ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--***-- ĐÔNG THỊ HỒNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI – 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--***-- ĐÔNG THỊ HỒNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÍ MẠNH HỒNG HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Mở đầu.......................................................................................................... 2
Chương 1. Vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật đối với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá..............................................................
8
1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá............................................................... 8
1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp hoá
- hiện đại hoá.......................................................................................... 22
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống đào tạo
công nhân kỹ thuật.................................................................................. 32
Chương 2. Thực trạng hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.....................................................
43
2.1. Khái quát về hệ thống công nhân kỹ thuật trước thời kỳ đổi mới.......... 43
2.2. Tình hình đào tạo công nhân kỹ thuật trong những năm đổi mới.......... 49
2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam... 77
Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá...
85
3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra đối
với đào tạo công nhân kỹ 85
thuật................................................................
93 3.2. Định hướng để phát triển đào tạo công nhân kỹ
thuật............................
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đoà tạo công nhân kỹ thuật. 95
Kết luận............................................................................................................ 104
1
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................... 106
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là giai đoạn phát triển tất yếu mà mọi quốc
gia đều phải đi qua, song mỗi nước đều có những cách thức phát triển riêng tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và đặc trưng về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá
của từng nước. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta được thực
hiện trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội theo hướng phát triển bền vững, trong đó nhân tố con người là trung tâm,
kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá với những bước đi thích
hợp. Trong số các nguồn lực về tài chính, công nghệ, thiết bị, nguồn tài
nguyên… thì ngày nay nguồn lực con người trở thành nguồn lực quan trọng nhất
cho tiến trình phát triển của đất nưóc. Nếu chúng ta quan tâm và đặt đúng vị trí
con người, chúng ta sẽ thành công. Vì thế mà trong "Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" Đảng ta đã khẳng định: "... Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh
tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy
tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc...".
Nghiên cứu về nguồn nhân lực, tức là nghiên cứu về yếu tố con người,
những khả năng, tiềm năng của con người và cách khơi dậy mọi tiềm năng của
mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cộng đồng dân tộc để tạo nên sức mạnh
tổng thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Để đạt được mục tiêu trên thì giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức to lớn.
Giáo dục - đào tạo tham gia trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong việc nâng
cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ tay nghề, xử lý công
3
nghệ, tổ chức quản lý và năng lực thực tiễn của người lao động - lực lượng chủ
yếu đối với sự phát triển bền vững. Vì thế mà Đại hội Đảng IX đã khẳng định:
"Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững" [2, tr.26].
Để cho giáo dục đào tạo thực sự đảm nhận được đúng vai trò của nó thì
phát triển hợp lý quy mô và cơ cấu giáo dục đào tạo là một đòi hỏi bức thiết.
Như Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ cơ cấu đào
tạo hiện nay của chúng ta còn bất hợp lý. Điều đó thể hiện ở sự bất hợp lý giữa
cơ cấu dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học; cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu bậc học, cơ cấu xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực đào
tạo nghề, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung
cấp kỹ thuật đang trở nên hết sức bức xúc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu
quả giải quyết việc làm, đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đội ngũ công nhân
kỹ thuật nước ta hiện nay không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Vì thế cần phải đào tạo được một đội ngũ lao động có trình độ tay
nghề, có chuyên môn nghiệp vụ cao, có trình độ văn hoá, có sức khoẻ, có tác
phong công nghiệp, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới để đáp ứng
được nhu cầu của nền kinh tế thị trường cả về số lượng và chất lượng. Làm thế
nào để tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, hiệu quả sản xuất ? đủ sức cạnh tranh với thị trường trong nước và
quốc tế ? tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội? Làm thế nào để chúng ta có
một cơ cấu kinh tế hợp lý?... Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh công tác trong lĩnh vực dạy nghề và giáo dục nghề nghiệp nhằm phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật để phục vụ sự
4
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay đào tạo nghề ở Việt Nam lại chưa đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân kỹ thuật:
chương trình dạy nghề chưa được cập nhật, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với kỹ
thuật công nghệ mới; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu cả về số lượng và
chất lượng, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới; quy mô đào tạo còn nhỏ
so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn chưa
rộng khắp; thiếu đội ngũ công nhân làm việc trong những ngành công nghệ cao;
kinh phí đầu tư cho đào tạo nghề còn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mất
cân đối giữa các ngành nghề đào tạo... Do đó việc phân tích thực trạng đào tạo
nghề trong đó có đào tạo công nhân kỹ thuật để tìm ra những biện pháp thích
hợp có khả năng thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một công
việc rất có ý nghĩa. Với những lý do trên đây tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đào tạo
công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do có vị trí hết sức quan trọng nên dạy nghề là vấn đề được nhiều nhà
khoa học và những người hoạch định chính sách quan tâm. Tuy nhiên trong sự
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền
kinh tế thị trường thì số lượng và chất lượng lao động của đội ngũ công nhân
càng được đặc biệt quan tâm và đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ hơn.
Gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã có nhiều bài viết và công trình
nghiên cứu về giáo dục - đào tạo, về cách mạng khoa học công nghệ, về đào tạo
nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội...
Những bài viết đó tập trung chủ yếu vào từng mảng vấn đề, đề cập đến
5
những khía cạnh khác nhau như giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế xã
hội, giáo dục đào tạo với việc tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề đối với xuất
khẩu lao động ... như:
- Giáo sư Vũ Văn Tảo với bài "Đào tạo gắn với việc làm", Tạp chí Xuân
2000 đã khẳng định đào tạo cần phải gắn với việc làm.
- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nêu việc triển khai
công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm
trong bài "Về triển khai công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia
về giải quyết việc làm", Tạp chí Lao động - xã hội 149/1999.
- Vũ Đình Cự đã nêu những bất cập của giáo dục đào tạo trong cuốn "Giáo
dục - đào tạo hướng tới thế kỷ 21", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội
1998.
- Phạm Văn Đức khẳng định vai trò của nguồn lực con người trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bài: "Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí Triết học, số
6/1998.
- "Đầu tư cho con người với vấn đề giải quyết việc làm" của nhóm tác giả
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội 1995 đã giới thiệu về đặc điểm
nguồn nhân lực và những người cần đào tạo lại để tạo cơ hội giải quyết việc làm,
đồng thời giới thiệu khái niệm mô hình đào tạo giải quyết việc làm cho người lao
động ở một số nước trên thế giới.
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực
của GS.VS. Phạm Minh Hạc trong Tạp chí Lao động xã hội, số 218…
Nhìn chung, tuy khai thác ở từng khía cạnh, từng mảng khác nhau nhưng
các tác giả đều coi giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp
6
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và khẳng
định quan điểm của Đảng ta coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi
giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản nhằm nâng cao đời sống người
lao động, phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên vẫn còn ít những công trình khoa học nghiên cứu tập trung, có
tính chất hệ thống lĩnh vực đào tạo công nhân kỹ thuật với tư cách là một kênh
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang
biến đổi rất nhanh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo công nhân kỹ thuật trong việc phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, luận văn cố gắng đề xuất một số định
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất lượng của hệ thống
đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại
hoá
* Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật trong phát triển nguồn
nhân lực ở các nước đang phát triển đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta trong những
năm gần đây.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và chất
lượng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật ở nước ta trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý của Kinh tế chính trị,
7
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các luận điểm khoa học của
các nhà khoa học về những vấn đề có liên quan đến đề tài của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử luận văn
chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, đối chiếu
và so sánh, lô-gíc và lịch sử, phương pháp thống kê và hệ thống hoá.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt
Nam với tư cách là kênh phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ đề tài này, tác giả nghiên cứu
lĩnh vực đào tạo nghề từ khi đổi mới đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy kinh tế chính trị Mác-Lênin về vấn đề nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng
tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta và dành cho những người quan
tâm đến đề tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương với 8 tiết:
Chương 1: Vai trò của công nhân kỹ thuật đối với quá trình công nghiệp
8
hoá - hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng đào tạo hệ thống công nhân kỹ thuật trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chương 1
VAI TRÕ CỦA ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1.1.1. Nguồn nhân lực trong tăng trưởng và phát triển kinh tế hiện đại
Mỗi một quá trình lao động sản xuất đều là sự kết hợp của 3 yếu tố: tư liệu
lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao
động là những điều kiện vật chất cần thiết của mọi quá trình lao động. Máy móc
thiết bị dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng đều do sức lao động tạo nên và phải
thông qua hoạt động tích cực của con người mới phát huy được đầy đủ hiệu quả.
Dù cơ sở vật chất của sản xuất có hoàn thiện đến đâu, dù doanh nghiệp có các
phương tiện kỹ thuật gì đi nữa thì quá trình sản xuất ở đó cũng chỉ có thể thực
hiện với sự hoạt động có mục đích của con người để làm cho những tư liệu vật
chất kỹ thuật đó vận hành được. Dựa vào những hoạt động lao động có mục đích
của mình con người làm cho các vật thể tự nhiên thích ứng với mình, cải biến tự
nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình. Nếu con người không sử dụng sức lao
9
động của mình để tác động vào tư liệu lao động và đối tượng lao động thì tư liệu
lao động và đối tượng lao động chỉ là những vật chết. Chính “lao động đã nắm
lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những công dụng
mới có về mặt khả năng thành công dụng có hiệu lực hiện thực” [19, tr.274].
Nâng cao trang bị kỹ thuật là một nhân tố cơ bản chủ yếu để tăng năng suất lao
động. Nếu không có máy móc thiết bị vật tư thì không thể có năng suất cao,
không thể có tư liệu sản xuất mở rộng. Nhưng trang bị kỹ thuật không phải là
nhân tố duy nhất hàng đầu để tăng năng suất kể cả khi chúng ta có nhiều những
kỹ thuật tiên tiến hiện đại nhất vì khi đó nếu không có con người với trình độ và
tính tổ chức cao, phù hợp với yêu cầu của công nghệ, kỹ thuật thì quá trình sản
xuát vẫn bị đình trệ. Vì thế: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại
là công nhân, là người lao động” [17, tr.38].
Như vậy, người lao động là nhân tố vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một
đất nước nào muốn phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là ngày nay, khi mà khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
diễn ra sâu rộng, khi mà chúng ta đang đứng trước thềm của kỷ nguyên phát
triển mới của xã hội loài người - chuyển sang nền kinh tế tri thức thì các nhà
kinh tế đều khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo
dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các chương trình đảm bảo việc làm và an sinh
xã hội... là đầu tư hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững của một quốc gia.
Như chúng ta đã biết, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức
đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế xã hội loài người. Nền kinh tế
tri thức dựa trên những trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới... mà ở đó tri thức chiếm một hàm lượng chủ yếu
trong giá trị mới của sản phẩm, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP, là
10
yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế tri
thức cơ hội cho lao động thiếu kỹ năng ngày càng bị thu hẹp và đòi hỏi về trình
độ và kỹ năng của một người lao động bình thường ngày càng cao. Để có được
nền kinh tế tri thức cần phải xây dựng được cơ sở hạ tầng vững chắc để phát
triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đồng thời phải đầu tư
cho phát triển giáo dục và đào tạo hay chính xác hơn là phải đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể các tiềm năng (lao
động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã
được chuẩn bị ở mức nào đó có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Khi tham gia
vào các quá trình kinh tế xã hội thì con người đóng vai trò chủ động, sáng tạo và
chi phối toàn bộ quá trình đó và hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy mà
nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có mà nó
còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố như thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc,
thái độ, phong cách làm việc.
Nguồn nhân lực theo nghĩa tương đối hẹp được hiểu là nguồn lao động.
Chính vì thấy được vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực mà trong
quá trình phát triển kinh tế hiện đại, nơi mà tri thức chứ không phải tài nguyên
thiên nhiên, đất đai hay nguồn vốn nổi lên như là yếu tố dẫn dắt, chi phối hàng
đầu đối với quá trình tạo ra của cải mà ở nhiều nước đang định hình một mô hình
sản xuất mới: lấy con người làm trung tâm. Mô hình này là bước chuyển lên
trình độ văn minh cao hơn, ở đó con người là mục đích chứ không phải là
phương tiện của phát triển xã hội. Mô hình sản xuất lấy con người làm trung
tâm, coi trọng và đề cao tri thức trở thành triết lý cơ bản của chiến lược phát
11
triển của mọi quốc gia. Như vậy, sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã không
làm giảm đi vai trò của yếu tố con người mà ngược lại, nguồn nhân lực có chất
lượng cao về trí tụê và kỹ năng ngày càng trở thành lợi thế quan trọng cho mỗi
quốc gia.
Xem xét con người với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế xã hội, UNESCO nêu “con người đứng ở trung tâm của sự phát triển là
tác nhân và là mục đích của sự phát triển”. Trong học thuyết về tăng trưởng kinh
tế của mình nhà kinh tế Mỹ Gregory Mankiw đã đề cập một loại tư bản: vốn
nhân lực. Theo ông “Vốn nhân lực là kiến thức, tay nghề mà người lao động tiếp
thu được thông qua quá trình giáo dục đào tạo từ thời niên thiếu cho đến khi
trưởng thành, cũng như trong quá trình lao động. Vốn nhân lực tương tự như tư
bản hiện vật, nó làm tăng lực lượng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của chúng ta”.
Cũng theo Mankiw “sự đầu tư cho con người trong việc nâng cao chất lượng
cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của toàn xã hội và nhờ đó
tạo khả năng tăng năng suất lao động”. Nhận định này có vai trò rất quan trọng
trong vài thập kỷ gần đây. Một số các nước Châu Á có nền kinh tế tăng trưởng
nhanh đã áp dụng quan điểm này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
họ và họ đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Các nước Hàn Quốc, Hồng Kông,
Singapo đã có khả năng đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao
để phát triển đất nước và đã làm tăng thu nhập bình quân cao hơn gấp 5 - 6 lần
so với các nước Đông Nam Á.
Nghiên cứu nguyên nhân thành công của các nước này các nhà kinh tế đều
thống nhất nhận định rằng họ đã đầu tư nguồn nhân lực đủ sức thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước họ.
Ở nước ta, nhận thức vai trò động lực của nguồn nhân lực đối với quá
12
trình phát triển đất nước Đảng đã chỉ đạo “lấy việc phát huy yếu tố con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển rất nhanh và bền vững” [2, tr.9] và nguồn lực
con người đựơc coi là nội lực cơ bản nhất cần khai thác và phát huy để tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng, phát triển kinh tế
trong thời kỳ hiện nay đều phải quan tâm, đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chỉ
có đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực, đất nước đó mới nhanh chóng
thành công.
1.1.2. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực đối với các nước đang
phát triển
* Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển là những nước có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp. Hiện nay dân số các nước đang phát triển chiếm đa số dân số thế giới
nhưng thu nhập chỉ chiếm 2% thu nhập thế giới. Các nhà kinh tế trên thế giới
thường lấy mức thu nhập bình quân đầu người 2.000 USD làm mốc, nếu đạt
được mức này sẽ phản ánh được sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và
đời sống xã hội, phản ánh khả năng giải quyết được những nhu cầu cơ bản của
con người. Hiện nay còn trên 100 nước đang phát triển có mức thu nhập dưới
2.000 USD; trong đó gần một nửa có mức thu nhập bình quân dưới 600 USD.
Điều này nói lên khả năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải
quyết những nhu cầu cơ bản của con người về vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế.
Các nước đang phát triển còn là những nước có tỷ lệ tích luỹ thấp. Muốn
có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn là ở chỗ, đối
với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, dân chúng đã
gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn.
13
Những nước có nền kinh tế tiên tiến thường để dành từ 20-30% thu nhập để tích
luỹ. Trong khi đó ở các nước nông nghiệp chỉ có khả năng tiết kiệm trên, dưới
10% thu nhập. Nhưng phần lớn số tiết kiệm này phải dùng để cung cấp nhà ở,
trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy
mô tiết kiệm cho tích luỹ phát triển kinh tế.
Các nước đang phát triển cũng là những nước có hoạt động kinh tế chủ
yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, kỹ thuật sản
xuất thủ công, lạc hậu, xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô (nông sản và khoáng
sản), năng suất lao đông thấp do thiếu vốn và yếu tố công nghệ kỹ thuật hiện đại.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển
động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Các nền kinh tế đạt được mức
độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ mức độ tăng của ngành công
nghiệp. Trải qua giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước
đang phát triển tuy đã có được những ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn
vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kỹ thuật thấp. Trong
khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến với
kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ công
nghệ của các nước đang phát triển từ 3-6 thập kỷ. Khoảng cách công nghệ quá
lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các
nước đi sau do quá trình phân công lao động mới đưa lại.
Các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa trong
quá trình phát triển. Đó là áp lực về dân số và việc làm. Dân số những nước đang
phát triển vốn đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này tạo ra một
hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm.
14
Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối
giữa tích luỹ và đầu tư đã kìm hãm sản xuất và dẫn đến thất nghiệp trầm trọng,
gây mất ổn định xã hội, nợ nước ngoài gia tăng.
Như vậy, hầu hết đang phát triển đang đều ở trong tình trạng: cơ sở vật
chất kỹ thuật nghèo nàn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động chưa
phát triển, khoa học kỹ thuật đang được xây dựng... Ở nhiều quốc gia, sản xuất
nông nghiệp vẫn đang còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Đó cũng là nguyên
nhân cơ bản làm cho các quốc gia này đang rất khó khăn trong việc giải quyết
hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội như: thất nghiệp, nghèo đói, bệnh dịch, sự
lạc hậu về y tế và giáo dục...
Để thoát khỏi tình trạng đó thì các nước đang phát triển không còn con
đường nào khác là lựa chọn con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là giải pháp quan trọng (nếu không muốn nói là quan
trọng nhất) nhằm xây dựng một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn. Chỉ
có công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới làm cho các nước đang phát triển thay thế
được lao động thủ công lạc hậu bằng lao động sử dụng máy móc, cơ khí hoá nền
kinh tế quốc dân; thay thế máy móc, thiết bị và công nghệ bằng máy móc thiết bị
và công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đòi hỏi phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại mà hiện nay,
xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỉ trọng khu
vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng
tăng; tỉ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm
trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Vì thế chỉ có cách tiến hành công nghiệp hoá
- hiện đại hoá mới làm được điều đó. Ngày nay lực lượng sản xuất phát triển như
vũ bão, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do đó mà các
15
nước đang phát triển phải tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá để
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đảm bảo
đạt tới tiến bộ kinh tế, tiến bộ xã hội; công nghiệp hoá - hiên đại hoá còn để xây
dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại. Như thế có nghĩa là,
công nghiệp hoá không chỉ là sự phát triển công nghiệp mà còn là xây dựng quan
hệ phù hợp giữa công nghiệp và các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện cho các
ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, hưóng tới mục tiêu tiến
bộ xã hội, là con đường tất yếu đối với các nước đang phát triển.
* Phát triển nguồn nhân lực - yếu tố quan trọng đảm bảo thành công của
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
“Công nghiệp hoá - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao".
Như vậy, có thể nói, về thực chất công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá
trình cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đó
không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỉ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu, gắn liền với việc đổi mới công nghệ một cách thường xuyên, tạo nền tảng
16
cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá, kết hợp với
những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra
ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động với tranh thủ những cơ hội
đi tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ
phát triển của khoa học và công nghệ thế giới.
Cũng có thể nói, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một quá trình xây dựng
xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo
phong cách của nền công nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế - xã hội
bền vững, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động. Nó không chỉ thể hiện ra ở các chỉ số khoa học - kỹ thuật - công nghệ hay
kinh tế - kỹ thuật mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một
chỉnh thể toàn vẹn (kinh tế - xã hội, vật chất - tinh thần), trên cơ sở giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc, vì tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện.
Nói một cách khái quát, công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong thời đại ngày
nay là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình
độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khoa học và công nghệ hiện
đại, tiên tiến, ở nền kinh tế phát triển cao, xã hội được tổ chức khoa học và hợp
lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con
người, ở sự giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài
môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực
con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lý và
nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
17
tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động và
vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Để xem xét vai trò của nguồn lực con người đối với công nghiệp hoá -
hiện đại hóa cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức
độ chi phối của nó đến sự thành, bại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng
thời phải đặt công nghiệp hoá trong tình hình này, khi cuộc cách mạng khoa học,
kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng
gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hoá gắn với
hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực luợng sản xuất.
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý,... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý
nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư
duy, có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai
thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con
người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu
thành lực luợng sản xuất, người lao động là một yếu tố quan trọng nhất, là lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.
Như đã biết, muốn công nghiệp hoá phải có vốn và nó chỉ trở thành nguồn
lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay nhưng con
người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên
thiên nhiên và nhưng ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân
18
của nó không có năng lực khai thác. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hoá đời sống
kinh tế, sự hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực phát triển
quan trọng của nhiều nước. Nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có
điểm xuất phát thấp. Nhưng sức mạnh của "cái hích” đó đến đâu, tác động tích
cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn
lực đó. Xét đến cùng, thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì
mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm "nguồn lực” cũng không
còn lý do để tồn tại.
Hơn nữa, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể khai thác cạn kiệt, trong
khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, lại là nguồn lực vô tận. Tính
vô tận của trí tụê con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh
và tự sản sinh về mặt sinh học, mà con tự đổi mới không ngừng, phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận, xét trên bình diện cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy,
con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài
nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có
sẵn trong tự nhiên.Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người
bằng trí tuệ và lao động của mình đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản
xuất mới nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không
ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá,
đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói
lên tính vô tận của trí tuệ con người. Đúng là, "Tri thức có tính chất lấy không
bao giờ hết” [24, tr.41].
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đã được vật thể
hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và
19
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công
nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Ở những nước này, lao
động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động
chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá tri sản lượng quốc gia, vi như ở Nhật Bản, riêng
nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40%. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ
đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước”
hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng
những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra
mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử
phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ ở vị
trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã từng có trong lịch sử.
Chính kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy, sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ
thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ không đạt được kết quả tốt nếu không lựa chọn
được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp
với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực
khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên và được tài trợ lớn
từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong việc công nghiệp hoá. Điều này
một lần nữa nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người - chủ thể trực
tiếp, hiện thực của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động
được định hướng bởi trí tuệ đó đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực
quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng
20
tăng lên khi trí tuệ hoá lao động đang trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy, trong
chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm,
quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính
bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ
liệu xác thực cho nhận thức về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Sự thành công của những nước này do
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân mang tính đặc trưng đó
là họ đã sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu
tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao
động, đặc biệt là các yếu tố văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về
giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo
cho sự thắng lợi của công nghiệp hoá. Chẳng hạn để chuẩn bị cho công nghiệp
hoá Hàn Quốc đã có kế hoạch “trí tuệ hoá” toàn dân. Nhờ vậy ngay từ năm 1960
họ đã đạt được 100% lao động có trình độ văn hoá cấp I, đến năm 1990 thì 94%
người lao động đã tốt nghiệp cấp II và năm 1980 họ đã tới mặt bằng học vấn là
8,0 lớp. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm tới 20% tổng chi phí ngân sách nhà
nước [4. tr.58] hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản
phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần. Có
thể nói rằng, nền kinh tế của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ
vào sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây
dựng và sử dụng nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông Á là
những bài học bổ ích, rất đáng để cho các nước chuẩn bị bước vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá tham khảo.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực khi
người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những
21
yêu cầu mà quá trính công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì “tất cả
cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”
tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ phản ánh qua trình độ học vấn và tài
năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở tài năng áp dụng những thành tựu khoa học để
sáng chế ra những kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, ở sự nhạy bén thích ứng nhanh
và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại có kỹ năng lao động nghề
nghiệp có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực
hiện biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, cơ
chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng lực này,
ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì đó là
phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp,
là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của con ngưòi.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người
lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là
phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri
thức thành sức mạnh vật chất. Nó bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ thể mà còn cả
sức khoẻ tinh thần, đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của
niềm tin và ý chí, là khả năng vận động trí lực... điều này càng có ý nghĩa quan
trọng khi lao động trí tuệ ngày một chiếm ưu thế.
Sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm
chất như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo
dưỡng thiết bị máy móc, có tinh thần hợp tác và tác và phong lao động công
nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với sản phẩm... Nghĩa
22
là người lao động phải có văn hoá lao động công nghiệp.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá còn đụng chạm đến
các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên mà chỉ có thể
giải quyết được nhờ trình độ cao của văn hoá sinh thái. Đây là vấn đề cấp bách,
sống còn không chỉ đối với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh công
nghiệp. Con người vốn có cội nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên
nhiên trong sự tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm
cao trước vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề cấp bách, sống còn không chỉ với
mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Con người vốn có cội
nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên nhiên trong sự tồn tại và phát
triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường
sinh thái cũng là một năng lực phẩm chất quan trọng của người lao động trong
quá trình tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nó biểu hiện ở chỗ người ta
cần đánh giá đúng những hậu quả do sản xuất công nghiệp gây ra mà các nước đi
trước đã trải qua như huỷ hoại nguồn nước, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên... dẫn đến mất cân bằng sinh thái, làm nguy hại
đến cuộc sống con người và sự phát triển lâu bền của đất nước. Ngoài ra cũng
cần thấy rằng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá khó có thể đạt được kết
quả tốt nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và
sáng tạo, có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao,
không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu, biết kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống và
hiện đại, sống khoan dung và tôn trọng sự đa dạng, khác biệt.
1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp
hoá - hiện đại hoá
1.2.1. Vị trí của đội ngũ công nhân kỹ thuật trong việc phát triển nguồn
23
nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Nguồn lao động nói chung, lao động qua đào tạo nghề nói riêng vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trình
độ, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và sự thay đổi cơ cấu kinh tế là yếu tố quan
trọng đòi hỏi tăng cường chất lượng và cơ cấu lao động. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật đòi hỏi ngày càng nhiều lao
động kỹ thuật. Mặt khác sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng tạo ra nhu cầu
chuyển đổi cơ cấu lao động theo các nghành nghề khác nhau đòi hỏi gia tăng quy
mô đào tạo mới, đào tạo lại và đào tạo nâng cao trình độ. Nền kinh tế càng phát
triển thì càng có điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư nhằm thoả mãn nhu cầu kinh
tế - xã hội, đặc biệt là nhu cầu đào tạo nghề. Đồng thời bản thân quá trình phát
triển và phát triển ở trình độ nâng cao thì càng đòi hỏi không ngừng nâng cao
chất lượng nguồn lao động, trong đó có chất lượng qua đào tạo nghề.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định đến khoảng năm 2020, nước ta về cơ
bản trở thành nước công nghiệp. Do đó thời kỳ 2001 - 2010 có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mục tiêu của thời kỳ này là
phấn đấu tăng trưởng cao nhưng bền vững, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa
so với các nước trong khu vực, thực hiện đổi mới về cơ bản cơ cấu nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chính cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đưa thế giớí chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông
tin. Trong kỷ nguyên thông tin và nền kinh tế tri thức các ngành sản xuất dịch vụ
chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ (2/3 giá trị là do khoa học và công nghệ
đem lại). Cách mạng khoa học công nghệ làm cho nhiều ngành nghề cũ, truyền
thống mất đi và cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới, cơ cấu ngành nghề và tỷ
trọng trong các lĩnh vực cũng thay đổi nhanh chóng. Trong nền kinh tế tri thức tỷ
trọng lao động trực tiếp giảm mạnh, lao động gián tiếp và dịch vụ tăng nhanh
24
xuất hiện và gia tăng nhanh chóng công nhân trí thức. Vì vậy, đào tạo công nhân
kỹ thuật để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của giáo
dục nghề nghiệp. Lúc này, đòi hỏi người lao động không chỉ có kỹ năng nghề
nghiệp ở trình độ cao mà phải có nhiều kỹ năng khác nhau. Từ đó vấn đề bức
xúc đặt ra là phải đổi mới đào tạo nghề nghiệp từ đào tạo để tạo lập và phát triển
kỹ năng nghề nghiệp truyền thống sang cập nhật các kỹ năng mới, nhất là kỹ
năng sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ năng giải quyết và xử lý những
vấn đề sự cố phát sinh của máy móc thiết bị công nghệ cao, kỹ năng làm việc
theo nhóm, làm việc trong môi trường đa văn hoá. Có thể nói rằng giáo dục trong
đó có đào tạo nghề là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Việt Nam là nước đang
phát triển ở trình độ thấp nhưng yếu tố khoa học công nghệ đang tác động mạnh
đến đào tạo công nhân kỹ thuật nhất là khi chúng ta phát triển các ngành kinh tế
quốc dân mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế
xuất và công nghệ cao, sản xuất các mặt hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu Việt
Nam không tập trung vào đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật sẽ dẫn đế hậu quả
nghiêm trọng là không đảm bảo nhu cầu cung cấp công nhân kỹ thuật cho nền
kinh tế quốc dân
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập chúng ta phải ứng dụng có hiệu
quả công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở một số ngành và
lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân để tạo bước nhảy vọt về
công nghệ, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm chủ lực nhất là
công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
sinh học... trên cơ sở hình thành các khu công nghệ cao vì thế mà nhu cầu đào
tạo cho ứng dụng các công nghệ nhập khẩu và cung cấp cho các khu công nghệ
cao sẽ ngày càng tăng đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và đào tạo đội ngũ công nhân
25
kỹ thuật tương ứng.
Xuất khẩu lao động và chuyên gia cũng là hướng mũi nhọn để tạo việc
làm và thạm gia vào thị trường lao động quốc tế và khu vực của Việt Nam hiện
nay. Tuy nhiên xu hướng xuất khẩu lao động chủ yếu là lao động có nghề và
chuyên môn trình độ cao. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, cạnh tranh trên thị
trường lao động là rất trực tiếp và quyết liệt. Bởi vậy, để chẩn bị nguồn cho xuất
khẩu lao động chỉ còn cách đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng yêu cầu
của thị trường tiếp nhận lao động nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Malayxia. Trung Đông...
Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nêu rõ: phát triển kinh tế,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Vấn đề quan trọng nhất
trong nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu đầu tư, cùng với nó là chuyển dịch cơ cấu lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, theo ngành lớn (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; công
nghiệp và dịch vụ) và hình thành các vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế động
lực) dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, nhu
cầu đời sống nhân dân và quốc phòng an ninh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tác động đến phát triển đội ngũ công nhân
kỹ thuật: Khi cơ cấu kinh tế chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá và áp dụng
công nghệ hiện đại, công nghệ cao làm thay đổi cơ cấu giá trị các ngành trong
GDP. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã xác định đến năm 2010 tỉ trọng
GDP của nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp - xây dựng là 40-41%, dịch vụ
42-43%. Tương ứng cơ cấu lao động là 50% - 23% - 27% và tỉ lệ qua đào tạo đạt
40% trong đó đào tạo nghề là 26%. Sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đến cơ cấu lao động và đào tạo công nhân kỹ thuật là sự tác động và ràng buộc
26
lẫn nhau trong tổng thể kinh tế vĩ mô không thể tách rời, vừa là điều kiện, vừa là
tiền đề của nhau. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là chuyển từ nền kinh tế truyền thống ở trình
độ thấp, dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế hiện đại, trình độ cao,
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Khi ấy những ngành nghề truyền thống
không phù hợp sẽ dần mất đi đồng thời xuất hiện nhiều ngành nghề mới đã tác
động mạnh đến đào tạo công nhân kỹ thuật cho phù hợp. Số lao động đã được
đào tạo theo ngành nghề cũ cần được đào tạo lại, đào tạo bổ sung kỹ năng theo
yêu cầu của ngành nghề mới. Số công nhân mới tham gia đào tạo sẽ được tiếp
cận ngay với ngành nghề mới mà thực tế lao động sản xuất đã xuất hiện và đang
phát triển. Ví dụ như trong nông nghiệp xuất hiện nghề mới chủ yếu áp dụng
công nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công nghiệp, thú y, kiểm tra
chất lượng sản phẩm... đặc biệt là công nghệ sinh học đưa giống mới, cây trồng
vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất kinh doanh; trong công nghiệp xuất
hiện ngành nghề liên quan đến sử dụng công nghệ thông tin, phần mềm máy vi
tính, công nghệ chế biến nông sản, thuỷ sản, gia công may mặc, da giầy, lắp ráp
máy móc sử chữa thiết bị hiện đại, công nghệ vật liệu mới...
Như vậy đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành nhiệm vụ ngày càng quan
trọng đòi hỏi phải đổi mới một cách căn bản toàn diện hệ thống đào tạo kỹ thuật
thực hành đáp ứng được yêu cầu của thực tế và cập nhật công nghệ mới luôn
luôn thay đổi.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp trước đây sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Quá trình này tác động mạnh đến việc phát triển công nhân kỹ thuật
trên nhiều mặt. Người lao động sẽ có nhiều cơ hội lao động việc làm và thắng
27
trong cạnh tranh là người có năng lực nghề nghiệp và phẩm chất vượt trội phù
hợp với yêu cầu công việc mà người sử dụng đang cần. Cơ chế cạnh tranh của
thị trường lao động sẽ tạo ra động lực khuyến khích người lao động học tập suốt
đời không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt: sức khoẻ, tri thức, tay nghề, tác
phong công nghiệp, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp... Có thể nói cơ chế thị
trường đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật chất lượng cao. Đây là nhu
cầu khách quan và không ngừng phát triển.
Như vậy, trong khi nhu cầu thị trường đang rất cần đội ngũ công nhân kỹ
thuật, chuyên gia thực hành có tay nghề cao thì quá trình đào tạo lại chưa thể đáp
ứng yêu cầu đó. Hơn nữa, hiện tượng phổ biến hiện nay là phần lớn học sinh tốt
nghiệp phổ thông lại có nguyện vọng thi vào các trường Đại học, không muốn
học nghề. Ngay cả cơ cấu đào tạo trong trường đại học cũng thiếu cân đối. Đa số
học sinh muốn đăng ký học những ngành nghề có thu nhập cao, dễ tìm được việc
làm, ít ham thích học các trường thuộc khối ngành khoa học cơ bản, khoa học kỹ
thuật mặc dù những ngành này có vai trò quan trọng trong quốc kế dân sinh. Số
liệu điều tra những năm gần đây cho thấy, số lượng sinh viên ngành văn hoá
nghệ thuật chiếm 1,3%; nông lâm ngư nghiệp chiếm 3,13%; khoa học chiếm
15,5%; khoa học công nghệ và kỹ thuật 15,2%, khoa học xã hội chiếm 42,78%
trong tổng số sinh viên đang học tại các trường cao đẳng, đại học trong cả nước.
Do đó tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao đẳng, đại học sau 6 tháng ra trường không tìm
được việc làm chiếm 27,53%, số làm đúng nghề đào tạo chỉ gần 30% (Điều tra
việc làm sinh viên tốt nghiệp 51 trường Đại học và Cao đẳng, 1999). Trong khi
đó hệ thống đào tạo nghề mới được phục hồi, tỉ lệ đào tạo vẫn còn thấp, tình
trạng thiếu lao động kỹ thuật trình độ cao còn khá lớn, đặc biệt là một số ngành
nghề kinh tế mũi nhọn.
Tâm lý chung của các em học sinh phổ thông là không muốn thi vào
28
trường nghề, dẫn tới tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” càng trở nên phổ biến hiện
nay. Trong lúc sinh viên đại học ra trường khó hoặc thậm chí không thể tìm được
việc làm thì các cơ sở kinh tế, sản xuất và dịch vụ, các doanh nghiệp đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài lại không tuyển dụng được lao động kỹ thuật
theo yêu cầu của đối tác nước ngoài. Các trường đào tạo về khoa học cơ bản,
khoa học kỹ thuật là những ngành nghề thiết yếu lại chưa được chú trọng đúng
mức.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vào khoảng 7%, mức GDP gấp 2
lần hiện nay và nhịp độ quy mô đào tạo như hiện nay thì nhu cầu đào tạo nghề
hàng năm khoảng 1,1 triệu người. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu ở
giai đoạn 3 từ thủ công lên cơ khí hoá (với cơ cấu lao động đại học/trung học
chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật bán lành nghề/lao động thủ công là
1/4/20/60/15) như nước ta hiện nay thì số lao động đã qua đào tạo phải đạt
khoảng 85% tổng số lao động đang làm việc, trong đó số đào tạo từ lành nghề trở
lên là 70% mới thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá được trong
khi đó cơ cấu lao động có trình độ đại học, cao đẳng/công nhân kỹ thuật tính
chung của nước ta năm 2002 là 1/1,33/4,17 [27, tr.136].
Tóm lại, đội ngũ công nhân kỹ thuật được đào tạo trong các trường dạy
nghề đã và đang có tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế của quốc gia và có
vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường và sự mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài trong
xu thế toàn cầu hoá, vấn đề nâng cao chất lượng của lực lượng lao động công
nhân kỹ thuật càng trở nên cấp thiết để đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động
với tính cạnh tranh mạnh mẽ. Chính trình độ nghề của đội ngũ công nhân kỹ
thuật sẽ quyết định trực tiếp tới chất lượng sản phẩm làm ra ngay cả khi đã tiến
29
hành sản xuất- dịch vụ theo công nghệ hiện đại. Trái tim - khối óc - bàn tay
người thợ lành nghề là sự đảm bảo bền vững, chắc chắn nhất cho các sản phẩm
phục vụ đời sống con người.
1.2.2. Vai trò của hệ thống các trường dạy nghề trong đào tạo công
nhân kỹ thuật
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, giáo dục -
đào tạo luôn chiếm vị trí quan trọng. Ngày nay, chắc chắn không một quốc gia
nào trên thế giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của giáo dục -
đào tạo đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh rằng một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến
bộ vượt bậc cho mỗi quốc gia là giáo dục - đào tạo. Cùng với sự đóng góp lớn
lao đó, giáo dục - đào tạo đã tham gia trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong
chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nó là cái không thể thiếu được để nâng
cao trình độ văn hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, xử lý công
nghệ, tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong
xã hội hiện đại, trình độ và năng lực của người lao động đã trở thành nhân tố
quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho xã hội phát triển bền vững.
Không đâu xa, ngay bên cạnh chúng ta, Nhật Bản - một đất nước không
giàu tài nguyên, bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã trở thành cường quốc kinh tế
thứ hai trên thế giới. Người ta nhất trí với nhau rằng, trong những nguyên nhân
chính làm nên "sự thần kỳ Nhật Bản" suốt mấy chục năm qua có nguyên nhân là
nhờ vào giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực và sử dụng chúng một cách hợp lý.
Sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore cũng đã trở thành những “con
rồng Châu Á” và đang là những nền kinh tế năng động có năng lực cao trong thế
kỷ 21. Lý giải những nguyên nhân dẫn đến thành công của những xứ sở này,
30
người ta cho rằng đó là do nguồn nhân lực được giáo dục thường xuyên, liên tục
cũng như được khai thác sử dụng một cách hợp lý. Thực tiễn ở các nước trên thế
giới đã chứng minh vai trò cực kỳ to lớn của giáo dục - đào tạo đối với việc phát
triển nguồn nhân lực.
Ở nước ta, sau hơn gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Những thành tựu to lớn ấy đã cho
phép chúng ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn là đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định, để nhanh chóng
đưa sự nghiệp đó đến thắng lợi, chúng ta nhất thiết phải phát triển mạnh giáo dục
đào tạo, phát huy nguồn lực con người với tư cách là yếu tố cơ bản của sự phát
triển nhanh và bền vững. Điều đó cho thấy, trong quan điểm của Đảng ta, phát
triển mạnh giáo dục đào tạo trong đó có dạy nghề là yếu tố không thể thiếu được,
tham gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định để phát huy nguồn nhân
lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để việc dạy nghề thực sự đạt hiệu quả chúng ta không thể không kể đến
vai trò của các trường dạy nghề. Trường dạy nghề là sản phẩm của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Dưới tác
động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hệ thống các trường dạy nghề ở
các nước đã và đang phát triển mạnh mẽ với nhiều loại hình đa dạng nhằm đáp
ứng nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật cho quá trình phát triển kinh tế các quốc
gia. Hệ thống các trường dạy nghề đã thực sự trở thành một bộ phận cấu thành
hệ thống giáo dục quốc dân của các nước với vai trò, vị trí, quy mô ngày càng
tăng và đặt ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý ở mức vĩ mô và vi mô.
Chiến lược phát triển của một quốc gia một mặt đặt ra những yêu cầu và
31
cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của nền giáo dục nói chung và nhà trường
nói riêng. Chính quá trình phát triển nhà trường đã tạo điều kiện và cơ hội thành
công cho chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Tính chất Quốc tế - Quốc gia -
Dân tộc trở thành một đặc trưng đậm nét của mô hình phát triển của nhà trường
nói chung và trường nghề nói riêng.
Việt Nam đang đứng trước những thách đố gay gắt của tương lai. Xã hội
Việt Nam đang chuyển mình trong sự giao thoa, vừa có cộng hưởng vừa có va
đập giữa các làn sóng Văn minh nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp.
Mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai không chỉ biểu hiện trong những
nét hài hoà, thích ứng mà còn bộc lộ trong cả những xung đột, mâu thuẫn trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và từng cá nhân như lối sống, cách nghĩ,
cách làm, nhu cầu tiêu dùng, giải trí... Để chuẩn bị hành trang cần thiết cho từng
cá nhân và cả cộng đồng góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam văn minh,
hiện đại, có khả năng thích ứng với nhịp sống của xã hội đang trên con đường
công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì cần xây dựng được mô hình phát triển nhà
trường dạy nghề Việt Nam hiện đại nhằm đào tạo lớp người có văn hoá, trí tuệ
phát triển, có sức khoẻ tốt, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp và giàu giá trị
nhân phẩm, đào tạo lao động kỹ thuật với nhiều trình độ khác nhau để đáp ứng
nhu cầu đa dạng về nhân lực của nền sản xuất xã hội. Bởi vì:
Ngành dạy nghề là một bộ phận của hệ thống kinh tế - xã hội, có chức
năng đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất ra của của vật chất cho xã hội. Ở
giai đoạn cơ khí hoá, tỷ lệ cơ cấu lực lượng lao động hợp lý mà các nước tiên
tiến đã áp dụng trong lĩnh vực công nghiệp là 1/4/60/20/15. Dạy nghề có thể
được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau song nếu đuợc đào tạo tại các
trường dạy nghề người học sẽ được đào tạo một cách chi tiết, đầu đủ và nghiêm
túc nhằm đảm bảo cho người học sau khi ra trường: Có được các kiến thức, kỹ
32
năng, kỹ xảo chuyên môn nghề nghiệp ở trình độ chuyên môn nhất định để có
thể làm việc theo nghề đó sau khi tốt nghiệp, đồng thời có thể giáo dục cho họ
những phẩm chất nghề nghiệp như lòng yêu nghề, đạo đức nghề nghiệp, ý thức
tổ chức, kỷ luật trong lao động sản xuất. Đó chính là phẩm chất, năng lực tạo nên
nhân cách người lao động mới. Qua dạy nghề người học còn nắm được các kiến
thức và cơ sở khoa học của nền sản xuất nói chung, có được kỹ năng, kỹ xảo sản
xuất, biết sử dụng các thiết bị sản xuất, các công cụ lao động điển hình, đơn giản,
phổ biến nhất để có thể tự chọn nghề và đổi nghề trong tương lai.
Qua dạy nghề người học có thể trở thành người lao động trực tiếp ở một
lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, được làm quen với các nguyên vật liệu, các thiết bị,
các thiết bị và các kỹ năng nghề nghiệp mới, cho phép họ có khả năng thích ứng
nhanh với mọi thay đổi mới của nền sản xuất hiện đại. Đội ngũ này với nghề
nghiệp chuyên môn thành thạo, có lòng yêu nghề, đạo đức nghề nghiệp sẽ góp
phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Để có thể làm việc dưới một chuyên môn nhất định, người học phải biết
được đối tượng lao động và công cụ lao động nghề mà mình đang học. Vì vậy,
nghề có đặc trưng là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, thời gian học lý
thuyết bao giờ cũng ít hơn thời gian học thực hành. Ví dụ: Tuyển sinh tốt nghiệp
Trung học cơ sở vào học nghề tiện, thời gian 3 năm, tay nghề khi tốt nghiệp là
bậc 3/7 thì học lý thuyết là 1.500 giờ, thực hành là 3.360 giờ, hay với những
nghề đòi hỏi các thành phẩm trí tuệ nhiều hơn như thợ sửa chữa các loại thì thời
gian thực hành sản xuất khoảng 60%. Như vậy, qua dạy nghề người học được
thực hành theo mỗi chuyên môn nhất định, có kỹ năng, kỹ xảo để chuẩn bị quá
trình sản xuất (hiểu nhiệm vụ, chuẩn bị vật liệu, phương tiện kỹ thuật, quy trình
33
công nghệ, các thao tác lao động).
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc áp dụng các quy trình
công nghệ tiên tiến và sử dụng các phương tiện sản xuất hiện đại làm thay đổi
nội dung và tính chất lao động của người công nhân. Khi vận hành các phương
tiện sản xuất tự động hoặc sửa chữa các thiết bị hiện đại, phức tạp, người công
nhân phải tiến hành các thao tác tư duy kỹ thuật nhiều hơn là thao tác chân tay.
Ví dụ: khi sử dụng một máy tiện tự động thì hầu hết các thao tác trước đây của
người công nhân đều đã được tự động hoá theo chương trình. Nhiệm vụ còn lại
của người công nhân là điều khiển, quan sát và tập trung chú ý để theo dõi sự
hoạt động của máy tiện một cách liên tục, thường xuyên, khi có sự cố thì phán
đoán, nhanh chóng tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Các thiết bị hiện
đại đều kết hợp nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật như cơ khí, điện, điện tử, thậm
chí cả thuỷ lực, khí nén... Do vậy, để sửa chữa được những thiết bị này người
công nhân cần được trang bị một số kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau ở
mức độ cần thiết. Mặt khác họ phải rèn luyện khả năng tư duy kỹ thuật thành
thạo thì mới hoàn thành tốt được công việc. Đây là đội ngũ công nhân kỹ thuật
quan trọng, là đội quân tinh nhuệ trong nền sản xuất xã hội. Vì thế, đào tạo
những công nhân lành nghề để sau khi tốt nghiệp với khả năng sử dụng được
những công cụ ấy sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta.
Như vậy, trường dạy nghề có vai trò quyết định đến chất lượng đối với
việc đào tạo ra đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề, có trình độ, có kỹ năng,
có phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh để góp phần đảm bảo sự thành
công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống đào
34
tạo công nhân kỹ thuật
Các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng sự phát triển kinh tế bền vững phụ thuộc
chặt chẽ vào việc phát triển nguồn nhân lực. Nói cách khác, sự phát triển nguồn
nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Chính vì vậy mà các nước phát triển và các nước có tốc độ phát triển cao như các
nước NICs, Trung Quốc... đã có sự đầu tư rất lớn vào vấn đề đào tạo phát triển
nguồn nhân lực. Tuy nhiên việc đầu tư như thế nào, quản lý các hoạt động đào
tạo ra sao... sẽ ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực,
cũng như sự phát triển kinh tế. Điều này nó thể hiện ở chỗ đầu tư cho nguồn
nhân lực phải căn cứ vào nhu cầu thực tế và định hướng phát triển lâu dài của
nền kinh tế, chứ không phải áp đặt, duy ý chí.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu thị trường lao động hoạt động một cách
hoàn hảo thì chính những quy luật tương tác trên thị trường sẽ định hướng tối ưu
cho việc đầu tư các nguồn lực của nền kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Khi thị
trường lao động hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai lệch thì Nhà nước sẽ phải
đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Kinh
nghiệm cho thấy, các nước có sự thành công trong lĩnh vực phát triển nguồn
nhân lực đều có sự đóng góp rất lớn của nhà nước.
Tuỳ theo đặc trưng của từng quốc gia mà hệ thống đào tạo có sự khác biệt.
Một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng hình thức giáo dục đào tạo tuần tự từ
giáo dục phổ thông đến đào tạo chuyên môn. Trong khi đó, một số nước khác lại
đưa vấn đề đào tạo nghề vào ngay bậc trung học hoặc áp dụng cả hai hình thức
này.
1. INDONEXIA
Trước cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997 Indonexia là một nước
35
có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Nhà nước đã có đầu tư thích đáng cho
giáo dục- đào tạo và đặc biệt đã có sự cải cách mạnh mẽ chương trình đào tạo
cho phù hợp với yêu cầu về khoa học kỹ thuật tiên tiến. Việc đưa giáo dục nghề
nghiệp vào bậc trung học, bên cạnh đó vẫn áp dụng hệ thống trung học phổ
thông đã tạo nên định hướng nghề sớm cho học sinh. Những học sinh theo học
trung học phổ thông khi tốt nghiệp đã có một trình độ tay nghề nhất định, có thể
tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những học sinh theo học trung
học phổ thông có định hướng vào các trường cao dẳng, đại học, trong đó những
ngành khoa học kỹ thuật cũng được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên cũng như
nhiều nước khác, ở Indonexia, số học sinh theo học trung học trung học phổ
thông vẫn chiếm đa số (2/3 số học sinh trung học). Sở dĩ có điều này là do có
khả năng chuyển tiếp lên bậc đại học, do uy tín và hấp dẫn của việc làm, nhất là
trong lĩnh vực dịch vụ thương mại đòi hỏi một quá trình đào tạo phổ thông rất cơ
bản. Mặt khác thường các xí nghiệp thích nhận những học sinh đã tốt nghiệp
trung học phổ thông sau đó đi học nghề hơn.
Trong thực tế, chất lượng giáo dục kỹ thuật phụ thuộc vào các môn học
thuộc chương trình giảng dạy có phù hợp với việc chuyên môn hoá sản xuất của
vùng có trường này. Ở những nơi có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và xí
nghiệp trong vấn đề giảng dạy, thực tập thì chất lượng đào tạo rất cao. Đây cũng
là một định hướng mà các nhà chức trách Indonexia đang quan tâm.
Một đặc điểm lớn ảnh hưởng đến vấn đề đào tạo nghề là đầu tư của nhà
nước còn hạn chế. Khu vực tư nhân hầu như đảm trách phần lớn các hoạt động
đào tạo nghề. Khu vực tư nhân hầu như nhận toàn bộ số học sinh đến xin học,
trong khi đó khu vực nhà nước bình quân chỉ nhận khoảng 50% số người đến xin
học. Do qui chế tuyển sinh của khu vực nhà nước chặt chẽ hơn, và chương trình
36
đào tạo qui củ hơn nên chất lượng đào tạo thuộc khu vực nhà nước cao hơn.
Ngoài hoạt động đào tạo nghề ở bậc trung học, các hình thức đào tạo nghề
khác còn chưa phát triển và không được quản lý một cách chặt chẽ, có hệ thống.
Những cơ sở đào tạo nghề chủ yếu thuộc khu vực phi chính thức. Chính vì vậy
mà nhà nước rất khó quản lý chất lượng đào tạo của các cơ sở này.
Để giảm bớt sự khác biệt giữa đào tạo với thực tiễn, Chính phủ đã quan
tâm đến việc đào tạo nghề tại các xí nghiệp. Hình thức này chủ yếu là vừa học
vừa làm. Nó có ưu điểm là rất thực tế, học và hành được gắn kết một các chặt
chẽ, học sinh dễ tiếp thu và tay nghề được nâng lên nhanh chóng, đáp ứng ngay
yêu cầu của công việc. Tuy vậy đào tạo nghề ở các xí nghiệp thường không có
tính hệ thống mà chủ yếu tập trung vào những kỹ năng, công việc mà xí nghiệp
đang cần. Các xí nghiệp thường áp dụng hình thức đào tạo ngắn hạn, đào tạo một
loại kỹ năng công việc nào đó nên học sinh thường bị phiến diện và hạn chế khả
năng tìm việc làm khi họ muốn chuyển đổi nghề, hay chuyển sang nơi làm khác.
Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề ở Inđônêia còn chưa phát triển, đặc biệt
vấn đề đào tạo nghề đã qua bậc phổ thông trung học còn chưa chính thống, chưa
có sự quản lý một cách chặt chẽ, tuy nhiên việc đưa giáo dục kỹ thuật vào trong
bậc học phổ thông là một cải cách lớn trong vấn đề đào tạo nghề. Nó tạo điều
kiện cho người lao động sớm tham gia vào thị trường lao động với một tay nghề
nhất định và có định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh.
2. THÁI LAN
Bắt đầu từ những năm 1950, Thái Lan đã tiến hành cải cách nền kinh tế,
đưa nền kinh tế từ lạc hậu và nghèo nàn trở thành một nước công nghiệp có tốc
độ tăng trưởng cao. Về nông nghiệp, Thái Lan chuyển đổi cơ cấu từ việc chỉ
trồng một số loại cây công nghiệp xuất khẩu sang ưu tiên hàng đầu cho cây
37
lương thực, đồng thời vẫn tập trung vào một số loại cây có giá trị xuất khẩu như
mía, hoa quả nhiệt đới. Về công nghiệp, tập trung phát triển hai nhóm ngành chủ
yếu: công nghiệp chế biến làm tăng giá trị hàng nông sản và khai khoáng và
Công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng tiêu dùng như may mặc,
giày, da... Trong thời gian này, Chính phủ thực hiện bảo hộ quá mức nền sản
xuất trong nước nên đã làm cho nền sản xuất công nghiệp chững lại vào cuối
những năm 1960, đầu những năm 1970. Ngay sau đó, Chính phủ đã áp dụng
chính sách sản xuất hướng ra xuất khẩu và chuyển dịch sang các ngành công
nghiệp có công nghệ cao vào cuối những năm 1980, đầu những năm1990.
Các chính sách cải cách kinh tế đã tạo cho Thái Lan trở thành một nước
công nghiệp phát triển nhanh ở Đông Nam Á. Đã bắt đầu xuất hiện vấn đề cần
giải quyết, đó là công nhân phải thích ứng với thị trường lao dộng, hay nói khác
đi là đã bắt đầu xảy ra hiện tượng thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao để đáp
nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề giáo dục - đào tạo trở
nên căng thẳng, đặc biệt là đào tạo nghề. Một đặc điểm hệ thống giáo dục khá
giống Việt Nam đó là tỉ lệ học sinh, sinh viên trong các ngành sư phạm, văn học,
luật, và các ngành xã hội khác chiếm tỉ lệ cao. Văn học và sư phạm tập hợp 2/3
số sinh viên; luật 24%. Trong khi đó các ngành như nông học, chế tạo hay các
ngành kỹ thuật khác lại rất ít học sinh đến học, chỉ chiếm từ 2-3% số học sinh.
Điều này đã làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt các kỹ sư và kỹ thuật viên
mà lại thừa các cử nhân văn chương, cử nhân luật.
Để khắc phục tình trạng này, chính sách giáo dục hiện nay nhằm củng cố
các mặt công tác đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề thông qua lựa chọn và ưu tiên
cho việc giảng dạy “kỹ năng trình độ” nhằm làm cho học sinh cảm nhận được
tầm quan trọng của công tác đào tạo kỹ thuật, và đào tạo khoa học. Bên cạnh đó
việc nâng cao giá trị, bằng kỹ thuật và chuyên nghiệp vào cuối bậc trung học
38
cũng được khuyến khích.
Cũng như ở Indoneia, Thái Lan áp dụng hình thức đào tạo nghề, kỹ thuật
ngay trong bậc trung học. Chương trình giảng dạy cũng được sửa đổi, các môn
học kỹ thuật được đưa vào cả trong chương trình trung học phổ thông. Do có sự
cải cách hợp lý mà tỷ lệ học sinh trung học kỹ thuật tăng lên và đồng thời sự mất
cân đối giữa sinh viên sư phạm, văn chương, luật,... với các ngành khoa học, kỹ
thuật được cải thiện.
Khu vực tư nhân đóng vai trò rất nhỏ trong vấn đề giáo dục - đào tạo nói
chung, đào tạo nghề nói riêng. Hệ thống đào tạo nghề và đào tạo chuyên nghiệp
nằm trong hệ thống quản lý của nhà nước ngay từ bậc trung học. Các cơ sở đào
tạo nghề tư nhân không phát triển hay nói cách khác, vấn đề đào tạo và đào tạo
nghề đã bị khu vực tư nhân bỏ qua.
Đối với người sử dụng lao động, nhà nước chưa có chính sách khuyến
khích, bắt buộc họ tham gia vào quá trình đào tạo. Sự kết hợp giữa đào tạo và
thực hành tại các xí nghiệp còn lỏng lẻo nên đã hạn chế chất lượng đào tạo nghề.
Với 19% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã không đủ để nâng cấp hệ thống
đào tạo quốc gia. Sự khủng hoảng tài chính hiện nay càng làm tăng áp lực đối
với ngân sách nhà nước cho giáo dục (ngược lại với Thái Lan, Malaixia lại rất
thành công trong việc kết hợp giữa giáo dục- đào tạo của Nhà nước với các
doanh nghiệp. Nhà nước bắt buộc người sử dụng phải khi tuyển lao động phải
đóng một khoản phí đào tạo. Khoản phí này sẽ được sử dụng để đầu tư cho giáo
dục. Điều này đã làm giảm áp lực đối với ngân sách Nhà nước và gắn trách
nhiệm đào tạo lên người sử dụng lao động. Hơn nữa, trong quá trình đào tạo sự
liên kết giữa các cơ sở đào tạo với các xí nghiệp trong vùng được thực hiện rất
39
chặt chẽ).
Như chúng ta đã đề cập ở trên, hệ thống giáo dục - đào tạo do Nhà nước
nắm giữ nên có sự thống nhất trên toàn quốc về chương ttrình giảng dạy và các
tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống bằng cấp, chứng chỉ được quản lý thống nhất.
Quy chế đào tạo của Thái Lan còn cho phép một học sinh có thể đồng thời theo
học một số chuyên ngành đào tạo khác nhau, làm tăng thêm cơ hội việc làm cho
họ.
Tóm lại, trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Nhà nước Thái Lan đóng vai
trò chủ đạo. Sự tham gia của khu vực tư nhân không đáng kể. Trong những điều
kiện như vậy và lượng vốn đầu tư có hạn của Nhà nước nên vấn đề giáo dục- đào
tạo vẫn chưa được giải quyết triệt để. Sự tham gia của khu vực tư nhân là hoàn
toàn cần thiếtmặc dù cần phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ của Nhà
nước.
3. TRUNG QUỐC
Trung Quốc là một nước có đặc điểm và quá trình phát triển kinh tế khá
giống Việt Nam. Đây là một quốc gia đông dân nhất trên thế giới có đường lối
phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đây nền kinh tế Trung
Quốc là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong suốt thời
kỳ này, nền kinh tế trì trệ, không phát triển và đời sống nhân dân ngày càng khó
khăn.
Nhận thức được tính tất yếu đổi mới kinh tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã tiến hành cuộc cải cách kinh tế trên các mặt theo định hướng thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Bằng việc tập trung các nguồn lực vào một số ngành công
nghiệp mũi nhọn, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất và các đặc khu
kinh tế, công nghiệp Trung Quốc đã có sự phát triển vượt bậc và là động lực thúc
40
đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát triển kinh tế làm nảy sinh ra vấn đề về sự
không phù hợp giữa nhu cầu phát triển kinh tế và nguồn nhân lực. Chính vì vậy,
cùng với sự đổi mới kinh tế, giáo dục và đào tạo đã được quan tâm cải cách cho
phù hợp với yêu cầu thực tế.
Trước quá trình đổi mới, hệ thống quản lý giáo dục và đào tạo là hệ thống
quản lý tập trung. Các trường, các cơ sở đào tạo nghề đều thuộc quản lý nhà
nước và do ngân sách Trung ương chi trả. Vai trò của chính quyền địa phương và
các thành phần kinh tế khác rất mờ nhạt. Đặc điểm nổi bật trong đào tạo nghề
giai đoạn này là các trường, các cơ sở đào tạo nghề thuộc sự quản lý chuyên môn
của các Bộ. Các Bộ đều mở ra các cơ sở đào tạo nghề, thậm chí cả các trường
cao đẳng, đại học cho ngành mình. Song chi phí đào tạo lại lấy từ ngân sách
Trung ương. Chẳng hạn, Bộ Đường sắt mở các trường đại học, cao đẳng và các
cơ sở đào tạo nghề cho ngành mình trên toàn quốc. Bộ quản lý về mặt chuyên
môn, hành chính còn kinh phí đào tạo lấy từ ngân sách Trung ương. Do dàn trải
trên toàn quốc nên có rất nhiều cơ sở đào tạo thuộc một bộ. Trong khi đó có
những ngành nghề không cần có các cơ sở đào tạo riêng, nhất là những ngành có
tính đặc thù không cao. Đây là một sự lãng phí và gây ra sự kém năng động của
thị trường lao động sau này.
Quá trình cải tổ giáo dục và đào tạo bắt đầu từ việc giao nhiệm vụ đào tạo
cho các địa phương. Các địa phương sẽ căn cứ vào nhu cầu thực tế và lấy ngân
sách địa phương chi trả cho hoạt động giáo dục - đào tạo. Nếu ngân sách địa
phương không đủ thì có thể huy động từ các nguồn khác từ cộng đồng. Ở đây có
sự phân cấp khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền trong giáo dục - đào tạo. Bậc
tiểu học thường do cấp xã đảm nhiệm. Xã sẽ lấy nguồn kinh phí từ các khoản thu
thuế và một phần huy động từ nhân dân thông qua sự đóng góp bắt buộc từ phụ
huynh, các tổ chức sản xuất - kinh doanh, các hợp tác xã và các khoản quyên góp
41
khác. Giáo dục phổ thông cơ sở và phổ thông trung học do cấp huyện đảm
nhiệm. Đào tạo nghề và đào tạo chuyên nghiệp do cấp tỉnh thực hiện. Hình thức
đào tạo theo ngành dọc của các bộ, ngành trước đây dần dần bị xoá bỏ. Chính
quyền tỉnh căn cứ vào nhu cầu lao động của địa phương mà mở các khoá đào
tạo, các trường, các cơ sở. Chính quyền trung ương chỉ tập trung đào tạo một số
ngành có tính chung nhất như sư phạm, văn hoá, nghệ thuật,... Những ngành này
nếu để các địa phương thực hiện thì khó đáp ứng được yêu cầu chất lượng đào
tạo và cũng không có hiệu quả.
Tuy có sự phân cấp quản lý khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền, Bộ
Giáo dục vẫn quản lý thống nhất về chương trình giảng dạy; tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng; bằng, chứng chỉ cấp cho học sinh. Mặt khác chất lượng đội ngũ giáo
viên được Bộ giáo dục quản lý chặt chẽ. Phần lớn giáo viên cấp đào tạo chuyên
nghiệp và đào tạo nghề hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Chỉ có 40-50% giáo
viên cấp tiểu học hưởng lương do cộng đồng trả, còn lại là hưởng lương từ ngân
sách Trung ương. Đây là một trong những biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên.
Tóm lại, đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo ở Trung Quốc là nhu cầu
khách quan nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sự chuyển đổi từ tập
trung sang phân cấp quản lý cho các địa phương trong sự quản lý về chất lượng
đào tạo của Nhà nước đã giảm được gánh nặng lên ngân sách Nhà nước mà vẫn
đảm bảo chất lượng đào tạo. Việc đào tạo căn cứ vào nhu cầu thực tế làm tăng
hiệu quả công tác đào tạo, tạo sự linh hoạt trên thị trường lao động. Mặt khác nó
cũng làm giảm bớt sự cồng kềnh kém hiệu quả của hệ thống quản lý tập trung.
Tuy nhiên hình thức này cũng nảy sinh sự mất cân đối giữa các vùng.
Những địa phương có tiềm lực kinh tế dồi dào thì giáo dục - đào tạo được đầu tư
nhiều hơn. Ngược lại, những vùng chậm phát triển, nghèo nàn thì đầu tư cho
42
giáo dục- đào tạo rất hạn chế, và chính điều này lại ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển kinh tế của vùng. Những vùng này cần có sự trợ giúp của Nhà nước và
sự tham gia của các thành phần kinh tế nhằm giảm bớt sự mất cân đối giữa các
vùng.
4. CÁC NƯỚC CHÂU MỸ LA TINH
Hệ thống đào tạo nghề các nước Châu Mỹ la tinh khá đặc biệt. Ở những
nước này, hệ thống đào tạo nghề hoàn toàn độc lập với hệ thống giáo dục chính
quy của Nhà nước. Kinh phí đào tạo chủ yếu được lấy từ các doanh nghiệp,
nghĩa là doanh nghiệp phải trả một khoản phí đào tạo căn cứ vào số lao động mà
họ sử dụng và mức lương của người lao động. Hệ thống đào tạo này được điều
hành bởi đại diện 3 bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Chính phủ.
Sự điều hành của đại diện 3 bên và kinh phí đào tạo khá ổn định dựa trên
quỹ lương các doanh nghiệp đã tạo nên tính năng động và đản bảo được chất
lượng đào tạo của hệ thống. Nhu cầu của người sử dụng lao động là căn cứ quan
trọng, có tính quyết định cho hệ thống lên kế hoạch đào tạo và thực hiện kế
hoạch này. Do vậy đào tạo được gắn chặt chẽ với việc làm và nhu cầu thực tế
của nền kinh tế. Sự tham gia điều hành của đại diện 3 bên mà không ảnh hưởng
tới hoạt động đào tạo.
Các cơ sở đào tạo nghề cũng được chuyên môn hoá theo các ngành dặc
thù như dệt - may, da - giày, hoá dầu,... Những cơ sở đào tạo chuyên ngành
thường được sự trợ giúp rất lớn về mặt tài chính và trong các hoạt động đào tạo
từ các doanh nghiệp hay hiệp hội các doanh nghiệp thuộc các ngành này.
Như chúng ta đã đề cập ở trên, nguồn kinh phí đào tạo chủ yếu lấy từ các
doanh nghiệp. Hiện nay đã có sự thay đổi trong vấn đề này theo hướng là các
43
bên đều tham gia. Chính phủ các nước đã có sự đầu tư hơn cho hệ thống đào tạo
nghề. Bên cạnh đó có các hình thức đào tạo nghề phải trả tiền đang phát triển
mạnh mẽ. Hình thức này đã chiếm tới gần 2/3 số học viên đào tạo nâng bậc.
Tóm lại, vấn đề đào tạo nghề hiện nay đang được các nước rất quan tâm vì
đây là vấn đề tác động trực tiếp đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, qua đó
có sự ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển bền vững nền kinh tế. Các nước đều
có hệ thống đào tạo nghề riêng của mình, căn cứ vào tính đặc thù của nước đó.
Tuy nhiên chúng ta có thể thấy, vai trò của nhà nước trong các hệ thống này rất
quan trọng. Đây là đòi hỏi khách quan cho sự phát triển bền vững của một quốc
gia.
Đối với Việt Nam, việc lựa chọn hệ thống nào cũng có thể dẫn đến sự cực
đoan hay không hiệu quả. Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của các nước đã áp
dụng trong thực tế. Việc xây dựng hệ thống cho riêng một quốc gia phải căn cứ
vào thực tiễn của nước đó mới có thể xây dựng được hệ thống có hiệu quả.
Như vậy, Việt Nam là một trong những nước đang phát triển nên việc xây
dựng một đất nước có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững là một yêu cầu
cấp thiết. Với đặc điểm của một nước đang phát triển như nước ta hiện nay mà
muốn thực hiện điều đó thì không còn con đường nào khác là tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm đuổi kịp, đi tắt, đón đầu để phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hoá.
Muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công chúng ta phải tiến hành
đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Phải có một nguồn nhân lực chất lượng
cao, hoàn thiện cả về mặt thể lực và trí lực mới có thể đáp ứng sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ, của những ngành nghề mới phong phú và đa
dạng, của những thiết bị sản xuất tiên tiến hiện đại... Để đáp ứng yêu cầu trên thì
44
một nhân tố vô cùng quan trọng là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật. Việc đào
tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ bằng con đường giáo dục
nghề nghiệp là vấn đề trung tâm vì đội ngũ này thường chiếm các chỗ làm việc
chủ yếu trong các dây truyền sản xuất dịch vụ. Họ là lực lượng lao động tồn tại
lâu bền và có khả năng thích nghi cũng như phát triển dưới tác động của khoa
45
học kỹ thuật.
Chương 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Khái quát về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật thời kỳ trước
đổi mới
Khái niệm đào tạo nghề đã xuất hiện trên cơ sở tồn tại sự phân công xã
hội của lao động. Nghề nghiệp là một loại lao động nhất định, lúc đầu chỉ là một
loại hình lao động đơn giản, không phân biệt. Sau đó, do kết quả của sự phát
triển công cụ lao động và phân công lao động xã hội, các nghề (với tư cách là lao
động được chuyên môn hoá) đã được tách ra. Từ một số nghề đơn giản dần dần
phát triển thành nhiều nghề hơn, chuyên sâu, phức tạp hơn. Sự phong phú đa
dạng của các nghề trong xã hội tuỳ thuộc vào sự phát triển khoa học kỹ thuật ở
từng nước, từng khu vực khác nhau. Theo E.A.Klimov thì: "Nghề nghiệp là lĩnh
vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới
hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có), nó tạo khả năng cho
con người sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho
việc tồn tại và phát triển”. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “nghề là công việc
chuyên làm theo sự phân công lao động trong xã hội. Nghề nghiệp là nghề để
sinh sống và để phục vụ xã hội”. Còn Karl Mark đã đưa ra một định nghĩa khái
quát về nghề như sau: "Nghề là một khâu độc lập của phân công lao động xã
hội". Như vậy, có thể nói rằng nghề nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một hình
thức lao động trong xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng
sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần cho xã hội.
Con người thông qua việc hành nghề để duy trì, phát triển cuộc sống cá nhân,
46
đồng thời góp phần xây dựng đất nước. Nghề nghiệp là một tổ hợp những
chuyên môn có quan hệ cùng loại với nhau. Một nghề bao gồm nhiều chuyên
môn. Có hai loại nghề khác nhau: Nghề được đào tạo và nghề không được đào
tạo.
Nghề không được đào tạo là nghề được hình thành tự phát, do tích luỹ
kinh nghiệm xã hội mà có hoặc do truyền nghề từ người này sang người khác, từ
đời này sang đời khác.
Nghề được đào tạo là nghề yêu cầu một trình độ trí thức, kỹ năng, kỹ xảo
nhất định. Trình độ này có được nhờ quá trình đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn,
nhằm tạo ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường và con người gắn bó lâu dài với
hoạt động đó như lẽ sống của mình.
Nghề được đào tạo có đặc trưng người làm nghề đó phải có trình độ trí
thức, kỹ năng, kỹ xảo làm ra sản phẩm để có thể trao đổi trên thị trường xã hội,
thu nhập của người lao động là nguồn sống chính của họ. Chính vì vậy mà nó trở
thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tưởng nghề nghiệp, từ đó hình
thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề được đào tạo đòi hỏi người vào học nghề đó
phải có trình độ học vấn, sức khoẻ và yêu cầu tâm lý phù hợp với nghề. Sau quá
trình đào tạo, người đó phải đạt được tiêu chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi.
Nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử xã hội, nghĩa là nghề được nảy sinh
và phát triển trong quá trình tiến bộ của xã hội, của khoa học kỹ thuật. Có những
nghề ra đời và phát triển lâu dài thành nghề truyền thống như: nghề sơn mài,
nghề khảm trai... Nhưng lại có nghề dần dần bị thay thế bằng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật như nghề sử dụng máy tính điện tử, đồng thời có những nghề mới ra
đời do thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại như nghề sửa chữa video, nghề lắp
47
máy thu hình... Như vậy, tên nghề đào tạo có thể trùng với một nghề công nhân,
nhân viên nghiệp vụ hoặc do nhiều nghề công nhân, nhân viên nghiệp vụ hợp
thành. Nội dung chuyên môn của nghề đào tạo là khối lượng kiến thức kỹ năng,
kỹ xảo là phẩm chất cần phải đào tạo trong một thời gian nhất định. ứng với mỗi
nghề đào tạo có một mục tiêu, chương trình đào tạo. Hệ thống mục tiêu đào tạo
nghề phân hoá theo chiều ngang được thể hiện ở bản danh mục nghề đào tạo do
nhà nước ban hành, đó là một văn bản pháp quy đối với đào tạo nghề.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới sẽ dẫn đến cuộc cách mạng
ngành nghề trong xã hội. Cuộc cách mạng khoa học trước đây đã giải phóng con
người ra khỏi lao động cơ bắp nặng nhọc. Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ mới sẽ giải phóng con người khỏi những mệt nhọc trí tuệ nhờ máy móc bổ
xung và trợ giúp thêm cho sức mạnh trí tuệ con người. Ngành công nghiệp chế
tạo nặng đang được thay thế bằng ngành chế tạo có hàm lượng tri thức khoa học
và công nghệ cao. Ở những nước phát triển, các lĩnh vực dịch vụ tri thức và xử lý
thông tin ngày càng mở rộng. Nhờ đó, những công nhân làm công tác thông tin
thường được gọi là công nhân cổ trắng (white - collor worker) cũng tăng lên
trong tổng lực lượng lao động. Số công nhân cổ xanh (blue - collor work) ngày
càng giảm. Trong nền kinh tế thông tin sẽ thấy xuất hiện một lực lượng khác mà
người ta gọi là công nhân cổ vàng (gold collor worrker) - đó là những người lao
động có trình độ đại học. Người ta nhận thấy rằng loại công nhân này trước đây
chỉ là một lực lượng nhỏ hẹp, nay thì đã là một lực lượng đáng kể. Xu hướng
chung là công nhân cổ trắng và cổ vàng sẽ dần dần chiếm tỉ lệ cao hơn so với
công nhân cổ xanh trong nền kinh tế thông tin.
Các nghề đào tạo ghi trong danh mục nghề đào tạo có thể được đào tạo
ban đầu ở các trình độ hay các mức độ nghề khác nhau, đó là sự phân hoá mục
48
tiêu đào tạo nghề theo chiều sâu.
Như vậy, hệ thống mục tiêu giáo dục nghề nghiệp được đặc trưng bởi sự
phân hoá mục tiêu theo các nghề được đào tạo và theo các trình độ nghề khác
nhau. Đây là một hệ thống mở, thay đổi theo thời gian. Nó càng đa dạng, phong
phú và mềm dẻo thì đào tạo nghề càng linh hoạt và đáp ứng được nhu cầu.
Khái niệm nghề ở trên được xác định trong phạm vi hệ thống phân công
lao động xã hội còn trong luận văn này nghề được hiểu trong phạm vi hẹp là
nghề công nhân kỹ thuật.
Việc hình thành các cơ sở đào tạo nghề khác nhau ở nước nào cũng nhằm
xây dựng, phát triển đội ngũ nhân lực lao động kỹ thuật theo hệ thống mục tiêu
đào tạo nghề nghiệp nhất định để đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội
của nước đó.
Trên thế giới và các nước trong khu vực đang tồn tại hai khái niệm mà bản
thân chúng có những điểm khác biệt đó là giáo dục nghề nghiệp và huấn luyện
nghề nghiệp.
Giáo dục nghề nghiệp có tính hoàn thiện hơn, bao gồm cả mặt huấn luyện
nghề nghiệp. Đó là quá trình chuẩn bị đầy đủ nhân cách cho thanh thiếu niên
bước vào cuộc sống lao động nghề nghiệp. Như vậy, có thể nói rằng hệ thống
giáo dục nghề nghiệp thực hiện hai chức năng quan trọng trong xã hội đó là xã
hội hoá và nghề nghiệp hoá thế hệ trẻ. Vì vậy giáo dục nghề nghiệp không chỉ
phụ thuộc vào tình hình sản xuất mà còn phụ thuộc vào các vấn đề xã hội khác.
Đào tạo nghề thông qua giáo dục nghề nghiệp thường có thời gian tương
đối dài và ổn định, được xác định trong hệ thống giáo dục quốc dân của mỗi
nước, nhằm vào mục tiêu toàn diện với nội dung đầy đủ, thông thường và chủ
yếu là được tiến hành trong nhà trường. Nó là quá trình đào tạo nghề nghiệp cho
49
thanh thiếu niên.
Ngược lại huấn luyện nghề nghiệp chủ yếu chú trọng đến mặt huấn luyện
sao cho người học đạt được những yêu cầu của sản xuất đề ra nhằm mục tiêu tìm
được một việc làm hoặc tự tạo việc làm. Vì vậy quy mô về số lượng và trình độ
cần được đào tạo phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu sản xuất. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với lợi ích của người học là để hành nghề ngay được.
Thời gian đào tạo của các khoá học của huấn luyện ngắn hạn thường là
ngắn và khác nhau, mục tiêu, nội dung cũng khác nhau ở các cơ sở đào tạo khác
nhau theo từng khoá học cụ thể.
Thực tế Việt Nam với cơ cấu lao động bất hợp lý cho thấy chúng ta chưa
quan tâm đến việc đào tạo nghề nghiệp, tình trạng thừa thầy, thiếu thợ đang tạo
ra khó khăn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Có thể nói, dạy nghề là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, so
với các bậc học khác thì nó được hình thành muộn nhất. Trước Cách mạng tháng
Tám, nước ta là một nước nông nghiệp, nhân dân chủ yếu làm nghề nông, ngoài
ra còn có các nghề thủ công, mỹ nghệ và cơ khí nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng.
Các nghề này đều được chuyển giao theo phương thức truyền nghề. Từ 1898 -
1945 là giai đoạn nước ta bị thực dân Pháp cai trị, dạy nghề mới được hình
thành, cả nước có 4 trường kỹ nghệ thực hành (miền Bắc: 2, miền Trung: 1, miền
Nam: 1). Các trường này chủ yếu đào tạo các nghề: kỹ nghệ sắt, sửa chữa đông
lực, điện để phục vụ cho chiến tranh và dịch vụ sửa chữa các phương tiện giao
thông. Thời kỳ này Vụ Giáo dục nghề nghiệp nằm trong Bộ Giáo dục được thành
lập. Từ 1954 lại đây Công nghiệp Việt Nam mới phát triển, đòi hỏi phải có đội
ngũ lao động được đào tạo. Vì vậy ngành Dạy nghề chính thức được hình thành
50
để đào tạo công nhân cho các ngành Công nghiệp.
Từ 1945 - 1954 nước ta chia thành 2 vùng: Vùng tự do thuộc Nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng hoà mới thành lập, vùng địch hậu do Pháp kiểm soát.
Vùng tự do mới thành lập có 4 trường dạy nghề: 2 trường canh nông và 2 trường
thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh đào tạo nghề chính quy còn phát triển hình thức đào
tạo nghề tại các xưởng quân khí để đào tạo cấp tốc công nhân sửa chữa, chế tạo
phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ này bộ phận quản lý đào tạo
công nhân nằm trong Vụ Chính trị - đào tạo công nhân thuộc Bộ Lao động.
Từ 1955 - 1965 nước ta tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc tiến hành
xây dựng Chủ nghĩa xã hội đã xây dựng hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp đòi hỏi
phải có một lượng lao động kỹ thuật lớn. Để chỉ đạo công tác đào tạo nghề, Nhà
nước thành lập Vụ đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ Lao động. Từ đó 56
trưòng Công nhân kỹ thuật cùng với hàng trăm trung tâm đào tạo nghề bên cạnh
các xí nghiệp được thành lập. Thời kỳ này dạy nghề bắt đầu phát triển và đã đào
tạo được 142.000 công nhân kỹ thuật trong và ngoài nước, đáp ứng được nhu cầu
về công nhân kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế ở miền Bắc.
Từ 1966 - 1975 là giai đoạn đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,
chúng ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc phải chi viện cho miền
Nam cả nhân tài, vật lực với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến". Tổng cục Dạy
nghề được thành lập để đủ sức đảm đương nhiệm vụ đó. Hàng loạt trường dạy
nghề được thành lập. Đến năm 1975 tại các tỉnh phía Bắc, chúng ta đã xây dựng
được 199 trường dạy nghề, 3 trường Sư phạm kỹ thuật. Chúng ta đã đào tạo
được 609.700 công nhân kỹ thuật trong nước và 10.350 công nhân kỹ thuật nước
ngoài với quy mô đào tạo 160.809 học viên/năm. Quy mô đào tạo trung bình của
51
một trường là 869 học viên, bình quân12 - 15 học sinh có một giáo viên, công
tác đào tạo nghề chủ yếu được thực hiện tại các trường công lập (theo số liệu
thống kê 1975).
Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam tập trung xây dựng và phát triển
kinh tế. Ngành dạy nghề được phát triển mạnh mẽ trong cả nước. Tổng cục dạy
nghề được thành lập. Hệ thống các trường dạy nghề được hình thành và phát
triển đồng đều ở tất cả các địa phương,các trường dạy nghề ở miền Nam đã dần
dần được hình thành và đi vào hoạt động, hệ thống các trường dạy nghề được
chú trọng xây dựng để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất
nước. Vì thế, số lượng các trường dạy nghề đã phát triển nhanh. Đến năm 1980
cả nước có tới 366 trường (tăng 2 lần so với 1975), quy mô đào tạo khoảng
250.000 học viên (tăng 1,6 lần so với 1975), bình quân mỗi trường có quy mô
đào tạo khoảng 700 học viên một năm.
Trong những năm đầu của thập kỷ 80, Chính phủ chủ trương giải thể các
trường sơ cấp nông nghiệp của các huyện và thay vào đó là việc hình thành các
trung tâm dạy nghề, do đó hệ thống các trường dạy nghề được sắp xếp lại, đến
năm 1986 còn 269 trường với quy mô đào tạo khoảng 120.000 học viên.
Các trung tâm dạy nghề đã được hình thành và đào tạo thí điểm từ những
năm đầu của thập kỷ 80, nhưng năm 1986 mới ban hành quy chế trung tâm dạy
nghề quận, huyện, thị xã và từ đó hệ thống các trung tâm dạy nghề mới được
chính thức công nhận là một bộ phận của ngành giáo dục chuyên nghiệp trong hệ
thống giáo dục quốc dân thống nhất.
Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, hệ thống các trường dạy nghề chính quy
phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô đào tạo, các trung tâm dạy nghề cũng
đang hình thành và phát triển góp phần cung cấp nguồn nhân lực qua đào tạo chủ
52
yếu của nền kinh tế.
2.2. Tình hình đào tạo công nhân kỹ thuật trong những năm đổi mới
2.2.1. Những thay đổi chính sách có liên quan đến hệ thống dạy nghề
Trong gần 40 năm, từ 1960 đến 1997, hệ thống tổ chức quản lý đào tạo
nghề ở nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Năm 1963 chính phủ quyết
định thành lập Vụ đào tạo công nhân kỹ thuật trực thuộc Bộ lao động (nay là Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội). Năm 1969, chính thức quyết định thành lập
Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật cũng thuộc Bộ lao động. Trong 10 năm
(1969 - 1978), hệ thống đào tạo trường, lớp công nhân kỹ thuật đã phát triển ở
khắp các ngành, vùng, địa phương. Hàng triệu lao động được đào tạo trong và
ngoài nước, cung cấp đội ngũ công nhân kỹ thuật có chất lượng cho cac ngành
kinh tế quốc dân.
Năm 1978 Chính phủ quyết định đổi tên Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ
thuật thành Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Chính phủ. Trong thời kỳ 1978 -
1986, đã có 366 trường dạy nghề. Sự nghiệp đào tạo công nhân kỹ thuật phát
triển mạnh, kể cả trong hợp tác quốc tế, do đó số công nhân kỹ thuật được đào
tạo tăng cả về số lượng và chất lượng.
Cũng năm 1978, Nhà nước sắp xếp lại Bộ, ngành, Tổng cục dạy nghề sáp
nhập vào Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp (và đổi tên là Bộ Đại học -
Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề); Tổng cục Dạy nghề trở thành Vụ Dạy
nghề.
Năm 1991, khi hợp nhất hai Bộ (Bộ Giáo dục, Bộ Đại học - Trung học
chuyên nghiệp và Dạy nghề) thành Bộ Giáo dục và Đào tạo thì Vụ Dạy nghề và
Vụ Trung học chuyên nghiệp nhập lại thành Vụ Trung học chuyên nghiệp và
Dạy nghề. Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã nhận định: “Giáo dục
53
chuyên nghiệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm mạnh, mất
cân đối lớn về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất.
Quy mô đào tạo nghề quá nhỏ bé, trình độ thiết bị nghề lạc hậu, không đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Trước yêu cầu đổi
mới, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), Chính phủ đã
quyết định tái lập Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và
xã hội (Nghị định số 33/1998/NĐ-CP, ngày 23/5/1998). Với sự quan tâm của các
cấp các ngành, bốn năm qua sự nghiệp dạy nghề đang phục hồi và phát triển.
Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về dạy nghề, trong thời gian từ
1998 đến 2001, công tác nghiên cứu xây dựng văn bản pháp luật về dạy nghề đã
được Thủ tướng chính phủ chỉ đạo và ban hành nhằm tạo ra hành lang pháp lý
cho các ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân tổ chức thực hiện công tác dạy
nghề, vừa tăng cường công tác quản lý dạy nghề.
Mức đầu tư của Nhà nước cho dự án “Tăng cường năng lực dạy nghề”
thuộc "Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục-đào tạo 2001 - 2005” để
nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến chương trình, giáo trình và đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên dạy nghề cho các trường, trung tâm dạy nghề tăng dần hàng
năm: năm 2001 là 90 tỷ đồng; năm 2002 là 110 tỷ đồng; năm 2003 là 130 tỷ
đồng; năm 2004 là 200 tỷ đồng. Kinh phí chương trình mục tiêu đã dành một tỷ
lệ thích đáng để đầu tư thích đáng cho 41 trường dạy nghề và 85 Trung tâm dạy
nghề trọng điểm của các Bộ, ngành, địa phương. Dự án Giáo dục kỹ thuật và dạy
nghề bằng vốn vay của Ngân hàng phát triển của Châu Á và các nhà tài trợ khác
cũng dành một phần kinh phí để mua sắm trang thiết bị dạy nghề cho 15 trường
thuộc dự án. Dự án Tăng cường trung tâm dạy nghề của Thuỵ Sỹ đã đầu tư cho
27 trung tâm dạy nghề. Trong 5 năm qua các Bộ, ngành, địa phương, doanh
nghiệp và các cơ sở dạy nghề cũng đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mua sắm
54
trang thiết bị dạy nghề.
Các Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về xã hội hoá các
hoạt động giáo dục, đào tạo... đã tạo ra khả năng huy động các nguồn lực cho mở
rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Nhiều cơ sở dạy nghề đã có
điều kiện tăng thêm đuợc kinh phí cho hiện đại hoá các trang bị, cơ sở vật chất
phục vụ cho dạy nghề, mở ra cho người lao động cơ hội học nghề.
Nhà nước cũng thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các cơ sở dạy
nghề qua thông tư số 32TC/TCT ngày 6/7/1996 của Bộ tài chính quy định miễn
giảm thuế đối với các cơ sở dạy nghề, bổ túc nghề cho người lao động đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh hoặc công
nghệ của doanh nghiệp; cơ sở của các doanh nghiệp, tổ chức các nhân dạy nghề,
bổ túc nghề cho người có nhu cầu học nghề tìm việc làm.
Quyết định số 211/TTg ngày 7/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt chương trình quốc gia Công nghệ thông tin cho phép các cơ sở dạy nghề
đào tạo về công nghệ thông tin bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Chính sách này
có tác dụng thúc đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho ngành công nghệ
thông tin, đáp ứng nhu cầu phát triển liên doanh, liên kết kinh tế với nước ngoài.
Quyết định số 07/2000 NQ/CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về xây dựng
và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn 2000 - 2005 khuyến khích các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lục cho công
nghệ thông tin nói chung và công nghệ phần mềm nói riêng dưới hình thức
doanh nghiệp dịch vụ phần mềm và các hình thức khác. Đẩy mạnh sử dụng rộng
rãi Internet trong các trường nhằm phục vụ tốt cho việc đào tạo. Chính sách này
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phần mềm liên donh với nước
55
ngoài trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Nghị quyết số 27/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ về ứng dụng và phát
triển công nghiệp tự động hoá đã giao trách nhiệm cho các ngành tăng cường hệ
thống thiết bị thí nghiệm phục vụ đào tạo, cải tiến, bổ sung và hoàn thiện chương
trình, giáo trình, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, khuyến khích mọi
hình thức đào tạo trong và ngoài nước.
Các nghị quyết, nghị định trên đã khuyến khích đào tạo nghề phù hợp
được với xu thế hội nhập, hợp tác đào tạo nghề với nước ngoài phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.
Ngoài ra nhà nước đã ban hành chính sách xây dựng các cơ sở đào tạo
nghề chất lượng cao để đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao và các
ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn tại 3 miền của đất nước và đã có chính sách cụ
thể với từng ngành như Nghị quyết số 45/CP về đổi mới quản lý và phát triển
ngành du lịch; Thông tư liên bộ 06/LB-GD-DL của Bộ giáo dục và Tổng cục du
lịch về phối hợp với công tác đào tạo và dạy nghề...
2.2.2. Hiện trạng về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam
* Loại hình đào tạo
Hiện nay trong cơ cấu kinh tế ngành thì nước ta vẫn còn là một nước nông
nghiệp với 68% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và 77% dân số
sống ở nông thôn. Trình độ kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất (đặc biệt là sản
xuất công nghiệp) ở mức trung bình. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đòi hỏi phải đẩy mạnh quá trình phải đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản
xuất để nhanh chóng đưa trình độ kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất nước ta
lên mức tiên tiến so với các nước trong khu vực. Thực tế phát triển của nền sản
xuất xã hội trên các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau đòi hỏi phải có lực lượng
56
lao động lao động kỹ thuật với các trình độ từ lao động thủ công kỹ thuật thấp,
lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn cho đến lao động trong sản xuất
công nghiệp và một bộ phận lao động trình độ cao phù hợp với sự phát triển của
trình độ sản xuất công nghiệp hiện đại. Như vậy, đào tạo nghề cần phải đào tạo
ra lực lượng lao động kỹ thuật với nhiều trình độ khác nhau để đáp ứng nhu cầu
đa dạng về nhân lực của nền sản xuất xã hội và tương ứng với nó mà có nhiều
loại hình đào tạo khác nhau cho phù hợp.
Loại hình dào tạo nghề có thể hiểu là mô hình đào tạo những người lao
động có chức năng trực tiếp thực hiên các quy trình, quy phạm sản xuất ở trình
độ sơ cấp vói những dấu hiệu đặc trưng: tính chất và diện nghề, mục tiêu đào
tạo, văn bằng chứng chỉ, trình độ tuyển sinh, những nét đặc trưng của nội dung
và quá trình đào tạo.
Hiện nay dạy nghề đang đào tạo hai trình độ theo hai loại hình là dạy nghề
ngắn hạn và dạy nghề dài hạn.
Dạy nghề ngắn hạn có thời gian đào tạo dưới một năm, khi người học học
hết chương trình ngắn hạn, có đủ điều kiện theo quy định thì được dự kiểm tra
kiến thức và kỹ năng nghề, nếu đạt yêu cầu thì được cấp chứng chỉ nghề.
Dạy nghề ngắn hạn được thực hiện tại trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề
độc lập hoặc gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cơ sở giáo dục khác. Loại
hình này dành cho những người có trình độ học vấn và sức khoẻ phù hợp với
nghề cần học và có thể tổ chức theo hình thức học lý thuyết và thực hành theo
lớp; kèm cặp tại xưởng, tại nhà, lấy thực hành là chính, vừa học, vừa làm;
chuyển giao công nghệ, đưa kiến thức khoa học, công nghệ mới và kinh nghiệm
sản xuất tiên tiến
Dạy nghề dài hạn có thời gian đào tạo từ 1 đến 3 năm tại các trường dạy
57
nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có
tham gia đào tạo nghề. Học sinh học hết chương trình nghề dài hạn có đủ điều
kiện quy định được dự thi tốt nghiệp, nếu đạt yêu cầu dược cấp bằng tốt nghiệp
đào tạo nghề. Loại hình này góp phần khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực cho dạy nghề, thực hiện các dịch vụ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ,
sản xuất kinh doanh phù hợp với ngành nghề đào tạo theo quy định của pháp
luật, tham gia phổ cập nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng đào tạo,
gắn dạy nghề với việc làm, bổ sung nguồn tài chính cho nhà trường.
Loại hình đào tạo được phát triển ở tất cả các loại hình sở hữu.
+ Đào tạo tại các trường dạy nghề công lập do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập, đầu tư, tổ chức bộ máy quản lý và điều hành. Mô
hình này có thể cung cấp đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của
nền sản xuất trên cơ sở kỹ thuật hiện đại. Các bộ, ngành, địa phương và đặc biệt
là các tổng công ty tổ chức các trung tâm dạy nghề, các trường lớp dạy nghề tập
trung với quy mô tương đối lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao. Ở đây người
học được học tập có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực
hành, tạo điều kiện cho người học tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ dàng.
Việc đào tạo tương đối toàn diện cả lý thuyết lẫn thực hành giúp người học nắm
vững chắc các kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Với phương pháp đào tạo
này, người học có thể chủ động, độc lạp giải quyết công việc, có khả năng đảm
nhiệm đựơc những công việc phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Tuy nhiên
hình thức này đòi hỏi phải có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, có bộ máy quản
lý, đội ngũ giáo viên giảng dạy chuyên nghiệp. Quá trình học tập được chia làm
hai giai đoạn: giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn
+ Đào tạo nghề tại các trường dạy nghề ngoài công lập: mô hình này phát
58
triển mạnh ở các thành phố và thị xã và là khu vực thu hút tiềm lực trong nhân
dân để phát triển đào tạo nghề, chủ yếu là đào tạo nghề ngắn hạn và phổ cập
nghề. Mô hình này bao gồm các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề, các
lớp dạy nghề. Cơ chế hoạt động của các cơ sở này là chủ cơ sở tự lo cơ sở vật
chất , thực hiện đào tạo theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Tuy nhiên, việc phát triển
loại hình này chưa có sự quản lý thống nhất của nhà nước, nhất là quản lý về
chất lượng đào tạo.
+ Đào tạo nghề tại các doanh nghiệp: các doanh nghiệp có thể mở các lớp
đào tạo trong sản xuất hoặc tổ chức trường đào tạo riêng. Trường đào tạo công
nhân của doanh nghiệp có đội ngũ giáo viên chuyên trách và kiêm chức, có cơ sở
thực hành tay nghề cơ bản. Chương trình đào tạo đựoc xây dựng phù hợp với
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Sau khi học lý thuyết, học sinh được thực
hành sản xuất ngay trên dây truyền sản xuất của doanh nghiệp. Tất cả đều dựa
vào kinh phí của doanh nghiệp, giáo viên hướng dẫn cũng của doanh nghiệp
(thường là công nhân có tay nghề cao trực tiếp kèm cặp và hướng dẫn trong quá
trình sản xuất). Người học được miễn phí, có thể được doanh nghiệp đài thọ một
khoản trợ cấp nhỏ hoặc trả một phần thu nhập trên cơ sở kết quả sản phảm làm
ra. Bên cạnh lớp đào tạo mới doanh nghiệp còn tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng
để người lao động có thể làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm. Loại hình đào tạo này phục vụ rất sát yêu cầu của sản xuất cả
về quy mô và nội dung đào tạo, phù hợp với công nghệ của doanh nghiệp. Chính
vì thế mà mô hình này đuợc áp dụng ở một số công ty như Công ty FUJTSU
(Đồng Nai) của Nhật Bản, Trung tâm Đào tạo và cung ứng nhân lực dầu khí
Vũng Tàu (thuộc Tổng công ty Dầu mỏ và khí đốt), Công ty Giấy Bãi Bằng,
Công ty May 10…
+ Đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư của nước ngoài do
59
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức
quốc tế đầu tư, xây dựng và tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Các cơ sở đào tạo này chỉ được đào tạo nghề và tổ chức thực tập sản xuất
cho người học nghề theo đúng nghề đào tạo mà pháp luật cho phép. Mô hình này
cho phép mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài đã được đăng kỹ thường trú
hoặc tạm trú dài hạn tại Việt Nam có đủ trình độ và học vấn theo yêu cầu của
nghề đào tạo tại các cơ sở này có thể đăng ký dự tuyển vào học nghề.
+ Đào tạo nghề tại các cơ sở đào tạo nghề của các khu công nghiệp tập
trung và khu chế xuất. Thí dụ, trường cao đẳng về công nghệ và quản trị doanh
nghiệp thuộc Ban quản lý KCN-KCX Thành phố Hồ Chí Minh đang xây dựng sẽ
cung cấp hàng năm 1.000-1.500 lao động lành nghề cho các doanh nghiệp thuộc
các ngành kinh tế mũi nhọn như: điện tử, may, công nghệ thông tin,... Các
trường đào tạo loại này được đầu tư trang bị các thiết bị dạy nghề chất lượng
cao, hiện đại, đáp ứng nhu cầu về giảng dạy lý thuyết và thực hành tay nghề của
người học.
+ Đào tạo tại các Viện, Trung tâm đào tạo thuộc các trường đại học, các
Viện nghiên cứu, các Công ty. Các cơ sở này thực hiện các chương trình đào tạo,
bổ túc kiến thức. Chẳng hạn như: Viện Đào tạo Công nghệ thông tin Đại học
Quốc gia Hà Nội từ tháng 6/1997 đến 10/2001 đã tổ chức 99 khoá đào tạo cho
3.282 lượt người.
* Số lượng cơ cấu
Từ năm 1986 đến 1998 thì Tổng cục Dạy nghề sáp nhập với Bộ Đại học
với Trung học chuyên nghiệp, do đó chỉ còn một vụ quản lý dạy nghề trong Bộ
Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Các cơ quan quản lý nhà nước
về dạy nghề cũng sáp nhập vào các bộ phân tương ứng cùng cấp. Năm 1992 Bộ
60
Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề lại sáp nhập với Bộ Giáo dục,
do đó vụ dạy nghề lại sáp nhập với Vụ Trung học chuyên nghiệp thành Vụ
Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Với việc sáp nhập liên tục cơ quan quản
lý Nhà nước về dạy nghề vào các đơn vị khác đã suy yếu toàn bộ hệ thống dạy
nghề nói chung và dạy nghề nhà trường, trung tâm dạy nghề nói riêng cụ thể là:
Số lượng trường dạy nghề càng giảm: tính đến năm 1998 (thời điểm tái
thành lập tổng cục dạy nghề) còn 129 trường giảm 2,0 lần so với năm 1987. Số
học sinh học nghề hệ chính qui năm 1987 là 119.783, năm 1994 là 46489 học
sinh cho đến 1998 là 98.000 học sinh. Các trường dạy nghề phân bố chưa hợp lý,
có 27 tỉnh không có trường của địa phương quản lý, đặc biệt còn 15 tỉnh không
có trường dạy nghề của cả địa phương và trung ương đóng trong trên địa bàn.
Hệ thống các trung tâm dạy nghề quận huyện được phát triển mạnh trong
những năm đầu thập kỷ 1990 (năm 1990 có 240 trung tâm dạy nghề), nhưng đến
năm 1998 chỉ còn 86 trung tâm, giảm 2,57 lần, chỉ còn 21 tỉnh trong tổng số 61
tỉnh, thành phố có trung tâm dạy nghề. Các trung tâm dịch vụ việc làm ngày
càng được cùng cố và phát triển; các cơ sở đào tạo nghề tư nhân được mở ra
ngày càng nhiều và đa dạng, nhưng các cơ sở dạy nghề ngắn hạn cũng chủ yếu
tập trung ở các thành phố và thị xã, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa hầu như
không có cơ sở đào tạo nghề.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự giảm đi nhanh chóng các cơ sở dạy nghề
là chưa xây dựng được cơ sở dạy nghề, chưa có chiến lược phát triển dạy nghề
trên phạm vi toàn quốc và các vùng lãnh thổ. Việc thành lập, giải thể các cơ sở
dạy nghề chưa xuất phát từ mục tiêu quy hoạch dài hạn.
Số lượng đào tạo nghề hệ dài hạn cũng giảm đáng kể (từ 119.783 năm
61
1987 xuống còn 98.000 năm 1999). Cơ cấu ngành nghề đào tạo lại không hợp lý,
chưa chú trọng đến đào tạo ngành nghề cho nông lâm ngư nghiệp và phục vụ
chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn.
Số lượng được đào tạo nghề ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề ngày
càng tăng, chiếm trên 70% số lượng lao động qua đào tạo nghề ngắn hạn hàng
năm nhưng chưa đáp úng được nhu cầu của thị trường lao động về chất lượng, số
lượng, phân bố theo vùng, cũng như cơ cấu nghề đào tạo. Các trung tâm này chủ
yếu tập trung đào tạo một số ngành nghề như cơ khí; điện, diện tử, vi tính văn
phòng; may dân dụng, máy công nghiệp; sửa chữa ô tô, xe máy, lái xe... Chất
lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, nhiều nghề được đào tạo không phù hợp với
công nghệ sản xuất, trình độ nghề thấp, người học khó xin việc và dễ bị thấp
nghiệp, trừ sản phẩm của một số Trung tâm dạy nghề, Trung tâm dịch vụ việc
làm... được tài trợ bởi nước ngoài.
Sau khi tái thành lập Tổng cục Dạy nghề năm 1998 thì năm 1999 tổng số
trường dạy nghề công lập là 147 trường (năm 2000 là 157 trường) tăng 14% so
với năm 1998 và 138 trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp có
tham gia đào tạo nghề dài hạn. Số học sinh tăng từ 447000 năm 1997 lên
887.000 học sinh năm 2001. Đến 30/6/2004 cả nước có 226 trường dạy nghề.
Trong đó có 102 trường của Bộ, ngành Trung ương; 124 trường địa phương; 59
trường thuộc doanh nghiệp; 17 trường dạy nghề quân đội; 25 trường ngoài công
lập, 2 trường có vốn đàu tư nước ngoài. Mạng lưới các trường dạy nghề đã mở
rộng khắp các địa phương trong toàn quốc, nay chỉ còn lại 3 tỉnh mới thành lập
(Lai Châu, Đắc Nông, Hậu Giang) đang xây dựng đề án thành lập trường dạy
nghề. Ở những địa phương công nghiệp phát triển trên địa bàn có nhiều trường
như Hà Nội có 30 trường, Thành phố Hồ Chí Minh có 27 truờng, Hải Phòng có
62
14 trường, Đồng Nai có 9 trường. Các trường dạy nghề phân bố như sau:
Trường thuộc các Bộ, ngành quản lý có 84 trường (chiếm 57,1%) trong đó
chủ yếu thuộc các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 20 trường (26,2%);
Bộ Xây dựng là 17 trường (20,2%), Bộ Công nghiệp 16 trường (19%); Bộ Giao
thông - Vận tải 15 trường (17,7%), các Bộ, ngành còn lại 15 trường (17,8%).
Các trường thuộc các Bộ quản lý trực tiếp 42 trường (chiếm 50,0%), các Tổng
công ty, doanh nghiệp quản lý trực tiếp 42 trường (chiếm 50,0%).
Trường thuộc các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quản lý là 63
trường (chiếm 42,9%) và chủ yếu tập chung ở các thành phố, thị xã, trong đó
Thành phố Hà Nội (7 trường), Thanh Hoá (6 trường), Đồng Nai, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng.
- Số lượng các trường dạy nghề phân bố theo ngành:
Năm 2003 số lượng trường phân bố như sau: Ngành Công nghiệp 56
trường (chiếm 38,4%), Ngành Xây dựng 27 trường (chiếm 18,5%), Ngành Giao
thông 24 trường (chiếm 16,4%), Nông Lâm nghiệp 20 trường (chiếm 13,7%),
các ngành khác 19 trường (chiếm 13,0%).
Ngoại trừ một số trường có nghề đào tạo phục vụ theo yêu cầu đặc thù
chuyên ngành, còn nhìn chung số trườngcó nghề đào tạo trùng nhau khá phổ
biến, như nghề nguội có 66/147 trường tham gia đào tạo, kỹ thuật điện có 54/147
trường đào tạo, kỹ thuật sắt có 48/147 trường đào tạo. Sự mất cân đối trong
trường tổ chức đào tạo theo nghề một mặt phản ánh sự biến động của nhu cầu sử
dụng, mặt khác cũng phản ánh những ảnh hưởng của sự phân bố và phát triển hệ
thống thiếu quy hoạch.
- Số lượng trường dạy nghề phân theo vùng:
Số lượng trường dạy nghề phân theo vùng: Số lượng trường dạy nghề tập
63
trung nhiều nhất ở vùng Đồng bằng Sông Hồng là 48 trường (chiếm 32 %); vùng
Miền núi Trung du phía Bắc 26 trường (chiếm 17, 8%); vùng Đông Nam Bộ 25
trường (chiếm 17,5%); vùng Bắc Bộ 16 trường (chiếm 10,9); vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long 13 trường (chiếm 8,9%); vùng Duyên Hải miền Trung 12 trường
(chiếm 12%); vùng Tây Nguyên 4 trường (chiếm 3%), thấp nhất là vùng Tây
Bắc 3 trường (chiếm 2,2%).
Mức độ tập trung cao ở các trường dạy nghề một mặt phản ánh mức độ
phát triển của các khu vực công nghiệp, các thành phố lớn, mặt khác cũng cho
thấy sự thiếu quan tâm trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch hệ thống
cơ sở dạy nghề.
- Các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy
nghề:
Toàn quốc có 138 trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp
có hoạt động dạy nghề dài hạn, trong đó có 93 trường thuộc Bộ, ngành quản lý
và 45 trường thuộc địa phương quản lý. Đặc biệt là 47 trường dạy nghề mới dạy
nghề mới chuyển lên trung học chuyên nghiệp, chủ yếu đào tạo công nhân kỹ
thuật, tỷ lệ đào tạo công nhân kỹ thuật của các trường này là 50%, có nhiều
trường trong năm 1998, 1999 vẫn còn 100% học sinh học nghề.
Ngành dạy nghề đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về lực lượng lao động,
số lượng công nhân qua đào tạo nghề từ 1998 đến nay ngày càng tăng làm thay
đổi dần cơ cấu lực lượng lao động theo hướng hợp lý hơn.
Bảng 2.1. Số lượng học sinh đào tạo chính quy từ 1986 đến 2004
Năm học Năm học
Chỉ tiêu đào tạo chính quy (học sinh) Chỉ tiêu đào tạo chính quy (học sinh)
64
1986 - 1987 52.854 1995 - 1996 45.000
1987 - 1988 56.956 1996 - 1997 57.000
1988 - 1989 70.055 1997 - 1998 75.000
1989 - 1990 74.505 1998 - 1999 97.000
1990 - 1991 71.388 1999 - 2000 126.000
1991 - 1992 20.453 2000 - 2001 130.000
1992 - 1993 25.159 2001 - 2002 146.000
1993 - 1994 26.279 2002 - 2003 165.000
1994 - 1995 34.000 2003 - 2004 198.000
65
Nguồn: Báo cáo của Tổng cục Dạy nghề 2004.
* Kết quả:
- Quy mô đào tạo:
Trước yêu cầu của nền kinh tế tri thức với tiến trình phát triển và hội
nhập, trước yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu
khách quan về cung - cầu lao động trên thị trường lao động trong nước, khu vực
và quốc tế thì học nghề đã trở thành vấn đề quan trọng đối với toàn bộ xã hội và
từng cá nhân. Việc học nghề, yêu nghề, có đạo đức nghề nghiệp, lao động có kỹ
năng, kỹ xảo sẽ tạo cơ hội cho người lao động có việc làm, tự tạo việc làm, ổn
định việc làm và có thu nhập cao, ổn định cuộc sống, chống đói nghèo.
Có được đội ngũ thợ lành nghề, giỏi nghề là vấn đề có tính quyết định
đến việc tiếp cận với công nghệ cao, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp để từ đó để Việt Nam nâng cao uy tín, khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Người giỏi nghề
được tôn vinh, được quý trọng, có thu nhập cao, được bình đẳng, quý trọng như
các nhà khoa học, các chuyên gia vì thế mà số lượng người sau khi tốt nghiệp
phổ thông trung học, số lượng thanh niên, học sinh có nguyện vọng, nhu cầu học
nghề ngày càng tăng.
Năm 1998 cả nước tuyển mới vào học nghề là 525.600 người, trong đó số
người học nghề dài hạn là 75.600 và số người học nghề ngắn hạn là 420.000;
năm 2004 tuyển mới vào học nghề là 1.154.000 người, trong đó số người học
nghề dài hạn là 198.000 và số người học nghề ngắn hạn là 947.000. Quy mô
tuyển sinh học nghề năm 2004 tăng 2,18 lần so với năm 1998, trong đó quy mô
tuyển sinh học nghề dài hạn tăng 2,62 lần và dạy nghề ngắn hạn tăng 1,8 lần.
66
Nhiều trường dạy nghề có số học sinh đăng ký dự tuyển gấp 2-3 lần chỉ tiêu
được giao, cá biệt có một số trường dạy nghề số học sinh đăng ký vào học vượt
chỉ tiêu được giao tới hơn 10 lần
Bảng 2.2. Số lượng học sinh ngắn hạn và dài hạn từ 1997 đến 2004
Đơn vị tính: học sinh
Dài hạn Ngắn hạn Tổng số Năm
1997 57.000 390.000 447.000
1998 75.600 450.000 525.500
1999 97.100 592.900 690.000
2000 130.200 662.000 792.200
2001 126.100 761.200 887.300
2002 146.500 858.500 1.005.000
2003 165.000 905.000 1.070.000
2004 198.000 947.000 1.145.000
Nguồn: Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề năm 2004
Với việc tăng nhanh quy mô đào tạo nghề, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
năm 2002 đã đạt 14,5% góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên trên 20%.
Đến năm 2004 quy mô tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn đã tăng với tốc độ
khá nhanh (đạt198.000 học sinh)
- Chất lượng đào tạo:
Chất lượng đào tạo tại các trường dạy nghề cần phải được đánh giá theo
67
các chuẩn mực quốc gia và quốc tế để đảm bảo hiệu quả sản xuất - dịch vụ khi
hành nghề bởi vì chính trình độ của người công nhân kỹ thuật sẽ quyết định trực
tiếp tới chất lượng sản phẩm làm ra ngay cả khi đã tiến hành sản xuất dịch vụ
theo công nghệ hiện đại. Đánh giá đúng chất lượng dạy nghề là khâu hết sức
quan trọng vì nó đảm bảo cho ra đời của đội ngũ công nhân kỹ thuật chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Quá trình dạy nghề tạo nên những thay đổi về giá trị của người công nhân
kỹ thuật. Trước khi vào trường dạy nghề và sau khi tốt nghiệp ra khỏi trường, giá
trị nói chung của người lao động có thay đổi lớn. Điểm đánh giá cho sự thay đổi
ấy là mục tiêu đào tạo đạt được. Có thể nhận thấy chất lượng của các trường
nghề qua hai đối tượng, đó là đánh giá chất lượng dạy nghề qua năng lực hành
nghề của người tốt nghiệp ở trường dạy nghề - "sản phẩm đặc biệt" qua kiến
thức kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hành nghề, phẩm chất và tác phong nghề
nghiệp, khả năng thích ứng với thị trường lao động và đánh giá chất lượng dạy
nghề qua kết quả dạy nghề ở trường dạy nghề.
Đối với học sinh tốt nghiệp trường nghề cần xác định rõ mức độ đạt được
của mỗi học sinh tốt nghiệp:
Về kiến thức (7 bậc): Biết - Hiểu - Vận dụng - Phân tích, tổng hợp - Đánh
giá - Phát triển - Sáng tạo.
Về kỹ năng (7 bậc): Bắt chước - Hình thành kỹ năng ban đầu (theo chỉ
dẫn) - Hình thành kỹ năng cơ bản (đúng, độc lập) - Liên kết, phối hợp kỹ năng -
Hình thành các kỹ xảo - Phát triển kỹ năng, kỹ xảo - Sáng tạo.
Đối với các nhà trường dạy nghề thì phải căn cứ vào kết quả thi tốt nghiệp
của học sinh trong khoá học, năm học. Tỉ lệ tốt nghiệp trung bình, khá, giỏi và
68
không tốt nghiệp và khả năng tìm việc làm phù hợp với nghề được đào tạo.
Do yêu cầu khách quan của sản xuất của thị trường lao động cùng với sự
nỗ lực của nhiều cơ sở dạy nghề, chất lượng dạy nghề từng bước được nâng lên.
Sự tăng trưởng kinh tế trong những năm qua có sự đóng góp tích cực và hiệu quả
trong đội ngũ lao động qua đào tạo nghề. Ở một số ngành: Bưu chính viễn thông,
Hàng không, Dầu khí, Dệt may, Da giày và một số nghề trong ngành cơ khí,
điện, điện tử... chất lượng đào tạo đã đáp ứng được yêu cầu của các doanh
nghiệp với công nghệ sản xuất hiện đại. Một số trường đã có đủ điều kiện đào
tạo công nhân kỹ thuật tương đương trình độ khu vực và có thể đảm nhận được
công việc mà trước đây phải do lao động kỹ thuật nước ngoài thực hiện (Trường
đào tạo nhân lực dầu khí đã đào tạo được thợ lặn cho một số nước trong khu vực;
Trường Công nhân kỹ thuật Bưu chính viễn thông, Trường Hàng không...).
Chất lượng dạy nghề đã có những tiến độ nhất định làm cho tỷ lệ giữa số
học sinh tốt nghiệp với số học sinh đầu vào khoá học đạt trên 90%; kiến thức và
kỹ năng của học sinh học nghề được nâng lên. Một số cơ sở nghề giúp học sinh
có năng lực tiếp cận và làm chủ được máy móc, thiết bị mới, hiện đại. Mặc dù
mới tham gia lần đầu nhưng tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 3 năm 2001
đoàn Việt Nam đã được xếp thứ 4 trong tổng số 7 đoàn tham dự với 1 huy
chương vàng, một huy chương bạc, 3 huy chương đồng và 6 giải khuyến khích;
đứng thứ 2 toàn đoàn trong tổng số 8 nước tại hội thi tay nghề ASEAN lần thứ 4;
đứng thứ 1 trong 8 đoàn tham dự tại cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 5. Điều
này cho thấy chất lượng dạy nghề ở nước ta đang từng bước tiếp cận được với
các nước trong khu vực.
Học sinh học nghề có kiến thức chuyên môn nghề loại khá và tốt là 40%,
loại trung bình là 48,9%, kỹ năng thực hành nghề loại khá và tốt là 30,4%, trung
69
bình là 58,7%.
Tỉ lệ học sinh xếp loại đạo đức tốt chiếm trên 60%, đạo đức yếu chỉ trên
1%; trên 85% học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề vào làm việc có kỷ luật
lao động, tác phong công nghiệp từ mức trung bình trở lên, trong đó tốt chiếm
trên 50%
Kết quả học tập của học sinh có những tiến bộ rõ rệt: tỉ lệ học sinh tốt
nghiệp đạt trên 96%, trong đó tỉ lệ tốt nghiệp loại khá trở lên tăng từ 26,26%
năm học 1998 - 1999 lên 32,2% năm học 2002 - 2003.
Dạy nghề ở nước ta hiện nay đã gắn với việc làm. Số học sinh học nghề
tốt nghiệp chiếm 90% và số người sau khi được học nghề đã có cơ hội tốt hơn
trong tìm việc làm và tự tạo việc làm. Tỉ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc
làm hoặc tự tạo việc làm đạt trên 70%, đặc biệt là các trường nghề trong các
doanh nghiệp đạt trên 90% trong ngành xây dựng, bưu chính viễn thông, điện
lực, may dùng... (số liệu điều tra thị trường lao động 2003), trong đó có khoảng
90% có việc làm phù hợp với nghề được đào tại. Số liệu điều tra lao động việc
làm tháng 7/2004 cho thấy tỉ lệ thất nghiệp của học sinh qua đào tạo nghề chỉ có
1,8%, trong khi đó Trung học chuyên nghiệp là 4,4%, Cao đẳng và Đại học là
3,8%.
Qua khảo sát nhanh trong tháng 7/2003 của Tổng cục Dạy nghề về đánh
giá của học sinh học nghề làm việc tại các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã
đánh giá như sau về học sinh họ nghề làm việc tại các doanh nghiệp:
+ Về kiến thức chung về chính trị xã hội và pháp luật:
31,4% có kiến thức khá và tốt
54,3% có kiến thức chung bình
70
+ Về kiến thức chuyên môn nghề:
Khoảng 33% đánh giá học sinh học học nghề có kiến thức
chuyên môn từ khá trở lên:
51,5% có kiến thức ở mức trung bình;
+ Về kỹ năng thực hành nghề, các mức đánh giá như sau:
Khá và tốt: 29,4%
Trung bình: 61,8 %
+ Về kỹ năng làm việc độc lập:
Khá và tốt: 20,6%
Trung bình: 52,9%
+ Về năng lực phân tích giải quyết vấn đề
Khá và tốt: 17,6%
Trung bình: 29,4%
+ Về năng lực thích ứng và tự điều chỉnh trong công việc
Khá và tốt: 38,2%
Trung bình: 41,2%
+ Về năng lực theo tổ nhóm
Khá và tốt: 55,9%
Trung bình: 35,3%
+ Về tác phong lao động công nghiệp
Khá và tốt: 48,5%
Trung bình: 34,3%
+ Về năng lực giao tiếp xã hội
71
Khá và tốt: 32,3%
Trung bình: 58,8%
Các cơ sở dạy nghề đã bồi dưỡng để chuyển đổi nghề đối với số lao động
dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Ở các vùng nông thôn,
nhiều người sau khi học nghề, bồi dưỡng nghề đã tự tạo được việc làm, lập cơ sở
sản xuất, mở trang trại, nâng cao thu nhập cho bản thân và gia đình. Hoạt động
chuyển giao công nghệ, truyền nghề cho lao động nông thôn đã góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Việc bồi dưỡng, đào tạo lại nghề trong
các doanh nghiệp đã giúp người lao động tiếp cận được với công nghệ, kỹ thuật
mới, góp phần nâng cao năng suất lao động, ổn định việc làm và thu nhập.
Chất lượng dạy nghề được nâng lên là do các điều kiện đảm bảo cho dạy
nghề ngày càng tốt hơn. Trong một vài năm gần đây, Nhà nước, các tỉnh thành
phố, các ngành đã tăng cường đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề.
Cụ thể:
Đội ngũ giáo viên dạy nghề được củng cố và phát triển đã góp phần quyết
định đến chất lượng đào tạo. Số lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề đã tăng
lên đáng kể.
Về trình độ sư phạm, gần 82% số giáo viên có trình độ bậc I, bậc II. Thủ
tướng Chính phủ đã quyết định nâng cấp trường Sư phạm kỹ thuật nhằm hình
thành hệ thống các trường đào tạo giáo viên và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên. Trình độ chuyên môn của giáo viên dạy nghề được nâng cao.
Nội dung, chương trình đào tạo đã và đang được xây dựng, đổi mới để phù
hợp với sự thay đổi của kỹ thuật và công nghệ sản xuất; cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy nghề được đầu tư, nâng cấp. Từ 1997 đến 2001, kinh phí đầu tư xây
dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề tăng từ 240 tỉ đồng lên 530
72
tỉ/năm. Một số trường đã đầu tư thiết bị dạy nghề hiện đại, công nghệ tiên tiến
như trường Công nhân kỹ thuật Việt - Hàn, Trường Đào tạo nghề điện, Trung
tâm Đào tạo kỹ thuật Việt Nam - Singapo, Trường Công nhân kỹ thuật bưu chính
viễn thông, Trường Công nhân kỹ thuật Quy Nhơn, Trung tâm Dạy nghề quận 5,
Trường Cao đẳng công nghiệp IV, Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội... đã làm cho
chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao.
Để dạy nghề đạt chất lượng cao thì nhiều phong trào thi đua dạy tốt, học
tốt được duy trì như Hội thi giáo viên giỏi, Hội thi học sinh giỏi nghề, Hội thi
bàn tay vàng các cấp thường xuyên được tổ chức. Năm 2000 đã tổ chức thành
công Hội thi giảng giáo viên giỏi toàn quốc. Năm 1999 đã tổ chức thành công
Hội thi thiết bị tự làm lần thứ nhất giúp cho các cơ sở dạy nghề có được những
kinh nghiệm trong việc sáng tạo được mô hình giảng dạy và tiết kiệm được kinh
phí.
Chất lượng đào tạo nghề ở một số ngành như bưu chính viễn thông, hàng
không, Dầu khí và một số nghề trong các ngành cơ khí, điện tử chất lượng đào
tao đã đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp với công nghệ sản xuất hiện
đại. Tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm hoặc tự tạo được việc
làm đạt trên 70%, ở các trường thuộc doanh nghiệp (ngành Xây dựng, Bưu chính
viễn thông, Điện lực, May mặc đạt trên 90%)
- Cơ cấu đào tạo:
Công tác đào tạo nghề là nhằm khắc phục những bất hợp lý về cơ cấu
nhân lực, tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được trang bị những kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, có năng lực tiếp thu công nghệ mới để tự tạo việc
làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập nghiệp để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá. Nhà nước đã quy hoạch mạng lưới dạy nghề dựa trên chiến lược
73
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, từng vùng kinh tế và
từng địa phương để từ đó điều chỉnh hợp lý cơ cấu ngành nghề, trình độ, vùng
miền, mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đảm bảo chất lượng, hiệu quả kết hợp
giữa dạy nghề và tạo việc làm, khuyến khích các cơ sở dạy nghề ngoài công lập,
cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp
vụ theo nhiều trình độ, liên thông giữa các ngành nghề, các trình độ đào tạo
nghề.
Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động trong các ngành công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ chúng ta đã tiến hành mở nhiều các trường dạy
nghề, Trung tâm dạy nghề và nhiều hình thức đào tạo nghề mới, đặc biệt là
chương trình đào tạo nghề cho nông dân để nâng cao trình độ, kỹ năng tay nghề
cho nông dân. Tập trung đào tạo một số ngành nghề công nghệ cao, dịch vụ chất
lượng cao nhất là ở thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, một số ngành
mũi nhọn như công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí chính xác, cơ - điện, điện -
điện tử, hàng không, hoá dầu, vật liệu mới, công nghệ sinh học và một số ngành
có nhu cầu sử dụng lao động lớn như dệt may, da giầy, thuỷ sản, dạy nghề phục
vụ sự nghiêp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn,
miền núi và xuất khẩu lao động.
+ Cơ cấu các cơ sở dạy nghề theo vùng lãnh thổ: nhìn chung, các cơ sở
dạy nghề được phân bố ở tất cả các vùng miền, địa phương trong cả nước. Vùng
có nhiều cơ sở nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm 32% số cơ sở), tiếp
đến là vùng Đông Nam Bộ (26,5% cơ sở). Đây là hai vùng có trình độ kinh tế
cao nhất vì các thành phố lớn và khu công nghiệp đều tập trung ở các vùng này.
Vùng có ít cơ sở nhất là vùng Tây Bắc (0,68%) và Tây Nguyên (0,85%).
Riêng đối với các trường dạy nghề đã hình thành mạng lưới các trường
74
trong toàn quốc, phục vụ nhu cầu đào tạo nghề của các vùng miền. Qua số liệu
tổng hợp cho thấy mặc dù hầu hết các tỉnh, thành phố đã có tối thiểu một trường
dạy nghề, nhưng các trường dạy nghề được phân bố chủ yếu ở các vùng kinh tế
trọng điểm, như vùng Đồng bằng sông Hồng (gần 31%), vùng Đông Nam Bộ
(37,56%). Số trường dạy nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng lớn gấp 17,67 lần
so với vùng Tây Bắc và gấp 13,25 lần so với vùng Tây Nguyên. Sự mất cân đối
về phân bố các trường nghề giữa các vùng phản ánh thực trạng phát triển kinh tế
không đồng đều giữa các vùng. Ngay từng vùng cũng có sự phân bố không đồng
đều các trường nghề. Các trường dạy nghề chủ yếu là ở các thành phố đô thị lớn,
còn ở các vùng nông thôn số lượng các trường dạy nghề còn ít. Chẳng hạn, ở
vùng Đồng bằng sông Hồng thì tại Hà Nội số trường dạy nghề chiếm gần 40% số
trường trong vùng. Hoặc ở vùng Đông Nam Bộ, riêng Thành phố Hồ Chí Minh,
chiếm gần 37% số trường của vùng…
Bảng 2.3. Cơ cấu đào tạo nghề chia theo vùng lãnh thổ, khu vực kinh
tế trọng điểm
Đơn vị tính: %
Trường
Trung
Trường TH - CĐ
Tổng số
DN
tâm DN
có dạy nghề
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00
Trong đó
Đồng bằng sông Hồng 32,26 30,05 31,12 37,21
Đông Bắc 12,99 12,68 10,84 12,79
Tây Bắc 0,68 1,41 0,35
Bắc Trung Bộ 12,14 6,75 18,18 5,81
Duyên hải Nam Trung Bộ 9,91 5,63 11,19 16,28
75
Tây Nguyên 0,85 0,94 0,70 1,16
Đông Nam Bộ 26,50 3,56 19,58 20,93
Đồng bằng sông Cửu Long 6,67 5,16 8,04 5,81
Theo các tam giác kinh tế
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng 23,59 22,07 23,08 30,23
Ninh
TP. Hồ Chí Minh, Đồng 24,44 34,47 17,83 19,77
Nai, Bình Dương
Nguồn: Tổng cục Dạy nghề
Cho đến nay tất cả các tỉnh/thành phố trong cả nước đã có trường dạy
nghề. Riêng đối với các địa phương của hai vùng tam giác trọng điểm, tỷ lệ các
trường dạy nghề tập trung khá cao. Ở tam giác trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh), số trường dạy nghề chiếm tới gần 23%, còn ở tam giác
trọng điểm phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương) tỉ lệ
này còn cao hơn.
Sự phân bố của các trung tâm dạy nghề cũng tương tự như các trường dạy
nghề. Phần lớn các trung tâm dạy nghề của cả nước tập trung ở vùng đồng bằng
sông Hồng (trên 30%) và Đông Nam Bộ (gần 20%). Vùng Tây Bắc số trung tâm
dạy nghề chiếm tỉ lệ rất nhỏ (0,35%). Vùng Tây Nguyên cũng chỉ chiếm chưa
đến 1%. Vùng miền Tây Nam Bộ có số trung tâm dạy nghề nhiều hơn Tây
Nguyên nhưng tỉ lệ cũng không đáng kể (8,045)
Theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay trong cả nước có 138 trường trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng thì trong đó có 90 trường Trung học kỹ thuật, Cao
đẳng kỹ thuật có tham gia dạy nghề dài hạn với quy mô tuyển sinh trung bình
hàng năm khoảng 30% tổng số tuyển sinh dài hạn. Các trường này chủ yếu là các
76
trường thuộc khối kỹ thuật và cũng được phân bố tương tự như các trường dạy
nghề, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng (chiếm 37,21%) và vùng đông
Nam Bộ (chiếm 21%) trong đó tập trung nhiều nhất ở hai thành phố lớn là Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (Hà Nội chiếm 16% so với cả nước, 47,8% so
với vùng Đồng bằng sông Hồng; ở Thành phố Hồ Chí Minh tương ứng là 17,5%
và 77,4%)
Các trường Cao đằng, Trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy nghề dài
hạn hầu hết là các trường công lập (chiếm 96,5%), trong đó các trường thuộc các
Bộ, ngành là 59,3% và các trường thuộc địa phương là 40,7%.
Như thế ta có thể thấy rằng tại các thành phố đặc biệt là các thành phố lớn
như Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh các cơ sở đào tạo phát triển mạnh, thu
hút học sinh, người lao động tham gia vào đào tạo nghề nghiệp. Tuy nhiên, phần
lớn số lao động này sau khi tốt nghiệp (kể cả đào tạ ngắn hạn) không trở về làm
việc tại địa phương mà lại tìm việc tại thành phố. Trong khi đó, nhiều đại
phương rất thiếu công nhân kỹ thuật nhưng chưa thu hút được chính lao động là
người địa phương mình. Các chính sách thu hút công nhân kỹ thuật về địa
phương làm việc hoặc thiếu sức hấp dẫn. Điều này gây khó khăn cho việc phát
triển đồng bộ nền kinh tế nước ta ở khắp các vùng miền trong cả nước. Do đó,
việc quy hoạch mạng lưới đào tạo, dạy nghề theo vùng, địa phương trong những
năm tới cần phải cân đối và rông khắp đảm bảo nhu cầu cung ứng lao động mỗi
khu vực.
Bảng 2.4. Dự kiến quy hoạch các trung tâm dạy nghề đến năm 2010
Đơn vị tính: Trung tâm
TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm2010
1 Quy mô đào tạo của các trung tâm 450.000 900.000
77
dạy nghề
2 Số lượng các trung tâm dạy nghề 240 360
Trong đó
2.1 Đồng bằng Sông Hồng 65 80
2.2 Đông Bắc 25 50
2.3 Tây Bắc 10 15
2.4 Bắc Trung Bộ 30 45
2.5 Duyên hải Nam Trung Bộ 35 55
2.6 Tây Nguyên 10 15
2.7 Đông Nam Bộ 40 50
2.8 Đồng bằng Sông Cửu Long 25 50
Nguồn : Tổng cục Dạy nghề
+ Cơ cấu đào tạo theo ngành nghề đào tạo: Trong tổng số 71 nhóm nghề
được thống kê từ các cơ sở dạy nghề thì có 8 nhóm nghề đang có trên 100 cơ sở
tham gia đào tạo. Trong đó có 3 nhóm nghề có số lượng tham gia rất cao là: nghề
nguội (235 cơ sở), kỹ thuật điện (317 cơ sở) và nghề may (289 cơ sở). Bên cạnh
đó lại có tới 31 nhóm nghề chỉ có chưa tới 10 cơ sở trên cả nước tham gia đào
tạo và đặc biệt chỉ có 4 nhóm nghề chỉ có 1 cơ sở đang đào tạo là: lặn, tự động
hoá, tín dụng, kiểm sát.
Riêng đối với các trường dạy nghề thì chỉ có 61 nhóm nghề đang được
đào tạo, trong đó có 2 nhóm nghề đang có trên 100 trường tham gia đào tạo. Đó
là nhóm nghề kỹ thuật điện có số trường đào tạo cao nhất (117 trường) và nhóm
nghề nguội (112 trường); có 7 nhóm nghề đang có trên 50 trường tham gia đào
tạo. Một số nhóm nghề có nhiều trường đào tạo là: kỹ thuật sắt (87 trường), lái
xe ô tô (77 trường), kỹ thuật xây dựng (66 trường)…; có 25 nhóm nghề đang có
trên 10 trường tham gia đào tạo và có 7 nhóm nghề chỉ có 1 đến 2 trường tham
78
gia đào tạo.
Như vậy, các cơ sở đào tạo mới chỉ đào tạo khoảng 70 nhóm nghề phổ
biến, trong đó chỉ tập trung vào một số nhóm nghề nêu trên, trong khi đó các
doanh nghiệp kinh tế hiện nay lại cần sử dụng lao động với trên 300 nghề khác
nhau. Điều đó cho thấy sự hạn chế về số nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo
nghề. Hiện nay nhiều ngành nghề thuộc nền kinh tế truyền thống với kỹ thuật và
công nghề lạc hậu dần dần mất đi, thay thế bằng các ngành, nghề mới hiện đại,
đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều các ngành nghề sử dụng nhiều tri thức rõ ràng
tình hình đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động trên thị trường
lao động Việt Nam hiện nay.
Theo ngành nghề đào tạo, qua thống kê ở các trường dạy nghề công lập
cho thấy sự phân bố của các cơ sở này như sau:
Công nghiệp: 35,67%
Giao thông vận tải: 21,02%
Nông - Lâm - Ngư: 10,19%
Kinh tế - Dịch vụ: 9,55%
Xây dựng: 17,83%
Văn hoá - Bưu điện: 5,73%
Nhìn chung, một số trường nghề còn chưa theo kịp nhu cầu của thị trường
lao động. Xu hướng đào tạo chạy theo mong muốn ngắn hạn của người lao động,
chưa có chính sách và giải pháp phân luồng hữu hiệu dẫn đến hậu quả là đào tạo
chưa gắn với nhu cầu của các khu vực khác nhau của nền kinh tế và các ngành,
mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Số lao động có nghề thuộc lĩnh vực
sản xuất, chế biến nông lâm thuỷ sản đang rất thiếu trong khi nhu cầu ngày càng
bức xúc đối với khu vực nông thôn. Ở các vùng kinh tế chậm phát triển, đặc biệt
79
là vùng núi, vùng ven biển và hải đảo, vùng sâu đang có nhu cầu ngày càng
nhiều về số lao động được đào tạo ở các nghề mới thuộc lĩnh vực chế biến, khai
thác, dịch vụ, quản lý…
+ Cơ cấu đào tạo theo trình độ nghề: Các nghề đào tạo ghi trong danh
mục nghề đào tạo có thể được đào tạo ban đầu ở các trình độ hay các mức độ
nghề khác nhau, đó là sự phân hoá mục tiêu đào tạo nghề theo chiều sâu. Hiện
nay mạng lưới các trường dạy nghề phát triển thành hệ thống đào tạo kỹ thuật
thực hành với 3 cấp trình độ
Công nhân kỹ thuật lành nghề: Trình độ công nhân kỹ thuật, nhân viên
nghiệp vụ được đào tạo nghề theo chuẩn, thể hiện ở mức độ mục tiêu hình thành
người công nhân với khả năng làm được, nhân viên nghiệp vụ với nhân cách
phát triển toàn diện, hài hoà, chính quy, được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề
diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp. Đó
là trình độ nghề vẫn thường được gọi là bậc 3/7 và tương đương.
Lao động được đào tạo ở cấp trình độ này chiếm tỉ trọng lớn chủ yếu để
phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu chế xuất, những dây chuyền sản xuất công
nghệ cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động và chuyên gia, dịch vụ sản xuất
sản phẩm cho xuất khẩu áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động mà Việt
Nam có ưu thế cạnh tranh (dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử,
ô tô...). Cấp trình độ này hiện nay còn thấp so với nhu cầu ngày càng cao của thị
trường sức lao động nên trong những năm tới chúng ta cần mở rộng quy mô đào
tạo cho các ngành nghề, nhất là các ngành nghề áp dụng công nghệ sử dụng
nhiều lao động các ngành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu mà Việt Nam có ưu
thế cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế (dệt may, giày dép,
80
chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử, ô tô, xe máy...).
Công nhân bán lành nghề: là trình độ được đào tạo nghề dưới chuẩn, được
trang bị một số kiến thức và kỹ năng nghề nhất định thể hiện ở mức độ mục tiêu
hình thành người công nhân với khả năng làm được từ một vài công việc của
nghề tới làm được tương đối nhiều công việc của nghề nhưng chưa đạt chuẩn,
thông qua đào tạo ban đầu ngắn hạn không chính quy, thường thiên về thực hành
tay nghề.
Tổ chức đào tạo công nhân cấp trình độ này nhằm cung cấp lao động cho
ngành nghề giản đơn, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu lao
động tại chỗ, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế gia đình, các làng nghề và tăng
cơ hội có việc làm cho người lao động. Tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp
trình độ này sẽ giảm dần trong kế hoạch đào tạo song vẫn chiếm phần lớn tổng
số lao động hàng năm.
Công nhân trình độ cao (lành nghề cao): là đội ngũ công nhân được trang
bị kỹ năng nghề nghiệp thành thạo và kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết
dựa trên học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp để có khả
năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa
dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại.
Đào tạo ở cấp trình độ này nhằm để phục vụ theo yêu cầu phát triển của
công nghệ sản xuất, theo xu thế quốc tế để hội nhập và cạnh tranh trên thị trường
lao động trong và ngoài nước, mà ở đó đòi hỏi người lao động phải có trình độ
tay nghề cao cùng với trình độ chuyên môn kỹ thuật ở bậc trung cấp và cao đẳng.
Vì vậy hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức, tập trung đào tạo cho phù hợp
với yêu cầu áp dụng công nghệ cao, cung cấp lao động cho các ngành kinh tế
mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu công nghệ cao... tạo
81
nền tảng tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
Như vậy, hệ thống đào tạo nghề với 3 cấp trình độ cho phép nền kinh tế
tiếp nhận từ lao động ở trình độ văn hoá còn thấp, lao động dôi dư, lao động
chưa có nghề... đến những học sinh có trình độ trung học cơ sở và cũng như
những lao động có trình độ cao. Đây là một hệ thống mở, còn thay đổi theo thời
gian. Nó càng đa dạng, phong phú và mềm dẻo thì đào tạo nghề càng linh hoạt
và đáp ứng được nhu cầu. Trình độ bán lành nghề chủ yếu do các cơ sở dạy nghề
ngắn hạn thực hiện. Trình độ lành nghề và lành nghề cao do các trường dạy
nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật có chức năng và
nhiện vụ dạy nghề thực hiện.
2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam
2.3.1. Thành công
Có thể nói rằng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam đã trải qua những bước
thăng trầm khác nhau nhưng hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm khiến cho hệ thống đào tạo nghề đã có những bước khởi sắc và ngày
càng hoàn thiện. Chúng ta đã hình thành được mạng lưới các trường dạy nghề đa
dạng, phong phú và đang phát triển mạnh góp phần đào tạo đội ngũ lao động
Việt Nam đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội tạo tiền đề vững chắc
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Quy mô đào tạo của hệ thống dạy nghề ngày càng tăng nhanh; số lượng
các trường dạy nghề, loại hình đào tạo, cơ cấu đào tạo ngày càng hoàn thiện
cũng như số lượng người học ngày càng gia tăng khẳng định vai trò của việc đào
tạo nghề đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Chất lượng đào tạo nghề cũng từng bước được nâng lên rõ rệt. Tỉ lệ người
ra trường có việc làm và khả năng tự tạo việc làm ngày càng cao. Đội ngũ giáo
82
viên ở các trường ngày càng được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng, cơ sở
vật chất được đầu tư với quy mô ngày càng lớn, công tác quản lý nhà nước được
củng cố và tăng cường.
2.3.2. Những vấn đề đặt ra
Tuy đã thu được nhiều thành tựu nhưng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam
hiện nay vẫn còn một số vấn đề cần phải khắc phục và hoàn thiện.
Thứ nhất, đó là cơ cấu hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, cả về chất lượng và số lượng của đội ngũ
công nhân. Chất lượng đào tạo nghề trong những năm qua tuy có được nâng lên
một bước nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao đối với lao động kỹ
thuật trong sản xuất. Yếu kém này là do các điều kiện đảm bảo chất lượng đào
tạo nghề tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng
thiếu thiết bị dạy nghề cả về số lượng và chất lượng đang là tình trạng chung của
nhiều cơ sở dạy nghề, nhất là cơ sở dạy nghề của các địa phương:
+ Bình quân, tổng diện tích mặt bằng của các trường dạy nghề là hơn 24,4 nghìn m2. Diện tích mặt bằng của các trường Trung ương cao gấp 4 lần so với
các trường địa phương. Diện tích mặt bằng của các trường công lập cao gấp 20
lần các trường ngoài công lập. Diện tích xây dựng cho các trường dạy nghề là rất
thấp, đặc biệt là diện tích phòng học/1 học sinh. Đáng chú ý nhất là diện tích
phòng học/1 học sinh của các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và vùng Tây Bắc là quá hẹp (1,0 và 1,2m2). Chất lượng phòng học, nhà xưởng của các trường dạy
nghề nhìn chung đã được cải thiện tuy nhiên vẫn còn khoảng 31% số phòng học
và 50,7% số xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm.
+ Về trang thiết bị giảng dạy và thực tập, qua khảo sát cho thấy khoảng
50% số trang thiết bị được sản xuất trước 1995, trong đó có 6% số thiết bị được
83
sản xuất trước 1975 và đa số chỉ đạt ở mức công nghệ trung bình (64,3%), chỉ
khoảng trên 20% là hiện đại. Có một số nghề mà trang thiết bị sử dụng cho thực
hành nghề rất lạc hậu như nghề in, vận hành thiết bị hoá, luyện kim, sửa chữa
thiết bị chính xác...
+ Chương trình đào tạo phù hợp, hiện đại là yêu cầu không thể thiếu đối
với hoạt động đào tạo nghề. Chương trình đào tạo phù hợp được cấp có thẩm
quyền phê duyệt là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng đào
tạo. Theo thống kê, trong tổng số 142 nghề mà các trường dạy nghề trong nước
hiện đang đào tạo thì có 13 nghề trong đó 93,0% số trường dạy nghề có chương
trình đào tạo. Ngược lại có 10 nghề được đào tạo ở nhiều trường không có
chương trình đào tạo. Trong số này, nghề có tỉ lệ trường không có chương trình
lớn là: gò (gần 90%), vận hành quản lý đường dây (20%), bê tông cốt thép
(18,75%), các loại nghề: khảo sát đại hình, rèn, lắp đạt cầu, vận hành máy xúc,
lái cẩu... Đối với các trường nghề có chương trình đào tạo thì đa số chương trình
do cấp có thẩm quyền ban hành nhưng cũng có trường có một số nghề mặc dù có
chương trình nhưng do nhà trường tự biên soạn, chưa được cấp có thẩm quyền
phê duyệt (chiếm 18,3%).
+ Hiện nay cả nước có khoảng 18.000 giáo viên dạy nghề, trong dó có
7.500 giáo viên trong các trường dạy nghề. Qua số liệu điều tra bình quân trong
một cơ sở dạy nghề có 58 cán bộ, giáo viên, riêng ở các trường dạy nghề có
khoảng 51 người. Nếu tính bình quân trên 1.000 học sinh ở các trường dạy nghề
công lập có 86 cán bộ, giáo viên và ngoài công lập có 78 người. Ở một số trường
ở Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên hoặc đồng bằng sông Cửu Long, số cán bộ
giáo viên bình quân trên một cơ sở rất thấp như ở Duyên hải miền Trung chỉ có
25 người, Tây nguyên 35 người… Tính chung lại số giáo viên, cán bộ trong các
trường dạy nghề chỉ bằng 48,57% so với trường Cao đẳng, Trung học có dạy
84
nghề và gấp 2,13 lần so với số cán bộ, giáo viên của một trung tâm dạy nghề.
Trong số cán bộ, giáo viên dạy nghề thì số giáo viên chiếm 55,32%, như vậy,
bình quân mỗi trường dạy nghề có từ 30 đến 40 giáo viên. Số giáo viên trong các
trường dạy nghề còn rất thiếu về số lượng, còn xa chúng ta mới đạt chuẩn 1 giáo
viên/15 học sinh. Về chất lượng, đa số giáo viên trong các trường dạy nghề tuổi
đời còn trẻ và có thâm niên công tác từ 10 năm trở xuống (chiếm gần 40%),
trong đó có đến 23,94% số giáo viên có thâm niên dưới 5 năm.
Qui mô đào tạo, nhất là quy mô đào tạo nghề dài hạn còn nhỏ so với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội: Mặc dù qui mô tuyển sinh đào tạo nghề, nhất là
quy mô tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn trong những năm gần đây đã tăng với
tốc độ khá nhanh, nhưng năm 2004 tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn cũng chỉ
phấn đấu đạt được 198.000 học sinh. Trong lúc đó nhu cầu lao động qua đào tạo
nghề hiện nay rất lớn để cung cấp cho các khu công nghiệp, xuất khẩu lao động,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông
nghiệp. Qua các hội chợ việc làm ở các địa phương cho thấy nhu cầu tuyển dụng
lao động qua đào tạo nghề dài hạn khá lớn nhưng số người đăng ký xin việc lại
ít. Điều đó cho thấy cung về nhân lực qua đào tạo nghề dài hạn vẫn còn chưa đáp
ứng được cầu của thị trường lao động.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề tuy đã được sắp xếp nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu đào tạo nghề của các vùng nhất là khu vực nông thôn: Mạng lưới
trường dạy nghề trong những năm qua phát triển nhanh, nhưng đến nay số lượng
trường dạy nghề cũng chỉ mới đạt được 2/3 số trường dạy nghề vào thời điểm
cao nhất (năm 2004 có 226 trường dạy nghề trong khi năm 1980 có 336 trường
dạy nghề). Mặt khác nhiều trường dạy nghề đã được thành lập trong những năm
gần đây nhưng lại đang trong giai đoạn xây dựng do thiếu vốn. Nhiều khu công
nghiệp khi hình thành chưa chú ý đến việc thành lập các trường dạy nghề để
85
cung cấp nguồn nhân lực cho khu vực. Việc thực hiện mục tiêu đến 2010 mỗi
huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề là rất khó khăn vì trong số hơn 600
quận, huyện trong cả nước đến nay mới có khoảng 100 quận, huyện có trung tâm
dạy nghề. Số trường dạy nghề ngoài công lập tuy có phát triển nhưng vẫn chiếm
một tỉ lệ thấp (11%).
Có lẽ nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế của hệ thống đào tạo
nghề là do:
+ Yếu tố nhận thức và tâm lý xã hội: vì người Việt Nam nói chung đều có
nguyện vọng muốn học để có bằng cấp, không thích làm "thợ" mà thích làm
"thầy", làm "cán bộ" để có biên chế và địa vị trong xã hội. Mức thang đo giá trị
con người đang được xã hội đo bằng cấp. Trong xã hội nhiều người "có chữ",
"có học", có bằng cấp cao được coi trọng hơn mặc dù nhiều khi công việc đang
làm không liên quan gì đến bằng bằng cấp, chuyên môn nghề nghiệp được đào
tạo. Thực tiễn đó nảy sinh tâm lý bằng mọi giá vào được đại học để có bằng đại
học. Một học sinh vào được đại học là cả họ hàng, làng xóm liên hoan, chúc tụng
còn những người lao động có tay nghề cao, có bàn tay vàng, làm việc có hiệu
quả cao nhưng không có bằng Đại học ít khi được đề cao trong xã hội. Xã hội,
gia đình và người học chưa nhận thức đầy đủ vai trò của nghề nghiệp đối với sự
phát triển của cá nhân và sự hưng thịnh của đất nước. Vì vậy, hệ thống đào tạo
nghề từ lâu chỉ chủ yếu tiếp nhận những học sinh sau khi đã thi trượt cao đẳng,
đại học.
+ Thiếu tính liên thông trong đào tạo: xu hướng chung của các nước trên
thế giới là xây dựng xã hội hoá học tập và tạo điều kiện cho mọi người học tập
suốt đời bằng chính sách liên thông trong đào tạo. Nhưng ở nước ta chưa có
chính sách liên thông trong đào tạo, nhánh phân luồng đi vào nghề nghiệp chưa
86
có sự liên thông về nội dung chương trình, hình thức đào tạo để người học có
điều kiện học tập suốt đời. Thức trạng đó đã dẫn đến một số bất cập nảy sinh
trong quá trình đào tạo như đã vào học nghề là ít có cơ hội học lên ở bậc học cao
hơn. Muốn học nghề khác hoặc học tiếp các trình độ khác phải quay lại học từ
đầu. Những kiến thức và kỹ năng đã được học ở nghề khác hoăc ở bậc học dưới
không được tính mà vẫn phải học lại dẫn đến sự lãng phí cho cá nhân người học,
cho xã hội và tính kém hấp dẫn của dạy nghề.
+ Vấn đề tiền lương và việc làm của người lao động đã qua đào tạo nghề:
Như chúng ta đã biết đa số những người học nghề là những người có điều kiện
kinh tế khó khăn, mong muốn của họ là sau khi học nghề sẽ kiếm được việc làm
và tự tạo được việc làm. Qua thực tế cho thấy những trường dạy nghề, cơ sở dạy
nghề có tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm cao thì có nhiều học sinh
xin vào học nghề như các trường bưu chính viễn thông, điện lực, may mặc... Tỷ
lệ học sinh có việc làm sau khi tốt nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu
tố cơ bản là kế hoạch đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề phải xuất phát từ nhu
cầu của thị trường lao động tức là nhà trường đào tạo những nghề và với số
lượng mà nhu cầu thị trường lao động cần chứ không đào tạo các nghề mà nhà
trường có khả năng đào tạo. Hiện nay giữa đào tạo và sử dụng vẫn còn chưa có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cung và cầu không gặp nhau. Kết quả tất yếu của
tình trạng đó là có nghề sẽ thiếu và có nghề sẽ thừa so với nhu cầu của thị trường
lao động làm co số học sinh học những nghề vượt cầu của thị trường lao động sẽ
khó tìm được việc làm.
+ Chính sách khuyến khích học nghề của nhà nước ta hiện nay còn yếu và
thiếu: cho đến nay chính sách khuyến khích cho học sinh học nghề nằm trong
chính sách chung đối với học sinh - sinh viên, nhưng trong chính sách chung đó
lại có sự phân biệt đối xử với học sinh học nghề. Theo quy định tại Quyết định
87
1121/1997/QĐ-TTg ngày 22/12/1997 về học bổng và trợ cấp đối với học sinh,
sinh viên đối với các trường đào tạo công lập và Thông tư Liên tịch số
53/1998/TTLT- Bộ Giáo dục và đào tạo - Bộ Tài chính - Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội ngày 25/ 8/1998 thì mức học bổng khuyến khích học tập các loại
khá, giỏi, xuất sắc đối với học sinh dạy nghề đều thấp hơn so với mức học bổng
loại tương ứng của học sinh sinh viên các khối trường khác.
Hiện nay có những nghề đào tạo rất khó tuyển sinh, đó là những nghề làm
việc trong điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại, như
nghề khai thác hầm lò, nghề đúc.v.v… Đối với những nghề này cần có chính
sách riêng để thu hút người học.
Người học nghề sau khi tốt nghiệp sẽ đi vào thị trường lao động theo hai
hướng: Hướng thứ nhất là tìm việc ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ;
hướng thứ hai là sử dụng các kiến thức, kỹ năng đã học trong trường để tự tạo
việc làm trước hết cho bản thân mình và cho nhnững người khác. Những người
đi theo hướng thứ hai thường gặp khó khăn về vốn để mở cơ sở sản xuất kinh
doanh của mình. Vì vậy, đối với những người này cần có chính sách ưu đãi về
vay vốn.
Cơ chế, chính sách của Nhà nước về dạy nghề chưa tạo được động lực đủ
mạnh cho các cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề và người học nghề.
Bên cạnh đó là mức tăng đầu tư cho dạy nghề không gắn với mức tăng chỉ tiêu
đào tạo nghề. Mức kinh phí cho dạy nghề dài hạn tuy đã được tăng lên, nhưng
cũng chỉ mới đạt bình quân khoảng 3,2 triệu/học sinh/năm (bằng 74% mức quy
định năm 1998). Một nguyên nhân nữa là quan hệ giữa các cơ sở dạy nghề và
các doanh nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo nghề chưa được chặt chẽ, nhiều
doanh nghiệp và người sử dụng lao động chưa thấy được trách nhiệm và lợi ích
88
của mình trong công tác đào tạo nghề.
Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm. Đầu tư cho đào tạo nghề ngày càng nhiều và có hiệu quả.
Nhận thức của người dân về nghề nghiệp ngày càng tích cực; chất lượng, số
lượng đào tạo nghề ngày càng tăng, chúng ta lại có nhiều những cơ hội để phát
triển, hội nhập và hoàn thiện. Nhưng bên cạnh đó chúng ta đang gặp không ít các
khó khăn như tâm lý phân biệt công nhân và cử nhân đại học, đầu tư vốn ít, cả số
lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề đều chưa được đáp ứng, cơ sở vật chất
còn lạc hậu… Vì thế trong những năm tới chúng ta cần phải chú trọng tập trung
vào công tác đào tạo nghề để phát triển và hoàn thiện số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH
89
CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra
đối với hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật
Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển
với qui mô rộng, trình độ ngày càng cao tạo tiền đề cho việc hình thành nền kinh
tế tri thức. Đồng thời, cùng với thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta đang từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, lập đội ngũ công nhân kỹ
thuật càng có vai trò hết sức to lớn.
Trong gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới từ 1986 đến nay, Việt Nam
đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tính bình quân 5 năm
2001 - 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt gần 7,5%, cao hơn 0,6% so với 5
năm trước, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,6%; công nghiệp và xây dựng
đạt 10,3%; các ngành dịch vụ đạt 7,0%. Bình quân 10 năm từ 1996 đến 2005 nền
kinh tế tăng trưởng khoảng 7,2%, năm 2005 dự kiến GDP là 815 nghìn tỷ đồng,
bình quân đầu người là 9,8 triệu đồng (tương đương với 600 USD). Cùng với
tăng trưởng kinh tế chúng ta đã duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
ổn định chính, xã hội, quốc phòng an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế
của đất nước, của từng vùng và từng ngành. Chúng ta đã cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học công nghệ... Khu vực kinh tế
tư nhân phát triển nhanh chóng sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực từ
1/1/2000, tạo việc làm cho hơn 1,75 triệu người.
Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 5
90
năm khoảng 5,4% trong đó ngư nghiệp tăng 10,7%; lâm nghiệp tăng 1,3%; nông
nghiệp tăng 4,0%. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình
quân 15,7%/năm, cao hơn 1,6% so với 13,9% giai đoạn 1996 - 2000. Các ngành
dịch vụ có bước chuyển biến tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về
sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Đã bắt đầu quá trình bình đẳng
giá dịch vụ giữa người nước ngoài và người trong nước. Giá trị sản xuất của các
ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7,6%. Giá trị tăng thêm của
ngành dịch vụ tăng bình quân 7,0% trong giai đoạn 2000 - 2005.
Cùng với tăng trưởng kinh tế quỹ tiêu dùng và quỹ tích luỹ có nhiều cải
thiện theo hướng tăng nhanh tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ tiết kiệm trong
nước so với tổng sản phẩm trong nước năm 2005 đạt khoảng 29,4%, trong đó
tích luỹ từ khu vực dân cư và doanh nghiệp chiếm khoảng 23,4%, tích luỹ từ khu
vực Nhà nước chiếm khoảng 6%.
Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định trong nhiều năm là một thành tựu rất quan
trọng. Sau một giai đoạn dài lạm phát phi mã không kiềm chế được ở đầu thập
kỷ 1980 ccủa thế kỷ XX, lạm phát giảm từ mức gần 800% năm 1986 xuống một
con số vào đầu những năm 1990 và giữ ở mức tương đối thấp cho đến nay; thâm
hụt ngân sách luôn ở mức dưới 5% GDP.
Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, bình quân đạt tốc độ trên 25%/năm, một
mức tăng cao hơn hẳn nhiều nước đang phát triển. Mức độ mở cửa thương mại
khá cao so với thế giới: Kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP khoảng 120%.
Số doanh nghiệp đăng ký trực tiếp xuất nhập khẩu đã tăng lên từ 3500 năm 1998
lên 2000 năm 2002. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp tăng từ 10 tỷ USD năm
2000 lên 22,4 tỷ USD năm 2005 và chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phong phú hơn, đặc biệt một số sản phẩm cơ
91
khí đòi hỏi công nghệ cao như điện tử, xe máy, tàu thuỷ... đã có chỗ đứng ở một
vài thị trường. Thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu ngày càng được
mở rộng, người tiêu dùng được tiếp cận các hàng hoá và dịch vụ với chủng loại
đa dạng và chất lượng tốt hơn
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tương đối rõ nét. Trong giai đoạn 1991 -
2000, nông nghiệp giảm mạnh từ 40% xuống còn 23% GDP, công nghiệp tăng
nhanh nhất từ 24% lên 38%. Công nghiệp chế tạo tăng trung bình 10%/năm
trong giai đoạn 1999 - 2002, tổng sản lượng công nghiệp cũng tăng nhanh với
mức 14%/năm trong cùng giai đoạn, nhiều ngành mới, sản phẩm mới xuất hiện.
Đến 2005 tỉ trọng giá trị nông - lâm - ngư nghiệp còn khoảng 19%, công nghiệp
khoảng 42%, dịch vụ khoảng 39%.
Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang có những dấu hiệu cho thấy việc
tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao là rất khó khăn.
Tốc độ tăng xuất khảu trong năm 2001 - 2002 chỉ còn khoảng hơn 11% so với
hơn 30% những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đầu tư nước ngoài cam kết
và thực hiện chưa khôi phục được mức tăng trong những năm cuối 80 đầu 90:
vốn đăng ký bình quân năm còn khoảng 2 tỷ USD năm 2001 - 2002 so với 7,2 tỷ
trong các năm 1995 - 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể: 2,3 tỷ
so với 2,6 tỷ trong thời kỳ so sánh trên; tính theo đầu người năm 2002 là 17$ so
với 29$ năm 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể (2,3 tỷ) so với
(2,6 tỷ) trong thời kỳ so sánh.
Hơn nữa, nền kinh tế chưa tận dụng hết lợi thế cạnh tranh về lao động, vốn
đầu tư đang hướng vào những dự án lớn, hiệu quả không cao. Yêu cầu về vốn
đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng (hệ số ICOR) đã tăng nhanh trong những
năm gần đây, từ 3,5 - 4 vào cuối những năm 90 lên hơn 5,9 vào năm 2001. Chủ
92
yếu đó là những đầu tư của khu vực Nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn
đàu tư nước ngoài vào những dự án chậm thu hồi vốn, không bù đắp được chi
phí thực tế bỏ ra hoặc tạo được ít việc làm. Hạ tầng yếu kém với chất lượng dịch
vụ thấp và kém đa dạng là điểm yếu quan trọng gây cản trở cho phát triển kinh
tế.
Trong bối cảnh đó, thực hiện đường lối phát triển kinh tế dựa vào nội lực
và tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào
kinh tế khu vực và thế giới đang được thực hiện với tốc độ ngày càng tăng, ngày
càng sâu sắc và toàn diện, trong đó có việc thực thi cam kết với các nước
ASEAN (ví dụ như Hiệp định AFTA và AIA, AICO) và chuẩn bị tham gia
WTO. Việc thực hiện cam kết này vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho
nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần xác định những điều chỉnh chính sách phù hợp
để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức.
Ngày nay toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế
giới. Thời đại toàn cầu hoá đã mở ra nhiều cơ hội tốt đẹp cho hàng tỷ người ở
các nước trên thế giới. Chính thương mại thế giới và đầu tư quốc tế trực tiếp
ngày càng tăng lên, kỹ thuật mới, thiết bị và mạng thông tin liên lạc ngày càng
phát triển đã tiếp thêm sức sống cho sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của
loài người.
Không còn nghi ngờ gì nữa, toàn cầu hoá đã tạo ra cơ may lớn cho sự tiến
bộ của loài người, cho sự tăng trưởng kinh tế. Toàn cầu hoá hiện nay do sự mở
cửa, thị trường thúc đẩy vì thế trong tiến trình toàn cầu hoá thị trường chiếm địa
vị chủ đạo ai chiếm được vị trí trong cạnh tranh thị trường người đó sẽ chiếm
được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá. Có thể nói vấn đề cạnh tranh
có tính chất toàn thế giới, quan hệ tới địa vị và lợi ích của mỗi quốc gia trong
93
tiến trình toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng tự do hoá thương mại có thể trở thành
một bước tiến tới xây dựng thị trường có tính chất cạnh tranh, song nó không thể
trở thành cái đảm bảo cho thị trường có tính chất cạnh tranh. Thêm đó trong khi
đảm bảo năng suất, thị trường có tính chất cạnh tranh vẫn không thể đảm bảo
thực hiện được bình đẳng do đó các nước không thế cùng hưởng một cách bình
đẳng lợi ích to lớn do toàn cầu hoá tạo ra. Trong khi giữ vững thị trường và lợi
thế cạnh tranh còn phải chú ý tới nhân lực và tài nguyên, môi trường nhằm đảm
bảo toàn cầu hoá có lợi cho nhân dân chứ không phải chỉ chạy theo xu thế.
Như thế có thể nói toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng không thể đảo ngược
của kinh tế hiện đại. Toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng không chỉ đến kinh tế của
một nước mà còn ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác trong đó
có lĩnh vực đào tạo. Để hội nhập với kinh tế thế giới, chúng ta cần phải bắn nhịp
chung với các tri thức của nhân loại. Sự hợp tác trong đào tạo đa phương và song
phương ngày càng phát triển, điều này đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới hệ thống
đào tạo trong đó có việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy,
nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đồng thời phải đầu tư trang thiết bị phù
hợp... để đào tạo ra những công nhân kỹ thuật vừa nắm vững lý thuyết vừa có kỹ
năng kỹ xảo nghề nghiệp và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của công
nghệ. Nâng cao chất lượng đào tạo là yêu cầu sống còn đối với các cơ sở đào tạo
để bắt kịp trình độ đào tạo của các nước phát triển.
Để có đội ngũ lao động chất lượng cao, phải dựa trên cơ sở nâng cao trình
độ dân trí đồng thời phải phát triển giáo dục nghề nghiệp, giáo dục cao đẳng đại
học và sau đại học. Ở nước ta vấn đề nâng cao dân trí đã đạt được tỉ lệ khá cao so
với thế giới, song tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp đặc biệt là công nhân kỹ
thuật. So sánh với quốc tế, mặc dù Việt Nam vẫn còn lợi thế về giá lao động thấp
song lợi thế này sẽ mất dần về lâu dài. Muốn chiếm ưu thế trong cạnh tranh thì
94
không còn con đường nào khác là tập trung đào tạo một đội ngũ lao động kỹ
thuật cao có đủ khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế, hơn nữa là có khả
năng đi ngay vào nền kinh tế tri thức. Chúng ta phải quan tâm đến hai chỉ tiêu
quan trọng của phát triển kinh tế tri thức đó là tỉ lệ phần trăm công nhân tri thức
trong tổng lực lượng lao động và tỉ lệ phần trăm GDP từ các ngành kinh tế tri
thức. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tập trung nguồn lực để đào tạo công
nhân kỹ thuật trình độ cao cho các ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn, các khu
công nghiệp, khu công nghệ cao… nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, tự động hoá và công nghệ vật liệu mới.
Nằm trong bối cảnh chung đó, đội ngũ công nhân công nghiệp của chúng
ta cũng chịu sự tác động và có những thay đổi thay đáng kể. Những đổi thay của
giai cấp công nhân Việt Nam trước hết gắn với sự phát triển của các ngành công
nghiệp của đất nước. Thực trạng trên cho chúng ta hình dung rõ nét hơn sự biến
đổi của đội ngũ công nhân trong gần 20 năm qua và cũng thấy được tầm quan
trọng của việc phải xây dựng được đội ngũ công nhân lớn mạnh vì nước ta phải
thực hiện đồng thời hai quá trình từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp
và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức, chúng ta không thể chờ công
nghiệp hoá rồi mới lên kinh tế tri thức, hai quá trình này lồng ghép làm một đó là
công nghiệp hoá dựa vào tri thức vì hiện nay toàn cầu hoá, hội nhập khu vực và
quốc tế đang là xu thế tất yếu khách quan và nhu cầu cấp bách đối với mỗi quốc
gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong xu thế
đó, sự cạnh tranh càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, lợi thế
cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy,
chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chìa khoá để phát
triển kinh tế. Nguồn nhân lực nói chung, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp
vụ có chất lượng cao nói riêng đang thực sự trở thành yếu tố cơ bản trong sự
95
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững của đất nước, tạo sức cạnh tranh trên thị trường lao động
trong nước, khu vực và quốc tế. Phát triển đội ngũ công nhân kỹ thuật được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong phát triển nền giáo dục như là quốc
sách hàng đầu. Chủ trương quan điểm của Đảng về đào tạo công nhân kỹ thuật
ngay khi giành được chính quyền và không ngừng đổi mới, hoàn thiện qua các
thời kỳ. Nổi bật nhất là Đại hội VIII của Đảng đánh dấu mốc quan trọng trong
đổi mới tư duy về phát triển và đào tạo lao động kỹ thuật trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là thời
kỳ đòi hỏi phải phát triển và đào tạo công nhân kỹ thuật nhất là công nhân kỹ
thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Vì vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu
phát triển đối với đào tạo nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là: đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức
kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử
dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,
đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các
ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động, hình thành hệ thống đào tạo kỹ
thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, trong đó chú trọng
phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và
nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao.
Nằm trong bối cảnh chung đó, đội ngũ công nhân công nghiệp của chúng
ta cũng chịu sự tác động và có những thay đổi thay đáng kể. Những đổi thay của
giai cấp công nhân Việt Nam trước hết gắn với sự phát triển của các ngành công
nghiệp của đất nước. Thực trạng trên cho chúng ta hình dung rõ nét hơn sự biến
96
đổi của đội ngũ công nhân trong hơn gần 20 năm qua và cũng thấy được tầm
quan trọng của việc phải xây dựng được đội ngũ công nhân lớn mạnh vì nước ta
phải thực hiện đồng thời hai quá trình từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công
nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Chúng ta không thể chờ
công nghiệp hoá rồi mới tiến lên kinh tế tri thức. Hai quá trình này phải lồng
ghép làm một đó là công nghiệp hoá dựa vào tri thức vì hiện nay toàn cầu hoá,
hội nhập khu vực và quốc tế đang là xu thế tất yếu khách quan và nhu cầu cấp
bách đối với mỗi quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Trong xu thế đó, sự cạnh tranh càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn.
Trong lĩnh vực kinh tế, lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn
nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao chính là chìa khoá để phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực nói chung, công
nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có chất lượng cao nói riêng đang thực sự trở
thành yếu tố cơ bản trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo cho
sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, tạo sức cạnh tranh
cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
Vì vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu
phát triển đối với đào tạo nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là: đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức
kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử
dụng, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,
đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các
ngành kinh tế mũi nhọn và xuất khẩu lao động, hình thành hệ thống đào tạo kỹ
thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, trong đó chú trọng
phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và
97
nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao.
3.2.Định hướng để phát triển đào tạo công nhân kỹ thuật
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề, cần phải
định hướng để hoạt động này thực sự góp phần phục vụ các mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội nhằm phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
tăng việc làm mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động và
nguyện vọng học tập suốt đời của người lao động, tạo bước chuyển biến cơ bản
về chất lường dạy nghề theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới,
phù hợp với thực tiễn Việt Nm, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương. 10 năm tới dạy nghề phải
được đổi mới cơ bản và toàn diện để có đủ năng lực đào tạo nghề đáp ứng yêu
cầu chất lượng, yêu cầu số lượng lao động kỹ thuật của sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá và xuất khẩu lao động theo cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ
đáp ứng nhu cầu học nghề để tìm việc làm và tự tạo việc làm của người lao động.
Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo hướng hình thành các trường trọng
điểm, phân bố hợp lý góp phần thực hiện sự liên thông đáp ứng yêu cầu phân
luồng của hệ thống giáo dục quốc dân. Cơ cở đào tạo ngoài công lập cần phải
được phát triển mạnh để có thể góp phần thoả mãn nhu cầu học nghề ngày càng
tăng của xã hội.
Phải thực sự coi phát triển giáo dục đào tạo trong đó có đào tạo nghề là
quốc sách hàng đầu. Đào tạo nghề có nhiệm vụ cung cấp phần lớn công nhân kỹ
thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần phát triển đội ngũ
công nhân cho nên nếu không phát triển đào tạo nghề sẽ không thể thực hiện
được tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Phải thấy rằng đào tạo nghề là sự
nghiệp của toàn xã hội. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư cho phát triển bền
vững và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội trực tiếp. Đào tạo nghề đòi hỏi sự đầu
98
tư lớn vì thế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư trang bị cơ sở vật
chất ban đầu cho các cơ sở đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành kinh tế mũi
nhọn, những ngành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, cho xuất khẩu lao động
và cho những vùng khó khăn đồng thời tạo điều kiện và môi trường để mọi tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển đào tạo nghề, đặc biệt là
những ngành nghề phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Mở rộng
quy mô đào tạo phải đi đôi với nâng cao chất lượng đào tạo. Phát triển đồng thời
đào tạo nghề mũi nhọn và đào tạo đại trà, song đặt trọng tâm vào đào tạo mũi
nhọn, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trình
độ cao của các khu công nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Gắn đào
tạo với sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp. Đào tạo nghề phải xuất phát từ
yêu cầu của sản xuất, vì sản xuất và thuộc về sản xuất. Phát triển và đào tạo nghề
trên cơ sở liên thông, mềm dẻo và linh hoạt. Liên thông giữa các cấp trình độ đào
tạo bán lành nghề, lành nghề, lành nghề trình độ cao ngay trong hệ thống dạy
nghề và liên thông giữa các cấp trình độ trong hệ thống đào tạo nhân lực, điều
kiện, con đường phấn đấu vươn lên của người học nghề. Chỉ có đào tạo và bồi
dưỡng nhân lực kỹ thuật với chất lượng cao mới có thể hội nhập trong bối cảnh
trong nước và quốc tế, mới đáp ứng được những thách thức về trình độ tay nghề
trong nền đại công nghiệp hiện nay. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực
hành với ba cấp trình độ, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng đào tạo
trình độ lành nghề kỹ thuật cao. Chúng ta phải làm thế nào để quy mô đào tạo
ngày càng tăng, đồng thời hết sức coi trọng chất lượng đào tạo làm cho người
công nhân có kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tay nghề thực sự vững vàng, xây dựng hệ
thống trường chất lượng cao để dần dần tiếp cận được với trình độ đào tạo khu
vực và quốc tế.
Cần tuyên truyền để mọi người trong xã hội thấy được đào tạo nghề là
99
nhiệm vụ của tất cả mọi người, mọi người có ý thức về giáo dục nghề nghiệp.
Tiếp tục mở rộng và thực hiện có hiệu quả xã hội hoá, thu hút mọi nguồn lực
trong nước và đầu tư hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo,
đa dạng hoá các loại hình cơ sở và phương thức dạy nghề.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo công nhân kỹ
thuật
Để đạt được mục tiêu nói trên và đáp ứng nhu cầu lao động qua đào tạo
nghề (về số lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu vùng) phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi công tác đào tạo nghề
phải có sự đổi mới và phát triển. Dưới đây là một số những giải pháp nhằm đẩy
mạnh công tác dạy nghề ở Việt Nam.
Thứ nhất là hoàn thiện các trình độ đào tạo trong hệ thống dạy nghề:
Chúng ta có thể thấy rằng hệ thống dạy nghề Việt Nam hiện nay chủ yếu
là đào tạo lao động ở cấp độ bán lành nghề và lành nghề còn đào tạo lao động ở
trình độ cao là rất ít đã chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động nước
ta théo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì thế để hệ thông
đào tạo nghề dần đáp ứng được nhu cầu này thì phải tiến hành hoàn thiện cơ cấu
của hệ thống dạy nghề theo 3 cấp trình độ:
- Cấp I: (Bán lành nghề - đào tạo ngắn hạn) tổ chức, đào tạo cấp trình độ
này nhằm cung cấp lao động cho nhu cầu phát triển ngành nghề giản đơn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, phát triển kinh tế
trang trại, kinh tế gia đình và tăng cơ hội có việc làm cho người lao động. Tuy
nhiên tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp trình độ này sẽ phải được giảm dần
trong kế hoạch đào tạo song vẫn chiếm phần lớn số lao động được đào tạo hàng
100
năm.
- Cấp II: (lành nghề - đào tạo dài hạn) ở cấp trình độ này lao động được
đào tạo chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu công nghiệp, khu chế
xuất, những dây chuyền sản xuất sử dụng công nghệ cao, phục vụ nhu cầu xuất
khẩu lao động và chuyên gia. Người lao động đủ năng lực hành nghề để thực
hiện những nhiệm vụ và kỹ năng nghề trong phạm vi rộng đáng kể, có thể thực
hiện được một số công việc và kỹ năng nghề phức tạp, không theo thông lệ với
yêu cầu trách nhiệm của cá nhân người lao động, khả năng hợp tác với đồng
nghiệp và làm việc theo tổ, nhóm.
- Cấp III: (lành nghề trình độ cao - đào tạo kỹ sư thực hành, kỹ thuật viên
cao đẳng, thợ cả) vì theo yêu cầu phát triển của công nghệ sản xuất, theo xu thế
của quốc tế, để hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động trong và ngoài
nước, trong một số lĩnh vực đòi hỏi người lao động phải có trình độ tay nghề cao
cùng với trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các bậc trung cấp và cao đẳng. Vì vậy
hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức đào tạo ở cấp trình độ này lao động được
đào tạo ở cấp trình độ này có khả năng vận hành các thiết bị tiên tiến, hiện đại và
có năng lực xử lý theo tình huống của sản xuất.
Nếu tổ chức đào tạo một cách hợp lý cả 3 cấp độ, chúng ta có thể thu hút
hết nguồn lao động nhàn rỗi, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm tận
dụng hết nguồn nhân lực Việt Nam vào phát triển kinh tế xã hội đất nước có thể
đáp ứng được lực lượng sản xuất phát triển không đều ở nước ta hiện nay.
Thứ hai là phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề:
Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển theo hướng xã hội hoá, đa dạng hoá,
linh hoạt, năng động, thiết thực, thích ứng với cơ chế thị trường và bao gồm các
cơ sở đào tạo công lập và ngoài công lập, ngắn hạn và dài hạn. Mạng lưới cơ sở
101
đào tạo nghề không chỉ đảm bảo tính hợp lý về quy mô đào tạo, ngành nghề đào
tạo, trình độ đào tạo mà còn phải đáp ứng nhu cầu đào tạo theo vùng, phát triển
với một tốc độ và quy mô hợp lý nhằm thực hiện mục tiêu phân luồng sau Trung
học cơ sở và Trung học phổ thông, đáp ứng nhu cầu đào tạo và đào tạo lại của
người lao động.
Từng bước xây dựng và hoàn thiện những trường hiện có theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá để tăng năng lực, chất lượng và hiệu quả đào tạo; tập
trung đầu tư để nâng cấp và phát triển các trường dạy nghề chất lượng cao, các
trường dạy nghề trình độ cao ở các vùng kinh tế trọng điểm và các khu công
nghiệp tập trung. Sắp xếp và điều chỉnh mạng lưới trường dạy nghề phù hợp với
nhu cầu chuyển đổi cơ cấu lao động theo ngành nghề và theo vùng miền; thành
lập các trường dạy nghề mới ở các tỉnh chưa có trường dạy nghề, ở các vùng
kinh tế động lực, các khu công nghiệp, khu chế xuất, ở các ngành, địa phương, ở
các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động qua đào tạo nghề; hình thành các
trường dạy nghề ở Tây bắc, tây nguyên..., phát triển cơ sở dạy nghề tại các doanh
nghiệp, các cơ sở ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài. Đến
2005 phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường dạy nghề và đến năm 2010 mỗi
huyện có ít nhất 1 trung tâm dạy nghề, một số quận huyện có trường dạy nghề.
Tập trung đầu tư để vào năm 2005 có 25 trường chất lượng cao và vào 2010 có
40 trường chất lượng cao.
- Đối với các trường dạy nghề phải từng bước xây dựng và hoàn thiện
những trường hiện có theo hướng chuẩn hoá và hiện đại hoá để tăng năng lực,
chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nâng cấp một số trường dạy nghề thành trường
cao đẳng nghề và trung cấp nghề ở các vùng kinh tế động lực. Thành lập các
trường mới ở các tỉnh chưa có trường, ở các vùng kinh tế động lực, các ngành,
các địa phương, các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động công nhân kỹ
102
thuật; hình thành các trường đa ngành nghề ở các vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, Tây Bắc, Tây Nguyên, Duyên Hải Trung Bộ. Soát lại các trường dạy nghề
ngoài công lập hiện có để nâng cao chất lượng đào tạo, khuyến khích thành lập
các trường dạy nghề ngoài công lập, trường có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với các Trung tâm dạy nghề phải từng bước hiện đại hoá các trung
tâm dạy nghề hiện có để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo. Tiếp tục
phát triển mạng lưới các trung tâm dạy nghề, chú trọng phát triển các trung tâm
dạy nghề ở vùng nông thôn, miền núi. Phấn đấu đến 2010 mỗi quận, huyện có ít
nhất 1 Trung tâm dạy nghề.
Thứ ba là đổi mới nội dung, chương trình dạy nghề theo hướng tiếp cận
sản xuất, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Việc đổi mới chương trình dạy nghề được
thực hiện bằng cách áp dụng phương pháp tiên tiến mà hiện nay nhiều nước áp
dụng, từng bước chuyển việc xây dựng chương trình theo niên chế, môn học
truyền thống hiện nay sang chương trình theo mô đun, chương trình được xây
dựng vừa có tính liên thông giữa các trình độ đào tạo kỹ thuật thực hành, vừa có
tính liên thông với các cấp trình độ đào tạo khác nhau trong hệ thống giáo dục
quốc dân, tạo điều kiện cho người lao động có khả năng, có nhu cầu có thể học
suốt đời để nâng cao trình độ nghề nghiệp hoặc thay đổi nghề nghiệp khi cần
thiết. Nội dung chương trình đào tạo nghề trình độ cao cần được xây dựng theo
hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Việc xây
dựng và phát triển chương trình cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục
tiêu đào tạo- nội dung đào tạo - phương pháp đào tạo. Cốt lõi của việc xây dựng
chương trình đào tạo là giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu - nội dung- phương
pháp như một hệ thống thống nhất.
- Mục tiêu đào tạo nằm ngay trong bản thân quá trình đào tạo và thể hiện ở
103
mọi giai đoạn của quá trình đào tạo, chỉ đạo toàn bộ quá trình đào tạo và làm
chuẩn để đánh giá học sinh. Học sinh phải biết vận dụng kết quả thu đước trong
quá trình học tập một cách sáng tạo, đa dạng và phong phú.
- Nội dung đào tạo bao gồm: Tri thức, kỹ năng, thái độ và thông qua qúa
trình học tập mà rèn luyện phát triển năng lực tiềm ẩn của mình. Nội dung đào
tạo công nhân kỹ thuật được thiết kế theo mô đun để đáp ứng nhu cầu học tập
của người học.
- Phương pháp đào tạo tiếp cận sự phát triển, phương pháp này đòi hỏi rất
cao về vai trò của người giáo viên. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức
mà còn là người cố vấn, hướng dẫn, tạo điều kiện gợi mở cho học sinh khả năng
phát triển.
Giải pháp thứ tư là phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới phương
pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Phát triển đội ngũ giáo viên dạy
nghề đáp ứng đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề và đảm bảo chuẩn về
chất lượng. Nâng tỷ lệ giáo viên trên học sinh đạt 1/15 vào 2010, nâng dần tỷ lệ
giáo viên có trình độ sau đại học tại các trường dạy nghề, đặc biệt là ở các
trường dạy nghề trình độ cao. Một mặt tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên dạy nghề hiện có để đạt chuẩn về chất lượng. Mặt khác tiến hành đầu tư mở
rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đào tạo đội ngũ giáo viên dạy
nghề, từ nay đến năm 2007 sẽ đầu tư tăng cường năng lực để nâng cấp các
trường sư phạm kỹ thuật hiện có thành trường Đại học sư phạm kỹ thuật, mở
thêm một số trường sư phạm kỹ thuật ở miền núi phía Bắc và Duyên hải miền
trung. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên dạy nghề theo hướng tăng thời
lượng thực hành, đào tạo phương pháp dạy nghề tiên tiến (chuyển từ phương
pháp truyền đạt kiến thức, kỹ năng thụ động cho học sinh sang phương pháp
104
hướng dẫn, gợi mở nhằm tăng tính chủ động, sáng tạo của học sinh), tăng thời
lượng tin học nhằm trang bị cho giáo sinh những kiến thức, kỹ năng về tin học
để có thể sử dụng tin học vào quá trình giảng dạy, tăng thời lượng tiếng Anh
chuyên ngành để giáo sinh có thể đọc hiểu các tài liệu chuyên môn bằng tiếng
Anh và có thể trao đổi những vấn dề chuyên môn bằng tiếng Anh tạo nền tảng
cho việc tự nghiên cứu hoặc tham gia các khoá bồi duỡng chuyên môn ở nước
ngoài. Thực hiện thường xuyên chế độ định kỳ nâng cao bồi dưỡng trình độ, cập
nhật kiến thức chuyên môn cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Mở rộng việc tuyển
đội ngũ giáo viên dạy nghề từ những người đạt trình độ chuyên môn theo quy
định đã có kinh nghiệm trong sản xuất đến thu hút cán bộ kỹ thuật của các viện
nghiên cứu, của các doanh nghiệp tham gia giảng dạy ở các cơ sở dạy nghề.
Thứ năm là phải tăng cường đầu tư nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho
dạy nghề: trong thời gian tới cần phải có sự đầu tư lớn trang thiết bị cho các cơ
sở dạy nghề. Tiến hành huy động mọi nguồn lực của nhà nước, nguồn lực của
các doanh nghiệp, nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
để đầu tư cho dạy nghề. Nhà nước phải thu hút thêm nguồn lực nước ngoài thông
qua dự án hỗ trợ không hoàn lại của các nước, các tổ chức quốc tế, tranh thủ
nguồn tài chính vay lãi với lãi xuất ưu đãi cho giáo dục từ các nước (Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Áo...) và các ngân hàng quốc tế. Việc đầu tư trang thiết bị cho
dạy nghề được thực hiện trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế và các cơ sở dạy
nghề còn hạn chế và các cơ sở dạy nghề còn lại đều trong tình trạng thiếu trang
thiết bị nên vừa phải đầu tư tập trung cho những trường dạy nghề, trung tâm dạy
nghề trọng điểm, vừa dành một phần nguồn lực hợp lý để đầu tư cho các cơ sở
dạy nghề còn lại.
Đầu tư cho công nhân kỹ thuật là đầu tư phát triển và có yêu cầu rất lớn, vì
vậy ngân sách Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và cần thiết phải được tăng dần
105
với mức độ hợp lý là 8% ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đào tạo vào năm
2005, 10% vào năm 2010, đồng thời cũng phải xác định mục tiêu quan trọng của
xã hội hoá là huy động mọi nguồn lực cho phát triển công nhân kỹ thuật là :
- Học phí là nguồn bổ sung quan trong, hỗ trợ cho hoạt động công nhân kỹ
thuật, việc xác định mức thu, cơ chế quản lý và sử dụng phải được tiếp tục
nghiên cứu để bổ sung sửa đổi nhằm tạo điều kiện cho người lao động nghèo vẫn
có thể học được và khuyến khích đào tạo các ngành nghề nặng nhọc, độc hại khó
tuyển, các ngành nghề mũi nhọn phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Động viên các khoản đóng góp tự nguyện, từ thiện cho đào tạo công
nhân kỹ thuật đồng thời xây dựng quy chế quản lý và sử dụng các khoản đóng
góp, công khai hoá các khoản thu, cấm thu ngoài quy định.
- Thành lập qũy hỗ trợ đào tạo của doanh nghiệp nhằm hỗ cho việc nâng
cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ trong ngành, trợ cấp cho cán
bộ công nhân viên đi học, mở các khoá bồi dưỡng ngắn hạn để có thể hỗ trợ một
phần cho các cơ sở đào tạo do tuyển lao động cho doanh nghiệp. Quỹ được hình
thành trên cơ sở đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh của ngành và của
các nhà tài trợ.
Giải pháp thứ sáu là đẩy mạnh xã hội hoá dạy nghề bằng việc khuyến
khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia dạy nghề. Tạo cơ hội
cho mọi người có nhu cầu được học nghề phù hợp với trình độ và điều kiện của
mình. Phát triển các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề và các cơ sở dạy nghề
ngoài công lập. Nâng tỷ lệ học sinh học nghề ngoài công lập đến năm 2010 lên
khoảng 70%. Nhà trường, nhà giáo và học sinh các trường ngoài công lập được
bình đẳng như các trường công lập. Nhà nước phải hoàn thiện ban hành các
chính sách hỗ trợ trường ngoài công lập. Mở rộng, tăng cường các mối quan hệ
106
của nhà trường với các ngành, địa phương, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội... tạo điều kiện để xã hội
có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề, góp ý kiến cho
quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, danh mục đào tạo nghề, tiêu
chuẩn kỹ năng nghề, nội dung, chương trình dạy nghề, nhu cầu ngành nghề đào
tạo, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học, tiếp nhận học sinh
học nghề đến thực tập, tiếp nhận học sinh tốt nghiệp vào làm việc.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy nghề thông qua các dự án.
Xây dựng dự án với một số nước phát triển và với các tổ chức quốc tế nhằm huy
động nguồn lực vào nâng cao cơ sở vật chất trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên và cán bộ quản lý, nghiên cứu khoa học. Khuyến khích các chủ đầu tư
nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền thống và trình độ tiên tiến thành lập
các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanmh với các đối tác Việt
Nam để đối tác trình độ cao, mở các khoá bồi dưỡng có trình độ khu vực và quốc
tế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp tác đầu tư xây dựng một số trung
tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo, nhập thiết bị thí nghiệm khoa học
tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; tăng
số dự án viện trợ, vay vốn để đào tạo đội gũ lao động kỹ thuật đáp ứng các yêu
cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và xuáat khẩu lao động
Thứ bảy là đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề: mở rộng hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực dạy nghề thông qua các dự án. Xây dựng các dự án với một số
nước phát triển và với các tổ chức quốc tế nhằm huy động nguồn lực vào nâng
cao cơ sở vật chất trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý,
nghiên cứu khoa học. Đối với một số ngành nghề đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao sẽ
được thực hiện đào tạo thông qua hợp tác quốc tế theo các hiệp định đưa đi đào
tạo ở nước ngoài, liên doanh trong đào tạo, hoặc mở rộng cơ hội để người lao
107
động tự đi học tham dự các khoá đào tạo ở nước ngoài.
Khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác song phương
giữa các cơ sở đào tạo của Việt Nam với các cơ sở đào tạo có uy tín và chất
lượng cao trên thế giới nhằm trao đổi những kinh nghiệm tốt và tăng thêm nguồn
lực phát triển.
Huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị, xây
dựng cơ sở vật chất cho công nhân kỹ thuật, đặc biệt là những ngành nghề mũi
nhọn và ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tăng số dự án viện
trợ, vốn vay để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu về
chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu lao động. Hợp tác đầu tư xây dựng
một số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo, nhập thiết bị thí nghiệm
khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa
học.
Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền
thống và trình độ tiên tiến, thành lập các cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài
hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo trình độ cao, mở các khoá
108
bồi dưỡng có trình độ khu vực và quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
109
KẾT LUẬN
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, mới bước đầu tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Như vậy, về mặt khoa học kỹ
thuật và công nghệ chúng ta đang tụt hậu so với các nước công nghiệp trên thế
giới và còn có khoảng cách so với các nước trong khu vực. Tuy vậy, chúng ta lại
có lợi thế là đúc rút được kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nắm bắt
được những tri thức, những thành tựu của thế giới để rút ngắn thời gian công
nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước. Một trong những thách thức lớn trong cuộc
"bứt phá" này là chúng ta đang còn hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Thách
thức này lại càng lớn hơn khi thế giới đang bước nhanh vào nền kinh tế tri thức.
Theo "Chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội" mà đại hội Đảng IX đã đề ra,
chúng ta phấn đấu để đến năm 2020, là nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Để đáp ứng đòi hỏi này, Đảng ta đã khẳng định chúng ta phải đi tắt, đón
đầu, nếu không chúng ta sẽ tụt hậu càng xa. Điều này chỉ có thể làm được khi
chúng ta có chiến lược đầu tư phát triển nguồn nhân lực một cách đúng đắn, phù
hợp. Nghị quyết đại hội đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Phát triển giáo dục đào
tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". Nhưng một trong các
vấn đề nổi cộm là sự mất cân bằng về trình độ đào tạo. Chúng ta thiếu một đội
ngũ công nhân lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu những người thợ có trình độ ở
các cấp bậc khác nhau, thiếu những công nhân có trình độ cao phục vụ cho
những ngành công nghệ hiện đại... Chính những công nhân này chứ không phải
ai khác là người góp phần quyết định sự phát triển của nền kinh tế đất nước, góp
110
phần thành công cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Công nhân kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong việc tăng trưởng kinh
tế, trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong bối
cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế. Đề đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá
và hội nhập, cần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ công
nhân kỹ thuật để góp phần đổi mới cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế
trong từng thời kỳ phát triển, làm cho hoạt động đào tạo gắn với những đòi hỏi
của thị trường lao động, nhất là thị trường lao động kỹ thuật trình độ cao.
Lĩnh vực đào tạo đội ngũ công nhân hiện nay tuy đã được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm, được coi là một nhiệm vụ quan trọng, và do đó có được
những thành công nhất định như chất lượng đào tạo tăng lên, số lượng người
tham gia đào tạo nghề ngày càng nhiều, loại hình đào tạo ngày càng đa dạng,
phong phú đã dần dần đáp ứng được nhu cầu trong nước và quốc tế... song chưa
thực sự xác lập được vị trí của nó. Trong lĩnh vực đào tạo nghề đầu tư cho cơ sở
vật chất còn thấp, chất lượng giáo viên chưa cao, tâm lý phân biệt công nhân làm
thuê và kỹ sư còn tồn tại. Vì vậy chúng ta cần huy động sức người, sức của vào
sự nghiệp đào tạo nghề, tuyên truyền, giáo dục ý thức người dân góp phần làm
cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước ta được thực
hiện.
Trong những năm tới chúng ta phải hình thành và phát triển hệ thống đào
tạo nghề với nhiều trình độ đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng lao động; Đào tạo
phải thích ứng với nhứng thay đổi của thị trường lao động và hướng tới hội nhập
với khu vực và quốc tế; Song song với việc mở rông quy mô đào tạo phải từng
bước nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc đổi mới chương trình đào tạo,
phương pháp đào tạo, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, đầu tư trang thiết bị và cơ sở
111
kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo tổng kết công tác
đào tạo nghề và phương hướng đào tạo nghề từ nay đến 2005.
2. Đỗ Minh Cương (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn , Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), “Để cho khoa học và công nghệ trở thành
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học,
(1), tr.3- 5.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), ”Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế -
xã hội của nước ta đến năm 2000”, Tạp chí Triết học, (4), tr.19-22.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), ”Tạo dựng nguồn lực cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (14), tr.18-21.
6. Phạm Tất Dong (1993), "Giáo dục- Nền tảng của chiến lược con người",
Tạp chí Cộng sản, (3), tr.12-14.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn Kiện hội nghị lần thứ 2, Ban chấp
hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp
112
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Phạm Văn Đức (1998), "Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học, (6),
tr.5- 8.
11. Phạm Minh Hạc (Chủ biên, 1996) , Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đến năm
2010”, Tạp chí Cộng sản, tr.7.
13. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Về triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề
và chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm”, Tạp chí Lao động - Xã hội,
(144), tr.2.
14. Nguyễn Văn Hiệu (1997), "Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.17-
25.
15. Đoàn Văn Khái (2000), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
16. Lê Ái Lâm (2000), "Đào tạo nghề cho lực lượng lao động vì sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 47-51.
17. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
18. Cao Văn Lượng (Chủ biên, 2001), Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và sự
phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. C.Mác - Ph Ăng ghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia,
113
Hà Nội.
20. C.Mác - Ph.Ăng ghen (2004), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. Lưu Đình Mạc (1995), Phát triển giáo dục đại học là điều kiện để đảm bảo
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
22. Nguyễn Lê Minh (1999), “Dạy nghề ngắn hạn và việc làm", Lao động - Xã
hội, (III), tr.19.
23. MOLISA-ORSTOM (1998), Tác động của những biến đổi kinh tế đến sự
phát triển nguồn nhân lực, việc làm và khu vực phi kết cấu ở Việt Nam và
Đông Nam Á, NXB Lao động, Hà Nội.
24. Alvin Toffler (1991), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận, Hà
Nội.
25. Nguyễn Cảnh Toàn (9/11/1996), Đào tạo và sử dụng nhân tài, Báo Nhân
dân.
26. Nguyễn Viết Sự (2000), “Chính sách phát triển nhân lực Việt Nam hiện
nay và triển vọng”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (10),
tr.29.
27. Viện Thông tin khoa học xã hội (1995). Con người và nguồn lực con người
114
trong phát triển.