ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN

DẠY - HỌC CÁC BÀI THƠ THUỘC VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 11 THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ CHO HỌC SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN

DẠY - HỌC CÁC BÀI THƠ THUỘC VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 11 THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ CHO HỌC SINH

Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội. Các nội dung nghiên cứu, kết

quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ

hình thức nào.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Chuyên

XÁC NHẬN CỦA KHOA CHUYÊN MÔN XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

i

TS. Hoàng Hữu Bội

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa, em

đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,

khoa Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Đặc

biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm

ơn TS. Hoàng Hữu Bội - Người đã hết lòng tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em

trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp đã giúp

đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi, hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt

quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em,

động viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường.

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 10 tháng 9 năm 2017

Tác giả luận văn

ii

Nguyễn Thị Hồng Chuyên

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC VIẾT TẮT .................................................................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3

2.1. Tình hình nghiên cứu dạy học thơ trữ tình trung đại Việt Nam..................... 3

2.2. Tình hình nghiên cứu dạy - học thơ trung đại Việt Nam theo hướng phát

triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh ..................................................... 5

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 10

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10

5.1. Phương pháp nghiên lí thuyết ..................................................................... 10

5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ............................................................. 10

6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 11

NỘI DUNG ....................................................................................................... 12

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI...... 12

1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................... 12

1.1.1. Lý thuyết về tiếp nhận thẩm mỹ .............................................................. 12

1.1.2. Dạy đọc hiểu văn bản văn chương theo hướng phát triển năng lực cảm

thụ thẩm mỹ cho học sinh .................................................................................. 14

1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 19

1.2.1. Đặc điểm các bài thơ thuộc Văn học Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa

iii

Ngữ văn 11, tập 1................................................................................................. 19

1.2.2. Giáo viên với việc dạy học thơ Trung đại Việt Nam ở sách giáo khoa

Ngữ văn 11, tập 1 ............................................................................................... 23

1.2.3. Học sinh lớp 11 với việc cảm thụ thơ trữ tình trung đại Việt Nam đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 ........................................... 27

Chương 2 ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ THUỘC VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11

THEO HƯỚNG HÌNH THÀNH NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ

CHO HS ............................................................................................................ 36

2.1. Định hướng chung ...................................................................................... 36

2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ ............................................................ 37

2.2.1. Về bài thơ Tự tình (Bài II) của Hồ Xuân Hương .................................... 37

2.2.2. Về bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến .................. 40

2.2.3. Về bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương ............................................. 43

2.2.4. Về bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ ........................... 48

2.2.5. Về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Sa hành đoản ca) của Cao Bá Quát ......... 54

Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM........................................................ 59

3.1. Dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến .............................. 59

3.1.1. Phương án dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến của sách

giáo viên (Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD, 2007, GS. Phan Trọng Luận tổng chủ

biên). .................................................................................................................. 59

3.1.2. Định hướng dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến do luận

văn đề xuất ......................................................................................................... 63

3.2. Dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương ....................................... 67

3.2.1. Phương án dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương trong sách giáo

viên (Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD,2007, GS Phan Trọng Luận tổng chủ biên) ... 67

3.2.2. Định hướng dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương do luận văn

đề xuất ................................................................................................................ 72

iv

3.3. Dạy học thực nghiệm đối chứng bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương ...... 85

3.3.1. Mục đích .................................................................................................. 85

3.3.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 85

3.3.3. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 85

3.3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm ....................................................... 86

3.3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................. 87

3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 89

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 94

v

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 98

DANH MỤC VIẾT TẮT

GD : Giáo dục

Gs : Giáo sư

GV : Giáo viên

HS : Học sinh

NL : Năng lực

NXB : Nhà xuất bản

SGK : Sách giáo khoa

T.S : Tiến sĩ

iv

THPT : Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 ........................................ 28

Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

v

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 của HS THPT ................ 32

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong quan niệm và phương pháp dạy học của hệ thống giáo dục lâu đời ở

nước ta, bộ môn Ngữ văn luôn chiếm một vị trí quan trọng. Bởi nó không chỉ là

một bộ môn khoa học xã hội với nguồn kiến thức đa dạng, phong phú về đời

sống, xã hội, văn hóa, lịch sử, nghệ thuật... trong nước và quốc tế mà còn có ý

nghĩa, vai trò to lớn trong giáo dục nhân cách đạo đức con người.

Giáo dục phổ thông nước ta hiện nay đang thực hiện bước chuyển từ

chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học.

Do vậy, phương pháp dạy học cũng phải chuyển từ lối truyền thụ một chiều

sang lối dạy cách học, cách vận dụng kiến thức vào thực tiễn để hình thành ở

học sinh (HS) năng lực và phẩm chất.

Vấn đề dạy học Ngữ văn nhằm phát triển năng lực HS đã được các nhà

giáo dục bàn đến từ lâu. Trong cuốn Những bài giảng văn ở đại học,1982, GS

Lê Trí Viễn đã viết: "Giảng văn tốt phải nhằm góp phần đào tạo con người

theo mục tiêu cải cách giáo dục. Môn Văn có lợi thế để giáo dục tư tưởng, tình

cảm, giáo dục cái đẹp, đặc biệt rèn luyện óc thông minh sáng tạo" [47].

Ngữ Văn là một trong các môn học bắt buộc trong chương trình học của

HS. Học văn - cảm thụ tác phẩm là cả một quá trình tìm tòi, khám phá tiếp

cận với tác phẩm mới hiểu được giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật.

Để tiếp cận một tác phẩm văn học có rất nhiều phương pháp như thuyết trình,

phát vấn, đàm thoại… Để nền giáo dục nước nhà phát triển và theo kịp các

nước tiên tiến trên thế giới, Bộ Giáo dục thường xuyên có chủ trương đổi mới

phương pháp dạy học. Những năm gần đây, vấn đề dạy học phát triển NL cho

HS đã được xác định cụ thể hơn, đặc biệt là môn học Ngữ văn, ngoài những

NL chung cần thiết qua quá trình dạy học thì dạy học Ngữ văn còn nhằm phát

1

triển NL thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ ở HS. Năng lư ̣c cảm thụ thẩm mĩ thể hiê ̣n khả năng củ a mỗi cá nhân trong viê ̣c nhâ ̣n ra đươ ̣c các giá

tri ̣ thẩm mĩ củ a sự vâ ̣t, hiê ̣n tươ ̣ng, con ngườ i và cuô ̣c số ng, thông qua những cảm nhâ ̣n, rung đô ̣ng trướ c cái đe ̣p và cái thiê ̣n, từ đó biết hướ ng những suy nghĩ, hành vi củ a mình theo cái đe ̣p, cái thiê ̣n… Dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS là cách dạy mới mà chúng ta đang áp dụng hiện nay

chúng tôi thấy khá hiệu quả.

Trong thời điểm này, giáo dục không chỉ giữ vai trò cung cấp kiến thức

cho người học mà cần giúp người học hình thành và phát triển các năng lực cần

thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Như vậy, giáo dục đã trở thành

xu thế tất yếu. Với mục tiêu chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến

thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, việc dạy học

Ngữ văn ở trường phổ thông vừa góp phần giúp HS có khả năng tự sử dụng

thuần thục kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề của thực tiễn, vừa làm công

cụ để tư duy, tìm tòi và sáng tạo trong cuộc sống.

Chúng tôi muốn thực thi lối dạy học hình thành năng lực và phẩm chất cho

HS vào dạy học cụ thể những bài thơ có trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn

11 tập 1 để mong có thể rút ra được một điều gì đó cho phương pháp dạy học

thơ theo định hướng mới của chương trình. Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài: Dạy

học các bài thơ thuộc văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn lớp 11 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh để

nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả dạy, học môn Ngữ văn ở trường trung học

phổ thông (THPT).

1.2. Thực tiễn dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy học thơ nói riêng trong

nhà trường THPT Việt Nam lâu nay vẫn dạy theo hướng truyền thụ kiến thức

và kĩ năng là chủ yếu, chưa thật sự coi trọng việc dạy thơ để hình thành ở HS

năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Khi thực thi phương pháp dạy học thơ theo hướng

mới này chắc chắn giáo viên và học sinh sẽ không tránh khỏi những khó khăn.

Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này với hi vọng phát hiện ra những

2

khó khăn đó cùng với những giải pháp để khắc phục.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình nghiên cứu dạy học thơ trữ tình trung đại Việt Nam

Văn học trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là một

trong những giai đoạn hình thành và phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam.

Trong chương trình văn học phổ thông, văn học trung đại đưa vào giảng dạy và

học tập chiếm một phần không nhỏ. Chính vì vậy việc dạy học thơ trữ tình trung

đại Việt Nam sao cho có hiệu quả đang là mục tiêu phấn đấu của hầu hết các

giáo viên đang giảng dạy trong nhà trường phổ thông.

Đã có nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu đến vấn đề dạy học thơ cổ, có

thể kể đến những công trình và tài liệu của các tác giả sau:

Tác giả Phạm Luận và Hoàng Hữu Bội trong cuốn Dạy và học thơ cổ

ở trường phổ thông cấp 2 và cấp 3 miền núi đã cho rằng: “Muốn hiểu thơ cổ,

trước tiên phải hiểu nghĩa của từ cổ” [51]. Theo các tác giả, để lĩnh hội nghĩa

ngôn từ thơ cổ, người học cần phải chú ý tới các vấn đề: phải tích lũy cho mình

vốn từ phong phú, đa dạng, có tri thức về những cách dùng từ trong thơ cổ.

Ngoài việc nắm vững nghĩa của từ, các tác giả lưu ý trong dạy học thơ cổ

phải chú ý đến nhịp điệu trong thơ. Người viết chỉ rõ: “thơ trữ tình tiết tấu có

chức năng quan trọng, thơ có thể bỏ vần, bỏ đối, bỏ quan hệ đầu đàn về số chữ,

nhưng tiết tấu thì không thể bỏ được”[51] bởi trong thơ trữ tình nhịp thể hiện

những diễn biến của trạng thái tâm hồn.

Trong công trình này, các tác giả đã cung cấp những tri thức cần thiết giúp

những người dạy học văn có thêm kiến thức về thơ cổ.

Theo tác giả Nguyễn Sĩ Cẩn, dạy học thơ cổ phải xuất phát từ kết cấu,

xuất phát từ ngôn ngữ thơ Đường và phải xuất phát từ đặc điểm tổng hợp trong

thơ cổ.

Trong hướng xuất phát từ kết cấu, tác giả cho rằng: “Với thơ Đường luật

nên áp dụng theo phương pháp bổ ngang dựa theo kết cấu mà phân tích” [49].

Ở hướng xuất phát từ ngôn ngữ thơ Đường luật tác giả chỉ rõ: “Thơ xưa

3

hàm súc nên việc nghiên cứu và giảng dạy cần coi trọng khai thác từng tiếng,

từng từ” [51]. Riêng điểm xuất phát từ đặc trưng thẩm mỹ có tính tổng hợp trong

thơ cổ thì: “Việc đọc phải được coi trọng đúng mức”[51].

Đây là công trình mà tác giả đã giải quyết vấn đề trên cả hai bình diện: lý

luận và thực tiễn khá triệt để và sâu sắc. Về mặt lý thuyết tác giả đã trình bày

một số đặc điểm thẩm mỹ của thơ văn cổ. Về thực tiễn, đã có những đề xuất về

phương pháp dạy học văn cổ khá chi tiết. Qua công trình này, tác giả đã góp một

phần lớn cho việc giảng dạy văn học cổ nói chung.

Tuy nhiên, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu việc dạy thơ văn nói chung, còn

mảng trữ tình chưa được tách riêng để nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết.

Gs. Nguyễn Thanh Hùng trong bài Tác phẩm trữ tình và phương pháp

giảng dạy đã khẳng định vị trí của thể loại trữ tình trong lịch sử, bản chất, khả

năng tác động và đặc trưng riêng của thể loại trữ tình. Từ đó, tác giả nêu ra

những kết luận về phương pháp: “Cần phải lưu ý đặc biệt đến nhà thơ – tác giả

khi dạy tác phẩm trữ tình và cần phải quan tâm đến bình diện diễn đạt ngôn ngữ

nghệ thuật [50].

Theo tác giả, tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích hướng

HS vào những vấn đề như: làm thế nào để thông qua chủ thể trữ tình, người đọc

lĩnh hội, nếm trải “hiện thực xã hội”, làm thế nào để HS hiểu được “hiện thực

nghệ thuật” của tác phẩm.

Như vậy, tác giả đã đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ tình gắn với đặc

trưng thể loại của tác phẩm, song chưa đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ tình

trung đại Việt Nam một cách cụ thể.

Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại của nhóm

tác giả Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia

Cẩn có bài viết Thơ và giảng dạy thơ tác giả Trần Thanh Đạm đã đề cập đến

đặc điểm của thơ. Trong phần Đi tìm đặc trưng của thơ ông viết: "Thơ là một

hiện tượng phong phú, phức tạp, thơ có một hàm nghĩa rất rộng. Người ta

4

thường xác định vị trí của thơ bằng cách phân ranh giới giữa thơ và văn xuôi.

Sự phân biệt này cũng có chỗ khó. Bởi vì có văn xuôi giàu chất thơ và có cả thơ

bằng văn xuôi" [10, tr.35].

Về việc giảng dạy thơ, tác giả Trần Thanh Đạm cũng nêu rõ: Xác định

đặc trưng chủ yếu của thơ có ý nghĩa về mặt phương pháp giảng dạy và học tập

thơ trong nhà trường. Trước hết cần nhận thấy tác dụng lớn lao của thơ đối với

việc giáo dục con người. Hiện nay ở trường phổ thông, ta thấy có hiện tượng

các em HS còn thờ ơ, lãnh đạm với thơ. Các em còn ít hiểu, ít yêu thơ. Giáo

viên thì còn băn khoăn về phương pháp dạy thơ, nghĩa là băn khoăn tìm ra con

đường làm cho các em hiểu và yêu thơ. Thầy giáo có hiểu thơ, yêu thơ mới làm

cho HS hiểu thơ, yêu thơ được. Từ sự hiểu biết sẽ sinh ra tình yêu.

Xuất phát từ đặc trưng của thơ, người thầy phải biết hé ra cho HS thấy

thế giới tư tưởng, tình cảm, sự sống chứa đựng trong hình tượng ngôn ngữ lắng

đọng và ngân vang của những bài thơ. Cùng với giọng đọc, lời giảng của giáo

viên sẽ dẫn đường cho thơ đi vào tâm hồn của HS. Mỗi một bài thơ có một nội

dung và nghệ thuật độc đáo, đòi hỏi một lời giảng, cách giảng riêng, thích hợp

với nó. Không có lời giảng, cách giảng nào phổ biến, áp dụng cho mọi bài thơ.

Nắm được đặc trưng của thơ, chúng ta sẽ có phương hướng chung để đi vào

nắm được quy luật chung, tìm ra phương pháp cơ bản của việc giảng dạy thơ.

2.2. Tình hình nghiên cứu dạy - học thơ trung đại Việt Nam theo hướng phát

triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh

Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo

định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT do Bộ

Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 cũng đã nêu ra lý thuyết về dạy học

vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay đó là thuyết kiến tạo của J.

Bruner và định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực

HS và tiến trình của việc dạy học theo thuyết kiến tạo.

Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là: con người kiến tạo những sự hiểu

5

biết và tri thức về thế giới thông qua trải nghiệm và phản ánh… Trong mô hình

kiến tạo, HS được tạo cơ hội để hoạt động trong tiến trình học tập của mình.

Giáo viên đóng vai trò như là người cố vấn, giúp HS phát triển và đánh giá

những hiểu biết về việc học tập của các em, một công việc lớn nhất của GV khi

vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học là biết cách “hỏi những câu hỏi tốt”.

Tiến trình của dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:

Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của HS

Bước 2: Tổ chức điều khiển HS thảo luận

Bước 3: Tổ chức điều khiển HS vận dụng kiến thức

Theo tinh thần trên, tài liệu cũng đưa ra việc thiết kế bài học trong tài

liệu hướng dẫn theo mô hình trường học mới VNEN. Theo mô hình VNEN,

thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức hoạt động cho HS theo

5 bước, bao gồm:

Bước 1: Hoạt động trải nghiệm

Bước 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới

Bước 3: Hoạt động thực hành

Bước 4: Hoạt động ứng dụng

Bước 5: Hoạt động bổ sung

Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau theo một hệ thống gồm các hoạt động cá nhân và hoặc hoạt động nhóm;

hoạt động của GV và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình học tập được xây

dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể.

Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cho

HS cấp THPT trên là một hướng đi mới. Tham khảo định hướng này là một việc

làm cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.

Ts. Nguyễn Thị Hồng Vân (Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông –

Hoàng Hòa Bình chủ biên) trong bài “Phát triển năng lực cảm xúc cho HS phổ

thông qua dạy học tác phẩm văn học” đã nêu rõ về cảm xúc thẩm mỹ và các năng

lực cảm xúc và các biểu hiện của năng lực cảm xúc: Nhận thức được các cảm xúc

6

của bản thân; Làm chủ các cảm xúc của bản thân; Nhận biết các cảm xúc của

người khác và những biểu hiện của cuộc sống từ phương diện thẩm mỹ; Làm

chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống;...

Phát triển năng lực cảm xúc qua dạy học tác phẩm văn học trong nhà

trường phổ thông tác giả cũng nhấn mạnh: “Gắn với nội dung về văn học, mạch

kỹ năng đọc cũng nhấn mạnh đến nội dung dạy đọc hiểu ý nghĩa của từ, câu,

hình ảnh, giá trị nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mỹ của văn bản văn học.Đây chính là

yếu tố để hình thành nên năng lực cảm xúc…”. Cùng với đó, tác giả đã đưa ra

một số biện pháp nhằm phát triển năng lực cảm xúc cho HS qua dạy học tác

phẩm văn học: Đọc diễn cảm văn bản tác phẩm; Khơi gợi liên tưởng, tưởng

tượng trong việc phân tích, khám phá hình tượng thẩm mỹ của tác phẩm; Tạo

cơ hội, tình huống để HS được trải nghiệm trong việc đọc tác phẩm văn

chương; Đa dạng hóa phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá giúp HS

phát huy năng lực cảm xúc, khả năng sáng tạo trong cảm thụ tác phẩm văn học.

Theo tác giả, tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích hướng HS

phát triển năng lực cảm xúc cho HS phổ thông qua dạy học tác phẩm văn học,

tuy nhiên, tác giả chưa đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ tình trung đại Việt

Nam một cách cụ thể.

Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại của nhóm

tác giả Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia

Cẩn có bài viết Thơ và giảng dạy thơ tác giả Trần Thanh Đạm đã đề cập đến

đặc điểm của thơ. Trong phần Đi tìm đặc trưng của thơ ông viết: "Thơ là một

hiện tượng phong phú, phức tạp, thơ có một hàm nghĩa rất rộng. Người ta

thường xác định vị trí của thơ bằng cách phân ranh giới giữa thơ và văn xuôi.

Sự phân biệt này cũng có chỗ khó. Bởi vì có văn xuôi giàu chất thơ và có cả thơ

bằng văn xuôi" [10, tr.35].

Về việc giảng dạy thơ, tác giả Trần Thanh Đạm cũng nêu rõ: Xác định

đặc trưng chủ yếu của thơ có ý nghĩa về mặt phương pháp giảng dạy và học tập

7

thơ trong nhà trường. Trước hết cần nhận thấy tác dụng lớn lao của thơ đối với

việc giáo dục con người. Hiện nay ở trường phổ thông, ta thấy có hiện tượng

các em HS còn thờ ơ, lãnh đạm với thơ. Các em còn ít hiểu, ít yêu thơ. Giáo

viên thì còn băn khoăn về phương pháp dạy thơ, nghĩa là băn khoăn tìm ra con

đường làm cho các em hiểu và yêu thơ. Thầy giáo có hiểu thơ, yêu thơ mới làm

cho HS hiểu thơ, yêu thơ được. Từ sự hiểu biết sẽ sinh ra tình yêu.

Xuất phát từ đặc trưng của thơ, người thầy phải biết hé ra cho HS thấy

thế giới tư tưởng, tình cảm, sự sống chứa đựng trong hình tượng ngôn ngữ lắng

đọng và ngân vang của những bài thơ. Cùng với giọng đọc, lời giảng của giáo

viên sẽ dẫn đường cho thơ đi vào tâm hồn của HS. Mỗi một bài thơ có một nội

dung và nghệ thuật độc đáo, đòi hỏi một lời giảng, cách giảng riêng, thích hợp

với nó. Không có lời giảng, cách giảng nào phổ biến, áp dụng cho mọi bài thơ.

Nắm được đặc trưng của thơ, chúng ta sẽ có phương hướng chung để đi vào

nắm được quy luật chung, tìm ra phương pháp cơ bản của việc giảng dạy thơ.

GS. Lê Trí Viễn (Những vấn đề bài giảng văn ở Đại học - NXB GD,

H.1982) thì cho rằng: Giảng văn tốt cũng như dạy bất cứ môn gì tốt phải nhằm

góp phần đào tạo con người theo mục tiêu cải cách giáo dục với chức năng của

mình. Hơn bất kỳ môn học nào thì môn Ngữ văn có lợi thế để giáo dục tư tưởng,

tình cảm, giáo dục cái đẹp, đặc biệt là rèn luyện óc thông minh sáng tạo. Giảng

văn là một cơ hội có một không hai để rèn luyện cho HS óc thông minh sáng tạo

ấy. Văn thơ là sự sống đã đọng lại im lìm trong chữ nghĩa. Tìm hiểu và cảm thụ là

dựng lại sự sống ấy. Chỗ nào cũng là phát hiện, suy nghĩ, xúc cảm, chỗ nào cũng

là vận dụng óc thông minh để tái tạo, mà tái tạo là một hình thái sáng tạo [47].

Giảng văn không chỉ là phát huy trí lực, không chỉ kêu gọi những tính

năng của trí tuệ mà là cả con người. Bởi lẽ, giảng văn không chỉ là phán đoán,

suy luận, phân tích, tổng hợp, tưởng tượng tái tạo và sáng tạo, mà còn là lắng

mình nghe cho được nhịp đập của sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim

mình rung cảm trở lại cái rung cảm của tác giả, cũng vui buồn, căm giận,

thương nhớ, chờ đợi, nâng mình lên, xúc cảm với cái đẹp trong hình tượng thơ

8

văn, nghe nhạc mà thấy mùi hương, nghe tiếng động mà cảm thấy tĩnh mịch,

thấy bóng đèn mà bóng tối hóa thâm u… Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của

thơ văn bằng cả con người thông minh, nhạy cảm tinh vi của mình.

Tác giả cũng cho rằng: đã dạy văn thơ hay là phải dạy được những cái

đó, nói rõ hơn, phải từng bước rèn luyện được cho HS những cái trên. Được

như vậy mới gọi là dạy văn, mới giáo dục được tư tưởng, tình cảm, đạo đức,

thẩm mỹ bằng văn thơ. Như vậy là dạy được cái hay, dạy hay là đạt yêu cầu tối

đa của giảng văn tốt.

Cũng theo GS. Lê Trí Viễn (Đến với bài thơ hay - NXB GD, H.2004),

“Cảm thụ văn học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ có tính đặc thù. Nó vừa có tính

chủ quan vừa có tính khách quan. Nó là một hoạt động tích cực và sáng tạo của chủ

thể cảm thụ. Nó huy động nhiều năng lực bên trong của con người. Nó đặt yêu cầu

là phải đi tới sự cảm xúc hóa nội dung cảm thụ. Nó cũng đòi hỏi con người vượt

giới hạn của mình để thật sự đạt khoái cảm thẩm mỹ, vô tư” [48, tr.31].

GS cũng cho rằng, đối với người đọc thơ, quá trình từ tri giác ngôn ngữ,

vận dụng vốn sống để liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc, suy tưởng đến khái

quát lên vấn đề của cuộc sống từ tác phẩm là cần nhưng chưa đủ. Phát hiện ra

cái hay nằm ở chỗ nào, vì sao mà hay thì cần phải có một sự lóe sáng, một sự

bùng nổ trong tâm lý cảm thụ…

Việc dạy học văn thơ trung đại nói chung và thơ trung đại nói riêng đã

được các nhà nghiên cứu và nhiều giáo viên quan tâm. Các tác giả trong các

công trình nghiên cứu đã đóng góp những kiến thức bổ ích giúp người giáo

viên vận dụng, cảm thụ, giảng dạy thơ cổ một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên,

vấn đề làm thế nào để phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS trong dạy

học thơ cổ chưa được bàn kỹ. Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn đi sâu vào

việc dạy – học một số bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam theo hướng phát triển

năng lực thẩm mỹ cho HS qua một số bài thơ trung đại Việt Nam cụ thể trong

SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1.

3. Mục đích nghiên cứu

- Tìm ra cách thức dạy học các bài thơ thuộc văn học Trung đại Việt

9

Nam ở lớp 11 theo hướng hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Phương hướng và cách thức dạy học các bài thơ thuộc văn học Trung

đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn lớp 11 theo hướng phát triển năng lực cảm

thụ thẩm mỹ cho HS.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu sau:

5.1. Phương pháp nghiên lí thuyết

- Phương pháp hồi cứu tư liệu: Chúng tôi đã sử dụng phương pháp này để

nghiên cứu các tài liệu trước đó có đề cập đến nhằm nghiên ứu lịch sử vấn đề

và cơ sở lí luận của đề tài

- Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xin ý kiến

chuyên gia về phương pháp dạy học Văn và chuyên gia giáo dục ở trường phổ

thông về thực trạng và định hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ cho học

sinh trong dạy học thơ trung đại.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để

phân tích các kết quả đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và

tổng hợp đánh giá, đề xuất về định hướng Dạy học bài thơ Thương vợ (SGK

Ngữ văn 11, tập 1) theo chương theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm

mỹ cho học sinh. Phân tích kết quả thực nghiệm để đánh giá tính khả thi của

những đề xuất khoa học trong đề tài.

- Phương pháp so sánh đối chiếu: So sánh, đối chiếu kết quả khảo sát và kết

quả thực nghiệm nhằm rút ra những kết luận khoa học về tính khả thi của đề

tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp điều tra khảo sát

Chúng tôi sử dụng phương pháp này để điều tra, trưng cầu ý kiến của GV

10

và HS, khảo sát giáo án, dự giờ của GV THPT. Qua đó, nắm được thực trạng

dạy học các bài thơ trung đại (SGK Ngữ văn 11) ở trường THPT. Từ đó nghiên

cứu đề tài một cách tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học ở nhà trường

THPT.

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong thực nghiệm dạy học.

- Xây dựng cơ sở thực nghiệm sư phạm thông qua các bài thiết kế nội

dung dạy học. Cơ sở thực nghiệm được xác định dựa vào các tri thức về giáo

dục, tâm lý, về trình độ nhận thức của từng đối tượng và căn cứ vào hệ thống tri

thức về thơ trung đại ở chương trình Ngữ văn lớp 11.

- Tổ chức thực hiện giảng dạy ở trường phổ thông.

- Thông qua quá trình thực hiện giảng dạy, đánh giá nhận thức của học

sinh từ đó đưa ra một số phương pháp, cách thức, hình thức, kĩ năng và kĩ xảo

về việc giảng dạy bài Thương vợ (SGK Ngữ văn 11), đồng thời khẳng định mức

độ thành công của đề tài.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.

1.1. Cơ sở lý luận.

1.2. Cơ sở thực tiễn.

Chương 2: Dạy học cụm thơ Văn học trung đại Việt Nam lớp 11 theo

hướng hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.

2.1. Định hướng chung

2.2. Dạy học bài thơ Câu cá mùa thu.

2.3. Dạy học bài thơ Thương vợ.

Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.

3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.

11

3.2. Dạy thực nghiệm đối chứng bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương.

NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Lý thuyết về tiếp nhận thẩm mỹ

1.1.1.1. Khái niệm thẩm mỹ

Cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp

1.1.1.2. Tiếp nhận thẩm mỹ

Từ điển Văn học (bộ mới) (NXB Thế giới. 1998), tác giả Lại Nguyên Ân

cho rằng: Tiếp nhận thẩm mỹ là một dạng thức hoạt động thẩm mỹ, được thực

hiện ở dạng tiếp nhận (thưởng thức, cảm thụ) tác phẩm nghệ thuật với tư cách

một giá trị thẩm mỹ. Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác

phẩm nghệ thuật trong ý thức, mà là một quá trình phức tạp: quá trình cùng

tham dự và cùng sáng tạo của chủ thể. Khác với hoạt động thẩm mỹ của nghệ

sỹ - người sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, tiếp nhận thẩm mỹ không mang tính

công nghệ và nó vận hành theo hướng ngược: từ việc tiếp nhận kết quả (tác

phẩm nghệ thuật nói chung) đi đến tiếp nhận các ý tưởng chứa đựng trong đó.

Giữa tác phẩm và chủ thể tiếp nhận bao giờ cũng có một sự gián cách thẩm mỹ:

phải ý thức rằng trước mắt chỉ là sự miêu tả thực tại chứ không phải là bản thân

thực tại. Để vượt qua sự gián cách, ở chủ thể tiếp nhận phải có một trạng thái

tâm lý nhất định (tâm thế thẩm mỹ) để vừa cảm nhận tác phẩm nghệ thuật như

có thể là thực tại, đồng thời vừa không quên tính ước lệ của nó. Tiếp nhận thẩm

mỹ, vì vậy, mang tính hai chiều (tiếng Pháp: ambivalent): chủ thể tiếp nhận vừa

tin vừa không tin vào tính thực tại của cái được miêu tả [1].

Tiếp nhận thẩm mỹ được xác định phần lớn bởi tác phẩm nghệ thuật: tác

phẩm không chỉ là nguồn thông tin nghệ thuật chủ yếu, mà còn đề ra phương

thức “đọc”, “dịch” nó sang bình diện cảm xúc - hình tượng của chủ thể.

Tính phức tạp của tiếp nhận thẩm mỹ là ở chỗ các ý tưởng của tác phẩm

không thể dịch sang bình diện lời nói, khái niệm (theo lối nói hình ảnh của

12

Hêminguê, nó giống như 7/8 phần của tảng băng trôi bị chìm dưới nước). Đặc

tính trên là căn cứ để chủ nghĩa tượng trưng xây dựng quan niệm của họ, theo

đó tư tưởng thẩm mỹ bao giờ cũng tiềm ẩn so với ý thức thường ngày. Tuy

nhiên, ở văn bản nghệ thuật, ở hệ thống các phương tiện biểu hiện bao giờ cũng

có khóa mã cho phép giải ra các hàm nghĩa kín đáo của nó. Việc thâm nhập vào

hàm nghĩa của tác phẩm nghệ thuật còn phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của

chủ thể, vào trình độ phát triển về tình cảm thẩm mỹ ở chủ thể tiếp nhận.

Tính chọn lọc và chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ bị quy định bởi trạng

thái văn hóa xã hội, bởi tiềm năng văn hóa chung của cá nhân.

Sản phẩm của tiếp nhận thẩm mỹ là một hình tượng và một hàm nghĩa

“thứ sinh”, có thể trùng hoặc không trùng với hình tượng và tư tưởng mà tác

giả trù định.

Có thể phân chia một số điểm chủ chốt trong quá trình tiếp nhận thẩm mỹ:

- Tâm thế hướng vào tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật;

- Cảm xúc sơ bộ từ việc tiếp xúc với nó;

- Vui mừng nhận ra ở tác phẩm cái hình tượng chờ đợi, phát triển nó trên

cơ sở liên tưởng với các ý niệm hợp với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn

hóa của chủ thể.

Do chỗ hình tượng nghệ thuật không bao giờ hoàn toàn phù hợp với sự

chờ đợi của chủ thể, cho nên sự nhận ra bao giờ cũng mang dạng thức một trò

chơi độc đáo: chiếm lĩnh hình tượng nghệ thuật của “kẻ khác” và truyền xúc

cảm của mình vào hình tượng ấy.

Trong trường hợp thông tin nghệ thuật vượt quá sự chờ đợi của chủ thể,

khi đó hoặc là sự tiếp nhận thẩm mỹ bị phá vỡ (chủ thể đánh giá tác phẩm là kỳ

quặc, lố lăng, phi lý, kém cỏi), hoặc là trên cơ sở tăng cường óc tưởng tượng, ở

chủ thể tiếp nhận sẽ hình thành một hình tượng - cảm xúc mới, trong đó tư

tưởng mà nghệ sĩ gửi vào tác phẩm sẽ được khám phá như mới nảy sinh.

Điểm cao nhất của tiếp nhận thẩm mỹ đi kèm với một cảm xúc thẩm mỹ

sâu sắc, có thể gọi là thanh lọc (catharsis), theo thuật ngữ Arixtôt. Hoàn tất quá

13

trình tiếp nhận thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ.

Tiếp nhận thẩm mỹ không bao giờ có dạng khai triển; nó có thể dừng lại ở

cảm xúc sơ bộ hoặc ở mức nhận ra những hình tượng quen thuộc, nhưng có thể

đạt tới một độ căng cao, khi chủ thể cảm nhận niềm vui chẳng những do cái

hàm nghĩa được anh ta khám phá, mà còn do bản thân hành vi khám phá ấy.

1.1.2. Dạy đọc hiểu văn bản văn chương theo hướng phát triển năng lực cảm

thụ thẩm mỹ cho học sinh

1.1.2.1. Khái niệm “năng lực”

“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) có giải

thích: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực

hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả

năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [32].

Trong Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định

hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành

năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có

tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…

nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh

nhất định” [40]. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm

chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các

hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao

gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có,

đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ

thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số năng lực những năng lực cốt

lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:

- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:

+ Năng lực tự học;

+ Năng lực giải quyết vấn đề;

+ Năng lực sáng tạo;

14

+ Năng lực quản lí bản thân.

- Năng lực xã hội, bao gồm:

+ Năng lực giao tiếp;

+ Năng lực hợp tác.

- Năng lực công cụ, bao gồm:

+ Năng lực tính toán;

+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ;

+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC).

Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất

cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học

tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.

Cá c năng lực mà môn học Ngữ văn hướ ng đến bao gồm: . Năng lực sáng ta ̣o . Năng lực giải quyết vấn đề . Năng lực hơ ̣p tác . Năng lực tự quản bản thân . Năng lực giao tiếp tiếng Viê ̣t

. Năng lực thưở ng thứ c văn ho ̣c/cảm thu ̣ thẩm mỹ Trong cuốn Lý luận dạy học hiện đại, các nhà nghiên cứu Bernd Meier và

Nguyễn Văn Cường cho rằng: Chương trình dạy học định hướng năng lực

không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả

đầu ra mong muốn của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn

chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy

học nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra

mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập - tức là

kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng

lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh

giá được [4]. Với nội dung, yêu cầu và cách vận hành như vậy, chương trình

giáo dục định hướng năng lực có ưu thế trong việc quản lý chất lượng sản phẩm

15

đào tạo ở đầu ra - tức năng lực vận dụng vào thực tiễn của HS.

Các tác giả của Từ điển giáo dục thì quan niệm “Năng lực là khả năng

được hình thành hoặc phát triển, cho phép con người đạt được thành công

trong một hoạt động thể lực, trí tuệ hoặc nghề nghiệp” [15].

Nhìn chung các quan niệm về năng lực đều giống nhau ở một điểm là khi

nói tới năng lực là nói tới kiến thức, kỹ năng và khả năng huy động các kiến

thức, kỹ năng đó để giải quyết thành công các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Một

người được xem là có năng lực phải là người có khả năng giải quyết thành công

các vấn đề trong cuộc sống thuộc lĩnh vực đang nói tới.

Trong bài viết Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát

triển năng lực, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng cho rằng: Môn Ngữ văn giúp HS phát

triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục

tiêu giáo dục của nhà trường Phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực

tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực

tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng

lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong

đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan

trọng trong học tập của học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp

các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát

triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình

cảm và nhân cách cho người học [16].

Như vậy, muốn đánh giá một năng lực nào đó cần đánh giá hai vấn đề:

Một là kiến thức, kỹ năng; hai là khả năng sử dụng các kiến thức, kỹ năng đó

để giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống.

16

1.1.2.2. Năng lực thưởng thứ c văn học/cảm thụ thẩm mỹ là một trong các năng lực mà môn ho ̣c Ngữ văn hướ ng đến. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiê ̣n khả năng củ a mỗi cá nhân trong viê ̣c nhâ ̣n ra đươ ̣c các giá tri ̣ thẩm mĩ củ a sự vâ ̣t, hiê ̣n tươ ̣ng, con ngườ i và cuô ̣c số ng, thông qua những cảm nhâ ̣n, rung đô ̣ng

trướ c cái đe ̣p và cái thiê ̣n, từ đó biết hướ ng những suy nghĩ, hành vi củ a mình theo cái đe ̣p, cái thiê ̣n. Như vậy, năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc

cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân.

Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm

xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc.

Năng lực cảm xúc thẩm mỹ được thể hiện ở một số nội dung sau:

- Nhận thức được các cảm xúc của bản thân

Ý thức về bản thân - tức là có thể nhận biết các xúc cảm của mình - là cơ

sở của năng lực cảm xúc. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự

hiểu biết bản thân và trực giác tâm lý. Những người không tự biết về những gì

mình cảm nhận sẽ thường phó mặc cho tình cảm của mình. Trái lại, những

người biết làm cho cuộc sống của mình tốt hơn sẽ thấy rõ được những hậu quả

sâu xa trong các quyết định của mình, dù đó là lựa chọn người bạn đời hay sự

lựa chọn nghề nghiệp.

- Làm chủ các cảm xúc của bản thân

Đó là năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với mỗi hoàn

cảnh, điều này phụ thuộc vào sự tự ý thức về bản thân. Năng lực này giúp mỗi

người biết cách tự trấn an tinh thần của mình trong những tình huống căng

thẳng hoặc những thử thách của cuộc sống, thoát khỏi sự chi phối của lo âu,

buồn rầu và giận dữ, cũng như thấy được hậu quả tiêu cực của tình trạng tiêu

cực không đạt tới điều đó. Những người có năng lực làm chủ bản thân có thể

chấp nhận và vượt qua được một cách tốt nhất những thất bại và những sự trái

ý mà cuộc đời dành cho mình, biết ứng xử hết sức có hiệu quả trong mọi lĩnh

vực của cuộc sống, đồng thời biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân phù

hợp trong những hoàn cảnh giao tiếp.

- Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc

sống từ phương diện thẩm mỹ

Sự đồng cảm, nhạy cảm trước những trạng thái cảm xúc của người khác

17

xuất phát từ ý thức về bản thân là yếu tố căn bản tạo nên mối quan hệ tương tác

giữa cá nhân và những người xung quanh. Những người đồng cảm biết tiếp

nhận hết sức nhanh nhạy những tín hiệu mà qua đó cho thấy nhu cầu và mong

muốn của người khác, cũng như sự nhạy cảm và sự tương giao giữa cảm xúc

của cá nhân với những biến thái rất tinh tế của các hình ảnh cuộc sống. Đó là

những người biết “Thương người như thể thương thân”, luôn biết “Mở lòng

đón lấy những vang động của cuộc sống”, biết thể hiện những tình cảm, thái độ

phù hợp trước những biểu hiện của cái đẹp, cái thiện cũng như cái ác, cái xấu

trong cuộc sống.

- Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống

Luôn biết giữ những liên hệ tốt với những người xung quanh, đó chính là

biết chủ động điều khiển các cảm xúc của mình. Những người biết làm cho

mình có được sự cảm mến của mọi người, biết lãnh đạo và định hướng một

cách có hiệu quả những mối liên hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ

cảm xúc ở mức cao nhất. Đó cũng là những người biết nhận thức được những

giá trị sống từ phương diện thẩm mỹ, biết hành động vì những gì tốt đẹp trong

môi trường sống của mình. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên thành công

của mỗi người trong cuộc sống.

Năng lực cả m thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn vớ i tư duy hình tươ ̣ng trong viê ̣c tiếp nhâ ̣n văn bản văn ho ̣c. Quá trình tiếp xúc

với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng

của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của

mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh;

trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc

được thể hiện ở những phương diện sau:

- Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những

hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,

18

cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.

- Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn

học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,… từ đó cảm nhận

được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện

qua tác phẩm.

- Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn

học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm

nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những

hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan

thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.

Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái

đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những

hiện tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho

cuộc sống tốt đẹp hơn.

Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát

triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn

luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn

HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và

nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn

bản (gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kỹ năng nói

và viết).

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Đặc điểm các bài thơ thuộc Văn học Trung đại Việt Nam trong sách giáo

khoa Ngữ văn 11, tập 1

* Một số nét khái quát về thơ Trung đại Việt nam

Đặc trưng thi pháp của thơ trung đại Văn học Trung đại Việt Nam nói

chung và thơ trữ tình Trung đại nói riêng được ra đời trong bối cảnh xã hội

phong kiến phát triển. Nó phản ánh thực tế lịch sử xã hội phong kiến từ thế kỷ

19

X đến hết thế kỷ XIX. Đặc biệt là những biến động của xã hội và thân phận con

người. Chủ đề xuyên suốt như sợi chỉ đỏ của thơ Trung đại Việt Nam là cảm

hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Các tác giả thơ Trung đại Việt Nam chủ

yếu là những người có địa vị xã hội, có những ảnh hưởng quan trọng cho sự

phát triển của xã hội… Chính vì thế khi giảng dạy hoặc phân tích, bình giảng

cần phải chú ý đến các đặc điểm cơ bản sau:

- Quan niệm “Văn dĩ tải đạo”: Văn chương phải chuyên chở đạo lý.

- Tính ước lệ, tượng trưng, quy phạm: Đây là đặc điểm nổi bật của văn

thơ Trung đại. Khi sáng tác, các tác giả thường vay mượn văn thi liệu điển cố,

điển tích lấy từ sách vở Thánh Hiền và kinh sách của các tôn giáo. Chẳng hạn

nói đến cây và hoa thì tùng, trúc, cúc, mai, sen… bởi chúng là những biểu

tượng để chỉ những phẩm chất cốt cách, khí tiết của người quân tử, của bậc

trượng phu; nói đến con vật thì phải long, ly, quy, phượng; nói đến người thì

ngư, tiều, canh, mục; nói đến hoa bốn mùa thì phải là xuân lan, thu cúc, hạ sen,

đông sen; tả mỹ nhân thì làn thu thủy, nét xuân sơn, tóc như mây, da như tuyết

- Tính giáo huấn, bác học, cao quý, trang nhã: Đối tượng, mục đích của

văn thơ chủ yếu là đề cao thần quyền, cường quyền mang tính giáo hóa, giáo

huấn con người với khuôn phép định sẵn. Ngôn từ diễn đạt diễm lệ, tránh nói

thô tục, nếu có thì dùng ngụ ý, ám chỉ chứ ít khi nói thẳng…

- Cảm thức về thế giới con người thời Trung đại Việt Nam: Con người thấy

mình trong tự nhiên, với suy nghĩ trong vũ trụ có ta và trong ta có cả vũ trụ… Vì

thế khi nói về trời đất, về không gian, thời gian với nhiều cách thể hiện bằng nhiều

sắc thái biểu cảm khác nhau như thời gian chu kỳ tuần hoàn, thời gian tuyến tính,

thời gian vĩnh cửu, thời gian không gian được cảm nhận bằng nhiều giác quan

khác nhau… Cho nên con người khi bất đắc chí tìm về thiên nhiên, vũ trụ như tìm

về cội nguồn. Khi ngắm cảnh trời mây, họ cũng như mơ về nguồn cội. Người

Trung Quốc ý thức gia tộc, gia hương rất mạnh mẽ như Lý Bạch nhìn trăng mà

nhớ đến quê nhà (Tĩnh dạ tứ), cũng như trong thơ Đường luật của Việt Nam, Bà

Huyện Thanh Quan nhìn cảnh đèo Ngang mà nhớ về quê cũ;…

- Cách biểu hiện: Cái tôi trữ tình hoà lẫn vào trong thiên nhiên ngoại

20

cảnh, nó tỉnh lược chủ ngữ, nó tan trong cảm xúc, cái tôi nó đạt tính phổ quát.

- Cách diễn đạt: Gợi mà không tả, hoà quyện giữa thi, nhạc và hoạ.

- Ngôn ngữ: Từ ngữ sử dụng ở thơ Đường luật là những từ ngữ quen

thuộc nhưng lại có khả năng diễn đạt vô cùng tinh tế, phong phú. Sở dĩ đạt

được như thế là vì công phu tinh luyện của các nhà thơ. Vì thế, học thơ Đường

luật là học tinh thần lao động và sáng tạo của nhà thơ với vốn từ hữu hạn.

- Đề tài: Đề tài trong thơ Đường không lấy gì làm phong phú nhưng

không hề trùng lặp vì những mối quan hệ từ ngữ. Vì thế phải hướng dẫn HS

chú ý những từ ngữ đắt giá (nhãn tự) vì đó là những từ có tính khái quát cao.

- Tứ thơ: Tư duy thơ trữ tình trung đại là kiểu tư duy quan hệ, HS phải

cảm nhận mối quan hệ giữa các sự vật trong không gian, quan hệ giữa con

người với vũ trụ và quan hệ giữa con người với con người. Thơ ca nói chung

không nói hết, không nói trực tiếp ý mình muốn nói mà để cho người đọc cùng

suy nghĩ, cùng sáng tạo. Chính đặc điểm này đã tạo nên cái gọi là “ý tại ngôn

ngoại”, “ngôn tận ý bất tận”. Nói gọn lại: chính đặc điểm này mà thơ Đường

luật cô đọng, súc tích, giàu tính biểu tượng. Nó gợi mà không tả để tạo nên một

môi trường liên tưởng rộng. Vậy, dạy thơ trung đại là ta giúp HS tham gia đồng

sáng tạo cùng tác giả, HS cảm nhận được cái mạch ngầm của những tác phẩm

thơ ca. Từ đó giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà tác phẩm văn

chương đem lại.

* Khái quát về đặc điểm nội dung và nghệ thuật các bài thơ trữ tình

Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 1

Tự tình (Bài II) của Hồ Xuân Hương

Nội dung: Qua lời tự tình, bài thơ nói lên cả bi kịch khát vọng sống,

khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Ý nghĩa nhân văn của bài thơ: trong

buồn tủi, người phụ nữ vẫn gắng gượng vượt lên trên duyên phận éo le nhưng

cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.

Nghệ thuật: Tài năng của Hồ Xuân Hương qua việc sử dụng từ ngữ giàu

giá trị tạo hình, giàu sức biểu cảm; cách xây dựng hình ảnh vừa gợi cảnh thiên

21

nhiên, vừa bộc lộ tâm trạng.

Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến

Nội dung: Bài thơ vẽ lên cảnh thu, vẻ đẹp điển hình cho mùa thu làng

cảnh Việt Nam. Cảnh đẹp nhưng phảng phất buồn, vừa phản ánh tình yêu thiên

nhiên đất nước, vừa cho thấy tâm sự thời thế của tác giả.

Nghệ thuật: Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến được bộc lộ ở nghệ thuật tả

cảnh, tả tình qua những nét vẽ hiện thực, hình ảnh, từ ngữ đậm đà chất dân tộc; tài

thơ Nôm của Nguyễn Khuyến được bộc lộ ở nghệ thuật gieo vần độc đáo…

Thương vợ của Trần Tế Xương

Nội dung: Bài thơ là tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương qua

sự thấu hiểu nỗi vất vả gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú. Qua

bài thơ, người đọc không những thấy hình ảnh bà Tú mà còn thấy được những

tâm sự và vẻ đẹp nhân cách Tú Xương.

Nghệ thuật: Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng sáng tạo hình ảnh,

ngôn ngữ văn học dân gian (hình ảnh thân cò lặn lội, sử dụng nhiều thành ngữ),

ngôn ngữ đời sống (cách nói khẩu ngữ, sử dụng tiếng chửi)…; Từ hình ảnh bà Tú ta

có thể thấy được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Nội dung: Bài ca ngất ngưởng thể hiện đậm nét lý tưởng sống của

Nguyễn Công Trứ: coi tất cả là một cuộc chơi và luôn hết mình trong cuộc chơi

ấy. Nhà thơ không thấy có gì mâu thuẫn giữa cái vì đời và cái vì mình. Ông vừa

tự hào về những đóng góp của bản thân vừa tự hào về thái độ sống ngất ngưởng

mà mình đã thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc.

Nghệ thuật: Khả năng của thơ hát nói trong việc biểu hiện những tư

tưởng, tình cảm phóng túng, lãng mạn.

Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Sa hành đoản ca) của Nguyễn Công Trứ

Nội dung: Bài ca ngắn đi trên bãi cát thể hiện tâm trạng bi phẫn của kẻ

22

sĩ trước đường đời bế tắc, hiểm trở, mù mịt, phản ánh một xã hội đen tối, đầy

hiểm họa đối với người tài hoa, đánh dấu sự thức tỉnh, nhìn lại con đường công

danh truyền thống.

Nghệ thuật: Bài thơ có nhiều nét mới: nhiều cách xưng hô, nhiều câu than,

câu hỏi thể hiện nỗi day dứt, dằn vặt khôn nguôi của người trí thức đã thức tỉnh.

1.2.2. Giáo viên với việc dạy học thơ Trung đại Việt Nam ở sách giáo khoa

Ngữ văn 11, tập 1

Giáo sư Phan Trọng Luận đã nêu lên thực trạng dạy học ở nhà trường

phổ thông: Chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về

nhận thức cũng như thực hành sư phạm so với bước đi của một số nước tiên

tiến, nhất là so với yêu cầu chiến lược của thời đại. Tình trạng đó hình như

càng nặng nề hơn trong giảng dạy văn học. Lập luận văn học có đặc thù riêng,

văn chương là lĩnh vực cảm thụ thẩm mỹ của sáng tạo cá nhân, nhiều khi đã tạo

ra một ảo giác bao che cho sự chậm trễ cũ kỹ về phương pháp… Đã từ lâu vẫn

đang diễn ra tình hình dạy văn chỉ cần biết đến văn bản văn chương, chỉ quan

tâm đến nghệ thuật và tài năng khám phá cho sâu, chỗ độc đáo của tác phẩm

văn chương để rồi tìm ra những thủ pháp, những hình thức lôi cuốn HS cảm

thông, đồng điệu với những gì GV đã tìm tòi và phát hiện được. Tác giả khẳng

định: một quan niệm về dạy văn như vậy đã quá ư lỗi thời và cần thực sự có

một đổi mới triệt để về chiến lược dạy học văn trong nhà trường nhằm hướng

vào học sinh giúp học sinh tham gia, khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm để họ thực

sự tự phát triển.

Trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, phần nhiều giáo viên chỉ chú tâm

vào khám phá các tác phẩm văn chương, tìm ra các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc

rồi truyền đạt lại cho HS mà chưa chú ý đến nhu cầu, khát vọng, đặc điểm tâm

lý của học trò. Vì thế học trò bị biến thành “thính giả” người “ngoài cuộc”, trò

không có cơ hội trình bày suy nghĩ, cảm xúc mà mình có được khi học những

văn bản này. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng nặng nề của phương pháp dạy học văn

23

truyền thống lâu nay vẫn quan niệm dạy học là quá trình truyền thụ và lĩnh hội

tri thức. Do đó quan niệm này không những hạn chế khả năng sáng tạo của thầy

mà còn gây trở ngại cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học và khả năng

cảm thụ văn chương của HS.

Để đến được với những áng văn của cha ông, nhất là những tác phẩm viết

bằng chữ Hán và chữ Nôm, cần vượt qua rào cản của ngôn ngữ. Đây không chỉ

là thách thức của trò mà còn là của thầy. Vốn Hán học, Nôm học quá mỏng,

khiến cho những tác phẩm văn chương tuyệt đỉnh khi dạy học trên lớp chỉ còn là

việc định nghĩa không đầy đủ. Bên cạnh đó thì khoảng cách văn hóa, thời đại đã

khiến cho người dạy và người học chưa tiếp cận được đích giá trị của tác phẩm.

Từ thực tế trên, việc dạy học cụm thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong

sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 1 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ thơ cho HS cũng gặp nhiều khó khăn.

Hiện nay, sự bùng nổ của các phương tiện thông tin và nhu cầu đa dạng

hóa ngày càng cao của lứa tuổi thanh thiếu niên về hình thức học tập, cảm thụ

để có thể phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách. Do xu thế này, nên hoạt

động của GV trên lớp hiện nay với các yêu cầu: làm cách nào để tiết học trở

nên sinh động, nhẹ nhàng và hiệu quả đối với tất cả các đối tượng HS, đặc biệt

giờ học thơ trữ tình trung đại lại là một bài toán khó cho mỗi GV dạy Ngữ văn.

* Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi dạy thơ trữ tình Trung

đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Bằng việc phát phiếu điều tra với câu hỏi: “Những khó khăn mà anh/chị

gặp phải khi dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam là gì?” Và: “Những khó khăn

đối với việc phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS qua các bài thơ trữ

tình trung đại Việt Nam là gì?”.

Qua việc trao đổi, trò chuyện, chia sẻ với giáo viên; trực tiếp dự các buổi

họp chuyên môn, các tiết thao giảng, các tiết dạy… chúng tôi thấy được những

khó khăn mà GV gặp phải khi dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong SGK

Ngữ văn 11 tập 1 như sau:

Thứ nhất: Chưa nắm rõ cách thức cụ thể trong việc tiếp cận một bài thơ

24

trữ tình trung đại Việt Nam.

Nhiều GV nói rằng họ vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và

cảm thụ các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam, cũng có không ít GV còn chưa

nắm vững cách thức tiếp cận cụ thể đối với một bài thơ trữ tình ra sao? Đứng

trước một bài thơ họ không biết bắt đầu từ đâu? Có mấy bước tiếp cận? Nội

dung cụ thể và cơ bản của các bước là gì…? Thầy Phạm Quang Tuấn (một GV

năng động, nhiệt tình trong công tác chuyên môn cũng như các hoạt động bề

nổi của trường THPT Mạc Đĩnh Chi) đã nói: “Các bài thơ trữ tình trung đại

Việt Nam nói chung đều là những bài thơ hay, song tiếp cận chúng như thế nào

lại là một vấn đề không đơn giản”.

Cô giáo Nguyễn Thị Hường (GV trường THPT Mạc Đĩnh Chi) đã viết:

“Chưa từng được đọc một tài liệu nào nói cụ thể về các bước tiếp cận một bài

thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Theo cá nhân tôi thì có hai bước cơ bản: đọc

kỹ rồi đi vào cảm thụ, khai thác, phân tích. Khi cảm thụ chủ yếu dựa vào cuốn

sách giáo viên, mặt khác thì cảm thụ phân tích thêm để xem bài thơ có gì mới,

lạ, đem trao đổi với đồng nghiệp trong tổ chuyên môn rồi đem ra dạy. Khi tiếp

cận thì chủ yếu theo kết cấu thơ Đường luật nói chung: Khai, thừa, chuyển,

hợp; Đề, thực, luận, kết mà tìm hiểu vấn đề…Và nhìn chung là dựa vào kinh

nghiệm bản thân để tiếp cận và cảm thụ là chủ yếu…”.

Thứ hai: Sách tham khảo viết về thơ trữ tình trung đại Việt Nam, nhất là

các tài liệu viết về cách tiếp cận các văn bản này theo hướng phát triển năng lực

cảm thụ thẩm mỹ còn quá ít…

Qua thực tế chúng tôi thấy hầu như GV dạy Ngữ văn đều phản ánh vấn

đề này.

Thứ ba: Việc tổ chức dẫn dắt cho HS tự phát hiện ra, tự chiếm lĩnh được

tiếng nói tình cảm và tư tưởng của nhà thơ gửi gắm trong bài thơ là một việc

không dễ.

Muốn áp dụng thành công phương pháp dạy học mới vào thực tiễn, thì

25

ngoài việc nắm vững cơ sở lý luận, còn đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư rất

nhiều thời gian và công sức để có được một giờ dạy hiệu quả. Việc tổ chức dẫn

dắt cho HS tự chiếm lĩnh được tiếng nói tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đã gửi

gắm trong các bài thơ là một việc làm không mấy dễ dàng. Đây là cái khó mà

hầu hết GV gặp phải. Việc cảm thụ, phát hiện cho hết cái hay cái đẹp của bài

thơ đã khó, hơn nữa lại là thơ trữ tình trung đại lại càng khó hơn. Có khi chỉ

một từ, một hình ảnh, một câu thơ nhưng cũng gây trở ngại trong việc khai

thác. Song khó khăn hơn là việc tổ chức dẫn dắt để HS cũng cảm thụ như mình

là một công việc còn khó khăn hơn nhiều so với khi mình cảm thụ. Nhiều khi

thấy bí thì lại áp dụng việc dạy áp đặt, cứ nói ra điều mình nghĩ cho HS nghe…

Mặc dù gặp không ít những khó khăn trong quá trình dạy học các tác

phẩm thơ trữ tình Trung đại Việt Nam, song qua quá trình điều tra, chúng tôi

nhận thấy, đa số GV Trung học trong quá trình dạy học đã không ngừng cố

gắng với mong muốn đưa các phương pháp dạy học mới, tích cực nhằm phát

huy tối đa năng lực của HS, nhất là năng lực cảm thụ thẩm mỹ qua các tác

phẩm thơ.

Dạy văn nói chung và dạy thơ trữ tình Trung đại cho HS nói riêng không

phải chỉ đơn giản là truyền kiến thức cho HS. Đa số GV đều nhận thấy được

việc giảng dạy phải rèn luyện HS sinh óc tư duy sáng tạo, phương pháp tự suy

nghĩ tìm hiểu kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, nâng cao đời

sống tư tưởng, tình cảm ngày càng tốt đẹp hơn. Môn Ngữ văn trong nhà trường

có điều kiện để thức dậy khát vọng trong HS. Đó là khát vọng cao đẹp mà qua

mỗi giờ học văn, từ vẻ đẹp hình tượng, ngôn ngữ… GV có thể tạo ra được một

không khí văn chương, không khí ngự trị của cái đẹp. Đó có thể là lòng thương

vợ của Trần Tế Xương thật thấm thía và sâu sắc qua bài Thương vợ; đó cũng có

thể là một bức tranh giản dị, thanh tú, hết sức gần gũi, quen thuộc mang đậm

hồn quê xưa qua bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến; hoặc

đó cũng có thể là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ vượt lên trên

26

duyên phận éo le của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Tự tình (bài II)…

1.2.3. Học sinh lớp 11 với việc cảm thụ thơ trữ tình trung đại Việt Nam đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Thể loại, thi pháp văn học cổ có nhiều xa lạ với thi pháp văn học đương

đại nên đó là điều khó khăn cho HS tiếp nhận.Vốn sống kinh nghiệm thực tế

HS còn ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích,

điển cố được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ. Bên cạnh đó, trong quá trình

phát triển đi lên của đất nước, chúng ta có những thành tựu quan trong về lĩnh

vực kinh tế. Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị trường đã tạo ra những phức

tạp và những ảnh hưởng không lành mạnh đối với đời sống con người, nhất là

thế hệ trẻ. Đặc biệt là đối tượng HS, trong đó có HS bậc THPT. Một bộ phận

lớn HS chịu ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức

học tập không cao, thiếu tự giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần

văn học khó nhất. Vì thế, chất lượng HS thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm,

cách nhìn nhận của phụ huynh HS là sính học các môn Khoa học tự nhiên cũng

có những ảnh hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của HS đối với

môn Ngữ văn. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để nâng

cao chất lượng học bộ môn Ngữ văn.

1.2.3.1. Tâm lý học sinh THPT với việc học các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Trước khi khảo sát khả năng cảm thụ các bài thơ trong cụm thơ trữ tình

Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, chúng tôi đã tiến

hành khảo sát tâm lý HS ở 3 lớp 11 mà người viết luận văn dạy học (các lớp

11E, 11G, 11H Trường THPT Mạc Đĩnh Chi - Nam Sách - Hải Dương với số

lượng học sinh là 107 em).

Bằng phương pháp điều tra, chúng tôi tiến hành khảo sát tâm lý HS lớp

11 THPT ở 3 lớp 11E, G, H đối với việc học cụm thơ trữ tình trung đại Việt

Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1.

27

Phiếu khảo sát số 1 với 2 câu hỏi:

Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các bài thơ trữ tình Trung đại Việt

Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 không? Vì sao?

Câu hỏi 2: Trong các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong sách giáo

khoa Ngữ văn 11 tập 1 em thích nhất bài thơ nào?

HS viết vào phiếu điều tra ý kiến của mình, kết quả thu được như sau:

Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Tâm lý

Bài ca

Sa

Thu điếu

Lớp

Tự tình (bài II)

Thương vợ

Số HS

Thích học

ngất ngưởng

hành đoản ca

Không thích học

11E

39

27 (69,23%)

12 (30,77%)

7 (17,95%)

9 (23,08%)

17 (43,58%)

4 (10,26%)

2 (5,13%)

11G

37

23 (62,16%)

14 (37,84%)

6 (16,22%)

9 (24,33%)

18 (48,65%)

3 (8,10%)

1 (2,70%)

11H

31

21 (67,74%)

10 (32,26%)

10 (32,26%)

12 (38,71%)

8 (25,80%)

1 (3,23%)

0 (0,0%)

Tổng

107

71 (66,36%)

36 (33,64%)

23 (21,49%)

30 (28,04%)

43 (40,19%)

8 (7,48%)

3 (2,80%)

Từ bảng thống kê trên chúng tôi nhận thấy phần lớn HS THPT thích học

thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Qua phiếu điều tra và qua việc tiếp cận, trao

đổi trực tiếp với các em HS, chúng tôi thấy các em rất yêu và quý trọng thơ trữ

tình trung đại Việt Nam, các em đã coi đây như là tài sản quý báu mà ông cha

ta đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc.

Em Nguyễn Thị Hạnh (HS lớp 11E) cho biết: “Em thích học các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, các bài thơ

thường ngắn, qua mỗi bài thơ em hiểu được nhiều điều, mỗi tác phẩm là một

niềm cảm xúc riêng của mỗi tác giả. Qua từng bài thơ đó, em thêm yêu cuộc

sống và hiểu thêm được nỗi lòng của thi sĩ…”.

Em Nguyễn Thị Hồng (HS lớp 11G) viết: “Em rất thích học các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, mỗi bài thơ

28

đều mang một nét đặc sắc riêng: đó là hình ảnh và tâm hồn cao đẹp, sự hy sinh,

sự thủy chung sắt son của người phụ nữ Việt Nam trong bài “Thương vợ”; đó

là cảnh đẹp của quê hương Việt Nam trong “Thu điếu” và những tâm sự buồn u

uất của nhà thơ Nguyễn Khuyến… Thơ trữ tình trung đại Việt Nam đã bồi

dưỡng cho em những tình cảm tốt đẹp”.

Em Trịnh Thị Nga (HS lớp 11H) viết: “Mỗi bài thơ trữ tình trung đại

Việt Nam đều mang một nét đặc sắc riêng. Nó nói lên tâm sự, nỗi buồn, và cả

sự lạc quan của chính tác giả, có bài lại nói về sự lam lũ, vất vả của con người,

sự cô đơn, quạnh hưu của số phận con người trong vòng đời… Từ đó giúp em

biết yêu thương con người, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống…”.

Qua một vài dẫn chứng trên cho thấy các em HS đã có những nhận thức

đúng đắn và khá sâu sắc về thơ trữ tình trung đại Việt Nam, đặc biệt là thái độ

trân trọng, yêu quý và thích học thơ trữ tình trung đại Việt Nam của các em.

Đây là một thuận lợi cho GV khi giảng dạy thơ trữ tình Trung đại nói chung,

dạy cụm các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn

11 tập 1 nói riêng.

1.2.3.2. Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Để tìm hiểu vấn đề trên đây của HS, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng

việc phát phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với HS.

Phiếu điều tra 1

Câu hỏi: Những khó khăn mà em gặp phải khi học thơ trữ tình trung đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 là gì?

Phiếu điều tra 2

Câu hỏi: Qua việc đọc và học các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1, em cảm nhận được những gì?

Phiếu điều tra 3

Câu hỏi: Tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” - Hồ Xuân Hương -

thể hiện như thế nào qua bài thơ Tự tình (bài II)? Em cảm nhận được gì về tâm

29

trạng của tác giả qua bài thơ?

Phiếu điều tra 4

Câu hỏi: Đọc văn bản Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến), em hình dung

ra được những gì về cảnh sắc mùa thu ở làng quê Việt Nam vùng đồng bằng

Bắc bộ? Em cảm nhận được những gì về tâm hồn thi nhân gửi gắm trong bài

thơ này?

Phiếu điều tra 5

Câu hỏi: Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến trong bài thơ được thể hiện ở

những điều gì?

Phiếu điều tra 6

Câu hỏi: Vẻ đẹp hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện lên như thế nào

qua hình ảnh của bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương?

Phiếu điều tra 7

Câu hỏi: Tài năng thơ của Trần Tế Xương trong bài thơ được thể hiện

qua những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ Thương vợ? Vẻ đẹp nhân cách

của nhà thơ được bộc lộ như thế nào qua bài thơ?

Phiếu điều tra 8

Câu hỏi: Qua Bài ca ngất ngưởng, em hiểu được gì về phong cách sống,

bản lĩnh cá nhân mang ý nghĩa tích cực của Nguyễn Công Trứ? Ý nghĩa, tính

chất tự do của thể hát nói trong việc chuyển tải cảm xúc của nhà thơ?

Phiếu điều tra 9

Câu hỏi: Từ một bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát - bài Bài ca ngắn đi

trên bãi cát, chúng ta có thể biết được nét đặc trưng gì trong thơ của ông?

Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Kết quả thu được như sau:

* Với phiếu điều tra 1:

Khi học các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa

30

Ngữ văn 11 tập 1, phần lớn HS trả lời đã gặp phải những khó khăn như sau:

Em Trần Văn Hanh (HS lớp 11H) viết: “Khoảng cách của các bài thơ trữ

tình trung đại với học sinh chúng em ngày nay là quá xa, hơn nữa các bài thơ

Đường luật có tính hàm súc cao, sáng tác bằng chữ Hán, Nôm nên chúng em

thấy rất khó hiểu khi học”.

Em Phạm Xuân Hòa (HS lớp 11E) viết: “Các bài thơ trữ tình trung đại sử

dụng nhiều từ cổ, từ Hán Việt, điển cố, điển tích, phải đọc tra cứu nghĩa thì mới

có thể hiểu được nghĩa của từ, của câu và của toàn bài. Đôi khi trong các bài

thơ ngay cả từ thuần Việt cũng khó mà hiểu hết nghĩa của chúng”.

Em Nguyễn Thị Kim Nhung (HS lớp 11E) viết: “Học các bài thơ trữ tình

trung đại Việt Nam em thấy cái khó nhất là việc tìm ra tác dụng của các từ ngữ

trong các câu thơ và trong việc biểu hiện tình cảm của nhà thơ. Việc sử dụng

những từ ngữ như vậy biểu hiện được tình cảm gì của nhà thơ? Điều này rất

khó phát hiện…”.

Em Nguyễn Kim Cúc (HS lớp 11G) thì lại cho rằng: “Nội dung của

nhiều bài thơ, nhất là tình cảm cụ thể của nhà thơ theo em là rất khó phát hiện,

hiểu cho hết, cho cặn kẽ tình ý của nhà thơ trong mỗi bài thơ trữ tình trung đại

Việt Nam đối với em quả là một điều không dễ”.

Trên đây là những khó khăn mà các em HS THPT thường gặp phải khi học

thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Do vậy mà mặc dù rất thích học thơ trữ tình Trung

đại Việt Nam nhưng học sinh khi học các bài thơ này vẫn chưa phát huy được hết

khả năng của mình, chưa phát huy hết khả năng cảm thụ được cái hay, cái đẹp của

thơ cổ. Điều này là những trở ngại lớn cho việc dạy và học thơ trữ tình trung đại

Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.

* Với phiếu điều tra 2 đến 9:

Các câu hỏi trong phiếu điều tra 2 đến 9 là những câu hỏi buộc HS phải

tiếp cận trực tiếp, làm việc trực tiếp về mặt nội dung và hình thức (cảm thụ trực

tiếp) với các bài thơ cụ thể. Mục đích của chúng tôi trong các phiếu điều tra này

là: tìm hiểu, kiểm nghiệm, xem xét đánh giá việc tiếp cận của HS đối với cụm

thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 ra sao?

31

Khả năng và khó khăn trong việc tiếp cận của HS là như thế nào?

HS viết câu trả lời (theo các câu hỏi trong phiếu điều tra từ 2 đến 9).

Kết quả thu được:

Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong

sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 của HS THPT

Cảm thụ chưa đúng, Lớp Số HS Cảm thụ đúng, đầy đủ chưa đầy đủ

39 11E 25 (64,10%) 12 (35,90%)

37 11G 19 (51,30%) 18 (48,70%)

31 11H 15 (48,39%) 16 (51,71%)

Cộng 107 59 (55,14%) 46 (44,86%)

Từ bảng số liệu trên chúng tôi thấy: số HS cảm thụ đúng, đầy đủ cao hơn

số HS cảm thụ chưa đúng, chưa đầy đủ. Qua các bài viết của các em, chúng tôi

nhận thấy cảm thụ các tác phẩm thơ trữ tình trung đại của các em như sau:

Em Nguyễn Thị Linh (HS lớp 11E) viết: “Qua việc đọc và học các bài

thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, em đã

cảm nhận được cái hay, cái đẹp của thơ cổ, có lòng say mê, yêu quý với nền

văn học dân tộc”.

Qua các bài viết của các em, chúng tôi nhận thấy các em có sự liên

tưởng, tưởng tượng khá nhanh nhạy, phong phú và chính xác về nội dung cũng

như hình thức của các bài thơ. Với phiếu điều tra 4, chúng tôi yêu cầu các em

viết trong thời gian rất ngắn (2 ngày), khi thu phiếu điều tra chúng tôi nhận thấy

có tới trên 50% các em có cách cảm thụ và viết như cách cảm thụ của HS

Hoàng Thị Ngọc Mai (lớp 11E) về bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến

như sau: “Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu vùng đồng bằng Bắc Bộ thật

đẹp và trong sáng với trời thu “xang ngắt”, với nước ao thu “trong veo”, với lá

vàng rơi trước gió hắt hiu, với cần trúc lơ phơ khẽ lay động, với sóng gợn lăn

tăn trên mặt ao, với mây “lơ lửng” trên bầu trời… Một bức tranh mùa thu với

32

nhiều sắc thu, không khí dịu nhẹ, thanh sơ, những chuyển động khe khẽ, các

điệu xanh của cảnh vật: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh

bèo… nhưng nó hơi tĩnh lặng và vắng vẻ “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Qua bức tranh thu nó còn như ẩn chứa nỗi niềm của Nguyễn Khuyến trước

cảnh nước mất nhà tan mà ông không làm gì được”.

Tuy nhiên, việc cảm thụ và lĩnh hội tác phẩm thơ trữ tình của một số em

còn thiên về trực tiếp, nặng về cảm tính: chỉ nhận biết được bề nổi của sự miêu

tả cảnh vật mà chưa phát hiện ra được tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Chẳng

hạn cũng qua phiếu điều tra 4, chúng tôi thấy có đến hơn 40% các em mới chỉ

cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh vật được mô tả mà chưa phát hiện ra tình cảm

của nhà thơ trong việc mô tả đó. Phần lớn các em chỉ viết được như bài viết của

em Phạm Thị Hiền (HS lớp 11G): “Bài thơ vẽ lên khung cảnh mùa thu tươi

sáng, trong đẹp và tĩnh lặng. Trời cao, xanh; sóng nước gợn lăn tăn, gió thu nhè

nhẹ; lá vàng khẽ đưa vèo; ngõ trúc thì quanh co, vắng teo… Trong cảnh thu đó

có người ngồi câu cá trầm ngâm, lặng lẽ, có lẽ đó là Nguyễn Khuyến, và có cả

tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Cảnh thu mô tả rất đặc trưng cho miền đồng

bằng Bắc Bộ Việt Nam”.

Cùng với hạn chế trên về mặt cảm thụ, chúng tôi còn thấy cách diễn đạt,

biểu thị sự cảm thụ thơ của các em bằng ngôn ngữ viết còn rất yếu. Cách diễn

đạt chưa sáng rõ, hành văn chưa mượt mà, còn lủng củng, chưa mạch lạc…

Qua đây chúng tôi thấy rằng bên cạnh những điểm mạnh trong việc cảm

thụ thơ nói chung, thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn 11 tập 1 nói riêng như là sự nhanh nhạy, trực tiếp, liên tưởng, tưởng tượng

phong phú thì khó khăn lớn nhất trong cách cảm thụ của HS là cảm thụ thiếu

chiều sâu lý tính nhằm phát hiện ra tiếng nói trữ tình của các nhà thơ trong các

bài thơ trữ tình trung đại. Đây cũng là một trong những cản trở trong việc dạy

các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11

33

tập 1 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.

Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến những điểm yếu, những khó nhăn

cho HS THPT khi tiếp cận, cảm thụ thơ trữ tình trung đại Việt Nam?

1.2.3.3. Những nguyên nhân, hạn chế của HS THPT khi cảm thụ, tiếp nhận cụm

thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Qua việc khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn

đến tình trạng trên, đó có thể là những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất: Vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa, vốn kiến thức văn học, lịch

sử, ngôn ngữ học và các kiến thức khoa học khác ở HS còn hạn chế.

Thứ hai: Bản thân HS chưa biết cách học, chưa biết cách tiếp nhận,

chiếm lĩnh văn bản thơ trữ tình. Khi tiếp cận một bài thơ cụ thể các em không

biết phải bắt đầu từ đâu, nội dung cụ thể là gì. Tiếp cận văn bản thơ thường các

em đọc một vài lần, khi cảm thụ thường bỏ qua rất nhiều từ ngữ và hình ảnh,

các em cảm thụ theo hướng cá nhân, hiểu đến đâu trả lời đến đó, không hiểu thì

bỏ qua…

Thứ ba: Do ý thức rèn luyện, vượt khó của bản thân HS chưa cao, việc

tự học của HS chưa có chất lượng, dễ dàng bỏ cuộc khi gặp khó khăn…

Thứ tư: Việc hướng dẫn cho HS cảm thụ bài thơ (như ra câu hỏi, hướng

dẫn cách cảm thụ về nội dung và hình thức của một bài thơ, cung cấp thêm tài liệu

liên quan đến việc cảm thụ,…) của giáo viên còn sơ sài, có khi là qua loa chỉ dành

ít phút cuối giờ học dặn dò HS chuẩn bị bài theo câu hỏi sách giáo khoa…

Thứ năm: Thời đại công nghệ thông tin phát triển, các em HS được tiếp

cận với những công nghệ tiên tiến, nhanh nhạy, nhiều thú vui mà sản phẩm của

công nghệ đem lại thật tiện lợi… phần nhiều nó đã choán mất thời gian học tập

của các em. Khi gặp khó khăn trong việc cảm thụ một số em đã buông xuôi

hoặc ngại và sự cảm nhận chỉ còn chờ đến lớp nghe giáo viên giảng rồi ghi

chép lại.

Tóm lại, những nguyên nhân cơ bản được đề cập ở trên là những nguyên

nhân tương đối phổ biến làm hạn chế việc tiếp cận và cảm thụ thơ trữ tình trung

34

đại Việt Nam của HS THPT. Do vậy mà mặc dù rất thích học thơ trữ tình

Trung đại Việt Nam nhưng HS khi học các bài thơ này vẫn chưa phát huy được

hết khả năng của mình, chưa phát huy được khả năng cảm thụ được cái hay, cái

đẹp của thơ cổ. Điều này là những trở ngại lớn cho việc dạy và học thơ trữ tình

35

trung đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.

Chương 2

ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ THUỘC VĂN HỌC TRUNG

ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 THEO

HƯỚNG HÌNH THÀNH NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ CHO HS

2.1. Định hướng chung

Từ những tiền đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vừa nêu ra ở chương

1, luận văn đề xuất định hướng tiếp cận các văn bản thơ theo hướng hình thành

năng lực cảm thụ thẩm mỹ như sau:

Giáo viên sẽ tiến hành hướng dẫn, tổ chức HS đọc hiểu từng văn bản thơ

theo ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với thế giới

hình tượng (khách thể) trong tác phẩm.

Giai đoạn 2: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với thế giới

tâm hồn nhà thơ (chủ thể trữ tình) trong bài thơ.

Giai đoạn 3: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với những

sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả.

Ở giai đoạn 1 và 2, HS sẽ tiến hành các hoạt động (Hđ) sau:

Hoạt động 1: Hình dung, tưởng tượng về thế giới hình tượng trong tác phẩm.

Hoạt động 2: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng.

Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc thẩm mỹ trước hình tượng.

Ở giai đoạn 3, HS sẽ tiến hành các hoạt động:

Hoạt động 1: Phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả về:

- Ngôn từ (từ ngữ, lời thơ…).

- Hình ảnh thơ.

- Nhịp điệu thơ, giọng điệu.

- Kết cấu bài thơ.

Hoạt động 2: Phân tích giá trị thẩm mỹ của những sáng tạo trên.

36

Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc trước những sáng tạo nghệ thuật đó.

Cụ thể, chúng ta có thể hướng dẫn tổ chức HS đọc hiểu từng văn bản thơ

trong cụm thơ Văn học trung đại Việt Nam lớp 11 tập 1 theo ba giai đoạn trên

như sau:

2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ

2.2.1. Về bài thơ Tự tình (Bài II) của Hồ Xuân Hương

Có thể đọc hiểu bài thơ Tự tình bằng hai cách. Cách thứ nhất, đọc hiểu

theo kết cấu của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật: để, thực, luận, kết.

Cách thứ hai, đọc hiểu theo mạch tâm trạng của chủ thể trữ tình, bộc lộ trong

bài thơ từ đầu đến cuối vừa thông qua hình tượng khách thể, vừa bộc lộ trực

tiếp qua lời thơ.

Chúng tôi chọn cách đọc hiểu thứ hai, theo hướng:

Chủ thể trữ tình ở dạng thức nào trong bài thơ?

Chủ thể trữ tình bộc lộ nét tâm trạng gì ở từng cặp câu thơ? Cách diễn tả

tâm trạng của Hồ Xuân Hương tài ba, độc đáo ở chỗ nào?

Giai đoạn 1: HS thâm nhập vào thế giới khách thể trong bài thơ

Cũng như ở nhiều bài thơ khác của thơ thời trung đại, chủ thể trữ tình

trong bài thơ này thuộc dạng thức ẩn chìm.

- Ở hai câu thơ đầu ta có thể hình dung hình tượng nhân vật trữ tình ở bài

thơ này là một người phụ nữ có những đêm ngủ không được, nghe tiếng trống

cầm canh văng vẳng trong đêm khuya, báo cho biết thời gian đang trôi, chạnh

nghĩ đến duyên phận éo le, ngang trái của mình mà cảm thấy tủi hổ, bẽ bàng. Ở

đây, cách diễn đạt tâm trạng đó rất táo bạo: “Trơ cái hồng nhan với nước non”.

Đó là nét độc đáo của thơ Hồ Xuân Hương. Bao giờ cũng miêu trả tình trạng ở

độ tận cùng của nó.

- Hai câu thơ tiếp theo gợi ta hình dung ra: trong đêm khuya thanh vắng,

Xuân Hương ngồi một mình trong cô đơn, đối diện với vầng trăng lạnh, mà đau

đớn cho thân phận của mình. Nàng uống rượu để quên đi nỗi sầu, nhưng say rồi

37

lại tỉnh, rượu không làm nàng quên đi mối sầu. Vì sao vậy? Vì “Vầng trăng

bóng xế khuyết chưa tròn”, có thể hiểu là tuổi người đã lớn mà hạnh phúc chưa

đầy, tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn.

Tình cảnh này Hồ Xuận Hương khiến ta nghĩ đến tình cảm tương tự của

Thúy Kiều: “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình, mình lại thương mình xót

xa” (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Xuân Hương và Thúy Kiều đã từng chịu nỗi

đau ê chề khi tỉnh rượu, lúc trăng tàn, bóng xế.

- Giống như hai câu thơ đầu, hai cầu thơ này cũng có những cảm nhận

khác nhau giữa người đọc.

+ Có người hiểu: “Thiên nhiên cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con

người. Những sinh vật nhỏ bé hèn mọn như đám rêu kia mà cũng không chịu

mềm yếu. Nó phải mọc xiên mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc, lại

rắn chắc hơn, nhọn hoắt hơn để “đâm toạc chân mây”.

+ Có người lại hiểu: “Hồ Xuân Hương bất ngờ vẽ ra hình ảnh thể hiện sự

cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế “xiên ngang mặt đất” soi chiếu

tới, mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hóa ra thân

phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia.

Đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh mà là hình ảnh của tâm trạng,

một tâm trạng bị dồn nén, bức bối, muốn đập phá, muốn “làm loạn”, muốn

được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo

bạo của chính Hồ Xuân Hương.

Về mặt nghệ thuật, ở đây có hai nét đáng chú ý:

+ Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ đã làm nổi bật sự phẫn

uất của tâm trạng. Đảo ngữ là biện pháp nghệ thuật phổ biến trong thơ trung

đại. Ở đây Hồ Xuân Hương đã đặt vị ngữ lên trước chủ ngữ:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn

+ Cách dùng từ “xiên ngang”, “đâm toạc” là cách dùng từ rất Xuân

38

Hương. Nữ sĩ đặc biệt có tài năng khi sử dụng các từ làm định ngữ và bổ ngữ.

Chính những từ ngữ đó đã làm cho cảnh vật trong thơ Xuân Hương bao giờ

cũng cựa động, căng đầy sức sống. Một sức sống mãnh liệt ngay cả trong tình

huống bi thảm nhất.

- Đọc hai câu kết, ta cảm nhận được rất rõ tâm trạng chán chường buồn

tủi của người phụ nữ.

“Ngán” là chán ngán ở mức độ tột cùng. Hồ Xuân Hương ngán điều gì?

Nàng ngán chuyện “xuân đi xuân lại lại”, nghĩa là thời gian cứ trôi đi, hết mùa

xuân này đến mùa xuân khác cứ đi qua, mà điều ta hằng mong ước lại không

đến. Cuộc đời sao mà éo le, bạc bẽo! Trời chỉ cho ta một chút tình yêu và hạnh

phúc, chỉ cho một “mảnh tình”. “Mảnh tình” đã là bé nhỏ, mỏng manh, vậy mà

lại còn “san sẻ” đi, cho nên chỉ còn lại “tí con con”. Các cụm từ “xuân lại lại”,

“tí con con” làm cho câu thơ có giọng điệu oán thán, chán chường, tủi phận. Có

lẽ đây là tâm trạng của người đàn bà phải làm lẽ.

Giai đoạn 2: HS thâm nhập thế giới tâm hồn nhà thơ

Bài thơ Tự tình (Bài II) của Hồ Xuân Hương có điểm đặc biệt. Thế giới

hình tượng mà tác giả nói tới đã hàm chứa thế giới tâm trạng nhà thơ. Chính vì

vậy mà khi thâm nhập vào thế giới khách thể trong bài thơ là chúng ta đã cùng

lúc thâm nhập thế giới tâm hồn nhà thơ.

Đọc bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng Hồ Xuân

Hương đang ở trong một thời điểm rất bức xúc trước duyên phận của mình. Bà

đau buồn, phẫn uất trước tình cảnh bi kịch của mình về tình duyên và đang khát

khao được hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

Giai đoạn 3: HS đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả

Tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” được thể hiện rõ qua bài thơ

này ở nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh.

- Từ ngữ được dùng rất độc đáo, táo bạo: “Trơ cái hồng nhan”, “xiên

ngang”, “đâm toạc”, “ngán nỗi”…

- Hình ảnh thiên nhiên qua cái nhìn của người phụ nữ có cá tính mạnh

39

mẽ và bản lĩnh, trở nên rất dữ dội:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

2.2.2. Về bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến

1. Nói tới nhà thơ Nguyễn Khuyến, không ai là không nói tới chùm thơ

thu của ông. Đó là một hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ

đối với nền văn học nước nhà.

Cả ba bài trong chùm thơ thu (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) đều được viết

theo thể thất ngôn bát cú Luật Đường. Qua ba bài thơ ấy, Nguyễn khuyến đưa

ta về với mùa thu ở vùng quê đồng bằng Bắc Bộ với những nét rất đặc trưng.

Thu vịnh đưa ta đến với những nét nổi bật về mùa thu ở vùng đồng chiêm trũng

Bắc Bộ vào một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng,… Thu điếu đưa ta

đến với một cái ao thu, vào một chiều thu, có một ông già ngồi câu cá trên một

chiếc thuyền bé tẻo teo… Thu ẩm đưa ta đến với một ngôi nhà cỏ năm gian

thấp le te, nơi nhà thơ ngồi uống rượu mà quan sát những nét thu trong nhiều

ngày và ở những thời điểm khác nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu bài Thu điếu trong

mối liên hệ với cả chùm thơ thu.

2. Bài thơ Thu điếu nói về chuyện câu cá mùa thu nhưng chủ yếu là tả

cảnh mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào bài thơ ít nhiều tâm sự. Bức

tranh mùa thu hiện lên trong bài thơ gồm ba mảng hình ảnh:

- Hình ảnh cái ao mùa thu với nước trong veo, mặt ao lạnh lẽo, một chiếc

thuyền câu bé tẻo teo, có gió hắt hiu làm mặt ao sóng gợn và vài chiếc lá bay vèo.

- Hình ảnh bầu trời xanh ngắt với mấy đám mây lơ lửng và làng xóm thì

có ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

- Hình ảnh ông già ngồi câu cá, cúi mình tựa lên gối chờ đợi cá đớp mồi,

có tiếng động của cá quẫy dưới chân bèo.

Bao trùm lên cảnh vật là một sự im lìm, vắng lặng, mênh mông của mùa

thu. Đây là một bức tranh giản dị, thanh tú, hết sức gần gũi, quen thuộc, mang

đậm hồn quê xưa… Nguyễn Khuyến đã gửi gắm vào bức tranh ấy ít nhiều tâm

40

sự. Nhà thơ tâm sự điều gì? Đã có những cảm nhận khác nhau về điều đó.

Vậy là có hai nội dung chính trong bài Thu điếu: bức tranh mùa thu câu

cá và tâm sự của nhà thơ.

Ngoài ra, từ bài thơ, ta biết được tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở khả

năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy và tâm hồn tinh nhạy của ông trong cảm nhận

cảnh vật.

Dạy - học bài thơ theo hướng trên thì nội dung bài học sẽ gồm:

- Bức tranh mùa thu câu cá;

- Tâm sự của nhà thơ;

- Tài nghệ bậc thầy của Nguyễn Khuyến về thơ Nôm.

Bằng một hệ thống lời gợi dẫn, giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh thâm nhập thế

giới hình tượng thơ để biến văn bản thành tác phẩm trong từng bạn đọc trẻ tuổi,

khiến họ rung cảm trước vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu và tâm hồn thi nhân.

Giai đoạn 1: HS thâm nhập vào thế giới khách thể trong bài thơ

Bài thơ này làm hiện lên trong sự hình dung của người đọc một bức tranh

mùa thu ở làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Bức tranh mùa thu ở đây trước hết là cảnh vật trên một cái ao về mùa

thu trước mắt người câu cá, nước ao trong veo, khí thu lạnh lẽo, mặt ao sóng

gợn lăn tăn bởi làn gió thu hắt hiu thổi nhè nhẹ. Gió còn bứt chiếc lá vàng chao

nghiêng qua trước mặt thi nhân.

- Tiếp đó là cảnh từ ao mà nhìn lên cao: nền trời xanh ngắt, một vài đám

mây lơ lửng, rồi nhìn xa vào vào làng xóm là ngõ trúc quanh co, vắng teo,

không có người đi lại. Toàn bộ cảnh sắc mùa thu ấy đều được cảm nhận bởi

giác quan tinh tế của thi nhân và được vẽ lại bằng một ngọn bút tài hoa.

- Và cuối cùng là hình ảnh người câu cá trong tư thế tựa gối, ôm cần câu

chờ cá đớp mồi, chờ lâu mà chẳng được gì. Bao trùm lên tất cả là cái vắng lặng

mênh mông của đất trời, chỉ có một tiếng động duy nhất vẳng lên: Tiếng cá đớp

mồi làm xáo động nước dưới chân bèo. Tiếng động đó càng làm tăng thêm sự

41

tĩnh mịch chung của đất trời vào thu.

Cái hồn của mùa thu ở làng quê Việt Nam ngày trước hiện lên rất rõ

trong bức tranh thu ở đây.

Tất cả những hình ảnh trong bức tranh thu đều là những cảnh vật thân

thuộc nhất của làng quê Việt Nam, đều mang những nét đặc trưng của mùa thu

vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Bao trùm lên toàn bộ cảnh vật là một sự

tĩnh lặng và đượm buồn. Sự im lìm, tĩnh lặng thấm đẫm trong từng chi tiết kết

dệt nên bức tranh: từ màu sắc, âm thanh đến sự chuyển động của các cảnh vật.

- Màu sắc thì hài hòa chỉ một gam màu dịu mát, nước trong veo, sóng

biếc, trời xanh ngắt, lá vàng. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Cái thú vị của bài

Thu điếu ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời,

xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi” (Đọc thơ Nguyễn

Khuyến, Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971,tr.44).

- Cảnh vật thì lay động rất khẽ, rất nhẹ: sóng gợn, lá khẽ đưa vèo, mây lửng

lơ, người tựa gối, cá đớp mồi. GS.Lê Trí Viễn nhận xét: “Đặc biệt cảnh vật đều như

lắng mình vào: ao thì lạnh lẽo, nước thì trong veo, trời thì xanh ngắt, ngõ thì quanh

co… Tất cả nhẹ đi, nhỏ lại, lắng vào mình nên cảnh thu vắng lặng, tĩnh mịch một

cách lạ lùng” (Đến với thơ hay, tập một, NXB Giáo dục, 2004, tr.126).

- Âm thanh thì yên ắng: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”, tiếng động

nhỏ nhoi ấy càng làm rõ thêm cái tĩnh lặng của cảnh vật. Đây chính là thủ pháp

lấy động để nói tĩnh rất quen thuộc của nghệ thuật thơ cổ phương Đông.

Vì những nét riêng biệt đó nên nhà thơ Xuân Diệu đã cho rằng: “Bài Thu

điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.

Giai đoạn 2: HS thâm nhập thế giới tâm hồn nhà thơ

Chủ thể trữ tình ở bài thơ này, cũng giống như nhiều bài thơ khác ở thời

trung đại, là ở dạng thức ẩn chìm. Nhà thơ gửi gắm tâm hồn mình qua thế giới

khách thể và lời thơ.

Về vấn đề này đã có sự khác nhau trong cảm nhận của các nhà nghiên cứu.

- Có người cho rằng: “Trong hai bài Thu vịnh và Thu điếu là cách cảm

42

nhận thiên nhiên tinh tế của một người nhàn nhã, lòng thư thái”.

- Song lại có người hiểu ngược lại: “Cái nhàn nhã, cái thư thái chỉ là hiện

tượng, chỉ là bề mặt của hai bài thơ trên chứ bản chất của hồn thơ Nguyễn

Khuyến chừng như không một chút thư nhàn. Tức cảnh sinh tình, mượn cảnh

vật, mượn mùa thu, ao thu để nói lên tâm trạng u uẩn, u hoài, u tịch, cô đơn,

thương nước đã mất về tay giặc chính là chiều sâu tâm thức của hồn thơ

Nguyễn Khuyến. Cám cảnh thay nỗi “tựa gối ôm cần lâu chẳng được” của nhà

thơ, như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở

đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm,

thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu nước

vào cảnh thu: ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng ta nghe một

tiếng “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” như nhà thơ ngầm an ủi mình rằng còn

cá tức nhiên còn nước” (Trần Mạnh Hảo, Văn học, phê bình, nhân diện, NXB

Văn học, 1999, tr.24 và tr.298). (Giáo viên khơi gợi học sinh trao đổi, tranh

luận về hai ý kiến trên).

Giai đoạn 3: HS đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả

- Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở bài thơ này trước hết thể hiện ở

khả năng sử dụng tiếng Việt bậc thầy của ông. Lời thơ giản dị, trong sáng, hồn

nhiên mà diễn đạt rất tinh tế sự vật và tâm trạng con người. Hệ thống từ ngữ và

hình ảnh ở đây đã thâu tóm cái hồn của tạo vật: ao thu lãnh lẽo, nước trong

veo, thuyền câu bé tẻo teo, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, trời xanh ngắt,

ngõ trúc quanh co, khách vắng teo…

- Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở bài thơ này còn thể hiện ở việc

gieo vần “eo”: veo, teo, vèo, bèo.

Vần “eo” được Nguyễn Khuyến sử dụng rất tài tình bởi vì nó góp phần

biểu đạt hai khía cạnh của nội dung: vừa gợi ra không gian mùa thu như hẹp lại,

nhỏ lại, vừa gửi gắm được tâm trạng u buồn của thi nhân.

2.2.3. Về bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Thương vợ là một bài thơ đặc sắc của Tú Xương. Bài thơ đã được đưa

43

vào nhà trường phổ thông từ lâu, lại được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, bình

giảng trên nhiều sách báo. Song, không thể đưa tất cả vào lớp học, giáo viên

dạy văn một lần nữa phải “sư phạm hóa” nội dung kiến thức đã có. Chúng tôi

xác định hướng dạy học bài Thương vợ như sau:

Giai đoạn 1: HS thâm nhập vào thế giới khách thể trong bài thơ -

Hình tượng Bà Tú.

Hai câu 1 - 2

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

- Câu thơ mở đầu nói về cảnh làm ăn buôn bán, tảo tần của bà Tú. Bà

buôn bán vất vả, khó nhọc vì phải làm “quanh năm”, nghĩa là ngày nào tháng

nào cũng như vậy. Nơi buôn bán của bà lại là “mom sông”. Ở thành phố Nam

Định thời ấy có con sông Vị Hoàng chạy qua và “mom sông” là chỗ đất nhô ra

ở bờ sông, là nơi cheo leo, chật chội, chênh vênh. Vậy là bà buôn bán không

chỉ vất vả mà còn gian nan, nguy hiểm. Trong bài Văn tế sống vợ của Tú

Xương có câu: “Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười” cũng là để nói

về những vất vả, khó nhọc ấy của bà Tú.

- Câu thơ thứ hai nói về vai trò trụ cột gia đình của bà Tú. Bà buôn bán

tần tảo quanh năm là để nuôi cả nhà: “Năm con với một chồng”. Cả cái gánh

nặng gia đình đều đặt lên đôi vai của bà, vậy mà bà vẫn gánh được, bà là người

vợ thật đảm đang.

Hai câu 3 - 4

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu thơ trên của Tú Xương gợi ta nhớ đến câu ca dao quen thuộc:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Ca dao xưa dùng hình ảnh “Con cò lặn lội bờ sông” để nói về sự vất vả,

44

lam lũ của những người phụ nữ nông dân trước đây. Bà Tú cũng buôn bán gạo

bên sông Vị Hoàng, hình ảnh con cò trong ca dao xưa rất gần gũi với cuộc sống

của bà nên Tú Xương đã lấy hình ảnh con cò trong ca dao để nói về vợ mình.

Song, thơ của Tú Xương đã làm cho hình ảnh bà Tú cụ thể hơn, sinh động hơn:

Bà Tú làm vợ ông Tú là rơi vào số phận thân cò, phải lặn lội đêm hôm, một

mình “nơi quãng vắng”, cả những “buổi đò đông” đầy những bất trắc, hiểm

nguy, nơi đó người ta chen chúc, xô đẩy, giành giật nhau, lời qua tiếng lại eo

sèo... Hai câu 3 và 4 làm hiện lên cuộc sống vất vả, gian truân của bà Tú cùng

những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng,

nuôi con. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Hai câu 5 - 6

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Trong bốn câu đầu của bài thơ, Tú Xương kể và tả bà Tú về những điều

ở bên ngoài, dễ nhìn thấy. Đến đây, nhà thơ tả về chiều sâu tâm trạng của vợ.

Ta nghe như tiếng bà Tú than thở về thân phận mình.

Lấy ông Tú làm chồng là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai,

thôi đành chịu theo số phận, không dám phàn nàn, oán trách, kêu ca gì. Câu thơ

này của Tú Xương lại gợi ta nhớ đến câu ca dao xưa: “Một duyên, hai nợ, ba

tình - Chiêm bao lần khuất bên mình năm canh”, hoặc “Chồng gì anh, vợ gì tôi

- Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”. Tú Xương đã vận dụng rất sáng tạo cách

nghĩ, cánh nói của dân gian để nói về đức tính hi sinh, nhẫn nhịn của vợ mình.

Bà Tú ý thức rõ làm vợ ông Tú là số phận, nên âu đành chịu, do vậy mà vất vả

khó nhọc mấy (năm nắng mười mưa) bà đâu “dám quản công” (nghĩa là chịu

đựng mọi khó khăn vất vả, không phàn nàn, oán trách, kêu ca). Đó cũng là đức

tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Giai đoạn 2: HS thâm nhập thế giới tâm hồn nhà thơ

- Qua hai câu thơ đầu, chúng ta thấy được:

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện rõ qua hai câu thơ đầu

45

là thấu hiểu được công lao to lớn của vợ. Tục ngữ có câu: “Gái có công, chồng

chẳng phụ”. Ở đây, công lao to lớn của bà Tú đã được ông Tú biết đến và nói ra

một cách cụ thể, hóm hỉnh. Một mình bà nuôi đủ sáu người (năm con, một

chồng) ông Tú đã bày tỏ lòng biết ơn vợ và thấy rõ sự kém cỏi của mình, tự

trào mình. Đó là nét đẹp của nhân cách Tú Xương.

Cách nói của ông Tú ở đây cũng rất đặc sắc.

“Nuôi đủ năm con với một chồng”, mỗi chữ trong câu thơ đó chất chứa

bao tình ý. Một mình bà Tú phải nuôi cả nhà, “một phải gánh sáu, thế là nặng,

phải gánh và gánh được, thế là đảm. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ

vừa đủ nuôi con, nuôi chồng. Vậy mới thật là vất vả: đã gắng hết sức rồi. Vậy

mới thật đảm: nặng đến thế cũng gánh xong, khó thế cũng chu toàn. Bà nuôi

cho ông lũ con đàn, thế là công. Không những thế bà, cũng nuôi nốt cả chồng

thế là ơn với chính ông. Cho nên ông sợ lẫn lộn phải tách riêng ra: “Năm con/

với/ một chồng. Cách nói thật đặc biệt, nhà thơ tự hạ mình xuống ngang hàng

với con, nhà thơ tự thấy mình là kẻ ăn bán, làm cho gánh gia đình trên vai vợ

nặng hơn. Đó không chỉ tri công mà còn tri ân, hơn cả tri ân, đó là hối hận, ăn

năn. Cái ăn năn hối hận ấy lại được nói bằng một nụ cười hóm hỉnh rất Tú

Xương” (Lê Trí Viễn, Những bài giảng văn ở Đại học, NXB Giáo dục).

- Câu 3 - 4: Hình ảnh và âm điệu của hai câu thơ cho ta thấy rõ tấm lòng

xót thương da diết của Tú Xương đối với vợ. Ông Tú tỏ ra thấu hiểu hết tất cả

những vất vả, gian truân của vợ mình. Ông thương vợ quặn lòng khi nghĩ đến

những “khi quãng vắng”, “những buổi đò đông” một mình vợ cô đơn, không có

người đỡ đần. Ca dao xưa đã có câu: “Con đi mẹ dặn câu này - Sông sâu chớ

lội, đò đầy chớ qua”, vậy mà bà Tú đã vượt qua tất cả. Ông càng cảm phục vợ

hơn vì bà vốn con nhà dòng danh tiếng (Văn tế sống vợ), vậy mà khi lấy ông,

bà cũng phong trần, lam lũ như ai...

- Câu 5 - 6: Đến câu thơ này, ta thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương

đã đến độ thương cảm, thấm thía. Ông cảm phục và biết ơn sự hi sinh rất mực

của vợ. Không những thế, ông còn tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải

46

gánh chịu, một nhân cách như vật thật đáng trân trọng.

- Câu 7 -8: Sau khi bộc lộ tình thương sâu sắc đối với vợ, nhà thơ đã cất

tiếng chửi “thói đời ăn ở bạc”. Có thể diễn nôm câu thơ ấy như sau: Cha mẹ cái

thói đời, ăn ở sao mà bạc! Cái thói đời ấy là gì vậy? Phải chăng đó là tập tục

của ngày xưa: đã là học trò thì thường là “Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”, vợ

phải nuôi chồng ăn học nếu chưa thi đỗ được làm quan. Tú Xương dù rất có tài,

đi thi Hương từ lúc mười lăm tuổi, nhưng thi nhiều lần vẫn chỉ đỗ tú tài (nên

thường gọi là Tú Xương). Chính cái thói đời ấy đã đưa lại cho bà Tú một ông

chồng vô tích sự, ông chồng không biết và không thể cùng lam lũ chân tay, lặn

lội giúp bà. “Ăn ở bạc” là nói tới việc không giữ được trọn vẹn trước sau như

một trong quan hệ giữa con người với con người, mà ở đây là quan hệ giữa ông

Tú với bà Tú. Liệu ông Tú có bạc bẽo, hờ hững với vợ không? Ông Tú tự thấy

mình “ăn ở bạc” vì đã trút hết gánh nặng gia đình lên vai bà Tú, khiến cho bà

Tú có chồng mà “cũng như không”. Vậy ra, nhà thơ đã thay lời bà Tú để tự

chửi mình. Âu cũng là cách nhà thơ tri ân vợ.

Có nhà nghiên cứu đã bình luận: Hiểu nỗi vất vả của vợ, thấy vợ có công

với con đã đành, còn có ơn riêng với mình, cho nên thương quý vợ. Cao hơn,

chân tình hơn, nhà thơ còn tự phán xét rất nghiêm khi thấy mình là món nợ đè

lên cả số phận của bà. Vì vậy, nhà thơ đã thác ra lời vợ để tự chửi rủa mình.

Tấm lòng như vậy ở một nhà nho là hiếm và đáng quý. Đáng quý hơn vì nó

đậm tình người. Lời thơ, chi tiết thơ chân thực, giản dị mà nồng nàn, kín đáo,

pha lẫn nụ cười hóm hỉnh. Bài thơ đã góp vào “Bảo tàng con người Việt Nam”

(chữ của Nguyễn Tuân) không chỉ một mẫu bà Tú, người vợ mà cả một mẫu

ông Tú, người chồng, rất nhân bản, rất Việt Nam.

Có lẽ chỉ có Tú Xương mới đưa tiếng chửi hằng ngày của người lao động

vào thơ tài tình đến thế. Thế mới biết Tú Xương gần gũi với cuộc sống dân dã

đến chừng nào.

Giai đoạn 3: HS đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả

- Tài thơ Nôm của Tú Xương thể hiện trước hết ở việc Việt hóa thơ

47

Đường luật. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định ngặt

nghèo về vần, luật, niêm, đối… Vậy mà ở đây ý thơ trôi chảy, liền một mạch

như thói quen suy nghĩ và cách nói quen thuộc của người bình dân xưa.

- Tài thơ Nôm của Tú Xương còn thể hiện ở nghệ thuật xây dựng hình

tượng thơ: tác giả xây dựng hình tượng bà Tú bằng hai cách:

Cách 1: đứng ở ngoài (ngôi thứ 3) để kể và tả bà Tú một cách khách quan.

Cách 2: hóa thân vào tâm hồn bà Tú đẻ nói đúng tâm tư và giọng điệu

của bà (câu thơ thứ 5 và 6).

Bên cạnh đó tác giả cũng dựng lên hình tượng của chính mình bằng hai cách:

Cách 1: gửi gắm kín đáo nỗi niềm của mình sau những câu thơ kể và tả

về bà Tú.

Cách 2: bày tỏ trực tiếp tâm tư, nỗi niềm của mình bằng những tiếng

chửi rất Tú Xương.

- Tài thơ Tú Xương còn thể hiện ở việc sử dụng từ thuần Việt, thành ngữ và

vận dụng ca dao rất sáng tạo: “lặn lội”, “eo sèo”, “thân cò”, “mặt nước”, “Một

duyên hai nợ”, “âu đành phận”, “Năm nắng mười mưa”, “dám quản công”.

- Tài thơ Tú Xương còn thể hiện ở chỗ nhà thơ đã tạo nên một giọng điệu

thơ rất đa dạng và rất Tú Xương: lúc thì trữ tình đằm thắm; lúc thì tự trào rất

hóm hỉnh (câu 2); lúc thì chửi bới gay gắt (câu 7 - 8),…

2.2.4. Về bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Bài thơ này tuy không dài nhưng đọc - hiểu nó không dễ dàng, vì nhiều

lẽ: Bài thơ có nhiều từ Hán, từ cổ, điển tích... khó hiểu lại có những hình ảnh,

những ý thơ đòi hỏi phải có hiểu biết về cuộc đời Nguyễn Công Trứ và cuộc

sống, lối sống của các nhà nho từ cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX mới có thể

cảm nhận được cái hay của nó. Vì vậy, giải tỏa những vướng mắc về ngôn ngữ

trong tiếp nhận văn bản ở học sinh là việc trước tiên phải làm ở bài học này.

Sau đó sẽ giúp các em tìm hiểu dạng thức của chủ thể trữ tình ở bài thơ này.

Dạng thức của chủ thể trữ tình ở bài thơ này khác hẳn hầu hết với các

48

bài thơ Đường luật thời trung đại. Chủ thể trữ tình trong bài thơ tồn tại ở dạng

thức “nổi”, nghĩa là chính nhà thơ nêu rõ biệt hiệu của mình trong bài thơ:

“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” và kể rõ học hàm, chức tước, công trạng mà

tác giả đã trải qua. Đây là nét độc đáo có một không hai ở bài thơ này. Bởi vậy

để làm phát triển ở HS năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học bài thơ này,

chúng tôi sẽ hướng dẫn các em thâm nhập vào hình tượng “Ông Hi Văn” - chủ

thể trữ tình - tác giả theo trật tự vốn có của văn bản:

1. Ông Hi Văn biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do nhưng vẫn ra

làm quan.

2. Ông Hi Văn “ngất ngưởng” khi làm quan trong triều.

3. Ông Hi Văn “ngất ngưởng” khi về hưu.

4. Con người tác giả hiện lên trong bài thơ.

5. Tìm hiểu tài thơ của tác giả.

Giai đoạn 1: Thâm nhập vào hình tượng ông Hi Văn trong văn bản

- Ông Hi Văn biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do nhưng vẫn ra

làm quan.

Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ mở đầu bằng một câu chữ Hán

có tính chất tuyên ngôn thể hiện chí làm trai: mọi việc trong khoảng trời đất

chẳng có việc nào không là phận sự của ta:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lý sống đúng đắn và tình cảm

chân thành của tác giả. Đó là khát vọng, là quyết tâm khi sinh ra là đấng nam

nhi thời phong kiến. Nó thật đáng trân trọng nhất là khi nó được thể hiện một

cách trực tiếp với một thái độ chân thành của nhà thơ.

Tiếp đó, Nguyễn Công Trứ tự xưng tên mình, tự khẳng định tài năng

của mình:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Trước Nguyễn Công Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng đã có

49

lần xưng danh:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi

(Mời trầu)

Và Nguyễn Du cũng đã có lần xưng tên trong một câu thơ ai oán ở Độc

Tiểu Thanh ký:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Không biết ba trăm năm sau

Thiên hạ ai người khóc Tố Như)

Nhưng quả thật chưa có ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn

mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Điều đặc biệt ở đây là tác giả

nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.

Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về mình, gọi

hiệu mình ra mà nói là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Ông là người có ý

thức rất rõ trách nhiệm với đời. Ông có tài năng về nhiều mặt và từng giữ nhiều

trọng trách trong triều đình nhà Nguyễn. Ông biết rõ làm quan là mất tự do

(vào lồng) nhưng vẫn ra làm quan vì có ra làm quan thì mới có cơ hội thể hiện

tài năng, đem tài năng cống hiến cho đời, làm trọn nghĩa vua tôi (theo lí tưởng

của nhà Nho). Chỉ có điều khác thường là trong lúc hành đạo, ông Hi Văn

không uốn mình theo khuôn khổ của lễ giáo, mà lại sống với bản lĩnh của cá

nhân nên đã trở thành “tay ngất ngưởng”.

- Ông Hi Văn ngất ngưởng khi làm quan trong triều (6 câu đầu):

Ở bài thơ này, Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra rất tự hào về tài năng, phẩm

chất và lối sống ngang tang ấy của mình. Thực ra, đó là lối sống tích cực dám

là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân của mình.

Chúng ta biết rằng, trong khi làm quan cho triều đình nhà Nguyễn,

Nguyễn Công Trứ là người có tài năng, nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực văn hóa

50

xã hội, từ văn hóa, kinh tế đến quân sự. Một trong những công trạng nổi bật của

ông khi làm Dinh điền sứ đã tổ chức nhân dân khai hoang lấn biển ở hai huyện

Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Nhân dân hai vùng ấy đã lập

đền thờ ông từ những ngày ấy, phải chăng vì thế mà ông sống “ngất ngưởng”?

Nhưng đường làm quan của Nguyễn Công Trứ đầy những thăng giáng

bất thường, có khi đang làm Tổng đốc, Thượng thư thì bị giáng xuống làm Tri

huyện, đang làm quan Tuần phủ thì bị cách chức tuột xuống làm lính thú…

Phải chăng lối sống “ngất ngưởng” của ông (sống có bản lĩnh cá nhân) không

phù hợp với khuôn khổ chật hẹp của xã hội phong kiến chuyên chế?

- Ông Hi Văn “ngất ngưởng” khi về hưu (10 câu thơ ở giữa bài)

Cũng giống như ở đoạn trên, mở đầu mười câu thơ tiếp theo này cũng bắt

đầu bằng một câu chữ Hán: “Đô môn giải tổ chi niên”, có nghĩa là: năm ở kinh

đô, cởi giây đeo ấn để nghỉ việc quan. Đấy là năm 1848, Nguyễn Công Trứ 70

tuổi, cáo quan ở kinh đô về quê nghỉ hưu.

Về quê nghỉ hưu, Nguyễn Công Trứ sống như thế nào? Ông tự hào kể

lại rằng:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Tương truyền ông về hưu, thường cưỡi con bò vàng có đeo nhạc ngựa.

Ông còn lấy mo cau buộc vào cuống đuôi bò, người ta hỏi thì nói là “để che

miệng thế gian”. Về nghỉ, ông dựng nhà ở núi Đại Nải (rú Nài) cạnh chùa

Cảm Sơn thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Ông thường lên viếng cảnh ở

chùa đó nhưng lại đưa theo các cô hầu non, vợ bé. Phan Bội Châu đã có thơ

vịnh việc này:

Hà như Uy Viễn tướng quân thú

51

Túy ủng hồng nhi thượng pháp môn.

Dịch nghĩa: Sao có được cái thú của Uy Viễn tướng quân, rượu say đưa

các cô gái trẻ lên chùa.

Quả là Nguyễn Công Trứ đã bất chấp lề thói, sống ngang tang ngất

ngưởng khiến cho “Bụt cũng nực cười”, có lẽ ông sống ngang tang như vậy vì

ông cho rằng: ông hơn người không chỉ là quyền cao chức trọng mà lại còn

dám treo ấn từ quan để về làm người bình thường. (Sử sách ghi rằng vì chán

ngán cuộc sống trong vòng danh lợi, năm 70 tuổi, Nguyễn Công Trứ xin từ

quan nhưng không được. Năm sau, ông tiếp tục dâng sớ xin nghỉ, vua Tự Đức

ưng thuận và để ông về trí sĩ với hàm Thượng thư).

Khi nghỉ hưu, Nguyễn Công Trứ còn bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của

mình về cách sống: “Được mất dương dương người thái thượng”. Tác giả dùng

điển “tái ông thất mã” (ông già gác của ải mất ngựa) để ra mặt tự đắc (dương

dương) rằng: chuyện được mất ở đời là chuyện thường tình, con người ta cần

bình thản đón nhận mọi sự: “Khen chê phơi phới ngọn đông phong” có nghĩa

là: Ông bỏ ngoài tai chuyện khen chê, thỏa thích vui chơi với bất cứ những gì

mình muốn:

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng

Không Phật, không Tiên, không vướng tục

Ở đây Nguyễn Công Trứ muốn nói tới chuyện đi hát ả đào ngày xưa. Hát

ả đào là môn nghệ thuật mà Nguyễn Công Trứ say mê từ nhỏ vì vậy, khi về

hưu, ông lại tiếp tục thú chơi tao nhã ấy, không hề vướng bận đến sự rang buộc

của thân phận.

Giai đoạn 2: Thâm nhập tìm hiểu con người tác giả trong bài thơ:

Niềm tự hào của ông Hi Văn

Ở khổ thơ cuối cùng, Nguyễn Công Trứ tổng kết lại rằng: có thể không

phải danh tướng, danh nho nhưng ở vị trí nào, dù ở hoàn cảnh nào, ông vẫn

trước sau trọn vẹn đạo vua tôi. Đó là phẩm chất cao quý nhất ở một nhà nho, ở

một bầy tôi của vua. Phẩm chất đó không phải ai cũng có được. Ông Hi Văn tự

52

hào nhất điều đó và lý giải vì sao ông sống ngất ngưởng:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật là những người tài giỏi đời Tống. Trái Tuân

là người thời Hán. Đó là các bậc danh thần có tài lớn và có nhân cách cao

thượng. Nguyễn Công Trứ nghĩ rằng: Ông chẳng qua là bậc danh thần nhưng

ông đã cống hiến tài năng và nhiệt huyết cho đời, cho triều đại, nghĩa vua tôi

ông đã thực hiện trọn vẹn. Ở đời, ai có thể ngất ngưởng về điều đo bằng ông?

Như vậy, cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là xuất phát từ quan

niệm của Nho giáo, đề cao lòng trung quân. Đồng thời còn xuất phát từ ý thức

cá nhân, tâm lý hưởng thụ của thời đại bấy giờ.

Giai đoạn 3: HS đến với tài thơ của tác giả

- Tài thơ của Nguyễn Công Trứ trước tiên thể hiện ở thể thơ hát nói với

loại hình câu thơ điệu nói. Thể loại hát nói phù hợp với việc thể hiện cái tôi

phóng khoáng “ngoài vòng cương tỏa” ngất ngưởng của nhà thơ. “Bài ca ngất

ngưởng” là bài hát nói biến cách gồm 19 câu không có phần nưỡu. Ngay cấu

trúc bài thơ đã thể hiện sự phóng túng, phá cách, không theo khuôn khổ của

nhà Nho tài tử. Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định

chặt chẽ trong bài thơ đã cho phép tác giả phô diễn một cách khoái hoạt nguồn

cảm hứng dồi dào của mình. Nhịp điệu, vần luật đối xứng đều không bị gò bó,

rất thích hợp với nội dung bài thơ vừa có tính tự sự vừa có chất trữ tình. Bài thơ

thực sự là tiếng nói của cái tôi tự do, chơi ngông, đa tình khác người.

- Tài thơ của Nguyễn Công Trứ cũng được thể hiện ở giọng điệu trữ tình.

Khi tự đánh giá về bản thân, Nguyễn Công Trứ công khai, dám chịu trách

nhiệm. Ông khẳng định kể cả trong triều hay ngoài xã hội, ông luôn ngất

ngưởng. Giọng điệu tự hào, sảng khoái, thể hiện sự tâm đắc thật sự với phong

cách ngất ngưởng này. Bài thơ có chất tự sự do việc liệt kê các sự kiện song

53

đậm chất trữ tình. Giọng điệu tự thuật đem lại chất trữ tình cho bài thơ.

- Tài thơ của Nguyễn Công Trứ còn được thể hiện ở sự hấp dẫn của ngôn từ.

Sự hấp dẫn của ngôn từ trong bài ca được thể hiện qua lớp từ từ vựng

mang tính chất nôm na, thông tục. Lớp từ vựng nôm na, thông tục đã được

“điều động” một cách linh hoạt, đó là vào lồng, tay kiếm cung, một đôi dì, nực

cười, phường…

Sự hấp dẫn của ngôn từ trong bài ca còn được thể hiện ở tính chất khẩu

ngữ của ngôn từ với khá nhiều từ láy: vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ, khi

tự xưng thì dùng các đại từ như tay, ông; khi biểu lộ hồn thơ lai láng thì Kìa núi

nọ phau phau mây trắng; khi buộc phải so sánh thì Chẳng Trái, Nhạc cũng vào

phường Hà, Phú… Tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một

vẻ sống động và gần gũi, hoàn toàn phù hợp với cốt cách con người của tác giả,

cũng phù hợp với âm hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại

trực tiếp mà là đối thoại ngầm với những cách sống, những kiểu sống khác -

tầm thường và hèn kém). Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ như tiếp nhận một lời

nói, giọng nói trực tiếp. Độc giả có thể hoàn toàn tưởng tượng thấy đi kèm với

các câu thơ là ánh mắt giễu cợt, là nụ cười hóm hỉnh hài hước, là dáng vẻ lúc

nghênh ngang của một kẻ ung dung bước giữa đường đời.

2.2.5. Về bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Sa hành đoản ca) của Cao Bá Quát

- Đây là một bài thơ chữ Hán không dễ hiểu và đã có những cách đọc

hiểu khác nhau:

+ Có người hiểu rằng bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong

những bằng chứng về tinh thần phê phán của Cao Bá Quát đối với học thuật và

chế độ nhà Nguyễn nói chung.

+ Có người lại hiểu rằng: “Chủ đề tác phẩm là ca ngợi những con người

hi sinh quên mình vì lí tưởng, đề cao phẩm chất và trách nhiệm cao quý của kẻ

sĩ đối với cuộc sống, đồng thời bộc lộ sự hoang mang, tuyệt vọng của của con

người không tìm được lối ra”.

54

- Hướng đọc hiểu Bài ca ngắn đi trên bãi cát của chúng tôi như sau:

Đây là một bài thơ trữ tình mà trong đó Cao Bá Quát bày tỏ những cảm

xúc, suy nghĩ, tâm sự của ông về cảnh bế tắc trong cuộc đời của kẻ sĩ trong xã

hội phong kiến thời nhà Nguyễn. Những cảm xúc, suy nghĩ của Cao Bá Quát

xuất phát từ đời sống, gắn liền với những hình ảnh sinh động của cuộc sống. Từ

một hiện tượng thiên nhiên (cảnh một người đi trên bãi cát) ông liên tưởng đến

hiện tượng xã hội (Xưa nay phường danh lợi - Tất tả trên đường đời), suy nghĩ,

tâm sự về tình trạng bất lực, bế tắc và đặt ra vấn đề cần phải thoát ra khỏi cảnh

bế tắc đó. Vì vậy sẽ đọc hiểu bài thơ theo kết cấu của nó và hướng sự chú ý vào

hình tượng chủ thể trữ tình trong bài thơ - mạch cảm xúc và suy nghĩ của Cao

Bá Quát về cuộc đời và lẽ sống.

- Theo hướng tiếp cận đó, nội dung bài học sẽ gồm mấy nét sau đây về

chủ thể trữ tình:

+ Tả thực về cảnh tượng người đi trên bãi cát dài;

+ Liên tưởng đến cảnh người đời tất tả vì danh lợi;

+ Nhận thấy không thể cứ đi mãi trên bãi cát danh lợi đó.

Giai đoạn 1: HS thâm nhập vào thế giới khách thể trong bài thơ

Bài thơ bắt đầu từ việc tả thực cảnh tượng người đi trên bãi cát dài.

Trước mắt ta như hiện lên cảnh tượng một người đang đi trên bãi cát dài mênh

mông; người đó bước đi trầy trật, khó khăn (đi một bước lại lùi một bước), đi

một cách mải miết, cắm đầu cắm cổ mà đi (Mặt trời đã lặn chưa dừng được)

với một tâm trạng đau khổ (lệ tuôn rơi).

- Có nhà thơ đã viết: “Cái hay của thơ gồm nhiều phẩm chất. Một trong

những phẩm chất đó là sự bất ngờ. Bất ngờ trước hết là phát hiện:

Bãi cát dài lại bãi cát dài!

Đi một bước như lùi một bước.

Cao Bá Quát đã phát hiện như thế trong bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát.

Đó là một cảm giác tinh nhạy, một nhận xét thật tài của người đi trên cát. Hơn

55

thế nữa, cảm giác ấy diễn tả rất đúng nỗi lo sợ của một người nào đó đang cố

gắng vượt khỏi một vùng cát rộng trong khi chiều đang xuống nhanh… Với

Cao Bá Quát, đi một bước như lùi một bước “trên bãi cát rộng lúc trời sắp tối,

nhằm bộc lộ một trạng thái nguy kịch của số phận con người. Đó là lời cấp báo,

là tiếng nói tố cáo sức cản phá, hủy hoại mọi cố gắng vươn tới của con người

trong xã hội phong kiến thời Nguyễn” (Trúc Thông, Mấy suy nghĩ về thơ, Tạp

chí Văn nghệ Quân đội, số 7, 1982).

- Có người hiểu rằng: “Hình ảnh người đi trên bãi cát dài là một hình ảnh

mang tính biểu trưng. Đó là hình ảnh con người đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ

mịt”. Có người lại cho rằng hình ảnh “người đi trên cát” có ý nghĩa biểu tượng:

Con đường danh lợi đầy nhọc nhằn, đầy chông gai”.

- Có người khác lại hiểu rằng: “Bãi cát không còn là bãi cát nữa, mà trở

thành cảnh bế tắc trong cuộc đời” (Nguyên Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối

thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, NXB Giáo dục, 1997, tr.546.).

Giai đoạn 2: HS thâm nhập thế giới tâm hồn nhà thơ

Đang từ chỗ tả thực cảnh người đi trên cát, tác giả bỗng chuyển sang đối

thoại như với ai đó:

Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận không nguôi!

Có thể diễn ra văn xuôi như sau: Anh đã không học được phép ngủ khi

leo núi hay lội nước thì đừng có trách mình, hành hạ thân xác của mình để đeo

đuổi công danh. Câu thơ đã chứa đựng tâm trạng chán nản của tác giả.Cao Bá

Quát đã nhận thấy con đường danh lợi đầy nhọc nhằn, đầy chông gai:

Xưa nay phường danh lợi,

Tất tả trên đường đời.

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,

Người say vô số, tỉnh bao người?

Người đời hễ thấy ở đâu có quán rượu ngon đều đổ xô đến, mấy ai tỉnh

56

táo thoát khỏi sự cám dỗ của “rượu” công danh. (Có người khác hiểu rằng:

Người đời đã tất tả ngược xuôi để tranh giành quyền lợi, để hưởng thụ rượu

ngon, thịt béo, quên đi trách nhiệm với cuộc đời. Tác giả chua xót nhận thấy

“Người say vô số, tỉnh bao người”).

Sáu câu thơ tiếp theo đã chuẩn bị cho sự phân vân của tác giả ở sáu câu

cuối. Sự phân vân này được trình bày dưới hình thức đặt ra trước con người

một vấn đề để họ suy nghĩ, hành động.

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt

Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?

Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”

Phía bắc núi Bắc, núi muôn lớp,

Phía nam núi Nam, sóng dào dạt,

Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Có thể hiểu: Có nên đi tiếp trên bãi cát danh lợi nữa không? Trở thành

phường danh lợi ư? Không được rồi! Bởi vì đường phẳng thì mờ mịt, đường nguy

hiểm thì nhiều. Hay đi ở ẩn tại núi phía bắc, tại biển phía nam để giữ riêng mình

trong sạch giữa cuộc đời ô trọc? Hay đứng hoài trên bãi cát vô tận và vô vị này?

Rõ ràng, Cao Bá Quát đã “bắt đầu cảm thấy bế tắc, ông lắm lúc thấy mình

như người đi trên một bãi cát mênh mông chẳng biết về đâu. Cuộc đời đang kích

thích ông phải tự lựa chọn lấy một lối thoát trong bước đường cùng” (Vũ Khiêu,

Lời giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, NXB Văn học,1976).

Đọc bài thơ này ta mới hiểu rõ vì sao nhà thơ Cao Bá Quát đã trở thành

lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân ở Mĩ Lương chống lại triều đình nhà

Nguyễn và hi sinh trong một trận đánh với quân đội triều đình.

Giai đoạn 3: HS đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả

Từ hai khổ thơ đầu ta nhận thấy được đặc điểm của thơ Cao Bá Quát là:

“không trình bày suy nghĩ theo lối giảng giải tư biện, tách khỏi đời sống, mà là

suy nghĩ từ đời sống, gắn liền với những hình ảnh sinh động của cuộc sống, có

57

cảm xúc làm nền tảng”.

“Thơ Cao Bá Quát cảm xúc dồi dào, đồng thời lại có nhiều chất suy nghĩ.

Cảm xúc và suy nghĩ là hai mặt kết hợp chặt chẽ trong thơ ông. Thông thường,

nhà thơ ít khi bó hẹp cảm xúc trong giới hạn cụ thể của đối tượng phản ánh hay

miêu tả, mà có xu hướng mở rộng hoặc nâng cao do sự liên tưởng từ hiện tượng

này đến hiện tượng khác, từ một hiện tượng thiên nhiên đến một hiện tượng của

xã hội, của con người, hay từ một đối tượng cụ thể đến một nhận thức có tính

chất phổ biến khái quát . Nhà thơ viết về cây cỏ trong vườn, về cơn mưa, về bãi

cát… tất cả đều là những đề tài có giới hạn cụ thể mà không nông cạn, bởi vì

chính qua các đề tài ấy, do sự liên tưởng mà nhà thơ đặt ra được biết bao nhiêu

vấn để xã hội và nhân sinh có ý nghĩa” (Nguyễn Lộc, Tài liệu đã dẫn, tr.546).

Những định hướng trên có thể là cơ sở tích cực cho giáo viên trong việc

soạn giáo án để dạy cho học sinh nhằm phát huy những năng lực ở học sinh,

nhất là năng lực cảm thụ cái hay, cái đẹp.

Trên sơ sở của định hướng chung, người viết đưa ra định hướng dạy học

cụ thể theo hướng của luận văn với hai bài thơ trong cụm thơ Văn học trung đại

Việt Nam lớp 11 tập 1: Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của

58

Trần Tế Xương.

Chương 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

Dựa vào định hướng dạy học đã được đề xuất ở chương 2, chúng tôi tiến

hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi và tính hiệu quả của

định hướng dạy học mà luận văn đề xuất đối với tác phẩm thơ Thương vợ của

Trần Tế Xương. Chương 3 này bao gồm 2 phần (3.1. Thiết kế dạy học bài thơ

Thương vợ của Trần Tế Xương; 3.2. Dạy học thực nghiệm đối chứng bài thơ

Thương vợ của Trần Tế Xương) sẽ trình bày quá trình và kết quả thực nghiệm

sư phạm của chúng tôi.

3.1. Dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến

3.1.1. Phương án dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến của

sách giáo viên (Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD, 2007, GS. Phan Trọng Luận tổng

chủ biên).

* Về mục tiêu bài học

Giúp HS:

- Cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh thu điển hình cho mùa thu làng cảnh

Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Vẻ đẹp tâm hồn thi nhân: tấm lòng yêu thiên nhiên, quê hương đất

nước, tâm trạng thời thế.

- Thấy được tài năng thơ Nôm Nguyễn Khuyến với bút pháp nghệ thuật

tả cảnh, tả tình, nghệ thuật gieo vần, sử dụng từ ngữ.

* Về phương pháp dạy học

- Khi tìm hiểu Câu cá mùa thu, cần liên hệ so sánh với Vịnh mùa thu

(Thu vịnh) và Uống rượu mùa thu (Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến.

- Có hai cách tìm hiểu bài thơ:

+ Theo bố cục thơ Đường luật: đề, thực, luận, kết.

59

+ Theo nội dung cảm xúc: cảnh thu và tình thu.

* Về nội dung dạy học

Đặc điểm bài học

- Giảng bài thơ Câu cá mùa thu cần đặt nó trong chùm thơ thu của Nguyễn

Khuyến để vừa thấy được vẻ đẹp chung, vừa thấy được nét riêng ở từng bài.

- Bài thơ có hai bức tranh: bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng,

qua cảnh thu mà thấy được tình thu của thi nhân.

- Gợi tả cảnh thu, tình thu, tác giả vừa sử dụng bút pháp nghệ thuật cổ

điển vừa có những sáng tạo riêng. Bút pháp nghệ thuật cổ điển với thu thủy

(nước thu), thu thiên (trời thu), thu diệp (lá thu), ngư ông (người câu cá), nghệ

thuật lấy động tả tĩnh. Những sáng tạo riêng với hình ảnh mang vẻ đẹp riêng

của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, mùa thu vùng chiêm chũng Bình Lục, Hà Nam

với cách dùng vần eo rất thần tình,…

Trọng tâm bài học

- Cảnh mùa thu trong Câu cá mùa thu với những chi tiết điển hình cho

mùa thu làng cảnh Việt Nam.

- Tình thu trong Câu cá mùa thu: cách cảm nhận cảnh thu tinh tế thể hiện

tình yêu thiên nhiên đất nước, tâm trạng thời thế đầy uẩn khúc của tác giả.

- Những thành công về nghệ thuật của bài thơ: nghệ thuật tả cảnh mùa

thu, sử dụng từ ngữ, cách gieo vần eo,… để diễn tả tâm trạng.

Tiến trình tổ chức dạy học

a. Trên cơ sở Tiểu dẫn của SGK, GV giới thiệu ngắn gọn tác giả Nguyễn

Khuyến và chùm thơ thu của ông.

b. Gợi ý tìm hiểu bài Câu cá mùa thu theo cách thứ hai

- Cảnh thu

+ Điểm nhìn để cảm nhận cảnh thu của tác giả:

Nếu ở Vịnh mùa thu, cảnh thu được đón nhận từ cao xa tới gần rồi từ gần

đến cao xa thì ở Câu cá mùa thu, cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao xa rồi

60

từ cao xa trở lại gần: từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn

tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu. Từ một khung ao hẹp,

không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.

+ Cảnh trong Câu cá mùa thu “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng

cảnh Việt Nam (Xuân Diệu). Không khí mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ,

thanh sơ của cảnh vật (màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, trời xanh ngắt;

đường nét:, chuyển động: sóng “hơi gợn tí”, lá vàng “khẽ đưa vèo”, tầng mây

“lơ lửng”; hòa sắc tạo hình: “Cái thú vị của Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao,

xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang

của chiếc lá thu rơi” (Xuân Diệu, Đọc thơ Nguyễn Khuyến, trong Nguyễn

Khuyến - Về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999; ao thu nhỏ,

chiếc thuyền câu theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng như thu lại). Nét

riêng của làng quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã được gợi lên từ khung ao hẹp, từ

cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co.

+ Cảnh trong Câu cá mùa thu là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm

buồn. Không gian trong Câu cá mùa thu là một không gian tĩnh, vắng người,

vắng tiếng: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Các chuyển động rất nhẹ, rất

khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa. Tiếng cá

đớp mồi càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Về câu thơ cuối

này, có hai cách hiểu: “đâu có cá” (từ đâu với nghĩa là “đâu có” mang tính chất

phủ định), hoặc hiểu là “cá đớp mồi đâu có” (từ đâu với nghĩa là “đâu có”

mang tính chất khẳng định). Có lẽ nên hiểu theo cách thứ hai để thấy được

nghệ thuật lấy động nói tĩnh - một thủ pháp quen thuộc của thơ cổ phương

Đông. Cái tĩnh bao trùm lại được gợi lên từ cái động rất nhỏ là tiếng cá đớp

mồi. (GV có thể gợi ý để HS thảo luận về hai cách hiểu này, sau đó kết luận

nên lựa chọn theo cách hiểu nào).

- Tình thu

+ Nói chuyện câu cá nhưng thực ra không chủ ý vào việc câu cá. Nói câu

61

cá nhưng thực ra là để đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng.

Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Tĩnh lặng trong sự cảm nhận

độ trong veo của nước, cái “hơi gợn tí” của sóng, độ rơi khe khẽ của lá. Đặc

biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ âm

thanh tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn

tượng đậm đến thế, là bởi tâm cảnh đang trong sự tĩnh lặng tuyệt đối.

+ Không gian tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, uẩn

khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bức tranh Câu cá mùa thu xuất hiện nhiều

gam màu xanh gợi cảm giác se lạnh: độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của

sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái se lạnh của cảnh thu, của ao thu, trời thu thấm

vào tâm hồn nhà thơ hay chính cái lạnh từ tâm hồn nhà thơ lan tỏa vào cảnh

vật? Dễ thường có cả hai. Có ý kiến cho rằng chữ vèo trong câu thơ “Lá vàng

trước gió khẽ đưa vèo” không chỉ tả ngoại cảnh mà còn gợi tâm cảnh. (Có thể

so sánh chữ vèo trong câu thơ của Nguyễn Khuyến với chữ vèo trong câu thơ

của Tản Đà: “Vèo trông lá rụng đầy sân”).

Qua bài Câu cá mùa thu, người đọc cảm nhận ở Nguyễn Khuyến một

tâm hồn gắn bó thiết tha với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm

kín nhưng không kém phần sâu sắc.

- Thành công nghệ thuật

Ngôn ngữ trong Câu cá mùa thu giản dị, trong sáng đến kỳ lạ, có khả

năng diễn đạt những biểu hiện rất tinh tế của sự vật, những uẩn khúc thầm kín

rất khó giãi bày trong tâm trạng. Đặc biệt vần eo - “tử vận”, oái oăm, khó làm -

được Nguyễn Khuyến sử dụng một cách thần tình. Đây không đơn thuần là

hình thức chơi chữ mà chính là dùng vần để biểu đạt nội dung. Đặt trong văn

cảnh bài Câu cá mùa thu, vần eo góp phần diễn tả một không gian vắng lặng,

thu nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc cá nhân.

Câu cá mùa thu thể hiện một trong những đặc sắc của nghệ thuật phương

Đông: lấy động tả tĩnh. Để gợi cái yên vắng của cảnh vật, cái tĩnh lặng của tâm

trạng, tác giả đã xen vào bức tranh thu một nét động duy nhất: “Cá đâu đớp

62

động dưới chân bèo”.

d. Củng cố bài học

- Về nội dung: Cảnh mang vẻ đẹp điển hình cho mùa thu làng cảnh Việt

Nam. Cảnh đẹp nhưng phảng phất buồn, vừa phản ánh tình yêu thiên nhiên đất

nước, vừa cho thấy tâm sự thời thế của tác giả.

- Về nghệ thuật: Thơ xưa khi viết về mùa thu thường dùng hình ảnh ước lệ

sen tàn cúc nở, lá ngô đồng dụng, rừng phong lá đỏ. Thơ thu Nguyễn Khuyến đã

có những nét vẽ hiện thực hơn, hình ảnh, từ ngữ đậm đà chất dân tộc.

Kiểm tra, đánh giá

Kiểm tra, đánh giá khả năng hiểu bài của HS bằng các câu hỏi:

- Những từ ngữ, hình ảnh nào gợi lên cảnh thu mang được nét riêng của

mùa thu làng quê xứ Bắc Việt Nam?

- Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về hình ảnh Nguyễn Khuyến qua

Câu cá mùa thu?

- Nêu nhận xét về thành công nghệ thuật của bài thơ.

3.1.2. Định hướng dạy học bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến do

Nói tới nhà thơ Nguyễn Khuyến, không ai là không nói tới chùm thơ thu

luận văn đề xuất

của ông. Đó là một hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ đối

với nền văn học nước nhà.

Cả ba bài trong chùm thơ thu (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) đều được viết

theo thể thất ngôn bát cú Luật Đường. Qua ba bài thơ ấy, Nguyễn khuyến đưa

ta về với mùa thu ở vùng quê đồng bằng Bắc Bộ với những nét rất đặc trưng

Thu vịnh đưa ta đến với những nét nổi bật về mùa thu ở vùng đồng chiêm trũng

Bắc Bộ vào một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng,… Thu điếu đưa ta

đến với một cái ao thu, vào một chiều thu, có một ông già ngồi câu cá trên một

chiếc thuyền bé tẻo teo… Thu ẩm đưa ta đến với một ngôi nhà cỏ năm gian

thấp le te, nơi nhà thơ ngồi uống rượu mà quan sát những nét thu trong nhiều

ngày và ở những thời điểm khác nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu bài Thu điếu trong

63

mối liên hệ với cả chùm thơ thu.

Bài thơ Thu điếu nói về chuyện câu cá mùa thu nhưng chủ yếu là tả cảnh

mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào bài thơ ít nhiều tâm sự. Bức tranh

mùa thu hiện lên trong bài thơ gồm ba mảng hình ảnh:

- Hình ảnh cái ao mùa thu với nước trong veo, mặt ao lạnh lẽo, một chiếc

thuyền câu bé tẻo teo, có gió hắt hiu làm mặt ao sóng gợn và vài chiếc lá bay vèo.

- Hình ảnh bầu trời xanh ngắt với mấy đám mây lơ lửng và làng xóm thì

có ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

- Hình ảnh ông già ngồi câu cá, cúi mình tựa lên gối chờ đợi cá đớp mồi,

có tiếng động của cá quẫy dưới chân bèo.

Bao trùm lên cảnh vật là một sự im lìm, vắng lặng, mênh mông của mùa

thu. Đây là một bức tranh giản dị, thanh tú, hết sức gần gũi, quen thuộc, mang

đậm hồn quê xưa… Nguyễn Khuyến đã gửi gắm vào bức tranh ấy ít nhiều tâm

sự. Nhà thơ tâm sự điều gì? Đã có những cảm nhận khác nhau về điều đó.

Vậy là có hai nội dung chính trong bài Thu điếu: bức tranh mùa thu câu

cá và tâm sự của nhà thơ.

Ngoài ra, từ bài thơ, ta biết được tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở khả

năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy và tâm hồn tinh nhạy của ông trong cảm nhận

cảnh vật.

Dạy - học bài thơ theo hướng trên thì nội dung bài học sẽ gồm:

- Bức tranh mùa thu câu cá;

- Tâm sự của nhà thơ;

- Tài nghệ bậc thầy của Nguyễn Khuyến về thơ Nôm.

Bằng một hệ thống lời gợi dẫn, giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh thâm nhập

thế giới hình tượng thơ để biến văn bản thành tác phẩm trong từng bạn đọc trẻ

tuổi, khiến họ rung cảm trước vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu và tâm hồn thi nhân.

Thâm nhập bức tranh mùa thu câu cá

Gợi dẫn: Bằng trí tưởng tượng và ngôn ngữ của mình, anh (chị) hãy tái

64

hiện bức tranh mùa thu trong bài thơ này.

Yêu cầu:

Bài thơ này làm hiện lên trong sự hình dung của người đọc một bức tranh

mùa thu ở làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Bức tranh mùa thu ở đây trước hết là cảnh vật trên một cái ao về mùa

thu trước mắt người câu cá, nước ao trong veo, khí thu lạnh lẽo, mặt ao sóng

gợn lăn tăn bởi làn gió thu hắt hiu thổi nhè nhẹ.Gió còn bứt chiếc lá vàng chao

nghiêng qua trước mặt thi nhân.

- Tiếp đó là cảnh từ ao mà nhìn lên cao: nền trời xanh ngắt, một vài đám

mây lơ lửng, rồi nhìn xa vào vào làng xóm là ngõ trúc quanh co, vắng teo,

không có người đi lại. Toàn bộ cảnh sắc mùa thu ấy đều được cảm nhận bởi

giác quan tinh tế của thi nhân và được vẽ lại bằng một ngọn bút tài hoa.

- Và cuối cùng là hình ảnh người câu cá trong tư thế tựa gối, ôm cần câu

chờ cá đớp mồi, chờ lâu mà chẳng được gì. Bao trùm lên tất cả là cái vắng lặng

mênh mông của đất trời, chỉ có một tiếng động duy nhất vẳng lên: Tiếng cá đớp

mồi làm xáo động nước dưới chân bèo. Tiếng động đó càng làm tăng thêm sự

tĩnh mịch chung của đất trời vào thu.

Gợi dẫn: Theo anh (chị), điều gì đã tạo nên cái hồn của bức tranh thu ở đây?

Yêu cầu:

Cái hồn của mùa thu ở làng quê Việt Nam ngày trước hiện lên rất rõ

trong bức tranh thu ở đây.

Tất cả những hình ảnh trong bức tranh thu đều là những cảnh vật thân

thuộc nhất của làng quê Việt Nam, đều mang những nét đặc trưng của mùa thu

vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Bao trùm lên toàn bộ cảnh vật là một sự

tĩnh lặng và đượm buồn. Sự im lìm, tĩnh lặng thấm đẫm trong từng chi tiết kết

dệt nên bức tranh: từ màu sắc, âm thanh đến sự chuyển động của các cảnh vật.

- Màu sắc thì hài hòa chỉ một gam màu dịu mát, nước trong veo, sóng

biếc, trời xanh ngắt, lá vàng. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Cái thú vị của bài

65

Thu điếu ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời,

xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi” (Đọc thơ Nguyễn

Khuyến, Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971, tr.44).

- Cảnh vật thì lay động rất khẽ, rất nhẹ: sóng gợn, lá khẽ đưa vèo, mây

lửng lơ, người tựa gối, cá đớp mồi. GS. Lê Trí Viễn nhận xét: “Đặc biệt cảnh

vật đều như lắng mình vào: ao thì lạnh lẽo, nước thì trong veo, trời thì xanh

ngắt, ngõ thì quanh co… Tất cả nhẹ đi, nhỏ lại, lắng vào mình nên cảnh thu

vắng lặng, tĩnh mịch một cách lạ lùng” (Đến với thơ hay, tập một, NXB Giáo

dục, 2004, tr.126).

- Âm thanh thì yên ắng: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”, tiếng động

nhỏ nhoi ấy càng làm rõ thêm cái tĩnh lặng của cảnh vật. Đây chính là thủ pháp

lấy động để nói tĩnh rất quen thuộc của nghệ thuật thơ cổ phương Đông.

Vì những nét riêng biệt đó nên nhà thơ Xuân Diệu đã cho rằng: “Bài Thu

điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.

Tìm hiểu tâm trạng của thi nhân

Gợi dẫn: Theo anh (chị), nhà thơ đã gửi gắm tâm trạng gì ở bài thơ này?

Yêu cầu:

Về vấn đề này đã có sự khác nhau trong cảm nhận của các nhà nghiên cứu.

- Có người cho rằng: “Trong hai bài Thu vịnh và Thu điếu là cách cảm

nhận thiên nhiên tinh tế của một người nhàn nhã, lòng thư thái”.

- Song lại có người hiểu ngược lại: “Cái nhàn nhã, cái thư thái chỉ là hiện

tượng, chỉ là bề mặt của hai bài thơ trên chứ bản chất của hồn thơ Nguyễn

Khuyến chừng như không một chút thư nhàn. Tức cảnh sinh tình, mượn cảnh

vật, mượn mùa thu, ao thu để nói lên tâm trạng u uẩn, u hoài, u tịch, cô đơn,

thương nước đã mất về tay giặc chính là chiều sâu tâm thức của hồn thơ

Nguyễn Khuyến,… Cám cảnh thay nỗi “tựa gối ôm cần lâu chẳng được” của

nhà thơ, như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang

ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước

66

lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu

nước vào cảnh thu: ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng ta

nghe một tiếng “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” như nhà thơ ngắm an ủi mình

rằng còn cá tức nhiên còn nước” (Trần Mạnh Hảo, Văn học, phê bình, nhân

diện, NXB Văn học, 1999, tr.24 và tr.298). Giáo viên khơi gợi học sinh trao

đổi, tranh luận về hai ý kiến trên.

Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến

Gợi dẫn: Anh (Chị) có những phát hiện gì về tài nghệ thơ Nôm của

Nguyễn Khuyến ở bài thơ này?

Yêu cầu:

- Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở bài thơ này trước hết thể hiện ở

khả năng sử dụng tiếng Việt bậc thầy của ông. Lời thơ giản dị, trong sáng, hồn

nhiên mà diễn đạt rất tinh tế sự vật và tâm trạng con người. Hệ thống từ ngữ và

hình ảnh ở đây đã thâu tóm cái hồn của tạo vật: ao thu lãnh lẽo, nước trong veo,

thuyền câu bé tẻo teo, sóng biển gợn tí, lá vàng đưa vèo, trời xanh ngắt, ngõ

trúc quanh co, khách vắng teo…

- Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến ở bài thơ này còn thể hiện ở việc

gieo vần “eo”: veo, teo, vèo, bèo.

Vần “eo” được Nguyễn Khuyến sử dụng rất tài tình bởi vì nó góp phần

biểu đạt hai khía cạnh của nội dung: vừa gợi ra không gian mùa thu như hẹp lại,

nhỏ lại, vừa gửi gắm được tâm trạng u buồn của thi nhân.

3.2. Dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

3.2.1. Phương án dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương trong sách

giáo viên (Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD,2007, GS Phan Trọng Luận tổng chủ biên)

* Về mục tiêu bài học

Giúp HS:

- Cảm nhận được hình ảnh bà Tú: vất vả, đảm đang, thương yêu và lặng

lẽ hy sinh vì chồng con.

- Thấy được tình cảm yêu thương, quý trọng của Trần Tế Xương dành cho

67

người vợ. Qua những lời tự trào, thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm sự của nhà thơ.

- Nắm được những thành công về nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giản dị,

giàu sức biểu cảm, vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian, sự kết hợp

giữa giọng điệu trữ tình và tự trào.

* Về phương pháp dạy học

- Đặt bài Thương vợ trong đề tài viết về bà Tú của Trần Tế Xương để

thấy nét chung và riêng của bài thơ.

- Qua hình ảnh bà Tú, qua tấm lòng Tú Xương đối với vợ thấy được vẻ

đẹp nhân cách của Tú Xương.

- Khai thác sắc thái biểu cảm, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật tu

từ. Chú ý nghệ thuật đối của thơ đường.

* Về nội dung dạy học

Đặc điểm bài học

- Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với

những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại.

- Bài thơ có hai hình ảnh: hình ảnh bà Tú và hình ảnh ông Tú.

+ Hình ảnh bà Tú được khắc họa trực tiếp với cuộc sống vất vả và đức

tính đảm đang, chịu thương, chịu khó.

+ Hình ảnh ông Tú hiện lên qua tình cảm thương yêu, quý trọng vợ, qua

những lời tự trách bản thân của tác giả.

- Bài thơ thể hiện tâm sự, cuộc sống cá nhân nhưng mang ý nghĩa xã hội:

phê phán thói đời “ăn ở bạc”.

Trọng tâm bài học

a. Phân tích được hình ảnh bà Tú: cuộc sống vất vả, lam lũ; Đức tính chịu

khó, đảm đang, thương chồng, thương con, hy sinh thầm lặng vì chồng con.

b. Phân tích được hình ảnh ông Tú với vẻ đẹp của tấm lòng và vẻ đẹp của

nhân cách: Tấm lòng yêu thương, quý trọng, tri ân người vợ; Nhân cách: tự trách

mình, nhận ra khuyết điểm của bản thân lại càng thương yêu, quý trọng vợ.

c. Tài năng thơ của Trần Tế Xương trong việc sử dụng hình ảnh, ngôn

68

ngữ văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống, các biện pháp nghệ thuật tu từ; Vận

dụng hình ảnh con cò trong ca dao, các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “năm

nắng mười mưa”, sử dụng khẩu ngữ với lời chửi; Sử dụng nghệ thuật đối của

thơ Đường luật, nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ 3 và 4.

Tiến trình tổ chức dạy học

a. Đọc Tiểu dẫn SGK, giới thiệu ngắn gọn về tác giả và đề tài bà Tú

trong thơ Trần Tế Xương.

b. Hướng dẫn đọc văn bản thơ

c. Tiến trình tổ chức bài giảng theo hình tượng nhân vật, có kết hợp với

trình tự kết cấu của bài thơ.

* Hình ảnh bà Tú qua nỗi lòng thương vợ của ông Tú.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất

vả, gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú.

- Nỗi vất vả, gian truân của bà Tú:

+ Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Câu vào đề

như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình ảnh bà Tú tần tảo, tất

bật ngược xuôi: “Quanh năm buôn bán ở mom song”.

Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu

địa điểm. “Quanh năm” là suốt cả năm, không trừ ngày nào, dù mưa hay nắng.

“Quanh năm” còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu

phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là “mom song” - phần đất ở bờ

sông nhô ra phía lòng sông.

+ Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tần tảo, buôn bán ngược xuôi

của bà Tú.

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò

trong ca dao để nói về bà Tú.

Cần thấy được những sáng tạo của Tú Xương khi vận dụng hình ảnh,

ngôn ngữ của văn học dân gian. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất

69

hiện giữa cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao: “Con cò lặn

lội bờ sông - Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”) mà còn trong cái rợn

ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ “khi quãng vắng” tác giả đã nói lên được cả

thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Có bản

chép “nơi quãng vắng”, thay khi bằng nơi đã là bỏ đi cái rợn ngợp của thời

gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. Cách đảo ngữ - đưa từ lặn lội lên đầu câu, cách

thay con cò bằng thân cò nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, gợi nỗi

đau thân phận.

+ Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự

vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn

bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời

qua tiếng lại. “Buổi đò đông” đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn “khi quãng

vắng”. Trong ca dao, người mẹ từng căn dặn con: “Con ơi nhớ lấy câu này - Sông

sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn,

mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc.

Hai câu thực đối nhau về từ ngữ (“khi quãng vắng” đối với “buổi đò

đông”) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý đẻ làm nổi bật sự vất vả, gian truân của bà

Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong cảnh chen chúc làm ăn. Hai

câu thơ nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm

lòng xót thương da diết.

- Đức tính cao đẹp của bà Tú:

+ Bà Tú là người đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con:

Nuôi đủ năm con với một chồng.

+ Bà Tú là người giàu đức hy sinh. Trong hai câu luận, Tú Xương một

lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

70

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp

nhận sự vất vả vì chồng vì con.

Ở câu thơ trên, nắng, mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm

chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (“năm nắng mười

mưa”) vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương

chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

* Hình ảnh ông Tú qua nỗi lòng thương vợ.

- Yêu thương, quý trọng, tri ân vợ:

+ Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp

hình ảnh hai người: bà Tú hiện ra trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh

mới nhận ra.

+ Ở bài Thương vợ, ông Tú xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn thể hiện trong

từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không

chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng”,

nhà thơ Xuân Diệu viết: “… thì ra chồng cũng là một thứ con còn dại. Đếm

con, năm con, chứ ai lại đếm chồng, một chồng - tại vì phải nuôi như con cho

nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi đủ, càng đọc câu thơ càng nhiều ý vị”

(Xuân Diệu, Thơ Trần Tế Xương, Ti Văn hóa Nam Hà xuất bản, 1970).

- Con người có nhân cách qua lời tự trách:

+ Ông Tú không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông

là do duyên, nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ đời

mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Sự “hững hờ”

của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của “thói đời” bạc bẽo. Câu thơ

Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án: “Có chồng hờ

hững cũng như không”.

+ Xã hội xưa “trọng nam khinh nữ”, coi người phụ nữ là thân phận phụ

thuộc: “xuất giá tong phu” (lấy chồng theo chồng), “phu xướng, phụ tùy”

71

(chồng nói, vợ theo). Một nhà nho như Tú Xương dám song phẳng với bản

thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, không những

đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người

như thế là một nhân cách đẹp.

+ Lời chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương tự rủa mát mình nhưng lại

mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi “thói đời” bạc bẽo, vì thói đời là một

nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án

thói đời bạc bẽo nói chung.

d. Củng cố bài học

- Về nội dung: Tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương thể hiện

qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú.

Qua bài thơ, người đọc không những thấy được hình ảnh bà Tú mà còn thấy

được những tâm sự và vẻ đẹp nhân cách Tú Xương.

- Về nghệ thuật: Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, vận dụng sáng tạo

hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian (hình ảnh thân cò lặn lội, sử dụng nhiều

thành ngữ), ngôn ngữ đời sống (cách nói khẩu ngữ, sử dụng tiếng chửi).

- Liên hệ mở rộng để thấy được nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Kiểm tra, đánh giá

Kiểm tra, đánh giá khả năng hiểu bài của HS bằng các câu hỏi:

- Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh bà Tú qua bài thơ? Vì sao có thể

nói: Tình thương vợ của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian

truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú?

- Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về con người Tú Xương qua bài

Thương vợ?

3.2.2. Định hướng dạy học bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương do luận

văn đề xuất

Thương vợ là một bài thơ đặc sắc của Tú Xương. Bài thơ đã được đưa

vào nhà trường phổ thông từ lâu, lại được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, bình

72

giảng trên nhiều sách báo. Song, không thể đưa tất cả vào lớp học, giáo viên

dạy văn một lần nữa phải “sư phạm hóa” nội dung kiến thức đã có. Chúng tôi

xác định hướng dạy học bài Thương vợ như sau:

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài thơ theo lối truyền thống, nghĩa là tìm

hiểu từng cặp câu, theo trật tư vốn có của nó trong bài thơ Nôm thất ngôn bát

cú luật Đường một cách rạch ròi. Cụ thể là, mỗi cặp câu thơ sẽ được tìm hiểu ở

ba khía cạnh:

- Nói gì về công lao và phẩm hạnh của bà Tú (bề mặt văn bản)?

- Thể hiện điều gì về tình thương vợ của Tú Xương (ẩn chìm sâu hình

ảnh bà Tú)?

- Nghệ thuật giãi bày độc đáo của tác giả (ở cặp câu thơ đó).

Cuối cùng, khắc sâu ấn tượng trong học sinh về hình ảnh bà Tú, hình ảnh

ông Tú.

* Xác định thể loại văn bản

Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình.

- Nét độc đáo của Thương vợ là vừa đậm chất tự sự, vừa đậm chất trữ tình;

có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa khách thể trữ tình và chủ thể trữ tình.

- Nhưng trọng tâm, nét chủ yếu vẫn là trữ tình.

* Định hướng tiếp cận văn bản

Ta có thể tiếp cận văn bản Thương vợ theo hai cách:

Cách 1: Thâm nhập vào thế giới khách thể, sau đó tiếp cận tâm hồn nhà

thơ với tư cách chủ thể trữ tình, cuối cùng đi vào khám phá những tài năng của

tác giả ở toàn bài thơ theo hướng “bổ dọc”.

Cách 2: Tiếp cận bài thơ theo trật tự vốn có của nó: 4 liên.

Tiếp cận văn bản theo cách này nghĩa là tìm hiểu, khám phá văn bản ở

từng cặp câu thơ hình tượng khách thể trữ tình (bà Tú), và hình tượng chủ thể

trữ tình (ông Tú). Cuối cùng, ta đưa ra ý nghĩa xã hội của bài thơ và tài thơ của

73

tác giả.

* Xác định nội dung bài học

3 nội dung: - Hình tượng bà Tú.

- Hình tượng ông Tú

- Tài thơ của Tú Xương.

A. Mục tiêu cần đạt

* Kiến thức

Giúp HS:

- Cảm nhận được hình ảnh bà tú và tình cảm thương yêu, quý trọng

người vợ của tác giả.

- Những tâm sự của nhà thơ.

- Phong cách Trần Tế Xương: cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu

sắc, kết hợp giữa trữ tình và trào phúng.

* Kỹ năng

- Đọc - hiểu thơ trữ tình trung đại theo đặc trưng thể loại.

- Phân tích, bình giảng bài thơ,

* Thái độ

- Giáo dục lòng thương yêu, quý trọng gia đình.

* Hình thành và phát triển năng lực ở HS

- Năng lực tự học.

- Năng lực giải quyết vấn đề.

- Năng lực sáng tạo.

- Năng lực giao tiếp.

- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.

- Năng lực cảm thu ̣ thẩm mỹ…

B. Tiến trình bài học

Hoạt động 1: Trải nghiệm

- Mục tiêu: Tạo không khí vui vẻ, HS có tâm thế tiếp nhận tốt. Đồng

74

thời, HS có cơ hội trình bày hiểu biết của mình về cuộc đời nhà thơ Trần Tế

Xương và hình tượng người vợ trong văn học nhà Nho. Giáo viên nắm được

mức độ hiểu biết của HS để có định hướng phù hợp ở các hoạt động tiếp theo.

- Phương pháp: trực quan, trải nghiệm, nêu vấn đề, trao đổi.

- Thời gian: 5 phút.

- Nhiệm vụ chuẩn bị: Gv chia nhóm hs chuẩn bị trước ở nhà các vấn đề sau:

+ Nhóm 1: Sưu tầm tranh ảnh về Tú Xương và bài thơ “Thương vợ”.

+ Nhóm 2: Sưu tầm một số câu thơ độc đáo của Tú Xương và của tác giả

khác viết về Tú Xương.

+ Nhóm 3: Sưu tầm một số hình ảnh và thơ ca viết về người vợ thời xưa.

Chú ý: Các nhóm chuẩn bị sẵn nội dung trên bảng phụ (giấy A0).

- Gv khởi động giờ học bằng cách mời các nhóm lên trình bày kết quả

mà mình đã chuẩn bị.

- Giáo viên nhận xét kết quả chuẩn bị của hs, tuyên dương, động viên các

nhóm có tinh thần chuẩn bị tốt.

- Từ những nội dung mà hs đã chuẩn bị, Gv dẫn dắt vào bài học.

HS lên bảng trình bày kết quả mình đã chuẩn bị, tác phong nhanh nhẹn,

khẩn trương.

Kết quả cần đạt:

- Một số tranh ảnh về tác giả:

- Một số câu thơ độc đáo của Tú Xương và bài thơ Thương vợ.

- Một số câu thơ hay nhận xét về Tú Xương.

- Một số câu thơ và hình ảnh về người vợ trong thời xưa.

Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới

- Mục tiêu:

HS cảm nhận được hình ảnh bà Tú: vất vả, đảm đang, yêu thương và

lặng lẽ hy sinh vì chồng con.

Thấy được tình cảm thương yêu, quý trọng của Trần Tế Xương dành

cho người vợ. Qua những lời tự trào, thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm sự

75

của nhà thơ.

Nắm được những thành công nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giản dị, giàu

sức biểu cảm, vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian, sự kết hợp giữa

giọng điệu trữ tình và tự trào.

- Phương pháp: Đọc sáng tạo, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn

đề, thảo luận trao đổi.

- Thời gian: 50 phút.

- Năng lực hình thành: Năng lực giao tiếp tiếng Việt, NL giải quyết vấn

đề, NL cảm thụ thẩm mĩ, NL hợp tác.

* Gv chia nhóm HS thảo luận trong thời gian khoảng 5 phút theo các câu

hỏi, sau đó Gv nhận xét, chốt ý.

Bước 1: Tiếp xúc bước đầu với văn bản

Hoạt động 1

- Đọc văn bản: GV đọc diễn cảm văn bản để tạo hứng thú và lôi cuốn HS

vào văn bản hoặc cũng có thể mời HS đọc hay.

Đọc toàn bộ văn bản với giọng đọc vừa tha thiết, sâu lắng, vừa trào lộng,

dí dỏm để vừa làm nổi bật hình ảnh cao đẹp của bà Tú, vừa thể hiện được nỗi

lòng thương vợ sâu nặng của nhà thơ.

Hoạt động 2: Tìm hiểu sơ lược về tác giả và tác phẩm

Ở hoạt động này, HS đọc phần Tiểu dẫn trong sách giáo khoa (có thể đọc

to trước lớp hoặc tự học) sau đó HS trả lời câu hỏi của GV.

Tú Xương quê ở Nam Định. Ông sống vào buổi đầu của chế độ thực dân

nửa phong kiến ở Việt Nam (cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX). Ông được xem là

một trong những bậc thầy của thơ ca trào phúng Việt Nam. Thơ ông thấm

đượm chất trữ tình, xót xa trước thời cuộc. Trong thơ Tú Xương có một mảng

thơ viết về người vợ khi đang còn sống, mà bài thơ Thương vợ được xem là bài

xuất sắc.

Hoạt động 3: Xác định thể loại và hướng tiếp cận văn bản.

76

- Thể loại và bố cục văn bản.

+ Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú luật Đường.

+ Bài thơ gồm tám câu: Bốn câu đầu dựng lên hình ảnh bà Tú buôn bán,

tần tảo để nuôi chồng, nuôi con. Nhà thơ khẳng định công lao to lớn và ca ngợi

phẩm hạnh của vợ. Bốn câu sau, nhà thơ hóa thân vào bà Tú để than thở và oán

trách giùm vợ, nhằm tự trách mình.

- Khám phá văn bản theo trật tự nào? Cách nào? (có thể GV làm)

Bước 2: Tìm hiểu và khám phá nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

GV chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm làm việc trả lời một câu hỏi tương

ứng với các hoạt động nhỏ.

- Nhóm 1: Hoạt động 1

- Nhóm 2: Hoạt động 2

- Nhóm 3: Hoạt động 3

- Nhóm 4: Hoạt động 4

- Nhóm 5: Hoạt động 5

- Nhóm 6: Hoạt động 6

Các nhóm lần lượt trả lời các câu hỏi:

GV nhận xét, đánh giá.

Hoạt động 1: Thâm nhập vào hình tượng bà Tú và hình tượng ông Tú

qua hai câu đề.

Gợi dẫn 1: Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Hai câu thơ trên cho bạn đọc thấy được điều gì về bà Tú?

Yêu cầu:

- Câu thơ mở đầu nói về cảnh làm ăn buôn bán, tảo tần của bà Tú. Bà

buôn bán vất vả, khó nhọc vì phải làm “quanh năm”, nghĩa là ngày nào tháng

nào cũng như vậy. Nơi buôn bán của bà lại là “mom sông”. Ở thành phố Nam

Định thời ấy có con sông Vị Hoàng chạy qua và “mom sông” là chỗ đất nhô ra

77

ở bờ sông, là nơi cheo leo, chật chội, chênh vênh. Vậy là bà buôn bán không

chỉ vất vả mà còn gian nan, nguy hiểm. Trong bài Văn tế sống vợ của Tú Xương

có câu: “Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười” cũng là để nói về

những vất vả, khó nhọc ấy của bà Tú.

- Câu thơ thứ hai nói về vai trò trụ cột gia đình của bà Tú. Bà buôn bán

tần tảo quanh năm là để nuôi cả nhà: “Năm con với một chồng”. Cả cái gánh

nặng gia đình đều đặt lên đôi vai của bà, vậy mà bà vẫn gánh được, bà là người

vợ thật đảm đang.

Gợi dẫn 2: Cũng qua hai câu thơ trên, bạn đọc thấy được gì về ông Tú?

Yêu cầu:

- Qua hai câu thơ đầu, chúng ta thấy được:

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện rõ qua hai câu thơ đầu

là thấu hiểu được công lao to lớn của vợ. Tục ngữ có câu: “Gái có công, chồng

chẳng phụ”. Ở đây, công lao to lớn của bà Tú đã được ông Tú biết đến và nói ra

một cách cụ thể, hóm hỉnh. Một mình bà nuôi đủ sáu người (năm con, một

chồng) ông Tú đã bày tỏ lòng biết ơn vợ và thấy rõ sự kém cỏi của mình, tự

trào mình. Đó là nét đẹp của nhân cách Tú Xương.

Gợi dẫn 3: Cách nói của ông Tú ở đây có gì đặc sắc?

Yêu cầu:

- Cách nói của ông Tú ở đây cũng rất đặc sắc

“Nuôi đủ năm con với một chồng”, mỗi chữ trong câu thơ đó chất chứa

bao tình ý. Một mình bà Tú phải nuôi cả nhà, “một phải gánh sáu, thế là nặng,

phải gánh và gánh được, thế là đảm. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa

đủ nuôi con, nuôi chồng. Vậy mới thật là vất vả: đã gắng hết sức rồi. Vậy mới

thật đảm: nặng đến thế cũng gánh xong, khó thế cũng chu toàn. Bà nuôi cho ông

lũ con đàn, thế là công. Không những thế bà, cũng nuôi nốt cả chồng thế là ơn

với chính ông. Cho nên ông sợ lẫn lộn phải tách riêng ra: “Năm con/ với/ một

chồng. Cách nói thật đặc biệt, nhà thơ tự hạ mình xuống ngang hàng với con, nhà

78

thơ tự thấy mình là kẻ ăn bán, làm cho gánh gia đình trên vai vợ nặng hơn. Đó

không chỉ tri công mà còn tri ân, hơn cả tri ân, đó là hối hận, ăn năn. Cái ăn năn

hối hận ấy lại đực nói bằng một nụ cười hóm hỉnh rất Tú Xương” (Phạm Văn

Phúc, Sách giáo viên Văn học 11, NXB Giáo dục, 2000, tr.54).

Hoạt động 2: Thâm nhập vào hình tượng bà Tú và hình tượng ông Tú

qua hai câu thực.

Gợi dẫn 4: Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buồi đò đông.

Qua hai câu trên, hình ảnh bà Tú hiện lên như thế nào trong sự hình dung

của anh (chị)?.

Yêu cầu:

- Hai câu thơ trên của Tú Xương gợi ta nhớ đến câu ca dao quen thuộc:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Ca dao xưa dùng hình ảnh “Con cò lặn lội bờ sông” để nói về sự vất vả,

lam lũ của những người phụ nữ nông dân trước đây. Bà Tú cũng buôn bán gạo

bên sông Vị Hoàng, hình ảnh con cò trong ca dao xưa rất gần gũi với cuộc sống

của bà nên Tú Xương đã lấy hình ảnh con cò trong ca dao để nói về vợ mình.

Song, thơ của Tú Xương đã làm cho hình ảnh bà Tú cụ thể hơn, sinh động hơn:

Bà Tú làm vợ ông Tú là rơi vào số phận thân cò, phải lặn lội đêm hôm, một

mình “nơi quãng vắng”, cả những “buổi đò đông” đầy những bất trắc, hiểm

nguy, nơi đó người ta chen chúc, xô đẩy, giành giật nhau, lời qua tiếng lại eo

sèo... Hai câu 3 và 4 làm hiện lên cuộc sống vất vả, gian truân của bà Tú cùng

những phẩm chất cao đẹp của bà: đảm đang, tháo vát, tần tảo để nuôi chồng,

nuôi con. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam .

Gợi dẫn 5: Cũng từ hai câu thơ trên, anh (chị) hiểu được gì về tấm lòng

ông Tú đối với vợ?

Yêu cầu:

Hình ảnh và âm điệu của hai câu thơ cho ta thấy rõ ấm lòng xót thương

79

da diết của Tú Xương đối với vợ. Ông Tú tỏ ra thấu hiểu hết tất cả những vất

vả, gian truân của vợ mình. Ông thương vợ quặn lòng khi nghĩ đến những “khi

quãng vắng”, “những buổi đò đông” một mình vợ cô đơn, không có người đỡ

đần. Ca dao xưa đã có câu: “Con đi mẹ dặn câu này - Sông sâu chớ lội, đò đầy

chớ qua”, vậy mà bà Tú đã vượt qua tất cả. Ông càng cảm phục vợ hơn vì bà

vốn con nhà dòng danh tiếng (Văn tế sống vợ), vậy mà khi lấy ông, bà cũng

phong trần, lam lũ như ai...

Hoạt động 3: Thâm nhập vào hình tượng bà Tú và hình tượng ông Tú

qua hai câu luận.

Gợi dẫn 6: Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Bốn câu thơ đầu của bài thơ cho ta thấy một bà Tú tần tảo, đảm đang,

đến hai câu thơ này, anh (chị) biết thêm được điều gì về bà?

Yêu cầu:

Trong bốn câu đầu của bài thơ, Tú Xương kể và tả bà Tú về những điều

ở bên ngoài, dễ nhìn thấy. Đến đây, nhà thơ tả về chiều sâu tâm trạng của vợ.

Ta nghe như tiếng bà Tú than thở về thân phận mình.

Lấy ông Tú làm chồng là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai,

thôi đành chịu theo số phận, không dám phàn nàn, oán trách, kêu ca gì. Câu thơ

này của Tú Xương lại gợi ta nhớ đến câu ca dao xưa: “Một duyên, hai nợ, ba

tình - Chiêm bao lần khuất bên mình năm canh”, hoặc “Chồng gì anh, vợ gì tôi

- Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”. Tú Xương đã vận dụng rất sáng tạo cách

nghĩ, cánh nói của dân gian để nói về đức tính hi sinh, nhẫn nhịn của vợ mình.

Bà Tú ý thức rõ làm vợ ông Tú là số phận, nên âu đành chịu, do vậy mà vất vả

khó nhọc mấy (năm nắng mười mưa) bà đâu “dám quản công” (nghĩa là chịu

đựng mọi khó khăn vất vả, không phàn nàn, oán trách, kêu ca). Đó cũng là đức

tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Gợi dẫn 7: Câu thơ trên còn cho ta thấy được gì về tấm lòng của ông Tú

80

đối với vợ?

Yêu cầu:

Đến câu thơ này, ta thấy tấm lòng thương vợ của Tú Xương đã đến độ

thương cảm, thấm thía. Ông cảm phục và biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ.

Không những thế, ông còn tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu,

một nhân cách như vật thật đáng trân trọng.

Hoạt động 4: Thâm nhập vào hình tượng bà Tú và hình tượng ông Tú

qua hai câu kết.

Chỉ một câu thơ mà có đến hành thành ngữ: “Một duyên hai nợ”, “Năm

nắng mười mưa”. Hồn xưa của dân tộc như thấm vào thơ Tú Xương. Lời ăn

tiếng nói của người bình dân đã đi vào thơ ông thật nhuần nhuyễn.

Gợi dẫn 8: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Sau khi tả và kể về vợ mình, nhà thơ chửi ai vậy?

Yêu cầu:

Sau khi dựng lại hình ảnh bà Tú, nhà thơ đã cất tiếng chửi “thói đời ăn ở

bạc”. Có thể diễn nôm câu thơ ấy như sau: Cha mẹ cái thói đời, ăn ở sao mà

bạc! Cái thói đời ấy là gì vậy? Phải chăng đó là tập tục của ngày xưa: đã là học

trò thì thường là “Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”, vợ phải nuôi chồng ăn học

nếu chưa thi đỗ được làm quan. Tú Xương dù rất có tài, đi thi Hương từ lúc

mười lăm tuổi, nhưng thi nhiều lần vẫn chỉ đỗ tú tài (nên thường gọi là Tú

Xương). Chính cái thói đời ấy đã đưa lại cho bà Tú một ông chồng vô tích sự,

ông chồng không biết và không thể cùng lam lũ chân tay, lặn lội giúp bà. “Ăn ở

bạc” là nói tới việc không giữ được trọn vẹn trước sau như một trong quan hệ

giữa con người với con người, mà ở đây là quan hệ giữa ông Tú với bà Tú. Liệu

ông Tú có bạc bẽo, hờ hững với vợ không? Ông Tú tự thấy mình “ăn ở bạc” vì

đã trút hết gánh nặng gia đình lên vai bà Tú, khiến cho bà Tú có chồng mà “cũng

như không”. Vậy ra, nhà thơ đã thay lời bà Tú để tự chửi mình. Âu cũng là cách

81

nhà thơ tri ân vợ.

Có nhà nghiên cứu đã bình luận: Hiểu nỗi vất vả của vợ, thấy vợ có công

với con đã đành, còn có ơn riêng với mình, cho nên thương quý vợ. Cao hơn,

chân tình hơn, nhà thơ còn tự phán xét rất nghiêm khi thấy mình là món nợ đè

lên cả số phận của bà. Vì vậy, nhà thơ đã thác ra lời vợ để tự chửi rủa mình .

Tấm lòng như vậy ở một nhà nho là hiếm và đáng quý. Đáng quý hơn vì nó

đậm tình người. Lời thơ, chi tiết thơ chân thực, giản dị mà nồng nàn, kín đáo,

pha lẫn nụ cười hóm hỉnh. Bài thơ đã góp vào “Bảo tàng con người Việt Nam”

(chữ của Nguyễn Tuân) không chỉ một mẫu bà Tú, người vợ mà cả một mẫu

ông Tú, người chồng, rất nhân bản, rất Việt Nam.

Có lẽ chỉ có Tú Xương mới đưa tiếng chửi hằng ngày của người lao động

vào thơ tài tình đến thế. Thế mới biết Tú Xương gần gũi với cuộc sống dân dã

đến chừng nào.

Hoạt động 5:

Sau khi tìm hiểu, khám phá nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, GV

hướng dẫn HS tìm hiểu ý nghĩa xã hội của bài thơ (đặc biệt được thể hiện rõ

qua cặp câu kết) và nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hình tượng bà Tú.

Bài thơ vốn là một lời cảm khái tự trào, lấy cảnh gia đình riêng làm

phạm vi, bỗng dưng đượm một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đối tượng miêu tả là

một con người cụ thể, nhưng xuyên qua đó là hình ảnh khái quát của người phụ

nữ thời xưa: thương chồng thương con rất mực, một đời tần tảo lo cho chồng

cho con, gian lao vất vả nhưng yên lặng hy sinh cam chịu số phận. Đức hy sinh

dũng cảm ấy thật là cao cả.

Hoạt động 6: Khám phá, tìm hiểu tài thơ Nôm của Tú Xương trong bài thơ.

(HS khám phá, phát biểu; GV định hướng).

- Tài thơ Nôm của Tú Xương thể hiện trước hết ở việc Việt hóa thơ

Đường luật. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định ngặt

nghèo về vần, luật, niêm, đối… Vậy mà ở đây ý thơ trôi chảy, liền một mạch

82

như thói quen suy nghĩ và cách nói quen thuộc của người bình dân xưa.

- Nghệ thuật xây dựng hình tượng thơ: tác giả xây dựng hình tượng bà

Tú bằng hai cách:

Cách 1: đứng ở ngoài (ngôi thứ 3) để kể và tả bà Tú một cách khách quan.

Cách 2: hóa thân vào tâm hồn bà Tú đẻ nói đúng tâm tư và giọng điệu

của bà (câu thơ thứ 5 và 6).

Bên cạnh đó tác giả cũng dựng lên hình tượng của chính mình bằng hai cách:

Cách 1: gửi gắm kín đáo nỗi niềm của mình sau những câu thơ kể và tả

về bà Tú.

Cách 2: bày tỏ trực tiếp tâm tư, nỗi niềm của mình bằng những tiếng

chửi rất Tú Xương.

- Sử dụng từ thuần Việt cùng với những thành ngữ và sự vận dụng ca dao

rất sáng tạo và dùng từ đắc địa: “lặn lội”, “eo sèo”, “thân cò”, “mặt nước”, “Một

duyên hai nợ”, “âu đành phận”, “Năm nắng mười mưa”, “dám quản công”.

- Nhà thơ đã tạo nên một giọng điệu thơ rất đa dạng và rất Tú Xương: lúc

thì trữ tình đằm thắm; lúc thì tự trào rất hóm hỉnh (câu 2); lúc thì chửi bới gay

gắt (câu 7 - 8)…

Bước 3: Kích thích HS bộc lộ năng lực cảm thụ.

Khơi gợi và khích lệ HS bộc lộ những cảm nhận riêng của mình sau khi

học xong tác phẩm. Có thể khơi gợi bằng một số câu hỏi cụ thể; HS bộc lộ

những cảm nhận riêng một cách tự do.

Câu hỏi 1: Sau khi học xong, em cảm nhận được những gì về vẻ đẹp của

thế giới hình tượng được thể hiện trong bài thơ?

Câu hỏi 2: Qua bài thơ, em có những cảm nhận riêng gì về tâm hồn của

nhà thơ Tú Xương?

Câu hỏi 3: Em tâm đắc (hoặc thích thú) nhất với sáng tạo nghệ thuật gì

trong tác phẩm này?

Hoạt động 3: Luyện tập

- Mục tiêu: HS phân tích được ý nghĩa của các chi tiết, cảm thụ vẻ đẹp

83

về hình ảnh bà Tú, ông Tú trong bài thơ.

- Phương pháp: Thực hành, làm việc theo nhóm, nghiên cứu tình huống.

- Thời gian: 20 phút.

- Năng lực hình thành: NL giải quyết vấn đề, NL sáng tạo

GV phát phiếu bài tập cho HS (Phụ lục 3)

+ Phiếu bài tập được chia thành 3 mức độ: Trung bình (TB); Khá (K) và

Giỏi (G).

+ GV căn cứ vào chất lượng HS của lớp dạy để điều chỉnh lượng bài tập

phù hợp với mức độ.

Hoạt động 4: Hoạt động vận dụng

- Mục đích: phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết các

tình huống thực tiễn; năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, sáng tạo; tăng

cường tính thực tiễn cho bài học.

- Phương pháp: tự học, thuyết minh.

- Thời gian: 10 phút.

- Năng lực hình thành: năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, sáng tạo;

tăng cường tính thực tiễn cho bài học.

Nội dung yêu cầu

Viết một đoạn văn quy nạp: Thương vợ của Trần Tế Xương đã khắc họa

nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú chịu

thương chịu khó, nhẫn nại hy sinh.

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

Hoạt động 5: Hoạt động liên hệ thực tiễn, tìm tòi, mở rộng

- Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đọc hiểu từ bài thơ Thương vợ HS tìm

84

tòi, mở rộng kiến thức liên hệ thực tiễn đời sống.

- Phương pháp: tự học, thực hành

- Thời gian: làm bài ở nhà.

- Năng lực hình thành: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề,

năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực cảm thu ̣ thẩm mỹ…

Nội dung yêu cầu:

- Sưu tầm một số tác phẩm cùng đề tài với bài thơ “Thương vợ” (trong

văn học trung đại và văn học hiện đại). So sánh tìm ra điểm giống và khác nhau

giữa bài thơ Thương vợ và các tác phẩm sưu tầm được?

- Từ hình ảnh bà Tú, anh/ chị có suy nghĩ gì về người phụ nữ từ ngày xưa

đến ngày nay.

3.3. Dạy học thực nghiệm đối chứng bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

3.3.1. Mục đích

Thực nghiệm dạy học nhằm kiểm chứng tính khả thi của định hướng dạy

học các bài thơ thuộc văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn lớp 11 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS do luận

văn đề xuất, nhằm tìm kiếm một hướng đi hiệu quả cho việc dạy học tác phẩm

thơ nói riêng, tác phẩm văn học trong nhà trường nói chung.

3.3.2. Đối tượng thực nghiệm

- HS lớp 11, trường công lập.

Chúng tôi chọn dạy thực nghiệm ở các lớp 11E, 11G, 11H Trường THPT

Mạc Đĩnh Chi - Nam Sách - Hải Dương.

3.3.3. Kế hoạch thực nghiệm

Chọn bài thực nghiệm: Trong chương trình Ngữ văn lớp 11chúng tôi

chọn dạy thực nghiệm 1 bài thơ trong cụm những bài thơ trữ tình trung đại Việt

Nam lớp 11 tập 1, đó là bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.

* Thời gian: Thời gian thực nghiệm được tiến hành ở tuần thứ 03, tiết 9,

10 của học kỳ I năm học 2016 - 2017, theo phân phối chương trình Ngữ văn

85

lớp 11 cơ bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

* Công việc thực nghiệm:

Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm bao gồm:

- Bài thực nghiệm: 01

- Số tiết dạy: 06

- Số lớp dạy: 03

- Số bài kiểm tra: 01

- Giáo viên tham gia dạy thực nghiệm: 02

1. Nguyễn Thị Thoa, tổ Ngữ văn, Trường THPT Mạc Đĩnh Chi - Nam

Sách - Hải Dương dạy thực nghiệm lớp 11E.

2. Nguyễn Thị Hồng Chuyên, (người thực hiện luận văn) tổ Ngữ văn,

Trường THPT Mạc Đĩnh Chi - Nam Sách - Hải Dương dạy thực nghiệm lớp

11G, 11H.

3.3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm

- Trao đổi với giáo viên tham gia thực nghiệm, tìm hiểu sơ lược về tình

hình học tập bộ môn Ngữ văn của các lớp tham gia thực nghiệm.

- Đưa giáo án thực nghiệm cho giáo viên thực nghiệm nghiên cứu trước,

tiếp thu và trao đổi ý kiến với giáo viên thực nghiệm để hoàn chỉnh giáo án.

- Trao phiếu thực nghiệm cho giáo viên lớp thực nghiệm và lớp đối

chứng để tổ chức cho học sinh thực nghiệm đối chứng

- Dự giờ quan sát quá trình dạy học của giáo viên và học sinh trên lớp để

thấy rõ hơn khả năng thực hiện phương án này của giáo viên và khả năng tiếp

cận, cảm thụ của học sinh.

- Kết thúc buổi thực nghiệm chúng tôi gặp gỡ giáo viên để trao đổi với

giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy học theo giáo án thực nghiệm.

Trao đổi với học sinh về cảm nhận và cảm thụ của các em về tác phẩm sau giờ

86

học, đồng thời thu lại phiếu điều tra để tiến hành tổng hợp, phân tích.

3.3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm

Đánh giá thực nghiệm

* Thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thực nghiệm

- Thuận lợi:

+ HS ở cả các lớp tiếp thu bài tương đối đều, các em có tinh thần học

ham hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài.

+ Lượng HS ở mỗi lớp không quá đông nên GV dễ dàng quản lý và tổ

chức các hoạt động học tập.

+ Bản thân người làm luận văn luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ

phía đồng nghiệp.

- Khó khăn:

+ Khi đọc văn bản, HS chưa biết cách xử lý.

+ Cách diễn đạt, khả năng tư duy của các em còn thiếu sự logic và tính

văn chương.

+ Vận dụng các phương pháp dạy học để dạy bài thơ trữ tình trung đại

Việt Nam theo hướng hình thành NL cảm thụ thẩm mĩ cho HS có những ưu thế

nhưng cũng có khó khăn là HS khó liên tưởng được cuộc sống trong xã hội

phong kiến xưa. Hơn nữa thơ Đường luật hay nhưng rất khó, HS khó tiếp nhận.

+ Bên cạnh những HS tích cực thì vẫn còn những HS chưa tích cực, lười

hoạt động, ỷ lại.

Vậy nên, ngoài việc áp dụng những phương pháp tích cực trong quá trình

dạy học đòi hỏi rất lớn ở tài năng, nghệ thuật sư phạm của người giáo viên

đứng lớp.

* Ý kiến của GV tham gia thực nghiệm

Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành hội ý nhóm

GV tham gia dạy. GV đã đóng góp ý kiến thẳng thắn, chân thành về phương

pháp dạy. Cụ thể chúng tôi ghi nhận được một số ý kiến sau:

- Ưu điểm: Các tiết dạy đã đảm bảo tốt yêu cầu về nội dung, phương

87

pháp, tổ chức.

+ Về nội dung: GV đã giúp HS hình thành được những kiến thức chính

xác, khoa học, hợp logic, làm nổi bật được những vấn đề trọng tâm của bài học,

có liên hệ thực tế, HS có cơ hội hình thành và phát triển các năng lực cá nhân.

+ Về phương pháp: Người dạy có ý thức cao trong việc lựa chọn và kết

hợp các phương pháp dạy học nhằm phát huy được tối đa NL của người học,

lựa chọn và kết hợp tốt các biện pháp nhằm củng cố, đào sâu và kiểm tra kiến

thức của HS. Định hướng dạy học theo hướng này phù hợp với mục tiêu dạy

học môn Ngữ văn hiện nay. Định hướng dạy học này vừa giúp HS hiểu bài, vừa

trang bị cho các em kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ cái hay, cái đẹp từ văn học tới

cuộc sống, hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn.

+ Về tổ chức:

Người dạy có sự chuẩn bị chu đáo cho bài dạy từ phương tiện dạy học

đến giáo án.

Căn cứ vào mục tiêu đã xác định, người dạy có sự phân phối thời gian

hợp lý giữa các bài giảng nên bài giảng được hoàn thành đúng như dự kiến.

Mối quan hệ giữa GV - HS, HS - GV được xây dựng khá tốt.

Kết quả thực nghiệm

Trong quá trình dạy học, chúng tôi đã có những cố gắng hướng HS vào

bài giảng nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS. Kết quả là các em

tham gia tích cực, sôi nổi, nhiệt tình, nhiều HS đã bộc lộ những ý kiến, quan

điểm rất độc đáo.

Để kiểm tra kết quả thực nghiệm chúng tôi cho học sinh điền mẫu khảo

sát bằng văn bản viết (mẫu có in sẵn câu hỏi) để các em bộc lộ kiến thức, kĩ

năng, thái độ cá nhân sau khi học xong bài dạy thực nghiệm.

Câu hỏi trong phiếu khảo sát như sau:

Câu hỏi 1: Vẻ đẹp hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện lên như thế nào

qua hình ảnh của bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương?

Câu hỏi 2: Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ được bộc lộ như thế nào qua

88

bài thơ?

Câu hỏi 3: Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến trong bài thơ được thể hiện

qua những chi tiết, hình ảnh nào?

* Kết quả thu được như sau

Tiêu chí Số Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu

lượng Đối

Số lượng % Số lượng % học sinh tượng

39 31 79,5 9 20,5 Thực

nghiệm 37 29 78,4 8 21,6

Đối 31 18 58,1 13 41,9 chứng

Nhìn vào bảng thống kê so sánh ta thấy rằng, kết quả ở lớp thực nghiệm cao

hơn so với lớp đối chứng. Lớp đối chứng có tỷ lệ thấp hơn so với lớp thực nghiệm.

Sự chênh lệch này cần có thời gian và điều kiện mới có thể khắc phục được.

Những kết quả thu được qua thực nghiệm cho thấy việc định hướng dạy

học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh là

rất cần thiết vì nó mang lại hiệu quả cao trong giờ học. Điều đó phần nào kiểm

chứng được tính khả thi của đề tài.

3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm

- Khi xây dựng giáo án chúng tôi đã bám sát vào định hướng dạy học đã

đề ra đồng thời bám sát với yêu cầu kiến thức do Bộ Giáo dục quy định.

- Xây dựng giáo án chúng tôi đã tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và

tiến hành dạy thực nghiệm ở ba lớp. Số lượng giờ dạy thực nghiệm còn ít và

chưa có điều kiện mở rộng địa bàn thực nghiệm.

Tuy vậy, với kết quả thử nghiệm trên, chúng tôi tin rằng phương án dạy

học do luận văn đề xuất có tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế dạy học trong

89

nhà trường phổ thông.

Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi thấy:

- Đối với giáo viên:

+ Những yêu cầu trong giáo án đều được giáo viên thực hiện tốt, tạo hiệu

quả trong giờ học. Khi tiến hành thực nghiệm giáo án giáo viên không gặp bất

kỳ trở ngại nào.

+ Thời gian thực nghiệm giáo án là 90 phút (2 tiết dạy). Hoạt động của

GV và HS đều được chủ động, bài dạy vận dụng những phương pháp dạy học

tích cực, GV là người hướng dẫn, tổ chức HS khám phá những giá trị của tác

phẩm. Sau đó có bài kiểm tra, đánh giá vận dụng kiến thức.

- Đối với học sinh:

Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn để gợi dẫn HS với từng nội

dung bài học. Nhìn chung giờ học sôi nổi, HS chủ động, tích cực, từng bước

khám phá đầy đủ cả những yếu tố hình thức và nội dung của các tác phẩm thơ.

Kết quả bài làm của HS cho thấy, các em đã hiểu sơ bộ về nội dung nghệ

thuật của tác phẩm, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của mỗi tác phẩm thơ trữ

tình trung đại. Đó là sự không chấp nhận, không cam chịu bi kịch tình duyên

mà khao khát một hạnh phúc xứng đáng, quyết tâm kiếm tìm hạnh phúc cho

riêng mình (Tự tình bài II - Hồ Xuân Hương); đó là tình yêu, sự gắn bó thiết tha

với quê hương cũng như những tâm sự kín đáo của Nguyễn Khuyến trong Câu

cá mùa thu; đó là tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương, những tâm sự

và vẻ đẹp nhân cách của ông qua Thương vợ; đó là giọng điệu tự hào, sảng

khoái, tâm đắc với phong cách “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ trong Bài

ca ngất ngưởng; đó là tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ trước đường đời bế tắc, hiểm

trở, mù mịt, phản ánh một xã hội đen tối, đầy hiểm họa đối với người tài hoa,

đánh dấu sự thức tỉnh, nhìn lại con đường công danh truyền thống của Cao Bá

Quát trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát… Tuy nhiên, các em còn hạn chế trong

việc sử dụng câu văn để diễn đạt suy nghĩ của bản thân. Điều này khó tránh

khỏi bởi giới hạn của giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày, điều kiện để tìm

90

hiểu về các tác phẩm văn học còn hạn chế.

Giờ dạy thực nghiệm cho thấy tính khả thi của việc áp dụng đề tài: Dạy

học các bài thơ thuộc văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn lớp 11 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.

Tuy nhiên, với số lượng giờ dạy thực nghiệm còn ít ỏi và chưa có điều

kiện để mở rộng địa bàn thực nghiệm nên chúng tôi vẫn chưa thực sự hài lòng

về kết quả đạt được. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi thêm theo hướng

91

nghiên cứu của đề tài.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Đề tài Dạy học các bài thơ thuộc văn học trung đại Việt Nam trong

sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ cho học sinh nhằm định hướng dạy học những tác phẩm thơ trữ tình

trung đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 theo hướng phát triển năng lực cảm

thụ thẩm mỹ cho HS. Đề tài đã triển khai theo trình tự hợp lý và làm sáng tỏ

các vấn đề sau: Đặc điểm của từng tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11. Định hướng dạy học từng bài thơ phù hợp

với năng lực, khả năng tiếp cận của HS. Trên cơ sở đó luận văn đã đề xuất

phương án dạy học thể hiện qua một thiết kế bài học theo định hướng trên, vừa

có tính khả thi, vừa có tính hiệu quả.

2. Quá trình triển khai luận văn: Chúng tôi đã nghiên cứu lý thuyết, khảo

sát thực tiễn, thực nghiệm sư phạm và thu được kết quả bước đầu: nghiên cứu

lý luận về tiếp nhận thẩm mỹ, dạy đọc hiểu văn bản văn chương theo hướng

phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh, về các bài thơ trong cụm thơ

thuộc Văn học Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 để

làm cơ sở cho việc dạy học các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam,

nghiên cứu và thực tiễn và tình hình dạy học các tác phẩm trên trong nhà

trường Trung học phổ thông để làm cơ sở cho đề xuất dạy học thơ trữ tình

trung đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học

sinh (Chương I). Luận văn cũng đã đề xuất định hướng HS tiếp cận và cảm thụ

thơ qua các giai đoạn: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với thế

giới hình tượng trong tác phẩm, hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến

với thế giới tâm hồn nhà thơ và hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến

với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả (Chương II). Cuối cùng, luận

văn thiết kế bài học Thương vợ và tiến hành dạy thực nghiệm cho HS trường

THPT Mạc Đĩnh Chi, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương để kiểm tra tính khả

92

thi của phương án mà luận văn đề xuất (Chương III).

3. Luận văn đã đề xuất một định hướng về phương pháp dạy học nhằm

phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh qua một số tác phẩm thơ

trung đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1. Cụ thể là hình thành năng lực

cảm thụ thẩm mỹ khi đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả.

Đọc văn bản, làm việc trên văn bản để tái hiện hình tượng, phát hiện những

sáng tạo nghệ thuật, bộc lộ cảm nhận riêng của mỗi cá nhân. Từ định hướng

trên, chúng tôi nhằm mục đích biến văn bản thành tác phẩm ở từng HS.

4. Với luận văn này, một số vấn đề đòi hỏi tiếp tục giải quyết, kiểm

nghiệm trong thực tế thì mới có thể hoàn thiện. Lẽ ra chúng tôi phải khảo sát

nhiều hơn, thực nghiệm nhiều hơn, nhưng do hạn chế về hoàn cảnh, về điều

kiện chúng tôi chưa thực nghiệm một cách đầy đủ mà cần được tiếp tục bổ

sung. Chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai bài học theo định hướng đã đề ra. Người

thực hiện luận văn rất mong nhận được sự đóng góp chân thành, sâu sắc của

93

giáo sư, tiến sĩ, bạn bè đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1998), Từ điển Văn học, (bộ mới), NXB Thế giới.

2. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Đoạn văn,

NXB Khoa học xã hội.

3. Hoàng Hòa Bình (chủ biên) (2014), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông,

NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

4. Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014), Lý luận dạy học hiện đại - cơ

sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

5. Hoàng Hữu Bội - Nguyễn Huy Quát (2001), Một số vấn đề về phương

pháp dạy - học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục.

6. Hoàng Hữu Bội (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 11 - phần Văn học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ cổ Việt Nam,

NXB Giáo dục.

8. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương,

NXBĐHQG, Hà Nội.

9. Hồ Ngọc Đại (1994), Tâm lý dạy học, Nxb Giáo dục.

10. Trần Thanh Đạm (chủ biên) - Huỳnh Lý - Hoàng Như Mai - Phạm Sĩ Tấn

- Đàm Gia Cẩn (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Xuân Diệu (1971), Đọc thơ Nguyễn Khuyến, Thơ văn Nguyễn Khuyến,

NXB Văn học.

12. Phạm Văn Đồng (1973), "Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện",

Tạp chí nghiên cứu giáo dục (tháng 11).

13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

94

14. Trần Mạnh Hảo (1999), Văn học, phê bình, nhận diện, NXB Văn học.

15. Bùi Hiền (Chủ biên) (2015), Từ điển Giáo dục, NXB Khoa học và kỹ thuật.

16. Bùi Mạnh Hùng (2006), Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng

phát triển năng lực, NXB Giáo dục.

17. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

18. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Định hướng phương pháp giảng tác phẩm

trữ tình, văn học tầm nhìn và biến đổi, NXB Khoa học xã hội.

19. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Vũ Khiêu (1976), Lời giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Cao Bá Quát,

NXB Văn học.

22. Thanh Lãng (1953), Văn chương chữ Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyên Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế

kỉ XIX, NXB Giáo dục.

24. Phan Trọng Luận - Trương Dĩnh - Nguyễn Thanh Hùng - Trần Thế Phiệt

(1998), Phương pháp dạy học văn, NXBĐHQG, Hà Nội.

25. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở nhà

trường phổ thông, Nxb Giáo dục.

26. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương và bạn đọc sáng tạo, Nxb ĐHQG

Hà Nội.

27. Phan Trọng Luận (2005), Văn học với nhà trường không phải là một, Báo

Văn nghệ (số 24, 6).

28. Phan Trọng Luận (2007), Phương pháp dạy học văn, Nxb ĐHQG Hà Nội.

29. Phan Trọng Luận (2008), Văn học trong nhà trường, nhận diện, tiếp cận,

đổi mới, Nxb Đại học sư phạm.

30. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập một,

95

NXB Giáo dục Việt Nam.

31. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB Giáo dục.

32. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

33. Nguyễn Huy Quát (2008), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp

dạy - học văn, NXB ĐH Thái Nguyên.

34. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 - tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.

35. Sách giáo viên Ngữ văn 11 - tập 1, nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

36. Sách giáo viên Ngữ văn 11- tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

37. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử - Huyền Giang - Trần Ngọc Vượng - Trần

Nho Thìn - Đoàn Thu Văn (1998), Về con người cá nhân trong văn học cổ

Việt Nam, NXB Giáo dục.

38. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử - Huyền Giang - Trần Ngọc Vượng -

Trần Nho Thìn - Đoàn Thu Văn (1998), Về con người cá nhân trong văn

học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục.

39. Trần Đình Sử, Đọc văn, học văn, NXB Giáo dục Việt Nam.

40. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng

phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT, NXB Hà Nội, 2014.

41. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục.

42. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục.

43. Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới việc dạy học môn Ngữ văn ở THCS,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

44. Trúc Thông (1982), "Mấy suy nghĩ về thơ", Tạp chí Văn nghệ Quân đội,

số 7.

45. Lương Duy Thứ (1996), Thi pháp thơ Đường, Khoa Ngữ văn - Báo chí

Đại học tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh.

46. Lê Trí Viễn (1977-1978), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB KHXH.

47. Lê Trí Viễn (1982), Những vấn đề bài giảng văn ở Đại học, NXB GD, Hà Nội.

48. Lê Trí Viễn (2004), Đến với bài thơ hay, NXB GD, Hà Nội.

49. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề về giảng dạy thơ cổ Việt Nam, NXB

96

Giáo dục, Hà Nội.

50. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

51. Phạm Luận, Hoàng Hữu Bội (1994), Dạy và học thơ cổ ở trường phổ thông

cấp 2 và cấp 3 ở miền núi, NXB Giáo dục, Hà Nội.

52. Hoàng Hòa Bình (chủ biên) (2014), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông,

97

NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.(Tr. 276)

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU KHẢO SÁT TÂM LÝ HS THPT VỚI VIỆC HỌC CÁC BÀI THƠ

TRỮ TÌNH TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ

VĂN LỚP 11, TẬP 1

Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 không? Vì sao?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………

Câu hỏi 2: Trong các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa

Ngữ văn 11, tập 1 em thích nhất bài thơ nào?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

PHỤ LỤC 2

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 1: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi : Những khó khăn mà em gặp phải khi học thơ trữ tình trung đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 là gì?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 2: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi : Qua việc đọc và học các bài thơ trữ tình Trung đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1, em cảm nhận được những gì?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 3: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” - Hồ Xuân Hương -

thể hiện như thế nào qua bài thơ Tự tình (bài II)? Em cảm nhận được gì về tâm

trạng của tác giả qua bài thơ?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 4: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Đọc văn bản Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến), em hình dung ra

được những gì về cảnh sắc mùa thu ở làng quê Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ?

Em cảm nhận được những gì về tâm hồn thi nhân gửi gắm trong bài thơ này?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 5: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Tài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến trong bài thơ được thể hiện ở

những điều gì?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 6: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Vẻ đẹp hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện lên như thế nào

qua hình ảnh của bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 7: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Tài năng thơ của Trần Tế Xương trong bài thơ được thể hiện qua

những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ Thương vợ? Vẻ đẹp nhân cách của

nhà thơ được bộc lộ như thế nào qua bài thơ?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 8: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Qua Bài ca ngất ngưởng, em hiểu được gì về phong cách sống,

bản lĩnh cá nhân mang ý nghĩa tích cực của Nguyễn Công Trứ? Ý nghĩa, tính

chất tự do của thể hát nói trong việc chuyển tải cảm xúc của nhà thơ?

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các bài thơ

trữ tình trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1

Phiếu điều tra 9: Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi: Từ một bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát - bài Bài ca ngắn đi

trên bãi cát, chúng ta có thể biết được nét đặc trưng gì trong thơ của ông?

PHỤ LỤC 3

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU BÀI TẬP

1. Cảm nhận của anh/chị về hình ảnh bà Tú qua bài thơ?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

…………………………………………………………….................................

2. Anh/chị có cảm nhận như thế nào về con người Tú Xương qua bài thơ

Thương vợ?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

3. Tài thơ Nôm của Tú Xương được thể hiện như thế nào qua bài thơ?

………………………………………………………………………………......

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………...