ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HÀ THU HOÀI

DẠY ĐỌC - HIỂU HAI TÁC PHẨM “ĐỒNG CHÍ” VÀ “LÀNG”

CHO HỌC SINH LỚP 9 HUYỆN VĂN YÊN - YÊN BÁI

Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt

Mã số : 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thế Phiệt

THÁI NGUYÊN, NĂM 2016

1

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu,

Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, khoa sau Đại học trường Đại học Sư phạm Thái

Nguyên, các thầy cô giáo công tác ở bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần

Thế Phiệt – Người thầy hướng dẫn khoa học đã động viên, chỉ bảo và giúp đỡ

tôi rất nhiều để hoàn thành luận văn.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, thầy cô giáo và các

em học sinh trong các trường THCS ở Huyện Văn Yên – Yên Bái đã động viên,

khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và

hoàn thành luận văn.

Tác giả

Hà Thu Hoài

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................ Error! Bookmark not defined.

LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………………...…….ii

MỤC LỤC ............................................................................................................. ii

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ................................................................ v

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... vi

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1

1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn

hiện nay ................................................................................................................. 1

1.2. Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở các trường Trung học cơ sở trong địa bàn

huyện Văn Yên - Yên Bái ..................................................................................... 2

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3

2.1. Các công trình bàn về PPDH văn nói chung .................................................. 4

2.2. Các công trình bàn về phương pháp dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương ......... 5

2.3. Các công trình bàn về hai tác phẩm Đồng chí và Làng ................................. 6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 8

3.1. Mục đích ......................................................................................................... 8

3.2. Nhiệm vụ ........................................................................................................ 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8

4.1. Đối tượng ........................................................................................................ 8

4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 8

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8

6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 9

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 9

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 10

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY ĐỌC -

HIỂU HAI TÁC PHẨM ĐỒNG CHÍ (CHÍNH HỮU) VÀ LÀNG (KIM LÂN) 10

1.1. Một số tiền đề lí luận về đọc - hiểu .............................................................. 10

1.1.1. Khái niệm đọc - hiểu ................................................................................. 10 ii

1.1.2. Quan niệm về vấn đề đọc - hiểu văn ......................................................... 11

1.1.3. Những hiểu biết cần thiết về VHVNHĐ phục vụ cho việc dạy học hai tác

phẩm “Đồng chí” và “Làng” ............................................................................... 12

1.1.4.Hai tác phẩm Đồng chí và Làng trong tiến trình phát triển của VHVNHĐ 14

1.2.Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 15

1.2.1. Vài nét khái quát về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa -

xã hội của huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái .......................................................... 15

1.2.2. Tình hình dạy – học văn cho học sinh cấp II của huyện Văn Yên - tỉnh

Yên Bái ................................................................................................................ 17

1.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong việc tiếp nhận tác phẩm

văn học Việt Nam hiện đại của học sinh THCS ở miền núi ............................... 20

CHƯƠNG 2. NHỮNG BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU HAI

TÁC PHẨM ĐỒNG CHÍ VÀ LÀNG CHO HỌC SINH LỚP 9 HUYỆN VĂN

YÊN TỈNH YÊN BÁI ......................................................................................... 22

2.1. Trước giờ lên lớp .......................................................................................... 22

2.1.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài .............................................. 22

2.1.2. Định hướng cho học sinh những tư liệu liên quan đến bài học ................ 23

2.1.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài ............................. 25

2.2. Tổ chức dạy đọc hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng trong giờ học ......... 26

2.2.1. Tạo hứng thú, kích thích nhu cầu học tập cho học sinh ............................ 26

2.2.2. Tổ chức cho học sinh cảm nhận tác phẩm bằng các hoạt động nghệ thuật... 29

2.2.3. Xây dựng tình huống có vấn đề bằng hệ thống câu hỏi gợi mở ............... 31

2.2.4. Sử dụng lời bình đúng thời điểm ............................................................... 34

2.2.5. Phát huy tinh thần đối thoại trong giờ dạy và học tác phẩm VHVNHĐ .. 36

2.2.6. Củng cố bài học ......................................................................................... 38

2.3. Sau giờ học ................................................................................................... 41

2.3.1. Rèn luyện thói quen học bài ở nhà ............................................................ 41

2.3.2. Đối với việc ôn lại bài mới học xong trên lớp .......................................... 42

2.3.3. Đổi mới cách ra đề kiểm tra ...................................................................... 43

2.3.4. Thường xuyên cung cấp những thông tin phản hồi hữu ích đến học sinh .... 45 iii

CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ....................................................... 47

3.1. Thiết kế thể nghiệm giáo án dạy đọc hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng

cho học sinh lớp 9 huyện Văn Yên - Yên Bái ..................................................... 47

3.1.1. Yêu cầu thể nghiệm ................................................................................... 47

3.1.2. Mục đích thể nghiệm ................................................................................. 47

3.1.3. Đối tượng thể nghiệm................................................................................ 47

3.1.4. Nội dung thể nghiệm ................................................................................. 47

3.1.5. Thiết kế thể nghiệm ................................................................................... 48

3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm và đánh giá kết quả............................................. 74

3.2.1. Đối tượng thực nghiệm và thời gian thực nghiệm .................................... 74

3.2.2. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 74

3.2.2.1. Đánh giá về mặt định lượng ................................................................... 74

3.2.2.2. Nhận xét và đánh giá của GV giảng dạy và tổ chuyên môn về mặt định

tính ....................................................................................................................... 76

3.2.3. Một số vấn đề rút ra sau giờ dạy thể nghiệm ............................................ 78

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 80

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 81

PHỤ LỤC ............................................................................................................ 83

iv

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

ĐHQG : Đại học quốc gia

ĐHSP : Đại học sư phạm

HS : Học sinh

GV : Giáo viên

NXBĐHSP : Nhà xuất bản đại học sư phạm

NXBGD : Nhà xuất bản Giáo dục

PPDH : Phương pháp dạy học

SGK : Sách giáo khoa

SGV : Sách giáo viên

THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông

TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh

VHVNHĐ : Văn học Việt Nam hiện đại

v

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Hữu Bội (2008), Thiết kế dạy học Ngữ văn 9, Nxb Giáo dục.

2. Hoàng Hữu Bội (1997), Dạy và học tác phẩm Văn học ở trường phổ thông

trung học miền núi, Nxb Giáo dục.[tr 3]

3. Nguyễn Duy Bình (1983), Dạy văn dạy cái hay - cái đẹp, Nxb Giáo dục.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Ngữ văn 9, Tập 1, Nxb Giáo dục.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Ngữ văn 9, Tập 2, Nxb Giáo dục.

6. Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hoàn, Vũ Nho (2007), Những vấn đề

chung về đổi mới giáo dục THPT môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục.

7. Lê Linh Chi (2009), "Tiếp cận quan điểm đối thoại trong dạy học văn", Kỷ

yếu HTKH 50 năm trường Đại học Vinh, tập 2, Nxb Nghệ An.

8. Nguyễn Viết Chữ (2001), PPDH tác phẩm văn chương theo thể loại, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Nguyễn Viết Chữ (2007), "Về việc bồi dưỡng kĩ năng nghe - nói - đọc - viết

cho HS trong dạy học Ngữ văn", Tạp chí Giáo dục

10. Nguyễn Quang Cương (2007), "Đổi mới nhận thức của người GV văn

học", Tạp chí Giáo dục

11. Trần Thanh Đạm (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,

Nxb Hà Nội.

12. Nguyễn Lâm Điền (2009), "Mấy vấn đề về đổi mới phương pháp giảng

dạy VHVNHĐ ở trường Đại học", Kỷ yếu HTKH 50 năm trường Đại học

Vinh, tập 2, Nxb Nghệ An.

13. Bùi Minh Đức (2008), "Phát huy vai trò bạn đọc sáng tạo của HS trong

hoạt động phân tích cắt nghĩa tác phẩm văn học", Tạp chí Giáo dục

14. Hà Minh Đức (chủ biên, 2001), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 3, Nxb

Văn học, Hà Nội.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

16. Đặng Hiển (1999), "Sức hấp dẫn của một giờ văn", Tạp chí nghiên cứu

Giáo dục

vi

17. Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới đọc và bình văn, Nxb Hội Nhà văn.

18. Nguyễn Trọng Hoàn (2001), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác

phẩm văn chương, Nxb Giáo dục.

19. Nguyễn Thanh Hùng (2000), "Sự thống nhất nội tại giữa đào tạo và giáo

dục trong giảng dạy văn học để phát triển nhân cách HS", Tạp chí nghiên

cứu Giáo dục

20. Nguyễn Thanh Hùng (2005), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục.

21. Nguyễn Thanh Hùng (2007), Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT -

những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

22. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà

trường, Nxb Giáo dục, [tr 131, 134]

23. Huyện Văn Yên thực hiện bốn tốt (2000), Nxb lao động.

24. Trần Xuân Hưng (2008), Tài liệu Ngữ văn địa phương THCS (dành cho

HS THCS tỉnh Yên Bái), Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái.

25. Nguyễn Thị Thanh Hương (1998), Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn

học ở trường THPT, Nxb Giáo dục.

26. I. F. Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của HS như thế

nào?, Nxb Giáo dục.

27. Nguyễn Xuân Lạc – Bùi Tất Tươm, Hướng dẫn tự học Ngữ văn 9, Nxb

Giáo dục.

28. Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.

29. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại: Những chân dung tiêu biểu,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

30. Lịch sử Đảng bộ huyện Văn yên (2008), Nxb lao động.

31. Lê Nguyên Long (2000), Thử đi tìm những PPDH hiệu quả, Nxb Giáo

dục.

32. Nguyễn Văn Long, Ôn tập Ngữ văn 9, Nxb Giáo dục.

33. Phan Trong Luận (1969), Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học, Nxb

Gíáo dục, Hà Nội. [tr 26]

vii

34. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường,

Nxb Giáo dục. [tr 235]

35. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học giảng dạy văn học, NXB Giáo

dục.

36. Phan Trọng Luận (1998), Xã hội - Văn học - Nhà trường, Nxb ĐHQG Hà

Nội.

37. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường

THPT, Nxb Giáo dục.

38. Phan Trọng Luận (2001), Phương pháp dạy học văn, tập1, Nxb Giáo dục.

39. Phan Trọng Luận (2001), Phương pháp dạy học văn, tập 2, Nxb Giáo dục.

40. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt,

1987, Phương pháp dạy học văn, NxbN ĐHQG Hà Nội

41. Phương Lựu (chủ biên, 2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

42. Mai Xuân Miên (1999), "Mấy vấn đề có tính nguyên tắc định hướng tiếp

nhận của HS trong giờ giảng văn", Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục

43. Vũ Nho (1999), Nghệ thuật đọc diễn cảm, Nxb Thanh niên.

44. Vũ Nho, Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Thành, Bài tập rèn kĩ năng tích

hợp Ngữ văn 9, Nxb Giáo dục.

45. Cao Thanh Phước (2000), "Ứng dụng phương pháp học tích cực nâng cao

chất lượng giáo dục", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật

46. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn đề PPDH văn

trong nhà trường, Nxb Giáo dục.

47. Nguyễn Huy Quát (2011), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp

dạy học văn, Nxb Đại học Thái Nguyên.

48. Nguyễn Huy Quát, (2002), "Những điều cần lưu ý tiến hành đọc diễn cảm

trong dạy thơ ở trường phổ thông", Tạp chí giáo dục

49. Vũ Dương Quý, Lê Bảo, (2007), Bình giảng văn 9, Nxb Giáo dục.

50. Trần Đình Sử (1998), "Môn văn - thực trạng và giải pháp", báo Văn nghệ,

(7),[ tr.45]

viii

51. Trần Đình Sử (2007), "Từ giảng văn qua phân tích tác phẩm đến dạy đọc

hiểu văn bản văn học", Kỷ yếu HTKH dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông

theo chương trình và SGK mới, Nxb Nghệ An.

52. Lê Trung Thành (2003), "Tạo dựng tình huống có vấn đề dạy học tác phẩm

văn chương", Tạp chí Giáo dục

53. Nguyễn Huy Thắng (2011), “Kim Lân - ẩn sĩ giữa làng văn”, Nxb Kim

Đồng

54. Nguyễn Duy Thịnh (2006), "Đôi điều bàn luận về phương pháp giáo dục

tích cực", Tạp chí Ngôn ngữ

55. Đinh Văn Thiện, Trần Thị Tuyết (2010), Kiểm tra trắc nghiệm Ngữ văn 9,

Nxb Giáo dục.

56. Đỗ Ngọc Thống, Bài tập trắc nghiệm Ngữ Văn 9, Nxb Giáo dục

57. Nguyễn Thị Thu Thủy (2010), Một số nội dung đổi mới phương pháp dạy

học Ngữ Văn ở THPT, dành cho sinh viên Ngữ văn k44.

58. Nguyễn Văn Tứ (2007), "Sáng kiến kinh nghiệm của GV và việc đổi mới

dạy học Ngữ văn ở phổ thông", Tạp chí Giáo dục

59. Nguyễn Trí, Sổ tay kiến thức Ngữ Văn 9, Nxb Giáo dục

60. Hoài Việt, Kim Lân – Nhà văn trong nhà trường, Nxb Giáo dục, 1999, [tr

3]

61. V.ÔKôn (1976), Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề, tập 1, Nxb

Giáo dục.

62. Z. Ia. Rez (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Nxb Giáo dục.[tr11]

63. 50 năm Văn Yên xây dựng và trưởng thành 1965 – 2015, Nxb lao động

ix

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn Ngữ

văn hiện nay

Môn Ngữ văn là một trong những môn học chính trong chương trình học

của học sinh. Trong đó hoạt động đọc - hiểu là hoạt động cơ bản nhất của môn

học này. Việc tổ chức dạy đọc - hiểu tốt hay không rất quan trọng vì nó quyết

định đến kết quả đạt được của HS.

Trong dạy học nói chung và dạy đọc - hiểu tác phẩm văn học hiện đại nói

riêng, ở mỗi thời đại, mỗi vùng miền khác nhau luôn phải có sự đổi mới điều

chỉnh trong phương pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. Rèn luyện phương

pháp học tập, phương pháp tìm tòi, vận dụng kiến thức vào định hướng đổi mới

phương pháp dạy và học, hướng tới phát huy tính tích cực, chủ động của học

sinh, đào tạo ra những con người mới mang đầy đủ tiêu chuẩn của thời đại

Văn học hiện đại là một trong những giai đoạn văn học lớn của lịch sử văn

học dân tộc, là giai đoạn gần gũi với chúng ta nhất trong ba giai đoạn văn học,

đồng thời là một trong ba phạm trù lớn của văn học bên cạnh văn học dân gian

và văn học trung đại. Do vậy, vấn đề dạy và học VHVNHĐ giúp GV và HS đi

sâu vào việc chiếm lĩnh tư tưởng nghệ thuật của mỗi văn bản và làm sáng tỏ đặc

điểm của VHVNHĐ trong sự đối sánh với các giai đoạn văn học khác, đồng thời

giúp HS có vốn hiểu biết về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, nuôi

dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Bởi lẽ mỗi tác giả với thiên tài của mình

và giới hạn của thời đại, phản ánh một thời kì lịch sử, đánh dấu một bước tiến

của văn học, làm giàu thêm cho tư tưởng, tình cảm, tiếng nói Việt Nam.

Hiện nay văn học hiện đại chiếm một phần không nhỏ trong chương trình

Ngữ văn lớp 9 (có 16/36 tác phẩm). Việc dạy đọc – hiểu các tác phẩm

VHVNHĐ sao cho có chất lượng đang là mối quan tâm của nhiều GV, bởi đây

sẽ là bước giúp các em có một nền tảng vững chắc để tiếp nhận và khám phá

những tác phẩm văn học hiện đại ở những bậc học cao hơn.

1

Đồng chí và làng là hai tác phẩm thuộc giai đoạn văn học hiện đại (1945 –

1954).. Tác phẩm Làng nói về tình yêu đất nước và nỗi nhớ quê hương, của

những người miền xuôi ở nơi tản cư khi quê hương họ đang bị giặc tàn phá. Còn

Đồng chí là vẻ đẹp chân thực giản dị và tình đồng chí sâu sắc, cảm động của anh bộ

đội từ miền xuôi lên miền núi đánh giặc thời chống Pháp. Cả hai tác phẩm đều vừa có

cái mới lạ vừa có cái gần gũi với học sinh miền núi.

Như vậy chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của môn văn và những lý

do của việc đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn hiện nay. Vì vậy,

muốn học sinh miền núi đạt được kết quả cao trong môn văn, thực sự cần có một

phương pháp riêng, phù hợp với đặc điểm và tư duy của các em HS miền núi.

1.2. Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở các trường Trung học cơ sở trong địa

bàn huyện Văn Yên - Yên Bái

Huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái là địa bàn cư trú của 11 dân tộc anh em, với

điều kiện kinh tế còn thấp và không đồng đều, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng

cuộc sống của người dân cũng như chất lượng ngành giáo dục.

Cơ sở vật chất ở các trường học cũng còn nhiều hạn chế, chưa được đầu tư

thỏa đáng, đặc biệt còn nhiều trường chưa được trang bị những phương tiện hiện

đại hỗ trợ việc dạy và học, chính vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng

dạy - học của thầy và trò.

Ở các trường thuộc vùng 135 hoặc mới xóa 135, có nhiều đồng bào dân tộc

ít người sinh sống. Với trình độ dân trí thấp, họ chưa ý thức được tầm quan

trọng của việc cho con em đi học, họ không muốn con em đi học để ở nhà phụ

giúp bố mẹ việc nhà, nương rẫy. Ở lứa tuổi cuối cấp II, thậm chí có em còn nghỉ

học để lấy chồng, đi làm xa... Đời sống vật chất còn nghèo nên họ chỉ chú ý đến

việc trang trải sinh hoạt trước mắt chứ chưa biết lo lắng cho tương lai con em

bằng việc học. Ở những trường như THCS Dụ Thượng, THCS Quế Thượng,

THCS Quang Minh,... phần lớn các em đi học là do GV đã đến nhà vận động

nhiều lần chứ không phải do tự giác.

Vì là vùng cao nên GV dạy thường là những nguời ở nơi khác đến nên về

phương pháp của GV cũng cần có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với người

2

học tạo hứng thú học tập cho các em, tránh tình trạng áp dụng chung giáo án

thiết kế dạy HS những vùng miền có trình độ tiếp thu cao hơn.

Việc vận động HS đến lớp đã gặp nhiều khó khăn như vậy thì khi đến lớp,

các em cũng khó mà tập chung tiếp thu bài học trên lớp được. Vì vậy để cho HS

có hứng thú học và đạt kết quả tốt trong môn văn cũng như các môn học khác,

cần thiết phải có một phương pháp dạy thích hợp dựa trên trình độ hiểu biết và

điều kiện học tập của các em.

Việc dạy – học tác phẩm Đồng chí (Chính Hữu) hay Làng (Kim Lân) cũng

như dạy – học các tác phẩm khác trong mảng VHHĐ nói chung, là rất quan

trọng. Nhưng tùy theo đối tượng tiếp nhận, cần xem xét, điều chỉnh PPDH cho

phù hợp để đạt hiệu quả đồng bộ.

Trước đây, đã có một số công trình đề cập đến hoạt động đọc - hiểu văn bản,

cũng như đọc - hiểu VHHĐ, thậm chí cũng có nhiều bài viết hướng dẫn dạy hai

tác phẩm Đồng chí và Làng. Các tác giả đã cố gắng đưa ra những mô hình của

học văn nói chung để nhằm áp dụng vào dạy đọc - hiểu. Tuy nhiên việc xác định

mô hình đọc - hiểu văn bản đúng đắn, phù hợp cho học sinh miền núi còn là một

vấn đề cần được làm rõ.

Những lý do trên thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “Dạy đọc - hiểu hai tác

phẩm Đồng chí và Làng cho học sinh lớp 9 huyện Văn Yên - Yên Bái” làm đối

tượng nghiên cứu cho luận văn của mình. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong

muốn góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trên

địa bàn đặc thù miền núi - nơi mà hàng ngày thầy trò chúng tôi đang đối mặt với

những thực tiễn có tính đặc thù.

2. Lịch sử vấn đề

Lịch sử giảng văn ở nước ta đã trải qua hơn một thế kỉ. Như vậy so với các

môn học khác, môn văn có một lịch sử lâu đời. Cùng với bước đi đó, chuyên

ngành lí luận và phương pháp dạy học văn cũng chuyển mình qua từng thời kì

lịch sử với mong muốn cung cấp những kiến thức về lý luận và thực tiễn góp

phần nâng cao chất lượng dạy học văn, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của xã

hội.

3

2.1. Các công trình bàn về PPDH văn nói chung

Trước hết, phải kể đến cuốn Phương pháp luận dạy văn học của tập thể

tác giả do GS.TS Z.Ia.Rez chủ biên. Cuốn sách này, ngoài lời nói đầu, nội dung

gồm bốn phần, đã trình bày rất cụ thể những vấn đề liên quan đến phương pháp

luận dạy học văn học. Trong đó tác giả kết luận: "Một trong những nhiệm vụ

quan trọng nhất của phương pháp luận dạy học văn học là giúp người dạy thực

hiện những nguyên tắc giảng dạy bộ môn nhằm kích thích tính tích cực của HS

trong quá trình học tập, tạo điều kiện để hoạt động của các em mang tính chất

sáng tạo." [62, tr. 11].

Bàn về PPDH trong nước, năm 1963, nhóm tác giả trường Đại học Sư

phạm Hà Nội gồm Bùi Hoàng Phổ, Hoàng Lân, Quách Hi Dong đã biên soạn và

cho ra đời bộ giáo trình đầu tiên về Phương pháp giảng dạy văn học. Ở cuốn

sách này, các tác giả trình bày khá đầy đủ, chi tiết quá trình giảng một bài văn.

Song, đến nay, một số tư tưởng trong cuốn sách đã trở nên lạc hậu, giáo trình

không cung cấp cho giáo viên những chỉ dẫn cần thiết để GV có thể giúp HS đạt

được mục tiêu trong khi học một TPVHVNHĐ, bởi phương pháp dạy học là cái

luôn thay đổi theo sự phát triển của xã hội.

Đến năm 1987, cuốn Phương pháp giảng dạy văn học trên được thay thế

bằng cuốn giáo trình Phương pháp dạy học văn do nhóm tác giả Phan Trọng

Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt biên soạn. Cuốn sách

được Hội đồng thẩm định Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép dùng chung cho tất

cả các trường Đại học và Cao Đẳng Sư phạm trên cả nước.

Mỗi giai đoạn lịch sử lại có những yêu cầu mới về mục tiêu của việc dạy

và học. Muốn đạt được mục tiêu mới cũng cần có những phương pháp mới. Vì

vậy, công cuộc đổi mới PPDH trong nhà trường đang được toàn ngành giáo dục

ra sức thực hiện. Từ những bộ giáo trình nền tảng đầu tiên đó, hầu hết các

trường Đại học đã biên soạn lại, xây dựng thành những tập bài giảng riêng phù

hợp với đặc điểm, yêu cầu riêng của mỗi trường. Năm 1998, ĐHSP Huế đã cho

in giáo trình Phương pháp dạy học văn do Trương Dĩnh biên soạn. Năm 2003,

Đại học Quốc gia TPHCM xuất bản cuốn Phương pháp dạy học văn ở bậc trung

4

học do tác giả Trịnh Xuân Vũ biên soạn. Mới đây, trường Đại học Sư phạm Hà

Nội cho in cuốn giáo trình Phương pháp dạy học văn (2 tập) do Phan Trọng

Luận và Trương Dĩnh viết trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng đổi mới PPDH của

Đảng và Nhà nước ta đề ra. Nhìn chung, các bộ giáo trình nói trên đã trình bày

khá đầy đủ và kĩ lưỡng các PPDH văn, rất hữu ích giúp cho các giáo viên đạt

được hiệu quả trong mỗi giờ dạy văn.

Giáo sư Phan Trọng Luận là một trong những chuyên gia đầu ngành của bộ

môn phương pháp. Ông đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi và công bố hàng

loạt công trình, chuyên luận có giá trị lí luận và thực tiễn, những công trình này

đã trở thành cẩm nang cho rất nhiều giáo viên, học viên, sinh viên cùng tất cả

những ai quan tâm đến PPDH văn tham khảo và ứng dụng. Trong tác phẩm Rèn

luyện tư duy qua giảng dạy văn học, ông kết luận "Song song với việc truyền thụ

kiến thức, phải rèn luyện phương pháp cho HS, phải làm cho họ suy nghĩ và biết

cách suy nghĩ để rồi hành động tự lập được" [33, tr.26]. Trong tác phẩm Phân

tích tác phẩm văn học trong nhà trường: Giáo sư xác định: "Phương pháp không

quyết định tài năng mà chính là tài năng của người GV quyết định hiệu lực của

phương pháp... " [34, tr.235]. Ngoài ra, Phan Trọng Luận còn có những chuyên

luận, những bài báo đề cập đến vấn đề dạy học văn trong việc đổi mới phương

pháp như: Xã hội – Văn học – Nhà trường, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1998; Văn

chương bạn đọc sáng tạo, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2003… đó là những bài học kinh

nghiệm hết sức chân thành và quý báu mà tác giả đã phải bỏ ra rất nhiều tâm

huyết để có được. Từ đó giúp các GV vận dụng thành công lí thuyết vào việc

dạy đọc - hiểu các tác phẩm ở trường THCS và THPT.

2.2. Các công trình bàn về phương pháp dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương

Trong cuốn “dạy và học tác phẩm văn học ở trường Phổ thông trung học

miền núi” tác giả Hoàng Hữu Bội đã phát hiện “các tác phẩm văn học có những

từ ngữ, hình ảnh, hình tượng và cách phô diễn… có thể tỏa sáng lung linh trong

thế giới tâm hồn của học sinh miền xuôi nhưng nhiều khi đối với các em học

sinh miền núi, chúng lại trở nên vô cảm, thậm chí gây nên trong các em sự phản

cảm, không mang lại kết quả thẩm mĩ như chúng ta mong muốn. Sở dĩ có hiện

5

tượng trên là do những chất liệu cuộc sống để nhà văn tạo dựng nên các hình

ảnh, cách phô diễn… ấy rất xa lạ với các em, với cuộc sống thường ngày của

người dân miền núi” [2, tr 3]. Nội dung chính của cuốn sách, tác giả đề cập đến

ba vấn đề. Thứ nhất là thực trạng dạy và học tác phẩm văn học ở trường Trung

học miền núi phía Bắc, Phương án khả thi nhằm hướng dẫn HS phổ thông trung

học miền núi chiếm lĩnh thế giới hình tượng trong tác phẩm văn học và cuối

cùng là những thiết kế thể nghiệm.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử với bài viết Môn văn - trực trạng và giải

pháp, đăng trên báo Văn nghệ, số 7, ra ngày 14. 2.1998, đã nhấn mạnh một trong

ba mục tiêu của dạy học văn là rèn luyện khả năng đọc - hiểu các văn bản, đặc

biệt là văn bản văn học, một loại văn bản khó nhằm tạo cho HS "biết đọc văn

một cách có văn hoá, có phương pháp, không suy diễn tuỳ tiện, dung tục. Năng

lực đọc được thể hiện ở việc HS tự mình biết đọc, hiểu, nắm bắt được nội dung

và nghệ thuật của tác phẩm” [50, tr.45].

Trong cuốn Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nguyễn

Thanh Hùng đã bàn đến tri thức đọc - hiểu truyện ngắn hiện đại: "Muốn đọc -

hiểu truyện hiện đại phải có cách nhìn trong đó bao gồm sự định hướng và mức

độ am hiểu. Điều đó buộc phải xét đến quy trình, đọc - hiểu bắt đầu từ sự tiếp

cận rồi tính đến cắt nghĩa và bình giá nhận định tác phẩm" [22, tr.131]. Tiếp đến

tác giả khẳng định: "Trong dạy học truyện ngắn hiện đại, không nghi ngờ gì nữa,

cần dạy cho HS phương pháp đọc - hiểu và không nên lặp lại mãi một sai lầm là

chỉ dạy họ đọc diễn cảm bên ngoài,…" [22, tr.134].

Trên các Tạp chí Ngôn ngữ, Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Giáo

dục, báo Văn nghệ Quân đội, báo Văn hoá và Tuổi trẻ, báo Giáo dục và Thời

đại,… cũng có khá nhiều bài viết đề cập đến PPDH văn nói chung và phương

pháp dạy đọc - hiểu văn bản văn học nói riêng. Điều này chứng tỏ toàn xã hội

đang rất quan tâm đối với quá trình dạy học văn trong nhà trường.

2.3. Các công trình bàn về hai tác phẩm Đồng chí và Làng

Về tác phẩm Đồng chí (Chính Hữu) đã có rất nhiều bài viết nhằm mục

đích phân tích, bình luận về cái hay cái đẹp của bài thơ như bài viết của Xuân

6

Quỳnh trong chuyên mục: Văn hóa nghệ thuật được đăng ngày 12/ 10/ 2011 đã

có những phân tích sâu sa về tác phẩm Đồng chí.

Trước hết, tác giả cho rằng: Bài thơ như là lời nói chuyện tâm tình thủ thỉ

của hai người chiến sĩ trong một đêm rét chung chăn...Cái đích mà tác giả hướng

tới là Đồng chí - gương mặt tinh thần của đội quân Cách mạng thời bấy giờ...Tác

giả bài viết nhận thấy nhà thơ Chính Hữu không đi sâu khám phá nét bề ngoài

của người lính mà đi sâu vào vẻ đẹp rong tâm hồn người lính. Đó là cái gần gũi

của anh với tôi trong cùng một câu thơ, từ đôi người xa lạ - sau đó thành đôi tri

kỉ. Và cuối cùng, sau những gắn bó “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là tình

cảm mới mẻ nhất, thiêng liêng nhất, gắn bó tất cả mọi người: Đồng chí - sự kết

tinh, sự hội tụ những gì tốt đẹp và tinh hoa trong tình cảm xã hội của con

người...

Trong những sách tham khảo, sách bài tập, sách văn mẫu, tác phẩm Đồng

chí cũng như tác phẩm Làng cũng được khai thác ở những khía cạnh khác như

xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm, hay hướng dẫn tìm hiểu bài thơ, hướng

dẫn soạn giáo án...Tùy theo mục đích của các tác giả.

Xung quanh tác phẩm Làng và nhà văn Kim Lân cũng có những tác phẩm

phân tích, bình luận sâu sắc, tiêu biểu là tác phẩm Kim Lân – Nhà văn trong nhà

trường của tác giả Hoài Việt, Nxb Giáo dục, 1999. Nội dung cuốn sách cung cấp

cho người đọc những tư liệu quan trọng về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn

Kim Lân, đồng thời giới thiệu và phân tích, đánh giá những tác phẩm xuất sắc

của ông trong đó có tác phẩm Làng: “Trong chương trình ở bậc THCS và THPT

có một số tác giả VHVN cùng tác phẩm của họ được giới thiệu, để những GV và

HS có thêm tư liệu tham khảo, chúng tôi giới thiệu cuốn sách Nhà văn trong nhà

trường..[60, tr 3]

Như vậy những công trình trên chủ yếu hướng vào phân tích, bình giá tác

phẩm hoặc bàn đến hướng tiếp nhận, cảm thụ hai tác phẩm trên chứ chưa có tài

liệu nào giải quyết một cách thấu đáo vấn đề dạy hai tác phẩm Đồng chí (Chính

Hữu), và Làng (Kim Lân) cho học sinh ở các trường THCS miền núi.

7

Qua những ý kiến, nhận định trên, có thể nói, các nhà nghiên cứu, phê bình

văn học đã bàn đến PPDH văn khá nhiều. Nhưng vì mục đích của người viết,

tính chất của công trình, cho nên các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phân tích,

khái quát hoặc nêu vấn đề một cách chung chung hoặc tập chung nghiên cứu các

tác phẩm chứ chưa giải quyết một cách trọn vẹn, thấu đáo vấn đề dạy đọc – hiểu

VHVNHĐ trong trường THCS ở miền núi. Chính vì vậy, ở luận văn này, với

dung lượng có hạn, chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu trên cơ sở tham khảo,

chắt lọc và học hỏi những tác giả đi trước để làm rõ vấn đề dạy đọc - hiểu hai tác

phẩm Đồng chí (Chính Hữu) và Làng (Kim Lân) cho HS lớp 9 huyện Văn Yên,

tỉnh Yên Bái.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở thực tế dạy học ở huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái và những lí

luận của dạy học văn hiện đại, luận văn hướng tới việc xây dựng những biện

pháp dạy đọc - hiểu hai tác phẩm văn học hiện đại Làng và Đồng chí cho học

sinh lớp 9 trên địa bàn.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những lý thuyết về

phương pháp dạy đọc - hiểu và vận dụng vào giảng dạy hai tác phẩm:

1. Làng.

2. Đồng chí

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Đề tài nghiên cứu về dạy đọc - hiểu hai tác phẩm Làng và Đồng chí trong

chương trình Ngữ văn 9 cho học sinh miền núi huyện Văn Yên - Yên Bái.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về vấn đề dạy đọc - hiểu và một số định hướng để dạy

đọc - hiểu tác phẩm VHVNHĐ (SGK Ngữ văn lớp 9)

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, sẽ sử dụng những phương pháp sau:

8

+ Phương pháp hồi cố tư liệu.

+ Phương pháp khảo sát điều tra.

+ Phương pháp thống kê so sánh.

+ Phương pháp phân tích - tổng hợp.

+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

6. Đóng góp của luận văn

Về lý luận: Góp phần củng cố và trang bị cho giáo viên Ngữ văn ở các

trường THCS miền núi Văn Yên - Yên Bái cơ sở lí luận về phương pháp dạy

đọc - hiểu tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam.

Về thực tiễn: Nghiên cứu phương pháp dạy đọc - hiểu tác phẩm văn học hiện

đại Việt Nam ở cấp THCS. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy

học hai tác phẩm Làng và Đồng chí cho học sinh các trường THCS ở miền núi

Văn Yên - Yên Bái.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung

luận văn có kết cấu 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy đọc – hiểu hai tác phẩm

“Đồng chí” và “Làng” cho HS lớp 9 huyện Văn Yên – Yên Bái.

Chương 2: Những biện pháp tổ chức dạy học tác phẩm “Đồng chí” và” Làng”

cho học sinh lớp 9 huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

9

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA VIỆC DẠY ĐỌC - HIỂU HAI TÁC PHẨM

ĐỒNG CHÍ (CHÍNH HỮU) VÀ LÀNG (KIM LÂN)

1.1. Một số tiền đề lí luận về đọc - hiểu

1.1.1. Khái niệm đọc - hiểu

Trước đây, trong dạy học văn, người ta thường dùng những thuật ngữ:

“Giảng văn”, “Phân tích văn”…thực chất đó chính là hoạt động “Đọc- hiểu văn

bản”. Sự thay đổi về tên gọi đó cũng nói lên sự thay đổi quan niệm về bản chất

của môn Văn, về phương pháp dạy học Văn và các hoạt động khi tiếp nhận

TPVH.

Mỗi chuyên gia có một cách lí giải về hoạt động đọc – hiểu nên có rất

nhiều định nghĩa về hoạt động này. Cách hiểu của Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn

Thanh Hùng được đánh giá rất cao “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ

mức độ cao nhất của hoạt động đọc; đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn

của người đọc”.“Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa văn bản”.

Còn Giáo sư – Tiến sĩ Trần Đình Sử coi “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột

phá trong việc đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu bức thiết đối với

việc đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến”. Như

vậy, đọc hiểu là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản thông

qua khả năng tiếp nhận của HS. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nội

dung, ý nghĩa, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Tuy nhiên, đọc văn như thế nào, làm sao để HS hiểu văn, yêu văn vẫn còn

là vấn đề nan giải. Vì thế, xung quanh vấn đề đọc - hiểu, đã nhận được rất nhiều

ý kiến hết sức thiết thực, bổ ích từ các nhà nghiên cứu. Từ đó góp phần đổi mới,

nâng cao chất lượng dạy đọc - hiểu văn ở các trường THCS nói chung các

trường THCS ở miền núi nói riêng.

10

1.1.2. Quan niệm về vấn đề đọc - hiểu văn

Đọc văn cũng có rất nhiều hình thức. Trong cuốn Phương pháp luận dạy

văn học do Z.Ia. Rez chủ biên đã đặt "phương pháp tập đọc sáng tạo" ở vị trí

hàng đầu của học văn. Quan niệm của Z.Ia. Rez tập trung vào vấn đề đọc diễn

cảm với mục đích là đọc để khởi động cho quá trình tiếp nhận của HS và đọc để

HS bộc lộ kết quả cảm thụ và hiểu biết về tác phẩm.

Ở công trình “Đọc văn, học văn”, ngay trong lời nói đầu, giáo sư Trần

Đình Sử cho rằng đọc - hiểu văn là năng lực đầu tiên cần có của quá trình học

văn. Muốn đưa HS đến với tác phẩm văn học thì khi đọc phải "tôn trọng ngữ

cảnh của văn bản, ngữ cảnh của tác giả và thời đại, ngữ cảnh của văn bản đời

sống mà người đọc phụ thuộc vào" [61, 3].

Hoạt động đọc suy cho cùng là để hiểu được nghĩa của văn bản, cho nên

mọi sự đọc, suy cho cùng đều là đọc hiểu.

Giáo sư Phan Trọng Luận cũng là một trong những nhà khoa học nghiên

cứu về vấn đề đọc - hiểu văn bản sớm nhất. Trong chuyên luận Cảm thụ văn

học, giảng dạy văn học tác giả đã chỉ ra tầm quan trọng của hoạt động đọc: "Đọc

từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm giác được bằng

mắt bằng tai từ ngữ, hình ảnh, chi tiết,..." [42, 34]. Quá trình đọc là quá trình

tiếp xúc đầu tiên, từng bước thâm nhập, tiếp nhận tác phẩm. Những tư tưởng này

tiếp tục được ông làm rõ trong giáo trình Phương pháp dạy học văn viết cùng

Trương Dĩnh: "Đọc để nắm bắt được giọng điệu cả tác giả, âm điệu chủ yếu

trong tác phẩm. Đọc để hoà nhập vào thế giới cảm xúc, để phát hiện ý đồ nghệ

thuật của tác giả. Đọc để nhìn ra thế giới cuộc sống trong tác phẩm. Đọc để tiếng

nói nội tâm người đọc vào trong tiếng nói nội tâm của tác giả" [45, 267].

Trong chuyên luận Đọc và tiếp nhận văn chương, Nguyễn Thanh Hùng đã

khẳng định vị trí tối quan trọng của hoạt động đọc: "Đọc văn chương được xem

như là năng lực văn hoá có ý nghĩa cơ bản đối với việc phát triển nhân cách, bởi

vì phần lớn những tri thức hiện đại chuyên ngành được truyền thụ qua hoạt động

đọc" [26, tr.87]. "đọc văn chương luôn đòi hỏi con người phải được sống chứ

không phải là người bị cột chặt vào tác phẩm" [26, tr.90], còn "hiểu" thì không

11

nên xem là hoạt động mà là kết quả mong muốn của hoạt động đọc "Hiểu trong

đọc văn, về một phương diện nào đó là sự vượt qua khoảng cách mơ hồ, chưa

nhận thức ra một cách đầy đủ, hoàn chỉnh giữa chủ thể đọc tác phẩm và văn bản

nghệ thuật của tác phẩm để khám phá ra tình người sâu xa trong cuộc sống mà

sự đóng góp của ngôn ngữ nghệ thuật không có gì thay thế được" [26, tr.88]. Do

đó, "Hiểu văn là đồng cảm và nắm được những gì nhà văn muốn nói, muốn gửi

gắm tới người tiếp nhận bằng nhiệt tình và năng lực thuyết phục của phương

thức trình bày nghệ thuật hấp dẫn, mới lạ, có giá trị nâng cao sự cảm thụ hình

thức thẩm mĩ của ngôn ngữ tác phẩm" [26, tr.89].

Còn trong chuyên luận Hiểu văn - dạy văn, một lần nữa tác giả Nguyễn

Thanh Hùng khẳng định: "Đọc văn là một hoạt động phân tích, tổng hợp phức

tạp. Thông qua hoạt động đó, nội dung ý nghĩa chứa đựng trong từ và câu được

thể hiện trong hình tượng ngôn ngữ" [27, tr.59].

Năm 2008, Nguyễn Thanh Hùng đã cho xuất bản công trình Đọc - hiểu tác

phẩm văn chương trong nhà trường. Trong đó, chúng ta thấy rõ: "Bản chất của

hoạt động đọc - hiểu văn là quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ,

nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn

bản" [29, tr.24].

Như vậy, vấn đề đọc - hiểu văn và dạy đọc - hiểu các tác phẩm văn chương

đã được bàn luận khá kĩ. một yêu cầu đặt ra cho mỗi người GV dạy văn là phải

bám sát vào mục tiêu bài học để dẫn dắt HS từng bước chiếm lĩnh tác phẩm.

Đồng thời, phải nắm vững khái niệm đọc - hiểu và vận dụng thành thạo các

phương pháp dạy đọc - hiểu văn bản vào giờ dạy.

1.1.3. Những hiểu biết cần thiết về VHVNHĐ phục vụ cho việc dạy học hai

tác phẩm “Đồng chí” và “Làng”

VHVNHĐ được chia làm ba giai đoạn, giai đoạn từ năm 1900 - 1945;

1945 - 1975 và giai đoạn từ năm 1975 đến nay. Ở mỗi giai đoạn, VHVNHĐ lại

có những thành tựu riêng, đặc điểm riêng.

Giai đoạn 1900 – 1945: Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân

Pháp (lần thứ nhất từ năm 1897 - 1914, lần thứ hai từ năm 1919 - 1929) cơ cấu

12

xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc. Một số thành phố công nghiệp ra

đời, đô thị, thị trấn mọc lên ở nhiều nơi. Những giai cấp, tầng lớp xã hội mới: tư

sản, tiểu tư sản (viên chức, HS, những người buôn bán, sản xuất nhỏ,…) công

nhân, dân nghèo thành thị,… xuất hiện ngày càng đông đảo. Một lớp công

chúng có đời sống tinh thần và thị hiếu mới đã đòi hỏi hình thành một thứ văn

chương mới để có thể hội nhập với nền văn học thế giới. Đây là thời kì văn học

để lại nhiều tên tuổi lớn, nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có những tác phẩm

xứng đáng là kiệt tác.

Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 – 1975: Từ năm 1945 -

1975, trên đất nước ta diễn ra nhiều sự kiện lớn: cuộc chiến tranh giải phóng dân

tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt 30 năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con

người mới ở miền Bắc... khiến xã hội có những chuyển biến sâu sắc. Trong đó,

văn học nghệ thuật có những biến đổi mạnh mẽ. Chủ đề bao trùm các tác phẩm

văn học trong những ngày đầu đất nước giành được độc lập là ca ngợi Tổ quốc

và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cổ vũ phong trào

Nam tiến, biểu dương những tấm gương vì nước quên mình. Lịch sử thơ ca

chặng đường này đặc biệt ghi nhận sự xuất hiện và những đóng góp của những

người trực tiếp cầm súng, vừa đánh giặc vừa làm thơ. Thơ của họ giàu những chi

tiết chân thực của đời sống chiến trường, phản ánh được một phần sự ác liệt,

những hy sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là đã dựng nên bức chân dung

tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng.

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc

chiến tranh ái quốc chống đế quốc Mĩ đã kết thúc thắng lợi. Lịch sử dân tộc lại

mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy từ

năm 1975 đến năm 2000, đất nước ta lại gặp những thử thách, khó khăn về

kinh tế chủ yếu do hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt ba

mươi năm nhưng văn học vẫn phát triển mạnh. Đăc biệt từ sau đổi mới 1986,

văn học Việt Nam từng bước chuyển sang giai đoạn mới. Có thể xem từ năm

1975 đến năm 1985 là chặng đường văn học chuyển tiếp, trăn trở tìm kiếm con

13

đường đổi mới. Còn từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học đổi mới mạnh

mẽ, sâu sắc và khá toàn diện.

Qua phần tóm lược ở trên, chúng ta thấy, tiến trình VHVNHĐ đến nay đã

trải qua 3 giai đoạn với nhiều thể loại, nhiều tác phẩm có nội dung và nghệ thuật

độc đáo, hấp dẫn. Theo đó, các tác phẩm được chọn lựa vào giảng dạy ở bậc

THCS cũng như THPT đã đòi hỏi người GV phải có những kiến thức sâu rộng

và phương pháp phù hợp để có thể dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh được văn bản tác

phẩm VHVNHĐ.

1.1.4.Hai tác phẩm Đồng chí và Làng trong tiến trình phát triển của VHVNHĐ

Hai tác phẩm Đồng chí và Làng đều nằm trong chặng đường thứ nhất (1945

– 1954) của giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 – 1975.

Từ năm 1945 - 1954. Chủ đề chính trong các sáng tác văn học những ngày

đầu đất nước giành được độc lập là lòng yêu nước, tinh thần ca ngợi Tổ quốc và

quần chúng cách mạng, kêu gọi toàn dân đoàn kết, cổ vũ phong trào Nam tiến,

biểu dương những tấm gương vì nước quên thân... Được thể hiện qua nhiều tác

phẩm như: Đồng chí (Chính Hữu); Huế tháng Tám; Vui bất tuyệt (Tố Hữu);

Ngọn quốc kì; Hội nghị non sông (Xuân Diệu)… Truyện ngắn và Kí là những

thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp. Kí sự Một lần

tới thủ đô (Trần Đăng); truyện ngắn Đôi mắt và nhật kí Ở rừng (Nam Cao);

truyện ngắn Làng (Kim Lân);… là những tác phẩm tiêu biểu.

Tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu sáng tác năm 1948 ca ngợi vẻ đẹp của

anh bộ đội thời chống Pháp và tình đồng chí sâu sắc, cảm động – Là tác phẩm

thơ đầu tiên trong phần VHVNHĐ ở chương trình Ngữ văn lớp 9.

Khi dạy văn bản: Đồng chí, trong quá trình tổ chức, GV hướng dẫn HS tìm

hiểu, khám phá những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, GV sẽ hướng

dẫn cho các em cách thức khai thác, khám phá một bài thơ trữ tình hiện đại. Từ

đó giúp các em nắm được phương pháp và áp dụng vào tìm hiểu, cảm nhận các

bài thơ khác như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật), Ánh

trăng của Nguyễn Duy... Năng lực đọc –hiểu tác phẩm thơ trữ tình hiện đại được

14

hình thành. Các em có thể tự mình khám phá một bài thơ hiện đại bất kì ngoài

chương trình.

Tác phẩm Làng (1948) của nhà văn Kim Lân - Tác phẩm văn xuôi hiện đại

đầu tiên trong chương trình ngữ văn lớp 9. Là tâm trạng đau xót, tủi hổ của ông

Hai ở nơi tản cư khi nghe tin đồn làng mình theo giặc và niềm hạnh phúc vô bờ

khi biết cả làng mình yêu nước. Truyện thể hiện tình yêu làng quê sâu sắc, lòng

yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân.

Khi dạy văn bản này, bên cạnh kiến thức, GV cần hướng dẫn HS phương

pháp khám phá một truyện ngắn hiện đại. Từ đó, các em sẽ áp dụng vào khai

thác, khám phá các truyện ngắn tiếp theo như Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành

Long), Chiếc lược Ngà (Nguyễn Quang Sáng) Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh

Khuê)... Thậm chí các em có đủ năng lực tự mình tiếp nhận một truyện ngắn bất

kì ngoài chương trình SGK.

1.2.Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Vài nét khái quát về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - chính trị - văn

hóa - xã hội của huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái

Huyện Văn Yên được thành lập ngày 01 tháng 03 năm 1965, đến nay đã trải

qua 50 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành. Trong suốt nửa thế kỉ qua, các

thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân

trong huyên luôn phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng, Cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng cuộc sống thanh

bình, ấm no, tự do, hạnh phúc.

Văn Yên nằm cách trung tâm thành phố Yên Bái 40 km, phía Bắc giáp

huyện Văn Bàn, huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai; phía Nam giáp huyện Trấn Yên;

phía Đông giáp huyện Lục Yên và Yên Bình; phía Tây giáp huyện Văn Chấn và

huyện Mù Cang Chải.

Diện tích đất tự nhiên là 139.043,8 ha; địa hình là những dãy núi đồi liên

tiếp, cao dần từ nam lên bắc, nằm giữa hai dãy núi Con Voi và dãy Hoàng Liên

Sơn – Pú Luông với đứt gãy sông Hồng chảy từ Lào Cai về. Huyện có hệ thống

15

giao thông thuận tiện về đường bộ, đường thủy và đường sắt; có đường cao tốc

Lào Cai – Nội Bài chạy qua.

Huyện có dân số 120.753 người gồm 11 dân tộc trong đó dân tộc kinh

chiếm 53%, dân tộc Dao chiếm 25,1%, dân tộc tày chiếm 15,4%, dân tộc Mông

chiếm 4,3%, còn lại là các dân tộc khác.

Văn Yên là huyện miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn

với 13 xã vùng cao trong đó có 10 xã đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí thấp,

không đồng đều.

Nhận thấy sự yếu kém của mình, các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân

dân các dân tộc huyện Văn Yên đã đồng lòng phát huy những tiềm năng, thế

mạnh có hiệu quả, tạo ra thế và lực mới vì mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao

dân trí, đảm bảo dân sinh, ổn định lâu dài. Sau 50 năm xây dựng và phát triển,

đến nay cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công

nghiệp xây dựng cơ bản và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông lâm nghiệp. Huyện đã

hình thành những vùng thâm canh, chuyên canh theo đặc điểm và điều kiện tự

nhiên của từng địa phương như vùng lúa, vùng quế, vùng cây công nghiệp và

cây nguyên liệu giấy.

Đặc biệt, công tác giáo dục đào tạo được quan tâm đẩy mạnh. Từ những

phòng học tranh tre nứa lá của những ngày đầu thành lập, đến nay toàn huyện đã

có 83 cơ sở giáo dục với 799 phòng học, trong đó có 485 phòng xây kiên cố; 28

trường đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành và duy trì phổ cập giáo dục – chống mù

chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS. Toàn huyện có 10

trường bán trú, 85 phòng ở bán trú cho học sinh. Công tác xã hội hóa giáo dục

được đẩy mạnh, nhiều phong trào, cuộc vận động lớn của ngành giáo dục, của

các tổ chức chính trị - xã hội được triển khai mạnh mẽ đã tạo ra những bước

chuyển biến mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chất lượng dạy và học

ngày càng được nâng cao. Huyện đã có 5 nhà giáo ưu tú. Hàng năm có nhiều

học sinh đạt giải trong các kì thi học sinh giỏi các cấp (cấp tỉnh và cấp quốc gia).

Cùng với đó, tiềm năng du lịch của huyện từng bước được khai thác, đầu

tư, phát triển, thu hút nhiều du khách thập phương đến tham quan đặc biệt là các

16

di tích lịch sử văn hóa như đền Đông Cuông, đền Nhược Sơn, đền Trạng, Đình

cả Mường A, di tích lịch sử cách mạng Đồn Dóm, đồn Đại Bục, Đại Phác hay

các khu du lịch sinh thái như thác Nà Hẩu, thác Khe Cam – Ngòi A.

Trong quá trình phát triển, Văn Yên luôn xác định con người là yếu tố

quan trọng làm nên sự thành công của mọi lĩnh vực.

1.2.2. Tình hình dạy – học văn cho học sinh cấp II của huyện Văn Yên - tỉnh

Yên Bái

Đối với việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn cho học sinh THCS nói chung,

những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với những thay

đổi cải cách của chương trình, cùng với những Hội thảo chuyên đề, với sự xuất

bản của các tài liệu về PPDH văn, tình hình dạy học văn trong nhà trường THCS

nói chung THCS ở miền núi nói riêng đã có những tiến bộ đáng kể. Chất văn

chương, chất nhân văn của chương trình văn học đã được nâng lên khá rõ. HS

ngày càng thông minh, nhạy bén hơn và sớm được tiếp xúc với nhiều tác phẩm

văn học có giá trị trong và ngoài chương trình SGK.

Song, chất lượng dạy học văn trong nhà trường so với mặt bằng chung

trong nước vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Việc dạy học

bộ môn còn tồn tại một số nhược điểm do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách

quan khiến cho việc dạy văn nói chung và dạy đọc - hiểu văn còn gặp nhiều

khó khăn.

Về phía giáo viên dạy trường miền núi: Đội ngũ GV dạy văn đang được bổ

sung về số lượng cũng như chất lượng. Trong đó có nhiều người không ngừng

tìm tòi, học hỏi, nâng cao hiểu biết của mình. Tuy nhiên, một số chưa thu hút

được HS, hoặc có tâm lý dạy cho xong nghĩa vụ, không có phương pháp riêng

khi dạy học sinh miền núi. Những tiết giảng cho đồng nghiệp dự giờ chỉ mang

tính chất hình thức, còn thực tế ở lớp là công đoạn đọc - chép - học thuộc. Cách

học này dần dần giết chết khả năng cảm thụ, sáng tạo của HS. Kiến thức của

người thầy không được đổi mới, nâng cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu của

thời đại, dẫn đến tình trạng đáng buồn là một bộ phận không nhỏ HS miền núi

hiện nay không có hứng thú với môn Ngữ văn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến

17

tình trạng này, nhưng dễ nhận thấy nhất là do phương pháp dạy của người giáo

viên. Mỗi tác phẩm văn học trong chương trình SGK là một kiệt tác nghệ thuật

độc đáo, phong phú và đa dạng, quá trình chiếm lĩnh nó phải là một quá trình

vận động bên trong của chủ thể học sinh để các em tự mình cảm, tự mình hiểu,

tự mình chiếm lĩnh những vẻ đẹp riêng độc đáo kia. Người GV dạy văn phải

đánh thức được trí tưởng tượng của HS, khơi dậy những rung động thầm kín của

các em. Loại trừ đi những suy nghĩ lệch lạc ban đầu của học sinh về tác phẩm.

Với sự nhiệt tình của trí tuệ và tình cảm, GV dạy văn cần phải thổi vào tâm hồn

các em tình yêu đời, sự đam mê với văn chương nghệ thuật dù cho các em là học

sinh miền xuôi hay miền ngược.

Nhưng từ xưa, trình tự một tiết giảng văn phổ biến ở các trường miền núi

vẫn thường bị quy vào một số bước hình thức đầy gượng ép, không có sự mở

rộng, nâng cao hay sự trao đổi, tìm tòi, khám phá thêm những cái mới. Điều này

khiến cho một tác phẩm giàu giá trị thẩm mĩ khi vào đến nhà trường bỗng thành

một đối tượng khô khan, đơn giản làm mất đi sự hào hứng của HS.

Nghĩa là ở đây, họ vẫn dừng lại ở việc thông tin – tiếp thu một chiều của

phương pháp dạy học truyền thống đã được sử dụng trong nền văn minh công

nghiệp. Nhiều HS học cấp I chữ đẹp, nhưng đến cấp II thì xấu, vì trên lớp GV

đọc nhanh quá nên HS phải viết tắt, viết ẩu. Không chỉ có vậy, mà tai hại hơn cả

là sự thụ động, thờ ơ với văn chương ở một số HS, vì không hiểu, không thẩm

thấu được, dẫn tới các em không thích, thậm chí sợ học văn - một môn học rất

quan trọng trong việc định hình, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và nhân cách cho

con người. Đặc biệt là ở lứa tuổi HS THCS của các em.

Ngoài ra, một bộ phận thầy cô giáo trong quá trình đọc - hiểu chưa chú ý

đúng mức đến đặc trưng thể loại của từng tác phẩm. Chẳng hạn, với một bài thơ

trữ tình, GV lại dạy giống phương pháp của bài thơ tự sự. Hay dạy tác phẩm kí

giống như dạy tác phẩm truyện ngắn, khiến nhiều HS không phân biệt được tác

phẩm mình học thuộc thể loại tiểu thuyết hay truyện ngắn, tuỳ bút hay kí...

Về mặt khách quan, nhiều GV đứng lớp chưa được trang bị kĩ càng, đồng

bộ về quan điểm và lí luận PPDH học văn mới. Những quan điểm và lí luận

18

PPDH văn mới đó cũng chưa thiết thực vì mới thiên về cung cấp lý thuyết hơn

là hướng dẫn thực hành. Về mặt chủ quan, GV còn thiếu những thao tác, biện

pháp, những phác hoạ riêng về quy trình tổ chức dạy học khả thi để có thể tổ

chức hướng dẫn HS miền núi tích cực chủ động học tập.

Mặt khác, sự thiếu thốn về phương tiện, thiết bị dạy học như: tranh, ảnh,

sơ đồ, dụng cụ nghe nhìn để minh hoạ cho bài giảng, tài liệu tham khảo các tác

phẩm văn học… cho GV ở nhiều trường học, đặc biệt là các trường học ở vùng

sâu, vùng xa (nơi đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, có điều kiện kinh tế -

xã hội chưa phát triển), đã khiến cho việc áp dụng PPDH mới gặp nhiều bất lợi.

Bên cạnh đó, đời sống GV trong thời buổi kinh tế thị trường vẫn chưa được cải

thiện nhiều, khiến họ gặp nhiều khó khăn chưa thể chú tâm vào chuyên

môn. Trong thực tế, những thầy cô giáo dạy văn hay không phải là ít, nhưng để

có một thầy cô giáo dạy văn giỏi ở lại gắn bó lâu dài với các em học sinh nơi núi

rừng xa xôi thì rất hiếm..

Về phía học sinh, một phần các em có tư duy trong sáng, ham học hỏi.

Tác phẩm văn học hiện đại mang đến cho học sinh miền núi một thế giới mới, vì

vậy các em rất mong đợi giờ học văn để cùng tìm hiểu, khám phá những chân

trời mới lạ.

Tuy nhiên, phần lớn HS miền núi thói quen thụ động, đến lớp ngồi nghe

rồi chép, về nhà học thuộc và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì

GV đã giảng. Phần lớn các em không chủ động tìm hiểu, khám phá thêm những

vấn đề quanh tác phẩm mình học và lúng túng trong khi giải quyết vấn đề gây

ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả các bài viết trong phần làm văn. Hơn thế nữa nó

còn thủ tiêu tư duy sáng tạo và tính tích cực của HS, biến HS thành những người

quen suy nghĩ, diễn đạt bằng những ý vay mượn từ thầy cô, bằng những lời ghi

sẵn trong vở. Để rồi đến khi chuẩn bị bài soạn, bài học hay làm bài kiểm tra thì

các em lại lệ thuộc vào bài giảng của GV, hay có em chép nguyên những bài

làm văn mẫu vào, không thoát ly nổi những gì có trong tài liệu. Ngoài ra, HS

thường bị động trong giờ giảng văn, các em ngồi nghe, không cùng thầy tham

gia vào quá trình phân tích, chiếm lĩnh chiều sâu rung cảm của tác phẩm văn

19

học, coi lời thầy giảng mới là chuẩn mực. Vì vậy, GV nói đến đâu HS biết đến

đó, HS không có được cái nhìn bao quát về hướng đi của giờ học. Việc phụ

thuộc vào cách hiểu, cách nghĩ, cách cảm, cách diễn đạt của người khác, của tài

liệu tham khảo đã hạn chế rất nhiều năng lực chủ động sáng tạo trong các hoạt

động nghe nói, đọc, viết của HS. Không khơi gợi được ở HS nhu cầu tự thân bộc

lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, nếu phải nói và viết các

em cảm thấy rất khó khăn, ngại ngùng.

Qua khảo sát HS trường THCS Quang Minh – một trường thuộc xã

vùng 135 của huyện Văn Yên để tìm hiểu hứng thú học văn của HS khối lớp 9,

chúng tôi nhận thấy, kết quả là chỉ có 25% đến 28% số em yêu thích học văn.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng theo kết quả khảo sát một số trường trong

huyện như THCS Đông Cuông, THCS Trần Quốc Toản, THCS Lương Thế

Vinh… thì trong những cuộc thi HS giỏi cấp trường, cấp huyện, những HS đạt

giải và được điểm cao lại là những HS thi môn Ngữ văn. Như vậy cần mau

chóng tìm ra nguyên nhân và có phương hướng khắc phục kịp thời về việc học

văn của các em HS miền núi hiện nay.

1.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong việc tiếp nhận tác

phẩm văn học Việt Nam hiện đại của học sinh THCS ở miền núi

Trong cuốn “Dạy và học tác phẩm văn học ở trường phổ thông trung học

miền núi”, tác giả Hoàng Hữu Bội xác định có bốn nguyên nhân dẫn đến sự yếu

kém trong quá trình học môn văn của học sinh ở các tỉnh miền núi phía bắc. Đó

là do “vốn tiếng Việt của các em còn yếu, vốn hiểu biết về cuộc sống và con

người miền xuôi còn hạn chế, thói quen tiếp nhận văn chương của người miền

núi và do thói quen thẩm mĩ của người miền núi”(lời nói đầu)

Ở những xã vùng sâu vùng xa, hầu như đến tuổi đi học mẫu giáo các em

mới được tiếp xúc với tiếng Việt. Mà người dân miền núi thường cho con em đi

học rất muộn, thường là năm tuổi mới cho các em đi học. Đến lớp chủ yếu là để

học tiếng Việt nhưng khi về nhà các em lại giao tiếp bằng tiếng dân tộc. Gia

đình không có thói quen nói tiếng Việt với các em, trên lớp thì các em cùng dân

tộc lại nói tiếng dân tộc với nhau khiến việc học tiếng Việt có thể kéo dài đến

20

hết cấp I. Vì để duy trì phổ cập Giáo dục nên nhiều em vẫn học hết cấp II trong

khi tiếng Việt chưa nói sõi. Thậm chí ở trường THCS Quang Minh có em học

sinh lớp 9 rồi còn đánh vần từng chữ khi đọc... Chính vì vậy mà khi học những

tác phẩm văn học viết về miền xuôi hay do người miền xuôi viết như “Đồng

chí” hay “Làng”, các em sẽ gặp cả khó khăn trong việc tìm hiểu từ ngữ lẫn quá

trình thâm nhập tác phẩm, tìm hiểu tư tưởng tác giả...

Qua khảo sát, tìm hiểu trên địa bàn tỉnh Yên Bái, chúng tôi ghi nhận thực

trạng: Do thói quen phát âm địa phương và phát âm tiếng dân tộc nên các em

học sinh THCS thường mắc một số lỗi về phát âm và chính tả như sau:

Đối với HS người kinh Đối với HS người dân tộc thiểu số

+ Đọc và phát âm sai các cặp phụ âm + Đọc và phát âm sai các cặp phụ âm

đầu: Tr/ ch; s/ x; l/ n; r/d/gi; đầu: l/d; l/kh; r/s; đ/d;

+ Đọc và viết sai các phụ âm đầu: + Đọc và viết sai các phụ âm đầu: c/k/q;

c/k/q; g/gh; ng/ngh. g/gh; ng/ngh.

+ Sử dụng sai vần: ưu/iu; ươu/iêu; + Sử dụng sai vần: iên/ên; ân/ơn;

uênh/uyênh; uêch/uyêch. uân/uôn; uất/uôt;

+ Phân biệt sai các vần: uynh, uych, + Phát âm sai các vần: uyên/uyêt; eo/

uyt, uya. oeo; ưi/ươi.

+ Phân biệt và phát âm sai thanh điệu: + Phân biệt sai các vần: uynh, uych,

hỏi, nặng, ngã, sắc. uyt, uya.

+ Phân biệt và phát âm sai thanh điệu:

hỏi, nặng, ngã, sắc.

Như vậy, việc nghiên cứu, tìm tòi và sử dụng một phương pháp dạy đọc –

hiểu riêng đối với HS miền núi là điều rất cần thiết hiện nay.

Căn cứ vào điều kiện và thực trạng dạy - học VHVNHĐ ở các trường THCS

tại huyện Văn Yên, căn cứ vào đặc trưng của VHVNHĐ, tôi xin đề xuất một số

biện pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực chủ động của HS và nâng cao

hiệu quả trong giảng dạy VHVNHĐ, cụ thể dạy đọc – hiểu hai tác phẩm Đồng

chí và Làng.

21

CHƯƠNG 2. NHỮNG BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU

HAI TÁC PHẨM ĐỒNG CHÍ VÀ LÀNG CHO HỌC SINH

LỚP 9 HUYỆN VĂN YÊN TỈNH YÊN BÁI

2.1. Trước giờ lên lớp

2.1.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài

Việc chuẩn bị bài ở nhà của HS rất quan trọng giúp cho sự cảm thụ trên lớp

của các em được sâu sắc hơn. Nghiên cứu SGK là hoạt động phải được tiến

hành ngay trong quá trình chuẩn bị ở nhà. Vì chỉ có chuẩn bị ở nhà thì HS mới

có đủ thời gian nghiên cứu mở rộng các vấn đề được trình bày ngắn gọn trong

SGK. Bởi phần nghiên cứu SGK có thời lượng rất ngắn trên lớp.

Tuy nhiên, muốn HS thực hiện tốt việc chuẩn bị bài ở nhà thì GV phải có

phương pháp giúp HS, trước hết cần loại bỏ tâm lý thụ động của HS, vì tâm lý

thụ động hạn chế năng lực nghiên cứu SGK của các em.

Do điều kiện kinh tế ở miền núi còn thấp nên SGK là tài liệu học tập chính

của HS, vì vậy GV trước hết phải hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo

khoa trước giờ lên lớp. Các em sẽ có cái nhìn bao quát, và cảm nhận chung về

bài học khi đọc trước ở nhà. Điều quan trọng là HS làm thế nào để đọc sách giáo

khoa một cách hiệu quả. Trước hết là phải có tinh thần tự giác học tập, chủ động

khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương. Bước đầu tiên là đọc, nên đọc ít nhất

ba lần. Vì càng đọc, quá trình thâm nhập tác phẩm càng nhanh, càng cụ thể. Lần

1 đọc để định hình về văn bản - tác phẩm sau đó đọc từ phần yêu cầu cần đạt để

xác định cái mình cần hướng tới, rồi đọc bài thơ lần 2, đọc phần chú giải. Lần

này thì đọc chậm lại để hiểu và xem có chi tiết nào khó hiểu thì ghi lại và đọc kĩ

trong lần thứ 3 để suy nghĩ lí giải về chi tiết khó hiểu ấy.

Thực tế giảng dạy ở các trường trung học cơ sở cho thấy khâu chuẩn bị bài

ở nhà của HS chưa được chú trọng một cách thích đáng. Giáo viên lên lớp

thường không thực hiện tốt phần “dặn dò”. Nghĩa là không hướng dẫn cụ thể

cho HS soạn bài mới như thế nào mà chỉ yêu cầu các em trả lời câu hỏi trong

sách giáo khoa. Thậm chí có người chỉ dành ít phút cuối cùng của giờ học dặn

22

dò HS một cách chung chung “các em về nhà học bài và chuẩn bị bài mới”. Khi

lên lớp chỉ giao cho cán bộ lớp kiểm tra bài tập qua loa trong giờ truy bài. Chính

vì vậy, việc chuẩn bị bài của học sinh ở nhà thường không ăn khớp hoặc ít liên

quan đến hoạt động của thầy trò ở trên lớp, chưa phát huy được tác dụng của

việc chuẩn bị trước giờ lên lớp của HS.

Chuẩn bị bài ở nhà được xem như bước tập dượt cho sự cảm thụ trên lớp

được sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn học của bản thân,

học sinh trực tiếp đi vào thế giới tác phẩm. GV sẽ khơi sâu phát triển những ấn

tượng đúng đắn của học sinh về tác phẩm, về tác giả hay về một nhân vật, một

chi tiết trong tác phẩm, trên cơ sở cảm thụ trực tiếp ban đầu của HS trong quá

trình chuẩn bị bài ở nhà.

2.1.2. Định hướng cho học sinh những tư liệu liên quan đến bài học

Trước giờ dạy, GV phải có đủ tư liệu tham khảo, tranh ảnh liên quan đến

bài, đồng thời giới thiệu và yêu cầu HS tìm những tài liệu đó.

Việc chuẩn bị bài ở nhà của HS có nhiều mặt đa dạng. Trước hết là khâu

tìm những tài liệu tham khảo, những bài phân tích, bình luận về tác giả, tác

phẩm,. Những tài liệu này do giáo viên giới thiệu. Các em có thể tìm trong thư

viện trường, hoặc những hiệu sách gần nhất. Khi có tài liệu tham khảo rồi sẽ tiến

hành đọc văn bản trong SGK. Sau phần “đọc” SGK, các em sẽ đọc thêm các tài

liệu tham khảo mình có để có những tri thức và cảm nhận đúng đắn, đầy đủ nhất

về văn bản – tác phẩm. Sau quá trình đọc và tự mình tìm hiểu như vậy các em có

thể giải đáp hết các câu hỏi trong sgk, đến khi lên lớp sẽ dễ dàng chiếm lĩnh trọn

vẹn tác phẩm. Nghĩa là qua quá trình chuẩn bị bài ở nhà học sinh phải nắm được

về mục tiêu bài học, tiểu dẫn, chú giải, ghi nhớ. Cụ thể là những thông tin cơ

bản như: tên tác phẩm , tên tác giả và đôi nét về tác giả, văn bản tác phẩm.

Song sự chuẩn bị này sẽ rất khó thực hiện đối với các em HS dân tộc thiểu

số (vùng 135) như THCS Dụ Thượng, THCS Quế Thượng, THCS Quang

Minh... vì đa số các em không có điều kiện, phương tiện để đi tìm thêm tài liệu

tham khảo mà chỉ có SGK nhà nước cấp phát vào đầu mỗi năm học vì vậy GV

có thể cho các em mượn những tài liệu của mình. Nếu không có tài liệu tham

23

khảo, các em sẽ tìm hiểu, soạn bài bằng SGK. Để chuẩn bị bài được tốt, các em

chú ý sắp xếp công việc phải làm giúp gia đình một cách hợp lý để có thời gian

học bài. Trước hết là đọc thật nhiều sao cho lưu loát văn bản. Tiếp theo là đọc

phần chú giải và tài liệu liên quan nếu có. Phần trả lời các câu hỏi cuối bài, nếu

thấy khó, các em phải đọc lại phần văn bản – tác phẩm, suy ngẫm để tìm ra câu

trả lời đúng nhất.

Tác phẩm “Đồng chí”

“Đồng chí” là tác phẩm thơ trữ tình hiện đại viết về vẻ đẹp chân thực giản

dị và tình đồng chí sâu sắc, cảm động... của các anh bộ đội miền xuôi lên miền núi

đánh giặc thời chống Pháp. Tác giả Chính Hữu cũng là một trong những anh bộ

đội miền xuôi đó. Vì vậy trước khi đọc hiểu bài thơ này, HS phải tìm hiểu những

tư liệu về bài thơ và tác giả Chính Hữu, về tập thơ đầu súng trăng treo, những

bài phân tích, bình luận về tác phẩm. Hơn nữa, đây là một tác phẩm thơ trữ tình

nên sẽ có rất nhiều chi tiết trừu tượng, những hình tượng nghệ thuật mà HS miền

núi rất khó cảm nhận được. Chính vì vậy, khi dạy cũng như khi hướng dẫn HS

chuẩn bị bài, người GV phải lưu ý cho HS tìm thêm tài liệu về thể loại thơ trữ

tình hiện đại để phân biệt được các thể loại văn học trong chương trình, đồng

thời biết khai thác tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại.

Tác phẩm “Làng”

Truyện ngắn Làng là một tác phẩm viết về tình yêu làng quê sâu sắc, lòng

yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân miền xuôi. Nhà văn Kim

Lân có xuất thân từ quê hương Kinh Bắc cổ kính. Về sự nghiệp sáng tác, tuy viết

không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một

cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông

thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Vì

vậy, trong tác phẩm in đậm dấu ấn người nông dân miền xuôi. Mỗi suy nghĩ,

tình cảm của nhân vật hay những phương ngữ được nhà văn sử dụng trong tác

phẩm đều có một khoảng cách nhất định, khiến HS miền núi khó chiếm lĩnh

được tác phẩm nếu như không có một phương pháp phù hợp trong quá trình dạy

cũng như trong khâu dặn dò các em chuẩn bị tư liệu tham khảo.

24

Về việc chuẩn bị tài liệu, cũng giống như đối với tác phẩm Đồng chí, các em

phải tìm thêm những tư liệu tham khảo về nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Làng và

các tác phẩm chính của ông cũng như các bài phân tích, bình luận về tác phẩm.

2.1.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài

Quá trình chuẩn bị trước giờ học chính là khơi dậy ở các em những cảm

thụ tự nhiên, chân thành mang cá tính sáng tạo riêng. Đồng thời giờ lên lớp sẽ

hiệu quả hơn khi HS đã tìm hiểu và xác định được mục đích bài học của mình

thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của GV và các câu hỏi trong SGK.

Tuy nhiên, các câu hỏi trong SGK thường chung chung, rộng kiến thức

khiến các em có thể không bao quát được, dẫn đến tư tưởng đi chép tài liệu. Để

giúp các em không bị mơ hồ, lan man trong việc chuẩn bị bài, GV phải đưa ra

một hệ thống câu hỏi hướng đến các vấn đề trọng tâm của tác phẩm. Từ đó HS

có thể tìm hiểu tác phẩm một cách chính xác, đúng mục tiêu và kế hoạch dạy

học của GV.

Đối với tác phẩm Đồng chí

Đồng chí là một tác phẩm thơ trữ tình, vì vậy ta khai thác theo hướng khám

phá hình tượng nghệ thuật. Tương đương với nó sẽ là hệ thống câu hỏi làm khơi

dậy được những liên tưởng, cảm xúc và ý kiến cá nhân của mỗi học sinh thông

qua hoạt động trao đổi, thảo luận. Hệ thống câu hỏi cần dẫn dắt HS khám phá

từng tầng nghĩa của tác phẩm từ dễ đến khó, từ ngôn từ đến hình tượng, rồi đến

nghĩa hàm ẩn, giúp các em hình dung được về một thời đại đầy khó khăn, gian

khổ nhưng tình đồng đội, đồng chí luôn sôi sục.

Đối với tác phẩm Làng

Truyện ngắn Làng chứa đựng một giá trị nội dung vô cùng sâu sắc. Bao trùm

lên cả tình yêu làng quê đó chính là tình yêu đất nước vô bờ bến, tinh thần quyết

chiến quyết thắng khi đất nước bị giặc xâm lăng. Nhà văn Kim Lân thật tài tình

khi xây dựng tình huống truyện để bộc lộ nội tâm nhân vật. Với truyện ngắn

Làng ta sẽ tìm hiểu theo hướng phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai

trong mỗi tình huống truyện. Vì vậy hệ thống câu hỏi phải từ đơn giản mới đi

đến phức tạp, khám phá sự thay đổi trong tâm trạng ông Hai theo từng tình

25

huống truyện. Hệ thống câu hỏi phải dễ hiểu, yêu cầu kiến thức cụ thể, kích

thích trao đổi hoạt động nhóm. GV cần giành cho những HS có học lực yếu kém

những câu hỏi đơn giản hơn để các em có thể trả lời được và không ngại soạn

bài vì thấy khó. Đồng thời cũng giao cho những học sinh khá, giỏi những câu có

yêu cầu cao hơn để kích thích các em khám phá, tìm hiểu.

Nếu ngay từ bài dạy về đọc hiểu đầu tiên, GV đã hướng dẫn HS chuẩn bị

theo cách thức như trên thì ở những bài tiếp theo, các em sẽ tự áp dụng và tạo

cho mình một “bí kíp” học văn hữu ích. Theo đó, các em sẽ yêu môn văn, giờ

học văn sẽ được mong đợi chứ không còn nhàm chán, thậm chí “đáng sợ” như

một số em nghĩ nữa. Hơn nữa, khi học sinh đã nắm được cách thức chung để

tiếp cận tác phẩm rồi thì GV cũng không bị mất nhiều thời gian cho phần dặn dò

mà các em vẫn thực hiện tốt khâu chuẩn bị bài ở nhà.

2.2. Tổ chức dạy đọc hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng trong giờ học

2.2.1. Tạo hứng thú, kích thích nhu cầu học tập cho học sinh

Hứng thú học tập môn Văn là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối

với kết quả, quá trình của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức cũng như kỹ

năng của môn học do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn học

đối với bản thân. Hứng thú học tập môn văn biểu hiện ở mặt nhận thức, xúc

cảm, sự say mê thích thú, hành động và kết quả học tập môn Văn. Với ba mức

độ hứng thú cao, hứng thú trung bình, chưa có hứng thú.

Hứng thú học tập rất quan trọng, nó góp phần quyết định tới kết quả học

tập của học sinh. Khi có hứng thú học sinh sẽ cảm thấy quan tâm, tò mò, muốn

khám phá và chiếm lĩnh những điều chưa rõ về bài học. Hứng thú làm nảy sinh

khát vọng sáng tạo và biến thành nhu cầu thúc đẩy cá nhân tự giác, tích cực hoạt

động để thỏa mãn nhu cầu học tập của học sinh. Từ đó các em sẽ có ý thức lắng

nghe, phân tích và thâm nhập vào tác phẩm để tự mình làm rõ vấn đề quan tâm

của mình, qua đó chiếm lĩnh được tư tưởng và nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên

để khơi gợi hứng thú học môn văn cho học sinh không phải là điều dễ dàng, đặc

biệt là đối với các em học sinh miền núi. Cần phải có những biện pháp thiết thực

để khơi gợi hứng thú cho học sinh.

26

Trước hết khi lên lớp GV phải kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS. Nên coi

trọng việc kiểm tra bài chuẩn bị của các em hơn là kiểm tra bài cũ. Đây không

chỉ là một bước lên lớp mà còn là việc cần thiết để dẫn dắt HS đi vào thế giới

nghệ thuật của tác phẩm. Bài soạn của các em nếu được GV kiểm tra và đánh

giá, có khen, có chê thì các em sẽ thấy thích thú và có động lực để soạn những

bài sau tốt hơn.

Giới thiệu bài mới cũng là một bước quan trọng giúp tạo hứng thú cho HS,

kéo các em vào bài học. Lời giới thiệu phải ngắn gọn, hấp dẫn, dễ hiểu và hé mở

được nội dung bài học đồng thời hướng học sinh vào vấn đề cần được khám phá

trong bài. Khi học sinh hứng thú, các em sẽ tò mò, muốn biết, muốn phân tích để

làm sáng tỏ vấn đề mình chưa rõ. Một lời giới thiệu hay còn có tác dụng ổn định

tổ chức tạo cho HS một không khí hào hứng, sẵn sàng khám phá tri thức mới.

Tuy nhiên bước này thường bị lãng quên vì không được đánh giá cao.

Tiếp theo, dưới sự gợi ý trực tiếp, cụ thể của GV, HS đọc sách giáo khoa

bằng phương pháp đọc sáng tạo để chiếm lĩnh văn bản chi tiết hơn đồng thời tạo

cho giáo viên và học sinh có sự tương tác cùng hòa nhịp với không khí chung

của lớp học.

Việc đọc các tác phẩm văn học hiện đại trong giờ học cần đạt được những

yêu cầu như: Phát hiện được những logic kết cấu của bài học, phát hiện ra những

vấn đề mà tác phẩm đề cập, phát hiện ra tiếng nói tình cảm của tác giả gửi gắm

trong tác phẩm

Đối với tác phẩm Đồng chí

Để tạo hứng thú cho HS miền núi trong giờ đọc hiểu bài Đồng chí, chúng

tôi sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp với việc dạy đọc hiểu các tác phẩm thơ

trữ tình hiện đại nói chung và tác phẩm Đồng chí nói riêng để có thể giúp các

em HS miền núi chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật văn chương sáng tạo hơn, sâu

sắc hơn.

Sau khi giới thiệu bài mới GV sẽ yêu cầu HS làm việc với SGK để đi vào

bài mới bằng hoạt động đọc văn bản tác phẩm. Do đó GV cần hướng dẫn HS

27

cách tiếp cận một tác phẩm VHVNHĐ ở những yếu tố sau: Thể loại, kết cấu và

cách khai thác, phân tích tác phẩm.

Đọc văn bản là một trong những hoạt động rất quan trọng. Trong đó, đọc

diễn cảm được xem là một phương pháp đặc thù được các GV chú trọng. Đặc

biệt là đối với tác phẩm thơ trữ tình như Đồng chí thì đọc diễn cảm là một hình

thức trực quan quan trọng nhất bởi qua cách đọc có thể đánh giá tính chất cảm

thụ ban đầu của HS. Đọc phải vang lên nhạc, sáng lên hình, tạo ra được sự rung

cảm cho cả người đọc và người nghe. Muốn hướng dẫn, rèn luyện HS đọc diễn

cảm, trước hết người GV cũng phải biết đọc diễn cảm. Những người GV dạy

văn giỏi thường là những người có giọng đọc truyền cảm, ấn tượng, bởi có hiểu

tác phẩm mới đọc đúng, đọc hay được. Đọc diễn cảm sẽ gây ấn tượng sâu sắc về

tác phẩm văn học cho HS, kích thích hoạt động tưởng tượng của HS, giúp HS

hiểu được nội dung biểu cảm của tác phẩm và làm tăng hứng thú học văn của

HS. Mặt khác, việc GV đọc diễn cảm sẽ giúp HS chuẩn bị cho việc phân tích tác

phẩm được tốt hơn. Tuy nhiên, khi hướng dẫn HS đọc diễn cảm, GV cần chú ý

giành lượng thời gian phù hợp cho phần đọc, tránh tình trạng lấn sang thời gian

của những nội dung khác.

Đối với tác phẩm Làng

Ngoài những hoạt động chung như kiểm tra, đánh giá bài soạn, GV cũng

tạo hứng thú cho HS bằng lời vào bài, bằng những tác động về mặt cảm xúc,

tình yêu quê hương đất nước, lòng căm thù giặc, lòng tự hào dân tộc. GV có thể

tạo dựng nhu cầu học tập cho HS bằng cách đặt học sinh vào những tình huống

có vấn đề cụ thể là diễn biến tâm trạng ông Hai mỗi khi nhận được tin về làng

mình. Cho HS thấy được cả cái quen và cái lạ trong câu chuyện tạo cho học sinh

ham muốn khám phá, tìm ra câu trả lời.

Tuy nhiên, biện pháp đọc diễn cảm ở mỗi thể loại lại được thực hiện khác

nhau. Chẳng hạn đối với khi đọc các bài thơ trữ tình, GV yêu cầu HS phải chú ý

đến từ, câu, vần, nhịp điệu,… và phải thuộc lòng bài thơ để có thể ngừng nghỉ

đúng chỗ và có những rung cảm về cái hay cái đẹp của bài thơ đó. Còn khi đọc

truyện ngắn, tiểu thuyết thì phải chú ý đến các đoạn hội thoại, độc thoại của

28

nhân vật, lời của người kể chuyện. Hay khi đọc các văn bản kịch, tuỳ vào lượng

nhân vật có trong tác phẩm đó, GV cho HS vào vai mỗi nhân vật để thể hiện lời

nói, giọng điệu đúng với các nhân vật ấy.

Cuối tiết 1 nên cho các em hoạt động nhóm để các em thoải mái lúc cuối

giờ và hào hứng, mong đợi tiết học tiếp theo để được trình bày sản phẩm của

mình trước các nhóm khác.

Như vậy, hứng thú học tập của HS có vai trò rất quan trọng trong dạy học

để đạt kết quả cao. Do đó GV phải có những biện pháp tác động đến HS giúp

các em cảm thấy hứng thú trong học tập.

2.2.2. Tổ chức cho học sinh cảm nhận tác phẩm bằng các hoạt động nghệ thuật

Môn Ngữ văn là môn học dễ gây ấn tượng cho HS thông qua việc tổ chức

cho các em cảm nhận tác phẩm bằng các hoạt động nghệ thuật.

Việc chuẩn bị bài từ nhà tạo không khí hào hứng, sẵn sàng khám phá bài

học cho HS. Khi đó GV sẽ giúp HS cảm nhận tác phẩm thông qua các hình thức

nghệ thuật như đọc diễn cảm, đọc sáng tạo, nghe đoạn băng, xem clip... để làm

cho giờ học trở nên sôi nổi, hào hứng, các em dễ tiếp thu bài học và khắc sâu nội

dung bài học.

Thông qua hình thức đọc diễn cảm, HS có thể đi vào thế giới nhân vật và

cuộc sống qua mỗi trang văn. Nhưng có một vấn đề cần lưu ý là các em HS

người dân tộc thiểu số khi nói cũng như khi đọc tiếng Việt không được rõ ràng,

trong sáng, dứt khoát như HS người kinh, nhất là khi phát âm đặc biệt là những

từ có dấu ngã. Vì vậy các em chỉ cố gắng tập chung đọc đúng chứ chưa đọc diễn

cảm được, trong khi đó biện pháp đọc diễn cảm đòi hỏi HS phải đọc đúng và

đọc hay. Đọc đúng nghĩa là đúng từ ngữ, vần điệu, ngữ điệu... Đọc hay là biết

phối hợp hoạt động đọc và phát huy ưu thế chất giọng, biết khắc phục những

nhược điểm về phát âm; thể hiện đúng cao độ, trường độ và sức ngân vang của

ngôn ngữ; biết làm chủ giọng đọc và kĩ thuật đọc, có sắc thái biểu cảm, cảm xúc

phù hợp với giọng điệu của nhà văn, nhà thơ. Do đó, nếu không đáp ứng được

những yêu cầu này, HS khó mà nhập vào cảnh vào tình trong tác phẩm được. Để

khắc phục nhược điểm này, GV phải yêu cầu các em thực hiện thật tốt nhiệm vụ

29

đọc cho lưu loát từ nhà để lên lớp có thể đọc diễn cảm được sau khi nghe GV

đọc mẫu. Đồng thời GV phải biết kết hợp giữa đọc diễn cảm với các phương

pháp khác để giúp HS hiểu và cảm tác phẩm văn học một cách đúng đắn. Trong

một thời gian nhất định, GV có thể cho HS đọc dưới những hình thức và mức độ

khác nhau, đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để làm sáng tỏ lời bình, đọc để minh

chứng cho lời giảng, đọc đầu giờ và đọc ở cuối giờ học, đọc để kích thích trí

tưởng tượng, để tái hiện hình ảnh hay duy trì cảm xúc. Việc đọc diễn cảm đòi

hỏi HS phải vận dụng vốn sống, vốn tri thức, năng lực liên tưởng, tưởng tượng

hết sức phong phú của mình để đón bắt thông điệp của nhà văn gửi gắm qua tác

phẩm. Đồng thời, đọc diễn cảm có khả năng khơi dậy những cảm xúc, những

rung động thẩm mĩ, có khả năng chắp cánh cho trí tưởng tượng và năng lực cần

có cho tư duy nghệ thuật của HS và cho việc phân tích tác phẩm. Do đó đọc diễn

cảm chính là một hình thức đắc lực bồi dưỡng năng lực tiếp nhận văn chương

cho HS miền núi.

Trong quá trình dạy học, nguời giáo viên cũng phải cố gắng cung cấp cho

HS những tranh ảnh, những đoạn clip có dung lượng ngắn, những đoạn băng đĩa

liên quan đến bài học cho các em tham khảo để các em có một cái nhìn toàn diện

về bài học và ghi nhớ kiến thức tốt hơn

Đối với tác phẩm Đồng chí

Khi dạy bài thơ Đồng chí GV nên cho HS nghe phần ghi âm phổ nhạc bài

thơ. Hướng dẫn đọc diễn cảm dựa trên nền tảng những hiểu biết về bài thơ.

Chẳng hạn mở đầu bài thơ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên

hai gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu khi

đọc phải tự nhiên, mộc mạc, thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những

vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi “ nước mặn đồng chua” – vùng đồng

bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.

Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt

30

rốn thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm

chất chân quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai chân đất, áo

nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy bằng cách đọc diễn cảm, HS

có thể hiểu được sự đồng cảnh, cùng chung giai cấp chính là cơ sở, là cái gốc

hình thành nên tình đồng chí.

Đối với tác phẩm Làng

GV hướng HS đến với tác phẩm bằng các hình thức nghệ thuật nhằm gây

ấn tượng cho HS, thôi thúc các em tích cực khám phá chiếm lĩnh tri thức.

Để các em dễ cảm nhận về cuộc sống của người nông dân miền xuôi, GV

nên sưu tầm và cho HS xem những tranh ảnh về đời sống bình dị của người

miền xuôi từ đó có những cảm nhận ban đầu về tính cách, suy nghĩ của các nhân

vật trong tác phẩm.

Cho HS thay phiên nhau đọc và chia nhóm, thi đua nhau học tập.

Đọc diễn cảm cũng là một cách thức đem lại cho HS những rung cảm ban

đầu về tác phẩm. Song, kĩ năng đọc đúng, đọc hay là bắt buộc đối với tất cả HS

nhưng kĩ năng đọc diễn cảm không phải là kĩ năng mà tất cả HS đều đạt được vì

trước hết nó liên quan đến chất giọng và năng khiếu. Vì vậy người GV phải

phát huy được sức mạnh của nghệ thuật đọc diễn cảm để giờ văn không bị rời

rạc, khô khan.

Để đạt kết quả cao trong dạy học văn nói chung, không thể thiếu được các

hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên cần phải lựa chọn và kết hợp những hình thức

nghệ thuật phù hợp và biết phân bố thời gian hợp lý cho từng hoạt động để đạt

kết quả cao nhất.

2.2.3. Xây dựng tình huống có vấn đề bằng hệ thống câu hỏi gợi mở

Xác định được vấn đề và xây dựng các tình huống có vấn đề thông qua hệ

thống câu hỏi gợi mở là điều cốt lõi của dạy học nêu vấn đề. Bản chất của dạy

học nêu vấn đề là đặt ra những câu hỏi đan xen trong đó những tình huống có

chứa đựng mâu thuẫn và đòi hỏi phải giải quyết, thông qua giải quyết mâu thuẫn

HS sẽ phát triển tư duy và tìm ra vấn đề ẩn trong những tình huống GV đã đưa

ra. Bởi HS miền núi tư duy chậm, không đồng đều nên trong dạy học văn nói

31

chung cần đưa ra những câu hỏi gợi mở để kích thích, gợi dẫn các em tư duy tìm

ra câu trả lời đúng.

Tác phẩm văn học nào cũng có vấn đề nhưng không phải bất cứ vấn đề

nào trong tác phẩm cũng trở thành tình huống có vấn đề. Một giờ giảng văn, một

bài phân tích văn học muốn thành công, nhất thiết phải xây dựng được một hay

những tình huống có vấn đề và được HS tiếp nhận một cách có ý thức. Tình

huống có vấn đề thường được xây dựng trong ý thức của HS. Tạo được một tình

huống có vấn đề trong giờ đọc - hiểu là tạo ra một trạng thái tâm lí văn học cần

thiết để mở đầu cho quá trình dạy văn đạt hiệu quả. Xây dựng được tình huống có

vấn đề trong dạy văn, là một hoạt động sư phạm phù hợp với quy luật cảm thụ

văn học và đặc trưng của văn học. Đồng thời là một phương pháp tiên tiến, hiện

đại, giúp HS vừa lĩnh hội được kiến thức vừa phát triển được năng lực sáng tạo.

Muốn xây dựng được tình huống có vấn đề trước hết phải xây dựng được hệ

thống câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một dung lượng rộng

lớn mang tính chất tích hợp, bao gồm nhiều mối liên hệ giữa các yếu tố, các sự

kiện nhằm sáng tỏ quan điểm chung của tác giả trong tác phẩm.

Xây dựng các tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề là hết

sức cần thiết để phát huy tính năng động, sáng tạo của HS trong giờ học văn,

trong đó có hoạt động phân tích, cắt nghĩa giá trị nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm.

GV phải tạo được những câu hỏi có tính chất phức tạp về nội dung, gợi lên

những mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, giữa cái cũ và cái mới trong

nhận thức của HS, mâu thuẫn giữa nhận thức của HS với tác giả, giữa HS với

nhau về một vấn đề trung tâm nào đó trong tác phẩm. Hệ thống câu hỏi của GV

nên giữ vai trò chủ đạo, định hướng hoạt động nhận thức cho HS, cần tạo điều

kiện thời gian để HS trả lời trọn vẹn câu hỏi. Đồng thời tạo điều kiện tốt để cho

HS vừa trả lời, vừa đặt câu hỏi cho GV khi nảy sinh thắc mắc và GV phải trả lời

các câu hỏi của HS một cách nghiêm túc và trung thực. Không thể đưa ra những

câu hỏi yêu cầu khả năng tư duy cao, liên tưởng rộng đối với HS trung bình. Có

như vậy, HS mới hứng thú thâm nhập vào chiều sâu tận cùng của tác phẩm, mới

32

say sưa đi tìm chiếc chìa khoá để giải mã vấn đề. Và khi tìm được chiếc chìa

khoá ấy, các em sẽ hân hoan, thích thú và tiếp tục leo lên những nấc thang cao

hơn. Tuy nhiên, HS trong lớp có trình độ khác nhau. Do đó, khi tạo những tình

huống có vấn đề, người GV phải đưa ra nhiều loại câu hỏi với những tình huống

ở nhiều mức độ khó - trung bình - dễ phù hợp với đặc điểm tâm lí, trình độ tư

duy, vốn kiến thức của mỗi HS.

Như vậy, việc xây dựng tình huống có vấn đề thông qua hệ thống câu hỏi

gợi mở cho HS là một vấn đề then chốt của việc nâng cao chất lượng dạy đọc -

hiểu các tác phẩm VHVNHĐ cho HS miền núi.

Đối với tác phẩm Đồng chí.

Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người, khi

đọc thơ trữ tình cần phải có cảm xúc và làm rõ hình thức tồn tại, sự diễn đạt

nghệ thuật của tác phẩm. Tác phẩm Đồng chí được viết theo thể thơ tự do, yếu

tố cổ điển và hiện đại hòa quyện vào nhau, giọng thơ trữ tình chính trị xuất hiện

là biểu hiện một cái nhìn, một nỗi niềm tâm trạng, bởi vậy khi dạy, GV cần

hướng dẫn HS nhận diện và theo dõi sự phát triển về mặt cảm xúc của cái tôi trữ

tình, vì cái tôi trữ tình là yếu tố trung tâm của thể loại thơ trữ tình. Do đó hệ

thống câu hỏi phải căn cứ vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Các câu hỏi đưa ra cần đi từ chi tiết đến những vấn đề cơ bản của tác phẩm, vừa

hướng cho HS khám phá những tình huống bất ngờ, vừa kích thích được sự tìm

tòi sáng tạo, phân tích của các em về những tình huống đó để chiếm lĩnh tri thức

và hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm.

Đối với tác phẩm Làng

Truyện ngắn Làng là một tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, súc tích và hàm

nghĩa. Nó gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó

càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc

hả hê, hết băn khoăn. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc

nhất trong đó. Nội dung của tác phẩm là tình yêu làng và lòng yêu nước, tinh

thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư đã được thể hiện

33

chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai. Điều này phù hợp để xây

dựng những câu hỏi khơi gợi cảm xúc, khám phá, phân tích tâm lý nhân vật.

Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ

thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật. Khắc họa nhân vật độc đáo, tình

huống truyện tự nhiên. Yêu cầu các câu hỏi đưa ra phải sát hợp với tác phẩm,

mang tính logic, kích thích hứng thú của HS. Câu chuyện phát triển theo diễn

biến tâm lý của ông Hai vì vậy hệ thống câu hỏi đưa ra phải tuân theo một trình

tự nhất định, có chọn lọc và tránh lan man, khó hiểu, để HS có thể hiểu và trả lời

được trong khi vẫn phải đảm bảo được thời lượng giờ học.

2.2.4. Sử dụng lời bình đúng thời điểm

Phương pháp giảng bình là PPDH truyền thống, từng bị đánh giá là chỉ

truyền thụ thông tin kiến thức một chiều, ít phát huy tính tích cực của người học

cũng như GV khó kiểm soát được những thông tin phản hồi từ phía HS và khó

đánh giá kết quả học tập của HS. Tuy nhiên, với trình độ nhận thức của các em

HS miền núi, nếu như không bình, các em sẽ không cảm nhận được cái hay, cái

đẹp của hình tượng nghệ thuật cũng như khó phát hiện ra những tình huống bất

ngờ, thú vị trong truyện. Chính vì vậy, hầu hết GV dạy văn trên miền núi hiện

nay vẫn thường xuyên sử dụng phương pháp giảng bình, bởi những lời bình hấp

dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cảm thụ cho HS. Trước

hết, nó khiến HS có những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn

chương; sau đến, rèn luyện khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong

văn bản. Biện pháp này cho phép HS phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và

cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của HS, tạo nên sự giao lưu về tình cảm

trong giờ văn. Nhưng người GV chú ý chỉ bình khi HS cảm nhận chưa tới, đánh

giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu

ấn tượng cho HS, tạo nên những xúc cảm thẩm mỹ. Hơn nữa, GV chỉ chọn bình

những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình giá nó giúp

HS nắm được thần thái, linh hồn của văn bản.

Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp giảng bình có kết quả, ngoài những

yêu cầu về hiểu biết, lập trường, quan điểm, tư tưởng tình cảm, sự nhạy bén

34

thẩm mĩ, người GV còn phải có khả năng diễn đạt, phải trau dồi chất giọng,

ngôn ngữ, đòi hỏi người GV có vốn kiến thức thâm hậu, ý tưởng dồi dào, cảm

nhận tinh tế riêng của mình. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng

đánh thức liên tưởng của HS, giúp HS thâm nhập vào thế giới nghệ thuật văn

bản, khơi dậy nơi trái tim non trẻ của các em tình yêu con người và cuộc đời để

các em biết hướng tới những giá trị chân - thiện - mĩ. Chính vì vậy, một giờ đọc

- hiểu sẽ thiếu sức hấp dẫn, thiếu xúc cảm văn học nếu không bình.

Đối với tác phẩm Đồng chí

Người GV nên có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng và bình. Trước khi

bình, GV nên giảng, cắt nghĩa những từ ngữ, những dụng ý nghệ thuật của tác

giả sau đó mới đi vào bình. Khi bình giảng, GV gợi cho HS nhớ về những đêm

trăng sáng, những lần xa quê không nguôi nỗi nhớ mà kí thác nỗi nhớ nhà lên

tạo vật, lên vầng trăng khuya để từ đó cảm nhận nỗi nhớ quê hương bồi hồi, bồn

chồn, bên những người đồng đội, đồng chí trong một không gian bàng bạc của

ánh trăng. GV phải chọn lọc những từ, câu, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật được

xem là "nhãn tự", cho các em thấy được từ lai lịch của người lính chống pháp

đến những cơ sở và biểu hiện của tình đồng chí, cuối cùng làm nổi lên hình ảnh

biểu tượng về người lính cách mạng, đồng thời cho các em thấy rõ cảm hứng về

tình đồng chí đồng đội luôn tồn tại xuyên suốt tác phẩm.

Bình giảng bài thơ Đồng chí, ngoài bình những từ ngữ, hình ảnh, chi tiết

nghệ thuật độc đáo, GV nên hướng đến cảm xúc của cái tôi trữ tình trong sự

chiêm nghiệm, suy tưởng của chủ thể trữ tình thể hiện qua nhân vật trữ tình.

Đối với tác phẩm Làng

GV nên bình giảng hành động, suy nghĩ, những câu nói có ý nghĩa nói lên

tư cách, bản chất của ông Hai. Nhân vật văn học chính là hình ảnh của con

người ngoài đời thực. Vì vậy HS phải hiểu và đồng cảm với hoàn cảnh của nhân

vật thì mới hiểu được lời bình của GV. Vì vậy, GV phải gợi lên những tình

huống của nhân vật, liên hệ với tình huống ngoài đời thực về tình yêu quê

hương, yêu làng quê bình dị của mình để từ đó có những lời bình thích đáng,

xuất phát từ những rung động sâu xa, chân thật của tâm hồn. Nó làm cho rung

35

động của nhà văn nay hiện hình trong tâm hồn của học sinh. Học sinh nghĩ về

nhân vật, về văn bản là đang nghĩ về chính nỗi lòng mình. Chẳng hạn, phải bình

và giảng sao cho HS hiểu được đặc sắc nghệ thuật của truyện là tạo dựng được

tình huống hay, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật hợp lý và sử dụng ngôn ngữ

quần chúng sinh động hấp dẫn. Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân có dung

lượng khá lớn, nhưng nội dung, ý nghĩa lại ngắn gọn, sâu sắc. Vì vậy người GV

phải có sự chắt lọc và thẩm thấu văn chương để có được lời bình sâu, gọn làm

cho giờ đọc hiểu trên lớp vừa tiết kiệm được thời gian vừa khơi gợi sức suy

tưởng của HS. Qua lời giảng bình của GV, HS có thể có những giây phút sống

với hình tượng tác phẩm, đó là lúc HS bị lời giảng của GV thu hút, từ đó nảy

sinh trong thế giới nội tâm của mình những xúc cảm yêu thương, căm giận,

những khát khao hy vọng đầy ý nghĩa trong cuộc sống.

2.2.5. Phát huy tinh thần đối thoại trong giờ dạy và học tác phẩm VHVNHĐ

Phát huy tính tích cực, chủ động của HS, coi HS là bạn đọc sáng tạo là tiêu

chí quan trọng hàng đầu trong đổi mới PPDH văn trong nhà trường. Đặc biệt là

với đối tượng HS dân tộc thiểu số, vì đa số các em rất nhút nhát, dè dặt khi phải

đưa ra ý kiến riêng của mình về vấn đề nào đó, hơn nữa trình độ cảm thụ cũng

như phân tích vấn đề của các em nhìn chung còn kém. Theo đó, giờ dạy - học

văn với các em nên là những cuộc đối thoại bình đẳng, phong phú và sinh động

trong không khí học tập cởi mở. Trước hết là giữa trò và trò bằng cách phân chia

nhóm để các em giao tiếp với nhau, nói lên suy nghĩ của mình với các bạn trong

nhóm, sau đó khuyến khích các em mạnh dạn nói lên tiếng nói cảm nhận, những

rung động nghệ thuật của mình trước cả lớp.

Giờ học mang tính hợp tác là giờ học mà ở đó người GV và HS, giữa các

em HS phải có sự tương tác lẫn nhau. Trong đó, GV có nhiệm vụ gợi mở, dẫn

dắt HS đi từ những cảm xúc thẩm mĩ vốn còn mờ nhạt, chưa định hình thành

những xúc cảm thẩm mĩ sâu sắc, đúng hướng. Bằng con đường đối thoại gợi

mở, HS được đối thoại với GV, với nhà văn, với các bạn trong lớp, với chủ thể

trữ tình, HS có một khoảng tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình, có

được không khí tâm tình, trao đổi thân mật, bổ xung cho nhau những kiến thức

36

còn thiếu hụt về những vấn đề trong cuộc sống do nhà văn nêu lên. Mối liên hệ,

tương tác giữa Nhà văn - GV - HS được hình thành ngay trong lớp học, GV phải

xác định được những vấn đề trọng tâm, mở ra những khả năng trả lời đa dạng,

kích thích HS tư duy sáng tạo, bộc lộ quan điểm và bày tỏ với người khác.

Những tình huống GV đưa ra vừa không thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với

trình độ tiếp nhận của HS, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất quá

nhiều thời gian. Tuy nhiên để biện pháp này phát huy hết ưu điểm thì người GV

cần chú ý định hướng, khái quát kịp thời và điều khiển để cuộc đối thoại không

biến thành cuộc tranh cãi, khiến giờ học trở nên căng thẳng.

Một trong những hình thức đối thoại đưa lại hiệu quả cao cho HS chính là

để HS nhập vai vào tác giả, vào vai nhân vật để các em cảm nhận, hình dung ra

hoàn cảnh, tâm tư,tình cảm của nhà văn hoặc nhân vật, từ đó bộc lộ tiếng nói

đồng cảm và có cái nhìn khách quan, đúng dắn về tác phẩm. Điều quan trọng để

hình thành nên nội dung đối thoại, tương tác cơ bản là GV phải giúp HS tìm ra

và thảo luận xung quanh những vấn đề chưa rõ, những tình huống có vấn đề trong

tác phẩm. Những vấn đề đó có thể là chủ đề, tư tưởng, tên tác phẩm, tên nhân vật,

cách diễn đạt, những kết hợp ngữ pháp khác thường trong văn bản tác phẩm.

Đối với tác phẩm Đồng chí

Khi dạy bài Đồng chí, GV có thể cho HS tranh luận về những khuynh

hướng cảm thụ bài thơ. Có người cho đây là bài thơ mang cảm hứng về tình

đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng trong kháng chiến chống

Pháp. Có người thấy bài thơ mang cảm hứng về nỗi gian khổ mà lãng mạn của

cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Một số người lại cho rằng đây là bài thơ

mang cảm hứng về niềm lạc quan chiến thắng... Vậy HS sẽ chọn phân tích bài

thơ theo hướng nào? GV để HS thảo luận với nhau, tìm những cơ sở minh

chứng cho lựa chọn của mình. Mỗi HS sẽ có quan điểm, cách hiểu khác nhau về

bài thơ dựa vào sự cảm nhận, phân tích của mỗi cá nhân cho nên không thể nói

rằng em này đúng, em này sai mà điều quan trọng phải hướng cho các em đi từ

nội dung bài thơ rồi mới tìm đến được cảm hứng chung của bài. Mở đầu là những

câu thơ giới thiệu về lai lịch của người lính chống Pháp, tiếp theo là những cơ sở và

37

biểu hiện của tình đồng chí. Cuối cùng là hình ảnh biểu tượng của người lính Cách

mạng. Từ đó các em sẽ thống nhất được cảm hứng chính của bài thơ là cảm hứng về

tình đồng chí đồng đội của người lính Cách mạng trong kháng chiến chống Pháp.

Nên để HS hóa thân vào nhân vật để cảm nhận được tinh thần đồng chí đồng

đội của những người lính luôn dâng cao, và chính tinh thần đó đã giúp họ vượt

lên mọi gian khổ. Từ đó, HS nói lên cảm nghĩ của mình về bài thơ, cũng như

trình bày sự hiểu biết về tác giả Chính Hữu. Đây là một trong những yếu tố kích

thích tính đối thoại của HS. GV đặt vấn đề, HS cùng thảo luận đưa ra ý kiến

riêng, rồi GV lại phân tích và hướng các em đến đáp án đúng nhất.

Đối với tác phẩm Làng

GV cho HS đọc tác phẩm để nảy sinh tương tác với tác giả về giá trị nghệ

thuật, hình tượng nghệ thuật, tính cách nhân vật, tình huống truyện và đối thoại

với chính mình để xác lập mối quan hệ giữa ý đồ sáng tác của tác giả với tri

thức, kinh nghiệm của chính bản thân mình. GV có thể yêu cầu HS đặt mình vào

vị trí ông Hai khi gặp tình huống như trong truyện. Đối với tình huống này, HS

sẽ có sự tương tác nhiều chiều với GV và các HS khác, tiếp xúc với những quan

niệm, điểm nhìn, cách lí giải khác, của đối phương. Qua đó, mọi cách nhìn nhận

thiếu sót, chưa thỏa đáng sẽ được lấp đầy từ những ý kiến của GV và các bạn.

Hoạt động nhóm, hỗ trợ, tương tác nhau trên lớp không chỉ tạo điều kiện

phát triển năng lực cá nhân của HS, hình thành ở các em thói quen có tiếng nói

riêng trước những vấn đề do nhà văn - tác phẩm đặt ra, biết lắng nghe và trân

trọng ý kiến của người khác, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động trong

việc tiếp thu bài, mở rộng và phát triển tư duy cho HS, khiến cho những vấn đề

đưa ra được nhìn nhận toàn diện hơn, việc tiếp thu kiến thức của HS trở nên tự

nhiên hơn, sâu sắc hơn. Sử dụng kết hợp mối tương tác giữa GV với HS và HS

với HS trong giờ dạy văn sẽ giúp trí tuệ, tình cảm, phong cách người HS được

bộc lộ rõ rệt và ngày càng hoàn thiện hơn.

2.2.6. Củng cố bài học

Việc củng cố bài học trong giờ đọc - hiểu văn rất quan trọng đối với người

học, bởi trong một khoảng thời gian ngắn, củng cố bài học giúp HS có cái nhìn

38

tổng thể về bài học, một mặt HS tự đánh giá được kết quả học tập của mình. Đối

với tác phẩm vừa học các em tự rút ra được điều gì, và còn điều gì phải nhờ GV

chốt lại mình mới vỡ ra được, từ đó điều chỉnh phương pháp học của mình để

đạt hiệu quả. Qua sự tự tổng kết và việc củng cố bài của GV, các em sẽ nắm

vững và khắc sâu kiến thức hơn.

Tuy nhiên khâu củng cố bài diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, lại là lúc

cuối giờ, các em sẽ mất trật tự và bị phân tán tư tưởng. Do đó, GV phải vừa

quản lý lớp thật tốt vừa thực hiện việc củng cố bài sao cho nhanh, gọn, hấp dẫn,

để lôi cuốn được các em tham gia có hiệu quả khâu cuối cùng của giờ học.

GV có thể củng cố bằng nhiều cách như tự đặt ra những câu hỏi trên cơ sở

nội dung bài học để tự trả lời, hoặc có thể củng cố bài học bằng cách thiết kế và

sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức cho HS dễ ghi nhớ.

Ngoài ra, ta có thể làm thêm một số bài tập với mức độ từ dễ đến khó hoặc

cho HS làm bài tập trắc nghiệm để củng cố kiến thức lẫn thao tác khi làm bài

tập, kết hợp với việc liên hệ so sánh kiến thức bài mới được học với những bài

đã học để có cái nhìn tổng quan nhất, tránh nhầm lẫn và thiếu sót khi thực hành.

Củng cố bài học bằng cách tổ chức các trò chơi. Hình thức này tạo sự vui

vẻ, sôi động cho các em nhưng sẽ mất nhiều thời gian và phải áp dụng tùy vào

từng bài thích hợp, vì vậy trò chơi nên tổ chức một cách đơn giản.

GV sâu chuỗi lại kiến thức bằng cách ra một số câu hỏi về nội dung bài học

cho HS tự trả lời lần lượt để tổng kết lại kiến thức.

Khâu củng cố kiến thức khơi dậy HS sự so sánh lẫn nhau xem ai nắm bắt

bài tốt hơn từ đó tạo hứng thú, khuyến khích HS thi đua học tập đạt kết quả tốt.

Đối với các em HS miền núi, đặc biệt là HS dân tộc thiểu số bước củng cố

bài rất quan trọng, không thể bỏ qua được. Vì có những em trong quá trình GV

giảng bài không chú ý, hoặc chú ý nhưng vẫn không xác định được đâu là nội

dung chính, quan trọng nhất của bài, nhưng đến phần củng cố bài các em sẽ nắm

được bằng sự tổng kết của GV.

39

Đối với tác phẩm Đồng chí

Chủ đề về người lính Cách mạng, về tình đồng đội là chủ đề lớn không chỉ

có ở chương trình lớp 9, mà các em còn gặp nhiều ở những bậc học cao hơn vì

vậy cần khắc sâu kiến thức để sau này các em không bị nhầm lẫn với các tác

phẩm khác.

GV có thể sử dụng một trong các hình thức vừa nêu. Đối với HS lớp 9, một

tác phẩm thơ trữ tình như Đồng chí, thì việc tóm lại xem nên ghi nhớ những gì,

không phải điều dễ. Vì vậy GV cần định hướng cho HS khắc sâu kiến thức bằng

cách yêu cầu HS nêu ấn tượng chung nhất sau khi học là gì. Điều các em ấn

tượng nhất cũng chính là nội dung của bài. GV có thể sử dụng câu hỏi tái hiện,

liên tưởng, tưởng tượng để các em hình dung ra và hiểu được hoàn cảnh và tình

đồng chí của người lính cụ Hồ thời chống Pháp ra sao.

Đối với tác phẩm Làng

Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân viết chỉ có tình huống truyện và diễn

biến tâm lí nhân vật chứ không có cốt truyện nên HS dễ lơ mơ, khó nhớ nội

dung vì vậy sau khi tìm hiểu xong tác phẩm cần phải củng cố lại cho các em ghi

nhớ nội dung chính bằng cách đưa ra câu hỏi tái hiện, cho các em tự nói lên

những điều ấn tượng nhất còn đọng lại sau khi học, rồi GV hệ thống lại ý chính

một lần cho các em nắm chắc bài.

Như vậy, để nâng cao chất lượng dạy học các tác phẩm VHVNHĐ, chúng

tôi đã đề xuất những biện pháp cụ thể như: Tạo hứng thú, kích thích nhu cầu học

tập cho HS, xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở, sử dụng lời bình đúng lúc, tăng

cường hoạt động đối thoại, chú trọng thực hiện củng cố bài... Tuy nhiên, đây chỉ

là kết quả của quá trình nghiên cứu, khảo sát, tổng hợp mang tính lí thuyết. Việc

các giải pháp trên có thực sự đi vào thực tiễn và đạt những kết quả khả quan hay

không còn tùy thuộc vào nghệ thuật lên lớp và kĩ năng sư phạm của người GV.

Đồng thời, qua tìm hiểu thực trạng dạy và học tác phẩm VHVNHĐ của GV

và HS ở các trường THCS trên địa bàn huyện Văn Yên, chúng tôi đề ra những

biện pháp chung và những giải pháp cụ thể nhằm cải thiện tình hình dạy học văn

ngày một khả quan hơn cũng như góp phần nâng cao chất lượng dạy đọc - hiểu

40

các tác phẩm VHVNHĐ. Do đó, trong dạy học văn nói chung, dạy học các tác

phẩm VHVNHĐ nói riêng, người GV phải biết chắt lọc ưu điểm của mọi biện

pháp, đem vào sử dụng nhuần nhuyễn như một kĩ năng tạo thành một hợp lực để

đạt đến hiệu quả tối ưu cho giờ dạy mà không loại trừ phương pháp nào cả. Vấn

đề quan trọng là khi sử dụng các phương pháp, người GV phải tính toán kĩ lưỡng,

bảo đảm giờ văn đưa lại cho HS sự phát triển cân đối cả về trí tuệ lẫn tâm hồn.

2.3. Sau giờ học

2.3.1. Rèn luyện thói quen học bài ở nhà

Các em HS miền núi thường không có điều kiện tổ chức học thêm trên lớp.

Vì vậy tự học bài ở nhà là hình thức học tập không thể thiếu được. Hoạt động tự

học ở nhà sau giờ học trên lớp cần được tổ chức một cách hợp lý, khoa học, để

đạt hiệu quả.

Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, HS cần tự rèn luyện

phương pháp tự học sau giờ lên lớp, đây không chỉ là một phương pháp ôn bài

nhằm nâng cao hiệu quả học tập mà còn là một mục tiêu quan trọng của học tập.

Phát huy tính tích cực học tập một cách chủ động, sáng tạo được xem như một

nguyên tắc của quá trình dạy học, đã được nói đến từ lâu và được phát triển

mạnh mẽ trên thế giới từ các thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX. Ở nước ta, vấn đề

này cũng đã được quan tâm và xác định là một trong những định hướng đổi mới

PPDH ở trường phổ thông hiện nay.

Muốn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì cần rèn

luyện phương pháp học tập cho HS, coi đây không chỉ là phương tiện nâng cao

hiệu quả dạy học mà là mục tiêu quan trọng của dạy học. Nói tới phương pháp

học thì cốt lõi là phương pháp tự học. HS cần nắm bắt được cách ôn bài, năng

lực học tập toàn diện và các kỹ năng quản lý thời gian, tạo động lực,... để tạo

cho mình một cách học riêng và hiệu quả trong học văn.

Bên cạnh Phương pháp học của HS thì việc giao kiểu bài tập nào cho HS để

tạo được hứng thú cho các em, khiến các em cảm thấy phù hợp với khả năng của

mình là điều rất quan trọng. Nó quyết định đến việc các em có làm bài tập hay

không và chất lượng thế nào. Đối với cả hai tác phẩm Đồng chí (Chính Hữu),

41

Làng (Kim Lân) thì nên giao cho các em một số câu hỏi trắc nghiệm. Đồng thời

cũng nên giao thêm câu hỏi có mức độ khó hơn cho các em học sinh khá giỏi.

Nếu làm được như vậy thì các em học lực trung bình sẽ rất hào hứng làm bài trắc

nghiệm, còn các em HS khá giỏi cũng có cơ hội phát triển năng lực của mình.

Điều cần chú ý là nên giao lượng bài tập vừa phải cho HS có đủ thời gian

làm. Hơn nữa nếu cho nhiều câu trắc nghiệm quá thì các em sẽ ngại làm hoặc có

tư tưởng chép lại đáp án của các bạn khác. Tuy nhiên lượng thời gian giành cho

việc giao bài tập là rất ít, lại vào cuối giờ, nên dù ít câu trắc nghiệm nhưng cộng

cả các phương án trả lời thì vẫn mất vài phút. Vì vậy GV có thể chủ động phô tô

các bài tập trắc nghiệm phát cho HS, để các em đỡ mất nhiều thời gian chép bài.

2.3.2. Đối với việc ôn lại bài mới học xong trên lớp

Sau mỗi buổi học, GV nhắc nhở HS về nhà học lại ngay bài vừa học trên

lớp, ngày nào học bài ngày đấy, không nên để lâu mới ôn lại. Khi các em ôn lại

luôn như vậy, nếu có quên phần kiến thức nào, sẽ hình dung lại được cả lời cô

giảng trong giờ học, những ấn tượng đó giúp khắc sâu kiến thức hơn. Ôn bài cần

kết hợp trả lời các câu hỏi trong SGK vì câu hỏi trong SGK chính là gợi dẫn đi

đến nội dung của bài. Lưu ý HS rèn cho mình thói quen nắm ý chính, có khả

năng diễn đạt lại theo ý mình chứ không nên học vẹt những gì ghi trong vở. Có

như vậy các em mới thực sự làm chủ kiến thức.

Các em ôn lại bài ngay trong ngày để ghi nhớ kiến thức được lâu, vì kiến

thức vừa học vẫn còn nhớ, lại được ôn ngay sẽ khắc sâu vào trí nhớ của người

học, giúp các em vận dụng vào giải những bài tập có liên quan đến bài dễ dàng

hơn. Đồng thời giúp các em vận dụng một cách hiệu quả vào cuộc sống hàng

ngày. Tuy nhiên, HS thường chỉ tập trung học nhồi ngay trước khi có bài thi

hoặc kiểm tra, dẫn đến những kiến thức đã học từ lâu, đã lãng quên, nay mới

được ôn lại khiến HS tưởng như kiến thức mới, ôn lại bài mà như học bài mới

nên các em sẽ rất ngại học. Vì vậy, việc phân phối thời gian học tập hợp lý sẽ

hiệu quả hơn nhiều, đặc biệt chú trọng ôn lại bài cũ ngay trong ngày để tích lũy

kiến thức qua từng bài học, biến tri thức trở thành vốn sống chứ không phải chỉ

là phương tiện để các em sử dụng trong thi cử.

42

Tuy nhiên có điểm cần lưu ý là GV chỉ nên giao một số bài tập về nhà sao

cho phù hợp với khả năng của từng bộ phận HS. Bởi HS miền núi, các em

không có thời gian nhiều cho việc học ở nhà do phụ huynh không tạo điều kiện

để các em có nhiều thời gian học bài, thời gian ngoài giờ học còn phải phụ giúp

gia đình việc nhà, nương rẫy. Vì vậy nếu giao nhiều bài tập thì các em sẽ cảm

thấy áp lực, nặng nề, không thể hoàn thành hết bài. Giao bài quá khó so với năng

lực thì các em sẽ không biết làm, từ đó sinh ra ngại học, tâm lý chán nản khi

nghĩ đến đi học. Thậm chí các em học kém còn cho rằng làm những bài tập khó

là không phải việc của mình.

2.3.3. Đổi mới cách ra đề kiểm tra

Muốn nâng cao chất lượng học văn cho HS miền núi thì cần phải tập trung,

nỗ lực, đầu tư nhiều thời gian, trí tuệ, vào khâu đổi mới cách thức kiểm tra đánh

giá học sinh. Trước hết chúng ta phải hiểu kiểm tra đánh giá là bộ phận không

thể tách rời của quá trình dạy học bởi đối với người giáo viên, khi tiến hành quá

trình dạy học phải xác định rõ mục tiêu của bài học, nội dung và phương pháp

cũng như kỹ thuật tổ chức quá trình dạy học sao cho hiệu quả. Muốn biết có

hiệu quả hay không, người giáo viên phải thu thập thông tin phản hồi từ học sinh

để đánh giá và qua đó điều chỉnh phương pháp dạy, kỹ thuật dạy của mình và

giúp HS điều chỉnh các phương pháp học. Như vậy, kiểm tra đánh giá là bộ phận

không thể tách rời của quá trình dạy học và có thể nói kiểm tra đánh giá là động

lực để thúc đẩy sự đổi mới quá trình dạy và học. Đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ là

động lực thúc đẩy các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới

cách thức tổ chức hoạt động dạy học, đổi mới quản lý….

Nếu thực hiện được việc kiểm tra đánh giá hướng vào đánh giá quá trình,

giúp phát triển năng lực người học, thì lúc đó quá trình dạy học trở nên tích cực

hơn rất nhiều. Đánh giá phải tạo ra sự phát triển, phải nâng cao năng lực của

người học, tức là giúp các em hình thành khả năng tự đánh giá, đánh giá lẫn

nhau… để phát triển năng lực tự học. Hiện nay rất nhiều giáo viên, các cán bộ

quản lý giáo dục chưa thấu hiểu triết lý đánh giá, chủ yếu mới chỉ tập trung vào

đánh giá kết quả học tập, để xếp loại học sinh…

43

Dạy học tích cực và đánh giá tích cực liên quan đến nhau thế nào. Đổi mới

kiểm tra đánh giá có hướng đến thúc đẩy quá trình dạy học tích cực. Nhưng

quan trọng nhất là tổ chức cho học sinh thực hiện những hoạt động và trên cơ sở

những hoạt động ấy làm cho học sinh khám phá, trải nghiệm, tương tác, để rồi

làm chủ được những tri thức, kỹ năng và thay đổi thái độ, tạo dựng được hứng

thú, niềm tin và trên cơ sở đó là biến đổi chính chủ thể là người học. Dạy học tích

cực phải hình thành ở người học năng lực quan sát, thu thập thông tin, năng lực tự

đánh giá, năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực trình

bày miệng, năng lực tạo ra sản phẩm… Tuy nhiên tất cả các năng lực ấy đều phải

được thể hiện, phản hồi trong quá trình đánh giá. Nếu nhìn nhận theo góc độ như

vậy thì việc đổi mới cách ra đề, kiểm tra đánh giá là vô cùng quan trọng.

Thứ hai, GV nên để hoạt động kiểm tra đánh giá diễn ra trong suốt quá

trình dạy học, khi bắt đầu dạy, GV nên nói cách thức kiểm tra đánh giá thế nào

để cho HS chủ động đáp ứng yêu cầu kiểm tra đánh giá.

Thứ ba, kiểm tra đánh giá diễn ra dưới rất nhiều hình thức, dưới dạng trò

chơi, các bài tập về nhà, bài luận ngắn… tùy theo đặc điểm của từng bài để

đánh giá tập trung vào lượng giá cho được các năng lực thành phần hay những

kỹ năng thành phần. Ví dụ kỹ năng khám phá tìm kiếm thông tin, kỹ năng xử lý

thông tin, năng lực đưa ra những lời nhận xét, năng lực đánh giá lẫn nhau, năng

lực sáng tạo…

Tóm lại, GV phải tìm ra những kỹ năng, năng lực bộ phận cấu thành nên sự

thành công cho người học trong tương lai để lồng vào các bài kiểm tra, bài thi,

bài tập về nhà hay thể hiện qua sản phẩm của người học. Và GV cần đa dạng

hóa tối đa các hình thức đánh giá như đánh giá bằng nhận xét “tích cực”, đánh

giá qua hồ sơ, đánh giá bằng sản phẩm của chính HS ngay sau khi học… đánh

giá xác thực, cho phép những cái đó thay thế hoặc bổ sung vào các hình thức

đánh giá hiện đang áp dụng kiểu như bài kiểm tra 15 phút, kiểm tra miệng, 1 tiết.

Không chỉ có thế, GV cần được hướng dẫn kỹ các lý thuyết dạy học tích cực với

các hình thức đánh giá đa dạng: thông qua trò chơi, yêu cầu HS suy nghĩ trả lời

ngắn, trải nghiệm, đánh giá bằng việc cho HS viết ra những suy nghĩ, nhận xét,

44

mô tả các cảm xúc,viết bài luận ngắn để thuyết trình… Và phương pháp, kỹ thuật,

hình thức đánh giá HS càng đa dạng, HS càng hứng thú, tự tin trong học tập.

Định hướng chung của việc đổi mới ra đề kiểm tra là theo hướng đề mở

(tự luận) kết hợp với đề kiểm tra trắc nghiệm. Thiết kế đề thi kiểu câu hỏi mở để

tránh HS học tủ, học vẹt.

Với những đề kiểm tra thú vị như vậy HS không cần phải học thuộc và lúc

đó tất cả vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết của HS được huy động. Kiểu đề thi

mở giúp HS có cơ hội thể hiện bản thân, giúp các em bộc lộ những suy nghĩ

khác nhau, sáng tạo. HS không phải học thuộc quá nhiều mà vẫn thể hiện được

năng lực của cá nhân. Đề thi mở, phù hợp với dạy học ở miền núi, bởi nó cho

phép HS khám phá, phát hiện sự vật hiện tượng theo cách nhìn mới, sáng tạo…

2.3.4. Thường xuyên cung cấp những thông tin phản hồi hữu ích đến học sinh

GV nên thường xuyên cung cấp những thông tin phản hồi đến phía HS.

Nhất là sau những hoạt động ngoại khóa, nên nhận xét, khen, chê kịp thời để các

em biết mình đã làm tốt hay chưa, đồng thời các em thấy rằng hoạt động của

mình luôn được thầy cô dõi theo và ghi nhận, từ đó có ý thức vươn lên trong học

tập. GV nên phản hồi về các bài tập về nhà, bài tập thêm và các bài kiểm tra

càng sớm càng tốt. Một bài kiểm tra không nên để lâu quá mới trả, vì để lâu quá

HS thậm chí không nhớ nổi câu hỏi, hay đề bài mình đã làm là gì nữa. Khi GV

trả bài sau một thời gian dài giữ bài các em thì HS không có hứng thú nghe nhận

xét bài nữa vì bầu nhiệt huyết, háo hức muốn biết kết quả mình làm ra sao có từ

lúc mới nộp bài đến nay đã nguội lạnh mất.

Điểm số đã phần nào phản ánh mức độ bài làm của HS, nhưng chính những

nhận xét của GV mới là cái cụ thể giúp HS thấy được ưu nhược điểm của mình.

Thậm chí một bài làm để khảo sát chất lượng, một bài kiểm tra dù không lấy

điểm vẫn nên cho học sinh biết kết quả ra sao để các em điều chỉnh phương

pháp học hợp lý.

Khi cung cấp thông tin phản hồi đến HS như vậy, GV cần khéo léo, tế nhị

góp ý, tránh tình trạng chê bai hay khen ngợi, tán dương quá mức. Đồng thời

cũng có thể nhận xét ngay trên lớp, cho các em có bài làm tốt chia sẻ với các bạn

45

trong lớp để các em phấn khởi, tự hào về sự cố gắng của mình hoặc các em kém

hơn tự dặn mình phải cố gắng để bằng các bạn khác. GV nên động viên HS tập

trung vào mục đích học tập là để trau đồi tri thức chứ không phải chỉ vì điểm số.

Bên cạnh đó, GV cũng cho HS nói lên ý kiến của mình về bài viết hoặc bài

học vừa xong. Điều này thể hiện sự quan tâm, lắng nghe của GV đối với HS.

Như vậy các em sẽ thấy mình là chủ thể của giờ học, đã chiếm lĩnh được tri thức

sau mỗi bài học.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Như vậy ở phần chương 2, chúng tôi đã đưa ra hệ thống những biện pháp

nhằm nâng cao chất lượng dạy đọc hiểu tác phẩm VHVNHĐ nói chung, hai tác

phẩm Đồng chí và Làng nói riêng cho HS lớp 9 miền núi. Luận văn đã dựa vào

quá trình tổ chức bài học qua ba giai đoạn trước giờ học, trong giờ học và sau

giờ học, đưa ra các biện pháp tương ứng: Chuẩn bị trước giờ học, biện pháp

trong giờ học và những hoạt động sau giờ học. Những biện pháp đó được thể

hiện cụ thể trong quá trình dạy học như: Hướng dẫn HS làm việc với SGK,

hướng dẫn HS sử dụng tài liệu phục vụ cho bài học và xây dựng một hệ thống

câu hỏi cần và đủ để HS chuẩn bị bài. Tiếp đến là các biện pháp tạo ra hứng thú,

nhu cầu học tập, cảm nhận tác phẩm bằng các hoạt động nghệ thuật, xây dựng

một hệ thống câu hỏi có ý nghĩa tích cực hóa người học để phối hợp tương tác

GV – HS - HS. Cuối cùng là rèn luyện thói quen học, làm bài ở nhà, đổi mới

cách ra đề kiểm tra và thường xuyên cung cấp những thông tin phản hồi hữu ích

đến HS. Những định hướng và biện pháp trên chính là giải pháp lí thuyết cho đề

tài và là cơ sở cho giải pháp thực tế ở chương 3.

46

CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

3.1. Thiết kế thể nghiệm giáo án dạy đọc hiểu hai tác phẩm Đồng chí và

Làng cho học sinh lớp 9 huyện Văn Yên - Yên Bái

3.1.1. Yêu cầu thể nghiệm

Vận dụng các biện pháp dạy đọc hiểu như đã định hướng vào việc thiết kế

giáo án hai bài học Đồng chí và Làng.

3.1.2. Mục đích thể nghiệm

Thứ nhất, sử dụng các biện pháp như đã nghiên cứu vào việc thiết kế giáo

án thể nghiệm nhằm kiểm chứng sự phù hợp, độ khả thi trong việc dạy học hai

bài Đồng chí và Làng cho học sinh lớp 9 ở Văn Yên – Yên Bái.

Thứ hai, thiết kế thể nghiệm phải thực hiện song song với việc thu thập

thông tin phản hồi từ phía giáo viên và học sinh, kịp thời chỉnh sửa, bổ sung

nhằm hoàn thiện sao cho phù hợp với năng lực tiếp nhận của học sinh miền núi

để nâng cao chất lượng dạy – học.

Thứ ba, có thể xem thiết kế thể nghiệm hai bài Đồng chí và Làng làm cơ

sở cho việc ứng dụng xây dựng nhiều thiết kế dạy học khác đạt hiệu quả cao

trong dạy học tác phẩm văn chương cho học sinh miền núi nói chung.

3.1.3. Đối tượng thể nghiệm

1. Văn bản Đồng chí – Chính Hữu, Ngữ văn 9 tập 1

2. Văn bản Làng – Kim Lân, Ngữ Văn 9 tập 1

3.1.4. Nội dung thể nghiệm

* Đối với giáo viên :Tiến hành khảo sát giáo án và giờ dạy hai bài Đồng chí và

Làng, trao đổi, phỏng vấn, dùng phiếu điều tra với giáo viên dạy lớp thực

nghiệm để nắm được tình hình giảng dạy hiện nay.

Giáo viên tiến hành thực nghiệm giáo án.

Trao đổi kinh nghiệm về hiệu quả đạt được sau giờ học thực nghiệm, rút

kinh nghiệm để hoàn thiện thiết kế giáo án.

47

*Đối với học sinh

Khảo sát tình hình học tập của học sinh thông qua: phỏng vấn, phiếu điều

tra, khảo sát vở ghi, quan sát các hoạt động học tập trên lớp, xem xét hiệu quả

bài kiểm tra về sự tiếp nhận của học sinh sau giờ học.

So sánh, đối chiếu kết quả ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá

kết quả thực nghiệm.

3.1.5. Thiết kế thể nghiệm

3.1.5.1.Trước giờ học

* Hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa:

Định hướng cho HS làm việc với SGK là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng

hơn so với các loại sách tham khảo khác. Làm việc với sách giáo khoa có thể

được tiến hành theo các nội dung sau:

a, HS nắm được tên tác phẩm, tên tác giả và đọc phần tiểu dẫn.

b, Đọc sơ bộ văn bản tác phẩm, xuất phát từ cảm nhận ban đầu để phát

hiện cảm hứng của tác phẩm.

c, Đọc chú thích để hiểu, bổ sung những kiến thức khó, lạ trong nhận thức.

d, HS đọc lại phần kết quả cần đạt để so sánh với cảm nhận ban đầu mình

có được sau khi đọc tác phẩm, có sự định hướng đúng cho cảm nhận ở bước sau.

đ, Đọc chậm, đọc kỹ lại một hay nhiều lần nhằm phát hiện về nội dung,

nghệ thuật và các tầng ý nghĩa trong tác phẩm.

e, Dựa vào văn bản trả lời hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài của SGK.

g, Đọc văn bản lần cuối để kiếm tìm những cảm nhận sâu hơn về một vấn

đề cụ thể nào đó trong tác phẩm.

*Định hướng cho học sinh sử dụng những tư liệu liên quan đến bài học.

Sự tiếp xúc của HS với các loại sách tham khảo là điều khó tránh khỏi, vì

vậy GV chỉ có thể định hướng HS bằng cách làm cho các em hiểu được:

+ Cảm nhận tự cá nhân chưa có sự tác động của tài liệu bên ngoài là cảm thụ tự

nhiên, trong sáng, mang cá tính sáng tạo luôn đáng được trân trọng.

48

+ Các tài liệu tham khảo chỉ phát huy tác dụng của nó khi HS đã có sự suy nghĩ

nhất định về bài học. Do đó chỉ nên sử dụng những tư liệu liên quan đến bài học

sau khi HS đã làm việc với SGK nhằm bổ sung, khắc sâu thêm kiến thức.

Bên cạnh đó GV có thể cung cấp cho HS những tư liệu quý liên quan đến

bài học. Ví dụ đối với hai tác phẩm Đồng chí và Làng: Giới thiệu thêm về hoàn

cảnh ra đời của bài thơ Đồng chí, hay cập nhật các bài viết mới nhất về nhà văn

Kim Lân và tác phẩm Làng, kết hợp ngay trong nội dung bài giảng để các em có

một cái nhìn bao quát hơn về tác giả, tác phẩm.

*Hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài.

1. Đồng chí

Câu hỏi 1. Những hiểu biết của em về tác giả Chính Hữu?

Câu hỏi 2. Vài nét về bài thơ đồng chí?

Câu hỏi 3. Hãy tìm cơ sở hình thành tình đồng chí trong 6 câu thơ đầu?

Câu hỏi 4. Tình đồng chí được biểu hiện ở những chi tiết, hình ảnh nào trong

bài.?

2. Làng

Câu hỏi 1. Những hiểu biết của em về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà

văn Kim Lân?

Câu hỏi 2. Vài nét về truyện ngắn Làng?

Câu hỏi 3. Tìm tình huống truyện làm bộc lộ tình yêu làng sâu sắc của ông Hai?

Câu hỏi 4. Diễn biến tâm trạng ông Hai:

- Trước khi nghe tin làng ông theo giặc.

- Khi nghe tin làng ông theo giặc.

- Khi tin đồn làng theo giặc được cải chính.

3.1.5.2. Trong giờ học

49

* Giáo án bài “Đồng chí”

Ngày soạn: 16/10/2015

Ngày giảng:19/10/2015

Tiết 46 :Văn bản

Đồng chí

- Chính Hữu -

A. Mục tiêu cần đạt:

Giúp học sinh:

1. Kỹ năng :

- Rèn luyện năng lực cảm thụ và phân tích các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh

trong một tác phẩm thơ giàu cảm hứng hiện thực mà không thiếu sức bay bổng.

- Rèn luyện năng lực đọc diễn cảm bài thơ.

2. Kiến thức:

- Cảm nhận được vẻ đẹp chân thực, giản dị của tình đồng chí, đồng đội và hình

ảnh người lính Cách mạng được thể hiện trong bài thơ.

- Nắm được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm

và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng.

3. Tư tưởng, thái độ

- Khâm phục người lính cụ Hồ.

- Tự hào về truyền thống yêu nước của cha ông.

B. Phương tiện thực hiện

GV: SGK, SGV, giáo án, tài lệu tham khảo.

- HS: SGK, vở ghi, tài lệu tham khảo.

C. Tổ chức các hoạt động

1. Ổn định tổ chức:

2. Kiểm tra bài cũ :

Kiểm tra việc lập bảng tổng kết tiếng Việt

3. Bài mới: “Đồng chí” là một trong số những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất

của Chính Hữu nói riêng và nền thơ kháng chiến nói chung.

- Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tác phẩm để biết được tại sao đã đi

50

qua một hành trình hơn nửa thế kỉ nhưng đồng chí mãi làm đẹp cho một hồn thơ

chiến sĩ – hồn thơ Chính Hữu.

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu I. Tìm hiểu chung

chung. 1. Tác giả

GV: Qua phần chuẩn bị ở nhà, em a. Tiểu sử: Chính Hữu tên khai sinh

hãy giới thiệu đôi nét về tác giả Chính Trần Đình Đắc (1926-2007), quê: Can

Hữu? Lộc – HàTĩnh

HS trả lời - Là nhà thơ quân đội, viết chủ yếu về

GV nhận xét, bổ sung thêm về hoàn người lính.

cảnh ra đời, và tình hình văn học ở - Được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh

thời kì này: về văn học – nghệ thuật.

-1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ b. Tác phẩm chính: Đầu súng trăng

đô và hoạt động trong quân đội suốt treo(1966), Ngọn đèn đứng gác….

hai cuộc kháng chiến chống Pháp và

chống Mĩ.

Ông bắt đầu sáng tác thơ từ năm

1947. thơ ông chủ yếu viết về người

lính và chiến tranh.

GV: Hoàn cảnh ra đời của bài thơ 2. V¨n b¶n: Đồng chí

"Đồng chí"? a. Hoàn cảnh sáng tác:

HS trả lời - Sáng tác năm 1948, sau khi tác giả

GV nhận xét, bổ sung: Đầu năm cùng đồng đội tham gia chiến đấu

1948, Chính Hữu là chính trị viên đại trong chiến dịch Việt Bắc (1947) đánh

đội, ông có nhiều nhiệm vụ nhất là bại cuộc tiến công quy mô lớn của giạc

việc chăm sóc anh em thương binh và pháp trên chiến khu Việt Bắc.

chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, - Lµ t¸c phÈm tiªu biÓu vµ ch©n thùc vÒ

vì làm việc vất vả, nên ông bị ốm ng êi lÝnhCách mạng.

nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã - Bài thơ được in trong tập “Đầu súng

cử một đồng chí ở lại để chăm sóc trăng treo” (1966)

cho Chính Hữu và người đồng đội ấy

51

rất tận tâm giúp ông vượt qua những

khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật.

Cảm động trước tấm lòng của người

bạn, ông đã viết bài thơ “Đồng chí”

như một lời cảm ơn chân thành nhất

gửi tới người đồng đội, người bạn

nông dân của mình.

GV: Qua phần vừa tìm hiểu, em hãy b. Chủ đề

cho biết chủ đề của bài thơ? - Ngợi ca tình đồng chí đồng đội cao cả

HS trả lời của người lính cụ Hồ trong cuộc kháng

GV nhận xét, bổ sung: chiến chống thực dân Pháp

Thơ ông chủ yếu ca ngợi tình đồng

chí đồng đội vượt qua gian khổ của

người lính trong chiến tranh, Đồng

chí là một sáng tác nổi tiếng cuả ông

thuộc mảng thơ này. II Đọc - hiểu bài thơ

1. §äc v¨n b¶n Hoạt động 2: Hướng dẫn HS phân

tích.

GV: Chúng ta vừa tìm hiểu những nét * Đọc: với mạch cảm xúc chậm, lắng

khái quát về tác giả Chính Hữu và bài lại, dồn nén.

thơ Đồng chí, tiếp theo chúng ta sẽ

cùng nhau phân tích để hiểu sâu bài

thơ.

- Giáo viên đọc mẫu - §äc víi giäng

kÓ: nhÞp th¬ biÕn hãa, c©u 7 ®äc l¾ng

s©u, c©u 20: giäng ng©n nga

- hướng dẫn đọc - một học sinh đọc

lại - 1 hs nhËn xÐt.

GV giải thích rõ những chú thích HS

còn vướng mắc

52

* ThÓ th¬ tù do - nhÞp biÕn hãa GV: Bài thơ viết theo thể thơ nào?

HS trả lời - Ph ¬ng thøc: tù sù + biểu c¶m + miªu

t¶. GV nhận xét, bổ xung: bài thơ được

viết theo thể tự do với cảm xúc dồn

nén, ngôn ngữ hàm xúc, cô đọng.

* Sự phân chia bố cục: 3 phần. GV: Theo em bài thơ này chia thành

- Phần 1: Bảy câu thơ đầu - Cơ sở của mấy phần, nội dung chính của từng

tình đồng chí. phần là gì?

- Phần 2: Mười câu thơ tiếp - Biểu HS trả lời

hiện và sức mạnh của tình đồng chí. GV nhận xét, dẫn dắt các em đặt tiêu

- Phần 3: Phần còn lại - Bức tranh đẹp đề cho từng phần.

về hình ảnh người lính trong đem phục

kích giặc.

2. phân tích văn bản GV: Hai câu thơ đầu tác giả đã giới

a. Cơ sở của tình đồng chí. thiệu cho chúng ta biết về hoàn cảnh

“Quê hương anh nước mặn xuất thân của những người lính. Vậy

Làng tôi nghèo...” em thấy hoàn cảnh đó như thế nào?

->NT: đối, thành ngữ, hình ảnh chân -Những hình ảnh trong câu thơ nói

thực lên điều gì về nguồn gốc xuất thân

=> Hoàn cảnh xuất thân có điểm tương của họ ?

đồng: đều là người nông dân lao động -Nhận xét về nghệ thuật?

nghèo khổ, cùng giai cấp HS trả lời

=> Cùng chung cảnh ngộ GV nhận xét, bổ xung

GV: Bốn câu thơ tiếp theo cho ta thấy

"Anh với tôi .. người xa lạ... quan hệ của các anh bộ đội được hình

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” thành như thế nào?

- Quan hệ trước khi gặp nhau: là những HS trả lời

người xa lạ GV nhận xét, bổ sung: Tình đồng chí,

nhưng họ trở thành tri kỉ dựa trên cơ đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự

53

tương đồng về cảnh ngộ xuất thân sở:

nghèo khó, cùng nhau vượt qua gian + Cùng hoàn cảnh sống.

khổ trở thành tri kỉ. + Cùng một mục đích.

GV: Dòng thứ 7 của bài thơ có gì đặc + Chung lí tưởng, nhiệm vụ chung

biệt? Từ đó em hãy chỉ ra mạch cảm + Cùng chia ngọt sẻ bùi

xúc bài thơ? => Thành đôi tri kỉ.

HS trả lời

GV nhận xét, bổ sung: Dòng thơ thứ Câu thơ: "Đồng chí!"

7 là một câu đặc biệt gồm từ hai âm -> 2 tiếng - 1từ - dấu chấm than - một

tiết đi cùng dấu chấm than. Ta thấy, nốt nhấn

sáu câu thơ đầu là cơ sở hình thành - Là câu thơ đặc biệt:

tình đồng chí; “Đồng chí” - ấy là + Trùng với nhan đề

điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình + Biểu hiện chủ đề, linh hồn của bài

cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình thơ.

người trong chiến tranh. Tình cảm ấy + Khẳng định, kết tinh tình cảm giữa

được nối sang mười câu thơ tiếp theo những người lính.

bởi dòng thơ thứ 7. Đó là biểu hiện, + Như một tiếng reo ngắn gọn – là bản

sức mạnh của tình đồng chí. lề nối mạch cảm xúc giữa hai đoạn thơ.

GV: Vậy em thấy tình "Đồng chí" là => Đồng chí: Là tình đồng đội, tình

thứ tình cảm như thế nào? bạn tri âm, tri kỉ -> sâu lắng, thiêng

HS trả lời liêng.

GV nhận xét, bổ sung: Hai tiếng

“đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp

đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.

Chúng ta vừa cùng nhau tìm hiểu

về cơ sở hình thành tình đồng chí.

Vậy khi được hình thành trên một cơ

sở vững chắc như vậy thì tình cảm đó

sẽ có sức mạnh và được biểu hiện như

54

thế nào? Chúng ta tìm hiểu sang phần

hai: Những biểu hiện và sức mạnh

của tình đồng chí. b. Những biểu hiện và sức mạnh của

Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

tình đồng chí. "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

HS đọc 10 dòng thơ tiếp theo Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

GV: Em hãy tìm những biểu hiện của Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"

tình đồng chí trong mười câu thơ ở => Ra đi vì nghĩa lớn, bỏ lại sau lưng

phần 2. Qua đó hãy cho biết sức những thứ gắn bó như máu thịt.

mạnh của tình đồng chí như thế nào? - Cùng nhau chia sẻ gian lao, thiếu

HS trả lời thốn về vật chất. =>Nỗi nhớ của người

GV nhận xét, bổ sung: Trước hết, lính về người thân, quê hương. Họ cảm

đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ thông sâu xa với những tâm tư, nỗi

những tâm tư, nỗi lòng của nhau: lòng của nhau

Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã => Cùng chung nỗi nhớ về quê hương.

những gì gắn bó thân thương nhất:

“ruộng nương”, ”gian nhà”, ”giếng

nước”, ”gốc đa”… Họ ra đi để lại sau

lưng những băn khoăn, trăn trở,

những bộn bề, lo toan của cuộc sống

đời thường. Song họ vẫn nặng lòng

với quê hương. Gác tình riêng ra đi vì

nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân

trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất

nước” – Nguyễn Đình Thi, ta bắt gặp

điểm tương đồng trong tâm hồn

những người lính:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ

55

một tình quê ăm ắp và đây cũng là

nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh - "Anh với tôi .. cơn ớn lạnh

tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

mọi gian lao, thử thách suốt một thời …chân không giày"

máu lửa, đạn bom. -> Hình ảnh chân thực có sức gợi cảm

Tình đồng chí còn là sự đồng cam Các câu thơ sóng đôi, đối xứng, tả thực

cộng khổ, chia sẻ những khó khăn => Gợi lên cuộc sống hết sức gian khổ,

thiếu thốn của cuộc đời người lính: thiếu thốn, bệnh tật của người chiến sĩ

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh trong trong cuộc kháng chiến chống

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Pháp.

Áo anh rách vai - "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá => Họ cùng nhau chia sẻ gian lao,

Chân không giày thiếu thốn, yêu thương và truyền sức

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” mạnh cho nhau vượt qua khó khăn.

Cùng phản ánh về người lính cụ Hồ

nhà thơ Tố Hữu cũng có cảm hứng

tương tự:: => Sức mạnh của tình cảm keo sơn gắn

“ Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế bó: giúp người lính vượt qua mọi gian

Gió qua rừng đèo Khế gió sang” khổ

Bằng những hình ảnh tả thực, hình

ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân

thực những khó khăn thiếu thốn trong c. Bức tranh đẹp về tình đồng chí.

buổi đầu kháng chiến: thiếu lương

thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu Có sự kết hợp hài hoà giữa hiện thực

thuốc men… Người lính phải chịu và chất lãng mạn:

“từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét

rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút,

song sức mạnh của tình đồng chí đã

giúp họ vượt qua tất cả.

56

- Học sinh đọc 3 dòng thơ kết.

GV: Ba dòng thơ cuối gợi lên cảnh

tượng gì? + Hiện thực khắc nghiệt của cuộc

HS trả lời kháng chiến -> người chiến sĩ hiện lên

GV nhận xét bổ sung: Nổi lên trên với tư thế chủ động trong cuộc chiến

cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo đấu.

là hình ảnh người lính chủ động

“đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

GV: Cảnh tượng “Đêm nay ... giặc

tới” phản ánh hiện thực nào của người

lính trong chiến tranh?

GV: Chính trong hoàn cảnh ấy tình

đồng chí đã có ý nghĩa gì? + Lãng mạn: “Đầu súng trăng treo”.

HS trả lời -> Khẳng định ý nghĩa cao cả của cuộc

GV nhận xét bổ sung: Họ đã đứng chiến đấu mà những người lính tham

cạnh bên nhau giữa cái giá rét của gia: Họ cầm súng chính là để bảo vệ sự

rừng đêm, giữa cái căng thẳng của bình yên cho đất nước, bảo vệ vầng

những giây phút “chờ giặc tới”. Tình trăng hoà bình.

đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ

vượt lên tất cả….

GV: Em hãy phân tích vẻ đẹp của câu

thơ cuối bài?

HS trả lời

- Giáo viên bình câu thơ cuối

Câu kết là một hình ảnh thơ rất

đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa

thực, vừa mộng. Về ý nghĩa của hình

ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya,

trăng tà, cả cánh rừng ngập chìm

trong sương muối. Trăng lơ lửng trên

57

không, chiếu ánh sáng qua lớp sương

mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp

xuống, trăng như sà xuống theo.

Trong khi đó, người chiến sĩ khoác

súng trên vai, đầu súng hướng lên trời

cao như chạm vào vầng trăng và trăng

như treo trên đầu súng. “Trăng”là

biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất

nước, là sự sống thanh bình. “Súng”

là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian

khổ, hi sinh. Súng và trăng, cứng rắn

và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và => Biểu tượng cao đẹp của tình đồng

thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế chí, đồng đội, vẻ đẹp tư tưởng hoà

vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết quyện giữa hiện thực và lãng mạn.

bên nhau trong cảm nhận của người

chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Tố * Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong

Hữu cũng có sự khái quát rất hay: những năm đầu của cuộc kháng chiến:

“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” - Xuất thân từ nông dân: tự vượt lên

Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện chính mình, nén tình riêng vì sự nghiệp

thực và lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp chung

độc đáo cho hình tượng thơ. Và phải - Họ phải trải qua bao gian lao, thiếu

chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính thốn, bệnh tật, lạc quan, yêu đời

Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho - Đẹp nhất là tình đồng chí, đồng đội

cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng gắn bó keo sơn.

trăng treo” như một bông hoa đầu - Kết tinh biểu tượng là hình ảnh “đầu

mùa trong vườn thơ cách mạng. súng trăng treo”

GV: Bài thơ không chỉ ngợi ca tình

đồng chí mà còn khắc hoạ chân dung,

phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ như thế

nào?

58

Hoạt động 3: Hướng dẫn HS tổng kết III. Tổng kết:

bài 1. Nghệ thuật: Chi tiết và hình ảnh

*GV tổ chức HS thành nhóm cùng chân thực, giản dị, cô đọng vừa gợi tả,

thảo luận, tổng kết, trao đổi về bài gợi cảm.

học hoặc cá nhân có thể tự trình bày - Thể thơ tự do, lời thơ giản dị, mộc

khái quát về nội dung, đặc sắc nghệ mạc, gần gũi.

thuật của bài thơ. 2 Nội dung (Ghi nhớ - SGK)

GV: Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ?

HS trả lời

GV nhận xét bổ sung

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh đẹp về

những…người lính cụ Hồ với tình

đồng chí, đồng đội, là biểu tượng cao

đẹp về cuộc đời người chiến sĩ qua IV. Luyện tập:

thể thơ tự do, lời thơ giản dị, mộc Hs đọc diễn cảm bài thơ.

mạc, gần gũi.

Hoạt động 4: Hướng dẫn HS củng cố bài.

Vì sao t¸c gi¶ lại đặt tên cho bài thơ là Đồng chí?

Đồng chí là cùng chung chí hướng, lí tưởng -> cách xưng hô của những

người cùng trong một đoàn thể c¸ch m¹ng.

=> Đồng chí là bản chất c¸ch m¹ng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình

đồng đội.

- Vẻ đẹp chân thực, giản dị của tình đồng chí, đồng đội và hình ảnh người lính

cách mạng được thể hiện trong bài thơ.

- Nắm được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm

và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng.

59

Hoạt động 5 : Dặn dò

- Học thuộc lòng bài thơ.

- Bài tập trắc nghiệm:

câu1. Những người lính trong bài Đồng chí chủ yếu xuất thân từ đâu?

A – Từ thành thị. C – Từ nông thôn

B – Từ khu công nghiệp D – Từ vùng núi

Đáp án C

Câu 2. Đáp án nào dưới đây kể đúng sự thiếu thốn của người lính:

A – Thiếu chăn, thiếu mũ, áo rách, quần vá.

B - Thiếu mũ, thiếu chăn, thiếu khăn, áo rách.

C – Thiếu giày, thiếu áo trấn thủ, thiếu khăn len.

D – Thiếu chăn, thiếu giày, áo rách, quần vá.

Đáp án D

Câu 3. Người lính chờ giặc tới trong hoàn cảnh nào?

A – Rừng hoang, sương muối, trăng sáng.

B – Rừng thưa, sương mù, đêm tối.

C – Sao trời chi chít trăng sáng vằng vặc.

D – Trời tối như mực, mưa rơi lâm thâm

Câu hỏi cho HS khá giỏi: Suy nghĩ của em về hình ảnh anh bộ đội trong kháng

chiến chống Pháp qua bài Đồng chí (khoảng 20 câu).

- Soạn Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

60

Ngày soạn: 7/11/2015

Ngày giảng: 9/11/2015

Tiết 61: Văn bản Làng

- Kim Lân -

A. Mục tiêu cần đạt:

1. Kĩ năng :

- Rèn luyện năng lực phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là phân

tích tâm lí nhân vật.

- Phân biệt được phương ngữ một số vùng miền.

- Hiểu được tác dụng của các yếu tố đối thoại, độc thoại.

- kĩ năng kể lại một câu truyện, trong đó có kết hợp miêu tả nội tâm và nghị

luận, có đối thoại và độc thoại.

2. Kiến thức :

- Tóm tắt được tác phẩm.

- Phân tích tình huống truyện.

- Qua diễn biến tâm trạng ông Hai, thấy được tình yêu làng của ông cũng như

những người đi tản cư, phải sống xa quê vì chiến tranh.

3. Thái độ :

- Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước.

B. Chuẩn bị:

- GV : sgk, sgv, tài lệu tham khảo, giáo án.

- HS : sgk, vở ghi, tài lệu tham khảo.

C. Tiến trình tổ chức:

1. Ổn định tổ chức:

2. Kiểm tra bài cũ:

Đọc thuộc lòng bài thơ ánh trăng. Phân tích, bình giảng cử chỉ giật mình

của tác giả trong câu thơ cuối bài

3. Bài mới: Ở các tiết học trước, các em đã được tìm hiểu một số truyện trung

đại Việt Nam. Hôm nay, các em sẽ được tìm hiểu truyện ngắn hiện đại đầu tiên

trong chương trình ngữ văn lớp 9, đó là truyện ngắn Làng (Kim Lân). Hai chữ

61

“quê hương” đối với mỗi người dân Việt Nam đều vô cùng thân thiết. Quê

hương được ví như chùm khế ngọt, như con đò nhỏ, đó là nơi sinh ra và lớn lên

của mỗi người. Không có gì hạnh phúc bằng được sống bình yên ở nơi chôn rau

cắt rốn của mình. Chính vì vậy mà cũng không gì đau khổ bằng việc phải bỏ

làng đi tha hương cầu thực, phải sống nơi đất khách quê người, đau đáu nhớ làng

quê mà không về được... Tình cảm đặc biệt đó đã được nhà văn Kim Lân thể

hiện một cách độc đáo trong tác phẩm xuất sắc: “Làng”.

Hoạt động của GV và HS Nội dung kiến thức cần đạt

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu

I. Tìm hiểu chung: chung về tác giả tác phẩm.

GV: Qua phần chuẩn bị ở nhà, em hãy 1. tác giả:

giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân a. Tiểu sử:

(quê quán, sở trường, tác phẩm Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là

chính...)? Nguyễn Văn Tài quê ở làng Phù Lưu, xã

HS trả lời Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

GV nhận xét, bổ sung: Nhà văn được coi - Ông là nhà văn có sở trường viết truyện

là ẩn sĩ giữa làng văn, ông viết không ngắn.

nhiều nhưng những tác phẩm của ông vô - mẹ ông là vợ lẽ, lại là dân ngụ cư nên từ

cùng giá trị. Vì ở đó chan chứa tình yêu nhỏ ông sống khổ cực, sớm phải tự kiếm

quê hương, tràn đầy tình thương và sự sống.

cảm thông trước những số phận lặng - Là người am hiểu và gắn bó với nông

thầm nơi xóm làng mộc mạc. thôn và người nông dân.

GV: Trên đây là đôi nét về tác giả Kim

Lân, Tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu

về tác phẩm Làng

b.T¸c phÈm. GV : Tác phẩm được sáng tác trong

* Hoàn cảnh sáng tác hoàn cảnh nào ?

- ViÕt trong thêi kú ®Çu cña cuéc kh¸ng HS trả lời

chiÕn chèng Ph¸p. §¨ng lÇn ®Çu tiªn trªn GV nhận xét, bổ sung: Làng là một

t¹p chÝ v¨n nghÖ: 1948.

62

- Khai th¸c 1 t×nh c¶m bao trïm vµ phæ trong những tác phẩm tiêu biểu nhất

biÕn trong con ng êi thêi kh¸ng chiÕn t×nh của nhà văn Kim Lân viết về làng quê và

c¶m yªu quª h ¬ng, ®Êt n íc. những người dân quê Việt Nam. Truyện

ngắn này được sáng tác vào thời kì đầu

của cuộc kháng chiến chống Pháp và

được đăng lần đầu trên tạp chí Văn

nghệ năm 1948.

* Đọc – tóm tắt. * GV hướng dẫn HS đọc và tóm tắt

Đäc: To, râ, chÝnh x¸c tõ ng÷ trong

Truyện kể về nhân vật ông Hai - một v¨n b¶n, thÓ hiÖn ® îc diÔn biÕn t©m

người nông dân yêu tha thiết làng Chợ tr¹ng cña nh©n vËt ¤ng Hai.

Dầu của mình. Thời cuộc thay đổi, ông - GV ®äc mÉu

- HS thực hiện: 3 em thay nhau đọc diễn vẫn luôn thiết tha gắn bó với làng quê

cảm một số đoạn. mình. Cuộc kháng chiến nổ ra, vì hoàn

- GV nhận xét từng HS đọc cảnh gia đình, ông buộc phải theo vợ con

tản cư. - GV yªu cÇu HS tãm t¾t v¨n b¶n.

- Nghe tin làng mình theo giặc Pháp, ông - HS thực hiện.

- GV nhận xét, bổ sung, Hai vô cùng đau khổ, tủi nhục chỉ biết tâm

GV Nhận xét, tóm tắt lại cho HS nắm sự với thằng con út. Đến lúc được tin nhà

mình bị giặc đốt, cũng tức là làng không chắc tác phẩm.

theo giặc ông hết sức vui sướng. Chính

niềm vui kì lạ đó thể hiện tinh thần yêu

nước, lòng trung thành với cách mạng thật

cảm động của ông Hai.

*Bè côc: Ba phÇn:

- PhÇn 1: Tõ ®Çu ®Õn “ vui quá” . GV: T×m bè côc cña v¨n b¶n, nªu néi

->T©m tr¹ng cña «ng Hai trước khi nghe dung chÝnh cña tõng phÇn?

tin lµng chî DÇu lµm ViÖt gian theo giặc. HS trả lời

- PhÇn 2: Tiếp ®Õn “ vợi đi ®«i phÇn” . GV nhận xét, bổ sung.

63

->T©m tr¹ng của ông Hai khi nghe tin

làng Chợ Dầu theo giặc.

- PhÇn 3: Cßn lại: Tâm trạng của ông Hai

khi nghe tin cải chính.

II-Ph©n tÝch v¨n b¶n Hoạt động 2: Hướng dẫn HS phân tích

tác phẩm 1-T×nh huèng truyÖn

GV: Truyện xây dựng một tình huống - T×nh huèng: Nghe tin lµng Chợ Dầu theo

làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng và yêu giÆc, lµm ViÖt gian.

- T¸c dông: T¹o nªn nót th¾t cña c©u nước của ông Hai, đó là tình huống nào,

chuyÖn, g©y m©u thuÉn gi»ng xÐ trong t©m nhận xét vai trò của tình huống ấy?

can, t©m trÝ «ng Hai, t¹o ®iÒu kiÖn ®Ó thÓ HS trả lời

hiÖn t©m tr¹ng vµ phÈm chÊt, tÝnh c¸ch cña GV Nhận xét, bổ sung: Tình huống

nh©n vËt thªm ch©n thùc vµ s©u s¾c, gãp truyện: Khi ông Hai nghe được tin làng

phÇn gi¶i quyÕt chñ ®Ò cña t¸c phÈm. Chợ Dầu theo giặc.

=> tình huống đối nghịch với tình cảm

tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của

ông Hai. Khác với suy nghĩ về một làng

quê “Tinh thần cách mạng lắm” của ông.

=> Vai trò: tạo tâm lí, diễn biến gay gắt

trong nhân vật, làm bộc lộ sâu sắc tình

cảm yêu làng, yêu nước ở ông Hai.

Xét về mặt hiện thực, chi tiết này rất hợp

lí. Xét về mặt nghệ thuật nó tạo nên một

nút thắt cho câu chuyện; gây ra mâu

thuẫn giằng xé tâm lí trong nhân vật.

2. Nhân vật ông Hai: GV yêu cầu HS đọc sáng tạo: Từ đầu

...... dật dờ.

GV: Căn cứ vào phần đầu của truyện, cho

a. Ông Hai trước khi nghe tin làng Chợ biết hoàn cảnh gia đình ông Hai ra sao?

Dầu theo giặc:

64

- HS trả lời - Là người nông dân nghèo, yêu làng quê

GV nhận xét, bổ sung: Đi tản cư, phải xa tha thiết.

quê, lo toan kiếm sống (...), cuộc sống

khó khăn... - GV bình giảng sau mỗi chi - Luôn dõi theo cuộc kháng chiến của dân

tiết : tộc.

GV : Đoạn truyện đã thể hiện tâm trạng - Nhớ làng da diết

ông Hai trong thời điểm trước khi nghe - Ông nghe được nhiều tin hay- những tin

tin xấu về làng, khi đó tâm trạng của chiến thắng của quân ta.

ông Hai được miêu tả như thế nào? Tìm -> Rất vui vẻ thoải mái ,náo nức.

các chi tiết diễn tả điều đó?

Những biểu hiện tâm lí đó đã thể hiện => Biểu hiện của tình yêu làng, yêu nước

tình cảm gì ở ông Hai? (Khi ở nơi tản tha thiết mãnh liệt.

cư, ông Hai thường nghĩ những gì về => Ông Hai là người nông dân có tính tình

làng của mình)? vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với

HS trả lời làng quê và cuộc kháng chiến.

GV Nhận xét, bổ sung: Trước khi nghe

tin làng chợ Dầu theo giặc:

- Nhớ làng da diết – muốn về làng,

muốn tham gia kháng chiến.

- Mong nắng cho Tây chết.

- Ở phòng thông tin, ông nghe được

nhiều tin hay, những tin chiến thắng của

quân ta. Ruột gan ông cứ múa cả lên

=> Yêu thương, gắn bó với làng quê, tự

hào và có trách nhiệm với cuộc kháng

chiến của làng.

GV: Vậy với một người yêu làng quê tha

thiết như ông Hai thì tâm trạng ông liệu

sẽ như thế nào khi nghe được tin làng

65

mình theo giặc làm Việt gian?

- GV : Khi ông Hai nghe tin làng Chợ

Dầu của mình theo giặc thì tâm trạng

của ông biểu hiện qua 5 thời điểm:

+ Khi vừa nghe tin làng theo giặc.

+ Khi ông Hai về nhà.

+ Ba bốn ngày sau đó.

+ Khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi.

+ Khi nói chuyện với đứa con nhỏ.

GV chia lớp thành 5 nhóm. Mỗi

nhóm làm về một thời điểm.

b. T©m tr¹ng «ng Hai khi nghe tin lµng Câu hỏi : Ở mỗi thời điểm, tâm trạng

Chợ Dầu theo giặc. của ông Hai được tác giả miêu tả như

- Diễn biến tâm trạng qua 5 thời điểm: thế nào? Chi tiết nào thể hiện điều đó ?

+ Khi vừa nghe tin làng theo giặc. Các nhóm thực hiện trong 5 phút.

+ Khi ông Hai về nhà. - Sau giờ giải lao từng nhóm trình bày ,

+ Ba bốn ngày sau đó. các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

+ Khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi.

+ Khi nói chuyện với đứa con nhỏ.

Hoạt động 3: Hướng dẫn HS củng cố bài

*HS cần nắm được:

- Những nét chính về tác giả, tác phẩm.

- Nắm được tình huống truyện.

Hoạt động 4 : Dặn dò

- Hãy đặt mình vào tình huống của ông Hai, viết 1 đoạn văn bày tỏ tâm trạng

của bản thân khi ở trong tình huống đó.

- Bài tập trắc nghiệm:

66

1. Kim Lân là cây bút có sự gắn bó và am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn Nam

Bộ, ông viết nhiều về các vùng quê Nam Bộ Nhưng lại thành công trong những

chuyện viết về đề tài làng quê Bắc Bộ. Đúng hay sai.

A. Đúng. B. Sai

2. Nhà ông Hai có những ai:

A – Mẹ ông Hai, hai vợ chồng ông Hai, bốn đứa con

B - Bố ông Hai, ông Hai, bà Hai, ba đứa con.

C – Hai vợ chồng ông Hai, bốn đứa con.

D – Hai vợ chồng ông Hai, ba đứa con.

Đáp án C

3. Ông Hai vỡ vạt đất rậm ven bờ suối để làm gì?

A – Để trồng khoai. C – Để trồng sắn.

B – Để trồng rau. D – Để trồng đỗ.

Đáp án C

Ngày soạn:7/11/2015

Ngày giảng: 10/11/2015

Tiết 62: Văn bản

Làng (tiếp)

- Kim Lân -

A. Mục tiêu cần đạt:

1. Kĩ năng:

- Thấy được những nét khá đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng tình huống

truyện, trần thuật sinh động, miêu tả diễn biến lí nhân vật, sử dụng ngôn ngữ

nhân vật quần chúng thành công.

2. Kiến Thức:

- Cảm nhận được tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và

tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai trong truyện. Qua đó thấy được một

biểu hiện sinh động, cụ thể về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời

kháng chiến chống Pháp.

67

3. Thái độ:

- Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước.

B. Chuẩn bị:

- GV : sgk, sgv, tài lệu tham khảo, giáo án.

- HS : sgk, vở ghi, tài lệu tham khảo.

C. Tiến trình tổ chức:

1. ổn định tổ chức:

2. Kiểm tra bài cũ:

3. Bài mới: Ở giờ trước, khi chưa biết tin làng theo Tây, chúng ta đã thấy được

ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với

làng quê và cuộc kháng chiến. Nhưng khi nghe tin làng theo Tây, rồi cái tin làng

theo giặc lại được cải chính thì diễn biến tâm trạng ông ra sao? Chúng ta tiếp tục

khám phá phần tiếp theo của tác phẩm Làng.

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu

tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng

theo giặc.

*GV yêu cầu HS trình bày phần thảo

luận nhóm.

Các nhóm trình bày.

GV: Khi nghe tin xấu, tâm trạng ông b, Khi nghe tin làng theo Tây.

Hai ra sao? * Khi vừa nghe tin:

- Cæ nghÑn ¾ng... da mÆt tª r©n r©n, - Nhóm 1 trình bày bài của thảo luận

lÆng ®i... nh kh«ng thë ® îc, dÆn Ì của nhóm

GV nhận xét bổ sung: Ông Hai sững Ì, nuèt... v íng ë cổ

sờ, xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn cất tiếng hỏi, giäng l¹c ®i: liÖu cã....

ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng -> tâm trạng ngạc nhiên, bàng hoàng,

đi tưởng như không thở được”.Không sững sờ đến choáng váng.

chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ

tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng khác, rồi đi thẳng..

ông, cuộc đời ông cũng như chết mất -> Tâm trạng sợ hãi, lảng tránh

68

một lần nữa. - Trên đường về, ông cúi gằm mặt

xuống mà đi, trong đầu ông thoáng

nghĩ đến mụ chủ nhà.

-> Tâm trạng xấu hổ, nhục nhã.

GV: Khi về đến nhà, tâm trạng ông lão * Khi ông về nhà

ra sao? - Ông nằm vật ra giường, nhìn lũ

- Nhóm 2 trình bày kết quả thảo luận. con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ

GV nhận xét, bổ sung: Từ đỉnh cao của giàn ra…

niềm tự hào, niềm tin ông Hai rơi -> Đau đớn, xót xa, tủi nhục.

xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ - Ông lão nắm chặt tay lại mà rít lên:

vì cái tin ấy quá bất ngờ. Khi trấn tĩnh chúng bay….

lại được phần nào, ông còn cố chưa tin -> nỗi căm giận trào dâng. Sau đó là

cái tin ấy. hoài nghi, bối rối.

GV: Vài ngày sau, ông có tâm trạng * Ba bốn ngày sau

ra sao? Qua đó em cảm nhận được nét - Suốt ngày ông quanh quẩn ở nhà

đẹp nào nữa trong tâm hồn ông Hai? nghe ngóng xem binh tình bên ngoài

- Nhóm 3 trình bày kết quả thảo luận. thế nào…. Thôi lại chuyện ấy rồi.

GV nhận xét, bổ sung: Suốt mấy ngày -> Nỗi ám ảnh nặng nề.

ông không dám đi đâu. Lúc nào ông =>Bằng các chi tiết tiêu biểu, chọn

cũng nơm nớp tưởng như người ta lọc, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại,

đang để ý, người ta đang bàn tán đến độc thoại nội tâm, nhà văn đã diễn tả

“cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những được diễn biến tâm trạng của ông

tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là Hai một cách hợp lí, chân thực và

ông lủi ra một góc nhà, nín thít. “Thôi cảm động

lại chuyện ấy rồi”!

GV: Khi bị bà chủ nhà đánh tiếng đuổi * Khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi:

đi ông Hai rơi vào tình trạng ra sao? Hàng loạt câu hỏi, câu cảm thán

- Nhóm 4 trình bày kết quả thảo luận. diễn tả tận cùng những cung bậc

GV nhận xét, bổ sung: Ông Hai rơi vào cảm xúc của ông Hai.

tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ + Về làng hay ở lại ?

69

tới tương lai. Ông không biết đi đâu, + Về làng hay bỏ kháng chiến, bỏ Cụ

Hồ. về đâu.

-> ông Hai ở vào tình thế bế tắc, không + Nhưng nếu không về làng thì biết

biết phải làm thế nào. đi đâu?đâu đâu có người làng Chợ

->Tuy nhiên, ông Hai đã có một sự lựa Dầu người ta cũng đuổi….

chọn: Làng thì yêu thật, nhưng làng -> ông Hai ở vào tình thế bế tắc,

theo Tây mất rồi thì phải thù -> mâu "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo

thuẫn trong lòng, sự giằng xé giữa hai Tây mất rồi thì phải thù".

tình cảm: lòng yêu làng và lòng yêu =>Tình yêu nước rộng lớn hơn, bao

nước. Ông lão đã có một quyết định trùm lên tình cảm làng quê.

đau đớn. Điều đó cho thấy tình yêu

nước rộng lớn hơn, bao trùm lên tình

cảm đối với làng quê.

-> Sự giác ngộ CM.

GV: Trong lúc tưởng như bế tắc ấy * Tâm sự với con để giãi bày lòng

ông đã tâm sự cùng cậu út. Mục đích mình:

của việc tâm sự là gì? Vậy qua lời tâm - Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn

sự ấy em thấy tình cảm yêu làng, yêu khi nghe tin quê hương theo giặc cứ

nước của ông Hai có gì thay đổi khi chồng chéo đan xen trong lòng ông

nghe tin làng theo giặc không? lão, nhưng tình yêu đối với làng và

- Nhóm 5 trình bày kết quả thảo luận. Tổ quốc vẫn luôn sâu nặng, bền vững

GV nhận xét, bổ sung: Để vợi bớt nỗi và thiêng liêng

đau đớn, dằn vặt trong lòng và để yên => Đau khổ tột cùng, nhưng tấm

tâm về quyết định của mình, ông đã trò lòng thủy chung, son sắt với cuộc

chuyện với đứa con út giúp ông bày tỏ kháng chiến thì vẫn không hề thay

tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu đổi.

Nhưng trong ông vẫn cháy lên một =>Vẻ đẹp tâm hồn ông Hai là biểu

niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ tượng của vẻ đẹp tâm hồn người Việt

Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến nói chung.

của dân tộc. và lòng yêu nước thật sâu

70

nặng và thiêng liêng.

Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm

hồn của con người Việt Nam, khi cần

họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để

hướng tới tình cảm chung của cả cộng

đồng.

Hoạt động 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu c. Tâm trạng khi tin xấu được cải

tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chính

cải chính - Vui sướng, háo hức.

GV : Nét đẹp trong tâm hồn ông Hai - Mồm bỏm bẻm nhai trầu.

còn được thể hiện như thế nào khi ông - Cặp mắt hung đỏ hấp háy.

nghe tin xấu được cải chính? Biểu hiện - Ông lão múa tay lên mà khoe: “Tây

qua chi tiết nào? nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn”

HS trả lời => Minh chứng cho làng ông trong

GV nhận xét, bổ sung: Đúng lúc ông sạch. Rất hạnh phúc khi làng mình là

Hai có được quyết định không trở về làng yêu nước.

làng nữa thì cái tin làng Chợ Dầu phản

bội đã được cải chính. Sự đau khổ của => Tình yêu làng quê gắn bó, thống

ông Hai trong những ngày qua nhiều nhất với lòng yêu nước và tinh thần

bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh kháng chiến. Đó là nét đẹp truyền

phúc của ông lúc này càng lớn bấy thống mang tinh thần thời đại.

nhiêu. - Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của

GV : Tình yêu làng quê và lòng yêu người nông dân trong thời kì kháng

nước ở ông Hai quan hệ như thế nào? chiến chống Pháp.

HS trả lời

GV nhận xét, bổ sung: Từ một người

nông dân yêu làng, ông Hai trở thành

người công dân nặng lòng với kháng

chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa

làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc

71

làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống

nhất, hòa quyện nhưng tình yêu nước

được đặt cao hơn, bao trùm lên tình

yêu làng.

Hoạt động 3 : Hướng dẫn HS tổng kết III. Tổng kết

GV : Nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả 1.Nghệ thuật:

tâm lý nhân vật? ? - Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

Ngôn ngữ nhân vật có gì nổi bật? sâu sắc, tinh tế.

HS trả lời - Ngôn ngữ nhân vật rất sinh động,

GV nhận xét, bổ sung. giàu tính khẩu ngữ .

- Cách trần thuật linh hoạt tự nhiên

- Xây dựng được tình huống truyện

GV : Tóm tắt nội dung câu chuyện, rút gay cấn.

ra ý nghĩa. 2. Nội dung (Ghi nhớ SGK/174)

-T×nh yªu lµng, yªu n íc ch©n thµnh,

sâu sắc cña ng êi n«ng d©n ViÖt

Nam trong kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p

qua nhân vật ông Hai.

Hoạt động 4: Hướng dẫn HS củng cố bài

*HS cần nắm được:

- Tình yêu làng quê sâu sắc của ông Hai.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lý sâu sắc, trần thuật tự nhiên.

- Sử dụng từ địa phương sinh động.

Hoạt động 5: Dặn dò

- Tóm tắt văn bản.

Bài tập trắc nghiệm:

1. Sắp xếp theo đúng trình tự tâm trạng ông Hai lúc nghe tin làng theo giặc :

A – Cổ lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.

B – Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý.

72

C – Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra.

D – Ông Hai ngồi lặng lẽ trên một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê

rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão.

Đáp án A - C - B - D.

2. Dòng nào nói đúng nhất về đặc sắc nghệ thuật của truyện ?

A – Tạo dựng được tình huống truyện hay.

B – Miêu tả tâm lí, diễn biến tâm trạng nhân vật hợp lý.

C – Ngôn ngữ quần chúng sinh động, hấp dẫn.

D – Cả A, B, C.

Đáp án D

Câu hỏi dành cho HS khá giỏi : Hãy nhận xét cách phân tích diễn biến tâm lý

ông Hai của nhà văn Kim Lân từ khi ông Hai nghe tin làng theo giặc đến khi

nghe được tin cải chính.

- Soạn bài tiếp theo: Lặng lẽ Sa Pa.

3.1.5.3. Sau giờ học

*Rèn luyện cho học sinh thói quen học bài ở nhà.

Trong quá trình học tập trên lớp, kiến thức lĩnh hội chưa thực sự khắc sâu,

vì thế hướng HS học bài cũ sau khi lên lớp cũng tạo nên hiệu quả ghi nhớ bài và

bổ sung những kiến thức còn thiếu hụt.

GV có thể đưa ra hệ thống các hoạt động học tập tại nhà cho HS bằng

cách ra các bài tập.

*Đổi mới cách ra đề kiểm tra:

1. Văn bản “đồng chí”

Kiểm tra 5 phút: Chi tiết/ hình ảnh nào em thấy đặc sắc nhất trong bài thơ

Đồng chí. Tại sao?

Kiểm tra 15 phút: Ấn tượng của em về khung cảnh nơi những người lính

phục kích giặc?

Kiểm tra 90 phút: Suy nghĩ của em về hình ảnh của những người lính sau khi

học bài thơ Đồng chí (Chính Hữu).

73

2.Văn bản “làng”

Kiểm tra 5 phút: Tóm tắt văn bản Làng trong khoảng 5 – 8 câu.

Kiểm tra 15 phút: Tình huống bất ngờ trong truyện ngắn làng (Kim Lân). Em

hãy đánh giá cách xây dựng tình huống đó của tác giả.

Kiểm tra 90 phút: Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật ông Hai để thấy được

tình yêu làng quê sâu sắc của ông. Bản thân em có suy nghĩ gì về tình cảm đó.

*Cung cấp những thông tin phản hồi hữu ích.

GV phản hồi cho HS thông tin, kết quả các bài tập về nhà, các bài kiểm

tra của HS trong thời gian sớm nhất, kèm theo ý kiến nhận xét cụ thể của GV để

HS có sự điều chỉnh trong việc nắm bắt kiến thức, điều chỉnh lại phương pháp

học đạt hiệu quả hơn.

Giáo viên nên để học sinh có cơ hội cho ý kiến phản hồi về môn học, về

bài học trên lớp để có thể định hướng, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Ví dụ:

Phát phiếu điều tra, làm hòm thư ý kiến, tổ chức trao đổi chia sẻ với học sinh....

3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm và đánh giá kết quả

3.2.1. Đối tượng thực nghiệm và thời gian thực nghiệm

*Đối tượng thực nghiệm:

- Do thời gian có hạn, chúng tôi tiến hành thực nghiệm với các đối tượng sau:

+ Lớp 9 Trường THCS An Bình là lớp thực nghiệm (Dạy bài Đồng chí)

+ Lớp 9 Trường THCS Quang Minh là lớp đối chứng.

+ Lớp 9 Trường THCS Quang Minh là lớp thực nghiệm (Dạy bài Làng)

+ Lớp 9 Trường THCS An Bình là lớp đối chứng.

*Thời gian thực nghiệm:

Thực nghiệm của chúng tôi tiến hành theo đúng phân phối chương trình và

tiến độ thực hiện chương trình của hai trường:

THCS An Bình: Ngày 19/10/2015 (dạy văn bản Đồng chí).

THCS Quang Minh: Ngày 9/10/11/2015 (dạy văn bản Làng).

3.2.2. Kết quả thực nghiệm

3.2.2.1. Đánh giá về mặt định lượng

*Kết quả bài kiểm tra 90 phú : (Lớp 9 THCS An Bình)

74

Suy nghĩ của em về hình ảnh của những người lính sau khi học bài thơ Đồng chí

(Chính Hữu).

Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém

Lớp Số bài Tỉ lệ % Số lượng Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

Thực

nghiệm 46 6 13,04 18 39,13 22 47,82 0 0

Đối chứng 38 2 5,26 9 23,68 26 68,42 1 2,63

*Kết quả bài kiểm tra 90 phút: (Lớp 9 THCS Quang Minh)

Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật ông Hai để thấy được tình yêu làng quê

sâu sắc của ông. Bản thân em có suy nghĩ gì về tình cảm đó.

Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém

Lớp Số bài Tỉ lệ % Số lượng Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

38 3 7,89 15 39,47 20 52,63 0 0

46 4 8,69 12 26,08 29 63,04 2,17 Thực nghiệm Đối chứng

1

*Kết quả điều tra hứng thú học tập của học sinh.

Em có hứng thú học theo bài giảng (thực nghiệm) mới hay thích học theo bài

giảng cũ hơn?

Bình thường Thích hơn Không thích

Lớp 9 Số phiếu Tỉ lệ % Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Số lượng

38 27 71,05 11 28,94 0 0

THCS Quang Minh THCS An Bình 46 34 73,91 12 26,08 0 0

75

Qua kết quả thống kê mang tính chất định lượng về kết quả bài làm, hứng

thú học tập của ở các lớp thực nghiệm và đối chứng, có thể nhận thấy đa số các

em đều nắm kiến thức ở một mức độ cơ bản (đạt từ trung bình trở lên, bên cạnh

đó vẫn còn một số bài yếu thể hiện việc tiếp thu kiến thức còn hạn chế), các kỹ

năng cơ bản cũng được HS vận dụng khá tốt trong việc làm bài.

HS đã quen với thiết kế giáo án và phong cách dạy học cũ trong việc học,

chính vì vậy khi tiếp xúc với cách giảng dạy theo thiết kế mới vẫn còn một vài

HS lúng túng trước những yêu cầu hoạt động của GV, một số ít lại tỏ ra mệt

mỏi, không hứng thú. Tuy nhiên chính sự đổi mới này lại kích thích được đông

đảo số lượng HS tham gia vào bài học, tích cực tìm ra những tri thức bằng hiểu

biết, kinh nghiệm, đặc biệt là bằng xúc cảm của mình.

3.2.2.2. Nhận xét và đánh giá của GV giảng dạy và tổ chuyên môn về mặt định

tính

* Về mặt định tính, cô Nguyễn Thị Kim Anh - GV trường THCS Quang Minh

nhận xét về ưu điểm: “GV đã dựa trên những thực tiễn có tính đặc thù của HS

miền núi, đưa ra định hướng đúng và sử dụng tốt các biện pháp kích thích học sinh

hoạt động. Đồng thời thể hiện sự linh hoạt trong triển khai các tình huống của giờ

học, khích lệ, động viên học sinh để cá nhân hoạt động tích cực hơn trong giờ học”.

Song, bên cạnh đó cô cũng phát hiện một số nhược điểm chưa khắc phục được

trong quá trình GV giảng bài: “Việc hướng đến tích cực hóa hoạt động học tập đôi

khi khiến giáo viên quên việc bao quát cuối lớp (một số học sinh cuối lớp vẫn chưa

tập trung trong thời gian thảo luận nhóm).

HS còn bỡ ngỡ trong cách triển khai bài học theo hình thức này, vì thế còn

nhiều khó khăn trở ngại cho tiết học.

Chưa phân phối thời gian cho từng khâu, từng thao tác của giờ dạy trong thiết

kế giáo án (dù là thời gian dự kiến cũng nên đưa vào thiết kế)

Ở những lớp đã tiến hành thực nghiệm có phần lớn HS là người dân tộc thiểu

số thì tiến độ bài giảng đôi khi chậm hơn dự kiến do vốn từ vựng tiếng Việt của các

em còn nghèo nàn”.

76

Còn cô Đinh Phương Liễu – GV trường THCS An Bình đánh giá cao các biện

pháp nhằm phát huy vai trò chủ động của HS: “GV đã sử dụng các phương pháp,

biện pháp dạy học tích cực nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá vào

chiều sâu tác phẩm. Hệ thống câu hỏi cần và đủ, hệ thống những yêu cầu HS hoạt

động rất cụ thể, phù hợp với năng lực của học sinh miền núi. GV đã nỗ lực đồng bộ

cả ba giai đoạn quan trọng của quá trình dạy học: Trước – trong – sau giờ học, giúp

HS có ý thức đối với việc học”

Tổ chuyên môn và các thầy cô dự giờ cũng đưa ra ý kiến đóng góp: “GV

nên đưa thời gian dự kiến vào thiết kế giáo án nhằm chủ động điều tiết diễn biến

của tiết học. Muốn nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh, đặc biệt là HS miền

núi, không thể nóng vội. Điều này cần cả một quá trình dài kiên trì bền bỉ của GV

và sự cố gắng nỗ lực vượt lên chính mình, vượt qua hoàn cảnh cũng như thói quen

học tập theo lối cũ của HS”.

Ngoài ra chúng tôi còn nhận thấy những biến chuyển nhỏ từ những tác

động của sự tích cực hóa hoạt động học tập của HS: HS khá đã thấy mình được

bạn bè nể trọng, tin tưởng; HS trung bình cũng bước đầu tự tin hơn, tham gia

tích cực hơn vào hoạt động của nhóm, của lớp trong giờ học; HS yếu cũng thấy

mình được cô giáo, bạn bè quan tâm, khích lệ, tự thấy mình cần cố gắng vươn

lên hòa nhập với bạn bè thông qua việc tập trung học bài cũ và chuẩn bị bài chu

đáo trước giờ học. Kết quả bài làm của HS lớp thực nghiệm được nâng cao rõ

rệt. Các em đã nắm chắc nội dung bài học và có sự liên tưởng cá nhân vào bài

viết. Em Chiêu Thị Liên – HS lớp 9 trường THCS Quang Minh đã có tư tưởng,

thái độ rất đúng đắn sau khi học bài Làng “Qua nhân vật ông Hai, em cảm thấy

thêm yêu làng quê mình và tự hào vô cùng về truyền thống yêu nước của dân

tộc, đồng thời tự dặn mình phải phấn đấu học thật tốt để xây dựng quê hương đất

nước thêm giàu đẹp”. Hay em Bàn Thị Nhậy – HS lớp 9 trường THCS An Bình

cũng có những suy nghĩ sâu xa sau khi học bài Đồng chí: “Càng khâm phục ý

chí của những chiến sĩ thời chống Pháp bao nhiêu, em càng cảm thấy biết ơn

những thế hệ cha ông đã hi sinh thân mình đổi lấy hòa bình, no ấm cho muôn

77

đời sau. Em tự hứa sẽ cố gắng học tập để mai sau trở thành người con có ích của

núi rừng quê hương”

Cần áp dụng các biện pháp trên thường xuyên để tạo thành thói quen học tập

tích cực, chủ động cho HS, chất lượng dạy học từ đó sẽ có kết quả tốt hơn. Về

mặt hạn chế, cô Nguyễn Thị Kim Anh - GV trường THCS Quang Minh nhận xét

“GV chưa kết hợp được với gia đình HS, đề nghị gia đình tạo điều kiện cho các em

có thời gian chuẩn bị bài mới như yêu cầu của GV”.

*Về việc phát huy tinh thần đối thoại giữa giáo viên – học sinh, giữa học sinh –

học sinh.

Giờ học đã bớt đi sự nhàm chán, lặng lẽ khi GV độc thoại trên lớp, thay

vào đó là sự tương tác giữa GV – HS, HS – HS tạo nên không khí sôi nổi hơn

hẳn trong tiết học. Tương tác đó cho thấy sự tích cực trong hoạt động dạy của

giáo viên, sự tích cực trong hoạt động học của HS.

Bên cạnh đó sự phối hợp có hiệu quả góp phần phát huy năng lực văn học,

năng lực giao tiếp, ứng xử của HS. Từ đó tạo cho HS niềm tin, hứng thú tạo nên

những ấn tượng tốt cho các em sau mỗi giờ học Văn, thúc đẩy mỗi cá nhân nỗ

lực, cố gắng hoàn thiện hơn. Cô Đinh Phương Liễu – GV dạy văn trường THCS

An Bình nhận xét: “Giáo viên làm bầu không khí lớp học sôi nổi, hứng thú bằng

hoạt động tích cực từ phía giáo viên và học sinh, làm cho học sinh mạnh dạn hơn

trong việc tham gia xây dựng bài”.

3.2.3. Một số vấn đề rút ra sau giờ dạy thể nghiệm

Sau các giờ dạy thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề cần

được khẳng định để thực hiện trong thực tiễn.

Trong hoạt động dạy Văn của GV và hoạt động học Văn của HS, dù là ở

vùng nào thì việc xác định đúng vai trò thầy chủ đạo – trò chủ động, sáng tạo là

điều rất có ý nghĩa. Xác định đúng vai trò trong quá trình tổ chức, định hướng

dạy học thì cả GV và HS mới chủ động hoạt động theo mục tiêu cần đạt của bài

học và quan hệ tương tác giữa GV và HS, HS – HS. Giáo viên chủ động lên kế

hoạch cho bài giảng của mình, thiết kế bài học cụ thể, chủ động thông báo, căn

dặn, động viên HS chuẩn bị bài mới để có tâm thế tiếp nhận bài học trên lớp.

78

Khi tổ chức dạy học trên lớp, GV sử dụng các biện pháp, thủ pháp để kích thích

hứng thú học tập cho HS, làm nảy sinh nhu cầu khám phá tri thức của HS. Đồng

thời, GV cần sử dụng các hình thức hoạt động nghệ thuận nhằm tăng khả năng

tiếp nhận, cảm thụ văn chương của HS.

Văn chương là nghệ thuật, là sự rung động của trái tim, là sự gắn kết giữa

nhà văn – học sinh – giáo viên, HS học văn phải giàu cảm xúc, phải say văn, yêu

quý những áng văn thơ được lựa chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Tình

yêu với văn chương sẽ tạo nên sự say mê, tìm tòi, cố gắng trong tiếp cận, khám

phá các giá trị văn chương ở cả thầy và trò.

Giờ học thành công phải gây ra được ấn tượng, để lại những nhận thức mới,

những suy ngẫm cho HS. Giờ học thành công còn là giờ học giúp HS tự bộc lộ

mình, tự thể nghiệm và tìm tòi, sáng tác tiếp sau này.

Kết quả cao nhất thu được qua giờ học vẫn là sự trưởng thành nhiều mặt ở

HS, nhưng cũng không thể không nói đến kết quả học sinh thể hiện ở những

điểm số cụ thể. Về kiến thức, HS bắt đầu đi từ văn bản ngôn từ để khám phá,

hiểu biết và đặc biệt là người học phải chiếm lĩnh được bài văn, tác phẩm. Mức

độ chiếm lĩnh cần đạt được phải chăng là người học nhớ được kiểu kiến thức để

triển khai những vấn đề sâu hơn cụ thể hơn.

Qua thực nghiệm, ta thấy HS không thực sự quá yếu kém hay thờ ơ đối

với việc học văn vì thế điều quan trọng chính là GV phải tìm những phương

pháp và biện pháp thích hợp khắc phục được những nhược điểm của học sinh

trong dạy học văn nói chung, trong dạy học bài Đồng chí và Làng nói riêng.

Ngoài ra những kiến thức học được còn được phát huy tác dụng sau bài học. Các

kĩ năng nền tảng: Nghe, nói, đọc, viết được rèn luyện thường xuyên trong môi

trường tích cực sẽ ngày càng củng cố và phát triển …, giúp các em theo kịp các

bạn cùng trang lứa ở mọi vùng miền khác của tổ quốc.

79

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Giải pháp lý thuyết của luận văn được trình bày qua hệ thống những định

hướng và những biện pháp tích cực hóa hoạt động học tập của HS trên cơ sở

nắm được đặc điểm riêng về điều kiện kinh tế - giáo dục - xã hội, cũng như đặc

điểm về tâm lý đối với việc học tập của học sinh miền núi. Chương 3 này là sự

cụ thể hóa, hiện thực hóa giải pháp lí thuyết của luận văn. Lý thuyết phải được

ứng dụng vào thực tiễn: thực nghiệm sư phạm, thể nghiệm trong thực tế dạy đọc

– hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng để kiểm chứng lý thuyết, nhận xét đánh

giá kết quả thu được, từ đó mà điều chỉnh, bổ sung những điều cụ thể thiết thực

cho dạy học tác phẩm văn chương. Thực nghiệm sư phạm chính là giải pháp

thực tế mà luận văn đề cập tới. Lý thuyết được triển khai vào thực tế và kết quả

thu được là có thật. Đây là đóng góp nhỏ bé, có ý nghĩa của luận văn này, nó

minh chứng cho tính khả thi của giải pháp sư phạm mà đề tài luận văn đã đặt ra.

80

PHẦN KẾT LUẬN

1. Năng lực học tập của HS ở mỗi vùng miền luôn khác nhau, vì vậy đổi mới

phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay sao cho phù hợp với khả năng

tiếp thu của học sinh mỗi vùng miền là vấn đề quan trọng, là xu thế tất yếu của

ngành giáo dục nước ta. Đi theo hướng đổi mới phương pháp, chúng tôi nghiên

cứu và đưa ra “ Những biện pháp dạy đọc –hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng

với mục đích góp phần triển khai quan điểm dạy học mới nhằm tìm tòi những

biện pháp hay, hiệu quả để phát huy tính tích cực của giáo viên và học sinh, góp

phần khẳng định tính đúng đắn, khoa học của đổi mới phương pháp dạy học.

2. Vấn đề nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn cho HS bằng cách sử dụng

những phương pháp, biện pháp đổi mới nhằm tích cực hóa hoạt động học tập

của HS đã được nói đến một phần trong các SGK, SGV, sách hướng dẫn soạn

bài, các tài liệu tham khảo... Nhưng áp dụng các biện pháp cụ thể ra sao để nâng

cao chất lượng học văn cho học sinh miền núi lại là một vấn đề mới mẻ, do mục

tiêu giáo dục đào tạo, cũng như yêu cầu của thực tế của mỗi vùng miền là khác

nhau. Nên trong đề tài này, chúng tôi muốn hướng đến việc nâng cao chất lượng

dạy học môn văn cho học sinh cấp 2 ở miền núi thông qua các biện pháp cụ thể

có khả năng triển khai ứng dụng trong thực tiễn dạy học.

3. Luận văn cơ bản đã triển khai và hoàn thành những nội dung sau:

Thứ nhất, luận văn đã chọn lọc và xây dựng được một hệ thống cơ sở lí

luận làm nền tảng cho các phương pháp, biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận

thức của học sinh miền núi. Nêu ra vấn đề dạy đọc – hiểu tác phẩm VHVNHĐ

trong nhà trường theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS là một

hướng đi đúng, hiện đại và có cơ sở khoa học. Luận văn không chỉ dừng lại ở

việc làm sáng tỏ tính đúng đắn, của một tư tưởng khoa học mà còn bổ sung,

hoàn thiện những nội dung lý luận cho vấn đề dạy học phát huy tích cực hóa

hoạt động học tập của học sinh trong dạy học tác phẩm văn chương.

Thứ hai, luận văn đã điều tra, khảo sát và đưa ra những nhận định cơ bản

về thực tiễn dạy đọc –hiểu hai bài Đồng chí và Làng như: Thực trạng học của

HS, thực trạng dạy của giáo viên, điều kiên học tập, công tác của GV và HS...Từ

81

những nhìn nhận trực tiếp và thực tế việc dạy và học, nắm bắt được bản chất quá

trình dạy học hiện tại là một cơ sở quan trọng giúp cho việc lựa chọn các

phương pháp, biện pháp và thực tiễn phù hợp và hiệu quả hơn.

Thứ ba, luận văn đã định hướng và đề xuất hệ thống biện pháp nhằm tích

cực hóa hoạt động học tập cho học sinh lớp 9 trong dạy đọc –hiểu hai bài Đồng

chí và Làng dựa trên sự kết hợp giữa lí luận khoa học và thực tế dạy và học sinh

động ở trường THCS. Nâng cao chất lượng học tập của HS trong dạy học tác

phẩm văn học hiện đại đòi hỏi được nhình nhận đồng bộ, bao quát trên nhiều

bình diện của quá trình dạy học, vì thế hướng đi của luận văn là đưa ra những

biện pháp tích cực của hoạt động học tập của HS cụ thể ở từng khâu của hoạt

động dạy học.

Thứ tư, luận văn đã thiết kế thể nghiệm giáo án dạy học hai bài Đồng chí

và Làng đồng thời triển khai thực nghiệm nhằm kiểm chứng, đánh giá tính khả

thi của hệ thống biện pháp dạy đọc – hiểu hai tác phẩm Đồng chí và Làng, từ đó

bổ sung, điều chỉnh hệ thống biện pháp đưa ra và rút ra được những kết luận sư

phạm cần thiết sau giờ thực nghiệm. Luận văn đã cụ thể hóa và tìm cách vận

dụng lý thuyết vào thực tiễn trong dạy học cơ sở, cố gắng thực nghiệm với mong

muốn biến tư tưởng dạy học trên thành hiện thực. Khẳng định tính đúng đắn khả

thi của mô hình thiết kế hạy học mới.

4. Từ những kết tinh trên con đường đổi mới phương pháp dạy học tác

phẩm văn chương của khoa học dạy học văn, luận văn đã tiếp thu, chắt lọc và

phát triển tính đúng đắn của hướng đổi mới giáo dục hiện nay, luận văn đã có

những đóng góp nhất định kết hợp lý thuyết khoa học với điều kiện cụ thể ở

miền núi và có được một hướng đi đúng đắn góp phần nâng cao chất lượng dạy

đọc hiểu tác phẩm văn học hiện đại nói chung và hai tác phẩm Đồng chí và Làng

nói riêng cho học sinh miền núi.

Thời gian thực hiện đề tài còn hạn hẹp. Vấn đề khoa học lại không nhỏ.

Chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp của quý thầy cô, các nhà khoa

học, những người quan tâm để thực sự có được hướng đi thiết thực trong dạy

đọc hiểu cho học sinh các tỉnh miền núi.

82

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

*Giáo án tham khảo của cô Đinh Phương Liễu - GV Trường THCS An Bình

ĐỒNG CHÍ

Chính Hữu

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT :

- Cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng anh bộ đội được khắc hoạ trong bài thơ

những người đã viết lên những trang sử Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

- Thấy được những đặc điểm nghệ thuật nổi bật được thể hiện qua bài thơ này.

- Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, phân tích bài thơ

- Giáo dục HS niềm tự hào về anh bộ đội cụ Hồ

II/ CHUẨN BỊ :

1. GV : Soạn giáo án, tài liệu tham khảo , tranh ảnh

2. HS : Trả lời câu hỏi ở sgk

III/ TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :

1.Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ :

3. Bài mới :

Dân tộc VN đã trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kì, vĩ đại . Nên đề tài

người lính luôn là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ ca. Đã có không ít nhà thơ

, nhà văn , hoạ sĩ khai thác vẻ đẹp ấy. Tuy nhiên vẻ đẹp thì muôn màu. Hôm nay

chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ “Đồng chí” để thấy đựơc vẻ đẹp của người lính

buổi đầu kháng chiến chống Pháp

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS NỘI DUNG KIẾN THỨC

I/ Tìm hiểu chung : Hoạt động 1 Tìm hiểu chung

- G:?Cho hs đọc chú thích ở

sgk.Nêu một vài nét về tác giả ? 1. Tác giả :

- GV :1946 ông gia nhập trung - Trần Đình Đắc (1926- 2007)

đoàn thủ đô, hoạt động trong 2 cuộc - Quê : Hà Tĩnh

83

kháng chiến - Vừa là người lính , vừa là nhà thơ.

- Làm thơ 1947, chủ yếu viết về - Ông là nhà thơ quân đội, các tác phẩm

người lính , chiến tranh hầu như chỉ viết về người lính và chiến

- 2000 được NN trao tặng giải tranh.

thưởng HCM 2.Tác phẩm :

- G:?Bài thơ đựơc sáng tác vào năm - St: 1948 trong tập: “Đầu súng trăng

nào ? treo”

- G:Khi đọc cần chú ý ngắt nhịp ở

câu số 7, đọc với giọng chậm rãi,

tình cảm sâu lắng .

- Gv đọc mẫu , gọi 1 em đọc lại - Thể loại: Thơ tự do

- G:?Bài thơ này về hình thức khác - Bố cục :

với Truyện Kiều , Truyện Lục Vân - 7 câu đầu : Cơ sở tình đồng chí

Tiên như thế nào ? - các câu còn lại : Tình đồng chí và sức

- G:?Bài thơ được chia làm mấy mạnh của nó

phần ? Nội dung từng phần ?

II/ Phân tích : Hoạt động 2 : Tìm hiểu chi tiết

1. Hình ảnh anh bộ đội : văn bản

- G:?Mở đầu bài thơ là sự giới thiệu - Hoàn cảnh xuất thân:

về quê hương các anh . Vậy hình + Nước mặn đồng chua

ảnh quê hương được giới thiệu như + Đất cày sỏi đá

thế nào

- G:?Hình ảnh ấy gợi lên suy nghĩ gì → Là những người nông dân từ những

vùng quê nghèo , lam lũ ?

- Hs : Nghèo , lam lũ

- G:?Vì sao họ lại gặp và quen nhau

?

- G:?Súng biểu tượng điều gì ? - Súng bên súng đầu sát bên đầu.

-G:?Đầu biểu tượng điều gì ? Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

84

- Súng biểu tượng cho nhiệm vụ

chiến đấu, đầu biểu tượng cho lí

tưởng, suy nghĩ điệp từ ( Súng, bên,

đầu )tạo nên âm điệu khoẻ chắc,

nhấn mạnh sự gắn kết cùng chung lí

tưởng nhiệm vụ

- G:?Tác giả sử dụng NT gì trong -> sử dụng điệp từ, từ ngữ gợi cảm có ý

câu thơ trên ? nghĩa biểu trưng:- Họ gắn bó với nhau:

- G:?Từ sự chung lí tưởng đó đã + Vì chung lí tưởng mục đích chiến đấu

đưa họ đến cuộc sống người lính ra “Súng bên súng”

sao ?

- G:?Nhận xét về ngôn ngữ hình ảnh + Vì Cùng chung gian khó thiếu thốn

thơ ? “Đêm rét chung chăn”

→ Tri kỉ

- G:?Câu thơ thứ 7 có gì khác so với ->Hình ảnh thơ cụ thể,giản dị mà hết sức

các câu trên ? gợi cảm nói lên mối tình tri kỉ của những

- Hs : Nó như một nốt nhấn vang lên người bạn chí cốt.

trong bài thơ diễn tả niềm xúc động => Đây chính là cơ sở hình thành tình

ngân nga mãi trong lòng , khẳng đồng chí.- Đồng chí !- Là linh hồn bài

định sự gắn bó kì diệu thiêng liêng thơ, như bản lề khép mở 2 ý thơ: CS

mới mẻ của tình đồng chí. Nó như hình thành tình đồng chí và những biểu

cái 1 bản lề khép lại đoạn 1 để mở hiện của tình đồng chí-> khẳng định,

ra đoạn 2 ngợi ca tình cảm thiêng liêng.

- G:?Tìm chi tiết biểu hiện cụ thể 2. Tình đồng chí

của tình đồng chí ? a, Biểu hiện của tình đồng chí:

-G:? Từ “Mặc kệ” nói lên thái độ gì

? H/a “giếng nước, gốc đa” gợi cho * Cảm thông, chia sẻ sâu xa những tâm

em cảm nghĩ gì? tư nỗi lòng của nhau

- Gv : người lính đi chiến đấu để lại “Ruộng nương anh …ra lính”

85

sau lưng mình những gì thương quý

nhất của quê hương : ruộng nương . - Mặc kệ:-> gợi sự tếu táo, hóm hỉnh, lạc

gian nhà , giếng nước gốc đa, mẹ quan của người lính- họ hi sinh tình nhà

già , vợ trẻ , con thơ …và mặc dù họ cho việc nước.

đã quyết chí ra đi , đặt nợ nước lên - Giếng nước, gốc đa: -> ẩn dụ-> chỉ

trên tình nhà, nhưng sâu xa trong hình ảnh quê hương nơi ấy có bao người

lòng , họ vẫn da diết nhớ quê hương thân đang mong đợi.

- G:?Tại sao trong gian lao thiếu

thốn, tác giả vẫn miêu tả “ nụ cười”

- G:?Nhận xét gì về hình ảnh thơ ở

đây ? => Lòng yêu nước hoà hợp với tình yêu

- Hs : Tả thực sinh động quê hương.

( Đây là hình ảnh thực bậc nhất- cái

tưởng không thể thành thơ đã thành *Chia sẽ những gian lao thiếu thốn bệnh

thơ.) tật

- G:?Ngoài biểu hiện tình yêu thì + Áo anh rách vai

“Thương nhau tay nắm bàn tay” + Quần vài mảnh vá

còn biểu hiện điều gì ? + Chân không giày

- Hs : Đó chính là sự bộc lộ tình yêu

thương một cách mộc mạc, bình dị ,

ko ồn ào nhưng thấm thía , Bàn tay

giao cảm thay cho lời nói, đó là lời

im lặng của sự đoàn kết và cả niềm

hứa hẹn lập công

- G:?Kết cấu thơ đoạn này có gì đặc -> Hình ảnh đối xứng tả thực: Khó khăn

biệt ? gian khổ họ vẫn cười lạc quan.

- Hs : Câu thơ sóng đôi , đối ứng

- HS quan sát tranh: Vẽ cảnh gì?

Trong khung cảnh ntn?

86

- G:?Trong 3 câu thơ cuối nỗi bật b, Sức mạnh của tình đồng chí

lên những hình ảnh nào ? - Tình thương yêu đồng đội; Truyền hơi

- G:?Em thử hình dung và miêu tả ấm cho nhau nơi chiến trường → sức

cảnh tượng cuối bài thơ ? mạnh giúp người lính vượt qua mọi gian

- Hs : cảm nhận lao → đoàn kết, gắn bó.

-G:?Ý nghĩa hình ảnh “đầu súng c, Bức tranh tình đồng chí

- Chờ giặc. trăng treo” ?

- Hs : Súng tượng trưng cho chiến - Khung cảnh: rừng hoang sương muối

- có 3 h/ả: Người lính, vầng trăng, cây đấu, Trăng là h/a của thanh bình ,

súng hạnh phúc. S là con người ,T là đất

-> Bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng nước quê hương của 4000 năm văn

đội- biểu tượng đẹp về c/đ người lính hiến.S là h/a chiến sĩ gan dạ kiên

- “Đầu súng trăng treo” : Hình ảnh vừa cường, T là thi sĩ. Sự kết hợp hài

thực vừa mộng, gần –xa, chiến sĩ – thi hoà tạo nên nét LM bay bổng vừa

sĩ, đã bổ sung hoà vào nhau gợi tả cụ thể vừa nói lên lí tưởng ,

→ Sự nhạy cảm và niềm lạc quan giúp mục đích chiến đấu. Họ chiến đấu

người lính vượt qua mọi khó khăn dành cho sự thanh bình, cho AT mãi

thắng lợi nghiêng cười trên đỉnh núi

Hoạt động 3: Khái quát III. Tổng kết

- G:?Qua bài thơ em hiểu thêm gì về - Ngôn ngữ giản dị , cô đọng, gần gũi.

người lính ? - Sd h/ả tượng trưng.

- G:?Nghệ thuật đặc sắc của văn bản * Ghi nhớ : SGK

-G:Gọi hs đọc ghi nhớ ở sgk

Hoạt động 4. CỦNG CỐ- DẶN DÒ- HƯỚNG DẪN TỰ HỌC :

GV nhấn mạnh : Bài thơ là một trong những thành công sớm nhất của thơ ca

viết về bộ đội , góp phần mở ra phương hướng khai thác chất thơ, vẻ đẹp bình dị

, đời thường của người lính

- Học thuộc lòng bài thơ

- Nắm nội dung, nghệ thuật, phân tích hình ảnh người lính

- Soạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

87

PHẦN PHỤ LỤC

Phụ lục 1

* Giáo án tham khảo của cô Nguyễn Thị Kim Anh - GV Trường THCS

Quang Minh

Ngày soạn : 08/11/2014

Ngày giảng : 10&12/11/2014 TUẦN 13 - TIẾT: 61+62

Văn bản : LÀNG

- Kim Lân -

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT :

1, Kiến thức

- Có hiểu biết bước đầu về tác giả Kim Lân- một đại diện của thế hệ nhà văn

đã có những thành công từ giai đoạn trước Cách mạng tháng 8.

- Hiểu và cảm nhận được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của truyện

Làng.

2, Kĩ năng

- Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, tóm tắt văn bản tự sự

3, Thái độ

- Giáo dục hs thái độ tích cực tự giác trong học tập

- Giáo dục tình yêu quê hương , đất nước

II/ CHUẨN BỊ :

1. GV : Soạn giáo án

2. HS : Trả lời câu hỏi ở SGK, tóm tắt tác phẩm

III/ TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :

1. Ổn định tổ chức :

2. Kiểm tra bài cũ : Đọc thuộc lòng bài thơ “Ánh trăng” ?

Nêu các tầng ý nghĩa của hình ảnh “Vầng trăng” ?

88

3. Tổ chức các hoạt động :

HOẠT ĐỘNG CỦA GV - HS NỘI DUNG KIẾN THỨC

Hoạt động 1: KĐ- GT

I/ Tìm hiểu chung : Hoạt động2: Đọc- Hiểu tácphẩm

- G:? Dựa vào chú thích SGK.Hãy 1.Tác giả :

nêu những nét cơ bản về tác giả ? - Tên thật : Nguyễn Văn Tài sinh

- Gv giới thiệu chân dung Kim Lân, 1920

giới thiệu thêm về tác giả, tác phẩm - Quê : Phù Lưu- Bắc Ninh

- G:? Em hiểu gì về hoàn cảnh ra đời - Nhà văn am hiểu nông thôn và

của tác phẩm ? nông dân , có nhiều truyện ngắn đặc

-G: HD: Chú ý đọc các phần chữ to. sắc

Đọc đúng diễn biến tâm lí nhân vật 2.Tác phẩm :

- Hs : đọc In lần đầu năm 1948

- Gọi hs qsát chú thích trong SGK

- Gv yêu cầu hs tóm tắt ý chính.Gv

tóm tắt, bổ sung

- Tâm trạng của ông Hai trước khi

nghe tin làng theo giặc

- Tâm trạng, hành động của ông Hai

khi nghe tin làng theo giặc

- Niềm vui của ông Hai khi tin được

cải chính

G:? Tìm bố cục của văn bản? Bố cục: 3 phần

- Phần 1: Từ đầu -> vui quá : Cuộc - H: XĐ

sống ông Hai nơi sơ tán.

- Phần 2 : Tiiếp theo đến “ đôi phần

” : Cuộc sống của ông Hai từ khi

nghe tin làng Dầu theo giặc.

- Phần 3 : Còn lại : Cuộc sống của

89

- G:? Theo em như thế nào là tình ông Hai khi nghe tin cải chính

huống truyện ?

- Hs : Tự bộc lộ II/ Phân tích :

- G:?Tác giả đặt nhân vật chính vào 1. Tình huống truyện :

tình huống như thế nào - Yêu làng -> Phải đi tản cư

- G:?Đặt nhân vật vào tình huống gây

cấn như vậy có tác dụng gì ? → Bộc lộ tính cách nhân vật : tình

G:?Em có nhận xét gì về tình huống cảm yêu làng , yêu nước của ông Hai

truyện này ? → Tình huống độc đáo bất ngờ gay

cấn

- G:? Cuộc sống của ông nơi tản cư

ntn? 2. Diễn biến tâm trạng của ông

- G:?Khi rời Làng đi tản cư ông Hai Hai nơi tản cư:

có tâm trạng như thế nào ? a. Cuộc sống của Ông Hai nơi tản

- Hs : Tìm trong đoạn văn cư:

- GV : Thực ra ông Hai không muốn - Xa quê, vợ và con gái chạy chợ,

ông vỡ đất trồng trọt. rời làng tản cư nhưng vì đó cũng là

-> Miêu tả thực: Cuộc sống tạm bợ kháng chiến nên ông đành phải

nhưng có nề nếp. chấp nhận

- G:?Khi ở phòng thông tin ông nghe b. Tâm trạng của Ông Hai:

được những gì ? Tâm trạng của ông - Nhớ làng da diết

khi ấy ra sao ? - Luôn nghe ngóng tin tức về làng

- G:?Những biểu hiện đó của ông Hai ,về kháng chiến

chứng tỏ điều gì - Nghe nhiều tin hay từ kháng chiến ,

- G:?Ý nghĩa của chi tiết này ? ruột gan ông cứ múa cả lên, rất phấn

- Hs : Chuẩn bị cho tin buồn, bởi chấn=> Vui sướng, tự hào.

- Tình yêu làng , niềm tự hào của càng vui vì thắng lợi bao nhiêu thì

người nông dân trước thành quả CM càng đau khổ bấy nhiêu khi nghe tin

làng theo giặc

90

3. Tâm trạng của ông Hai khi nghe

- G:?Tin xấu đến với ông Hai như thế tin làng theo giặc.

nào ? a. Nghe tin làng theo giặc :

- Hs : TL - Tin đến đột ngột , bất ngờ

- G:?Ông đã phản ứng ra sao khi nghe - Sững sờ , bàng hoàng “ quay phắt

tin ấy ? lại, lắp bắp hỏi ”

+ Cổ nghẹn ắng , da mặt tê rân rân

+ lặng đi không thở được

- G:? Khi về nhà Ông có suy nghĩ gì? * Khi về nhà:

+ nằm vật ra giường

+ Quẩn quanh trong nhà

+ Gắt gỏng với mọi người

→Đau đớn, dằn vặt , cảm giác nhục

nhã

*. Mấy ngày sau đó:

-G:? Mấy ngày sau đó Ông ntn? - Lo lắng đến con đường sinh sống

- G:? Ông lo lắng điều gì ? Tâm tạng của gia đình → ám ảnh, sợ hãi

của ông? - Tâm trạng bế tắc, tuyệt vọng:

- Hs : TL + Đấu tranh tư tưởng : làng thì yêu

- G:?Xung đột nội tâm đưa ông Hai thật nhưng theo Tây thì phải thù.

đến một lựa chọn, đó là lựa chọn nào →TY nước rộng lớn , bao trùm lên

- G:?Phải chăng lúc này ông Hai TY làng

không còn yêu làng nữa ? * Cuộc trò chuyện giữa 2 bố con:

- Hs : Tự bộc lộ - Ông khẳng định tình cảm của mình

với khắng chiến, với Cụ Hồ.

- G:?Trong bế tắc ông Hai đã làm gì ? → Ông Hai là một người rất chung

Vì sao ? thuỷ với kháng chiến, CM

- Hs : tâm sự với đứa con cho vơi đi 4. Tâm trạng của Ông khi nghe tin

làng được cải chính nỗi đau, giãi bày minh oan cho mình

91

- Tươi vui mừng, phấn khởi, rạng

rỡ

+ chia quà cho con

- G:? Khi tin đồn đựơc cải chính thì + Lật đật đi báo cho mọi người biết

tâm trạng ông Hai được miêu tả như + kể chuyện một cách tỉ mỉ, say sưa

thế nào → Là người nông dân chất phác,

yêu làng quê tha thiết , chân thành,

- G:?Từ những chi tiết đó chứng minh có tinh thần kháng chiến , luôn tin

ông Hai là người như thế nào ? tưởng vào CM

- Hs : TL

III. Tổng kết : Hoạt động 3: khái quát

- G:? Theo em truyện ngắn này có 1.Nghệ thuật :

thành công không ? Thành công ở - Cốt truyện tâm lí , tình huống

phương diện nào ? truyện gây cấn

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc, ? Tìm những nét đặc sắc về nghệ

tinh tế , cụ thể thuật của văn bản

- G;?Qua văn bản em thấy tác giả là - Ngôn ngữ nhân vật sinh động giàu

người thế nào ? tính khẩu ngữ, thể hiện cá tính nhân

- Hs : Am hiểu tâm lí nông dân, gắn vật

- Cách trần thuật linh hoạt tự nhiên bó với nông thôn

*. Ghi nhớ: SGK

D/ Củng cố - Dặn dò

1.Củng cố

- Tình cảm của ông Hai được thể hiện như thế nào?

2. Dặn dò :

Chuẩn bị “Chương trình địa phương”: Sưu tầm một số từ ngữ chỉ quan hệ

ruột thịt... cách xưng hô được sử dụng ở Yên Bái

Phụ lục 2 Qua tìm hiểu chúng tôi ghi nhận kết quả học môn Ngữ văn của HS

lớp 9 từ năm 2012 đến 2015 ở một số trường trong huyện như sau:

92

Trường THCS An Bình: năm học 2012 - 2013 có 56 HS

Học lực giỏi: 3,57 %

Học lực khá: 23,21 %

Học lực trung bình: 67,87 %

Học lực yếu: 5,35 %

Năm học 2013-2014 có 58 HS

Học lực giỏi: 5,17 %

Học lực khá: 25,86 %

Học lực trung bình: 63,8 %

Học lực yếu: 5,17 %

Năm học 2014-2015 có 55 HS

Học lực giỏi: 7,27 %

Học lực khá: 27,27 %

Học lực trung bình: 61,83 %

Học lực yếu: 3,63 %

Trường THCS Đông Cuông: năm học 2012 - 2013 có 112 HS

Học lực giỏi: 1,78 %

Học lực khá: 22,25 %

Học lực trung bình: 69,74 %

Học lực yếu: 4,45 %

Học lực kém: 1,78 %

Năm học 2013 - 2014 có 118 HS

Học lực giỏi: 2,54 %

Học lực khá: 20,16 %

Học lực trung bình: 69,74 %

Học lực yếu: 4,45 %

Học lực kém: 1,78 %

Năm học 2014 - 2015 có 106 HS

Học lực giỏi: 2,82 %

Học lực khá: 19,74 %

93

Học lực trung bình: 76,5 %

Học lực yếu: 0,94 %

Trường THCS Quang Minh: năm học 2012 - 2013 có 39 HS

Học lực giỏi: 0

Học lực khá: 15,38 %

Học lực trung bình: 64,12 %

Học lực yếu: 15,38 %

Học lực kém: 5,12 %

Năm học 2013 - 2014 có 38 HS

Học lực giỏi: 2,63 %

Học lực khá: 18,42 %

Học lực trung bình: 65,8 %

Học lực yếu: 13,15 %

Năm học 2014 - 2015 có 38 HS

Học lực giỏi: 5,26 %

Học lực khá: 23,67 %

Học lực trung bình: 71,07 %

Học lực yếu: 0 %

94

Phụ lục 3

Bài làm của HS lớp thực nghiệm

Bài làm của em Bàn Thị Tá dân tộc Dao – HS lớp 9 trường THCS An Bình.

Đề bài: Cảm nghĩ của em về hình ảnh những người lính sau khi học bài thơ

Đồng Chí (Chính Hữu)

Bài làm

Nhà thơ Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Thơ ông chủ

yếu viết về người lính và chiến tranh. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất

của ông ở đề tài này là bài thơ “Đồng chí”. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng

chí, đồng đội chân thành mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong

những tháng ngày kháng chiến gian khổ.

Khi chưa học bài thơ này, em nghĩ những người lính chống Pháp ngày

xưa phải có đầy đủ trang bị vũ khí, tư trang, họ nghiêm túc, thậm chí cứng nhắc

chứ không phải giản dị, gần gũi, chiến đấu trong gian khổ như các chiến sĩ trong

bài thơ của Chính Hữu. Họ đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc

lập, tự do của Tổ quốc, họ vượt lên mọi gian khổ bằng sự sẻ chia và tinh thần

đoàn kết.

Mở đầu bài thơ, là lời giới thiệu mộc mạc “Quê hương anh nước mặn,

đồng chua, Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá”. Những người đồng đội ấy giống

nhau về cảnh ngộ xuất thân, họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau.

“Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian nan, vất

vả mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả. Thành ngữ dân gian được tác giả vận

dụng rất tự nhiên, khiến người đọc có thể hình dung ra những miền quê nghèo

khó của những người lính dũng cảm. Từ những con người xa lạ, họ được kết lại

bằng tình đồng đội, họ hiểu nhau, thương nhau, trở thành tri kỉ của nhau để đứng

trong cùng đội ngũ chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

95

Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm

gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí. Càng ở miền núi, chúng em càng

hiểu được cái rét cắt da cắt thịt trong thiếu thốn như thế nào, thế nhưng những

người lính đã vượt qua tất cả bởi họ biết chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui,

nỗi buồn, biết dựa vào nhau mà sống. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã

trải qua cuộc đời người lính nên mới gieo được giữa bài thơ hai từ “đồng chí”

như một cái bản lề nối gữa bài thơ một cách ngắn gọn, thiêng liêng như vậy.

Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp, có tình bạn bè tri kỉ và có sự

gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu.

Người chiến sĩ lên đường đi chiến đấu đã phải chấp nhận sự hi sinh, gạt

sang một bên những toan tính riêng tư.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Cuộc đời lính các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu

trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục mỏng manh giữa mùa

đông lạnh giá. Nếu không có sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính

thì họ không thể vượt qua gian khổ ấy được.

Đến với ba câu thơ cuối, ta bắt gặp một bức tranh đẹp về tình đồng chí:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc trong một không gian âm u, hoang

vắng và lạnh lẽo: “rừng hoang sương muối”. Không chỉ cái gió, cái rét cứ đeo

đuổi họ mà còn bao nguy hiểm nơi núi rừng trùng điệp đang rình rập người

chiến sĩ. Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính “đứng

cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Từ “chờ” ở đây cũng đã nói rõ lên cái tư thế hiên

96

ngang, tự tin, sẵn sàng, chủ động đánh giặc của họ. Và khi đó, tầm vóc của

những người chiến sĩ ấy càng trở nên lớn lao hơn. Câu thơ cuối là một hình ảnh

đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính.

Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí nào đấy,

vầng trăng như xà xuống, treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang chờ

phục kích giặc. Tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người

lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh

“đầu súng trăng treo”.

Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những

con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, giúp cho

những người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời

người lính, làm điểm tựa để tạo nên chiến thắng hào hùng cho dân tộc.

Bài thơ Đồng chí không chỉ cho ta thấy vẻ đẹp trong tình cảm, tâm hồn của

những người lính mà còn cho ta thấy sức mạnh phi thường của tình đồng chí.

Càng khâm phục ý chí của những chiến sĩ thời chống Pháp bao nhiêu, em càng

cảm thấy biết ơn những thế hệ cha ông đã hi sinh thân mình đổi lấy hòa bình, no

ấm cho muôn đời sau. Em tự hứa sẽ cố gắng học tập để mai sau trở thành người

con có ích của núi rừng quê hương.

Bài làm của em Chiêu Thị Liên dân tộc tày – HS lớp 9 trường THCS

Quang Minh

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật ông Hai để thấy được tình yêu

làng quê sâu sắc của ông.

Bài làm

Kim Lân được coi là nhà văn của làng quê Việt Nam, ông chuyên viết

những tác phẩm chan chứa tình yêu quê hương, tràn đầy tình thương và sự cảm

thông trước những số phận lặng thầm nơi xóm làng mộc mạc. Làng là một trong

những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Kim Lân viết về làng quê và những

người dân quê Việt Nam. Nhân vật chính trong truyện là ông Hai, một người

nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó tha thiết với làng

quê và cuộc kháng chiến.

97

Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” có một tình yêu làng quê và

lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết. Làng chính là quê hương, là cuộc đời người

nông dân. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh

diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt

ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông

Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng

trong căn bếp tản cư.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông

nghe tin làng ông theo Tây. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông

lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi

lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Mấy chữ

“cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự

hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn

trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật

ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại, nhưng sau đó là đau đớn

khi được biết những bằng chứng rõ ràng, Phải thừa nhận cái tin đó, không thể

nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian

!” Có lẽ trong đời mình. Ông Hai đâu chỉ đau cho mình, mà ông còn đau cho

những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan

tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?”. Lúc

này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao

hơn, là lòng tự trọng, là danh dự. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất

tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bấy nhiêu. Cái

tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng

lên tâm trí ông. ”Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là

ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !”. Ông Hai đã trải qua

những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà đuổi khéo.

Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu

đậm với làng quê. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những

chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. Dù dính tin đồn làng mình theo Tây, bị

98

dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Tình

yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập vào lòng yêu nước.

“Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại

những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng

đắn: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Tuy nói

chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm

sự. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và

cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng

mình. Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông Hai như sống lại.

“Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Nguồn sinh lực

ngày nào lại trở về trong ông. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi

rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật

và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị

đốt như thế. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì

làng cũng mất.

Nhà văn cũng rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi

thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, đối thoại để lột tả tính

cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, bên cạnh đó, tác giả

vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất

bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai, Qua

tình huống có tính căng thẳng để thử thách nhân vật là làng Chợ Dầu bị đồn theo

Tây, Kim Lân đã cho ta thấy những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận

thức và tình cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Qua

nhân vật ông Hai, em cảm thấy thêm yêu làng quê mình và tự hào vô cùng về

truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng thời tự dặn mình phải phấn đấu học

thật tốt để xây dựng quê hương đất nước thêm giàu đẹp.

99

Phụ lục 4: MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN DẠY VĂN.

( Phiếu này dung vào mục đích nghiên cứu khoa học

. Không sử dụng để đánh giá GV)

Xin quý thầy.cô vui lòng biế ý kiến về các vấn đề sau:

1. Họ và tên:………………………….Nam/nữ…………Dân tộc……….

2. Đơn vị công tác:……………………. .............................................................

3. Số năm giảng dạy Ngữ văn ở trường THCS:……….năm. .............................

4. Số lần được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy……………………...lần.

5. Thầy/cô có đủ nguồn tài liệu phục vụ chuyên môn

- Sách giáo khoa

- Sách giáo viên

- Sách tham khảo

- Sách báo

- Mạng Internet

6. Trong giảng dạy, thầy/cô thường sử dụng phương pháp nào?

- Thuyết trình và hỏi đáp Thường xuyên Đôi khi Không dùng

- Sử dụng câu hỏi gợi mở, gợi tìm Thường xuyên Đôi khi Không dùng

- Chi nhóm, giáo nhiệm vụ Thường xuyên Đôi khi Không dùng

- Dạy học nêu vấn đề Thường xuyên Đôi khi Không dùng

- Kết hợp phương pháp khác Thường xuyên Đôi khi Không dùng

7. Trong bài giảng. thầy/cô có sử dụng các hình thức hoạt động nghệ thuật?

- Thường xuyên Đôi khi Không dùng

8. Xin thầy/ cô cho biết những yếu tố nào sau đây ảnh hưởng đến chất lượng học

tác phẩm “Đồng chí” của học sinh?

- Bản thân học sinh - Thiếu sách giáo khoa

- Hoàn cảnh gia đình - Thiếu tài liệu tham khảo

- Cơ sở vật chất nhà trường - Quy định của nhà trường

100

Đối với tác phẩm“Làng”?

- Bản thân học sinh - Thiếu sách giáo khoa

- Hoàn cảnh gia đình - Thiếu tài liệu tham khảo

- Cơ sở vật chất nhà trường - Quy định của nhà trường

- Phương pháp dạy học của GV - Các yếu tố khác

- Phương pháp dạy học của GV - Các yếu tố khác

9. Thầy/ cô gặp những thuận lợi và khó khăn gì khi thiết kế giáo án, khi dạy

học bài “Đồng chí”?

Thuận lợi: ................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

Khó khăn: ................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

Thầy/ cô gặp những thuận lợi và khó khăn gì khi thiết kế giáo án, khi dạy học

bài “Làng”?

Thuận lợi: ................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

Khó khăn: ................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

101

10.Thầy/cô quan tâm đến thiết kế giáo án ở mức độ?

- Soạn say mê

- Soạn cẩn thận

- Soạn bình thường

- Soạn “ cho có” giáo án

11. Theo thầy/ cô, thái độ của học sinh trong các lớp thầy /cô đang dạy với bài

“Đồng chí” ra sao?

- Số học sinh yêu thích:……..%

- Số học sinh không hứng thú:…………..%

- Chất lượng học hai bài “Đồng chí” của học sinh:

Giỏi:…… % Khá:…… % Trung bình:…… % Yếu, kém:…… %

Theo thầy/ cô, thái độ của học sinh trong các lớp thầy /cô đang dạy với bài

“Làng” ra sao?

- Số học sinh yêu thích:……..%

- Số học sinh không hứng thú:…………..%

- Chất lượng học bài “Làng” của học sinh:

Giỏi:…… % Khá:…… % Trung bình:…… % Yếu, kém:…… %

12. Thầy/cô có quan tâm đến vấn đề giao việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh?

Rất quan tâm Bình thường Tùy từng bài học Không quan tâm

13. Vai trò của phương pháp và biện pháp dạy học đối với chất lượng dạy học

bài “Đồng chí” như thế nào?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

Vai trò của phương pháp và biện pháp dạy học đối với chất lượng dạy học

bài “Làng” như thế nào?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

14. Việc sử dụng các biện pháp dạy học như thế nào để có hiệu quả?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

102

15. Thầy/ cô đánh giá về giờ dạy tác phẩm “Đồng chí” của mình:

Tốt Khá Trung bình Yếu

Thầy/ cô đánh giá về giờ dạy tác phẩm “Làng” của mình:

Tốt Khá Trung bình Yếu

Xin chân thành cảm ơn ý kiến trao đổi của quý thầy cô

103

* Phụ lục 5: MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN HỌC SINH

(Phiếu này dung vào mục đích nghiên cứu khoa học.Không sử dụng để đánh giá HS)

Mong các em vui lòng trả lời các câu hỏi sau:

1. Họ và tên:……………………………Nam/nữ:…………Dân tộc:……………

2.Lớp:………….. trường…………………………………………………………

3. Theo em việc chuẩn bị bài có cần thiết không?

- Rất cần thiết - Cần thiết

- Bình thường - Không cần thiết

4. Em có quan tâm đến việc chuẩn bị bài?

- Có chuẩn bị bài - Không chuẩn bị bài - Tùy từng bài học

5. Thời gian em dành cho việc chuẩn bị bài là:…….giờ/phút.

6. Em soạn bài như thế nào trước khi đến lớp không?

- Soạn kỹ lưỡng đầy đủ

- Bình thường

- Soạn sơ sài, chống đối

7. Em thường chuẩn bị bài trước khi đến lớp như thế nào?

- Đọc sách giáo khoa: Thường xuyên Thi Thoảng

- Đọc sách thiết kế, sách tham khảo: Thường xuyên Thi Thoảng

- Trả lời các câu hỏi trong SGK: Thường xuyên Thi Thoảng

- Chép sách tham khảo: Thường xuyên Thi Thoảng

- Chép bài chuẩn bị của bạn: Thường xuyên Thi Thoảng

8. Em có hứng thú học bài “Đồng chí” không?

- Có - Không

Em có hứng thú học bài “Làng” không?

- Có - Không

9. Trong giờ học bài “Đồng chí” em có chú ý nghe giảng không?

- Có hiểu bài ngay trên lớp không? Có Không

- Có tích cực phát biểu xây dựng bài không? Có Không

104

- Khi chưa hiểu bài, em có đề nghị giáo viên giảng lại phần chưa hiểu không?

Có Không

Trong giờ học hai bài “Làng” em có chú ý nghe giảng không?

- Có hiểu bài ngay trên lớp không? Có Không

- Có tích cực phát biểu xây dựng bài không? Có Không

- Khi chưa hiểu bài, em có đề nghị giáo viên giảng lại phần chưa hiểu không?

Có Không

10. Em có những tài liệu nào phục vụ cho học tác phẩm “Đồng chí”

- Sách giáo khoa - Sách bài tập - Sách tham khảo

Em có những tài liệu nào phục vụ cho học tác phẩm “Làng”

- Sách giáo khoa - Sách bài tập - Sách tham khảo

11. Em thường học theo những cách nào?

- Theo vở ghi - Học theo nhóm

- Theo sách giáo khoa - Đọc thêm tài liệu tham khảo

12. Em học bài ở nhà như thế nào?

- Thường xuyên - Khi hôm sau có tiết

- Trước khi thi - Trước khi có bài kiểm tra

- Không học

13. Trong các giờ học, giáo viên có thường đưa ra các câu hỏi và những tình

huống học tập để các em suy nghĩ và trả lời nhằm xây dựng bài giảng không?

- Thường xuyên - Đôi khi - Không

14. Những yếu tố nào sau đây ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của em trong

học văn:

- Không có sách giáo khoa - Hạn chế bản thân

- Không có tài liệu tham khảo - Phương pháp giảng bài của GV

- Hoàn cảnh gia đình - Yếu tố khác

Em có thể nói cụ thể về các yếu tố khác (Nếu có):

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

105

15. Đánh giá của em về bài thơ Đồng chí

Đặc sắc Hay Bình thường Ý kiến khác

Đánh giá của em về tác phẩm Làng

Đặc sắc Hay Bình thường Ý kiến khác

16. Ngoài SGK và vở ghi, sau giờ học em bổ sung kiến thức cho mình như thế nào?

- Từ báo, đài, truyền hình

- Từ sách tham khảo

- Từ mạng Interrnet

- Không tìm thêm tài liệu

17. Em thích học theo bài giảng mới này hơn hay bài giảng cũ hơn?

( Chỉ dành cho lớp học thực nghiệm)

- Thích hơn - Bình thường - Không thích

Vì: ................................................................................................................................

......................................................................................................................................

......................................................................................................................................

18. Theo em thì:

- Những phương pháp dạy học nào thấy em hứng thú học và dễ tiếp thu?:

Thuyết trình Đàm thoại Giải quyết vấn đề Các PP khác

- Để học tốt hai bài “Đồng chí” và “Làng” em có đề nghị gì?

Xin chân thành cảm ơn ý kiến của các em

106