BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Ngọc Nhuận
DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
(CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT)
THEO QUAN ĐIỂM TIẾP NHẬN VĂN HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Ngọc Nhuận
DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
(CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT)
THEO QUAN ĐIỂM TIẾP NHẬN VĂN HỌC
Chuyên ngành
: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn
Mã số
: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THANH BÌNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ với đề tài “Dạy đọc – hiểu văn bản tự
sự (chương trình Ngữ văn THPT) theo quan điểm tiếp nhận văn học” là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Trần Thanh Bình. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài
liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí khoa học theo danh
mục tài liệu tham khảo của luận văn. Bên cạnh đó, luận văn trình bày những
vấn đề xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm của bản thân.
Người cam đoan
Tác giả luận văn
Bùi Ngọc Nhuận
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ, giúp
đỡ tận tình, quý báu của các thầy cô, nhà trường, gia đình, bạn bè và các đồng
nghiệp.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thanh Bình đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ văn, Phòng KHCN & SĐH,
Trường ĐHSP TPHCM đã có những hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo ở một số trường THPT, Trung tâm
GDTX đã có những góp ý, đánh giá, nhận xét chân tình về những vấn đề của
luận văn.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn ủng hộ, giúp đỡ
tôi.
Dù đã cố gắng thực hiện và hoàn thành luận văn bằng tất cả tâm huyết
và nỗ lực của mình nhưng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của quý thầy cô.
Tp. HCM, ngày 30 tháng 09 năm 2014
Bùi Ngọc Nhuận
MỤC LỤC
0TLời cam đoan0T
0TMục lục0T
0TMỞ ĐẦU0T ................................................................................................................... 1
0TChương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................. 0T 10
0T1.1. Cơ sở lí luận ...................................................................................................... 0T 10
0T1.1.1. Một số vấn đề về lí thuyết tiếp nhận ..................................................... 0T 10
0T1.1.2. Một số vấn đề về đọc hiểu0T ..................................................................... 15
0T1.1.3. Đọc hiểu theo loại thể0T ............................................................................. 20
0T1.1.4. Các phương pháp, hình thức trong quá trình dạy học ........................... 0T 22
0T1.2. Cơ sở thực tiễn0T ................................................................................................... 24
0T1.2.1. Tác phẩm tự sự trong sách giáo khoa trung học phổ thông và những yêu
cầu chuẩn kiến thức kĩ năng0T ................................................................. 24
0T1.2.2. Thực trạng dạy học văn bản tự sự hiện nay ở trường trung học phổ
thông ..................................................................................................... 0T 32
0T1.2.3. Thực trạng dạy học đoạn trích0T ............................................................... 33
0TChương 2. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
Trang phụ bìa
Ở TRƯỜNG THPT0T ............................................................................ 35
0T2.1. Đặc điểm loại thể của tác phẩm tự sự0T ............................................................... 35
0T2.1.1. Cốt truyện0T .............................................................................................. 35
0T2.1.2. Kết cấu0T ................................................................................................... 37
0T2.1.3. Nhân vật................................................................................................. 0T 38
0T2.1.4. Ngôn ngữ0T ................................................................................................ 40
0T2.1.5. Không gian nghệ thuật0T .......................................................................... 43
0T2.1.6. Thời gian nghệ thuật0T .............................................................................. 44
0T2.2. Biện pháp tổ chức dạy đọc - hiểu văn bản tự sự ở trường THPT theo quan điểm
tiếp nhận văn học0T ...................................................................................................... 45
0T2.2.1. Mục đích ................................................................................................ 0T 45
0T2.2.2. Qui trình0T ................................................................................................. 45
0T2.2.3. Một số lưu ý chung về dạy đọc hiểu văn bản tự sự ............................... 0T 46
0T2.3. Định hướng tiếp nhận đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia ........................ 0T 47
0T2.4. Dạy đọc - hiểu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia0T ................................... 51
0T2.4.1. Hoạt động chuẩn bị của giáo viên ......................................................... 0T 51
0T2.4.2. Hoạt động chuẩn bị của học sinh – người đọc ...................................... 0T 65
0T2.4.3. Hoạt động tương tác trên lớp ................................................................. 0T 66
0TChương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM0T ............................................................. 70
0T3.1. Mục đích thực nghiệm0T ...................................................................................... 70
0T3.2. Nội dung - Yêu cầu thực nghiệm0T ...................................................................... 70
0T3.3. Đối tượng - Thời gian thực nghiệm0T .................................................................. 71
0T3.4. Triển khai thực nghiệm0T ..................................................................................... 71
0T3.4.1. Giáo án thực nghiệm0T .............................................................................. 71
0T3.4.2. Các bước tiến hành thực nghiệm0T ........................................................... 82
0T3.5. Đánh giá thực nghiệm0T ....................................................................................... 82
0T3.5.1. Các tiêu chí đánh giá0T ............................................................................. 82
0T3.5.2. Phương tiện đánh giá0T ............................................................................. 83
0T3.5.3. Phân tích kết quả thực nghiệm0T .............................................................. 83
0T3.5.4. Đánh giá................................................................................................. 0T 87
0T3.5.5. Bài học kinh nghiệm0T .............................................................................. 89
0TKẾT LUẬN ............................................................................................................. 0T 91
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 0T 93
0TPHỤ LỤC0T
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HS
:
Học sinh
GV
:
Giáo viên
SGK
:
Sách giáo khoa
SGV
:
Sách giáo viên
THPT
:
Trung học phổ thông
THVH
:
Tác phẩm văn học
ĐNTM
:
Đồng nhất thẩm mĩ
KCTM
:
Khoảng cách thẩm mĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Vấn đề đọc hiểu và đọc hiểu văn bản văn học theo loại thể
Đọc hiểu được xem là khâu trung tâm của quá trình dạy học văn theo
định hướng đổi mới góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
(HS), biến HS từ khách thể thụ động thành chủ thể tích cực, từ người nghe thụ
động trở thành người đọc sáng tạo. Nắm được phương pháp dạy đọc – hiểu,
giáo viên (GV) sẽ giúp HS trang bị công cụ quan trọng nhất để vào đời – tự
đọc và tự học, đọc suốt đời và học suốt đời. Hoạt động đọc chiếm vị trí cao
nhất đối với con người, nhu cầu biết đọc gắn với hoạt động công việc, chất
lượng công việc. Đọc là nền tảng. Qua đọc người ta hiểu thêm được, trưởng
thành. Đọc – hiểu, một trong những năng lực cơ bản của con người trong xã
hội.
Trong bài Đọc – hiểu văn bản như một khâu đột phá dạy học văn học
trong nhà trường, Trần Đình Sử khẳng định: “Dạy văn là dạy cho HS năng
lực đọc, kĩ năng đọc để HS có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ
đọc – hiểu mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư
tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách
đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho HS năng lực
của chủ thể tiếp nhận thẩm mĩ. Do đó, hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc
văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát
triển năng lực là chủ thể HS” [dẫn theo 68, tr.234].
Đỗ Ngọc Thống trong bài báo Đánh giá năng lực đọc – hiểu của HS –
Nhìn từ yêu cầu của PISA cho biết yêu cầu của PISA (Chương trình đánh giá
HS quốc tế) về đọc – hiểu: “Đọc – hiểu không chỉ là yêu cầu đối với cả quãng
tuổi thơ trong nhà trường phổ thông, mà nó còn trở thành một nhân tố quan
trọng trong việc xây dựng, mở rộng kiến thức, kĩ năng và chiến lược của mỗi
cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở các tình
2
huống khác nhau trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả
cộng đồng rộng lớn” [dẫn theo 68, tr.235].
Những tác phẩm văn học thuộc các thể loại khác nhau, do đó cách đọc
hiểu khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để HS có thể đọc hiểu nó – tức là
tiếp xúc với một hệ thống tín hiệu, giải mã tín hiệu ấy để chỉ ra được nội dung
và ý nghĩa của văn bản một cách chính xác, lí giải khoa học và có sức thuyết
phục. Đọc – hiểu là vấn đề quan trọng của dạy học văn. Và đọc – hiểu theo
loại thể là một trong những cơ sở quan trọng giúp HS hiểu văn bản một cách
có cơ sở, trang bị cho HS công cụ, phương thức, cách thức để khám phá văn
bản. Để vấn đề đọc – hiểu đạt hiệu quả, phương pháp dạy học phải đổi mới
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của HS; từ đó hình thành phương pháp
đọc cho HS, đặc biệt là đọc – hiểu theo loại thể để HS tự đọc, tự học và biết
giải quyết những vấn đề đặt ra.
1.2. Vị trí, vai trò của tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông
Văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT chiếm số
lượng khá lớn (so với các thể loại khác trong chương trình). Nó được sắp xếp
theo loại thể (truyện, kí, tiểu thuyết) và thời kì văn học lớn (văn học dân gian,
văn học trung đại, văn học hiện đại). Sự sắp xếp này tuân theo nguyên tắc
cảm thụ văn học – nguyên tắc loại thể gắn liền việc bồi dưỡng tri thức thể loại
với đánh giá thành tựu văn học theo loại thể, rất thuận tiện cho việc dạy đọc
hiểu.
Nhìn chung các văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn THPT đa
dạng, phong phú và là những tác phẩm hay, tiêu biểu. Do đó, yêu cầu đặt ra là
dạy một cách kĩ lưỡng để học sinh một mặt thấy được vẻ đẹp cụ thể của tác
phẩm ấy, mặt khác giúp học sinh biết cách đọc, cách phân tích và tiếp nhận
một tác phẩm văn học. Từ đó các em có thể tự mình đọc, tìm hiểu và khám
phá những tác phẩm tương tự, cho dù tác phẩm đó nằm ngoài chương trình.
Các em thêm yêu văn học và có ý thức giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
3
của dân tộc và nhân loại.
1.3. Vị trí, vai trò của đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trong
chương trình Ngữ văn THPT
Tác phẩm văn chương được tiếp nhận thông qua bạn đọc. Mỗi tác phẩm
chứa đựng không ít những khám phá và có thể không bao giờ cạn đối với bạn
đọc. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm như thế.Và đoạn trích “Hạnh
phúc của một tang gia” (chương XV) là một chương đặc sắc, hàm chứa
những tinh túy của tác phẩm. Nó vẫn còn là một thách thức đối với GV bởi
những “điểm chưa xác định”. Do đó, viêc nghiên cứu nó để tổ chức, hướng
dẫn HS tiếp nhận đat hiệu quả là điều rất cần thiết.
Đọc – hiểu là một trong những nội dung quan trọng của dạy học Văn.
Có thể nói đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với
văn bản để thấy được cái hay, cái đẹp trong đó; giúp người học đọc hiểu một
cách có cơ sở, lí giải khoa học và có sức thuyết phục. Và nhờ tiếp nhận của
người đọc mà tác phẩm văn học sống mãi vì “mỗi tác phẩm đều có số phận
của mình trong lòng người đọc”. Đọc – hiểu cho phép hoạt động dạy đọc văn
trở nên tích cực. Cơ sở nền tảng của cách dạy đọc hiểu trong nhà trường đó
chính là lí thuyết tiếp nhận văn học. Từ lí thuyết tiếp nhận văn học, phương
pháp dạy học văn trong nhà trường khẳng định: học sinh là những bạn đọc
thật sự có khả năng tham gia quá trình “biến văn bản thành tác phẩm”.
Từ những lí do trên và việc nhận thức được ý nghĩa của việc đổi mới
trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng; tầm quan trọng của
tiếp nhận văn học cùng mong muốn nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
trong nhà trường, người viết chọn đề tài “Dạy đọc – hiểu văn bản tự sự
(chương trình Ngữ văn THPT) theo quan điểm tiếp nhận văn học”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về loại thể
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng những phương
4
pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác
nhau đối với hiện thực, có những cách thức xây dựng hình tượng khác nhau,
từ đó hình thành nên những thể loại văn học nhất định. Thể loại văn học là
“dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn
định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau
về cách thức tổ chức miêu tả tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng
đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với
các hiện tượng đời sống ấy” [21, tr.299].
Trong quá trình vận động lịch sử của văn học, sự hình thành, phát triển
và mất đi của các thể loại văn học là một hiện tượng bình thường. Tuy nhiên,
phương thức biểu đạt cuộc sống trong văn học thì dường như vẫn ổn định.
Trong suốt một thời gian dài, khởi đầu từ Aristote, lí luận văn học đã dựa vào
các yếu tố ổn định – phương thức biểu đạt – để phân chia tác phẩm văn học
thành ba thể loại: tự sự, trữ tình và kịch. Mặc dù cho đến nay, có nhiều cách
phân loại mới hơn đã được đề xuất nhưng trong giới hạn của luận văn, chúng
tôi chấp nhận cách phân loại truyền thống trên để việc triển khai các nội dung
đối thoại mang tính tiêu biểu và tập trung hơn.
Sự thay đổi và phát triển của các thể loại văn học cũng ghi nhận một
thực tế: việc phân chia tác phẩm văn học thành ba thể loại như trên thật ra chỉ
mang tính tương đối. Thứ nhất: các đặc tính của một thể loại vừa có mặt ổn
định, lại vừa có sự phát triển; nói như M. Bakhtin: “Thể loại bao giờ cũng vẫn
thế, bao giờ cũng đồng thời vừa cũ vừa mới. Thể loại được tái sinh và đổi mới
trong từng giai đoạn mới của sự phát triển văn học và trong từng tác phẩm cá
biệt của thể loại đó. Và đó là đời sống của thể loại” [dẫn theo 47, tr.346].
Vấn đề loại thể đã được các nhà lí luận văn học quan tâm từ khá sớm.
Từ những góc độ khác nhau, các tác giả cũng có những quan điểm về loại thể
trong tiếp nhận, nghiên cứu, sáng tác…phần nào giúp cho GV có được cái
nhìn mới mẻ, phong phú về loại thể. Trong Lí luận văn học, Phương Lựu
5
khẳng định: “thể loại văn học thể hiện các quy luật phản ánh đời sống và tổ
chức tác phẩm tương đối bền vững ổn đinh, đã được định hình trong thực tiễn
sáng tác. Nhưng mặt khác, thể loại cũng được tái sinh, đổi mới để thích ứng
với nội dung hiện thực” [47, tr. 347]. Trần Đình Sử trong Lí luận văn học (tập
2) – Tác phẩm và thể loại văn học có viết: “thể loại là toàn bộ các phương
thức tổ chức, phản ánh và giao tiếp độc đáo như một hệ thống chỉnh thể” [59,
tr. 222].
Đối với mỗi thể loại văn học, các tác phẩm sẽ có những đặc điểm riêng,
cách thức thức thể hiện những “điểm chưa xác định” riêng và do đó, đòi hỏi
những cách tiếp nhận riêng.
2.2. Những công trình nghiên cứu về tự sự
Những công trình nghiên cứu về tự sự có khá nhiều, trong đó có hai
công trình chúng ta cần quan tâm đó là Lí luận văn học do Phương Lựu (chủ
biên) (2002) và Lí luận văn học (tập 2) – Tác phẩm và thể loại văn học do
Trần Đình Sử (chủ biên) (2012). Đây là những công trình có giá trị, giúp cho
người đọc nắm vững đặc trưng cơ bản của từng thể loại (trong đó có tự sự).
Những giáo trình, những chuyên luận về giảng dạy văn học trong nhà
trường theo loại thể không nhiều. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo
loại thể do nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai và
Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể của NguyễnViết
Chữ là những tài liệu cần thiết cho GV và HS.
Gần đây có xuất hiện một số chuyên đề về đặc trưng thể loại. Giáo sư
Đỗ Bình Trị có chuyên đề Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học
dân gian. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến có Nhập môn văn học và phân tích thể
loại. Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi có chuyên đề Đặc trưng truyện ngắn Thạch
Lam, Đặc trưng truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945.
Hiện nay, trên các tạp chí, các đợt tập huấn đổi mới phương pháp dạy
học văn, tập huấn thay sách… đều có đề cập đến vấn đề giảng dạy văn theo
6
đặc trưng thể loại (Đời sống thể loại văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX –
Vũ Tuấn Anh; Mô hình đọc hiểu theo đặc trưng thể loại với việc hình thành
và bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản văn chương cho học sinh trung học
phổ thông – Trần Thị Thu Hồng).
Các chuyên luận, bài viết đã đi sâu vào tìm hiểu đặc trưng của một bộ
phận văn học, một giai đoạn văn học. Đó là sự vận dụng cụ thể, cái đóng góp
nhiều cho việc dạy học văn. Những vấn đề các tác giả đặt ra một mặt giúp cho
người giáo viên ở trường phổ thông có được những kiến thức cơ bản, hệ
thống về đặc trưng thi pháp của các thể loại để từ đó giúp cho công việc giảng
dạy thuận lợi và có hiệu quả. Mặt khác, các tài liệu cũng đã trình bày những
quan điểm thường thấy trong những công trình về lí luận đang lưu hành ở ta.
2.3. Những công trình nghiên cứu về dạy học tác phẩm tự sự
Những công trình nghiên cứu về dạy học tác phẩm tự sự trên các sách
báo đã có khá nhiều; đặc biệt chúng tôi quam tâm đến một số luận văn để
tham khảo. Có thể kể đến “Tiếp nhận văn học (qua một số tiểu thuyết của
Khái Hưng – Nhất Linh – Hoàng Đạo)” của Lâm Nhựt Thuận; Nguyễn Thị
Yến Trinh (2008), “Tổ chức hoạt động đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam
theo đặc trưng loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11”; Nguyễn Duy
Thanh (2009), “Thiết kế một số bài đọc – hiểu văn bản văn học Việt Nam hiện
đại theo thể loại”. Những luận văn này trình bày góp phần thiết thực trong
việc đổi mới phương pháp dạy học, cụ thể là trong giảng dạy văn bản tự sự
theo nguyên tắc tích hợp và tích cực nhằm phát huy tính sáng tạo, chủ động
của người học.
2.4. Những công trình nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm Số đỏ và
đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Những công trình, bài viết về tác phẩm và đoạn trích có rất nhiều, trong
điều kiện cho phép, người viết chú ý đến hai mảng sau:
Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Số đỏ và đoạn trích Hạnh
7
phúc của một tang gia: Các bài viết của Nguyễn Hoành Khung – “Số đỏ”;
Phan Cự Đệ “Đánh giá lại Số đỏ”; Hoàng Ngọc Hiến “Trào phúng của Vũ
Trọng Phụng trong Số đỏ”; Nguyễn Đăng Mạnh – “Tiểu thuyết Số đỏ và tài
nghệ Vũ Trọng Phụng”; Đỗ Đức Hiểu – “Những lớp sóng ngôn từ trong Số
đỏ”; Vũ Dương Quỹ - “Đám tang một người hay cuộc hành trình tới mộ của
toàn xã hội”; Hà Minh Đức – “Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ Vũ Trọng
Phụng”. Những bài viết trên, mỗi bài viết là khám phá mỗi vấn đề của tác
phẩm. Nó là nguồn tài liệu cần thiết cho người dạy.
Những công trình hướng dẫn giảng dạy về tác phẩm Số đỏ và đoạn
trích Hạnh phúc của một tang gia: Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11, tập 1
(Nguyễn Văn Đường); Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1 (Phan Trọng Luận);
Giới thiệu giáo án Ngữ văn 11, tập 1 (Nguyễn Hải Châu); Hướng dẫn học và
làm bài Ngữ văn 11 (Huỳnh Ngọc Mỹ - Nguyễn Thị Đáo) chỉ dẫn cụ thể, chi
tiết, nêu rõ từng hoạt động trong tiến trình dạy học đoạn trích trên. Thế nhưng
để dạy đọc hiểu hiểu văn bản Hạnh phúc một tang gia nói riêng và văn bản tự
sự nói chung đạt hiệu quả và rèn kĩ năng đọc cho người học là không đơn
giản. Nó đòi hỏi người dạy hiểu đối tượng tiếp nhận; tổ chức hoạt động dạy
học khoa học, hợp lí; sự linh hoạt trong phương pháp, hình thức dạy học và
giải quyết những tình huống nảy sinh.
Lí thuyết tiếp nhận văn học – một trong những cơ sở của việc dạy đọc
hiểu trong nhà trường. Học sinh phải là người đọc. Thế nhưng, hoạt động đọc
hiểu trong nhà trường hiện nay chưa thực hiện đúng nghĩa của nó, ít chú ý đến
cách cảm, cách hiểu của người đọc – HS, tính giao tiếp đối thoại giữa những
người đọc. “Hạnh phúc của một tang gia” là văn bản khó để người đọc tiếp
nhận hết cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong nó. Và ở mỗi người đọc có thể có
những cách tiếp nhận khác nhau. Vấn đề về lí thuyết tiếp nhận văn học không
là mới mẻ. Nhưng việc vận dụng nó vào trong quá trình tổ chức dạy học nhằm
phát huy được năng lực của người học là vấn đề rất cần được quan tâm. Vì
8
vậy, đề tài đi sâu vào hoạt động dạy đọc – hiểu đoạn trích theo quan điểm tiếp
nhận văn học, xem xét việc vận dụng quan điểm này, góp phần nhỏ nâng cao
hiệu quả dạy và học đọc – hiểu văn bản tự sự trong nhà trường hiện nay.
3. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Thực hiện đề tài Dạy đọc – hiểu văn bản tự sự (chương trình Ngữ văn
THPT) theo quan điểm tiếp nhận văn học, chúng tôi muốn góp phần giải
quyết một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới dạy học Ngữ văn
trong nhà trường và nhằm phát triển năng lực của người học.
Để đạt mục đích tiêu trên, nghiên cứu việc dạy đọc – hiểu văn bản tự sự
ở trường phổ thông theo quan điểm tiếp nhận văn học, người viết sẽ chú ý đến
những ưu thế và tính khả thi của hướng đi này trong việc vận dụng vào thực tế
dạy đọc – hiểu văn bản văn học trong nhà trường hiện nay.
Từ đó, luận văn đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy đọc
hiểu văn bản tự sự theo quan điểm tiếp nhận văn học và thử nghiệm vận dụng
vào thực tế giảng dạy văn bản tự sự cụ thể.
3.2. Đối tượng, phạm vi
Do giới hạn về thời gian, chúng tôi tiến hành trong phạm vi đọc hiểu văn
bản Hạnh phúc của một tang gia (chương trình Ngữ văn lớp 11 ban cơ bản).
Đối tượng nghiên cứu thực nghiệm là HS lớp 11D1 – Trung tâm GDTX quận
12, thành phố Hồ chí Minh và lớp 11A1 – Trung tâm GDTX huyện Phú Tân,
Cà Mau.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Nghiên cứu phân tích các tư liệu, giáo trình, công trình nghiên cứu, bài
viết… có liên quan đến phạm vi đề tài. Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết
về cơ sở lí luận, lịch sử nghiên cứu vấn đề được toàn diện, đầy đủ. Ngoài ra,
nó được vận dụng để xây dựng cấu trúc luận văn
9
4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn dạy đọc – hiểu văn bản tự
sự nói chung và việc dạy đọc – hiểu văn bản Hạnh phúc của một tang gia nói
riêng. Từ đó, có những căn cứ, đánh giá khách quan, chính xác.
4.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này được áp dụng trong thực nghiệm dạy học, chứng minh
tính hiệu quả của hướng dạy đọc – hiểu văn bản tự sự theo quan điểm tiếp
nhận văn học vào quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường Phổ thông.
4.4. Phương pháp thống kê, phân loại
Thống kê, phân loại sau khi xử lí các số liệu thu thập trong quá trình
khảo sát, thực nghiệm để có những kết luận chính xác, khách quan.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, đổi mới phương pháp
dạy học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay. Ngoài ra, nó còn góp phần phát
triển năng lực đọc văn của HS.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần nội dung luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Biện pháp tổ chức dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở trường
THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề về lí thuyết tiếp nhận
Tiếp nhận văn học là một một lĩnh vực rộng lớn của lí luận văn học.
Nếu xem hoạt động văn học gồm hai lĩnh vực lớn: sáng tác và tiếp nhận thì
bản thân sự tiếp nhận văn học đã hàm chứa một nửa hoạt động văn học.
Lí thuyết tiếp nhận văn học khởi đầu với trường phái mĩ học tiếp nhận
Konstanz xuất hiện ở Đức vào khoảng những năm 20 – 40 của thế kỉ XX với
các đại biểu như Hans Robert Jauss, Wolfgan Iser, Roman Ingarden…
Trường phái này đòi hỏi cách tân đối tượng và phương pháp nghiên
cứu văn học sử, chống lại việc thuần tuý xem tác phẩm văn học là đối tượng
nghiên cứu mà phải mở rộng phạm vi nghiên cứu sang lĩnh vực tiếp nhận,
khám phá mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa sáng tác và tiếp nhận,
nhà văn và bạn đọc, khảo sát điều kiện, phương thức, quá trình và kết quả của
hoạt động tiếp nhận đối với văn học và nhấn mạnh vai trò năng động của tiếp
nhận văn học trong đời sống và lịch sử văn học. Cho đến cuối những năm 60,
lí thuyết tiếp nhận văn học được phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Ở Việt Nam,
lí thuyết này bắt đầu được chú ý đến từ những năm 80 (trước đó, những năm
70, GS Nguyễn Văn Hạnh có lẽ là người đầu tiên giới thiệu lí thuyết)
Luận điểm chính của lí thuyết tiếp nhận văn học là: “Trong cái tam giác
tác giả, tác phẩm và người thưởng thức, thì người thưởng thức không phải là
phần sáng tạo thụ động hay chỉ là mắt xích đơn giản của hoạt động tiếp nhận,
mà chính là năng lượng tạo thành lịch sử. Sự tồn tại lịch sử của tác phẩm văn
học không thể có được nếu thiếu sự tham dự tích cực của người đọc, bởi vì
chỉ bằng sự chuyển tiếp này thì tác phẩm mới thâm nhập được vào dòng chảy
liên tục phía sau thuộc về kinh nghiệm đang thay đổi, nơi mà sự tiếp nhận đơn
giản, thụ động trở thành sự tiếp nhận có phê phán, chủ động; những chuẩn
mực thẩm mĩ đã được công nhận trở thành tác phẩm mới, mới hơn. Tính chất
11
lịch sử và giao tiếp của văn học đặt ra mối quan hệ đối thoại mới mang tính
quá trình giữa tác phẩm văn học, người đọc và tác phẩm mới” [73, tr.396]. Do
vậy, “Lịch sử văn học là lịch sử của quá trình tiếp nhận và sáng tạo mà người
tiếp nhận xuất hiện qua nhà phê bình và nhà văn sáng tạo liên tiếp, là sự thực
tại hóa các văn bản văn học thông qua họ” [11, tr.400]. Theo cách lí giải của
Jauss, lịch sử văn học chỉ có thể là lịch sử của mối quan hệ giữa các tác phẩm
và người tiếp nhận (người đọc): không có văn học nếu không có người đọc,
và văn học không chỉ là những tác phẩm văn chương; văn học có từ tác phẩm
và người tiếp nhận nó, từ đội ngũ thay đổi không ngừng về mặt lịch sử của
những người tiếp nhận, từ mối quan hệ giữa tác phẩm và người tiếp nhận,
giữa người tiếp nhận cùng thời và người tiếp nhận mai sau…
1.1.1.1. Người đọc – vai trò quan trọng trong hoạt động tiếp
nhận văn học
Với lí thuyết tiếp nhận, lí luận văn học nghiên cứu người đọc như một
chủ thể tiếp nhận với những sáng tạo nhất định của mình. Khẳng định vai trò
chủ động, sáng tạo, tích cực của người đọc trong đời sống văn học, Y. Borev
viết: “Người đọc không chỉ đơn thuần là người có nhu cầu về các sản phẩm
nghệ thuật, không chỉ là đối tượng của sự tác động tư tưởng – nghệ thuật của
tác phẩm. Người đọc là người cùng tham gia vào tiến trình sáng tạo để xây
dựng ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, người đồng sáng tạo, chủ thể thực hiện
quá trình đọc như là một hành động sáng tạo có tính chất xây dựng”. Và
“Không điều gì làm tác giả một cuốn tiểu thuyết phấn chấn hơn khi biết có
những cách diễn dịch chính mình không hề nghĩ tới, được độc giả gợi ý” [76,
tr. 551].
Tác phẩm văn học chỉ đi trọn vòng đời của nó khi được người đọc tiếp
nhận. Chỉ khi nào thực sự sống trong sự tiếp nhận của bạn đọc, tác phẩm mới
sống đời sống của chính nó. Sự ra đời của lí thuyết tiếp nhận đã góp phần
khẳng định vai trò quan trọng của bạn đọc trong hoạt động tiếp nhân. Người
12
đọc giữ vai trò chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, tác động và cải
biến văn bản bằng trí tưởng tượng và những trải nghiệm của bản thân “Đọc
trước hết là phát hiện trong văn bản và từ văn bản một thế giới khác, những
con người khác. Người đọc sống trong thế giới tưởng tượng của mình, xây
dựng cho mình, thông qua tác phẩm, một xứ sở riêng. Đọc là một hoạt động
tích cực, người đọc “nhập cuộc”, “hóa thân” với những cảm xúc riêng của
mình, những kỉ niệm, ký ức, khát vọng riêng” [27, tr.69]. Người đọc có vai
trò tích cực trong việc tạo nghĩa cho văn bản, là người “đồng sáng tạo”, tạo
nên đời sống cho tác phẩm “Người đọc không chỉ đơn thuần là người có nhu
cầu về các sản phẩm nghệ thuật, không chỉ là đối tượng của sự tác động tư
tưởng – nghệ thuật của tác phẩm. Người đọc là người cùng tham gia vào tiến
trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, là người đồng
sáng tạo, là chủ thể thực hiện quá trình đọc như một hành động sáng tạo có
tính chất xây dựng” [dẫn theo 54, tr. 205], “người đọc văn học làm phong phú
thêm cho tác phẩm bằng những cảm thụ và đánh giá riêng của mình”. [48, tr.
337]. Như vậy, số phận của tác phẩm văn học phụ thuộc rất lớn vào sự tiếp
nhận của người đọc “các thế hệ người đọc đã thổi sức sống của thời đại mình
vào tác phẩm, phát hiện, khám phá lại, làm cho nó không bao giờ già cũ mà
luôn luôn mới mẻ. Đọc tác phẩm là mở rộng những giới hạn của văn bản, đưa
nó vào những mối quan hệ mới với bối cảnh và tâm lý người tiếp nhận” [54,
tr. 209]. Tuy nhiên không vì đề cao người tiếp nhận mà lại xem nhẹ cái được
tiếp nhận – chính là văn bản. Tự thân văn bản đã mang chứa giá trị và ý nghĩa
của nó, chứ không phải chỉ là khoảng trống dành cho người đọc. Huỳnh Như
Phương đã nói nó một cách hình ảnh như sau: “có thể xem tác phẩm văn học
đi vào cuộc sống như một quả pháo bông được bắn lên bầu trời. Bản thân nó
phải có thuốc pháo và các hợp chất hóa học khác mới tạo nên ánh sáng và
màu sắc trên nền trời. Nhưng vẻ đẹp đó còn phụ thuộc vào chính không gian
và bầu trời: trong sáng hay u ám, có trăng hay không có ánh trăng, có sương
13
mù hay không có sương mù… Qua lăng kính của sự tiếp nhận, ý nghĩa khách
quan của tác phẩm không bao giờ đồng nhất với tư tưởng chủ quan mà tác giả
gửi gắm vào đó. [54, tr.211].
Theo lí thuyết tiếp nhận, những vấn đề xung quanh tam giác tác giả –
văn bản – người đọc và mối quan hệ giữa chúng đã được nhìn nhận một cách
sáng tỏ hơn; trong đó vấn đề người đọc như một nhân tố quan trọng của quá
trình chuyển biến từ văn bản đến tác phẩm được lí thuyết này đặc biệt quan
tâm.
1.1.1.2. Đồng nhất và khoảng cách trong tiếp nhận văn học
Văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Do đó quá trình dạy học
Ngữ văn trong nhà trường phải đảm bảo cân bằng giữa hai mặt khoa học và
nghệ thuật. Sự sáng tạo và lí giải khoa học là điều rất cần thiết trong hoạt
động dạy đọc hiểu văn bản văn học trong nhà trường. Mỗi tác phẩm là một
“cấu trúc vẫy gọi” bởi tính bất biến và khả biến của nó. Sự đa nghĩa của tác
phẩm luôn là thử thách của bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trong nhà trường.
Khoảng cách thẩm mĩ (asthetischedistanz) và đồng nhất thẩm mĩ
(asthetischeidentifikationz) là hai khái niệm phái sinh có quan hệ mật thiết với
nhau xuất phát từ khái niệm tần đón nhận (erwahrtungshorizont). Tầm đón
nhận (TĐN), có người dịch là tầm đón đợi haychân trời chờ đợi là thuật ngữ
được nhà Mĩ học tiếp nhận người Đức H. Jauss tiếp thu từ K. Mannheim
trong cuốn sách Con người và xã hội trong thời kỳ xây dựng lại được công
bố vào năm 1958. Nhưng ông đã phát triển và mở rộng thêm nhiều và xem đó
là một trong những phạm trù nền tảng cho học thuyết của mình. Ông quan
niệm tầm đón nhận của công chúng là “hệ quy chiếu có thể trình bày được
một cách khách quan mà đối với mỗi tác phẩm ở thời điểm lịch sử xuất hiện
của nó, hệ quy chiếu được rút ra từ ba yếu tố cơ bản: kinh nghiệm có trước
của công chúng về thể loại của tác phẩm; hình thức và hệ đề tài của tác phẩm
trước nó mà nó yêu cầu phải tìm hiểu; và sự đối lập giữa ngôn ngữ thi ca và
14
ngôn ngữ thực tế, giữa thế giới tưởng tượng và thực tế hàng ngày” [dẫn theo
10, tr. 63]. Ở Việt Nam, khái niệm TĐN hiện tồn tại nhiều cách giải thích và
cách hiểu có phần khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân viết: “Khái
niệm công cụ cơ bản của Jauss là khái niệm “tầm đón nhận” của công chúng
độc giả, tức là trình độ kiến thức văn hóa – văn học của công chúng” [10,
tr.56]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hùng cho rằng: “Tầm đón nhận bao
gồm cả những hiểu biết về các hình thức biểu hiện văn học khác nhau, những
kinh nghiệm nghệ thuật được lưu truyền và những tri thức khác có liên quan
đến văn học để một lúc nào đó những trữ lượng sẽ biến thành hiện thực tinh
thần khi người đọc gặp những tác phẩm tương ứng. Tầm đón nhận của bạn
đọc bao gồm cả những khát vọng về đạo đức và nhất là tư tưởng nghệ thuật,
lý tưởng và hành động thẩm mỹ, đôi lúc nó tác động trở lại tác giả để quy
định trước ý nghĩa của văn bản tác phẩm tương lai” [32, tr.114].
Như vậy, cách giải thích và cách hiểu của các nhà nghiên cứu có khác
nhau đôi chút về TĐN nhưng nhìn chung, chúng ta có thể ý thức được, nói
như Đoàn Thị Thanh Huyền trong bài viết "Khoảng cách thẩm mĩ" và "đồng
nhất thẩm mĩ" trong tiếp nhận tác phẩm văn học ở nhà trường THPT là “TĐN
là một tổ hợp các thành tố tinh thần gồm kiến thức, đạo đức, văn hóa, kinh
nghiệm, thẩm mĩ…mà mỗi bạn đọc có như là hành trang văn hóa riêng có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả tiếp nhận trên hành trình khám phá mỗi tác
phẩm”.
Các khái niệm khoảng cách thẩm mĩ (KCTM) và đồng nhất thẩm mĩ
(ĐNTM) được đặt ra từ khái niệm TĐN. Trong bài viết Văn chương, đọc và
viết, nhà nghiên cứu Phạm Quang Trung cho rằng: “khái niệm khoảng cách
thẩm mỹ (asthetischedistanz), như là như là sự khác biệt giữa tầm đón nhận
của tác giả (qua tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc và khái niệm đồng
nhất thẩm mỹ (asthetischeidentifikation), như là sự bắt gặp giữa tầm đón nhận
của tác giả (qua tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc”. Nhà nghiên cứu
15
Nguyễn Thanh Hùng trong công trình Đọc và tiếp nhận văn chương đã phân
biệt khái niệm KCTM với khái niệm khoảng cách tiếp nhận
(rezeptionsdistanz) và khái niệm ĐNTM với khái niệm đồng nhất tiếp nhận
(rezeptionsidentifikation), trong đó, ngay từ tên gọi khái niệm đã có thể hình
dung, phạm vi của đồng nhất tiếp nhận và khoảng cách tiếp nhận rộng hơn,
còn khi nói tới ĐNTM và KCTM, ta đã ngầm hiểu có sự loại bỏ bớt các yếu
tố phi nghệ thuật, phi văn học, chủ yếu hướng vào giá trị mĩ học trong tiếp
nhận.
1.1.2. Một số vấn đề về đọc hiểu
Trong thực tiễn đổi mới phương pháp daỵ học văn hiện nay, đọc hiểu
được coi là bước đột phá, là phương pháp chủ đạo trong việc dạy học tác
phẩm văn học.
Đọc – hiểu văn bản văn học thực chất là phương pháp tiếp nhận nghệ
thuật ngôn từ bằng sự cảm thụ trực tiếp, là sự hiểu thấu ngôn ngữ và là sự
phân tích, phát hiện ý nghĩa sâu xa trong văn bản. Mục đích của đọc hiểu là
hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật để HS tiếp tục đi sâu vào nội
dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Theo tinh thần này, đọc hiểu
văn chính là toàn bộ quá trình tiếp nhận, giải mã các văn bản văn học tiêu
biểu cho các thể loại ở từng giai đoạn lịch sử văn học qua đó cung cấp và hình
thành ở HS những kiến thức cơ bản về lịch sử văn học, lí luận văn học, tác giả
và tác phẩm văn học,… làm nền tảng để từng bước xây dựng văn hóa đọc cho
HS.
Dưới góc độ phương pháp, dạy đọc – hiểu là dạy người tiếp nhận cách
thức đọc ra nội dung trong những mối quan hệ qua lại phức tạp của văn bản,
là cung cấp cho người tiếp nhận cách đọc để có quan điểm, thái độ và kĩ năng
đọc những sáng tạo ngôn từ theo quan điểm thẩm mĩ nhất định. Dạy đọc -
hiểu là vừa dạy cách tiếp xúc với văn bản, thông hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò tác dụng của các hình thức, biện
16
pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết,
các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật và cả ý nghĩa xã hội nhân văn
của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó, vừa tập trung hình thành cách đọc văn,
phương pháp đọc hiểu theo thể loại để dần dần các em có thể tự đọc văn, hiểu
tác phẩm văn học một cách khoa học đúng đắn.
Một trong những luận điểm cơ bản của quá trình đổi mới phương pháp
dạy học văn trong nhà trường là luận điểm “Học sinh là bạn đọc sáng tạo
trong quá trình dạy học văn”. Đây cũng là luận điểm mà giáo sư Phan Trọng
Luận đã đề xuất trong hàng loạt công trình của mình. Chính từ luận điểm này,
theo hướng dẫn của chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, đọc – hiểu
văn bản được xem là hoạt động chủ yếu của quá trình dạy học; là khâu trung
tâm của đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường. Việc xây dựng
ổn định khái niệm người đọc – học sinh là bước đột phá mang ý nghĩa nhận
thức về người dạy và người học.
Nếu không hiểu đúng khái niệm “người đọc” trong lí thuyết tiếp nhận
văn học, chúng ta sẽ không thể hiện thực hoá luận điểm “học sinh – bạn đọc”;
nếu không hiểu được bản chất của văn bản văn học là một “kết cấu vẫy gọi”
với những “điểm chưa xác định” đa dạng, phong phú về hình tượng, ngôn
ngữ, kết cấu nghệ thuật, chúng ta không thể xây dựng được những giờ dạy
học đọc – hiểu theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ của chúng. Một khi học sinh
được tham gia vào giờ đọc – hiểu với tư cách là người đọc đích thực, giờ đọc
– hiểu sẽ trở thành giờ trao đổi, đối thoại bình đẳng giữa các chủ thể cùng
giao lưu, hợp tác, cùng tham gia, sáng tạo. Một khi trung tâm của giờ đọc –
hiểu là những “điểm chưa xác định” của văn bản văn học chứ không phải
những điểm đã xác định như bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác, quá trình
sáng tác, đặc điểm cá tính, đời tư của tác giả... thì “khai thác điểm chưa xác
định là tiền đề để biến giờ học văn học trở thành giờ đối thoại giữa thầy và
trò, giữa thầy với văn bản, trò với văn bản, trò với trò” [60, tr.25].
17
Đọc – hiểu trả lại cho người đọc vai trò, vị trí đích thực. Học sinh
không còn lệ thuộc vào thầy như trước mà trong tư thế chủ động, tự giác, tự
lực, là một “bạn đọc sáng tạo”. Học sinh từ chỗ tiếp thu thụ động nay trở
thành người đọc trực tiếp, đọc có suy nghĩ, đọc kết hợp với vận dụng vốn
kinh nghiệm, vốn sống, liên tưởng, tưởng tượng để từng bước tri giác ngôn
ngữ âm thanh, định hình những hình ảnh chính của tác phẩm và nhận ra tiếng
nói của tác giả, xác định chủ đề của tác phẩm. Đọc để tìm ra cái mình cần,
đọc để đối thoại với tác giả và giáo viên, với cách hiểu của người đi trước, với
cách hiểu tích lũy ban đầu của chính mình.
Đề cao vai trò chủ thể học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập
Ngữ văn chính là một hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả dạy học. Phương
hướng đó không những phù hợp với yêu cầu của thời đại khoa học hiện nay
mà còn là vấn đề nhận thức khoa học, quan điểm nhân văn.
Trong quá trình dạy học, hoạt động tương tác tích cực được hình dung
như một hệ thống hoạt động: về phía giáo viên – người thiết kế kế hoạch, tổ
chức hoạt động; về phía học sinh – người thực hiện những hoạt động mang
tính tình huống và cụ thể để qua đó tạo nên những điều kiện phát triển bản
thân.
Hoạt động tương tác giữa giáo viên và học sinh chính là chìa khóa mở
cánh cửa thành công đối với chất lượng dạy và học. Dạy là hoạt động truyền
thụ, học là hoạt động nhận thức, dạy học là quá trình hoạt động biến kinh
nghiệm, tri thức của loài người thành tri thức của học sinh. Dạy và học chỉ tạo
ra một hệ động lực khi giữa chúng có sự tương tác giữa người dạy và người
học. Sự tương tác đó càng phong phú thì động lực càng lớn, hiệu quả giáo dục
càng cao, đặc biệt là khi giáo viên tạo được hoạt động nhận thức đáp lại của
học sinh một cách tích cực, chủ động.
Trước đây, hoạt động dạy chủ yếu là cung cấp thông tin, được học sinh
đáp lại bằng ghi nhớ; giáo viên trở thành người cung cấp tri thức nên người
18
học phụ thuộc chủ yếu vào người dạy. Giờ đây, nét nổi bật của quá trình
chuyển hoá giáo dục thành một yếu tố phát triển xã hội được thể hiện ở việc
hiện thực hoá tính nhân văn, dân chủ của quá trình dạy học, và việc hiện thực
hoá ấy trước hết được nhìn nhận trong hoạt động tương tác, giao tiếp đối thoại
giữa giáo viên và học sinh, ở đó giáo viên và học sinh đều được coi như
những đồng chủ thể có cùng mục đích và nhiệm vụ hoạt động. Coi quá trình
tự học của học sinh là trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên trở thành người
hướng dẫn, đồng hành với học sinh trong suốt quá trình giúp học sinh tự tìm
hiểu và lĩnh hội kiến thức. Để thực hiện nhiệm vụ đó, một trong những mục
tiêu hoạt động của giáo viên là tạo ra trạng thái tối ưu trong giờ học, giúp cả
thầy lẫn trò có thể hoạt động với khả năng tốt nhất nhằm phát huy hết tiềm
năng sáng tạo của bản thân. Điều này có nghĩa là sự tương tác giữa giáo viên
và học sinh phải tạo ra được một bầu không khí ấm áp, tin cậy, trong đó mọi
người cảm nhận điều tốt đẹp về nhau, được tiếp thêm sinh lực để hoàn thành
nhiệm vụ học tập và giảng dạy.
Chính vai trò quan trọng của người đọc trong tiếp nhận văn học đã làm
thay đổi cơ chế dạy học văn trong nhà trường. Đó là một tương tác nhiều
chiều, một tương tác ba bên giữa giáo viên, học sinh và nhà văn. Học sinh là
nhân tố quan trọng thúc đẩy và cải tiến, đổi mới quá trình giảng dạy tác phẩm
văn học trong nhà trường. Học sinh là bạn đọc. Bạn đọc – học sinh được tin
cậy, bình đẳng với nhà văn, với giáo viên trong bối cảnh đặc thù của học
đường. Học sinh là chủ thể của hoạt động tiếp nhận văn chương đồng thời là
đối tượng của sự định hướng của giáo viên. Giáo viên là bạn đọc có kinh
nghiệm, lại là chủ thể của hoạt động giáo dục trong nhà trường, đóng vai trò
là người định hướng, thiết kế, tổ chức, điều khiển học sinh tiếp nhận tác
phẩm. Hoạt động dạy học diễn ra trong sự liên kết, tác động biện chứng giữa
ba chủ thể: nhà văn – giáo viên – học sinh thông qua giao tiếp, đối thoại, chia
sẻ của những người đọc. Trong đó tính năng động trong đáp ứng văn học của
19
học sinh đặc biệt được coi trọng. Nó là kết quả của những hoạt động bên
trong và bên ngoài, vật chất và tâm lí, trí tuệ và cảm xúc trong con người chủ
thể học sinh dưới những tác động sư phạm có chiều sâu và đặc thù của giáo
viên.
Trước đó, giáo viên đã tiếp nhận tác phẩm của nhà văn. Tư cách bạn
đọc của giáo viên đã được xác lập trong quan hệ tri âm, đối thoại với tác giả
qua tác phẩm. Văn bản văn học của nhà văn (“vật tự nó”) đã chuyển hóa
thành tác phẩm văn chương trong thấy giáo (“vật cho ta”), tri thức văn học
được chuyển hóa thành tri thức dạy học để rồi trên cơ sở đó thầy tiến tới xác
lập quan hệ bạn đọc – bạn đọc, chủ thể định hướng – đối tượng tiếp nhận với
học trò. Một mặt, quan hệ giữa thầy giáo và học sinh trong cơ chế dạy học
văn là quan hệ ngang dựa trên sự cảm thông, tin cậy, tôn trọng và hợp tác.
Thầy giáo là “thành viên thứ 51” của lớp học cùng học sinh đối thoại một
cách bình đẳng, tự do, dân chủ. Mặt khác, đó là quan hệ dọc vì thầy là thế hệ
đi trước, là bạn đọc có kinh nghiệm, lại là chủ thể của hoạt động giáo dục
trong nhà trường. Thầy đóng vai trò là tác nhân, người định hướng, thiết kế,
tổ chức, điều khiển học sinh tiếp nhận tác phẩm trong cơ chế dạy học văn.
Nói đến quá trình tiếp nhận tác phẩm, không thể không nhắc tới sự hiện
hữu của những khái niệm trên. Dạy học văn trong nhà trường chính là một
quá trình tiếp nhận đặc biệt, nhưng vẫn không nằm ngoài những quy luật tiếp
nhận chung. Giáo viên là bạn đọc có kinh nghiệm, nói như Bùi Minh Đức
“Trước đó, giáo viên đã tiếp nhận tác phẩm của nhà văn. Tư cách bạn đọc của
giáo viên được xác lập trong quan hệ tri âm, đối thoại với tác giả qua tác
phẩm. Văn bản văn học của nhà văn (“vật tự nó”) đã chuyển hóa thành tác
phẩm văn chương trong thầy giáo (“vật cho ta”), tri thức văn học được chuyển
hóa thành tri thức dạy học”. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học trong
nhà trường, giáo viên luôn định hướng và dẫn dắt bạn đọc học sinh với mong
muốn giúp họ vượt qua những KCTM để đạt tới sự ĐNTM tối đa. Điều này
20
hoàn toàn phù hợp với khát vọng khám phá nghệ thuật của độc giả muôn đời
và thống nhất với quan điểm của lí thuyết tiếp nhận. Tuy nhiên đó chỉ là một
mặt của vấn đề, W. Iser cho rằng văn bản có một kết cấu vẫy gọi. Chính đặc
trưng của sáng tạo văn học của tác phẩm văn chương với tư cách là một loại
hình nghệ thuật. Chính tính đa nghĩa của tác phẩm tạo ra tính trị ở bạn đọc
“Tác phẩm văn học tạo ra tiền đề cho sự lí giải không trùng nhau”. Vả lại,
giữa cái phản ánh và cái biểu hiện, cái khách quan và cái chủ quan không phải
cân bằng và dễ phân định. Do đó có thể thấy KCTM vừa là “hạn chế tầm
nhìn” cần phải vượt qua, đồng thời lại chính là sự kích thích, “vẫy gọi” huyền
bí đối với tư duy nghệ thuật của người đọc, buộc họ phải nâng cao TĐN để
tìm lấy đáp số đang còn khuất lấp hoặc thậm chí còn là vấn đề bỏ ngỏ đang
đợi độc giả tự xây dựng lời giải và đáp số riêng của chính mình.
Như vậy, quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học cùng lúc vừa tiến tới
phủ định KCTM để đạt tới ĐNTM, nhưng có khi lại phủ nhận sự ĐNTM để
tạo ra những KCTM mới. Vấn đề là cần phải nghiên cứu hai hiện tượng này
trong mối quan hệ biện chứng nhằm khai thác thế mạnh và khắc phục hạn chế
mà nó mang lại cho bạn đọc - học sinh. ĐNTM và KCTM không thể không
có trong quá trình tiếp nhận “Còn có sáng tạo và tiếp nhận văn học trong xã
hội loài người thì vẫn còn hiện tượng đồng nhất thẩm mỹ và khoảng cách
thẩm mỹ. Lý thuyết tiếp nhận khẳng định không thể vì lợi ích cục bộ và cách
hiểu phiến diện về quy luật tiếp nhận văn học mà tìm cách gạt ra ngoài quá
trình tiếp nhận “sự đồng nhất thẩm mỹ” hoặc là loại bỏ “khoảng cách thẩm
mỹ”.”. Dưới ánh sáng của Lý thuyết tiếp nhận, vai trò và cũng là nghệ thuật
sư phạm của người giáo viên là làm thế nào duy trì giới hạn ĐNTM và
KCTM trong tiếp nhận giữa học sinh và tác giả, tác phẩm một cách hợp lí
nhất.
1.1.3. Đọc hiểu theo loại thể
Vấn đề dạy học văn bản văn học theo loại thể đã được lí luận và
21
phương pháp dạy học văn đặt ra từ lâu. Loại thể văn học là một vấn đề thuộc
hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan mật thiết đến nội dung. Mỗi tác
phẩm văn chương đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi
một phương pháp, một cách thức đọc hiểu phù hợp với nó. Vì vậy, vấn đề loại
thể trong thực tế dạy học ở nhà trường phổ thông không phải chỉ như một vấn
đề tri thức mà còn như một vấn đề phương pháp. Mỗi loại có nhiều thể. Cùng
một loại nhưng các thể khác nhau rất sâu sắc về hình thức lời văn (thơ và văn
xuôi), dung lượng (truyện dài, truyện ngắn), loại nội dung cảm hứng (bi kịch,
hài kịch, thơ trào phúng, thơ trữ tình,…). Khi chúng ta hiểu được thế nào là
loại tự sự, loại trữ tình, loại kịch, thế nào là thể truyện, thể kí, thể thơ,…
chúng ta sẽ có điều kiện tìm hiểu, cảm thụ các tác phẩm cụ thể được sâu sắc,
tinh tế hơn, và do đó phân tích, giảng dạy có kết quả hơn.
Về mặt hình thức, việc chia tác phẩm văn học thành ba loại tự sự, trữ
tình, kịch là tương đối ổn định, nhưng với công việc của ngành Lí luận và
phương pháp dạy học văn thì không thể chỉ dừng lại ở đó. Làm thành loại và
thể hiện loại phải nhờ vào thể, nhưng trong đời sống văn học, không ít thể của
tác phẩm thuộc loại này lại mang tính chất của loại khác, điều này có liên
quan đến nội dung từng tác phẩm cụ thể và phong cách từng tác giả cụ thể.
Chẳng hạn, Nam Cao là nhà văn hiện thực, ngòi bút của ông thường thể hiện
những nỗi đau sâu kín trong tâm hồn con người, thường thể hiện con người
trong tình huống bị đẩy đến chân tường thì nhân tính phát sáng (Chí Phèo, lão
Hạc …) nên truyện ngắn Nam Cao thường có chất bi kịch. Thạch Lam là một
nhà văn lãng mạn, truyện của ông tràn ngập một tình thương mênh mông đối
với những kiếp người nhỏ bé, một sự đánh thức lay tỉnh đối với những tâm
hồn uể oải đang lụi tàn niềm khát khao được sống cho có ý nghĩa hơn; vì vậy
truyện ngắn Thạch Lam thấm đẫm chất trữ tình. Xuân Diệu có viết truyện
nhưng truyện của Xuân Diệu vẫn là truyện của một nhà thơ. Nguyên Hồng có
làm thơ nhưng thơ của ông vẫn là thơ của một người viết truyện ngắn, tiểu
22
thuyết…
Như vậy, trong đọc - hiểu tác phẩm văn học, chúng ta không được xa
rời bản chất loại thể nhưng cũng không thể máy móc, rập khuôn thấy thơ thì
dạy theo thể loại trữ tình, thấy truyện thì dạy theo thể loại tự sự. Thực tế dạy
học văn hiện nay cho thấy người dạy bị chi phối bởi thể của tác phẩm quá
nhiều, tính chất loại trong thể của tác phẩm chưa được chú ý, trong khi đó, chỉ
khi nào chúng ta xác định được tính chất của loại trong thể ở từng tác phẩm
cụ thể, chúng ta mới có thể đưa việc đọc – hiểu tác phẩm đi đúng quỹ đạo của
nó.
1.1.4. Các phương pháp, hình thức trong quá trình dạy học
Tư tưởng quan trọng của chương trình Ngữ văn sau năm 2000 là
chuyển từ phương pháp giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản. Đó là
một bước tiến trong phương pháp dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Theo
định hướng này, dạy văn thực chất là dạy cho học sinh cách thức khám phá,
giải mã văn bản – tác phẩm, từ đó hình thành năng lực tự học, tự đọc, tự tiếp
nhận văn học nói riêng và văn bản nói chung. Nếu giảng văn chủ yếu là thao
tác của giáo viên, thì đọc hiểu nghiên về phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh. Thông qua đọc hiểu, giáo dục tư tưởng, tình cảm, giáo dục nhân
cách cao đẹp cho học sinh. Đó là một tư tưởng đúng. Không thể phủ nhận mặt
tích cực của thay đổi này. Tuy nhiên tư tưởng và phương pháp đọc hiểu nhìn
chung mới dừng lại ở nhận thức là chính, không được áp dụng triệt để. Trong
thực tế dạy học tư tưởng này chưa được thực hiện hóa một cách toàn diện,
đồng bộ và hiệu quả.
Phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những yếu tố quan trọng
nhất của quá trình dạy học. Cùng một nội dung như nhau, nhưng bài học có
để lại những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các em hay không, có làm cho các
em yêu thích những vấn đề đã học và biết vận dụng chúng một cách năng
23
động, sáng tạo để giải quyết các vấn đề bức xúc của cuộc sống hay không là
tùy thuộc ở phương pháp của người thầy. Có rất nhiều PPDH (kể cả phương
pháp chung và phương pháp đặc thù: đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận nhóm,
gợi mở, vấn đáp, diễn giảng, đọc diễn cảm,…), hình thức dạy học. Mỗi
phương pháp, hình thức đều có những ưu điểm và nhược điểm, không có
PPDH nào là duy nhất. Tùy thuộc vào loại văn bản, mục đích đọc, đối tượng
HS…, GV lựa chọn phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học phù hợp.
Trong cơ chế dạy học, PPDH là yếu tố động. Do đó, nó có khả năng điều
chỉnh kịp thời đối với sự biến đổi của đối tượng dạy học và tình huống dạy
học, nhưng vẫn giữ được định hướng và mục tiêu dạy học.
Để hoạt động dạy và học tác phẩm văn học trong nhà trường đạt hiệu
quả, vai trò, mối quan hệ giữa người dạy và người học cần thay đổi. Vai trò
của giáo viên là dẫn dắt, định hướng tổ chức thực hiện việc chiếm lĩnh tri thức
kĩ năng của người học một cách hợp lí, khoa học; chủ yếu là dạy phương pháp
đọc. Trong khi đó người HS tiếp thu kiến thức một cách có ý thức độc lập và
sáng tạo, tự chủ và hứng thú rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo để hình thành năng lực
cũng như thái độ, quan điểm sống. Mối quan hệ giữa người dạy và người học
là mối quan hệ giao tiếp, đối thoại và hợp tác. Đó là sự tương tác nhiều chiều
giữa tác giả và người đọc, giữa người đọc với người đọc (giữa GV với HS,
giữa HS với HS). Giờ dạy học Ngữ văn là một “giờ học mở” – “là một giờ
học lấy HS làm trung tâm, HS có quyền trao đổi, thậm chí có những ý kiến
phản biện lại những điều thầy giáo trình bày”. “Giờ học mở” “còn là giờ học
không kết thúc ở 45 phút theo quy định mà mở ra cho HS vô vàn cơ hội tự
học” [51, tr.44]. Một môi trường học tập thân thiện, gần gũi, thoải mái là cần
thiết để HS tự do thể hiện những quan điểm, suy nghĩ của mình. Điều đó
không chỉ giúp HS thấy đọc văn là một việc làm có ý nghĩa đối với bản thân
mà còn giúp HS phát triển năng lực đọc văn.
24
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tác phẩm tự sự trong sách giáo khoa trung học phổ thông và
những yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng
Tác phẩm tự sự trong sách giáo khoa THPT (ban cơ bản)
STT
Tên tác phẩm
Tên tác giả
Thể loại
Ghi chú
Văn học dân gian
Sử thi
1
Văn học dân gian
Truyền thuyết
2
Hô-me-rơ
Sử thi
3
Van-mi-ki
Sử thi
4
Chiến thắng Mtao Mxây (trích Đăm Săn) Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy Uy-lit-xơ trở về (trích Ô-đi- xê) Ra-ma buộc tội (trích Ra- ma-ya-na) Tấm Cám Tam đại con gà
Văn học dân gian 5 6 Văn học dân gian 7 Nhưng nó phải bằng hai mày Văn học dân gian
Truyện cổ tích Truyện cười Truyện cười
8
Văn học dân gian
Truyện thơ
Đọc thêm
9
Ngô Sĩ Liên
Sử kí
10
Ngô Sĩ Liên
Sử kí
Đọc thêm
11
Nguyễn Dữ
Truyện truyền kì
12
La Quán Trung
Tiểu thuyết chương hồi
13
Đọc thêm
Tiểu thuyết chương hồi
La Quán Trung
14
Nguyễn Du
Truyện thơ Nôm
15
Nguyễn Du
Truyện thơ Nôm
16
Nguyễn Du
Truyện thơ Nôm
17
Nguyễn Du
Truyện thơ Nôm Đọc thêm
Lời tiễn dặn ( trích Tiễn dặn người yêu) Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (trích Đại Việt sử kí toàn thư) Thái sư Trần Thủ Độ (trích Đại Việt sử kí toàn thư) Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản viên từ phán sự lục – trích Truyền kì mạn lục) Hồi trống Cổ Thành (trích hồi 28 – Tam quốc diễn nghĩa) Tào Tháo uống rượu luận anh hùng (trích Tam quốc diễn nghĩa) Trao duyên (trích Truyện Kiều) Nỗi thương mình (trích Truyện Kiều) Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) Thề nguyền (trích Truyện Kiều)
Bảng 1. Các văn bản tự trong chương trình Ngữ văn lớp 10
25
Tên tác giả
STT 01
Lê Hữu Trác
Thể loại Kí
Ghi chú
02
Nguyễn Đình Chiểu
Tên tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên)
Chữ người tử tù
03 Hai đứa trẻ 04 05 Hạnh phúc của một tang gia
Thạch Lam Nguyễn Tuân Vũ Trọng Phụng
Truyện thơ Nôm Truyện ngắn Truyện ngắn Tiểu thuyết
(Trích Số đỏ) Chí Phèo
06 07 Đọc thêm: Cha con nghĩa
Nam Cao Hồ Biểu Chánh
Truyện ngắn Truyện ngắn Đọc thêm
nặng (trích) 08 Đọc thêm: Vi hành 09 Đọc thêm: Tinh thần thể dục 10 11
Truyện ngắn Đọc thêm Truyện ngắn Đọc thêm Truyện ngắn Tiểu thuyết
Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Công Hoan A.P. Sê-khốp V. Huy-gô
Người trong bao Người cầm quyền khôi phục uy quyền (Trích Những người khốn khổ)
Bảng 2: Các văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 11
Ghi chú
Tên tác phẩm lái đò Sông Đà
Tên tác giả Nguyễn Tuân
Thể loại Kí
02
Kí
STT 01 Người (Trích) Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Trích)
Đọc thêm
Kí
Hoàng Phủ Ngọc Tường Võ Nguyên Giáp
03 Những ngày đầu của nước Việt Nam mới (trích Những năm tháng không thể nào quên) Vợ chồng A Phủ (trích) 04 Vợ nhặt 05 Rừng xà nu 06 07 Bắt sấu rừng U Minh Hạ 08 Những đứa con trong gia
Tô Hoài Kim Lân Nguyễn Trung Thành Sơn Nam Nguyễn Thi
Truyện ngắn Truyện ngắn Truyện ngắn Truyện ngắn Đọc thêm Truyện ngắn
đình
09 Chiếc thuyền ngoài xa 10 Mùa lá rụng trong vườn
Nguyễn Minh Châu Ma Văn Kháng
Truyện ngắn Tiểu thuyết Đọc thêm
(trích)
11 Một người Hà Nội Thuốc 12 13 Số phận con người (trích) 14 Ông già và biển cả (trích)
Nguyễn Khải Lỗ Tấn Sô-lô-khốp Hê-min-uê
Truyện ngắn Đọc thêm Truyện ngắn Truyện ngắn Truyện ngắn
Bảng 3: Các văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12
26
Chuẩn kiến thức, kĩ năng
LỚP 10
CHỦ ĐỀ
phát
Sử thi Việt Nam và nước ngoài
MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các trích đoạn sử thi Việt Nam và nước ngoài (Đăm Săn; Ô-đi-xê – Hô-me-rơ; Ra-ma-ya-na – Van-mi-ki): phản ánh một nét diện mạo tinh thần của thời kì cổ đại, ca ngợi kì tích và phẩm chất của các nhân vật anh hùng, sử dụng ngôn ngữ anh hùng ca. - Nhận biết một số đặc điểm cơ bản của thể loại sử thi. - Biết cách đọc – hiểu tác phẩm sử thi theo đặc trưng thể loại.
phát
Truyền thuyết Việt Nam
- Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy: một truyền thuyết về lịch sử dân tộc qua lăng kính tưởng tượng, thái độ và cách đánh giá của nhân dân về các nhân vật lịch sử; bài học giữ nước; mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của thể loại truyền thuyết. - Biết cách đọc – hiểu tác phẩm truyền thuyết theo đặc trưng thể loại.
cổ Truyện tích Việt Nam
GHI CHÚ cốt - Nhớ được hiện truyện, được các chi tiết nghệ thuật, nhận xét được những đặc điểm nội dung của các trích đoạn sử thi. - Nhận biết một số nét cơ bản về đề tài, hình tượng, ngôn ngữ sử thi. - Nhận biết được tác phẩm sử thi theo đặc điểm thể loại. cốt - Nhớ được truyện, hiện được các chi tiết nghệ thuật, nhận ra ý nghĩa và bài học lịch sử của tác phẩm. - Phân biệt được truyền thuyết và sử thi. - Nhận biết được theo thuyết truyền đặc trưng thể loại. - Nhớ được những biến cố, kiểu nhân vật, môtíp thường gặp của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám. - Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện Tấm Cám: xung đột thiện – ác, ước mơ công bằng xã hội, vai trò của yếu tố hoang đường kì ảo và lối kết thúc có
27
hậu. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của truyện cố tích. - Biết cách đọc - hiểu tác phẩm truyện cố tích theo đặc trưng thể loại.
thuật của các Truyện cười Việt Nam
Sử kí trung đại Việt Nam
- Hiểu được đặc sắc nội dung và nghệ truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày; Tam đại con gà: ý nghĩa châm biếm sâu sắc và những bài học thiết thực; nghệ thuật phóng đại và tạo tình huống gây cười. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của thể loại truyện cười. - Biết cách đọc – hiểu tác phẩm truyện cười theo đặc trưng thể loại. - Hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của các trích đoạn trong Đại Việt sử kí toàn thư – Ngô Sĩ Liên: quan điểm đánh giá về tài năng và đức độ của nhân vật lịch sử; cách lựa chọn chi tiết, sự việc; cách trần thuật. - Nhận biết một vài đặc điểm của thể loại sử kí trung đại. - Bước đầu biết cách đọc – hiểu một văn bản sử kí trung đại.
Truyện trung đại Việt Nam
- Hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của Tản viên phán sự lục – Nguyễn Dữ: ngợi ca người trí thức kiên trực; lối kể chuyện và cách xây dựng nhân vật của truyện truyền kì. - Nhận biết một số đặc điểm cơ bản của thể loại truyện truyền kì. - Biết cách đọc – hiểu một truyện - Trình bày được cách phân loại và nội dung chính của truyện cổ tích. - Nhận biết được tác phẩm cổ tích theo đặc điểm thể loại. - Hiểu đối tượng, ý nghĩa của tiếng cười, nghệ thuật gây cười trong các truyện được học. - Trình bày được cách phân loại, nội dung và nghệ thuật chính của truyện cười. - Nhận biết được tác phẩm cười truyện theo đặc trưng thể loại. Nhận biết lối viết sử: kết hợp giữa biên niên với tự sự, cách kể chuyện kiệm lời, giàu kịch tính. Nhận biết nội dung và các môtíp kì ảo trong thường gặp
28
thơ
Truyện Nôm
truyện truyền kì. - Nhận ra nội dung tư tưởng, cảm xúc, phát hiện các chi tiết nghệ thuật của mỗi trích đoạn. - Nhận ra hai loại truyện thơ Nôm: bác học và bình dân; nội dung và nghệ thuật của truyện thơ Nôm bác học.
thuyết Tiểu chương hồi Trung Quốc
Nhận biết một số đặc điểm về cách tổ chức tác phẩm, xây dựng hình tượng nhân vật, lối kể chuyện.
trung đại Việt Nam. - Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật một số trích đoạn tiêu biểu của tác phẩm Truyện Kiều – Nguyễn Du: giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc; nghệ thuật kể chuyện và miêu tả tâm lí; những đóng góp vào việc hoàn thiện ngôn ngữ thơ ca dân tộc. - Hiểu một vài đặc điểm cơ bản của truyện thơ Nôm. - Biết cách đọc – hiểu một đoạn trích truyện thơ Nôm theo đặc trưng thể loại. - Hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của các trích đoạn trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa – La Quán Trung: ngợi ca phẩm chất của con người trung nghĩa, khuynh hướng “tôn Lưu biếm Tào”; mối quan hệ giữa lịch sử và hình tượng nghệ thuật; cách kể chuyện sinh động, giàu kịch tính, nghệ thuật xây dựng nhân vật. - Nhận biết một vài đặc điểm của tiểu thuyết chương hồi. - Biết cách đọc – hiểu một văn bản tiểu thuyết chương hồi (bản dịch).
LỚP 11
CHỦ ĐỀ GHI CHÚ
thơ
Truyện Nôm
MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của trích đoạn Lẽ ghét thương trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu: thái độ yêu ghét phân minh, lòng thương dân sâu sắc; bút pháp trữ tình. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của truyện thơ Nôm. Biết kết hợp với Truyện Kiều để hiểu rõ hơn về các đặc
29
điểm của truyện thơ Nôm bác học.
kí đại
Truyện trung Việt Nam
Nhận biết nội dung phản ánh và hình tượng nhân vật tôi trong bài kí.
Truyện hiện đại Việt Nam
- Biết cách đọc – hiểu một đoạn trích truyện thơ Nôm theo đặc trưng thể loại. - Hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của trích đoạn Vào Trịnh phủ trong Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác: thái độ lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa; tính chân thực, sinh động trong nghệ thuật miêu tả, kể chuyện. - Nhận biết một vài đặc điểm cơ bản của truyện kí trung đại. - Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm hoặc một đoạn trích truyện kí trung đại theo đặc trưng thể loại. - Hiểu được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm hoặc trích đoạn (Hai đứa trẻ - Thạch Lam; Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân; Số đỏ - Vũ Trọng Phụng; Chí Phèo – Nam Cao và các bài đọc thêm: Cha con nghĩa nặng – Hồ Biểu Chánh; “Vi hành” – Nguyễn Ái Quốc; Tinh thần thể dục – Nguyễn Công Hoan): sự đa dạng của nội dung và phong cách; các cảm hứng sáng tác lãng mạn, hiện thực, trào phúng; ý nghĩa nhân văn; nghệ thuật tả cảnh, tả người. - Hiểu một số đặc điểm cơ bản của các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945. - Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm hoặc một đoạn trích tự sự hiện đại theo đặc trưng thể loại.. - Hiểu được đề tài, chủ đề, nội dung cảm hứng, cách xây dựng nhân vật và những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của mỗi tác phẩm. - Bước đầu phân biệt được sự khác nhau ngắn truyện giữa trung đại và hiện đại về đề tài, kết cấu, nghệ thuật thể hiện.
30
Truyện nước ngoài
Nhớ được cốt truyện, đề tài, chủ đề, nhân vật, phát hiện các chi tiết nghệ thuât của tác phẩm hoặc đoạn trích.
- Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Những người khốn khổ - V. Huy-gô và truyện ngắn Người trong bao – A.Sê-khốp: giá trị hiện thực, tư tưởng nhân đạo, ý nghĩa phê phán, cách kể chuyện và xây dựng nhân vật, bút pháp lãng mạn và hiện thực. - Biết cách đọc – hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn.
LỚP 12
CHỦ ĐỀ Truyện hiện đại Việt Nam
hướng
thuật xây dựng
GHI CHÚ - Nhớ được cốt truyện, đề tài, nhận ra được khuynh tư tưởng, cảm hứng thẩm mĩ, hệ thống nhân vật, phát hiện được các chi tiết nghệ thuật đặc sắc của mỗi tác phẩm hoặc đoạn trích. - Hiểu sự phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội trong truyện, sự đa dạng về nghệ thuật kể chuyện và xây dựng nhân vật.
MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT - Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các truyện ngắn và trích đoạn tiểu thuyết hiện đại (Vợ nhặt – Kim Lân; Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài; Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành; Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi; Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu; các bài đọc thêm: Một người Hà Nội – Nguyễn Khải; Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn Kháng; Bắt sấu rừng U Minh hạ - Sơn Nam): vấn đề số phận con người, cảm hứng anh hùng ca và cảm hứng thế sự, tình yêu quê hương đất nước; sự phong phú, đa dạng về đề tài, chủ đề; nghệ thuật xây dựng nhân vật, tình huống nghệ truyện, bút pháp trần thuật mới mẻ. - Hiểu một số đặc điểm của truyện Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. - Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại. - Biết vận dụng những hiểu biết trên khi làm bài văn nghị luận văn học.
Kí hiện đại - Hiểu những đặc sắc về nội dung và - Nhận ra được đề tài,
31
Việt Nam
chủ đề, cảm hứng thẩm mĩ, vẻ đẹp hình tượng, các biện pháp nghệ thuật của các trích đoạn kí - Hiểu đặc trưng phản ánh hiện thực đời sống của thể loại kí: chân thực, đa dạng, phong phú.
Truyện hiện đại nước ngoài
(hoặc
Nắm được cốt truyện, hệ thống nhân vật, chủ đề, bút pháp nghệ thuật của mỗi tác phẩm đoạn trích).
nghệ thuật của các trích đoạn tác phẩm kí (Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân; Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường; bài đọc thêm: Những năm tháng không thể nào quên – Võ Nguyên Giáp): vẻ đẹp và sức hấp dẫn của cuộc sống, con người và quê hương qua những trang viết chân thực, đa dạng, hấp dẫn. - Hiểu một số đặc điểm và sự đóng góp của thể loại kí Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. - Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại. - Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học. - Hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của các trích đoạn truyện ngắn, truyện vừa (Số phận con người – M. Sô-lô- khốp; Thuốc – Lỗ Tấn; Ông già và biển cả - E. Hê-ming-uê): quan niệm về con người, giá trị nhân đạo mới mẻ, những sáng tạo về hình thức. - Biết cách đọc – hiểu một tác phẩm truyện hiện đại nước ngoài.
Qua thống kê những văn bản tự sự được học trong chương trình Ngữ
văn THPT, chúng ta so với các thể loại khác, văn bản tự sự chiến số lượng rất
lớn trong chương trình, có cả văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Có
nhiều loại thể khác nhau và được xếp theo thời kì lịch sử văn học. Nhìn vào
chuẩn kiến thức, kĩ năng, những văn bản tự sự đó được sắp xếp theo nhóm
(loại thể). Yêu cầu cần đạt ở mỗi loại thể là: Hiểu những đặc sắc về nội dung
và nghệ thuật của văn bản; hiểu một số đặc điểm của từng loại thể; biết cách
đọc – hiểu một văn bản theo đặc trưng thể loại và biết vận dụng những hiểu
32
biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học. Từ thực tế và những yêu cầu
đặt ra, việc dạy đọc hiểu văn bản tự sự theo loại thể là thực sự cần thiết.
1.2.2. Thực trạng dạy học văn bản tự sự hiện nay ở trường trung học
phổ thông
Thực tế dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay vẫn còn khá nhiều
vấn đề chưa theo kịp với yêu cầu của giáo dục hiện đại cũng như đòi hỏi của
cuộc sống. Và việc dạy học văn bản tự sự hiện nay ở nhà trường phổ thông
không năm ngoài quỹ đạo đó. Qua khảo sát thực tế dạy học văn bản tự sự
(bằng phiếu trả lời phỏng vấn) của GV ở một số trường (trường THPT
Nguyễn Thị Minh Khai, trường THPT Phú Tân thuộc địa bàn tỉnh Cà Mau);
Trung tâm GDTX (Trung tâm GDTX huyện Phú Tân – Cà Mau, Trung tâm
GDTX quận 12 – Tp. Hồ Chí Minh), chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề
sau:
- Chưa hiểu rõ mục đích, tầm quan trọng của dạy đọc hiểu, chưa xác
định đúng mục tiêu giờ dạy; Dạy nhằm mục đích cung cấp kiến thức để HS
vượt qua các kì thi; chưa rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản tự sự cho HS để các
em có thể tự đọc các văn bản tự sự tương tự trong chương trình và ngoài
chương trình; chưa thực sự quan tâm đến việc các em cảm nhận thế nào qua
một tiết học. Vì vậy, giờ dạy học văn diễn ra nhàm chán, chủ yếu là thầy làm
thay trò; chưa phát huy được tính chủ động, tích cực của HS trong giờ học.
- Chưa quan tâm nhiều đến đặc trưng của loại thể tự sự, chưa đầu tư
nhiều cho bài dạy, khả năng tiếp nhận một số tác phẩm còn nhiều hạn chế.
GV đôi khi đứng trước một tác phẩm văn học còn lúng túng, chưa biết truyền
tải những gì mình hiểu, cảm đến cho học trò như thế nào để đạt hiệu quả nhất.
- Chưa thay đổi quan niệm về người học và việc đánh giá người học;
chưa thực sự chú ý đến người học – nhu cầu, mong muốn, hứng thú của các
em; chưa khuyến khích HS tìm tòi, sáng tạo; sự tương tác giữa giáo viên - học
sinh, học sinh – học sinh còn hạn chế.
33
- Học sinh học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu văn
bản tự sự, không thể đọc hiểu những văn bản tương tự; chưa biết vận dụng
những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống; thiếu sáng tạo và không biết
cách tự học; thiếu động cơ học tập.
- Khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học của HS còn hạn chế; chưa hiểu
rõ đặc trưng loại thể tự sự; HS chưa phát hiện và lí giải được những vấn đề
đặt ra trong tác phẩm, chưa thấy được sự thống nhất nội dung và hình thức
biểu hiện của văn bản, không biết tìm kiếm kiến thức trọng tâm để học, không
biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết. Kĩ năng nói, viết, trình bày vấn đề
còn yếu.
Từ thực tế dạy học văn bản tự sự ở trường THPT hiện nay, chúng tôi cho
rằng việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp dạy học văn bản tự sự ở nhà trường
hiện nay là cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà
trường.
1.2.3. Thực trạng dạy học đoạn trích
Từ thực tế dạy học của bản thân và qua khảo sát về việc dạy học đoạn
trích Hạnh phúc của một tang gia (bằng phiếu trả lời phỏng vấn) của GV,
việc tiếp nhận đoạn trích đó ở HS một số trường (trường THPT Nguyễn Thị
Minh Khai, trường THPT Phú Tân thuộc địa bàn tỉnh Cà Mau); Trung tâm
GDTX (Trung tâm GDTX huyện Phú Tân – Cà Mau, Trung tâm GDTX quận
12 – Tp. Hồ Chí Minh), chúng tôi thống kê được những vấn đề sau:
- Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là một đoạn trích hay, GV và
HS đều thích đoạn trích này. Tuy nhiên người đọc cũng cho rằng đây là đoạn
trích khó tiếp nhận. Vì vậy, để dạy và học đoạn trích đạt kết quả như mong
muốn là không đơn giản.
- Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nằm trong chương trình Ngữ
văn 11, tập 1. Đây là một chương (chương XV) trong tiểu thuyết Số đỏ gồm
20 chương của Vũ Trọng Phụng, thời gian để dạy học đoạn trích này là 02
34
tiết. Trước đó HS chưa được học bài lí luận văn học về loại thể. Vì thế, nó rất
khó khăn khi hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản.
- Khi đọc văn bản, HS không biết cách tìm hiểu tác phẩm đi từ hình thức
nghệ thuật đến nội dung; các em không thể hiểu tang gia tại sao lại hạnh phúc;
thấy hài hước, cười nhưng không biết lí giải vì sao, tiếng cười bật ra từ đâu;
tác giả tạo dựng chân dung các nhân vật nhằm mục đích gì; tại sao lại có
giọng điệu hài hước như thế; tại sao tên nhân vật lại vậy (Xuân Tóc Đỏ, bà
phó Đoan, ông Phán mọc sừng, Tuyết, Văn Minh, lang Tì, lang Phế, Min Đơ,
Min Toa,… Và đó là những vấn đề mà HS quan tâm.
Thực tế dạy học đoạn trích cho thấy việc giải quyết những vấn đề đặt ra
khi HS đọc đoạn trích và hướng dẫn HS đọc hiểu đoạn trích HPCMTG nói
riêng và đọc hiểu văn bản tự sự nói chung là rất cần thiết.
35
Chương 2. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU
VĂN BẢN TỰ SỰ Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Đặc điểm loại thể của tác phẩm tự sự
Tác phẩm tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó
qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự
kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Phương thức phản ánh hiện
thực qua các biến cố, sự kiện và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự
luôn trở thành câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Vì vậy, tác phẩm tự
sự bao giờ cũng có cốt truyện, kết cấu, hệ thống hình tượng (nhân vật, không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật). Đây chính là những yếu tố chứa
đựng nhiều điểm không xác định nhất và do đó, chú ý đến cốt truyện, nhân
vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là ưu tiên hàng đầu trong quá
trình tiếp nhận tác phẩm tự sự.
2.1.1. Cốt truyện
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động
trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các
tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng
của tác phẩm.
Nếu sườn truyện chỉ là cái khung dùng để chỉ những nét bao quát nhất
của một câu chuyện, bao gồm những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu thì
cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa, hình tượng hóa một cách cụ
thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện là một cái gì
độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho tác
phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá
trình phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của
xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc. Nhìn chung,
36
một cốt truyện thường có các thành phần chính sau: “trình bày, khai đoan
(thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút)” [21, tr.101].
Có thể thấy Chí Phèo của Nam Cao là một minh hoạ điển hình cho một cốt
truyện có đầy đủ các thành phần trên:
Phần mở đầu: Nam Cao miêu tả Chí Phèo từ lúc ra đời đến lúc hắn trở
thành người làm thuê cho nhà Bá Kiến.
Phần thắt nút: trong truyện, xung đột giữa Chí Phèo với Bá Kiến bắt đầu
từ chỗ Bá Kiến vì ghen tuông nên đã đẩy Chí Phèo vào tù.
Phần phát triển: nhà tù và sự độc ác của bọn cường hào đã biến Chí Phèo
từ người thành quỷ dữ, và rồi tình yêu của Thị Nở lại làm cho Chí Phèo muốn
chuyển biến từ quỷ dữ của làng Vũ Đại thành con người bình thường trong xã
hội.
Phần đỉnh điểm: Chí Phèo cầm dao đến nhà Bá Kiến đòi làm người
lương thiện, xung đột giữa Chí Phèo (nạn nhân) và Bá Kiến, (thủ phạm) đã
lên đến tột đỉnh.
Phần kết thúc: từ sự căm thù cao độ và trong trạng thái bế tắc hoàn toàn,
Chí Phèo đã giết chết Bá Kiến rồi tự sát.
Ta có thể thấy, tuy cốt truyện Chí Phèo có đầy đủ 5 phần nhưng chủ yếu
được tổ chức trên hai trục tình tiết chính: trục thứ nhất xoay quanh mối quan
hệ Chí Phèo – Bá Kiến, gắn liền với sự hủy diệt linh hồn của Chí; trục thứ hai
xoay quanh quan hệ Chí Phèo – Thị Nở, gắn liền với sự thức tỉnh linh hồn Chí
Phèo.
Tóm lại, cốt truyện là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã
hội, thể hiện cái nhìn của nhà văn đối với cuộc sống, có sức mạnh hấp dẫn và
lôi cuốn người đọc. Chuỗi sự kiện, biến cố ấy được hình thành chủ yếu dựa
trên hành động của nhân vật, được tổ chức theo quan hệ nhân quả hoặc quan
hệ bộc lộ ý nghĩa. Trên cơ sở đó, mỗi tác giả và ngay ở mỗi tác phẩm cũng thể
hiện một phương thức xây dựng riêng. Do vậy, trong quá trình tiếp nhận cốt
37
truyện, vấn đề không phải là xác định một cách hình thức các thành phần cốt
truyện, tìm hiểu truyện đó kể cái gì mà là thâm nhập sâu sắc vào nội dung cụ
thể của tác phẩm, khảo sát các chặng đường phát triển có ý nghĩa quyết định
đối với số phận nhân vật, qua đó phát hiện dụng ý và quan niệm của tác giả;
có như vậy việc phân tích các thành phần cốt truyện mới đem lại hiệu quả
thiết thực cho nghiên cứu và cảm thụ nghệ thuật.
2.1.2. Kết cấu
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những
chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận... Tất cả những yếu tố,
bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nhất định
nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu
“là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ
nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao
giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm” [47, tr.295].
Nếu cốt truyện nhằm chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...
trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm.
Nếu bố cục là sự sắp xếp một cách hình thức các phần, các chương, các đoạn,
các khổ... tạo thành kết cấu bề mặt của tác phẩm thì bên cạnh việc tổ chức,
sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong,
những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của
tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục, làm cho những yếu tố đó gắn bó
chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, biến tác phẩm trở thành một chỉnh thể
nghệ thuật toàn vẹn, không thể chia cắt được.
Kết cấu thông thường của tác phẩm tự sự bao gồm chuỗi các sự kiện xảy
ra liên tiếp trong không gian và thời gian, tạo thành một câu chuyện có mở
đầu, có phát triển, có kết thúc, thể hiện những quan hệ, mâu thuẫn và quá
trình nhất định của cuộc sống theo một trình tự logic rõ ràng. Tuy nhiên kết
cấu logic không có nghĩa là tất cả các sự kiện đều diễn ra theo một trình tự
38
thời gian hay trật tự tuyến tính. Để làm nổi bật một vấn đề nào đó, tác giả
hoàn toàn có thể phá vỡ trật tự tuyến tính để thiết lập một trật tự mới có tính
sáng tạo. Đây là hiện tượng lạ hoá kết cấu.
Trong tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã dành 2/3 tác phẩm để diễn tả
hàng loạt sự việc diễn ra chỉ trong một ngày. Tác giả đã cố gắng dồn nén tất
cả những mâu thuẫn vào trong một thời gian thật ngắn nhằm có điều kiện thể
hiện một cách tập trung nhất bản chất của bọn địa chủ, quan lại và nỗi điêu
đứng, cơ cực, đau xót của người nông dân đối với nạn sưu cao, thuế nặng.
Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao sử dụng một kết cấu độc đáo, cùng với
cốt truyện để hợp thành một thể thống nhất nhằm tôn giá trị tư tưởng, nội
dung của tác phẩm. Truyện được kết cấu theo lối vào ngay cao trào, một phần
tính cách nhân vật đã được giới thiệu ngay từ đầu câu chuyện qua trường
đoạn “Hắn vừa đi vừa chửi…”.
Như vậy, kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh nghệ
thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc. Phân tích kết
cấu tác phẩm, người đọc có thể so sánh nó với các hình thức, thủ pháp kết cấu
chung nhưng điều quan trọng là phải xuất phát từ bản thân tác phẩm, chú ý
đến những hiện tượng lạ hoá kết cấu và xem nó có thể hiện tốt nhất chủ đề tư
tưởng của tác phẩm hay không.
2.1.3. Nhân vật
“Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua
đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng” [47, tr.227]. Trong tác
phẩm văn học, nhân vật là phương tiện khái quát những quy luật của cuộc
sống, khái quát các tính cách, số phận con người và thể hiện những hiểu biết,
ước mong, kì vọng về con người.
Nói đến nhân vật là nói đến chi tiết. Nhà văn dùng chi tiết để miêu tả
ngoại hình, hành động, tâm trạng, ngôn ngữ, số phận, … của nhân vật cũng
như miêu tả ngoại cảnh, môi trường, sự vật xung quanh nhân vật. Đồng thời,
39
nhân vật cũng được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện và mối quan hệ
với các nhân vật khác. Nhân vật luôn luôn gắn bó chặt chẽ với cốt truyện và là
một chỉnh thể vận động, tính cách được bộc lộ dần trong không gian, theo
thời gian như một quá trình phát triển. Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm
bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được chiều sâu và tính hình tượng.
Nhờ có nhân vật với những lời nói, hành động, tương tác mà cốt truyện được
hình thành. Nó được xem như là chìa khóa để nhà văn bước vào thế giới hiện
thực, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ, miêu tả và khái quát các loại tính
cách xã hội. Và do đó, nhân vật văn học còn có khả năng giúp nhà văn thể
hiện quan niệm nghệ thuật về thế giới, về con người. Vì vậy việc tìm hiểu
nhân vật không phải là liệt kê hàng loạt những chi tiết về nhân vật đó. Điều
quan trọng là phân tích được, chỉ ra được dụng ý của tác giả, quan niệm tư
tưởng của tác giả về cuộc sống, con người.
Toàn bộ câu chuyện trong Bến quê (Nguyễn Minh Châu) xoay quanh
nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự
giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót, rằng một người
“đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưa từng đặt
chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.
Trước khi ốm, anh chỉ biết đến những chân trời xa ngát với những công
việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gụi xung quanh, kể cả
nguười vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong
những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả
một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng
dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng được một lần đặt chân lên bãi bồi bên
kia sông. Khát khao đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình
dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên
lãng, nhất là khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi ở thời tuổi
40
trẻ. Sự nhận thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Vì thế, đó là sự
thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa. Không thể tự làm điều mình khao khát,
Nhĩ nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái
oăm thay, đứa con không hiểu ước muốn của cha, đã đi một cách miễn cưỡng
và bị cuốn vào trò chơi cờ thế trên hè phố. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một quy luật
khá phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh
được những điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lí để nhân vật tự nhận thức, suy ngẫm
và cách xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn
Minh Châu đã tạo nên ý nghĩa sâu xa, góp phần không nhỏ tạo nên những ấn
tượng riêng cho tác phẩm.
Nhân vật văn học là một hiện tượng thẩm mĩ mang đầy tính ước lệ,
tượng trưng. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để nhận thức con người và bộc
lộ quan niệm của mình về con người. Nói chung “nhân vật hiện lên trong tác
phẩm thường dưới dạng những tính cách (…) Bởi thế, nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của phân tích nhân vật là phát hiện tính cách” [47, tr.695].
Để phát hiện tính cách nhân vật, quan điểm hệ thống đòi hỏi “phải xem
xét nhân vật như một chỉnh thể đa dạng do nhiều yếu tố khác nhau hợp thành,
nhà văn dùng chi tiết để thể hiện nhân vật. Phân tích nhân vật phải bắt đầu từ
việc nắm bắt những chi tiết ấy” [47, tr.701].
2.1.4. Ngôn ngữ
Nói đến ngôn từ trong tác phẩm văn học, chúng ta thường nhắc đến luận
đề quen thuộc của M. Gorki: “Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Quả
nhiên, nếu không có ngôn từ, nhà văn không thể thể hiện được bức tranh đời
sống và truyền đạt thông điệp tư tưởng – thẩm mĩ đến người đọc. Ngược lại,
về phía người đọc, sự tiếp nhận tác phẩm cũng chỉ được thực hiện trước hết
và chủ yếu qua sự tiếp nhận cấu trúc ngôn ngữ. Tất cả những thành phần, yếu
tố của tác phẩm như hình tượng, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng… đều
41
chỉ được người đọc nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ. Do vậy, việc
khám phá thế giới phong phú của tác phẩm phải bắt đầu bằng việc khám phá
cấu trúc ngôn từ - yếu tố cơ bản thể hiện sự sáng tạo của tác giả, góp phần tạo
nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn riêng của tác phẩm.
Ngôn từ của văn bản văn học là sự tái tạo ngôn ngữ thường ngày theo
quy luật của cái đẹp. Vẫn là những từ ngữ thường ngày nhưng trong văn bản
văn học chúng được liên kết theo những nguyên tắc riêng (về vần, nhịp, từ
ngữ, kết cấu câu, đoạn,…) để vừa đảm bảo chức năng thông tin, vừa đảm bảo
chức năng thẩm mĩ. Người ta thường nói ngôn từ văn học có tính “lạ hoá”. Và
chú ý khai thác, giải mã những chi tiết “lạ hoá” của nghệ thuật ngôn từ là một
trong những nhiệm vụ trung tâm của quá trình tiếp nhận văn học.
Khi nói đến ngôn từ nghệ thuật, cần đặc biệt chú ý đến tính sáng tạo của
các nhà văn khi sử dụng ngôn từ. Tính sáng tạo ở đây không chỉ là việc sáng
tạo ra những nét nghĩa lâm thời mà còn là sáng tạo những kết hợp độc đáo; ví
dụ: một vài đoạn trong các truyện ngắn của Nam Cao:
– Rồi hắn lại nhịt thuốc vào nõ điếu (nhịt: nhồi và dịt thuốc)
– Bà xách một lọ nước đầy ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy
rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống (bẩy rẩy: lẩy bẩy và run rẩy)
– Rượu xong, cơm xong, anh Tẻ vẫn lài nhài nói mãi (lài nhài: lải nhải và
dài dòng)
– Và óc Dần có lưởng vưởng một ý nhớ mơ hồ (lưởng vưởng: lởn vởn,
lòng vòng, vương vấn, vướng víu, vẩn vơ…),
Ngôn từ trong tác phẩm không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay một
trò chơi phù phiếm mang tính tung hứng chữ nghĩa mà là vẻ đẹp tâm hồn, là
trí tuệ, là kết quả của một quá trình lao động nghệ thuật miệt mài của nhà văn.
Trong lao động nghệ thuật, lao động ngôn ngữ được xem là thử thách lớn nhất
đặt ra cho mỗi nhà văn.
Ngôn từ trong tác phẩm văn học luôn thể hiện phong cách riêng của tác
42
giả. Mỗi nhà văn thường có khuynh hướng sử dụng sử dụng một số phương
thức biểu hiện nào đó và có khả năng đi chệch khỏi chuẩn mực thông thường
của ngôn ngữ toàn dân để tạo nên những cách diễn đạt mới. Chẳng hạn, trong
cách nói so sánh, chỉ cần khảo sát một số truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta
cũng thấy nhà văn này có một phong cách so sánh hết sức độc đáo. Ví dụ:
– Nó tục ăn: đó là thường. Nó nhiều vắt: cái ấy đủ khổ cho nó. Nó cắn
càn, ấy là cái khổ cho bọn ăn mày. Nhưng nó lại sủa như một con gà gáy: cái
này thì không thể tha thứ được (Cái chết của con Mực).
– Anh đa nghi như con chuột (Nhỏ nhen)
– Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ (Trẻ
con không được ăn thịt chó)
– Cô hiền như một ngụm nước mưa (Ở hiền)
– Vợ Hiệp lại cứng như một cái đanh, bẩn thỉu và cục mịch (Sao lại thế
này)…
Liên quan mật thiết đến ngôn từ là lời văn, giọng kể của tác giả. Tác
phẩm tự sự rất giàu hình thức ngôn ngữ, trong tác phẩm tự sự ta có thể bắt gặp
ngôn ngữ của tác giả, ngôn ngữ của nhân vật, mỗi nhân vật lại có ngôn ngữ
riêng. Ngôn ngữ của nhân vật lại có thể có nhiều lời nói, giọng nói, cách nói
rất phong phú. Đoạn văn ở đầu truyện Chí Phèo thể hiện cái cô đơn trống trải
tột cùng của nhân vật, thể hiện một cách tha thiết nguyện vọng được giao lưu
giao tiếp của Chí Phèo, dù là thông qua một hình thức giao tiếp rất đặc biệt:
tiếng chửi, bởi mọi ngõ ngách giao tiếp đều đã bị bịt kín. Trong đoạn văn này,
ngoài tiếng chửi của Chí Phèo còn là lời thông báo bình luận của người kể
chuyện: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn
chửi…”. Ngôn ngữ tác giả tạo ra nhiều nhiếu lối diễn đạt, có ngôn ngữ trần
thuật, có ngôn ngữ bình luận: “có hề gì”, “thế cũng chẳng sao”, “không ai ra
điều”… tạo ra môt đoạn văn đa giọng điệu. Cách trần thuật gián tiếp xen lẫn
với những đoạn văn nửa trực tiếp, nửa gián tiếp tô đậm hoàn cảnh nhân vật:
43
“Ờ thế này thì tức thật! tức chết đi mất!... Mẹ kiếp! Thế này thì có phí rượu
không?...” Ta thấy tác giả vừa ở bên ngoài nhân vật, vừa nhập thân nhân vật.
Có sự chuyển hóa từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật.
Nam Cao xây dựng những đoạn vừa kể chuyện vừa kể tâm trạng (chẳng hạn
đoạn kể về chuyện bà Tư nhưng cũng kể về tâm trang cụ Bá) làm cho truyện
chứa đựng những cặp đặc điểm đối nghịch, vừa sắc lạnh, vừa tình cảm; tỉnh
táo, nghiêm ngặt vừa chứa chan trữ tình, làm khơi gợi trong người đọc cả
phần lí trí lẫn phần tình cảm. Mối giao hòa giữa người kể, nhân vật và người
đọc thường xuyên được diễn ra.
2.1.5. Không gian nghệ thuật
Hình tượng không gian là một trong những yếu tố quan trọng của tác
phẩm văn học. Vai trò của nó trong văn bản không đơn giản ở việc xác định
vị trí, nơi diễn ra các sự kiện, nơi gặp gỡ các nhân vật, cũng không đơn giản
là việc tái hiện những đặc trưng của vùng quê này hay miền đất kia. Không
gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực vốn tồn tại khách
quan mà là mô hình nghệ thuật về cái thế giới mà con người đang sống, đang
cảm thấy vị trí và số phận của mình trong đó; nó trở thành một kí hiệu đặc
biệt để diễn đạt những phạm trù ở ngoài không gian, chẳng hạn để thể hiện
tâm trạng của nhân vật hay để đánh giá nhân vật đó về mặt đạo đức - thẩm mĩ.
Không gian nghệ thuật có thể là không gian thiên nhiên hay không gian
sinh hoạt, và những không gian này luôn gắn liền tâm lí, tình cảm, ước mơ,
khát vọng của con người. Ví dụ: trong tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình,
bầu trời trong xanh, cao vòi vọi nơi chiến trường Ao-xtec-lich khi An- đrây
ngã xuống gắn liền với tâm hồn của chàng khi đã nhận ra những điều ti tiện,
nhỏ nhen, vô nghĩa; thiên nhiên trong cánh rừng có cây sồi già thay đổi gắn
liền với sự phục sinh trong tâm hồn An- đrây…
Không gian trong Mảnh trăng cuối rừng là không gian hư ảo, không
gian đó khiến cho hiện thực chiến đấu máu lửa, đau thương hiện ra như một
44
câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Dưới ánh trăng khuyết ẩn hiện trong
những tầng mây, tâm hồn người chiến sĩ lái xe bỗng trở bồng bềnh, lâng lâng
khó tả. Không gian trước mắt anh là không gian trăng, không gian sương mờ
ảo, sáng trong. Và trong khung cảnh nên thơ ấy, anh đã phát hiện ra vẻ đẹp
hoàn hảo, bình dị của Nguyệt (nhân đây, có lẽ cũng không phải ngẫu nhiên
Nguyễn Minh Châu đã đặt tên cho nhân vật của mình là Nguyệt).
2.1.6. Thời gian nghệ thuật
Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là một phạm trù
thuộc về thi pháp tác phẩm. Đây vừa là một hình thức hiện hữu, vừa là một
hình thức tư duy của con người trong quá trình miêu tả tính cách, hoàn cảnh,
đường đời của nhân vật.
Hình tượng thời gian trong tác phẩm có thể là thời gian sự kiện, ở đó,
diễn tiến của câu chuyện chủ yếu được trình bày theo trình tự phát triển tự
nhiên của thời gian (Tam quốc chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Quả dưa đỏ…),
các sự kiện được xâu chuỗi và xuất hiện một cách tuần tự, không đứt quãng
khiến tác phẩm dễ theo dõi nhưng cũng không tránh khỏi sự đơn điệu.
Bên cạnh thời gian hiện thực còn có thời gian tâm lí. Nhà văn có khi kéo
dài thời gian ra để diễn đạt tâm trạng chờ đợi của nhân vật, có khi buộc thời
gian phải đứng lại hay vận động ngược chiều để thể hiện sự hồi tưởng của
nhân vật. Quá khứ, hiện tại, tương lai không tách rời mà đan cài lẫn nhau: cái
hôm qua hiện hữu trong cái hôm nay, cái hôm nay dự báo cái ngày mai…
Trong thời gian nghệ thuật luôn tồn tại hai lớp là thời gian trần thuật và
thời gian được trần thuật. Trong thời gian trần thuật lại bao gồm nhiều thời
gian khác nhau như thời gian nhân vật, thời gian tâm lí, thời gian tập thể, thời
gian lịch sử, thời gian sự kiện... Các thời gian này đi cùng với các chiều (quá
khứ - tương lai - hiện tại) để tạo nên cấu trúc thời gian hoàn chỉnh cho mỗi tác
phẩm.
Khi tìm hiểu hình tượng thời gian, người đọc không chỉ miêu tả lại sự
45
miêu tả thời gian mà còn phải tìm cách thiết lập mối quan hệ giữa thời gian đó
với những phạm trù, ý nghĩa triết lí khác. Chẳng hạn: thời gian vòng quanh,
đơn điệu, lặp đi lặp lại trong những sinh hoạt hằng ngày của những thầy giáo
trong tiểu thuyết Sống mòn (Nam Cao) cũng chính là tâm trạng mệt mỏi, chán
chường, là kiếp sống mòn mỏi của họ. Bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
(Thạch Lam) bao trùm trên phố huyện, gắn với tiếng trống cầm canh, với
ngọn đèn dầu leo lét trong hàng nước chị Tí, trên manh chiếu của gia đình bác
Xẩm, ngập đầy trong đôi mắt chị em Liên… chính là hình ảnh tượng trưng
cho cuộc sống nghèo khó, tù túng, tối tăm đang chụp lên những kiếp người
nghèo khổ.
Hay như văn sĩ Hộ trong truyện ngắn Đời thừa (Nam Cao) bị gánh nặng
gia đình lấn át mộng văn chương đâm ra phẫn chí, uống rượu say về hành hạ,
hắt hủi vợ con. Tỉnh cơn say, anh ta hối hận, hứa sẽ tu chí, bỏ rượu nhưng sự
hối hận này dự báo một cơn say nữa sẽ đến, chứ không phải anh ta sẽ quay về
làm một văn sĩ Hộ hiền lành, chí thú như ngày xưa. Cái ngày xưa tốt đẹp đối
với anh ta đã một đi không trở lại.
2.2. Biện pháp tổ chức dạy đọc - hiểu văn bản tự sự ở trường THPT theo
quan điểm tiếp nhận văn học
2.2.1. Mục đích
- Giúp HS nắm được nội dung chính của văn bản
+ Đề tài, cốt truyện
+ Nội dung phản ánh trong văn bản
+ Thể loại và đặc sắc nghệ thuật
- Biết cách đọc một văn bản văn xuôi
2.2.2. Qui trình
- Bước 1: Hướng dẫn đọc và tìm hiểu bố cục cũng như những yếu tố
ngoài văn bản
. Yêu cầu tóm tắt văn bản
46
. Tìm bố cục văn bản (Bố cục văn bản có gì đặc biệt không? Hình thức
có gì đặc biệt không? Bố cục phản ánh nội dung gì?)
. Tổ chức đọc một số đoạn hay
. Cho HS tìm hiểu thể loại văn bản, đặc điểm thể loại. Từ đó thấy được
vai trò, tác dụng của nó.
. Tìm hiểu yếu tố tác giả, bối cảnh ra đời
. Giải thích điển tích, điển cố
- Bước 2: Hướng dẫn tìm hiểu văn bản tự sự
. Cho HS nhận xét về nội dung, tư tưởng chủ đạo của văn bản. (Văn bản
này bật lên vấn đề gì? Nó đề cập đến những nội dung lớn nào? Thông qua văn
bản này hình dung thái độ tư tưởng của tác giả đối với vấn đề lớn như thế
nào?)
Ví dụ, trong truyện Hai đứa trẻ:
Nội dung: miêu tả số phận lẻ loi, nhạt nhòa, vô nghĩa của những con
người nơi phố huyện;
Tư tưởng: niềm thương cảm đối với số phận của họ, dống lên hồi
chuông báo động: chết về tinh thần.
. Chỉ ra sự phù hợp giữa nội dung tư tưởng và hình thức biểu đạt của văn
bản (thể loại, cốt truyện, nhân vật, chi tiết, không gian và thời gian nghệ thuật,
điểm nhìn, ngôi kể, lời văn, giọng điệu,…)
- Bước 3: Hướng dẫn thưởng thức, đánh giá văn bản
. Nhận xét nét đặc sắc nhất về nội dung và hình thức nghệ thuật của tác
phẩm
. Cho HS tìm hiểu tác động của tác phẩm về nội dung tư tưởng đối với
bạn đọc (xưa/nay)
. Chỉ ra những câu, đoạn văn hay đáng ghi nhớ trong văn bản được học.
2.2.3. Một số lưu ý chung về dạy đọc hiểu văn bản tự sự
- Mỗi bài đọc hiểu cung cấp những đơn vị kiến thức cơ bản và cần hình
47
thành cách thức đọc hiểu văn bản
- Linh hoạt trong quy trình dạy học
- Cần vận dụng dạy học nêu vấn đề cho HS suy nghĩ, đặt ra các tình
huống giả định để HS nêu suy nghĩ, đề xuất, lí giải. Từ đó hình thành năng
lực cho HS, gắn kết những điều đã học với đời sống.
- Dạy đọc hiểu tuyệt đối bám sát câu chữ văn bản, không thoát li văn
bản. Sử dụng SGK gần như tuyệt đối. Bám sát có trọng tâm, trọng điểm.
Sau đây chúng tôi minh họa cho những điều đã trình bày trên bằng cách
tổ chức dạy học văn bản Hạnh phúc của một tang gia theo quan điểm tiếp
nhận văn học.
2.3. Định hướng tiếp nhận đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng. Do đó, việc đọc hiểu theo loại thể là cần thiết. Tuy nhiên do
tính chất đa dạng và phức tạp của thể loại này, trong nhà trường phổ thông,
không yêu cầu nhận thức tiểu thuyết và truyện ngắn như hai thể loại riêng
biệt, mà là nhận thức về đặc điểm chung của chúng. Vì thế đọc – hiểu tiểu
thuyết cần chú ý đến các yêu cầu đã nêu ở mục 2.1 và 2.2. Tuy nhiên cũng
cần lưu ý thêm một số yêu cầu sau:
Thông qua Số đỏ, Vũ Trọng Phụng có sở trường dựng những bức tranh
xã hội với quy mô rộng lớn (chiều rrộng của không gian và chiều dài của thời
gian)- Xã hội tư sản thành thị (Hà Nội) Việt Nam những năm 30 của thế kỉ
XX thực chất là một xã hội thực dân nửa phong kiến thuộc địa đầy bất công,
giả dối, nhố nhăng với những phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung do bọn thưc
dân Pháp khởi xướng, một xã hội cho đểu, khốn nạn đáng khinh bỉ, lên án và
tố cáo. Số đỏ đã nhắm thẳng vào cái xã hội trưởng giả thành thị học đòi văn
minh rởm khi đó. Ngòi bút trào phúng cay độc của Vũ Trọng Phụng đã tung
hoành thoải mái, đả kích tới tấp vào toàn bộ cái xã hội nhố nhăng thối nát, từ
sinh hoạt đàng điếm trụy lạc đến thói huênh hoang bịp bợm, từ thủ đoạn làm
48
tiền bẩn thỉu đến những phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “giải phóng nữ
quyền”, cả “thơ mới” lãng mạng đến nghệ thuật “hũ nút”, từ những hoạt động
“cải cách xã hội” mà chung quy chỉ là những danh từ ba hoa rỗng tuếch, đến
giới cảnh sát, phủ Toàn quyền trong bộ máy chính quyền thực dân… Số đỏ
tuy chỉ đi sâu vào đạo đức sinh hoạt, phong hóa đồi bại của xã hội trưởng giả
thành thị song đặt trong hoàn cảnh đó, vẫn có ý nghĩa thời sự và tính chiến
đấu rõ rệt.
Trong đoạn trích, không gian ở đây là cảnh gia đình có đám tang nhưng
ai nấy đều hạnh phúc; cảnh đưa đám như một lễ hội, một đám rước. Không
gian ấy diễn ra trong thời gian từ ngày hôm trước đến sáng hôm sau. Không
gian, thời gian ấy đủ để cho bộ mặt của giới thượng lưu quý tộc, của xã hội
thành thị lúc bấy giờ hiện lên rõ mặt, bộc lộ hết những xấu xa, đểu giả, lố
lăng, bẩn thỉu.
Do đặc trưng của mỗi thể loại, con người – với tư cách là đối tượng của
văn học nghệ thuật, được khai thác theo từng khía cạnh khác nhau. Trong
truyện ngắn, nhân vật chỉ hiện lên trong tác phẩm vào thời điểm có ý nghĩa
quyết định tới số phận và thường chỉ gắn bó với một hoặc hai sự kiện tiêu
biểu. Còn tiểu thuyết, với khuôn khổ rộng lớn của không gian, thời gian,
người viết tiểu thuyết khai thác nhân vật một cách toàn diện, tỉ mỉ theo từng
bước thăng trầm của số phận. Vì thế giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai
thác toàn bộ các yếu tố từ nội tâm đến ngoại hình, từ cảm xúc đến lí trí, từ suy
nghĩ đến hành động của nhân vật ở các chặng đời khác nhau.
Về cách kể, người viết tiểu thuyết vận dụng rộng rãi các hình thức kể
chuyện: miêu tả, bình luận, trữ tình… Bên cạnh đó là sự tồn tại song song của
ngôn ngữ nhân vật – một hình thái ngôn ngữ mang đặc điểm cá tính hóa rõ
rệt. Cùng với ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật là một bộ phận
quan trọng bộc lộ tài vận dụng ngôn ngữ của các nhà văn góp phần tạo nên
tính “đa thanh” trong hệ thống ngôn ngữ tiểu thuyết. Vì thế, phân tích ngôn
49
ngữ nhân vật là việc không thể thiếu khi thiết kế giáo án dạy đọc – hiểu thể
loại tiểu thuyết.
Số đỏ phải được đọc – hiểu theo đúng đặc trưng của thể loại tiểu thuyết
hiện thực trào phúng. Từ những yêu cầu tìm hiểu trước ở nhà, HS sẽ nêu
những hiểu biết về nghệ thuật trào phúng và nhận biết nghệ thuật này trong
đoạn trích. Nói chung nghệ thuật trào phúng là tóm tắt lấy trong đời sống hiện
thực một mâu thuẫn gây cười và có ý nghĩa phê phán xã hội, rồi phóng đại, tô
đậm nó lên trước mắt độc giả để gây ra tiếng cười. Có thể nói, mỗi chương
trong tiểu thuyết Số đỏ là một mâu thuẫn trào phúng được phát hiện và dàn
dựng thành một màn hài kịch độc đáo. Hạnh phúc một tang gia là một màn
hài kịch lớn và vào loại đặc sắc nhất của Số đỏ. Dạy chương này, phương
pháp thích hợp là, trước hết hướng dẫn HS nhận ra mâu thuẫn trào phúng
xuyên suốt chương truyện, rồi từ đó phân tích sự triển khai mâu thuẫn ấy ở
các tình huống, các chi tiết, các nhân vật khác nhau. Có thể định hướng theo
các ý sau đây:
- Nhan đề chương truyện – mâu thuẫn trào phúng cơ bản của chương
truyện
- Những chân dung trào phúng (chân dung riêng lẻ và chân dung tập thể)
- Phân tích, đánh giá nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng (Cách
dùng từ, đặt câu, dựng đoạn)
Tìm hiểu mâu thuẫn trào phúng của chương truyện, không gì hơn là phân
tích cái tên của chương này: Hạnh phúc của một tang gia – một cái tên chứa
đầy nghịch lí. Bọn cháu con, một mặt muốn mau chóng thỏa mãn những toan
tính ích kỉ của mình, muốn cho cụ Tổ, một ông già hơn tám mưoi tuổi, sớm
chết để chia gia tài; nhưng mặt khác, lại cố tỏ ra là một tang gia chí tình chí
hiếu bằng cách tổ chức một đám tang thật to, thật nổi đình nổi đám. Đây là
tình huống đầy tính trào phúng, nó làm bộc lộ ra không biết bao nhiêu mâu
thuẫn trào phúng và tô đậm thêm hàng loạt các chân dung trào phúng như
50
Xuân, Tuyết, cụ cố Hồng, vợ chồng ông Văn Minh, ông Phán dây thép…
Mâu thuẫn cơ bản trong chương truyện là mâu thuẫn giữa hạnh phúc và
bất hạnh; giữa vui sướng và buồn khổ; giữa trang nghiêm, thành kính và bát
nháo, lố lăng; và bao trùm giữa thật và giả. Cái chết của cụ Tổ không mảy
may làm cho đám con cháu đau thương bất hạnh mà trái lại, đã mang đến cho
họ nhiều hạnh phúc, vui sướng. Hạnh phúc tột bậc, on sòm ngay trong hoàn
cảnh bất hạnh nhất, thành cái hạnh phúc quái gở. GV hướng dẫn HS bám vào
văn bản tìm các chi tiết nghệ thuật thể hiện niềm hạnh phúc riêng của mỗi
người trong niềm hạnh phúc chung của tang gia. Chẳng hạn, sự láy đi láy lại
mấy chữ “vui vẻ”, “sung sướng” để diễn tả cái không khí chung rất ngược đời
nhưng rất thực của đám tang: “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung
sướng lắm”; “Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả!”’; “bọn con cháu vô tâm
ai cũng vui sướng thỏa thích…”; “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo
phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”; “máy ảnh chụp lia lịa như trong hội
chợ…”. Trên cái nền của không khí vui vẻ ấy hiện rõ lên những gương mặt
“khổ chủ” của tang gia, như là những bức chân dung biếm họa đặc sắc. Mỗi
người náo nức một niềm riêng, vui sướng, hạnh phúc đến kì lạ, quái gở: cụ cố
Hồng ngất ngây, hãnh diện vì sắp được thiên hạ trầm trồ khen…già”; Ông
Phán dây thép mãn nguyện vì khoản tiền hai nghìn đồng dành riêng cho
“người chồng mọc sừng” mà ông sẽ được hưởng; ông Văn Minh thì yên tâm,
hài lòng đến mê mẩn vì “cái chúc thư kia” đã đến lúc đưa vào “thực hành”;
cậu tú Tân thì sướng điên người vì được dùng đến cái máy ảnh mới mua; cô
Tuyết, bà Văn Minh sung sướng, hãnh diện vì các mẫu y phục mới sắp được
ra mắt trong đám tang;… Riêng Xuân, ngoài việc được ông Phán thanh toán
thêm một tờ giấy bạc năm đồng gấp tư trong một vụ hợp đồng làm ăn, còn
qua đám tang cụ Tổ càng thêm danh tiếng: “Ông cụ già chết, danh dự của
Xuân càng to thêm”. Bằng các nghịch lí mâu thuẫn như vậy, nhà văn đã phơi
bày thói đạo đức giả trong gia đính và xã hội thượng lưu bấy giờ
51
Đoạn tả đám tang diễn từ nhà cụ cố Hồng ra đến huyệt cũng rất hài hước.
HS cần phân tích sự kết hợp tài tình đầy dụng ý nghệ thuật giữa miêu tả toàn
cảnh và cận cảnh đám tang. Cách kết hợp như thế đã tạo được hiệu quả trào
phúng rõ rệt. Nhìn toàn cảnh đó là một cái đám ma đang chuyển động, “đám
cứ đi”, nhưng quan sát sâu và từng gương mặt, cử chỉ thì không phải vậy.
Những người đi đưa ma đang “chuyện trò về vợ con, về nhà cửa… mới may”,
trai gái thì “chim nhau, cười tình với nhau….đưa ma”. Đặc biệt điệp khúc
“đám cứ đi” được láy lại mấy lần có tác dụng như là một dấu nhấn quan trọng
vào cái vẻ bề ngoài nổi đình nổi đám của một cái đám tang trống rỗng, giả
tạo. Chi tiết tả tiếng khóc và hành vi của ông Phán mọc sừng cuối đoạn trích
cũng là một chi tiết trào phúng rất “đắt” cần được phân tích.
Lời văn của Vũ Trọng Phụng trong Hạnh phúc một tang gia luôn đậm
chất trào phúng. GV hướng dẫn HS chọn, phân tích một số dẫn chứng tiêu
biểu trong cách dùng từ, cách so sánh, cách đặt câu, dựng đoạn… để làm rõ
điều đó. Chẳng hạn: tên nhân vật TYPN, Min Đơ, Min Toa, Ông Phán dây
thép (Phán mọc sừng); lối nói ngược thâm thúy: “Thật là một đám ma to
tát…”, hoặc “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, “Tang
gia ai cũng vui vẻ cả”. Lưu ý những câu văn chứa đựng trong nó những mâu
thuẫn đầy nghịch lí, đảo lộn thật – giả, tốt – xấu như: “bầy con cháu chí hiếu
chỉ nóng ruột đem chon cho chóng cái xác chết của cụ Tổ…”; hoặc: thuốc
thánh đền Bia chữa ho lao, thương hàn “công hiệu đến nỗi họ mất mạng”,…
2.4. Dạy đọc - hiểu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
2.4.1. Hoạt động chuẩn bị của giáo viên
* Tìm hiểu một số tri thức liên quan
- Một số khái niệm:
Văn học hiện thực: Văn học hiện thực chủ trương phản ánh bản chất và
quy luật khách quan của đời sống xã hội. Nhà văn hiện thực xây dựng hình
tượng theo nguyên tắc khách quan, cụ thể, không tô vẽ, không né tránh các
52
hiện tượng xấu xa, đen tối, thậm chí còn lấy việc bóc trần các thứ mặt nạ giả
dối làm nhiệm vụ nghệ thuật chủ yếu của mình, như chủ nghĩa hiện thực ở
phương Tây thế kỉ XIX.
Yêu cầu cao nhất của văn học hiện thực, theo quan niệm truyền thống, là
sáng tạo ra những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Tính cách
điển hình là những tính cách có cá tính sắc nét, khó quên, nhưng có sức khái
quát lớn, tiêu biểu cho một hạng người hay một khuynh hướng tư tưởng lớn
trong đời sống. Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh tiêu biểu cho một xã hội, có
tác dụng giải thích sự hình thành tính cách và số phận của nhân vật.
Tái hiện đời sống, nhà văn hiện thực không gán ghép tư tưởng chủ quan
cho đời sống, không biến nhân vật thành cái loa cho tư tưởng của mình, mà
biến các hiện tượng và quá trình hiện thực thành phương tiện biểu hiện tư
tưởng của mình. Tất nhiên, nhà văn hiện thực không chấp nhận lối ghi chép
bằng phẳng, nhạt nhẽo, họ cũng có khi khoa trương, cường điệu, thậm chí
dùng yếu tố huyền thoại để làm cho bản chất đời sống được nổi bật lên.
Các tác phẩm văn học như Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Lão Hạc, Chí
Phèo của Nam Cao, Tắt đèn của Ngô Tất Tố,… là những tác phẩm hiện thực
xuất sắc ở nước ta giai đoạn 1930 – 1945, rất gần với chủ nghĩa hiện thực phê
phán nói trên.
Biếm họa và giễu nhại
Biếm họa là lối vẽ châm biếm; ở đó, bằng các biện pháp phóng đại,
cường điệu một vài nét nổi bật nào đó, đối tượng được vẽ thành méo mó, dị
dạng để tạo hiệu quả châm biếm. Trong văn xuôi nghệ thuật, người ta cũng có
thể dựng chân dung nhân vật theo lối biếm họa này. Hoàng đế An Nam trong
“Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc, Huyện Hinh trong Đồng hào có ma của
Nguyễn Công Hoan chẳng hạn, là những bức biếm họa như thế.
Giễu nhại là biện pháp bắt chước từ ngữ, phong cách, giọng điệu, ý
tưởng,… của ai đó làm cho nó trở nên lố bịch, hài hước để châm biếm.
53
Nghệ thuật trào phúng: Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “trào phúng là
dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác. Tiếng cười
thường được tạo ra khi người ta phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng”. Muốn
tiếng cười xuất hiện, thông thường cần ba yếu tố: (1) Bản chất mang tính hài
của đối tượng; (2) Sự cường điệu những đường nét, kích thước và những liên
hệ giữa đường nét, kích thước với việc miêu tả đối tượng; (3) Sự sắc bén, ý
nhị, hóm hỉnh của người thể hiện để tăng cường hiệu quả cho tiếng cười.
Ở chương XV này, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên một mâu thuẫn trào
phúng cơ bản, xuyên suốt chương truyện và được thể hiện ở ngay nhan đề
đoạn trích. Từ đó, tác giả triển khai mâu thuẫn qua nhiều chi tiết khác nhau
với những tình huống không giống nhau. Để tạo nên tiếng cười đa cung bậc
và hiệu quả trào phúng, nhà văn đã phối hợp nhiều thủ pháp khác nhau: đối
lập, cường điệu, nói ngược, nói mỉa,… đặc biệt là thủ pháp “đánh địch” (chữ
dùng của nhà thơ Xuân Diệu). Theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh: “đánh địch” là
dựng đối tượng đã kích lên thành nhân vật sống động để nó tự diễn những trò
lố bịch mà chuốc lấy tiếng cười khinh bỉ của độc giả. Những bức chân dung
hí họa này được nhà văn vẽ bằng hai cách. Một là “chộp” lấy những nét “xuất
thần hài hước nhất của nhân vật rồi cường điệu, tô đậm lên”. Hai là “biến
nhân vật thành những con rối, đi đứng, nói năng, ứng xử một cách máy móc,
lố bịch, bất chấp hoàn cảnh có phù hợp hay không”.
- Một số tri thức về tác phẩm và đoạn trích
Tác phẩm “Số đỏ”
Số đỏ, như nhà văn Nguyễn Khải nhận xét trong bản tham luận về văn
xuôi đọc tại đại hội lần thứ III hội nhà văn Việt Nam (9-1983), là một trong số
“cuốn sách ghê ghớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Đây là cuốn
tiểu thuyết trào phúng có một không hai trong văn học thời kì 1930 – 1945
nói riêng, trong văn học dân tộc ta nói chung.
Tác giả dựng lên một bức tranh qui mô sinh động về xã hội thực dân tư
54
sản với rất nhiều loại người, hạng người mà đặc điểm nổi bật là bịp bợm, dâm
đãng, hãnh tiến, lố bịch. Thành công này cũng như thành công trông Giông tố
chứng tỏ ông có khả năng chiếm lĩnh cuộc sống ở một tầm khái quát tổng hợp
hiếm có.
Hoàn cảnh sáng tác: Số đỏ được viết năm 1936. Đây là năm đầu của Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi. Chế độ kiểm
duyệt sách báo khắt khe của chính quyền thực dân tạm thời bãi bỏ. Bối cảnh
ấy đã tạo điều kiện cho nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất dối
nát, giả dối, bịp bợm của các phong trào Âu hóa, Thể thao, Vui vẻ trẻ trung,…
được bọn thống trị khuyến khích và lợi dụng, từng lên cơn sốt vào những năm
30 của thế kỉ XX.
Thể loại: Tiểu thuyết trào phúng: sử dụng tiếng cười giễu nhại để châm
biếm, trên cơ sở xây dựng những mâu thuẫn trào phúng, xoay quanh những
tình huống nối tiếp nhau như một chuỗi bi hài kịch bằng tượng tượng và
phóng đại, bằng ngôn ngữ rất linh hoạt dân dã, phong phú. Tác phẩm là một
thành công hiếm có về thể loại này, nối tiếp và phát triển các truyện cười dân
gian như Trạng Lợn, Xiển Bột, Ba Giai Tú Xuất…
Giá trị nội dung: Qua tác phẩm này, “nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội
tư sản thành thị đang chạy theo lối sống lố lăng đồi bại đương thời” (Nguyễn
Hoành Khung).
Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật trào phúng đặc sắc, mỗi chương là một
màn hài kịch, mỗi nhân vật là một chân dung biếm họa xuất sắc (thằng Xuân
ma cà bông… trở thành nhà cải cách xã hội, tham dự vào cuộc Âu hóa, sinh
viên trường thuốc, đốc tờ Xuân, giáo sư quần vợt, anh hùng cứu quốc, cứ mở
miệng là “Mẹ kiếp”, “Nước mẹ gì”; bà phó Đoan “thủ tiết với hai đời chồng”;
cụ cố Hồng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”; sư Tăng Phú “đi hát cô đầu chay”
và luôn tự hào vì đã đánh đổ được Hội Phật giáo; nhà thiết kế Typn (tôi yêu
phụ nữ) chuyên sáng chế ra các y phục tối tân nhưng mắng vợ là “đĩ thõa” khi
55
vợ muốn tân thời; ông Văn Minh luôn hô hào thể dục thể thao nhưng bản thân
thì không chơi môn thể thao nào; ông Phán mọc sừng thuê người gọi mình là
“người chồng mọc sừng”,…)
Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”
Vai trò, vị trí của đoạn trích:
Vai trò đoạn trích: Trong 14 chương đầu, các nhân vật đã lần lượt xuất
hiện, bộc lộ những tính cách, nhưng đến chương này, tác giả tạo tình huống
(đi đưa đám) để tất cả nhất loạt có mặt trên trang sách. Ấn tượng về bộ mặt
giả dối, bịp bợm của cái xã hội tư sản thành thị đương thời càng được khắc
sâu, in đậm. Đây là một chương đặc sắc nhất trong Số đỏ.
Vị trí: Thuộc chương 15 của tiểu thuyết Số đỏ, có nhan đề đầy đủ là
Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma
gương mẫu.
Cụ cố tổ bị ốm nặng. Cả nhà, đám con cháu đều mong cụ chết sớm để
sớm được chia gia tài. Tình cờ nhờ bài thuốc vớ vẩn của Xuân Tóc Đỏ, cụ lại
qua khỏi và có vẻ đỡ hơn. Nhưng cũng lại vì một câu nói của Xuân (theo thỏa
thuận với ông Phán mọc sừng – con rể cụ cố Hồng, cháu rể cụ cố tổ), ngay
giữa nhà, trước mặt mọi người và cụ cố: Ngài là một người chồng mọc sừng!
Cụ cố tổ uất quá, tắt thở và… ba hôm sau, ông cụ già chết thật…
Chủ đề: nằm ngay trong tiêu đề của chương XV: Hạnh phúc của một
tang gia
Bất cứ ai mà chẳng buồn khi nhà có tang. Nỗi đau xót khi đưa người
thân đến nơi an nghỉ cuối cùng là tình cảm rất chân thật, rất người. Nhưng ở
đây thì trái lại, tất cả đều vui như Tết, ai cũng thấy đây là một dịp may đặc
biệt để mình thỏa mãn một nguyện vọng nào đó. Vì thế, có thể nói khi viết
chương sách độc đáo này, Vũ Trọng Phụng như muốn vạch rõ chân tướng nhố
nhăng, giả dối lố bịch của những hạn người mang danh là thượng lưu quí
phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, những quái thai của
56
xã hội thực dân tư sản ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám.
Đọc – kể: Yêu cầu giọng đọc cần thể hiện tiếng cười trào phúng hóm
hỉnh, mạnh mẽ và độc đáo. Nhịp văn lúc chậm, lúc mau, nhấn mạnh, kéo dài
một số từ ngữ đậm chất hài hước, đoạn đám cứ đi, đoạn khách đưa tang trò
chuyện, tiếng khóc của ông Phán mọc sừng,…
GV và HS đọc một vài đoạn tiêu biểu kết hợp với kể tóm tắt; nhận xét
cách đọc.
*Thiết kế phiếu học tập
UBài:U HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
- Phiếu học tập hướng dẫn HS chuẩn bị bài
(Phiếu 1)
Học và tên HS:……………………………………
Lớp:…………………
1. Đọc Tiểu dẫn và văn bản “Hạnh phúc của một tang gia” (khuyến
khích HS tìm đọc tiểu thuyết Số đỏ và xem phim Số đỏ).
2. Ghi lại những nét cơ bản về tác giả Vũ Trọng Phụng
Tác phẩm tiêu biểu
Những nét chính về sự nghiệp sáng tác
Những nét chính về cuộc đời …………………………. …………………………. ………………………….
3. Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm Số đỏ
Hoàn cảnh sáng tác Thể loại Thành công của tác phẩm
…………………………..
…………………………..
………………………….
57
4. Chia đoạn và nêu nội dung cơ bản từng đoạn của văn bản “Hạnh phúc
của một tang gia”
Đoạn Từ câu… đến câu… Nội dung cơ bản
1
2
3
….
5. Theo em, mâu thuẫn trào phúng cơ bản của đoạn trích được thể hiện ở
chi tiết nào? Lí giải nó?
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Hoàn thành bảng sau:
Từ ngữ, câu văn miêu tả nhân vật Nghệ thuật sử dụng Bản chất nhân vật Ý nghĩa
Đặc điểm Nhân vật Cụ cố Hồng Ông Văn
58
Minh Bà Văn Minh Cô Tuyết Ông Phán mọc sừng Cậu tú Tân
7. Trong số các nhân vật vừa kể trên, nhân vật nào gây cho em ấn tượng
sâu sắc nhất? Vì sao?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
8. Nêu ngắn gọn nội dung, nghệ thuật của văn bản “Hạnh phúc của một
tang gia”.
Nội dung:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Nghệ thuật:
...………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
59
…………………………………………………………………………………
Phiếu học tập dùng trong hoạt động dạy học
PHIẾU HỌC TẬP (Phiếu 2)
Nhóm:…………………………..
Tên thành viên nhóm: ……………………………………………….
Lớp:…………
Tóm tắt tiểu thuyết Số đỏ
Điền từ ngữ, cụm từ thích hợp vào những ô còn trống để hoàn thành
bảng sau:
Xuân Tóc Đỏ
PHIẾU HỌC TẬP (Phiếu 3)
Nhóm:……………………………………
Tên thành viên nhóm:……………………………………………
Lớp:………………………….
1. Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm “hạnh phúc” của mọi thành
viên trong gia đình cụ?
……………………………………………………………………………
60
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Từ ngữ, câu văn miêu tả nhân vật
Nghệ thuật sử dụng
Bản chất nhân vật
Ý nghĩa
Đặc điểm Nhân vật Cụ cố Hồng Ông Văn Minh Bà Văn Minh Cô Tuyết Ông Phán mọc sừng Cậu tú Tân
2. Hoàn thành bảng sau:
* Thiết kế giáo án
* Xây dựng bài tập kiểm tra đánh giá
Bài tập trắc nghiệm:
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(Trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng)
(Thời gian: 15 phút)
a. Ma trận đề:
61
Tác giả, tác phẩm Nội dung Nghệ thuật Tổng cộng Tỉ lệ
26,7% 53,3% 20,0% 100% 2 1 3 20,0% 1 3 1 5 33,3% 1 4 2 7 46,7% 4 8 3 15 100% Chủ đề Mức độ Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Tổng cộng Tỉ lệ
b. Đề:
Đọc kĩ các câu hỏi sau và trả lời bằng cách khoanh tròn vào chữ cái
trước câu đúng.
1. Lí do nào là đầy đủ, bao quát nhất để giải thích nguyên nhân
thành công của ngòi bút Vũ Trọng Phụng (thường viết rất sinh động, xác
thực về cuộc sống và con người ở các đô thị lớn Việt Nam trong buổi Âu
hóa)?
A. Vì ông sinh ra và sống chủ yếu ở Hà Nội.
B. Vì ông là người có óc quan sát sắc sảo.
C. Vì ông có khả năng phân tích, tổng hợp bức tranh đời sống.
D. Vì ông sống nhiều ở Hà Nội và có cái nhìn hiện thực sắc sảo.
2. Dòng nào dưới đây nêu đúng mối liên hệ giữa từ đỏ trong nhan đề
tác phẩm (Số đỏ) và đỏ trong tên nhân vật chính (Xuân Tóc Đỏ)
A. Chỉ là hai từ đồng âm khác nghĩa, không có liên hệ gì với nhau.
B. Cùng gợi liên tưởng đến một cái gì đặc biệt, hiếm có.
C. Cùng gợi lên ý niệm về sự may mắn.
D. Cùng tô đậm ấn tượng về một loại tình huống, số phận kì lạ, khôi hài.
3. Chương Hạnh phúc của một tang gia có ý nghĩa gì trong việc phát
triển, khơi sâu chủ đề “số đỏ”?
A. Thêm một lần Xuân gặp vận may (“số đỏ”).
B. Làm cho vai trò của Xuân Tóc Đỏ càng thêm nổi bật trong xã hội
thượng lưu.
62
C. Ngầm giải thích cái “số đỏ” kì lạ của Xuân và chuẩn bị cho một bước
thăng tiến mới của nhân vật này.
D. Chương này có một ý nghĩa độc lập.
4. Xét về tính chất và ý nghĩa tư tưởng, tiếng cười của Vũ Trọng
Phụng trong Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) thuộc loại nào
trong số những tiếng cười sau đây?
A. Tiếng cười châm biếm, chế giễu.
B. Tiếng cười vui giải trí.
C. Tiếng cười hài hước, nhẹ nhàng.
D. Tiếng cười đả kích hằn học, chua chát.
5. Dòng nào khái quát đủ và đúng nhất những điều kì quặc, khác
thường mà tác giả phát hiện, miêu tả trong đoạn trích Hạnh phúc của
một tang gia?
A. Tang gia thường bất hạnh, tang gia này ai ai cũng “hạnh phúc”.
B. Tang gia thường buồn đau, tang gia này vui như mở cờ, mở hội.
C. Đám tang thường trang nghiêm, đám tang này thật ồn ào, bát nháo.
D. Người đưa đám thường chân thành đến chia buồn, người ở đây phần
nhiều vờ vịt, giả dối.
6. Nhận xét nào sau đây đúng nhất?
Tiếng khóc vờ của ông Phán mọc sừng (lúc “hạ huyệt”), cũng như bộ
dạng “làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh” của các nhân vật “giai thanh gái lịch”
Hà Thành (lúc “đưa đám”) là những chi tiết cùng loại cho thấy:
A. mọi sự vờ vịt không che được con mắt nhà văn.
B. mọi sự giả dối đều bị phát hiện, phơi bày.
C. bản chất vô tình, thói đạo đức giả đều bị bóc trần.
D. mọi sự vờ vịt, giả dối đều bị lật tẩy, làm bật lên tiếng cười.
7. Nhận định nào sau đây đúng nhất?
Mỗi gương mặt cụ thể của “tang gia” (cụ cố Hồng, ông Phán mọc
63
sừng, Văn Minh chồng và Văn Minh vợ, cô Tuyết, cậu tú Tân,…) hiện lên
trong chương truyện, dưới ngòi bút trào lộng của nhà văn đều có thể xem
là:
C. một tính cách độc đáo A. một bức biếm họa sinh động
D. một gương mặt hài hước B. một nhân vật điển hình
8. Nhân vật nào trong đoạn trích chính là hiện thân đầy đủ nhất của
thói đạo đức giả?
A. Xuân Tóc Đỏ C. Ông Phán mọc sừng
B. Cụ cố Hồng D. Văn Minh chồng
9. Cách giải thích nào sau đây là gãy gọn, đầy đủ nhất?
Vì sao cụm từ chết thật trong câu văn mở đầu đoạn trích (“Ba hôm
sau, ông cụ già chết thật.”) đặt trong trường liên tưởng hạnh phúc của
một tang gia, lại toát ra một ý vị trào phúng?
A. Việc “chết thật” của “ông cụ” gợi nhắc đến những lần “chết giả”,
những lần mừng hụt trước đó.
B. Việc “chết thật” của “ông cụ” mang sắc thái như một tiếng reo ngầm.
C. Giờ phút “chết thật” của “ông cụ” là giờ phút đám cháu con đã nôn
nóng chờ đợi từ lâu.
D. Việc “chết thật” của “ông cụ” là nguyên nhân và cũng là sự bắt đầu
cho tất cả mọi niềm hạnh phúc riêng, chung của “tang gia”.
10. Nhận xét nào dưới đây chưa đúng?
Cách quan sát, miêu tả của Vũ Trọng Phụng trong phần cuối đoạn
trích (từ câu “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy.” đến hết) đặc
sắc ở chỗ:
A. Sử dụng có hiệu quả thủ pháp láy lại (Đám cứ đi…).
B. Kết hợp khéo léo miêu tả toàn diện (toàn cảnh) và điểm (chi tiết).
C. Kết hợp linh hoạt giữa tả viễn cảnh với cận cảnh và đặc tả.
64
D. Kết hợp kể với tả, giọng trang trọng với giọng hài hước.
11. Lúc “hạ huyệt” cụ tổ, Xuân Tóc Đỏ “chợt thấy ông Phán dúi vào
tay nó” cái gì?
A. Cái giấy bạc ba đồng gấp tư. B. Cái giấy bạc năm đồng gấp tư.
C. Tờ bạc một đồng gấp tư. D. Tờ giấy bạc hai đồng gấp tư.
12. Xét từ dụng ý miêu tả chân dung biếm họa của Vũ Trọng Phụng,
câu văn: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào
tay nó một cái giấy bạc gấp tư” nếu bỏ hoặc thay thế đi các từ ngữ dúi,
một cái, gấp tư thì sẽ làm giảm đi đều gì đáng kể nhất?
A. Độ chính xác của ngôn từ miêu tả.
B. Tài vờ vịt của một ông cháu tồi tệ, bịp bợm.
C. Độ sắc nhạy trong cách quan sát, miêu tả của tác giả.
D. Sự tương phản với tiếng khóc lâm li ở đoạn trên.
13. Chuỗi từ ngữ nào điền vào các chỗ trống có thể hoàn chỉnh đoạn
văn ghi nhớ về tri thức đọc – hiểu sau đây?
/…/ là một lối vẻ tranh châm biếm, ở đó người ta thường /…/ một
vài /…/ nào đó của đối tượng, thậm chí, làm cho đối tượng trở nên méo
mó, dị dạng đi để tạo hiệu quả châm biếm.
A. biếm họa/ phóng to, cường điệu/ nét nổi bật
B. biếm họa/ phóng đại, cường điệu/nét tiêu biểu
C. biếm họa/ phóng đại, cường điệu/ nét nổi bật
D. kí họa/ phóng đại, cường điệu/ nét chủ đạo
14. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của đoạn trích được thể hiện ở chi
tiết nào?
A. Ở tiếng khóc Hứt… Hứt… Hứt của ông Phán.
B. Ở cách tổ chức đám tang của gia quyến.
C. Ở khuôn mặt buồn lãng mạn của Tuyết.
D. Ở ngay tiêu đề đoạn trích.
65
15. Dòng nào sau đây không nêu những nét đặc sắc trong nghệ thuật
trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua tiểu thuyết Số đỏ?
A. Xây dựng được nhiều tình huống, chi tiết ngược đời, thật – giả, tốt –
xấu lẫn lộn, làm bật ra tiếng cười để lột tả bản chất xấu xa của xã hội đương
thời.
B. Khắc họa các nhân vật theo lối cường điệu, biếm họa
C. Sử dụng từ ngữ đa nghĩa hoặc ngược nghĩa; những lời nhận xét, bình
luận hóm hỉnh, bỡn cợt, mỉa mai
D. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc
c. Đáp án:
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Đáp án D D C A A D A C D D B B C D D
Bài tập tự luận:
Một số câu hỏi và đề văn về đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”:
UCâu 1U: Viết đoạn văn phân tích hình ảnh ông Phán mọc sừng dúi tiền
vào tay Xuân Tóc Đỏ.
UCâu 2U: Viết một đoạn văn chứng tỏ sự trào phúng bậc thầy của Vũ
Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
UCâu 3U: Phân tích để thấy rõ sự băng hoại đạo đức của xã hội tư sản
trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
UCâu 4U: Cảm nhận của anh/chị về xã hội đương thời trong đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia
UCâu 5U: Những người như Xuân Tóc Đỏ, Phán mọc sừng, phó Đoan,
Văn Minh, Tuyết… trong xã hội chúng ta ngày nay.
2.4.2. Hoạt động chuẩn bị của học sinh – người đọc
HS là chủ thể của quá trình tiếp nhận. Hoạt động dạy học trong nhà
trường đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào sự chủ động, tích cực
66
của chủ thể tiếp nhận. Để có được sự chủ động, tích cực HS phải đầu tư,
chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có thể nói đây là yêu cầu không thể thiếu
trong việc học Ngữ văn. Đối với văn bản tự sự, việc chuẩn bị bài chu đáo
trước ở nhà của HS là rất cần thiết. Nó giúp HS định hình được kiến thức;
mạnh dạn, tự tin tham gia xây dựng bài; dễ dàng tiếp thu kiến thức; hiểu rõ
bài hơn, sâu hơn và lâu hơn.
Để hoạt động đọc – hiểu văn bản Hạnh phúc của một tang gia trên lớp
đạt hiệu quả, HS thực hiện những yêu cầu sau:
- Đọc Tiểu dẫn và văn bản Hạnh phúc một tang gia (SGK trang 122-
128).
- HS tìm đọc tác phẩm Số đỏ và xem phim Số đỏ (khuyến khích)
- Hoàn thành Phiếu học tập chuẩn bị bài ở phía trên (Phiếu 1)
2.4.3. Hoạt động tương tác trên lớp
* Hoạt động kiểm tra sự chuẩn bị của HS: Đây là hoạt động không thể
thiếu của GV trước khi tổ chức HS đọc – hiểu văn bản, không thể bỏ qua,
không thể sơ sài. Hoạt động này giúp cho GV biết được khả năng tiếp nhận
ban đầu của HS khi đọc văn bản ở nhà, từ đó, GV định hướng, tổ chức đọc –
hiểu văn bản phù hợp, đạt hiệu quả.
* Hoạt động tổ chức dạy đọc – hiểu văn bản
- Hướng dẫn và hình thành cho HS cách tìm hiểu yếu tố ngoài văn bản
(thời đại xã hội; những nét chính trong cuộc đời, con người và thành công của
tác giả có ảnh hưởng, chi phối sáng tác của tác giả), cách đọc, tìm hiểu bố cục
đoạn trích.
+ GV yêu cầu HS trình bày những nét cơ bản về tác giả Vũ Trọng Phụng
(HS trình bày; GV nhận xét, bổ sung và nhấn mạnh những nét chính về tác
giả - yêu cầu HS gạch chân những ý chính có trong SGK)
+ GV giới thiệu một số hình ảnh về Vũ Trọng Phụng và một số tác phẩm
của ông và diễn giảng thêm: Sự nghiệp văn học và thế giới quan Vũ Trọng
67
Phụng khá phức tạp và mâu thuẫn nên đã gây ra những cuộc tranh luận và
đánh giá khác nhau trong nhiều năm. Đến những năm 80-90 TK XX, VTP
mới được đánh giá đúng mức, thỏa đáng.
+ GV hỏi: Em nào có thể cho cô biết thể loại Số đỏ? Tác dụng của thể
loại ấy?
+ GV cùng HS tóm tắt tác phẩm bằng cách điền vào sơ đồ (Phiếu 2)
+ GV đặt vấn đề: Người ta gọi “Số đỏ” là một kiệt tác. Em thử lí giải vì
sao? (HS suy nghĩ và trả lời; GV phân tích, diễn giảng những thành công của
tác phẩm để HV hiểu rõ hơn)
+ GV đặt câu hỏi: Em nào cho cô biết vị trí, bố cục đoạn trích?
+ GV yêu cầu HS tóm tắt đoạn trích (lưu ý giọng kể)
- Hướng dẫn HS tìm hiểu, giải mã đoạn trích
Hướng dẫn và hình thành cho HS tìm hiểu nhan đề đoạn trích và nghệ
thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trong đoạn trích.
+ GV đặt câu hỏi: Anh/chị cho biết ý nghĩa nhan đề đoạn trích và tình
huống trào phúng ở đây là gì? (HS trả lời; GV nhận xét, bổ sung và diễn giảng
thêm: Mâu thuẫn trào phúng là mâu thuẫn tạo nên tiếng cười dựa trên sự đối
lập, tương phản giữa bản chất bên trong và hình thức bên ngoài, giữa ý nghĩ
và lời nói, lời nói và hành động của nhân vật, giữa nội dung và hình
thức…trong đoạn trích mâu thuẫn trào phúng cơ bản là mâu thuẫn giữa bản
chất của xã hội tư sản thành thị với hình thức bên ngoài và biểu hiện của nó.
Mâu thuẫn trào phúng này biểu hiện qua một số tình huống khác nhau, xoay
quanh sự việc chủ yếu: cái chết và đám tang cụ cố tổ).
+ GV chia nhóm (4HS/1 nhóm), phát phiếu học tập và yêu cầu HS thảo
luận: Hoàn thành phiếu học tập (Phiếu 3), Thời gian thảo luận 10 phút.
+ GV gọi HS bất kì trình bày, các HS khác nhận xét, bổ sung -> GV
nhận xét, bổ sung.
+ GV đặt câu hỏi: Niềm “hạnh phúc” của những người trong gia đình đã
68
lây lan sang những người ngoài gia quyến. Anh/chị cho biết niềm hạnh phúc
của những người ngoài gia quyến là gì?
+ GV đặt câu hỏi: Cảnh đám ma được tổ chức như thế nào? Vì sao tác
giả để nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ xuất hiện ở giữa chương? Dụng ý của
nhà văn khi lặp lại 2 lần chi tiết “đám cứ đi”?
+ GV chia nhóm (nhóm đôi) và yêu cầu HS thảo luận theo nhóm:
Câu hỏi thảo luận:
. Tại sao nói cảnh hạ huyệt là một màn hài kịch nhỏ?
. Các nhân vật hài hước biểu diễn trên sân khấu ra sao?
. Tiếng khóc của ông Phán mọc sừng như thế nào và có ý nghĩa gì?
Thời gian thảo luận: 10 phút
+ GV gọi HS bất kì trình bày, HS khác nhận xét, bổ sung
+ GV hỏi: Thái độ của nhà văn đối với xã hội “thượng lưu” thành thị
đương thời?
Mục đích: HS hoạt động theo yêu cầu của GV; có sự tương tác giữa
thầy và trò; HS tự khám phá, giải mã đoạn trích dưới sự hướng dẫn của GV;
GV tổ chức, định hướng, phối hợp linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật trong
quá trình dạy học để giờ học đạt kết quả tốt. Từ đó, giúp HS mạnh dạn, tự tin
hơn và hình thành được cách đọc một văn bản tương tự
- Hướng dẫn HS thưởng thức, đánh giá khái quát đoạn trích (phần Tổng
kết)
+ GV đặt câu hỏi: Từ những nội dung đã tìm hiểu của chương truyện,
anh/chị hãy tổng kết rút ra chủ đề tư tưởng, giá trị nội dung của chương nói
riêng và tiểu thuyết “Số đỏ” nói chung.
+ Anh/chị nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở
đoạn trích này?
Mục đích: HS trình bày những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình
Hướng dẫn HS tìm hiểu tác động của bài học đối với bản
69
thân, thấy được sự gắn kết giữa bài học với cuộc sống hằng ngày.
* Kết thúc bài giảng – củng cố kiến thức: Yêu cầu HS làm bài trắc
nghiệm và viết bài theo yêu cầu. Từ đó hình thành năng lực đọc văn và tạo lập
văn bản.
* Hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà: GV có những hướng dẫn cụ thể cho
HS để các em chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
Tổ chức dạy đọc – hiểu văn bản tự sự nói chung và văn bản Hạnh phúc
của một tang gia nói riêng đạt hiệu quả cần hội tụ nhiều yếu tố. Trong đó, sự
đầu tư chu đáo bài dạy cùng với sự năng động, linh hoạt trong quá trình dạy
học của GV và việc chuẩn bị bài kĩ lưỡng cùng với sự chủ động, tích cực của
HS trong quá trình tiếp nhận là yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên thành công
của giờ dạy học.
70
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm dạy học nhằm:
- Rèn cho HS kĩ năng đọc hiểu văn bản tự sự. Đề tài mong muốn tìm ra
một cách vận dụng cụ thể và khoa học vào hoạt động giảng dạy nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của HS, giúp các em nhập cuộc vào tiến trình tiếp
nhận. Từ đó, HS tự rèn luyện, thực hành để nâng cao năng lực đọc hiểu.
- Rèn cho HS kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Việc phối hợp các kĩ năng
đọc, viết và nói là yêu cầu đặt ra của việc dạy học môn Ngữ văn ngày nay.
Dạy đọc – hiểu theo quan điểm tiếp nhận tạo cho HS thói quen suy nghĩ và
bày tỏ quan điểm của bản thân khi đọc văn bản.
- Rèn kĩ năng hợp tác trong nhóm. Thông qua những hoạt động tổ chức,
tương tác trong nhóm, HS sẽ rèn luyện cách làm việc và phối hợp với các
thành viên trong nhóm và mạnh dạn, tự tin xây dựng bài học.
- Tăng hứng thú học tập, tạo điều kiện để các em tích cực, chủ động
tham gia vào quá trình tiếp nhận văn bản của bản thân, từ đó giúp các em yêu
thích học tập môn Văn hơn.
Chúng tôi sẽ tiến hành thực nghiệm với văn bản Hạnh phúc của một tang
gia. Qua hoạt động thực nghiệm chúng tôi nhằm mục đích dạy cho các em
cách thức cụ thể để đọc hiểu một văn bản tự sự.
3.2. Nội dung - Yêu cầu thực nghiệm
Giáo án và quá trình thực nghiệm phải thể hiện rõ vai trò định hướng, tổ
chức trong hoạt động dạy học của GV; phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của
người. Hoạt động thực nghiệm phải chỉ ra cách thức cụ thể của hoạt động đọc
– hiểu văn bản Hạnh phúc của một tang gia nói riêng và văn bản tự sự nói
chung (cách thực hiện phiếu học tập, cách làm việc nhóm, cách trình bày,…).
Hoạt động thực nghiệm cũng phải thể hiện được những hiệu quả nhất định
71
trong việc rèn luyện kĩ năng nói, đọc, viết cho HS.
Lớp được chọn thực nghiệm và đối chứng có năng lực tương đương nhau
để việc đánh giá kết quả thực nghiệm được chính xác, khách quan.
3.3. Đối tượng - Thời gian thực nghiệm
Để tiến hành hoạt động thực nghiệm, tôi chọn lớp thực nghiệm (11D1)
và một lớp đối chứng (11A1) tại TT GDTX quận 12; lớp thực nghiệm (11A1)
và lớp đối chứng (11A2) tại TT GDTX huyện Phú Tân. Các lớp cùng học
chương trình Ngữ văn chuẩn. Lớp 11D1 và 11A1 tại TT GDTX quận 12 có số
lượng và học lực tương đương nhau. Lớp 11A1 và 11A2 tai TT GDTX huyện
Phú Tân có số lượng và học lực tương đương nhau. Tôi thực hiện dạy thực
nghiệm với mong muốn có những số liệu khách quan và khoa học để đánh giá
mức độ hiệu quả đạt được của việc dạy đọc – hiểu theo quan điểm tiếp nhận
văn học.
Bài dạy thực nghiệm: Văn bản Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ
của Vũ Trọng Phụng)
Thời gian thực nghiệm: Đầu năm học 2014 – 2015.
3.4. Triển khai thực nghiệm
UĐọc văn:U HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
3.4.1. Giáo án thực nghiệm
(Trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng)
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp hs:
- Nhận ra bản chất lố lăng, giả dối, đồi bại của xã hội tư sản thành thị
những năm trước Cách mạng tháng Tám.
- Thấy được thái độ phê phán và bút pháp châm biếm tài tình của Vũ
Trọng Phụng.
II. ĐẶC ĐIỂM BÀI HỌC
- Đây là đoạn trích chương XV của tiểu thuyết Số đỏ (gồm 20 chương).
72
Chương này miêu tả cái chết của cụ cố già, nỗi vui mừng của đám con cháu,
cảnh cất đám, đưa đám và hạ huyệt của một đám ma “kiểu mẫu”. Tất cả đều
được miêu tả bằng một thái độ hài hước, châm biếm của tác giả.
- Về tiếng cười trào phúng châm biếm, cần chú ý đến bản chất lố bịch
của đối tượng; sự cường điệu để làm nổi bật đối tượng và cuối cùng là sự sắc
bén của việc phê phán để hạ gục đối tượng.
- Qua việc tìm hiểu những bức chân dung biếm họa các nhân vật và đám
ma cụ cố tổ, cần giúp HS hiểu nghệ thuật trào phúng sắc bén của Vũ Trọng
Phụng và thái độ phê phán gay gắt bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội thượng
lưu tư sản thành thị thời bấy giờ. Khi phân tích, cần lưu ý HS về bút pháp trào
phúng của tác giả.
III. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- SGK, SGV, SHDDH Ngữ văn lớp 11, tập 1 là chủ yếu
- Ảnh chân dung phóng to, ngôi mộ và nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng
- Tác phẩm “Số đỏ”; một số tài liệu liên quan
- Phim Số đỏ
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Kết hợp các phương pháp: đọc diễn cảm, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi mở,
diễn giảng, phân tích, thảo luận nhóm.
IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC BÀI HỌC
1. Phần mở đầu
- Ổn định lớp
- Kiểm tra bài cũ/sự chuẩn bị của HS: Phần này không thể bỏ qua. GV có
thể kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS, ghi nhận kết quả.
- Lời vào bài: GV phỏng vấn một số HS: Cho biết cảm nhận của bản
thân em về những người thân của người quá cố khi nhà có tang và người đi
đưa đám. Sau đó GV khéo léo dẫn vào bài học.
73
2. Nội dung bài học
HĐ của GV HĐ của HS Nội dung bài học
I. Giới thiệu chung
- GV yêu cầu HS - HS trình 1. Tác giả (1912- 1939)
trình bày những nét bày - Vũ Trọng Phụng sinh tại Hà Nội trong
một gia đình nghèo “cái nghèo gia cơ bản về tác giả
truyền” (Ngô Tất Tố). Vũ Trọng Phụng.
- GV nhận xét, bổ - HS chú ý - Ông tự học, học qua sách vở và cuộc
lắng nghe sung và nhấn mạnh sống. Vì vậy VTP có vốn liếng giàu có,
phong phú. và thực hiện những nét chính về
theo yêu - Ông là một tài năng nhiều mặt: kịch, tác giả (yêu cầu HS
gạch chân những ý cầu của GV truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết. Là
chính có trong cây bút có sức sang tạo dồi dào.
SGK) + Kịch: kịch ngắn 1 màn + kịch dài; hài kịch + bi
- GV giới thiệu - HS chú ý, kịch.
một số hình ảnh về + Truyện ngắn: trên dưới 50 truyện ngắn quan sát
Vũ Trọng Phụng + Phóng sự: được tôn vinh “ông vua
và một số tác phẩm phóng sự Bắc kì”. Nhưng phải gọi là
của ông “ông vua phóng sự Việt Nam” (Trần Hữu
Tá).
- GV diễn giảng - HS chú ý + Tiểu thuyết: 9 cuốn ông in ra không
thêm: Sự nghiệp lắng nghe cuốn nào không được người đọc đón
văn học và thế giới nhận. Đặc biệt “Giông tố”, “Số đỏ” là hai
quan Vũ Trọng kiệt tác. Ông là nhà tiểu thuyết hiện thực
Phụng khá phức lừng lẫy.
tạp và mâu thuẫn - Cuộc đời ngắn ngủi, nghèo túng, bệnh
nên đã gây ra tật
74
những cuộc tranh - Sáng tác của Vũ Trọng Phụng toát lên
luận và đánh giá niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội đen
khác nhau trong tối thối nát đương thời được thể hiện
nhiều năm. Đến bằng phong cách nghệ thuật độc đáo.
những năm 80-90 - Ông là một trong những nhà văn hiện
TK XX, VTP mới thực lớn, có đóng góp đáng kể vào sự
được đánh giá phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện
đúng mức, thỏa đại.
đáng. 2. Tác phẩm Số đỏ
a. Thể loại: Tiểu thuyết - Em nào có thể - HS trình
bày b. Tóm tắt (Tiểu dẫn SGK tr. 122, 123) cho cô biết thể loại
c. Những thành công của tác phẩm Số đỏ? Tác dụng
của thể loại ấy? - Thông qua “Số đỏ” (cả “Giông tố”),
- HS tóm tắt - GV cùng HS tóm ông có sở trường dựng những bức tranh
tác phẩm tắt tác phẩm bằng xã hội quy mô rộng lớn. “Số đỏ” là một
bằng sơ đồ cách điền vào sơ bức tranh thành thị, một nửa của thành
đồ (Phiếu 2) thị, của giới thượng lưu quý tộc. Hà Nội
của cụ cố Hồng, ông bà Văn Minh, Xuân
Tóc Đỏ,… Hà Nội với những mẫu người
ấy khiến ta hiểu nó đang băng hoại như
- HS lí giải - Người ta gọi “Số thế nào. Trong “Số đỏ” có những nhân
vật mà “Giông tố” không có: Toàn quyền đỏ” là một kiệt tác.
Đông Dương, Hoàng đế An Nam, Hoàng Em thử lí giải vì
sao? đế Xiêm La. Hình thức có vẻ trịnh trọng,
thực chất 3 nhân vật này là 3 con rối, rất
buồn cười, rất hài hước.
- Ông đặc biệt thành công về nghệ thuật
75
- GV phân tích, - HS chú ý điển hình hóa (qua nhân vật Xuân Tóc
diễn giảng những lắng nghe Đỏ).
- Phong cách nghệ thuật đa dạng thành công của tác
phẩm để HV hiểu + Giọng điệu: là một chuỗi cười dài, chỗ
rõ hơn. nào cũng tạo ra một tiếng cười với những
sắc thái khác nhau, gây sự thích thú cho
người đọc.
+ Nghệ thuật trào phúng: ngôn ngữ trào
phúng, chi tiết trào phúng, tình huống
trào phúng, nhân vật trào phúng,…
Tổng thể lại nó là một bức tranh trào phúng.
3. Đoạn trích
a. Vị trí: toàn bộ chương XV của tác
- HS trả lời - Em nào cho cô phẩm “Số đỏ”
biết vị trí, bố cục b. Bố cục
- Từ đầu đến “Tuyết vậy”: Niềm vui và đoạn trích?
hạnh phúc của các thành viên trong gia
đình và mọi người khi cụ cố tổ qua đời.
- Tiếp theo đến “đám cứ đi”: Cảnh đám
- HS tóm tắt - GV yêu cầu HS ma gương mẫu
đoạn trích - Còn lại: Cảnh hạ huyệt tóm tắt đoạn trích
c. Tóm tắt đoạn trích (lưu ý giọng kể)
- HS lắng - GV nhận xét,
nghe hướng dẫn II. Đọc – hiểu văn bản
1. Ý nghĩa nhan đề và tình huống trào
- HS suy - GV dẫn dắt: Đám phúng
- “hạnh phúc”: trạng thái sung sướng vì nghĩ và trả tang là một sự kiện đặc
76
thù giúp ta hiểu bản lời cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
chất của một xã hội, tập “tang gia”: gia đình có chuyện đau
trung nhân thế, phong buồn.
hóa xã hội. Bởi vì thái Mâu thuẫn trào phúng trong chương
độ của con người trước XV được gợi lên từ cái nhan đề của nó.
Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người cái chết của người thân,
chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối của đồng loại chính là
thật nhưng đó là cái bối rối sung sướng, thước đo tin cậy về văn
bối rối không phải tổ chức một đám ma hóa, đạo đức, thước đo
mà để tổ chức một đám rước, một ngày chất người của người
hội. sống.
- Anh/chị cho biết - HS suy -> Nhan đề vừa gây sự chú ý cho người
ý nghĩa nhan đề nghĩ và trả đọc, vừa phản ánh rất đúng sự mỉa mai,
đoạn trích và tình tàn nhẫn: con cháu đại gia đình này thật lời
huống trào phúng ở sung sướng, hạnh phúc khi cụ cố tổ chết.
- Tình huống trào phúng: tang gia mà đây là gì?
- GV diễn giảng - HS chú ý lại hạnh phúc, có người chết mà lại vui
lắng nghe vẻ, sung sướng. thêm
2. Niềm hạnh phúc của những người
trong gia đình
- HS thực - Niềm vui chung: cái chúc thư kia - GV hướng dẫn
hiện theo được thực thi -> bộc lộ nhiều mâu thuẫn HS phân tích sự
yêu cầu của trào phúng và làm đậm nét hàng loạt chân khai mâu triển
GV dung hài hước thuẫn trào phúng
- Niềm vui riêng: của chương truyện.
- GV chia nhóm - HS làm + cụ cố Hồng: được dịp diễn trò già
(4HS/1 nhóm), việc theo nua ốm yếu giữa phố đông người -> một
77
phát phiếu học tập nhóm kẻ háo danh, vô trách nhiệm
3 và yêu cầu HS + ông Văn Minh: lo cái chúc thư kia
thảo luận: sớm đi vào thực hành -> một kẻ giả
dối,bất nhân, hám tiền + Hoàn thành
+ bà Văn Minh: là dịp lăng xê những phiếu học tập
mốt y phục tân thời, táo bạo -> hám lợi, + TG thảo luận:
văn minh rởm 10’
+ cô Tuyết: cơ hội để phô bày trưng
diện sự hư hỏng “chưa đánh mất cả chữ - GV gọi HS bất kì - HS trình
trinh” -> hư hỏng, lố lăng, lẳng lơ trình bày, các HS bày
+ cậu tú Tân: cơ hội hiếm có để giải trí khác nhận xét, bổ
và chứng tỏ tài chụp ảnh -> một kẻ vô sung
tâm, đáng lên án
- HS chú ý + ông Phán mọc sừng: sung sướng vì - GV nhận xét, bổ
lắng nghe mình được trả công xứng đáng nhờ cặp sung
sừng vô hình -> vô liêm sỉ, đểu giả, đê
- HS lắng tiện - GV diễn giảng
nghe Mâu thuẫn => Đó là một gia đình đại thêm: Tất cả những
bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, đồi bại về chi tiết đó, bảo bịa
đạo đức. Xã hội thượng lưu ấy giả dối, lố thì quả là bịa. Nhà
lăng, vô đạo đức. văn đã dùng trí
tưởng tượng, hư
cấu của mình, dùng
lối phóng đại để vẽ
bức tranh hí họa
gây cười. Nhưng
nhìn kĩ, nghĩ kĩ thì
78
nội dung bức tranh
đó lại rất chân thực
vì ông đã dựa vào
bản chất và sự thật
cuộc đời để vẽ, để
sáng tạo. Bởi vậy
nó rất chân thực
mà lại đậm chất
trào phúng, hài
hước.
- HS trình - Niềm “hạnh 3. Niềm hạnh phúc của những người
bày phúc” của những ngoài gia quyến
- Cảnh sát MinĐơ và MinToa: có việc người trong gia
làm đình đã lây lan
- Xã hội trưởng giả bạn bè cụ cố Hồng: sang những người
được dịp khoe những cái huy chương, ngoài gia quyến.
phẩm hàm,… Anh/chị cho biết
- Hàng phố: được xem đám ma to tát niềm hạnh phúc
chưa từng có của những người
=> đám đông ồn ào, láo nháo, nhặng sị ngoài gia quyến là
gì?
- GV nhận xét, bổ - HS chú ý
lắng nghe sung
4. Cảnh đám ma gương mẫu
* Cảnh đưa đám
- Khung cảnh đám tang: - HS trả lời - Cảnh đám ma
79
được tổ chức như + Đủ kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu
thế nào? + Có hàng trăm câu đối, vòng hoa, bức
trướng
+ Người đi đưa đông đúc, sang trọng,
“đủ giai thanh gái lịch” nên họ “cười tình
với nhau, bình phẩm nhau, chê bai
nhau…”
-> được tổ chức theo lối “hồ lốn”, bát
nháo, lộn xộn.
- Vì sao tác giả để - HS suy - Sự xuất hiện đúng lúc của Xuân Tóc
nhân vật chính – nghĩ trả lời Đỏ: khung cảnh đám tang sinh động hẳn
Xuân Tóc Đỏ xuất lên -> tô điểm cho đám tang.
hiện ở giữa - Điệp khúc “đám cứ đi” -> diễn tả tốc độ
chương? chậm chạp, dềnh dàng của đám tang. Một
- Dụng ý của nhà - HS suy mặt thể hiện sự quyến luyến đau xót của
văn khi lặp lại 2 nghĩ trả lời người sống, mặt khác (và là chủ yếu) để
cố ý khoe sang, khoe giàu của gia đình cụ lần chi tiết “đám cứ
cố Hồng => khẳng định rằng cái xã hội đi”?
ấy vẫn cứ tồn tại một cách quái gở, một
cách chó đểu, vô nghĩa lí.
* Cảnh hạ huyệt: - HS thảo - Thảo luận (nhóm
- cậu tú Tân “bắt bẻ từng người” để chụp luận nhóm đôi)
được các bức ảnh đẹp lúc hạ huyệt. đôi + Câu hỏi:
- cụ cố Hồng: mếu máo, ngất đi . Tại sao nói cảnh
hạ huyệt là một - ông Phán mọc sừng: khóc
màn hài kịch nhỏ? “Hứt…hứt…hứt…” và kín đáo dúi vào
. Các nhân vật hài tay Xuân Tóc Đỏ năm đồng -> ông đã tạo
80
hước biểu diễn trên ra một pha trào phúng tinh vi nhất. Nó là
đỉnh cao của trò hề này. Mọi thứ trong xã sân khấu ra sao?
. Tiếng khóc của hội đương thời đều được quy ra bằng tiền
ông Phán mọc sừng mặc cho việc mất đi những giá trị đạo
như thế nào và có ý đức.
nghĩa gì?
+ Thời gian: 10’ => Đám ma gương mẫu, to tát nhưng
thực chất là sự giả dối, đồi bại, vô văn - GV gọi HS bất kì - HS trình
hóa, vô đạo đức của xã hội “thượng lưu” trình bày, HS khác bày
thành thị đương thời. Nhà văn có thái độ nhận xét, bổ sung
khinh bỉ, nhạo báng một cách cay độc
trong tiếng cười trào phúng mang sức hủy - Thái độ của nhà - HS trả lời
diệt, triệt hạ. văn đối với xã hội
“thượng lưu” thành III. Tổng kết
thị đương thời? 1. Nội dung
- Vạch trần sự thật xấu xa của cái gọi là
- Từ những nội - HS khái “Âu hóa”, “văn minh” mà kẻ thù đang
quát dung đã tìm hiểu khuyến khích, lợi dụng lúc bấy giờ. Đoạn
của chương truyện, trích cũng gióng lên tiếng chuông cảnh
anh/chị hãy tổng tỉnh về sự xuống cấp đạo đức của một bộ
kết rút ra chủ đề tư phận người dân trong xã hội Việt Nam
tưởng, giá trị nội trước đậy cũng như bây giờ.
dung của chương - Phê phán mãnh liệt bản chất giả dối, lố
nói riêng và tiểu lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở
thành thị những năm trước Cách mạng thuyết “Số đỏ” nói
tháng Tám. chung.
2. Nghệ thuật: nghệ thuật trào phúng
81
bậc thầy
- Anh/chị nhận xét - HS nhận - Tình huống trào phúng: Nhan đề đoạn
gì về nghệ thuật xét trích, cảnh ông Phán mọc sừng khóc rất
trào phúng của Vũ kinh
Trọng Phụng ở -> những sự đối lập, tương phản có vẻ
đoạn trích này? ngược đời nhưng hoàn toàn có lí để mỉa
mai, châm biếm.
- Chân dung trào phúng: Mỗi nhân vật
bộc lộ những điều đầy nghịch lí.
- Giọng điệu trào phúng: hài hước, mỉa
mai, châm biếm được tác giả vận dụng
linh hoạt, đa dạng từ việc dùng từ, đặt câu
- Ngôn ngữ trào phúng: Thủ pháp cường
điệu, nói ngược,…
3. Củng cố-dặn dò:
- Củng cố: “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những màn hài
kịch đặc sắc nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Nó cũng gợi
nhớ đến đoạn “Đám tang lão Gôriô” (Ban dắc). Khác nhau là ở chỗ, nhà văn
Pháp dùng cái bi để tả thì nhà văn Việt Nam lại dùng cái hài. Tạo tình huống
trào lộng, vẽ chân dung hí họa, chơi chữ hóm hỉnh, linh hoạt. Đó là tiếng cười
thông minh, trí tuệ của tiểu thuyết hiện đại. Tiếng cười đó có sức mạnh tuyệt
vời. Nó kéo đối tượng lại gần, lôi cuốn đối tượng vào cuộc tiếp xúc thô bạo, ở
đó có thể suồng sã, sờ mó nó khắp phía, lật ngửa, lộn trái nhòm ngó từ dưới,
từ trên, đập vỡ cái vỏ bên ngoài để nhìn vào bên trong, bóc trần và vạch trần
(Bakhtin).
- Dặn dò:
+ Xem lại bài;
82
+ Làm bài tập:
1. Tìm 10 câu văn thể hiện giọng điệu hài hước, mỉa mai của tác giả.
2. Chỉ ra những mâu thuẫn và những chân dung trào phúng ở đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia.
+ Chuẩn bị bài: Một số thể loại văn học: Thơ, truyện.
3.4.2. Các bước tiến hành thực nghiệm
Bước 1: Khảo sát tình hình lớp và xin số liệu kết quả học tập bộ môn
Ngữ văn lớp 10 năm học 2013 – 2014 ở Trung tâm GDTX quận 12 và Trung
tâm GDTX huyện Phú Tân.
Bước 2: Giao tài liệu thực nghiệm (giáo án, phiếu học tập, đề kiểm tra),
trao đổi với GV thực nghiệm về tinh thần làm việc và ý tưởng được thể hiện
trong giáo án thực nghiêm.
Bước 3: Dự giờ các tiết dạy thực nghiệm, ghi chép và đối chiếu với tiến
trình tổ chức dạy học đọc – hiểu mà luận văn đã đề nghị ở chương 2 để điều
chỉnh, bổ sung và rút kinh nghiệm. Sau tiết học, thu lại những phiếu học tập
đã phát.
Bước 4: Tiến hành kiểm tra, phát phiếu tham khảo ý kiến của GV, ý
kiến HS sau các giờ học.
Bước 5: Thống kê, phân tích kết quả khảo sát để có kết luận và đề nghị.
Cụ thể:
- Lớp 11D1 (lớp thực nghiệm) do cô Trần Thị Nguyệt dạy.
- Lớp 11A1 (lớp đối chứng) do cô Hồ Thị Hiền dạy
- Lớp 11A1 (lớp thực nghiệm) do cô Trương Như Quyền dạy
- Lớp 11A2 (lớp đối chứng) do thầy Mai Thanh Toàn dạy
3.5. Đánh giá thực nghiệm
3.5.1. Các tiêu chí đánh giá
3.5.1.1. Về định tính
Kiểm tra khả năng nhận thức vấn, xử lí và giải quyết những vấn đề đặt
83
ra trong bài học, giờ học.
- Căn cứ vào mức độ chuẩn bị bài của HS
- Căn cứ vào không khí giờ học
- Căn cứ vào khả năng giải quyết vấn đề của HS
- Căn cứ vào thái độ hợp tác của HS trong việc phát biểu xây dựng bài
và trong hoạt động nhóm
- Căn cứ vào những vấn đề được trao đổi, giải quyết trong tiết học
- Căn cứ vào việc HS biết nêu lên những thắc mắc, đề nghị trước những
vấn đề mình chưa hiểu, băn khoăn; biết chia sẻ với bạn bè và thầy cô suy
nghĩ, cách hiểu riêng của bản thân về những vấn đề đặt ra trong giờ học.
3.5.1.2. Về định lượng
Kiểm tra để đánh giá chất lượng học tập của HS
- Mức độ hoàn thành công việc được giao
- Khả năng vận dụng những tri thức đã học; những kinh nghiệm, vốn
sống của bản thân để giải quyết những tình huống, những vấn đề đặt ra trong
giờ đọc hiểu văn bản.
- Khả năng tổng hợp, khái quát kiến thức hay ý kiến riêng về vấn đề đặt
ra.
Các tiêu chí trên được cụ thể hóa trong các đề kiểm tra (trắc nghiệm và
tự luận), có đáp án và thang điểm cụ thể.
3.5.2. Phương tiện đánh giá
- Phiếu học tập chuẩn bị bài của HS
- Dự giờ
- Phiếu học tập dùng trong hoạt động dạy học
- Bài kiểm tra (bài tự luận và trắc nghiệm)
3.5.3. Phân tích kết quả thực nghiệm
3.5.3.1. Kết quả trước tác động và sau tác động
Căn cứ vào điểm trung bình kiểm tra (bài trắc nghiệm và bài tự luận)
84
của tất cả các lớp trước khi học văn bản Hạnh phúc của một tang gia và sau
khi học văn bản đó (trước tác động và sau tác động), chúng tôi thống kê được
kết quả như sau:
Trước tác động Sau tác động
Lớp Điểm Số HS Tỉ lệ % Số HS Tỉ lệ %
11D1 8 –> 9 3 7.9 7 18.4
(Lớp thực 6.5 –> 7.9 14 36.8 16 42.1
nghiệm - 5->6.4 16 42.1 13 34.2
quận 12) 0.5–> 3.4 5 13.2 2 5.3
11A1 8 –> 9 3 7.7 4 10.3
(Lớp đối 6.5 –> 7.9 9 23.1 10 25.6
chứng - 5->6.4 19 48.7 18 46.2
quận 12) 0.5–> 3.4 8 20.5 7 17.9
11A1 8 –> 9 0 0 1 5.0
(Lớp thực 6.5 –> 7.9 4 20.0 7 35.0
nghiệm - 5->6.4 11 55.0 11 55.0
Phú Tân) 0.5–> 3.4 5 25.0 1 5.0
11A2 8 –> 9 0 0 0 0
(Lớp đối 6.5 –> 7.9 5 22.7 6 27.3
chứng - 5->6.4 11 50.0 12 54.5
Phú Tân) 0.5–> 3.4 6 27.3 4 18.2
So sánh kết quả trước tác động và sau tác động, chúng ta có thể thấy
rằng sau khi tác động, cả ba lớp đều có sự chuyển biến theo chiều hướng tốt.
Số HS đạt loại giỏi, khá tăng, số HS yếu giảm.
Lớp 11D1 (lớp thực nghiệm), số HS đạt loại giỏi tăng 10.5% (từ 7.9%
85
lên 18.4%), loại khá tăng 5.3% (từ 36.8% lên 42.1%). Lớp 11A (lớp đối
chứng), số HS đạt loại giỏi tăng 2.6% (từ 7.7% lên 10.3%), loại khá tăng
3.5% (từ 23.1% lên 25.6%) . Lớp 11A1 (lớp thực nghiệm), số HS đạt loại giỏi
tăng 5.0% (từ 0% lên 5.0%), loại khá tăng 15% (từ 20%% lên 35%). Lớp
11A2 (lớp đối chứng), số HS đạt loại giỏi tăng 4.6% (từ 22.7 % lên 27.3%).
So với lớp đối chứng, lớp thực nghiệm có sự tiến bộ nhiều hơn. Số HS yếu ở
các lớp cũng giảm, mặc dù không nhiều nhưng đáng khích lệ. Lớp 11D1 (lớp
thực nghiệm) và lớp 11A1 (lớp thực nghiệm) số HS yếu đã giảm những vẫn
còn, tỉ lệ HS khá giỏi có tăng nhưng chưa cao do HS có thích nghi và hứng
thú nhưng chưa hình thành được cho mình thói quen. Bài viết của người học
có tiến bộ nhưng vẫn còn sơ sài, chung chung, qua loa; còn yếu trong cách
diễn đạt. Điều đó không thể tránh khỏi, nếu HS không có thói quen tự mình
tìm hiểu, chuẩn bị bài và rèn luyện viết văn trước khi đến lớp thì không thể
hiểu sâu bài học và bài viết không thể đạt kết quả cao.
Qua kết quả trên, chúng tôi có thể khẳng định việc dạy đọc hiểu văn
bản Hạnh phúc của một tang gia nói riêng và văn bản tự sự nói chung theo
quan điểm tiếp nhận văn học mang lại hiệu quả khá tốt. Đây là cơ sở khách
quan để chúng tôi đánh giá hiệu quả của giải pháp đề ra. Đồng thời đây cũng
là cơ sở để chúng tôi rút ra những kinh nghiệm thiết thực. Từ đó, chúng tôi có
sự điều chỉnh để việc vận dụng quan điểm này vào hoạt động giảng dạy về
sau đạt hiệu quả cao nhất.
3.5.3.2. Kết quả thực nghiệm
Do giới hạn về thời gian, việc tổ chức dạy thực nghiệm chỉ được tiến
hành ở 04 lớp với 03 giáo án. Căn cứ vào kết quả bài làm của HV (bài kiểm
tra trắc nghiệm và bài tự luận) của các lớp thực nghiệm và đối chứng, chúng
tôi thông kê được kết quả như sau:
Điểm – Xếp loại
Lớp Số bài kiểm 9->10 8 –> 9 6.5 –> 5->6.4 3.5 –> 0.5–> 0
86
tra Giỏi
7.9 Khá Xuất sắc 3.4 Kém 4.9 Yếu
38
Trung bình SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 13 34.2 16 42.1 07 18.4 02 5.3
39
10 25.6 04 10.3 18 46.2 07 17.9
20
7 35.0 01 5.0 11 55.0 01 5.0
22 0
6 27.3 12 54.5 04 18.2 11D1 (Lớp thực nghiệm - quận 12) 11A1 (Lớp đối - chứng quận 12) 11A1 (Lớp thực nghiệm - Phú Tân) 11A2 (Lớp đối chứng - Phú Tân)
Mặc dù trên cơ sở chọn những lớp có kết quả học tập năm học trước
tương đương nhau nhưng trong quá trình thực nghiệm ít nhiều vẫn có sự
chênh lệch về chất lượng học tập.
Ở lớp thực nghiệm, HV thực sự bị cuốn hút vào hoạt động học tập:
chuẩn bị bài đầy đủ theo hướng dẫn của GV, vào lớp tập trung vào bài học,
tích cực tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài học. Nhìn chung, HS thực sự
làm chủ giờ học của mình.
Tỉ lệ khá, giỏi ở bài thực nghiệm cao hơn so với bài đối chứng
Tỉ lệ dưới trung bình ở bài thực nghiệm thấp hơn so với bài đối chứng
Phân loại HS khá rõ ràng
Kết quả của việc tổ chức dạy đọc – hiểu tác phẩm tự sự, cụ thể là đoạn
trích Hạnh phúc của một tang gia, có chú trọng đến việc khơi gợi để HS phát
huy năng lực của bản thân, HS chuẩn bị bài bằng một hệ thống câu hỏi trên
phiếu học tập, giáo án được thiết kế với những thao tác song phương giữa
thầy và trò thì mức độ tiếp thu bài trên lớp sẽ tốt hơn.
87
3.5.4. Đánh giá
* Đánh giá giáo án:
- Về giáo án đối chứng:
+ Câu hỏi còn rời rạc, vụn vặt, chưa đặt trong một hệ thống; thời điểm
đưa ra câu hỏi chưa phù hợp, câu hỏi chưa chú ý đến các đối tượng học sinh;
đôi khi câu hỏi quá khó, có câu hỏi không phải là câu hỏi nêu vấn đề…
+ Hệ thống phương pháp, hình thức dạy học chưa minh bạch
+ Hoạt động của GV tương đối nhiều
+ Kiến thức bài học nhiều, nặng đối với người học
- Về giáo án thực nghiệm
+ Hệ thống câu hỏi khoa học, hợp lí, phù hợp với người học, phát huy
khả năng của HS.
+ GV chọn điểm để hỏi (chỗ then chốt của kiến thức) phù hợp: trọng
điểm, điểm khó, điểm hoài nghi, điểm dễ nhầm lẫn
+ Câu hỏi được nêu ra ở độ khó vừa phải, hướng nhiều đối tượng HS,
hướng tới số đông HS, làm cho nhiều HS có sự suy nghĩ thì trả lời được.
Trong đó, phần nhiều là câu hỏi hướng tới số đông HS, một số câu hỏi dễ
dành cho HS tiếp thu chậm, một số câu hỏi khó dành cho HS giỏi.
+ Hệ thống các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, minh bạch.
* Đánh giá việc tổ chức giờ dạy đọc hiểu văn bản:
Cả hai GV dạy thực nghiệm và đối chứng đều thực hiện tốt nội dung,
yêu cầu cần đạt của bài học. Các GV đều hướng đến việc tổ chức hoạt động
nhằm phát huy tính tích cực của HS.
Cả hai giờ dạy học đều đảm bảo yêu cầu về kiến thức, trọng tâm bài
học. Các GV đều hướng đến việc tổ chức hoạt động nhằm phát huy tính tích
cực của HS.
- Giờ dạy lớp đối chứng:
+ Hệ thống câu hỏi chưa khoa học, câu hỏi chưa chú ý đến các đối
88
tượng học sinh; đôi khi câu hỏi quá khó, hoặc quá dễ chưa kích thích khả sự
tìm tòi, suy nghĩ của HS.
+ Việc tổ chức cho HS giải quyết vấn đề còn lúng túng như: GV diễn
giảng nhiều hơn là tổ chức cho HS tư duy và trả lời, việc lựa chọn cách thức
cho HS trình bày (trả lời) đôi khi chưa phù hợp; đôi chỗ GV chỉ đơn thuần
đưa ra câu hỏi.
+ Không khí giờ học quá nghiêm túc, theo khuôn phép, chưa tạo được
sự thoải mái.
+ GV nói nhiều hơn, đôi lúc GV hỏi HS rồi tự trả lời.
+ HS ngại phát biểu, chưa mạnh dạn, tự tin khi trao đổi (chủ yếu là trả
lời câu hỏi của GV)
+ GV chưa thật linh hoạt, năng động trong giờ dạy.
- Giờ dạy lớp thực nghiệm:
+ Hệ thống câu hỏi khoa học, hợp lí, phù hợp với người học, phát huy
khả năng của HS.
+ GV chọn điểm để hỏi (chỗ then chốt của kiến thức) phù hợp: trọng
điểm, điểm khó, điểm hoài nghi, điểm dễ nhầm lẫn; hướng vào đối tượng
người học.
+ GV sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức cho HS
giải mã, tìm kiếm lời giải đáp như trả lời trực tiếp, thảo luận nhóm, thuyết
trình,…
+ Không khí giờ học thân thiện, dân chủ, thoải mái.
+ GV rất linh hoạt, ứng xử kịp thời và khéo léo trước các tình huống.
Câu hỏi được GV đưa ra đúng thời điểm theo tiến độ của giờ dạy học khiến
cho giờ dạy học trên lớp được tiến hành thuận lợi theo đúng kế hoạch.
+ HS chú ý trước vấn đề GV nêu ra, nhờ sự cởi mở, nhiệt tình, động
viên, khuyến khích của GV nên nhiều HS mạnh dạn xung phong trả lời câu
hỏi; nhóm thảo luận sôi nổi; tự tin thuyết trình và phản biện nhiệt tình làm cho
89
giờ học thêm hứng thú.
+ GV đã thể hiện tốt vai trò chủ đạo, hướng dẫn HS tích cực học tập,
hiệu quả giờ dạy học đạt kết quả cao.
Tóm lại, qua giờ dạy thưc nghiệm văn bản Hạnh phúc của một tang
gia, chúng tôi nhận thấy rằng dạy đọc hiểu văn bản tự sự theo quan điểm tiếp
nhận nói chung hoàn toàn có thể thực hiện được.
3.5.5. Bài học kinh nghiệm
Căn cứ vào kết quả đã đạt được của hoạt động thực nghiệm, xét những
thành công đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại, chúng tôi rút ra được
những kinh nghiệm thiết thực sau:
Thứ nhất là hoạt động hướng dẫn HS chuẩn bị bài. Phần lớn HS hoàn
thành phiếu học tập chuẩn bị bài, bên cạnh đó còn một ít HS học lực ở mức
độ trung bình và yếu chưa thể hoàn thành tất cả các câu hỏi trong phiếu học
tập chuẩn bị bài. Những câu mà các em chưa hoàn thành là câu 6 và câu 8.
Đây là những câu hỏi đòi hỏi HS phải dựa trên vốn hiểu biết nhất định của
bản thân. Do đó, để hoạt động chuẩn bị bài của HS đạt kết quả cao, GV cần
sinh hoạt, gợi ý hướng dẫn cách thức làm bài cụ thể.
Thứ hai là kết hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học khác
nhau để đạt hiệu quả tốt nhất: đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, gợi mở,
vấn đáp, diễn giảng, đọc diễn cảm,…
Thứ ba là sự năng động, linh hoạt của GV trong giờ học rất quan trọng
và cần thiết. HS thực sự hứng thú, tích cực khi GV truyền được lửa cho HS.
Hơn nữa cần một bầu không khí lớp học cởi mở, thân thiện, gần gũi và dân
chủ; sự động viên, khuyến khích HS là không thể thiếu. Từ đó HS có thể
mạnh dạn, tự tin nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân.
Cuối cùng là vấn đề thời gian. HS phải dành khoảng thời gian lớn để
chuẩn bị bài. Thời gian để HS thảo luận, chia sẻ những vấn đề đặt ra trong bài
học là rất cần thiết nhưng thời gian cho một giờ dạy đọc hiểu văn bản tự sư là
90
rất hạn hẹp. Đó là một thử thách đối với người học và người dạy. Thế nhưng
chúng tôi tin rằng vấn đề này sẽ được giải quyết cùng với thời gian, hoạt động
dạy và học như thế sẽ trở nên quen thuộc, nhẹ nhàng.
91
KẾT LUẬN
Luận văn đặt vấn dạy học đọc hiểu văn bản tự sự theo quan điểm tiếp
nhận văn học, một mặt vận dụng những đặc trưng loại thể để HS có kĩ năng
đọc hiểu văn bản tương tự và những văn bản nằm ngoài chương trình, mặt
khác chú ý đến vai trò quan trọng của người học trong quá trình tiếp nhận văn
học nhằm khơi gợi hứng thú, phát huy năng lực của người học. Từ đó, HS
hình thành những kĩ năng cần thiết: kĩ năng giải mã văn bản, kĩ năng phê
phán, kĩ năng giao tiếp, hợp tác và giải quyết vấn đề đặt ra… Đây là những kĩ
năng quan trọng cần hình thành cho HS, giúp các em tích cực chủ động hơn
trong tiếp nhận tác phẩm văn chương. Bên cạnh đó, HS có cơ hội chia sẻ với
nhau những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, giúp các em liên hệ với đời sống và
tự do nói lên suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm của cá nhân. Từ đó kiến thức
được khắc sâu. Điều này cũng phù hợp với quan điểm kiến tạo kiến thức.
Trên cơ sở cảm nhận chung về tác phẩm, HS có thể sáng tạo ra những ý nghĩa
mới về tác phẩm ngoài ý nghĩa mà tác giả gửi gắm, điều này sẽ giúp HS tìm
thấy giá trị của văn bản không chỉ phụ thuộc vào văn bản mà còn phụ thuộc
vào người đọc. HS cần được giáo viên khuyến khích nhận ra giá trị của văn
bản không chỉ dựa trên bản thân văn bản mà còn dựa trên sự cảm thụ của từng
cá nhân đối với văn bản.
Dạy đọc hiểu theo quan điểm tiếp nhận văn học đòi hỏi phải có sự hợp
tác giữa thầy và trò, sự tương tác giữa GV với HS và giữa HS với HS; sự phối
hợp hoạt động dạy với hoạt động học; bầu không khí lớp học thoải mái, thân
thiện và gần gũi. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng,
thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho người học lòng ham học, say mê đọc
sách, tìm kiếm kiến thức để là giàu trí tuệ và tâm hồn. Những hoạt động cơ
bản này được thực hiện gắn liền với việc vận dụng phương pháp, biện pháp
dạy học cụ thể: nêu vấn đề bằng hệ thống câu hỏi, thuyết giảng kết hợp với
đàm thoại, thảo luận; kết hợp sử dụng phương tiện dạy học: giáo cụ trực quan,
92
phương tiện nghe nhìn….
Hoạt động đọc hiểu văn bản tự sự trong nhà trường phổ thông sẽ là sự
chuẩn bị vốn tri thức và kĩ năng để HS có thể tạo lập văn bản tự sự, từ việc
nắm vững tri thức đặc trưng về thể loại tự sự, HS được rèn luyện kĩ năng và
vận dụng tốt những kĩ năng đó trong bài làm văn nghị luận, đảm bảo những
yêu cầu cơ bản: luận điểm luận cứ rõ ràng đúng đắn, sâu sắc, tạo sức thuyết
phục cho bài làm văn; HS biết vận dụng tổng hợp các kĩ năng giải thích,
chứng minh, bình luận, phân tích, so sánh, bác bỏ vấn đề…đáp ứng yêu cầu
của bài văn nghị luận.
Tóm lại, trong dạy học mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế
riêng. Qua thời gian nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm, chúng tôi tin rằng
cách thức dạy học này thực sự hữu hiệu trong công việc rèn cho HS kĩ năng
đọc hiểu văn bản tự sự. Nó góp phần đáp ứng mục tiêu giáo dục. Tôi hi vọng
những cố gắng trong luận văn này nhận được những ý kiến đóng góp của quý
thầy cô và anh chị và anh chị đồng nghiệp để đề tài có hiệu quả thiết thực hơn
nữa cho quá trình dạy học văn ở trường THPT hiện nay.
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1992), Vũ Trọng Phụng - Tài năng và sự thật, Nxb Hội
nhà văn.
2. Trần Thanh Bình (2007), “Mấy ý kiến về đọc – hiểu văn bản văn học Việt
Nam lớp 10 (chương trình chuẩn)”, Dạy và Học Ngày nay, (11), tr. 25-
32.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10, 11,12 (tập 1,2), Nxb Giáo
dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo viên Ngữ văn 10, 11, 12 (tập
1,2), Nxb Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên cốt cán
trường trung học phổ thông, môn Văn, Trường Đại học Sư phạm Tp.
HCM.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học
môn Ngữ văn Trung học phổ thông (Tài liệu tham khảo), Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Kỉ yếu Hội thảo khoa học Dạy học Ngữ
văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông,
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
8. Bộ sách Phê bình & Bình luận văn học (2006), Tác giả trong nhà trường -
Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn học.
9. Nguyễn Viết Chữ (2006), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
(Theo thể loại), Nxb Đại học Sư phạm.
10. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học Lý luận và ứng dụng. Nxb
Giáo dục.
11. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb
KHXH.
12. Lê Trọng Đại (2008), “Đổi mới phương pháp đánh giá trong đổi mới
94
phương pháp dạy học”, Dạy và Học Ngày nay, (6), tr. 9-11.
13. Trần Thanh Đạm – Hoàng Như Mai – Huỳnh Lý (1970), Chuyên đề
Giảng dạy tác phẩm văn học Theo loại thể (tập II), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
14. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập 1), Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
15. Phan Cự Đệ (2002), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
16. Phạn Cự Đệ (2002), Bình giảng Văn học Việt Nam hiện đại - Dùng cho
học sinh ôn thi vào đại học, Nxb ĐHQG HN.
17. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
18. Bùi Minh Đức (2007), “Tiếp nhận văn học với việc đổi mới dạy học tác
phẩm văn chương ở trường phổ thông”, Tạp chí Dạy và Học Ngày nay,
(2), tr.15-18.
19. Bùi Minh Đức (2008), “Xác lập cơ chế dạy học tác phẩm văn chương theo
quan điểm học sinh là bạn đọc sáng tạo”, Tạp chí Dạy và Học Ngày
nay, (6), tr.48-50.
20. Nguyễn Văn Đường (2007), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 (tập 1), Nxb
Hà Nội.
21. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
22. Lưu Đức Hạnh (2007), Em tự đánh giá kiến thức Ngữ văn 11 (tập1), Nxb
Giáo dục.
23. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương (1999), Lí luận văn học - Vấn
đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục.
24. Hồ Thị Hiền (2008), Phân tích – Bình giảng Tác phẩm văn học, Nxb Đại
học Quốc gia Tp. HCM.
25. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb
95
Đà Nẵng.
26. Đặng Hiển (2005), Dạy văn, học văn, Nxb Đại học Sư phạm.
27. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã hội.
28. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác
phẩm văn chương, Nxb Giáo dục.
29. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tiếp cận văn học, Nxb Khoa học Xã hội.
30. Nguyễn Thanh Hùng (1996), Văn học, tầm nhìn và biến đổi, Nxb Văn
học.
31. Nguyễn Thanh Hùng (2001), Hiểu văn Dạy văn, Nxb Giáo dục.
32. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo
dục.
33. Nguyễn Thanh Hùng (2007), Phương pháp dạy học Ngữ văn Trung học
phổ thông - Những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học Sư phạm.
34. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Giáo trình Phương pháp dạy học Ngữ văn ở
trung học cơ sở, Nxb Đại học Sư phạm.
35. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc – hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục.
36. Dương Thị Hương (2008), Giáo trình Cảm thụ văn học, Nxb Đại học Sư
phạm.
37. Mai Hương (2000), Nhà văn Việt Nam Tác phẩm và dư luận - Vũ Trọng
Phụng Một tài năng độc đáo, Nxb Văn hóa thông tin.
38. Phạm Thị Thu Hương (2012), Đọc – hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản
trong nhà trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm.
39. Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển - Lí luận văn
học, Nxb Tri thức.
40. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
41. Phan Trọng Luận (2001), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học
96
Sư phạm.
42. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
43. Phan Trọng Luận (2007), Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo
dục.
44. Phan Trọng Luận (2008), Bài tập Ngữ văn 11( tập 1), Nxb Giáo dục.
45. Phan Trọng Luận (2008), Văn học nhà trường - Nhận diện Tiếp cận Đổi
mới, Nxb Đại học Sư phạm.
46. Phan Trọng Luận (2011), Văn học nhà trường - Những điểm nhìn, Nxb
Đại học Sư phạm.
47. Phương Lựu (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
48. Phương Lựu (2012), Lí luận văn học (tập 1) - Văn học, nhà văn, bạn
đọc, Nxb Đại học sư phạm.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam
hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm.
50. Tôn Thảo Miên (2009), Vũ Trọng Phụng – Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
51. Hồ Tấn Nguyên Minh (2013), “Tìm một hướng đi mở cho giờ dạy Ngữ
văn trong nhà trường THPT”, Dạy và Học Ngày nay, (6), tr. 44-46.
52. Huỳnh Ngọc Mỹ - Nguyễn Thị Đáo, Hướng dẫn học và làm bài Ngữ văn
11
53. Nguyễn Thị Hồng Nam (2010), “Tiếp nhận văn chương và dạy đọc hiểu
văn bản”, Tạp chí Giáo dục (250), tr. 31-34.
54. Huỳnh Như Phương (2014), Lí luận văn học (Nhập môn), Nxb Đại học
Quốc gia Tp. HCM.
55. Nguyễn Thị Lan Phương (2014), “Quy trình xây dựng chuẩn đánh giá
năng lực người học theo định hướng phát triển chương trình giáo dục
phổ thông mới”, Nghiên cứu, (101), tr. 13-60.
97
56. Trần Đình Sử (2001), Dạy văn, học văn, Nxb Giáo dục.
57. Trần Đình Sử (2004), Giáo trình Lí luận văn học (tập 1) - Bản chất và
đặc trưng văn học, Nxb Đại học Sư phạm.
58. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
59. Trần Đình Sử (2012), Lí luận văn học, (tập 2) - Tác phẩm và thể loại
văn học, Nxb Đại học Sư phạm.
60. Trần Đình Sử (2009), “Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy –
học văn”, Văn nghệ, ngày 7/3/2009.
61. Nguyễn Phương Sửu (2007), “Tiếp cận kiến thức theo hướng mở”, Tạp
chí Dạy và Học Ngày nay, (3), tr. 10-12.
62. Trần Hữu Tá (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Nxb Tp.
HCM.
63. Trần Hữu Tá (2002), Vũ Trọng Phụng Nhà văn hiện thực xuất sắc, Nxb
Trẻ - Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Tp. HCM.
64. Trần Đăng Thao (2004), Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng, Nxb
Thanh Niên.
65. Nguyễn Ngọc Thiện - Hà Công Tài (2000), Vũ Trọng Phụng - Tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục.
66. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình sách giáo khoa Ngữ văn
trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
67. Đỗ Ngọc Thống (2007), Bài tập trắc nghiệm Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục.
68. Đỗ Ngọc Thống (2012), Tài liệu chuyên văn (tập 1), Nxb Giáo dục Việt
Nam.
69. Lưu Khánh Thơ (2005), Văn học trong nhà trường tác giả - tác phẩm,
Nxb Đại học Sư phạm.
70. Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Hữu Sơn – Trịnh Bá Đĩnh (1999), Tuyển
tập 40 năm Tạp chí Văn học (1960 – 1999) (tập 3) - Văn học hiện đại
Việt Nam, Nxb Tp. HCM.
98
71. Phạm Toàn (2000), Công nghệ dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Hoàng Phong Tuấn (1974), “Một số điểm chính trong lí thuyết tiếp nhận
của Wolfgang Iser”, nguồn 0TUhttp://phebinhvanhoc.com.vn U0T.
73. Thái Duy Tuyên (2010), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới,
Nxb Giáo dục Việt Nam.
74. Trịnh Xuân Vũ (2002), Phương pháp dạy – học văn ở bậc trung học, Nxb
Đại học Quốc gia Tp. HCM.
75. Taffy E. Raphael – Efrieda H. Hiebert (2007), Phương pháp dạy đọc –
hiểu văn bản (Tài liệu dịch), Nxb Đại học Sư phạm.
76. Umberto Eco (2013), Tên của đoá hồng, Nxb Văn học.
0TUhttp://giaoduchoconline.comU
0TUhttp://educate.intel.comU0T
77. 0Thttp://www.pqtrung.com/ly-luan-van-chuong/ly-luan-van-chuong-hien-dai
0TUhttp://edu.go.vnU0T
0TUhttp://violet.comU0T
http://tailieu.vn
evan.com.vn
DANH MỤC CÁC LUẬN VĂN THẠC SĨ
1. Nguyễn Thị Yến Trinh (2008), Tổ chức hoạt động dạy đọc – hiểu tác phẩm
tự sự Việt Nam theo đặc trưng loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp
11, luận văn thạc sĩ Giáo dục học, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh.
2. Nguyễn Thị Phú (2008), Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác
phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt
Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT, luận văn thạc sĩ Giáo dục học,
trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Duy Thanh (2009), Thiết kế một số bài học đọc – hiểu văn bản văn
học Việt Nam hiện đại theo thể loại (Ngữ văn 11 nâng cao), luận văn
thạc sĩ Giáo dục học, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh..
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.
PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN
(v/v dạy văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn THPT)
Kính gửi thầy (cô):………………………………………………………
Dạy lớp:…………………………………Trường:……………………………
Xin thầy (cô) vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn câu trả lời, thầy (cô) hãy đánh dấu x vào ô
vuông
- Đối với câu hỏi chưa có câu trả lời, thầy (cô) viết ngắn gọn ý kiến của
mình vào phần để trống sau câu hỏi.
CÂU HỎI
1. Dạy đọc – hiểu văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn THPT, thầy (cô)
có gặp khó khăn không?
Có
Không
2. Theo thầy (cô), những tác phẩm nào là khó dạy:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
3. Theo thầy (cô), những tác phẩm nào gây được hứng thú cho GV và HS.
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
4. Dạy học văn bản tự sự, thầy (cô) có thuận lợi gì?
Có đủ SGK, SGV và tài liệu tham khảo
Trang thiết bị đầy đủ, hiện đại
HS có năng lực đọc hiểu văn bản từ cấp II
Tác phẩm hay, tiêu biểu
Những thuận lợi khác:………………………………........................
…………………………………………………………………………
5. Dạy học văn bản tự sự, thầy (cô) còn gặp khó khăn gì?
Việc tổ chức bồi dưỡng GV chưa chu đáo, hiêụ quả
Ít tư liệu về tác giả, tác phẩm
HS không hứng thú, thiếu kĩ năng tự học, thiếu vốn sống
Tác phẩm dài nhưng phân phối thời lượng ít
Những khó khăn khác:………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Theo thầy (cô), để hoạt động dạy học văn bản tự sự đạt hiệu quả, cần có
những yêu cầu gì?
Trang bị cho GV đầy đủ SGK, SGV, tài liệu tham khảo
Thay đổi cách đánh giá hoạt động dạy của GV và học của HS
HS có kĩ năng đọc, chuẩn bị bài chu đáo
Tạo bầu không khí gần gũi, thân thiện, thoải mái
Tăng thời lượng dạy đọc văn trên lớp
Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho HS cách
học, cách suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề
Nắm vững đặc trưng thể loại
7. Ý kiến của thầy (cô) về SGK (phần văn bản tự sự VHVN):
Định hướng kiến thức và phương pháp rõ ràng, đầy đủ
Định hướng kiến thức và phương pháp chưa rõ ràng, đầy đủ
8. Thầy (cô) thường chuẩn bị phương tiện dạy học gì trước khi dạy các tác
phẩm tự sự?
Tranh ảnh minh họa
Băng, đĩa ghi hình, ghi âm
Phiếu học tập (work sheets)
Bảng phụ
Những loại khác:……………………………………………………
9. Thầy (cô) thường sử dụng phương pháp nào trong số những phương pháp
sau đây khi tổ chức hoạt động đọc hiểu văn bản tự sự?
Phương pháp đọc diễn cảm
Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp diễn giảng
Phương pháp gợi mở
Phương pháp vấn đáp
Phương pháp trực quan
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp khác:………………………………………………
10. Thầy (cô) có thường sử dụng phiếu học tập khi hướng dẫn HS chuẩn bị
bài không?
Có
Không
11. Thầy (cô) thường sử dụng hình thức nhật kí đọc sách để hướng dẫn HS
chuẩn bị bài không?
Có
Không
12. Khi dạy đọc hiểu các văn bản tự sự, thầy (cô) có thường xuyên sử dụng
giáo án điện tử không?
Có
Không
13. Những văn bản tự sự nào trong chương trình THPT thầy (cô) sử dụng
giáo án điện tử phù hợp, có hiệu quả?
…………………………………………………………………………………
14. Thầy (cô) thường yêu cầu HS chuẩn bị gì trước khi học các tác phẩm tự
sự?
Đọc tác phẩm trước ở nhà
Tìm hiểu tác giả, tóm tắt tác phẩm
Trả lời câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài
Hoàn thành phiếu học tập
Ghi ra giấy những vấn đề cần trao đổi
Thực hiện việc vận dụng hình thức nhật kí đọc sách
Những yêu cầu khác:…………………………………………………
15. Việc tổ chức cho HS thảo luận nhóm thầy (cô) có gặp khó khăn không?
Vì sao?
Có. Vì………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Không. Vì………………………………………..
…………………………………………………………………………………
16. Thời lượng cho một bài học tác phẩm tự sự như hiện nay là từ hai đến ba
tiết, theo thầy (cô) là:
Đủ để dạy
Không đủ để dạy
17. Theo thầy (cô) cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho hoạt động dạy học
văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn THPT.
Tinh giản nội dung bài học
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt “trúng” vấn đề trọng tâm
Quan tâm đến hứng thú và khả năng học tập của HS
Dạy cho HS cách đọc, phương pháp học
Dạy cho HS biết vận dụng kiến thức đọc hiểu để làm văn, vận
dụng vào thực tế cuộc sống
Xin trân trọng cảm ơn thầy (cô)!
Phụ lục 2.
PHIẾU KHẢO SÁT HS VỀ HỌC TẬP BỘ MÔN NGỮ VĂN
Họ và tên HS:…………………………………………………………………
Lớp:…………………………………Trường:…………………………………
Mong các em vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn câu trả lời, các em đánh dấu x vào ô vuông
- Đối với câu hỏi chưa có câu trả lời, các em viết ngắn gọn ý kiến của mình
vào phần để trống sau câu hỏi.
CÂU HỎI
1. Học tập bộ môn Đọc văn, em thấy có cần phải đọc trước văn bản ở nhà không?
Có
Không
2. Em thường đọc trước văn bản, chuẩn bị bài trước ở nhà vì lí do:
Yêu thích tác phẩm đó, mong muốn được trao đổi với bạn bè
Có thêm hiểu biết, được “sống” cùng tác giả
Tiếp thu bài giảng trên lớp tốt hơn
Sợ thầy (cô), sợ bị điểm thấp
Lí do khác:…………………………………………………………………...
3. Em thấy việc chuẩn bị bài theo câu hỏi trong phiếu học tập (work sheets) có giúp
em học tốt giờ học trên lớp hơn cách soạn bài ra tập theo câu hỏi SGK?
Có
Không
4. Em có thích chuẩn bị bài theo hình thức nhật kí đọc sách không? Vì sao?
Có. Vì…………………………………………………………….............
………………………………………………………………………………...............
Không. Vì……………………………………………………
…………………………………………………………………………………….......
5. Trong giờ học em có tham gia thảo luận nhóm theo yêu cầu của GV không?
Có
Không
6. Em mong muốn thảo luận nhóm với một nhóm bao nhiêu người? Nêu lí do vì
sao?
2 người
4 người
6 người
10 người
Vì:……………………………………………………………………………
…….…………………………………………………………………………
7. Việc tham gia tích cực vào thảo luận nhóm giúp em điều gì?
Hiểu và khắc sâu kiến thức của bài học
Biết cách làm việc nhóm
Học hỏi và chia sẻ với các bạn trong nhóm
Mạnh dạn, tự tin và viết bảo vệ quan điểm của mình
8. Trong giờ Đọc văn, em mong muốn ở GV điều nào sau đây:
Đọc và giảng truyền cảm
Đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt cụ thể
Khơi gợi, khuyến khích và động viên
Cho HS được tự do bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc
Chú ý nhiều đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt của HS
Tôn trọng quan điểm cá nhân của HS
9. Em có thích những giờ học GV tổ chức các hoạt động để các em cùng tích cực
tham gia vào bài học như cách thức các em vừa học không?
Có
Không
10. Qua giờ học với cách thức GV nêu vấn đề và yêu cầu HS giải quyết vấn đề em
thấy giờ Đọc văn có khó khăn và nặng nề không?
Có
Không
11. Em cảm thấy hứng thú với văn bản tự sự nào trong chương trình Ngữ văn
THPT? Nêu lí do vì sao?
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
Vì……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
12. Em cảm thấy văn bản tự sự nào trong chương trình Ngữ văn THPT khó tiếp
nhận? Nêu lí do vì sao?
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
Vì……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
13. Em thường chuẩn bị những gì trước khi học các văn bản tự sự?
Đọc tác phẩm trước ở nhà
Tìm hiểu tác giả, tóm tắt tác phẩm
Trả lời câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài
Ghi ra giấy những vấn đề cần trao đổi
Thực hiện theo hình thức nhật kí đọc sách
Hoàn thành phiếu học tập
Những chuẩn bị khác: ……………………………………………………………….
14. Em cảm thấy mình có những hạn chế nào sau đây khi học môn Ngữ văn?
Diễn đạt yếu do thiếu vốn từ
Không mạnh dạn, tự tin khi đứng trước đám đông
Kĩ năng nghe, ghi còn yếu
Nhận thức vấn đề còn vụn vặt
Kiến thức về thể loại còn hạn chế
Những hạn chế khác:………………………………………………………………...
15. Để đạt điểm cao, em thường sử dụng cách học nào sau đây?
Đọc và tập làm bài phân tích của SGK
Học thuộc lòng bài mà GV đã cho chép
Hiểu tác phẩm; có kĩ năng, phương pháp làm bài
Đọc kĩ văn bản, diễn đạt theo ý riêng có sáng tạo
Cảm ơn các em đã cho biết ý kiến! Chúc các em thành công!
Phụ lục 3.
PHIẾU PHỎNG VẤN HỌC SINH
(v/v học tập văn bản Hạnh phúc của một tang gia – trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
Họ và tên HS:…………………………………………………………………
Lớp:…………………………………Trường:…………………………………
Mong các em vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn câu trả lời, các em đánh dấu x vào ô vuông
- Đối với câu hỏi chưa có câu trả lời, các em viết ngắn gọn ý kiến của mình
vào phần để trống sau câu hỏi.
CÂU HỎI
1. Em có thích học văn bản Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng) không? Vì sao?
Có. Vì:………………………………………………………………
Không. Vì:…………………………………………………………
2. Em chuẩn bị gì ở nhà trước khi học văn bản đó?
Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
Tìm đọc tác phẩm “Số đỏ” và xem phim Số đỏ
Hoàn thành phiếu học tập (work sheets)
Thực hiện theo hình thức nhật kí đọc sách
Tìm hiểu đặc trưng của thể loại tiểu thuyết
Viết ra giấy những vấn đề cần trao đổi
Lí do khác:…………………………………………………………………...
3. So sánh điểm giống và khác nhau giữa tác phẩm Số đỏ và phim Số đỏ (đặc biệt là
cảnh đám tang)?
Giống nhau: …………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Khác nhau: …………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………
4. Em có thích chuẩn bị văn bản này theo hình thức nhật kí đọc sách không? Vì sao?
Có. Vì…………………………………………………………….....
……………………………………………………………………………….............
Không. Vì…………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………….....
5. Em có thích chuẩn bị bài này theo phiếu học tập không? Vì sao?
Có. Vì…………………………………………………………….............
………………………………………………………………………………...............
Không. Vì…………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………….......
6. Trong giờ học em có tích cực tham gia thảo luận nhóm theo yêu cầu của GV
không?
Có
Không
7. Những điều em quan tâm nhất khi học văn bản HPCMTG?
Những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của tác giả
Hoàn cảnh sáng tác, thể loại, thành công của tác phẩm
Vai trò, vị trí của đoạn trích
Nhan đề và tình huống trào phúng
Chân dung các nhân vật
Cảnh đám ma to tát
Nội dung của văn bản HPCMTG
Nghệ thuật của văn bản HPCMTG
Những điểm chưa xác định
8. Em có bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của bản thân khi tham gia xây dựng bài và trao
đổi trong giờ học không? Vì sao?
Có. Vì:……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….......
Không. Vì:………………………………………………………
9. Trong giờ học văn bản HPCMTG, em mong muốn ở GV điều nào sau đây:
Đọc và giảng truyền cảm
Đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt cụ thể
Khơi gợi, khuyến khích và động viên
Cho HS được tự do bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc
Chú ý nhiều đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt của HS
Tôn trọng quan điểm cá nhân của HS
Cùng trao đổi những vấn đề HS quan tâm
10. Cảm nhận của em về văn bản HPCMTG trước và sau khi học có khác nhau không? Lí
do?
Có. Vì:……………………………………………………………............
………………………………………………………………………………………
Không. Vì:……………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………
11. Em có hài lòng với bài học ở trên lớp không? Vì sao?
Có. Vì:……………………………………………………………............
………………………………………………………………………………………
Không. Vì:…………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
12. Giờ học với cách thức GV nêu vấn đề và yêu cầu HS giải quyết vấn đề em thấy
giờ học có khó khăn và nặng nề không?
Có
Không
Cảm ơn các em đã cho biết ý kiến! Chúc các em thành công!