng góp tích cực và hiệu quả

trong đội ngũ lao động qua đào tạo nghề. Ở một số ngành: Bưu chính viễn thông,

Hàng không, Dầu khí, Dệt may, Da giày và một số nghề trong ngành cơ khí,

điện, điện tử... chất lượng đào tạo đã đáp ứng được yêu cầu của các doanh

nghiệp với công nghệ sản xuất hiện đại. Một số trường đã có đủ điều kiện đào

tạo công nhân kỹ thuật tương đương trình độ khu vực và có thể đảm nhận được

công việc mà trước đây phải do lao động kỹ thuật nước ngoài thực hiện (Trường

đào tạo nhân lực dầu khí đã đào tạo được thợ lặn cho một số nước trong khu vực;

Trường Công nhân kỹ thuật Bưu chính viễn thông, Trường Hàng không...).

Chất lượng dạy nghề đã có những tiến độ nhất định làm cho tỷ lệ giữa số

học sinh tốt nghiệp với số học sinh đầu vào khoá học đạt trên 90%; kiến thức và

kỹ năng của học sinh học nghề được nâng lên. Một số cơ sở nghề giúp học sinh

có năng lực tiếp cận và làm chủ được máy móc, thiết bị mới, hiện đại. Mặc dù

mới tham gia lần đầu nhưng tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 3 năm 2001

đoàn Việt Nam đã được xếp thứ 4 trong tổng số 7 đoàn tham dự với 1 huy

chương vàng, một huy chương bạc, 3 huy chương đồng và 6 giải khuyến khích;

đứng thứ 2 toàn đoàn trong tổng số 8 nước tại hội thi tay nghề ASEAN lần thứ 4;

đứng thứ 1 trong 8 đoàn tham dự tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 5. Điều

này cho thấy chất lượng dạy nghề ở nước ta đang từng bước tiếp cận được với

các nước trong khu vực.

Học sinh học nghề có kiến thức chuyên môn nghề loại khá và tốt là 40%,

loại trung bình là 48,9%, kỹ năng thực hành nghề loại khá và tốt là 30,4%, trung

69

bình là 58,7%.

Tỉ lệ học sinh xếp loại đạo đức tốt chiếm trên 60%, đạo đức yếu chỉ trên

1%; trên 85% học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề vào làm việc có kỷ luật

lao động, tác phong công nghiệp từ mức trung bình trở lên, trong đó tốt chiếm

trên 50%

Kết quả học tập của học sinh có những tiến bộ rõ rệt: tỉ lệ học sinh tốt

nghiệp đạt trên 96%, trong đó tỉ lệ tốt nghiệp loại khá trở lên tăng từ 26,26%

năm học 1998 - 1999 lên 32,2% năm học 2002 - 2003.

Dạy nghề ở nước ta hiện nay đã gắn với việc làm. Số học sinh học nghề

tốt nghiệp chiếm 90% và số người sau khi được học nghề đã có cơ hội tốt hơn

trong tìm việc làm và tự tạo việc làm. Tỉ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc

làm hoặc tự tạo việc làm đạt trên 70%, đặc biệt là các trường nghề trong các

doanh nghiệp đạt trên 90% trong ngành xây dựng, bưu chính viễn thông, điện

lực, may dùng... (số liệu điều tra thị trường lao động 2003), trong đó có khoảng

90% có việc làm phù hợp với nghề được đào tại. Số liệu điều tra lao động việc

làm tháng 7/2004 cho thấy tỉ lệ thất nghiệp của học sinh qua đào tạo nghề chỉ có

1,8%, trong khi đó Trung học chuyên nghiệp là 4,4%, Cao đẳng và Đại học là

3,8%.

Qua khảo sát nhanh trong tháng 7/2003 của Tổng cục Dạy nghề về đánh

giá của học sinh học nghề làm việc tại các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã

đánh giá như sau về học sinh họ nghề làm việc tại các doanh nghiệp:

+ Về kiến thức chung về chính trị xã hội và pháp luật:

31,4% có kiến thức khá và tốt

54,3% có kiến thức chung bình

70

+ Về kiến thức chuyên môn nghề:

Khoảng 33% đánh giá học sinh học học nghề có kiến thức

chuyên môn từ khá trở lên:

51,5% có kiến thức ở mức trung bình;

+ Về kỹ năng thực hành nghề, các mức đánh giá như sau:

Khá và tốt: 29,4%

Trung bình: 61,8 %

+ Về kỹ năng làm việc độc lập:

Khá và tốt: 20,6%

Trung bình: 52,9%

+ Về năng lực phân tích giải quyết vấn đề

Khá và tốt: 17,6%

Trung bình: 29,4%

+ Về năng lực thích ứng và tự điều chỉnh trong công việc

Khá và tốt: 38,2%

Trung bình: 41,2%

+ Về năng lực theo tổ nhóm

Khá và tốt: 55,9%

Trung bình: 35,3%

+ Về tác phong lao động công nghiệp

Khá và tốt: 48,5%

Trung bình: 34,3%

+ Về năng lực giao tiếp xã hội

71

Khá và tốt: 32,3%

Trung bình: 58,8%

Các cơ sở dạy nghề đã bồi dưỡng để chuyển đổi nghề đối với số lao động

dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Ở các vùng nông thôn,

nhiều người sau khi học nghề, bồi dưỡng nghề đã tự tạo được việc làm, lập cơ sở

sản xuất, mở trang trại, nâng cao thu nhập cho bản thân và gia đình. Hoạt động

chuyển giao công nghệ, truyền nghề cho lao động nông thôn đã góp phần chuyển

dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Việc bồi dưỡng, đào tạo lại nghề trong

các doanh nghiệp đã giúp người lao động tiếp cận được với công nghệ, kỹ thuật

mới, góp phần nâng cao năng suất lao động, ổn định việc làm và thu nhập.

Chất lượng dạy nghề được nâng lên là do các điều kiện đảm bảo cho dạy

nghề ngày càng tốt hơn. Trong một vài năm gần đây, Nhà nước, các tỉnh thành

phố, các ngành đã tăng cường đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề.

Cụ thể:

Đội ngũ giáo viên dạy nghề được củng cố và phát triển đã góp phần quyết

định đến chất lượng đào tạo. Số lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề đã tăng

lên đáng kể.

Về trình độ sư phạm, gần 82% số giáo viên có trình độ bậc I, bậc II. Thủ

tướng Chính phủ đã quyết định nâng cấp trường Sư phạm kỹ thuật nhằm hình

thành hệ thống các trường đào tạo giáo viên và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo

viên. Trình độ chuyên môn của giáo viên dạy nghề được nâng cao.

Nội dung, chương trình đào tạo đã và đang được xây dựng, đổi mới để phù

hợp với sự thay đổi của kỹ thuật và công nghệ sản xuất; cơ sở vật chất, trang

thiết bị dạy nghề được đầu tư, nâng cấp. Từ 1997 đến 2001, kinh phí đầu tư xây

dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề tăng từ 240 tỉ đồng lên 530

72

tỉ/năm. Một số trường đã đầu tư thiết bị dạy nghề hiện đại, công nghệ tiên tiến

như trường Công nhân kỹ thuật Việt - Hàn, Trường Đào tạo nghề điện, Trung

tâm Đào tạo kỹ thuật Việt Nam - Singapo, Trường Công nhân kỹ thuật bưu chính

viễn thông, Trường Công nhân kỹ thuật Quy Nhơn, Trung tâm Dạy nghề quận 5,

Trường Cao đẳng công nghiệp IV, Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội... đã làm cho

chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao.

Để dạy nghề đạt chất lượng cao thì nhiều phong trào thi đua dạy tốt, học

tốt được duy trì như Hội thi giáo viên giỏi, Hội thi học sinh giỏi nghề, Hội thi

bàn tay vàng các cấp thường xuyên được tổ chức. Năm 2000 đã tổ chức thành

công Hội thi giảng giáo viên giỏi toàn quốc. Năm 1999 đã tổ chức thành công

Hội thi thiết bị tự làm lần thứ nhất giúp cho các cơ sở dạy nghề có được những

kinh nghiệm trong việc sáng tạo được mô hình giảng dạy và tiết kiệm được kinh

phí.

Chất lượng đào tạo nghề ở một số ngành như bưu chính viễn thông, hàng

không, Dầu khí và một số nghề trong các ngành cơ khí, điện tử chất lượng đào

tao đã đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp với công nghệ sản xuất hiện

đại. Tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm hoặc tự tạo được việc

làm đạt trên 70%, ở các trường thuộc doanh nghiệp (ngành Xây dựng, Bưu chính

viễn thông, Điện lực, May mặc đạt trên 90%)

- Cơ cấu đào tạo:

Công tác đào tạo nghề là nhằm khắc phục những bất hợp lý về cơ cấu

nhân lực, tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được trang bị những kiến thức,

kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, có năng lực tiếp thu công nghệ mới để tự tạo việc

làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập nghiệp để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá

- hiện đại hoá. Nhà nước đã quy hoạch mạng lưới dạy nghề dựa trên chiến lược

73

phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, từng vùng kinh tế và

từng địa phương để từ đó điều chỉnh hợp lý cơ cấu ngành nghề, trình độ, vùng

miền, mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đảm bảo chất lượng, hiệu quả kết hợp

giữa dạy nghề và tạo việc làm, khuyến khích các cơ sở dạy nghề ngoài công lập,

cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp

vụ theo nhiều trình độ, liên thông giữa các ngành nghề, các trình độ đào tạo

nghề.

Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động trong các ngành công

nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ chúng ta đã tiến hành mở nhiều các trường dạy

nghề, Trung tâm dạy nghề và nhiều hình thức đào tạo nghề mới, đặc biệt là

chương trình đào tạo nghề cho nông dân để nâng cao trình độ, kỹ năng tay nghề

cho nông dân. Tập trung đào tạo một số ngành nghề công nghệ cao, dịch vụ chất

lượng cao nhất là ở thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, một số ngành

mũi nhọn như công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí chính xác, cơ - điện, điện -

điện tử, hàng không, hoá dầu, vật liệu mới, công nghệ sinh học và một số ngành

có nhu cầu sử dụng lao động lớn như dệt may, da giầy, thuỷ sản, dạy nghề phục

vụ sự nghiêp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn,

miền núi và xuất khẩu lao động.

+ Cơ cấu các cơ sở dạy nghề theo vùng lãnh thổ: nhìn chung, các cơ sở

dạy nghề được phân bố ở tất cả các vùng miền, địa phương trong cả nước. Vùng

có nhiều cơ sở nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm 32% số cơ sở), tiếp

đến là vùng Đông Nam Bộ (26,5% cơ sở). Đây là hai vùng có trình độ kinh tế

cao nhất vì các thành phố lớn và khu công nghiệp đều tập trung ở các vùng này.

Vùng có ít cơ sở nhất là vùng Tây Bắc (0,68%) và Tây Nguyên (0,85%).

Riêng đối với các trường dạy nghề đã hình thành mạng lưới các trường

74

trong toàn quốc, phục vụ nhu cầu đào tạo nghề của các vùng miền. Qua số liệu

tổng hợp cho thấy mặc dù hầu hết các tỉnh, thành phố đã có tối thiểu một trường

dạy nghề, nhưng các trường dạy nghề được phân bố chủ yếu ở các vùng kinh tế

trọng điểm, như vùng Đồng bằng sông Hồng (gần 31%), vùng Đông Nam Bộ

(37,56%). Số trường dạy nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng lớn gấp 17,67 lần

so với vùng Tây Bắc và gấp 13,25 lần so với vùng Tây Nguyên. Sự mất cân đối

về phân bố các trường nghề giữa các vùng phản ánh thực trạng phát triển kinh tế

không đồng đều giữa các vùng. Ngay từng vùng cũng có sự phân bố không đồng

đều các trường nghề. Các trường dạy nghề chủ yếu là ở các thành phố đô thị lớn,

còn ở các vùng nông thôn số lượng các trường dạy nghề còn ít. Chẳng hạn, ở

vùng Đồng bằng sông Hồng thì tại Hà Nội số trường dạy nghề chiếm gần 40% số

trường trong vùng. Hoặc ở vùng Đông Nam Bộ, riêng Thành phố Hồ Chí Minh,

chiếm gần 37% số trường của vùng…

Bảng 2.3. Cơ cấu đào tạo nghề chia theo vùng lãnh thổ, khu vực kinh

tế trọng điểm

Đơn vị tính: %

Trường

Trung

Trường TH - CĐ

Tổng số

DN

tâm DN

có dạy nghề

Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00

Trong đó

Đồng bằng sông Hồng 32,26 30,05 31,12 37,21

Đông Bắc 12,99 12,68 10,84 12,79

Tây Bắc 0,68 1,41 0,35

Bắc Trung Bộ 12,14 6,75 18,18 5,81

Duyên hải Nam Trung Bộ 9,91 5,63 11,19 16,28

75

Tây Nguyên 0,85 0,94 0,70 1,16

Đông Nam Bộ 26,50 3,56 19,58 20,93

Đồng bằng sông Cửu Long 6,67 5,16 8,04 5,81

Theo các tam giác kinh tế

Hà Nội, Hải Phòng, Quảng 23,59 22,07 23,08 30,23

Ninh

TP. Hồ Chí Minh, Đồng 24,44 34,47 17,83 19,77

Nai, Bình Dương

Nguồn: Tổng cục Dạy nghề

Cho đến nay tất cả các tỉnh/thành phố trong cả nước đã có trường dạy

nghề. Riêng đối với các địa phương của hai vùng tam giác trọng điểm, tỷ lệ các

trường dạy nghề tập trung khá cao. Ở tam giác trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải

Phòng, Quảng Ninh), số trường dạy nghề chiếm tới gần 23%, còn ở tam giác

trọng điểm phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương) tỉ lệ

này còn cao hơn.

Sự phân bố của các trung tâm dạy nghề cũng tương tự như các trường dạy

nghề. Phần lớn các trung tâm dạy nghề của cả nước tập trung ở vùng đồng bằng

sông Hồng (trên 30%) và Đông Nam Bộ (gần 20%). Vùng Tây Bắc số trung tâm

dạy nghề chiếm tỉ lệ rất nhỏ (0,35%). Vùng Tây Nguyên cũng chỉ chiếm chưa

đến 1%. Vùng miền Tây Nam Bộ có số trung tâm dạy nghề nhiều hơn Tây

Nguyên nhưng tỉ lệ cũng không đáng kể (8,045)

Theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay trong cả nước có 138 trường trung

học chuyên nghiệp, cao đẳng thì trong đó có 90 trường Trung học kỹ thuật, Cao

đẳng kỹ thuật có tham gia dạy nghề dài hạn với quy mô tuyển sinh trung bình

hàng năm khoảng 30% tổng số tuyển sinh dài hạn. Các trường này chủ yếu là các

76

trường thuộc khối kỹ thuật và cũng được phân bố tương tự như các trường dạy

nghề, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng (chiếm 37,21%) và vùng đông

Nam Bộ (chiếm 21%) trong đó tập trung nhiều nhất ở hai thành phố lớn là Hà

Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (Hà Nội chiếm 16% so với cả nước, 47,8% so

với vùng Đồng bằng sông Hồng; ở Thành phố Hồ Chí Minh tương ứng là 17,5%

và 77,4%)

Các trường Cao đằng, Trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy nghề dài

hạn hầu hết là các trường công lập (chiếm 96,5%), trong đó các trường thuộc các

Bộ, ngành là 59,3% và các trường thuộc địa phương là 40,7%.

Như thế ta có thể thấy rằng tại các thành phố đặc biệt là các thành phố lớn

như Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh các cơ sở đào tạo phát triển mạnh, thu

hút học sinh, người lao động tham gia vào đào tạo nghề nghiệp. Tuy nhiên, phần

lớn số lao động này sau khi tốt nghiệp (kể cả đào tạ ngắn hạn) không trở về làm

việc tại địa phương mà lại tìm việc tại thành phố. Trong khi đó, nhiều đại

phương rất thiếu công nhân kỹ thuật nhưng chưa thu hút được chính lao động là

người địa phương mình. Các chính sách thu hút công nhân kỹ thuật về địa

phương làm việc hoặc thiếu sức hấp dẫn. Điều này gây khó khăn cho việc phát

triển đồng bộ nền kinh tế nước ta ở khắp các vùng miền trong cả nước. Do đó,

việc quy hoạch mạng lưới đào tạo, dạy nghề theo vùng, địa phương trong những

năm tới cần phải cân đối và rông khắp đảm bảo nhu cầu cung ứng lao động mỗi

khu vực.

Bảng 2.4. Dự kiến quy hoạch các trung tâm dạy nghề đến năm 2010

Đơn vị tính: Trung tâm

TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm2010

1 Quy mô đào tạo của các trung tâm 450.000 900.000

77

dạy nghề

2 Số lượng các trung tâm dạy nghề 240 360

Trong đó

2.1 Đồng bằng Sông Hồng 65 80

2.2 Đông Bắc 25 50

2.3 Tây Bắc 10 15

2.4 Bắc Trung Bộ 30 45

2.5 Duyên hải Nam Trung Bộ 35 55

2.6 Tây Nguyên 10 15

2.7 Đông Nam Bộ 40 50

2.8 Đồng bằng Sông Cửu Long 25 50

Nguồn : Tổng cục Dạy nghề

+ Cơ cấu đào tạo theo ngành nghề đào tạo: Trong tổng số 71 nhóm nghề

được thống kê từ các cơ sở dạy nghề thì có 8 nhóm nghề đang có trên 100 cơ sở

tham gia đào tạo. Trong đó có 3 nhóm nghề có số lượng tham gia rất cao là: nghề

nguội (235 cơ sở), kỹ thuật điện (317 cơ sở) và nghề may (289 cơ sở). Bên cạnh

đó lại có tới 31 nhóm nghề chỉ có chưa tới 10 cơ sở trên cả nước tham gia đào

tạo và đặc biệt chỉ có 4 nhóm nghề chỉ có 1 cơ sở đang đào tạo là: lặn, tự động

hoá, tín dụng, kiểm sát.

Riêng đối với các trường dạy nghề thì chỉ có 61 nhóm nghề đang được

đào tạo, trong đó có 2 nhóm nghề đang có trên 100 trường tham gia đào tạo. Đó

là nhóm nghề kỹ thuật điện có số trường đào tạo cao nhất (117 trường) và nhóm

nghề nguội (112 trường); có 7 nhóm nghề đang có trên 50 trường tham gia đào

tạo. Một số nhóm nghề có nhiều trường đào tạo là: kỹ thuật sắt (87 trường), lái

xe ô tô (77 trường), kỹ thuật xây dựng (66 trường)…; có 25 nhóm nghề đang có

trên 10 trường tham gia đào tạo và có 7 nhóm nghề chỉ có 1 đến 2 trường tham

78

gia đào tạo.

Như vậy, các cơ sở đào tạo mới chỉ đào tạo khoảng 70 nhóm nghề phổ

biến, trong đó chỉ tập trung vào một số nhóm nghề nêu trên, trong khi đó các

doanh nghiệp kinh tế hiện nay lại cần sử dụng lao động với trên 300 nghề khác

nhau. Điều đó cho thấy sự hạn chế về số nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo

nghề. Hiện nay nhiều ngành nghề thuộc nền kinh tế truyền thống với kỹ thuật và

công nghề lạc hậu dần dần mất đi, thay thế bằng các ngành, nghề mới hiện đại,

đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều các ngành nghề sử dụng nhiều tri thức rõ ràng

tình hình đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động trên thị trường

lao động Việt Nam hiện nay.

Theo ngành nghề đào tạo, qua thống kê ở các trường dạy nghề công lập

cho thấy sự phân bố của các cơ sở này như sau:

Công nghiệp: 35,67%

Giao thông vận tải: 21,02%

Nông - Lâm - Ngư: 10,19%

Kinh tế - Dịch vụ: 9,55%

Xây dựng: 17,83%

Văn hoá - Bưu điện: 5,73%

Nhìn chung, một số trường nghề còn chưa theo kịp nhu cầu của thị trường

lao động. Xu hướng đào tạo chạy theo mong muốn ngắn hạn của người lao động,

chưa có chính sách và giải pháp phân luồng hữu hiệu dẫn đến hậu quả là đào tạo

chưa gắn với nhu cầu của các khu vực khác nhau của nền kinh tế và các ngành,

mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Số lao động có nghề thuộc lĩnh vực

sản xuất, chế biến nông lâm thuỷ sản đang rất thiếu trong khi nhu cầu ngày càng

bức xúc đối với khu vực nông thôn. Ở các vùng kinh tế chậm phát triển, đặc biệt

79

là vùng núi, vùng ven biển và hải đảo, vùng sâu đang có nhu cầu ngày càng

nhiều về số lao động được đào tạo ở các nghề mới thuộc lĩnh vực chế biến, khai

thác, dịch vụ, quản lý…

+ Cơ cấu đào tạo theo trình độ nghề: Các nghề đào tạo ghi trong danh

mục nghề đào tạo có thể được đào tạo ban đầu ở các trình độ hay các mức độ

nghề khác nhau, đó là sự phân hoá mục tiêu đào tạo nghề theo chiều sâu. Hiện

nay mạng lưới các trường dạy nghề phát triển thành hệ thống đào tạo kỹ thuật

thực hành với 3 cấp trình độ

Công nhân kỹ thuật lành nghề: Trình độ công nhân kỹ thuật, nhân viên

nghiệp vụ được đào tạo nghề theo chuẩn, thể hiện ở mức độ mục tiêu hình thành

người công nhân với khả năng làm được, nhân viên nghiệp vụ với nhân cách

phát triển toàn diện, hài hoà, chính quy, được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề

diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp. Đó

là trình độ nghề vẫn thường được gọi là bậc 3/7 và tương đương.

Lao động được đào tạo ở cấp trình độ này chiếm tỉ trọng lớn chủ yếu để

phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu chế xuất, những dây chuyền sản xuất công

nghệ cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động và chuyên gia, dịch vụ sản xuất

sản phẩm cho xuất khẩu áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động mà Việt

Nam có ưu thế cạnh tranh (dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử,

ô tô...). Cấp trình độ này hiện nay còn thấp so với nhu cầu ngày càng cao của thị

trường sức lao động nên trong những năm tới chúng ta cần mở rộng quy mô đào

tạo cho các ngành nghề, nhất là các ngành nghề áp dụng công nghệ sử dụng

nhiều lao động các ngành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu mà Việt Nam có ưu

thế cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế (dệt may, giày dép,

80

chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử, ô tô, xe máy...).

Công nhân bán lành nghề: là trình độ được đào tạo nghề dưới chuẩn, được

trang bị một số kiến thức và kỹ năng nghề nhất định thể hiện ở mức độ mục tiêu

hình thành người công nhân với khả năng làm được từ một vài công việc của

nghề tới làm được tương đối nhiều công việc của nghề nhưng chưa đạt chuẩn,

thông qua đào tạo ban đầu ngắn hạn không chính quy, thường thiên về thực hành

tay nghề.

Tổ chức đào tạo công nhân cấp trình độ này nhằm cung cấp lao động cho

ngành nghề giản đơn, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu lao

động tại chỗ, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế gia đình, các làng nghề và tăng

cơ hội có việc làm cho người lao động. Tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp

trình độ này sẽ giảm dần trong kế hoạch đào tạo song vẫn chiếm phần lớn tổng

số lao động hàng năm.

Công nhân trình độ cao (lành nghề cao): là đội ngũ công nhân được trang

bị kỹ năng nghề nghiệp thành thạo và kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết

dựa trên học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp để có khả

năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa

dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại.

Đào tạo ở cấp trình độ này nhằm để phục vụ theo yêu cầu phát triển của

công nghệ sản xuất, theo xu thế quốc tế để hội nhập và cạnh tranh trên thị trường

lao động trong và ngoài nước, mà ở đó đòi hỏi người lao động phải có trình độ

tay nghề cao cùng với trình độ chuyên môn kỹ thuật ở bậc trung cấp và cao đẳng.

Vì vậy hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức, tập trung đào tạo cho phù hợp

với yêu cầu áp dụng công nghệ cao, cung cấp lao động cho các ngành kinh tế

mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu công nghệ cao... tạo

81

nền tảng tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.

Như vậy, hệ thống đào tạo nghề với 3 cấp trình độ cho phép nền kinh tế

tiếp nhận từ lao động ở trình độ văn hoá còn thấp, lao động dôi dư, lao động

chưa có nghề... đến những học sinh có trình độ trung học cơ sở và cũng như

những lao động có trình độ cao. Đây là một hệ thống mở, còn thay đổi theo thời

gian. Nó càng đa dạng, phong phú và mềm dẻo thì đào tạo nghề càng linh hoạt

và đáp ứng được nhu cầu. Trình độ bán lành nghề chủ yếu do các cơ sở dạy nghề

ngắn hạn thực hiện. Trình độ lành nghề và lành nghề cao do các trường dạy

nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật có chức năng và

nhiện vụ dạy nghề thực hiện.

2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam

2.3.1. Thành công

Có thể nói rằng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam đã trải qua những bước

thăng trầm khác nhau nhưng hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức

quan tâm khiến cho hệ thống đào tạo nghề đã có những bước khởi sắc và ngày

càng hoàn thiện. Chúng ta đã hình thành được mạng lưới các trường dạy nghề đa

dạng, phong phú và đang phát triển mạnh góp phần đào tạo đội ngũ lao động

Việt Nam đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội tạo tiền đề vững chắc

để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Quy mô đào tạo của hệ thống dạy nghề ngày càng tăng nhanh; số lượng

các trường dạy nghề, loại hình đào tạo, cơ cấu đào tạo ngày càng hoàn thiện

cũng như số lượng người học ngày càng gia tăng khẳng định vai trò của việc đào

tạo nghề đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Chất lượng đào tạo nghề cũng từng bước được nâng lên rõ rệt. Tỉ lệ người

ra trường có việc làm và khả năng tự tạo việc làm ngày càng cao. Đội ngũ giáo

82

viên ở các trường ngày càng được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng, cơ sở

vật chất được đầu tư với quy mô ngày càng lớn, công tác quản lý nhà nước được

củng cố và tăng cường.

2.3.2. Những vấn đề đặt ra

Tuy đã thu được nhiều thành tựu nhưng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam

hiện nay vẫn còn một số vấn đề cần phải khắc phục và hoàn thiện.

Thứ nhất, đó là cơ cấu hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng

được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, cả về chất lượng và số lượng của đội ngũ

công nhân. Chất lượng đào tạo nghề trong những năm qua tuy có được nâng lên

một bước nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao đối với lao động kỹ

thuật trong sản xuất. Yếu kém này là do các điều kiện đảm bảo chất lượng đào

tạo nghề tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng

thiếu thiết bị dạy nghề cả về số lượng và chất lượng đang là tình trạng chung của

nhiều cơ sở dạy nghề, nhất là cơ sở dạy nghề của các địa phương:

+ Bình quân, tổng diện tích mặt bằng của các trường dạy nghề là hơn 24,4 nghìn m2. Diện tích mặt bằng của các trường Trung ương cao gấp 4 lần so với

các trường địa phương. Diện tích mặt bằng của các trường công lập cao gấp 20

lần các trường ngoài công lập. Diện tích xây dựng cho các trường dạy nghề là rất

thấp, đặc biệt là diện tích phòng học/1 học sinh. Đáng chú ý nhất là diện tích

phòng học/1 học sinh của các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và vùng Tây Bắc là quá hẹp (1,0 và 1,2m2). Chất lượng phòng học, nhà xưởng của các trường dạy

nghề nhìn chung đã được cải thiện tuy nhiên vẫn còn khoảng 31% số phòng học

và 50,7% số xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm.

+ Về trang thiết bị giảng dạy và thực tập, qua khảo sát cho thấy khoảng

50% số trang thiết bị được sản xuất trước 1995, trong đó có 6% số thiết bị được

83

sản xuất trước 1975 và đa số chỉ đạt ở mức công nghệ trung bình (64,3%), chỉ

khoảng trên 20% là hiện đại. Có một số nghề mà trang thiết bị sử dụng cho thực

hành nghề rất lạc hậu như nghề in, vận hành thiết bị hoá, luyện kim, sửa chữa

thiết bị chính xác...

+ Chương trình đào tạo phù hợp, hiện đại là yêu cầu không thể thiếu đối

với hoạt động đào tạo nghề. Chương trình đào tạo phù hợp được cấp có thẩm

quyền phê duyệt là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng đào

tạo. Theo thống kê, trong tổng số 142 nghề mà các trường dạy nghề trong nước

hiện đang đào tạo thì có 13 nghề trong đó 93,0% số trường dạy nghề có chương

trình đào tạo. Ngược lại có 10 nghề được đào tạo ở nhiều trường không có

chương trình đào tạo. Trong số này, nghề có tỉ lệ trường không có chương trình

lớn là: gò (gần 90%), vận hành quản lý đường dây (20%), bê tông cốt thép

(18,75%), các loại nghề: khảo sát đại hình, rèn, lắp đạt cầu, vận hành máy xúc,

lái cẩu... Đối với các trường nghề có chương trình đào tạo thì đa số chương trình

do cấp có thẩm quyền ban hành nhưng cũng có trường có một số nghề mặc dù có

chương trình nhưng do nhà trường tự biên soạn, chưa được cấp có thẩm quyền

phê duyệt (chiếm 18,3%).

+ Hiện nay cả nước có khoảng 18.000 giáo viên dạy nghề, trong dó có

7.500 giáo viên trong các trường dạy nghề. Qua số liệu điều tra bình quân trong

một cơ sở dạy nghề có 58 cán bộ, giáo viên, riêng ở các trường dạy nghề có

khoảng 51 người. Nếu tính bình quân trên 1.000 học sinh ở các trường dạy nghề

công lập có 86 cán bộ, giáo viên và ngoài công lập có 78 người. Ở một số trường

ở Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên hoặc đồng bằng sông Cửu Long, số cán bộ

giáo viên bình quân trên một cơ sở rất thấp như ở Duyên hải miền Trung chỉ có

25 người, Tây nguyên 35 người… Tính chung lại số giáo viên, cán bộ trong các

trường dạy nghề chỉ bằng 48,57% so với trường Cao đẳng, Trung học có dạy

84

nghề và gấp 2,13 lần so với số cán bộ, giáo viên của một trung tâm dạy nghề.

Trong số cán bộ, giáo viên dạy nghề thì số giáo viên chiếm 55,32%, như vậy,

bình quân mỗi trường dạy nghề có từ 30 đến 40 giáo viên. Số giáo viên trong các

trường dạy nghề còn rất thiếu về số lượng, còn xa chúng ta mới đạt chuẩn 1 giáo

viên/15 học sinh. Về chất lượng, đa số giáo viên trong các trường dạy nghề tuổi

đời còn trẻ và có thâm niên công tác từ 10 năm trở xuống (chiếm gần 40%),

trong đó có đến 23,94% số giáo viên có thâm niên dưới 5 năm.

Qui mô đào tạo, nhất là quy mô đào tạo nghề dài hạn còn nhỏ so với yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội: Mặc dù qui mô tuyển sinh đào tạo nghề, nhất là

quy mô tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn trong những năm gần đây đã tăng với

tốc độ khá nhanh, nhưng năm 2004 tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn cũng chỉ

phấn đấu đạt được 198.000 học sinh. Trong lúc đó nhu cầu lao động qua đào tạo

nghề hiện nay rất lớn để cung cấp cho các khu công nghiệp, xuất khẩu lao động,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông

nghiệp. Qua các hội chợ việc làm ở các địa phương cho thấy nhu cầu tuyển dụng

lao động qua đào tạo nghề dài hạn khá lớn nhưng số người đăng ký xin việc lại

ít. Điều đó cho thấy cung về nhân lực qua đào tạo nghề dài hạn vẫn còn chưa đáp

ứng được cầu của thị trường lao động.

Mạng lưới cơ sở dạy nghề tuy đã được sắp xếp nhưng vẫn chưa đáp ứng

được nhu cầu đào tạo nghề của các vùng nhất là khu vực nông thôn: Mạng lưới

trường dạy nghề trong những năm qua phát triển nhanh, nhưng đến nay số lượng

trường dạy nghề cũng chỉ mới đạt được 2/3 số trường dạy nghề vào thời điểm

cao nhất (năm 2004 có 226 trường dạy nghề trong khi năm 1980 có 336 trường

dạy nghề). Mặt khác nhiều trường dạy nghề đã được thành lập trong những năm

gần đây nhưng lại đang trong giai đoạn xây dựng do thiếu vốn. Nhiều khu công

nghiệp khi hình thành chưa chú ý đến việc thành lập các trường dạy nghề để

85

cung cấp nguồn nhân lực cho khu vực. Việc thực hiện mục tiêu đến 2010 mỗi

huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề là rất khó khăn vì trong số hơn 600

quận, huyện trong cả nước đến nay mới có khoảng 100 quận, huyện có trung tâm

dạy nghề. Số trường dạy nghề ngoài công lập tuy có phát triển nhưng vẫn chiếm

một tỉ lệ thấp (11%).

Có lẽ nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế của hệ thống đào tạo

nghề là do:

+ Yếu tố nhận thức và tâm lý xã hội: vì người Việt Nam nói chung đều có

nguyện vọng muốn học để có bằng cấp, không thích làm "thợ" mà thích làm

"thầy", làm "cán bộ" để có biên chế và địa vị trong xã hội. Mức thang đo giá trị

con người đang được xã hội đo bằng cấp. Trong xã hội nhiều người "có chữ",

"có học", có bằng cấp cao được coi trọng hơn mặc dù nhiều khi công việc đang

làm không liên quan gì đến bằng bằng cấp, chuyên môn nghề nghiệp được đào

tạo. Thực tiễn đó nảy sinh tâm lý bằng mọi giá vào được đại học để có bằng đại

học. Một học sinh vào được đại học là cả họ hàng, làng xóm liên hoan, chúc tụng

còn những người lao động có tay nghề cao, có bàn tay vàng, làm việc có hiệu

quả cao nhưng không có bằng Đại học ít khi được đề cao trong xã hội. Xã hội,

gia đình và người học chưa nhận thức đầy đủ vai trò của nghề nghiệp đối với sự

phát triển của cá nhân và sự hưng thịnh của đất nước. Vì vậy, hệ thống đào tạo

nghề từ lâu chỉ chủ yếu tiếp nhận những học sinh sau khi đã thi trượt cao đẳng,

đại học.

+ Thiếu tính liên thông trong đào tạo: xu hướng chung của các nước trên

thế giới là xây dựng xã hội hoá học tập và tạo điều kiện cho mọi người học tập

suốt đời bằng chính sách liên thông trong đào tạo. Nhưng ở nước ta chưa có

chính sách liên thông trong đào tạo, nhánh phân luồng đi vào nghề nghiệp chưa

86

có sự liên thông về nội dung chương trình, hình thức đào tạo để người học có

điều kiện học tập suốt đời. Thức trạng đó đã dẫn đến một số bất cập nảy sinh

trong quá trình đào tạo như đã vào học nghề là ít có cơ hội học lên ở bậc học cao

hơn. Muốn học nghề khác hoặc học tiếp các trình độ khác phải quay lại học từ

đầu. Những kiến thức và kỹ năng đã được học ở nghề khác hoăc ở bậc học dưới

không được tính mà vẫn phải học lại dẫn đến sự lãng phí cho cá nhân người học,

cho xã hội và tính kém hấp dẫn của dạy nghề.

+ Vấn đề tiền lương và việc làm của người lao động đã qua đào tạo nghề:

Như chúng ta đã biết đa số những người học nghề là những người có điều kiện

kinh tế khó khăn, mong muốn của họ là sau khi học nghề sẽ kiếm được việc làm

và tự tạo được việc làm. Qua thực tế cho thấy những trường dạy nghề, cơ sở dạy

nghề có tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm cao thì có nhiều học sinh

xin vào học nghề như các trường bưu chính viễn thông, điện lực, may mặc... Tỷ

lệ học sinh có việc làm sau khi tốt nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu

tố cơ bản là kế hoạch đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề phải xuất phát từ nhu

cầu của thị trường lao động tức là nhà trường đào tạo những nghề và với số

lượng mà nhu cầu thị trường lao động cần chứ không đào tạo các nghề mà nhà

trường có khả năng đào tạo. Hiện nay giữa đào tạo và sử dụng vẫn còn chưa có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cung và cầu không gặp nhau. Kết quả tất yếu của

tình trạng đó là có nghề sẽ thiếu và có nghề sẽ thừa so với nhu cầu của thị trường

lao động làm co số học sinh học những nghề vượt cầu của thị trường lao động sẽ

khó tìm được việc làm.

+ Chính sách khuyến khích học nghề của nhà nước ta hiện nay còn yếu và

thiếu: cho đến nay chính sách khuyến khích cho học sinh học nghề nằm trong

chính sách chung đối với học sinh - sinh viên, nhưng trong chính sách chung đó

lại có sự phân biệt đối xử với học sinh học nghề. Theo quy định tại Quyết định

87

1121/1997/QĐ-TTg ngày 22/12/1997 về học bổng và trợ cấp đối với học sinh,

sinh viên đối với các trường đào tạo công lập và Thông tư Liên tịch số

53/1998/TTLT- Bộ Giáo dục và đào tạo - Bộ Tài chính - Bộ Lao động Thương

binh và Xã hội ngày 25/ 8/1998 thì mức học bổng khuyến khích học tập các loại

khá, giỏi, xuất sắc đối với học sinh dạy nghề đều thấp hơn so với mức học bổng

loại tương ứng của học sinh sinh viên các khối trường khác.

Hiện nay có những nghề đào tạo rất khó tuyển sinh, đó là những nghề làm

việc trong điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại, như

nghề khai thác hầm lò, nghề đúc.v.v… Đối với những nghề này cần có chính

sách riêng để thu hút người học.

Người học nghề sau khi tốt nghiệp sẽ đi vào thị trường lao động theo hai

hướng: Hướng thứ nhất là tìm việc ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ;

hướng thứ hai là sử dụng các kiến thức, kỹ năng đã học trong trường để tự tạo

việc làm trước hết cho bản thân mình và cho nhnững người khác. Những người

đi theo hướng thứ hai thường gặp khó khăn về vốn để mở cơ sở sản xuất kinh

doanh của mình. Vì vậy, đối với những người này cần có chính sách ưu đãi về

vay vốn.

Cơ chế, chính sách của Nhà nước về dạy nghề chưa tạo được động lực đủ

mạnh cho các cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề và người học nghề.

Bên cạnh đó là mức tăng đầu tư cho dạy nghề không gắn với mức tăng chỉ tiêu

đào tạo nghề. Mức kinh phí cho dạy nghề dài hạn tuy đã được tăng lên, nhưng

cũng chỉ mới đạt bình quân khoảng 3,2 triệu/học sinh/năm (bằng 74% mức quy

định năm 1998). Một nguyên nhân nữa là quan hệ giữa các cơ sở dạy nghề và

các doanh nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo nghề chưa được chặt chẽ, nhiều

doanh nghiệp và người sử dụng lao động chưa thấy được trách nhiệm và lợi ích

88

của mình trong công tác đào tạo nghề.

Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà

nước hết sức quan tâm. Đầu tư cho đào tạo nghề ngày càng nhiều và có hiệu quả.

Nhận thức của người dân về nghề nghiệp ngày càng tích cực; chất lượng, số

lượng đào tạo nghề ngày càng tăng, chúng ta lại có nhiều những cơ hội để phát

triển, hội nhập và hoàn thiện. Nhưng bên cạnh đó chúng ta đang gặp không ít các

khó khăn như tâm lý phân biệt công nhân và cử nhân đại học, đầu tư vốn ít, cả số

lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề đều chưa được đáp ứng, cơ sở vật chất

còn lạc hậu… Vì thế trong những năm tới chúng ta cần phải chú trọng tập trung

vào công tác đào tạo nghề để phát triển và hoàn thiện số lượng và chất lượng

nguồn nhân lực Việt Nam.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH

89

CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ

3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra

đối với hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật

Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển

với qui mô rộng, trình độ ngày càng cao tạo tiền đề cho việc hình thành nền kinh

tế tri thức. Đồng thời, cùng với thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta đang từng bước

chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, lập đội ngũ công nhân kỹ

thuật càng có vai trò hết sức to lớn.

Trong gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới từ 1986 đến nay, Việt Nam

đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tính bình quân 5 năm

2001 - 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt gần 7,5%, cao hơn 0,6% so với 5

năm trước, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,6%; công nghiệp và xây dựng

đạt 10,3%; các ngành dịch vụ đạt 7,0%. Bình quân 10 năm từ 1996 đến 2005 nền

kinh tế tăng trưởng khoảng 7,2%, năm 2005 dự kiến GDP là 815 nghìn tỷ đồng,

bình quân đầu người là 9,8 triệu đồng (tương đương với 600 USD). Cùng với

tăng trưởng kinh tế chúng ta đã duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm

ổn định chính, xã hội, quốc phòng an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế

của đất nước, của từng vùng và từng ngành. Chúng ta đã cải cách thể chế kinh tế,

từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải

cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển

nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học công nghệ... Khu vực kinh tế

tư nhân phát triển nhanh chóng sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực từ

1/1/2000, tạo việc làm cho hơn 1,75 triệu người.

Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 5

90

năm khoảng 5,4% trong đó ngư nghiệp tăng 10,7%; lâm nghiệp tăng 1,3%; nông

nghiệp tăng 4,0%. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình

quân 15,7%/năm, cao hơn 1,6% so với 13,9% giai đoạn 1996 - 2000. Các ngành

dịch vụ có bước chuyển biến tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về

sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Đã bắt đầu quá trình bình đẳng

giá dịch vụ giữa người nước ngoài và người trong nước. Giá trị sản xuất của các

ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7,6%. Giá trị tăng thêm của

ngành dịch vụ tăng bình quân 7,0% trong giai đoạn 2000 - 2005.

Cùng với tăng trưởng kinh tế quỹ tiêu dùng và quỹ tích luỹ có nhiều cải

thiện theo hướng tăng nhanh tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ tiết kiệm trong

nước so với tổng sản phẩm trong nước năm 2005 đạt khoảng 29,4%, trong đó

tích luỹ từ khu vực dân cư và doanh nghiệp chiếm khoảng 23,4%, tích luỹ từ khu

vực Nhà nước chiếm khoảng 6%.

Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định trong nhiều năm là một thành tựu rất quan

trọng. Sau một giai đoạn dài lạm phát phi mã không kiềm chế được ở đầu thập

kỷ 1980 ccủa thế kỷ XX, lạm phát giảm từ mức gần 800% năm 1986 xuống một

con số vào đầu những năm 1990 và giữ ở mức tương đối thấp cho đến nay; thâm

hụt ngân sách luôn ở mức dưới 5% GDP.

Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, bình quân đạt tốc độ trên 25%/năm, một

mức tăng cao hơn hẳn nhiều nước đang phát triển. Mức độ mở cửa thương mại

khá cao so với thế giới: Kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP khoảng 120%.

Số doanh nghiệp đăng ký trực tiếp xuất nhập khẩu đã tăng lên từ 3500 năm 1998

lên 2000 năm 2002. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp tăng từ 10 tỷ USD năm

2000 lên 22,4 tỷ USD năm 2005 và chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu cả

nước. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phong phú hơn, đặc biệt một số sản phẩm cơ

91

khí đòi hỏi công nghệ cao như điện tử, xe máy, tàu thuỷ... đã có chỗ đứng ở một

vài thị trường. Thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu ngày càng được

mở rộng, người tiêu dùng được tiếp cận các hàng hoá và dịch vụ với chủng loại

đa dạng và chất lượng tốt hơn

Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tương đối rõ nét. Trong giai đoạn 1991 -

2000, nông nghiệp giảm mạnh từ 40% xuống còn 23% GDP, công nghiệp tăng

nhanh nhất từ 24% lên 38%. Công nghiệp chế tạo tăng trung bình 10%/năm

trong giai đoạn 1999 - 2002, tổng sản lượng công nghiệp cũng tăng nhanh với

mức 14%/năm trong cùng giai đoạn, nhiều ngành mới, sản phẩm mới xuất hiện.

Đến 2005 tỉ trọng giá trị nông - lâm - ngư nghiệp còn khoảng 19%, công nghiệp

khoảng 42%, dịch vụ khoảng 39%.

Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang có những dấu hiệu cho thấy việc

tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao là rất khó khăn.

Tốc độ tăng xuất khảu trong năm 2001 - 2002 chỉ còn khoảng hơn 11% so với

hơn 30% những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đầu tư nước ngoài cam kết

và thực hiện chưa khôi phục được mức tăng trong những năm cuối 80 đầu 90:

vốn đăng ký bình quân năm còn khoảng 2 tỷ USD năm 2001 - 2002 so với 7,2 tỷ

trong các năm 1995 - 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể: 2,3 tỷ

so với 2,6 tỷ trong thời kỳ so sánh trên; tính theo đầu người năm 2002 là 17$ so

với 29$ năm 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể (2,3 tỷ) so với

(2,6 tỷ) trong thời kỳ so sánh.

Hơn nữa, nền kinh tế chưa tận dụng hết lợi thế cạnh tranh về lao động, vốn

đầu tư đang hướng vào những dự án lớn, hiệu quả không cao. Yêu cầu về vốn

đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng (hệ số ICOR) đã tăng nhanh trong những

năm gần đây, từ 3,5 - 4 vào cuối những năm 90 lên hơn 5,9 vào năm 2001. Chủ

92

yếu đó là những đầu tư của khu vực Nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn

đàu tư nước ngoài vào những dự án chậm thu hồi vốn, không bù đắp được chi

phí thực tế bỏ ra hoặc tạo được ít việc làm. Hạ tầng yếu kém với chất lượng dịch

vụ thấp và kém đa dạng là điểm yếu quan trọng gây cản trở cho phát triển kinh

tế.

Trong bối cảnh đó, thực hiện đường lối phát triển kinh tế dựa vào nội lực

và tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào

kinh tế khu vực và thế giới đang được thực hiện với tốc độ ngày càng tăng, ngày

càng sâu sắc và toàn diện, trong đó có việc thực thi cam kết với các nước

ASEAN (ví dụ như Hiệp định AFTA và AIA, AICO) và chuẩn bị tham gia

WTO. Việc thực hiện cam kết này vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho

nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần xác định những điều chỉnh chính sách phù hợp

để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức.

Ngày nay toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế

giới. Thời đại toàn cầu hoá đã mở ra nhiều cơ hội tốt đẹp cho hàng tỷ người ở

các nước trên thế giới. Chính thương mại thế giới và đầu tư quốc tế trực tiếp

ngày càng tăng lên, kỹ thuật mới, thiết bị và mạng thông tin liên lạc ngày càng

phát triển đã tiếp thêm sức sống cho sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của

loài người.

Không còn nghi ngờ gì nữa, toàn cầu hoá đã tạo ra cơ may lớn cho sự tiến

bộ của loài người, cho sự tăng trưởng kinh tế. Toàn cầu hoá hiện nay do sự mở

cửa, thị trường thúc đẩy vì thế trong tiến trình toàn cầu hoá thị trường chiếm địa

vị chủ đạo ai chiếm được vị trí trong cạnh tranh thị trường người đó sẽ chiếm

được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá. Có thể nói vấn đề cạnh tranh

có tính chất toàn thế giới, quan hệ tới địa vị và lợi ích của mỗi quốc gia trong

93

tiến trình toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng tự do hoá thương mại có thể trở thành

một bước tiến tới xây dựng thị trường có tính chất cạnh tranh, song nó không thể

trở thành cái đảm bảo cho thị trường có tính chất cạnh tranh. Thêm đó trong khi

đảm bảo năng suất, thị trường có tính chất cạnh tranh vẫn không thể đảm bảo

thực hiện được bình đẳng do đó các nước không thế cùng hưởng một cách bình

đẳng lợi ích to lớn do toàn cầu hoá tạo ra. Trong khi giữ vững thị trường và lợi

thế cạnh tranh còn phải chú ý tới nhân lực và tài nguyên, môi trường nhằm đảm

bảo toàn cầu hoá có lợi cho nhân dân chứ không phải chỉ chạy theo xu thế.

Như thế có thể nói toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng không thể đảo ngược

của kinh tế hiện đại. Toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng không chỉ đến kinh tế của

một nước mà còn ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác trong đó

có lĩnh vực đào tạo. Để hội nhập với kinh tế thế giới, chúng ta cần phải bắn nhịp

chung với các tri thức của nhân loại. Sự hợp tác trong đào tạo đa phương và song

phương ngày càng phát triển, điều này đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới hệ thống

đào tạo trong đó có việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy,

nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đồng thời phải đầu tư trang thiết bị phù

hợp... để đào tạo ra những công nhân kỹ thuật vừa nắm vững lý thuyết vừa có kỹ

năng kỹ xảo nghề nghiệp và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của công

nghệ. Nâng cao chất lượng đào tạo là yêu cầu sống còn đối với các cơ sở đào tạo

để bắt kịp trình độ đào tạo của các nước phát triển.

Để có đội ngũ lao động chất lượng cao, phải dựa trên cơ sở nâng cao trình

độ dân trí đồng thời phải phát triển giáo dục nghề nghiệp, giáo dục cao đẳng đại

học và sau đại học. Ở nước ta vấn đề nâng cao dân trí đã đạt được tỉ lệ khá cao so

với thế giới, song tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp đặc biệt là công nhân kỹ

thuật. So sánh với quốc tế, mặc dù Việt Nam vẫn còn lợi thế về giá lao động thấp

song lợi thế này sẽ mất dần về lâu dài. Muốn chiếm ưu thế trong cạnh tranh thì

94

không còn con đường nào khác là tập trung đào tạo một đội ngũ lao động kỹ

thuật cao có đủ khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế, hơn nữa là có khả

năng đi ngay vào nền kinh tế tri thức. Chúng ta phải quan tâm đến hai chỉ tiêu

quan trọng của phát triển kinh tế tri thức đó là tỉ lệ phần trăm công nhân tri thức

trong tổng lực lượng lao động và tỉ lệ phần trăm GDP từ các ngành kinh tế tri

thức. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tập trung nguồn lực để đào tạo công

nhân kỹ thuật trình độ cao cho các ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn, các khu

công nghiệp, khu công nghệ cao… nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh

học, tự động hoá và công nghệ vật liệu mới.

Nằm trong bối cảnh chung đó, đội ngũ công nhân công nghiệp của chúng

ta cũng chịu sự tác động và có những thay đổi thay đáng kể. Những đổi thay của

giai cấp công nhân Việt Nam trước hết gắn với sự phát triển của các ngành công

nghiệp của đất nước. Thực trạng trên cho chúng ta hình dung rõ nét hơn sự biến

đổi của đội ngũ công nhân trong gần 20 năm qua và cũng thấy được tầm quan

trọng của việc phải xây dựng được đội ngũ công nhân lớn mạnh vì nước ta phải

thực hiện đồng thời hai quá trình từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp

và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức, chúng ta không thể chờ công

nghiệp hoá rồi mới lên kinh tế tri thức, hai quá trình này lồng ghép làm một đó là

công nghiệp hoá dựa vào tri thức vì hiện nay toàn cầu hoá, hội nhập khu vực và

quốc tế đang là xu thế tất yếu khách quan và nhu cầu cấp bách đối với mỗi quốc

gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong xu thế

đó, sự cạnh tranh càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, lợi thế

cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy,

chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chìa khoá để phát

triển kinh tế. Nguồn nhân lực nói chung, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp

vụ có chất lượng cao nói riêng đang thực sự trở thành yếu tố cơ bản trong sự

95

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế và

phát triển bền vững của đất nước, tạo sức cạnh tranh trên thị trường lao động

trong nước, khu vực và quốc tế. Phát triển đội ngũ công nhân kỹ thuật được

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong phát triển nền giáo dục như là quốc

sách hàng đầu. Chủ trương quan điểm của Đảng về đào tạo công nhân kỹ thuật

ngay khi giành được chính quyền và không ngừng đổi mới, hoàn thiện qua các

thời kỳ. Nổi bật nhất là Đại hội VIII của Đảng đánh dấu mốc quan trọng trong

đổi mới tư duy về phát triển và đào tạo lao động kỹ thuật trong điều kiện phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là thời

kỳ đòi hỏi phải phát triển và đào tạo công nhân kỹ thuật nhất là công nhân kỹ

thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập

kinh tế quốc tế.

Vì vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu

phát triển đối với đào tạo nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là: đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức

kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử

dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,

đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các

ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động, hình thành hệ thống đào tạo kỹ

thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, trong đó chú trọng

phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và

nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao.

Nằm trong bối cảnh chung đó, đội ngũ công nhân công nghiệp của chúng

ta cũng chịu sự tác động và có những thay đổi thay đáng kể. Những đổi thay của

giai cấp công nhân Việt Nam trước hết gắn với sự phát triển của các ngành công

nghiệp của đất nước. Thực trạng trên cho chúng ta hình dung rõ nét hơn sự biến

96

đổi của đội ngũ công nhân trong hơn gần 20 năm qua và cũng thấy được tầm

quan trọng của việc phải xây dựng được đội ngũ công nhân lớn mạnh vì nước ta

phải thực hiện đồng thời hai quá trình từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công

nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Chúng ta không thể chờ

công nghiệp hoá rồi mới tiến lên kinh tế tri thức. Hai quá trình này phải lồng

ghép làm một đó là công nghiệp hoá dựa vào tri thức vì hiện nay toàn cầu hoá,

hội nhập khu vực và quốc tế đang là xu thế tất yếu khách quan và nhu cầu cấp

bách đối với mỗi quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có

Việt Nam. Trong xu thế đó, sự cạnh tranh càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn.

Trong lĩnh vực kinh tế, lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn

nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao chính là chìa khoá để phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực nói chung, công

nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có chất lượng cao nói riêng đang thực sự trở

thành yếu tố cơ bản trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo cho

sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, tạo sức cạnh tranh

cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.

Vì vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu

phát triển đối với đào tạo nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là: đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức

kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử

dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,

đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các

ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động, hình thành hệ thống đào tạo kỹ

thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, trong đó chú trọng

phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và

97

nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao.

3.2.Định hướng để phát triển đào tạo công nhân kỹ thuật

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề, cần phải

định hướng để hoạt động này thực sự góp phần phục vụ các mục tiêu của chiến

lược phát triển kinh tế xã hội nhằm phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,

tăng việc làm mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động và

nguyện vọng học tập suốt đời của người lao động, tạo bước chuyển biến cơ bản

về chất lường dạy nghề theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới,

phù hợp với thực tiễn Việt Nm, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế xã

hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương. 10 năm tới dạy nghề phải

được đổi mới cơ bản và toàn diện để có đủ năng lực đào tạo nghề đáp ứng yêu

cầu chất lượng, yêu cầu số lượng lao động kỹ thuật của sự nghiệp công nghiệp

hoá - hiện đại hoá và xuất khẩu lao động theo cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ

đáp ứng nhu cầu học nghề để tìm việc làm và tự tạo việc làm của người lao động.

Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo hướng hình thành các trường trọng

điểm, phân bố hợp lý góp phần thực hiện sự liên thông đáp ứng yêu cầu phân

luồng của hệ thống giáo dục quốc dân. Cơ cở đào tạo ngoài công lập cần phải

được phát triển mạnh để có thể góp phần thoả mãn nhu cầu học nghề ngày càng

tăng của xã hội.

Phải thực sự coi phát triển giáo dục đào tạo trong đó có đào tạo nghề là

quốc sách hàng đầu. Đào tạo nghề có nhiệm vụ cung cấp phần lớn công nhân kỹ

thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần phát triển đội ngũ

công nhân cho nên nếu không phát triển đào tạo nghề sẽ không thể thực hiện

được tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Phải thấy rằng đào tạo nghề là sự

nghiệp của toàn xã hội. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư cho phát triển bền

vững và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội trực tiếp. Đào tạo nghề đòi hỏi sự đầu

98

tư lớn vì thế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư trang bị cơ sở vật

chất ban đầu cho các cơ sở đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành kinh tế mũi

nhọn, những ngành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, cho xuất khẩu lao động

và cho những vùng khó khăn đồng thời tạo điều kiện và môi trường để mọi tổ

chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển đào tạo nghề, đặc biệt là

những ngành nghề phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Mở rộng

quy mô đào tạo phải đi đôi với nâng cao chất lượng đào tạo. Phát triển đồng thời

đào tạo nghề mũi nhọn và đào tạo đại trà, song đặt trọng tâm vào đào tạo mũi

nhọn, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trình

độ cao của các khu công nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Gắn đào

tạo với sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp. Đào tạo nghề phải xuất phát từ

yêu cầu của sản xuất, vì sản xuất và thuộc về sản xuất. Phát triển và đào tạo nghề

trên cơ sở liên thông, mềm dẻo và linh hoạt. Liên thông giữa các cấp trình độ đào

tạo bán lành nghề, lành nghề, lành nghề trình độ cao ngay trong hệ thống dạy

nghề và liên thông giữa các cấp trình độ trong hệ thống đào tạo nhân lực, điều

kiện, con đường phấn đấu vươn lên của người học nghề. Chỉ có đào tạo và bồi

dưỡng nhân lực kỹ thuật với chất lượng cao mới có thể hội nhập trong bối cảnh

trong nước và quốc tế, mới đáp ứng được những thách thức về trình độ tay nghề

trong nền đại công nghiệp hiện nay. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực

hành với ba cấp trình độ, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng đào tạo

trình độ lành nghề kỹ thuật cao. Chúng ta phải làm thế nào để quy mô đào tạo

ngày càng tăng, đồng thời hết sức coi trọng chất lượng đào tạo làm cho người

công nhân có kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tay nghề thực sự vững vàng, xây dựng hệ

thống trường chất lượng cao để dần dần tiếp cận được với trình độ đào tạo khu

vực và quốc tế.

Cần tuyên truyền để mọi người trong xã hội thấy được đào tạo nghề là

99

nhiệm vụ của tất cả mọi người, mọi người có ý thức về giáo dục nghề nghiệp.

Tiếp tục mở rộng và thực hiện có hiệu quả xã hội hoá, thu hút mọi nguồn lực

trong nước và đầu tư hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo,

đa dạng hoá các loại hình cơ sở và phương thức dạy nghề.

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo công nhân kỹ

thuật

Để đạt được mục tiêu nói trên và đáp ứng nhu cầu lao động qua đào tạo

nghề (về số lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu vùng) phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi công tác đào tạo nghề

phải có sự đổi mới và phát triển. Dưới đây là một số những giải pháp nhằm đẩy

mạnh công tác dạy nghề ở Việt Nam.

Thứ nhất là hoàn thiện các trình độ đào tạo trong hệ thống dạy nghề:

Chúng ta có thể thấy rằng hệ thống dạy nghề Việt Nam hiện nay chủ yếu

là đào tạo lao động ở cấp độ bán lành nghề và lành nghề còn đào tạo lao động ở

trình độ cao là rất ít đã chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động nước

ta théo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì thế để hệ thông

đào tạo nghề dần đáp ứng được nhu cầu này thì phải tiến hành hoàn thiện cơ cấu

của hệ thống dạy nghề theo 3 cấp trình độ:

- Cấp I: (Bán lành nghề - đào tạo ngắn hạn) tổ chức, đào tạo cấp trình độ

này nhằm cung cấp lao động cho nhu cầu phát triển ngành nghề giản đơn, các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, phát triển kinh tế

trang trại, kinh tế gia đình và tăng cơ hội có việc làm cho người lao động. Tuy

nhiên tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp trình độ này sẽ phải được giảm dần

trong kế hoạch đào tạo song vẫn chiếm phần lớn số lao động được đào tạo hàng

100

năm.

- Cấp II: (lành nghề - đào tạo dài hạn) ở cấp trình độ này lao động được

đào tạo chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu công nghiệp, khu chế

xuất, những dây chuyền sản xuất sử dụng công nghệ cao, phục vụ nhu cầu xuất

khẩu lao động và chuyên gia. Người lao động đủ năng lực hành nghề để thực

hiện những nhiệm vụ và kỹ năng nghề trong phạm vi rộng đáng kể, có thể thực

hiện được một số công việc và kỹ năng nghề phức tạp, không theo thông lệ với

yêu cầu trách nhiệm của cá nhân người lao động, khả năng hợp tác với đồng

nghiệp và làm việc theo tổ, nhóm.

- Cấp III: (lành nghề trình độ cao - đào tạo kỹ sư thực hành, kỹ thuật viên

cao đẳng, thợ cả) vì theo yêu cầu phát triển của công nghệ sản xuất, theo xu thế

của quốc tế, để hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động trong và ngoài

nước, trong một số lĩnh vực đòi hỏi người lao động phải có trình độ tay nghề cao

cùng với trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các bậc trung cấp và cao đẳng. Vì vậy

hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức đào tạo ở cấp trình độ này lao động được

đào tạo ở cấp trình độ này có khả năng vận hành các thiết bị tiên tiến, hiện đại và

có năng lực xử lý theo tình huống của sản xuất.

Nếu tổ chức đào tạo một cách hợp lý cả 3 cấp độ, chúng ta có thể thu hút

hết nguồn lao động nhàn rỗi, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm tận

dụng hết nguồn nhân lực Việt Nam vào phát triển kinh tế xã hội đất nước có thể

đáp ứng được lực lượng sản xuất phát triển không đều ở nước ta hiện nay.

Thứ hai là phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề:

Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển theo hướng xã hội hoá, đa dạng hoá,

linh hoạt, năng động, thiết thực, thích ứng với cơ chế thị trường và bao gồm các

cơ sở đào tạo công lập và ngoài công lập, ngắn hạn và dài hạn. Mạng lưới cơ sở

101

đào tạo nghề không chỉ đảm bảo tính hợp lý về quy mô đào tạo, ngành nghề đào

tạo, trình độ đào tạo mà còn phải đáp ứng nhu cầu đào tạo theo vùng, phát triển

với một tốc độ và quy mô hợp lý nhằm thực hiện mục tiêu phân luồng sau Trung

học cơ sở và Trung học phổ thông, đáp ứng nhu cầu đào tạo và đào tạo lại của

người lao động.

Từng bước xây dựng và hoàn thiện những trường hiện có theo hướng

chuẩn hoá, hiện đại hoá để tăng năng lực, chất lượng và hiệu quả đào tạo; tập

trung đầu tư để nâng cấp và phát triển các trường dạy nghề chất lượng cao, các

trường dạy nghề trình độ cao ở các vùng kinh tế trọng điểm và các khu công

nghiệp tập trung. Sắp xếp và điều chỉnh mạng lưới trường dạy nghề phù hợp với

nhu cầu chuyển đổi cơ cấu lao động theo ngành nghề và theo vùng miền; thành

lập các trường dạy nghề mới ở các tỉnh chưa có trường dạy nghề, ở các vùng

kinh tế động lực, các khu công nghiệp, khu chế xuất, ở các ngành, địa phương, ở

các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động qua đào tạo nghề; hình thành các

trường dạy nghề ở Tây bắc, tây nguyên..., phát triển cơ sở dạy nghề tại các doanh

nghiệp, các cơ sở ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài. Đến

2005 phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường dạy nghề và đến năm 2010 mỗi

huyện có ít nhất 1 trung tâm dạy nghề, một số quận huyện có trường dạy nghề.

Tập trung đầu tư để vào năm 2005 có 25 trường chất lượng cao và vào 2010 có

40 trường chất lượng cao.

- Đối với các trường dạy nghề phải từng bước xây dựng và hoàn thiện

những trường hiện có theo hướng chuẩn hoá và hiện đại hoá để tăng năng lực,

chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nâng cấp một số trường dạy nghề thành trường

cao đẳng nghề và trung cấp nghề ở các vùng kinh tế động lực. Thành lập các

trường mới ở các tỉnh chưa có trường, ở các vùng kinh tế động lực, các ngành,

các địa phương, các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động công nhân kỹ

102

thuật; hình thành các trường đa ngành nghề ở các vùng Đồng bằng sông Cửu

Long, Tây Bắc, Tây Nguyên, Duyên Hải Trung Bộ. Soát lại các trường dạy nghề

ngoài công lập hiện có để nâng cao chất lượng đào tạo, khuyến khích thành lập

các trường dạy nghề ngoài công lập, trường có vốn đầu tư nước ngoài.

- Đối với các Trung tâm dạy nghề phải từng bước hiện đại hoá các trung

tâm dạy nghề hiện có để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo. Tiếp tục

phát triển mạng lưới các trung tâm dạy nghề, chú trọng phát triển các trung tâm

dạy nghề ở vùng nông thôn, miền núi. Phấn đấu đến 2010 mỗi quận, huyện có ít

nhất 1 Trung tâm dạy nghề.

Thứ ba là đổi mới nội dung, chương trình dạy nghề theo hướng tiếp cận

sản xuất, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Việc đổi mới chương trình dạy nghề được

thực hiện bằng cách áp dụng phương pháp tiên tiến mà hiện nay nhiều nước áp

dụng, từng bước chuyển việc xây dựng chương trình theo niên chế, môn học

truyền thống hiện nay sang chương trình theo mô đun, chương trình được xây

dựng vừa có tính liên thông giữa các trình độ đào tạo kỹ thuật thực hành, vừa có

tính liên thông với các cấp trình độ đào tạo khác nhau trong hệ thống giáo dục

quốc dân, tạo điều kiện cho người lao động có khả năng, có nhu cầu có thể học

suốt đời để nâng cao trình độ nghề nghiệp hoặc thay đổi nghề nghiệp khi cần

thiết. Nội dung chương trình đào tạo nghề trình độ cao cần được xây dựng theo

hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Việc xây

dựng và phát triển chương trình cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục

tiêu đào tạo- nội dung đào tạo - phương pháp đào tạo. Cốt lõi của việc xây dựng

chương trình đào tạo là giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu - nội dung- phương

pháp như một hệ thống thống nhất.

- Mục tiêu đào tạo nằm ngay trong bản thân quá trình đào tạo và thể hiện ở

103

mọi giai đoạn của quá trình đào tạo, chỉ đạo toàn bộ quá trình đào tạo và làm

chuẩn để đánh giá học sinh. Học sinh phải biết vận dụng kết quả thu đước trong

quá trình học tập một cách sáng tạo, đa dạng và phong phú.

- Nội dung đào tạo bao gồm: Tri thức, kỹ năng, thái độ và thông qua qúa

trình học tập mà rèn luyện phát triển năng lực tiềm ẩn của mình. Nội dung đào

tạo công nhân kỹ thuật được thiết kế theo mô đun để đáp ứng nhu cầu học tập

của người học.

- Phương pháp đào tạo tiếp cận sự phát triển, phương pháp này đòi hỏi rất

cao về vai trò của người giáo viên. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức

mà còn là người cố vấn, hướng dẫn, tạo điều kiện gợi mở cho học sinh khả năng

phát triển.

Giải pháp thứ tư là phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới phương

pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Phát triển đội ngũ giáo viên dạy

nghề đáp ứng đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề và đảm bảo chuẩn về

chất lượng. Nâng tỷ lệ giáo viên trên học sinh đạt 1/15 vào 2010, nâng dần tỷ lệ

giáo viên có trình độ sau đại học tại các trường dạy nghề, đặc biệt là ở các

trường dạy nghề trình độ cao. Một mặt tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo

viên dạy nghề hiện có để đạt chuẩn về chất lượng. Mặt khác tiến hành đầu tư mở

rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đào tạo đội ngũ giáo viên dạy

nghề, từ nay đến năm 2007 sẽ đầu tư tăng cường năng lực để nâng cấp các

trường sư phạm kỹ thuật hiện có thành trường Đại học sư phạm kỹ thuật, mở

thêm một số trường sư phạm kỹ thuật ở miền núi phía Bắc và Duyên hải miền

trung. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên dạy nghề theo hướng tăng thời

lượng thực hành, đào tạo phương pháp dạy nghề tiên tiến (chuyển từ phương

pháp truyền đạt kiến thức, kỹ năng thụ động cho học sinh sang phương pháp

104

hướng dẫn, gợi mở nhằm tăng tính chủ động, sáng tạo của học sinh), tăng thời

lượng tin học nhằm trang bị cho giáo sinh những kiến thức, kỹ năng về tin học

để có thể sử dụng tin học vào quá trình giảng dạy, tăng thời lượng tiếng Anh

chuyên ngành để giáo sinh có thể đọc hiểu các tài liệu chuyên môn bằng tiếng

Anh và có thể trao đổi những vấn dề chuyên môn bằng tiếng Anh tạo nền tảng

cho việc tự nghiên cứu hoặc tham gia các khoá bồi duỡng chuyên môn ở nước

ngoài. Thực hiện thường xuyên chế độ định kỳ nâng cao bồi dưỡng trình độ, cập

nhật kiến thức chuyên môn cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Mở rộng việc tuyển

đội ngũ giáo viên dạy nghề từ những người đạt trình độ chuyên môn theo quy

định đã có kinh nghiệm trong sản xuất đến thu hút cán bộ kỹ thuật của các viện

nghiên cứu, của các doanh nghiệp tham gia giảng dạy ở các cơ sở dạy nghề.

Thứ năm là phải tăng cường đầu tư nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho

dạy nghề: trong thời gian tới cần phải có sự đầu tư lớn trang thiết bị cho các cơ

sở dạy nghề. Tiến hành huy động mọi nguồn lực của nhà nước, nguồn lực của

các doanh nghiệp, nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài

để đầu tư cho dạy nghề. Nhà nước phải thu hút thêm nguồn lực nước ngoài thông

qua dự án hỗ trợ không hoàn lại của các nước, các tổ chức quốc tế, tranh thủ

nguồn tài chính vay lãi với lãi xuất ưu đãi cho giáo dục từ các nước (Đức, Nhật

Bản, Hàn Quốc, Áo...) và các ngân hàng quốc tế. Việc đầu tư trang thiết bị cho

dạy nghề được thực hiện trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế và các cơ sở dạy

nghề còn hạn chế và các cơ sở dạy nghề còn lại đều trong tình trạng thiếu trang

thiết bị nên vừa phải đầu tư tập trung cho những trường dạy nghề, trung tâm dạy

nghề trọng điểm, vừa dành một phần nguồn lực hợp lý để đầu tư cho các cơ sở

dạy nghề còn lại.

Đầu tư cho công nhân kỹ thuật là đầu tư phát triển và có yêu cầu rất lớn, vì

vậy ngân sách Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và cần thiết phải được tăng dần

105

với mức độ hợp lý là 8% ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đào tạo vào năm

2005, 10% vào năm 2010, đồng thời cũng phải xác định mục tiêu quan trọng của

xã hội hoá là huy động mọi nguồn lực cho phát triển công nhân kỹ thuật là :

- Học phí là nguồn bổ sung quan trong, hỗ trợ cho hoạt động công nhân kỹ

thuật, việc xác định mức thu, cơ chế quản lý và sử dụng phải được tiếp tục

nghiên cứu để bổ sung sửa đổi nhằm tạo điều kiện cho người lao động nghèo vẫn

có thể học được và khuyến khích đào tạo các ngành nghề nặng nhọc, độc hại khó

tuyển, các ngành nghề mũi nhọn phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

- Động viên các khoản đóng góp tự nguyện, từ thiện cho đào tạo công

nhân kỹ thuật đồng thời xây dựng quy chế quản lý và sử dụng các khoản đóng

góp, công khai hoá các khoản thu, cấm thu ngoài quy định.

- Thành lập qũy hỗ trợ đào tạo của doanh nghiệp nhằm hỗ cho việc nâng

cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ trong ngành, trợ cấp cho cán

bộ công nhân viên đi học, mở các khoá bồi dưỡng ngắn hạn để có thể hỗ trợ một

phần cho các cơ sở đào tạo do tuyển lao động cho doanh nghiệp. Quỹ được hình

thành trên cơ sở đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh của ngành và của

các nhà tài trợ.

Giải pháp thứ sáu là đẩy mạnh xã hội hoá dạy nghề bằng việc khuyến

khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia dạy nghề. Tạo cơ hội

cho mọi người có nhu cầu được học nghề phù hợp với trình độ và điều kiện của

mình. Phát triển các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề và các cơ sở dạy nghề

ngoài công lập. Nâng tỷ lệ học sinh học nghề ngoài công lập đến năm 2010 lên

khoảng 70%. Nhà trường, nhà giáo và học sinh các trường ngoài công lập được

bình đẳng như các trường công lập. Nhà nước phải hoàn thiện ban hành các

chính sách hỗ trợ trường ngoài công lập. Mở rộng, tăng cường các mối quan hệ

106

của nhà trường với các ngành, địa phương, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ

quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội... tạo điều kiện để xã hội

có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề, góp ý kiến cho

quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, danh mục đào tạo nghề, tiêu

chuẩn kỹ năng nghề, nội dung, chương trình dạy nghề, nhu cầu ngành nghề đào

tạo, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học, tiếp nhận học sinh

học nghề đến thực tập, tiếp nhận học sinh tốt nghiệp vào làm việc.

Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy nghề thông qua các dự án.

Xây dựng dự án với một số nước phát triển và với các tổ chức quốc tế nhằm huy

động nguồn lực vào nâng cao cơ sở vật chất trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng

giáo viên và cán bộ quản lý, nghiên cứu khoa học. Khuyến khích các chủ đầu tư

nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền thống và trình độ tiên tiến thành lập

các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanmh với các đối tác Việt

Nam để đối tác trình độ cao, mở các khoá bồi dưỡng có trình độ khu vực và quốc

tế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp tác đầu tư xây dựng một số trung

tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo, nhập thiết bị thí nghiệm khoa học

tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; tăng

số dự án viện trợ, vay vốn để đào tạo đội gũ lao động kỹ thuật đáp ứng các yêu

cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và xuáat khẩu lao động

Thứ bảy là đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề: mở rộng hợp tác quốc

tế trong lĩnh vực dạy nghề thông qua các dự án. Xây dựng các dự án với một số

nước phát triển và với các tổ chức quốc tế nhằm huy động nguồn lực vào nâng

cao cơ sở vật chất trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý,

nghiên cứu khoa học. Đối với một số ngành nghề đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao sẽ

được thực hiện đào tạo thông qua hợp tác quốc tế theo các hiệp định đưa đi đào

tạo ở nước ngoài, liên doanh trong đào tạo, hoặc mở rộng cơ hội để người lao

107

động tự đi học tham dự các khoá đào tạo ở nước ngoài.

Khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác song phương

giữa các cơ sở đào tạo của Việt Nam với các cơ sở đào tạo có uy tín và chất

lượng cao trên thế giới nhằm trao đổi những kinh nghiệm tốt và tăng thêm nguồn

lực phát triển.

Huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị, xây

dựng cơ sở vật chất cho công nhân kỹ thuật, đặc biệt là những ngành nghề mũi

nhọn và ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tăng số dự án viện

trợ, vốn vay để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu về

chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu lao động. Hợp tác đầu tư xây dựng

một số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo, nhập thiết bị thí nghiệm

khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa

học.

Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền

thống và trình độ tiên tiến, thành lập các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài

hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo trình độ cao, mở các khoá

108

bồi dưỡng có trình độ khu vực và quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam.

109

KẾT LUẬN

Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, mới bước đầu tiến

hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Như vậy, về mặt khoa học kỹ

thuật và công nghệ chúng ta đang tụt hậu so với các nước công nghiệp trên thế

giới và còn có khoảng cách so với các nước trong khu vực. Tuy vậy, chúng ta lại

có lợi thế là đúc rút được kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nắm bắt

được những tri thức, những thành tựu của thế giới để rút ngắn thời gian công

nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước. Một trong những thách thức lớn trong cuộc

"bứt phá" này là chúng ta đang còn hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Thách

thức này lại càng lớn hơn khi thế giới đang bước nhanh vào nền kinh tế tri thức.

Theo "Chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội" mà đại hội Đảng IX đã đề ra,

chúng ta phấn đấu để đến năm 2020, là nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp. Để đáp ứng đòi hỏi này, Đảng ta đã khẳng định chúng ta phải đi tắt, đón

đầu, nếu không chúng ta sẽ tụt hậu càng xa. Điều này chỉ có thể làm được khi

chúng ta có chiến lược đầu tư phát triển nguồn nhân lực một cách đúng đắn, phù

hợp. Nghị quyết đại hội đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Phát triển giáo dục đào

tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá

- hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để

phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". Nhưng một trong các

vấn đề nổi cộm là sự mất cân bằng về trình độ đào tạo. Chúng ta thiếu một đội

ngũ công nhân lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu những người thợ có trình độ ở

các cấp bậc khác nhau, thiếu những công nhân có trình độ cao phục vụ cho

những ngành công nghệ hiện đại... Chính những công nhân này chứ không phải

ai khác là người góp phần quyết định sự phát triển của nền kinh tế đất nước, góp

110

phần thành công cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Công nhân kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong việc tăng trưởng kinh

tế, trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong bối

cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế. Đề đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá

và hội nhập, cần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ công

nhân kỹ thuật để góp phần đổi mới cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế

trong từng thời kỳ phát triển, làm cho hoạt động đào tạo gắn với những đòi hỏi

của thị trường lao động, nhất là thị trường lao động kỹ thuật trình độ cao.

Lĩnh vực đào tạo đội ngũ công nhân hiện nay tuy đã được Đảng và Nhà

nước hết sức quan tâm, được coi là một nhiệm vụ quan trọng, và do đó có được

những thành công nhất định như chất lượng đào tạo tăng lên, số lượng người

tham gia đào tạo nghề ngày càng nhiều, loại hình đào tạo ngày càng đa dạng,

phong phú đã dần dần đáp ứng được nhu cầu trong nước và quốc tế... song chưa

thực sự xác lập được vị trí của nó. Trong lĩnh vực đào tạo nghề đầu tư cho cơ sở

vật chất còn thấp, chất lượng giáo viên chưa cao, tâm lý phân biệt công nhân làm

thuê và kỹ sư còn tồn tại. Vì vậy chúng ta cần huy động sức người, sức của vào

sự nghiệp đào tạo nghề, tuyên truyền, giáo dục ý thức người dân góp phần làm

cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước ta được thực

hiện.

Trong những năm tới chúng ta phải hình thành và phát triển hệ thống đào

tạo nghề với nhiều trình độ đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng lao động; Đào tạo

phải thích ứng với nhứng thay đổi của thị trường lao động và hướng tới hội nhập

với khu vực và quốc tế; Song song với việc mở rông quy mô đào tạo phải từng

bước nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc đổi mới chương trình đào tạo,

phương pháp đào tạo, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, đầu tư trang thiết bị và cơ sở

111

kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo tổng kết công tác

đào tạo nghề và phương hướng đào tạo nghề từ nay đến 2005.

2. Đỗ Minh Cương (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận

và thực tiễn , Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), “Để cho khoa học và công nghệ trở thành

động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học,

(1), tr.3- 5.

4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), ”Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế -

xã hội của nước ta đến năm 2000”, Tạp chí Triết học, (4), tr.19-22.

5. Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), ”Tạo dựng nguồn lực cho sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (14), tr.18-21.

6. Phạm Tất Dong (1993), "Giáo dục- Nền tảng của chiến lược con người",

Tạp chí Cộng sản, (3), tr.12-14.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn Kiện hội nghị lần thứ 2, Ban chấp

hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp

112

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Phạm Văn Đức (1998), "Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con người

trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học, (6),

tr.5- 8.

11. Phạm Minh Hạc (Chủ biên, 1996) , Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đến năm

2010”, Tạp chí Cộng sản, tr.7.

13. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Về triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề

và chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm”, Tạp chí Lao động - Xã hội,

(144), tr.2.

14. Nguyễn Văn Hiệu (1997), "Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài để thực

hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.17-

25.

15. Đoàn Văn Khái (2000), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.

16. Lê Ái Lâm (2000), "Đào tạo nghề cho lực lượng lao động vì sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 47-51.

17. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

18. Cao Văn Lượng (Chủ biên, 2001), Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và sự

phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. C.Mác - Ph Ăng ghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia,

113

Hà Nội.

20. C.Mác - Ph.Ăng ghen (2004), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

21. Lưu Đình Mạc (1995), Phát triển giáo dục đại học là điều kiện để đảm bảo

công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

22. Nguyễn Lê Minh (1999), “Dạy nghề ngắn hạn và việc làm", Lao động - Xã

hội, (III), tr.19.

23. MOLISA-ORSTOM (1998), Tác động của những biến đổi kinh tế đến sự

phát triển nguồn nhân lực, việc làm và khu vực phi kết cấu ở Việt Nam và

Đông Nam Á, NXB Lao động, Hà Nội.

24. Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận, Hà

Nội.

25. Nguyễn Cảnh Toàn (9/11/1996), Đào tạo và sử dụng nhân tài, Báo Nhân

dân.

26. Nguyễn Viết Sự (2000), “Chính sách phát triển nhân lực Việt Nam hiện

nay và triển vọng”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (10),

tr.29.

27. Viện Thông tin khoa học xã hội (1995). Con người và nguồn lực con người

114

trong phát triển.