ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––

NGUYỄN HUY THÔNG

DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN THỜI KÌ ĐỔI MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA BẬC TRUNG HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Chuyên ngành: LL & PPDH Văn - Tiếng Việt

Mã ngành: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được

thể hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Hoàng Hữu Bội

Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung

thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các thông tin, số liệu trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Huy Thông

i

LỜI CẢM ƠN

Với tất cả tấm lòng kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành

cảm ơn sự hướng dẫn khoa học, tận tình và độ lượng của thầy giáo TS. Hoàng

Hữu Bội trong quá trình thực hiện luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn trường

Đại học Sư phạm Thái Nguyên và các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Sư

phạm Hà Nội đã tận tình, tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn ở

bên tôi, động viên, giúp đỡ, khích lệ tôi trong những ngày học tập tại trường.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Huy Thông

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề: ................................................................................................. 2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6

4. Mục đích nghiên cứu: ...................................................................................... 6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 6

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 8

Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy học

các tác phẩm truyện thời đổi mới .................................................................... 8

1.1. Cơ sở lí luận. ................................................................................................. 8

1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học truyện thời kì đổi mới ........................... 20

Chương 2. Định hướng dạy học các tác phẩm truyện thời đổi mới trong

sách giáo khoa ngữ văn bậc trung học ............................................................. 44

2.1. Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bốn tác phẩm ................. 44

2.2. Định hướng dạy học từng tác phẩm ........................................................... 52

2.2.1. Định hướng dạy học “Bến quê”............................................................... 52

2.2.2. Định hướng dạy truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu .. 59

2.2.3. Định hướng dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” .................................. 67

2.2.4.Định hướng dạy học tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma

Văn Kháng ......................................................................................................... 74

iii

Chương 3.Thực nghiệm sư phạm ................................................................... 80

3.1. Thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở lớp 12 .. 80

3.2. Quá trình và kết quả dạy thực nghiệm bài học: .......................................... 85

3.2.1. Mục đích thực nghiệm: ............................................................................ 85

3.2.2. Đối tượng, địa điểm, thời gian thực nghiệm: .......................................... 85

3.2.3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 86

3.2.4. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 89

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 91

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 93

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Về mặt lí luận

Đối với phương pháp dạy học trong thời điểm hiện nay, việc phát huy tính

tích cực, tự giác của học sinh là việc làm cần thiết và cấp bách. Trong quá trình

nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, các nhà lí luận về phương pháp dạy

học đã khẳng định vai trò to lớn cũng như ý nghĩa quan trọng của việc dạy học

theo đặc trưng thể loại trong môn Ngữ văn ở PTTH đối với quá trình nhận thức

cũng như hoàn thiện nhân cách ở học sinh. Chính vì vậy, dạy học Ngữ văn theo

đặc trưng thể loại đã trở thành xu thế tiếp cận và giải mã văn bản mà nhiều giáo

viên quan tâm. Chúng tôi muốn vận dụng lí luận về phương pháp dạy học tác

phẩm văn chương theo thể loại vào một loại hình cụ thể. Vì vậy, chúng tôi chọn

đề tài “Dạy học các tác phẩm TRUYỆN thời đổi mới trong chương trình, sách

giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại” mong đóng góp một

tiếng nói nhỏ bé để làm sáng tỏ thêm lí luận về phương pháp dạy học tác phẩm

theo thể loại.

1.2. Về mặt thực tiễn

- Theo chương trình, sách giáo khoa mới môn Ngữ văn (từ năm 2002)

thì số các tác phẩm truyện thời kì đổi mới đã được lựa chọn ở cả hai bậc

THCS và THPT.

Thực tiễn sư phạm cho chúng ta thấy rằng, việc dạy học văn hiện nay

trong nhà trường phổ thông vẫn bộc lộ ít nhiều hạn chế, đặc biệt là với

những tác phẩm truyện thời kì đổi mới. Khi dạy những tác phẩm này cái khó

đặt ra là truyện ở thời kì đó đổi mới ở chỗ nào? Truyện thời kì này có những

đặc sắc gì? Làm thế nào để học sinh cảm nhận được điều đó? Để giải quyết

thấu đáo những vấn đề đó là việc không phải dễ dàng đối với giáo viên.

Chính vì vậy, mà chúng tôi chọn đề tài này nhằm góp thêm một tiếng nói

vào việc giải quyết những vấn đề ấy.

1

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những công trình nghiên cứu truyện thời kì đổi mới

Truyện thời kì đổi mới là một trong những chặng đường phát triển vượt

bậc của truyện Việt Nam hiện đại. Chặng đường này, truyện đã đi sâu vào việc

phản ánh hiện thực đời sống con người. Bởi vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu

văn học quan tâm.

* Cuốn “Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại tập II, từ sau cách mạng

tháng Tám 1945” (Do Nguyễn Văn Long chủ biên, (Nhà xuất bản Đại học Sư

phạm 2010). Ở chương IX, phần 3, nói về những đặc điểm cơ bản của Văn học

Việt Nam từ sau 1975, tác giả Nguyễn Văn Long đã viết như sau:

thu“… Từ sau 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở đi, dân chủ hóa là

xu thế lớn của xã hội và trong đời sống tinh thần của con người… dân chủ hóa

đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn

học. Văn học thời này cũng không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần – tư tưởng

của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và

thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cấm. Thêm nữa, trong xu

hướng dân chủ hóa của xã hội, văn học còn được xem là một phương tiện cần

thiết để tự biểu hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính

kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội của con người… Cùng với những thay đổi

trong quan niệm về nhà văn thì quan niệm về hiện thực như là đối tượng khám

phá của văn học cũng được mở rộng và mang tính toàn diện…. Xu hướng dân

chủ hóa cũng đưa đến sự nở rộ của các phong cách, bút pháp, bộc lộ hết mình

các cá tính. Sáng tạo của nhà văn cùng với việc ra sức tìm kiếm, thử nghiệm

nhiều hình thức và thư pháp thể hiện mới, kể cả tiếp thu và vận dụng những yếu

tố của các trường phái nghệ thuật hiện đại phương Tây.” [ Tinh thần nhân bản

và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao

trùm trong nền văn học giai đoạn này] (28, tr233 – 234).

“… Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài

và chủ đề mới, làm đổi thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới

2

một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người… Con người là điểm xuất

phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là đích cuối cùng của văn học, đồng

thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện

và biến cố lịch sử.” [28, tr234,235]

“… Văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn xuôi có nhiều đổi

mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân

vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh, đa dọng điệu…”

Như vậy, tác giả Nguyễn Văn Long đã khái quát những thay đổi của văn

học thời đổi mới và khẳng định:

Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là giữa những năm 80 trở lại đây, đã

đi những bước tiếp xa hơn trên con đường hiện đại hóa nền văn học dân tộc, đã

hòa nhập đầy đủ vào tiến trình văn học thế giới

* Cuốn “Văn học Việt Nam 1975-1985, tác phẩm và dư luận ”, (NXB Hội

nhà văn, 1997) tác giả Phan Cư Đệ cho rằng:

“Cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ

- hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển

mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc ngày càng tốt hơn.

Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lí, tiềm thức”

* Cuốn “Văn học Việt Nam hiện đại – nhận thức và thẩm định”, (NXB

khoa học xã hội, 2001) tác giả Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của

truyện ngắn trong thời kì đầu của quá trình đổi mới văn học đã cho rằng:

“Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề

đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến độ chín cả trong hình thức và nội dung”.

* Cuốn “Văn học Việt nam thế kỉ X đến thế kỉ XX ”, (NXB Đại học quốc

gia Hà Nội, 1999) tác giả Phạm Mạnh Hùng cũng đã nhận định:

“Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ

trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu

của thời kỳ hòa bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề phong

3

cách, bút pháp và giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ

năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về

nghệ thuật… Các tác phẩm đã đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau

chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh, nhưng với cách nhìn mới với những

mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được

chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cái bình thường”

* Trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (tạp chí văn học

tháng 9-1996) tác giả Bích Thu cho rằng:

“Trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà

tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng.

Xét trong hệ thống chung các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt

được nhiều những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong

cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn ngữ… Truyện ngắn có

xu hướng tự nối mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt…”

* Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập I – Bộ cơ bản (NXB Giáo dục,

2008) đã có những nhận định về văn xuôi đổi mới như sau:

“…..Một số cây bút văn xuôi đã có cách tiếp cận mới với hiện thực đời

sống. Nguyễn Minh Châu có “Bến quê”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc

hành”, Nguyễn Mạnh Tuấn có “Đứng trước biển”, “Cù lao tràm”, Nguyễn

Khải có “Gặp gỡ cuối năm”, Lê Lụa có “Thời xa vắng” và thực sự khởi sắc ở

giai đoạn từ năm 1986 – 2000 với những tác phẩm có hướng viết mới mẻ mà

trước đó chưa hề có: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu,

“Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của

Nguyễn Khắc Trường, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh…”

Văn xuôi nói chung và truyện nói riêng viết về thời kì đổi mới đã được

nhiều các nhà nghiên cứu trăn trở, tìm hiểu để khẳng định giá trị. Các công

trình nghiên cứu đó đã góp những kiến thức bổ ích, quý báu giúp người thực

hiện luận văn có những hiểu biết về truyện thời kì đổi mới. Trong luận văn này,

4

người làm luận văn sẽ đặt trọng tâm vào việc khảo sát: “Dạy học các tác phẩm

thời kì đổi mới trong sách giáo khoa bậc phổ thông theo đặc trưng thể loại”

2.2.Những tài liệu nghiên cứu về phương pháp dạy học TRUYỆN thời kì

đổi mới

* Sách giáo viên:

- Bộ sách giáo viên Ngữ văn bậc THCS. (Tác giả Nguyễn Khắc Phi tổng

chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006).

- Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập II. Bộ nâng cao. (Tác giả Trần Đình Sử

tổng chủ biên, Nhà xuất bản giáo dục, 2005).

* Sách tham khảo:

- Bộ sách “Thiết kế bài học Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp”. (Tác giả

Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004).

- Bộ sách “Thiết kế hệ thống câu hỏi Ngữ văn”. (Tác giả Trần Đình

Chung, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006).

- Bộ sách “Thiết kế dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp”. (Tác giả

Trương Dĩnh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005).

- “Thiết kế dạy học Ngữ văn 12”. Nâng cao. (Tác giả Hoàng Hữu Bội, Nhà

xuất bản Giáo dục, 2008)

- “Thiết kế dạy học Ngữ văn”. (Tác giả Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản

Giáo dục, 2008).

- “Thiết kế bài giảng Ngữ văn”. (Tác giả Nguyễn Văn Đường, Nhà xuất

bản Hà Nội, 2008).

- Bộ sách “Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn ” của Bộ

giáo dục và đào tạo, 2010.

Ở mỗi cuốn sách, các tác giả có cách nhìn khác nhau, lí giải khác nhau.

Nhưng đều có chung một mục đích: Giúp người dạy văn biết được điều cốt lõi

của đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông

hiện nay.

5

Các công trình nghiên cứu trên đã là những gợi dẫn rất quý báu cho chúng

tôi trong quá trình làm đề tài. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn có cái nhìn tổng

quát hơn về truyện viết về thời đổi mới trong nhà trường để tìm ra được

phương án dạy học phù hợp với đặc điểm truyện viết về thời kì đổi mới và việc

tiếp nhận của thế hệ trẻ ngày nay. Bởi thế chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề

này để nghiên cứu.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

-Các tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới, được lựa chọn vào sách giáo

khoa Ngữ văn bậc Trung học và phương pháp dạy học các tác phẩm ấy theo

đặc trưng thể loại.

4. Mục đích nghiên cứu

- Tìm ra những đặc trưng thể loại ở những tác phẩm TRUYỆN thời kì

đổi mới.

- Đề xuất phương án dạy học vừa phù hợp với đặc trưng thể loại, vừa phù

hợp với năng lực tiếp nhận của học sinh lớp 12 đối với các tác phẩm TRUYỆN

thời kì đổi mới được lựa chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu trên bình diện lí thuyết.

- Đặc trưng của truyện thời đổi mới

- Phương pháp dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo đặc trưng

thể loại.

5.2. Khảo sát thực tiễn dạy và học của giáo viên và học sinh.

5.3. Đề xuất phương pháp dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo

đặc trưng thể loại.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết

Sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết, chúng tôi nhằm làm rõ đặc

trưng của truyện thời kì đổi mới, phương pháp dạy các tác phẩm truyện theo

6

đặc trưng thể loại và dạy các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo hướng tích

hợp và tích cực.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học các tác phẩm

truyện thời kì đổi mới.

Chương II: Định hướng dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo

đặc trưng thể loại.

Chương III: Thực nghiệm sư phạm

7

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY

HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN THỜI ĐỔI MỚI

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Thời kì đổi mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

* Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (Bộ cơ bản). NXB Giáo dục viết:

“………ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống đế quốc Mĩ

đã kết thúc thắng lợi. Lịch sử dân tộc lại mở ra một thời kì mới, thời kì độc lập

tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 – 1985, đất nước ta lại

gặp những thử thách khó khăn mới, nhất là khó khăn về kinh tế…. Tình hình đó

đòi hỏi đất nước phải đổi mới…..Công cuộc đổi mới đòi hỏi nền văn học cũng

phải đổi mới…”

Từ sau năm 1975, thơ không tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn như ở giai

đoạn trước… Nhìn chung các nhà thơ vẫn viết theo lối tư duy cũ.

Nhưng sau 1975, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn thơ ca. Một số cây bút

đã bộc lộ ý thức muốn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực

đời sống… Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, văn học chính thức bước vào chặng

đường đổi mới. Do vấn đề đổi mới tư duy, phương châm nhìn thẳng vào hiện

thực được coi trọng nên phóng sự điều tra có điều kiện phát triển mạnh mẽ,

tiêu biểu là phóng sự của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hoàng Hữu Các,

Trần Khắc, Hoàng Minh Tường… văn xuôi thực sự khởi sắc với những truyện

ngắn của Nguyễn Minh Châu: “Bức tranh”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cỏ

lau”…, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp: “Tướng về hưu”… và tiểu thuyết

với các tác phẩm tiêu biểu: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc

Tường, “Bến không chồng ” của Dương Hướng, “Nỗi buồn chiến tranh” của

Bảo Ninh…” (4, tr16).

8

Có thể nói từ năm 1975 – 1985 là chặng đường văn học trăn trở tìm kiếm

con đường đổi mới. Còn từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học đổi mới

sâu sắc và khá toàn diện

* “Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại” tập II – (Nhà xuất bản Đại học

Sư phạm) viết.

“… Từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường khởi động chuẩn bị cho

cao trào đổi mới. Khoảng 5 năm đầu, dư âm của cuộc kháng chiến chống Mĩ

cứu nước và tác động của hai cuộc chiến tranh biên giới khiến cho văn xuôi cơ

bản “trượt theo quán tính cũ” (Nguyên Ngọc)… Đến nửa đầu thập kỉ 80, nhu

cầu đổi mới rõ dần. Năm 1982, sự xuất hiện truyện ngắn “Bức tranh” đánh

dấu bước ngoặt thật sự trên hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu. Ở

một loạt truyện tiếp theo (được tập hợp thành 2 tập: “Người đàn bà trên

chuyến tàu tốc hành” 1983, “Bến quê” năm 1985) Nhà văn sẽ tiếp tục dòng

mạch tư tưởng đặt ra từ tác phẩm này. “Bức tranh” đã khiến dư luận đông đảo

coi Nguyễn Minh Châu như một “hiện tượng của truyện ngắn lúc đó… Có thể

nói. Nguyễn Minh Châu đã tự đổi mới mình một cách lặng lẽ và quyết liệt…

Ông chọn hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức – thế sự, dùng thước đo

nhân bản để soi ngắm con người… Tiếp theo đó là Ma Văn Kháng với “Mưa

mùa hạ”, “Mùa lá rụng trong vườn”. Nguyễn Khải với “Gặp gỡ cuối năm”,

“Thời gian của người”, Nguyễn Mạnh Tuấn với “Đứng trước biển”, “Cù lao

tràm” đã mở rộng biên độ cho bức tranh đời sống và quan niệm nghệ thuật về

con người…”

Từ năm 1986 đổi mới văn xuôi đạt đến cao trào, sau đó lắng lại

Nhu cầu đổi mới bùng nổ trong văn xuôi thành cao trào sôi nổi, với hàng

loạt cá tính nghệ sĩ độc đáo, nhiều tác phẩm làm xôn xao dư luận trong nước và

ngoài nước… Dư luận nói nhiều đến các bút kí phóng sự: “Cái đêm hôm ấy

đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Câu chuyện về một ông vua Lốp”, “Lời khai của

bị can” của Trần Huy Quang, “Suy nghĩ trên đường làng” của Hồ Trung Tú,

9

“Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh

Tường….. Các phóng sự trên đã mổ xẻ phanh phui mặt trái, mặt bất cập, bất

công do sự lỗi thời của cơ chế cũ, do những định kiến lạnh lùng hoặc lối nghĩ

giáo điều phiến diện…. (văn xuôi trước kia không ai dám viết như vậy).

Tinh thần trên cũng thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết

“Đám cưới không có giấy giá thú” của Ma Văn Khang, “Truyện như đùa” của

Mai Ngữ, “Kẻ sát nhân lương thiện” của Lại Văn Long, “Mảnh đất lắm người

nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bước qua lời nguyện” của Tạ Duy

Anh.v.v.

Cùng với cảm hứng chống tiêu cực là cảm hứng phản biện, nhận thức lại

một số giá trị của thời đã qua và cảnh báo những ảo tượng ngộ nhận của con

người thời hiện đại. Điều đó có trong các tác phẩm: “Mảnh vườn xưa hoang

vắng” của Đỗ Chu, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Thiên sứ” của

Phạm Thị Hoài, “Bến không chồng” của Dương Hướng.v.v.

Cảm hứng chiêm nghiệm triết lí là điểm mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải

(Một người Hà Nội). Cảm hứng triết luận trở thành một nét quan trọng của văn

xuôi đương đại.

* Báo văn nghệ số 23 ra ngày 7 tháng 6 năm 2014. Có bài viết “Văn học

đổi mới trong hệ hình phản ánh ” của Trần Thiện Khanh.

Tác giả viết: “… Lâu nay, khi nói đến văn học Việt Nam từ 1986 trở về

sau người ta mặc định đây là thời kì văn học đã thực sự có những đổi mới sâu

sắc và toàn diện… Nhưng, có thể nói rằng, văn học trong bối cảnh đổi mới của

đất nước, ở dòng chính và giai đoạn đầu của nó, về cơ bản không có sự thay

đổi quan trọng về mặt hệ hình, mà chỉ là sự điều chỉnh quy ước, quy chế phát

ngôn về hiện thực, sự chuyển đổi từ cực này sang cực khác trong khuôn khổ

của hệ hình phản ánh luận. Cần nhận diện đúng điều này để tránh những ngộ

nhận đáng tiếc”.

10

Chúng tôi nhận thấy rằng sự chuyển động mạnh mẽ của văn học trong bối

cảnh 1986 được ghi nhận trước hết ở văn xuôi, mà điểm nhấn của nó là các thể

loại văn học báo chí, tập trung phản ánh các vấn đề xã hội nóng bỏng, tiêu cực,

bức xúc, (kí sự, phóng sự…) đề cao sự dũng cảm, trung thực, thẳng thắn trong

ngòi bút. Bằng cách gắn bó với đời sống nhiều mặt, không tô hồng né tránh cái

sai, cái đúng, văn học đã thực sự chứng minh được nó đang tham gia tích cực

vào đời sống, vào công cuộc đổi mới. Ranh giới giữa các tác phẩm văn học và

báo chí trong trạng thái ấy cũng ngày càng mờ dần, hiện tượng pha trộn thể loại

này được nhiều người gọi là: “Văn học hóa báo chí”, “Báo chí hóa văn học”.

Hiện tượng ấy cũng phần nào cho thấy tư duy phản ánh hiện thực, thể hiện hiện

thực, gai góc, thô ráp khác nhiều so với hiện thực lí tưởng hóa trước kia, trở

thành nét ưu trội của tư duy đổi mới văn học. Trong loại hình văn học phản ánh

những vấn đề nóng bỏng của đời sống, “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng

Gia Lộc, “Câu truyện về một ông vua Lốp” của Nhật Linh, “Người đàn bà

quỳ” của Trần Khắc, “Lỗi khai của bị can” của Trần Huy Quang, “Làng giáo

có gì vui” của Hoàng Minh Tường, “Thủ tục để làm người còn sống” của Minh

Chuyên…. thường được nhắc đến như những trường hợp tiêu biểu, một thành

quả của đổi mới ở phóng sự, kí sự. Một số trường hợp khác, thành tựu khác

trong văn xuôi ở thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn mà lâu nay chúng ta khẳng

định như những hiện thân của thời kì đổi mới cũng đều là sự tìm tòi sáng tạo,

đổi chiều trong khuôn khổ của hệ hình phản ánh luận (phản ánh hiện thực

đương đại và phản ánh đầy đủ nhiều chiều hiện thực đã qua)…

Trở lại bối cảnh đổi mới dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đại hội VI,

nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ chính trị, đời sống văn học

Việt Nam có nhiều chuyển biến quan trọng, tư tưởng nói thật, nhìn thẳng vào

sự thật, đổi mới cách nhìn, cách nghĩ trở thành tư tưởng chủ đạo, tạo điều kiện

thuận lợi cho tư duy nhận thức lại hiện thực, nhu cầu phản ánh hiện thực nhiều

chiều phát triển mạnh mẽ. Tinh thần và cũng là một thứ triết lí về sự đổi mới

11

văn học là thể hiện cách nghĩ, cách nhìn mới đối với sự thật, với hiện thực nói

chung. Cởi trói văn học, phá rào trong văn học, ở ý nghĩa ban đầu của nó là

hướng tới sự tự do trong phản ánh hiện thực và nhận thức kiến thức.

“Đối với văn học ở giai đoạn đầu của bối cảnh đổi mới đất nước , nếu

nhìn từ góc độ hệ hình, là không có đổi mới nền tảng, không thực sự tạo ra

bước ngoặt mới, nếu có bước ngoặt thì đó là một bước ngoặt trong hệ hình

chính thống, làm giàu có hơn, phong phú hơn. Khung tri thức của hệ hình đó,

gia tăng sức mạnh kiến tạo và diễn giải tác phẩm trong nó”

* Từ những tài liệu trên, người làm luận văn có được những hiểu biết sau

đây về thời kì đổi mới trong văn xuôi đương đại Việt Nam.

 Thời gian xảy ra việc đổi mới trong văn học từ đầu những năm 80 của

thế kỷ XX và nở rộ từ năm 1986 đến năm 1990 sau đó thì lắng lại.

 Biểu hiện cụ thể của sự đổi mới trong văn xuôi là:

+ Sự ra đời của hàng loạt phóng sự, kí sự làm xôn xao dư luận chẳng hạn:

“Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Câu chuyện về một ông vua

Lốp” của Trần Huy Quang, “Suy nghĩ trên đường làng” của Hồ Trung Tú,

“Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh

Tường.v.v..

+ Sự ra đời của các truyện ngắn như : “Bức tranh” của Nguyễn Minh

Châu, “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp..v.v.

+ Sự ra đời của các tiểu thuyết như: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của

Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng.“Nỗi buồn chiến

tranh” của Bảo Ninh.v.v..

 Tinh thần cốt lõi của việc đổi mới văn xuôi ở thập niên 80 là:

+ Đổi mới cách nhìn, cách nghĩ trong phản ánh hiện thực. Dám nhìn thẳng

vào sự thật và nói thẳng sự thật trong miêu tả đời sống và con người.

+ Văn học thời kì đổi mới hướng tới tự do trong việc phản ánh hiện thực

và nhận thức hiện thực, một sự tự do có định hướng rộng.

12

 Người có công đầu trong việc đổi mới văn học ở thập kỉ 80 của thế kỉ

trước là nhà văn Nguyễn Minh Châu.

+ Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học

Việt Nam giai đoạn chiến tranh chống Mĩ, với những thành công về tiểu

thuyết. “Cửa sông”, “Dấu chân người lính” và truyện ngắn “Mảnh trăng cuối

rừng”, sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong thời kì này là thể hiện sự khát vọng

của nhà văn “đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.

Sau cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu lại là một trong

những cây bút đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, để đáp ứng

những đòi hỏi của cuộc sống ở một thời kì mới. Tác phẩm của ông, đặc biết là

truyện ngắn, đã thể hiện những tìm tòi đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật, gây

tiếng vang rộng rãi trong công chúng và giới văn học.

+ Nói đến nhà văn Nguyễn Minh Châu là nói đến truyện ngắn “Bức tranh”

của ông, một tác phẩm gây xôn xao dư luận thời bấy giờ và được coi là tác

phẩm mở đầu cho việc đổi mới sáng tác văn học sau 1975.

Truyện ngắn “Bức tranh” có cốt truyện khá đơn giản. Một họa sĩ đang

công tác ở chiến trường trong những năm chiến tranh, được lệnh ra hậu phương

để chuẩn bị cho một cuộc triển lãm tranh ở nước ngoài. Trên đường ra một binh

trạm, một chiến sĩ ngỏ ý nhờ họa sĩ vẽ bức chân dung, nhưng bị từ chối. Hôm

sau lại chính anh lính ấy đã tận tình và độ lượng giúp họa sĩ vượt qua một

chặng đường nguy hiểm. Cảm động trước người chiến sĩ, họa sĩ đã vẽ một bức

chân dung ký họa về anh và hứa sau khi ra hậu phương sẽ đem đến cho người

mẹ của anh lính đang mong mỏi tin con. Ra đến hậu phương, bận rộn vào các

việc khác. Và kí họa về anh chiến sĩ “thồ” tranh được giới họa sĩ đánh giá cao,

họa sĩ đã không nghĩ gì đến lời hứa của mình. Nhiều năm sau, tình cờ ông gặp

lại người chiến sĩ năm xưa đã giúp mình nay là anh thợ cắt tóc. Một cuộc đấu

tranh nội tâm căng thẳng diễn ra trong con người họa sĩ, ông tự vấn lương tâm,

dũng cảm nhìn sâu vào bộ mặt bên trong của mình và dồn tâm sức thể hiện nó

13

trong bức chân dung tự họa có vẻ lạ lùng, kì dị nhưng đúng là “Khuôn mặt bên

trong” của họa sĩ .

Chủ đề và tư tưởng của truyện ngắn “Bức tranh” là gì?

Tác giả thông qua câu chuyện của người họa sĩ và anh thợ cắt tóc, muốn

nêu lên:

- Lời đề nghị rụt rè của anh thợ cắt tóc (mà người kể chuyện tự nhận ra):

“Xin mọi người tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu chen lấn để tự suy

nghĩ về chính mình”, phải chăng đây cũng chính là lời đề nghị tha thiết của tác

giả? Qua bức chân dung tự họa kì quái của người họa sĩ, tác giả muốn đưa ra

một khám phá về thế giới bên trong của con người, cái thế giới còn chứa đựng

nhiều bí ẩn, có cả bóng tối và ánh sáng, cả rồng phượng và rắn rết, thiên thần

và ác quỷ.

Nhưng không chỉ đưa ra bức chân dung khuôn mặt bên trong của con

người, Nguyễn Minh Châu là nhà văn của niềm tin chắc chắn vào con người,

vào sự phấn đấu của con người vươn tới cái thiện cái đẹp. Cuộc đấu tranh với

cái xấu, cái ác để hướng thiện là cuộc đấu tranh trong nội tâm của con người để

khắc phục, để chiến thắng cái xấu ngay trong bản thân mình.

Tiếp sau truyện ngắn “Bức tranh”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho ra

đời hàng loạt tác phẩm làm nên một “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà

văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên

Ngọc). Đó là các tác phẩm. “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến

quê”, “Phiên Chợ Giát”, “Cỏ lau”.

1.1.2. Nội dung của sự đổi mới trong văn học

Cuốn “giáo trình văn học Việt Nam hiện đại ” tập II (Nhà xuất bản Đại

học Sư phạm) đã viết về những đổi mới về tư tưởng nghệ thuật của văn xuôi

thời đổi mới như sau:

* Đổi mới về quan niệm hiện thực:

“…Giai đoạn 1945-1975; do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử, văn học

dồn trong tâm cho nhiệm vụ tuyên truyền lí tưởng, cổ vũ chiến đấu. Hiện thực

14

được lựa chọn thường là hiện thực lớn lao trong xu thế phát triển lạc quan.

Một hiện thực tuyệt đối hợp lí… Sự khen chê của một tác phẩm thường xuất

phát từ nguyên tắc đối chiếu nội dung đời sống được phản ánh vào tác phẩm

với cái hiện thực được nhận thức, được quan niệm theo mô hình định trước. Nhà

văn Nguyễn Minh Châu nhận xét “hiện thực của văn học có khi không phải là cái

hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực con người đang mơ ước”. Đó là hiện

thực trong cái nhìn lí tưởng hóa, nó đẹp nhưng có phần đơn giản, dễ dãi.

Vai trò “người mở đường” cho văn học thời đổi mới của Nguyễn Minh

Châu gắn liền với việc ông thay đổi quan niệm và cách tiếp cận hiện thực. Từ

hiện thực của các sự kiện, biến cố lịch sử đến hiện thực đã mở rộng, khả năng

chiếm lĩnh đời sống của văn xuôi tăng lên. Những mặt trái, mặt khuất lấp, cái

tiêu cực, cái xấu, cái bất hợp lí được phát triển. Biến cố lịch sử trở thành đường

viền cho số phận cá nhân, thành cái cớ ban đầu để nhà văn khảo sát hành trình

tự ý thức của nhân vật. Như vậy lịch sử đã trở thành phương tiện để khám phá

con người lịch sử theo kinh nghiệm cộng đồng trở thành lịch sử theo kinh

nghiệm cá nhân. Vai trò chủ thể nhà văn tăng lên, năng lực “sáng tạo” được coi

trọng hơn năng lực “phản ánh”.

“...Những truyện “giả cổ tích”, “giả lịch sử”, “giả liêu trai” của Nguyễn

Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phạm Hải Vân, Hồ Anh Thái… là sự khẳng định

mối quan hệ tự do giữa nhà văn với hiện thực. Hiện thực không nhất thiết phải

là mục đích phản ánh của nhà văn, nó có thể chỉ là phương tiện để nhà văn

trình bày tư tưởng, cách nhìn, sự chiêm nghiệm của riêng mình. Bên cạnh kiểu

hiện thực “kiểm chứng được” xuất hiện hiện thực của ảo giác, của tâm linh,

hiện thực được tạo ra bằng trí tưởng tượng của người viết. Cái kì ảo, cái

nghịch dị xuất hiện khá đậm đặc trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp

như: “Giọt máu”, “Sói trả thù”, “Con thú lớn nhất” hay “Thân phận tình

yêu” của Bảo Ninh, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài và nhiều tác phẩm của Hồ

Anh Thái, Nguyễn Bình Phương… đòi hỏi người đọc phải thay đổi kinh nghiệm

một chiều về hiện thực…” [25, tr.247].

15

* Đổi mới quan niệm về con người:

“… Quan niệm về con người chính là cơ sở chi phối những nguyên tắc

chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nhà văn… Văn xuôi giai đoạn trước chịu tác

động của hoàn cảnh thời chiến đã tập trung vào nhiệm vụ giáo dục con người

mới, con người cộng đồng… Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong

văn xuôi sau 1975 bắt đầu với việc lấy con người làm tâm điểm để soi chiếu

lịch sử. Con người từ điểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự,

đời tư con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụ thể, nhiều chiều, đó là

cách xử lí phổ biến… Ở “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu dùng một nhân

vật kiểu tự thú để công bố niềm tin về tính phức tạp của con người.

Nguyễn Huy Thiệp làm chấn động dư luận khi ông nhìn con người như

một bản thể tự nhiên. Từ trước đến nay, văn học thường viết về con người như

một ý thức xã hội ... Rõ ràng ý thức giữ vị trí vô cùng quan trọng đối với cuộc

sống của con người, nhưng làm sao có thể phủ định được sức mạnh của bản

năng tự nhiên, tình cảm tự nhiên.

Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đã đem lại chiều sâu nhận

thức thẩm mĩ cho văn học. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma

Văn Kháng… quan tâm nhiều đến hành trình tự ý thức của con người. Nguyễn

Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Chu Lai … có những phát hiện sắc sảo về con

người bản năng, vô thức. Bảo Ninh, Hồ Anh Thái… lại nhiều trăn trở với đời

sống tâm linh của con người. Những khám phá đa dạng đó sẽ dẫn tới sự đổi

mới [trong thế giới nhân vật…”.(28, tr.249)

* Đổi mới quan niệm trần thuật:

Mỗi tác phẩm thường chỉ có một điểm nhìn. Sự trần thuật từ nhiều điểm

nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới, quan niệm văn xuôi… Câu chuyện

anh họa sĩ, quên lời hứa trong “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu sẽ được

phán xét hoàn toàn khác nhau khi được đặt vào hai điểm nhìn một điểm nhìn

của chính anh ta và một điểm nhìn của người thợ cắt tóc. Hay trong tác phẩm

16

“Chiếc thuyền ngoài xa” cũng được Nguyễn Minh Châu đánh giá theo nhiều

quan điểm: Quan điểm của Đẩu và Phùng là quan điểm của người ngoài cuộc,

còn những người như bà ta nhìn bằng con mắt người trong cuộc…Như vậy

cuộc đối thoại giữa các nhân vật về tư tưởng trở thành cuộc đối thoại với chính

bạn đọc.

“...Văn xuôi sau 1975 cũng có sự mở rộng đáng kể các phạm trù thẩm

mĩ… Nhãn quan ngôn ngữ của văn xuôi sau 1975 là nhãn quan dân chủ cởi

mở… với Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài…

ngôn từ hiện thực – đời thường, đậm chất khẩu ngữ được gia tăng tính tốc độ

và lượng thông tin đã chuyển tải một cách hiệu quả trạng thái vận động mãnh

liệt mà phức tạp xô bồ của đời sống đương đại… giọng điệu văn xuôi cũng trở

nên đa dạng. Nhìn chung, nếu so sánh văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975, văn

xuôi sau 1975 nổi rõ hai sắc thái giọng điệu mới: đó là giễu nhại và hoài

nghi…”. [28, tr.250-252].

1.1.3. Phương pháp tiếp cận các tác phẩm truyện theo đặc trưng thể loại

* Ý kiến của tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác

phẩm văn học theo loại thể”. (Nhà xuất bản Giáo dục. HN -1971).

Về đặc trưng của truyện là: Truyện là một khái niệm rộng bao gồm các thể

tài chủ yếu thuộc loại hình tự sự. Tự sự có nghĩa là kể truyện và có kể chuyện

ắt là có truyện… Truyện bao giờ cũng có tình tiết, tức là có một sự tham gia

của những con người với những hành động, tính cách… Sự tồn tại của tình tiết

(hay còn gọi là cốt truyện) là một đặc trưng căn bản của truyện. Tâm của sự

việc, biến cố là con người, trung tâm tình tiết là nhân vật. Đối tượng chủ yếu

của văn học là những con người với cuộc sống bên trong và cuộc đời bên ngoài

của họ. Đã là truyện thì phải có cốt truyện, có nhân vật… Truyện bao giờ cũng

là truyện kể (hoặc kể bằng lời nói hoặc kể bằng văn viết). Lời kể chuyện là một

yếu tố rất quan trọng của truyện. Cốt truyện, nhân vật, toàn bộ hình tượng của

truyện được dệt nên qua lời kể của truyện. Lời kể một mặt là phương tiện để

17

phản ánh cuộc sống hình tượng trong truyện, mặt khác cũng là phương tiện để

biểu hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, sự đánh giá của tác giả đối với đời

sống…”. [36, tr.157].

* Về phân tích và giảng dạy truyện: “Hình tượng của truyện mang nội

dung hiện thực và nội dung tư tưởng đồng thời được cấu tạo nhuần nhuyễn qua

ba yếu tố: Tình tiết, nhân vật và lời kể. Việc cảm thụ cũng như việc giảng dạy

truyện trong sự thống nhất giữa hình thức nghệ thuật với nội dung tư tưởng

chính là thông qua việc phân tích ba yếu tố kể trên để tìm ra và nắm vững cấu

tạo hữu cơ của hình thượng truyện…”. [36, tr.175]. Muốn làm cho học sinh

cảm thụ và nắm vững hình tượng trong truyện, cần chú ý ba yêu cầu sau về mặt

phương pháp:

Yêu cầu thứ nhất: Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình

tiết trong tác phẩm tức là nắm được cốt truyện. [36, tr.177].

Yêu cầu thứ hai: Làm cho học sinh cảm thụ được sâu sắc, đánh giá được

đúng đắn nhân vật trong tác phẩm. [36, tr.183].

Yêu cầu thứ ba: Làm cho học sinh cảm thụ và hiểu được cái ý trong lời kể

của tác giả (hay của người kể truyện). [36, tr.194].

* Ý kiến dạy truyện của tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn “Phương pháp

dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại” (NXB Đại học Quốc gia .HN – 2001)

Về loại truyện: “Truyện là một loại thể tác phẩm văn học tiêu biểu cho loại

hình tự sự… Trong quan niệm và lí luận về thể loại truyện là ở nội dung câu truyện

được kể cùng với các biến cố và số phận của nhân vật. Do vậy yếu tố cốt truyện và

nhân vật trở thành yếu tố trung tâm của tác phẩm truyện.. [29, tr.137].

Về vấn đề giảng dạy truyện: “Những yếu tố về thi pháp truyện như nghệ

thuật miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật, nghệ thuật chọn lựa các chi tiết và

tình tiết, kĩ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống… hầu như đều đã được quan

tâm và giải quyết về lí luận một cách khá đầy đủ… [29, tr.140], khi giảng dạy

truyện cần liên hệ với ba vấn đề quan trọng sau:

18

1. Lời văn nghệ thuật.

2. Thời gian và không gian nghệ thuật.

3. Mối liên kết của các yếu tố thi pháp.

* Ý kiến của người làm luận văn:

Truyện là một thể loại văn học thuộc loại tự sự. Theo từ điển thuật ngữ

văn học, NXB Giáo dục 2004, “Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực khách quan

qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự

kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà văn

cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình…

Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ

thống nhân vật được khắc họa đầy đủ… và đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra

hình tượng người trần thuật…”.

Như vậy, về nội dung, một tác phẩm truyện bao giờ cũng có hai mặt, bức

tranh đời sống và tư tưởng tình cảm của nhà văn. Về hình thức nghệ thuật có ba

yếu tố; cốt truyện, nhân vật và lời kể. Dạy một tác phẩm truyện là đưa học sinh

vào hai thế giới: Thế giới hình tượng trong tác phẩm và thế giới tâm hồn của

tác giả. Hai yếu tố đó được biểu đạt qua cốt truyện, nhân vật và lời kể…

Bởi vậy, dạy học một tác phẩm truyện (truyện ngắn, truyện dài, tiểu

thuyết) theo đặc trưng thể loại là sẽ tiếp cận văn bản từ ba yếu tố hình thức để

dẫn hai mặt nội dung của tác phẩm. Luận văn đề xuất định hướng dạy học một

tác phẩm truyện là như vậy, theo định hướng ấy, tiến trình hoạt động của thầy

và trò ở trên lớp là lần lượt tìm hiểu từ cốt truyện đến nhân vật, đến lời kể. Và ở

mỗi yếu tố như vậy thì thầy và trò sẽ tìm hiểu tác phẩm theo hai bước: bước 1

là phát hiện sáng tạo của nhà văn về nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nhân vật

và lời kể, bước 2 là phân tích ý nghĩa của những sáng tạo đó đối với việc thể

hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Sơ đồ về hướng khai thác các văn bản truyện do luận văn đề xuất như sau:

1. Cốt truyện:

Bước 1: Phát hiện nghệ thuật xây dựng cốt truyện.

19

Bước 2: Bức tranh về sự thật cuộc sống nổi lên qua cốt truyện (mặt thứ

nhất của nội dung tác phẩm).

2. Nhân vật:

Bước 1: Phát hiện nghệ thuật miêu tả thế giới nhân vật trong tác phẩm.

Bước 2: Khám phá ý đồ tư tưởng của tác giả gửi gắm sau các hình tượng nhân vật.

3. Lời kể, giọng kể:

Bước 1: Phát hiện cách lựa chọn ngôi kể, lời kể, giọng kể của tác giả trong

tác phẩm.

Bước 2: Khám phá tư tưởng tình cảm của tác giả trước hiện thực cuộc

sống mà tác giả miêu tả. Tuy nhiên, vì mỗi tác phẩm có sự độc đáo riêng nên

chúng tôi vận dụng linh hoạt cách tiếp cận trên để phù hợp với đặc điểm từng

tác phẩm. Ví dụ: Với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chúng ta sẽ khai

thác văn bản ở 3 khía cạnh:

- Bức tranh đời sống những người dân chài.

- Câu chuyện của Phùng và Đẩu

- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu thời đổi mới.

1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học truyện thời kì đổi mới

1.2.1. Các tác phẩm truyện thời kì đổi mới được đưa vào chương trình sách

giáo khoa bậc trung học

Theo cuốn “chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn”, NXB GD&ĐT,

2006, các tác phẩm truyện viết về thời kì đổi mới có các tác phẩm sau:

Khối STT Tác phẩm Tác giả Tiết theo PPCT

Năm sáng tác 1985 9 136 1 Bến quê (Đọc thêm) Nguyễn Minh Châu

12 67, 68 2 Nguyễn Minh Châu 1983

3 Ma Văn Kháng 1982 12 70

4 Nguyễn Khải 1990 12 71 Chiếc thuyền ngoài xa Mùa lá rụng trong vườn (Đọc thêm) Một người Hà Nội (Đọc thêm)

20

1.2.2. Hiểu biết của học sinh về các tác phẩm truyện thời đổi mới:

Để nắm được tình hình học sinh đọc các tác phẩm truyện thời kì đổi mới

chúng tôi đã khảo sát tại các lớp 12A3 của Trường Văn hóa I – Bộ Công an.

Chúng tôi đã sử dụng “Phiếu khảo sát vốn hiểu biết của học sinh về các tác

phẩm truyện thời đổi mới”.

Câu hỏi: Vào những năm 80 của thế kỉ trước đã diễn ra một sự đổi mới

mạnh mẽ trong sáng tác văn học nhất là văn xuôi. Một số tác phẩm tiêu biểu

của sự đổi mới đó được tuyển chọn vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn

bậc trung học. Đó là truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu (lớp 9),

“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (lớp 12), “Một người Hà

Nội” của Nguyễn Khải (lớp 12), tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma

Văn Kháng (lớp 12).

- Em đã đọc tác phẩm nào trong các tác phẩm kể trên?

- Em thích tác phẩm nào nhất? Vì sao?

Sau khi khảo sát bằng phiếu, chúng tôi thu được những kết quả sau:

Số học sinh khảo sát: 35

Về đọc sách: Số học sinh đọc toàn bộ tác phẩm: Không có.

- Số học sinh đọc trích truyện về thời kì đổi mới trong sách giáo khoa là: 35

Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng: điều kiện đầu sách, tư liệu truyện viết

về thời kì đổi mới ở thư viện của nhà trường còn thiếu. Trong số 4 tác phẩm chỉ

có hai tác phẩm là “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu và “Một

người Hà Nội” của Nguyễn Khải.

Thời gian cho việc đọc các tác phẩm truyện của các em còn hạn chế do

còn phải dành thời gian cho các môn học khác và những hoạt động ngoài giờ

lên lớp của nhà trường và còn phần nhiều các em chưa có hứng thú với đọc các

tác phẩm truyện.

Về cảm nhận:

Qua khảo sát chúng tôi thấy các em học sinh đều yêu thích, và nắm rõ

được những tác phẩm truyện thời kỳ đổi mới được đưa vào trong chương trình

21

sách giáo khoa bậc trung học. Có 28 học sinh thích tác phẩm: “chiếc thuyền

ngoài xa”, 2 học sinh thích tác phẩm “Bến quê”, 3 học sinh thích tác phẩm

“Một người Hà Nội”, 2 học sinh thích tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”. Các

em đã đưa ra những lí do yêu thích của mình như sau:

- Em Lý A Chứ cho rằng: “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu không chỉ là

một miền quê gần gũi mà còn là một niềm mơ ước xa xôi mang ý nghĩa triết lí

về con người và cuộc đời. Cái triết lí ấy không cần phải nói dài dòng mà chỉ

được gợi lên qua những tình huống đầy nghịch lí. Thông qua đó nhà văn giúp

chúng ta nhận thức sâu sắc về cuộc đời một cách nhẹ nhàng và thấm thía.

- Em Vi Văn Nghị cho rằng: “Bến quê” chứa đựng sự tủi thân của một con

người, khi còn trẻ đi khắp mọi nơi trên trái đất. Nhưng khi về già không đủ khả

năng đi nữa thì ông mới nhận ra rằng đi khắp nơi đâu không bằng bến đỗ bên

kia mình sống và muốn nhìn ngắm sang bên kia trước khi nhắm mắt. Ông đã

bảo người con trai sang bên kia sông nhưng ông không đành lòng khi nhìn thấy

người con của mình vui chơi cũng như ngày xưa ông đi khắp mọi nơi. Thông

qua truyện ngắn tác giả muốn gửi gắm người đọc dù đi đâu chăng nữa không

nơi nào đẹp và mang lại hạnh phúc như vùng quê nơi mình sinh ra.

- Em Bế Thu Thảo khi viết về lí do thích tác phẩm “Một người Hà Nội”

của Nguyễn Khải cho rằng: Truyện ngắn “Một người Hà Nội” đã phát hiện vẻ

đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động,

thăng trầm của đất nước. Qua nội dung và ý nghĩa của truyện ngắn này nó làm

cho người đọc cảm thấy hào hùng về lịch sử Hà Nội, về bà Hiền một hạt bụi

vàng của Hà Nội.

- Em Lý Nam Sơn cho rằng: “Một người Hà Nội” nói lên phẩm cách cao

đẹp, tác giả cũng đã khắc họa và ca ngợi bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội tự

trọng với lối sống văn hóa, thanh lịch, sang trọng “thuần túy Hà Nội. Tác giả đã

cho người đọc tự cảm nhận chứ không đưa ra đánh giá của mình. Giọng điệu

nghệ thuật của tác giả là giọng điệu từng trải, vừa tự nhiên, dân dã, vừa trĩu

nặng ưu tư, vừa giàu chất khái quát triết lí”.

22

- Em Vàng A Hồng với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thì cho rằng:

“Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm mỗi

con người chúng ta luôn phải có cái nhìn đa chiều, nhìn từ nhiều phía khác

nhau về cuộc sống bởi nó không xuôi chiều đơn giản. Chúng ta không thể đánh

giá một sự vật hiện tượng chỉ qua cái nhìn cảm nhận mà cần có sự trải nghiệm.

Đó là điều rất cần thiết với bản thân mỗi con người chúng ta nhất là khi cuộc

sống ngày càng phức tạp”.

- Em Giàng A Vảng cho rằng: “Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện độc

đáo của nghệ sĩ Phùng và sự phát hiện của anh là những sự đối lập nghiệt

ngã giữa cái vẻ bề ngoài lung linh hào nhoáng với cái hiện thực tàn khốc ở

bên trong”.

- Em Lê Viết Tùng cho rằng “Chiếc thuyền ngoài xa đã nêu lên những

cách nhìn nhận cuộc sống và tác phẩm cũng rung lên một hồi chuông báo động

về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó”.

- Em Chẩu Văn Minh khi nói về tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”

cho rằng: “Tác phẩm đã thể hiện được sự quan sát và cảm nhận tinh nhạy

của tác giả về những biến động trong tư tưởng và tâm lí của con người Việt

Nam. Tác giả bày tỏ sự lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống đang bị

đánh mất”.

1.2.3. Giáo viên với việc dạy các tác phẩm truyện thời đổi mới.

Để nắm được tình hình dạy học của giáo viên đối với các tác phẩm truyện

thời đổi mới ở một số trường THCS và THPT tại Thái Nguyên; Chúng tôi đã

khảo sát một số giờ dạy ở Trường THCS Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên

và Trường Văn hóa I – Bộ Công an đóng tại Thái Nguyên. Thực tiễn giờ dạy

được phản ánh qua các giáo án sau đây:

* Giáo án bài học truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu do cô giáo

Trần Thị Nguyệt, Trường THCS Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên biên soạn.

* Giáo án bài học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn

Minh Châu do cô giáo Nguyễn Ngọc Thủy, Trường Văn hóa I – Bộ công an

biên soạn.

23

TUẦN 29 Ngày soạn:

TIẾT 136 Văn bản Ngày dạy:

HDĐT: BẾN QUÊ

Nguyễn Minh Châu

A. Mục tiêu cần đạt:

- Cảm nhận được ý nghĩa triết lí mang tính trải nghiệm về cuộc đời, con người

mà tác giả gửi gắm trong truyện.

B. Kiến thức, kĩ năng, thái độ:

1. Kiến thức:

- Những tình huống nghịch lí, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

trong truyện.

- Đọc – hiểu một văn bản tự sự có tính triết lí về con người và cuộc đời, những

vẻ đẹp bình dị, quý giá từ những gì gần gũi, xung quanh ta.

2. Kĩ năng:

- Nhận biết và phân tích những đặc sắc về nghệ thuật tạo tình huống, miêu tả

tâm lí nhân vật, hình ảnh biểu tượng, … trong truyện.

3. Thái độ:

-Giúp học sinh biết trân trọng giá trị của cuộc sống gia đình và vẻ đẹp bình dị

của quê hương.

C. Phương pháp: Đàm thoại, nêu và giải quyết vấn đề, thuyết trình, …

D. Tiến trình dạy học:

1. Ổn định: Kiểm tra sĩ số: 9A4

2. Bài cũ: Kiểm tra, chấm vở soạn của 2 HS.

3. Bài mới:

* Giới thiệu bài:

Ai cũng có một miền quê nhưng không phải tất cả mọi người đều cảm nhận

được ý nghĩa của quê hương – nơi ta được sinh ra, nơi có gia đình, người

24

thân. Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu là những suy ngẫm, trải

nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh sự trân

trọng giá trị của cuộc sống gia đình và những vẻ đẹp bình dị của quê hương.

* Tiến trình dạy học:

Hoạt động của GV và HS Nội dung bài dạy

Hoạt động 1: Hướng dẫn tìm hiểu I. Giới thiệu chung

1. Tác giả: Sgk về tác giả, tác phẩm:

- Cho HS đọc chú thích *sgk/106

? Tóm tắt những nét chính về tác giả

Nguyễn Minh Châu.

? Em biết gì về tác phẩm “Bến quê”? 2. Tác phẩm:

? Theo em văn bản này thuộc thể loại - Xuất xứ: sgk.

gì? - Thể loại: Truyện ngắn.

Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc – hiểu II. Đọc – tìm hiểu văn bản

văn bản 1. Đọc và tìm hiểu từ khó.

- Yêu cầu đọc giọng trầm tĩnh, suy tư,

xúc động và đượm buồn, trong tâm thế 2. Tìm hiểu văn bản:

của nhân vật đang bị bệnh hiểm 2.1. Phương thức biểu đạt: Tự sự,

nghèo. miêu tả.

- GV cùng HS đọc toàn văn bản một 2.2. Phân tích:

lần, nhận xét cách đọc, giải thích các a. Tình huống truyện:

từ khó. + Nhĩ bị bệnh, mọi sinh hoạt phải dựa

? Văn bản sử dụng kết hợp chủ yếu vào người khác.

phương thức biểu đạt nào? -> Tình huống đặc biệt.

? Thử tìm hiểu tình huống truyện? Có + Từng đi nhiều nơi, cuối đời bị bệnh.

thể nói gì về tình huống đó? Khi phát hiện ra vẻ đẹp bên kia sông

-> Trớ trêu, nghịch lí nhưng không vô nhưng không thể đi đến đó được, anh

lí. nhờ con trai thực hiện khát khao của

25

- GV tích hợp với NT xây dựng tình mình nhưng cậu để lỡ chuyến đò.

huống ở truyện Chiếc lược ngà, từ đó ->Tình huống trớ trêu như một nghịch

khẳng định ý nghĩa của việc sáng tạo lí.

tình huống trong Nt viết truyện. b. Cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của

- GV yêu cầu HS theo dõi đoạn đầu thiên nhiên:

văn bản, tìm hiểu cảm nhận của nhân - Bông bằng lăng…

vật Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên. - Con Sông Hồng…

? Cảm nhận của em về hình ảnh, nghệ - Vòm trời…

thuật, cách miêu tả của tac giả? Từ đó - Nhĩ nhận ra mọi vẻ đẹp của một bãi

em nhận xét gì về cảnh thiên nhiên ở bồi sông Hồng ngay từ bên kia.

-> Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, quê Nhĩ?

- GV tích hợp với văn miêu tả (tả so sánh đẹp, miêu tả cụ thể qua những

cảm xúc tinh tế. cảnh).

=> Thiên nhiên đẹp, gần gũi bên

mình mà đi hết đời người Nhĩ mới

thấy được.

? Em thấy Nhĩ đã nhận ra điều gì về c. Suy ngẫm của Nhĩ về hoàn cảnh

bản thân? Về người vợ của mình? của mình:

- Bệnh tật kéo dài, phải trông cậy vào

vợ con.

- Nhĩ nhận ra tình yêu thương, sự tần

tảo, đức hi sinh của vợ - nơi nương tựa

vững chắc.

=> Sự thức tỉnh xen cả niềm ân hận và

Thảo luận: ? Trong hoàn cảnh ấy Nhĩ nỗi xót xa.

khao khát điều gì? Khao khát ấy có d. Nhĩ chiêm nghiệm về qui luật của

thực hiện được không? Ý nghĩa của đời người.

những chi tiết truyện thể hiện khao - Muốn qua sông, nhưng không được

26

khát của Nhĩ? nên nhờ con -> Không thực hiện được

những việc bình thường nhất trong

cuộc sống.

- Hối hả giục cậu con trai đang mải

xem cờ thế -> Sợ con không kịp đò ->

Ham muốn xảy ra ngoài dự định, bỏ

qua cơ hội.

- “Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút

? Chi tiết thể hiện hành động kì quặc sức lực…”.

của Nhĩ cố thu nhặt hết mọi sức lực … -> Thức tỉnh mọi người không sa vào

Khẩn thiết ra hiệu cho một người nào những cái vòng vèo trên đường đời để

đó? Có ý nghĩa như thế nào? hướng tới những giá trị đích thực, bền

? Em cảm hiểu được gì về phong cách vững.

viết truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí -> Nội dung tự sự mang đậm triết lí;

nhân vật của Nguyễn Minh Châu qua tác giả am hiểu tâm lí nhân vật.

đoạn kể về khao khát của Nhĩ?

? Từ đó, Nhĩ hay chính tác giả muốn => Những qui luật, triết lí cuộc đời

nói lên qui luật nào trong cuộc đời con bình thường giản dị nhưng không

người? Đó có phải là chủ đề của văn phải lúc nào cũng sớm nhận ra mà

bản không? có khi phải trải nghiệm cả đời

- Tích hợp với tính triết lí trong truyện người.

Cố hương của Lỗ Tấn.

? Em hiểu thêm điều gì nữa qua đoạn 3. Tổng kết:

truyện kể về khao khát của Nhĩ nhờ - NT:

con thực hiện nhưng con bỏ lỡ? - ND:

-> Hai thế hệ ruột thịt yêu thương * Ý nghĩa: + Cuộc sống chứa đầy

nhau nhưng chưa hiểu nhau. những bất thường, nghịch lí vượt

- GV giới thiệu thêm: Nhĩ thuộc kiểu ngoài dự định và toan tính của con

27

nhân vật tư tưởng. Tác giả gửi gắm người.

vào đây nhiều điều quan sát, suy + Trên đường đời, khó tránh khỏi

ngẫm, triết lí về cuộc đời và con những vòng vèo hoặc chùng chình để

người. rồi vô tình không nhận ra những vẻ

? Khái quát giá trị nghệ thuật và giá trị đẹp gần gũi, bình dị trong cuộc sống.

nội dung của tác phẩm? + Thức tỉnh sự trân trọng giá trị cuộc

HS đọc ghi nhớ sgk/108. sống gia đình và những vẻ đẹp bình dị

- GV hướng dẫn HS luyện tập: của quê hương.

Bài 1: Thiên nhiên vừa mang ý nghĩa

hình ảnh thực vừa mang ý nghĩa biểu 4. Luyện tập

tượng; màu sắc biến đổi tinh tế: Hình

ảnh hoa bằng lăng, bầu trời, bãi bờ,

dòng sông…

Hoạt động 3: Hoạt động tự học: III. Hướng dẫn tự học:

- GV hướng dẫn – HS chú ý lắng - Tóm tắt truyện, nắm được tình huống

nghe. và ý nghĩa của truyện.

- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả thiên

nhiên, miêu tả tâm lí nhân vật.

- Học bài, thuộc ghi nhớ.

- Soạn bài ôn tập Tiếng Việt: Nắm lại

các khái niệm: Khởi ngữ và các thành

phần biệt lập; liên kết câu và liên kết

đoạn văn; nghĩa tường minh và hàm ý.

28

Tiết: 67 Đọc văn

Ngày soạn:

Ngày dạy:

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

(Nguyễn Minh Châu)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức: Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và

nghệ thuật: Phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện; nghệ

thuật chân chính luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời. Tình huống truyện độc

đáo, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Điểm nhìn nghệ thuật đa

chiều. Lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba.

2. Kĩ năng: Đọc – hiểu truyện ngắn hiện đại.

3. Thái độ: Hoàn thiện và nâng cao phương pháp đọc hiểu tác phẩm truyện.

B. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định lớp.

2. Kiểm tra bài cũ: Cảm nhận của em về nhân vật Việt và Chiến trong tác

phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi?

3. Bài mới.

Họat động của GV và HS Nội dung bài dạy

+ GV: Em đã biết được những gì về I. Giới thiệu chung:

Nguyễn Minh Châu và sáng tác của 1. Tác giả:

ông, nhất là chặng đường sau năm - Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989).

1975? - Quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải,

+ HS: Dựa vào phần Tiểu dẫn và các huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

tài liệu tham khảo khác để trả lời. - Là một trong những cây bút tiên

+ GV: Trên cơ sở những ý trình bày phong của văn bản Việt Nam thời kì

của HS, nhấn mạnh những nét chính đổi mới, “thuộc trong số những nhà

cần lưu ý về tác giả. văn mở đường tinh anh và tài năng

29

+ GV: Giới thiệu xuất xứ và hoàn nhất của văn học ta hiện nay”

cảnh sáng tác của tác phẩm. (Nguyên Ngọc).

- Sau 1975, sáng tác của NMC đi sâu

khám phá sự thật đời sống ở bình diện

đạo đức thế sự.

2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài

xa”:

- Sáng tác năm 1983.

- Năm 1985, được in trong tập “Bến

quê”.

- Năm 1987, được in trong tuyển tập

cùng tên.

- Là một trong những sáng tác tiêu

biểu của văn học Việt Nam thời kì đổi

mới.

+ GV: Gọi một số HS tóm tắt tác * Đọc – Tóm tắt:

phẩm trên cơ sở HS đã đọc tác phẩm ở - Theo lời của trưởng phòng, nghệ sĩ

nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven nhà.

biển miền Trung (cũng là nơi anh từng

chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho

cuốn lịch năm sau.

- Sau nhiều ngày “phục kích”, anh đã

phát hiện và chụp được cảnh một

chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện

trong biển sớm mờ sương.

- Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh

đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến

cảnh từ trong thuyền bước ra một gã

30

chồng vũ phu đánh đập người vợ dã

man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã

đánh trả lại cha mình.

- Những ngày sau, cảnh tượng đó lại

tiếp diễn và lần này anh phải can

thiệp…

- Theo lời mời của Chánh án Đẩu

(đồng đội cũ của anh), người đàn bà

hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại

đây, người đàn bà đã từ chối sự giúp

đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết

không bỏ lão chồng vũ phu.

- Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời

mình và đó là lí do cho sự từ chối trên.

- Rời vùng biển với khá nhiều ảnh,

Phùng đã chọn được một tấm ảnh về

“Thuyền và biển” cho tờ lịch năm ấy.

Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm

ảnh, anh bao giờ cũng thấy hình ảnh

người đàn bà lam lũ, nghèo khổ bước

ra từ bức tranh.

+ GV: Từ những ý chính trên, em hãy * Bố cục: 2 đoạn.

xác định bố cục của tác phẩm? - Đoạn 1: Từ đầu… đến “Chiếc

thuyền lưới vó đã biến mất”: Hai phát

hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Đoạn 2: Phần còn lại: Câu chuyện

của người đàn bà hàng chài ở tòa án

huyện và tấm ảnh được chọn.

31

+ GV: Nghệ sĩ phát hiện ra điều gì II. Đọc – hiểu văn bản:

trong buổi sáng tinh sương? 1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ

nhiếp ảnh:

+ GV: Cảnh được miêu tả thế nào? a. Phát hiện thứ nhất về khung cảnh

thiên nhiên hoàn mĩ:

- Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền

và biển theo yêu cầu của trưởng

phòng, Phùng đã tới một vùng biển

từng là chiến trường cũ của anh.

- Phùng đã dự tính bố cục, đã “phục

kích” mấy buổi sáng để chụp được

một cảnh thật ưng ý.

- Người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ

đẹp trên mặt biển mờ sương, như “một

bức tranh mực tàu của một danh họa

thời cổ”:

+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe

nhòe vào bầu sương mù màu trắng

sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh

mặt trời chiếu vào”.

+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con

ngồi im phăng phắc như tượng trên

chiếc mui khum khum, đang hướng

mặt vào bờ”.

+ “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét

đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp”,

“một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn

bích”

32

+ GV: Vì sao Phùng gọi đây là một  Cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà cả

“Cảnh đắt trời cho”?. đời anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được

+ GV: Người nghệ sĩ đã có những một lần.

cảm nhận gì khi được chiêm ngưỡng - Tâm trạng, cảm nhận của người

bức ảnh nghệ thuật của tạo hóa? nghệ sĩ:

+ “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim

như có cái gì bóp thắt vào”.

+ “Khám phá thấy cái chân lí của sự

toàn diện, khám phá cái khoảnh khắc

trong ngần của tâm hồn…”, “phát

hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo

đức”.

+ GV: Vì sao trong lúc cảm nhận vẻ  Hạnh phúc chất ngất, cảm nhận

đẹp của bức tranh, anh lại nghĩ đến được cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời,

câu nói: “bản thân cái đẹp chính là cảm thấy tâm hồn mình như được

đạo đức”? thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh

+ GV: Người nghệ sĩ đã kinh ngạc khiết.

phát hiện được điều gì khi thuyền cập b. Phát hiện thứ hai về hiện thực

bến? nghiệt ngã của con người:

- Phùng đã chứng kiến cảnh tượng:

một người đàn ông đánh vợ dã man.

- Cảnh chiếc thuyền ngư phủ đẹp như

mơ >< gia đình thuyền chài:

+ Từ chiếc thuyền bước ra một người

đàn bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và

chỉ biết “cam chịu đầy nhẫn nhục”.

+ Lão đàn ông: thô kệch, dữ dằn, độc

ác, quật tới tấp vào lưng vợ như một

33

cách để giải tỏa uất ức, khổ đau.

+ Thằng bé Phác: “như một viên đạn

trên đường lao tới đích” nhảy xổ vào

gã đàn ông, đánh lại cha vì thương

+ GV: Vì sao anh lại kinh ngạc khi mẹ…

chứng kiến cảnh tượng trên? - Thái độ của người nghệ sĩ:

+ “Chết lặng”, không tin vào những

gì đang diễn ra trước mắt: “kinh ngạc

đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ

đứng há mồm ra mà nhìn”.

 Anh không ngờ đằng sau cái đẹp

của tạo hóa lại có cái xấu, cái ác đến

mức không thể tin được.

+ Không thể chịu được khi thấy cảnh

ấy, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh

xuống đất, chạy nhào tới”.

 Bản chất của người lính khiến anh

+ GV: Qua hai phát hiện của nghệ sĩ không thể làm ngơ trước sự bạo hành.

Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn c. Ý nghĩa

người đọc nhận thức được điều gì về - Phùng đã cay đắng nhận ra những

cuộc đời? ngang trái, xấu xa trong gia đình kia

+ HS: Thảo luận 2 HS và phát biểu. đã làm cho những điều huyền diệu mà

anh đã phát hiện hiện hình ra thật

khủng khiếp, ghê sợ.

- Cuộc đời không đơn giản, xuôi

chiều, không phải bao giờ cũng đẹp,

cũng là nghệ thuật, mà chứa đựng

nhiều nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái

34

đẹp – xấu, thiện – ác.

- Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời

trong mối quan hệ đa chiều.

* Luyện tập:

- Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều

mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc

sống luôn tồn tại những mặt đối lập,

những mâu thuẫn: đẹp – xấu, thiện –

+ GV: Trước hết, em hãy tìm hiểu vì ác.

sao người đàn bà hàng chài lại xuất 2. Câu chuyện của người đàn bà

hiện ở tòa án huyện? hàng chài ở tòa án huyện:

+ GV: Phùng và chánh án Đẩu biết a. Câu chuyện về người đàn bà hàng

được gì về người đàn bà? chài:

- Người đàn bà đáng thương:

+ Ngoài 40 tuổi, thô kệch, rỗ mặt,

“khuôn mặt mệt mỏi”.

 Gợi ấn tượng về một cuộc đời

nghèo khổ, lam lũ.

+ Bị chồng đánh đập “ba ngày một

trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”

nhưng vẫn cam chịu “không hề kêu

một tiếng, không chống trả, không tìm

cách chạy trốn”.

 Coi đó là lẽ đương nhiên, sẵn sàng

+ GV: Người đàn bà có làm theo lời chịu đựng tất cả.

đề nghị và sự giúp đỡ của chánh án - Người đàn bà đã từ chối lời đề nghị

Đẩu và nghệ sĩ Phùng hay không? Vì và sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và

sao? nghệ sĩ Phùng: van nài tòa “Quý tòa

35

bắt tội con cũng được, phạt tù con

cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

+ GV: Tại sao chị ta lại cam chịu cuộc - Người phụ nữ ấy giải thích:

sống như thế? + “Các chú đâu có phải là người làm

ăn… cho nên các chú đâu có hiểu

được…”, “… như thế nào là nỗi vất

vả của người đàn bà trên một chiếc

thuyền không có đàn ông…”.

 Nhận thức về cuộc sống trên biển:

nghề biển không thể thiếu đàn ông, gã

đàn ông ấy là chỗ dựa quan trọng

trong cuộc đời đi biển của chị.

+ “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền

chúng tôi cần phải có người đàn ông

để chèo chống khi phong ba, để cùng

làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con

mà nhà nào cũng trên dưới chục

đứa… phải sống cho con chứ không

thể sống cho mình”.

 Tình thương con vô bờ.

+ Cũng có những lúc: “Vui nhất là lúc

ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được

ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có

lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống

hòa thuận, vui vẻ”.

 Trong đau khổ triền miên, người

đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những

niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.

36

+ “Lão chồng tôi khi ấy là một anh

con trai cục tín như hiền lành lắm,

không bao giờ đánh đập tôi”. “Giá tôi

đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một

chiếc thuyền rộng hơn…”.

 Cảm thông với người chồng.

 Sơ kết: Nhân vật có sự đối lập giữa + GV: Em nhận xét, đánh giá thế nào

vẻ bên ngoài và tâm hồn bên trong. về người đàn bà hàng chài?

+ Người đàn bà thất học nhưng rất

hiểu cuộc đời: hiểu thiên chức làm mẹ,

hiểu nỗi khốn khổ và sự bế tắc của

người chồng.

+ Giàu đức hy sinh, giàu lòng vị tha,

nhân hậu – chắt chiu hạnh phúc đời

thường – nhìn đời một cách sâu sắc.

+ Thấp thoáng vẻ đẹp truyền thống

của người phụ nữ VN trong quá khứ.

+ Quan niệm của nhà văn: cuộc sống

con người không đơn giản, người nghệ + GV: Qua câu chuyện về cuộc đời

sĩ không thể dễ dãi, giản đơn khi nhìn chị, nhà văn muốn nói điều gì?

nhận mọi sự vật, hiện tượng của đời

sống.

b. Các nhân vật khác trong câu + GV: Hình ảnh người chồng của

người đàn bà hàng chài được miêu tả chuyện:

như thế nào? * Người đàn ông:

- Dáng vẻ khắc khổ, lam lũ nhưng

mạnh mẽ và dữ dội: “Lưng rộng và + GV: Người đàn bà ấy đã nói và kể

cong như một chiếc thuyền”, “mái tóc lại những gì về người chồng vũ phu

37

của mình? tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con

mắt độc dữ”.

- Vốn là một anh con trai hiền lành,

chỉ vì “nghèo khổ, túng quẫn”, nhiều

lo toan, cực nhọc và trở thành người

đàn ông độc ác, người chồng vũ phu.

- Khi nào thấy khổ là lão đánh vợ:

“lão trút cơn giận như lửa cháy bằng

cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp

vào lưng người đàn bà”, đánh như để

giải tỏa uất ức, để trút sạch tức tối,

buồn phiền.

- Qua cái nhìn của người đàn bà: nạn

+ GV: Qua đó, có thể nhận thấy thái nhân của hoàn cảnh nên đáng được

độ của chị đối với người chồng như cảm thông, chia sẻ.

thế nào?

+ HS: Trả lời cá nhân. - Qua cái nhìn của chánh ản Đẩu, nghệ

+GV: Còn chánh án Đẩu, nghệ sĩ sĩ Phùng và bé Phác: người vũ phu,

Phùng và bé Phác đánh giá như thế thủ phạm gây đau khổ nên đáng căm

nào về người đàn ông này? phẫn, đáng lên án.

+ HS: Trả lời cá nhân.  Vừa là nạn nhân của cuộc sống

+GV: Từ đó, chúng ta rút ra được điều khốn khổ, vừa là thủ phạm gây đau

gì về cách nhìn nhận mọi sự vật, hiện khổ cho những người thân.

tượng trong đời sống nói chung?  Phải có cái nhìn đa diện, nhiều

chiều về cuộc sống và con người.

* Chị em Phác:

- Chị Phác:

+ Một cô bé ốm yếu mà can đảm, phải + GV: Em có đánh giá, nhận xét gì về

38

chị của Phác. vật lộn để tước lấy con dao từ tay

Phác, không cho nó làm việc trái với

luân thường đạo lí.

- Trong lòng tan nát vì đau đớn: bố

điên cuồng hành hạ mẹ, vì thương mẹ

mà thằng em định cầm dao ngăn bố

lại…

 Có những hành động đúng đắn, biết

lo toan, là chỗ dựa vững chắc cho

người mẹ.

- Phác:

Thương mẹ theo kiểu trẻ con xốc nổi,

+ GV: Còn Phác là một đứa trẻ như theo cách của đứa con trai vùng biển.

thế nào? + Nó “lặng lẽ đưa ngón tau lên khẽ sờ

trên khuôn mặt người mẹ, như muốn

lau đi những giọt nước mắt chứa đầy

trong nốt rỗ chằng chịt”.

+ Nó “tuyên bố với các bác ở xưởng

đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở

dưới biển này thì mẹ nó không bị

đánh”.

 Phản ứng dữ dội, tình thương mẹ

dạt dào.

 Tình huống khó xử, nỗi đau khó

+ GV: Cảm nhận của em về hoàn giải quyết: đứng về ai, làm thế nào để

cảnh của hai chị em Phác? trọn đạo làm con?

* Nghệ sĩ Phùng:

- Nhạy cảm trước cái đẹp của thiên

39

+ GV: Trình bày những cảm nhận của nhiên, trước vẻ đẹp tinh khôi của

em về nhân vật người nghệ sĩ nhiếp thuyền biển lúc bình minh.

ảnh Phùng? - Xúc động mãnh liệt trước tình trạng

con người phải chịu sự bạo hành của

cái xấu, cái ác.

- Phát hiện vẻ đẹp tâm hồn con người:

đằng sau vẻ xấu xí người đàn bà là

một tâm hồn yêu thương, vị tha…

- Rút ra chân lí về mối quan hệ giữa

nghệ thuật và cuộc sống: + GV: Qua câu chuyện của người đàn

+ Trước khi rung động trước cái đẹp bà hàng chài, Phùng có những thay đổi

nghệ thuật phải biết yêu ghét, vui buồn gì trong suy nghĩ?

trước cuộc đời.

+ Phải biết hành động để có một cuộc

sống xứng đáng với con người.

* Chánh án Đẩu:

- Vị Bao Công của vùng biển, quan + GV: Nhân vật chánh án Đẩu được

tâm người bất hạnh. nhận định như thế nào?

- “Vỡ ra” nhiều vấn đề về cách nhìn + GV: Trước khi nghe câu chuyện của

nhận, đánh giá con người: người đàn bà hàng chài, thái độ của

+ Cuộc đời người đàn bà này không hề chánh án Đẩu là rất cương quyết.

giản đơn. Nhưng khi nghe những gì mà người

+ Trong hoàn cảnh này, cách hành xử phụ nữ này giãi bày, Đẩu cảm thấy

của người đàn bà là không thể khác. như thế nào?

+ Giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp

dụng là không ổn.

3. Tấm ảnh được chọn trong “bộ - Thao tác 3: Tìm hiểu tấm ảnh

lịch năm ấy”. được chọn trong “bộ lịch năm ấy”

40

+ GV: Gọi 1 HS đọc lại đoạn văn cuối - Mỗi lần nhìn kĩ bức ảnh đen trắng,

cùng của truyện. người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái

+ GV: Mỗi lần nhìn bức ảnh đen mùa hồng hồng của ánh sương mai”.

trắng, người nghệ sĩ đều thấy những  Chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc

gì? đời.

- Nhưng nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh

cũng thấy “người đàn bà ấy đang

bước ra khỏi tấm ảnh”.

 Hiện thân của những lam lũ, khốn

khó của đời thường, là sự thật cuộc

đời đằng sau bức tranh.

 Quan niệm: Nghệ thật chân chính

không bao giờ rời xa cuộc đời và phải + GV: Vậy Nguyễn Minh Châu muốn

là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời. phát biểu điều gì về mối quan hệ giữa

4. Đặc sắc về nghệ thuật của tác nghệ thuật và cuộc đời.

phẩm: + GV: Tác giả đã xây dựng được một

a. Xây dựng tình huống truyện: tình huống truyện như thế nào?

- Độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa

khám phá, phát hiện về đời sống.

+ Tình huống 1: Phùng rung động, say

mê trước cảnh đẹp “trời cho”.

+ Tình huống 2: Trong giây phút tâm

hồn thăng hoa, anh bất ngờ chứng kiến

cảnh tượng người đàn ông đánh vợ.

+ Phùng còn chứng kiến cảnh tượng

đó thêm lần nữa: người đàn bà nhẫn + GV: Từ những tình huống đó, nhân

nhục, hành động của chị em Phác. vật Phùng đã có những thay đổi gì?

+ Từ đó, Phùng có cách nhìn đời khác

41

đi. Anh thấy rõ cái ngang trái, hiểu

thêm về người đàn bà, chị em Phác,

hiểu sâu thêm bản chất của người bạn

Đẩu và hiểu chính mình.

 Tình huống được đẩy lên cao trào

+ GV: Tác giả đã chọn lời kể theo và ngày càng xoáy sâu để thể hiện tính

nhân vật nào? Từ việc chọn lựa này, cách con người và cuộc đời.

lời kể của tác giả sẽ có hiệu quả gì? b. Nghệ thuật kể chuyện: sinh động

- Người kể chuyện: là nhân vật Phùng.

+ GV: Nhận xét về cách xây dựng  Tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo,

ngôn ngữ của các nhân vật? có khả năng khám phá đời sống; lời kể

khách quan, chân thực, thuyết phục.

- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc

điểm tính cách của từng người.

+ Giọng điệu lão đàn ông: thô bỉ, tàn

nhẫn, tục tằn, hung bạo.

+ Những lời của người đàn bà: dịu

dàng, xót xa khi nói với con, đớn đau

và thấu trải lẽ đời khi nói về mình.

+ Lời của Đẩu: giọng điệu của người

tốt bụng, nhiệt thành.

 Góp phần khắc sâu thêm chủ đề -

+ GV: Gọi học sinh nhận xét chung về tư tưởng của truyện.

chủ đề và nghệ thuật đặc sắc của tác III. Tổng kết:

phẩm. - “Chiếc thuyền ngoài xa” của

- HS: Dựa vào phần Ghi nhớ để phát Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề

biểu. có ý nghĩa với mọi người, mọi thời:

nhìn nhận cuộc sống và con người

42

phải đa dạng, nhiều chiều.

- Vẻ đẹp toát ra từ tác phẩm là vẻ đẹp

của tình yêu người – tình yêu ấy thôi

thúc người nghệ sĩ tìm kiếm, khám

phá, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp

tiềm ẩn của con người.

4. Củng cố, dặn dò:

- Tìm đọc trọn vẹn truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

- Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài trong tác phẩm.

C. RÚT KINH NGHIỆM

Từ hai giáo án trên chúng tôi thấy được việc giảng dạy các tác phẩm

truyện thời kì đổi mới trong nhà trường đã thu được những kết quả nhất định,

nhưng việc tiếp nhận của học sinh với các tác phẩm này còn gặp những khó

khăn. Đó chính là cơ sở giúp chúng tôi tiếp thu và đưa ra những định hướng

tích cực nhất cho việc dạy và học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới

43

Chương 2

ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN

THỜI KÌ ĐỔI MỚI TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN

BẬC TRUNG HỌC

Ở chương 1 luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của

vấn đề dạy học các tác phẩm truyện thời đổi mới, đến chương II luận văn gồm

hai phần:

- Phần đầu: Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bốn tác phẩm

với 3 mục: Năm xuất bản, tóm tắt cốt truyện, khái quát nội dung và nghệ thuật

của từng tác phẩm.

- Phần sau: Định hướng dạy học cho từng tác phẩm cụ thể với ba mục:

+ Định hướng dạy học của sách giáo viên

+ Định hướng dạy học của sách tham khảo

+ Định hướng dạy học do luận văn đề xuất.

2.1. Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bốn tác phẩm

TRUYỆN NGẮN: “BẾN QUÊ”

* Truyện ngắn “Bến quê” in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh

Châu, xuất bản năm 1985. Văn bản đưa vào sách giáo khoa lược bỏ một đoạn ở

phần đầu truyện.

* Tóm tắt cốt truyện

Truyện ngắn “Bến quê” là câu chuyện những ngày cuối cùng của cuộc đời

của một con người làm một công việc đã cho anh có điều kiện đi đến hầu khắp

mội nơi trên thế giới – con người ấy có tên là Nhĩ. “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới

không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”. Ấy thế mà ở cuối đời, căn bệnh quái

ác lại buộc chặt anh vào giường bệnh và hành hạ như thế hàng năm trời. Vào

cái buổi sáng hôm ấy, khi Nhĩ muốn nhích người đến bên cửa sổ, thì việc ấy

với anh kho khăn như đi tới cả một vòng trái đất, phải nhờ vào sự trợ giúp của

đám trẻ con hàng xóm… Khi Nhĩ đã phát hiện vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên

44

kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng sẽ không bao giờ

được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần anh. Nhĩ đã nhờ cậu con trai

thực hiện giúp mình cái điều mà mình khao khát đó Nhưng cậu ta lại sa vào

một đám chơi cờ trên hè phố và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong

ngày… Truyện được trần thuật theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ

trong một cảnh ngộ đặc biệt như vậy.

 Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

- So với những tác phẩm mà Nguyễn Minh Châu viết trước năm 1975, thì

ở truyện ngắn này đã có sự đổi mới mạnh mẽ: Ngòi bút nhà văn hướng vào đời

sống thế sự, nhân sinh hàng ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường có

khi nhỏ nhặt, để phát hiện những chiều sâu của đời sống với bao nhiêu quy luật

và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của những cách nhìn, cách nghĩ của

xã hội trước đây và của chính tác giả… Triết lí của truyện Bến quê là một triết

lí giản dị sâu sắc, có ý nghĩa tổng kết một cuộc đời con người.

- Truyện ngắn Bến quê xây dựng trên một tình huống nghịch lí: Nhĩ đã

từng đi khắp mọi nơi trên trái đất, về cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh vì

một căn bệnh hiểm nghèo. Chính thời điểm ấy. Nhĩ mới phát hiện ra vẻ đẹp

bình dị và hết sức quyến rũ của vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc.

Cũng vì nằm liệt giường nhận sự săn sóc tận tình của vợ, Nhĩ mới cảm nhận hét

được nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu và đức hy sinh thầm lặng của vợ mình. Nhĩ

vô cùng khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông nhưng khao

khát ấy giờ đây đã trở nên xa vời đối với anh. Vì thế Nhĩ đã chiêm nghiệm

được quy luật đầy vẻ nghịch lí của đời người: “…. Con người ta trên đường đời

khó tránh được những điều vòng vèo hoặc chùng chình”.

- Tạo ra một chuỗi tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người

đọc đến một nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy

những điều bất thường, những nghịch lí, những ngẫu nhiên, vượt ra ngoài

những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta.

45

- Đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn “Bến quê” là tác giả đã tạo

ra một tình huống truyện hấp dẫn, tình huống nghịch lí. Tác giả lại trần thuật

qua dòng nội tâm của nhân vật cho nên những ý đồ của tác giả được gửi gắm ở

trong các chi tiết truyện khác đầy đủ và sâu sắc; ngôn ngữ và giọng điệu kể của

tác giả trầm lắng và đầy chất suy tư; đặc biệt tác giả đã xây dựng được những

hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng chẳng hạn: Hình ảnh bông hoa bằng lăng cuối

mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ sụp

vào trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng. Hình ảnh đó vừa có ý nghĩa tả thực

vừa có ý nghĩa biểu tượng: Biểu tượng về sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở những

ngày cuối cùng. Chi tiết đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám phá cờ thế trên lề

đường gợi ra một ý nghĩa biểu tượng là: Sự chùng chình uốn éo mà trên đường

đời người ta khó tránh khỏi.

TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”

 Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác năm 1983. Truyện

được in lần đầu trong tập " Bến quê " năm 1985 và được in trong tuyển tập

cùng tên năm 1987.

 Tóm tắt cốt truyện:

Phóng viên nhiếp ảnh Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh buổi

sáng có sương ở biển. Anh đã có mặt ở vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm

cây số, vốn là vùng chiến trường cũ mà anh đã từng chiến đấu thời chống Mĩ.

Tại đây, Phùng đã chụp được một bức ảnh nghệ thuật và “Cái đẹp tuyệt

đỉnh của ngoại cảnh” của chiếc thuyền lưới vó hiện ra trong bầu sương mù

trắng. Sau đó, anh đã chứng kiến cảnh bạo lực gia đình của người hàng chài.

Người đàn bà bị chồng đánh đập dã man được tòa án huyện triệu tập đến để

giải quyết chuyện gia đình. Bà đã giải thích rõ nguồn gốc sự độc ác của chồng

và sự tự nguyện lên bờ cho chồng đánh “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một

trận nặng”. Những lời giải thích của bà đã làm cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ

nhiếp ảnh Phùng “có một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu”.

46

Tấm ảnh chụp về con thuyền trong sương sớm của Phùng đã có trong bộ

lịch năm ấy và được treo ở nhiều nơi. Mỗi lần nhìn tấm ảnh, Phùng lại nhớ đến

màu hồng của ánh sương mai và người đàn bà vùng biển cao lớn với những

đường nét thô kệch.

 Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

- “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc dạng truyện luận đề với việc Nguyễn

Minh Châu đã đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Thông qua

câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền

Trung để chụp ảnh nghệ thuật. Với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ,

với hệ thống nhân vật có chiều sâu, nhà văn đề cập đến tính trung thực của

người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học với hiện thực cũng

như những vấn đề phức tạp của đời sống.

- “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm giàu

giá trị nhân đạo. Thông qua truyện ngắn Nguyễn Minh Châu muốn bày tỏ sự

thông cảm đối với cuộc sống con người nơi vùng biển vắng. Câu chuyện đã phê

phán hành động vũ phu của người chồng, đồng thời Nguyễn Minh Châu muốn

cho người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã

hội đương đại. Nhà văn còn mạnh dạn nêu lên phản ánh dữ dội của đứa con để

nhấn mạnh hậu quả trầm trọng của tệ nạn này. Chính người vợ đã gửi đứa con

lên ở với ông ngoại để khỏi chứng kiến cái ác đang hoành hành trong gia đình.

Người vợ hy sinh cũng để bảo vệ gia đình. Dẫu viết về bạo lực gia đình

Nguyễn Minh Châu đã báo hiệu những vấn đề xã hội nhức nhối.

- Cái mới mẻ trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu trong các

sáng tác sau 1980 đó là sự trần thuật có chiều sâu miêu tả hiện thực có chiều

sâu thể hiện ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã dựng lên trong truyện ngắn “Chiếc

thuyền ngoài xa” một bức tranh cuộc sống của những người dân chài ở miền

Trung trong xã hội mới với cái nhìn rất sâu.

47

- Ông dám nhìn thẳng vào sự thật, miêu tả rất sinh động cuộc sống lam lũ,

nghèo đói, tối tăm, đầy những bi kịch và nghịch lí (bi kịch là ở chỗ bạo lực gia

đình đã làm tổn thương tâm hồn của trẻ thơ, nghịch lí ở chỗ là người đàn bà

mặc dù bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng vẫn không dám thoát ra khỏi cảnh

ngộ ấy…).

- Không những thế nhà văn Nguyễn Minh Châu còn miêu tả, còn khắc họa

thế giới nội tâm vừa đầy uẩn khúc vừa có những nét cao cả (uẩn khúc là lão

chồng bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh… Cao cả là người

đàn bà dân chài tỏ ra rất sắc sảo và hiểu đời bà nhận thức rất rõ thiên chức của

người phụ nữ trong gia đình của dân chài “Mong các chú thông cảm cho, đám

đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống

khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con nhà nào cũng trên

dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi cho con

đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi

phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong

các chú lượng tình cho cái lạc hậu, các chú đừng bắt tôi bỏ nó!...”).

Nét đẹp trong tâm hồn người đàn bà lam lũ còn thể hiện rõ trong khi bà

nói về niềm vui trong gia đình hàng chài:

- Cả đời chị có lúc nào thật vui không?

- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…

Như vậy là người đàn bà này đã vì con mà chấp nhận tất cả, chấp nhận sự

vũ phu thô bạo của chồng. Chấp nhận sự nghịch lí… Chính những điều tâm sự

trên của người đàn bà hàng chài đã làm lên: “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong

đầu vị Bao Công của phố huyện vùng biển và cả trong đầu của nghệ sĩ nhiếp

ảnh Phùng”

TRUYỆN NGẮN: “MỘT NGƯỜI HÀ NỘI”

 Truyện ngắn “Một người Hà Nội” được sáng tác năm 1990, lúc đất nước

đang có sự đổi mới, chuyển biến mạnh về kinh tế, chính trị. Tác phẩm được rút

ra từ tập “Hà Nội trong mắt tôi” năm 1995.

48

 Tóm tắt cốt truyện:

Nhân vật trung tâm của truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội ở tầng

lớp thượng lưu. Cũng như những người Hà Nội khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng

đất nước trải qua những biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách Hà

Nội, các bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. Cô sống thẳng thắn, chân thành

không giấu giếm quan điểm, thái độ của mình với mọi hiện tượng xung quanh.

Thời trẻ cô Hiền là một cô gái xinh đẹp, thông minh, yêu thích văn

chương, giao du với những nhà văn có tên tuổi thời ấy, nhưng khi chọn chồng

cô không hề lãng mạn mà chọn một ông anh giáo dạy Tiểu học hiền lành, chăm

chỉ. Cô tính toán kĩ lưỡng trong quản lí gia đình, dạy dỗ con cái từ cách ăn nói,

đi đứng… sao cho thể hiện được nét văn hóa của người Hà Nội.

Hòa bình lập lại ở Miền Bắc, cô Hiền nói về niềm vui và phê phán những

sai lầm về chính sách của Nhà nước ta thời ấy. Khi miền Bắc bước vào thời kì

đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ, cô Hiền dạy con

cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất của người

Hà Nội và để cho con nhập ngũ vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam.

Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kì đổi mới, giữa

không khí xô bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà Nội

của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn” Từ câu chuyện cây si cổ thụ ở

đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

- Sự hấp dẫn của tác phẩm “Một người Hà Nội” là ở chỗ tác giả đã khắc

họa rất sinh động cuộc sống vật chất và cuộc sống nội tâm của hai tầng lớp.

- Tầng lớp thương lưu của Hà Nội xưa.

- Tầng lớp cán bộ và nhân dân lao động Hà Nội.

Trong một thời kì dài từ ngày giải phóng thủ đô 1955, trải qua thời kì bao

cấp, đến thời kì kháng chiến chống Mĩ và thời kì đất nước ta bước vào đổi mới

những năm 1990.

49

- Đọc “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải, người đọc có thể biết được

những người trong giới thượng lưu Hà Nội xưa sống như thế nào? Họ suy nghĩ

gì trước thời cuộc, họ có những phản ánh gì trước những chính sách của Nhà

nước ta… Ta có thể bắt gặp ở đây hình ảnh những người Hà Nội xưa trong tầng

lớp thượng lưu có nếp sống thanh lịch, có bản lĩnh cá nhân và cốt cách tự do.

Đồng thời ta cũng thấy ở đây cuộc sống nghèo túng, xô bồ nhưng ấm áp tình

người của cán bộ và nhân dân lao động Hà Nội trong suốt cả một thời kì bao

cấp kéo dài… (cách ăn mặc, đi đứng, nói năng…)

- Dựng lên trong tác phẩm bức tranh cuộc sống đó nhà văn Nguyễn Khải

gửi gắm điều gì? Nói cách khác cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này là gì?

- Ở đây vừa có cảm hứng ngợi ca vừa có cảm hứng phê phán, tác giả ngợi

ca văn hóa của đất Kinh Kỳ với nếp sống thanh lịch, bản lĩnh cá nhân, cốt cách

tự do. Đồng thời tác giả cũng châm biếm, chế giễu qua giọng tự trào về cái

nhìn thành kiến của cán bộ và nhân dân ta thời ấy với những người giàu có

(giàu có là do bóc lột). Phê phán những ấu trĩ của nhà nước ta thời ấy ở một số

chính sách: Cô trả lời “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn

chứ?... Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá… Mỗi ngày chị Vú đi

chợ đều có cán bộ bám theo rò hỏi… Cách mạng gì toàn để ý đến những

chuyện lặt vặt”.

Có thể nói ngòi bút Nguyễn Khải là một ngòi bút nghiên cứu, ông nghiên

cứu và phân tích những tinh tế trong bề sâu tâm hồn của con người.

ĐOẠN TRÍCH TÁC PHẨM “MÙA LÀ RỤNG TRONG VƯỜN”

 Tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng được sáng tác

năm 1982. Đây là tiểu thuyết viết về chuyện xảy ra trong một gia đình công

chức ở Hà Nội vào thời kì bao cấp.

 Tóm tắt cốt truyện:

Chuyện xảy ra ngay trong gia đình ông Bằng, một gia đình được coi là nền

nếp, luôn giữ gia pháp, gia phong, nay trở nên chao đảo trước những thay đổi

50

lớn của xã hội. Những con người hôm qua chấp nhận hi sinh nay lại rơi vào

quyền lực của tiền tài (Lí), có người hôm qua là anh hùng nay trở nên lạc lõng

(Đông). Có người xưa là bộ đội nay trốn ra nước ngoài (Cừ). Nhưng cũng có

những người trong gia đình vẫn giữ được truyền thống gia đình như ông Bằng,

chị Hoài. Chị Hoài, người con dâu trưởng của gia đình ông Bằng, vợ anh cả

Tường liệt sỹ nay có gia đình riêng, nhưng vẫn gắn bó sâu sắc với gia đình nhà

chồng trước. Ở nông thôn, công việc bận rộn quanh năm, lại là chủ nhiệm hợp

tác xã, mẹ của 4 đứa con, nhưng đúng chiều 30 tết, chị vẫn lên Hà Nội thăm gia

đình ông Bằng và cúng tất niên cùng với bố chồng và các em. Mọi người trong

gia đình đều cảm động và mừng rỡ. Ông Bằng và chị Hoài không nén được xúc

động trước cuộc gặp gỡ cuối năm. Rồi cảnh cúng gia tiên nghiêm trang, thiêng

liêng, sau đó là bữa cơm sum họp gia đình chiều 30 tết đầm ấm, vui vẻ…

 Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích

- Qua cảnh gặp gỡ, chuyện trò giữa cụ Bằng với chị Hoài, giữa các em

chồng với chị dâu trong lễ cúng gia tiên, tác giả đã đề cập đến chuyện gia đình,

là gia đình Việt Nam trong thời kì phát triển mới của đất nước, với tính phức

tạp trong các mối quan hệ thuộc nội bộ gia đình hoặc giữa gia đình với xã hội,

với dân tộc.

- Ma Văn Kháng đã dùng hình ảnh ẩn dụ mùa lá rụng để nói đến quy luật

của sự chuyển đổi xã hội. Mùa lá rụng trong vườn không chỉ đề cập đến vấn đề

“ thời kì quá độ đôi khi cuốn hút chúng ta vào những mục tiêu kinh tế, cơ sở vật

chất, kỹ thuật…. mà xem nhẹ việc xây dựng con người, xây dựng cá nhân, xây

dựng cá tính…” và vấn đề khắc phục lối sống ích kỉ, buông thả theo những dục

vọng thấp hèn, bất chấp những nguyên tắc, luật lệ của đời sống xã hội.

- Bằng một giọng kể ấm áp và cảm động khi thì dẫn dắt, khi thì qua ngôn

ngữ đối thoại, tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” đã đưa người đọc trở về

một chiều cuối năm đầy thiêng liêng mang tính truyền thống và nhận ra những

nét đẹp rất phương Đông, rất Việt Nam trong phong tục tập quán cổ truyền.

51

2.2. Định hướng dạy học từng tác phẩm

2.2.1. Định hướng dạy học truyện ngắn “ BẾN QUÊ”

2.2.1.1. Định hướng của Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập II. NXB Giáo dục

 Mục tiêu bài học:

- Giúp học sinh cảm nhận được ý nghĩa triết lí mang tính trải nghiệm về

cuộc đời con người và biết nhận ra những vẻ đẹp bình dị và quý giá trong

những gì gần gũi của quê hương gia đình qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân

vật Nhĩ ở trong truyện.

- Giúp học sinh biết được những nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện như:

Tạo tình huống nghịch lí, trần thuật qua dòng nội tâm của nhân vật, ngôn ngữ

và giọng điệu đầy chất suy tư, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

 Nội dung bài học

Bài học gồm ba nội dung: Tìm hiểu tình huống truyện, tìm hiểu cảm xúc và

suy nghĩ của nhân vật Nhĩ, tìm hiểu đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của truyện.

- Về tìm hiểu tình huống truyện ở truyện ngắn “Bến quê” bao gồm:

+ Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào một hoàn cảnh đặc biệt

+ Tình huống của truyện chính là ở điều rất trớ trêu, tác giả muốn lưu ý

người đọc đến một nhận thức về cuộc đời.

- Về tìm hiểu nhân vật Nhĩ có các nội dung:

+ Cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp thiên nhiên

+ Những suy ngẫm của Nhĩ từ hoàn cảnh của mình mà phát hiện ra quy

luật giống như một nghịch lí của đời người.

+ Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai và sự chiêm nghiệm của anh về

một quy luật đời người.

+ Nhân vật Nhĩ trong truyện là nhân vật tư tưởng của Nguyễn Minh Châu

sau 1975.

- Về tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyện

+ Trong truyện “Bến quê” hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa:

Nghĩa thực và nghĩa biểu tượng:

52

 Về phương pháp dạy học:

Sách giáo viên nêu ra tiến trình tổ chức các hoạt động dạy, học như sau:

- Hoạt động 1: Giới thiệu bài

- Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc, hiểu văn bản

+ Đọc và tìm hiểu tình huống truyện

+ Phân tích những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ

+ Tìm hiểu một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện

- Hoạt động 3: Tổng kết

- Hoạt động 4: Hướng dẫn luyện tập

2.2.1.2. Định hướng dạy học của một số sách tham khảo

Cuốn “Thiết kế dạy học Ngữ văn 9” của tác giả Hoàng Hữu Bội (NXB

Giáo dục 2005).

 Hướng tiếp cận văn bản: Sau khi tiếp xúc bước đầu với văn bản, sẽ tổ

chức học sinh tìm hiểu ba nội dung sau đây:

- Thâm nhập vào nhân vật Nhĩ với cảnh ngộ và chiêm nghiệp của ông về

cuộc đời và con người.

- Khám phá những điều nhà văn gửi gắm vào nhân vật Nhĩ

- Phát hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật viết truyện của Nguyễn

Minh Châu.

 Nội dung bài học:

Tìm hiểu cốt truyện: Phát hiện hệ thống sự kiện kết dệt lên cốt truyện.

- Thâm nhập vào cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ

+ Cảnh ngộ của Nhĩ

Gợi dẫn 1: Người đàn ông có tên là Nhĩ là người như thế nào? Ông lâm

vào cảnh ngộ ra sao? Hình ảnh nào trong truyện nói lên cảnh ngộ đó của ông?

+ Tâm trạng của Nhĩ

Gợi dẫn 2: Trong tình cảnh sắp từ giã cõi đời, nhân vật Nhĩ có những

chuyển biến gì trong tình cảm và trí tuệ? Ông đã chiêm nghiệm những quy luật

gì của đời người?

53

Gợi dẫn 3: Cuối truyện, ông Nhĩ đã có hành động và cử chỉ gì? Em hiểu

như thế nào về ý nghĩa biểu tượng của hành động cử chỉ đó?

- Tìm hiểu chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật tác phẩm

Gợi dẫn 4: Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm qua nhân vật Nhĩ

những điều gì? Cách gửi gắm đó đặc sắc ở chỗ nào?

 Phương pháp dạy học:

Tiến trình bài học được tổ chức bằng các hoạt động

- Tiếp xúc bước đầu với văn bản

- Thâm nhập vào cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ

- Tìm hiểu chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Giáo viên sử dụng các lời gợi dẫn trong phần trên để giúp học sinh khám

phá những nội dung của tác phẩm.

Cuốn “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9” của tác giả Nguyễn Văn Đường

(Nhà xuất bản Hà Nội)

 Hướng tiếp cận văn bản: Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ,

cảm nhận được ý nghĩa triết lí, kết quả của sự trải nghiệm về cuộc đời con

người, biết nhận ra vẻ đẹp bình dị và quý giá trong những gì gần gũi của quê

hương và gia đình. Phân tích được đặc sắc nghệ thuật của truyện: Tạo tình

huống, kể chuyện qua dòng nội tâm nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu đậm chất

suy tư và biểu tượng.

 Nội dung bài học:

Bài học bao gồm hai nội dung: Tìm hiểu tình huống truyện, tình huống của

nhân vật chính: Anh Nhĩ, tìm hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ.

- Về tìm hiểu tình huống truyện ngắn “Bến quê” bao gồm:

+ Nhân vật Nhĩ ở vào một hoàn cảnh đặc biệt

+ Tình huống của truyện chính là ở điều rất trớ trêu như một nghịch lí

+ Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí, tác giả muốn khái quát

những quy luật, triết lí cuộc đời.

54

- Về những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ

+ Cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp thiên nhiên

+ Qua suy tư của Nhĩ đối với vợ thấy được phẩm chất và tình cảm của

người phụ nữ này.

+ Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai và sự chiêm nghiệm của anh về

một quy luật đời người.

+ Trong truyện “Bến quê” hầu như các hình ảnh đều mang 2 lớp nghĩa:

Nghĩa thực và nghĩa biểu tượng

 Phương pháp dạy học:

Sách “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9”của tác giả Nguyễn Văn Đường (Nhà

xuất bản Hà Nội nêu ra tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học

- Hoạt động 1: Tổ chức kiểm tra bài cũ

- Hoạt động 2: Dẫn vào bài

- Hoạt động 3: Hướng dẫn đọc, hiểu khái quát

- Hoạt động 4: Hướng dẫn đọc, hiểu chi tiết

+ Tìm hiểu tình huống truyện

+ Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ

- Hoạt động 5: Hướng dẫn tổng kết và luyện tập

2.2.1.3. Định hướng dạy học truyện ngắn “Bến quê” của luận văn

 Định hướng tiếp cận văn bản: Truyện ngắn “Bến quê” là một trong

những tác phẩm tiêu biểu cho đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn

Minh Châu vào những năm 80 của thế kỉ trước là thiên hướng nắm bắt và trần

thuật hiện thực ở bề sâu ẩn kín. Điều đó thể hiện rõ ở nội dung tác phẩm:

- “Bến quê” là truyện của những nghịch lí của đời thường “Một người đã

từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, nhưng lại chưa từng và đã

không thể đến được vùng đất bến quê bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà

mình. Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình điều khao khát sang bãi bồi

bên kia sông, nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi cờ trên hè phố nên lỡ

55

chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Tình huống nghịch lí đó đã khiến cho

Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được

những cái điều vòng vèo chùng chình…” Như vậy “Bến quê” là truyện của một

nội dung triết lí, mang tính chiêm nghiệm có tính chất tổng kết đời người.

- Ngoài ra, “Bến quê” còn là truyện về sự thức tỉnh ở một con người. Khi

mắc bệnh hiểm nghèo, nằm trên giường bệnh trong những ngày cuối cùng của

cuộc đời Nhĩ mới phát hiện vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay trước

cửa sổ nhà mình; Nhĩ mới nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi

sinh thầm lặng của người vợ, mới thực sự thấu hiểu công lao của vợ với lòng

biết ơn sâu sắc “Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn

Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời

xưa…” Đó là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của

cuộc sống. Sự thức tỉnh này chỉ đến với người ta khi đã từng trải, còn khi đang

trẻ thường là lãng quên bởi những ham muốn xa vời lôi cuốn.

Tác phẩm “Bến quê” với những nội dung như trên mà dạy cho các em học

sinh lớp 9 là một khó khăn đối với giáo viên, bởi những điều đó quá cao so với

tầm tiếp nhận văn học của học sinh. Do vậy, chúng tôi chọn cách tiếp cận văn

bản từ ba yếu tố thuộc hình thức của truyện để dẫn dắt học sinh đến với nội

dung của tác phẩm.

- Cốt truyện của những nghịch lí và sự tỉnh ngộ

- Nhân vật Nhĩ và những điều nhà văn gửi gắm qua sự chiêm nghiệm.

- Nét nổi trội mới mẻ của ngòi bút Nguyễn Minh Châu ở “Bến quê”

 Nội dung bài học: Theo định hướng trên bài học gồm 3 nội dung

1. Cốt truyện với những nghịch lí và tỉnh ngộ

- Nhĩ ở trên giường bệnh trong căn nhà của mình: “Nhĩ vừa ngồi để cho

vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ”. Bấy giờ trời đã sắp lập thu “Ngoài cửa sổ

những bông bằng lăng đã thưa thớt. Bên kia, những cây bằng lăng, tiết trời đầu

thu đem đến cho con sông hồng một màu đỏ nhạt… Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới

56

không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa

lắc và chưa bao giờ đi đến (nghịch lí thứ nhất)”

- Nhĩ trò chuyện với vợ: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm…. mà em vẫn

nín thinh”, và nhờ anh con trai (Tuấn) “Sang bên kia sông hộ bố”. Tuấn thực

hiện lời yêu cầu khẩn khoản của bố. Sau đó là Nhĩ nhờ một lũ trẻ con hàng xóm

giúp anh “Đi nốt nửa vòng trái đất, từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản”,

chúng giúp anh ngồi sát ngay khuôn cửa sổ. Nhĩ nhìn thấy con đò ngang mới

bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia sông Hồng, và thấy thằng con

trai của anh mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường…. “đang sà

vào một đám cờ thế trên hè phố. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên

đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng

chình.”(Nghịch lí thứ hai, triết lí mang tính chất chiêm nghiệm về đời người).

- Đến bây giờ, sau khi “đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ Nhĩ

mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngày

bờ bên kia…” (tỉnh ngộ thứ nhất) và cũng “sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm

kiếm… Nhĩ mới nhìn thấy nơi nương tựa là gia đình” mới thấy được vẻ đẹp tâm

hồn của vợ mình: “Tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu

đựng hi sinh từ bao đời xưa” (tỉnh ngộ thứ hai)

- “Ông cụ giáo Khuyến trên đường đi mua báo về, ghé vào hỏi thăm sức

khỏe của Nhĩ. Ông cụ hàng xóm hốt hoảng nhìn thấy Nhĩ đang cố thu hết mọi

chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh

tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu

cho một người nào đó”

2. Nhân vật Nhĩ và những điều nhà văn gửi gắm qua nhân vật

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khắc họa lên trong tác phẩm của mình

một khoảnh khắc quan trọng (những ngày nằm trên giường bệnh cho đến khi

qua đời) của một nhân vật đã từng trải và có nhiều suy tư chiêm nghiệm về

cuộc đời. Với hình tượng nhân vật đó, nhà văn đã nhắn gửi tới bạn đọc những

57

triết lí mang tính trải nghiệm về cuộc đời con người, qua những phát hiện của

ông về các hiện tượng đời sống trong chiều sâu triết học và lịch sử

- Nhân vật Nhĩ trong truyện là một người “đã từng đi tới không sót một xó

xỉnh nào trên trái đất” nhưng về cuối đời lại mắc phải căn bệnh hiểm nghèo,

nằm liệt trên giường bệnh trong nhà mình, nên “chưa hề bao giờ đi đến cái bờ

bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình” bằng chi tiết nghệ thuật ấy,

nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc một triết lí: “Cuộc sống của

con người thường chứa đầy những nghịch lí, vượt ra ngoài những dự định và

ước muốn của người ta”

- Nhĩ phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngày phía

trước cửa sổ nhà mình và khao khát được đặt chân lên đấy, nhưng anh biết bây

giờ không thể thực hiện được. Nhĩ nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình, nhưng

rồi cậu lại “sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố”

Bằng chi tiết nghệ thuật ấy nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gửi tới người đọc

một triết lí nữa thông qua suy nghĩ “một cách buồn bã” của Nhĩ : “Con người ta

trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.

- “Nhĩ đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ”, bây giờ nằm liệt

trên giường, nhìn qua cửa sổ, anh mới phát hiện ra “sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp

của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ”, Nhĩ

mới nhận ra tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ…

Những chi tiết nghệ thuật trên hàm chứa một triết lí nữa mà nhà văn Nguyễn

Minh Châu muốn gửi đến người đọc: Con người ta lúc còn trẻ thường không

nhận ra và lãng quên những giá trị đích thực của cuộc sống, vốn rất giản

dị, gần gũi và bền vững xung quanh ta, khiến cho đến khi sắp từ giã cõi đời

mới mang nặng một “Nỗi ân hận đau đớn ”

3. Tìm hiểu nét nổi trội mới mẻ của ngòi bút Nguyễn Minh Châu qua

truyện ngắn “Bến quê”

Qua truyện ngắn “Bến quê” chúng ta có thể thấy được đặc điểm nổi bật,

mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu ở thời kỳ đổi mới là “thiên hướng

58

muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín” (Trần Đình Sử) nếu như trước 1975

nhà văn Nguyễn Minh Châu là nhà văn từng sáng tác những tác phẩm sử thi

ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng như “Cửa sông”, “Dấu chân người

lính”, “Mảnh trăng cuối rừng”… thì đến những năm 80 của thế kỷ trước, ngòi

bút của nhà văn lại hướng vào đời sống thế sự, nhân sinh với những chi tiết

sinh hoạt đời thường để phát hiện ra những chân lí đời sống, với những chiêm

nghiệm có tính chất tổng kết đời người (như ở “Bến quê”).

 Phương pháp dạy học:

Tiếp nhận văn bản “Bến quê” là quá sức với học sinh lớp 9. Bởi vậy cần

có một phương pháp dạy riêng cho văn bản. Giáo viên sẽ tổ chức, hướng dẫn

các em đọc kỹ văn bản, bám sát văn bản để tìm hiểu những điều mà nhân vật

Nhĩ chiêm nghiệm được: những phi lí đời thường, những vòng vèo chùng chình

trên đường đời mà con người khó tránh khỏi, những giá trị bền vững ở những

cảnh vật mà con người bình dị ở quanh ta… Có lẽ, với học sinh lớp 9 chỉ cần

các em nắm được 3 khía cạnh đó trong chiêm nghiệm của Nhĩ.

Giáo viên sẽ bằng một hệ thống lời gợi dẫn, lôi cuốn học sinh vào việc tìm

kiếm trên văn bản những chi tiết nghệ thuật đặc sắc hàm chứa những điều trên,

rồi tái hiện lại bằng tưởng tượng và khám phá ý nghĩa hàm ẩn trong từng hình

ảnh, từng chi tiết…

2.2.2. Định hướng dạy truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

2.2.2.1. Định hướng của sách giáo viên Ngữ văn 12 tập II. NXB Giáo dục

 Mục tiêu bài học:

- Giúp học sinh cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh, khi

phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi

người trong cõi đời nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi

nhìn nhận cuộc sống và con người.

- Thấy được nghệ thuật kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện rất sáng

tạo, khắc họa nhân vật khá sắc sảo của một cây bút viết truyện ngắn có bản lĩnh

và tài hoa.

59

 Nội dung bài học: Bài học gồm 5 nội dung

- Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng

- Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại bất ngờ và trớ trêu

như trò đùa quái ác của cuộc sống.

- Câu chuyện của người đàn bà hàng chài.

- Các nhân vật khác: người chồng, Đẩu, Phùng, chị em Phác.

- Nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện.

 Phương pháp dạy học:

Sách giáo viên Ngữ văn 12 tổ chức hoạt động dạy học theo cách phân tích

tác phẩm theo trình tự câu hỏi học bài trong sách giáo khoa.

2.2.2.2. Định hướng của một số sách tham khảo

Cuốn “ Thiết kế dạy học Ngữ văn 12”,(NXB Giáo dục Hà Nội 2008) của

tác giả Hoàng Hữu Bội.

 Nội dung bài học:Bài học gồm 3 nội dung chính

- Tìm hiểu về phóng viên, nhiếp ảnh Phùng trước hiện thực đời sống

+ Nghệ sĩ Phùng trước vẻ đẹp của Con thuyền ngoài xa

+ Nghệ sĩ Phùng trước sự thật trần trụi, khắc nghiệt

+ Nhận thức mới của nghệ sĩ Phùng sau chuyến đi chụp ảnh

- Tìm hiểu về “Một cái mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố

huyện vùng biển”.

+ Nghịch lí của đời thường

+ Một cái gì mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công

- Nhận diện sự đổi mới của phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn

Minh Châu giai đoạn sau:

 Phương pháp dạy học:

Giáo viên sử dụng lời gợi dẫn để giúp cho học sinh chiếm lĩnh được nội

dung của tác phẩm và thấy được những sự đổi mới trong phong cách nghệ thuật

của Nguyễn Minh Châu.

60

Cuốn “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II” của tác giả Nguyễn Văn Đường

 Hướng tiếp cận văn bản: Đằng sau bức ảnh thuyền và biển là số

phận, tính cách người đàn bà thuyền chài, là nạn bạo hành gia đình và tấm

lòng tính cách của người mẹ, người vợ, người phụ nữ Việt Nam; mối quan

hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc đời, bản lĩnh, tài năng và tư duy của

người nghệ sĩ. Nghệ thuật kết cấu tạo tình huống, chọn chi tiết vừa kể, tả

vừa biểu cảm, triết lí.

 Nội dung bài học: Bài học được giá khai thác ở hai nội dung:

- Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng

+ Phát hiện thứ nhất: “Bức tranh họa mực tàu thời cổ”

+ Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành người đàn bà mặt rỗ

- Câu chuyện ở tòa án huyện:

 Phương pháp dạy học: Tác giả nêu ra tiến trình tổ chức các hoạt động

dạy học như sau:

- Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ

- Hoạt động 2: Dẫn vào bài mới

- Hoạt động 3: Hướng dẫn đọc hiểu khái quát về tác giả và tác phẩm

- Hoạt động 4: Hướng dẫn đọc hiểu chi tiết đoạn trích

- Hoạt động 5: Hướng dẫn tổng kết và luyện tập

2.2.2.3. Định hướng dạy “Chiếc thuyền ngoài xa” của luận văn

 Hướng tiếp cận văn bản: Cũng như bao truyện khác ở thời kì đổi mới

của nhà văn Nguyễn Minh Châu, “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện rõ một

đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu “là sự thể

nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu”(Trần Đình Sử) và đi kèm là những

khái quát triết học.

- Nổi lên trước hết trong tác phẩm là một bức tranh đời sống của những

người dân chài vào những năm 80 của thế kỉ trước. Đó là hình ảnh một gia

đình chài lưới, sống trong một chiếc thuyền đánh cá ở biển khơi. Gia đình này

61

gồm vợ chồng và hai đứa con. Nhân vật người chồng và người vợ không có tên

(có thể dụng ý của tác giả là những số phận như thế có thể gặp dễ dàng khắp

nơi trên đất nước ta).

Người vợ là “người đàn bà trạc ngoài bốn mươi…Cao lớn với những

đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo

lưới, tái mắt và dường như đang buồn ngủ”

Còn người chồng là một gã đàn ông “Tấm lưng rộng và cong như lưng

một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ, lão đi chân chữ bát bước từng bước chắc

chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào

cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt

sũng của người đàn bà”.

Cái dáng vẻ bề ngoài của đôi vợ chồng dân chài như miêu tả ở trên đã nói

lên đầy đủ cuộc sống đói nghèo, lam lũ tối tăm của họ. Nhưng đâu phải có thế,

đời sống đói nghèo bấp bênh kéo dài đã gây ra tình trạng bạo lực trong gia

đình họ. Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão chồng xách vợ ra đánh, “ba ngày

một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, “Sau này con cái lớn lên tôi mới xin

được với lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Lúc nào lão cũng đánh vợ một cách tàn

bạo. Từ dưới thuyền đi lên, “họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn… Người đàn bà

đứng lại… Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong

người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa quật tới tấp vào lưng

người đàn bà… Người đàn bà với một vẻ đầy cam chịu, đầy nhẫn nhục, không

hề kêu lên một tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn” Đấy

là sự thật cuộc sống của những người dân chài trong xã hội ta vào những năm

70, 80 của thế kỷ trước.

Cuộc sống của họ không chỉ nghèo đói, tối tăm, bạo lực mà còn có những

phi lí. Chánh án gọi người đàn bá đến công sở để giúp chị li dị “Cái lão đàn

ông vũ phu” thì chị đã từ chối sự giúp đỡ của họ: “Con lạy quý tòa… Quý tòa

bắt tội con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Sau khi thấy người phóng viên

62

xuất hiện trong gian phòng chị đang ngồi, chị đã làm cho hai cán bộ nhà nước,

vốn trước kia là lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ rất đỗi ngạc nhiên bằng

những lời nói chân tình: “Chị cảm ơn các chú!... Lòng các chú tốt, nhưng các

chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Chưa bao

giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc

thuyền không có đàn ông… Chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo

chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi một sấp con, nhà nào cũng trên dưới

chục đứa… Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu…”

Chính cuộc sống đói nghèo, lam lũ, tăm tối, bạo lực và đầy những phi lí

đó đã làm tổn thương đến tâm hồn của trẻ nhỏ. Thằng con trai của hai vợ chồng

dân chài có tên là Phác đã sẵn sàng đánh bố để cứu mẹ. Người mẹ cho biết “Vì

sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên bờ

để nhờ bố mẹ mình nuôi. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về” để mẹ nó không bị

đánh. Đây cũng là một bi kịch nữa của cuộc sống.

Song trong cuộc sống xám xịt đó vẫn lóe lên một tình mẫu tử sáng chói.

Khi trông thấy bố đánh mẹ, thằng Phác, đứa con trai của hai vợ chồng dân chài

“Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm… nhảy xổ vào cái lão đàn

ông, nó giằng được chiếc thắt lưng da, dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt

quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng…”

“Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn

vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người

đàn bà ngồi xụp xuống trước mắt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra,

chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn

chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang

xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, và

cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay sờ trên khuôn mặt người mẹ như

muốn lau đi những dòng nước mắt chứa đầy những nốt rỗ chằng chịt”. Chi

tiết nghệ thuật trên làm xúc động bao tâm hồn người đọc về tình mẹ con ở

những con người lao động nghèo khổ.

63

“Chiếc thuyền ngoài xa” còn là câu chuyện về sự kinh ngạc và tỉnh ngộ

của hai cán bộ nhà nước.

Phóng viên Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp để bổ sung

vào bộ ảnh lịch một cảnh biển buổi sáng có sương. Anh đến một vùng đầm phá

miền trung nơi phong cảnh “thật là thơ mộng”. Sau khoảng một tuần lễ, anh đã

chụp được một cảnh “đắt” trời cho cảnh một chiếc thuyền ngoài xa. “Mũi

thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi

chút màu hồng, do ánh mặt trời chiếu vào…”

Giữa lúc “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp

tuyệt định của ngoại cảnh vừa mang lại” thì Phùng tận mắt chứng kiến một

cảnh bạo lực gia đình rất khủng khiếp. Từ chiếc thuyền mà anh vừa chụp từ xa,

hai vợ chồng dân chài, rồi chiếc thuyền đi qua trước mặt anh, đi đến chiếc xe rà

phá mìn, người đàn bà đứng lại. “Lão đàn ông lập tức rút trong người ra một

chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa quật tới tấp vào lưng người đàn bà…

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,

không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”.

Cảnh tượng ấy khiến Phùng “kinh ngạc đến mức cứ đứng há mồm ra

mà nhìn”.

Đẩu là “anh bạn đồng ngũ” của Phùng thời đánh Mĩ bấy giờ là chánh án

một tòa án huyện ở miền biển. Đẩu mời người đàn bà đến công sở để giúp

người đàn bà ấy li dị lão chồng vũ phu. Và rồi chính người đàn bà hàng chài ấy

đã làm nên “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao công của cái phố huyện

vùng biển” bằng những lời tâm sự.

“Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở

thuyền chúng tôi phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng

làm ăn nuôi sống đặng một sấp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời

sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên

phải gánh lấy cải khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không

64

thể sống cho mình như ở trên đất được. Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc

hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó…”

- Nguyễn Minh Châu sáng tạo ra trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài

xa” những câu chuyện trên là muốn nhắn gửi với người đọc điều gì?

Bằng câu chuyện về người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, nhà văn Nguyễn

Minh Châu nói với chúng ta về chân lí nghệ thuật và đời sống bằng cái nhìn từ

xa, nhìn cái đẹp bên ngoài thì sẽ dẫn đến sự hời hợt thiếu chiều sâu, có nghĩa là

không nhìn thấy mặt khuất lấp, những bi kịch của nó. “Chính khát vọng muốn

tìm thấy cái đẹp… nhiều khi đưa người ta đến chỗ giản đơn hóa, không nhận ra

cái thực thế khắc nghiệt” (Trần Đình Sử). Cũng có thể nhà văn còn muốn nói

với bạn đọc: một người lính thì dễ nghĩ rằng khi sứ mệnh đánh đuổi ngoại xâm

đã được hoành thành, cuộc sống dưới chế độ mới không còn bi kịch nữa, không

còn những nghịch lí nữa. Sự thật không phải như vậy, cuộc sống quanh ta đâu

phải đã hết những số phận cay đắng… Người nghệ sĩ cần dũng cảm nhìn vào

hiện thực, nhìn vào số phận con người. Nghệ thuật phải góp phần vào việc giải

phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Muốn vậy, nghệ sĩ không

thể nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải biết trăn trở về con

người.,.. Phải có bản lĩnh trung thực…

Bằng câu chuyện về “Một cái mới vỡ ra trong đầu vị bao công của cái

phố huyện vùng biển” nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nói với chúng ta.

Cuộc sống vốn đầy nghịch lí, những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi

lâm vào hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Nếu cứ quen với tư duy một chiều về

cuộc đời, quen với cái nhìn chủ quan duy ý chí thì không bao giờ thấy hết phải

thay đổi cách nhìn và cách nghĩ quen thuộc. Nếu xa rời quần chúng, không hiểu

rõ tâm tư nguyện vọng của họ thì những người cầm quyền dễ sai lầm trong xử

lí các việc cụ thể.

- Ở truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã kể chuyện bằng

giọng kể thủ thỉ, trầm tĩnh và bằng những lời văn giản dị, mộc mạc, mang đậm

65

sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, triết lí… Ở tác phẩm này chúng ta thấy rõ ở

Nguyễn Minh Châu một tình yêu thiết tha với con người và khát vọng tìm kiếm,

phát hiện chiều sâu của cuộc sống con người, tôn vinh những vẻ đẹp còn tiềm

ẩn… Ở tác phẩm này, tác giả không chỉ lên án thói vũ phu, báo động về tình

trạng bạo lực trong gia đình và xã hội mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử,

lên tiếng bảo vệ khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.

 Nội dung bài học: Với định hướng trên, nội dung bài học “Chiếc thuyền

ngoài xa” gồm 3 phần:

1. Bức tranh đời sống của những người dân chài

- Cuộc sống đói nghèo, lam lũ, tăm tối

- Nạn bạo lực làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ

- Lấp lánh vẻ đẹp của tình mẫu tử

2. Câu chuyện về hai cán bộ nhà nước:

- Sự kinh ngạc và tỉnh ngộ của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.

- “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển”.

3. Những điều nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm trong truyện

- Chân lí nghệ thuật và đời sống

- Sự cần thiết phải thay đổi nhận thức ở người cầm quyền

- Một tình yêu thiết tha với con người và khát vọng tìm kiếm

 Phương pháp dạy học: Để giúp học sinh có thể tự chiếm lĩnh những nội

dung trên, người dạy “Chiếc thuyền ngoài xa” sẽ tổ chức, hướng dẫn các em

đọc kỹ văn bản, bám sát văn bản, phát hiện những chi tiết nghệ thuật đặc sắc

trong văn bản và khám phá nghĩa hàm ẩn trong các chi tiết đó, cảm nhận và suy

nghĩ trước những lời kể giản dị, mộc mạc nhưng chứa đầy sắc thái suy tư,

chiêm nghiệm, triết lí của tác giả… Giáo viên sẽ dùng hệ thống lời gợi dẫn để

hướng dẫn.

66

2.2.3. Định hướng dạy học truyện ngắn “MỘT NGƯỜI HÀ NỘI”

2.2.3.1. Định hướng của sách giáo viên Ngữ văn 12 – tập II. NXB giáo dục

 Mục tiêu bài học:

- Giúp học sinh cảm nhận được lối sống, bản lĩnh văn hóa của một người

Hà Nội, từ đó thấy rõ vẻ đẹp giản dị, chân thực của những con người bình

thường mà cuộc đời họ song hành cùng những chặng đường gian lao của đất

nước (nhân vật bà Hiền).

- Nắm được một số nét cơ bản trong nghệ thuật văn xuôi của Nguyễn

Khải: Cách kể chuyện, giọng văn, triết lí…

 Nội dung bài học:

Bài học gồm 2 nội dung: Tìm hiểu nhân vật bà Hiền, tìm hiểu những đặc

sắc về nghệ thuật của Nguyễn Khải.

- Về tìm hiểu nhân vật bà Hiền bao gồm:

+ Bà Hiền thời son trẻ

+ Bà Hiền thời làm vợ, làm mẹ

+ Bà Hiền lúc tuổi già

- Về tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật nổi bật của truyện.

“Một người Hà Nội” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật

văn xuôi của Nguyễn Khải. Đó là lời trần thuật với nhiều giọng điệu khác nhau:

giọng tự hào, giọng tâm tình cảm xúc, giọng dận dữ, giản dị, giọng triết lí.

2.2.3.2. Định hướng của một số sách tham khảo

Cuốn “Thiết kế dạy học Ngữ văn 12” của tác giả Hoàng Hữu Bội (NXB

Giáo dục 2008).

 Hướng tiếp cận văn bản: Sau khi tiếp xúc bước đầu với văn bản sẽ cho

học sinh tìm hiểu những nội dung sau:

- Tìm hiểu hình tượng nhân vật cô Hiền

- Tìm hiểu hình tượng người kể chuyện

67

 Nội dung bài học: Bài học đi tìm hiểu các nội dung

- Tìm hiểu nhân vật cô Hiền

+ Cô Hiền thời son trẻ

+ Bà Hiền thời làm vợ, làm mẹ

+ Bà Hiền lúc tuổi già

- Tìm hiểu hình tượng người kể chuyện

+ Đặc điểm của người kể chuyện trong tác phẩm

+ Người kể chuyện tự chào

+ Người kể chuyện say mê nét đẹp của người Hà Nội.

 Phương pháp dạy học:

Giáo viên dùng một hệ thống lời gợi dẫn để tổ chức học sinh hoạt động

một cách đa dạng nhằm chiếm lĩnh nội dung;

- Tìm hiểu hình tượng nhân vật cô Hiền

+ Cô Hiền thời son trẻ

Gợi dẫn 1: Ở mục 2 của tác phẩm, người kể chuyện cho biết thời con gái

cô Hiền là một cô gái đẹp, thông minh, được bố mẹ mở phòng tiếp khách văn

chương. Vậy mà cô gái đó đã chọn chồng như thế nào? Chi tiết đó nói lên tính

cách gì ở cô?

+ Cô Hiền thời làm vợ, làm mẹ

Gợi dẫn 3: Cô Hiền đã có tính toán như thế nào trong việc sinh con.

Gợi dẫn 4: Cô Hiền dạy con như thế nào và cách dạy đó đem lại kết

quả ra sao?

Gợi dẫn 5: Bản lĩnh của cô Hiền nói riêng và của người phụ nữ trong

giai tầng thượng lưu Hà Nội nói chung được thể hiện ở những chi tiết nào

trong tác phẩm.

+ Cô Hiền lúc tuổi già:

Gợi dẫn 6: Khi về già cô Hiền sống như thế nào và ở cô có gì thay đổi

trong tâm tính? Cô suy nghĩ, nhận xét như thế nào về Hà Nội ngày nay?

68

Gợi dẫn 7: Nhìn hình ảnh cô Hiền sống trong tuổi già và nghe cô bày tỏ ý

kiến của mình về thời thế, người kể chuyện đã bình luận gì về cô?

Gợi dẫn 8: Anh chị nhận xét gì về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải

qua đoạn cuối truyện

- Tìm hiểu hình tượng người kể truyện

+ Đặc điểm của người kể chuyện ở tác phẩm

+ Người kể chuyện tự hào

Gợi dẫn 9: Là một người lính từ kháng chiến về giải phóng thủ đô, người

cháu đã có những băn khoăn, lo nghĩ gì về cô Hiền của mình?

+ Người kể chuyện say mê nét đẹp văn hóa của Hà Nội

Gợi dẫn 10: Người kể chuyện đã hiểu ra sự thật về sự giàu có lương thiện

của cô Hiền như thế nào?

Gợi dẫn 11: Người kể chuyện say mê những nét đẹp nào trong con người

cô Hiền?

Cuốn: “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II” (NXB Hà Nội) của tác giả

Nguyễn Văn Đường.

 Hướng tiếp cận văn bản: Sau khi tiếp xúc với văn bản sẽ tổ chức cho

học sinh tìm hiểu những nội dung sau:

- Tìm hiểu nhân vật cô Hiền

- Cảm nhận về các nhân vật trong truyện

- Suy nghĩ về hình tượng cây si bật gốc lại được hồi sinh.

- Đặc sắc về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của

Nguyễn Khải trong truyện.

 Nội dung bài học:

Bài học gồm 4 nội dung:

- Tìm hiểu nhân vật cô Hiền

+ Cô Hiền lúc còn trẻ

+ Cô Hiền lúc làm vợ, làm mẹ

69

+ Cô Hiền khi về già

- Về cảm nhận các nhân vật khác trong truyện

+ Dũng, một thanh niên Hà Nội ưu tú, giàu tình cảm.

+ Bà mẹ Tuất, bà mẹ đầy nghị lực

+ Nhân vật Tôi, người kể chuyện, người nhận xét, bình luận với những

tình cảm, cảm xúc khác nhau.

+ Những nhân vật thoáng qua thể hiện nét chưa đẹp về người Hà Nội.

- Suy nghĩ về hành động cây si bị bão đánh bật gốc lại được hồi sinh:

+ Quy luật tuần hoàn, bất diệt của thiên nhiên và sự sống.

+ Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khải: dùng hình ảnh, chi tiết để triết

lí về hiện thực.

- Đặc sắc về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Giọng điệu trần thuật, tự sự đời thường.

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tạo những cuộc gặp gỡ của nhân vật tôi

với các nhân vật khác trong những thời điểm khác nhau để họ bộc lộ tính cách.

 Phương pháp dạy học:

Sách: “Thiết kế bài giảng” nêu ra tiến trình tổ chức hoạt động dạy – học.

- Hoạt động 1: Hướng dẫn đọc hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc hiểu chi tiết đoạn trích

+ Tìm hiểu nhân vật cô Hiền

+ Cảm nhận về nhân vật khác trong truyện

+ Suy nghĩ hình tượng cây si bị bão đánh bật gốc rồi lại được hồi sinh

+ Đặc sắc về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật.

2.2.3.3. Định hướng dạy truyện “Một người Hà Nội” của luận văn

 Định hương tiếp cận văn bản: Truyện ngắn “Một người Hà Nội” là

một trong những sáng tác của Nguyễn Khải vào thời kỳ đổi mới. Tác phẩm kể

về một người phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu ở Hà Nội. Người phụ nữ đó đã

trải qua bao biến động thăng trầm của đất nước. Dù sống dưới chế độ nào,

70

trong hoàn cảnh nào, người đó vẫn không để mất đi phong cách sống thanh lịch

sang trọng và tính cách “biết tự trong, biết xấu hổ” của người Hà Nội. Người

Hà Nội đó vừa biết thích ứng nhanh để hòa nhập với thời cuộc, vừa giữ cốt

cách của người Hà Nội và bản lĩnh sống của riêng mình. Thực ra lối sống của

người Hà Nội là sự kết tinh những tinh hoa về cách sống về quan niệm sống

của người Việt Nam từ xưa để lại. Ngày nay, trong thời buổi kinh tế thị trường,

nhà văn Nguyễn Khải muốn đóng góp tiếng nói để khôi phục cách sống đó.

Bên cạnh đó, ông đề nghị thay đổi về cách nhìn, cách nghĩ đối với lối sống

sang trọng, thanh lịch của những người Hà Nội trước kia.

Dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại, chúng tôi chọn cách tiếp cận văn

bản từ ba yếu tố thuộc hình thức của truyện để dẫn dắt học sinh đến với nội

dung của tác phẩm

- Cốt truyện và bức tranh cuộc sống.

- Nhân vật cô Hiền qua các thời kỳ và những điều nhà văn gửi gắm qua

nhân vật.

- Nét nổi bật về nghệ thuật của Nguyễn Khải ở “Một người Hà Nội”.

 Nội dung bài học:

1. Cốt truyện:

Tác phẩm gồm 7 đoạn được đánh số thứ tự:

Đoạn 1: Kể về cô Hiền qua cái nhìn của một cán bộ mới từ cuộc kháng

chiến trở về.

Đoạn 2: Kể về lai lịch của cô Hiền

Đoạn 3: Kể về Hà Nội mấy năm đầu vừa giải phóng – Những năm sau 1955.

Đoạn 4: Kể chuyện về cuộc sống của cô Hiền và người Hà Nội vào những

năm sau giải phóng.

Đoạn 5: Kể về bản lĩnh của cô Hiền trong cuộc sống gia đình (lấy chồng

phải dạy con, làm ăn…).

Đoạn 6: Kể chuyện sau 1975 gia đình cô Hiền đón người con trai từ chiến

trường về.

71

Đoạn 7: Kể chuyện Hà Nội ở thời kì đổi mới và cô Hiền ở tuổi già.

Bằng cốt truyện đó, nhà văn đã dựng lên trong tác phẩm bức tranh cuộc

sống của người Hà Nội trong tầng lớp thượng lưu và cuộc sống của cán bộ,

nhân dân Hà Nội từ năm 1955 cho đến năm 1990, trải qua bao thăng trầm của

lịch sử.

2. Nhân vật cô Hiền và những điều nhà văn gửi gắm qua nhân vật

- Trong phần 2 của tác phẩm (SGK lược bỏ) người kể chuyện cho biết bà

Hiền xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện ở Hà Nội. Bà là người

con gái xinh đẹp, thông minh, giao tiếp rộng rãi với giới văn nghệ sĩ. Vậy mà

gần 30 tuổi bà Hiền mới lấy chồng, người bà chọn là một ông giáo cấp tiểu học

hiền lành, chăm chỉ làm cho ai cũng phải kinh ngạc, vì theo thói thường bà

Hiền sẽ lấy một ông quan đốc, quan trạng hay một văn sĩ, thi sĩ nổi tiếng nào

đấy, nhưng bà Hiền đã vượt qua thói thường ấy, bà không chạy theo những tình

cảm lãng mạn viển vông, không hám danh, hám lợi mà coi chuyện hôn nhân

gia đình là chuyện nghiêm túc. Điều đó nói lên bà Hiền từ thời son trẻ đã là

người có bản lĩnh vững vàng.

- Bà Hiền ý thức rõ vai trò của người vợ trong gia đình. Bà phê bình người

cháu của mình, một cán bộ kháng chiến “mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó

tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không làm nội tướng

thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Trong bà luôn có một quan niệm đúng

đắn về bình đẳng nam nữ một cách tự nhiên. Chính vì có nhận thức ấy cho nên

những người phụ nữ gốc Hà Nội thường là những người vợ đảm đang tháo vát.

- Người Việt Nam ta thời bà Hiền làm mẹ có quan niệm “trời sinh voi trời

sinh cỏ” cho nên thích đẻ nhiều con. Nhưng bà Hiền đã vượt qua quan niệm đó.

Điều đó cho ta thấy bản lĩnh cá nhân của bà Hiền. Bà nhận thức rõ trách nhiệm

làm mẹ là không chỉ sinh ra con mà là lo cho cuộc sống tương lai của con

không bị lệ thuộc.

72

- Bà Hiền dạy con từ ăn mặc, đi đứng và dạy con ý thức mình là một

người Hà Nội. Đặc biệt là “biết xấu hổ, biết tự trọng”. Lời bà nói về việc con bà

xin ra trận đánh Mĩ cho ta thấy rõ lòng yêu nước của một bà mẹ bản lĩnh, có trí

tuệ và nhân cách “tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám

vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi là cũng biết tự trọng”. Bà không muốn

con mình sống trong sự đớn hèn “ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các

bạn nó phải chết, cũng là một cách giết nó”. Và chính bà không muốn mình là

người ích kỷ “tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc

sống cả hoặc chết cả, vui vẻ thì có hay hớm gì?”. Bản lĩnh cá nhân của bà còn

biểu hiện rõ ở các đức tính: thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan

điểm, thái độ của mình trước mọi hiện tượng xung quanh.

- Khi về già, bà Hiền vẫn giữ nguyên lối sống sang trọng, thanh lịch với

những đồ dùng và những nếp sinh hoạt trong giới thượng lưu Hà Nội xưa. Bà

Hiền được khắc họa rõ nét trong nếp sống sang trọng, lịch lãm, quý phái, qua

thái độ ung dung tự tại của một người già từng trải (cô không bình luận một lời

nào về nhận xét nghiệt ngã của người cháu), qua trí tuệ sắc sảo (khi nói về quy

luật tự nhiên) và qua sự hòa mình của bà vào cảnh sắc Hà Nội. Bà tiêu biểu cho

bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội, mà cốt lõi của cốt cách đó là lòng tự

trọng.Qua hình tượng nhân vật bà Hiền và các nhân vật khác, nhà văn Nguyễn

Khải vừa ca ngợi nếp sống thanh lịch, bản lĩnh cá nhân, cốt cách tự do – những

cái làm nên nét văn hóa đặc thù của Hà Nội. Đồng thời nhà văn cũng phê phán

những sai lầm một thời của nhà nước và cán bộ ta do ấu trĩ và do cái nhìn thành

kiến đối với tầng lớp thượng lưu của Hà Nội xưa.

3. Đặc sắc về nghệ thuật:

- “Một người Hà Nội” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật

văn xuôi Nguyễn Khải giai đoạn sau năm 1978. Đó là lối trần thuật với nhiều

giọng điệu khác nhau: Giọng tự hào, giọng tâm tình cảm xúc, giọng dân dã, giản

dị, giọng triết lí, tranh biện. Bằng nhiều giọng điệu kể như thế nhà văn làm gần lại

khoảng cách giữa nhà văn với bạn đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm.

73

- Khi tổ chức những sự kiện trong tác phẩm, nhà văn thường đặt sự việc ở

nhiều góc độ khác nhau, nhiều cách nhìn nhận đánh giá khác nhau. Đặc biệt khi

xây dựng các tình huống truyện, nhà văn để cho các nhân vật trực tiếp đối

thoại để nhân vật bộc lộ cách nhìn, cách đánh giá khách quan về những vấn đề

mà nhà văn đề cập.

 Phương pháp dạy học:

Để tiếp nhận văn bản “Một người Hà Nội” giáo viên cần tổ chức cho các

em đọc kĩ văn bản, bám sát văn bản để tìm hiểu được những nét thanh lịch hào

hoa, nét cá tính bản lĩnh luôn dám là mình và lòng tự trọng của nhân vật bà

Hiền cũng như cảm hứng ngợi ca mà nhà văn gửi gắm, bộc lộ một tình yêu sâu

nặng, một niềm ngưỡng mộ tha thiết đối với văn hóa đất kinh kì…

Giáo viên sẽ bằng một hệ thống lời gợi dẫn, lôi cuốn học sinh vào việc tìm

kiếm trên văn bản những chi tiết nghệ thuật đặc sắc hàm chứa những điều trên

rồi tái hiện và khám phá ý nghĩa hàm ẩn trong các hình ảnh, chi tiết.v.v.

2.2.4. Định hướng dạy học đoạn trích tác phẩm“mùa lá rụng trong vườn”

của ma văn kháng

2.2.4.1. Định hướng Sách giáo viên Ngữ văn 12, Tập II. NXB Giáo dục

 Mục tiêu bài học:

- Giúp học sinh hiểu được những nét chính trong tiểu sử, sự nghiệp

của tác giả.

- Giúp học sinh thấy được những biến động, đổi thay trong tâm lí con

người, đặc biệt là sự thay đổi về quan niệm sống, cách sống và lựa chọn các

giá trị.

 Nội dung bài học:

Nội dung của bài học gồm 3 phần:

- Nhân vật chị Hoài

- Diễn biến tâm trạng của ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại.

- Ý nghĩa của việc cúng tổ tiên trong ngày tết.

74

 Phương pháp dạy học:

- Giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi trong phần hướng dẫn

đọc thêm.

2.2.4.2. Định hướng của một số sách tham khảo

Cuốn “Thiết kế dạy học Ngữ văn 12, NXB Giáo dục. HN - 2008” của tác

giả Hoàng Hữu Bội.

 Hướng tiếp cận văn bản:

Sau khi tiếp xúc bước đầu với văn bản sẽ cho học sinh tìm hiểu những nội

dung sau:

- Tiếp xúc bước đầu với văn bản, tác giả.

- Tìm hiểu cuộc đón tiếp chị Hoài về ăn tết.

- Tìm hiểu lễ cúng gia tiền trong chiều ba mươi tết.

 Nội dung bài học:

Bài học gồm có 3 nội dung

- Tiếp xúc bước đầu với văn bản, tác giả

+ Đọc văn bản

+ Giới thiệu sơ lược về tác giả

- Tìm hiểu cuộc đón tiếp chị Hoài về ăn tết

+ Chị Hoài và mối quan hệ với những người trong gia đình

+ Cuộc gặp gỡ giữa chị Hoài và ông Bằng

- Tìm hiểu lễ cúng gia tiên trong chiều ba mươi tết

+ Bài trí bàn thời ngày tết – thuần phong mĩ tục của người Việt Nam

+ Lễ cúng gia tiên văn hóa tâm linh của người Việt Nam

+ Mâm cơm tất niên – văn hóa ẩm thực của người Việt Nam

 Phương pháp dạy học:

- Giáo viên đưa ra các lời gợi dẫn để giúp học sinh nắm được nội dung của

tác phẩm.

75

Gợi dẫn 1: Chị Hoài là người như thế nào? Chị đã được mọi người tiếp

đón ra sao?

Gợi dẫn 2: Phút gặp gỡ giữa chị Hoài và ông Bằng thật xúc động? Anh

(chị) hình dung được những gì về cảnh tượng ấy? Phân tích ý nghĩa chi tiết của

cảnh tượng ấy.

Gợi dẫn 3: Người Việt Nam ta, gia đình nào cũng có một bàn thờ tổ

tiên được đặt nơi trang trọng ở trong nhà. Ngày tết đến, bàn thờ được bài trí

như thế nào?

Gợi dẫn 4: Trước bàn thờ tổ tiên chiều ba mươi tết, lễ cúng gia tiên

diễn ra như thế nào trong gia đình ông Bằng? Phân tích ý nghĩa của thuần

phong mĩ tục đó.

Gợi dẫn 5: Mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng gồm những món gì và nó được

tạo nên như thế nào?

Cuốn “Thiết kế bài giảng 12, tập II” của tác giả Nguyễn Văn Đường

 Hướng tiếp cận văn bản:

- Đọc hiểu qua hệ thống câu hỏi hướng dẫn trong sách giáo khoa trang 88

(câu 1, 2)

 Nội dung bài học: Bài học gồm 3 nội dung

- Nhân vật chị Hoài

- Diễn biến tâm lí của hai nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại.

- Suy nghĩ về truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam qua lễ cúng tất niên

ở gia đình ông Bằng.

 Phương pháp dạy học:

Sách “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II” của tác giả Nguyễn Văn

Đường nêu ra tiến trình tổ chức các hoạt động dạy – học như sau:

- Hoạt động 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Hoạt động 2: Hướng dẫn đọc hiểu chi tiết văn bản

+ Nhân vật chị Hoài

76

+ Diễn biến tâm lí của hai nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại.

+ Suy nghĩ về truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam qua lễ cúng tất niên

ở gia đình ông Bằng.

- Hoạt động 3: Hướng dẫn học bài và luyện tập

2.2.4.3. Định hướng dạy học tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”của luận văn

 Định hướng tiếp cận văn bản: Có thể nói đây là một cuốn truyện đặt ra

và giải quyết vấn đề: Gia đình Việt Nam đã biến đổi như thế nào trược sự biến

đổi của xã hội khi bước vào thời kì đổi mới.

Tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” có tất cả 20 chương. Đoạn trích

SGK Ngữ văn 12 thuộc chương II. Đoạn văn đưa chúng ta đến cảnh sinh hoạt

của một gia đình ở Hà Nội vào chiều ba mươi tết. Đây là khung cảnh ở một gia

đình vốn coi trọng tinh thần, đạo đức, vốn có một nền nếp gia giáo cổ truyền.

Từ cảnh sinh hoạt của gia đình này, thế hệ trẻ biết được những sắc thái tinh hoa

của truyền thống văn hóa dân tộc ta.

Qua đoạn trích sẽ giúp cho học sinh hiểu biết sâu sắc về những truyền thống

văn hóa của dân tộc Việt Nam, truyền thống đạo đức, truyền thống văn hóa tâm

linh, văn hóa ẩm thực, thuần phong mĩ tục… được biểu hiện cụ thể trong gia đình,

đặc biệt là sự bền vững của các quan hệ tình cảm gia đình và hiểu được đây là thời

kỳ “cuộc sống xây dựng đang có nhiều khó khăn, lắm bê bối”.

Từ những điều nói trên người làm luận văn chọn cách tiếp cận văn bản

từ ba yếu tố thuộc hình thức của truyện để dẫn dắt học sinh đến với nội dung

tác phẩm.

 Định hướng về nội dung bài học:

- Cốt truyện

- Nhân vật chị Hoài về ăn tết với gia đình ông Bằng

- Nét mới mẻ của Ma Văn Kháng qua tác phẩm.

1. Cốt truyện:

Cốt truyện của đoạn trích xoay quanh khung cảnh ở gia đình ông Bằng,

một gia đình được coi là nền nếp, luôn giữ gia pháp và gia phong nay trở nên

77

trao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài. Nhà văn Ma Văn

Kháng đã bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trược những

thay đổi của thời cuộc.

2. Nhân vật chị Hoài khi về ăn tết với gia đình ông Bằng và mâm cỗ tất niên.

- Chị Hoài không quên gia đình người chồng cũ của mình, sau chín năm

xa cách vì bận việc gia đình và xã hội ở một làng quê. Sau khi chồng hi sinh

ngoài mặt trận chị Hoài về quê tái giá, chị là chủ nhiệm hợp tác xã và đã có bốn

đứa con. Có vai trò, trọng trách như vậy với gia đình và xã hội vậy mà tết đến

chị Hoài vẫn giành thời gian để về ăn tết với gia đình ông Bằng. Điều đó chứng

tỏ ở trong con người chị vẫn rất đậm nét đạo lí truyền thống của dân tộc ta có

tình nghĩa, mặn mà, son sắt thủy chung với gia đình chồng cũ.

Chính vì vậy mà mọi người trong gia đình cụ Bằng luôn nhớ về chị. Ở

phía trước đoạn trích là cảnh tượng hai chị em dâu Lí – Phượng tíu tít nấu

nướng sửa soạn cho bữa cỗ tất niên, đều nói thành lời ước mơ của mình “ước

gì chị Hoài hiện ra ngay trước cổng bây giờ”…ai cũng vui mừng và cảm động

khôn xiết. Phượng thì reo to khi thấy chị Hoài: “Chị Hoài, chị Hoài lên, anh

Đông, chị Lí, anh Luận ơi!” Sự việc diễn ra quá ư đột ngột làm mọi người nhìn

thấy chị Hoài lên thật rồi mà vẫn còn ngơ ngác “Chị Hoài lên! Lên đúng chiều

30 tết! Thật ngoài sức tưởng tượng. Nghe chị Hoài hỏi han về từng người,

Phượng cúi mắt chớp chớp về một cảm kích bất ngờ. Người phụ nũ tưởng đã

cắt hết mối dây liên lạc với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và

cùng tham dự cuộc sống của gia đình này.” Chi tiết đó nói lên được tinh hoa

của văn hóa cổ truyền Việt Nam tình sâu nghĩa nặng như muối mặn gừng cay.

- Chị Hoài đã rời xa gia đình ông Bằng gần chục năm nhưng chị vẫn để lại

trong lòng bố chồng yêu mến, tin tưởng: “Ông viết thư cho tôi, ông kể hết, cả

chuyện cậu Cừ. Thế nên tôi mới sốt ruột, phải lên ngay. Tôi sợ ông buồn”. Và

tự đáy lòng, chị Hoài cũng rất quý trọng ông Bằng, quý trọng gia đình sống

nặng tình, nặng nghĩa của ông. Khi chị em trong nhà ra cổng tíu tít đón chị, câu

hỏi đầu tiên của chị là “Ông đâu”. Chị lại còn nhớ sở thích của ông trong ăn

uống “Cái giò thủ anh ấy gói đấy, ông thích ăn giò thủ lắm đấy, cô Lí ạ”…

78

Những chi tiết trên cho ta thấy một tình nghĩa cha con đậm đà, thiêng

liêng bền vững trong gia đình Việt Nam.

- Khi đến trước bàn thờ tổ tiên để cúng gia tiên: “Ông Bằng soát lại hàng

khuy áo, chỉnh lại cái cà vạt …chắp hai tay trược ngực…dâng lên trong ông

cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thuộc” và ở trong ông thầm vọng lên

những lời tri ân tổ tiên và những người đã khuất. Đó là những lời thầm kín trong

ông. Tiếng lòng đó được ông thể hiện thành những lời cầu khấn thành kính và run

rẩy trước bàn thờ: “Hôm nay ngày 30 tháng chạp năm Bính Tuất…” ông đã kể đủ

họ tên từng người đang đứng trước ban thờ. Mọi người trong gia đình đều thành

kính chắp tay trước ngực, dõi theo lời khẩn cầu của cha.

Đó là một phong tục tập quán có từ lâu đời của người Việt Nam. Dân ta vẫn

tin rằng tổ tiên và những người thân tuy đã mất nhưng linh hồn vẫn luôn bên họ.

Đây chính là nét đẹp trong văn hóa tâm linh rất truyền thống của dân tộc ta.

- Mâm cỗ tất niên trong gia đình ông Bằng đã nêu rõ một nét tinh hoa của

truyền thống văn hóa Việt Nam – Văn hóa ẩm thực. Dân tộc Việt Nam vốn có

những đòi hỏi riêng về phẩm chất người phụ nữ “công, dung, ngôn, hạnh”.

Những gia đình gia giáo ngày trước dựa vào bốn mặt trên để chọn con dâu và

con gái những gia đình nề nếp đều chú tâm tự tu dưỡng về bốn mặt ấy. Đó cũng

là một truyền thống văn hóa của dân tộc ta.

3. Những nét độc đáo về nghệ thuật của truyện “Mùa lá rụng trong vườn”

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật hết sức tinh tế và sắc sảo nhất là

nhân vật chị Hoài và ông Bằng trong buổi cúng tất niên chiều 30 tết. Từ đó thấy

được sự quan sát tinh nhạy của nhà văn về những biến động đổi thay trong tâm lí

của con người Việt Nam trước những “cơn địa chấn” tinh thần từ bên ngoài…

 Phương pháp dạy học;

Bằng một số hệ thống lời gợi dẫn người đọc sẽ tổ chức cho học sinh hoạt

động một cách đa dạng, đọc văn, tưởng tượng, suy nghĩ, phát hiện, bộc lộ… để

tự học sinh lĩnh hội những nội dung trên một cách đầy đủ.

79

Chương 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

Ở chương 1 luận văn đã làm sáng tỏ cở sở thực tiễn của phương pháp dạy

học các tác phẩm truyện thời đổi mới. Đến chương 2, luận văn đã đưa ra định

hướng dạy học 4 tác phẩm truyện được lựa chọn vào chương trình sách giáo

khoa Ngữ văn bậc trung học. Đến chương 3 này, luận văn sẽ trình bày quá trình

và kết quả thực nghiệm sư phạm mà người làm luận văn tiến hành để kiểm

chứng tính khả thi và tính đúng đắn của định hướng dạy học do luận văn đề

xuất. Nội dung chương 3 này gồm 2 mục:

- Thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa”

- Quá trình và kết quả dạy thực nghiệm bài học đó.

3.1. Thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở

lớp 12

A. Mục tiêu bài học

1. Giúp học sinh có ấn tượng sâu sắc về những chi tiết nghệ thuật về:

- Cuộc sống đói nghèo lam lũ, đầy những bi kịch của những người dân

chài vào những năm 70,80 của thế kỷ trước.

- Về sự tỉnh ngộ của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án tòa án Đẩu.

2. Biết được những điều nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua những

hình tượng nhân vật trong truyện và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh

Châu trong những sáng tác sau năm 1980.

B. Tiến trình bài học:

Hoạt động 1: Đọc văn bản và “Tiểu dẫn”

- Đọc diễn cảm toàn bộ văn bản trước, đọc “Tiểu dẫn” sau. Bởi vì, đọc

văn bản trước sẽ gây hứng thú bước đầu ở học sinh, tạo không khí cho giờ dạy

và sự tò mò của tuổi trẻ về người viết ra văn bản đó (ai mà viết hay thế?).

- Đọc “Tiểu dẫn” có hai cách: Mời một học sinh đọc to trước lớp hoặc

để cho học sinh cả lớp lặng lẽ đọc thầm, tạo thói quen tự học. Sau đó GV

80

hỏi: Qua phần “Tiểu dẫn” em biết được những gì về nhà văn Nguyễn Minh

Châu? Học sinh trả lời, giáo viên lắng nghe và nhấn mạnh: Nhà văn

Nguyễn Minh Châu là một trong số nhà văn “mở đường tinh anh và tài

năng của văn học nước ta thời kì đổi mới” (nhận định của nhà văn Nguyên

Ngọc trong lễ tang Nguyễn Minh Châu).

- Những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu trước 1975: Tiểu

thuyết “Cửa sông” (1967), tiểu thuyết “Dấu chân người lính” (1972)…

- Những tác phẩm nổi tiếng của ông sau năm 1980: Truyện ngắn“Bức

tranh” (1982), truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983),

tập truyện ngắn “Bến quê” (1985), truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”…

Hoạt động 2: Tìm hiểu bức tranh cuộc sống của những người dân chài

ven biển miền Trung vào những năm 80 của thế kỷ trước.

2.1. Cuộc sống đói nghèo, lam lũ, tăm tối

Gợi dẫn 1: Những chi tiết nghệ thuật nào trong văn bản cho ta biết

được cuộc sống đói nghèo lam lũ, tăm tối của những người dân chài ở ven

biển miền Trung vào những năm 80 của thế kỉ trước.

Yêu cầu: Học sinh tìm kiếm trên văn bản những đoạn văn kể và tả về vợ

chồng dân chài, về hình dạng bên ngoài của họ đã nói lên sự lam lũ, đói nghèo:

- “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn

bà ven biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt

mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái mắt và dường như đang buồn ngủ…”

- “Người đàn ông… Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc

thuyền, mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn,

hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng

nhìn dán vào lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của

người đàn bà” (trang 92).

 Học sinh cũng cần phát hiện thêm những chi tiết trong lời kể của người

đàn bà với hai “cán bộ cách mạng” về cuộc sống của những người dân chài

trước và sau năm 1975 (Năm giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc).

81

- “… Từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ Bắc

(mùa động biển) ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con

cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối,,.nghèo khổ, túng quẫn đi… cái lỗi

chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật…”(trang 96).

2.2. Những bi kịch trong gia đình dân chài

Gợi dẫn 2: Những người dân chài không chỉ làm ăn lam lũ, khó nhọc,

mà còn chịu bao bi kịch đau đớn: nạn bạo hành và sự tổn thương của tâm

hồn trẻ em. Chi tiết nào trong văn bản nói lên điều ấy?

Yêu cầu: - Học sinh tái hiện lại cảnh bạo hành diễn ra giữa hai vợ chồng

người hàng chài: “Một chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một

người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền…Hai người đi qua trước

mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại… Lão đàn

ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc dây

lưng của lính ngụy thời xưa… Chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa

cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà…

Người đàn bà với một vẻ đầy cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,

không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn…”(trang 92 - 93)

Hai đứa trẻ trong gia đình ấy, một cháu gái và một cháu trai đang ở tuổi

thiếu niên đã chứng kiến cảnh tượng bạo tàn ấy hàng ngày, tâm hồn của những

đứa trẻ ấy không thể không tổn thương. Không hiểu sau này lớn lên, những đứa

trẻ ấy sẽ thành người như thế nào? Câu chuyện đã làm dấy lên trong lòng người

đọc băn khoăn day dứt ấy.

2.3. Vẻ đẹp của tình mẹ con:

Gợi dẫn 3: Chi tiết nghệ thuật nào trong văn bản làm cho các em xúc

động về tình mẹ con.

Yêu cầu: Học sinh tái hiện lại chi tiết nghệ thuật ở cuối trang 93.

“Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng đã nằm trong tay thằng bé Phác,

không biết làm thế nào đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người

82

vung chiếc khóa sắt vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng… lõ đàn

ông… liền dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo

đảo ngã dúi xuống cát… Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau

đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Phác, con ôi! Miệng mếu

máo, người đàn bà ngồi sụp xuống trước mặt thằng bé, ôm chằm lấy nó rồi lại

buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này

vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang

xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, vài cái

thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn

lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.

Ngoài ra, nhà văn Nguyễn Minh Châu còn nói với chúng ta về những vẻ

đẹp ẩn chìm trong những con người lam lũ.

Hoạt động 3: Tìm hiểu câu chuyện về hai nhân vật Phùng và Đẩu

Gợi dẫn 4: Phùng và Đẩu là hai người lính cùng một đơn vị thời đánh

Mĩ. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975 họ trở về với cuộc sống đời thường.

Một người làm phóng viên nhiếp ảnh, một người làm chánh án ở “Cái phố

huyện vùng biển”. Chuyện gì đã làm cho “Một cái gì mới mở ra trong đầu”

của hai người? Chuyện gì đã làm cho hai người “mở mắt”?

Yêu cầu: Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp để bổ sung vào

bộ lịch một cảnh biển buổi sáng có sương. Anh đến một vùng đầm phá miền

Trung. Sau khoảng tuần lễ, anh đã chụp được một cảnh “đắt” “trời cho”. Giữa

“cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái cảnh đẹp tuyệt

đỉnh ở ngoại cảnh mang lại” thì anh đã chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình

tàn bạo. Điều đó khiến anh hết sức kinh ngạc và tỉnh ngộ. Chiếc thuyền nhìn từ

xa thì thật đẹp, vậy mà khi đến gần thì thật khủng khiếp. Vậy là nghệ sĩ không

được nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dài, mà phải nhìn vào những tầng sâu

của đời sống để không bỏ quên số phận con người.

83

 Phùng đã chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên

bờ biển. Sau đó, anh lại chứng kiến bà ta ứng xử trước tòa án của chánh án

Đẩu. Cả Phùng và Đẩu đều muốn bà ta thoát khỏi lão chồng vũ phu và tin rằng

bà ta sẽ chấp nhận bỏ chồng. Không ngờ bà ta lại nói “Con lạy quý tòa… quý

tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Cảnh

tượng đó đã làm cho hai cán bộ cách mạng kinh ngạc cao độ, “không thể hiểu

được” sự cam chịu lạ lùng ấy. Hai người lại càng ngạc nhiên hơn trước những

lời tâm sự của người đàn bà hàng chài thô kệch lam lũ. Sự sắc sảo, hiểu đời của

bà đã “mở mắt” cho Phùng và Đẩu. Hóa ra cuộc sống vốn đầy những nghịch lí

mà cái chin chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy được. Pháp luật công bằng

và lòng tốt vô tư không thể hóa giải được những nghịch lí ấy.

Hai người cũng đã tự nhận thức được về mình. Hóa ra, từ trước đến nay,

mình chỉ quen tư duy một chiều về cuộc đời, chỉ quen với cách nhìn cách nghĩ

quen thuộc, nên đã có những nhận thức hời hợt, nông cạn về cuộc sống, không

nhận ra vô vàn nghịch lí, ẩn khuất trong đời sống, những nghịch lí mà con

người phải chấp nhận khi lâm vào hoàn cảnh đói nghèo cùng cực…

Hoạt động 4: Tìm hiểu sự đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong những

sáng tác của ông sau năm 1980.

Gợi dẫn 5: Nguyễn Minh Châu được coi là nhà văn “Mở đường tinh

anh và tài năng của văn học nước ta thời đổi mới” vậy qua truyện ngắn này,

chúng ta biết được những gì về sự đổi mới của ông?

Yêu cầu: Trước những năm 1975, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu có

xu hướng miêu tả con người sử thi, con người cộng đồng, với bút pháp lãng

mạn (truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” là một ví dụ).

Từ năm 1980 “có thể nói thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu,

ẩn kín là một đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu”

(Trần Đình Sử – Báo “Văn nghệ” số 8 - 1987). Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền

ngoài xa” này, chúng ta thấy rõ đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách

84

Nguyễn Minh Châu. Ông đã thể nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu.

Điều đó thể hiện rõ sự quan sát, mô tả, nhận diện con người trong cuộc sống

riêng tư với những mảng tối còn khuất lấp của thân phận, tính cách con người.

Nhà văn đã khắc họa thật đặc sắc những nghịch lí mà con người phải chấp nhận

khi lâm vào hoàn cảnh đói nghèo cùng cực qua câu chuyện của vợ chồng gia

đình hàng chài. Qua hai nhân vật Phùng và Đẩu nhà văn đã nói với chúng ta: Nếu

nhìn cuộc sống bằng cái nhìn hời hợt và chủ quan duy ý chí thì không thể thấy hết

được bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Nếu cứ quen với tư duy một

chiều về cuộc đời thì làm sao thấu hiểu được bao nỗi đắng cay, xót xa, hờn tủi và

cả sự cao cả, độ lượng trong tâm hồn người đàn bà hàng chài lam lũ.

3.2. Quá trình và kết quả dạy thực nghiệm bài học

3.2.1. Mục đích thực nghiệm

- Kiểm chứng tính đúng đắn định hướng của luận văn về việc “Dạy các

tác phẩm truyện thời kì đổi mới trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc trung học

theo đặc trưng thể loại”.

- Kiểm chứng tính khả thi của thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” do

luận văn đề xuất.

3.2.2. Đối tượng, địa điểm, thời gian thực nghiệm

* Đối tượng thực nghiệm:

Học sinh lớp 12 đang học tại trường Văn hóa I – Bộ Công an – Tỉnh

Thái Nguyên.

* Địa điểm thực nghiệm:

Để thuận lợi cho việc đánh giá kết quả thực nghiệm, việc tổ chức thực nghiệm

được tiến hành ngay tại trường Văn hóa I – Bộ Công an – tỉnh Thái Nguyên.

* Thời gian thực nghiệm:

Thời gian thực nghiệm được tiến hành ngay ở tuần thứ 25 của học kỳ II.

(Năm học 2015 - 2016) theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào

tạo ban hành, đó là tiết 67,68.

85

Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm gồm:

- Bài thực nghiệm: 01

- Số tiết dạy: 02

- Số bài kiểm tra khảo sát: 01

Kết thúc giờ thực nghiệm giáo viên thu thập thông tin và kết quả. Sau đó

thống kê, xử lí các kết quả thu được từ thực nghiệm.

3.2.3. Kết quả thực nghiệm

 Tổ chức đánh giá hiệu quả giờ dạy (Qua một bài kiểm tra viết của

học sinh).

Nhằm đánh giá kết quả tiếp nhận của học sinh về tác phẩm, luận văn sử

dụng câu hỏi kiểm tra học sinh. Nội dung câu hỏi như sau;

Câu 1: Sau khi học xong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của cố nhà

văn Nguyễn Minh Châu, chi tiết nghệ thuật nào, nhân vật nào còn để lại ấn

tượng sâu sắc ở trong em?

Câu 2: Qua bài học về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” em có được

những hiểu biết gì về sự đổi mới trong những sáng tác của ông sau năm 1980?

 Kết quả bài làm của học sinh:

Luận văn căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá điểm sau đây để phân loại. Gồm

5 loại: Giỏi (điểm 9, 10); Khá (điểm 7,8); Trung bình (điểm 5,6); Yếu (điểm

3,4); Kém (điểm 0,1,2). Kết quả cụ thể như sau:

* Số liệu thu được 35 bài, trong đó:

- Loại Giỏi: Không

- Loại Khá: 10 bài

- Loại Trung bình: 23 bài

- Loại Yếu: 2 bài

- Loại kém: Không

* Nhận xét chung từ bài kiểm tra của học sinh:

Kết quả làm bài của học sinh cho thấy, mặc dù không có điểm giỏi nhưng

điểm khá và điểm trung bình chiếm phần lớn: 33 bài/ 35 bài (chiếm tỉ lệ

86

93,75%), điểm yếu có 2 bài (chiếm tỉ lệ 6,25%), không có bài điểm kém. Đặc

biệt từ những nhân vật trong truyện, các em đã bộc lộ rất đa dạng những cảm

nhận của riêng mình về tác phẩm, về phong cách nghệ thuật của nhà văn

Nguyên Minh Châu, cụ thể như sau:

1. Ấn tượng sâu sắc của học sinh về các chi tiết nghệ thuật và nhân vật

trong văn bản

- Em Vàng A Hồng đã đưa ra nhận xét: Qua truyện “Chiếc thuyền ngoài

xa” ta thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện rất độc đáo mang ý

nghĩa to lớn về đời sống của tác giả. Bởi vì qua cái nhìn và phát hiện của nghệ

sĩ Phùng về thiên nhiên và con người ở vùng biển giúp anh phát hiện ra chân lí

nghệ thuật, khám phá nhiều điều bí ẩn về đời sống và con người… Em ấn

tượng nhất là nhân vật người đàn bà hàng chài. Chỉ đơn giản là em thấy bà

giúp cho Đẩu và Phùng hiểu hơn về chính mình.

- Em Phùng Sinh Thành: Em ấn tượng về nghệ thuật xây dựng tình huống

truyện rất đọc đáo mang nhiều ý nghĩa về cuộc sống đời thực của tác giả

Nguyễn Minh Châu. Bởi vì qua sự phát hiện cái đẹp của nghệ sĩ Phùng và sự

thật ẩn sấu sau đấy đã giúp anh hiểu thêm về cuộc sống của người phụ nữ hàng

chài. Cũng như bao con người khác và hoàn thiện bản thân mình hơn.

- Em Nông Văn Nam: Tình huống truyện trong tác phẩm có ý nghĩa khám

phá, phát hiện về đời sống, nghệ sĩ Phùng đã có phát hiện về một cảnh “đắt”

trời cho của thiên nhiên và một cảnh oái oăm, ngang trái của gia đình hàng

chài. Anh đã phát hiện ra chân lí của nghệ thuật và khám phá được nhiều điều

bí ẩn của con người.

- Em Xa Đức Thành: Sau khi đọc xong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

chi tiết cuộc nói chuyện của người đàn bà hàng chài cùng Phùng và Đẩu đã để

lại ấn tượng sâu sắc trong em vì người đàn bà đã thể hiện sự hi sinh cao cả của

những người vợ, người mẹ có thể hi sinh cả cuộc đời để gia đình mình được ấm

no, hạnh phúc.

87

Với các nhân vật trong câu truyện các em cũng đã bộc lộ sự cảm nhận đầy

sâu sắc của mình:

- Em Vy Văn Khoa: Nhân vật nghệ sĩ Phùng để lại một ấn tượng sâu sắc

ở trong em. Mở đầu câu chuyện được miêu tả bằng cái nhìn của Phùng. Phùng

là một người yêu cái đẹp và luôn tìm kiếm cái đẹp. Nhưng sau cùng ông nhận

ra người nghệ sĩ không nên vội vàng đánh giá một điều gì từ cái nhìn một chiều

ở vẻ bề ngoài mà phải phát hiện ra bản chất thực phía sau vẻ bề ngoài đó.

- Em Phạm Văn Quý: Nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc với em sau khi đọc

“Chiếc thuyền ngoài xa” là thằng bé Phác, một nhân vật đặc biệt dù chỉ xuất

hiện thoáng chốc. Đó là một thằng bé làng chài, rám nắng. Hết lòng yêu

thương người mẹ vì đã có một tuổi thơ dữ dội với người bố khó tính đánh đập

mẹ dã man. Tính tình nóng nẩy, ngay thẳng và dũng cảm đấu tranh giải thoát

cơn đau cho mẹ đã dự đoán tương lai khác Phác là một con người ngay thẳng,

chính trực biết nhìn nhận đúng sai và lòng yêu thương mọi người.

Em Nguyễn Kim Loan “Người đàn bà hàng chài đã phải sống một cuộc

sống đầy khổ cực, khiến ai khi nhìn vào cũng đều phải sững sờ. Nhưng điều

khiến em nể phục nhất đó chính là ý trí nghị lực của người đàn bà này. Bà

không đổ lỗi hay trách móc bất cứ điều gì về chồng mình mà đều nhận tất cả

lỗi đều do mình”

2. Nhận biết của học sinh về đổi mới trong phong cách Nguyễn Minh

Châu sau 1980

- Em Giàng A Vảng: “Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, em hiểu

biết thêm về sự đổi mới trong những sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1980

đó là chủ đề sáng tác, đối tượng sáng tác và cảm hứng nghệ thuật. Nếu như

trước năm 1980 ông tập trung viết về cuộc sống cách mạng, chiến sĩ cách

mạng với vẻ đẹp hùng tráng và đầy thơ mộng thì sau 1980 ông chuyển sang lối

viết về hiện thực đời sống, đời thực của những người lính bình thường …”

88

- Em Hoàng Thị Bến Thùy: “Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, sau

năm 1980 mang đậm cảm hứng nhân văn. Các tác phẩm đã khắc họa tình yêu

cuộc sống và tình yêu con người trong thời đại bấy giờ”.

- Em Lô Thị Cẩm Uyên: “Sau năm 1980 em thấy những tác phẩm của

Nguyễn Minh Châu đã mang đậm được xu hướng nghệ thuật chung của nền

văn học thời kì đổi mới: Hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân

phận con người trong cuộc sống đời thường”.

- Em Nguyễn Triệu Trà My: “Sự đổi mới của Nguyễn Minh Châu không

chỉ ở một nội dung mà nó còn thể hiện ở sự đổi mới nghệ thuật, xu hướng nghệ

thuật đặc sắc với ngôn ngữ giản dị sâu sắc thắm đượm tình người”.

3.2.4. Kết luận chung về thực nghiệm

- Khi soạn thảo thiết kế bài học chúng tôi đã bám sát vào định hướng dạy

học đề ra, đồng thời bám sát vào yêu cầu kiến thức do Bộ giáo dục quy định.

- Khi soạn thảo thiết kế bài học chúng tôi đã tham khảo ý kiến của đồng

nghiệp và tiến hành dạy thực nghiệm.

Với kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi tin rằng định hướng dạy học

của luận văn có tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế dạy học trong trường

phổ thông.

Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi thấy:

- Đối với giáo viên:

+ Những hoạt động dự kiến trong thiết kế đều được giáo viên thực hiện

tốt, tạo hiệu qủa cho giờ học. Khi thực thi thiết kế giáo viên không gặp bất kỳ

trở ngại nào ở trên lớp học.

+ Thời gian dạy thực nghiệm trong thiết kế là 90 phút (2 tiết). Hoạt động

song phương của giáo viên và học sinh đều diễn ra nhịp nhàng. Giáo viên là

người hướng dẫn, tổ chức học sinh khám phá những giá trị của tác phẩm.

89

- Đối với học sinh:

Nhìn chung giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh chủ động, tích cực trong các

hoạt động đọc văn bản, tìm kiếm các chi tiết nghệ thuật, tái hiện và phân tích ý

nghĩa các chi tiết, khám phá chiều sâu tâm hồn các nhân vật…

Kết quả bài làm của học sinh cho thấy, các em đã hiểu giá trị nội dung và

nghệ thuật của tác phẩm, ấn tượng của từng em về tác phẩm có sự khác nhau.

Song đa số đều hiểu được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, đầy những bi kịch của

người dân chài vào những năm 70,80 của thế kỉ trước, về sự tỉnh ngộ của người

nghệ sĩ Phùng, của chánh án Đẩu và biết được những gửi gắm của Nguyễn

Minh Châu qua hình tượng nhân vật cũng như phong cách nghệ thuật của

Nguyễn Minh Châu sau 1980.

Giờ dạy học thực nghiệm đã cho thấy tính kết quả của việc nghiên cứu đề

tài “Dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới trong sách giao khoa bậc

trung học theo đặc trưng thể loại”

Tuy nhiên, với số lượng giờ thực nghiệm còn ít ỏi và chưa có điều kiện để

mở rộng địa bàn thực nghiệm nên chúng tôi vẫn chưa thực sự hài lòng với kết

quả đạt được. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi thêm theo hướng nghiên

cứu của đề tài.

90

KẾT LUẬN

1. Đề tài “Dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới trong sách giao

khoa bậc trung học theo đặc trưng thể loại” nhằm mục đích định hướng dạy

học các tác phẩm truyện về thời kì đổi mới trong sách giáo khoa trung học theo

đặc trưng thể loại. Từ đó, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm giúp cho học

sinh có thể nắm rõ và nắm vững những tác phẩm truyện của thời kì đổi mới

được đưa vào trong sách giáo khoa bậc trung học. Trên cơ sở đó, luận văn đã

đề xuất một phương án dạy học thể hiện qua một thiết kế bài học vừa có tính

khả thi vừa có tính hiệu quả.

2. Quá trình triển khai luận văn: Chúng tôi đã nghiên cứu lý thuyết,

khảo sát thực tiễn, thực nghiệm sư phạm và đã thu được những kết quả ban

đầu. Nghiên cứu lí luận về thể loại, đặc trưng thể loại truyện, về truyện ngắn

“Bến quê” của Nguyễn Minh Châu, “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh

Châu, “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải, tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong

vườn” của Ma Văn Kháng để làm cơ sở cho đề xuất dạy học tác phẩm trên,

trong nhà trường phổ thông để làm cơ sở cho dạy học tác phẩm theo đúng đặc

trưng thể loại (Chương I). Luận văn cũng đã đề xuất định hướng học sinh tiếp

cận văn bản truyện từ ba yêu tố hình thức của thể loại: Cốt truyện, nhân vật, lối

kể để từ đó học sinh biết được sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, vừa biết được ý

đồ của tác giả gửi gắm trong tác phẩm (chương II). Cuối cùng luận văn thiết kế

bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu và tiến hành dạy thực

nghiệm cho học sinh trường Văn Hóa I – Bộ công an để kiểm tra tính khả thi

của phương án dạy học và luận văn đề xuất (chương III).

3. Người thực hiện luận văn đã cố gắng kế thừa những công trình khoa

học và những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước. Song quả thực

đây là một vấn đề khó đối với việc nghiên cứu những văn bản tác phẩm truyện

về thời kỳ đổi mới. Vì ý nghĩa của tác phẩm mang tính đa chiều, học sinh chưa

có sự chủ động để tiếp nhận những giá trị ý nghĩa đó. Vì vậy người thực hiện

91

luận văn hy vọng đây sẽ là một gợi ý giúp cho bạn bè đồng nghiệp có thể tham

khảo nhằm đạt kết quả cao hơn trong việc dạy các tác phẩm truyện thời kì đổi

mới nói riêng của dạy học các tác phẩm truyện nói chung.

4. Cuối cùng, trong quá trình nghiên cứu đề tài sẽ khó tránh khỏi những

mặt hạn chế và người thực hiện luận văn rất mong nhận được những ý kiến

đóng góp chân thành, sâu sắc của các giáo sư, tiến sĩ, bạn bè đồng nghiệp để đề

tài được hoàn thiện hơn và thực sự là một giải pháp trong việc dạy học các tác

phẩm truyện thời kì đổi mới.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kỹ năng môn

Ngữ văn lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Sách giáo viên Ngữ văn 9, tập 1, tập 2,

NXB Giáo dục Việt Nam.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Sách giáo viên Ngữ văn nâng cao 12, tập 1,

tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1, tập 2,

NXB Giáo dục Việt Nam.

5. “Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn 12” (2008),

Bộ giáo dục – Đào tạo.

6. Hoàng Hữu Bội (2008), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12,NXB Giáo dục (2008).

7. Hoàng Hữu Bội (2003), Thiết kế dạy học Ngữ văn 9 theo hướng tích

hợp,NXB Giáo dục (2006).

8. Lương Duy Cán (2009), Rèn luyện kỹ năng làm văn 12, NXB Giáo dục.

9. Lê Nguyên Cẩn (2009), Tư liệu Ngữ văn 12, NXB Giáo dục.

10. Nguyễn Minh Châu (2005) “Dấu chân người lính”, NXB công an nhân dân.

11. Nguyễn Minh Châu, Tiểu thuyết “Dấu chân người lính” (1978), NXB Văn học.

12. Nguyễn Minh Châu (1984) “Mảnh trăng cuối rừng”, NXB văn học

13. Nguyễn Minh Châu (1987) “Chiếc thuyền ngoài xa”, NXB Tác phẩm mới,

Hội nhà văn Việt Nam

14. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo

thể loại,NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Nguyễn Khắc Đàm, Nguyễn Lê Huân (2008), “Giới thiệu giáo án Ngữ văn

12”, tập 2, NXB Hà Nội.

16. Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Nhi Mai (1971), Vấn đề giảng dạy các

tác phẩm văn chương theo thể loại, NXB Giáo dục.

93

17. Nguyễn Văn Đường (2013), “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, tập 1, tập 2”,

NXB Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Đường (2013), “Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 1, tập 2”,

NXB Hà Nội.

19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1988), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

20. Nguyễn Thanh Hùng (Bài giảng chuyên đề SĐH) “Năng lực đọc, hiểu tác

phẩm văn chương của học sinh THPT”.

21. Ma Văn Kháng (1995), “Đám cưới không có giấy giá thú”, NXB Văn học

22. Ma Văn Kháng (2007), “Mùa lá rụng trong vườn”, NXB Lao động

23. Nguyễn Khải (1995) “Hà Nội trong mắt tôi”, NXB Hà Nội.

24. Lê Minh Khuê, “Truyện ngắn chọn lọc” (2002), NXB Phụ nữ

25. Nguyễn Văn Long, chủ biên (2010), “Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại

tập 2”, NXB Đại học Sư phạm.

26. Phan Trọng Luận, chủ biên (2010), “Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng

ngôn ngữ văn lớp 12”, NXB Đại học Sư phạm

27. Phan Trọng Luận, tổng chủ biên ( 2008), “Sách giáo khoa Ngữ văn tập 1,

tập 2”, NXB Giáo dục.

28. Phan Trọng Luận, chủ biên (2010), “Thiết kế bài học Ngữ văn tập 2”, NXB

Giáo dục Việt Nam.

29. Phương Lựu (Chủ biên) (2003) Lí luận văn học, NXB Giáo dục

30. Nguyễn Đăng Mạnh, chủ biên (2002), “Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3”,

NXB Đại học Sư phạm.

31. Nguyễn Đăng Mạnh (1995) “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn”, NXB Giáo dục.

32. Đào Thủy Nguyên, “Đề cương bài giảng văn học Việt Nam hiện đại”, (Tài

liệu lưu hành nội bộ)

33. Nguyễn Kim Phong, chủ biên (2009), Kĩ năng đọc hiểu văn bản Ngữ văn

12, NXB Giáo dục.

94

34. Nguyễn Huy Quát – Hoàng Hữu Bội (2001), “Một số vấn đề về phương

pháp dạy học văn trong nhà trường”, NXB Giáo dục.

35. Trần Đình Sử (1990), “Bàn thêm về tiếp nhận văn học”, Báo văn nghệ (số 42).

36. Trần Đình Sử (2008), “Cần thay đổi nhận thức về dạy và học văn”, Tạp chí

giáo dục và thời đại (số 18)

95