ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ TÂM ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ TÂM ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN THANH PHỐ
HÀ NỘI - 2004
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện,
song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để sự nghiệp CNH, HĐH
thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lự, tiềm lực khoa
học và công nghệ... trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan
trọng.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được
coi là “chìa khoá" của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luận vào điều
kiện cụ thể của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ
là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" và phát triển giáo dục đào
tạo không chỉ là "Động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH mà còn
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển
xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững " [17, tr.108 - 109].
Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều
nhiệm vụ trong đó, có nhiệm vụ đào tạo và sử dụng NNL. Nhiệm vụ này vừa
là nhiệm vụ chung của cả nước, vừa là nhiệm vụ của mỗi địa phương.
Cũng như các địa phương khác, Hà Tây trong thời gian qua đã và
đang có những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNL và đã thu
được kết quả nhất định. Song cho đến nay về cơ cấu; chất lượng đào tạo và sử
dụng NNL chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Tình trạng vừa
thừa vừa thiếu NNL trong sử dụng luôn xảy ra.
Để góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn và tìm những lời
giải khoa học đối với việc đào tạo và sử dụng NNL phục vụ tốt quá trình
1
CNH, HĐH ở Hà Tây. Tôi chọn đề tài: “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây” nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề NNL đối với CNH, HĐH cho đến nay đã có nhiều công trình
khoa học, nhiều cuốn sách, bài báo nghiên cứu và đăng tải, dưới đây là một số
công trình tiêu biểu:
- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Phan Xuân Dũng, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/1997.
- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
giáo sư, tiến sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của tiến sĩ
Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lý luận chính trị, 8/2002.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước của tác giả Mai Quốc Chánh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999.
- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác
giả Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
Tuy nhiên, do nội hàm của vấn đề quá rộng và phức tạp nên chưa thể
coi những công trình nghiên cứu nói trên là đầy đủ và hoàn thiện, các giải
pháp đưa ra còn rất chung chưa thể coi là hoàn toàn thích hợp khi vận dụng ở
Hà Tây. Xung quanh vấn đề đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây tuy đã được
nghiên cứu và được thể hiện trong một số công trình và bài báo nhưng chưa
2
nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ với tư cách như một đề
tài mang tính độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL
trong quá trình CNH, HĐH, đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản
thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH trong thời
gian tới ở Hà Tây.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về NNL, đào tạo và sử dụng NNL
trong quá trình CNH, HĐH.
- Phân tích thực trạng đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo
và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH thời gian tới ở Hà Tây.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH
làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu:
Lấy Hà Tây làm không gian nghiên cứu và giới hạn về thời gian khảo
sát từ 1996 đến nay.
Các giải pháp đề cập trong luận văn là những giải pháp cơ bản nhìn từ
góc độ kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
3
Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL, về đào tạo và sử
dụng NNL.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng việc sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích và
tổng hợp. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng phương pháp
thống kê định lượng so sánh v.v.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn.
* Đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đào
tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo
và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.
* Ý nghĩa của luận văn:
- Kết quả của luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định
sự phát triển NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
môn Kinh tế chính trị trong các trường Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 7 tiết.
4
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 2: Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây .
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời
gian tới ở Hà Tây
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực
I.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, là một quá trình tất yếu của lịch sử phát triển xã hội.
Các nước công nghiệp trên thế giới đều đã trải qua quá trình CNH ở những
thời điểm khác nhau với qui mô, tốc độ khác khác nhau, trong những điều
kiện lịch sử KT - XH khác nhau. Xét về mặt lịch sử thì CNH là quá trình diễn
ra trước HĐH, nhưng trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen, tác động
qua lại lẫn nhau, hai quá trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Về
mặt thuật ngữ cho thấy HĐH là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật - công nghệ
và kinh tế đạt trình độ của thời đại ngày nay Nói cách khác, HĐH nền kinh tế
quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế
của đất nước đạt được ngang với trình độ của thời đại, đây chính là khía cạnh
kinh tế - kỹ thuật của HĐH. Tuy nhiên, HĐH không phải chỉ như vậy mà còn
bao hàm cả khía cạnh xã hội, gắn với quá trình xây dựng một xã hội văn
5
minh. Như vậy, quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình KT - XH có quan hệ
biện chứng với nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất cho
việc thực hiện nội dung của quá trình KT - XH và đến lượt mình quá trình KT
- XH lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế kỹ
thuật. Sự phát triển CNH hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn còn là quá trình xây
dựng và phát triển văn hoá trong đó phát triển con người và nguồn lực con
người là nội dung cốt lõi.
Ở nước ta, một nước tiến hành CNH sau, nên CNH phải gắn liền với
HĐH, bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng
kỹ thuật: cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại này đã
dẫn tới sự thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Là nước tiến hành
công nghiệp sau nên chúng ta không thể thực hiện theo mô hình CNH phát
triển theo kiểu tuần tự như các nước đi trước, nghĩa là tiến hành với nội dung
căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành HĐH. Vả
lại khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc được sản xuất
trước đây mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến. Với ý
nghĩa trên Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
và Đại hội Đảng lần thứ IX, nhấn mạnh về con đường CNH rút ngắn đáng kể
về thời gian, vừa có bước đi tuần tự vừa có bước nhảy vọt, muốn vậy CNH
phải gắn liền với HĐH. Đảng ta quan niệm CNH, HĐH là: "Quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý
KT - XH từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ và phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [14, tr. 80].
6
Thực chất CNH, HĐH ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến
hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH nhằm đạt
năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá trình tăng
thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc
thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững
hiệu quả cao theo định hướng XHCN trong tất cả các ngành, các vùng và các
thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành khi nghiên cứu về vai
trò của yếu tố con người trong sự phát triển KT - XH. Nguồn nhân lực được
đề cập trên nhiều góc độ khác nhau:
- Theo lý thuyết phát triển, NNL được hiểu theo nghĩa rộng là nguồn
lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận cấu thành của các
nguồn lực, là lực lượng lao động của một quốc gia có thể huy động để tham
gia vào quá trình phát triển KT - XH, đó là bộ phận dân số trong độ tuổi qui
định có khả năng tham gia lao động.
- Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn
(vốn người "Tư bản người"), một thành tố cơ bản của quá trình sản xuất, kinh
doanh. Ngoài ra lý luận về vốn người còn xem xét con người từ quan điểm về
nhu cầu, về các nguồn cho sự phát triển của nó. Đầu tư cho con người được
phân tích tương tự đầu tư vào các nguồn lực vật chất có tính đến tổng hiệu
quả của các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các
đầu tư đó. Cách tiếp cận này được áp dụng một cách phổ biến ở các nước hiện
nay. Theo cách tiếp cận này Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn
người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây
7
con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác
như: vốn bằng tiền, công nghệ, tài nguyên. Việc đầu tư cho con người giữ vị
trí trung tâm trong các loại đầu tư và là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền
vững. Do đó NNL là nguồn vốn đặc biệt, nhất là trong giai đoạn phát triển của
kinh tế tri thức gắn với đặc trưng của lao động trí tuệ.
- Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong
Chương trình cấp nhà nước KX - 07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực
phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [24, tr.28].
Như vậy, nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất
lượng.
- Về số lượng: nguồn nhân lực phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể
có được của cá nhân và qui định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam hiện nay, Luật Lao động qui định độ tuổi lao động đối với nam từ 15 -
60, đối với nữ từ 15 - 55. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển KT - XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa
hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ
dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu
thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển
kinh tế đất nước.
- Về chất lượng, nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh
thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm
chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt:
thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là
phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần
đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí
lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL
8
bởi có nó con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa
học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã
nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua
đầu óc của họ" [32, tr.438].
Từ những phân tích trên cho thấy: nguồn nhân lực là tổng hợp những
con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với tổng thể
các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực. Với cách hiểu này, NNL bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã
hội theo Luật lao động quy định.
1.1.1.3. Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
* Đào tạo nguồn nhân lực:
Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy
đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển
NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc
sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng
nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo và nhiều khi bao
gồm cả khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào
tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và
nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công
lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống
và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp.
Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản
xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật - công nghệ và
văn hoá của đất nước. Có nhiều dạng đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên
môn, đào tạo cơ bản, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập trung, đào
9
tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy
trong nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân
cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc
vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc
tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh
nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá
trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả
cao.
Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp
ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau:
- Nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.
- Nhân lực trong lĩnh vực hành chính công.
- Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.
- Nhân lực trong lĩnh vực lao động thuộc các ngành nghề kinh tế, kỹ
thuật.
Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải
đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức
các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng
tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành
nghề theo sự phân công lao động xã hội.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động,
dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành
người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định,
có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ
của quá trình phát triển KT - XH.
10
Đào tạo NNL tạo lên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm
năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù
hợp với yêu cầu phát triển KT - XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu sau:
- Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng và việc
làm phải gắn và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị
trường lao động.
Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với
nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu
cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng.
Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề trường Đại học,
Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường,
lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy
nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào
tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới
của nền sản xuất - xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề
- lành nghề - trình độ cao; đào tạo trình độ trình độ sơ cấp - trung học chuyên
nghiệp - cao đẳng - đại học và sau Đại học.
* Sử dụng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ
thống các yếu tố tổ hợp thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về
chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp,
thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức
lao động, như Mác nói khả năng mà con người có thể thông qua lao động để
11
biến thành hiện thực. Từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH và sự
phát triển KT - XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy
nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang
trạng thái động tức là phải được đem phân bố sử dụng nó một cách có hiệu
quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành
vốn nhân lực.
Sử dụng NNL tức là tiêu dùng sức lao động của con người trong quá
trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu
cầu sản xuất và nhu cầu con người trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất
đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản
xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền
sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT - XH. Bởi vậy sử dụng
NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con
người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát
triển KT - XH.
Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó
phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những
cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào
tạo (đặc biệt là đào tạo nghề).
Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có
thể được xem xét trên các khía cạnh sau:
Một là, nguồn nhân lực được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao
gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và
các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao
động sản xuất. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu
cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.
12
Hai là, con người khi tham gia vào các quá trình phát triển KT - XH
không những chỉ sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động
trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước
vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của lao động trí tuệ của con
người thể hiện ngày càng rõ nét. Dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do
lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất
và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể
khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan
trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của
NNL qua đào tạo.
Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã
và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và
việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình
phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển việc sử dụng lao động theo
chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước
chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và
trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta vẫn cần thiết
phải sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu.
Nói tóm lại, để khai thác, phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải
căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT - XH
trong từng thời kỳ của quốc gia.
1.1.2. Mối quan hệ tác động giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và NNL có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối
quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao
13
giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể
của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân
loại, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con
người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự
nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện:
1.1.2.1. Sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến đào tạo và sử
dụng nguồn nguồn nhân lực
Thứ nhất: Đối với đào tạo nguồn nhân lực
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời
đòi hỏi rất nhiều ở Giáo dục đào tạo NNL. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác
định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp
được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các
nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải
có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt
phải có NNL trình độ cao.
- Trong suốt tiến trình CNH, HĐH một mặt bao giờ cũng kéo theo và
đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua
đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có
trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL.
Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên
một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không
đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử
dụng những phương tiện đó nữa” [32, tr. 474].
- Mặt khác, CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết để cho định
hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để
cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ
14
của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất
thiết phải tính đến.
+ Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH, HĐH, sự biến đổi về kinh
tế, kỹ thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL
và đòi hỏi NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất luơng cao.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá con là cơ sở quan trọng cho việc thực
hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Điều đó
tác động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH, HĐH đất
nước.
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, nhanh chóng đổi mới đưa
kỹ thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến, thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, công
nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng tỷ trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng
và số tuyệt đối lao động công nghiệp và dịch vụ tăng. Đặc biệt CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn đòi hỏi vệc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu
về chất lượng mà ngày càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng,
qui mô, cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ và cho các lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở
nông thôn. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao
động và sức cạnh tranh của lao động nước ta. Vì vậy việc đào tạo NNL phải
làm tốt công tác dự báo, phải điều chỉnh qui hoạch đào tạo; bồi dưỡng thường
xuyên NNL bao gồm cả đào tạo CĐ ĐH, THCN và đào tạo nghề với các cấp
trình độ bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao cho các ngành, các lĩnh vực
KT - XH để khắc phục sự bất cập về trình độ, qui mô, cơ cấu của NNL hiện
nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghệ hiện đại mới. Vấn đề này đã được
nêu trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6: "Điều chỉnh cơ cấu đào tạo,
15
tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hoá một số trường
dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử
dụng công nghệ mới và công nghệ cao" [18, tr.129].
Như vậy, vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất
lượng vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng, qui mô, cơ cấu trình độ và thực tiễn
phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau, trên địa bàn lãnh
thổ khác nhau. Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực
tiễn; nhu cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối "rất thiếu nhưng
rất thừa nhân lực hiện nay" như định hướng của Hội nghị Trung ương 6, khoá
IX: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục. Phát triển qui mô Giáo dục
cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu
đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT - XH, đào tạo với sử dụng"
[18, tr. 126].
Thứ hai: Đối với sử dụng nguồn nhân lực.
Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển. Khi xác định
chiến lược phát triển đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những
nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước là con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất và tiềm lực
khoa học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý). Nhưng các nguồn lực đó tự nó không thể tham
gia vào các quá trình KT - XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Để thực
hiện được mục tiêu của CNH chúng ta không thể không khai thác, sử dụng
phát huy tối đa nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con
người mới có thể tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm
năng thành hiện thực. Hơn nữa, nguồn lực con người không chỉ quyết định sử
dụng hiệu quả việc khai thác các nguồn lực tự nhiên mà còn góp phần tạo ra
các nguồn lực mới. Như Mác - Ăngghen đã nói: "Những con người có năng
16
lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ
hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng các
nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội..." [32, tr.474-475].
Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan
trọng nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm
năng của nó đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng
hơn. Điều này đã được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các
nước trong khu vực và thế giới. Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay
là với một nguồn lực lao động dồi dào nhưng còn có những điểm bất cập về
trình độ, cơ cấu, sự phân bổ lao động trong các ngành, vùng chưa hợp lý
nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu quá xa về kinh tế kỹ thuật bởi vậy cần
phải có chính sách phân công lao động hợp lý để có thể thu hút được tất cả
lực lượng lao động xã hội, tạo điều kiện cho mọi người đều có việc làm, có cơ
hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Lực lượng lao động xã hội phải được xem như một tổng thể nằm trong một cơ
cấu lao động thống nhất. Ở đó, mỗi cá nhân người lao động được sử dụng
đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật, đúng công việc mà mình yêu thích theo
hướng toàn dụng lao động. Mặt khác dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng, với ý nghĩa
đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở thành yêu cầu cơ bản
nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất, hiệu quả lao động
cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ phân công và hợp tác lao động
quốc tế ngày càng mở rộng, việc sử dụng NNL càng mang tính mở rộng, tính
quốc tế hoá cao. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài ở mỗi quốc gia
trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại, cơ cấu ngành nghề, trình độ
chuyên môn, do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh
tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động. Xuất
17
khẩu lao động - một mặt nhằm giải quyết việc làm, giảm bớt những căng
thẳng về lao động dư thừa trong nước, tăng thu nhập cho người lao động và
tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước và mặt khác, đây còn là con đường để
đào tạo nguồn lao động cho quốc gia. Nên nhà nước cần có chính sách và sự
quan tâm thích đáng cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế
nguồn lao động dồi dào phục vụ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Như vậy khai thác sử dụng, phát huy tối đa và hiệu quả NNL là điều kiện
quan trọng trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói
chung và quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây nói riêng hiện nay đòi hỏi phải đào
tạo NNL chất lượng cao và khai thác sử dụng một cách hiệu quả NNL đó mà
CNH, HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở
nước ta.
1.1.2.2. Sự tác động của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nguồn nhân lực, nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng
nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của việc nhận thức, lĩnh hội và
sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc
đẩy CNH, HĐH và phát triển KT - XH như Lênin nói: "Nếu không có các
chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất
thì không thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN" [29, tr.362]. NNL, đặc
biệt là NNL chất lượng cao, một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH,
HĐH, được Lênin viết: "Việc điện khí hoá không phải do những người mù
chữ thực hiện được mà chỉ biết chữ thôi thì không đủ... điều đó chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học
vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi" [29,
tr.364- 365]. Theo Lênin cái quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới
18
đối với xã hội cũ là năng suất lao động bởi vậy muốn đạt được năng suất lao
động cao thì cần phải thực hiện sự phát triển NNL Từ ý tưởng đó có thể thấy
để nâng cao năng suất lao động trước hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của
nền giáo dục và văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân tiếp đến phải
nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động, năng cao tài khéo léo và trình
độ thành thạo của NNL. Trên cơ sở nhận thức lý luận và thực tiễn Đảng ta đã
chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH đất nước là
nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất, tiềm lực
khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước nhưng trong các nguồn lực đó
thì nguồn lực con người là quan trọng nhất". Nguồn lao động dồi dào, con
người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền tảng văn
hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là
nguồn lực quan trọng" [11, tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực
lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải
pháp đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH. Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu
thế hơn hẳn các nguồn lực khác, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh nên nó
là nguồn lực không bao giờ cạn như một tác giả đã viết chỉ có con người và tri
thức của con người là không bao giờ cạn: "Tri thức có tính chất lấy không bao
giờ hết " [1,tr.41].
Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: "Phương hướng chủ
yếu phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa
học công nghệ đào tạo để nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài" [13, tr.28]. Đến Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
Đảng ta nhấn mạnh rằng: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát
triển Giáo dục đào tạo, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho việc phát triển nhanh và bền vững" [14, tr.19].
19
Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình
CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi
nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hương kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã
chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động chân tay trong sản
phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của
quá trình phát triển. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan
hệ giao lưu quốc tế hiện nay, các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ
thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, khắc phục sự thiếu vốn
qua con đường nhập khẩu hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân
hàng, quỹ phát triển của thế giới, nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự
yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao động hay vay mượn khả năng sáng tạo
của con người. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều
quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL qua đào tạo. Tại Đại hội IX Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" [17, tr.91].
Tóm lại, những quan điểm trên cho thấy NNL qua đào tạo có vai trò
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của CNH, HĐH và
sự phát triển KT - XH. Vì vậy phải chăm lo đào tạo NNL đặc biệt cần quan
tâm tới việc nâng cao chất lượng và trình độ NNL để hướng tới sự phát triển
nền kinh tế tri thức.
Cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong
những hướng chính của đầu tư phát triển; Giáo dục đào tạo phải thật sự trở
thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực
con người kịp thời và phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. Xét một cách tổng thể
việc đào tạo NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao
20
động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý
về lao động đã đào tạo trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết phải tạo ra được
những con người có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương
vị công tác theo sự phân công lao động xã hội. Đó là những con người vừa có
tài vừa có đức. Theo tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo
NNL phải làm thế nào để người học sau khi được đào tạo phải được trang bị
kiến thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo thực
hành, có năng lực hợp tác trong mọi hoạt động, có năng lực nhận thức, vận
dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách
của Đảng, biết lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các hoạt động của
mình...đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, biết đặt lợi ích của cộng đồng
xã hội lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, ý
thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc, ý chí vươn lên để thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu.
1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và vai trò đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực
1.2.1. Nội dung của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
1.2.1.1. Nội dung đào tạo nguồn nhân lực
Nước ta bắt đầu thực hiện CNH, HĐH với một xuất phát điểm thấp. Từ
một nước nông nghiệp lạc hậu (72 % dân số làm nông nghiệp, tỷ trọng nông
nghiệp chiếm 50 % GDP) chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người. Tốc
độ nâng cao dân trí ở nước ta trong nhiều năm qua còn rất chậm. Với mặt
bằng dân trí thấp thì số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như
số người có học vấn đại học và sau đại học còn ít, phần đông số người lao
động chưa qua đào tạo về nghề nghiệp. Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp
thu khoa học công nghệ mới nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Mặt khác do
tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng
21
kinh tế tri thức với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao
động giản đơn đang mất dần ý nghĩa nhường chỗ cho lao động trí tuệ. Do đó
nội dung giáo dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được
xác định theo hướng "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá,
quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý
trí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc " [16, tr.114]. Như đã biết, sự
nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng, phong
phú cả về nội dung và phương thức đối với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện
nay. Nội dung đào tạo NNL ở nước ta không chỉ là những kiến thức về khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức,
truyền thống dân tộc. Nội dung các tri thức cấu thành chương trình đào tạo,
các loại nhân lực cũng phải bao hàm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, tiếp
cận các trí thức hiện đại và tính tới sự phát triển. Đào tạo chuyên môn, trình
độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để tạo điều kiện cho họ có khả
năng lao động, khả năng đảm nhận một công việc nào đó trong xã hội. Còn
đào luyện "Đức" chính là tạo ra cái gốc, yếu tố cơ bản đem lại sức khoẻ về
tinh thần để làm người có văn hoá, có tài. Đến lượt nó lại trở thành động lực
thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu quả trong hoạt
động của họ, giúp họ biết hợp tác với ai, biết làm cái gì, làm vì ai và sẽ làm
như thế nào. Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp bậc
học với các mức độ khác nhau. Nhưng tác giả quan tâm chú ý đến nhiều hơn
tới bậc đào tạo trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo đại học, cao đẳng
nên đã phân một cách khái quát qua các cấp bậc sau đây:
22
Thứ nhất: Đối với các cấp bậc học phổ thông đặc biệt là trung học phổ
thông.
Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân -
thiện - mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn
cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn
trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả
năng của mình và yêu cầu của xã hội.
Thứ hai: Đối với các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề - cao
đẳng - đại học đào tạo như đã nêu ở phần trên là quá trình kết hợp giữa đào
tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các
lĩnh vực hoạt động KT - XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong
hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau:
- Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý
tưởng Cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ
thống các môn học chung.
- Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành
trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt
chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du
lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và
phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp trục tự hoàn thiện về
nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường;
biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho
nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng
lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của
23
năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học; khả năng thích nghi và khả
năng biến tri thức thành kỹ năng lao động.
- Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo
điều kiện cho sinh viên trong việc giao lưu, học hỏi, tiếp cận các tri thức khoa
học hiện đại trên thế giới.
- Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua
các giờ thực hành, các đợt xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo, các
cuộc gặp gỡ, trao đổi và học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực
và nghề nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành
nghiệp vụ được đào tạo. Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để
sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên
ngành đào tạo mình được đảm nhận một cách có hiệu quả. Để chuẩn bị NNL
chất lượng cao cho sự phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên
cập nhật các kỹ năng mới, nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông, kỹ
năng giải quyết, xử lý các vấn đề sự cố phát sinh, kỹ năng làm việc theo
nhóm...
- Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện
ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đạo đức lương tâm nghề
nghiệp, văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà
người lao động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ
tìm hiểu về pháp luật, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán từng vùng
của nước nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với
nước họ và tập quán quan hệ quốc tế.
24
Thứ ba: Đối với bậc đào tạo nhân tài.
Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối
năm thứ nhất, hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại
học sau đó tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành
nghề quan trọng cho đất nước. Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này
phải mang tính hiện đại, nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu, học tập và làm việc độc lập cũng như
hợp tác, đồng thời hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc
dự đoán, nhận định năng lực và khai thác được tài năng của đối tác. Tuy
nhiên, cũng không thể bỏ qua việc đào tạo ra yếu tố gốc là đạo đức. Như Bác
Hồ của chúng ta từng dạy "Có tài mà không có đức thì vô dụng. Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó " [30, tr.252-253].
Tóm lại, nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát
triển của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ
đức, tài, năng động sáng tạo, thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
1.2.1.2. Nội dung sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những
đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những
yêu cầu mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL. Ngày nay ở hầu
hết các quốc gia con người được coi là nhân tố trung tâm của quá trình sản
xuất nên đã diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thức và giải pháp tối ưu sử
dụng NNL. Tuy nhiên do đặc điểm tình hình KT - XH khác nhau nên việc xác
định nội dung, giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia. Song xu
hướng phổ biến và cơ bản đều coi con người là nguồn lực cơ bản để tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao
25
gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm, phân bố sử dụng hợp lý lực lượng lao
động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc tạo ra những kích
thích và động lực của lao động để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả.
Để khơi dậy và phát huy tiềm năng người nói chung việc sử dụng NNL phải
được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho
người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và
được hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động mà họ sáng tạo ra. Hay có thể nói
vấn đề sử dụng NNL được đặt trong quan hệ với vấn đề đào tạo NNL. Trong
đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL, là cơ sở, điều kiện để sử
dụng NNL có hiệu quả. Đến lượt việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ tạo điều
kiện mở rộng, cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để nâng cao chất lượng
NNL. Trong các hình thái KT - XH khác nhau, NNL của một quốc gia được
biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người lao động đang
có khả năng phục vụ cho xã hội. Trong nguồn lao động đó có những người đã
qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo; những người lao động sản
xuất kinh doanh, những nhà quản lý, khoa học, những người làm công tác
dịch vụ, văn phòng... Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng NNL,
trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý, khai thác sử dụng hết lực lượng lao
động, giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các
biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động; kết hợp khai thác sử dụng
với đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng, nâng cao chất
lượng việc làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng. Trên cơ sở đó
làm tăng thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao
động. Sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta nói chung và ở Hà Tây nói
riêng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc
với mức độ lớn vào việc sử dụng NNL theo hướng toàn dụng lao động, hợp lý
và hiệu quả; đặc biệt là khai thác hiệu quả NNL đã qua đào tạo.
26
Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không
phải chỉ dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều
có việc làm mà cần phải chú ý phân bố sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp
về trình độ trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh
tế theo hướng CNH, HĐH; trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp - sản
xuất kinh doanh (theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp
ngày càng giảm xuống) và trong các vùng (thành thị - nông thôn, các vùng
kinh tế trọng điểm) thuộc lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng cần phải tính đến
tỷ lệ lao động trong tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu
không có sự phân bố lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có
đông đảo cũng không thể trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là
gánh nặng của nền kinh tế.
Ngoài những vấn đề trên việc toàn dụng lao động còn phải tính tới khả
năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động
có thể làm việc. Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhà nước
cũng cần phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển
các ngành nghề để có thể tạo nhiều việc làm trong đó có nhiều việc làm có
chất lượng để bảo đảm cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn
chế tình trạng bỏ việc một cách tuỳ tiện.
Trên cơ sở sự phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia
hoạt động kinh tế, nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính
đến việc tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động, các biện pháp kích
thích tới người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình.
Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người đã ngày
càng cho thấy rõ rằng: con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không
bao giờ cạn. Bởi vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động, các
cơ sở tuyển dụng lao động cần kết hợp một cách linh hoạt, mềm dẻo các hình
27
thức và nguyên tắc phân phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia
các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ
lệ lao động được đào tạo. Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo,
bồi đắp NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai.
Tóm lại, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả
các vấn đề: toàn dụng lao động, phân bố hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và
bồi đắp NNL.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
1.2.2.1. Nguồn và chất lượng đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực
Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng cơ sở tạo ra nguyên
liệu cho giáo dục đào tạo NNL, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp
tạo ra NNL. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về
số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến qui mô và chất lượng
của đào tạo NNL. Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có
nguyện vọng dự thi vào các trường nghề, trung học chuyên nghiệp và cao
đẳng, đại học quá ít hoặc quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây
khó khăn cho việc tuyển lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến
việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự
nghiên cứu để nắm bắt được tri thức mới, nâng cao trình độ tay nghề.
1.2.2.2. Trình độ cơ sở vật chất và tài chính ở các cơ sở đào tạo
Cơ sở đào tạo NNL đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất
nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNL thực
hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất.
Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và
quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở
mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật
28
cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có
chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế
đã chứng minh rằng để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu
điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc
tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với
các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần
theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu
không có nguồn tài chính để bổ sung các trang thiết bị hiện đại cho sinh viên
thực hành sẽ không đáp ứng được sự phát triển trình độ phù hợp với xu hướng
biến đổi của khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu
phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức.
1.2.2.3. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý
Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không
có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo
viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy
người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng,
trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết
quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của
người thầy có tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của
họ. Muốn có trò giỏi (NNL có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực
tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được.
Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề
cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh
nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành
nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải
chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho
29
họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo
viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả,
ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với
năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế
cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng
bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến
các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người
đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho
sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy,
hoạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở
vật chất... Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều
ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh
hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo NNL.
Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào
trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được
quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho
nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công
việc và ý thức trách nhiệm cao.
1.2.2.4. Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang
thiết bị kỹ thuật - công nghệ trong sản xuất kinh doanh
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện qui hoạch
phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động,
đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao
động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và
nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh
tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các
30
hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế
địa phương... đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu
lớn về đào tạo NNL. Chiến lược phát triển KT - XH thời kỳ 2001 - 2010 của
nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tác, xây dựng
một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ
trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn
theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá
để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du
lịch sớm trở thành mũi nhọn...
Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch
vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000
xuống 50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động
được đào tạo theo ngành và cấp trình độ phù hợp với định hướng phát triển
kinh tế nêu trên. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra
những thách thức đối với NNL và do đó trực tiếp tác động tới đào tạo NNL cả
về qui mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp
lý NNL trong quá trình CNH, HĐH.
* Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng
ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có NNL phù hợp
để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao
hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng
tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản
nhiều nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ
31
lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động
không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ
công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động
đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chủng loại cán bộ kỹ thuật và công nhân
lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện
nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo NNL tốt hơn;
đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập
trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các
chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên
và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó
phải đào tạo NNL để phát triển. Việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng mà còn phải có sự kết hợp với việc sử dụng NNL. Việc
phân bố, sử dụng NNL cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp
xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy "Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có
tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc" [30, tr.274-275].
1.2.2.5. Thị trường lao động và cơ chế chính sách tuyển dụng
* Việc hình thành và quản lý tốt thị trường sức lao động hiện nay có
vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng NNL. Nó cung cấp thông tin
cho đào tạo NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về qui mô, cơ cấu,
chất lượng cho CNH, HĐH đồng thời thông qua thị trường sức lao động, các
cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của
mình. Thông qua thị trường sức lao động, người lao động tìm được công việc
phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép
nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; xác lập được quan hệ cung - cầu lao động,
giảm dần sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục được tình trạng
lãng phí trong đào tạo và sử dụng NNL.
32
* Cơ chế chính sách tuyển dụng nguồn nhân lực: đây là yếu tố có ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng NNL. Trong cơ
chế cũ nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL, tuyển dụng,
sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm
nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn
khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân, triệt tiêu động lực
thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích được họ
nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà
không chú trọng đến hiệu quả lao động. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao
động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở
lên cồng kềnh, kém hiệu lực. Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm
cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc
như nói trên đã không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo
và dễ rơi vào tình trạng không đúng người đúng việc, hiệu quả lao động thấp.
Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động
nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm.
Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc
phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời
thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực,
người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình
độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được
nâng cao hơn nữa về chất. Trong thời gian qua, với đường lối đổi mới toàn
diện nền kinh tế, chính sách tuyển dụng NNL ở nước ta cũng được đổi mới
căn bản. Chế độ tuyển dụng và sử dụng lao động theo biên chế suốt đời trước
đây được chuyển sang hình thức hợp đồng lao động có thời hạn. Hình thức
tuyển dụng "có ra có vào" này đã kích thích tính năng động sáng tạo của
người lao động, khích thích họ không ngừng vươn lên nâng cao trình độ để
33
giữ được việc làm. Cơ chế này còn có tác dụng giúp các đơn vị sản xuất kinh
doanh được quyền chủ động trong tuyển dụng, sử dụng và sa thải lao động
nên có điều kiện để tuyển lựa, sắp xếp lao động theo yêu cầu của công việc và
phù hợp với năng lực riêng của mỗi người do đó một mặt làm tăng hiệu quả
sử dụng lao động còn mặt khác góp phần điều chỉnh quan hệ giữa cầu với
cung (đào tạo NNL).
Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một
nhân tố có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng
NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
1.2.3. Vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, đội ngũ công nhân kỹ
thuật có đủ đức tài, có khả năng giải quyết phần lớn những vấn đề then chốt
được đặt ra trong quá trình CNH, HĐH. Để khai thác tiềm năng to lớn của
con người Việt Nam, cần tiếp tục triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm
phát triển giáo dục và đào tạo, mà khâu then chốt là đào tạo NNL chất lượng
cao và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản
xuất và đời sống. Có thể nói đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo
có vai trò to lớn về nhiều mặt:
Thứ nhất: Ở nước ta, đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề góp phần
quan trọng tạo ra lực lượng lao động và chuyên gia giỏi về công nghệ, kỹ
thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước nói chung và ở Hà
Tây nói riêng. Với những kiến thức cơ bản, kỹ năng nghề nghiệp và phương
pháp tư duy sáng tạo họ không chỉ là những người tổ chức thực hiện các hoạt
động trong quá trình sản xuất mà trong quá trình đó họ còn là những người
lãnh đạo và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến đồng thời sáng tạo ra những
phát minh khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật mới đáp
ứng nhu cầu tăng khả năng sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế. Mặt
34
khác việc thu hút sử dụng hợp lý NNL với các biện pháp kích thích người lao
động làm cho họ không chỉ lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao
mà còn say mê nghiên cứu tìm tòi sáng tạo để tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật
công nghệ mới giúp giảm nhẹ sức lao động của mình trong quá trình sản xuất.
Như vậy với quá trình đào tạo NNL, quá trình sử dụng hợp lý NNL làm cho
quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ không ngừng diễn ra và
lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển.
Thứ hai: Đào tạo NNL có chất lượng và sử dụng nó có hiệu quả sẽ tác
động đến phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động từ đó đẩy
mạnh chất lượng và nhịp độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng
CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch đó được thực hiện nhờ có sự đóng góp to
lớn của đào tạo và sử dụng NNL. Nhờ đẩy mạnh hoạt động Giáo dục, đào tạo
NNL và khai thác sử dụng NNL trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động ở nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng, mặc dù tốc độ còn
chậm. Về cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp - công nghiệp
dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tỷ trọng của công nghiệp
trong GDP ngày càng tăng lên và tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP nước ta thời kỳ 1995 - 2003.
Đơn vị tính: %
TT Ngành Năm
1995 2000 2001 2002 2003
1 Công nghiệp 27,8 36,73 38,13 38,55 40,5
2 Nông nghiệp 27,2 21,7 23,24 22,99 24,3
3 Dịch vụ 41 38,63 38,46 37,81 39,1
Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].
35
Quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành; đòi hỏi đẩy nhanh chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát
triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH giải quyết việc làm cho người lao động.
Đánh giá quá trình này, hiện nay có số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Kế
hoạch - Đầu tư và Bộ Lao động - Thương binh xã hội. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê và Bộ Kế hoạch - Đầu tư thời kỳ 1991 - 2003 tình hình chuyển
dịch cơ cấu lao động diễn ra theo hướng tích cực phù hợp với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế (theo bảng sau):
Bảng 1.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở nước ta
thời kỳ 1991 - 2003.
Đơn vị tính: %
TT Ngành Năm
1995 2000 2003 1991
1 Công nghiệp 13,2 13,7 18,45 13,6
2 Nông nghiệp 70,1 67,2 59,04 72,6
3 Dịch vụ 16,7 19,1 21,5 13,8
Nguồn: Niên giám thống kê các năm [7].
Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong cơ cấu lao động cũng có sự đổi mới.
Năm 1996 lao động qua đào tạo mới có 13% đến năm 2000 đã đạt 20% và
đến năm 2003 khoảng 21,5%. Về cơ cấu trình độ lao động: từ năm 1996 đến
2000 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lực lượng
lao động tăng từ 12,31% lên 15,53%. Cơ cấu trình trình độ cũng có sự thay
đổi mặc dù còn chậm: năm 1996 công nhân kỹ thuật 4,38% Cao đẳng Đại học
2,3% Sơ cấp 1,77% Trung cấp 3,84. Đến năm 2000 tỷ lệ trong cơ cấu tương
ứng là: 5,4 - 1,41 - 4,83 và 3,89.
Thứ ba: Đào tạo NNL và sử dụng hiệu quả NNL đó góp phần thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu như trong những năm 50 - 60 của thế
36
kỷ XX tăng trưởng kinh tế chủ yếu do CNH, sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ
sở vật chất là khâu chủ yếu cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì vài thập
niên cuối thế kỷ XX trở lại đây chỉ có một phần nhỏ thuộc về tăng trưởng
kinh tế được giải thích bởi khía cạnh đầu vào là vốn; phần quan trọng gắn với
chất lượng của lao động. Cho nên việc đầu tư cho con người sẽ là yếu tố góp
phần rất quan trọng nâng cao năng suất lao động. Và được coi là là đầu tư cho
phát triển. Garry Bec Ken (người Mỹ) nói đại ý rằng: Không có sự đầu tư nào
mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào NNL, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục.
Thực tế lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một quốc gia nào
đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ
thông. Việt Nam tuy là nước đang phát triển nhưng những kết quả về KT -
XH trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Theo đánh giá của tổ chức
ngân hàng thế giới Việt Nam đã duy trì và đạt được tỷ lệ tăng trưởng khá cao
và ổn định. Từ năm 1996 đến năm 2000 tốc độ tăng tổng sản phẩm trong
nước bình quân mỗi năm 7,5%. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước đã
gấp 2,07 lần so với năm 1990. Từ năm 2001 đến nay tỷ lệ tăng trưởng vẫn
duy trì ở mức độ bình quân hơn 7%.
Bảng 1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2003.
Đơn vị tính: %
Năm 1996 - 2000 2001 2002 2003
Tỷ lệ 7,5% 6,9% 7,04% 7,24%
Nguồn: Niên giám thống kê [7].
Nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế, bộ mặt xã hội không ngừng được
cải thiện, chỉ số HDI được nâng lên đáng kể. Năm 1994 Việt Nam xếp thứ
116/173 nước với chỉ số 0,514, năm 1995 chỉ số tăng lên 0,649, năm 2000
tăng lên 0,671 xếp thứ 108 và đến năm 2002 Việt Nam vẫn xếp thứ 108 với
37
chỉ số 0,69. Những kết quả đó tuy chưa cao nhưng đã phản ánh rất rõ ràng
chiến lược phát triển NNL của Đảng ta là đúng đắn.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy rằng: trong
quá trình phát triển KT - XH nói chung và CNH, HĐH nói riêng, đào tạo và
sử dụng NNL có vai trò rất quan trọng, song điều đó không có nghĩa một
quốc gia có lực lượng dân số đông thì sẽ có lợi thế và gặt hái được nhiều
thắng lợi và ngược lại một quốc gia có lực lượng dân số ít thì không giành
được thắng lợi mà vấn đề ở đây còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đã đào
tạo NNL như thế nào và đã khai thác sử dụng nó ra sao. Bởi vậy để phát triển
KT - XH ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói chung và ở Hà
Tây nói riêng cần phải coi trọng vấn đề đào tạo và sử dụng NNL phù hợp với
điều kiện đặc thù của mình.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀ TÂY
2.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hƣởng đến đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây
2.1.1. Tổng quan đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ với diện tích 2.193 km2,
nằm trọn trong nội địa, không có đường biên giới quốc gia và đường biển. Hà
Tây giáp với 5 tỉnh và thành phố. Hà Nội ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Đông,
Hà Nam ở phía Nam, Hoà Bình ở phía Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ ở phía
Tây bắc. Hà Tây nằm kề bên khu tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh. Hà Tây vừa là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội với các
đường giao thông chiến lược: quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32, đường cao tốc
Láng - Hoà Lạc, đường thuỷ trên sông Hồng, vừa là lá phổi xanh của Hà Nội.
Địa hình Hà Tây phân thành hai vùng khá rõ rệt. Vùng đồng bằng ở
phía Đông chiếm 70% diện tích toàn tỉnh mang đặc trưng vùng đồng bằng
38
Bắc bộ có ô trũng đê viền. Vùng đồi núi phía Tây chiếm 1/3 diện tích, bao
gồm phần lớn các huyện: Ba Vì, thị xã Sơn Tây, rìa tây của huyện Thạch
Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức, liên kết thành một dải chạy dài theo
hướng Tây bắc - Đông nam. Trừ đỉnh Vua núi Ba Vì cao 1287m và đỉnh núi
Thiên Trù (Hương Sơn - Mỹ Đức) cao 378 m còn đại bộ phận là vùng đồi núi
thấp. Hà Tây có nhiều khoáng sản quí, tập trung nhiều nhất ở huyện Ba Vì
như vàng, đồng, pyrít, cao lanh, nước khoáng... Ngoài ra có thể kể tới đô lô
nít (Quốc Oai); đá vôi ở Mỹ Đức, Chương Mỹ, đá granít ốp lát (Chương Mỹ);
đất sét (Chương Mỹ, Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai); than bùn (Mỹ Đức,
Sơn Tây, Quốc Oai, Chương Mỹ).
Rừng ở Hà Tây không nhiều (7,6% diện tích) với hai khu vực chủ yếu
là
vườn quốc gia Ba Vì và khu rừng văn hoá gắn với cảnh đẹp chùa
Hương thuộc Nhà nước quản lý.
Hà Tây có hệ thống hồ tự nhiên và nhân tạo như: Đầm Long, Suối Hai,
Đồng Mô, Ngải Sơn...
Hà Tây có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch như: Ao Vua, Khoang
Xanh, Suối Tiên, Thác Mơ, Suối Hai, Đồng Mô, chùa Hương, chùa Đậu, chùa
Tây Phương, chùa Trăm Gian, chùa Trầm, đền Và, chùa Mía, thành cổ
SơnTây
Bên cạnh cảnh quan, di tích du lịch kể trên, Hà Tây còn nổi tiếng là đất
trăm nghề. Ở Hà Tây hiện nay đã có 1.116 làng nghề và theo dự kiến năm
2004 sẽ công nhận thêm 40 làng nghề nữa; trong số các làng nghề nêu trên có
160 làng được công nhận là làng nghề truyền thống đạt tiêu chuẩn.
Hà Tây với số dân 2.489.200 người, là tỉnh có dân số lớn nhất đồng
bằng sông Hồng. Tốc độ tăng dân số tự nhiên cao (1,3% năm). Gần 90% dân
39
số sống ở nông thôn: 2.256.464 người. Có 9 xã đồng bào dân tộc với số dân
gần 30.000 người. Tỷ lệ dân số lao động/tổng số dân hơn 60%, toàn tỉnh có
1,3 triệu lao động. Hàng năm số lao động bổ sung thêm khoảng 2,5 đến 3 vạn
người. Số lao đông trong độ tuổi có xu hướng trẻ hoá. Lao động trong khối cơ
quan quản lý nhà nước phần đông đã tốt nghiệp đại học. Trong khối sản xuất
kinh doanh cũng có nhiều kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ thuật, quản lý kinh
tế. Song nhìn tổng thể có thể nói: hạn chế của lao động Hà Tây là thiếu công
nhân kỹ thuật lành nghề, không qua trường lớp đào tạo; chủ yếu làm việc
bằng kinh nghiệm, tự học hỏi hoặc chỉ qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, cấp
tốc, thiếu lao động có kiến thức và kinh nghiệm quản lý nhất là quản lý công
nghiệp, du lịch, kinh tế đối ngoại. Lao động ở nông thôn đang thiếu việc làm,
quỹ thời gian làm việc chỉ khoảng 70%, phổ biến là thuần nông. Lao động
thành thị chưa có nghề (12%); nghề nghiệp chưa ổn định (15%). Toàn tỉnh có
khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm [39].
Trên địa bàn Hà Tây hiện nay tất cả các xã đều có trường tiểu học.
100% số xã được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học và xoá nạn mù chữ.
Toàn tỉnh có 59 trường phổ thông trung học. Các huyện đều có các Trung tâm
Giáo dục thường xuyên và Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp. Trên địa bàn Hà Tây
có 8 trường đại học và cao đẳng; 9 trường trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề; một trung tâm dịch vụ việc làm thuộc liên đoàn lao động của tỉnh.
Hà Tây có mạng điện quốc gia đã phát triển tới tất cả các huyện và hầu
hết các xã (97% số xã và 95% số hộ có điện). Hệ thống điện nông thôn chủ
yếu dùng cho sinh hoạt và thuỷ lợi; sử dụng cho công nghiệp và dịch vụ chưa
nhiều. Trong những năm gần đây, tỉnh Uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã có
nhiều nghị quyết, chỉ thị, và các chương trình về công tác đào tạo nghề như:
Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, thứ IX về việc nhân rộng thêm làng
nghề, tạo nghề mới và đầu tư, mở mang dạy nghề. Chương trình 34 và Chỉ thị
40
04 về đẩy mạnh công tác đào tạo nghề. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh về việc thành lập các quĩ khuyến nông, khuyến công. Đặc biệt để nâng
cao NNL trình độ cao, Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã phê duyệt cho một số cơ sở
đào tạo trong tỉnh mở các lớp đào tạo liên kết với các trường đại học của
Trung ương.
2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn
Từ tổng quan những đặc điểm tự nhiên, KT - XH, môi trường thể chế
có thể thấy nó chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi song cũng không ít những
khó khăn đối với việc đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây.
2.1.2.1. Về thuận lợi
- Hà Tây là tỉnh có tiềm năng về NNL, đất đai, tài nguyên nên có nhiều
lợi thế cho sự phát triển nông nghiệp và các ngành nghề, thuận lợi cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH như phát triển công nghiệp, vật
liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, phát triển du lịch và làng nghề, do đó
mở ra khả năng lớn cho việc khai thác sử dụng NNL.
- Sự quan tâm của tỉnh Uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đến sự phát triển
giáo dục - đào tạo để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH. Tại
Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IX, tỉnh Uỷ Hà Tây đã xác định: tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục toàn diện, đa dạng hoá các
loại hình đào tạo, mở rộng dạy nghề, đào tạo đội ngũ công nhân có chất lượng
tay nghề cao phục vụ CNH, HĐH. Năm 2002 được xác định là năm Giáo dục
của Hà Tây [20, tr.48- 49].
- Trong những năm gần đây, kinh tế Hà Tây bước đầu có sự khởi sắc
cùng với sự thay đổi về nhận thức của người dân về nghề nghiệp, do đó số
người có nhu cầu học nghề tăng lên, đối tượng học nghề đa dạng ở nhiều độ
41
tuổi khác nhau, ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo nghề được tăng lên,
việc xã hội hoá giáo dục cũng như đào tạo nghề bước đầu có kết quả.
- Hà Tây là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội nên gần các trường đại học,
cao đẳng của quốc gia, các viện nghiên cứu và gần tam giác tăng trưởng kinh
tế của đồng bằng Bắc bộ nên nhận được nhiều ảnh hưởng theo chiều thuận lợi
đối với đào tạo và sử dụng NNL.
2.1.2.2. Khó khăn
- Hà Tây là tỉnh đông dân, số người trong độ tuổi lao động nhiều (1,3
triệu) hàng năm lại được bổ sung khoảng 3 vạn lao động. Đây là một tiềm
năng quí đối với quá trình CNH, HĐH để phát triển KT – XH, nhưng hiện
nay số lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao còn ít, tỷ lệ lao động qua
đào tạo mới dừng lại ở con số rất khiêm tốn: khoảng 20%. Trung bình mỗi
năm ở Hà Tây có hàng chục nghìn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông,
trong đó mới chỉ có hơn 5.000 em thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng;
hơn nữa, hàng năm Hà Tây lại tiếp đón khoảng gần 5.000 thanh niên đã hoàn
thành nghĩa vụ quân sự trở về xây dựng địa phương. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra
cho đào tạo NNL để khai thác phát huy tiềm năng con người không kém phần
quan trọng và khó khăn.
- Mặc dù đã có sự thay đổi nhận thức trong nhân dân cũng như các cấp,
các ngành đối với công tác đào tạo nghề, song còn thấp xa so với thực tế vị trí
của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH, đặc biệt là vấn đề phân luồng học sinh
sau trung học cơ sở, trung học phổ thông và sử dụng học sinh trung học
chuyên nghiệp đã tốt nghiệp ra trường.
- Sự phân bố các cơ sở đào tạo nghề chưa đều, tập trung ở thị xã Hà
Đông và Sơn Tây, nguồn tài chính, cơ sở vật chất và thiết bị đều thiếu và lạc
42
hậu trong khi nhu cầu xã hội đối với giáo dục đào tạo tăng nhanh. Hà Tây
chưa có trường đại học vùng và toàn tỉnh mới có 1 trường dạy nghề.
- Ở Hà Tây, tuy đã có sự phát triển các ngành nghề và đặc biệt là các
làng nghề truyền thống, nhưng số lao động và tỷ lệ thời gian lao động được sử
dụng chưa cao, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị chiếm 5%; hiệu quả sử
dụng lao động thấp, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng chưa phát
triển theo chiều sâu.
Nhìn chung Hà Tây là nơi hội tụ nhiều tiềm năng thuận lợi về tự nhiên
và xã hội để phát triển một nền kinh tế đa dạng, phong phú và có sức hút đối
với các đối tác đầu tư. Hà Tây có nguồn lao động dồi dào, có nhiều làng nghề
và tiềm năng du lịch lớn, đó là những nhân tố quan trọng cho việc phát triển
kinh tế làng nghề, du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song để có thể khai
thác tốt tiềm năng của tỉnh trong quá trình CNH, HĐH cần kết hợp thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp trong đó giải pháp đúng đắn về đào tạo và sử dụng
NNL có vai trò rất quan trọng.
2.2. Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây thời gian qua
2.2.1. Thực trạng hình đào tạo nguồn nhân lực
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Hà Tây nói riêng đã và
đang đòi hỏi đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh để nhanh chóng
đưa trình độ kỹ thuật, công nghệ lên trình độ tiên tiến hiện đại, khôi phục,
phát triển và khai thác có hiệu quả các ngành, nghề trong nền kinh tế. Trong
bối cảnh đó phát triển đào tạo sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu đa dạng về
NNL cho nền sản xuất xã hội, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm và tự tạo việc làm
của người lao động. Trong nhiều năm qua hoạt động đào tạo NNL ở Hà Tây
đã đạt được những thành tựu đáng kể sau đây:
43
Thứ nhất: Tình hình giáo dục phổ thông - số lượng và chất lượng nhìn
nhận dưới góc độ là nguồn đầu vào của đào tạo nguồn nhân lực.
Tính đến nay hệ thống trường lớp được xây dựng rộng khắp trong toàn
tỉnh, đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân với các loại hình công lập, ngoài
công lập, phương thức chính qui và không chính qui. Hà Tây là tỉnh đã đạt
chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập
trung học cơ sở. Trong toàn tỉnh có 755 trường phổ thông, (trong đó có 59
trường trung học phổ thông, có 2 trường trung học cơ sở và trung học phổ
thông), với 535.666 học sinh, trong đó học sinh trung học phổ thông là
106.756. Tính bình quân cứ 1 vạn dân có 2.152 học sinh. Năm 2004 toàn tỉnh
có 132.512 học sinh thi tốt nghiệp các cấp, riêng trung học phổ thông và bổ
túc trung học phổ thông có 35.097 học sinh. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 99%, chất
lượng giáo dục từng bước được cải thiện, số học sinh giỏi của tỉnh hàng năm
đều tăng (năm 2001: 7.214 em, năm 2002: 7.850 em, năm 2003: 8.648 em,
năm 2004: 8.950 em); riêng khối trung học phổ thông năm 2002 - 2003 có
2.574 em, năm 2003 - 2004 có 2.690 em. Một số học sinh được công nhận là
học sinh giỏi quốc gia: năm 2001 có 60 em, năm 2002 - 2003 có 41 em, năm
2003 - 2004 có 45 em. Từ năm 1995 đến nay, Hà Tây luôn có học sinh dự thi
quốc tế và đạt huy chương. Số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng hàng năm ngày càng tăng: năm 1996 - 1997 có 4.222 em, năm 1999 -
2000 có 5.410 em, năm 2002 có 5.518 em, đến năm 2003 có 6.802 em. Hầu
hết các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đều tổ chức cho học
sinh được học nghề (85%). Cơ sở vật chất phục vụ cho Giáo dục có nhiều
chuyển biến, về cơ bản đã xoá bỏ được lớp học tranh tre và tình trạng học 3
ca. Tuy nhiên giáo dục phổ thông Hà Tây vẫn còn bộc lộ những yếu kém như:
chất lượng giáo dục toàn diện (nhất là giáo dục đạo đức) có nhiều chuyển
biến, song cần được quan tâm để đạt kết quả tốt hơn. Nhiều giáo viên vẫn sử
dụng phương pháp giảng dạy và giáo dục lạc hậu, việc đổi mới phương pháp
44
giảng dạy và giáo dục còn lúng túng, nhất là khâu thí nghiệm và thực hành.
Việc phân luồng trong đào tạo còn khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một số trường còn thiếu phòng học, bàn ghế và trang thiết bị dạy học. Các
Trung tâm giáo dục thường xuyên, kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp còn
chưa được đầu tư, chưa đáp ứng yêu cầu của loại hình đào tạo không chính
qui cho người đi học và hướng nghiệp các nghề kinh tế kỹ thuật cao cho học
sinh.
Thứ ha: Về đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề.
Hệ thống mạng lưới các cơ sở đào tạo đã được hình thành và ngày càng
mở rộng. Tính đến 2003, trên địa bàn tỉnh có 6 trường đại học, 2 trường cao
đẳng, 9 trường dạy nghề và tham gia dạy nghề của Trung ương và của tỉnh.
Có 20 trung tâm dạy nghề, 2 trung tâm dịch vụ việc làm (1 trung tâm của Liên
đoàn lao động tỉnh và 1 trung tâm tư thục), cùng với hơn 1000 cơ sở dạy nghề
và truyền nghề của cá nhân và tập thể. Trong 1.116 làng nghề thì có 160 làng
tham gia dạy nghề do các nghệ nhân và thợ lành nghề đào tạo. Năm 2003,
tỉnh thành lập thêm một số trung tâm dạy nghề ở Ứng Hoà, Thạch Thất, Hoài
Đức và Trung tâm dạy nghề tư thục Hà Dương. Ngoài ra, trong tỉnh còn có hệ
thống các trung tâm giáo dục thường xuyên được giao nhiệm vụ dạy nghề như
ở Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Phú Xuyên và các Trung tâm giáo
dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp điển hình như: Ứng Hoà, Thanh Oai, Hà
Đông, Mỹ Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây và Thường Tín.
Kết quả hoạt động của từng màng lưới dạy nghề nói trên đã làm cho số
lượng lao động được đào tạo nghề qua các năm ngày càng tăng.
Bảng 2.1: Số lao động được đào tạo từ 1998 - 2003
Đơn vị tính: Người
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003
45
Tổng số lao động được 10.120 14.500 18.100 21.330 21.370 23.580
Nguồn: Sở lao động Thương binh - Xã hội [37].
đào tạo
Kết quả trên đã góp phần nâng tỷ lệ lao động được đào tạo ở Hà Tây từ
11% năm 1996 lên 16,5% năm 2000; 18,1% năm 2001 lên 19,6% năm 2002
và đến năm 2003 đạt tỷ lệ 21,5%. Trong 5 năm qua kết quả dạy nghề tăng
bình quân 1,9%/ năm. Kết quả này đã góp phần to lớn đáp ứng yêu cầu về bổ
xung lao động qua đào tạo cho các doanh nghiệp, khôi phục phát triển làng
nghề và góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động đồng thời
nâng cao chất lượng lao động.
Tuy nhiên số lao động được đào tạo nghề ở Hà Tây chủ yếu là lao
động qua đào tạo ngắn hạn, lao động qua đào tạo dài hạn rất ít.
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động được đào tạo dài hạn và ngắn hạn
Đơn vị tính: Người
Năm Tổng số 1998 10.120 1999 14.500 2000 18.100 2001 21.330 2002 21.370 2003 23.580
Dài hạn 1.620 2.000 2.600 3.580 4.265 5.150
8.500 17.770 18.340 17.605 15.500 12.500
Ngắn hạn Nguồn: Sở Lao động Thương binh-Xã hội và Uỷ ban Nhân dân tỉnh [37],
[45].
Từ số liệu trên cho thấy, số lượng đào tạo ngắn hạn năm 2001 chiếm
83,22% trên tổng số người được đào tạo, số được đào tạo dài hạn là 16,8% và
đến năm 2003 là 21,9%. Có thể nói cho đến nay, Hà Tây về cơ bản đã đáp
ứng được việc đào tạo nghề ngắn hạn (85%) số còn thiếu là 15% do các cơ sở
dạy nghề ngoài tỉnh đào tạo. Ở Hà Tây, các ngành nghề được đào tạo khá đa
dạng và phong phú. Có thể khái quát ở 6 nhóm ngành như: cơ khí, điện, tin
học, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ và nghề làm
46
vườn với tổng số hơn 50 nghề phục vụ cho cả 3 nhóm ngành kinh tế công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong đó, có những nhóm ngành phục vụ sản
xuất như: điện, cơ khí, tin học..., có những ngành phục vụ du lịch, xuất khẩu
lao động như: may công nghiệp, cơ khí điện dân dụng, tin học, nghề giúp việc
gia đình, nấu ăn, chụp ảnh, quay camera.
Tình hình hoạt động đào tạo chuyên nghiệp được xem xét ở 2 cấp trình
độ trung học chuyên nghiệp và đại học, cao đẳng.
* Đối với bậc trung học chuyên nghiệp:
Với 7 cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp và số giáo viên ngày
càng được tăng cường (316 giáo viên năm 2001 lên 470 năm 2004) số học
sinh được tuyển vào và tốt nghiệp ra trường trong những năm gần đây ngày
càng tăng. Có thể thấy qua bảng số liệu sau :
Bảng 2.3: Số học sinh chuyên nghiệp được đào tạo từ năm 2000 - 2004.
Đơn vị: Người
Danh mục Năm học
2000 - 2001
2001 - 2002
2002 - 2003 2003 - 2004
Tuyển mới 3.499 4.431 4.862 5.864
Học sinh đang đào tạo 6.615 8.027 9.121 10.471
Học sinh tốt nghiệp 2.903 2.947 3.531 4.507
Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].
Như vậy, từ năm 2000 đến nay ở Hà Tây đã có 13.938 học sinh trung
học chuyên nghiệp tốt nghiệp trong tổng số học sinh trung học chuyên nghiệp
được tuyển vào đào tạo, phần lớn là đào tạo dài hạn, số đào tạo tại chức chiếm
một phần rất nhỏ, tuy nhiên cũng bắt đầu tăng lên nhiều từ năm 2001 đến nay.
Bảng 2.4: Số học sinh đào tạo dài hạn - tại chức từ năm học 2000 - 2004.
Đơn vị: Người
47
Năm học Danh mục
2000 - 2001
2001 - 2002
2002 - 2003
2003 - 2004
Tổng số tuyển mới HS đào tạo dài hạn HS tại chức 3.499 2.723 776 4.431 3.108 1.323 5.864 4.230 1.378
4.862 3.666 1.196 Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].
Ngoài hệ đào tạo tại chức từ năm 2003 - 2004, ở Hà Tây bắt đầu đào
tạo hệ chuyên tu cho 256 THCN.
* Đối với bậc Đại học Cao đẳng.
Sự hoạt động tích cực của 8 cơ sở đào tạo với số giáo viên (763 năm
2000, 877 năm 2004) đã cung cấp NNL chất lượng cao với số lượng không
nhỏ cho các lĩnh vực hoạt động KT - XH ở Hà Tây. Từ năm 2000 đến nay đã
có 17.325 sinh viên tốt nghiệp. Số sinh viên được tuyển mới bắt đầu tăng lên
nhiều từ năm học 2003 - 2004.
Bảng 2.5: Số sinh viên đại học, cao đẳng được đào tạo từ năm 2000 - 2004.
Đơn vị: Người
Danh mục Năm học
2000 - 2001
2001 - 2002
2002 - 2003
2003 - 2004
Tổng số tuyển mới 4.743 4.647 4.524 6.506
SV đang đào tạo 1.2468 12.228 12.639 8.914
SV đã tốt nghiệp 6.129 4.835 3.902 2.459
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].
Khác với bậc trung học chuyên nghiệp, hoạt động đào tạo ở bậc đại
học, cao đẳng được tiến hành với cả 3 loại hình: chính qui, chuyên tu, tại
chức. Tuy nhiên, số lượng đào tạo chính qui vẫn là cơ bản (chiếm 70%), số
lượng được đào tạo ở loại hình chuyên tu, tại chức bắt đầu giảm từ năm học
2003 - 2004.
48
Bảng 2.6: Cơ cấu đào tạo sinh viên đại học, cao đẳng theo loại hình
Đơn vị: Người
Danh mục Năm học
Tổng số tuyển mới Chính qui Chuyên tu Tại chức
2000 - 2001 4.743 3.248 365 1.130
2001 - 2002 4.647 3.066 73 1.508
2002 - 2003 4.524 2.812 1.647
2003 - 2004 6.506 5.590 170 655
Nguồn: niên giám thông kê Hà Tây [7].
Ngoài các bậc đào tạo nói trên, nếu xem xét theo tiêu chí người Kinh và
dân tộc giữa các vùng lãnh thổ, có thể thấy việc đáp ứng nhu cầu đào tạo
NNL cho vùng dân tộc ở Hà Tây còn hạn chế. Số học sinh và sinh viên dân
tộc thiểu số được tuyển vào rất ít so với tổng số.
Bảng 2.7: Cơ cấu đào tạo theo giữa người kinh và dân tộc giữa các vùng,
lãnh thổ từ năm 2000 - 2004.
Đơn vị: Người
Năm học Danh mục
Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng - Đại học
Tổng số Dân tộc Tổng số Dân tộc
2000 - 2001 3.499 139 4.743 129
2001 - 2002 4.431 201 4.647 120
2002 - 2003 4.862 44 4.524 110
Nguồn: Niên giám thông kê Hà Tây [7].
2003 - 2004 5.864 213 6.506 77
Nếu xem xét dưới góc độ cơ cấu trình độ giữa bậc đào tạo trung học
chuyên nghiệp với đại học, cao đẳng có thể thấy sự không phù hợp, tỷ lệ trung
học chuyên nghiệp còn thấp so với đại học, cao đẳng. Thể hiện qua các số liệu
49
sau: năm 2000 - 2001: 3.499/4.743; năm 2001 - 2002: 4.431/4.647; năm 2002
- 2003: 4.862/4.524; năm 2003 – 2004: 5.864/6.506.
2.2.2. Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực
Tổng số lao động trong độ tuổi ở Hà Tây chiếm khoảng 61% dân số.
Trong số gần 1,3 triệu người có khoảng 80% lao động tham gia hoạt động
kinh tế. Phần lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn. Trong số lao động
tham gia hoạt động kinh tế có khoảng 80% lao động làm nông nghiệp. Riêng
khu vực nông thôn có khoảng 20% lao động làm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ. Thời gian sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn mới
chỉ đạt hơn 70%; năm 2000 đạt 74,3%; năm 2001 đạt 77,3%; năm 2002 đạt
77,4%; năm 2003 đạt 78%. Như vậy, còn hơn 20% quĩ thời gian chưa được
khai thác sử dụng. Ước tính khu vực nông nghiệp nông thôn việc sử dụng lao
động còn để lãng phí gần 40.000 lao động. Trong phạm vi toàn tỉnh hiện còn
khoảng 20% lao động không có hoặc thiếu việc làm. Năm 2003, số lao động
thiếu việc làm ở nông thôn và thành thị là 28.872 người; số lao động thất
nghiệp 9.872 người. Trong đó ở thành thị (Hà Đông - Sơn Tây) chiếm 12%
chưa có nghề nghiệp, 15% nghề nghiệp chưa ổn định.
2.2.2.1. Về tình hình thu hút và phân bố sử dụng lao động
Trong những năm gần đây số lao động đang làm việc được phân theo
các ngành kinh tế như sau:
50
Bảng 2.8. Lao động làm việc trong các ngành kinh tế từ 2001 - 2003 (tính đến 1 tháng 7 hàng năm)
Đơn vị tính: Người
Ngành
TT
Năm
2002
2001
2003
Tổng số
1.419.879 1.199.750 1.240.000
Trong đó:
1. Nông nghiệp và lâm nghiệp
1.072.961
896.703
878.700
2. Thuỷ sản
4.574
5.806
8.500
3. Công nghiệp khai mỏ
990
1.697
1.800
4. Công nghiệp chế biến
182.294
185.176
205.000
5. Sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước
1.404
2.100
2.400
6. Xây dựng
19.392
10.392
22.800
7. Thương nghiệp: Sửa chữa xe có động
cơ, mô tô,xe máy và đồ dùng cá nhân
42.860
22.362
34.000
8. Khách sạn nhà hàng
7.137
7.573
12.000
9. Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc
9.801
6.940
9.600
10. Tài chính - Tín dụng
1.797
577
700
11. Hoạt động khoa học và công nghệ
600
475
600
12. Hoạt động kinh doanh tài sản và dịch
851
968
1.500
vụ tư vấn
34.328
10.082
11.000
13. Quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng; đảm bảo xã hội bắt buộc
14. Giáo dục và đào tạo
33.853
38.371
39.500
15. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
3.909
3.856
4.000
16. Hoạt động văn hoá thể thao
1.049
934
1.200
17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
1.081
5.152
5.500
18. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng
998
568
1.200
đồng
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].
51
Nếu xem xét trong ngành công nghiệp thì thấy rằng: số lao động công
nghiệp tăng dần lên từ 2000 đến 2004. Năm 2000: 101.669 người; năm 2001:
212.137 người. Trong tổng số lao động công nghiệp trên địa bàn số lao động
thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm phần rất nhỏ. năm 2000: 3.586
người; năm 2001: 3.353 người; năm 2002: 3287 người và năm 2003: 4,364
người.
Nếu xem xét theo thành phần kinh tế, trong số lao động công nghiệp
thuộc khu vực kinh tế trong nước năm 2003 thì lao động thuộc kinh tế nhà
nước là 10.321 người; tập thể: 1.770 người; tư nhân: 4.987 người; cá thể:
189.536 người; hỗn hợp: 1.159 người. Như vậy, lao động công nghiệp ngoài
nhà nước chiếm phần lớn. Lao động tư thương và dịch vụ, tư nhân chuyên
nghiệp cũng ngày càng tăng dần qua các năm. Năm 2000: 30.535 người; năm
2001: 33.449 người; năm 2002: 38.086 người; năm 2003: 40.962 người.
Số lao động được thu hút vào các làng nghề không nhỏ bởi Hà Tây nổi
tiếng là đất trăm nghề. Năm 1996 có 88 làng nghề truyền thống thu hút
110.900 lao động; trong đó, lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là
76.400 người. Năm 2000 có 972 làng nghề, số lao động được thu hút 161.200
người, trong đó lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là 107.000
người (chiếm 64%). Năm 2003 có 1.116 làng nghề số lao động được thu hút
hơn 200.000 người. Trên địa bàn nông thôn, ngoài số lao động được thu hút
vào hoạt động các làng nghề còn có khoảng 3.242 lao động được thu hút vào
491 trang trại.
2.2.2.2. Việc sử dụng lao động qua đào tạo
Việc sử dụng lao động qua đào tạo trong các ngành, lĩnh vực thời gian
qua cho thấy: ngành Y tế và Giáo dục có số học sinh tốt nghiệp làm việc đúng
nghề đào tạo khá cao. Tuy nhiên, một số sinh viên sau khi tốt nghiệp do
không tìm được việc làm đã chuyển sang làm nghề khác hoặc tiếp tục đi học
đại học. Còn số người được đào tạo nghề của các ngành khác do chủ yếu theo
52
học nghề ngắn hạn nên cơ bản đã tìm được việc làm và tự tạo việc làm
(khoảng 80%). Một số lao động qua đào tạo được thu hút vào các doanh
nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp liên doanh trên địa bàn tỉnh; do đáp ứng
được yêu cầu của cơ quan tuyển dụng nên về cơ bản làm việc đúng với
chuyên môn được đào tạo. Bên cạnh đó vẫn còn không ít số lao động đã được
đào tạo nhưng không tìm được việc làm; để có việc làm họ lại bỏ tiền của và
công sức để tiếp tục theo học nghề khác mà các cơ quan tuyển dụng hiện đang
cần; thậm chí có người lao động chấp nhận làm những công việc không đúng
với khả năng, ngành nghề đào tạo như bảo vệ, hoặc tạp vụ; giúp việc gia
đình... một số lao động được đào tạo phải di chuyển đến các tỉnh, thành phố
khác để tìm được việc làm đúng nghề. Như vậy Hà Tây đào tạo lao động
nhưng lại không thu hút sử dụng được hết sản phẩm của mình.
2.2.2.3. Về cơ cấu lao động được sử dụng
Thực tế trong những năm qua cho thấy số lao động có trình độ đại học,
cao đẳng trở lên tập trung khá nhiều trong khối các cơ quan quản lý nhà nước
các cấp (khoảng 80%) trên tổng số. Khối sản xuất kinh doanh cũng thu hút
nhiều kỹ sư, chuyên gia có trình độ kỹ thuật, quản lý kinh doanh giỏi song
chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhờ kết quả của hoạt động đào
tạo chuyên nghiệp và dạy nghề số lao động có việc làm trong toàn tỉnh tăng
lên và góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
CNH, HĐH thể hiện qua bảng số liệu:
Bảng 2.9: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế từ năm 2000 - 2003
Đơn vị tính: %
Năm Ngành
2000 2001 2002 2003
Nông nghiệp 62,8 61,5 59,1 58,2
Công nghiệp 21,5 22,5 24,1 24,5
53
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây [37].
Dịch vụ 15,7 16 16,8 17,3
Nếu xem xét về cơ cấu trình độ lao động được sử dụng hiện có ở Hà
Tây có thể thấy rằng tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật trên tổng số lao động
còn thấp và chưa hợp lý.
Bảng 2.10: Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật trên tổng số lao động
từ năm 2000 - 2003
Đơn vị tính: %
Năm Trình độ
2000 2001 2002 2003
Cao đẳng - Đại học 3,92 6,78 7,9 4,87
Trung học chuyên nghiệp 5,98 6,62 7,73 5,2
Công nhân kỹ thuật 5,79 6,55 6,74 2,47
Nguồn: Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây [37].
Tỷ lệ lao động giữa bậc trình độ đại học, cao đẳng - trung học chuyên nghiệp
- công nhân kỹ thuật có bằng là 2 - 2 - 1. Như vậy, có thể nói ở Hà Tây còn
thiếu rất nhiều công nhân kỹ thuật và lao động có trình độ tay nghề cao.
2.2.2.4. Về hiệu quả sử dụng lao động
Từ năm 1996 đến nay, do khai thác có hiệu quả các nguồn lực của tỉnh
trong đó có NNL qua đào tạo nên tổng sản phẩm trong tỉnh luôn đạt tốc độ
tăng trưởng khá (hơn 7%).
Bảng 2.11: Tốc độ tăng GDP trong tỉnh từ năm 1995 - 2003
theo giá so sánh năm 1994
1995
1996
1997
1998
2000
2001
2002
2003
Năm 1999
3837,5
4132,6
4457,9
4778,4
5736,6
6190,1
6797,2
7413,0
5098,6
Danh mục Tổng GDP
54
100
107,7
107,1
107,2
107,6
107,9
107,9
109,8
109,1
(tỷ đồng) Tốc độ tăng (%)
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].
Trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, tỷ trọng các ngành kinh tế thuộc khu vực
nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, tỷ trọng khu vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng lên. Sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo xu hướng tích cực nhờ đó sự tăng trưởng của nền kinh tế
đang theo xu hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước. Điều này chứng tỏ
hiệu quả khai thác sử dụng các tiềm năng, đặc biệt tiềm năng lao động của Hà
Tây được nâng cao trong thời gian qua. Có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong GDP qua bảng sau:
Bảng 2.12: Cơ cấu ngành kinh tế từ 1995 - 2003
Đơn vị tính: %
Ngành
Năm
1995
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Nông lâm - 49,0 47,4 40,9 42,6 41,6 38,2 36,6 35,9 34,4
Thuỷ sản
Công nghiệp - 24,5 25,8 29,5 28,8 29,5 39,4 40,8 32,6 36,1
Xây dựng
Dịch vụ 26,3 26,8 29,6 28,6 29,9 29,6 29,5 29,5 29,5
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].
Việc khai thác hiệu quả các tiềm năng của tỉnh đã làm thay đổi chỉ số
thu nhập bình quân của lao động theo chiều hướng tăng lên. Thu nhập bình
quân lao động trong các ngành thuộc khu vực nhà nước do Trung ương quản
55
lý trong 1 tháng năm 2000 là 799,93 ngàn đồng; năm 2001: 884,98 ngàn
đồng; năm 2002: 945,8 ngàn đồng; năm 2003: 951,9 ngàn đồng cao hơn tổng
thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước do tỉnh quản lý
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.13: Thu nhập bình quân một người một tháng của lao động trong khu
vực Nhà nước do địa phương quản lý phân theo ngành kinh tế từ 2000 - 2003.
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Năm
Ngành
2001
2002
Tổng số
TT 1. Nông nghiệp - Lâm nghiệp 2. Thuỷ sản 3. Công nghiệp khai thác mỏ 4. Công nghiệp chế biến 5. Sản xuất phân phối điện, khí đốt và
1.524. 68
1.425. 34
nước 6. Xây dựng 7. Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động
2003 2000 515.60 619.82 673.63 702.29 46.53 553.56 569.99 590.00 301.10 305.41 412.07 450.00 290.00 455.19 521.21 550.00 641.75 667.98 805.94 815.00 1.410. 1.159. 00 72 558.20 622.76 624.41 630.00 617.87 718.50 814.50 760.00
cơ, mô tô
8. Khách sạn và nhà hàng 9. Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 10 Tài chính, tín dụng 11 Hoạt động khoa học và công nghệ 12 Các hoạt động liên quan đến kinh
763.70 881.96
1.310. 88
doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 13 QLNN và ANQP; đảm bảo xã hội 14 Giáo dục và đào tạo 15 Y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội 16 Hoạt động văn hoá thể thao 17 Hoạt động Đảng đoàn thể và hiệp hội 18 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng
413.64 413.47 686.85 690.00 365.63 624.61 627.87 620.00 481.65 528.40 662.00 690.00 1.300. 00 528.90 540.00 560.00 600.00 520.67 617.50 650.00 690.00 601.95 614.87 678.07 720.00 409.72 450.00 599.37 615.00 549.05 654.22 667.00 730.00 512.05 520.53 742.60 785.00
đồng Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây [7].
56
Thu nhập bình quân của lao động trong các làng nghề ngày càng tăng.
Nếu năm 1996: 1 lao động làng nghề có thu nhập 3,2 triệu đồng/năm; 1 lao
động dịch vụ trong làng nghề là 2,9 triệu đồng/năm; 1 lao động nông nghiệp
1,2 triệu đồng/năm; thì đến năm 2000 thu nhập 1 lao động của: 1 lao động
làng nghề là 4 triệu đồng/năm; 1 lao động dịch vụ là 3,4 triệu đồng/năm; 1 lao
động nông nghiệp là 1,6 triệu đồng/năm. Năm 2003, 1 lao động làng nghề là 5
triệu đồng/năm (đặc biệt có những làng nghề có thu nhập cao như vải lụa,
điêu khắc đạt gần 6 triệu đồng/năm; chế biến nông sản 7,3 triệu đồng/năm); 1
lao động dịch vụ là 4 triệu đồng/năm; 1 lao động nông nghiệp đạt 2,5 triệu
đồng/ năm. Nếu tính GDP bình quân đầu người thì chỉ số này ở Hà Tây còn
thấp. Năm 1995 đạt 1.448 nghìn đồng; năm 2000 đạt 3,14 triệu đồng; năm
2001 đạt 3,43 triệu đồng; năm 2002 đạt 3,82 triệu đồng và năm 2003 đạt 4,23
triệu đồng. Nhìn chung hiệu quả sử dụng lao động tuy có bước tiến bộ song
còn thấp chưa ngang tầm với tiềm năng của tỉnh.
2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực
2.3.1. Đánh giá chung
2.3.1.1. Về thành tựu
Nhờ có sự thay đổi nhận thức đối với NNL, sự quan tâm chỉ đạo sát sao
của Đảng uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, trong thời gian qua sự nghiệp giáo dục
và đào tạo Hà Tây nói chung và đào tạo NNL nói riêng đã đạt được những
thành tích đáng kể.
Thứ nhất: Hệ thống Giáo dục phổ thông và đào tạo nghề ngày càng
được mở rộng, nhờ đó trình độ dân trí được nâng cao tạo nền tảng vững chắc
cho sự tiếp tục đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay
nghề. Công tác Giáo dục, đào tạo nhân lực được quan tâm tới tất cả kỹ năng,
trình độ và đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp.
57
Thứ hai: Về cơ bản Hà Tây đã đảm bảo được yêu cầu đào tạo nghề
ngắn hạn; các ngành nghề đào tạo đa dạng, phong phú, bước đầu phù hợp với
yêu cầu của CNH, HĐH.
Thứ ba: Công tác xã hội hoá Giáo dục đào tạo nghề đã được triển khai
và có hiệu quả. Việc khôi phục và phát triển các ngành nghề, làng nghề được
nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm hơn trước. UBND tỉnh kết hợp với phòng
Công nghiệp, Chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội mở được nhiều
lớp dạy nghề (hơn 500 lớp) và khoảng 600 lớp khuyến nông, khuyến công,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật công nghệ, do đó làm tăng số làng có nghề tiểu
thủ công nghiệp hơn trước. Năm 1996 mới có 88 làng nghề đến năm 2003 đã
có 1116 làng có nghề, do vậy số việc làm mới tạo ra ngày càng nhiều, số lao
động tham gia các hoạt động kinh tế ngày càng tăng.
Thứ tư: Hà Tây đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề lao động và
việc làm. Trong thời gian qua, Hà Tây đã thu hút và tạo việc làm cho nhiều
lao động, tăng thêm thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 70% và
góp một phần rất quan trọng trong việc tăng tổng sản phẩm của tỉnh, giảm tỷ
lệ thất nghiệp và tình trạng nông nhàn ở nông thôn.
Thứ năm: Kết quả đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu
lao động. Năm 2001 có 480 lao động xuất khẩu, năm 2002 có 1.000 lao động,
năm 2003 có 1.500 lao động, năm 2004 việc xuất khẩu có xu hướng giảm
trong tình trạng chung của cả nước, chỉ tiêu Hà Tây đặt ra là 1.200 lao động
nhưng trong 6 tháng đầu năm mới thực hiện được hơn 40%. Đối với lao động
sau khi được đào tạo nghề đã có việc làm ổn định (khoảng 80 % so với tổng
số lao động được đào tạo); còn khoảng 15% là việc làm chưa ổn định vì muốn
tìm nơi có thu nhập cao hơn hoặc đi xuất khẩu lao động.
2.3.1.2. Những hạn chế
58
Một là: mạng lưới đào tạo, nhất là đào tạo nghề của tỉnh còn bất cập,
chưa đáp ứng được yêu cầu cho công tác đào tạo nhân lực cả về số lượng và
chất lượng và cơ cấu vùng. So với yêu cầu CNH, HĐH và mục tiêu đào tạo
NNL tới 2010 thì Hà Tây chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo lao động có trình độ
cao, điều này thể hiện trong số lao động được qua đào tạo thì lao động có
chuyên môn kỹ thuật không bằng còn nhiều (190.351/tổng số 327.492) số
công nhân kỹ thuật cũng còn hạn chế (32.779/327.492 người). Việc khôi phục
nghề cũ, phát triển nghề mới tuy có sự phát triển, số lớp và số người được học
nghề ngày càng tăng song chưa thể đáp ứng được yêu cầu khai thác tiềm năng
của tỉnh. Trong lực lượng lao động của tỉnh chủ yếu vẫn là lực lượng lao động
phổ thông, lao động kỹ thuật tuy đã được nâng lên nhưng mới chỉ có hơn
20%.
Hai là: lao động qua đào tạo hàng năm chủ yếu vẫn là đào tạo ngắn hạn
cho các nghề thủ công nghiệp ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm trước
mắt. Do đó những lao động qua đào tạo ở Hà Tây gặp rất nhiều khó khăn khi
xin việc làm tại các doanh nghiệp và tham gia dự tuyển lao động xuất khẩu.
Việc nuôi dưỡng nhân tài chưa được quan tâm từ phía chính quyền địa
phương và các cơ sở tuyển dụng nhân lực. Ở Hà Tây hiếm thấy sự đài thọ đối
với học sinh giỏi cấp quốc gia, học sinh đỗ cao vào các trường Đại học có
chuyên ngành phù hợp với xu hướng phát triển và khai thác tiềm năng của
tỉnh.
Ba là: mức độ toàn dụng lao động ở Hà Tây còn thấp, sự phân bố lao
động chưa hợp lý, hiệu quả khai thác sử dụng lao động chưa cao.
Những hạn chế này đã cản trở nhịp độ chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH, HĐH của tỉnh trong thời gian qua.
2.3.1.3. Nguyên nhân
59
* Nhận thức về việc làm, về nghề nghiệp chưa có sự thay đổi vượt bậc
trong nhân dân. Phần đông cho rằng phải có bằng Đại học mới có việc làm và
có việc làm cho thu nhập cao. Đối với những người không có khả năng vào
được các trường cao đẳng, đại học thì chỉ cần giải quyết lợi ích trước mắt là
có việc làm ngay nên chỉ theo học nghề ngắn hạn.
* Trình độ cơ sở vật chất, qui mô, số lượng trường và trình độ giáo viên
trong các trường dạy nghề không đồng đều, số giáo viên giỏi và có trình độ
cao còn ít. Hệ thống các Trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề tuy đã có nhiều
cố gắng nhưng hiệu quả chưa cao. Danh mục các ngành nghề đào tạo chưa
nhiều và còn lạc hậu.
* Ngân sách còn hạn hẹp và thu nhập của dân cư thấp nên nguồn tài
chính giành cho đào tạo nghề và nuôi dưỡng nhân tài chưa tương xứng. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển ngành nghề còn chậm do đó số việc
làm tạo ra chưa nhiều. Hà Tây chưa có chính sách tuyển dụng hấp dẫn, cuốn
hút lao động nhất là lao động chất lượng cao và số sinh viên là con em của Hà
Tây sau khi tốt nghiệp các trường Đại học về công tác tại tỉnh.
* Hà Tây vẫn còn chậm trễ trong đổi mới cơ chế tuyển dụng NNL nên
không kích thích được việc đào tạo lại để có thể nâng cao tỷ lệ lao động qua
đào tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Sự bất hợp lý trong cơ cấu
đào tạo, trình độ học vấn và nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của sản
xuất xã hội. Trong thực tế điều này chỉ có thể giải quyết được thông qua việc
đào tạo lại, phổ cập nghề cho người lao động bởi nhân lực được đào tạo ở Hà
Tây chủ yếu là ngắn hạn.
2.3.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới
2.3.2.1. Tình trạng vừa thiếu vừa thừa, bất hợp lý về cơ cấu trình độ đào tạo
của nguồn nhân lực.
60
Xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn sản xuất đều cho thấy rằng:
năng suất và hiệu quả cao hay thấp của sản xuất đều phụ thuộc rất lớn vào yếu
tố con người. Sự phụ thuộc này được xem xét cả về số lượng và chất lượng
của NNL hiện có và sẽ có trong tương lai. Cả hai yếu tố này lại phụ thuộc rất
lớn vào các chính sách: dân số, đào tạo và sử dụng NNL. Vì vậy để đáp ứng
yêu cầu của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế theo
hướng nền kinh tế tri thức Hà Tây cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề
sau:
- Nguồn nhân lực ở Hà Tây đang đứng trước tình hình là thừa lao động,
thiếu việc làm, số lượng cung về lao động giản đơn rất lớn trong khi cầu về
lao động lành nghề, lao động có hàm lượng trí tuệ cao nhưng khả năng đáp
ứng lại rất hạn chế gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động trên thị
trường. Theo số liệu đã trình bày ở trên, dân số tự nhiên ở Hà Tây còn ở mức
cao, tốc độ tăng lao động vẫn diễn ra mạnh, hàng năm có khoảng 3 vạn lao
động được bổ sung và cần giải quyết việc làm. Ước tính đến năm 2005 dân số
Hà Tây có 2,53 triệu, lao động trong độ tuổi 1,45 triệu, đến năm 2010 dân số
khoảng 2,67 triệu, lao động trong độ tuổi 1,5 triệu. Bên cạnh đó số lao động
dư thừa, lao động chưa có việc làm hàng năm gần 20%. Nguồn lao động lớn
lại tăng nhanh trong khi tốc độ phát triển kinh tế ở Hà Tây còn chậm, chưa có
khả năng mở rộng tái sản xuất để thu hút lao động. Cơ cấu ngành nghề còn
đang trong quá trình chuyển dịch và lại diễn ra chậm chạp nên sự phát triển
nghề về cơ bản đã giúp giải quyết việc làm hàng năm, song vẫn thấp hơn so
với yêu cầu phải giải quyết. Sự phát triển của quan hệ cung - cầu về lao động
như thế dẫn đến sức ép về giải quyết việc làm ngày càng cao.
- Mặt khác, quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây thời gian qua và sắp tới cho
thấy nhu cầu đòi hỏi về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhiều hơn
lao động giản đơn. Ví dụ như nhu cầu của 17 cụm công nghiệp của địa
61
phương cần tới hàng chục ngàn lao động, khu công nghiệp Phú Cát 45.000 lao
động, nhu cầu phát triển của ngành du lịch đến năm 2005 cũng cần 15.360
người và số lao động dự kiến để thực hiện phát triển thêm cho các làng nghề
với chỉ tiêu hơn 200 làng nghề đạt tiêu chuẩn cũng đòi hỏi được bổ xung
khoảng 3 vạn lao động được đào tạo nghề.
Số lao động cần cho quá trình phát triển chủ yếu là lao động lành nghề,
lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị
trường. Yêu cầu này đặt trước nguồn cung cấp lao động chủ yếu là lao động
phổ thông có tay nghề giản đơn, lao động nhàn dỗi trong nông nghiệp, bộ đội
xuất ngũ (số này chiếm gần 80% lực lượng lao động) cho thấy khả năng số
người không có việc làm sẽ tiếp tục tăng nếu cung đào tạo nhân lực chuyên
môn không đáp ứng kịp thời. Sự lệch pha này làm cho quan hệ cung cầu lao
động vốn đã mất cân đối lại càng mất cân đối hơn trước, ảnh hưởng đến quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Trong thực tiễn, quá trình CNH, HĐH việc áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật để thực hiện quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động kỹ
thuật sử dụng máy móc công nghệ, có chuyên môn kỹ thuật tăng. Nhưng một
điều đáng lo ngại ở Hà Tây hiện nay là số thời gian lao động chưa được sử
dụng của lao động nông nghiệp khá cao (gần 25%); trong số những người
không có việc làm ở nông thôn thì đại bộ phận là không có nghề, không có
vốn và chưa qua đào tạo; số lượng Bộ đội xuất ngũ hầu hết chưa qua đào tạo
nghề, trình độ nhân lực được đào tạo lại bất hợp lý. Số lao động qua đào tạo
mới đạt 21,5% nhưng nhu cầu tới năm 2005 đòi hỏi phải đạt 35% và tới 2010
phải đạt 45%. Cơ cấu trình độ lao động giữa đại học, cao đẳng - trung học
chuyên nghiệp - công nhân ký thuật mới đạt tỷ lệ 4,7% - 5,2% - 2,47%. Trong
khi đó theo yêu cầu của CNH, HĐH đã được lựa chọn ở Hà Tây thì tới 2005
62
tỷ lệ này trong công nghiệp xây dựng lại cần 7,5% - 15% - 4,2% và trong
nông nghiệp tỷ lệ đó cũng là 2% - 5% - 8%.
- Cùng với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước, Hà Tây tiến hành
CNH, HĐH trong cơ cấu mở với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày
càng tăng, để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực đòi hỏi việc đào tạo NNL
phải đáp ứng được yêu cầu cao cả về số lượng và chất lượng. Nhờ đó có thể
sản xuất được các hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khu vực
và quốc tế, đồng thời tạo được sức cạnh tranh của lao động xuất khẩu Hà Tây
trên thị trường khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia; tiến tới tiếp cận
các thị trường mới - thị trường cao cấp ở châu Âu, châu Phi, đặc biệt là thị
trường Anh, Nhật Bản. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho Hà Tây hiện nay là
muốn đạt mục tiêu xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế của nguồn lực con
người cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo NNL đạt ở
trình độ chuẩn so với khu vực và thế giới (kể cả lao động giúp việc gia đình
và lao dộng chuyên môn kỹ thuật).
- Đào tạo NNL Hà Tây cũng đang đứng trước yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH, nhưng hiện nay cơ
cấu lao động theo ngành và cơ cấu lao động được đào tạo còn bất hợp lý. Quá
trình chuyển dịch diễn ra chậm chạp, tỷ lệ lao động giữa các ngành nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là 48,9% - 24,1% - 16,8%. Hà Tây mới có hơn
20% trong tổng số lao động được đào tạo nhưng chủ yếu mới đào tạo được
lao động ở trình độ bán lành nghề chứ chưa phải đào tạo dài hạn trình độ cao
để phục vụ cho công nghệ cao. Ta biết rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động là nội dung cơ bản của CNH, HĐH, chỉ khi nào phá vỡ được cấu
trúc cũ xây dựng cấu trúc mới một cách toàn diện cả về cơ cấu lao động theo
trình độ, theo ngành, theo lĩnh vực kinh tế và cơ cấu lao động được đào tạo
mới được xem là hoàn thành nhiệm vụ của CNH, HĐH. Vì vậy để khắc phục
63
tình trạng bất hợp lý về cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ
cấu lao động, Hà Tây cần phải thực hiện một cuộc cách mạng trong đào tạo
và sử dụng NNL.
2.3.2.2. Tiềm năng nhân lực còn bị lãng phí, phân bổ sử dụng chưa hợp lý
và hiệu quả sử dụng chưa cao trong khi yêu cầu khai thác sử dụng rất lớn
- Quá trình đổi mới ở Hà Tây trong thời gian qua nhìn chung đã có
những cố gắng trong việc khai thác sử dụng, phát huy tiềm năng nhân lực
ngày một đầy đủ và có hiệu quả hơn vào các mục tiêu KT - XH của tỉnh.
Nhưng xem xét một cách cụ thể và toàn diện trong thực tế việc sử dụng NNL
ở Hà Tây vẫn còn có hạn chế. Hà Tây vẫn chưa sử dụng hết tiềm năng nhân
lực của mình (điều này đã nêu trong thực trạng).
- Đối với lao động được đào tạo, Hà Tây cũng chưa khai thác sử dụng
hết được hiệu quả của nó, điều này được thể hiện ở chỗ sử dụng nhân lực có
trình độ chuyên môn không đúng với ngành nghề được đào tạo hoặc dưới khả
năng được đào tạo.
- Các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học vào làm những công việc của
công nhân, cách sử dụng này vừa không đạt hiệu quả cao lại gây lãng phí
trong đào tạo NNL.
Như vậy vấn đề đặt ra ở Hà Tây là làm thế nào để thu hút được nhiều
lao động và sử dụng lao động có hiệu quả cao, nhất là lao động qua đào tạo
trong thời gian tới.
64
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THÚC ĐẨY VIỆC ĐÀO
TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY
3.1. Phƣơng hƣớng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định không thể xác định phương hướng
đào tạo và sử dụng NNL, nếu phương hướng đó không lấy phương hướng
chung của CNH, HĐH làm căn cứ xuất phát.
3.1.1. Phương hướng chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2010
3.1.1.1. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
65
Trên cơ sở nhận định tình hình chung và đánh giá sự phát triển NNL,
Hà Tây đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH thời kỳ 2000 -
2010, trong đó chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH (nhất là CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn), tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng CNH, HĐH. Cụ thể:
- Đối với nông nghiệp nông thôn: phát triển theo hướng xây dựng nền
sản xuất hàng hoá qui mô lớn, hiệu quả và bền vững có năng suất chất lượng
và sức cạnh tranh cao trên cơ sở sử dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên
tiến để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ công nghiệp trong cơ cấu kinh
tế nông thôn, khai thác có hiệu quả tiềm năng của các tiểu vùng kinh tế trong
tỉnh, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, tiểu thủ công
nghiệp.
66
- Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Phát triển công nghiệp
chế biến nông - lâm sản trên cơ sở phát huy thế mạnh của nông nghiệp. Tập
trung vào công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và đáp ứng một phần
nhu cầu tiêu dùng ở nông thôn. Phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng lao động cao như đồ uống, dệt may, da giày. Ưu tiên các ngành sản
xuất: vật liệu xây dựng, cơ khí, điện máy, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Phát huy các làng nghề truyền thống, đặc biệt chú ý các làng nghề có sản
phẩm xuất khẩu như thêu ren, tơ tằm. Phát triển công nghiệp gắn với qui
hoạch đô thị, giữ gìn bảo tồn các di sản thiên nhiên, các công trình văn hoá, di
tích lịch sử và bảo vệ môi trường sinh thái. Chuyển mạnh nền công nghiệp từ
chủ yếu là gia công hiện nay sang sản xuất hiện đại để đạt giá trị xuất khẩu
cao. Tuy nhiên, căn cứ vào tiềm năng nguyên liệu và nguồn lực lao động, Hà
Tây cần ưu tiên đầu tư phát triển vào các nhóm ngành như:
+ Công nghiệp chế biến nông - lâm sản - thực phẩm và đồ uống.
+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Công nghiệp cơ khí (chế tạo và sửa chữa).
+ Công nghiệp hàng tiêu dùng (may mặc, da giày, hàng thủ công mỹ
nghệ) và các sản phẩm phục vụ lễ hội, du lịch.
+ Tạo điều kiện phát triển các làng nghề, các ngành nghề thủ công gắn
với công nghệ mới .
- Đối với thương mại và du lịch: Tập trung qui hoạch xây dựng mạng
lưới kinh doanh bán buôn, bán lẻ trên địa bàn gắn với thị trường Hà Nội, các
tỉnh và nước ngoài. Liên kết chặt chẽ với các cơ sở sản xuất nắm vững nguồn
hàng để trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán tiêu thụ sản phẩm đảm bảo uy tín.
Giữ vững và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. Xuất khẩu với đầu tư
phải gắn với vùng nguyên liệu nông sản, công nghiệp tập trung của tỉnh để
từng bước tạo mặt hàng chủ lực.
67
Phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Trên cơ sở qui hoạch
tổng thể phát triển du lịch, tăng cường đầu tư phát triển du lịch, xây dựng các
dự án huy động mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế cho du lịch.
3.1.1.2. Các chỉ tiêu chung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Theo qui hoạch tổng thể phát triển KT - XH, trong thời gian tới ở Hà
Tây cần đạt là:
- Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 7,5% - 8%/năm giai đoạn 2001 - 2005
và 9 - 10% giai đoạn 2006 - 2010.
- Cơ cấu ngành kinh tế:
Năm 2005 Năm 2010
+ Nông nghiệp 35% 23%
+ Công nghiệp 35% 40%
+ Dịch vụ 30% 37%
- Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 80 triệu USF, năm 2010 là 200
triệu USD.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 14 triệu VNĐ vào năm 2010 [43].
3.1.2. Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Để thực hiện phương hướng chung của CNH, HĐH nói trên, hoạt động
đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian tới cần phát triển theo định hướng
sau:
3.1.2.1. Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cả về số lượng, chất
lượng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong định hướng phát triển Giáo dục Đảng ta đã chỉ rõ: mục tiêu đào
tạo NNL là phải đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và phát triển KT - XH và nâng
tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, Hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII
68
Đảng ta xác định: “Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy
mạnh đào tạo công nhân lành nghề bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước.
Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình KT - XH của từng vùng
phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn... Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu
chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất. Tại đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định:
"Tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự
chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển Giáo dục đào tạo... Định hình
qui mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là cơ cấu cấp học
theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển NNL phục vụ phát triển KT -
XH. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp" [17, tr.292]. Do vậy, thời
gian tới cần:
- Đào tạo NNL phải hướng vào việc tạo ra được những con người phát
triển toàn diện, yêu nước và có lý tưởng XHCN, góp phần tích cực vào sự
nghiệp CNH, HĐH, có tinh thần ham hiểu biết, có tư duy sáng tạo, làm chủ
khoa học kỹ thuật hiện đại, có ý thức và năng lực hợp tác, có tinh thần trách
nhiệm với cộng đồng xã hội, với môi trường tự nhiên, có nếp sống lành mạnh
và sức khoẻ tốt để học tập, lao động suốt đời, muốn vậy phải:
+ Mở rộng qui mô đào tạo đi đôi với coi trọng chất lượng Giáo dục đào
tạo và hiệu quả sử dụng, đáp ứng yêu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài cho
CNH, HĐH.
+ Thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo và trình độ đào tạo
(chính qui, không chính qui) và các hình thức như đào tạo từ xa, rèn luyện kỹ
năng, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng lại cho công nhân đang làm việc theo chu
kỳ 5 năm/1 lần để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động theo hướng CNH, HĐH.
69
+ Cần tập trung sức nhanh chóng phát triển đào tạo nhằm đáp ứng yêu
cầu nhân lực cho 17 cụm công nghiệp địa phương, khu công nghiệp Phú Cát
và khu công nghệ cao Hoà Lạc. Đẩy mạnh việc đào tạo lại nhằm bổ túc kiến
thức nâng cao năng lực mới, kiến thức công nghệ hiện đại và năng lực kỹ
thuật cho đội ngũ lao động đang sử dụng để nâng cao năng suất lao động.
- Trong quá trình đào tạo và đào tạo lại cần thực hiện đồng thời các mặt
như: thay đổi cơ cấu lao động nâng cao chất lượng trình độ kỹ thuật công
nghệ và tăng cường năng lực quản lý. Trong đó đào tạo lao động kỹ thuật
được nhấn mạnh để nhanh chóng khắc phục mặt yếu kém của NNL ở Hà Tây
hiện nay. Cụ thể:
+ Đối với giáo dục phổ thông: giữ vững thành quả phổ cập tiểu học và
trung học cơ sở, tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi vàoơ trung học
phổ thông từ 57% năm 2000 lên 65% vào năm 2005 và 75% vào năm 2010
[36, tr.7- 8].
+ Đối với trung học chuyên nghiệp cần mở rộng đào tạo kỹ thuật viên,
nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung học
dựa trên nền tảng học vấn trung học cơ sở. Thu hút 10% học sinh trong độ
tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp trong năm 2005 và 15% vào
năm 2010 [36, tr.9].
+ Đối với dạy nghề: mở rộng đào tạo công nhân, chú trọng đào tạo đội
ngũ công nhân tay nghề cao cho một số ngành mũi nhọn và cho xuất khẩu lao
động. Phát triển nghề ngắn hạn, đặc biệt ở nông thôn để thực hiện chuyển
dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Thu hút học
sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề tới 2005 đạt tỷ lệ 25%
trong độ tuổi và 30% năm 2010 [36, tr.9].
70
+ Đối với đại học và cao đẳng: cần đáp ứng tốt yêu cầu nhân lực trình
độ cao cho CNH, HĐH và phát triển bền vững, nâng sức cạnh tranh và đặc
biệt đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH phát triển theo hướng kinh tế tri
thức. Do đó một mặt củng cố phát triển trường Cao đẳng Cộng đồng và mặt
khác nâng trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây lên Đại học, xây dựng một
trường Đại học dân lập [36, tr.9].
3.1.2.2. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu về nguồn nhân lực qua
đào tạo cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng:
Tăng qui mô và điều chỉnh cơ cấu đào tạo để đến năm 2005 có 30 -
35%, năm 2010 có 60 - 65% lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng
được đào tạo, trong đó 7,5% có trình độ Cao đẳng trở lên, 15% trung học
chuyên nghiệp; 4,2% công nhân kỹ thuật. Ưu tiên đào tạo cho các ngành công
nghiệp then chốt, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất và cho xuất
khẩu lao động và cho nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động, ưu tiên các
lĩnh vực chế biến nông sản và công nghiệp vật liệu xây dựng [36, tr.10].
- Đối với nông nghiệp lâm nghiệp:
Phấn đấu đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 15%, trong đó
trình độ cao đẳng trở lên có 2%, trung học chuyên nghiệp là 5%, công nhân
kỹ thuật: 8%; đến 2010 đạt 20 đến 30%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên có
4%, trung học chuyên nghiệp là 7%, công nhân kỹ thuật: 9 - 12%. Chú ý đào
tạo và bồi dưỡng nhân lực để phát triển kinh tế trang trại [36, tr.10]. Đồng
thời với việc nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào 2005 và 40% vào
2010 tiến dần tới sự hợp lý về cơ cấu trình độ giữa cao đẳng, đại học - trung
học chuyên nghiệp - công nhân lành nghề trên thế giới là 1 - 4 - 10.
- Nhân lực cho một - số ngành và lĩnh vực xã hội khác:
71
+ Bảo đảm đủ đội ngũ cán bộ cho ngành Y cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Chú trọng đào tạo về kỹ thuật Y tế theo kịp trình độ khu vực, đồng
thời đào tạo cán bộ có hiểu biết về Y tế cộng đồng để đáp ứng nhu cầu tại
tuyến cơ sở. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý ngành Y các cấp, bồi dưỡng
năng cao cho cán bộ trong ngành, phấn đấu đến 2005, 100% trạm xá có bác
sĩ, y sĩ sản nhi.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác và cán bộ quản lý về văn hoá,
thể dục thể thao cho các địa phương.
+ Tăng qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng thường xuyên
cho công chức nhà nước từ cấp xã trở lên.
3.1.2.3. Phát huy tối đa nội lực nguồn nhân lực trong tỉnh, sử dụng hợp lý, có
hiệu quả nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt chú ý nguồn nhân lực qua đào tạo
Mục tiêu KT - XH đã đưa ra trong nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ IX
chỉ có thể đạt được khi phát huy tối đa NNL hiện có để khai thác các lợi thế
về đất đai, tài nguyên. Muốn vậy Hà Tây cần xác định được tổng cầu lao động
của toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lao động theo ngành, theo khu vực thành thị
và nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hoá, CNH, HĐH. Trên cơ sở đó
một mặt thực hiện điều chỉnh đào tạo NNL để đáp ứng yêu cầu, mặt khác cần
đẩy nhanh sự phân công lại lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động
phù hợp với cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, giảm dần lao động trong
nông nghiệp từ 62,8% xuống 55% năm 2005 và xuống đến 40% năm 2010.
Bảng 3.1. Dự báo cơ cấu lao động ở Hà Tây đến năm 2010.
Đơn vị tính: %
Năm TT Ngành
2000 2005 2010
1. Nông nghiệp 62,8 55 40
72
Công nghiệp - Xây dựng 2. 21,5 25 30
Nguồn: Qui hoạch tổng hợp phát triển kinh tế - xã hội Hà Tây đến 2010 [43].
3. Dịch vụ 15,7 20 30
Đồng thời với việc làm trên cần tích cực tạo việc làm mới và ổn định
để thu hút được nhiều lao động, giảm tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị
xuống dưới 5%, tăng quĩ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên
85%.
Việc sử dụng NNL qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là vấn đề quan
trọng nhất của sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH, bởi đây là bộ phận
quyết định năng suất lao động chung trong toàn tỉnh. Hà Tây trong thời gian
tới cần tạo điều kiện để NNL qua đào tạo có cơ hội làm việc rộng rãi, có
chính sách thu hút, khuyến khích lao động được đào tạo (nhất là bậc Đại học
Cao đẳng) về làm việc ở nông thôn, đặc biệt là ở các xã miền núi thông qua
chế độ ưu đãi về thu nhập, điều kiện để tiếp tục học tập, có thể dễ dàng quay
trở lại công tác tại miền xuôi và thành phố sau một số năm công tác nếu họ
không muốn ở lại miền núi.
- Mở rộng qui mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
- Đa dạng hoá các loại hình và trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng
NNL trên cơ sở phân công lại lao động xã hội, thực hiện sự chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng CNH, HĐH.
3.2. Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Tây
3.2.1. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo
73
Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản
lý của nhà nước. Xã hội hoá giáo dục đào tạo là làm cho giáo dục đào tạo đáp
ứng được yêu cầu đa dạng phong phú của xã hội, của từng ngành, từng địa
phương, biến nhà trường từ một thể chế nhà nước thành một thể chế xã hội
nhà nước, một hệ thống mở đa dạng, mềm dẻo và gắn với tiến trình phát triển
KT - XH đồng thời thu hút được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát
triển sự nghiệp Giáo dục đào tạo, tạo nên sự gắn kết giữa cá nhân với xã hội,
giữa xã hội với ngành giáo dục đào tạo. Muốn vậy Hà Tây cần:
- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành
đoàn thể về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề.
Quan tâm tạo điều kiện cho mọi người được học tập và học tập suốt đời thông
qua việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng tại các địa phương, các
trung tâm dạy nghề. Tôn vinh nghề dạy học và tăng cường đầu tư cho giáo
dục và đào tạo. Củng cố Hội đồng Giáo dục và Hội khuyến học các cấp. Tiếp
tục đẩy mạnh việc lập và sử dụng có hiệu quả quỹ khuyến học (chú ý mở rộng
tăng cường đối với dạy nghề), quỹ khuyến công và khuyến nông.
- Huy động mọi nguồn lực và tăng cường trách nhiệm đối với đào tạo
NNL. Bằng cách đó giải quyết những bức xúc về NNL, khắc phục những bất
cập về đào tạo NNL ở Hà Tây hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu KT - XH
của tỉnh đề ra. Tỉnh cần có cơ chế nhằm khuyến khích đầu tư các cơ sở dạy
nghề trong các thành phần kinh tế. Một mặt tỉnh đầu tư phát triển qui mô dạy
nghề công lập, tăng đầu tư cho các quỹ khuyến công, khuyến nông và mặt
khác coi trọng, khuyến khích phát triển các cơ sở đào tạo bán công, tư thục,
cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp để tạo lập một hệ thống dạy nghề liên
hoàn gắn lý thuyết với thực hành ở cả ba cấp trình độ: bán lành nghề - lành
nghề - trình độ cao. Việc đào tạo lao động có trình độ lành nghề và trình độ
74
cao cần phân công cho các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên
nghiệp và cao đẳng kỹ thuật có chức năng dạy nghề, việc đào tạo trình độ bán
lành nghề giao cho các trung tâm dạy nghề, các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của
tập thể và tư nhân trong các làng nghề với những chương trình linh hoạt.
- Kêu gọi bà con Việt kiều, các nhà doanh nghiệp trẻ thành đạt trong
tỉnh tài trợ cho các trường và các trung tâm dạy nghề dưới các hình thức như:
hỗ trợ về tài chính và trang thiết bị dạy học, quỹ khuyến học, học bổng...
- Để giải quyết thoả đáng mối quan hệ cung cầu nhân lực và thực hiện
các mục tiêu về giải quyết việc làm, gắn đào tạo với sử dụng NNL, cần:
+ Có nhận thức mới: coi Giáo dục đào tạo, một lĩnh vực dịch vụ có thu.
Trên cơ sở thừa nhận thị trường lao động, tất yếu phải thừa nhận sản phẩm
dịch vụ giáo dục đào tạo là hàng hóa công cộng và do đó tất yếu phảỉ vận
dụng cơ chế thị trường và đặt nó với xu hướng toàn cầu hoá. Song cũng cần
thấy rằng, sản phẩm giáo dục đào tạo là hàng hóa công cộng đặt biệt. Tính
đặc biệt của nó là ở chổ gắn trực tiếp với con người, gắn với ý thức xã hội, do
đó gắn với mục tiêu "trồng người” như Bác Hồ đã dạy và khi vận dụng cơ chế
thị trường phải chịu sự chi phối của định hướng xã hội chủ nghĩa và tính chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó thực hiện chủ trương xã hội hóa
giáo dục - đào tạo, góp phần giải quyết những bất cập trong lĩnh vực đào tạo
hiện nay.
+ Thực hiện mô hình liên kết giữa Uỷ ban Nhân dân tỉnh - doanh
nghiệp và các cơ sở sử dụng nhân lực - người học, với phương châm nhà
nước hỗ trợ, nhà doanh nghiệp giúp đỡ và gia đình người học đóng góp.
+ Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu
tư cho đào tạo nghề dưới hình thức trường tư để giải quyết những bất cập hiện
nay.
75
3.2.2. Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề,
các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp
Việc phát triển hệ thống các trường đào tạo công nhân kỹ thuật nhằm
thu hút phần lớn số học sinh phổ thông của tỉnh không đủ điều kiện vào học
cao đẳng, đại học, đào tạo họ trở thành lực lượng lao động kỹ thuật bảo đảm
cung cấp cho các ngành kinh tế theo yêu cầu CNH, HĐH và phục vụ cho mục
tiêu xuất khẩu lao động kỹ thuật là việc làm cần thiết hiện nay ở Hà Tây. Để
tạo điều kiện cho con em Hà Tây, nhất là con em các gia đình khó khăn có cơ
hội học tập và thực hiện tốt phân luồng học sinh, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu lao động. Tỉnh Hà Tây cần:
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, coi nó là đầu tư cho phát
triển. Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới Tỉnh cần tăng dần ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục đào tạo (hơn 15%) và đặc biệt chú ý tới các trường
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Xây dựng trường dạy nghề thứ hai và mở thêm một số trung tâm dạy
nghề tại các khu công nghệ cao và các vùng nông thôn để giảm số lao động
đào tạo nghề ngắn hạn, tăng số lao dộng được đào tạo dài hạn. Phấn đấu mỗi
huyện có một Trung tâm dạy nghề với cơ sở vật chất phù hợp, đáp ứng yêu
cầu cập nhật các nghề mới.
- Đối với các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và trung tâm kỹ thuật
tổng hợp, nhất thiết phải được đầu tư thêm các trang thiết bị dạy nghề để học
sinh có điều kiện rèn luyện làm quen với các thao tác kỹ năng nghề, khắc
phục tình trạng học lý thuyết "chay" ở một số trung tâm như hiện nay. Đồng
thời phát động phong trào thi đua tự tạo thiết bị dạy học, khơi dậy tinh thần
sáng tạo vượt khó khăn trong giảng dạy và học tập.
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý
76
Ngoài chất lượng nguồn đào tạo và cơ sở vật chất, việc nâng cao chất
lượng đào tạo NNL còn phụ thuộc một phần rất lớn ở trình độ giáo viên và
đội ngũ cán bộ quản lý trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, trường dạy nghề. Đội ngũ này phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề,
trong đó tỷ lệ giáo viên có tay nghề cao có trình độ đại học và trên đại học
ngày càng tăng. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thực tế việc tổ
chức Hội chợ kỹ thuật công nghệ ở Việt Nam và Hội chợ việc làm ở Hà Tây
trong thời gian qua cho thấy, trong xu thế phát triển công nghệ thay đổi từng
ngày, từng giờ nếu cán bộ giảng dạy không thường xuyên được bồi dưỡng,
cập nhật phương pháp giảng dạy, thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại thì sẽ
có nguy cơ bị tụt hậu và sản phẩm đào tạo là những người thợ cũng không thể
coi là phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng lao động trong
nước và cạnh tranh trên thị trường lao động nước ngoài. Trong nhiều năm qua
ở Hà Tây việc đào tạo NNL chưa được quan tâm đúng mức nên việc đào tạo
nâng cao trình độ giáo viên cũng chưa được coi trọng, vì vậy để nâng cao
trình độ của giáo viên trong thời gian tới tỉnh cần coi trọng việc đào tạo bồi
dưỡng chuẩn hoá giáo viên (nhất là giáo viên các trường dạy nghề). Thời gian
qua mặc dù nhiều giáo viên ở các cơ sở đào tạo đã tự mình tích cực theo học
các lớp bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ sau đại học, song vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu đào tạo NNL cho tương lai. Điều đó do nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân thu nhập của giáo viên thấp và tỉnh chưa có cơ chế khuyến
khích cho việc đi học để nâng cao trình độ. Để nâng cao trình độ giáo viên
tỉnh cần giành một phần ngân sách và có cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên đi
học tập nâng cao trình độ trên ĐH, kết hợp với các doanh nghiệp đưa lao
động giỏi, lao động trẻ đi tu nghiệp ở nước ngoài. Đồng thời với việc đầu tư
bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên tỉnh nên có chính sách đãi ngộ theo
77
đúng giá trị NNL được đào tạo, trọng dụng người tài để vừa giữ, vừa thu hút
được giáo viên giỏi về công tác giảng dạy trong các trường đào tạo của tỉnh.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là xây dựng và phát huy
hiệu quả các tập thể chuyên môn mạnh trong các cơ sở đào tạo và cơ sở sản
xuất kinh doanh để có thể cùng hoà nhịp trong kết hợp đào tạo lý thuyết với
kỹ năng thực hành, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn giáo dục đào tạo với sử
dụng và giải quyết việc làm. Cùng với đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản
lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc đào tạo NNL, điều này được thể
hiện thông qua việc quản lý thu - chi tài chính, bảo quản cơ sở vật chất phục
vụ giảng dạy, quản lý việc thực hiện nội dung chương trình và qui trình đào
tạo. Các hoạt động trên được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo và hạ thấp mức chi phí đào tạo. Bởi vậy Tỉnh cần thực hiện việc liên
kết với các cơ sở đào tạo của Trung ương mở lớp hoặc gửi cán bộ quản lý
theo học các lớp nghiệp vụ để nâng cao trình độ,ý thức trách nhiệm của cán
bộ quản lý thuộc các cơ sở đào tạo NNL.
3.2.4. Tạo nhiều việc làm mới để có thể toàn dụng lao động
Có thể nói, tạo nhiều việc làm là một nhiệm vụ bức bách ở Hà Tây hiện
nay khi số lao động chưa có việc làm và số lao động bổ sung ngày càng gia
tăng và chủ yếu lại tập trung ở nông thôn. Để tạo việc làm thu hút được nhiều
lao động cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là: chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn trên cơ sở
các lợi thế của địa phương, nhanh chóng hiện thực hoá các dự án đầu tư vào
tỉnh, do đó đầu tư phát triển khu vực nông thôn, đẩy nhanh đô thị hoá, phát
triển ngành nghề sẽ làm tăng nhu cầu lao động tại chỗ, tăng việc làm, nhanh
chóng giảm thiểu số lao động chưa có việc làm và số lao động có việc làm
không đầy đủ, thời gian nông nhàn của nông dân, tăng thu nhập cho dân cư
78
nông thôn đồng thời gắn được lao động với đất đai tài nguyên của Tỉnh.
Muốn vậy cần:
- Nhanh chóng thực hiện việc giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hành
lang pháp lý và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất để các dự án đầu tư của các
doanh nghiệp trong, ngoài nước vào Tỉnh được thực thi có hiệu quả.
- Cho phép các tổ chức, cá nhân thuê đất lâu dài, tạo môi trường đầu tư
thuận lợi để họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hình thành nên
các khu công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.
- Phát triển kinh tế hộ gia đình, làng nghề nông thôn, phát triển kinh tế
trang trại đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông thôn.
- Cho phép nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất (chuyển một
phần hợp lý diện tích trồng lúa sang làm vườn hoặc nuôi trồng thuỷ sản có giá
trị kinh tế cao).
Hai là: đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công
truyền thống và tạo nghề mới, một hướng đi hiệu quả, vừa tận dụng được
nguồn lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, vừa khai thác được
nguồn tài nguyên phong phú đa dạng đối với tạo việc làm. Việc phát triển
làng nghề ở Hà Tây không chỉ tạo việc làm cho người lao động mà còn có thể
thu hút thời gian của lao động phụ góp phần tiết kiệm thời gian, tăng thêm thu
nhập, giảm thiểu các tệ nạn xã hội. Muốn vậy cần ưu tiên giải quyết về vốn
đặc biệt là nguồn vốn lãi xuất thấp hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết mặt
bằng. Tìm kiếm mở rộng thị trường, hình thành các vùng nguyên liệu tập
trung, thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để bảo
đảm số lượng và chất lượng tốt cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản
thực phẩm trong các làng nghề.
79
Ba là: khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qui
mô vừa và nhỏ, bởi đây là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả hoạt động khá
cao, đóng góp đáng kể vào GDP của Tỉnh, tạo nhiều việc làm và thu hút NNL
đáng kể hiện nay. Năm 2001 khu vực này đã thu hút tạo thêm việc làm cho
5.500 lao động. Năm 2002 tạo việc làm thêm cho 6.000 lao động. Năm 2003
tạo việc làm cho 7.000 lao động. Muốn vậy, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần
khuyến klhích, hỗ trợ khu vực này về vốn thông qua hình thức bảo lãnh tín
dụng và vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, về thông tin kỹ thuật, mặt bằng sản
xuất, bảo đảm sự bình đẳng và tạo niềm tin cho các chủ đầu tư, có thể giảm
thuế trong thời gian đầu khi sản xuất các mặt hàng mới có hiệu quả kinh tế
cao.
Bốn là: đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Trong nhiều năm qua xuất khẩu
lao động được coi là một định hướng quan trọng, mũi nhọn trong việc tạo việc
làm cho hiệu quả cao, nhưng hiện nay xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn
trong việc thực hiện mục tiêu mà tỉnh đề ra năm 2004 (1.200 lao động). Số lao
động đưa sang nước bạn làm việc còn ít, không tương xứng với tiềm năng lao
động rất dồi dào của tỉnh, trong khi đó nhu cầu lao động ở nước bạn vẫn rất
lớn (như Hàn Quốc, Đài Loan). Vì vậy, cần tập trung tuyên truyền giáo dục
nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nhận
xuất khẩu lao động, nâng cao sự hiểu biết về phong tục tập quán, khả năng
giao tiếp ngoại ngữ, nâng cao ý thức chấp hành các nguyên tắc trong hợp tác
lao động cho người lao động. Hình thành và hoàn thiện mạng lưới chuyên đào
tạo NNL cho xuất khẩu. Tập trung đào tạo, chuẩn bị NNL có tay nghề và chất
lượng cao (bởi trong số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài mới chỉ
có 4% lao động chất lượng cao còn lại là lao động phổ thông) đáp ứng thị
trường lao động của khu vực và thế giới, nhất là các ngành xây dựng, điện tử,
tin học. Mặt khác cần thực hiện tốt chính sách cho vay vốn thế chấp để người
80
lao động có cơ hội đi xuất khẩu lao động với mức chi phí thấp, duy trì giữ
vững thị trường truyền thống và xây dựng các thị trường mới.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhưng tác giả đề tài chỉ đề cập tới các vấn đề sau:
Một là: tạo lập duy trì mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo, đơn vị tuyển
dụng lao động và việc làm. Để phát huy có hiệu quả NNL cần phải đảm bảo
sự thống nhất trên cả ba mặt: đào tạo - sử dụng - việc làm. Việc gắn đào tạo
với sử dụng trong cơ cấu thống nhất sẽ giúp cho việc xác định đúng qui mô,
cơ cấu NNL đào tạo phù hợp với yêu cầu sử dụng để phát triển KT - XH khắc
phục tình trạng thừa, thiếu, bất hợp lý và lãng phí trong đào tạo, sử dụng
NNL. Muốn vậy phải điều tra xác định nhu cầu việc làm, nhu cầu sử dụng
nhân lực được đào tạo, phải nghiên cứu dự báo về xu hướng biến động của thị
trường lao động, xu hướng vận động của cơ cấu lao động trong quá trình
CNH, HĐH để có cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại các loại
hình lao động cho phù hợp. Hà Tây có thể thực hiện theo hướng nói trên qua
các nội dung sau:
- Gắn cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp:
Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp và các cơ sở sử
dụng lao động các nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo về qui mô và cơ cấu
ngành nghề. Cách làm này vừa khắc phục được tình trạng người học chỉ theo
một số ngành có lợi ích trước mắt, vừa hướng người học tự giác lựa chọn
ngành nghề theo cơ cấu lao động và trình độ tỉnh có nhu cầu, vừa bảo đảm
cho người học có được việc làm sau khi tốt nghiệp, vừa tạo điều kiện cho cơ
sở sử dụng lao dộng tuyển được lao động cần thiết và phù hợp đảm bảo năng
suất lao dộng cao. Mặt khác việc tạo mối liên thông giữa cơ sở đào tạo với
doanh nghiệp còn có thể giúp cho các trường khắc phục được những khó khăn
81
về tài chính, về cơ sở vật chất thực hành, thực tập trong đào tạo, nhờ có sự hỗ
trợ của các đơn vị tuyển dụng lao động được đào tạo.
- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các
địa phương miền núi. Việc làm này vừa góp phần quan trọng gắn đào tạo với
sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực
qua đào tạo và tình trạng dư thừa giả tạo lao động qua đào tạo trong Tỉnh, vừa
tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi. Tuy nhiên cũng cần phải
nhận thức rằng gắn đào tạo với sử dụng và việc làm không có nghĩa là người
học sau khi tốt nghiệp ra trường là nghiễm nhiên có việc làm ngay do được
phân công mà là nhằm điều chỉnh để tránh sự mất cân đối gữa cung - cầu lao
động một cách tổng thể. Từ đó giảm thiểu lãng phí trong đào tạo NNL và
giảm sức ép việc làm đối với nền kinh tế của tỉnh. Còn người học sau khi học
xong có được việc làm hay không họ phải đối mặt với những thử thách trên
thị trường lao động tuỳ thuộc vào khả năng họ đáp ứng được yêu cầu về kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp do các doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng đưa ra
qua các kỳ dự tuyển.
Hai là: khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của người lao động. Thực
tế hoạt động sản xuất cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc chủ
yếu vào cách thức tổ chức và phân công lao động, mức độ lành nghề và thái
độ của người lao động đối với công việc họ được đảm nhiệm. Vì vậy bên
cạnh việc đầu tư đào tạo, đào tạo lại để người lao động có trình độ chuyên
môn thích ứng, các đơn vị sử dụng lao động cần có biện pháp kích thích đối
với họ để khơi dậy và phát huy tính tích cực của người lao động. Song khích
thích người lao động bằng cách nào? có nhiều hình thức tác động nhưng trong
phạm vi đề tài này tác giả đề cập tới biện pháp tác động bằng lợi ích kinh tế.
Nếu xuất phát từ góc độ nhu cầu lợi ích kinh tế thì thu nhập thấp từ công việc
đang làm là nguyên nhân dẫn đến sự lãng phí nhân lực. Tình trạng làm việc
82
chung thì "cầm chừng..." để giữ chỗ làm còn tâm sức trí tuệ dồn cho việc làm
phụ thêm bên ngoài không phải là ít ở nhiều cơ quan xí nghiệp của Hà Tây.
Nhiều lao động do thu nhập thấp phải từ bỏ công việc chuyên môn được đào
tạo để làm những việc khác có thu nhập cao hơn, mặc dù biết là công việc đó
về lâu dài không được ổn định. Vì vậy tạo điều kiện để người lao động có
việc làm, có thu nhập cao thậm chí có thể làm giàu từ chính nghề nghiệp của
mình được coi là có ý nghĩa hơn cả và phù hợp với xu thế hiện nay để nuôi
dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng trong thực tế
chúng ta không thể ngay lập tức nâng cao thu nhập cho người lao động được
bởi nó không thể vượt quá sự đóng góp của lao động vào hiệu quả của nền sản
xuất. Do đó việc cần làm là bên cạnh việc tạo ra việc làm thường xuyên cho
người lao động, đồng thời làm cho người lao động nhận thức được rằng thu
nhập của họ do chính sự đóng góp lao động của họ quyết định. Từ đó có
thước đo phân phối theo kết quả lao động và phân phối theo giá trị sức lao
động có tính đến cung - cầu sức lao động để trả công tương xứng với sự công
hiến của người lao động. Đồng thời sử dụng các hình thức khen thưởng bằng
vật chất như: tiền thưởng, phiếu du lịch, tài trợ toàn phần cho một khoá học
bồi dưỡng nâng cao tay nghề đối với những người có ý thức trách nhiệm cao
và hoàn thành xuất sắc công việc được giao, hoặc khen thưởng đối với con em
người lao động khi đạt thành tích học tập cao, hoặc có thể tài trợ cho những
sinh viên là con của người lao động khi họ theo học các chuyên ngành phù
hợp hay liên quan đến hoạt động sản xuất của xí nghiệp để có thể thu nạp họ
trong tương lai. Những việc làm đó tác động trực tiếp đến người lao động làm
cho họ có ý thức trách nhiệm cao hơn với công việc và tạo ra được năng suất
lao động cao hơn.
3.2.6. Hình thành và phát triển thị trường lao động
83
Thị trường lao động với nghĩa chung nhất là một hệ thống trao đổi giữa
người đã có việc làm hoặc tìm kiếm việc làm (cung lao động) với những
người sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động (cầu lao động).
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến cấu trúc
việc làm và làm cho cấu trúc việc làm luôn biến động; thay đổi. Tức là cầu lao
động biến đổi và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng cũng như
cơ cấu về cung lao động. Tính linh hoạt này đặt ra cho đào tạo một mặt phải
tập trung mọi nỗ lực trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người
lao động phù hợp với yêu cầu tuyển dụng, mặt khác phải thường xuyên điều
chỉnh chương trình, nội dung đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp,
có khả năng chuyển đổi để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao
hơn của người lao động đối với các điều kiện việc làm khác nhau (như điều
kiện áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao). Như vậy, cơ sở đào tạo phải tổ
chức đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đáp ứng yêu cầu
của thị trường lao động mới tạo ra được khả năng cạnh tranh cao cho sản
phẩm của mình. Còn người học muốn có cơ hội và hy vọng tìm kiếm việc làm
họ phải nhận biết, phân tích thông tin thị trường lao động, xác định khả năng
của mình để quyết định theo học nghề gì? cấp trình độ nào cho phù hợp.
Trên thị trường lao động, người lao động tìm kiếm việc làm thông qua
quan hệ thoả thuận với người sử dụng lao động về tiền lương, tiền công dưới
hình thức hợp đồng lao động khi anh ta đáp ứng được yêu cầu của người sử
dụng về trình độ, năng lực. Người sử dụng lao động sẽ được đáp ứng yêu cầu
tuyển dụng lao động khi anh ta đồng ý trả cho người lao động một khoản tiền
và điều kiện làm việc tương xứng. Chính điều này làm cho người sử dụng lao
động phải cân nhắc kỹ lưỡng khi anh ta đưa ra yêu cầu tuyển dụng lao động
và phải có biện pháp quản lý, tác động tích cực để khai thác sử dụng lao động
một cách hiệu quả để đảm bảo được lợi ích kinh tế. Khi thị trường lao động
84
được hình thành và phát triển, sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trường
sẽ tác động tới tất cả các chủ thể như: nhà nước, người sử dụng lao động,
người lao động, người đào tạo lao động... làm cho việc đào tạo nhân lực phải
dựa trên cơ sở cầu lao động. Việc đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ
nào, số lượng bao nhiêu phải do cầu quyết định. Một mặt đã làm cho đào tạo
ngày càng gắn với sử dụng; mặt khác làm cho việc sử dụng lao động cũng
ngày càng hợp lý và hiệu quả cao hơn, đồng thời khắc phục được lãng phí xã
hội trong cả đào tạo và sử dụng nhân lực.
Rõ ràng đã đến lúc việc đào tạo và sử dụng NNL của cả nước nói
chung và Hà Tây nói riêng phải tính đến việc vận dụng các quy luật của kinh
tế thị trường để hình thành và phát triển được thị trường lao động. Từ đó, xác
lập khung pháp lý cho thị trường lao động, cung cấp thông tin cho thị trường
lao động và dịch vụ việc làm sẽ làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả; nối
được cung với cầu lao động, tạo điều kiện để nhiều người có cơ hội tìm kiếm
việc làm phù hợp hơn. Nhờ đó giải quyết được một cách thoả đáng mối quan
hệ đào tạo - sử dụng NNL để phục vụ cho mục tiêu CNH, HĐH. Trước mắt
Hà Tây cần đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả của các hội chợ việc
làm, các trung tâm dịch vụ việc làm tạo cơ sở cho sự hình thành thị trường lao
động
3.2.7. Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền địa phương Hà Tây
đối với việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực 3.2.7.1. Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo, tăng nhanh dạy nghề
Trong điều kiện hiện nay, lợi thế tương đối về lao động giản đơn đã
mất dần ý nghĩa, lợi thế đã thuộc về những quốc gia nào có lực lượng lao
động được đào tạo có trình độ ngang tầm với đòi hỏi của công nghệ hiện đại,
vì vậy việc đào tạo NNL ở nước ta phải gắn với sự phát triển của khoa học
công nghệ, phải tạo ra được đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ
85
hiện đại theo hướng tiếp cận nhanh với kinh tế tri thức. Như phần thực trạng
đã chỉ rõ, do cơ cấu của NNL qua đào tạo ở nước ta nói chung và ở Hà Tây
nói riêng đang có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học, cao đẳng
- trung học chuyên nghiệp - dạy nghề. Cho nên trong những năm trước mắt
cần phải điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng mở rộng qui mô dạy nghề
nhằm đáp ứng nhu cầu về số công nhân ký thuật rất lớn hiện nay. Để giải
quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và
phát triển dạy nghề cụ thể là:
- Phát triển và hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề, các trung tâm
dạy nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề cho nhân dân. Khuyến khích các
doanh nghiệp mở lớp, mở trường dạy nghề và tăng cường hệ thống đào tạo
kèm cặp như thợ cả kèm thợ phụ, bồi dưỡng ngoài giờ làm việc theo chuyên
ngành gắn với những thay đổi của kỹ thuật công nghệ.
- Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách hỗ trợ cho các địa
phương, điều chỉnh phân bố cơ cấu ngân sách theo hướng ưu tiên hơn cho
lĩnh vực dạy nghề, bên cạnh đó cần khuyến khích huy động các nguồn đóng
góp của xã hội cho dạy nghề, cho các quỹ khuyến công, khuyến nông. Có
chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ trong các trường đại học, cao đẳng,
các viện nghiên cứu, các trường dạy nghề, mở rộng qui mô nghiên cứu khoa
học, gắn khoa học với sản xuất, giảng dạy với thực tiễn để nâng cao chất
lượng đào tạo và thúc đẩy KT - XH phát triển.
- Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần tăng cường sự quản lý nhà nước và tăng
đầu tư đối với giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề nhằm điều chỉnh
những hoạt động chệch hướng để nâng cao chất lượng đào tạo, mở mang các
mô hình giáo dục đào tạo mới. Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối với việc
đào tạo NNL cho vùng miền núi.
86
- Thiết lập và tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở sử dụng lao động với
các cơ sở đào tạo NNL dưới sự quản lý của chính quyền Tỉnh, đồng thời có
chính sách và định mức cụ thể để các doanh nghiệp đóng góp cho việc sử
dụng lao động theo trình độ đào tạo.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo NNL. Huy
động vốn đầu tư cho đào tạo nghề thông qua các tổ chức quốc tế UNICEF,
UNESCO, WB, và các tổ chức phi chính phủ.
3.2.7.2. Đổi mới cơ chế chính sách sử dụng nguồn nhân lực
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cơ
chế chính sách sử dụng NNL cũng đã có những đổi mới căn bản theo hướng
gắn với cơ chế thị trường. Cơ chế này đã bước đầu phát huy được vai trò tích
cực trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, tuy nhiên nó cũng bộc lộ
những hạn chế và gây lãng phí không nhỏ về NNL. Vì vậy cần phải tiếp tục
đổi mới cơ chế chính sách sử dụng để phát huy được vai trò to lớn của NNL
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo các nội dung sau đây:
- Thực hiện nhất quán chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động theo
cơ chế thị trường.
- Có chính sách hỗ trợ cho người sử dụng nhiều lao động và có chính
sách khuyến khích cơ sở sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới để thu hút
và khai thác được NNL đã qua đào tạo khắc phục tình trạng chảy máu chất
xám.
- Có chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài (những nhà khoa học, các
nhà quản lý, kinh doanh giỏi, giáo viên giỏi...) về làm việc trong Tỉnh.
Các giải pháp nêu trên đối với đào tạo và sử dụng NNL có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ. Kết quả của
việc thực hiện thể hiện rõ việc nhận thức và giải quyết một cách linh hoạt,
đồng bộ mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng NNL, giữa cung và cầu NNL
87
trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Hà
Tây.
88
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, luận văn đưa lại những kết quả sau:
1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một quá trình tất yếu của
việc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là
chủ yếu lên một nước công nghiệp sản xuất lớn tiên tiến và xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của CNH, HĐH ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
CNXH.
2. Kết quả của CNH,HĐH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, điều kiện,
trong đó NNL là yếu tố và điều quan trọng nhất bởi xét đến cùng nó là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Song NNL có thể trở thành nguồn lực của mọi nguồn
lực hay không, có thể phục vụ tốt cho sự nghiệp CNH, HĐH hay không điều
này phụ thuộc rất lớn vào việc xã hội đã đào tạo và sử dụng NNL đó như thế
nào? Chính vì vậy đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH có vai
trò to lớn, đã và đang được Nhà nước, các địa phương và nhân dân rất quan
tâm.
3. Hà Tây đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, việc đáp ứng
nhu cầu về NNL thông qua đào tạo cho sự nghiệp CNH, HĐH là một đòi hỏi
cấp thiết hiện nay, là “chìa khoá” của sự thành công đối với Hà Tây trên con
đường phát triển kinh tế - xã hội.
4. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mình, qua khảo sát đặc điểm
và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian qua ở Hà Tây cho thấy:
Hà Tây có nhiều thuận lợi song cũng còn không ít khó khăn. Mặc dù vậy, Hà
Tây đã có nhiều cố gắng trong đào tạo và sử dụng hợp lý NNL, nhưng kết quả
của nó so với yêu cầu CNH, HĐH mới chỉ dừng lại ở mức khiêm tốn. Tình
trạng bất hợp lý trong đào tạo và sử dụng NNL cả về qui mô, cơ cấu, trình độ
luôn xảy ra làm cho việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ của CNH, HĐH gặp
89
khó khăn, việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra
chậm so với yêu cầu.
5. Trước tình hình đó để khắc phục một cách có hiệu quả những hạn
chế, đẩy nhanh việc đào tạo và sử dụng NNL trên con đường phát triển. Hà
Tây cần có những phương hướng phát triển đúng đắn. Từ phương hướng
chung của CNH, HĐH, luận văn đã đưa ra nhưng định hướng cụ thể của việc
đào tạo và sử dụng NNL trong thời gian tới của Hà tây đến 2010.
6. Dưới góc độ nghiên cứu Kinh tế chính trị, luận văn đã đề xuất một số
giải pháp để góp phần khắc phục tình trạng "vừa thừa vừa thiếu" và bất hợp lý
về qui mô, cơ cấu, trình độ NNL, khắc phục sự non kém về trình độ, sự tha
hoá về đạo đức của một số cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và nâng
cao trình độ NNL để đào tạo ra NNL chất lượng cao cũng như việc giải quyết
mối quan hệ cung cầu trong đào tạo và sử dụng NNL trên thị trường lao động,
đảm bảo sao cho Hà Tây có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng
lao động.
7. Tác giả tin tưởng rằng, các phương hướng và giải pháp đưa ra trên cả
hai tầm vĩ mô và vi mô nếu được thực hiện một cách đồng bộ, linh hoạt và
kiên quyết đủ sức thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL phát triển có hiệu
quả phục vụ tốt yêu cầu CNH,HĐH trong thời gian tới ở Hà Tây.
8. Đào tạo và sử dụng NNL là một vấn đề có nội dung rộng lớn và liên
quan đến nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Để có thể thực hiện
thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH từ năm 2000 - 2010 theo hướng CNH,
HĐH Hà Tây cần có những nghiên cứu tiếp theo, mà kết quả của luận văn này
chỉ mới là bước đầu.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alvin Toffer (1992), Thăng trầm quyền lự, NXB Thông tin lý luận, Hà
Nội.
2. Giang Bằng (2004), "Xã hội hoá công tác dạy nghề ,"Báo Hà Tây số
(3.014), tr. 1 - 7.
3. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), Nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam
lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Huy Chương (2002), Vấn đề tạo nguồn nhân lực tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Cục thống kê Hà Tây (1996, 2000 đến 2003), Niên giám thống kê Hà
Tây.
8. Nguyễn Hữu Dũng (2002), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế", Tạp chí Lý luận chính trị, ( 8), tr.20-24.
9. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở
Việt Nam, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91
12. Đảng Cộng sản Việt nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ II, Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết hội nghị Trung ương 6
khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết hội nghị Trung ương 9
khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng bộ Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây
lần thứ lần thứ IX.
21. Bùi Hữu Đức (2004), "Để các làng nghề ở Hà Tây phát triển", Tạp chí
Cộng Sản (14), tr. 65-68.
22. Tống Văn Đường (1995), Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý lao
động, tiền lương trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới, Đề tài KX - 07, Hà Nội.
92
24. Phạm Minh Hạc và các tác giả (1996), Vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
25. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục
vụ phát triển xã hội - kinh tế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn nhân lực và
giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
27. Kinh tế chính trị Mác - Lênin (2002), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Lê Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào
tạo kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 38, tập 41, NXB Tiến bộ Mátxcơva, tr.
364 - 365.
30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đỗ Mười (1996), Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
32. Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội. tr. 438 - 474.
33. Phan Thanh Phố (1994), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó
với phân công lại lao động xã hội”, Tạp chí Lao động và Xã hội.
34. Phan Thanh Phố ( 2001), “Phát triển nguồn nhân lực theo hướng kinh tế
tri thức”, Tạp chí Kinh tế và phát triển.
35. Nguyễn Duy Quý (1998), “Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, Tạp chí Cộng Sản,
(19), tr.24.
93
36. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tây (6/2001), Chiến lược phát triển Giáo
dục đào tạo Hà Tây đến năm 2010.
37. Sở Thương mại và Du lịch Hà Tây, Đề án phát triển du lịch Hà Tây
2001 - 2005.
38. Sở Công nghiệp Hà Tây (2000), Làng nghề Hà Tây, XB 2001.
39. Sở Công nghiệp - sở Giáo dục - sở Lao động Thương binh và Xã hội
tỉnh Hà Tây (1999), Về đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề, nhân cấy nghề
mới và giải quyết việc làm.
40. Lê Hữu Tăng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Thơm (2003), "Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải
pháp nâng cao", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.59-64.
42. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực, kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây (2000), Qui hoạch tổng hợp phát triển
kinh tế - xã hội Hà Tây đến 2010.
44. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Hà Tây
giai đoạn 2000 đến 2003.
45. Nghiêm Đình Vỳ (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Viện Thông tin (1995), Con người và nguồn lực con người trong phát
triển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Hồ Trọng Diện (2003), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Tạp chí Lý
luận chính trị, (1), tr.49-53.
94
48. Hà Yên (2004), "Xuất khẩu lao động - Một thách thức lớn cho khát
vọng vươn tới thị trường lao động quốc tế", Tạp chí Lao động và Công
Đoàn, (305), tr.25-41.
PHỤ LỤC
95
Phụ lục 1: Dân số trung bình phân theo thành thị - nông thôn
Tổng số dân số
Thành thị
Nông thôn
Năm
Tổng số
Tổng số
Tổng số
Chỉ số
Chỉ số
Chỉ số
phát triển
phát triển
phát triển
1994
2.254.505
100%
147.135
100%
2.107.370
100%
1995
2.283.381
101,28
181.273
123,20
2.102.108
99,75
1996
2.314.294
101,35
183.845
101,42
2.130.449
101,35
1997
2.342.115
101,20
185.588
100,95
2.156.527
101,22
1998
2.364.764
100,97
186.920
100,72
2.177.844
100,99
1999
2.393.549
101,22
190.006
101,65
2.203.534
101,18
2000
2.420.936
101,14
192.056
105,08
2.228.880
101,15
2001
2.448.446
101,14
202.243
105,30
2.246.223
100,78
2002
2.473.000
101,00
207.060
102,38
2.265.940
100,88
2003
2.489.200
100,66
232.736
112,40
2.256.464
99,58
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.
96
Phụ lục 2: Diện tích và dân số trung bình năm 2003
phân theo huyện và thị xã
TT Đơn vị hành chính Dân số
Diện tích (km2) (ngƣời) Mật độ dân số (ngƣời/km2)
Tổng số
2191,6
2.489.200
1.136
1. Thị xã Hà Đông 32,9 136.434 4.147
2. Thị xã Sơn Tây 113,5 118.112 1.041
3. Huyện Ba Vì 428,0 253.229 592
4. Huyện Phúc Thọ 117,0 156.770 1.339
5. Huyện Đan Phượng 76,6 132.288 1.727
6. Huyện Thạch Thất 128,1 149.614 1.168
7. Huyện Hoài Đức 88,3 182.828 2.071
8. Huyện Quốc Oai 129,5 148.879 1.150
9. Huyện Chương Mỹ 232,9 237.440 1.174
10 Huyện Thanh Oai 132,2 184.568 1.396
11 Huyện Thường Tín 127,7 201.820 1.580
12 Huyện Mỹ Đức 230,0 172.016 748
13 Huyện ứng Hoà 183,7 194.307 1.058
14 Huyện Phú Xuyên 171,1 184.895 1.081
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.
97
Phụ lục 3: Dự báo một số chỉ tiêu phát triển KT - XH của tỉnh Hà Tây
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2005 2010
1. Tăng GDP % 7,95 8 10
2. DGP (giá thực tế) Tỷ đồng 7.000 15.365 33.543
3. GDP/người Triệu đồng 3,0 6,066 12,663
4. Dân số Triệu người 2,410 2,533 2,649
- Tỷ lệ tăng dân số 1,4 1,1 % 0,8
5. Lao động trong độ tuổi Triệu người 1,320 1,481 1,523
6. Cơ cấu lao động: 100 100 100
- Nông, lâm nghiệp 41 35 % 23
- Công nghiệp, xây dựng 30,5 35 % 40
Nguồn: Báo cáo rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Hà Tây
- Dịch vụ 28,5 30 % 37
đến năm 2010.
98
Phụ lục 4: Hệ thống màng lƣới các trƣờng trên địa bàn tỉnh Hà Tây
4.1. Các trường trung học chuyên nghiệp
TT Tên trƣờng Địa chỉ
1. THDN Nông nghiệp và PTNN Thị trấn Xuân Mai - Hà Tây
2. TH Công nghiệp Việt Hung P Xuân Khanh - Sơn Tây
3. TH Kinh tế Hà Tây Km 15 - Quốc lộ 6A - Ba La
4. TH Phát thanh truyền hình Thường Tín - Hà Tây
5. TH Y tế Hà Tây 8 Đoàn Trần Nghiệp - Hà Đông
6. TH Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh 2 Trần Phú - TX Hà Đông
4.2. Các trường Cao đẳng, Đại học
TT Tên trƣờng Địa chỉ
1. Đại học Lâm nghiệp Thị trấn Xuân Mai - Chương Mỹ
2. Đại học SP Thể dục Thể thao Phụng Châu - Chương Mỹ
3. Đại học Biên phòng Sơn Lộc - thị xã Sơn Tây
4. Học viện Khoa học quân sự Kim Chung - thị xã Hà Đông
5. Học viện Quân Y Thị xã Hà Đông
6. Cao đẳng Kinh tế Hà Tây Thị trấn Xuân Mai - Chương Mỹ
7. CĐ KT - Kỹ thuật thương mại Phú Lãm - Thanh Oai
8. Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Thường Tín - Hà Tây
9. Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây Xuân Mai - Chương Mỹ
99
Phụ lục 5: Các cụm công nghiệp của Hà Tây
TT Tên cụm
Diện
Địa điểm
Chức năng
tích (ha)
1. La Khê
10
Ba La
Cơ khí điện tử
2. Vạn Phúc
Vạn Phúc
Công nghiệp dệt
5
3. Cầu Bươu
Cầu Bươu
Công nghiệp vật liệu xây dựng
5
4. Xuân Khanh
Sơn Tây
Công nghiệp vật liệu xây dựng
20
5. Miếu Môn
Miếu Môn
Tiêu dùng, chế xuất
10
6. Xuân Mai
Xuân Mai
Công nghiệp vật liệu xây dựng
10
7.
Phú Nghĩa
Chương Mỹ
Cơ khí, điện
10
8. Thanh Oai
Thanh Oai
Chế biến thịt, nhựa, giầy
30
9.
Phú Xuyên
Phú Xuyên
công nghiệp cơ khí, điện
20
10 Trạm Trôi
TT Trạm Trôi Dụng cụ gia đình, thể thao
25
11 Ngãi Cầu
Ngãi Cầu
Điện tử, cơ khí, TAGS
20
12 Phúc Thụ
Phúc Thụ
Chế biến nông sản thực phẩm
7
13 Thạch Thất
P.Xá
Cơ khí
10
14 Ba Vì
Ba Trại
Chế biến nông sản thực phẩm
10
15 Thường Tín
Liên Phương Chế biến nông sản thực phẩm
20
16 Vân Đình
Tân Phương
Cơ khí
20
17 Hoài Đức
An Khánh
Công nghệ sạch
50
Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Tây .
100
101
Phụ lục 6: Số cơ sở, số lao động trong cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể
có đến 1/10/2003 tỉnh Hà Tây
TT
Tổng số
Tổng số
Trong đó, lao
Ngành sản xuất
cơ sở
lao động
động thuê ngoài
và kinh doanh
(cơ sở)
(ngƣời)
(ngƣời)
Tổng số 12.253 231.075 13.742
1. Công nghiệp khai thác mỏ 201 1271 397
2. Công nghiệp chế biến 67.564 150.103 11.461
3. SX và phân phối điện, khí đốt 70 86 2
4. Xây dựng 1.822 3.849 520
5. Thương nghiệp, sửa chữa xe 36.121 48.137 795
6. Khách sạn và nhà hàng 8.875 13.438 186
7. Vận tải, kho bãi, thông tin LL 7.599 9.838 276
8. Tài chính, tín dụng 60 63
9. KD tài sản và dịch vụ tư vấn 1.177 1.630 27
10 Giáo dục đào tạo 26 53 4
11 Y tế và hoạt động cứu trợ XH 317 535 3
12 Hoạt động văn hoá, thể thao 265 452 26
13 Hoạt động dịch vụ khác 1.156 1.620 45
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tây 2003.
102
MỤC LỤC
Mở đầu ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 3 6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn. ......................................................... 4 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 4
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. ........... 5 1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ...................................................................................................... 5 1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hưởng và vai trò đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực .................................................................................................... 21
Chƣơng 2. Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây................................... 38
2.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây .. 38 2.2. Tổng quan thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây thời gian qua .............. 43 2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ......................................................................................... 57
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới ở Hà Tây ................................................................... 65 3.1. Phương hướng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ............................ 65 3.2. Giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Hà Tây .................................................................................................. 73 Kết luận ....................................................................................................... 89 Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 91
103
Phụ lục ........................................................................................................ 95
104