ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ TÂM ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ TÂM ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN THANH PHỐ

HÀ NỘI - 2004

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện,

song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để sự nghiệp CNH, HĐH

thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lự, tiềm lực khoa

học và công nghệ... trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan

trọng.

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được

coi là “chìa khoá" của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luận vào điều

kiện cụ thể của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Phát huy nguồn

lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ

là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" và phát triển giáo dục đào

tạo không chỉ là "Động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH mà còn

là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển

xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững " [17, tr.108 - 109].

Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều

nhiệm vụ trong đó, có nhiệm vụ đào tạo và sử dụng NNL. Nhiệm vụ này vừa

là nhiệm vụ chung của cả nước, vừa là nhiệm vụ của mỗi địa phương.

Cũng như các địa phương khác, Hà Tây trong thời gian qua đã và

đang có những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNL và đã thu

được kết quả nhất định. Song cho đến nay về cơ cấu; chất lượng đào tạo và sử

dụng NNL chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Tình trạng vừa

thừa vừa thiếu NNL trong sử dụng luôn xảy ra.

Để góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn và tìm những lời

giải khoa học đối với việc đào tạo và sử dụng NNL phục vụ tốt quá trình

1

CNH, HĐH ở Hà Tây. Tôi chọn đề tài: “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây” nghiên cứu làm

luận văn thạc sĩ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề NNL đối với CNH, HĐH cho đến nay đã có nhiều công trình

khoa học, nhiều cuốn sách, bài báo nghiên cứu và đăng tải, dưới đây là một số

công trình tiêu biểu:

- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

- Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá của Phan Xuân Dũng, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/1997.

- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

giáo sư, tiến sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của tiến sĩ

Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lý luận chính trị, 8/2002.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước của tác giả Mai Quốc Chánh, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1999.

- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác

giả Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.

Tuy nhiên, do nội hàm của vấn đề quá rộng và phức tạp nên chưa thể

coi những công trình nghiên cứu nói trên là đầy đủ và hoàn thiện, các giải

pháp đưa ra còn rất chung chưa thể coi là hoàn toàn thích hợp khi vận dụng ở

Hà Tây. Xung quanh vấn đề đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây tuy đã được

nghiên cứu và được thể hiện trong một số công trình và bài báo nhưng chưa

2

nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ với tư cách như một đề

tài mang tính độc lập.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích của luận văn:

Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL

trong quá trình CNH, HĐH, đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản

thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH trong thời

gian tới ở Hà Tây.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về NNL, đào tạo và sử dụng NNL

trong quá trình CNH, HĐH.

- Phân tích thực trạng đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo

và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH thời gian tới ở Hà Tây.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH

làm đối tượng nghiên cứu.

* Phạm vi nghiên cứu:

Lấy Hà Tây làm không gian nghiên cứu và giới hạn về thời gian khảo

sát từ 1996 đến nay.

Các giải pháp đề cập trong luận văn là những giải pháp cơ bản nhìn từ

góc độ kinh tế chính trị.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

3

Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng

cộng sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL, về đào tạo và sử

dụng NNL.

* Phương pháp nghiên cứu:

Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng việc sử dụng phương pháp

biện chứng duy vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích và

tổng hợp. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng phương pháp

thống kê định lượng so sánh v.v.

6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn.

* Đóng góp của luận văn:

- Góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đào

tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH.

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo

và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.

* Ý nghĩa của luận văn:

- Kết quả của luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định

sự phát triển NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.

- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy

môn Kinh tế chính trị trong các trường Đại học và Cao đẳng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương 7 tiết.

4

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chương 2: Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây .

Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử

dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời

gian tới ở Hà Tây

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO

VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC

1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn

nhân lực

I.1.1 Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp hoá, là một quá trình tất yếu của lịch sử phát triển xã hội.

Các nước công nghiệp trên thế giới đều đã trải qua quá trình CNH ở những

thời điểm khác nhau với qui mô, tốc độ khác khác nhau, trong những điều

kiện lịch sử KT - XH khác nhau. Xét về mặt lịch sử thì CNH là quá trình diễn

ra trước HĐH, nhưng trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen, tác động

qua lại lẫn nhau, hai quá trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Về

mặt thuật ngữ cho thấy HĐH là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật - công nghệ

và kinh tế đạt trình độ của thời đại ngày nay Nói cách khác, HĐH nền kinh tế

quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế

của đất nước đạt được ngang với trình độ của thời đại, đây chính là khía cạnh

kinh tế - kỹ thuật của HĐH. Tuy nhiên, HĐH không phải chỉ như vậy mà còn

bao hàm cả khía cạnh xã hội, gắn với quá trình xây dựng một xã hội văn

5

minh. Như vậy, quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình KT - XH có quan hệ

biện chứng với nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất cho

việc thực hiện nội dung của quá trình KT - XH và đến lượt mình quá trình KT

- XH lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế kỹ

thuật. Sự phát triển CNH hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn còn là quá trình xây

dựng và phát triển văn hoá trong đó phát triển con người và nguồn lực con

người là nội dung cốt lõi.

Ở nước ta, một nước tiến hành CNH sau, nên CNH phải gắn liền với

HĐH, bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng

kỹ thuật: cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng khoa

học công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại này đã

dẫn tới sự thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Là nước tiến hành

công nghiệp sau nên chúng ta không thể thực hiện theo mô hình CNH phát

triển theo kiểu tuần tự như các nước đi trước, nghĩa là tiến hành với nội dung

căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành HĐH. Vả

lại khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc được sản xuất

trước đây mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến. Với ý

nghĩa trên Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII

và Đại hội Đảng lần thứ IX, nhấn mạnh về con đường CNH rút ngắn đáng kể

về thời gian, vừa có bước đi tuần tự vừa có bước nhảy vọt, muốn vậy CNH

phải gắn liền với HĐH. Đảng ta quan niệm CNH, HĐH là: "Quá trình chuyển

đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý

KT - XH từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ

biến sức lao động cùng với công nghệ và phương tiện, phương pháp tiên tiến

hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công

nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [14, tr. 80].

6

Thực chất CNH, HĐH ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến

hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH nhằm đạt

năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá trình tăng

thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong

nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc

thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững

hiệu quả cao theo định hướng XHCN trong tất cả các ngành, các vùng và các

thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân.

1.1.1.2. Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành khi nghiên cứu về vai

trò của yếu tố con người trong sự phát triển KT - XH. Nguồn nhân lực được

đề cập trên nhiều góc độ khác nhau:

- Theo lý thuyết phát triển, NNL được hiểu theo nghĩa rộng là nguồn

lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận cấu thành của các

nguồn lực, là lực lượng lao động của một quốc gia có thể huy động để tham

gia vào quá trình phát triển KT - XH, đó là bộ phận dân số trong độ tuổi qui

định có khả năng tham gia lao động.

- Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn

(vốn người "Tư bản người"), một thành tố cơ bản của quá trình sản xuất, kinh

doanh. Ngoài ra lý luận về vốn người còn xem xét con người từ quan điểm về

nhu cầu, về các nguồn cho sự phát triển của nó. Đầu tư cho con người được

phân tích tương tự đầu tư vào các nguồn lực vật chất có tính đến tổng hiệu

quả của các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các

đầu tư đó. Cách tiếp cận này được áp dụng một cách phổ biến ở các nước hiện

nay. Theo cách tiếp cận này Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn

người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây

7

con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác

như: vốn bằng tiền, công nghệ, tài nguyên. Việc đầu tư cho con người giữ vị

trí trung tâm trong các loại đầu tư và là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền

vững. Do đó NNL là nguồn vốn đặc biệt, nhất là trong giai đoạn phát triển của

kinh tế tri thức gắn với đặc trưng của lao động trí tuệ.

- Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong

Chương trình cấp nhà nước KX - 07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng

con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực

phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [24, tr.28].

Như vậy, nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất

lượng.

- Về số lượng: nguồn nhân lực phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể

có được của cá nhân và qui định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Ở Việt

Nam hiện nay, Luật Lao động qui định độ tuổi lao động đối với nam từ 15 -

60, đối với nữ từ 15 - 55. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự

phát triển KT - XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa

hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ

dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu

thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển

kinh tế đất nước.

- Về chất lượng, nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh

thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm

chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt:

thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là

phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần

đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí

lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL

8

bởi có nó con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa

học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã

nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua

đầu óc của họ" [32, tr.438].

Từ những phân tích trên cho thấy: nguồn nhân lực là tổng hợp những

con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với tổng thể

các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực. Với cách hiểu này, NNL bao gồm

những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã

hội theo Luật lao động quy định.

1.1.1.3. Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

* Đào tạo nguồn nhân lực:

Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy

đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển

NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc

sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng

nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo và nhiều khi bao

gồm cả khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào

tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và

nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị

cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công

lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và

phát triển nền văn minh loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống

và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp.

Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản

xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật - công nghệ và

văn hoá của đất nước. Có nhiều dạng đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên

môn, đào tạo cơ bản, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập trung, đào

9

tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy

trong nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân

cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc

vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc

tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh

nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá

trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả

cao.

Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp

ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau:

- Nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

- Nhân lực trong lĩnh vực hành chính công.

- Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.

- Nhân lực trong lĩnh vực lao động thuộc các ngành nghề kinh tế, kỹ

thuật.

Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải

đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức

các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng

tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành

nghề theo sự phân công lao động xã hội.

Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động,

dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và

những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành

người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định,

có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ

của quá trình phát triển KT - XH.

10

Đào tạo NNL tạo lên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm

năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù

hợp với yêu cầu phát triển KT - XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,

HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu sau:

- Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc

nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

- Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng và việc

làm phải gắn và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị

trường lao động.

Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với

nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu

cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng.

Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề trường Đại học,

Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường,

lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy

nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào

tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới

của nền sản xuất - xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề

- lành nghề - trình độ cao; đào tạo trình độ trình độ sơ cấp - trung học chuyên

nghiệp - cao đẳng - đại học và sau Đại học.

* Sử dụng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ

thống các yếu tố tổ hợp thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về

chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp,

thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức

lao động, như Mác nói khả năng mà con người có thể thông qua lao động để

11

biến thành hiện thực. Từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH và sự

phát triển KT - XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy

nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang

trạng thái động tức là phải được đem phân bố sử dụng nó một cách có hiệu

quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành

vốn nhân lực.

Sử dụng NNL tức là tiêu dùng sức lao động của con người trong quá

trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu

cầu sản xuất và nhu cầu con người trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất

đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản

xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền

sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT - XH. Bởi vậy sử dụng

NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con

người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát

triển KT - XH.

Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó

phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những

cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào

tạo (đặc biệt là đào tạo nghề).

Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có

thể được xem xét trên các khía cạnh sau:

Một là, nguồn nhân lực được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao

gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và

các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao

động sản xuất. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu

cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.

12

Hai là, con người khi tham gia vào các quá trình phát triển KT - XH

không những chỉ sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động

trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước

vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của lao động trí tuệ của con

người thể hiện ngày càng rõ nét. Dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do

lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất

và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể

khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan

trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của

NNL qua đào tạo.

Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã

và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và

việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình

phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển việc sử dụng lao động theo

chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước

chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và

trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta vẫn cần thiết

phải sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu.

Nói tóm lại, để khai thác, phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải

căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT - XH

trong từng thời kỳ của quốc gia.

1.1.2. Mối quan hệ tác động giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và NNL có mối quan hệ tác động qua lại

lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối

quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao

13

giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể

của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân

loại, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con

người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự

nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện:

1.1.2.1. Sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến đào tạo và sử

dụng nguồn nguồn nhân lực

Thứ nhất: Đối với đào tạo nguồn nhân lực

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời

đòi hỏi rất nhiều ở Giáo dục đào tạo NNL. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác

định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp

được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các

nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải

có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt

phải có NNL trình độ cao.

- Trong suốt tiến trình CNH, HĐH một mặt bao giờ cũng kéo theo và

đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua

đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có

trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL.

Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên

một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không

đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử

dụng những phương tiện đó nữa” [32, tr. 474].

- Mặt khác, CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết để cho định

hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ:

+ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để

cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ

14

của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất

thiết phải tính đến.

+ Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH, HĐH, sự biến đổi về kinh

tế, kỹ thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL

và đòi hỏi NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất luơng cao.

+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá con là cơ sở quan trọng cho việc thực

hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Điều đó

tác động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH, HĐH đất

nước.

Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, nhanh chóng đổi mới đưa

kỹ thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến, thực hiện chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, công

nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng tỷ trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng

và số tuyệt đối lao động công nghiệp và dịch vụ tăng. Đặc biệt CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn đòi hỏi vệc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu

về chất lượng mà ngày càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng,

qui mô, cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp, nông

nghiệp, dịch vụ và cho các lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở

nông thôn. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao

động và sức cạnh tranh của lao động nước ta. Vì vậy việc đào tạo NNL phải

làm tốt công tác dự báo, phải điều chỉnh qui hoạch đào tạo; bồi dưỡng thường

xuyên NNL bao gồm cả đào tạo CĐ ĐH, THCN và đào tạo nghề với các cấp

trình độ bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao cho các ngành, các lĩnh vực

KT - XH để khắc phục sự bất cập về trình độ, qui mô, cơ cấu của NNL hiện

nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghệ hiện đại mới. Vấn đề này đã được

nêu trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6: "Điều chỉnh cơ cấu đào tạo,

15

tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hoá một số trường

dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử

dụng công nghệ mới và công nghệ cao" [18, tr.129].

Như vậy, vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất

lượng vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng, qui mô, cơ cấu trình độ và thực tiễn

phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau, trên địa bàn lãnh

thổ khác nhau. Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực

tiễn; nhu cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối "rất thiếu nhưng

rất thừa nhân lực hiện nay" như định hướng của Hội nghị Trung ương 6, khoá

IX: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục. Phát triển qui mô Giáo dục

cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu

đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT - XH, đào tạo với sử dụng"

[18, tr. 126].

Thứ hai: Đối với sử dụng nguồn nhân lực.

Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển. Khi xác định

chiến lược phát triển đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những

nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước là con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất và tiềm lực

khoa học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công

nghệ, kinh nghiệm quản lý). Nhưng các nguồn lực đó tự nó không thể tham

gia vào các quá trình KT - XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Để thực

hiện được mục tiêu của CNH chúng ta không thể không khai thác, sử dụng

phát huy tối đa nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con

người mới có thể tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm

năng thành hiện thực. Hơn nữa, nguồn lực con người không chỉ quyết định sử

dụng hiệu quả việc khai thác các nguồn lực tự nhiên mà còn góp phần tạo ra

các nguồn lực mới. Như Mác - Ăngghen đã nói: "Những con người có năng

16

lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ

hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng các

nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội..." [32, tr.474-475].

Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan

trọng nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm

năng của nó đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng

hơn. Điều này đã được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các

nước trong khu vực và thế giới. Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay

là với một nguồn lực lao động dồi dào nhưng còn có những điểm bất cập về

trình độ, cơ cấu, sự phân bổ lao động trong các ngành, vùng chưa hợp lý

nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu quá xa về kinh tế kỹ thuật bởi vậy cần

phải có chính sách phân công lao động hợp lý để có thể thu hút được tất cả

lực lượng lao động xã hội, tạo điều kiện cho mọi người đều có việc làm, có cơ

hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Lực lượng lao động xã hội phải được xem như một tổng thể nằm trong một cơ

cấu lao động thống nhất. Ở đó, mỗi cá nhân người lao động được sử dụng

đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật, đúng công việc mà mình yêu thích theo

hướng toàn dụng lao động. Mặt khác dưới sự tác động của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng, với ý nghĩa

đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở thành yêu cầu cơ bản

nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất, hiệu quả lao động

cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ phân công và hợp tác lao động

quốc tế ngày càng mở rộng, việc sử dụng NNL càng mang tính mở rộng, tính

quốc tế hoá cao. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài ở mỗi quốc gia

trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại, cơ cấu ngành nghề, trình độ

chuyên môn, do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh

tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động. Xuất

17

khẩu lao động - một mặt nhằm giải quyết việc làm, giảm bớt những căng

thẳng về lao động dư thừa trong nước, tăng thu nhập cho người lao động và

tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước và mặt khác, đây còn là con đường để

đào tạo nguồn lao động cho quốc gia. Nên nhà nước cần có chính sách và sự

quan tâm thích đáng cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế

nguồn lao động dồi dào phục vụ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Như vậy khai thác sử dụng, phát huy tối đa và hiệu quả NNL là điều kiện

quan trọng trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói

chung và quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây nói riêng hiện nay đòi hỏi phải đào

tạo NNL chất lượng cao và khai thác sử dụng một cách hiệu quả NNL đó mà

CNH, HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở

nước ta.

1.1.2.2. Sự tác động của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đối với quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Nguồn nhân lực, nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng

nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của việc nhận thức, lĩnh hội và

sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc

đẩy CNH, HĐH và phát triển KT - XH như Lênin nói: "Nếu không có các

chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất

thì không thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN" [29, tr.362]. NNL, đặc

biệt là NNL chất lượng cao, một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH,

HĐH, được Lênin viết: "Việc điện khí hoá không phải do những người mù

chữ thực hiện được mà chỉ biết chữ thôi thì không đủ... điều đó chỉ có thể

thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học

vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi" [29,

tr.364- 365]. Theo Lênin cái quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới

18

đối với xã hội cũ là năng suất lao động bởi vậy muốn đạt được năng suất lao

động cao thì cần phải thực hiện sự phát triển NNL Từ ý tưởng đó có thể thấy

để nâng cao năng suất lao động trước hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của

nền giáo dục và văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân tiếp đến phải

nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động, năng cao tài khéo léo và trình

độ thành thạo của NNL. Trên cơ sở nhận thức lý luận và thực tiễn Đảng ta đã

chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH đất nước là

nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất, tiềm lực

khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước nhưng trong các nguồn lực đó

thì nguồn lực con người là quan trọng nhất". Nguồn lao động dồi dào, con

người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền tảng văn

hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là

nguồn lực quan trọng" [11, tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực

lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải

pháp đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH. Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu

thế hơn hẳn các nguồn lực khác, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh nên nó

là nguồn lực không bao giờ cạn như một tác giả đã viết chỉ có con người và tri

thức của con người là không bao giờ cạn: "Tri thức có tính chất lấy không bao

giờ hết " [1,tr.41].

Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: "Phương hướng chủ

yếu phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa

học công nghệ đào tạo để nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài" [13, tr.28]. Đến Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII

Đảng ta nhấn mạnh rằng: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát

triển Giáo dục đào tạo, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ

bản cho việc phát triển nhanh và bền vững" [14, tr.19].

19

Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình

CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ

thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi

nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hương kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã

chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động chân tay trong sản

phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của

quá trình phát triển. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan

hệ giao lưu quốc tế hiện nay, các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ

thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, khắc phục sự thiếu vốn

qua con đường nhập khẩu hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân

hàng, quỹ phát triển của thế giới, nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự

yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao động hay vay mượn khả năng sáng tạo

của con người. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều

quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL qua đào tạo. Tại Đại hội IX Đảng

Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh

tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và

công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" [17, tr.91].

Tóm lại, những quan điểm trên cho thấy NNL qua đào tạo có vai trò

quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của CNH, HĐH và

sự phát triển KT - XH. Vì vậy phải chăm lo đào tạo NNL đặc biệt cần quan

tâm tới việc nâng cao chất lượng và trình độ NNL để hướng tới sự phát triển

nền kinh tế tri thức.

Cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong

những hướng chính của đầu tư phát triển; Giáo dục đào tạo phải thật sự trở

thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực

con người kịp thời và phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. Xét một cách tổng thể

việc đào tạo NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao

20

động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý

về lao động đã đào tạo trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết phải tạo ra được

những con người có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương

vị công tác theo sự phân công lao động xã hội. Đó là những con người vừa có

tài vừa có đức. Theo tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo

NNL phải làm thế nào để người học sau khi được đào tạo phải được trang bị

kiến thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo thực

hành, có năng lực hợp tác trong mọi hoạt động, có năng lực nhận thức, vận

dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách

của Đảng, biết lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các hoạt động của

mình...đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, biết đặt lợi ích của cộng đồng

xã hội lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, ý

thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc, ý chí vươn lên để thoát khỏi

nghèo nàn lạc hậu.

1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và vai trò đào tạo và sử dụng nguồn

nhân lực

1.2.1. Nội dung của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

1.2.1.1. Nội dung đào tạo nguồn nhân lực

Nước ta bắt đầu thực hiện CNH, HĐH với một xuất phát điểm thấp. Từ

một nước nông nghiệp lạc hậu (72 % dân số làm nông nghiệp, tỷ trọng nông

nghiệp chiếm 50 % GDP) chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người. Tốc

độ nâng cao dân trí ở nước ta trong nhiều năm qua còn rất chậm. Với mặt

bằng dân trí thấp thì số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như

số người có học vấn đại học và sau đại học còn ít, phần đông số người lao

động chưa qua đào tạo về nghề nghiệp. Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp

thu khoa học công nghệ mới nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Mặt khác do

tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng

21

kinh tế tri thức với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao

động giản đơn đang mất dần ý nghĩa nhường chỗ cho lao động trí tuệ. Do đó

nội dung giáo dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được

xác định theo hướng "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về

chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng

đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá,

quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tự hoàn thiện nhân cách,

kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý

trí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc " [16, tr.114]. Như đã biết, sự

nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng, phong

phú cả về nội dung và phương thức đối với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện

nay. Nội dung đào tạo NNL ở nước ta không chỉ là những kiến thức về khoa

học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức,

truyền thống dân tộc. Nội dung các tri thức cấu thành chương trình đào tạo,

các loại nhân lực cũng phải bao hàm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, tiếp

cận các trí thức hiện đại và tính tới sự phát triển. Đào tạo chuyên môn, trình

độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để tạo điều kiện cho họ có khả

năng lao động, khả năng đảm nhận một công việc nào đó trong xã hội. Còn

đào luyện "Đức" chính là tạo ra cái gốc, yếu tố cơ bản đem lại sức khoẻ về

tinh thần để làm người có văn hoá, có tài. Đến lượt nó lại trở thành động lực

thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu quả trong hoạt

động của họ, giúp họ biết hợp tác với ai, biết làm cái gì, làm vì ai và sẽ làm

như thế nào. Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp bậc

học với các mức độ khác nhau. Nhưng tác giả quan tâm chú ý đến nhiều hơn

tới bậc đào tạo trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo đại học, cao đẳng

nên đã phân một cách khái quát qua các cấp bậc sau đây:

22

Thứ nhất: Đối với các cấp bậc học phổ thông đặc biệt là trung học phổ

thông.

Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân -

thiện - mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn

cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn

trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả

năng của mình và yêu cầu của xã hội.

Thứ hai: Đối với các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề - cao

đẳng - đại học đào tạo như đã nêu ở phần trên là quá trình kết hợp giữa đào

tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề

nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các

lĩnh vực hoạt động KT - XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong

hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau:

- Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý

tưởng Cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ

thống các môn học chung.

- Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành

trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt

chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du

lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và

phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp trục tự hoàn thiện về

nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường;

biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho

nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng

lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của

23

năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học; khả năng thích nghi và khả

năng biến tri thức thành kỹ năng lao động.

- Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo

điều kiện cho sinh viên trong việc giao lưu, học hỏi, tiếp cận các tri thức khoa

học hiện đại trên thế giới.

- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua

các giờ thực hành, các đợt xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo, các

cuộc gặp gỡ, trao đổi và học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực

và nghề nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành

nghiệp vụ được đào tạo. Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để

sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên

ngành đào tạo mình được đảm nhận một cách có hiệu quả. Để chuẩn bị NNL

chất lượng cao cho sự phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên

cập nhật các kỹ năng mới, nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông, kỹ

năng giải quyết, xử lý các vấn đề sự cố phát sinh, kỹ năng làm việc theo

nhóm...

- Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện

ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đạo đức lương tâm nghề

nghiệp, văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà

người lao động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội.

Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ

tìm hiểu về pháp luật, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán từng vùng

của nước nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với

nước họ và tập quán quan hệ quốc tế.

24

Thứ ba: Đối với bậc đào tạo nhân tài.

Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối

năm thứ nhất, hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại

học sau đó tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành

nghề quan trọng cho đất nước. Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này

phải mang tính hiện đại, nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư

duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu, học tập và làm việc độc lập cũng như

hợp tác, đồng thời hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc

dự đoán, nhận định năng lực và khai thác được tài năng của đối tác. Tuy

nhiên, cũng không thể bỏ qua việc đào tạo ra yếu tố gốc là đạo đức. Như Bác

Hồ của chúng ta từng dạy "Có tài mà không có đức thì vô dụng. Có đức mà

không có tài thì làm việc gì cũng khó " [30, tr.252-253].

Tóm lại, nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát

triển của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ

đức, tài, năng động sáng tạo, thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế.

1.2.1.2. Nội dung sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo

Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những

đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những

yêu cầu mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL. Ngày nay ở hầu

hết các quốc gia con người được coi là nhân tố trung tâm của quá trình sản

xuất nên đã diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thức và giải pháp tối ưu sử

dụng NNL. Tuy nhiên do đặc điểm tình hình KT - XH khác nhau nên việc xác

định nội dung, giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia. Song xu

hướng phổ biến và cơ bản đều coi con người là nguồn lực cơ bản để tăng

trưởng và phát triển kinh tế. Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao

25

gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm, phân bố sử dụng hợp lý lực lượng lao

động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc tạo ra những kích

thích và động lực của lao động để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả.

Để khơi dậy và phát huy tiềm năng người nói chung việc sử dụng NNL phải

được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho

người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và

được hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động mà họ sáng tạo ra. Hay có thể nói

vấn đề sử dụng NNL được đặt trong quan hệ với vấn đề đào tạo NNL. Trong

đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL, là cơ sở, điều kiện để sử

dụng NNL có hiệu quả. Đến lượt việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ tạo điều

kiện mở rộng, cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để nâng cao chất lượng

NNL. Trong các hình thái KT - XH khác nhau, NNL của một quốc gia được

biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người lao động đang

có khả năng phục vụ cho xã hội. Trong nguồn lao động đó có những người đã

qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo; những người lao động sản

xuất kinh doanh, những nhà quản lý, khoa học, những người làm công tác

dịch vụ, văn phòng... Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng NNL,

trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý, khai thác sử dụng hết lực lượng lao

động, giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các

biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động; kết hợp khai thác sử dụng

với đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng, nâng cao chất

lượng việc làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng. Trên cơ sở đó

làm tăng thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao

động. Sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta nói chung và ở Hà Tây nói

riêng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc

với mức độ lớn vào việc sử dụng NNL theo hướng toàn dụng lao động, hợp lý

và hiệu quả; đặc biệt là khai thác hiệu quả NNL đã qua đào tạo.

26

Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không

phải chỉ dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều

có việc làm mà cần phải chú ý phân bố sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp

về trình độ trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh

tế theo hướng CNH, HĐH; trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp - sản

xuất kinh doanh (theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp

ngày càng giảm xuống) và trong các vùng (thành thị - nông thôn, các vùng

kinh tế trọng điểm) thuộc lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng cần phải tính đến

tỷ lệ lao động trong tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu

không có sự phân bố lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có

đông đảo cũng không thể trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là

gánh nặng của nền kinh tế.

Ngoài những vấn đề trên việc toàn dụng lao động còn phải tính tới khả

năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động

có thể làm việc. Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhà nước

cũng cần phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển

các ngành nghề để có thể tạo nhiều việc làm trong đó có nhiều việc làm có

chất lượng để bảo đảm cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn

chế tình trạng bỏ việc một cách tuỳ tiện.

Trên cơ sở sự phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia

hoạt động kinh tế, nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính

đến việc tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động, các biện pháp kích

thích tới người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình.

Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người đã ngày

càng cho thấy rõ rằng: con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không

bao giờ cạn. Bởi vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động, các

cơ sở tuyển dụng lao động cần kết hợp một cách linh hoạt, mềm dẻo các hình

27

thức và nguyên tắc phân phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia

các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ

lệ lao động được đào tạo. Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo,

bồi đắp NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai.

Tóm lại, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả

các vấn đề: toàn dụng lao động, phân bố hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và

bồi đắp NNL.

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

1.2.2.1. Nguồn và chất lượng đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực

Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng cơ sở tạo ra nguyên

liệu cho giáo dục đào tạo NNL, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp

tạo ra NNL. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về

số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến qui mô và chất lượng

của đào tạo NNL. Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có

nguyện vọng dự thi vào các trường nghề, trung học chuyên nghiệp và cao

đẳng, đại học quá ít hoặc quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây

khó khăn cho việc tuyển lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến

việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự

nghiên cứu để nắm bắt được tri thức mới, nâng cao trình độ tay nghề.

1.2.2.2. Trình độ cơ sở vật chất và tài chính ở các cơ sở đào tạo

Cơ sở đào tạo NNL đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất

nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNL thực

hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất.

Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và

quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở

mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật

28

cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có

chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế

đã chứng minh rằng để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu

điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc

tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với

các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần

theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu

không có nguồn tài chính để bổ sung các trang thiết bị hiện đại cho sinh viên

thực hành sẽ không đáp ứng được sự phát triển trình độ phù hợp với xu hướng

biến đổi của khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu

phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức.

1.2.2.3. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý

Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không

có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo

viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy

người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng,

trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết

quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của

người thầy có tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của

họ. Muốn có trò giỏi (NNL có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực

tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được.

Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề

cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh

nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành

nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm

bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải

chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho

29

họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo

viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả,

ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với

năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế

cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng

bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến

các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người

đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho

sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy,

hoạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở

vật chất... Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều

ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh

hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo NNL.

Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào

trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được

quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho

nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công

việc và ý thức trách nhiệm cao.

1.2.2.4. Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang

thiết bị kỹ thuật - công nghệ trong sản xuất kinh doanh

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện qui hoạch

phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động,

đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao

động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và

nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh

tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các

30

hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế

địa phương... đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu

lớn về đào tạo NNL. Chiến lược phát triển KT - XH thời kỳ 2001 - 2010 của

nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tác, xây dựng

một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ

trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn

theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá

để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du

lịch sớm trở thành mũi nhọn...

Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch

vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu

lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000

xuống 50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công

nghiệp, dịch vụ nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động

được đào tạo theo ngành và cấp trình độ phù hợp với định hướng phát triển

kinh tế nêu trên. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra

những thách thức đối với NNL và do đó trực tiếp tác động tới đào tạo NNL cả

về qui mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp

lý NNL trong quá trình CNH, HĐH.

* Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng

ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có NNL phù hợp

để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao

hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng

tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản

nhiều nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ

31

lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động

không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ

công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động

đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chủng loại cán bộ kỹ thuật và công nhân

lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện

nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo NNL tốt hơn;

đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập

trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các

chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên

và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó

phải đào tạo NNL để phát triển. Việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu

nâng cao chất lượng mà còn phải có sự kết hợp với việc sử dụng NNL. Việc

phân bố, sử dụng NNL cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp

xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ

tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy "Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có

tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc" [30, tr.274-275].

1.2.2.5. Thị trường lao động và cơ chế chính sách tuyển dụng

* Việc hình thành và quản lý tốt thị trường sức lao động hiện nay có

vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng NNL. Nó cung cấp thông tin

cho đào tạo NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về qui mô, cơ cấu,

chất lượng cho CNH, HĐH đồng thời thông qua thị trường sức lao động, các

cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của

mình. Thông qua thị trường sức lao động, người lao động tìm được công việc

phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép

nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; xác lập được quan hệ cung - cầu lao động,

giảm dần sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục được tình trạng

lãng phí trong đào tạo và sử dụng NNL.

32

* Cơ chế chính sách tuyển dụng nguồn nhân lực: đây là yếu tố có ảnh

hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng NNL. Trong cơ

chế cũ nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL, tuyển dụng,

sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm

nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn

khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân, triệt tiêu động lực

thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích được họ

nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà

không chú trọng đến hiệu quả lao động. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao

động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở

lên cồng kềnh, kém hiệu lực. Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm

cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc

như nói trên đã không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo

và dễ rơi vào tình trạng không đúng người đúng việc, hiệu quả lao động thấp.

Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động

nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm.

Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc

phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời

thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực,

người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình

độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được

nâng cao hơn nữa về chất. Trong thời gian qua, với đường lối đổi mới toàn

diện nền kinh tế, chính sách tuyển dụng NNL ở nước ta cũng được đổi mới

căn bản. Chế độ tuyển dụng và sử dụng lao động theo biên chế suốt đời trước

đây được chuyển sang hình thức hợp đồng lao động có thời hạn. Hình thức

tuyển dụng "có ra có vào" này đã kích thích tính năng động sáng tạo của

người lao động, khích thích họ không ngừng vươn lên nâng cao trình độ để

33

giữ được việc làm. Cơ chế này còn có tác dụng giúp các đơn vị sản xuất kinh

doanh được quyền chủ động trong tuyển dụng, sử dụng và sa thải lao động

nên có điều kiện để tuyển lựa, sắp xếp lao động theo yêu cầu của công việc và

phù hợp với năng lực riêng của mỗi người do đó một mặt làm tăng hiệu quả

sử dụng lao động còn mặt khác góp phần điều chỉnh quan hệ giữa cầu với

cung (đào tạo NNL).

Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một

nhân tố có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng

NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.

1.2.3. Vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, đội ngũ công nhân kỹ

thuật có đủ đức tài, có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt

được đặt ra trong quá trình CNH, HĐH. Để khai thác tiềm năng to lớn của

con người Việt Nam, cần tiếp tục triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm

phát triển giáo dục và đào tạo, mà khâu then chốt là đào tạo NNL chất lượng

cao và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản

xuất và đời sống. Có thể nói đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo

có vai trò to lớn về nhiều mặt:

Thứ nhất: Ở nước ta, đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề góp phần

quan trọng tạo ra lực lượng lao động và chuyên gia giỏi về công nghệ, kỹ

thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước nói chung và ở Hà

Tây nói riêng. Với những kiến thức cơ bản, kỹ năng nghề nghiệp và phương

pháp tư duy sáng tạo họ không chỉ là những người tổ chức thực hiện các hoạt

động trong quá trình sản xuất mà trong quá trình đó họ còn là những người

lãnh đạo và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến đồng thời sáng tạo ra những

phát minh khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật mới đáp

ứng nhu cầu tăng khả năng sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế. Mặt

34

khác việc thu hút sử dụng hợp lý NNL với các biện pháp kích thích người lao

động làm cho họ không chỉ lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao

mà còn say mê nghiên cứu tìm tòi sáng tạo để tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật

công nghệ mới giúp giảm nhẹ sức lao động của mình trong quá trình sản xuất.

Như vậy với quá trình đào tạo NNL, quá trình sử dụng hợp lý NNL làm cho

quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ không ngừng diễn ra và

lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển.

Thứ hai: Đào tạo NNL có chất lượng và sử dụng nó có hiệu quả sẽ tác

động đến phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động từ đó đẩy

mạnh chất lượng và nhịp độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng

CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch đó được thực hiện nhờ có sự đóng góp to

lớn của đào tạo và sử dụng NNL. Nhờ đẩy mạnh hoạt động Giáo dục, đào tạo

NNL và khai thác sử dụng NNL trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế và cơ cấu

lao động ở nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng, mặc dù tốc độ còn

chậm. Về cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp - công nghiệp

dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tỷ trọng của công nghiệp

trong GDP ngày càng tăng lên và tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống thể

hiện qua bảng sau:

Bảng 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP nước ta thời kỳ 1995 - 2003.

Đơn vị tính: %

TT Ngành Năm

1995 2000 2001 2002 2003

1 Công nghiệp 27,8 36,73 38,13 38,55 40,5

2 Nông nghiệp 27,2 21,7 23,24 22,99 24,3

3 Dịch vụ 41 38,63 38,46 37,81 39,1

Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].

35

Quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành; đòi hỏi đẩy nhanh chuyển

dịch cơ cấu lao động theo ngành nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát

triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH giải quyết việc làm cho người lao động.

Đánh giá quá trình này, hiện nay có số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Kế

hoạch - Đầu tư và Bộ Lao động - Thương binh xã hội. Theo số liệu của Tổng

cục Thống kê và Bộ Kế hoạch - Đầu tư thời kỳ 1991 - 2003 tình hình chuyển

dịch cơ cấu lao động diễn ra theo hướng tích cực phù hợp với chuyển dịch cơ

cấu kinh tế (theo bảng sau):

Bảng 1.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở nước ta

thời kỳ 1991 - 2003.

Đơn vị tính: %

TT Ngành Năm

1995 2000 2003 1991

1 Công nghiệp 13,2 13,7 18,45 13,6

2 Nông nghiệp 70,1 67,2 59,04 72,6

3 Dịch vụ 16,7 19,1 21,5 13,8

Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].

Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong cơ cấu lao động cũng có sự đổi mới.

Năm 1996 lao động qua đào tạo mới có 13% đến năm 2000 đã đạt 20% và

đến năm 2003 khoảng 21,5%. Về cơ cấu trình độ lao động: từ năm 1996 đến

2000 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lực lượng

lao động tăng từ 12,31% lên 15,53%. Cơ cấu trình trình độ cũng có sự thay

đổi mặc dù còn chậm: năm 1996 công nhân kỹ thuật 4,38% Cao đẳng Đại học

2,3% Sơ cấp 1,77% Trung cấp 3,84. Đến năm 2000 tỷ lệ trong cơ cấu tương

ứng là: 5,4 - 1,41 - 4,83 và 3,89.

Thứ ba: Đào tạo NNL và sử dụng hiệu quả NNL đó góp phần thúc đẩy

tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu như trong những năm 50 - 60 của thế

36

kỷ XX tăng trưởng kinh tế chủ yếu do CNH, sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ

sở vật chất là khâu chủ yếu cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì vài thập

niên cuối thế kỷ XX trở lại đây chỉ có một phần nhỏ thuộc về tăng trưởng

kinh tế được giải thích bởi khía cạnh đầu vào là vốn; phần quan trọng gắn với

chất lượng của lao động. Cho nên việc đầu tư cho con người sẽ là yếu tố góp

phần rất quan trọng nâng cao năng suất lao động. Và được coi là là đầu tư cho

phát triển. Garry Bec Ken (người Mỹ) nói đại ý rằng: Không có sự đầu tư nào

mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào NNL, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục.

Thực tế lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một quốc gia nào

đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ

thông. Việt Nam tuy là nước đang phát triển nhưng những kết quả về KT -

XH trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Theo đánh giá của tổ chức

ngân hàng thế giới Việt Nam đã duy trì và đạt được tỷ lệ tăng trưởng khá cao

và ổn định. Từ năm 1996 đến năm 2000 tốc độ tăng tổng sản phẩm trong

nước bình quân mỗi năm 7,5%. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước đã

gấp 2,07 lần so với năm 1990. Từ năm 2001 đến nay tỷ lệ tăng trưởng vẫn

duy trì ở mức độ bình quân hơn 7%.

Bảng 1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2003.

Đơn vị tính: %

Năm 1996 - 2000 2001 2002 2003

Tỷ lệ 7,5% 6,9% 7,04% 7,24%

Nguồn: Niên giám thống kê [7].

Nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế, bộ mặt xã hội không ngừng được

cải thiện, chỉ số HDI được nâng lên đáng kể. Năm 1994 Việt Nam xếp thứ

116/173 nước với chỉ số 0,514, năm 1995 chỉ số tăng lên 0,649, năm 2000

tăng lên 0,671 xếp thứ 108 và đến năm 2002 Việt Nam vẫn xếp thứ 108 với

37

chỉ số 0,69. Những kết quả đó tuy chưa cao nhưng đã phản ánh rất rõ ràng

chiến lược phát triển NNL của Đảng ta là đúng đắn.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy rằng: trong

quá trình phát triển KT - XH nói chung và CNH, HĐH nói riêng, đào tạo và

sử dụng NNL có vai trò rất quan trọng, song điều đó không có nghĩa một

quốc gia có lực lượng dân số đông thì sẽ có lợi thế và gặt hái được nhiều

thắng lợi và ngược lại một quốc gia có lực lượng dân số ít thì không giành

được thắng lợi mà vấn đề ở đây còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đã đào

tạo NNL như thế nào và đã khai thác sử dụng nó ra sao. Bởi vậy để phát triển

KT - XH ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói chung và ở Hà

Tây nói riêng cần phải coi trọng vấn đề đào tạo và sử dụng NNL phù hợp với

điều kiện đặc thù của mình.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY

2.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hƣởng đến đào tạo và sử dụng

nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây

2.1.1. Tổng quan đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở Hà Tây

Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ với diện tích 2.193 km2,

nằm trọn trong nội địa, không có đường biên giới quốc gia và đường biển. Hà

Tây giáp với 5 tỉnh và thành phố. Hà Nội ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Đông,

Hà Nam ở phía Nam, Hoà Bình ở phía Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ ở phía

Tây bắc. Hà Tây nằm kề bên khu tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh. Hà Tây vừa là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội với các

đường giao thông chiến lược: quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32, đường cao tốc

Láng - Hoà Lạc, đường thuỷ trên sông Hồng, vừa là lá phổi xanh của Hà Nội.

Địa hình Hà Tây phân thành hai vùng khá rõ rệt. Vùng đồng bằng ở

phía Đông chiếm 70% diện tích toàn tỉnh mang đặc trưng vùng đồng bằng

38

Bắc bộ có ô trũng đê viền. Vùng đồi núi phía Tây chiếm 1/3 diện tích, bao

gồm phần lớn các huyện: Ba Vì, thị xã Sơn Tây, rìa tây của huyện Thạch

Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức, liên kết thành một dải chạy dài theo

hướng Tây bắc - Đông nam. Trừ đỉnh Vua núi Ba Vì cao 1287m và đỉnh núi

Thiên Trù (Hương Sơn - Mỹ Đức) cao 378 m còn đại bộ phận là vùng đồi núi

thấp. Hà Tây có nhiều khoáng sản quí, tập trung nhiều nhất ở huyện Ba Vì

như vàng, đồng, pyrít, cao lanh, nước khoáng... Ngoài ra có thể kể tới đô lô

nít (Quốc Oai); đá vôi ở Mỹ Đức, Chương Mỹ, đá granít ốp lát (Chương Mỹ);

đất sét (Chương Mỹ, Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai); than bùn (Mỹ Đức,

Sơn Tây, Quốc Oai, Chương Mỹ).

Rừng ở Hà Tây không nhiều (7,6% diện tích) với hai khu vực chủ yếu

vườn quốc gia Ba Vì và khu rừng văn hoá gắn với cảnh đẹp chùa

Hương thuộc Nhà nước quản lý.

Hà Tây có hệ thống hồ tự nhiên và nhân tạo như: Đầm Long, Suối Hai,

Đồng Mô, Ngải Sơn...

Hà Tây có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch như: Ao Vua, Khoang

Xanh, Suối Tiên, Thác Mơ, Suối Hai, Đồng Mô, chùa Hương, chùa Đậu, chùa

Tây Phương, chùa Trăm Gian, chùa Trầm, đền Và, chùa Mía, thành cổ

SơnTây

Bên cạnh cảnh quan, di tích du lịch kể trên, Hà Tây còn nổi tiếng là đất

trăm nghề. Ở Hà Tây hiện nay đã có 1.116 làng nghề và theo dự kiến năm

2004 sẽ công nhận thêm 40 làng nghề nữa; trong số các làng nghề nêu trên có

160 làng được công nhận là làng nghề truyền thống đạt tiêu chuẩn.

Hà Tây với số dân 2.489.200 người, là tỉnh có dân số lớn nhất đồng

bằng sông Hồng. Tốc độ tăng dân số tự nhiên cao (1,3% năm). Gần 90% dân

39

số sống ở nông thôn: 2.256.464 người. Có 9 xã đồng bào dân tộc với số dân

gần 30.000 người. Tỷ lệ dân số lao động/tổng số dân hơn 60%, toàn tỉnh có

1,3 triệu lao động. Hàng năm số lao động bổ sung thêm khoảng 2,5 đến 3 vạn

người. Số lao đông trong độ tuổi có xu hướng trẻ hoá. Lao động trong khối cơ

quan quản lý nhà nước phần đông đã tốt nghiệp đại học. Trong khối sản xuất

kinh doanh cũng có nhiều kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ thuật, quản lý kinh

tế. Song nhìn tổng thể có thể nói: hạn chế của lao động Hà Tây là thiếu công

nhân kỹ thuật lành nghề, không qua trường lớp đào tạo; chủ yếu làm việc

bằng kinh nghiệm, tự học hỏi hoặc chỉ qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, cấp

tốc, thiếu lao động có kiến thức và kinh nghiệm quản lý nhất là quản lý công

nghiệp, du lịch, kinh tế đối ngoại. Lao động ở nông thôn đang thiếu việc làm,

quỹ thời gian làm việc chỉ khoảng 70%, phổ biến là thuần nông. Lao động

thành thị chưa có nghề (12%); nghề nghiệp chưa ổn định (15%). Toàn tỉnh có

khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm [39].

Trên địa bàn Hà Tây hiện nay tất cả các xã đều có trường tiểu học.

100% số xã được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học và xoá nạn mù chữ.

Toàn tỉnh có 59 trường phổ thông trung học. Các huyện đều có các Trung tâm

Giáo dục thường xuyên và Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp. Trên địa bàn Hà Tây

có 8 trường đại học và cao đẳng; 9 trường trung học chuyên nghiệp và dạy

nghề; một trung tâm dịch vụ việc làm thuộc liên đoàn lao động của tỉnh.

Hà Tây có mạng điện quốc gia đã phát triển tới tất cả các huyện và hầu

hết các xã (97% số xã và 95% số hộ có điện). Hệ thống điện nông thôn chủ

yếu dùng cho sinh hoạt và thuỷ lợi; sử dụng cho công nghiệp và dịch vụ chưa

nhiều. Trong những năm gần đây, tỉnh Uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã có

nhiều nghị quyết, chỉ thị, và các chương trình về công tác đào tạo nghề như:

Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, thứ IX về việc nhân rộng thêm làng

nghề, tạo nghề mới và đầu tư, mở mang dạy nghề. Chương trình 34 và Chỉ thị

40

04 về đẩy mạnh công tác đào tạo nghề. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân

tỉnh về việc thành lập các quĩ khuyến nông, khuyến công. Đặc biệt để nâng

cao NNL trình độ cao, Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã phê duyệt cho một số cơ sở

đào tạo trong tỉnh mở các lớp đào tạo liên kết với các trường đại học của

Trung ương.

2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn

Từ tổng quan những đặc điểm tự nhiên, KT - XH, môi trường thể chế

có thể thấy nó chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi song cũng không ít những

khó khăn đối với việc đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây.

2.1.2.1. Về thuận lợi

- Hà Tây là tỉnh có tiềm năng về NNL, đất đai, tài nguyên nên có nhiều

lợi thế cho sự phát triển nông nghiệp và các ngành nghề, thuận lợi cho chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH như phát triển công nghiệp, vật

liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, phát triển du lịch và làng nghề, do đó

mở ra khả năng lớn cho việc khai thác sử dụng NNL.

- Sự quan tâm của tỉnh Uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đến sự phát triển

giáo dục - đào tạo để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH. Tại

Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IX, tỉnh Uỷ Hà Tây đã xác định: tiếp tục thực

hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.

Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục toàn diện, đa dạng hoá các

loại hình đào tạo, mở rộng dạy nghề, đào tạo đội ngũ công nhân có chất lượng

tay nghề cao phục vụ CNH, HĐH. Năm 2002 được xác định là năm Giáo dục

của Hà Tây [20, tr.48- 49].

- Trong những năm gần đây, kinh tế Hà Tây bước đầu có sự khởi sắc

cùng với sự thay đổi về nhận thức của người dân về nghề nghiệp, do đó số

người có nhu cầu học nghề tăng lên, đối tượng học nghề đa dạng ở nhiều độ

41

tuổi khác nhau, ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo nghề được tăng lên,

việc xã hội hoá giáo dục cũng như đào tạo nghề bước đầu có kết quả.

- Hà Tây là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội nên gần các trường đại học,

cao đẳng của quốc gia, các viện nghiên cứu và gần tam giác tăng trưởng kinh

tế của đồng bằng Bắc bộ nên nhận được nhiều ảnh hưởng theo chiều thuận lợi

đối với đào tạo và sử dụng NNL.

2.1.2.2. Khó khăn

- Hà Tây là tỉnh đông dân, số người trong độ tuổi lao động nhiều (1,3

triệu) hàng năm lại được bổ sung khoảng 3 vạn lao động. Đây là một tiềm

năng quí đối với quá trình CNH, HĐH để phát triển KT – XH, nhưng hiện

nay số lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao còn ít, tỷ lệ lao động qua

đào tạo mới dừng lại ở con số rất khiêm tốn: khoảng 20%. Trung bình mỗi

năm ở Hà Tây có hàng chục nghìn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông,

trong đó mới chỉ có hơn 5.000 em thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng;

hơn nữa, hàng năm Hà Tây lại tiếp đón khoảng gần 5.000 thanh niên đã hoàn

thành nghĩa vụ quân sự trở về xây dựng địa phương. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra

cho đào tạo NNL để khai thác phát huy tiềm năng con người không kém phần

quan trọng và khó khăn.

- Mặc dù đã có sự thay đổi nhận thức trong nhân dân cũng như các cấp,

các ngành đối với công tác đào tạo nghề, song còn thấp xa so với thực tế vị trí

của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH, đặc biệt là vấn đề phân luồng học sinh

sau trung học cơ sở, trung học phổ thông và sử dụng học sinh trung học

chuyên nghiệp đã tốt nghiệp ra trường.

- Sự phân bố các cơ sở đào tạo nghề chưa đều, tập trung ở thị xã Hà

Đông và Sơn Tây, nguồn tài chính, cơ sở vật chất và thiết bị đều thiếu và lạc

42

hậu trong khi nhu cầu xã hội đối với giáo dục đào tạo tăng nhanh. Hà Tây

chưa có trường đại học vùng và toàn tỉnh mới có 1 trường dạy nghề.

- Ở Hà Tây, tuy đã có sự phát triển các ngành nghề và đặc biệt là các

làng nghề truyền thống, nhưng số lao động và tỷ lệ thời gian lao động được sử

dụng chưa cao, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị chiếm 5%; hiệu quả sử

dụng lao động thấp, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng chưa phát

triển theo chiều sâu.

Nhìn chung Hà Tây là nơi hội tụ nhiều tiềm năng thuận lợi về tự nhiên

và xã hội để phát triển một nền kinh tế đa dạng, phong phú và có sức hút đối

với các đối tác đầu tư. Hà Tây có nguồn lao động dồi dào, có nhiều làng nghề

và tiềm năng du lịch lớn, đó là những nhân tố quan trọng cho việc phát triển

kinh tế làng nghề, du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song để có thể khai

thác tốt tiềm năng của tỉnh trong quá trình CNH, HĐH cần kết hợp thực hiện

đồng bộ nhiều giải pháp trong đó giải pháp đúng đắn về đào tạo và sử dụng

NNL có vai trò rất quan trọng.

2.2. Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây thời gian qua

2.2.1. Thực trạng hình đào tạo nguồn nhân lực

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Hà Tây nói riêng đã và

đang đòi hỏi đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh để nhanh chóng

đưa trình độ kỹ thuật, công nghệ lên trình độ tiên tiến hiện đại, khôi phục,

phát triển và khai thác có hiệu quả các ngành, nghề trong nền kinh tế. Trong

bối cảnh đó phát triển đào tạo sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu đa dạng về

NNL cho nền sản xuất xã hội, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm và tự tạo việc làm

của người lao động. Trong nhiều năm qua hoạt động đào tạo NNL ở Hà Tây

đã đạt được những thành tựu đáng kể sau đây:

43

Thứ nhất: Tình hình giáo dục phổ thông - số lượng và chất lượng nhìn

nhận dưới góc độ là nguồn đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực.

Tính đến nay hệ thống trường lớp được xây dựng rộng khắp trong toàn

tỉnh, đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân với các loại hình công lập, ngoài

công lập, phương thức chính qui và không chính qui. Hà Tây là tỉnh đã đạt

chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập

trung học cơ sở. Trong toàn tỉnh có 755 trường phổ thông, (trong đó có 59

trường trung học phổ thông, có 2 trường trung học cơ sở và trung học phổ

thông), với 535.666 học sinh, trong đó học sinh trung học phổ thông là

106.756. Tính bình quân cứ 1 vạn dân có 2.152 học sinh. Năm 2004 toàn tỉnh

có 132.512 học sinh thi tốt nghiệp các cấp, riêng trung học phổ thông và bổ

túc trung học phổ thông có 35.097 học sinh. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 99%, chất

lượng giáo dục từng bước được cải thiện, số học sinh giỏi của tỉnh hàng năm

đều tăng (năm 2001: 7.214 em, năm 2002: 7.850 em, năm 2003: 8.648 em,

năm 2004: 8.950 em); riêng khối trung học phổ thông năm 2002 - 2003 có

2.574 em, năm 2003 - 2004 có 2.690 em. Một số học sinh được công nhận là

học sinh giỏi quốc gia: năm 2001 có 60 em, năm 2002 - 2003 có 41 em, năm

2003 - 2004 có 45 em. Từ năm 1995 đến nay, Hà Tây luôn có học sinh dự thi

quốc tế và đạt huy chương. Số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao

đẳng hàng năm ngày càng tăng: năm 1996 - 1997 có 4.222 em, năm 1999 -

2000 có 5.410 em, năm 2002 có 5.518 em, đến năm 2003 có 6.802 em. Hầu

hết các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đều tổ chức cho học

sinh được học nghề (85%). Cơ sở vật chất phục vụ cho Giáo dục có nhiều

chuyển biến, về cơ bản đã xoá bỏ được lớp học tranh tre và tình trạng học 3

ca. Tuy nhiên giáo dục phổ thông Hà Tây vẫn còn bộc lộ những yếu kém như:

chất lượng giáo dục toàn diện (nhất là giáo dục đạo đức) có nhiều chuyển

biến, song cần được quan tâm để đạt kết quả tốt hơn. Nhiều giáo viên vẫn sử

dụng phương pháp giảng dạy và giáo dục lạc hậu, việc đổi mới phương pháp

44

giảng dạy và giáo dục còn lúng túng, nhất là khâu thí nghiệm và thực hành.

Việc phân luồng trong đào tạo còn khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu.

Một số trường còn thiếu phòng học, bàn ghế và trang thiết bị dạy học. Các

Trung tâm giáo dục thường xuyên, kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp còn

chưa được đầu tư, chưa đáp ứng yêu cầu của loại hình đào tạo không chính

qui cho người đi học và hướng nghiệp các nghề kinh tế kỹ thuật cao cho học

sinh.

Thứ ha: Về đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy

nghề.

Hệ thống mạng lưới các cơ sở đào tạo đã được hình thành và ngày càng

mở rộng. Tính đến 2003, trên địa bàn tỉnh có 6 trường đại học, 2 trường cao

đẳng, 9 trường dạy nghề và tham gia dạy nghề của Trung ương và của tỉnh.

Có 20 trung tâm dạy nghề, 2 trung tâm dịch vụ việc làm (1 trung tâm của Liên

đoàn lao động tỉnh và 1 trung tâm tư thục), cùng với hơn 1000 cơ sở dạy nghề

và truyền nghề của cá nhân và tập thể. Trong 1.116 làng nghề thì có 160 làng

tham gia dạy nghề do các nghệ nhân và thợ lành nghề đào tạo. Năm 2003,

tỉnh thành lập thêm một số trung tâm dạy nghề ở Ứng Hoà, Thạch Thất, Hoài

Đức và Trung tâm dạy nghề tư thục Hà Dương. Ngoài ra, trong tỉnh còn có hệ

thống các trung tâm giáo dục thường xuyên được giao nhiệm vụ dạy nghề như

ở Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Phú Xuyên và các Trung tâm giáo

dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp điển hình như: Ứng Hoà, Thanh Oai, Hà

Đông, Mỹ Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây và Thường Tín.

Kết quả hoạt động của từng màng lưới dạy nghề nói trên đã làm cho số

lượng lao động được đào tạo nghề qua các năm ngày càng tăng.

Bảng 2.1: Số lao động được đào tạo từ 1998 - 2003

Đơn vị tính: Người

Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003

45

Tổng số lao động được 10.120 14.500 18.100 21.330 21.370 23.580

Nguồn: Sở lao động Thương binh - Xã hội [37].

đào tạo

Kết quả trên đã góp phần nâng tỷ lệ lao động được đào tạo ở Hà Tây từ

11% năm 1996 lên 16,5% năm 2000; 18,1% năm 2001 lên 19,6% năm 2002

và đến năm 2003 đạt tỷ lệ 21,5%. Trong 5 năm qua kết quả dạy nghề tăng

bình quân 1,9%/ năm. Kết quả này đã góp phần to lớn đáp ứng yêu cầu về bổ

xung lao động qua đào tạo cho các doanh nghiệp, khôi phục phát triển làng

nghề và góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động đồng thời

nâng cao chất lượng lao động.

Tuy nhiên số lao động được đào tạo nghề ở Hà Tây chủ yếu là lao

động qua đào tạo ngắn hạn, lao động qua đào tạo dài hạn rất ít.

Bảng 2.2: Cơ cấu lao động được đào tạo dài hạn và ngắn hạn

Đơn vị tính: Người

Năm Tổng số 1998 10.120 1999 14.500 2000 18.100 2001 21.330 2002 21.370 2003 23.580

Dài hạn 1.620 2.000 2.600 3.580 4.265 5.150

8.500 17.770 18.340 17.605 15.500 12.500

Ngắn hạn Nguồn: Sở Lao động Thương binh-Xã hội và Uỷ ban Nhân dân tỉnh [37],

[45].

Từ số liệu trên cho thấy, số lượng đào tạo ngắn hạn năm 2001 chiếm

83,22% trên tổng số người được đào tạo, số được đào tạo dài hạn là 16,8% và

đến năm 2003 là 21,9%. Có thể nói cho đến nay, Hà Tây về cơ bản đã đáp

ứng được việc đào tạo nghề ngắn hạn (85%) số còn thiếu là 15% do các cơ sở

dạy nghề ngoài tỉnh đào tạo. Ở Hà Tây, các ngành nghề được đào tạo khá đa

dạng và phong phú. Có thể khái quát ở 6 nhóm ngành như: cơ khí, điện, tin

học, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ và nghề làm

46

vườn với tổng số hơn 50 nghề phục vụ cho cả 3 nhóm ngành kinh tế công

nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong đó, có những nhóm ngành phục vụ sản

xuất như: điện, cơ khí, tin học..., có những ngành phục vụ du lịch, xuất khẩu

lao động như: may công nghiệp, cơ khí điện dân dụng, tin học, nghề giúp việc

gia đình, nấu ăn, chụp ảnh, quay camera.

Tình hình hoạt động đào tạo chuyên nghiệp được xem xét ở 2 cấp trình

độ trung học chuyên nghiệp và đại học, cao đẳng.

* Đối với bậc trung học chuyên nghiệp:

Với 7 cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp và số giáo viên ngày

càng được tăng cường (316 giáo viên năm 2001 lên 470 năm 2004) số học

sinh được tuyển vào và tốt nghiệp ra trường trong những năm gần đây ngày

càng tăng. Có thể thấy qua bảng số liệu sau :

Bảng 2.3: Số học sinh chuyên nghiệp được đào tạo từ năm 2000 - 2004.

Đơn vị: Người

Danh mục Năm học

2000 - 2001

2001 - 2002

2002 - 2003 2003 - 2004

Tuyển mới 3.499 4.431 4.862 5.864

Học sinh đang đào tạo 6.615 8.027 9.121 10.471

Học sinh tốt nghiệp 2.903 2.947 3.531 4.507

Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].

Như vậy, từ năm 2000 đến nay ở Hà Tây đã có 13.938 học sinh trung

học chuyên nghiệp tốt nghiệp trong tổng số học sinh trung học chuyên nghiệp

được tuyển vào đào tạo, phần lớn là đào tạo dài hạn, số đào tạo tại chức chiếm

một phần rất nhỏ, tuy nhiên cũng bắt đầu tăng lên nhiều từ năm 2001 đến nay.

Bảng 2.4: Số học sinh đào tạo dài hạn - tại chức từ năm học 2000 - 2004.

Đơn vị: Người

47

Năm học Danh mục

2000 - 2001

2001 - 2002

2002 - 2003

2003 - 2004

Tổng số tuyển mới HS đào tạo dài hạn HS tại chức 3.499 2.723 776 4.431 3.108 1.323 5.864 4.230 1.378

4.862 3.666 1.196 Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].

Ngoài hệ đào tạo tại chức từ năm 2003 - 2004, ở Hà Tây bắt đầu đào

tạo hệ chuyên tu cho 256 THCN.

* Đối với bậc Đại học Cao đẳng.

Sự hoạt động tích cực của 8 cơ sở đào tạo với số giáo viên (763 năm

2000, 877 năm 2004) đã cung cấp NNL chất lượng cao với số lượng không

nhỏ cho các lĩnh vực hoạt động KT - XH ở Hà Tây. Từ năm 2000 đến nay đã

có 17.325 sinh viên tốt nghiệp. Số sinh viên được tuyển mới bắt đầu tăng lên

nhiều từ năm học 2003 - 2004.

Bảng 2.5: Số sinh viên đại học, cao đẳng được đào tạo từ năm 2000 - 2004.

Đơn vị: Người

Danh mục Năm học

2000 - 2001

2001 - 2002

2002 - 2003

2003 - 2004

Tổng số tuyển mới 4.743 4.647 4.524 6.506

SV đang đào tạo 1.2468 12.228 12.639 8.914

SV đã tốt nghiệp 6.129 4.835 3.902 2.459

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].

Khác với bậc trung học chuyên nghiệp, hoạt động đào tạo ở bậc đại

học, cao đẳng được tiến hành với cả 3 loại hình: chính qui, chuyên tu, tại

chức. Tuy nhiên, số lượng đào tạo chính qui vẫn là cơ bản (chiếm 70%), số

lượng được đào tạo ở loại hình chuyên tu, tại chức bắt đầu giảm từ năm học

2003 - 2004.

48

Bảng 2.6: Cơ cấu đào tạo sinh viên đại học, cao đẳng theo loại hình

Đơn vị: Người

Danh mục Năm học

Tổng số tuyển mới Chính qui Chuyên tu Tại chức

2000 - 2001 4.743 3.248 365 1.130

2001 - 2002 4.647 3.066 73 1.508

2002 - 2003 4.524 2.812 1.647

2003 - 2004 6.506 5.590 170 655

Nguồn: niên giám thông kê Hà Tây [7].

Ngoài các bậc đào tạo nói trên, nếu xem xét theo tiêu chí người Kinh và

dân tộc giữa các vùng lãnh thổ, có thể thấy việc đáp ứng nhu cầu đào tạo

NNL cho vùng dân tộc ở Hà Tây còn hạn chế. Số học sinh và sinh viên dân

tộc thiểu số được tuyển vào rất ít so với tổng số.

Bảng 2.7: Cơ cấu đào tạo theo giữa người kinh và dân tộc giữa các vùng,

lãnh thổ từ năm 2000 - 2004.

Đơn vị: Người

Năm học Danh mục

Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng - Đại học

Tổng số Dân tộc Tổng số Dân tộc

2000 - 2001 3.499 139 4.743 129

2001 - 2002 4.431 201 4.647 120

2002 - 2003 4.862 44 4.524 110

Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].

2003 - 2004 5.864 213 6.506 77

Nếu xem xét dưới góc độ cơ cấu trình độ giữa bậc đào tạo trung học

chuyên nghiệp với đại học, cao đẳng có thể thấy sự không phù hợp, tỷ lệ trung

học chuyên nghiệp còn thấp so với đại học, cao đẳng. Thể hiện qua các số liệu

49

sau: năm 2000 - 2001: 3.499/4.743; năm 2001 - 2002: 4.431/4.647; năm 2002

- 2003: 4.862/4.524; năm 2003 – 2004: 5.864/6.506.

2.2.2. Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực

Tổng số lao động trong độ tuổi ở Hà Tây chiếm khoảng 61% dân số.

Trong số gần 1,3 triệu người có khoảng 80% lao động tham gia hoạt động

kinh tế. Phần lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn. Trong số lao động

tham gia hoạt động kinh tế có khoảng 80% lao động làm nông nghiệp. Riêng

khu vực nông thôn có khoảng 20% lao động làm công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp và dịch vụ. Thời gian sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn mới

chỉ đạt hơn 70%; năm 2000 đạt 74,3%; năm 2001 đạt 77,3%; năm 2002 đạt

77,4%; năm 2003 đạt 78%. Như vậy, còn hơn 20% quĩ thời gian chưa được

khai thác sử dụng. Ước tính khu vực nông nghiệp nông thôn việc sử dụng lao

động còn để lãng phí gần 40.000 lao động. Trong phạm vi toàn tỉnh hiện còn

khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm. Năm 2003, số lao động

thiếu việc làm ở nông thôn và thành thị là 28.872 người; số lao động thất

nghiệp 9.872 người. Trong đó ở thành thị (Hà Đông - Sơn Tây) chiếm 12%

chưa có nghề nghiệp, 15% nghề nghiệp chưa ổn định.

2.2.2.1. Về tình hình thu hút và phân bố sử dụng lao động

Trong những năm gần đây số lao động đang làm việc được phân theo

các ngành kinh tế như sau:

50

Bảng 2.8. Lao động làm việc trong các ngành kinh tế từ 2001 - 2003 (tính đến 1 tháng 7 hàng năm)

Đơn vị tính: Người

Ngành

TT

Năm

2002

2001

2003

Tổng số

1.419.879 1.199.750 1.240.000

Trong đó:

1. Nông nghiệp và lâm nghiệp

1.072.961

896.703

878.700

2. Thuỷ sản

4.574

5.806

8.500

3. Công nghiệp khai mỏ

990

1.697

1.800

4. Công nghiệp chế biến

182.294

185.176

205.000

5. Sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước

1.404

2.100

2.400

6. Xây dựng

19.392

10.392

22.800

7. Thương nghiệp: Sửa chữa xe có động

cơ, mô tô,xe máy và đồ dùng cá nhân

42.860

22.362

34.000

8. Khách sạn nhà hàng

7.137

7.573

12.000

9. Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc

9.801

6.940

9.600

10. Tài chính - Tín dụng

1.797

577

700

11. Hoạt động khoa học và công nghệ

600

475

600

12. Hoạt động kinh doanh tài sản và dịch

851

968

1.500

vụ tư vấn

34.328

10.082

11.000

13. Quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng; đảm bảo xã hội bắt buộc

14. Giáo dục và đào tạo

33.853

38.371

39.500

15. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội

3.909

3.856

4.000

16. Hoạt động văn hoá thể thao

1.049

934

1.200

17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội

1.081

5.152

5.500

18. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng

998

568

1.200

đồng

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].

51

Nếu xem xét trong ngành công nghiệp thì thấy rằng: số lao động công

nghiệp tăng dần lên từ 2000 đến 2004. Năm 2000: 101.669 người; năm 2001:

212.137 người. Trong tổng số lao động công nghiệp trên địa bàn số lao động

thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm phần rất nhỏ. năm 2000: 3.586

người; năm 2001: 3.353 người; năm 2002: 3287 người và năm 2003: 4,364

người.

Nếu xem xét theo thành phần kinh tế, trong số lao động công nghiệp

thuộc khu vực kinh tế trong nước năm 2003 thì lao động thuộc kinh tế nhà

nước là 10.321 người; tập thể: 1.770 người; tư nhân: 4.987 người; cá thể:

189.536 người; hỗn hợp: 1.159 người. Như vậy, lao động công nghiệp ngoài

nhà nước chiếm phần lớn. Lao động tư thương và dịch vụ, tư nhân chuyên

nghiệp cũng ngày càng tăng dần qua các năm. Năm 2000: 30.535 người; năm

2001: 33.449 người; năm 2002: 38.086 người; năm 2003: 40.962 người.

Số lao động được thu hút vào các làng nghề không nhỏ bởi Hà Tây nổi

tiếng là đất trăm nghề. Năm 1996 có 88 làng nghề truyền thống thu hút

110.900 lao động; trong đó, lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là

76.400 người. Năm 2000 có 972 làng nghề, số lao động được thu hút 161.200

người, trong đó lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là 107.000

người (chiếm 64%). Năm 2003 có 1.116 làng nghề số lao động được thu hút

hơn 200.000 người. Trên địa bàn nông thôn, ngoài số lao động được thu hút

vào hoạt động các làng nghề còn có khoảng 3.242 lao động được thu hút vào

491 trang trại.

2.2.2.2. Việc sử dụng lao động qua đào tạo

Việc sử dụng lao động qua đào tạo trong các ngành, lĩnh vực thời gian

qua cho thấy: ngành Y tế và Giáo dục có số học sinh tốt nghiệp làm việc đúng

nghề đào tạo khá cao. Tuy nhiên, một số sinh viên sau khi tốt nghiệp do

không tìm được việc làm đã chuyển sang làm nghề khác hoặc tiếp tục đi học

đại học. Còn số người được đào tạo nghề của các ngành khác do chủ yếu theo

52

học nghề ngắn hạn nên cơ bản đã tìm được việc làm và tự tạo việc làm

(khoảng 80%). Một số lao động qua đào tạo được thu hút vào các doanh

nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp liên doanh trên địa bàn tỉnh; do đáp ứng

được yêu cầu của cơ quan tuyển dụng nên về cơ bản làm việc đúng với

chuyên môn được đào tạo. Bên cạnh đó vẫn còn không ít số lao động đã được

đào tạo nhưng không tìm được việc làm; để có việc làm họ lại bỏ tiền của và

công sức để tiếp tục theo học nghề khác mà các cơ quan tuyển dụng hiện đang

cần; thậm chí có người lao động chấp nhận làm những công việc không đúng

với khả năng, ngành nghề đào tạo như bảo vệ, hoặc tạp vụ; giúp việc gia

đình... một số lao động được đào tạo phải di chuyển đến các tỉnh, thành phố

khác để tìm được việc làm đúng nghề. Như vậy Hà Tây đào tạo lao động

nhưng lại không thu hút sử dụng được hết sản phẩm của mình.

2.2.2.3. Về cơ cấu lao động được sử dụng

Thực tế trong những năm qua cho thấy số lao động có trình độ đại học,

cao đẳng trở lên tập trung khá nhiều trong khối các cơ quan quản lý nhà nước

các cấp (khoảng 80%) trên tổng số. Khối sản xuất kinh doanh cũng thu hút

nhiều kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ thuật, quản lý kinh doanh giỏi song

chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhờ kết quả của hoạt động đào

tạo chuyên nghiệp và dạy nghề số lao động có việc làm trong toàn tỉnh tăng

lên và góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng

CNH, HĐH thể hiện qua bảng số liệu:

Bảng 2.9: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế từ năm 2000 - 2003

Đơn vị tính: %

Năm Ngành

2000 2001 2002 2003

Nông nghiệp 62,8 61,5 59,1 58,2

Công nghiệp 21,5 22,5 24,1 24,5

53

Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây [37].

Dịch vụ 15,7 16 16,8 17,3

Nếu xem xét về cơ cấu trình độ lao động được sử dụng hiện có ở Hà

Tây có thể thấy rằng tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật trên tổng số lao động

còn thấp và chưa hợp lý.

Bảng 2.10: Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật trên tổng số lao động

từ năm 2000 - 2003

Đơn vị tính: %

Năm Trình độ

2000 2001 2002 2003

Cao đẳng - Đại học 3,92 6,78 7,9 4,87

Trung học chuyên nghiệp 5,98 6,62 7,73 5,2

Công nhân kỹ thuật 5,79 6,55 6,74 2,47

Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây [37].

Tỷ lệ lao động giữa bậc trình độ đại học, cao đẳng - trung học chuyên nghiệp

- công nhân kỹ thuật có bằng là 2 - 2 - 1. Như vậy, có thể nói ở Hà Tây còn

thiếu rất nhiều công nhân kỹ thuật và lao động có trình độ tay nghề cao.

2.2.2.4. Về hiệu quả sử dụng lao động

Từ năm 1996 đến nay, do khai thác có hiệu quả các nguồn lực của tỉnh

trong đó có NNL qua đào tạo nên tổng sản phẩm trong tỉnh luôn đạt tốc độ

tăng trưởng khá (hơn 7%).

Bảng 2.11: Tốc độ tăng GDP trong tỉnh từ năm 1995 - 2003

theo giá so sánh năm 1994

1995

1996

1997

1998

2000

2001

2002

2003

Năm 1999

3837,5

4132,6

4457,9

4778,4

5736,6

6190,1

6797,2

7413,0

5098,6

Danh mục Tổng GDP

54

100

107,7

107,1

107,2

107,6

107,9

107,9

109,8

109,1

(tỷ đồng) Tốc độ tăng (%)

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].

Trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, tỷ trọng các ngành kinh tế thuộc khu vực

nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, tỷ trọng khu vực công

nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên. Sự chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế theo xu hướng tích cực nhờ đó sự tăng trưởng của nền kinh tế

đang theo xu hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước. Điều này chứng tỏ

hiệu quả khai thác sử dụng các tiềm năng, đặc biệt tiềm năng lao động của Hà

Tây được nâng cao trong thời gian qua. Có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế trong GDP qua bảng sau:

Bảng 2.12: Cơ cấu ngành kinh tế từ 1995 - 2003

Đơn vị tính: %

Ngành

Năm

1995

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Nông lâm - 49,0 47,4 40,9 42,6 41,6 38,2 36,6 35,9 34,4

Thuỷ sản

Công nghiệp - 24,5 25,8 29,5 28,8 29,5 39,4 40,8 32,6 36,1

Xây dựng

Dịch vụ 26,3 26,8 29,6 28,6 29,9 29,6 29,5 29,5 29,5

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].

Việc khai thác hiệu quả các tiềm năng của tỉnh đã làm thay đổi chỉ số

thu nhập bình quân của lao động theo chiều hướng tăng lên. Thu nhập bình

quân lao động trong các ngành thuộc khu vực nhà nước do Trung ương quản

55

lý trong 1 tháng năm 2000 là 799,93 ngàn đồng; năm 2001: 884,98 ngàn

đồng; năm 2002: 945,8 ngàn đồng; năm 2003: 951,9 ngàn đồng cao hơn tổng

thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước do tỉnh quản lý

được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.13: Thu nhập bình quân một người một tháng của lao động trong khu

vực Nhà nước do địa phương quản lý phân theo ngành kinh tế từ 2000 - 2003.

Đơn vị tính: Nghìn đồng

Năm

Ngành

2001

2002

Tổng số

TT 1. Nông nghiệp - Lâm nghiệp 2. Thuỷ sản 3. Công nghiệp khai thác mỏ 4. Công nghiệp chế biến 5. Sản xuất phân phối điện, khí đốt và

1.524. 68

1.425. 34

nước 6. Xây dựng 7. Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động

2003 2000 515.60 619.82 673.63 702.29 46.53 553.56 569.99 590.00 301.10 305.41 412.07 450.00 290.00 455.19 521.21 550.00 641.75 667.98 805.94 815.00 1.410. 1.159. 00 72 558.20 622.76 624.41 630.00 617.87 718.50 814.50 760.00

cơ, mô tô

8. Khách sạn và nhà hàng 9. Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 10 Tài chính, tín dụng 11 Hoạt động khoa học và công nghệ 12 Các hoạt động liên quan đến kinh

763.70 881.96

1.310. 88

doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 13 QLNN và ANQP; đảm bảo xã hội 14 Giáo dục và đào tạo 15 Y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội 16 Hoạt động văn hoá thể thao 17 Hoạt động Đảng đoàn thể và hiệp hội 18 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng

413.64 413.47 686.85 690.00 365.63 624.61 627.87 620.00 481.65 528.40 662.00 690.00 1.300. 00 528.90 540.00 560.00 600.00 520.67 617.50 650.00 690.00 601.95 614.87 678.07 720.00 409.72 450.00 599.37 615.00 549.05 654.22 667.00 730.00 512.05 520.53 742.60 785.00

đồng Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].

56

Thu nhập bình quân của lao động trong các làng nghề ngày càng tăng.

Nếu năm 1996: 1 lao động làng nghề có thu nhập 3,2 triệu đồng/năm; 1 lao

động dịch vụ trong làng nghề là 2,9 triệu đồng/năm; 1 lao động nông nghiệp

1,2 triệu đồng/năm; thì đến năm 2000 thu nhập 1 lao động của: 1 lao động

làng nghề là 4 triệu đồng/năm; 1 lao động dịch vụ là 3,4 triệu đồng/năm; 1 lao

động nông nghiệp là 1,6 triệu đồng/năm. Năm 2003, 1 lao động làng nghề là 5

triệu đồng/năm (đặc biệt có những làng nghề có thu nhập cao như vải lụa,

điêu khắc đạt gần 6 triệu đồng/năm; chế biến nông sản 7,3 triệu đồng/năm); 1

lao động dịch vụ là 4 triệu đồng/năm; 1 lao động nông nghiệp đạt 2,5 triệu

đồng/ năm. Nếu tính GDP bình quân đầu người thì chỉ số này ở Hà Tây còn

thấp. Năm 1995 đạt 1.448 nghìn đồng; năm 2000 đạt 3,14 triệu đồng; năm

2001 đạt 3,43 triệu đồng; năm 2002 đạt 3,82 triệu đồng và năm 2003 đạt 4,23

triệu đồng. Nhìn chung hiệu quả sử dụng lao động tuy có bước tiến bộ song

còn thấp chưa ngang tầm với tiềm năng của tỉnh.

2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng

nguồn nhân lực

2.3.1. Đánh giá chung

2.3.1.1. Về thành tựu

Nhờ có sự thay đổi nhận thức đối với NNL, sự quan tâm chỉ đạo sát sao

của Đảng uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, trong thời gian qua sự nghiệp giáo dục

và đào tạo Hà Tây nói chung và đào tạo NNL nói riêng đã đạt được những

thành tích đáng kể.

Thứ nhất: Hệ thống Giáo dục phổ thông và đào tạo nghề ngày càng

được mở rộng, nhờ đó trình độ dân trí được nâng cao tạo nền tảng vững chắc

cho sự tiếp tục đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay

nghề. Công tác Giáo dục, đào tạo nhân lực được quan tâm tới tất cả kỹ năng,

trình độ và đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp.

57

Thứ hai: Về cơ bản Hà Tây đã đảm bảo được yêu cầu đào tạo nghề

ngắn hạn; các ngành nghề đào tạo đa dạng, phong phú, bước đầu phù hợp với

yêu cầu của CNH, HĐH.

Thứ ba: Công tác xã hội hoá Giáo dục đào tạo nghề đã được triển khai

và có hiệu quả. Việc khôi phục và phát triển các ngành nghề, làng nghề được

nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm hơn trước. UBND tỉnh kết hợp với phòng

Công nghiệp, Chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội mở được nhiều

lớp dạy nghề (hơn 500 lớp) và khoảng 600 lớp khuyến nông, khuyến công,

chuyển giao tiến bộ kỹ thuật công nghệ, do đó làm tăng số làng có nghề tiểu

thủ công nghiệp hơn trước. Năm 1996 mới có 88 làng nghề đến năm 2003 đã

có 1116 làng có nghề, do vậy số việc làm mới tạo ra ngày càng nhiều, số lao

động tham gia các hoạt động kinh tế ngày càng tăng.

Thứ tư: Hà Tây đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề lao động và

việc làm. Trong thời gian qua, Hà Tây đã thu hút và tạo việc làm cho nhiều

lao động, tăng thêm thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 70% và

góp một phần rất quan trọng trong việc tăng tổng sản phẩm của tỉnh, giảm tỷ

lệ thất nghiệp và tình trạng nông nhàn ở nông thôn.

Thứ năm: Kết quả đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu

lao động. Năm 2001 có 480 lao động xuất khẩu, năm 2002 có 1.000 lao động,

năm 2003 có 1.500 lao động, năm 2004 việc xuất khẩu có xu hướng giảm

trong tình trạng chung của cả nước, chỉ tiêu Hà Tây đặt ra là 1.200 lao động

nhưng trong 6 tháng đầu năm mới thực hiện được hơn 40%. Đối với lao động

sau khi được đào tạo nghề đã có việc làm ổn định (khoảng 80 % so với tổng

số lao động được đào tạo); còn khoảng 15% là việc làm chưa ổn định vì muốn

tìm nơi có thu nhập cao hơn hoặc đi xuất khẩu lao động.

2.3.1.2. Những hạn chế

58

Một là: mạng lưới đào tạo, nhất là đào tạo nghề của tỉnh còn bất cập,

chưa đáp ứng được yêu cầu cho công tác đào tạo nhân lực cả về số lượng và

chất lượng và cơ cấu vùng. So với yêu cầu CNH, HĐH và mục tiêu đào tạo

NNL tới 2010 thì Hà Tây chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo lao động có trình độ

cao, điều này thể hiện trong số lao động được qua đào tạo thì lao động có

chuyên môn kỹ thuật không bằng còn nhiều (190.351/tổng số 327.492) số

công nhân kỹ thuật cũng còn hạn chế (32.779/327.492 người). Việc khôi phục

nghề cũ, phát triển nghề mới tuy có sự phát triển, số lớp và số người được học

nghề ngày càng tăng song chưa thể đáp ứng được yêu cầu khai thác tiềm năng

của tỉnh. Trong lực lượng lao động của tỉnh chủ yếu vẫn là lực lượng lao động

phổ thông, lao động kỹ thuật tuy đã được nâng lên nhưng mới chỉ có hơn

20%.

Hai là: lao động qua đào tạo hàng năm chủ yếu vẫn là đào tạo ngắn hạn

cho các nghề thủ công nghiệp ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm trước

mắt. Do đó những lao động qua đào tạo ở Hà Tây gặp rất nhiều khó khăn khi

xin việc làm tại các doanh nghiệp và tham gia dự tuyển lao động xuất khẩu.

Việc nuôi dưỡng nhân tài chưa được quan tâm từ phía chính quyền địa

phương và các cơ sở tuyển dụng nhân lực. Ở Hà Tây hiếm thấy sự đài thọ đối

với học sinh giỏi cấp quốc gia, học sinh đỗ cao vào các trường Đại học có

chuyên ngành phù hợp với xu hướng phát triển và khai thác tiềm năng của

tỉnh.

Ba là: mức độ toàn dụng lao động ở Hà Tây còn thấp, sự phân bố lao

động chưa hợp lý, hiệu quả khai thác sử dụng lao động chưa cao.

Những hạn chế này đã cản trở nhịp độ chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng CNH, HĐH của tỉnh trong thời gian qua.

2.3.1.3. Nguyên nhân

59

* Nhận thức về việc làm, về nghề nghiệp chưa có sự thay đổi vượt bậc

trong nhân dân. Phần đông cho rằng phải có bằng Đại học mới có việc làm và

có việc làm cho thu nhập cao. Đối với những người không có khả năng vào

được các trường cao đẳng, đại học thì chỉ cần giải quyết lợi ích trước mắt là

có việc làm ngay nên chỉ theo học nghề ngắn hạn.

* Trình độ cơ sở vật chất, qui mô, số lượng trường và trình độ giáo viên

trong các trường dạy nghề không đồng đều, số giáo viên giỏi và có trình độ

cao còn ít. Hệ thống các Trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề tuy đã có nhiều

cố gắng nhưng hiệu quả chưa cao. Danh mục các ngành nghề đào tạo chưa

nhiều và còn lạc hậu.

* Ngân sách còn hạn hẹp và thu nhập của dân cư thấp nên nguồn tài

chính giành cho đào tạo nghề và nuôi dưỡng nhân tài chưa tương xứng. Việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển ngành nghề còn chậm do đó số việc

làm tạo ra chưa nhiều. Hà Tây chưa có chính sách tuyển dụng hấp dẫn, cuốn

hút lao động nhất là lao động chất lượng cao và số sinh viên là con em của Hà

Tây sau khi tốt nghiệp các trường Đại học về công tác tại tỉnh.

* Hà Tây vẫn còn chậm trễ trong đổi mới cơ chế tuyển dụng NNL nên

không kích thích được việc đào tạo lại để có thể nâng cao tỷ lệ lao động qua

đào tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Sự bất hợp lý trong cơ cấu

đào tạo, trình độ học vấn và nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của sản

xuất xã hội. Trong thực tế điều này chỉ có thể giải quyết được thông qua việc

đào tạo lại, phổ cập nghề cho người lao động bởi nhân lực được đào tạo ở Hà

Tây chủ yếu là ngắn hạn.

2.3.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới

2.3.2.1. Tình trạng vừa thiếu vừa thừa, bất hợp lý về cơ cấu trình độ đào tạo

của nguồn nhân lực.

60

Xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn sản xuất đều cho thấy rằng:

năng suất và hiệu quả cao hay thấp của sản xuất đều phụ thuộc rất lớn vào yếu

tố con người. Sự phụ thuộc này được xem xét cả về số lượng và chất lượng

của NNL hiện có và sẽ có trong tương lai. Cả hai yếu tố này lại phụ thuộc rất

lớn vào các chính sách: dân số, đào tạo và sử dụng NNL. Vì vậy để đáp ứng

yêu cầu của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế theo

hướng nền kinh tế tri thức Hà Tây cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề

sau:

- Nguồn nhân lực ở Hà Tây đang đứng trước tình hình là thừa lao động,

thiếu việc làm, số lượng cung về lao động giản đơn rất lớn trong khi cầu về

lao động lành nghề, lao động có hàm lượng trí tuệ cao nhưng khả năng đáp

ứng lại rất hạn chế gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động trên thị

trường. Theo số liệu đã trình bày ở trên, dân số tự nhiên ở Hà Tây còn ở mức

cao, tốc độ tăng lao động vẫn diễn ra mạnh, hàng năm có khoảng 3 vạn lao

động được bổ sung và cần giải quyết việc làm. Ước tính đến năm 2005 dân số

Hà Tây có 2,53 triệu, lao động trong độ tuổi 1,45 triệu, đến năm 2010 dân số

khoảng 2,67 triệu, lao động trong độ tuổi 1,5 triệu. Bên cạnh đó số lao động

dư thừa, lao động chưa có việc làm hàng năm gần 20%. Nguồn lao động lớn

lại tăng nhanh trong khi tốc độ phát triển kinh tế ở Hà Tây còn chậm, chưa có

khả năng mở rộng tái sản xuất để thu hút lao động. Cơ cấu ngành nghề còn

đang trong quá trình chuyển dịch và lại diễn ra chậm chạp nên sự phát triển

nghề về cơ bản đã giúp giải quyết việc làm hàng năm, song vẫn thấp hơn so

với yêu cầu phải giải quyết. Sự phát triển của quan hệ cung - cầu về lao động

như thế dẫn đến sức ép về giải quyết việc làm ngày càng cao.

- Mặt khác, quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây thời gian qua và sắp tới cho

thấy nhu cầu đòi hỏi về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhiều hơn

lao động giản đơn. Ví dụ như nhu cầu của 17 cụm công nghiệp của địa

61

phương cần tới hàng chục ngàn lao động, khu công nghiệp Phú Cát 45.000 lao

động, nhu cầu phát triển của ngành du lịch đến năm 2005 cũng cần 15.360

người và số lao động dự kiến để thực hiện phát triển thêm cho các làng nghề

với chỉ tiêu hơn 200 làng nghề đạt tiêu chuẩn cũng đòi hỏi được bổ xung

khoảng 3 vạn lao động được đào tạo nghề.

Số lao động cần cho quá trình phát triển chủ yếu là lao động lành nghề,

lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị

trường. Yêu cầu này đặt trước nguồn cung cấp lao động chủ yếu là lao động

phổ thông có tay nghề giản đơn, lao động nhàn dỗi trong nông nghiệp, bộ đội

xuất ngũ (số này chiếm gần 80% lực lượng lao động) cho thấy khả năng số

người không có việc làm sẽ tiếp tục tăng nếu cung đào tạo nhân lực chuyên

môn không đáp ứng kịp thời. Sự lệch pha này làm cho quan hệ cung cầu lao

động vốn đã mất cân đối lại càng mất cân đối hơn trước, ảnh hưởng đến quá

trình đẩy mạnh CNH, HĐH.

- Trong thực tiễn, quá trình CNH, HĐH việc áp dụng tiến bộ khoa học

kỹ thuật để thực hiện quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động kỹ

thuật sử dụng máy móc công nghệ, có chuyên môn kỹ thuật tăng. Nhưng một

điều đáng lo ngại ở Hà Tây hiện nay là số thời gian lao động chưa được sử

dụng của lao động nông nghiệp khá cao (gần 25%); trong số những người

không có việc làm ở nông thôn thì đại bộ phận là không có nghề, không có

vốn và chưa qua đào tạo; số lượng Bộ đội xuất ngũ hầu hết chưa qua đào tạo

nghề, trình độ nhân lực được đào tạo lại bất hợp lý. Số lao động qua đào tạo

mới đạt 21,5% nhưng nhu cầu tới năm 2005 đòi hỏi phải đạt 35% và tới 2010

phải đạt 45%. Cơ cấu trình độ lao động giữa đại học, cao đẳng - trung học

chuyên nghiệp - công nhân ký thuật mới đạt tỷ lệ 4,7% - 5,2% - 2,47%. Trong

khi đó theo yêu cầu của CNH, HĐH đã được lựa chọn ở Hà Tây thì tới 2005

62

tỷ lệ này trong công nghiệp xây dựng lại cần 7,5% - 15% - 4,2% và trong

nông nghiệp tỷ lệ đó cũng là 2% - 5% - 8%.

- Cùng với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước, Hà Tây tiến hành

CNH, HĐH trong cơ cấu mở với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày

càng tăng, để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực đòi hỏi việc đào tạo NNL

phải đáp ứng được yêu cầu cao cả về số lượng và chất lượng. Nhờ đó có thể

sản xuất được các hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khu vực

và quốc tế, đồng thời tạo được sức cạnh tranh của lao động xuất khẩu Hà Tây

trên thị trường khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia; tiến tới tiếp cận

các thị trường mới - thị trường cao cấp ở châu Âu, châu Phi, đặc biệt là thị

trường Anh, Nhật Bản. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho Hà Tây hiện nay là

muốn đạt mục tiêu xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế của nguồn lực con

người cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo NNL đạt ở

trình độ chuẩn so với khu vực và thế giới (kể cả lao động giúp việc gia đình

và lao dộng chuyên môn kỹ thuật).

- Đào tạo NNL Hà Tây cũng đang đứng trước yêu cầu chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH, nhưng hiện nay cơ

cấu lao động theo ngành và cơ cấu lao động được đào tạo còn bất hợp lý. Quá

trình chuyển dịch diễn ra chậm chạp, tỷ lệ lao động giữa các ngành nông

nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là 48,9% - 24,1% - 16,8%. Hà Tây mới có hơn

20% trong tổng số lao động được đào tạo nhưng chủ yếu mới đào tạo được

lao động ở trình độ bán lành nghề chứ chưa phải đào tạo dài hạn trình độ cao

để phục vụ cho công nghệ cao. Ta biết rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ

cấu lao động là nội dung cơ bản của CNH, HĐH, chỉ khi nào phá vỡ được cấu

trúc cũ xây dựng cấu trúc mới một cách toàn diện cả về cơ cấu lao động theo

trình độ, theo ngành, theo lĩnh vực kinh tế và cơ cấu lao động được đào tạo

mới được xem là hoàn thành nhiệm vụ của CNH, HĐH. Vì vậy để khắc phục

63

tình trạng bất hợp lý về cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ

cấu lao động, Hà Tây cần phải thực hiện một cuộc cách mạng trong đào tạo

và sử dụng NNL.

2.3.2.2. Tiềm năng nhân lực còn bị lãng phí, phân bổ sử dụng chưa hợp lý

và hiệu quả sử dụng chưa cao trong khi yêu cầu khai thác sử dụng rất lớn

- Quá trình đổi mới ở Hà Tây trong thời gian qua nhìn chung đã có

những cố gắng trong việc khai thác sử dụng, phát huy tiềm năng nhân lực

ngày một đầy đủ và có hiệu quả hơn vào các mục tiêu KT - XH của tỉnh.

Nhưng xem xét một cách cụ thể và toàn diện trong thực tế việc sử dụng NNL

ở Hà Tây vẫn còn có hạn chế. Hà Tây vẫn chưa sử dụng hết tiềm năng nhân

lực của mình (điều này đã nêu trong thực trạng).

- Đối với lao động được đào tạo, Hà Tây cũng chưa khai thác sử dụng

hết được hiệu quả của nó, điều này được thể hiện ở chỗ sử dụng nhân lực có

trình độ chuyên môn không đúng với ngành nghề được đào tạo hoặc dưới khả

năng được đào tạo.

- Các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài đã sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học vào làm những công việc của

công nhân, cách sử dụng này vừa không đạt hiệu quả cao lại gây lãng phí

trong đào tạo NNL.

Như vậy vấn đề đặt ra ở Hà Tây là làm thế nào để thu hút được nhiều

lao động và sử dụng lao động có hiệu quả cao, nhất là lao động qua đào tạo

trong thời gian tới.

64

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THÚC ĐẨY VIỆC ĐÀO

TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY

3.1. Phƣơng hƣớng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Lý luận và thực tiễn đều khẳng định không thể xác định phương hướng

đào tạo và sử dụng NNL, nếu phương hướng đó không lấy phương hướng

chung của CNH, HĐH làm căn cứ xuất phát.

3.1.1. Phương hướng chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2010

3.1.1.1. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế

65

Trên cơ sở nhận định tình hình chung và đánh giá sự phát triển NNL,

Hà Tây đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH thời kỳ 2000 -

2010, trong đó chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH (nhất là CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn), tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo

hướng CNH, HĐH. Cụ thể:

- Đối với nông nghiệp nông thôn: phát triển theo hướng xây dựng nền

sản xuất hàng hoá qui mô lớn, hiệu quả và bền vững có năng suất chất lượng

và sức cạnh tranh cao trên cơ sở sử dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên

tiến để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ công nghiệp trong cơ cấu kinh

tế nông thôn, khai thác có hiệu quả tiềm năng của các tiểu vùng kinh tế trong

tỉnh, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, tiểu thủ công

nghiệp.

66

- Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Phát triển công nghiệp

chế biến nông - lâm sản trên cơ sở phát huy thế mạnh của nông nghiệp. Tập

trung vào công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và đáp ứng một phần

nhu cầu tiêu dùng ở nông thôn. Phát triển các ngành công nghiệp có hàm

lượng lao động cao như đồ uống, dệt may, da giày. Ưu tiên các ngành sản

xuất: vật liệu xây dựng, cơ khí, điện máy, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.

Phát huy các làng nghề truyền thống, đặc biệt chú ý các làng nghề có sản

phẩm xuất khẩu như thêu ren, tơ tằm. Phát triển công nghiệp gắn với qui

hoạch đô thị, giữ gìn bảo tồn các di sản thiên nhiên, các công trình văn hoá, di

tích lịch sử và bảo vệ môi trường sinh thái. Chuyển mạnh nền công nghiệp từ

chủ yếu là gia công hiện nay sang sản xuất hiện đại để đạt giá trị xuất khẩu

cao. Tuy nhiên, căn cứ vào tiềm năng nguyên liệu và nguồn lực lao động, Hà

Tây cần ưu tiên đầu tư phát triển vào các nhóm ngành như:

+ Công nghiệp chế biến nông - lâm sản - thực phẩm và đồ uống.

+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.

+ Công nghiệp cơ khí (chế tạo và sửa chữa).

+ Công nghiệp hàng tiêu dùng (may mặc, da giày, hàng thủ công mỹ

nghệ) và các sản phẩm phục vụ lễ hội, du lịch.

+ Tạo điều kiện phát triển các làng nghề, các ngành nghề thủ công gắn

với công nghệ mới .

- Đối với thương mại và du lịch: Tập trung qui hoạch xây dựng mạng

lưới kinh doanh bán buôn, bán lẻ trên địa bàn gắn với thị trường Hà Nội, các

tỉnh và nước ngoài. Liên kết chặt chẽ với các cơ sở sản xuất nắm vững nguồn

hàng để trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán tiêu thụ sản phẩm đảm bảo uy tín.

Giữ vững và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. Xuất khẩu với đầu tư

phải gắn với vùng nguyên liệu nông sản, công nghiệp tập trung của tỉnh để

từng bước tạo mặt hàng chủ lực.

67

Phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Trên cơ sở qui hoạch

tổng thể phát triển du lịch, tăng cường đầu tư phát triển du lịch, xây dựng các

dự án huy động mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế cho du lịch.

3.1.1.2. Các chỉ tiêu chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Theo qui hoạch tổng thể phát triển KT - XH, trong thời gian tới ở Hà

Tây cần đạt là:

- Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 7,5% - 8%/năm giai đoạn 2001 - 2005

và 9 - 10% giai đoạn 2006 - 2010.

- Cơ cấu ngành kinh tế:

Năm 2005 Năm 2010

+ Nông nghiệp 35% 23%

+ Công nghiệp 35% 40%

+ Dịch vụ 30% 37%

- Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 80 triệu USF, năm 2010 là 200

triệu USD.

- Thu nhập bình quân đầu người đạt 14 triệu VNĐ vào năm 2010 [43].

3.1.2. Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Để thực hiện phương hướng chung của CNH, HĐH nói trên, hoạt động

đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian tới cần phát triển theo định hướng

sau:

3.1.2.1. Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cả về số lượng, chất

lượng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Trong định hướng phát triển Giáo dục Đảng ta đã chỉ rõ: mục tiêu đào

tạo NNL là phải đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và phát triển KT - XH và nâng

tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, Hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII

68

Đảng ta xác định: “Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy

mạnh đào tạo công nhân lành nghề bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước.

Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình KT - XH của từng vùng

phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho CNH, HĐH nông nghiệp

nông thôn... Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu

chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất. Tại đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định:

"Tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự

chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển Giáo dục đào tạo... Định hình

qui mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là cơ cấu cấp học

theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển NNL phục vụ phát triển KT -

XH. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp" [17, tr.292]. Do vậy, thời

gian tới cần:

- Đào tạo NNL phải hướng vào việc tạo ra được những con người phát

triển toàn diện, yêu nước và có lý tưởng XHCN, góp phần tích cực vào sự

nghiệp CNH, HĐH, có tinh thần ham hiểu biết, có tư duy sáng tạo, làm chủ

khoa học kỹ thuật hiện đại, có ý thức và năng lực hợp tác, có tinh thần trách

nhiệm với cộng đồng xã hội, với môi trường tự nhiên, có nếp sống lành mạnh

và sức khoẻ tốt để học tập, lao động suốt đời, muốn vậy phải:

+ Mở rộng qui mô đào tạo đi đôi với coi trọng chất lượng Giáo dục đào

tạo và hiệu quả sử dụng, đáp ứng yêu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài cho

CNH, HĐH.

+ Thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo và trình độ đào tạo

(chính qui, không chính qui) và các hình thức như đào tạo từ xa, rèn luyện kỹ

năng, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng lại cho công nhân đang làm việc theo chu

kỳ 5 năm/1 lần để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao

động theo hướng CNH, HĐH.

69

+ Cần tập trung sức nhanh chóng phát triển đào tạo nhằm đáp ứng yêu

cầu nhân lực cho 17 cụm công nghiệp địa phương, khu công nghiệp Phú Cát

và khu công nghệ cao Hoà Lạc. Đẩy mạnh việc đào tạo lại nhằm bổ túc kiến

thức nâng cao năng lực mới, kiến thức công nghệ hiện đại và năng lực kỹ

thuật cho đội ngũ lao động đang sử dụng để nâng cao năng suất lao động.

- Trong quá trình đào tạo và đào tạo lại cần thực hiện đồng thời các mặt

như: thay đổi cơ cấu lao động nâng cao chất lượng trình độ kỹ thuật công

nghệ và tăng cường năng lực quản lý. Trong đó đào tạo lao động kỹ thuật

được nhấn mạnh để nhanh chóng khắc phục mặt yếu kém của NNL ở Hà Tây

hiện nay. Cụ thể:

+ Đối với giáo dục phổ thông: giữ vững thành quả phổ cập tiểu học và

trung học cơ sở, tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi vàoơ trung học

phổ thông từ 57% năm 2000 lên 65% vào năm 2005 và 75% vào năm 2010

[36, tr.7- 8].

+ Đối với trung học chuyên nghiệp cần mở rộng đào tạo kỹ thuật viên,

nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung học

dựa trên nền tảng học vấn trung học cơ sở. Thu hút 10% học sinh trong độ

tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp trong năm 2005 và 15% vào

năm 2010 [36, tr.9].

+ Đối với dạy nghề: mở rộng đào tạo công nhân, chú trọng đào tạo đội

ngũ công nhân tay nghề cao cho một số ngành mũi nhọn và cho xuất khẩu lao

động. Phát triển nghề ngắn hạn, đặc biệt ở nông thôn để thực hiện chuyển

dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Thu hút học

sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề tới 2005 đạt tỷ lệ 25%

trong độ tuổi và 30% năm 2010 [36, tr.9].

70

+ Đối với đại học và cao đẳng: cần đáp ứng tốt yêu cầu nhân lực trình

độ cao cho CNH, HĐH và phát triển bền vững, nâng sức cạnh tranh và đặc

biệt đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH phát triển theo hướng kinh tế tri

thức. Do đó một mặt củng cố phát triển trường Cao đẳng Cộng đồng và mặt

khác nâng trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây lên Đại học, xây dựng một

trường Đại học dân lập [36, tr.9].

3.1.2.2. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu về nguồn nhân lực qua

đào tạo cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

- Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng:

Tăng qui mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2005 có 30 -

35%, năm 2010 có 60 - 65% lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng

được đào tạo, trong đó 7,5% có trình độ Cao đẳng trở lên, 15% trung học

chuyên nghiệp; 4,2% công nhân kỹ thuật. Ưu tiên đào tạo cho các ngành công

nghiệp then chốt, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất và cho xuất

khẩu lao động và cho nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động, ưu tiên các

lĩnh vực chế biến nông sản và công nghiệp vật liệu xây dựng [36, tr.10].

- Đối với nông nghiệp lâm nghiệp:

Phấn đấu đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 15%, trong đó

trình độ cao đẳng trở lên có 2%, trung học chuyên nghiệp là 5%, công nhân

kỹ thuật: 8%; đến 2010 đạt 20 đến 30%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên có

4%, trung học chuyên nghiệp là 7%, công nhân kỹ thuật: 9 - 12%. Chú ý đào

tạo và bồi dưỡng nhân lực để phát triển kinh tế trang trại [36, tr.10]. Đồng

thời với việc nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào 2005 và 40% vào

2010 tiến dần tới sự hợp lý về cơ cấu trình độ giữa cao đẳng, đại học - trung

học chuyên nghiệp - công nhân lành nghề trên thế giới là 1 - 4 - 10.

- Nhân lực cho một - số ngành và lĩnh vực xã hội khác:

71

+ Bảo đảm đủ đội ngũ cán bộ cho ngành Y cả về số lượng, chất lượng

và cơ cấu. Chú trọng đào tạo về kỹ thuật Y tế theo kịp trình độ khu vực, đồng

thời đào tạo cán bộ có hiểu biết về Y tế cộng đồng để đáp ứng nhu cầu tại

tuyến cơ sở. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý ngành Y các cấp, bồi dưỡng

năng cao cho cán bộ trong ngành, phấn đấu đến 2005, 100% trạm xá có bác

sĩ, y sĩ sản nhi.

+ Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác và cán bộ quản lý về văn hoá,

thể dục thể thao cho các địa phương.

+ Tăng qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng thường xuyên

cho công chức nhà nước từ cấp xã trở lên.

3.1.2.3. Phát huy tối đa nội lực nguồn nhân lực trong tỉnh, sử dụng hợp lý, có

hiệu quả nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt chú ý nguồn nhân lực qua đào tạo

Mục tiêu KT - XH đã đưa ra trong nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ IX

chỉ có thể đạt được khi phát huy tối đa NNL hiện có để khai thác các lợi thế

về đất đai, tài nguyên. Muốn vậy Hà Tây cần xác định được tổng cầu lao động

của toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lao động theo ngành, theo khu vực thành thị

và nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hoá, CNH, HĐH. Trên cơ sở đó

một mặt thực hiện điều chỉnh đào tạo NNL để đáp ứng yêu cầu, mặt khác cần

đẩy nhanh sự phân công lại lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động

phù hợp với cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, giảm dần lao động trong

nông nghiệp từ 62,8% xuống 55% năm 2005 và xuống đến 40% năm 2010.

Bảng 3.1. Dự báo cơ cấu lao động ở Hà Tây đến năm 2010.

Đơn vị tính: %

Năm TT Ngành

2000 2005 2010

1. Nông nghiệp 62,8 55 40

72

Công nghiệp - Xây dựng 2. 21,5 25 30

Nguồn: Qui hoạch tổng hợp phát triển kinh tế - xã hội Hà Tây đến 2010 [43].

3. Dịch vụ 15,7 20 30

Đồng thời với việc làm trên cần tích cực tạo việc làm mới và ổn định

để thu hút được nhiều lao động, giảm tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị

xuống dưới 5%, tăng quĩ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên

85%.

Việc sử dụng NNL qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là vấn đề quan

trọng nhất của sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH, bởi đây là bộ phận

quyết định năng suất lao động chung trong toàn tỉnh. Hà Tây trong thời gian

tới cần tạo điều kiện để NNL qua đào tạo có cơ hội làm việc rộng rãi, có

chính sách thu hút, khuyến khích lao động được đào tạo (nhất là bậc Đại học

Cao đẳng) về làm việc ở nông thôn, đặc biệt là ở các xã miền núi thông qua

chế độ ưu đãi về thu nhập, điều kiện để tiếp tục học tập, có thể dễ dàng quay

trở lại công tác tại miền xuôi và thành phố sau một số năm công tác nếu họ

không muốn ở lại miền núi.

- Mở rộng qui mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.

- Đa dạng hoá các loại hình và trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng

NNL trên cơ sở phân công lại lao động xã hội, thực hiện sự chuyển dịch cơ

cấu lao động theo hướng CNH, HĐH.

3.2. Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Tây

3.2.1. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo

73

Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên

các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản

lý của nhà nước. Xã hội hoá giáo dục đào tạo là làm cho giáo dục đào tạo đáp

ứng được yêu cầu đa dạng phong phú của xã hội, của từng ngành, từng địa

phương, biến nhà trường từ một thể chế nhà nước thành một thể chế xã hội

nhà nước, một hệ thống mở đa dạng, mềm dẻo và gắn với tiến trình phát triển

KT - XH đồng thời thu hút được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát

triển sự nghiệp Giáo dục đào tạo, tạo nên sự gắn kết giữa cá nhân với xã hội,

giữa xã hội với ngành giáo dục đào tạo. Muốn vậy Hà Tây cần:

- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành

đoàn thể về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề.

Quan tâm tạo điều kiện cho mọi người được học tập và học tập suốt đời thông

qua việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng tại các địa phương, các

trung tâm dạy nghề. Tôn vinh nghề dạy học và tăng cường đầu tư cho giáo

dục và đào tạo. Củng cố Hội đồng Giáo dục và Hội khuyến học các cấp. Tiếp

tục đẩy mạnh việc lập và sử dụng có hiệu quả quỹ khuyến học (chú ý mở rộng

tăng cường đối với dạy nghề), quỹ khuyến công và khuyến nông.

- Huy động mọi nguồn lực và tăng cường trách nhiệm đối với đào tạo

NNL. Bằng cách đó giải quyết những bức xúc về NNL, khắc phục những bất

cập về đào tạo NNL ở Hà Tây hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu KT - XH

của tỉnh đề ra. Tỉnh cần có cơ chế nhằm khuyến khích đầu tư các cơ sở dạy

nghề trong các thành phần kinh tế. Một mặt tỉnh đầu tư phát triển qui mô dạy

nghề công lập, tăng đầu tư cho các quỹ khuyến công, khuyến nông và mặt

khác coi trọng, khuyến khích phát triển các cơ sở đào tạo bán công, tư thục,

cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp để tạo lập một hệ thống dạy nghề liên

hoàn gắn lý thuyết với thực hành ở cả ba cấp trình độ: bán lành nghề - lành

nghề - trình độ cao. Việc đào tạo lao động có trình độ lành nghề và trình độ

74

cao cần phân công cho các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên

nghiệp và cao đẳng kỹ thuật có chức năng dạy nghề, việc đào tạo trình độ bán

lành nghề giao cho các trung tâm dạy nghề, các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của

tập thể và tư nhân trong các làng nghề với những chương trình linh hoạt.

- Kêu gọi bà con Việt kiều, các nhà doanh nghiệp trẻ thành đạt trong

tỉnh tài trợ cho các trường và các trung tâm dạy nghề dưới các hình thức như:

hỗ trợ về tài chính và trang thiết bị dạy học, quỹ khuyến học, học bổng...

- Để giải quyết thoả đáng mối quan hệ cung cầu nhân lực và thực hiện

các mục tiêu về giải quyết việc làm, gắn đào tạo với sử dụng NNL, cần:

+ Có nhận thức mới: coi Giáo dục đào tạo, một lĩnh vực dịch vụ có thu.

Trên cơ sở thừa nhận thị trường lao động, tất yếu phải thừa nhận sản phẩm

dịch vụ giáo dục đào tạo là hàng hóa công cộng và do đó tất yếu phảỉ vận

dụng cơ chế thị trường và đặt nó với xu hướng toàn cầu hoá. Song cũng cần

thấy rằng, sản phẩm giáo dục đào tạo là hàng hóa công cộng đặt biệt. Tính

đặc biệt của nó là ở chổ gắn trực tiếp với con người, gắn với ý thức xã hội, do

đó gắn với mục tiêu "trồng người” như Bác Hồ đã dạy và khi vận dụng cơ chế

thị trường phải chịu sự chi phối của định hướng xã hội chủ nghĩa và tính chất

của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó thực hiện chủ trương xã hội hóa

giáo dục - đào tạo, góp phần giải quyết những bất cập trong lĩnh vực đào tạo

hiện nay.

+ Thực hiện mô hình liên kết giữa Uỷ ban Nhân dân tỉnh - doanh

nghiệp và các cơ sở sử dụng nhân lực - người học, với phương châm nhà

nước hỗ trợ, nhà doanh nghiệp giúp đỡ và gia đình người học đóng góp.

+ Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu

tư cho đào tạo nghề dưới hình thức trường tư để giải quyết những bất cập hiện

nay.

75

3.2.2. Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề,

các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp

Việc phát triển hệ thống các trường đào tạo công nhân kỹ thuật nhằm

thu hút phần lớn số học sinh phổ thông của tỉnh không đủ điều kiện vào học

cao đẳng, đại học, đào tạo họ trở thành lực lượng lao động kỹ thuật bảo đảm

cung cấp cho các ngành kinh tế theo yêu cầu CNH, HĐH và phục vụ cho mục

tiêu xuất khẩu lao động kỹ thuật là việc làm cần thiết hiện nay ở Hà Tây. Để

tạo điều kiện cho con em Hà Tây, nhất là con em các gia đình khó khăn có cơ

hội học tập và thực hiện tốt phân luồng học sinh, thực hiện chuyển dịch cơ

cấu lao động. Tỉnh Hà Tây cần:

- Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, coi nó là đầu tư cho phát

triển. Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới Tỉnh cần tăng dần ngân sách nhà

nước chi cho giáo dục đào tạo (hơn 15%) và đặc biệt chú ý tới các trường

trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

- Xây dựng trường dạy nghề thứ hai và mở thêm một số trung tâm dạy

nghề tại các khu công nghệ cao và các vùng nông thôn để giảm số lao động

đào tạo nghề ngắn hạn, tăng số lao dộng được đào tạo dài hạn. Phấn đấu mỗi

huyện có một Trung tâm dạy nghề với cơ sở vật chất phù hợp, đáp ứng yêu

cầu cập nhật các nghề mới.

- Đối với các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và trung tâm kỹ thuật

tổng hợp, nhất thiết phải được đầu tư thêm các trang thiết bị dạy nghề để học

sinh có điều kiện rèn luyện làm quen với các thao tác kỹ năng nghề, khắc

phục tình trạng học lý thuyết "chay" ở một số trung tâm như hiện nay. Đồng

thời phát động phong trào thi đua tự tạo thiết bị dạy học, khơi dậy tinh thần

sáng tạo vượt khó khăn trong giảng dạy và học tập.

3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý

76

Ngoài chất lượng nguồn đào tạo và cơ sở vật chất, việc nâng cao chất

lượng đào tạo NNL còn phụ thuộc một phần rất lớn ở trình độ giáo viên và

đội ngũ cán bộ quản lý trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp, trường dạy nghề. Đội ngũ này phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề,

trong đó tỷ lệ giáo viên có tay nghề cao có trình độ đại học và trên đại học

ngày càng tăng. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thực tế việc tổ

chức Hội chợ kỹ thuật công nghệ ở Việt Nam và Hội chợ việc làm ở Hà Tây

trong thời gian qua cho thấy, trong xu thế phát triển công nghệ thay đổi từng

ngày, từng giờ nếu cán bộ giảng dạy không thường xuyên được bồi dưỡng,

cập nhật phương pháp giảng dạy, thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại thì sẽ

có nguy cơ bị tụt hậu và sản phẩm đào tạo là những người thợ cũng không thể

coi là phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng lao động trong

nước và cạnh tranh trên thị trường lao động nước ngoài. Trong nhiều năm qua

ở Hà Tây việc đào tạo NNL chưa được quan tâm đúng mức nên việc đào tạo

nâng cao trình độ giáo viên cũng chưa được coi trọng, vì vậy để nâng cao

trình độ của giáo viên trong thời gian tới tỉnh cần coi trọng việc đào tạo bồi

dưỡng chuẩn hoá giáo viên (nhất là giáo viên các trường dạy nghề). Thời gian

qua mặc dù nhiều giáo viên ở các cơ sở đào tạo đã tự mình tích cực theo học

các lớp bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ sau đại học, song vẫn chưa đáp

ứng yêu cầu đào tạo NNL cho tương lai. Điều đó do nhiều nguyên nhân, trong

đó có nguyên nhân thu nhập của giáo viên thấp và tỉnh chưa có cơ chế khuyến

khích cho việc đi học để nâng cao trình độ. Để nâng cao trình độ giáo viên

tỉnh cần giành một phần ngân sách và có cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên đi

học tập nâng cao trình độ trên ĐH, kết hợp với các doanh nghiệp đưa lao

động giỏi, lao động trẻ đi tu nghiệp ở nước ngoài. Đồng thời với việc đầu tư

bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên tỉnh nên có chính sách đãi ngộ theo

77

đúng giá trị NNL được đào tạo, trọng dụng người tài để vừa giữ, vừa thu hút

được giáo viên giỏi về công tác giảng dạy trong các trường đào tạo của tỉnh.

Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là xây dựng và phát huy

hiệu quả các tập thể chuyên môn mạnh trong các cơ sở đào tạo và cơ sở sản

xuất kinh doanh để có thể cùng hoà nhịp trong kết hợp đào tạo lý thuyết với

kỹ năng thực hành, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn giáo dục đào tạo với sử

dụng và giải quyết việc làm. Cùng với đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản

lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc đào tạo NNL, điều này được thể

hiện thông qua việc quản lý thu - chi tài chính, bảo quản cơ sở vật chất phục

vụ giảng dạy, quản lý việc thực hiện nội dung chương trình và qui trình đào

tạo. Các hoạt động trên được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng

đào tạo và hạ thấp mức chi phí đào tạo. Bởi vậy Tỉnh cần thực hiện việc liên

kết với các cơ sở đào tạo của Trung ương mở lớp hoặc gửi cán bộ quản lý

theo học các lớp nghiệp vụ để nâng cao trình độ,ý thức trách nhiệm của cán

bộ quản lý thuộc các cơ sở đào tạo NNL.

3.2.4. Tạo nhiều việc làm mới để có thể toàn dụng lao động

Có thể nói, tạo nhiều việc làm là một nhiệm vụ bức bách ở Hà Tây hiện

nay khi số lao động chưa có việc làm và số lao động bổ sung ngày càng gia

tăng và chủ yếu lại tập trung ở nông thôn. Để tạo việc làm thu hút được nhiều

lao động cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là: chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn trên cơ sở

các lợi thế của địa phương, nhanh chóng hiện thực hoá các dự án đầu tư vào

tỉnh, do đó đầu tư phát triển khu vực nông thôn, đẩy nhanh đô thị hoá, phát

triển ngành nghề sẽ làm tăng nhu cầu lao động tại chỗ, tăng việc làm, nhanh

chóng giảm thiểu số lao động chưa có việc làm và số lao động có việc làm

không đầy đủ, thời gian nông nhàn của nông dân, tăng thu nhập cho dân cư

78

nông thôn đồng thời gắn được lao động với đất đai tài nguyên của Tỉnh.

Muốn vậy cần:

- Nhanh chóng thực hiện việc giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hành

lang pháp lý và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất để các dự án đầu tư của các

doanh nghiệp trong, ngoài nước vào Tỉnh được thực thi có hiệu quả.

- Cho phép các tổ chức, cá nhân thuê đất lâu dài, tạo môi trường đầu tư

thuận lợi để họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hình thành nên

các khu công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.

- Phát triển kinh tế hộ gia đình, làng nghề nông thôn, phát triển kinh tế

trang trại đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông thôn.

- Cho phép nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất (chuyển một

phần hợp lý diện tích trồng lúa sang làm vườn hoặc nuôi trồng thuỷ sản có giá

trị kinh tế cao).

Hai là: đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công

truyền thống và tạo nghề mới, một hướng đi hiệu quả, vừa tận dụng được

nguồn lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, vừa khai thác được

nguồn tài nguyên phong phú đa dạng đối với tạo việc làm. Việc phát triển

làng nghề ở Hà Tây không chỉ tạo việc làm cho người lao động mà còn có thể

thu hút thời gian của lao động phụ góp phần tiết kiệm thời gian, tăng thêm thu

nhập, giảm thiểu các tệ nạn xã hội. Muốn vậy cần ưu tiên giải quyết về vốn

đặc biệt là nguồn vốn lãi xuất thấp hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết mặt

bằng. Tìm kiếm mở rộng thị trường, hình thành các vùng nguyên liệu tập

trung, thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để bảo

đảm số lượng và chất lượng tốt cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản

thực phẩm trong các làng nghề.

79

Ba là: khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qui

mô vừa và nhỏ, bởi đây là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả hoạt động khá

cao, đóng góp đáng kể vào GDP của Tỉnh, tạo nhiều việc làm và thu hút NNL

đáng kể hiện nay. Năm 2001 khu vực này đã thu hút tạo thêm việc làm cho

5.500 lao động. Năm 2002 tạo việc làm thêm cho 6.000 lao động. Năm 2003

tạo việc làm cho 7.000 lao động. Muốn vậy, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần

khuyến klhích, hỗ trợ khu vực này về vốn thông qua hình thức bảo lãnh tín

dụng và vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, về thông tin kỹ thuật, mặt bằng sản

xuất, bảo đảm sự bình đẳng và tạo niềm tin cho các chủ đầu tư, có thể giảm

thuế trong thời gian đầu khi sản xuất các mặt hàng mới có hiệu quả kinh tế

cao.

Bốn là: đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Trong nhiều năm qua xuất khẩu

lao động được coi là một định hướng quan trọng, mũi nhọn trong việc tạo việc

làm cho hiệu quả cao, nhưng hiện nay xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn

trong việc thực hiện mục tiêu mà tỉnh đề ra năm 2004 (1.200 lao động). Số lao

động đưa sang nước bạn làm việc còn ít, không tương xứng với tiềm năng lao

động rất dồi dào của tỉnh, trong khi đó nhu cầu lao động ở nước bạn vẫn rất

lớn (như Hàn Quốc, Đài Loan). Vì vậy, cần tập trung tuyên truyền giáo dục

nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nhận

xuất khẩu lao động, nâng cao sự hiểu biết về phong tục tập quán, khả năng

giao tiếp ngoại ngữ, nâng cao ý thức chấp hành các nguyên tắc trong hợp tác

lao động cho người lao động. Hình thành và hoàn thiện mạng lưới chuyên đào

tạo NNL cho xuất khẩu. Tập trung đào tạo, chuẩn bị NNL có tay nghề và chất

lượng cao (bởi trong số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài mới chỉ

có 4% lao động chất lượng cao còn lại là lao động phổ thông) đáp ứng thị

trường lao động của khu vực và thế giới, nhất là các ngành xây dựng, điện tử,

tin học. Mặt khác cần thực hiện tốt chính sách cho vay vốn thế chấp để người

80

lao động có cơ hội đi xuất khẩu lao động với mức chi phí thấp, duy trì giữ

vững thị trường truyền thống và xây dựng các thị trường mới.

3.2.5. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực

Việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố

nhưng tác giả đề tài chỉ đề cập tới các vấn đề sau:

Một là: tạo lập duy trì mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo, đơn vị tuyển

dụng lao động và việc làm. Để phát huy có hiệu quả NNL cần phải đảm bảo

sự thống nhất trên cả ba mặt: đào tạo - sử dụng - việc làm. Việc gắn đào tạo

với sử dụng trong cơ cấu thống nhất sẽ giúp cho việc xác định đúng qui mô,

cơ cấu NNL đào tạo phù hợp với yêu cầu sử dụng để phát triển KT - XH khắc

phục tình trạng thừa, thiếu, bất hợp lý và lãng phí trong đào tạo, sử dụng

NNL. Muốn vậy phải điều tra xác định nhu cầu việc làm, nhu cầu sử dụng

nhân lực được đào tạo, phải nghiên cứu dự báo về xu hướng biến động của thị

trường lao động, xu hướng vận động của cơ cấu lao động trong quá trình

CNH, HĐH để có cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại các loại

hình lao động cho phù hợp. Hà Tây có thể thực hiện theo hướng nói trên qua

các nội dung sau:

- Gắn cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp:

Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp và các cơ sở sử

dụng lao động các nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo về qui mô và cơ cấu

ngành nghề. Cách làm này vừa khắc phục được tình trạng người học chỉ theo

một số ngành có lợi ích trước mắt, vừa hướng người học tự giác lựa chọn

ngành nghề theo cơ cấu lao động và trình độ tỉnh có nhu cầu, vừa bảo đảm

cho người học có được việc làm sau khi tốt nghiệp, vừa tạo điều kiện cho cơ

sở sử dụng lao dộng tuyển được lao động cần thiết và phù hợp đảm bảo năng

suất lao dộng cao. Mặt khác việc tạo mối liên thông giữa cơ sở đào tạo với

doanh nghiệp còn có thể giúp cho các trường khắc phục được những khó khăn

81

về tài chính, về cơ sở vật chất thực hành, thực tập trong đào tạo, nhờ có sự hỗ

trợ của các đơn vị tuyển dụng lao động được đào tạo.

- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các

địa phương miền núi. Việc làm này vừa góp phần quan trọng gắn đào tạo với

sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực

qua đào tạo và tình trạng dư thừa giả tạo lao động qua đào tạo trong Tỉnh, vừa

tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi. Tuy nhiên cũng cần phải

nhận thức rằng gắn đào tạo với sử dụng và việc làm không có nghĩa là người

học sau khi tốt nghiệp ra trường là nghiễm nhiên có việc làm ngay do được

phân công mà là nhằm điều chỉnh để tránh sự mất cân đối gữa cung - cầu lao

động một cách tổng thể. Từ đó giảm thiểu lãng phí trong đào tạo NNL và

giảm sức ép việc làm đối với nền kinh tế của tỉnh. Còn người học sau khi học

xong có được việc làm hay không họ phải đối mặt với những thử thách trên

thị trường lao động tuỳ thuộc vào khả năng họ đáp ứng được yêu cầu về kiến

thức, kỹ năng nghề nghiệp do các doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng đưa ra

qua các kỳ dự tuyển.

Hai là: khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của người lao động. Thực

tế hoạt động sản xuất cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc chủ

yếu vào cách thức tổ chức và phân công lao động, mức độ lành nghề và thái

độ của người lao động đối với công việc họ được đảm nhiệm. Vì vậy bên

cạnh việc đầu tư đào tạo, đào tạo lại để người lao động có trình độ chuyên

môn thích ứng, các đơn vị sử dụng lao động cần có biện pháp kích thích đối

với họ để khơi dậy và phát huy tính tích cực của người lao động. Song khích

thích người lao động bằng cách nào? có nhiều hình thức tác động nhưng trong

phạm vi đề tài này tác giả đề cập tới biện pháp tác động bằng lợi ích kinh tế.

Nếu xuất phát từ góc độ nhu cầu lợi ích kinh tế thì thu nhập thấp từ công việc

đang làm là nguyên nhân dẫn đến sự lãng phí nhân lực. Tình trạng làm việc

82

chung thì "cầm chừng..." để giữ chỗ làm còn tâm sức trí tuệ dồn cho việc làm

phụ thêm bên ngoài không phải là ít ở nhiều cơ quan xí nghiệp của Hà Tây.

Nhiều lao động do thu nhập thấp phải từ bỏ công việc chuyên môn được đào

tạo để làm những việc khác có thu nhập cao hơn, mặc dù biết là công việc đó

về lâu dài không được ổn định. Vì vậy tạo điều kiện để người lao động có

việc làm, có thu nhập cao thậm chí có thể làm giàu từ chính nghề nghiệp của

mình được coi là có ý nghĩa hơn cả và phù hợp với xu thế hiện nay để nuôi

dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng trong thực tế

chúng ta không thể ngay lập tức nâng cao thu nhập cho người lao động được

bởi nó không thể vượt quá sự đóng góp của lao động vào hiệu quả của nền sản

xuất. Do đó việc cần làm là bên cạnh việc tạo ra việc làm thường xuyên cho

người lao động, đồng thời làm cho người lao động nhận thức được rằng thu

nhập của họ do chính sự đóng góp lao động của họ quyết định. Từ đó có

thước đo phân phối theo kết quả lao động và phân phối theo giá trị sức lao

động có tính đến cung - cầu sức lao động để trả công tương xứng với sự công

hiến của người lao động. Đồng thời sử dụng các hình thức khen thưởng bằng

vật chất như: tiền thưởng, phiếu du lịch, tài trợ toàn phần cho một khoá học

bồi dưỡng nâng cao tay nghề đối với những người có ý thức trách nhiệm cao

và hoàn thành xuất sắc công việc được giao, hoặc khen thưởng đối với con em

người lao động khi đạt thành tích học tập cao, hoặc có thể tài trợ cho những

sinh viên là con của người lao động khi họ theo học các chuyên ngành phù

hợp hay liên quan đến hoạt động sản xuất của xí nghiệp để có thể thu nạp họ

trong tương lai. Những việc làm đó tác động trực tiếp đến người lao động làm

cho họ có ý thức trách nhiệm cao hơn với công việc và tạo ra được năng suất

lao động cao hơn.

3.2.6. Hình thành và phát triển thị trường lao động

83

Thị trường lao động với nghĩa chung nhất là một hệ thống trao đổi giữa

người đã có việc làm hoặc tìm kiếm việc làm (cung lao động) với những

người sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động (cầu lao động).

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến cấu trúc

việc làm và làm cho cấu trúc việc làm luôn biến động; thay đổi. Tức là cầu lao

động biến đổi và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng cũng như

cơ cấu về cung lao động. Tính linh hoạt này đặt ra cho đào tạo một mặt phải

tập trung mọi nỗ lực trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người

lao động phù hợp với yêu cầu tuyển dụng, mặt khác phải thường xuyên điều

chỉnh chương trình, nội dung đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp,

có khả năng chuyển đổi để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao

hơn của người lao động đối với các điều kiện việc làm khác nhau (như điều

kiện áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao). Như vậy, cơ sở đào tạo phải tổ

chức đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đáp ứng yêu cầu

của thị trường lao động mới tạo ra được khả năng cạnh tranh cao cho sản

phẩm của mình. Còn người học muốn có cơ hội và hy vọng tìm kiếm việc làm

họ phải nhận biết, phân tích thông tin thị trường lao động, xác định khả năng

của mình để quyết định theo học nghề gì? cấp trình độ nào cho phù hợp.

Trên thị trường lao động, người lao động tìm kiếm việc làm thông qua

quan hệ thoả thuận với người sử dụng lao động về tiền lương, tiền công dưới

hình thức hợp đồng lao động khi anh ta đáp ứng được yêu cầu của người sử

dụng về trình độ, năng lực. Người sử dụng lao động sẽ được đáp ứng yêu cầu

tuyển dụng lao động khi anh ta đồng ý trả cho người lao động một khoản tiền

và điều kiện làm việc tương xứng. Chính điều này làm cho người sử dụng lao

động phải cân nhắc kỹ lưỡng khi anh ta đưa ra yêu cầu tuyển dụng lao động

và phải có biện pháp quản lý, tác động tích cực để khai thác sử dụng lao động

một cách hiệu quả để đảm bảo được lợi ích kinh tế. Khi thị trường lao động

84

được hình thành và phát triển, sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trường

sẽ tác động tới tất cả các chủ thể như: nhà nước, người sử dụng lao động,

người lao động, người đào tạo lao động... làm cho việc đào tạo nhân lực phải

dựa trên cơ sở cầu lao động. Việc đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ

nào, số lượng bao nhiêu phải do cầu quyết định. Một mặt đã làm cho đào tạo

ngày càng gắn với sử dụng; mặt khác làm cho việc sử dụng lao động cũng

ngày càng hợp lý và hiệu quả cao hơn, đồng thời khắc phục được lãng phí xã

hội trong cả đào tạo và sử dụng nhân lực.

Rõ ràng đã đến lúc việc đào tạo và sử dụng NNL của cả nước nói

chung và Hà Tây nói riêng phải tính đến việc vận dụng các quy luật của kinh

tế thị trường để hình thành và phát triển được thị trường lao động. Từ đó, xác

lập khung pháp lý cho thị trường lao động, cung cấp thông tin cho thị trường

lao động và dịch vụ việc làm sẽ làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả; nối

được cung với cầu lao động, tạo điều kiện để nhiều người có cơ hội tìm kiếm

việc làm phù hợp hơn. Nhờ đó giải quyết được một cách thoả đáng mối quan

hệ đào tạo - sử dụng NNL để phục vụ cho mục tiêu CNH, HĐH. Trước mắt

Hà Tây cần đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả của các hội chợ việc

làm, các trung tâm dịch vụ việc làm tạo cơ sở cho sự hình thành thị trường lao

động

3.2.7. Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền địa phương Hà Tây

đối với việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực 3.2.7.1. Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo, tăng nhanh dạy nghề

Trong điều kiện hiện nay, lợi thế tương đối về lao động giản đơn đã

mất dần ý nghĩa, lợi thế đã thuộc về những quốc gia nào có lực lượng lao

động được đào tạo có trình độ ngang tầm với đòi hỏi của công nghệ hiện đại,

vì vậy việc đào tạo NNL ở nước ta phải gắn với sự phát triển của khoa học

công nghệ, phải tạo ra được đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ

85

hiện đại theo hướng tiếp cận nhanh với kinh tế tri thức. Như phần thực trạng

đã chỉ rõ, do cơ cấu của NNL qua đào tạo ở nước ta nói chung và ở Hà Tây

nói riêng đang có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học, cao đẳng

- trung học chuyên nghiệp - dạy nghề. Cho nên trong những năm trước mắt

cần phải điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng mở rộng qui mô dạy nghề

nhằm đáp ứng nhu cầu về số công nhân ký thuật rất lớn hiện nay. Để giải

quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và

phát triển dạy nghề cụ thể là:

- Phát triển và hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề, các trung tâm

dạy nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề cho nhân dân. Khuyến khích các

doanh nghiệp mở lớp, mở trường dạy nghề và tăng cường hệ thống đào tạo

kèm cặp như thợ cả kèm thợ phụ, bồi dưỡng ngoài giờ làm việc theo chuyên

ngành gắn với những thay đổi của kỹ thuật công nghệ.

- Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách hỗ trợ cho các địa

phương, điều chỉnh phân bố cơ cấu ngân sách theo hướng ưu tiên hơn cho

lĩnh vực dạy nghề, bên cạnh đó cần khuyến khích huy động các nguồn đóng

góp của xã hội cho dạy nghề, cho các quỹ khuyến công, khuyến nông. Có

chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ trong các trường đại học, cao đẳng,

các viện nghiên cứu, các trường dạy nghề, mở rộng qui mô nghiên cứu khoa

học, gắn khoa học với sản xuất, giảng dạy với thực tiễn để nâng cao chất

lượng đào tạo và thúc đẩy KT - XH phát triển.

- Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần tăng cường sự quản lý nhà nước và tăng

đầu tư đối với giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề nhằm điều chỉnh

những hoạt động chệch hướng để nâng cao chất lượng đào tạo, mở mang các

mô hình giáo dục đào tạo mới. Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối với việc

đào tạo NNL cho vùng miền núi.

86

- Thiết lập và tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở sử dụng lao động với

các cơ sở đào tạo NNL dưới sự quản lý của chính quyền Tỉnh, đồng thời có

chính sách và định mức cụ thể để các doanh nghiệp đóng góp cho việc sử

dụng lao động theo trình độ đào tạo.

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo NNL. Huy

động vốn đầu tư cho đào tạo nghề thông qua các tổ chức quốc tế UNICEF,

UNESCO, WB, và các tổ chức phi chính phủ.

3.2.7.2. Đổi mới cơ chế chính sách sử dụng nguồn nhân lực

Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cơ

chế chính sách sử dụng NNL cũng đã có những đổi mới căn bản theo hướng

gắn với cơ chế thị trường. Cơ chế này đã bước đầu phát huy được vai trò tích

cực trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, tuy nhiên nó cũng bộc lộ

những hạn chế và gây lãng phí không nhỏ về NNL. Vì vậy cần phải tiếp tục

đổi mới cơ chế chính sách sử dụng để phát huy được vai trò to lớn của NNL

trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo các nội dung sau đây:

- Thực hiện nhất quán chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động theo

cơ chế thị trường.

- Có chính sách hỗ trợ cho người sử dụng nhiều lao động và có chính

sách khuyến khích cơ sở sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới để thu hút

và khai thác được NNL đã qua đào tạo khắc phục tình trạng chảy máu chất

xám.

- Có chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài (những nhà khoa học, các

nhà quản lý, kinh doanh giỏi, giáo viên giỏi...) về làm việc trong Tỉnh.

Các giải pháp nêu trên đối với đào tạo và sử dụng NNL có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ. Kết quả của

việc thực hiện thể hiện rõ việc nhận thức và giải quyết một cách linh hoạt,

đồng bộ mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng NNL, giữa cung và cầu NNL

87

trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Hà

Tây.

88

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu, luận văn đưa lại những kết quả sau:

1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một quá trình tất yếu của

việc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là

chủ yếu lên một nước công nghiệp sản xuất lớn tiên tiến và xã hội chủ nghĩa.

Thực chất của CNH, HĐH ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho

CNXH.

2. Kết quả của CNH,HĐH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, điều kiện,

trong đó NNL là yếu tố và điều quan trọng nhất bởi xét đến cùng nó là nguồn

lực của mọi nguồn lực. Song NNL có thể trở thành nguồn lực của mọi nguồn

lực hay không, có thể phục vụ tốt cho sự nghiệp CNH, HĐH hay không điều

này phụ thuộc rất lớn vào việc xã hội đã đào tạo và sử dụng NNL đó như thế

nào? Chính vì vậy đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH có vai

trò to lớn, đã và đang được Nhà nước, các địa phương và nhân dân rất quan

tâm.

3. Hà Tây đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, việc đáp ứng

nhu cầu về NNL thông qua đào tạo cho sự nghiệp CNH, HĐH là một đòi hỏi

cấp thiết hiện nay, là “chìa khoá” của sự thành công đối với Hà Tây trên con

đường phát triển kinh tế - xã hội.

4. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mình, qua khảo sát đặc điểm

và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian qua ở Hà Tây cho thấy:

Hà Tây có nhiều thuận lợi song cũng còn không ít khó khăn. Mặc dù vậy, Hà

Tây đã có nhiều cố gắng trong đào tạo và sử dụng hợp lý NNL, nhưng kết quả

của nó so với yêu cầu CNH, HĐH mới chỉ dừng lại ở mức khiêm tốn. Tình

trạng bất hợp lý trong đào tạo và sử dụng NNL cả về qui mô, cơ cấu, trình độ

luôn xảy ra làm cho việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ của CNH, HĐH gặp

89

khó khăn, việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra

chậm so với yêu cầu.

5. Trước tình hình đó để khắc phục một cách có hiệu quả những hạn

chế, đẩy nhanh việc đào tạo và sử dụng NNL trên con đường phát triển. Hà

Tây cần có những phương hướng phát triển đúng đắn. Từ phương hướng

chung của CNH, HĐH, luận văn đã đưa ra nhưng định hướng cụ thể của việc

đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian tới của Hà tây đến 2010.

6. Dưới góc độ nghiên cứu Kinh tế chính trị, luận văn đã đề xuất một số

giải pháp để góp phần khắc phục tình trạng "vừa thừa vừa thiếu" và bất hợp lý

về qui mô, cơ cấu, trình độ NNL, khắc phục sự non kém về trình độ, sự tha

hoá về đạo đức của một số cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và nâng

cao trình độ NNL để đào tạo ra NNL chất lượng cao cũng như việc giải quyết

mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng NNL trên thị trường lao động,

đảm bảo sao cho Hà Tây có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng

lao động.

7. Tác giả tin tưởng rằng, các phương hướng và giải pháp đưa ra trên cả

hai tầm vĩ mô và vi mô nếu được thực hiện một cách đồng bộ, linh hoạt và

kiên quyết đủ sức thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL phát triển có hiệu

quả phục vụ tốt yêu cầu CNH,HĐH trong thời gian tới ở Hà Tây.

8. Đào tạo và sử dụng NNL là một vấn đề có nội dung rộng lớn và liên

quan đến nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Để có thể thực hiện

thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH từ năm 2000 - 2010 theo hướng CNH,

HĐH Hà Tây cần có những nghiên cứu tiếp theo, mà kết quả của luận văn này

chỉ mới là bước đầu.

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alvin Toffer (1992), Thăng trầm quyền lự, NXB Thông tin lý luận, Hà

Nội.

2. Giang Bằng (2004), "Xã hội hoá công tác dạy nghề ,"Báo Hà Tây số

(3.014), tr. 1 - 7.

3. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu CNH, HĐH đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), Nguồn nhân lực trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam

lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Vũ Huy Chương (2002), Vấn đề tạo nguồn nhân lực tiến hành công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Cục thống kê Hà Tây (1996, 2000 đến 2003), Niên giám thống kê Hà

Tây.

8. Nguyễn Hữu Dũng (2002), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế", Tạp chí Lý luận chính trị, ( 8), tr.20-24.

9. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở

Việt Nam, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91

12. Đảng Cộng sản Việt nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ II, Ban Chấp

hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp

hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp

hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết hội nghị Trung ương 6

khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết hội nghị Trung ương 9

khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng bộ Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây

lần thứ lần thứ IX.

21. Bùi Hữu Đức (2004), "Để các làng nghề ở Hà Tây phát triển", Tạp chí

Cộng Sản (14), tr. 65-68.

22. Tống Văn Đường (1995), Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý lao

động, tiền lương trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

23. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực

trong điều kiện mới, Đề tài KX - 07, Hà Nội.

92

24. Phạm Minh Hạc và các tác giả (1996), Vấn đề con người trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

25. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục

vụ phát triển xã hội - kinh tế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn nhân lực và

giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.

27. Kinh tế chính trị Mác - Lênin (2002), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Lê Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào

tạo kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

29. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 38, tập 41, NXB Tiến bộ Mátxcơva, tr.

364 - 365.

30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đỗ Mười (1996), Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo phục vụ đắc lực

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

32. Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội. tr. 438 - 474.

33. Phan Thanh Phố (1994), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó

với phân công lại lao động xã hội”, Tạp chí Lao động và Xã hội.

34. Phan Thanh Phố ( 2001), “Phát triển nguồn nhân lực theo hướng kinh tế

tri thức”, Tạp chí Kinh tế và phát triển.

35. Nguyễn Duy Quý (1998), “Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, Tạp chí Cộng Sản,

(19), tr.24.

93

36. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tây (6/2001), Chiến lược phát triển Giáo

dục đào tạo Hà Tây đến năm 2010.

37. Sở Thương mại và Du lịch Hà Tây, Đề án phát triển du lịch Hà Tây

2001 - 2005.

38. Sở Công nghiệp Hà Tây (2000), Làng nghề Hà Tây, XB 2001.

39. Sở Công nghiệp - sở Giáo dục - sở Lao động Thương binh và Xã hội

tỉnh Hà Tây (1999), Về đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề, nhân cấy nghề

mới và giải quyết việc làm.

40. Lê Hữu Tăng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Thơm (2003), "Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải

pháp nâng cao", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.59-64.

42. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực, kinh

nghiệm thế giới và thực tiễn ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây (2000), Qui hoạch tổng hợp phát triển

kinh tế - xã hội Hà Tây đến 2010.

44. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Hà Tây

giai đoạn 2000 đến 2003.

45. Nghiêm Đình Vỳ (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Viện Thông tin (1995), Con người và nguồn lực con người trong phát

triển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47. Hồ Trọng Diện (2003), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Tạp chí Lý

luận chính trị, (1), tr.49-53.

94

48. Hà Yên (2004), "Xuất khẩu lao động - Một thách thức lớn cho khát

vọng vươn tới thị trường lao động quốc tế", Tạp chí Lao động và Công

Đoàn, (305), tr.25-41.

PHỤ LỤC

95

Phụ lục 1: Dân số trung bình phân theo thành thị - nông thôn

Tổng số dân số

Thành thị

Nông thôn

Năm

Tổng số

Tổng số

Tổng số

Chỉ số

Chỉ số

Chỉ số

phát triển

phát triển

phát triển

1994

2.254.505

100%

147.135

100%

2.107.370

100%

1995

2.283.381

101,28

181.273

123,20

2.102.108

99,75

1996

2.314.294

101,35

183.845

101,42

2.130.449

101,35

1997

2.342.115

101,20

185.588

100,95

2.156.527

101,22

1998

2.364.764

100,97

186.920

100,72

2.177.844

100,99

1999

2.393.549

101,22

190.006

101,65

2.203.534

101,18

2000

2.420.936

101,14

192.056

105,08

2.228.880

101,15

2001

2.448.446

101,14

202.243

105,30

2.246.223

100,78

2002

2.473.000

101,00

207.060

102,38

2.265.940

100,88

2003

2.489.200

100,66

232.736

112,40

2.256.464

99,58

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.

96

Phụ lục 2: Diện tích và dân số trung bình năm 2003

phân theo huyện và thị xã

TT Đơn vị hành chính Dân số

Diện tích (km2) (ngƣời) Mật độ dân số (ngƣời/km2)

Tổng số

2191,6

2.489.200

1.136

1. Thị xã Hà Đông 32,9 136.434 4.147

2. Thị xã Sơn Tây 113,5 118.112 1.041

3. Huyện Ba Vì 428,0 253.229 592

4. Huyện Phúc Thọ 117,0 156.770 1.339

5. Huyện Đan Phượng 76,6 132.288 1.727

6. Huyện Thạch Thất 128,1 149.614 1.168

7. Huyện Hoài Đức 88,3 182.828 2.071

8. Huyện Quốc Oai 129,5 148.879 1.150

9. Huyện Chương Mỹ 232,9 237.440 1.174

10 Huyện Thanh Oai 132,2 184.568 1.396

11 Huyện Thường Tín 127,7 201.820 1.580

12 Huyện Mỹ Đức 230,0 172.016 748

13 Huyện ứng Hoà 183,7 194.307 1.058

14 Huyện Phú Xuyên 171,1 184.895 1.081

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.

97

Phụ lục 3: Dự báo một số chỉ tiêu phát triển KT - XH của tỉnh Hà Tây

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2005 2010

1. Tăng GDP % 7,95 8 10

2. DGP (giá thực tế) Tỷ đồng 7.000 15.365 33.543

3. GDP/người Triệu đồng 3,0 6,066 12,663

4. Dân số Triệu người 2,410 2,533 2,649

- Tỷ lệ tăng dân số 1,4 1,1 % 0,8

5. Lao động trong độ tuổi Triệu người 1,320 1,481 1,523

6. Cơ cấu lao động: 100 100 100

- Nông, lâm nghiệp 41 35 % 23

- Công nghiệp, xây dựng 30,5 35 % 40

Nguồn: Báo cáo rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Hà Tây

- Dịch vụ 28,5 30 % 37

đến năm 2010.

98

Phụ lục 4: Hệ thống màng lƣới các trƣờng trên địa bàn tỉnh Hà Tây

4.1. Các trường trung học chuyên nghiệp

TT Tên trƣờng Địa chỉ

1. THDN Nông nghiệp và PTNN Thị trấn Xuân Mai - Hà Tây

2. TH Công nghiệp Việt Hung P Xuân Khanh - Sơn Tây

3. TH Kinh tế Hà Tây Km 15 - Quốc lộ 6A - Ba La

4. TH Phát thanh truyền hình Thường Tín - Hà Tây

5. TH Y tế Hà Tây 8 Đoàn Trần Nghiệp - Hà Đông

6. TH Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh 2 Trần Phú - TX Hà Đông

4.2. Các trường Cao đẳng, Đại học

TT Tên trƣờng Địa chỉ

1. Đại học Lâm nghiệp Thị trấn Xuân Mai - Chương Mỹ

2. Đại học SP Thể dục Thể thao Phụng Châu - Chương Mỹ

3. Đại học Biên phòng Sơn Lộc - thị xã Sơn Tây

4. Học viện Khoa học quân sự Kim Chung - thị xã Hà Đông

5. Học viện Quân Y Thị xã Hà Đông

6. Cao đẳng Kinh tế Hà Tây Thị trấn Xuân Mai - Chương Mỹ

7. CĐ KT - Kỹ thuật thương mại Phú Lãm - Thanh Oai

8. Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Thường Tín - Hà Tây

9. Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây Xuân Mai - Chương Mỹ

99

Phụ lục 5: Các cụm công nghiệp của Hà Tây

TT Tên cụm

Diện

Địa điểm

Chức năng

tích (ha)

1. La Khê

10

Ba La

Cơ khí điện tử

2. Vạn Phúc

Vạn Phúc

Công nghiệp dệt

5

3. Cầu Bươu

Cầu Bươu

Công nghiệp vật liệu xây dựng

5

4. Xuân Khanh

Sơn Tây

Công nghiệp vật liệu xây dựng

20

5. Miếu Môn

Miếu Môn

Tiêu dùng, chế xuất

10

6. Xuân Mai

Xuân Mai

Công nghiệp vật liệu xây dựng

10

7.

Phú Nghĩa

Chương Mỹ

Cơ khí, điện

10

8. Thanh Oai

Thanh Oai

Chế biến thịt, nhựa, giầy

30

9.

Phú Xuyên

Phú Xuyên

công nghiệp cơ khí, điện

20

10 Trạm Trôi

TT Trạm Trôi Dụng cụ gia đình, thể thao

25

11 Ngãi Cầu

Ngãi Cầu

Điện tử, cơ khí, TAGS

20

12 Phúc Thụ

Phúc Thụ

Chế biến nông sản thực phẩm

7

13 Thạch Thất

P.Xá

Cơ khí

10

14 Ba Vì

Ba Trại

Chế biến nông sản thực phẩm

10

15 Thường Tín

Liên Phương Chế biến nông sản thực phẩm

20

16 Vân Đình

Tân Phương

Cơ khí

20

17 Hoài Đức

An Khánh

Công nghệ sạch

50

Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây .

100

101

Phụ lục 6: Số cơ sở, số lao động trong cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể

có đến 1/10/2003 tỉnh Hà Tây

TT

Tổng số

Tổng số

Trong đó, lao

Ngành sản xuất

cơ sở

lao động

động thuê ngoài

và kinh doanh

(cơ sở)

(ngƣời)

(ngƣời)

Tổng số 12.253 231.075 13.742

1. Công nghiệp khai thác mỏ 201 1271 397

2. Công nghiệp chế biến 67.564 150.103 11.461

3. SX và phân phối điện, khí đốt 70 86 2

4. Xây dựng 1.822 3.849 520

5. Thương nghiệp, sửa chữa xe 36.121 48.137 795

6. Khách sạn và nhà hàng 8.875 13.438 186

7. Vận tải, kho bãi, thông tin LL 7.599 9.838 276

8. Tài chính, tín dụng 60 63

9. KD tài sản và dịch vụ tư vấn 1.177 1.630 27

10 Giáo dục đào tạo 26 53 4

11 Y tế và hoạt động cứu trợ XH 317 535 3

12 Hoạt động văn hoá, thể thao 265 452 26

13 Hoạt động dịch vụ khác 1.156 1.620 45

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.

102

MỤC LỤC

Mở đầu ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 3 6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn. ......................................................... 4 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 4

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. ........... 5 1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ...................................................................................................... 5 1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hưởng và vai trò đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực .................................................................................................... 21

Chƣơng 2. Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây................................... 38

2.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây .. 38 2.2. Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây thời gian qua .............. 43 2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ......................................................................................... 57

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới ở Hà Tây ................................................................... 65 3.1. Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ............................ 65 3.2. Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Tây .................................................................................................. 73 Kết luận ....................................................................................................... 89 Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 91

103

Phụ lục ........................................................................................................ 95

104