ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HÀ
ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG SÁNG TÁC
CỦA VÕ THỊ HẢO (QUA TIỂU THUYẾT GIÀN THIÊU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Bá Đĩnh
Thái Nguyên - Năm 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của
tôi trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự
nghiên cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nguyễn Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận
tình truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo: PGS.TS.
Trịnh Bá Đĩnh đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng
thời đã hƣớng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trƣờng Đại
học sƣ phạm Thái nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, ngƣời thân
đã động viên, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 4 năm 2014
tốt nghiệp này.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN!
MỤC LỤC ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ............................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 6
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 6
CHƢƠNG 1. ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC SAU 1986 VÀ
SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO ....................................................................... 7
1.1 Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 ...................................................... 7
1.2 . Sáng tác của Võ Thị Hảo ...................................................................... 12
CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG GIÀN THIÊU ........................ 20
2.1 Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch
sử ................................................................................................................... 20
2.1.1 Nhân vật văn học ................................................................................. 20
2.1.2 Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử ............................................ 22
2.2 Hệ thống nhân vật trong Giàn thiêu ....................................................... 30
2.2.1 Nhân vật lịch sử có thật ....................................................................... 33
2.2.2 Nhân vật hƣ cấu ................................................................................... 46
2.3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật lịch sử ...................................................... 56
2.3.1. Miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình ,đối thoại .............................. 56
2.3.2. Miêu tả nhân vật thông qua tâm lý, hành động của nhân vật ............. 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG GIÀN THIÊU ............ 65
3.1 Sự thể hiện thời gian trong Giàn thiêu ................................................... 65
3.1.1 Khái niệm thời gian lịch sử và thời gian nghệ thuật ............................ 65
3.1.2. Thời gian biên niên sử trong Giàn thiêu ............................................. 66
3.2 Các yếu tố huyễn hoặc, hoang đƣờng trong Giàn thiêu ......................... 79
3.3 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu ......... 82
3.3.1 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện ................................................................. 82
3.3.2 Ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu ................................................... 85
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 90
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Năm 1986 là điểm mốc đánh dấu những biến đổi lớn trong đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Công cuộc Đổi mới có tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có văn học nghệ thuật. Từ sau 1986
nghệ thuật nói chung và văn chƣơng nói riêng có một diện mạo mới, sắc nét,
khu biệt với văn xuôi các giai đoạn trƣớc đó. Đặc biệt sau năm 1986, các tác
phẩm văn xuôi viết về đề tài lịch sử không chỉ xuất phát từ cảm hứng lịch sử
mà còn thể hiện cảm hứng đời tƣ, thế sự và triết lý nhân sinh. Các nhân vật,
sự kiện là cái cớ để nhà văn thể hiện những quan điểm của mình trƣớc cuộc
sống hiện đại. Điều này thể hiện rõ qua một loạt tác phẩm viết về đề tài lịch
sử mấy năm trở lại đây nhƣ : Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Bão táp Triều Trần
của Hoàng Quốc Hải, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…Việc tìm hiểu các tác
phẩm viết về lịch sử rất có ý nghĩa bởi qua đó ta thấy đƣợc thái độ, đánh giá
của tác giả trƣớc một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử hay một triều đại
lịch sử đã qua nhƣ thế nào đồng thời tìm hiểu tác phẩm này cũng giúp ta có
cái nhìn mới về tiểu thuyết sau 1986 khi xử lý về đề tài lịch sử.
1.2. Giàn thiêu là tác phẩm đã khẳng định đƣợc tài năng của Võ Thị Hảo,
giúp nhà văn để lại những dấu ấn nhất định trong văn học Việt Nam sau 1986.
Tiểu thuyết này đã khiến Võ Thị Hảo vƣợt qua đƣợc định kiến rằng: tiểu
thuyết lịch sử là thể loại thƣờng khiến các nhà văn nữ phải ngoảnh mặt làm
ngơ và không mấy nhà văn nữ nào ghi điểm với nó. Tìm hiểu Giàn thiêu là
góp thêm tiếng nói khẳng định bản lĩnh của nhà văn, tìm hiểu những quan
điểm của bà về lịch sử, về cuộc đời, giúp ngƣời đọc có cái nhìn chính xác hơn
về những sáng tác của Võ Thị Hảo, đồng thời góp thêm tƣ liệu vào việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nghiên cứu đặc điểm văn xuôi Việt Nam sau 1975.
1.3. Trƣớc đại hội Đổi mới năm 1986, các tác phẩm viết về lịch sử
thƣờng có kiểu kết cấu là theo lối ghi chép biên niên, chủ yếu là ghi chép,
minh họa lại các sự kiện, biến cố lịch sử. Sau 1986,văn học đƣợc đổi mới, nhà
văn tự do hơn sáng tạo để phản ánh phù hợp với xu thế của hiện tại. Tiểu
thuyết mang đề tài lịch sử đã có diện mạo mới bằng việc các nhà văn thay thế
cảm hứng minh họa bằng cảm hứng nhận thức trong các sáng tác tạo ra tính
chân thực và hấp dẫn cho mỗi tác phẩm. Tìm hiểu tiểu thuyết Giàn thiêu góp
phần làm sáng tỏ ít nhiều những sáng tạo, những đổi mới về thể loại tiểu
thuyết lịch sử trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết lịch sử sau 1986.
Nghiên cứu về tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đã có rất nhiều
công trình nhƣng đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết Giàn thiêu để thấy đƣợc nét riêng
phong cách tiểu thuyết lịch sử của bà trong bức tranh chung của tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam hiện đại thì vẫn còn là một điểm mới mẻ.Vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài này với mong muốn góp thêm một góc nhìn mới về tiểu thuyết
Giàn thiêu trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết lịch sử sau 1986. Qua đó thấy
đƣợc đóng góp của bà đối với tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Võ Thị Hảo là một trong những gƣơng mặt tiêu biểu của thế hệ nhà văn
thứ hai tiên phong trong công cuộc Đổi mới văn học. Bà đƣợc đánh giá là
“cây bút sắc sảo và giàu nữ tính”. Khi tiểu thuyết Giàn thiêu ra đời “Võ Thị
Hảo đã bứt phá khỏi lối đi đã quen chân” tiến tới những thành công. Tác
phẩm là một bƣớc tiến trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn và đƣợc trao giải
thƣởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2004. Giàn thiêu đã chinh phục bạn đọc
cũng nhƣ giới phê bình nghiên cứu bằng ngòi bút tinh tế, sắc sảo, mạnh mẽ và
tài hoa. Có lẽ vì vậy mà nghiên cứu về Giàn thiêu có nhiều bài viết, bài báo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
và một số công trình nghiên cứu sau :
2.1. Về nghệ thuật
Theo Các nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng
chung một nhận xét “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trƣớc hết là một tiểu
thuyết, nghĩa là Giàn thiêu trƣớc hết không phải là một “ truyện lịch sử”,
không phải là minh họa lịch sử, mà là một tiểu thuyết tƣ duy lại lịch sử bằng
phƣơng pháp tiểu thuyết”. Hai nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng “ tác giả
Võ Thị Hảo đã khá thành công trong cấu trúc của cuốn tiểu thuyết” [78]
2.1.1. Cũng theo Phạm Xuân Nguyên đã viết trong lời giới thiệu về tiểu
thuyết Giàn thiêu: “ văn Võ Thị Hảo không chỉ là những dòng chữ, không chỉ
là những truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo còn có nhiều hình
tƣợng…đó là lối văn đƣợc tác giả thổi linh hồn vào, tạo những câu văn huyền
ảo, mê hoặc thậm chí ma quái…”
2.1.2 . Trong bài Tôi biết mình không được phép quay đầu tác giả Thu
Hà thực hiện đã viết: kiệt sức hơn hai năm trời cho cuốn tiểu thuyết đầu tay và
Giàn thiêu đã không phụ công chị. Mới đây, tác phẩm đã dành đƣợc giải
thƣởng cao của hội nhà văn Hà Nội, đƣợc đánh giá là sự kết hợp tuyệt vời
giữa chính sử và huyền tích, một sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng này. Và
nhấn mạnh “Võ Thị Hảo đã bứt phá khỏi lối đi đã quen chân”.[27]
2.1.3. Bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử những năm gần đây, bài
Vấn đề ngôn ngữ trong lịch sử Việt Nam đương đại, tác giả Đỗ Hải Ninh nhận
xét:“ Sự thành công nổi bật trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của tiểu
thuyết lịch sử đƣơng đại là kết hợp đƣợc các yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo
trong một hệ ngôn ngữ tiểu thuyết thống nhất và đa dạng. Có thể tìm thấy
trong nhiều tiểu thuyết dấu ấn của ngôn ngữ nhà Phật, ngôn ngữ của tầng lớp
Nho học. Và chỉ ra Giàn thiêu là cuốn tiểu thuyết chồng xếp nhiều lớp trầm
tích : lịch sử, tôn giáo, huyền thoại…Bởi vậy ngôn ngữ có cái ảo diệu, mê
hoặc mang màu sắc tôn giáo, gần gũi với tín ngƣỡng dân gian. Viết về lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thời Lý với nhân vật trung tâm là Từ Lộ ( Từ Đạo Hạnh ) trải qua hai kiếp
trầm luân, ngôn ngữ của trong tiểu thuyết Giàn thiêu mang đậm nét nhân sinh
quan Phật giáo. [68]
2.1.4. Lại Nguyên Ân trong bài Tiểu thuyết và lịch sử đã nhận xét về
nghệ thuật của Giàn thiêu nhƣ sau : “Đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo một
điều tôi dần dần nhận thấy rõ là tác giả hiểu và dồn sức vào những nhiệm vụ
thực sự của tiểu thuyết khi tiếp cận một đề tài trong quá khứ. Trong Giàn
thiêu, tác giả đã tận dụng những sử liệu của Đại Việt sử kí toàn thư, đặc biệt là
những sự kiện trong thời đoạn 1088 – 1138, dƣới hai triều Lý Nhân Tông và
Lý Thần Tông, đồng thời tác giả cũng đã tận dụng các truyền thuyết về Từ
Đạo Hạnh trong Thiền uyển tập anh, lại dày công hƣ cấu, “thiết kế lại quá
khứ”, từ núi sông cây cối đến thác nƣớc sông Gâm…tạo nên da thịt liền mạch
cho đời sống quá khứ đƣợc dựng lại trong tác phẩm”. Đồng thời nhận định
“tác giả khó có thể thành công nếu nhƣ không đƣa ra một kiến giải mới mẻ và
khả chấp về nhân vật lịch sử đồng thời là nhân vật truyền thuyết Từ Đạo
Hạnh”.[3]
2.2. Về nội dung
2.2.1. Phạm Xuân Thạch trong Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ
đề lịch sử viết : “ Lạc lối trong những câu hỏi về “sự thực lịch sử” và “tính
chân thực của lịch sử”, băn khoăn về một nền chính trị công chính và chỗ
đứng của ngƣời tri thức trong cơn bão lịch sử. Vấn đề đặt ra trong tiểu
thuyết Giàn thiêu là: sẽ nhận thức đƣợc điều gì đấy về triều đại trị vì của
những vị vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông và những nhân vật lịch sử nhƣ
Từ Đạo Hạnh hay Nguyên phi Ỷ Lan ? Có lẽ không nhiều, vấn đề là từ một
hƣ cấu tiểu thuyết buộc ngƣời đọc phải suy tƣ về sự giải thoát, về niềm tin
tôn giáo và những tham vọng về hạnh phúc, về thân phận và quyền lực của
con ngƣời” [75]
2.2.2. Trần Khánh Thành trong Những thông điệp từ lửa và nước nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
xét : “…Mở trang đầu đã gặp hai chữ Giàn thiêu - ấn tƣợng chói và bỏng rát,
ngột và xót xa xâm chiếm lòng ngƣời…Viết với Võ Thị Hảo là truyền lửa từ
trái tim đến bạn đọc…”[71]
2.2.3 . Báo Người đại biểu nhân dân nhận xét: “Giàn thiêu – mặc dù rất
hấp dẫn nhƣng là một cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng nhƣ truyện ngắn
của Võ Thị Hảo cuốn tiểu thuyết này đang đi theo con đƣờng riêng của nó,
ngấm dần vào trái tim ngƣời ta và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng nhƣ những
hình tƣợng nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thƣờng trở đi trở lại và ám ảnh
ngƣời đọc”[64].
Tóm lại, dù về phƣơng diện nghệ thuật hay nội dung thì Giàn thiêu vẫn
luôn là một tác phẩm đƣợc bạn đọc yêu thích, quan tâm, là đối tƣợng của
nhiều luận văn nghiên cứu khoa học. Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức
của chúng tôi khi đi vào tìm hiểu và nghiên cứu tiểu thuyết này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Đề tài lịch sử trong sáng tác của
Võ Thị Hảo (Qua tiểu thuyết Giàn thiêu)
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
4.1. Đề tài này hướng tới các nhiệm vụ sau :
- Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 và sáng tác của Võ Thị Hảo
- Nhân vật lịch sử trong Giàn thiêu
- Nghệ thuật kể chuyện trong Giàn thiêu
4.2. Mục đích
Từ việc tìm hiểu đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo ( Qua
tiểu thuyết Giàn thiêu ) sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về phong cách nghệ
thuật của Võ Thị Hảo đồng thời thấy đƣợc sự đóng góp của bà với nền văn
học nƣớc nhà.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nhƣ : phân tích , tổng hợp, thống kê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
– phân loại, nghiên cứu văn hóa, lịch sử liên ngành, so sánh đối chiếu…
6. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi chọn đề tài Đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo (Qua
tiểu thuyết Giàn thiêu) nhằm nghiên cứu sự sáng tạo về tiểu thuyết lịch sử của
Võ Thị Hảo trong tiểu thuyết Giàn thiêu trong xu hƣớng đổi mới tiểu thuyết
lịch sử 1986 để thấy đƣợc tài năng, sự đóng góp của nhà văn vào nghệ thuật
tiểu thuyết lịch sử đƣơng đại của Võ Thị Hảo và góp phần lý giải sức hấp dẫn
mê hoặc của tác phẩm
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc triển khai trong ba chƣơng :
Chƣơng 1 : Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 và sáng tác của Võ Thị Hảo
Chƣơng 2 : Nhân vật lịch sử trong Giàn thiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chƣơng 3 : Nghệ thuật kể chuyện trong Giàn thiêu
CHƢƠNG 1 ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC SAU 1986 VÀ SÁNG TÁC CỦA VÕ THỊ HẢO
1.1 Đề tài lịch sử trong văn học sau 1986
Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể thấy: Văn học Việt Nam
trƣớc 1986 luôn có sự nhất quán trong tƣ duy – đó là tƣ duy sử thi, với cảm
hứng khẳng định, ngợi ca. Tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn này cũng nằm
trong mạch cảm hứng đó nên thƣờng đƣợc viết đúng nhƣ những gì sử liệu ghi
lại do đó tâm thức văn hóa của thời đại và tâm thức sáng tạo của nhà văn cùng
gặp gỡ ở quan điểm:“phải tôn trọng, kính cẩn trƣớc lịch sử”[76].
Sau khi đất nƣớc thống nhất, đặc biệt là sau 1986 văn học đổi mới, nhà văn
tự do sáng tạo để phản ánh phù hợp với xu thế của hiện tại nên các nhà văn
cũng có những cảm nhận mới về đề tài lịch sử.
Văn học Việt Nam sau năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá
cả về nội dung lẫn hình thức trên xu thế và nền tảng của sự đổi mới trong
nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa xã hội. Công cuộc Đổi mới đã
từng bƣớc đƣa đất nƣớc và con ngƣời ra khỏi tình trạng trì trệ kéo dài. Cùng
với những chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nƣớc, từ nhu cầu nhận thức
lại đã trở thành một trong những nét căn bản của ý thức con ngƣời sau một
thời gian trong tình trạng tƣ duy bao cấp. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến việc trở lại đề tài lịch sử để suy ngẫm, lý giải hiện tại.
Một nguyên nhân nữa khiến đề tài lịch sử là đề tài đƣợc nhiều nhà văn tìm
đến có thể đƣợc giải thích bằng nguyên nhân từ chính lịch sử. Việt Nam là
một đất nƣớc có lịch sử đầy biến động, đất nƣớc luôn trong tình trạng bị chia
cắt hoặc ngoại xâm, hoặc sự nổi dậy của các lực lƣợng lao động đối lập với
chính quyền mà các sử gia gọi là quân tạo phản hoặc gọi là khởi nghĩa nông
dân. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, có lẽ những nỗi đau vẫn âm thầm chảy suốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trong kí ức cộng đồng và khi có điều kiện sẽ phát tiết ở những ngƣời nhạy
cảm và có trách nhiệm, là các nhà văn, trong đó có: Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Lƣu Sơn Minh, Hoàng
Công Khanh…
Còn một nguyên nhân nữa đã đƣợc nhắc đến rất nhiều là sự trỗi dậy của
cảm hứng đời tƣ, thế sự với vị trí là nguồn cảm hứng quan trọng bậc nhất, mà
sự chi phối của nó biểu hiện gần nhƣ ở tất cả các thể loại, các suy tƣ của văn
học. Chính những trăn trở, suy ngẫm về thân phận con ngƣời, số phận dân
tộc, các giá trị của cuộc sống đã chi phối mạnh mẽ đến những tác phẩm viết
về đề tài lịch sử.
Nhƣ vậy viết về đề tài lịch sử trong văn học sau năm 1986 là kết quả của
những suy nghĩ, trăn trở của con ngƣời về chính lịch sử, về hiện tại, về cộng
đồng và về số phận cá nhân.Vì thế truyện và tiểu thuyết về đề tài lịch sử trong
thời kì này không chỉ là những câu chuyện lịch sử mà còn là câu chuyện của
đời sống hiện tại với bao trăn trở trong những mối liên hệ chằng chịt, sự đối
thoại nhiều khi đến gay gắt của ý thức và các vấn đề tƣởng nhƣ rất bình
thƣờng của đời sống đƣợc soi rọi từ nhiều góc nhìn, nhiều thái độ đánh giá
khác nhau. Đề tài lịch sử cũng đƣợc các nhà văn nhìn dƣới góc nhìn đa chiều
hơn. Lịch sử không còn là những tƣ liệu cố định, chất liệu quá quen thuộc
nữa. Mà nó trở thành chất liệu hấp dẫn để các nhà văn tự do thể hiện tài năng
sáng tạo và ý đồ nghệ thuật của mình.
Về lối viết sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có một mùa nở rộ và bội
thu với các tác phẩm viết về đề tài lịch sử với những cách thể hiện hoàn toàn
mới lạ. Ngoài cảm hứng lịch sử, thì cảm hứng đời tƣ, cảm hứng thế sự và
những triết lý nhân sinh đã làm nên bộ mặt mới của những tiểu thuyết lịch sử.
Nhân vật, sự kiện lịch sử dƣờng nhƣ chỉ là cái cớ để “tạo nên những điểm
tƣơng đồng giữa quá khứ và hiện tại và qua đó làm sáng tỏ hiện tại”[18]. Lịch
sử không còn chỉ là “ngôi đền thiêng” bất khả xâm phạm, là đối tƣợng đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sùng bái, ngợi ca một cách tuyệt đối nữa mà trở thành một đề tài nhà văn có
thể đi sâu tìm hiểu, khai thác, sáng tạo, thổi vào đó tinh thần thời đại khiến
lịch sử trở nên sống động và gần gũi, hấp dẫn hơn.
Hầu hết những sáng tác thuộc viết về đề tài lịch sử thƣờng tập trung ở hai
thể loại là : thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
Ở thể loại truyện ngắn viết về đề tài lịch sử thời kì này có số lƣợng khiêm
tốn hơn tiểu thuyết nhƣng chất lƣợng không kém phần đặc sắc. Đặc biệt nó
còn mang tính chất mở đƣờng cho một hƣớng đi mới của văn xuôi viết về lịch
sử mà những tác giả sau này ít nhiều đều chịu ảnh hƣởng. Tác giả tiêu biểu
nhất phải kể đến là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với bộ truyện ngắn “giả lịch
sử”: Phẩm tiết, Kiếm sắc, Vàng lửa, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam…
Những tác phẩm này khi đăng báo đều gây nên những cơn sốt và tốn không
ít giấy mực của giới phê bình. Dƣ luận trong nƣớc xôn xao trƣớc một hiện
tƣợng văn học lạ. Lạ ở cách cảm, cách nhìn của nhà văn về nhân vật lịch sử
khiến trong giới văn học rộn lên bởi những đánh giá trái chiều về tác phẩm và
tác giả này. Sau Nguyễn Huy Thiệp nhiều nhà văn cũng đã có những cách
nhìn nhận, tƣ duy mới mẻ về lịch sử đƣợc vận dụng vào các sáng tác nhƣ:
Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của chúa, Lƣu Minh Sơn với Nước mắt trúc, Trần
Vũ với Mùa mưa gai sắc…
Với thể loại tiểu thuyết về đề tài lịch sử thời kì này có số lƣợng lớn và đạt
nhiều thành tựu. Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ XX chúng ta chứng kiến
sự xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết lịch sử với lối viết khác lạ và khi các tác
phẩm trình làng đã chinh phục đƣợc những bạn đọc khó tính, thu hút nhiều
sự chú ý của giới phê bình. Trong đó có những tác phẩm đạt giải thƣởng cao
nhƣ : Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Sông Côn mùa
lũ của Nguyễn Mộng Giác, Vằng Vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh, Bão
táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Danh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo cũng nằm trong số đó.
Tác giả Nguyễn Xuân Khánh, trong vòng sáu năm đã cho ra đời hai cuốn
tiểu thuyết với dung lƣợng và chất lƣợng cao là Mẫu thượng ngàn và Hồ Quý
Ly. Trong đó tác phẩm Hồ Quý Ly đã đạt giải cuộc thi tiểu thuyết 1998 – 2000
do Hội nhà văn tổ chức và giải năm 2000 – 2001 của Hội nhà văn Hà Nội.
Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn đạt giải thƣởng của Hội nhà văn Hà Nội năm
2006. Qua các cuộc hội thảo, các tác phẩm đã đƣợc nhìn nhận ở nhiều phƣơng
diện, nhất là phƣơng diện thể loại. Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã nhận xét :
“Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử.
Văn chƣơng mƣợt mà, có sức cuốn hút, đọc hết 800 trang mà vẫn muốn đọc
lại” [61].
Lại Nguyên Ân trong bài “ Hồ Quý Ly” đăng trên Tạp chí nhà văn số 6
năm 2000, đã nhận định: “Tác giả Đinh Xuân Khánh, vừa khai thác tối đa
các nguồn sử liệu, văn liệu vẫn còn, vừa phóng khoáng trong những hƣ cấu
tạo ra một thực tại tiểu thuyết vừa tƣơng đồng với những thông tin còn lại về
một thời đại đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác
giả” [5].
Trong bài viết “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử
nước nhà” nhà văn Trung Trung Đỉnh viết : sức hấp dẫn của tác phẩm “không
chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã lựa chọn cho mình một thế đứng với
tƣ thế của một nhà tiểu thuyết trên vấn đề hôm qua và hôm nay” [22].
Nhà văn Hoàng Quốc Hải khi cho ra đời bộ tiểu thuyết lịch sử có quy mô
đồ sộ Bão táp triều Trần gồm 4 cuốn : Bão táp cung đình, Thăng Long nổi
giận, Huyền Trân công chúa và Vương triều sụp đổ. Với bộ tiểu thuyết này,
nhà văn đã tái dựng lại cả một bức tranh lịch sử lớn vừa hào hùng vừa đau
khổ để lại cho hậu thế nhiều bài học quý giá. Bộ tiểu thuyết này không chỉ
“phục diện lại diện mạo đích thực của nhà Trần, mà còn lấp đƣợc những lỗ
hổng, những kiến giải thiếu khách quan với những nhân vật chính trong lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sử nhƣ : Hồ Quý Ly, Trần Thủ Độ. Đồng thời biểu dƣơng công trạng , trí tuệ
của nhiều nhân tài trong sử kí chỉ lƣợc qua nhƣ: Trần Nhân Tông, Chu Văn
An, lại còn chỉ ra đƣợc nguyên nhân và hậu quả tai hại của những kẻ bán
nƣớc và làm sụp đổ cả vƣơng triều nhƣ: Trần Dụ Tông, Trần Ích Tắc, Trần
Kiện”[62;tr 9]. Thông qua những bộ tiểu thuyết lịch sử này, chúng ta nhận
thấy nhà văn không chỉ có sự hiểu biết về lịch sử mà còn thể hiện đƣợc tài
năng hƣ cấu nghệ thuật độc đáo, sáng tạo đã bổ sung nhiều chi tiết lịch sử còn
để trống, bỏ ngỏ làm tăng thêm sức sống cho lịch sử.
Với tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh khi xuất hiện dƣ
luận đã có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau. Nhƣng nhìn chung đa số đều tán
đồng, xem đây là một đóng góp quan trọng của nhà văn.
Nhà văn Hoàng Minh Tƣờng trong lời mở đầu cuốn tiểu thuyết cho đây là
“ cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và bổ ích” cùng với lời giới thiệu nhƣ sau “phàm là
ngƣời đam mê lịch sử và văn chƣơng cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra
đƣợc. Rất giống nhƣ cảm giác thủa học trò đọc Tam Quốc Diễn nghĩa hay
Thủy Hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trƣớc khi đi
ngủ”và “cách kể chuyện nhƣ lùa ngƣời đọc vào hết mê hồn trận này đến
những bí sử kia”[77].
Ngoài ra còn có bộ ba tiểu thuyết : Gió lửa, Đất trời, Bể dâu của Nam Dao,
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác.
Và đặc biệt, tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo – một nữ nhà văn , khi
xuất hiện cũng thu hút đƣợc sự quan tâm, chú ý của dƣ luận. Tác phẩm đã
dành đƣợc giải thƣởng cao của Hội nhà văn Hà Nội năm 2003. Thậm chí, đạo
diễn Đỗ Minh Tuấn có ý định xây dựng Giàn thiêu thành phim. Ông đã nhận
thấy “đây là cuốn tiểu thuyết về triều Lý hấp dẫn về tƣ tƣởng, về không gian
văn hóa. Đặc biệt, Giàn thiêu có tính điện ảnh cao và Giàn thiêu có cách nhìn
lịch sử gai góc, đa diện”[74].
Nhƣ vậy, qua các tác phẩm viết về đề tài lịch sử sau Đổi mới chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhận thấy: quan niệm của các nhà văn về lịch sử đã có nhiều đổi mới. Lịch sử
đã trở thành chất liệu hấp dẫn để các nhà văn thỏa mãn ý đồ sáng tạo nghệ
thuật của mình làm cho “tiểu thuyết lịch sử trở thành ấn tƣợng và suy tƣ cá
nhân, cá nhân trở thành trung tâm của tự sự”[76]. Nghĩa là, mỗi nhà văn có
thể đề xuất một cách nhìn mới về những sự kiện lịch sử đã qua, họ cũng có
thể mƣợn lịch sử để trình bày những vấn đề của hiện tại, hoặc có thể tìm hiểu
để xóa đi những “điểm trắng” mà sử liệu đã không ghi, hay những điều trong
quá khứ còn ít ngƣời biết đến…Từ đó tạo ra sức sống mới cho lịch sử. Nói
chung văn xuôi viết về lịch sử từ sau Đổi mới đã đạt đƣợc những thành tựu
đáng kể và chắc chắn sẽ tiếp tục là nguồn chất liệu hấp dẫn, còn nhiều hứa
hẹn ở phía trƣớc.
1.2 . Sáng tác của Võ Thị Hảo
Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại mảnh đất Diễn Châu – Nghệ An – mảnh đất
chịu nhiều thiệt thòi bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, với những dấu vết
văn hóa có tính đặc thù rõ rệt. Có lẽ chính nhờ những điều này đã tạo nên một
Võ Thị Hảo luôn bền bỉ, kiên cƣờng, không bao giờ tắt niềm đam mê, đồng
thời nó cũng là ngọn lửa ngầm đã hun đúc lên con ngƣời, phong cách nhà văn.
Khi nhớ và nghĩ về quê hƣơng mình, nhà văn nói: “nơi có tiếng cót két rợn
ngƣời của những bụi tre và những câu chuyện về ma quỷ mà các ngƣời già và
đám ngƣời lớn thì thầm kể cho nhau nghe trong đêm, cùng không khí khốc
liệt của chiến tranh và bom đạn”[21tr 558]. Quê hƣơng góp một vai trò không
nhỏ để hình thành nên giọng văn Võ Thị Hảo “ Tôi cảm ơn những kỉ niệm,
mà đau khổ là nhiều hơn hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra tôi…làm nên Võ
Thị Hảo – ngƣời viết nên những câu văn vừa bạo liệt vừa huyễn hoặc”
[21;tr558].
Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội, Võ Thị Hảo đã công
tác ở Nhà xuất bản văn hóa dân tộc trong vai trò ngƣời biên tập. Với 17 năm
kinh nghiệm, Võ Thị Hảo là ngƣời có công rất lớn trong việc cho ra đời nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
“đứa con tinh thần” của các nhà văn khác. Đây cũng là cái duyên đƣa Võ Thị
Hảo đến với văn chƣơng. Giống nhƣ Võ Thị Hảo đã từng chia sẻ “đã từng
nghĩ và sẽ trở thành nhà thơ, nhƣng rồi chị lại viết văn và thành danh với văn
xuôi”.
“Cái thứ văn chƣơng đã trót dấn thân thì nó là “nghiệp” mất rồi. Nó đeo bám
và dƣờng nhƣ là máu thịt của mình. Ngay cả khi ngƣời chồng yêu quý của
chị, ngƣời đàn ông mà chị đã tự nguyện kí thác, gửi gắm cả đời mình cũng
không thể chịu nổi không khí văn chƣơng len lỏi vào đời sống của gia đình,
song chị vẫn lặng lẽ, bƣớng bỉnh để thu vén cho mình một góc riêng, để tôn
thờ rồi “sống”và “chết” vì nó. Một gia đình với hai đứa con gái bé nhỏ, một
ngƣời chồng mặc dù cùng học văn chƣơng ra nhƣng không dễ mấy khi thông
cảm cho niềm đam mê của vợ, thêm vào đó là cuộc sống chật vật, khó khăn
của những năm tháng đất nƣớc chƣa thoát khỏi bao cấp”[64;tr553].
Bắt đầu xuất hiện chính tức và đều đặn vào thập niên 90 với cái tên Võ Thị
Hảo trên văn đàn. Bên cạnh nhiều nhà văn nổi tiếng khác nhƣ Nguyễn Huy
Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan… Võ Thị Hảo đã
khẳng định đƣợc mình qua một số tác phẩm.
Bằng những truyện ngắn gây ấn tƣợng mạnh mẽ trên văn đàn nhƣ : Người
sót lại của rừng cười, Biển cứu rỗi, Vườn yêu, Góa phụ đen …”chị đƣợc xếp
vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ tính”[39;tr238].
Khi nhận xét về Võ Thị Hảo, nhiều ý kiến cho rằng “Võ Thị Hảo là ngƣời
kể chuyện cổ tích giữa đời thƣờng”. Đọc truyện ngắn của chị “ ta thấy không
khí của truyện cổ tích dân gian bàng bạc. Điều đó đƣợc tạo nên bởi ý nghĩa
ngợi ca cái đẹp, cái thiện với cái triết lý ở hiền gặp lành, với giọng kể nhỏ nhẹ
tâm tình xen vào đó là sự tham gia của các yếu tố kì ảo đã làm cho truyện
ngắn của chị có sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc một cách kỳ lạ[44;tr22-30].
Nhƣng Võ Thị Hảo không kể chuyện cổ tích giữa đời thƣờng “ngƣời phụ
nữ nhỏ bé và khiêm nhƣờng ấy” chỉ mƣợn không khí cổ tích, tái hiện yếu tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
kì ảo trong truyện cổ tích xƣa để nói chuyện hôm nay – những chuyện mà
cuộc sống hàng ngày con ngƣời đang đối diện. Bởi vậy, truyện của Võ Thị
Hảo bao giờ cũng mang một triết lý, một chiều sâu tƣ tƣởng mới bên cạnh cái
vẻ bề ngoài của nó.Với 4 tập truyện ngắn đã xuất bản là : Hồn trinh nữ, Người
sót lại của rừng cười, Những chuyện không nên đọc lúc nửa đêm Võ Thị Hảo
đã khiến ngƣời đọc bị lôi cuốn bởi cách viết, cách nhìn nhận vấn đề rất riêng
của chị. Những hiện thực nghiệt ngã, những phức tạp bộn bề của cuộc sống đã
đƣợc truyền tải bởi văn phong ảo và thực, câu chữ ngọt ngào, dịu nhẹ. Một sự
nhẹ nhàng, nữ tính nhƣng thực chất là để bao bọc cái nhìn mạnh mẽ, quyết
liệt với cuộc sống. Qua việc tìm hiểu truyện ngắn của chị ta có thể thấy “dù
ngợi ca những điều tốt đẹp con ngƣời, của cuộc đời hay phê phán những hiện
tƣợng tiêu cực của xã hội thì Võ Thị Hảo vẫn luôn giữ đƣợc cái nhìn khá điềm
tĩnh – sự điềm tĩnh của một ngƣời dám nhìn thẳng vào sự thật ở đời. Đồng
thời cũng thể hiện thái độ bao dung độ lƣợng và niềm tin bất diệt vào bản tính
tốt đẹp của con ngƣời”[47].
Năm 2002 khi cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu ra mắt bạn đọc, chị lại làm sửng
sốt độc giả, những ngƣời yêu văn chƣơng bởi cuốn tiểu thuyết dã sử đậm chất
huyền bí.Tác phẩm đã dành đƣợc giải thƣởng cao nhất của Hội nhà văn Hà
Nội. Đặc biệt nó đƣợc coi là tác phẩm đánh dấu “ cuộc bứt phá khi rẽ ra khỏi
lối đi quen chân với chính mình, tạo ra những tầng suy tƣ không bằng phẳng,
một giọng điệu tự nhiên và bình dị hơn” của nữ nhà văn tài năng này. Chuyển
từ thể loại quen thuộc là truyện ngắn sang thể loại tiểu thuyết – tiểu thuyết
lịch sử - một thể loại thƣờng khiến các nhà văn nữ ở nƣớc ta phải “ngoảnh
mặt làm ngơ”. Lúc đƣợc hỏi: “ rẽ lối sang tiểu thuyết, lại là tiểu thuyết lịch sử,
liệu chị có cho rằng đó là một thái độ cầm bút dũng cảm? Chị đã tự tin trả lời
“không hẳn là lối rẽ mà là bƣớc tiếp. Khi cảm thấy truyện ngắn dƣờng nhƣ
quá chật chội thì tiểu thuyết chính là thảo nguyên rộng lớn để cho phép mình
đƣợc làm những cú nhảy của mèo hoang”[40]. Thật vậy, tiểu thuyết Giàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thiêu đã nhận đƣợc vô số những lời khen “sự kết hợp tuyệt vời giữa chính sử
với huyền tích”[25]. Chính những kiến thức chính sử với dã sử, những giai
thoại, huyền tích dân gian cùng với trí tƣởng tƣợng phong phú, sự tìm tòi sáng
tạo của nhà văn đã dựng lên đƣợc bức tranh sinh động về một giai đoạn lịch
sử trong vƣơng triều thời Lý không chỉ có những màu vàng son chói lọi mà
còn cả những màu trầm bi thƣơng.
Giàn thiêu còn khiến cho những nhà làm phim phải dành rất nhiều những
lời tán thƣởng.
Nghệ sĩ nhân dân – đạo diễn Huy Thành – chủ tịch Hội điện ảnh thành phố
Hồ Chí Minh nhận xét: “Đây là lần đầu tiên tôi đƣợc đọc kịch bản phim của
một nhà văn Việt Nam viết rất có nghề, độc đáo cả về chủ đề, câu chuyện, bối
cảnh, cấu trúc và nhân vật. Ngôn ngữ điện ảnh nhuần nhuyễn với những chi
tiết hiển thị đắt giá. Đặc biệt cả ba kịch bản đều mênh mang không khí tâm
linh, huyền bí rất quyến rũ rất văn chƣơng… những nét riêng biệt trong các
tác phẩm văn học của nữ nhà văn tài năng này”[43].
Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn có ý định xây dựng Giàn thiêu thành phim. Bởi
ông nhận thấy “đây là cuốn tiểu thuyết về triều Lý hấp dẫn về tƣ tƣởng, về
không gian văn hóa. Đặc biệt, Giàn thiêu có tính điện ảnh cao” và “Giàn
thiêu có cách nhìn lịch sử gai góc đa diện”[74] ghi đƣợc những dấu ấn sâu
sắc trong lòng ngƣời đọc. Ẩn sau những câu chữ trau chuốt và mỏng manh
đến điệu đà, nhạy cảm đến mức khắt khe là những tâm sự day dứt khôn
nguôi về số phận con ngƣời, về cuộc đời, nhân tình, thế thái. Đọc truyện của
Võ Thị Hảo khiến con ngƣời phải nhìn nhận lại cuộc sống của mình để chọn
cho mình cách sống đúng.
Thực tế cho thấy số các nhà văn viết về tiểu thuyết lịch sử không nhiều.
Ở Việt Nam càng ít, nhất là các nhà văn nữ trải nghiệm ngòi bút của mình ở
thể loại này càng hiếm. Bởi ngƣời viết về thể loại này cần phải có kiến thức
uyên thâm, am hiểu lịch sử sâu sắc đồng thời khi lấy lịch sử làm chất liệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sáng tác, các nhà văn cần có sự tìm tòi, sáng tạo, hƣ cấu sao cho lịch sử phải
sống động nhƣ nó đã từng và qua đó phải chuyền tải đƣợc ý nghĩa thời sự của
cuộc sống hiện đại. Đã có một thời gian chất liệu lịch sử là một “ngôi đền
thiêng” mà chỉ đƣợc phép ngắm nhìn từ bên ngoài. Đối với một dân tộc mà
quá khứ lịch sử luôn đƣợc ghi nhớ trong một quan niệm, một thái độ rất thành
kính nhƣ dân tộc Việt thì việc đƣa ra cái nhìn mới, phá bỏ “bức màn linh
thiêng” che phủ một số nhân vật lịch sử rất khó nhận đƣợc sự đồng tình của
ngƣời đọc hay các nhà phê bình. Vì thế, văn xuôi trƣớc năm 1975 khi viết về
đề tài lịch sử thƣờng chỉ tập trung khai thác các sự kiện, biến cố lịch sử nhằm
dựng lên không khí hào hùng, lòng tự hào dân tộc. Nghĩa là văn học thời kì
này nhìn lịch sử dƣới con mắt của một sử gia.
Sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986 với sự thay đổi của thời đại, để đáp
ứng những nhu cầu mới của cuộc sống, việc nhìn lại những điều đã trải qua
trong lịch sử dân tộc và sự trăn trở của cá nhân trƣớc cuộc sống hiện đại, lịch
sử đã trở thành chất liệu hấp dẫn để phản ánh cuộc sống hiện tại dƣới cái nhìn
đa chiều. Trong nhiều tác phẩm lịch sử thành công dành đƣợc nhiều lời khen
của các nhà phê bình nhƣ: Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân
Khánh), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Gió lửa, Đất trời (Nam
Giao), Vằng vặc sao Khuê (Hoàng Công Khanh), Bão táp triều Trần (Hoàng
Quốc Hải)… có một gƣơng mặt nữ tiêu biểu với cuốn tiểu thuyết dã sử đậm
chất “liêu trai” với cái tên gây ấn tƣợng mạnh, nhức nhối trong lòng ngƣời
đọc : Giàn thiêu.
Nổi bật với những truyện ngắn ghi dấu trong lòng ngƣời đọc, chị đã bất
ngờ chuyển sang thể loại tiểu thuyết – thể loại bấy lâu nay vốn đƣợc coi là
lãnh địa của các nhà văn nam. Theo lời kể của nhà văn “sau khi đƣợc gợi ý
của một ngƣời bạn, rằng nhân vật này, đề tài này rất hợp với cách viết của tôi ,
tôi bắt đầu đặt tay lên những cuốn chính sử và tôi nhìn thấy họ. Tôi bèn đuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
theo họ. Tôi chồng lên họ một lớp ký ức dã sử, trong mờ nhƣ những con sứa
cộng thêm logic đời sống…Thời Lý – Trần có rất nhiều nhân vật có tính cách
đa diện,đủ để tạo cảm hứng lớn cho tiểu thuyết. Và tôi bắt tay vào viết”[27].
Trong Giàn thiêu ta bắt gặp những câu chuyện huyền thoại không dứt,
trƣớc hết đó là câu chuyện huyền thoại thuần khiết của nàng Nhuệ Anh, cuộc
đời nàng gắn với huyền thọa về những ngọn gió, những hạt mƣa đem lại sự
trong trẻo cho thế giới khô cằn. Truyền thuyết về xuất thân và tu luyện hành
đạo của Từ Đạo Hạnh trong Thiền Uyển tập anh, truyền thuyết về gốc tích
của vua Lý Thần Tông ( do Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu ).
Chuyện vua bị hóa hổ sau đó đƣợc sƣ Minh Không chữa khỏi, ghi trong Đại
Việt sử kí toàn thư đã đƣợc Võ Thi Hảo tiếp nhận, gắn hai tiểu truyện ấy nhƣ
những kiếp sống của cùng một con ngƣời. Những thiên truyền thuyết này, một
cái đƣơng nhiên thấm đẫm huyền thoại cả Phật giáo Mật tông lẫn Đạo giáo,
cái còn lại lẽ ra phải thuần lý kiểu Nho gia nhƣng đã không từ chối đƣa những
huyền tích vào chính sử. Tuy nhiên điều quan trọng nhất là từ hai thiên tiểu sử
vô tình buộc vào nhau đó “là sự xuất hiện một vài nét nhân sinh phổ quan”[3].
Nhân vật Ngạn La là nhân vật mang một sức sống, một vẻ đẹp hồn nhiên, bản
năng trong trẻo. Cái chết oan ức của Từ Vinh đƣợc miêu tả nhƣ một chi tiết
rùng rợn, huyền bí. Cuộc thử thách tu hành của Tử Lộ đầy cam go, khó khăn,
hồn ma của Dƣơng Thái Hậu và Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan từ cõi âm hiện về đối
thoại với nhau…
Tóm lại, khi chọn đề tài lịch sử trong thời đại mới, Võ Thị Hảo cũng nhƣ
những nhà văn khác không nhằm tôn vinh, ngợi ca quá khứ mà giúp ta hiểu
đƣợc những mặt ẩn khuất của tâm hồn, của cuộc đời.
Khi đƣợc hỏi vì sao chị lại chọn nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết là Từ
Đạo Hạnh – Thần Tông mà không phải một nhân vật nào khác nhƣ : Nguyên
Phi Ỷ Lan ? Võ Thị Hảo đã trả lời : “ Từ Đạo Hạnh – Thần Tông là một nhân
vật đa diện, rất nhiều lầm lạc và rất nhiều những khát vọng – khát vọng quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lực, ham hố lạc thú và sự yếu đuối của ông ta trong việc trị nƣớc đã làm khổ
nhiều ngƣời và làm khổ chính mình…Ông là nhân vật có thực, nhƣng không
thực đến độ đóng khung làm nghèo nàn trí tƣởng tƣợng. Tôi cần ông vì ông
có những khoảng trống mà tôi có thể bù đắp và đƣa ông trở lại thế giới này,
với những thiết tha, bổi hổi của cõi ngƣời – của ngày hôm nay. Tôi lại cần ông
hơn nữa vì ông là thanh nam châm hút theo những nhân vật lịch sử nổi tiếng
khác: Nguyên Phi Ỷ Lan, Lý Thƣờng Kiệt, Lý Đạo Thành…”[42]. Trong tác
phẩm của mình nhà văn đã xây dựng những nhân vật khác với nguyên mẫu
trong chính sử, khi đƣợc hỏi: chị có ngại không khi xây dựng những nhân vật
nhƣ thế ? Chị đã tâm sự một cách thẳng thắn: “không hoàn toàn khác, nhƣng
nếu quả thực họ đã khác với chính sử thì đó là logic nội tại, tôi không ngán
gì”. Tôi từng trả lời một bài báo rằng: “ngƣời viết văn không có trách nhiệm
phong thánh”[27]. Chọn đề tài lịch sử và viết theo một góc nhìn đa chiều là
một điều khó khăn với nhà văn, đặc biệt việc tiếp nhận càng khó hơn bởi đề
tài đã quen thuộc, không gây đƣợc ấn tƣợng mạnh trong lòng độc giả dù lịch
sử dân tộc rất hào hùng và đáng tự hào. Khi hỏi chị “ chị có nghĩ tới việc cuốn
tiểu thuyết này sẽ là món ăn khó nhằn khiến ngƣời đọc phải mệt?”chị đã trả
lời : “có, tôi biết ngƣời đọc mệt nhƣng khi đọc xong sẽ khỏe. Trách nhiệm của
tôi không phải là đem một thứ dễ hiểu đến cho ngƣời đọc, mà đem lại cho họ
một cái gì đó đáng đọc”[27]. Do đó “khi cầm Giàn thiêu trên tay đa số ngƣời
đọc phải đọc một mạch, nhiều ngƣời đã thức trắng một đêm để đọc bằng xong
hơn 500 trang của cuốn tiểu thuyết này”[60;tr 9].
Khi đƣợc hỏi “trong những đứa con tinh thần của chị, Giàn thiêu đƣợc
xếp ở vị trí thứ bao nhiêu ?” Chị nói: “thứ nhất nếu không tôi đã không kiên
nhẫn để viết nhiều chữ đến thế”. Đánh giá tiểu thuyết Giàn thiêu , nhìn chung
đều là các khen ngợi. Nhƣ Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến đã nhận
xét : “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trƣớc hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn
thiêu trƣớc hết không phải là “một truyện lịch sử”, không phải là minh họa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lịch sử, mà là một sự tƣ duy lại lịch sử bằng phƣơng pháp tiểu thuyết”[78].
Quả thật, với tài năng và sự đam mê của mình, Võ Thị Hảo đã đem lại
cho độc giả những hiểu biết mới về lịch sử, khiến độc giả khi tiếp xúc với tác
phẩm xong có sự liên tƣởng, đối thoại, nhận thức lại quá khứ và qua đó gợi
mối liên hệ với các vấn đề hiện tại nhƣ vấn đề đổi mới của đất nƣớc, vấn đề
về lòng tốt, giá trị thực của cuộc sống…
Tiểu thuyết Giàn thiêu đã cho thấy quan niệm về nghệ thuật của nhà văn,
yêu cầu đƣợc đối thoại với lịch sử, với những điều dƣờng nhƣ đã là bức tƣờng
thành kính trong tâm trí con ngƣời Việt. Nhà văn cũng muốn hƣớng đến cái
nhìn gai góc, đa chiều hơn về lịch sử cũng nhƣ cuộc sống, đòi hỏi con ngƣời
phải trăn trở hơn nữa về cái “tôi” của mình trƣớc “cuộc đời đa sự, con ngƣời
đa đoan” này. Với một giọng điệu tự nhiên và cuốn hút, Giàn thiêu là một
cuốn tiểu thuyết hay giúp Võ Thị Hảo khẳng định đƣợc tên tuổi của mình ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
một thể loại khó khăn và khó đạt đƣợc thành công này.
CHƢƠNG 2 NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG GIÀN THIÊU
2.1 Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
lịch sử
2.1.1 Nhân vật văn học
Nhân vật văn học hiểu đơn giản thì đó là “con ngƣời cụ thể đƣợc miêu tả
trong tác phẩm văn học”. Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “nhân vật
văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ƣớc lệ, không thể đồng nhất nó với
con ngƣời có thực trong đời sống”[34;tr235]. Nhân vật văn học là kết quả
sáng tạo của nhà văn. Nó có thể có tên riêng nhƣ: Tấm, Cám, chị Dậu, anh
Pha hoặc không có tên riêng nhƣ: thằng bán tơ, mụ nào, thị..hoặc là một ẩn dụ
chỉ một hiện tƣợng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Dù là theo hình thức nào
thì nhân vật cũng là đối tƣợng để nhà văn phản ánh cuộc sống và quan niệm
nghệ thuật của mình. Với mỗi một thời kì lịch sử có một kiểu nhân vật tƣơng
ứng. Kiểu nhân vật này có đƣợc là do quá trình quan sát, tìm tòi, sáng tạo của
nhà văn trƣớc hiện thực bộn bề của cuộc sống. Thông qua nhân vật nhà văn
bộc lộ những suy nghĩ kín đáo nhất của bản thân, gửi gắm những thông điệp
nghệ thuật của mình.
Nhân vật văn học thƣờng đƣợc miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu
thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu
thuẫn của nhân vật này vầ nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân vật
khác. Dựa vào nhiều tiêu chí mà ngƣời ta phân chia nhân vật thành: nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, dân vật loại
hình, nhân vật tính cách, nhân vật tƣ tƣởng…
Trƣớc 1975, nhân vật trong văn xuôi Việt Nam thƣờng bị chi phối bởi
khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng mạn nên các nhân vật đƣợc xây dựng
với vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ, nhân vật đƣợc bao bọc trong “ bầu không khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vô trùng” nhằm phục vụ việc ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong
những sáng tác thuộc thời kì này, nhân vật mới chỉ đƣợc chú ý đến phƣơng
diện khách thể nhƣ: ngoại hình, phẩm chất, tính cách, tâm lý… và quan tâm
xem những phƣơng diện đó có đƣợc cá tính hóa hay không…ít có nhân vật
nào mang trong mình những phức tạp nội tâm, dằn vặt, tính toán. Nhân vật
đƣợc xây dựng theo đúng tuyến rõ ràng: ta – địch, tốt – xấu, cao cả - thấp hèn,
các tuyến nhân vật thƣờng trùng khít với chức năng xã hội mà nhân vật đó
đảm nhận. Đời tƣ và những phức tạp nội tâm nhân vật là điều các nhà văn bỏ
qua hoặc không chú ý thể hiện. Cách xây dựng nhân vật ở hầu hết các tác
phẩm văn xuôi 1945 – 1975 đều mang tính quy phạm: ta thắng, địch thua, cái
mới thắng cái cũ, nhân vật là ngƣời phát biểu hết toàn bộ chủ ý của tác giả
một cách khiên cƣỡng. Nhƣng với sự thay đổi của thời đại và sự ra đời của
quan niệm nghệ thuật đúng đắn về con ngƣời, cách tiếp cận, nhìn nhận một
nhân vật văn học cũng đã dần thay đổi.
Sau 1986, cách xây dựng nhân vật văn học đã có nhiều thay đổi đáng chú
ý. Nhân vật không nằm trong vòng tròn khép kín và bất biến nữa mà mang
nhiều yếu tố bất ngờ. Nhân vật hiện lên chân thực, gần gũi hơn, với đủ cả
“rồng phƣợng lẫn rắn rết”, “thiên thần và ác quỷ”… xen kẽ lẫn nhau. Thế giới
nhân vật không còn sự phân tuyến rành mạch giữa chính diện và phản diện
nữa. Không gian đời tƣ đƣợc khai thác triệt để để bộc lộ tính cách nhân vật.
Nội tâm của nhân vật với những rung động nhỏ bé, sâu xa nhất cũng đƣợc các
nhà văn tìm tòi, khám phá. Do đó mà văn xuôi sau 1975 đã đi vào khám phá
thân phận con ngƣời với những góc nhìn đa chiều, tinh tế và sâu sắc nhƣ hiện
thực cuộc sống vốn có vậy. Sáng tạo của văn học bao giờ cũng gắn với con
ngƣời, mà con ngƣời đƣợc biểu hiện qua các nhân vật văn học vì vậy mà nhân
vật văn học luôn là cơ sở mà ngƣời đọc sẽ phải tìm hiểu nếu muốn chiếm lĩnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đƣợc ý đồ và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác phẩm.
2.1.2 Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử
2.1.2.1 Tiểu thuyết lịch sử
Từ xƣa đến nay đề tài lịch sử vẫn luôn là đề tài đƣợc quan tâm đặc biệt
và không thiếu các tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Đề tài này đã sớm đƣợc
khai thác nhƣng sự nhận thức về nó một cách đúng đắn, đầy đủ vẫn là yêu cầu
đƣợc đặt ra. Cùng với tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, đề tài này
tiếp tục đƣợc khai thác, nhìn nhận, khám phá ở những góc nhìn sâu sắc, tinh
tế và hấp dẫn hơn. Đề tài này đƣợc khai thác ở hầu hết các thể loại văn học
nhƣng đạt thành tựu và để lại dấu ấn hơn cả là thể loại tiểu thuyết lịch sử. Khi
nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử, ngƣời ta thƣờng chú trọng đến vấn đề sự
thực lịch sử và hƣ cấu văn học. Dựa trên mức độ tính chân thực của lịch sử và
hƣ cấu của văn học mà ngƣời ta có thể chia tiểu thuyết lịch sử ra làm hai
nhóm, hai khuynh hƣớng.
Khuynh hƣớng tái hiện toàn bộ lịch sử ở một giai đoạn nào đó với những
biến động xã hội dƣới sự tác động của nhân vật lịch sử. Khuynh hƣớng này
thƣờng gắn với hệ tƣ tƣởng chính thống và tạo ra không khí sử thi oai
nghiêm, hoành tráng. Khuynh hƣớng thứ hai là tái hiện nhân vật lịch sử với
những số phận cụ thể và thông qua nhân vật tác giả bộc lộ cái nhìn của thời
đại mình, hoặc dùng nhân vật nhƣ một phƣơng tiện để gửi gắm những suy
nghĩ về cuộc sống. Mỗi khuynh hƣớng thích hợp với từng thời kỳ văn học.
Văn học trƣớc 1975 mang khuynh hƣớng thứ nhất với cái nhìn nhận, đánh
giá, phê phán theo quan điểm đậm chất chính sử nhƣ: Trùng quang tâm sử
(Phan Bội Châu), Đêm hội Long trì, Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy
Tƣởng), Cái hột mận (Lan Khai)…Văn học sau 1975 đặt ra yêu cầu mới về đề
tài lịch sử, lịch sử đƣợc nhắc đến với sự đối thoại, yêu cầu nhận thức lại chứ
không còn là sự sùng kính tuyệt đối nhƣ trƣớc nữa. Do đó mà “ tính hƣ cấu
của tác phẩm ngày một đậm, bên cạnh nghệ thuật hƣ cấu từ những nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
và sự kiện lịch sử có thật ngày càng xuất hiện nhiều những nhân vật và sự
kiện hoàn toàn do trí tƣởng tƣợng của nhà văn”[55;tr 68]. Phan Cự Đệ chia các
nhà tiểu thuyết lịch sử thế kỉ XX ra làm hai nhóm: “Một số nhà văn lấy việc tái
hiện chính xác các sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là chính… Ở đây lịch sử
đƣợc coi là cứu cánh. Một số khác chỉ coi lịch sử là chất liệu, thậm chí là
phƣơng tiện để viết tiểu thuyết. Họ tập trung vào xây dựng nhân vật tƣ tƣởng
hoặc thông qua lịch sử đặt ra vấn đề cho hôm nay, cho mai sau…[19;tr 187]
Trong tiểu thuyết Vằng vặc sao khuê ( Hoàng Công Khanh) tác giả chia
nhân vật ra làm hai tuyến: Tuyến những nhân vật lịch sử thì tác giả giữ lại
những nét chính, chỉ giải thích hoặc cải chính sự kiện lịch sử theo quan điểm
của nhà văn, còn tuyến nhân vật quần chúng vô danh do nhà văn tƣởng tƣợng
ra để diễn giải lịch sử theo ý mình. Tiểu thuyết Giàn thiêu thuộc nhóm tác
phẩm viết về nhân vật, sự kiện lịch sử có thật nhƣng không nhằm giải thích
lịch sử mà nhằm nói về số phận của con ngƣời dƣới quyền lực chính trị.
Có nhiều quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Văn Lợi cho rằng :
“tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trƣng tiểu thuyết nhƣng
lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật”[51].
Phan Cự Đệ cũng khẳng định vai trò của hƣ cấu và sáng tạo nghệ thuật
nhằm làm xóa đi những điểm trắng của lịch sử. Với dữ liệu lịch sử cùng với
sự hƣ cấu, phóng đại, trí tƣởng tƣợng phong phú, tài năng sáng tạo của nhà
văn mà cùng một giai đoạn lịch sử nhƣng mỗi một nhà văn có cách nhìn nhận,
cách khai thác, cách viết riêng, tạo ra đƣợc cái nhìn đa diện cho ngƣời đọc.
Nhân vật lịch sử là những ngƣời có thật, nổi tiếng, có tên tuổi đƣợc lịch sử
nhắc đến nhƣ: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Viết tiểu thuyết lịch sử là nhà văn
phải khai thác một số cuộc đời có thật, phải dùng các dữ liệu lịch sử. Cùng
với những điều đó và trí tƣởng tƣợng, sự sáng tạo của mình làm sống lại lịch
sử xóa đi những “khoảng cách sử thi”, làm cho những câu chuyện xa xƣa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cũng mang hơi thở của thời đại.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam xuất hiện ở thế kỉ XVIII với Nam triều công
nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia
văn phái)…Những tiểu thuyết này vẫn còn mang nặng nội dung sử biên niên,
mang đặc trƣng quan niệm tiểu thuyết giai đoạn đó, chƣa có những sáng tạo
nghệ thuật đáng chú ý. Nhƣng theo dòng phát triển của văn học, tiểu thuyết
lịch sử đã không ngừng chuyển mình và đạt nhiều thành quả, có xu thế ổn
định với tƣ cách một thể loại. Sau năm 1986, các tiểu thuyết lịch sử càng lúc
càng có sự đầu tƣ công phu cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nhiều tác phẩm có
quy mô đồ sộ nhƣ: Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly ( Nguyễn Xuân Khánh),
Tây sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc
Hải)…Với những dữ liệu lịch sử hấp dẫn cùng với sáng tạo, hƣ cấu, các tác
giả đã dựng lên một không khí sử thi hào hùng, đồ sộ nhƣng cũng không kém
phần bi thƣơng, đáng suy nghĩ.
Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh là một tiểu thuyết lịch sử đƣợc đánh
giá cao. Tác phẩm viết về cuộc khủng hoảng sau thế kỉ XIV, về sự suy thoái
của vƣơng triều Trần. Nguyễn Xuân Khánh đã bỏ ra hai mƣơi năm trời để
nghiên cứu đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật, đọc các tác phẩm sử học, triết học,
văn hóa… cùng với sự am hiểu sâu sắc về lịch sử của mình, tác phẩm đã tái
hiện đƣợc giai đoạn 1370 – 1400 là giai đoạn suy vi và khủng hoảng của
vƣơng triều Trần. Tác phẩm xuất hiện nhiều nhân vật quan trọng của lịch sử :
vua Dụ Tông, vua Nghệ Tông, vua Duệ Tông, vua Thuận Tông, các tƣớng
lĩnh Trần Khát Chân, Nguyễn Đa Phƣơng, Nguyễn Đán, Nguyễn Uyên, Hồ
Hán Thƣơng, Nguyễn Cảnh…Nhân vật nổi loạn : Phạm Sƣ Ôn, giặc Chiêm
thành Chế Bồng Nga… Tác phẩm cũng tái hiện nhiều biến cố quan trọng của
lịch sử nhƣ: Cuộc chiến với quân Chiêm thành, Hồ Quý Ly viết Minh đạo,
xây dựng Tây Đô và mở hội ở Đốn Sơn… Tác phẩm cũng nhằm thể hiện
xung đột mới cũ trong vƣơng triều ở thời suy vi, lụi tàn. Tác phẩm tập trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tái hiện lịch sử dựa vào các nhân vật lịch sử. Số lƣợng nhân vật có thật của
lịch sử chiếm hầu hết số lƣợng nhân vật trong tác phẩm. Lịch sử của vƣơng
triều đƣợc trải dài trong suốt tác phẩm. Thế nhƣng đây không phải là một tác
phẩm sử kí, mà nhà văn chỉ sử dụng những sự kiện lịch sử xoay quanh nhân
vật Hồ Quý Ly để thể hiện ý đồ ghệ thuật của mình. Hồ Quý Ly là nhân vật
trung tâm của tác phẩm kết dính toàn bộ câu chuyện, là nhà cái cách mới mẻ
trên cái nền đổ nát và lụi tàn của vƣơng triều Trần. Từ đó tác giả muốn khẳng
định vai trò của nhân vật này với công cuộc cải cách đất nƣớc đầy táo bạo,
mới mẻ. Việc bám rất sát các sự kiện lịch sử không làm cho câu chuyện trở
nên khô cứng, quen thuộc mà lại làm cho lịch sử hiện lên thật sống động.
Cũng trong dòng cảm hứng yêu cầu nhận thức và đối thoại với lịch sử , bộ
tiểu thuyết Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải) cũng viết về triều Trần
nhƣng theo một hƣớng khác. Ở cuốn tiểu thuyết này ta thấy tiểu thuyết lịch sử
đã mang đúng với bộ mặt, đặc trƣng thể loại của nó. Hoàng Công Khanh đã
nhận xét “thế nào là tiểu thuyết lịch sử? lấy gì làm chuẩn mực để phân biệt
đâu là tiểu thuyết lịch sử nói chung? Câu trả lời chính xác nhất ở trong nội
dung của tác phẩm, ở ngay trong bộ tiểu thuyết lịch sử về đời Trần của Hoàng
Quốc Hải”. Quả đúng nhƣ vậy, bằng 4 tập của bộ tiểu thuyết, nhà văn đã xây
dựng đƣợc một bức tranh lịch sử đồ sộ, vừa hào hùng vừa đau khổ, để lại cho
hậu thế nhiều bài học quý giá. Với khoảng thời dài 175 năm trong lịch sử, mỗi
một tập tiểu thuyết là một câu chuyện gắn với những biến cố lịch sử quan
trọng của đất nƣớc. Tập Bão táp cung đình nói về một giai đoạn gay gắt, phức
tạp khi chuyển từ chính quyền nhà Lý sang nhà Trần, và là thời kì đầu của nhà
Trần. Tập Thăng Long nổi giận nói về cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân
Nguyên Mông, một trong những trận chiến gian lao, để lại nhiều dấu ấn. Tập
Công chúa Huyền Trân cho thấy đƣờng lối kiên trì hòa bình của nhà Trần.
Tập Vương triều sụp đổ phản ánh thời gian thịnh trị và đến sụp đổ của vƣơng
triều Trần. Bộ tiểu thuyết với bốn tập truyện công phu, chau chuốt đã tái hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thành công bức tranh lịch sử hoành tráng, đầy hào hùng nhƣng cũng đầy bi
tráng của triều Trần. Không chỉ vậy, bằng kiến thức lịch sử vững vàng, óc
sáng tạo, liên tƣởng phong phú nhà văn đã bù đắp nhiều khoảng trắng của lịch
sử , làm thỏa mãn ngƣời đọc. Tác phẩm đã làm sáng tỏ nhiều kiến giải thiếu
khách quan quanh các nhân vật còn nhiều tranh cãi trong lịch sử nhƣ : Trần
Thủ Độ, Hồ Quý Ly, biểu dƣơng tầm trí tuệ, công lao, sự đóng góp của một số
nhân vật lịch sử nhƣ : Chu Văn An, Trần Nhân Tông. Đồng thời lên án, phân
tích nguyên nhân và hậu quả của những kẻ làm sụp đổ cả vƣơng triều nhƣ :
Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Dụ Tông…Nhà văn không chỉ dụng công nhằm
tái hiện lịch sử mà quan trọng hơn là nhằm chuyển tải thông điệp dành cho
cuộc sống hiện tại. Nhiều bài học đã đƣợc nhà văn chuyển tải nhƣ “sự hƣng
thịnh của mọi thời thì không giống nhau nhƣng sự suy vong thì giống nhau,
đều bắt đầu từ chỗ không ƣa lời nói thẳng, ghét ngƣời hiền, khinh dân, nghi
ngờ kẻ sĩ, trọng dụng kẻ bất tài vô đạo”[62;tr17]. Có thể nói, với cách viết kiên
trì và nghiêm túc, dồn hết tâm huyết của mình nhằm giải mã, đối thoại với lịch
sử, nhà văn đã khiến ngƣời đọc có cái nhìn khác với tiểu thuyết lịch sử.
Một tiểu thuyết lịch sử khác cũng đã khiến dƣ luận phải xôn xao là tiểu
thuyết Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), một tác giả cùng quê với
ngƣời anh hùng Nguyễn Huệ. Với độ dài hơn một nghìn trang, tác giả đã khắc
họa đƣợc một giai đoạn lịch sử biến động của dân tộc. Bắt đầu từ lúc Trịnh
Sâm chấp chính đến lúc Tây Sơn ra bắc đánh đổ tập đoàn nhà Trịnh, tiêu diệt
hai mƣơi vạn quân xâm lƣợc Mãn Thanh, Quang Toản thất bại, Gia Long diệt
nhà Tây Sơn và thống nhất đất nƣớc năm 1802. Tác giả đặc biệt quan tâm
dành thời gian để nói về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, ngƣời anh hùng Nguyễn
Huệ, cuộc chiến giữa chúa Nguyễn ở Đàng trong, chúa Trịnh Đàng ngoài và
cuộc chiến với nƣớc Đại Thanh thời Càn Long hùng mạnh. Ngƣời đọc nhƣ bị
cuốn vào những trận chiến anh hùng của dân tộc. Việc kết hợp giữa yếu tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lịch sử với huyền thoại, hƣ cấu, tƣởng tƣợng của tác giả làm cho câu chuyện
hấp dẫn, lấp đầy những khoảng trống lịch sử còn bỏ ngỏ, tăng thêm sức sống
cho lịch sử.
Tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) cũng viết về nhân vật
Nguyễn Huệ song không chỉ có ngợi ca, sùng kính tuyệt đối nhƣ một vị thánh
nhân mà còn phản ánh một sự thực nữa về ngƣời anh hùng mà sử sách đã bỏ
qua. Đó là để nắm đƣợc binh quyền, ông cũng không ngần ngại quay súng
bắn vua anh Nguyễn Nhạc của mình.
Nhƣ vậy nhân vật lịch sử là phƣơng tiện để tác giả bộc lộ thái độ của
mình với lịch sử đồng thời giúp ngƣời đọc hiểu thêm về lịch sử một cách
đầy đủ nhất. Qua nhân vật ta sẽ hiểu đƣợc thông điệp mà tác giả muốn bày
tỏ, gửi gắm trong tác phẩm của mình.
2.1.2.2 Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử
Nhân vật trong tiểu thuyết đƣợc định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn
học một cách “tƣơng đối” là hạt nhân của tác phẩm văn học, có thể là thuật
ngữ dùng để chỉ “con ngƣời cụ thể đƣợc miêu tả trong tác phẩm văn học”hoặc
“đƣợc sử dụng nhƣ một ẩn dụ, không chỉ một con ngƣời cụ thể nào mà chỉ
một hiện tƣợng nổi bật nào đó trong tác phẩm”.[34;tr235].
Với mỗi tác phẩm tiểu thuyết, nhân vật văn học luôn là trung tâm điểm của
mọi sự sáng tạo, nghiên cứu. Chƣa dừng lại ở việc xây dựng nhân vật trong
đời thƣờng. Đến với đề tài lịch sử, các nhà tiểu thuyết đã thổi hồn, tạo ra một
diện mạo mới cho tiểu thuyết. Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử nếu không là
con ngƣời nguyên mẫu trong lịch sử thì cũng phải là nhân vật hƣ cấu nhƣng
đặt trong không gian, thời gian lịch sử.
Nếu nhƣ trƣớc đó, tiểu thuyết Việt Nam thƣờng đi theo lối mòn là xây
dựng nhân vật từ những mẫu ngƣời, những dạng ngƣời của hiện thực, cấp cho
nhân vật những đặc tính mà khi tiếp xúc ngƣời đọc sẽ cảm giác nhƣ hình ảnh
của chính bản thân họ hay những con ngƣời hàng ngày bắt gặp trong các mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
quan hệ của cuộc sống.
Sang thời kì Đổi mới, cùng với yêu cầu phải cách tân và sáng tạo không
ngừng, tiểu thuyết Việt Nam đã đi vào khai thác nhân vật ở góc độ cá nhân,
đời tƣ với những bi kịch về cuộc đời, mổ xẻ, phơi bày nó một cách trung thực
và táo bạo. Ngoài ra các nhà tiểu thuyết hiện đại cũng theo một khuynh hƣớng
khám phá khác là từ những nhân vật lịch sử trong quá khứ nhƣng đƣợc thổi
hồn thời đại. Những nhân vật lịch sử này tuy mang dáng dấp của quá khứ
nhƣng lại mang những thông điệp, trăn trở của cuộc sống thực tại vô cùng
gần gũi. Với Nguyễn Thị Tuyết Minh [76] thì theo phƣơng diện hệ thống các
nhân vật lịch sử thƣờng xây dựng ở hai loại hình sau :
Loại thứ nhất là nhân vật mang khát vọng lịch sử. Nhân vật là ngƣời đại
diện cho nguyện vọng của nhân dân, dân tộc ở mỗi một giai đoạn, tiêu biểu
cho tầm vóc của thời kì lịch sử đó. Nhân vật đƣợc coi là ngƣời anh hùng của
dân tộc với những chiến công và lời ngợi ca không ngớt. Tuy nhiên đến tiểu
thuyết lịch sử sau 1975, những nhân vật lịch sử quen thuộc từng là những
tƣợng đài ngƣỡng vọng và bất biến trong tâm linh, tâm thức ngƣời Việt đƣợc
xây dựng gần gũi hơn.
Loại thứ hai là nhân vật số phận trong dòng lịch sử. Càng về sau, loại hình
nhân vật này càng xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết lịch sử. Đến loại hình này,
nhân vật không chỉ đƣợc khám phá ở góc nhìn của lịch sử nữa mà đƣợc tập
trung khắc họa ở đời tƣ với những số phận và tính cách riêng. Hoàn cảnh lịch
sử tạo ra, chi phối số phận của con ngƣời vì thế khi tiếp cận những nhân vật
lịch sử lúc này, chất tiểu thuyết đã phát huy vai trò của nó. Các nhân vật lịch
sử nhƣ đƣợc sống lại vừa gần gũi, sinh động vừa phức tạp, mang hơi thở của
thời đại.
Nhƣ đã nói, nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử là một cách tiếp cận
khác về còn ngƣời trong bối cảnh thời gian, không gian lịch sử cụ thể mang
màu sắc huyền bí nhƣng không xa lạ mà là một nhân tố để kích thích ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đọc đón chờ và để nhà văn thỏa sức sáng tạo cá nhân.
Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết có thể là cơ sở để ta chia tiểu thuyết lịch
sử thành hai loại : Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết có dùng nhân vật, sự kiện
lịch sử nhƣ là một cơ sở để nhà văn tái hiện hoàn cảnh và xây dựng các nhân
vật khác. Những tác phẩm này không nhằm phản ánh lịch sử mà dùng lịch sử
để thể hiện một chủ đề khác. Do đó tác phẩm cần sử dụng nhiều yếu tố hƣ
cấu, sáng tạo công phu của nhà văn. Việc nhà văn xử lý chất liệu lịch sử cùng
với sự sáng tạo của mình tạo ra cách tiếp cận mới về đề tài lịch sử, đồng thời
lại đặt ra những những vấn đề không bao giờ cũ của cuộc sống hiện tại đó là :
số phận con ngƣời, cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, hạnh phúc là gì…Bởi vậy
mà những yếu tố lịch sử trong thể loại tiểu thuyết này trở nên hấp dẫn hơn,
sinh động, giàu sức sống, mang tính đa nghĩa hơn.
Thề hiện rõ sự phân loại của thể loại tiểu thuyết này, Nguyễn Xuân Khánh
đã cho ra đời hai tác phẩm tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly thuộc
loại tiểu thuyết lịch sử. Còn tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn có sử dụng nhân vật
và sự kiện lịch sử. Trong tác phẩm, sự kiện lịch sử chỉ có tác dụng làm nền
cho bối cảnh của câu chuyện. Những yếu tố hƣ cấu xuất hiện dày đặc tạo
điểm nhấn cho tác phẩm, đồng thời cũng thể hiện đƣợc chủ đề tƣ tƣởng của
tác giả. Ba sự kiện có tính chất bƣớc ngoặt trong lịch sử là: Pháp đánh Hà Nội
lần hai, Pháp đánh quân Cờ Đen và Pháp xây dựng nhà thờ lớn. Tác giả đã rất
khéo léo để chọn những sự kiện lịch sử hợp lý để dẫn dắt ngƣời đọc đi đến ý
đồ sáng tạo của mình. Những sự kiện này đã ảnh hƣởng không nhỏ đến văn
hóa, sự gắn kết của lịch sử với cuộc sống sinh hoạt đời thƣờng lẫn tâm linh
của ngƣời Việt. Do đó ta có cảm nhận cuốn tiểu thuyết thiên về văn hóa hơn
là lịch sử. Ngoài ra tác giả cũng sử dụng các nhân vật lịch sử với mức độ cần
thiết khác nhau, có những nhân vật lịch sử có thật chỉ đƣợc xây dựng nhƣ
nhân vật đầu mối nhƣ một số nhân vật chính trị và đức giám mục ngƣời Pháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy nhân vật lịch sử chỉ đƣợc dùng để làm giá đỡ
cho cốt truyện, nhằm tạo không gian lịch sử đồng thời mở ra không gian để
nhà văn thực hiện hƣ cấu theo ý đồ của mình.
Tiếp cận và khai thác nhân vật lịch sử theo xu hƣớng mới của văn học
không phải là để giải thiêng, chê trách hay nhằm gây sốc về những nhận định
lịch sử một cách dễ dãi mà nhằm làm sống lại lịch sử, để con ngƣời đƣợc đƣa
ra những suy nghĩ, kiến giải, đóng góp những nhận định ở những góc nhìn đa
chiều và công bằng về lịch sử. Trong đề tài lịch sử, sự kiện lịch sử là bất biến
đồng thời là ngọn nguồn để nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của nhân vật
lịch sử. Việc khai thác nhân vật và hoàn cảnh lịch sử không phải là để “triệu
hồi những bóng ma lịch sử” mà còn nhằm chỉ ra ý nghĩa của cuộc sống hôm
nay với những nhận thức mới về số phận con ngƣời, về giá trị cuộc sống.
Nhân vật lịch sử quả thực là một trong những dữ liệu khó mà ngƣời viết
phải xử lý sao cho phù hợp. Bởi nếu không vƣợt qua trở ngại đầu tiên này, sự
non nớt trong cách cảm, cách viết của tác giả sẽ bộc lộ. Và nếu nhƣ vậy thì
tiểu thuyết lịch sử sẽ không nhận đƣợc sự đón đọc của độc giả và tác giả đã
thất bại khi khai thác chất liệu lịch sử trong tiểu thuyết.
2.2 Hệ thống nhân vật trong Giàn thiêu
Nhƣ đã nói ở trên, nhân vật chính là phƣơng tiện để tác giả gửi gắm thông
điệp nghệ thuật của mình. Do đó tìm hiểu hệ thống nhân vật chính là một
trong những con đƣờng quen thuộc giúp ta tìm hiểu suy nghĩ, quan niệm về
nghệ thuật của nhà văn.
Trƣớc Giàn thiêu, những kiểu nhân vật trong sáng tác của Võ Thị Hảo đã
định hình khá rõ trong các truyện ngắn và ghi đƣợc những dấu ấn riêng trong
lòng ngƣời đọc. Thƣờng xuất hiện trong các sáng tác của Võ Thị Hảo là hình
ảnh những ngƣời phụ nữ với nhiều hoàn cảnh đáng thƣơng sau thời hậu chiến.
Họ là những ngƣời thấm thía hơn ai hết những khó khăn, khổ sở trong cảnh
“bom rơi, đạn nổ”. Rồi khi cuộc sống hòa bình, họ cũng là ngƣời thấu hiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhất những trăn trở, phức tạp của cuộc sống đời thƣờng. Họ - những ngƣời
nhạy cảm trƣớc những biến cố của cuộc đời vì vậy họ càng đau khổ trƣớc
“cuộc đời đa sự, con ngƣời đa đoan”.
Đến tiểu thuyết Giàn thiêu, ngƣời đọc vẫn cảm nhận ở Võ Thị Hảo một
giọng văn nhẹ nhàng, sâu sắc nhƣng cách xây dựng nhân vật lịch sử trong tác
phẩm đã cho thấy tài năng vƣợt trội của bà. Tác phẩm sử dụng nhiều nhân vật
và sự kiện có thật trong lịch sử nhƣng tác phẩm không nhằm tái hiện, minh
họa lịch sử mà tập trung thể hiện số phận con ngƣời dƣới sự áp bức của
vƣơng quyền, thần quyền và nam quyền. Võ Thị Hảo đã dày công xây dựng
hình tƣợng những nhân vật nữ trong tác phẩm. Mỗi nhân vật có số phận, tính
cách, vẻ đẹp riêng, nhƣng chung nhất ở họ là tiếng nói của “nữ quyền”.
Không chỉ dừng lại ở việc dùng nhân vật, sự kiện lịch sử để đƣa ra tiếng nói
về số phận con ngƣời trong hoàn cảnh hiện tại, tác phẩm còn đƣa ngƣời đọc
về những khúc mắc, bí ẩn của lịch sử đƣợc tác giả lý giải một cách hợp lý.
Chọn thời gian lịch sử là vƣơng triều thời Lý, tác giả đã đặt ra liên tiếp
nhiều câu hỏi nhằm kiến giải và đối thoại với lịch sử. Từ một sự kiện có thật
là việc hỏa táng cung nữ sau cái chết của nhà vua, nhà văn đã đặt câu hỏi về
số phận con ngƣời trong xã hội phong kiến. Lúc xã hội loạn lạc thì cảnh đau
khổ của con ngƣời là điều đƣơng nhiên không tránh khỏi, thế nhƣng lúc đất
nƣớc đƣợc tiếng là hòa bình dƣới sự cai trị của vua sáng tôi hiền thì sao?.
Sự kiện Nguyên Phi Ỷ Lan vì ghen ghét mà bức hại Thái Hậu họ Dƣơng
và gần một trăm cung nữ trẻ đẹp khiến cho ngƣời đọc thấy bàng hoàng về một
nhân vật vốn đƣợc lịch sử ca ngợi về lòng đại nhân, đại đức, về sự thông minh
của cô gái hái dâu này. Hay nhân vật Từ Đạo Hạnh đầu thai để làm vua, đƣợc
sống đầy đủ vinh hoa phú quý, mọi lạc thú của trần gian nhƣng phải chịu nỗi
đau dày vò nhƣ thế nào…đều nhằm thể hiện thông điệp về số phận con ngƣời
và cuộc đời của tác giả.
Cách xây dựng và xử lý dữ liệu về nhân vật lịch sử, mỗi tác giả có hƣớng đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
của riêng mình. Chẳng hạn khi xây dựng nhân vật Lý Thần Tông, Võ Thị Hảo
không nhằm thể hiện vai trò lịch sử của con ngƣời này. Mà xây dựng nhân vật
này với tƣ cách là kiếp sau của Từ Đạo Hạnh. Một ông vua chỉ biết ăn chơi
hƣởng lạc, ham mê sắc dục, ham hố quyền lực không quan tâm gì đến chính
sự và đời sống của ngƣời nông dân.
Nhân vật thứ hai đƣợc nói đến là Nguyên Phi Ỷ Lan một nhân vật đƣợc tác
giả nhìn nhận rất công bằng, cả về công và tội. Bà đƣợc ca ngợi là ngƣời
thông minh, mẫn tuệ, biết điều hành chính sự khi vua Thánh Tông đi đánh
giặc. Bà cũng là ngƣời đã dìu dắt vua Nhân Tông mới bảy tuổi lên ngôi lập
đƣợc nhiều chiến công hiển hách. Nhƣng Nguyên Phi Ỷ Lan cũng không hẳn
là vị thánh nhân nhƣ lịch sử trƣớc đã cố gắng tô vẽ. Bà cũng có lòng tham
vọng, nhỏ nhen và tàn nhẫn. Để đạt đƣợc quyền lực bà đã bất chấp thủ đoạn,
làm bao nhiêu việc ác “kẻ nào ngáng đƣờng, dù vô tình kẻ đó phải
chết”[35;tr235]. Sự suy thoái đạo đức của những ngƣời đứng đầu trăm họ này
là mầm mống dẫn đến sự sụp đổ của vƣơng triều nhà Lý. Cũng là nguyên
nhân khiến cho những số phận nhân dân nhỏ bé nhƣ Tử Lộ, Nhuệ Anh, Lê Thị
Đoan, Ngạn La…phải chịu bất hạnh. Rõ ràng, với tiểu thuyết Giàn thiêu, Võ
Thị Hảo đã bám khá sát và khai thác rất tốt dữ liệu lịch sử. Tuy nhiên nhƣ đã
nói thể hiện rõ lịch sử không phải là đích đến cuối cùng của tác phẩm, mà đặt
câu hỏi về số phận con ngƣời, mâu thuẫn đấu tranh thiện ác, hạnh phúc và
quyền lực, niềm tin tôn giáo…mới là vấn đề tác phẩm đặt ra.
Dù có tiếp cận lịch sử và nhân vật lịch sử theo cách nào thì tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam những năm gần đây đã đạt đƣợc nhiều thành tựu và thành công
rực rỡ. Cả về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, các tiểu thuyết lịch sử đã
kiến bạn đọc cảm thấy muốn đọc và yêu thích một thể loại văn học không hề
dễ dàng này. Khi khai thác hệ thống nhân vật trong Giàn thiêu, ta nhận thấy
tác giả đã xây dựng thành công hai hệ thống nhân vật: Đó là nhân vật lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
có thật và nhân vật lịch sử hƣ cấu.
2.2.1 Nhân vật lịch sử có thật
2.2.1.1 Nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông
Nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông là nhân vật chuyển tải rõ
nhất ý đồ nghệ thuật của tác giả. Bằng sự liên tƣởng, tƣởng tƣợng phong phú
và tài năng sáng tạo tuyệt vời, tác giả đã kết hợp đƣợc những cứ liệu lịch sử
ghi trong Đại Việt Sứ ký toàn thư, những sự kiện trong giai đoạn hai triều vua
Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông với các truyền thuyết về nhà sƣ Từ Đạo
Hạnh trong Thiền Uyển Tập Anh để tạo nên một nhân vật với hai kiếp sống
mang nhiều suy ngẫm, triết lý về cuộc đời.
Từ Lộ vốn là một chàng công tử con nhà quyền quý, sống trong sự đầy đủ
về vật chất, tràn ngập yêu thƣơng, hạnh phúc gia đình, có tình yêu đầu đời
đẹp nhƣ mộng, chƣa từng biết đến mƣu toan, lo lắng cho cuộc sống thì bỗng
nhiên tai họa ập xuống. Cha của chàng là quan đô án Từ Vinh vì viết đơn tố
cáo mà bị Diên Thành Hầu thuê pháp sƣ Đại Điên giết chết một cách thảm
khốc. Xác Từ Vinh trôi ngƣợc sông Tô đến nhà Diên Thành Hầu thì đứng
dựng lên trỏ tay vào nhà hắn nhƣ muốn tố cáo kẻ hãm hại mình.
Chứng kiến cái chết oan khốc của cha, cùng với nhiều lần oan hồn của cha
báo mộng đòi trả thù, Từ Lộ đã thay đổi hoàn toàn, trong lòng chàng giờ chỉ
còn thù hận, chàng nhƣ trở thành một con ngƣời khác.Bỏ lại tất cả, chàng
quyết tâm trả thù cho cha “Lạy cha! Kiếp này không phải của con. Con sống
chỉ để trả oán này! Xin trời cao đất dày chứng dám…[35;tr78].
Chỉ sau một đêm, gia đình hạnh phúc, tình yêu sụp đổ, tâm hồn nhân hậu,
vô tƣ, non nớt của chàng phải chịu những nỗi đau đớn dày vò tan nát. Cha
chết, mẹ điên dại, hạnh phúc gia đình bị kẻ gian hãm hại, tiêu hủy trong một
đêm. Tình cảm riêng tƣ giờ không còn chỗ trong lòng chàng, tất cả chỉ còn là
tâm nguyện muốn báo thù. Từ bi kịch của gia đình chàng, Diên Thành Hầu và
pháp sƣ Đại Điên đã bắt tay nhau trở thành hai thế lực gây nên bao tội ác, giết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hại, làm tan nát hạnh phúc của bao nhiêu con ngƣời, bao nhiêu gia đình. Để
đòi lại công bằng cho cha, lần thứ nhất Từ Lộ đã cùng mẹ đội đơn đến Đô hộ
phủ ngục tụng để mong công lý sẽ rửa sạch nỗi oan khuất cho cha. Thế nhƣng
ngay đến ông quan nổi tiếng thanh liêm nhƣ Trần Dĩnh cũng bị thế lực của
Diên Thành Hầu và sức mạnh của “vô số thỏi vàng chói lọi bất ngờ hiện ra
nhƣ phù phép”[35;tr100] mua chuộc, đe dọa. Không rửa sạch đƣợc nỗi oan
cho cha chàng mà còn bị gán thêm tội vu cáo Diên Thành Hầu, ngƣời mẹ của
chàng đã không chịu nổi đau đớn, uất ức mà chết. Còn Từ Lộ lại càng chồng
thêm nỗi đau và lòng hận thù. Lại một lần nữa, những kẻ có tiền, có quyền thế
lại có thể đổi trắng thay đen sự thật, dẫm đạp lên cuộc đời của những ngƣời
dân lƣơng thiện, thấp cổ bé họng. Từ Lộ phải sống bơ vơ, chui lủi, trốn tránh
sự truy tìm của Diên Thành Hầu.
Lần thứ hai Từ Lộ hi vọng rằng nhà vua Lý Nhân Tông đi điểm binh ở
cánh đồng Giảng Võ sẽ là cơ hội cho chàng kêu oan. Chàng liều mình chờ đợi
và viết một lá đơn bằng máu kêu oan dâng vua. Chàng tin rằng nhà vua anh
minh và từng lập bao chiến công hiển hách này sẽ giúp chàng đòi sự công
bằng. Nhƣng thêm một lần nữa, niềm tin bị đổ vỡ. Oan không đƣợc rửa mà
bản thân chàng suýt mất mạng vì làm kinh động đến nhà vua. Chàng đau đớn
nhìn những bƣớc chân voi dẫm nát lá đơn của mình.
Thất bại hai lần, niềm tin hoàn toàn sụp đổ, Từ Lộ không còn tin vào công
lý, vào sự anh minh của đấng cửu trùng nữa.Chàng chỉ còn tin vào chính
mình, tự mình tìm đến kẻ thù để trả thù. Nhƣng thƣơng thay, chàng vốn là
một thƣ sinh làm sao có thể đối đầu với tay pháp sƣ độc ác, nhiều phép lực
nhƣ Đại Điên.
Ba lần trả thù, ba lần vạch mặt kẻ gian ác là ba lần thất bại, Chàng nhận ra
rằng: mình phải mạnh hơn kẻ thù mới tiêu diệt đƣợc kẻ thù. Vì vậy chàng đã
quyết định phải đi tìm nơi học phép thuật giỏi hơn kẻ thù thì mới mong trả
đƣợc thù nhà. Quyết định đó bắt đầu cho một con đƣờng gian nan, cực khổ vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cùng mà chàng công tử ngày nào phải trải qua. Quyết tâm học phép thuật nơi
Tây Trúc là quyết định phải dứt bỏ duyên nợ với trần ai, nghĩa là phải dứt bỏ
đi hạnh phúc duy nhất còn sót lại với chàng trên trần thế: Tình yêu với nàng
Nhuệ Anh.
Từ Lộ phải sống trong sự giằng xé khi những phút hạnh phúc bên Nhuệ
Anh và những phút lại sôi sục mối hận. Bỏ lại hạnh phúc và ngƣời yêu nhỏ
bé, chàng quyết tâm dứt áo ra đi. Trên con đƣờng đến Phật pháp, những khó
khăn, khổ ải không ám ảnh chàng bằng đôi mắt của nàng Nhuệ Anh. Có
những lúc Từ Lộ nhƣ không thể thắng nổi bản thân mình. Chàng không thể
quên đƣợc đôi mắt đầy tình ái, lẫn giận hờn, tiếc hận của Duệ Anh, khát vọng
tình yêu luôn âm ỷ trong chàng, chàng muốn ngay lập tức về kinh đô để đƣợc
nhìn thấy nàng.
Để vƣợt qua nhƣng giây phút đó, Từ phải đấu tranh, hành xác để quên đi
hình bóng của ngƣời yêu, những ham muốn, dục vọng trần thế “Từ nghiến
răng dúi sâu ngón út của bàn tay trái vào giữa đống than, cái ngón tay thổn
thức nhất cách đây chừng vài phút vừa ấm lên, run rẩy tƣởng chừng những
ngón tay mềm mại của Nhuệ Anh vừa chạm vào. Nhƣng viên than hồng dính
chặt vào da thịt. Cái đau xói lên óc. Từ cất một tiếng thét đau đớn trong họng
gìm sâu tay trong đống than đỏ, bốc lên khét lẹt mùi thịt cháy. Khi Từ rút
ngón tay ra, ngón tay đã rã thịt, phần xƣơng bên trong bầm dập nhƣ một
nhánh cây bị tƣớc hết vỏ. Nỗi đau đớn do cuộc hành xác mang tới khiến cơn
khát trong chàng dịu vơi đi, dƣờng nhƣ trong tim đã chứa đầy máu đen”[35;tr
195 - 196]. Trên đƣờng hành hƣơng về hƣớng Tây, Từ Lộ gặp lại ngƣời yêu.
Nhuệ Anh bị ép làm vợ Lý Câu, nàng bỏ trốn lễ hợp cẩn, giả trai đi bán dầu
ngƣợc xuôi để tìm ngƣời yêu. Nàng tự nguyện theo Từ Lộ đến cùng trời cuối
đất nhƣng Từ Lộ nguyện sống để trả thù nên cố gắng dứt bỏ. Tuy nhiên,
không thể dối lòng mình, họ đã dâng hiến cho nhau tình vợ chồng mặn nồng
trƣớc khi nàng lao mình xuống dòng thác dữ vì Từ Lộ không cho nàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
theo.Trải qua những phút giây thanh bình bên Nhuệ Anh, Từ lại tiếp tục bị
cuốn theo vòng xoáy hận thù. Sau những phút gian khổ, nguy hiểm tƣởng nhƣ
phải bỏ mạng, Từ Lộ, Minh Không, Giác Hải đã gặp đƣợc thầy.
Nhƣng Từ lại chọn con đƣờng đi khác với hai bạn, dù biết cửa phật không
chấp nhận việc thù hận và con đƣờng đến với đức phật không phải là đi trên
con đƣờng hận thù nhƣng Từ lại cho rằng: “Nếu khoanh tay trƣớc kẻ ác thì tất
vô tình hại ngƣời thiện”[35;tr 200].
Khi đƣợc đại sƣ chỉ đƣờng đến Thập Vạn Đại Sơn để học phép thuật về
báo thù, Từ đã thú nhận rằng vẫn chƣa rời khỏ cõi vô minh, vẫn theo con
đƣờng nặng nợ luân hồi, lạc kiếp.
Tƣởng rằng đau khổ, thất bại với Từ sẽ hết khi chàng trở về trả thù cho cha
nhƣng bi kịch lại tiếp nối với chàng. Sau mƣời ba năm tu hành, khổ luyện khi
chàng trở về thì kẻ thù Diên Thành Hầu năm xƣa chỉ còn là cái xác không
hồn, ngày ngày chạy theo đứa con điên loạn sau lễ hợp cẩn bất thành. Còn kẻ
giết thuê Đại Điên thì không hề chống cự, đón nhận cái chết một cách nhẹ
nhàng, bình thản.
Từ chua xót nhận ra rằng bao công sức tu luyện, nếm mật nằm gai, nuôi
dƣỡng hận thù đã trở thành vô nghĩa. Nỗi đau lên đến đỉnh điểm, chàng trở
nên trống rỗng, mất phƣơng hƣớng, mất lẽ sống, không biết sống vì ai, vì cái
gì nữa, còn lại trong chàng là nỗi cô đơn, trống trải khiến chàng muốn tìm đến
cái chết. Nhƣng chính nàng Nhuệ Anh đã kéo chàng chàng về với cuộc sống.
Tình cảm bị đè nén bao năm với Nhuệ Anh lại dày vò chàng khiến chàng
chứng nhận rằng “cuộc đời mình nếm đủ mùi tân khổ chẳng qua vƣớng vào
cõi thất tình” [35;tr395].
Với mỗi một biến cố trong cuộc đời Từ Lộ ta nhận ra rằng con ngƣời sinh
ra không phải là để trả thù nhƣng tai họa có thể khiến con ngƣời ta sống để
trả thù. Nhƣng khi trả thù xong rồi thì còn lại trong con ngƣời chỉ là nỗi cô
đơn, trống trải. Sau khi chứng kiến lễ phóng Diêm khẩu và đàm đạo phật lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
với một cao tăng, Từ Lộ đã tìm đƣợc một lẽ sống cho mình “tìm một chốn để
rảnh tay lo việc tu hành và cứu nhân độ thế, đem chân tâm để quy tập thiên hạ
muôn ngƣời làm một, lấy lẽ từ bi và sự quên mình để răn dạy chúng
sinh”[35;tr400].
Từ Lộ trở thành nhà sƣ Từ Đạo Hạnh đức cao vọng trọng, nổi tiếng khắp
vùng, mang phép thuật của mình để cứu nhân độ thế, thu nạp đệ tử và cảm
hóa chúng sinh. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì nhân vật Từ Đạo Hạnh đã hiện lên
trọn vẹn về hình tƣợng một con ngƣời đƣợc sùng kính, ca ngợi theo quan
điểm của dân gian.
Tuy nhiên, Võ Thị Hảo đã rất tài tình khi xử lý những dữ liệu lịch sử với
huyền tích, truyền thuyết dân gian để dẫn dắt nhân vật truyền thuyết Từ Đạo
Hạnh nối vào nhân vật lịch sử Lý Thần Tông.
Thiền sƣ Từ Đạo Hạnh là một đại sƣ đáng kính, tinh thông Phật pháp, đƣợc
dân chúng ngƣỡng vọng, sùng bái. Lời nói của ông có sức mạnh và dƣợc dân
chúng tin, sùng bái đến mức ông nhận ra lòng tin trong họ quá dễ dàng.Trong
khi khuyên họ từ bỏ dục vọng, coi khinh vật chất, chịu khổ hạnh để đến cõi
Niết bàn thì chính đại sƣ lại nghi ngờ lòng tin của chính mình khi “Ta có thật
lòng tin rằng có niết bàn, dƣờng nhƣ càng đi đến cõi niết bàn càng xa…vậy
mà đôi lẫn ngẫm cho thân phận mình, trong lòng bỗng xót xa nhƣ chƣa kịp
sống, chƣa kịp sinh ra trên cõi đời này…cuộc đời nhƣ ngọn bấc sắp cháy cạn
đĩa dầu mà ta vẫn chƣa có ngày nào sống cho mình”[35;tr 427 - 428].
Nhà sƣ ngày càng nghi hoặc và tự hỏi lòng mình những lúc khuyên dân
chúng từ bỏ vật dục. Từ Đạo Hạnh nghĩ đến “tại sao những kẻ nơi cung cấm
đền đài giát vàng khảm ngọc, làm đủ mọi điều xa hoa bậy bạ mà lại đƣợc thay
trời nhào nặn, biến đổi thiên hạ thành một thứ đồ chơi trong tay mình” hay
“Ta có cạn lòng để đến đƣợc tâm hay không?”[35;tr428].
Nhƣ vậy nhân vật Từ Đạo Hạnh hiện lên với những góc khuất trong tâm
hồn chƣa từng đƣợc đề cập đến. Trong tâm hồn Từ Đạo Hạnh luôn có sự đấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tranh giữa một bên là lời dạy bảo chúng sinh với một bên là những lời thật
trong lòng mình. Dù đã bỏ bao công sức tu luyện, trở thành đại sƣ đƣợc nhân
dân sùng kính nhƣng ngài cũng không giám chắc “trong lòng không mơ ƣớc
lầu son gác tía và không luôn mƣờng tƣợng lại hình bóng nàng Nhuệ Anh
cùng lần ân ái duy nhất trong đời cùng nàng?”[35;tr 429] .
Ngài thuyết giảng cho chúng sinh chính những điều mà ngài không làm
đƣợc. Vì vậy những đạo lý mà bấy lâu nay ngài luôn rao giảng trở nên vô
nghĩa. Đã nhiều đêm ngài “nghiến chặt răng trên giƣờng đá lạnh của tăng
viện, cắn nát một bên ngón tay để diệt ngọn lửa dục, thề sẽ tu hành đắc đạo để
kiếp sau trở thành ngƣời có quyền lực lớn nhất thiên hạ, để cứu giúp thiên hạ
khỏi lầm than”[35;tr429].
Càng băn khoăn mâu thuẫn, giằn vặt trong nội tâm thì những ham muốn
hƣởng lạc ở trần gian càng sâu nặng. Khi còn trẻ, vì hận thù ngài phải từ bỏ
tình yêu – thứ hạnh phúc lớn lao duy nhất của cuộc đời mình. Trả thù xong và
tu hành đắc đạo ngài ép mình phải sống theo những khuôn thƣớc đóng vai
một con ngƣời mẫu mực. Nhƣng dù cố gắng đến mấy thì sự thật vẫn là sự
thật, ngài là một con ngƣời bình thƣờng, không thoát khỏi những ham muốn
và dục vọng đời thƣờng. Kết thúc tác phẩm là cảnh các đệ tử Phật môn của Từ
Đạo Hạnh vào núi Thầy. Họ thấy xác nhà sƣ chƣa bị “hƣ hoại” và họ nghĩ
“chẳng lẽ đến giờ này mà thầy ta vẫn còn lơ lửng ở cõi trầm luân này
sao”[35;tr542].
Chính những tham vọng quyền lực, ham muốn đời thƣờng ngày càng lớn
trong nhà sƣ đã khiến ngài quyết định phải sống để bù đắp cho những khát
khao mà suốt đời trai trẻ vì nuôi chí trả thù mà chàng đã bỏ lỡ. Chính điều này
là nguyên nhân dẫn đến biến cố thứ hai là việc nhà sƣ quyết định đầu thai
sang kiếp khác, làm công tử Dƣơng Hoán – sau này là nhà vua Lý Thần
Thông.
Việc rời bỏ hiện kiếp đã đƣợc Từ Đạo Hạnh chuẩn bị trƣớc từ ba năm. Đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phút viên tịch, nhà sƣ đau xót vì lòng tin và thƣơng tiếc của dân chúng và
nghĩ “ Ta đã lừa dối họ!Ta đã bỏ rơi họ. Cả đời họ đã theo ta, để bị ta lừa dối
ƣ ? Họ sẽ sống ra sao với sự lừa dối của ta”[35;tr451].
Đạo Hạnh cũng thấy rằng chùa có thể xây lại, ngói cũ có thể đảo lại nhƣng
đức tin của con ngƣời thì không thể xây dựng lại đƣợc.
Nhà văn đã đi sâu vào góc khuất, mặt trái của tâm hồn mỗi con ngƣời, giải
thoát con ngƣời khỏi những tình cảm đạo đức, con ngƣời đƣợc bộc bạch
những bản năng, những phẩm chất thực sự trong tiềm thức của bản thân.Võ
Thị Hảo đã xây dựng nhân vật mang tính con ngƣời đúng nghĩa của nó với
những diễn biến tâm lý phức tạp, những đâu tranh tốt – xấu, thấp hèn – cao
cả…bên trong mỗi con ngƣời. Mà nếu chúng ta lý tƣởng họ, ta vô tình không
cho họ đƣợc sống nhƣ một con ngƣời thực sự.
Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh đã kết thúc kiếp sống của mình ở tuổi 43 chấm dứt
kiếp sống đau khổ, thù hận, tự dối lòng mình để đầu thai sang một kiếp khác
sống sung sƣớng, hƣởng lạc. Khi đầu thai sang làm con của Sùng Hiền Hầu,
đã diễn ra cuộc tranh dành giữa hồn Từ Đạo Hạnh và hồn của pháp sƣ Đại
Điên. Họ đều khao khát quyền lực, mong muốn thay đổi kiếp để đƣợc hƣởng
vinh hoa phú quý. Tham vọng đã khiến Từ Lộ chiến thắng, dành giật đƣợc vị
trí và thỏa mãn đƣợc ham muốn của mình.
Có thể, loại quyền lực vẫn luôn là thứ ma lực quỷ quái làm thay đổi con
ngƣời, là nguyên nhân để con ngƣời tìm mọi cách để đạt đƣợc. Đây vẫn là vấn
đề không cũ, của cả ngày xƣa và ngày sau, do đó thông điệp tác giả gửi gắm
cũng nóng hổi sức sống, vấn đề của thời đại.
Khi đã trở thành vua Lý Thần Tông nắm trong tay quyền lực tối cao nhƣng
vẫn không làm thỏa mãn tham vọng, khát khao từ kiếp trƣớc của ông. Do vua
Lý Nhân Tông không có con nỗi dõi, các con của vƣơng tôn quý tộc đƣợc
nuôi dƣỡng để chọn làm thái tử. Mặc dù đã có lời trăng trối của Thái Hậu Ỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lan dành ngôi cho Dƣơng Hoán, nhƣng các quan đại thần vẫn còn ngần ngại
vì Dƣơng Hoán còn nhỏ và yếu ớt. Vì Vậy Vua Lý Nhân Tông phải dùng đến
thuật sở nguyện để chọn thái tử cho khách quan.
Trong Dƣơng Hoán luôn cùng lúc tồn tại hai con ngƣời, có lúc là một ông
già từng trải, đủ cay đắng mùi đời, có lúc là đứa trẻ lên hai. Vậy nên khi chọn
đồ chơi theo ý, những đƣa trẻ khác thì nhặt vàng, bới hoa quả, vải vóc…thì
Dƣơng Hoán không lấy gì mà chống tay đứng dậy đi theo vua cày tịch điền.
Theo đánh giá của các quan thì đây là hành động của ngƣời sẽ trị vị thiên hạ,
vì vậy mà Dƣơng Hoán đƣợc chọn. Hành động ngƣời già từng trải của Từ
Đạo Hạnh luôn chi phối trong con ngƣời Dƣơng Hoán. Việc con rắn chực cắn
lại trở nên ngoan ngoãn trong tay của Dƣơng Hoán thể hiện sự khác thƣờng
của con ngƣời này.
Đến nhân vật Lý Thần Tông tác giả đã đi sâu vào việc xây dựng nhân vật
lịch sử có thật giống nhƣ một nhân vật tiểu thuyết với những bi kịch kịch cá
nhân, bi kịch trong nội tâm, những đau đớn dày vò, dù sống sung sƣớng,
hƣởng vinh hoa phú quý tột đỉnh mà vẫn bị nỗi cô đơn, trống trải đầy đọa.
Nhân vật Thần Tông là nhân vật có thật trong lịch sử, đƣợc sử sách ghi
chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, đƣợc đánh giá là “ngƣời có tƣ chất thông
minh, độ lƣợng, sửa sang chính sự, dùng ngƣời hiền tài, thủy chung triều
chính, nhiệm nhặt khúc nôi không có gì sai lệch” [23;tr 297].
Dựa vào nhân vật có thật, những sự kiện đã xảy ra đƣợc ghi chép trong
sử sách nhƣng nhân vật lịch sử Lý Thần Tông đƣợc Võ Thị Hảo xây dựng
không hề xa lạ mà rất đời thƣờng, trần tục, mang tƣ cách của một con ngƣời
cá nhân bình thƣờng, gần gũi. Cái nhìn đa chiều, khám phá con ngƣời ở
những góc độ nhất định phải có của nó khiến cho nhân vật lịch sử không bị
đóng khung trong vai trò lịch sử của mình. Đồng thời bài học, triết lý mà tác
giả gửi gắm rất mới không còn là con đƣờng mòn quen thuộc khi tiếp cận tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phẩm lịch sử nhƣ trƣớc nữa.
Từ Đạo Hạnh khi trở thành vua nắm tột đỉnh quyền lực, vinh hoa phú
quý thì khổ đau, dằn vặt và dày vò chƣa phải đã hết. Đến kiếp sống thứ hai
này Từ Lộ càng sa vào vòng luẩn quẩn không lối thoát chìm đắm ngày càng
sâu vào quyền lực và sắc dục. Trong con ngƣời của vị vua mƣời ba tuổi này
có cả sự già dặn, từng trải của con ngƣời nếm đủ mùi đời và có khao khát
quyền lực, vinh hoa đến cháy bỏng. Con ngƣời này càng đƣợc bộc lộ rõ khi
gặp sƣ bà chùa Trầm – vốn là Nhuệ Anh từ kiếp trƣớc.
Trong Thần Tông còn có một Dƣơng Hoán trẻ tuổi, mới lên ngôi muốn đạt
đƣợc quyền uy và danh vọng. Điều này thể hiện rõ nhất ở việc ngài cứu cung
nữ Ngạn La khỏi giàn thiêu, cố gắng thành thân với ngƣời con gái có vẻ đẹp
của mèo hoang, mê hoặc cả Diêm Vƣơng, có chiếc rốn nhỏ màu chu sa vốn
đƣợc xem là nguồn khoái lạc và vận may đặc biệt cho ngôi báu đế vƣơng.
Trƣớc sự dằn vặt của hai bản ngã trong cùng một con ngƣời này, Thần
Tông luôn phải vật lộn với hai thứ đó là tình và tật trong con ngƣời của bản
thân. Khi đã có tất cả, ngài vẫn cảm thấy nỗi cô đơn, trống vắng, thiếu vắng
một điều gì luôn dày vò trong tâm trí. Những tƣởng ngài sẽ chọn con đƣờng
theo nàng Nhuệ Anh làm ngọn gió trong lành giúp chúng sinh nhƣ đại sƣ
Minh Không gợi ý nhƣng một lần nữa khát vọng hƣởng thụ cuộc sống trần tục
đã kéo ngài ở lại với cung vàng điện ngọc cao sang và xác định mình lại bỏ lỡ
một kiếp nữa.
Ở kiếp sống thứ hai Thần Tông cũng chƣa đƣợc một ngày hạnh phúc. Nỗi
đau đớn, trống rỗng, nhớ thƣơng mơ hồ cứ dày vò không rõ nguyên nhân
khiến nhà vua lâm bênh hóa hổ. Dù đã chuyển kiếp thứ hai nhƣng con ngƣời
vẫn sống trong đau đớn về cả thể xác lẫn tâm hồn.Những giọt nƣớc mắt trong
trẻo của Nhuệ Anh đã giúp vua thoát khỏi những nỗi đau này. Nhuệ Anh lên
án kiếp trƣớc ngƣời đã lừa dối chúng sinh, làm mất lòng tin nơi con ngƣời.
Đến kiếp này ngƣời mải chạy theo vinh hoa, sắc dục mà bỏ quên trọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trách của một quân vƣơng.Với Nhuệ Anh Thần Tông không phải Từ lộ năm
xƣa mà cũng chẳng phải Từ Đạo Hạnh mà chỉ là “một ông vua chƣa thông
thạo phép tắc trị nƣớc”[35;tr469]. Dù chữa đƣợc bệnh nhƣng căn chƣa dứt bởi
nhƣ đại sƣ Minh Không đã nói “Đạo Hạnh đại sƣ không dứt nổi giấc mộng
hoàng lƣơng này”[35;tr473]. Hai năm sau nhà vua lâm trọng bệnh và chết.
Còn nhà sƣ Từ Đạo Hạnh thì đám đệ tử vào thăm nhục thân của ngài thấy xác
đại sƣ vẫn còn nguyên trên bệ đá chƣa bị hƣ hại, họ bao nhau “chẳng lẽ đến
giờ này mà thầy ta còn lơ lửng ở cõi trầm luân này sao?”[35;tr542]
Nhân vật Tử Lộ - Thần Tông qua hai kiếp sống, cho thấy nhân vật vẫn
còn vƣơng vấn cõi trần, tiếc nuối vì đã bỏ lỡ thêm một kiếp nữa, tính cách
ham hố dục vọng, chƣa dứt nợ trần.Trải qua hai kiếp mà hồn xác vẫn chơi với
cho thấy bản chất ham hố cõi trần vẫn là tính cách bất biến ở nhân vật này.
Bằng cách kể chuyện tài tình, Võ Thị Hảo đã làm cho nhân vật lịch sử
hiện lên rất sinh động. Mạch câu chuyện đƣợc triển khai không theo thứ tự
trƣớc sau mà theo mạch thời gian bị xáo trộn khiến ngƣời đọc khi cầm Giàn
thiêu trong tay phải đọc một mạch.
Nhƣ vậy từ hiện thực lịch sử cùng những liên tƣởng rất hợp lý, đầy thông
minh, sáng tạo, nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông đƣợc tác giả
xây dựng hoàn toàn thành công với số phận và tính cách riêng. Nhà văn đã đi
sâu vào khám phá thế giới nội tâm, cung cấp cho ngƣời đọc những mối thông
tin ngoài sử sách, tạo nên nhiều nghi hoặc có giá trị. Từ đây hình ảnh một
nhân vật lịch sử vừa gần gũi vừa phức tạp đa diện đã hiện ra.
2.2.1.2 Nhân vật Nguyên Phi Ỷ Lan
Đây cũng là một nhân vật có thật trong lịch sử, là ngƣời đã sinh ra vua
Lý Nhân Tông. Tuy không đƣợc dành nhiều số trang để nói đến nhƣng
nhân vật này cũng hấp dẫn và tạo nên nhiều sự tranh luận, góc nhìn về con
ngƣời mới của tác giả. Nhân vật này đƣợc viết thành công đến mức có ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
kiến cho rằng nếu tác giả để Ỷ Lan làm nhân vật chính thì câu chuyện sẽ
còn hay hơn, còn có những ý kiến khác cho rằng Ỷ Lan mới là nhân vật
chính của tác phẩm.
Ỷ Lan vốn là một cô gái hái dâu thôn quê, nghèo, may mắn đƣợc vua Lý
Thánh Tông rƣớc về làm phi. Bà thông minh xinh đep, có tài trị vì đất nƣớc
trong khi vua đi đánh giặc. Công lao của bà đƣợc nhân dân sùng kính, ngợi
ca. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, Ỷ Lan còn đƣợc tác giả xây dựng nhƣ một
con ngƣời bình thƣờng bị cuốn vào tấn bi kịch về quyền lực trong cung cấm.
Dựa vào câu nói có thật của bà với vua Lý Nhân Tông, lúc bản thân ở
đỉnh cao quyền lực vẫn không làm bà thỏa mãn. Vì lòng ghen ghét bà đã bức
hại Thái hậu họ Dƣơng và 76 cung nữ vào cái chết oan khiên. Dƣờng nhƣ ý
thức đƣợc hành động sai lầm của mình, bà hối hả cho tô tƣợng, đúc chuông,
xây dựng đình chùa ở nhiều nơi, bản thân thì ăn chay niệm phật. Thế nhƣng
để làm thỏa mãn suy nghĩ ý đồ của bà, gánh nặng lại đè lên vai những ngƣời
dân đen khi vừa phải lo giặc ngoại xâm, lo cái ăn cái mặc đảm bảo đời sống,
lại phải lo phu phen tạp dịch khổ sở.
Rõ ràng khi tiếp cận nhân vật lịch sử này, Võ Thị Hảo đã đòi hỏi cái nhìn
công bằng gồm cả công và tội cho bà. Bởi vì nhƣ Võ Thị Hảo đã quan niệm
con ngƣời không phải là thánh nhân nên góc khuất nơi tâm hồn con ngƣời là
điều hoàn toàn bình thƣờng. Hậu thế không bao giờ quên đƣợc công lao của
bà đối với đất nƣớc: bà đã một tay chăm sóc, dạy dỗ vua Lý Nhân Tông trở
thành vị vua anh minh, có công xây dựng và bảo vệ đất nƣớc khi có giặc
ngoại xâm…Nhƣng ta cũng phải nhìn nhận một cách công bằng về sai lầm,
tham vọng của bà.
Qua cuộc đối thoại với hồn của Thái hậu họ Dƣơng ta nhận thấy lòng
ham quyền lực đến tột độ của Nguyên Phi Ỷ Lan “ta muốn duy ngã độc tôn
trong thiên hạ, ta đã khiến đức Thánh Tông phải nể trọng, nhất nhất nghe lời.
Ta muốn sai khiến đƣợc ngƣời duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay. Ta phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sai khiến đƣợc con trai ta. Không gì thích thú bằng khi thấy chỉ với một ngón
út bàn tay ta, cả giang sơn rùng rùng chuyển động. Ta phải buông rèm chính
sự. Ta đã làm đƣợc nhiều cho đất nƣớc này. Ta là ngƣời đàn bà duy nhất mà
sử sách lƣu truyền mãi mãi…”[35;tr234].
Bằng việc phao tin rằng những cung nữ vì quá thuơng tiếc nhà vua mà
nguyện chết theo để hầu hạ nhà vua dƣới suối vàng, Ỷ Lan đã biện minh cho
những hành động độc ác, không chút nhân tâm của mình bằng những nghĩa cử
cao đẹp. Nhƣ nhà văn nhận định “Thời nào cũng vậy thôi, mạng ngƣời quá rẻ
trong tay các bậc đế vƣơng”[35;tr236]. Đó phải chăng cũng là số phận của
con ngƣời dƣới thời phong kiến nói chung.
Sau hành động bức tử Thái hậu họ Dƣơng và các cung nữ, Ỷ Lan cũng
không đƣợc sống yên ổn và thanh thản. Dù đƣợc bao bọc bởi lụa là gấm vóc
nhƣng giấc ngủ liên tiếp là những trận đuổi bắt, kêu khóc khiến bà không khỏi
sợ hãi. Không chỉ vậy, ông trời nhƣ cũng không chấp nhận trƣớc những hành
động độc ác này của bà: thiên tai kéo dài nhiều năm, hết hạn hán lại đến lụt
lội, ngƣời chết đói đầy đƣờng, nhiều lời thị phi về chuyện ở cung Thƣợng
Dƣơng…và hơn nữa là việc con trai bà đã tìm nhiều cách nhƣng không thể có
con nối dõi.
Ỷ Lan sám hối bằng việc cho xây cất hàng trăm ngôi chùa lớn trên đất
nƣớc, nhƣ là hành động “hối lộ” nhằm giảm nhẹ tội của mình. Tuy nhiên việc
này càng gây gánh nặng trong đời sống của nhân dân, nhiều kẻ lợi dụng việc
này để lƣời biếng, không làm mà vẫn hƣởng lợi. Thái sƣ Lý Đạo Thành đã
dùng lời ngay thẳng khuyên can bà nên loại bỏ những kẻ lƣời biếng, chỉ sống
bằng của bố thí. Thế nhƣng những lời này đã bị Ỷ Lan dùng tấm lòng ghen
ghét đáp lại. Nhà sƣ bị đầy đi phƣơng xa.
Sau mỗi một lần nhúng tay vào tội ác bà đều có những cách để che dấu,
lấp liếm. Ban ngày bà là Hoàng hậu tài năng đức hạnh vẹn toàn nhƣng ban
đêm bà phải đối mặt với những oan hồn về đòi mạng, đối mặt với sự ám ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lƣơng tâm. Bà chết không nhắm mắt. Khi nhà vua vuốt mắt bà không đƣợc
đã khóc và khấn tên Dƣơng Thái Hậu bà mới nhắm mắt. Chết trong sự dày
vò bà vẫn kịp trăng trối là phải chôn sống ba thị nữ đi theo để hầu hạ bà, bà
đe dọa Ngạn La khi cô gái trẻ vô tình nghe đƣợc sự việc. Suốt cuộc đời của
bà đã phải chịu sự hành hạ của lƣơng tâm vì những hành động độc ác mình
đã gây ra.
Bằng nghệ thuật hƣ cấu, tƣởng tƣợng về cuộc đối thoại đầy kì dị, rùng
rợn của Ỷ Lan và Dƣơng thái hậu, tác giả đã cho thấy một sự thật là con
ngƣời có thể lừa dối, che dấu tất cả nhƣng không thể lừa dối đƣợc bản thân
mình.
Nhân vật lịch sử Ỷ Lan đƣợc nhìn nhận với cái nhìn đa chiều hơn. Bà
không chỉ đơn thuần là một đối tƣợng để ca ngợi sùng kính nữa mà còn là một
cá nhân đời thƣờng cũng bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi nơi cung cấm giống
nhƣ bao nhiêu con ngƣời bình thƣờng khác. Bằng cách tiếp cận này, Võ Thị
Hảo đòi phải có cái nhìn con ngƣời đúng đắn, toàn diện cả về công và tội. Từ
đây, con ngƣời lịch sử xuất hiện chân thực hơn, sống động hơn, khiến chúng
ta tránh cái nhìn kiến diện, một chiều, áp đặt lên con ngƣời.
Ngoài hai nhân vật này trong tiểu thuyết còn xuất hiện nhiều nhân vật
lịch sử khác có thật nhƣ : Lý Nhân Tông, Lý Đạo Thành, Lý Thƣờng Kiệt,
Sùng Hiền Hầu, Tăng Đô án Từ Vinh…Những nhân vật này tuy đƣợc nói đến
ít nhƣng đều thể hiện cách xử lý chất liệu lịch sử rất khôn ngoan của Võ Thị
Hảo, tạo ra không gian lịch sử chân thực, sống động. Bên cạnh các nhân vật
lịch sử đƣợc bà dày công khắc họa thì những nhân vật còn lại, có thật của lịch
sử cũng góp phần kết nối mạch văn, cùng với các nhân vật chính khác thể
hiện thông điệp của tác giả.
Xây dựng nhân vật lịch sử theo cái nhìn mới mẻ, Võ Thị Hảo không đi
theo con đƣờng truyền thống là ngợi ca, đề cao tấm gƣơng của họ. Mà bà
muốn đi sâu vào tìm hiểu diễn biến nội tâm, tâm lý phức tạp của con ngƣời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Những vua, quan, tƣớng lĩnh…không chỉ có vẻ ngoài đạo mạo, uy nghiêm,
đĩnh đạc mà họ cũng có sự tồn tại cả hai mặt tốt – xấu, cũng biết đố kỵ, ham
mê quyền lực và sắc dục. Bên cạnh vai trò là ngƣời hùng do“bị lịch sử lựa
chọn” họ còn là những con ngƣời bình thƣờng. Bằng cách nhìn đa diện này,
nhà văn đã phát huy khả năng nhận thức, sáng tạo của mình, thể hiện những
quan điểm riêng của mình về quá khứ và hiện tại, góp phần lý giải những nghi
vấn của lịch sử, cho thấy tài năng và bản lĩnh của mình.
2.2.2 Nhân vật hƣ cấu
2.2.2.1 Nhân vật Nhuệ Anh
Nhân vật đƣợc nhà văn hoàn toàn hƣ cấu có tác động quan trọng trong
tác phẩm đầu tiên là nhân vật Nhuệ Anh. Nhuệ Anh là một cô gái xinh đẹp,
hiền dịu. Nàng là cô gái đặc biệt quan trọng đặt bên cạnh cuộc đời của Từ Lộ.
Vốn là một tiểu thƣ sống yên ấm và hạnh phúc nhƣng khi Tử Lộ gặp nạn cuộc
đời của nàng cũng biến đổi. Dù đƣợc Lý Câu, con của Diên Thành Hầu –
ngƣời nắm quyền lực nghiêng ngửa thiên hạ yêu nhƣng Nhuệ Anh không hề
xao động. Vì không thể làm liên lụy gia đình, nàng ngoan ngoãn bƣớc lên
kiệu hoa. Thế nhƣng chính lòng yêu mãnh liệt với Tử Lộ đã thôi thúc nàng bỏ
trốn. Bỏ trốn trƣớc lễ hợp cẩn, nàng đã không quản ngại gian khổ, nguy hiểm
đi khắp nơi tìm Từ Lộ.
Nàng muốn là vợ của chàng suốt đời. Nhƣng bi kịch của cuộc đời nàng
là dù nàng có tự nguyện gắn bó cuộc đời của nàng với Tử Lộ nhƣng chàng lại
quay lƣng lại với nàng bởi vì trong lòng chàng chỉ có hận thù. Gặp nhau sau
bao nhiêu ngày xa cách, nhớ mong mọi khổ đau, hận thù với họ nhƣ bị xóa
hết. Họ tự nguyện trao nhau tình yêu say đắm: “Nàng run rẩy áp cặp môi trinh
nữ lên vùng ngực nóng hổi trong mƣa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm,
đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt, nhƣ đá rừng rực tỏa hơi nóng dƣới ánh mặt trời
pha lẫn hơi mƣa tƣơi tắn và tinh khiết khiến nàng ngất ngây chợt nhƣ lả đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chợt nhƣ lạc vào cõi phiêu bồng.”[35;tr211]. Đây là cảm giác hạnh phúc cuối
cùng trong cuộc đời họ. Những cảm giác này đã ám ảnh Tử Lộ suốt hai kiếp
sống, mãi không thể tìm đƣợc hạnh phúc lần thứ hai.
Từ Lộ vẫn quyết từ bỏ nàng để theo con đƣờng tu nghiệp báo thù cho
phụ mẫu, Nhuệ Anh đau khổ nhảy xuống sông Gâm tự vẫn. Nhuệ Anh đƣợc
chàng Cá Bơn cứu sống, nàng đoạn tuyệt đƣờng trần, theo cửa Phật, trở thành
sƣ bà chùa Trầm. Gặp lại Từ Lộ nhƣng đã đầu thai sang kiếp khác là cậu bé
Dƣơng Hoán. Nhuệ Anh đau đớn nhìn cảnh ham hố quyền lực, ham hố sắc
dục của Từ Lộ ở kiếp sống thứ hai này.
Cuộc gặp gỡ có khoảng cách giữa hai kiếp ngƣời nhƣng tình ái từ kiếp
trƣớc vẫn hiện lên trong kí ức của hai ngƣời. Nhà vua nhƣ cảm giác đƣợc sƣ
bà chính là nỗi nhớ, nỗi khao khát mà nhà vua đã tìm kiếm bấy lâu nay.
Cuộc đối thoại giữa nhà vua và sƣ bà đƣợc tác giả dùng hẳn một chƣơng
để miêu tả. Nhƣng không phải là để khơi lại những tình cảm sâu đậm trong
quá khứ mà để vạch trần những việc làm sai trái của Từ Lộ - Dƣơng Hoán. Từ
khi lên ngôi, nhà vua chƣa làm đƣợc điều gì cho dân cho nƣớc, chỉ biết hoang
dâm vô độ, ăn chơi hƣởng lạc, để cho những kẻ bất tài, độc ác, vơ vét của
công nắm quyền điều hành đất nƣớc.
Vai trò của Nhuệ Anh càng đƣợc đề cao hơn nữa qua việc chữa bệnh
hóa hổ giúp vua. Những giọt nƣớc mắt của Nhuệ Anh đã rửa sạch bệnh tật
và tâm hồn cho nhà vua. Đây cũng là lời cảnh tình dành cho nhà vua. Đến
đây biểu hiện “xu hƣớng nữ quyền không che dấu của tác giả”[3]. Cuộc đời
Nhuệ Anh – gắn với tình yêu thủy chung, thuần khiết, là cơn gió và những
giọt mƣa mang lại sự trong trẻo cho thế giới khô cằn. Nàng đã cắt đƣợc
duyên nghiệp ngay trong hiện kiếp, cảm hóa, chữa bệnh cho biết bao ngƣời
trong đó có cả công tử Lý Câu. Nàng trở thành “ngƣời đàn bà không
tuổi”[35;tr499] đi sau bƣớc chân của nàng có cả “dòng ngƣời đàn ông bị vô
tình hút theo cái nhìn thăm thẳm của bà”. Họ ca ngợi bà là “thánh nữ” giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những thói dung tục tầm thƣờng.
Ở nhân vật Nhuệ Anh tác giả đã dùng bút pháp lý tƣởng hóa, ca ngợi vẻ
đẹp hoàn mĩ của nàng. Nhân vật này không chỉ là gạch nối giũa hai cuộc đời
Từ Đạo Hạnh – Thần Tông, làm sáng tỏ tình và tật của nhân vật này mà còn
thể hiện đƣợc quan điểm, cách nhìn nhận của tác giả đối với nhân vật nữ của
mình. Qua đó tác giả cũng đƣa ra vấn đề của cuộc sống không chỉ trong quá
khứ mà còn là vấn đề của hiện tại, tƣơng lai.
2.2.2.2 Nhân vật Ngạn La
Một trong những nhân vật hƣ cấu thể hiện rất thành công tài năng và
dụng ý nghệ thuật của tác giả là nhân vật Ngạn La. Nhân vật đƣợc dệt bằng
huyền thoại về sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp hồn nhiên trong trẻo, bất diệt dù
trải qua bao tra tấn, vùi dập. Theo Lại Nguyên Ân, ở nhân vật này vừa có
“phƣơng diện biểu tƣợng” vừa có “phƣơng diện tả thực”. Đó vừa là biểu
tƣợng của một ngƣời đàn bà hoang dã tựa thiên nhiên, có sức hấp dẫn nhƣ
một yêu nữ, là biểu tƣợng tột đỉnh về khoái lạc nhƣng cũng vừa là biểu tƣợng
cho điều mơ hồ, xa vời không tồn tại trong cõi trần gian phàm tục. Vì vậy mà
dù trải qua hai đời vua, là đối tƣợng đƣợc yêu chiều nhƣng Ngạn La vẫn chỉ là
một thiếu nữ trinh trắng dù sức quyễn rũ có thể làm đảo điên cả đất trời.
Vốn chỉ là cô bé nông thôn nghèo khó, bị vua Nhân Tông bắt gặp rồi
đƣa thẳng về cung. Mặc dù chƣa đƣợc một lần hƣởng ân huệ của nhà vua
nhƣng nàng cũng nằm trong số bốn mƣơi chín cung nữ phải lên giàn thiêu để
tùy táng. Khi lên giàn thiêu nàng là cung nữ duy nhất không cam chịu cái chết
bất công, phi lý, dám chạy trốn khỏi đao phủ để tìm đƣờng thoát. Khi cái chết
đã kề cận, nàng đƣợc vua Thần Tông tha chết, đem giam vào lãnh cung.
Hoàn cảnh của Ngạn La khá giống với hoàn cảnh của cô gái hái dâu Ỷ
Lan nhƣng Ngạn La chƣa từng một bƣớc lên nắm quyền lực. Mà trái lại, Ngạn
La là nạn nhân của quyền lực chốn cung đình.Trong lãnh cung vốn đƣợc xem
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
là địa ngục trần gian này, Ngạn La đã chứng kiến cuộc đối thoại giữa hồn ma
của Ỷ Lan và Dƣơng Thái hậu cùng bảy mƣơi sáu cung nữ bị chết thiêu nhƣ
thế nào.
Từ đó ta biết đƣợc sự thật về Ỷ Lan – ngƣời đã đặt ra luật lệ tàn khốc
này, đồng thời cũng biệt nguyên nhân đằng sau tục lệ này.Đây là chi tiết tác
giả dùng để nối sự thực lịch sử đã ghi lại trong sử sách việc thái tử Càn Đức
khi lên ngôi đã nghe theo lời mẹ, đem giam Dƣơng Thái hậu và bẩy mƣơi sáu
cung nữ ở lãnh cung rồi bức phải chết theo vua. Trong lãnh cung đầy chuột
bọ, bẩn thỉu, lạnh lẽo dƣới sự chứng kiến của cung nữ Ngạn La trong sáng, vô
tội câu chuyện của Ỷ Lan và Dƣơng Thái hậu càng bộc lộ bộ mặt thực của
quyền lực chốn cung đình.
Ngạn La đƣợc xây dựng là nhân vật mang vẻ đẹp thuần khiết, hoàn toàn
khác với vẻ đẹp của các cung nữ khác trong cung, là “viên ngọc lạc loài lẫn
vào trong đá sỏi”[35;tr39]. Nàng có vẻ đẹp mê hồn mê hoặc đƣợc cả Diêm
Vƣơng, lại đƣợc thƣợng đế ban tặng chiếc rốn màu chu sa “là niềm khoái lạc
vô tận và đem lại may mắn cho ngôi báu”[35;tr266]. Lý Thần Tông vô cùng
khao khát nàng nhƣng mỗi lần muốn chiếm lấy nàng lại bắt gặp khuôn mặt
ảm đạm, đe dọa của tiên hoàng Nhân Tông.
Khi vua Thần Tông hóa hổ, nàng bị triều đình coi là yêu nữ vào cung để
hãm hại đức vua. Chúng trói nàng ở cọc tẩm phân lợn để trừ tà. Đoạn miêu tả
cuộc tra tấn của buổi trừ tà là tiếng nói căm phẫn trƣớc sự mê tín dị đoan điên
cuồng của bọn quan lại, tố cáo sự đàn áp, áp bức của thần quyền đối với số
phận của ngƣời phụ nữ. Dù bị tra tấn, đau đớn nhƣng Ngạn La không thèm
khóc, không một lời van xin, cắn răng chịu đựng. Dù có bị đẩy vào hoàn cảnh
bi kịch nhƣng Ngạn La không bao giờ chấp nhận sự bất công, cam chịu. Sự
dũng cảm, mạnh mẽ, trong sáng của nàng thật đáng ngƣỡng mộ. Khi sƣ bà
chùa Trầm chữa đƣợc bệnh cho vua, nàng đƣợc cứu thoát. Thế nhƣng vẻ đẹp
và sự trong sáng của nàng vẫn luôn là tâm điểm để bọn quan lại trong cung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cấm ghen ghét muốn giết hại nàng “nàng vẫn là cô bé mƣời ba tuổi ngày nào,
vẫn cặp mắt mèo hoang làm bàng hoàng, rụng rời ngƣời ngắm. Vẫn vẻ đẹp
nhƣ có nhƣ không quá cách biệt xa lạ với cái không khí âm âm vàng son
quyền quý và thấm đẫm mƣu đồ, nhục dục nơi thâm cung”[35;tr337].
Số phận Ngạn La cũng nhƣ số phận những ngƣời phụ nữ khác trong xã
hội phong kiến, họ đều không tự quyết định đƣợc cuộc đời của mình, luôn
phải sống trong lo sợ. Hôm nay đƣợc nhà vua sủng ái nhƣng biết đâu ngày
mai sẽ bị đầu lìa khỏi cổ hay lên giàn thiêu. Hai năm sau, Lý Thần Tông chết.
Một lần nữa nàng lại phải lên giàn hỏa thiêu. Lần thứ hai, nàng phải đối mặt
với giàn thiêu khủng khiếp và lần này nàng tiếp tục kháng cự. Nhƣng sự
kháng cự lần này của nàng là lời tố cáo những mƣu mô độc ác đƣa tới những
tục lệ dã man đó là chôn cung phi theo vua. Lời cảnh tình, tố cáo bộ mặt thực
sự của luật lên này đã phơi bày sự thực về Ỷ Lan đồng thời nhắc nhở Lê Thái
hậu “ Lê Thái hậu, trƣớc đây khi chƣa có con trai bà cũng thƣờng run sợ khi
nhắc tới giàn thiêu cung nữ. Trong cung này chẳng ai không biết về cuộc đòi
mạng ở cung Thƣợng Dƣơng và những cơn điên ban đêm của Linh
Nhân…Sắp đến lƣợt bà, Lê Thái hậu. Cung điện này không bao giờ thoát khỏi
những cơn điên và các linh hồn xõa tóc đòi mạng”[35;tr538].
Ngay cả khi phải chết dƣới ngọn lửa của giàn thiêu, Ngạn La vẫn là một
mĩ nhân toát lên sức sống trong trẻo, bất diệt. Cái chết của nàng đƣợc miêu tả
bằng ngòi bút lý tƣởng hóa, thể hiện sự ca ngợi nhân vật không hề dấu giếm
của tác giả.
Về phƣơng diện tính hiện thực, khi xây dựng nhân vật này, tác giả đã
nhằm “triển khai một mô tả phê phán đối với đám quan chức quan liêu”[3].
Sự liên quan tính hiện thực ở đây chủ yếu tập trung vào hình tƣợng nhân vật
Lý Trác. Ngạn La chính là đứa con ra đời từ sự gặp gỡ giữa Lý Trác với cô
con gái ngƣời thầy thuốc đã cứu chữa y. Sau khi đỗ đạt làm quan, Lý Trác đã
quên luôn ngƣời đàn bà ân tình năm xƣa. Khi làm quan to trong triều, vì sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mù quáng và ghen ghét Lý Trác đã luôn tìm cách giết hại Ngạn La mà không
hề biết rằng đó là con gái của mình. Cuộc đời cô bé Ngạn La cũng là những
chuỗi bất hạnh khi luôn thiếu thốn tình cảm gia đình và trở thành vật hi sinh
của quyền lực nơi cung vua. Thế nhƣng không đầu hàng hoàn cảnh, Ngạn La
vẫn luôn là cô bé trong trẻo, ngây thơ, tốt bụng giữa cung cấm đầy đen tối,
bẩn thỉu.
Viết về nhân vật nữ, nhà văn dùng nhiều chi tiết kì ảo nhằm khẳng định
và ca ngợi nhân vật. Qua những chi tiết này thêm khẳng định không có gì có
thể làm vẩn đục đƣợc vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam.
2.2.2.3 Nhân vật Lê Thị Đoan
Cùng với Nhuệ Anh và Ngạn La, nhân vật Lê Thị Đoan tiếp tục là một
nhân vật nữ gửi gắm nhiều thông điệp của tác giả. Xuất hiện ở ngay những
chƣơng đầu của Giàn thiêu - trong hình dáng một ngƣời đàn bà dám đứng ra
lên án luật thiêu sống cung nữ từ thời vua Nhân Tông và Thái Phi Ỷ Lan.
Trƣớc rừng ngƣời câm lặng chỉ biết khóc nhìn những cung nữ lần lƣợt bị ném
vào giàn thiêu thì Lê Thị Đoan dám dùng tấm lòng ngay thẳng của mình lên
án luật lệ độc ác này “Ai mà chẳng hiểu việc thiêu ngƣời vô tội chết theo vua
là một phép tắc độc ác, man rợ. Nhƣng không ai dám nói một lời để ngăn cản.
Nếu cứ để nƣớc Nam ta giữ những phép tác man rợ thì sẽ tổn hại khôn xiết
đến triều đình và muôn dân”[35;tr46].
Ban đầu đƣợc xuất hiện đột ngột và gây ấn tƣợng trong tác phẩm là một
ngƣời đàn bà vô danh. Nhƣng ngay sau đó tiểu sử của nhân vật đƣợc lật lại.
Khoa thi Hội Tƣờng Đại Khánh năm thứ nhất, Lê Thị Đoan đã vô cùng táo
bạo khi giả trai đi thi. Nàng và Lý Trác đều đỗ đầu kì thi và cùng đƣợc bổ
nhiệm làm quan trong triều. Nhƣng “tài đối ứng văn chƣơng trôi chảy và rành
rọt, bài văn qua mỗi kì khảo thí đều đứng đầu bảng. Mỗi khi nói năng, đôi mắt
sáng với đuôi mắt dài nhƣ dao cau…”[35;tr47] cộng với tấm lòng ngay thẳng
khiến Lý Trác chú ý luôn muốn tìm cách hãm hại nàng. Bị Lý Trác dùng mƣu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mẹo lật tẩy thân phận, nàng bị đầy đi biệt xứ. Nhƣng nàng không hề mất đi
bản tính ngay thẳng đáng quý. Xuất hiện trong đám thƣờng dân ở lễ hỏa thiêu
cung nữ bị đem đi hỏa thiêu theo vua Nhân Tông, nàng đã chua xót kêu lên
“chùa chiền mà làm gì. Đạo học mà làm gì…nếu ngƣời ta không thực hành
thiện, mà chỉ mƣợn cái vỏ từ bi để che dấu cho những việc làm tàn bạo.”
[35;tr50].
Bà cũng khẳng khái tố cáo tội ác của những bọn quan đầu triều nhƣ
Lý Trác dùng quyền lực để bóc lột đầy đọa nhân dân và nói nguyên nhân
nàng giả trai đi thi là muốn đem chút tài mọn của phận gái để giúp xây
dựng đất nƣớc.
Vấn đề từ xƣa của lịch sử đƣợc đặt ra trong Giàn thiêu không chỉ là vấn
đề riêng của triều Lý mà cũng chính là vấn đề của thời đại ngày nay khi vai
trò, vị trí của ngƣời phụ nữ vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận xứng đáng. Nàng chỉ ra
những hủ tục độc ác, man rợ nhƣ bắt vợ phải chết theo chồng khiến dân chúng
đua nhau đánh đập, giết vợ mỗi khi có điều trái ý. Bọn quan thái giám mỗi khi
đi tuyển cung nữ là gieo bao nhiêu tang tóc. Không ít các cô gái xinh đẹp con
nhà khuê các đã cắn lƣỡi tự vẫn ngay trƣớc mặt bọn thái giám còn hơn là phải
chịu cái chết đau đớn khủng khiếp ở giàn thiêu. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến nhà Lý suy vi. Nhân dân thì đói khổ lầm than, vua quan bê
bối, không chăm lo đến cuộc sống của nhân dân.
Lời cảnh tình, tố cáo của Lê Thị Đoan cũng là thái độ của tác giả với quá
khứ và hiện tại. Không thể có một xã hội ổn định nếu không biết đề cao và
đánh giá đúng vai trò của ngƣời phụ nữ. Xu hƣớng nữ quyền càng lúc càng
đậm đặc khi tác giả để một ngƣời phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền
lên án, tố cáo chế độ nam quyền và vƣơng quyền đối với phụ nữ. Lời vạch
trần chế độ hủ bại của triều Lý càng trở nên có sức tố cáo hơn nữa khi sau đó
Lê Thị Đoan đã cắn lƣỡi tự vẫn. Tuy nàng chết nhƣng nàng mãi là một “biểu
tƣợng lãng mạn lịch sử”. Nàng để lại cho hậu thế những bài văn vạch trần bộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mặt đểu giả của những kẻ tham quan, kể tội triều đình vô trách nhiệm và lên
tiếng cho những nỗi khốn cùng mà ngƣời dân phải gánh chịu. Cái chết dữ dội
của Lê Thị Đoan cho thấy những u nhọt về vấn đề nam quyền trong đời sống
không phải chỉ là vấn đề đơn giản, bình thƣờng nữa mà nó trở thành nỗi đau
đớn, nhức nhối, luôn cần phải thay đổi của xã hội.
Miêu tả cái chết của Lê Thị Đoan nhƣ một nữ anh hùng, tác giả càng tô
đậm thêm lời ca ngợi không chút dấu diếm với phái nữ,càng thêm khẳng định
tuyên ngôn về nữ quyền của tác giả.
Sau cái chết của Lê Thị Đoan, sách của nàng bị bọn Lý Trác dùng
“những thuôn sắt nung đỏ đâm nát từng trang sách rồi đem thiêu trên miệng
hỏa lò. Bìa sách thì quẳng vào vạc dầu”[35;tr525]. Con trai của Lê Thị Đoan
bị mổ bụng phanh thây để thị uy , bài vị của nàng bị băm vằm, Lý Trác xem
cuốn sách nhƣ “tà thƣ” tìm mọi cách phỉ nhổ vào những điều ngay thẳng
trong cuốn sách.
Trƣớc những hành động bạo ngƣơc, khủng khiếp và dã man nhƣ vậy
nhƣng cuốn sách vẫn tồn tại, nó trở thành “cuốn sách đƣợc phong thần”
[35;tr525]. Trái với mục đích của chính quyền phong kiến, cuốn sách vẫn
“nhơn nhơn tồn tại” vì chúng đã ăn vào trong ruột những kẻ có chữ và còn
đƣợc lƣu truyền không biết mệt mỏi trên miệng bọn dân đen. Khi cuốn sách bị
đốt thành tro đổ xuống sông Cái, ngƣời dân đua nhau múc nƣớc sông mà
uống, họ “uống chữ bà Đoan vào trong tim cật… để sông Cái không bao giờ
ngừng chảy, để chính khí nƣớc Nam này không bao giờ cạn kiệt” [35;tr527].
Lê Thị Đoan là nhân vật xuất hiện ít trong tác phẩm, dù có sự xuất hiện
ngắn ngủi nhƣng cùng với những nhân vật nữ khác trong tác phẩm, nàng trở
thành nhân vật gửi gắm tƣ tƣởng, thái độ của tác giả về lịch sử. Nàng mãi là
ngƣời nữ anh hùng bất tử trong lòng nhân dân, đƣợc nhân dân ngợi ca.
Khắc họa nhân vật Lê Thị Đoan tác giả đã ca ngợi chính nghĩa, thể hiện
niềm tin vào Nho học khi nó thực sự vì dân. Những cuốn sách về tri thức và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lòng ngay thẳng luôn mang giá trị bất diệt. Đến nhân vật Lê Thị Đoan – một
ngƣời phụ nữ có tài, có những suy nghĩ vì dân vì nƣớc, dám lên tiếng đòi
quyền sống và bình đẳng cho phụ nữ trong một xã hội đậm đặc không khí
nam quyền này, Võ Thị Hảo đã đặt ra vấn đề không chỉ của thời kì lịch sử mà
còn là vấn đề của xã hội hiện đại. Đó là việc sử dụng trí thức và quyền của
ngƣời phụ nữ trong xã hội. Đây cũng là vấn đề của toàn xã hội và mang ý
nghĩa sâu sắc. Chính nhờ những tƣ tƣởng thời đại mới gắn trong những trang
viết về giai đoạn lịch sử này khiến cho câu chuyện gần gũi với bạn đọc hơn.
Nhƣ vậy qua một số nhân vật nữ trong tác phẩm ta nhận thấy một điểm
chung là các nhân vật nữ trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đều mang vẻ đẹp
trong sáng, có tâm hồn nhân hậu, vị tha tuy phải mang những nỗi khổ tâm
riêng, chịu sự chi phối của hoàn cảnh nhƣng họ không cam chịu, họ luôn vùng
vẫy, tìm cách sống cho tốt. Ở những nhân vật nữ này lúc nào cũng mang sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt, bất tử khiến chúng ta phải cảm phục.
2.2.2.4 Nhân vật Lý Trác
Lý Trác là nhân vật hƣ cấu nhằm làm tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm. Y
vừa là biểu hiện của chế độ nam quyền vừa là kẻ thực thi cho thế lực vƣơng
quyền. Lý Trác là hiện thân cho cái ác, cái thấp hèn. Vốn là một anh học trò
tay trắng, đƣợc sự cứu giúp của một ngƣời thầy thuốc, và sự trao thân của cô
gái con vị lƣơng y nhƣng khi đỗ đạt làm quan y trở thành kẻ vong ân bội
nghĩa khi quên công ơn của ân nhân, tình nghĩa với cô gái đã mang trong
mình giọt máu của y. Khi nắm trong tay quyền lực y “lạm dụng quyền thế để
làm muôn việc ác, coi mạng ngƣời nhƣ cỏ rác, chỉ chăm lo vơ vàng bạc cho
đầy túi tham”[35;tr49]. Để đạt đƣợc quyền lực của mình y không ngần ngại
dùng mọi thủ đoạn tàn nhẫn. Y bức chết một nàng hầu vì nàng ta dám liếc mắt
đƣa tình với một ngự lâm quân, thậm chí y còn sẵn sàng hi sinh sự sống của
đứa em gái để củng cố quyền lực của mình.
Trên chốn quan trƣờng y là kẻ uy quyền, tàn độc bất chấp mọi thủ đoạn để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đạt đƣợc âm mƣu của mình. Nhƣng trong đời sống cá nhân, y phải đối mặt
với bi kịch: không có mụn con nối dõi. Y càng điên cuồng hãm hại Ngạn La
bao nhiêu thì càng lún sâu vào bi kịch bấy nhiêu khi cô gái nhỏ mà y muốn
giết hại chính là đứa con duy nhất của y. Đến phút cuối, nhìn thấy trên thân
thể Ngạn La có chiếc bớt hình thạch sùng cùng với kỷ vật năm xƣa y đem
tặng ngƣời tình thì đã quá muộn. Lý Trác phải gánh chịu một nỗi đau tột cùng
để trả giá cho việc làm vong ân bội nghĩa của mình: “Thái Bảo khu mật Lý
Trác khẽ nấc lên trong miệng nhƣng đôi môi vẫn mím chặt, con mắt độc nhỡn
vẫn mở lên trừng trừng. Hai bàn tay khô khỏng áp chặt lên ngực mà cảm thấy
từng nhát, từng nhát cái miệng và bốn móng sắc nhọn của con thạch sùng đen
cấu xé trong tim”[35;tr541].
Sự độc ác và điên cuồng của Lý Trác cũng đƣợc biểu hiện rõ hơn nữa khi y
trả thù Lê Thị Đoan vốn là đồng môn của y. Đốt sách chƣa đủ, y hành động
nhƣ một kẻ say máu khi mang bài vị của Lê Thị Đoan và con trai lên đầu đài
hành quyết.
Hình ảnh Lý Trác cũng đƣợc tác giả dụng công xây dựng khiến nhân vật trở
nên có sức sống. Lý Trác vừa là ngƣời đại diện vừa là kẻ tiếp tay cho những
chính sách độc ác của chính quyền phong kiến. Khắc họa nhân vật này tác giả
đã cho ngƣời đọc thấy đƣợc tài năng của mình khi xây dựng đƣợc một nhân
vật độc ác khiến ngƣời đọc thấy căm phẫn, sợ hãi, khinh bỉ.
Ngoài các nhân vật đã nêu còn một số nhân vật hƣ cấu khác cũng đáng chú
ý nhƣ Dã nhân, chàng Cá Bơn …có tác dụng làm liền mạch và sáng tỏ những
khúc mắc, diễn biến của câu chuyện đồng thời thể hiện đƣợc quan điểm, đánh
giá của tác giả. Xây dựng hệ thống nhân vật hƣ cấu rất “đắt” trong Giàn thiêu,
Võ Thị Hảo đã đƣa tiểu thuyết lịch sử theo khuynh hƣớng mới. Mỗi một nhân
vật có số phận, tính cách riêng nhƣng vấn đề số phận con ngƣời trƣớc nam
quyền, thần quyền và vƣơng quyền đƣợc nêu rõ.Chất liệu lịch sử đã đƣợc nhà
văn sử dụng hợp lý, hấp dẫn khi “sử liệu và truyền thuyết xƣa đã đƣợc tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Giàn thiêu khai thác theo đúng cung cách của tiểu thuyết chứ không lạc theo
hƣớng của các kiểu truyện có hơi hám sử thi”[3]. Nghĩa là nhà văn sử dụng
các chi tiết và sự kiện lịch sử, nhân vật theo mục đích sáng tạo của mình do
đó nhân vật lịch sử không phải là những “bóng ma qua khứ nữa” mà lại là nền
tảng, cơ sở, tín hiệu mang thông điệp thời đại mà nhà văn gửi gắm.
2.3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật lịch sử
2.3.1. Miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình ,đối thoại
Nhƣ đã nói, nhân vật là phƣơng tiện để nhà văn nêu tƣ tƣởng, tình cảm,
đánh giá của mình vì vậy nhân vật là đối tƣợng đặc biệt quan trọng trong tác
phẩm văn học.
Giàn thiêu là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại giai đoạn lịch sử triều Lý, cụ thể
là dƣới hai triều vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông nên số lƣợng nhân vật
rất nhiều. Bằng vốn ngôn ngữ phong phú và linh hoạt, kết hợp với khả năng
quan sát sắc sảo tác giả đã khắc họa thành công các nhân vật trong tiểu thuyết.
Tuy nhiên chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một số nhân vật thể hiện rõ nhất tài
năng miêu tả ngoại hình, diễn biến tâm lý, miêu tả hành động của tác giả.
Với giọng kể điềm tĩnh, ngôn ngữ giàu chất hội họa, điện ảnh cao Võ Thị
Hảo đã khắc họa tƣơng đối rõ nét, sinh động giai đoạn lịch sử mình tái hiện,
đồng thời thể hiện đƣợc ý đồ nghệ thuật của mình.
Khi miêu tả nhân vật Từ Lộ,chỉ bằng một vài chi tiết, một vài câu văn ngắn
gọn tác giả đã phác họa đƣợc bức chân dung của một chàng công tử tuổi mƣời
bảy tuấn tú : “mày rậm, mắt sáng, miệng nhƣ vành trăng treo, vầng trán thanh
cao, có tƣớng “ngƣỡng nguyệt khẩu”[35;tr62], học rộng, hiểu biết nhiều lại
giỏi cầm kỳ thi họa. Khi trở thành nhà sƣ Đạo Hạnh, tác giả không tả ngoại
hình nhân vật mà lại khắc họa nhân vật thông qua suy nghĩ, hành động nhằm
làm nổi bật hình ảnh, tính cách của đại sƣ: “đệ tử chờ đƣợc thụ giáo nằm ngồi
la liệt tại các nhà dân quanh chùa nhiều không kể xiết”[35;tr426]. Qua đó ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thấy nổi bật lên hình ảnh vị đại sƣ là đối tƣợng sùng kính của đức tin, của
lòng dân, ngài là vị đại sƣ có đức cao vọng trọng, tinh thông phép thuật, hết
lòng vì chúng sinh.
Hay khắc họa nhân vật Từ Lộ tác giả đã miêu tả lại con đƣờng tu luyện đầy
gian nan, khổ ải mà nhân vật đã trải qua.
Khi khắc họa những nhân vật nữ trong tác phẩm, ngòi bút của tác giả càng
trở nên sắc sảo hơn. Những nhân vật nữ - dù là những nhân vật hƣ cấu nhƣng
không thể thiếu và thay thế trong tác phẩm.
Nhân vật tiểu thƣ Nhuệ Anh – là một mĩ nhân với “chiếc cằm có đƣờng
viền cứng cỏi hòa hợp kì lạ với đôi mắt dài nhƣ hai nét bút bay bƣớm đƣợc
phác họa bởi cơn hứng thần của một nhà thƣ họa, biến thành đôi dòng sông
thăm thẳm khôn dò, khóe mắt nhƣ nƣớc đọng. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực
đôi mắt là đƣờng mày màu khói nhạt dƣờng nhƣ hơi cau, đa đoan đến não
lòng”[35;tr35]. Kể cả khi nàng rũ bỏ trần tục trở thành sƣ bà chùa Trầm thì
nhân vật này vẫn mang nét đẹp quyến rũ lòng ngƣời “ dáng cúi đầu yêu kiều,
bàn tay lần tràng hạt thon mềm, đôi mắt dài tựa lá, tựa nhƣ những cánh cửa
khép mở đƣa ngƣời ta đến cõi phiêu bồng xa thẳm. Da thịt thơm ngát nhƣ mùi
sen chớm nở”[35;tr272-274]. Từ cách miêu tả nhân vật có thể thấy thái độ của
tác giả với nhân vật. Nhân vật đẹp rực rỡ, thánh thiện nhƣ phật sống.
Nhân vật Ngạn La lại mang vẻ đẹp hoang dại, tự nhiên, bộc lộ sự ngây thơ,
trong trẻo của nàng. Nàng đƣợc ca ngợi là có vẻ đẹp của mèo hoang và chiếc
rốn màu chu sa có thể quyến rũ tất cả các đế vƣơng, thậm chí mê hoặc cả
Diêm Vƣơng. Với cách miêu tả vẻ đẹp của nhân vật, tác giả đã cho ta thấy
phẩm chất của nhân vật và lời ca ngợi, khẳng định của tác giả về nhân vật.
Ngòi bút của Võ Thị Hảo có sự ƣu ái đặc biệt dành cho phái nữ nhƣng cũng
rất lạnh lùng, tỉnh táo khi miêu tả những nhân vật phản diện, độc ác. Giống
nhƣ nhân vật Lý Trác đƣợc tác giả tập trung thể hiện ở “đôi con ngƣơi Thái
Bảo vằn máu, sắc lạnh nhƣ mắt cọp bắt mồi”[35;tr46]. Theo tác giả đôi mắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tập trung biểu hiện rất nhiều bản chất con ngƣời giống nhƣ đôi mắt của pháp
sƣ Đại Điên – kẻ tu hành nhƣng lại làm điều ác có”đôi mắt nửa khép nửa
mở. Khi khép nhƣ mèo ngái ngủ. Khi trừng trừng nhƣ mắt cọp đói, con
ngƣơi thoáng ánh đỏ”[35;tr74]. Nhƣ vậy cũng so sánh với hình ảnh đôi mắt
mèo nhƣng cách miêu tả Ngạn La là muốn ca ngợi nét tự nhiên, sắc đẹp
hoang dã, sức sống của nàng. Nhƣng đến pháp sƣ Đại Điên cách miêu tả
khác họa của tác giả khiến ngƣời đọc liên tƣởng đến một con ngƣời không
biết phân biệt phải trái, chỉ làm theo ý thích để thỏa mãn dục vọng của mình.
Và quả thật, trong Giàn thiêu Đại Điên hiện lên là nhà tu hành nhƣng lại
mang phép thuật đi làm hại ngƣời khác nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá
nhân độc ác của mình.
Bằng ngôn ngữ phong phú, giàu tính hình ảnh cao, Võ Thị Hảo đã để lại
trong lòng những ấn tƣợng rất riêng biệt, sâu sắc trong lòng ngƣời đọc. Đây
cũng là một phƣơng diện nghệ thuật quan trọng mang đến thành công của tác
phẩm.
Bên cạnh việc xây dựng nhân vật thông qua việc miêu tả ngoại hình, tác
giả cũng đã sử dụng các cuộc đối thoại giữa các nhân vật để giúp ngƣời đọc
thấy đƣợc tâm trạng, tính cách của nhân vật. Nhƣ vậy thông qua các cuộc đối
thoại nhân vật tự bộc lộ mình, thể hiện mình, đồng thời tác giả cũng thể hiện
thái độ, tƣ tƣởng một cách khách quan nhất.
Ở chƣơng đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã đƣa ra cuộc đối thoại gay gắt
giữa hai nhân vật hoàn toàn trái ngƣợc nhau là Lý Trác và Lê Thị Đoan khi
định đoạt số phận của cung nữ Ngạn La trƣớc giàn thiêu. Nếu Lý Trác không
ngừng thúc giục nhà vua hạ lệnh giết Ngạn La thì Lê Thị Đoan (Lê Đóa) lại
không ngần ngại dùng cả tính mạng để cầu xin cho Ngạn La. Qua đó ta thấy
đƣợc bộ mặt độc ác, tàn bạo của chế độ nam quyền, của chính sách phong
kiến xƣa mà đại diện là Lý Trác.
Trái lại với y là Lê Thị Đoan, tuy nàng là phận nữ nhi giả trai đi thi nhƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chỉ “ vì muốn đem chút gan óc của phận gái mà giúp rập quốc gia”[35;tr49].
Con ngƣời ngay thẳng, bộc trực, dũng cảm của nàng càng hiện rõ hơn khi
nàng dám lên tiếng bảo vệ cho Ngạn La trong sự im lặng, cúi đầu của hàng
ngàn ngƣời kể cả tăng ni phật tử. Nàng dám vạch trần bộ mặt của Lý Trác và
lên án những hủ tục man rợ của triều đình, đồng thời chỉ ra những hậu quả
của việc làm đó. Từ cuộc đối thoại này, tác giả cũng đã bày tỏ thái độ với quá
khứ, lên án chế độ, quan niệm phân biệt, hà khắc với ngƣời phụ nữ. Đó cũng
là lời cảnh tình cho hiện tại không đƣợc đi lại vết xe đổ của lịch sử nữa.
Cuộc đối thoại nữa đặc biệt quan trọng trong Giàn thiêu khiến ngƣời đọc
thêm khâm phục tài năng sáng tạo, sử dụng chất liệu lịch sử của Võ Thị Hảo
đó là cuộc đối thoại giữa Ỷ Lan và Dƣơng Thái hậu. Một Ỷ Lan là nhân vật
lịch sử khiến cho mọi ngƣời vô cùng ngƣỡng vọng đã hiện nên gần gũi đến
mức đời thƣờng, trần tục. Từ đây ngƣời đọc cảm nhận đƣợc một nhân vật lịch
sử - Ỷ Lan bằng xƣơng bằng thịt với những lời nói, tâm lý, hành động nhƣ
một ngƣời thƣờng khi trong nhân vật có cả những khoảng tối, những bi kịch
đời tƣ, những toan tính đua chen nhỏ nhặt. Trƣớc sự chứng kiến của Ngạn La,
bí ẩn lịch sử năm xƣa về cái chết của Dƣơng Thái hậu và một phần con ngƣời
thật của vị thánh nhân Ỷ Lan đã đƣợc bộc lộ rõ nét. Hành động bức hại
Dƣơng Hoàng hậu và bẩy mƣơi sáu cung nữ ở cung Thƣợng Dƣơng là điều có
thực trong lịch sử, mãi mãi là vết nhơ trong cuộc đời Ỷ Lan. Dù bà có tìm mọi
cách để chuộc tội, sám hối nhƣ xây nhiều chùa chiền, ăn chay niệm
phật…nhƣng không thể thoát khỏi sự phán xét của lƣơng tâm. Bà luôn phải
đối mặt với sợ hãi và phải chịu hậu quả về hành động của mình cho đến chết.
Từ sự thực lịch sử, tác giả đã tƣởng tƣợng ra cuộc đối thoại giữa hồn ma
của Ỷ Lan và Dƣơng Thái Hậu cùng với bẩy mƣơi sáu cung nữ mà bộc lộ cho
ngƣời đọc bộ mặt thực sự của chốn cung cấm xa hoa. Thông qua cuộc đối
thoại này hiện lên hình ảnh con ngƣời đa diện, con ngƣời luôn phải tranh đấu
với những tốt – xấu, thiện – ác trong bản thân mình. Khi nhìn nhân vật dƣới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
góc nhìn đa diện tác giả không nhằm đạp đổ thần tƣợng, bóp méo sự thật…
mà chỉ muốn đƣa ra cách nhìn nhận con ngƣời một cách công bằng nhất với
chiều sâu bên trong của nó. Không có con ngƣời hoàn hảo, cũng không có con
ngƣời hoàn toàn xấu xa quan trọng là hãy có lòng dũng cảm đối mặt dám đấu
tranh với điều xấu, điều ác trong lòng mình. Nếu càng cố che dấu tội ác của
bản thân càng đau khổ, càng lún sâu vào cái ác để rồi có thể trốn tránh, lừa
dối đƣợc ngƣời khác nhƣng không thoát khỏi tòa án lƣơng tâm, chúng ta sẽ
phải trả giá cho chính lỗi lầm sai trái của mình.
Xây dựng cuộc đối thoại của nhân vật mang nhiều tầng ý nghĩa và thông
điệp gửi gắm, Võ Thị Hảo khiến ngƣời đọc không khỏi phải băn khoăn, suy
ngẫm sau khi đọc xong tác phẩm. Chƣa dừng lại ở đó, cuộc đối thoại giữa Lý
Thần Tông và sƣ bà chùa Trầm đã khiến ngƣời đọc hiểu thêm về xu hƣớng nữ
quyền mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Qua cuộc đối thoại, vua Thần Tông
– đấng quân vƣơng của một nƣớc hiện lên là một ông vua không quan tâm
đến việc an nguy của đất nƣớc, chỉ biết đắm chìm trong hƣởng lạc, để cho bọn
quan lại nịnh bợ, coi mạng ngƣời nhƣ cỏ rác, lộng hành…Từ đó tác giả cũng
biểu hiện suy nghĩ, thái độ trƣớc hình ảnh những nam nhi trong xã hội phong
kiến – liệu họ có tài giỏi hơn ngƣời phụ nữ nhƣ họ vẫn tự ca tụng ? Tiếng nói
đòi sự công bằng, đề cao vai trò của ngƣời phụ nữ khiến cho ngƣời đọc phải
công nhận. Bằng các cuộc đối thoại, tác giả đã để nhân vật tự bộc lộ mình
một cách khách quan, tạo ra sự tranh biện, đối thoại với ngƣời đọc, cho
ngƣời đọc suy nghĩ và đƣa ra cái nhìn nhận khách quan và toàn diện nhất về
nhân vật. Những đoạn hội thoại trong tác phẩm cũng thể hiện đƣợc sự sáng
tạo nghệ thuật độc đáo của Võ Thị Hảo trong việc làm sống dậy nhƣng nhân
vật lịch sử.
2.3.2. Miêu tả nhân vật thông qua tâm lý, hành động của nhân vật
Nếu việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ giúp bộc lộ và làm sinh động về
sức sống của nhân vật thì việc đi sâu vào những diễn biến tâm lý nội tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phức tạp của nhân vật khiến cho nhân vật trở nên gần gũi, chân thực hơn.
Việc đi sâu vào khai thác những rung động tâm lý tinh tế của mỗi con ngƣời
không phải là điều đơn giản nhất là lại khám phá tâm lý của nhân vật lịch sử
với khoảng cách thời gian và không gian quá khứ. Thế nhƣng tác giả Giàn
thiêu lại một lần nữa có đƣợc thành công khi xây dựng nhân vật đa diện với
những diễn biến tâm lý phức tạp, tinh tế ghi đƣợc ấn tƣợng sâu sắc trong
lòng ngƣời đọc.
Trƣớc Võ Thị Hảo đã có không ít các nhà văn thành công khi đi sâu vào
diễn tả nội tâm phức tạp và góc khuất ở trong đó. Điều này cũng là áp lực và
thách thức của Võ Thị Hảo khi muốn tiếp tục đi theo con đƣờng khó khăn
này. Cũng diễn đạt tâm lý con ngƣời nhƣng bằng giọng văn, cái nhìn rất riêng
mang dấu ấn của nhà văn đó không phải là điều dễ dàng. Nhất là khi diễn biến
nội tâm đó lại thuộc về nhân vật trong quá khứ lịch sử và xuyên suốt chiều dài
của một cuốn tiểu thuyết dài. Trong nhiều cách để miêu tả tâm lý nhân vật
nhƣng Võ Thị Hảo đã tập trung miêu tả tâm lý nhân vật chủ yếu qua quá trình
độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm của nhân vật để phát hiện những điều sâu
kín trong tâm hồn nhân vật, những mặt khác nhau trong cùng một con ngƣời.
Qua những đoạn phác họa tâm trạng của đại sƣ Từ Đạo Hạnh tác giả đặt ra
câu hỏi về một nhân vật lịch sử còn nhiều “khoảng trắng” đáng chú ý. Liệu có
con ngƣời hoàn toàn thần thánh, con ngƣời có thể hoàn toàn vứt bỏ trần tục và
không có dục vọng cá nhân? Phải chăng những con ngƣời “đƣợc” phong
thánh đó họ cũng trƣớc hết là một con ngƣời bình thƣờng đã. Bản thân họ
cũng nhƣ bao ngƣời khác, cũng khao khát sống, khao khát yêu thƣơng, khao
khát đƣợc hƣởng thụ, có quyền lực, đƣợc thống trị tất cả. Nếu có thì phải
chăng ngƣời đó cũng phải ép mình, cũng phải tự đấu tranh vô cùng khốc liệt
với những giằng xé trong nội tâm.
Từ Đạo Hạnh trong vai trò là một đại sƣ đức cao vọng trọng nên luôn phải
sống trong khuôn vàng thƣớc ngọc, sống theo đạo, sống khuyên con ngƣời từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bỏ vật chất, diệt dục, sống hƣớng thiện. Nhƣng mấy ai biết rằng đằng sau tấm
gƣơng đƣợc ca ngợi kính trọng ấy là bi kịch của một con ngƣời không đƣợc
sống hạnh phúc, không tìm đƣợc ý nghĩa của cuộc đời. Tuy giảng đạo cho dân
chúng nhƣng ngài cũng luôn băn khoăn tự hỏi “Ta có thật lòng tin rằng có niết
bàn”[35;tr427]. Càng ngày ngài càng phải đối mặt với cuộc đấu tranh nội tâm
gay gắt giữa một bên là những lời giảng cho chúng sinh một bên là thật lòng
mình. Khao khát hạnh phúc đời thƣờng, hạnh phúc trong cuộc sống trần tục
vẫn là khao khát mãnh liệt nhất vì vậy mà ngài không thể tự lừa dối bản thân
đƣợc. Quyết định từ bỏ kiếp sống hiện tại để đầu thai sang kiếp khác để thỏa
mãn những gì mình chƣa kịp hƣởng thụ ở kiếp trƣớc là một biểu hiện về lòng
khao khát cõi trần chứ không phải cõi niết bàn của ngài. Từ Đạo Hạnh là nhân
vật có thật trong lịch sử nhƣng nhà văn không đóng khung nhân vật trong vai
trò lịch sử của họ mà chủ yếu đi vào quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật,
để nhân vật đúng là con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt có tốt – xấu, yêu –ghét,
ham muốn…nhƣ bao nhiêu con ngƣời khác. Nhà văn không thần thánh họ
nhƣng cũng không nhằm “giải thiêng”, hạ thấp họ mà thông điệp của Võ Thị
Hảo rất rõ ràng đó là hãy nhìn thẳng, đối mặt với sự thật và hãy nhìn đúng
đắn, toàn diện, trân trọng con ngƣời bởi vì: Không có con ngƣời toàn vẹn.
Bằng tài năng hƣ cấu, tƣởng tƣợng nhà văn tạo ra cuộc gặp gỡ giữa Lý
Thần Tông và sƣ bà chùa Trầm. Qua cuộc gặp gỡ đó nhà vua nhớ lại kiếp
trƣớc và hiểu đƣợc căn nguyên của sự thiếu vắng, trống trải mơ hồ trong cuộc
đời ngài. Một cuộc gặp gỡ đầy ngang trái vì lúc hai ngƣời nhận ra nhau và tìm
ra hạnh phúc của cuộc đời mình nhƣng giữa họ có là một khoảng cách xa vời
– khoảng cách của hai kiếp ngƣời nên không thể thay thế và xóa nhòa đƣợc.
Những tƣởng rằng đã phải dùng hai kiếp ngƣời để đi tìm hạnh phúc thì nhà
vua sẽ chấp nhận tất cả để siêu thoát cùng ngƣời tình năm xƣa nhƣng khát
vọng quyền thế và ham mê sắc dục đã chiến thắng và ngài lại tiếp tục bỏ lỡ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hạnh phúc của kiếp thứ hai. Dù trải qua hai kiếp luân hồi chƣa đƣợc một ngày
hạnh phúc nhƣng lòng ham hố quyền lực và sắc dục, ham muốn đƣợc hƣởng
thụ chính là nét tính cách bất biến của nhân vật này.
Nguyên Phi Ỷ Lan qua sự dẫn dắt bằng những hƣ cấu tinh tế của Võ Thị
Hảo đã khiến tác giả cảm nhận đƣợc những góc khuất trong tâm hồn bà. Dựa
trên những cứ liệu lịch sử và hƣ cấu sáng tạo của Võ Thị Hảo, Ỷ Lan hiện lên
không phải là một thánh bà mà trƣớc hết là một ngƣời phụ nữ bình thƣờng,
tuy có công với đất nƣớc nhƣng cũng có những đức tính xấu nhƣ: ham mê
quyền lực ghen ghét, đố kị với ngƣời khác…
Võ Thị Hảo cũng đã rất thành công khi dùng hành động để khắc họa nhân
vật. Kết hợp với những diễn biến trong lịch sử một cách hợp lý với sự tƣởng
tƣợng hƣ cấu đầy sáng tạo của mình, nhân vật trong Giàn thiêu hiện lên chân
thực hơn và bộc lộ đúng tính cách mà nhân vật có. Qua đó tác giả cũng đã thể
hiện thái độ đánh giá với nhân vật. Từ Lộ đƣợc khắc họa là nhân vật mang
quyết tâm trả thù cho gia đình vì vậy chàng có những hành động khá quen
thuộc nhƣ viết đơn bằng máu, lao đến đánh Đại Điên, từ bỏ tất cả để tu luyện
nhằm trả thù. Ở Từ Lộ qua hành động của chàng ta thấy đƣợc bi kịch bất ngờ
và đau xót của chàng trai trẻ. Tuy vậy trong hành động quyết tâm báo thù của
chàng cũng có những phút nhƣ muốn quên đi để tìm đến hạnh phúc còn sót
duy nhất của chàng là nàng Nhuệ Anh. Ở Từ Đạo Hạnh nổi bật nhất là hành
động rũ bỏ kiếp sống hiện tại để mong đƣợc hƣởng thụ những thứ mà kiếp
trƣớc đã bỏ lỡ, kể cả khi đã thành Lý Thần Tông hƣởng thụ mọi thứ trên cuộc
đời nhƣng vẫn cảm thấy thiếu vắng điều gì. Đến lúc tìm đƣợc nhà vua cũng
không từ bỏ vinh hoa phú quý và dục vọng hƣởng thụ của mình. Cho thấy bản
chất của nhân vật là luôn hám hố hƣởng thụ, không từ bỏ đƣợc dục vọng trần
thế. Khi khắc họa nhân vật đa diện Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông tác
giả đã khiến ngƣời đọc cảm thấy gần gũi hơn với nhân vật này. Không thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khẳng định đƣợc nhân vật tốt hay xấu vì trong bản thân nhân vật cũng luôn là
một cuộc tranh đấu giữa thiện và ác. Những mặt đa diện này của nhân vật
khiến bạn đọc phải ngẫm nghĩ để tìm thông điệp tác giả muốn gửi gắm.
Nhân vật Ỷ Lan cũng là một nhân vật lịch sử đƣợc Võ Thị Hảo làm “sống
dậy” đầy chân thực. Hành động bức chết Dƣơng Thái hậu và bấy mƣơi sáu
cung nữ trong lịch sử khiến ngƣời đọc không khỏi ngỡ ngàng. Sau đó là một
loạt hành động cho xây chùa, tô tƣợng, đúc chuông …của bà khiến ta liên
tƣởng đến câu hỏi phải chăng đây là hành động “lấy lòng” thần thánh nhằm
làm giảm nhẹ tội lỗi của bà. Từ đó nhân vật đƣợc khắc họa cụ thể hơn, đa
chiều hơn, cho thấy cái nhìn rất sâu sắc của Võ Thị Hảo.
Ngoài ra hành động của các nhân vật khác nhƣ hành động tự vẫn của Nhuệ
Anh, hành động chạy trốn giàn thiêu, hành động tố cáo tội ác của triều đình và
tự sát của Lê Thị Đoan… cũng đều thể hiện bản lĩnh, tính cách của nhân vật
nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo. Qua những hành động này, Võ Thị Hảo đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hết lời ngợi ca phẩm chất tuyệt vời của những ngƣời phụ nữ Việt.
CHƢƠNG 3 NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG GIÀN THIÊU
3.1 Sự thể hiện thời gian trong Giàn thiêu
3.1.1 Khái niệm thời gian lịch sử và thời gian nghệ thuật
Thời gian lịch sử đƣợc hiểu đơn giản là thời gian đã đƣợc trải qua trong
lịch sử. Thời gian lịch sử mang đặc điểm của thời gian tuyến tính. Đây là kiểu
thời gian quen thuộc trong tiểu thuyết truyền thống nói chung và trong tiểu
thuyết lịch sử nói riêng. Diễn biến thời gian này chính là cơ sở để dẫn dắt
ngƣời đọc đến những biến cố, sự kiện xảy ra đối với nhân vật.Thời gian lịch
sử là dòng thời gian bất biến, không thay đổi.Nghĩa là thời gian lịch sử trung
thành với những trật tự sự kiện, sự việc nào có trƣớc nói trƣớc, sự việc nào có
sau nói sau. Trong văn học trung đại có một số tiểu thuyết nhƣ : Hoàng Lê
Nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí..Nhiều tiểu thuyết lịch sử sau
1945 cũng theo mô hình thời gian này nhƣ : Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu
sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tƣởng), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Núi rừng Yên
Thế ( Nguyên Hồng), bộ tiểu thuyết về triều Trần của Hoàng Quốc Hải…
Với lối kết cấu thời gian này rõ ràng tập trung nhiều vào thời gian, sự kiện
diễn ra trong đƣờng đời nhân vật, thiên về biên niên sử. Tính cách nhân vật
đƣợc hiện lên rất rõ ràng, ngƣời đọc có thể dễ dàng nhận ra tƣ tƣởng chủ đề
của tác phẩm. Cách kết cấu tiểu thuyết theo thời gian lịch sử là kiểu kết cấu
truyền thống và phổ biến. Nguyên nhân vì nếu theo kết cấu thời gian lịch sử
sẽ dễ dàng bao quát, không làm bỏ sót những chi tiết diễn biến lịch sử. Cách
viết theo thời gian lịch sử cũng là một cách tiếp cận để viết đƣợc những tiểu
thuyết lịch sử mới mẻ, hấp dẫn nếu nhà văn biết sử dụng thành công những sự
kiện lịch sử với những hƣ cấu mình sáng tạo.Đây cũng là một con đƣờng thử
thách không đơn giản dành cho nhà văn trên con đƣờng viết một tiểu thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lịch sử.
Thời gian nghệ thuật theo các nhà Từ điển thuật ngữ văn học là hình thức
nội tại của hình tƣợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng nhƣ
không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Cái nhìn trần thuật
bao giờ cũng gắn với thời gian nghệ thuật .Đây là thời gian mang tính ƣớc lệ
chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật đƣợc đo bằng nhiều
thƣớc đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tƣợng đời sống, ý
thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp
điệu trong tác phẩm [34;tr322] có thời gian nghệ thuật gắn liền với biến cố
cột truyện, là ngƣời dẫn dăt, thúc đẩy để cốt truyện phát triển. Có thời gian
nghệ thuật đứng ngoài thời gian nhƣ thời gian thần thoại.Thời gian nghệ thuật
phản ánh sự cảm thụ của tác giả về phƣơng thức tồn tại của con ngƣời trong
thế giới [34;tr323]. Thời gian nghệ thuật là một phƣơng tiện để phản ánh tƣ
duy, ý đồ nghệ thuật của tác giả. Với một một phƣơng thức, phƣơng tiện thể
hiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng. Ngoài kết cấu
thời gian biên niên theo thời gian lịch sử còn kết cấu thời gian theo tâm lý
nhân vật, kết cấu theo kiểu lắp ghép, đồng hiện, ..
3.1.2. Thời gian biên niên sử trong Giàn thiêu
Để khắc họa lại bức tranh về một thời đại lịch sử dƣới triều Lý, Võ Thị Hảo
đã sử dụng khá nhiều chi tiết lịch sử ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư làm nền
để bộc lộ ý đồ nghệ thuật của mình. Nhƣng không phải nhân vật và sự kiện
lịch sử trong sử kí lúc nào cũng hoàn toàn là sự thật. Bởi vì lịch sử trong sử kí
bao giờ cũng đƣợc nhìn theo quan điểm thời đại, giai cấp và cá nhân. Việc đối
chiếu cứ liệu lịch sử với hƣ cấu sáng tạo trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo
giúp ta hiểu thêm, thấy đƣợc cấu trúc của tác phẩm.
*Sự kiện ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư
- Năm 1066 (Bính Ngọ), mùa xuân, tháng giêng, giờ hợi, Thái tử Càn Đức
sinh, ngày hôm sau lập làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, phong mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thái tử là Ỷ Lan phu nhân làm Thần phi [23;tr 273].
- Năm 1069 (Kỷ Dậu) vua Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt
đƣợc vua nƣớc đấy là Chế Củ và dân chúng năm vạn ngƣời. Mùa hạ, tháng
sáu dem quân về. Mùa thu, tháng bảy vua từ Chiêm Thành về tới nơi dâng tù
ở Thái miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ nhất. Chế Củ xin dâng ba châu
Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha cho Chế Củ về
nƣớc [23;tr274].
- Năm 1072 (Nhâm Tý) mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần, vua Thánh
Tông băng ở điện Hội Tiên…Hoàng thái tử lên ngôi trƣớc linh cữu, đổi niên
hiệu là Thái Ninh năm thứ nhất. Bấy giờ vua mới bảy tuổi, tôn mẹ đẻ là Ỷ
Lan Nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thƣợng Dƣơng thái hậu
họ Dƣơng làm Hoàng thái hậu. Họ buông rèm cùng nghe chính sự. Thái sƣ Lý
Đạo Thành giúp đỡ công việc[23;tr276].
- Năm 1073(Quý Sửu), Giam Hoàng thái hậu họ Dƣơng , tôn Hoàng thái phi
làm Linh Nhân Hoàng thái hậu. Linh Nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ
mà không đƣợc dự chính sự mới kêu với vua rằng : “mẹ già khó nhọc mới có
ngày nay, mà bây giờ phú quý ngƣời khác đƣợc hƣởng thì để mẹ già vào
đâu?”. Vua bèn sai đem Dƣơng Thái hậu và bảy mƣơi sáu thị nữ vào cung
Thƣợng Dƣơng , rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông[23;tr277].
- Năm 1075 (Ất Mão),mùa xuân, tháng hai, xuống chiếu tuyển minh kinh
bác học và thi Nho học tam trƣờng, Lê văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu
vua học.
- Năm 1076 (Bính Thìn), mùa xuân, tháng ba, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ
Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó đem quân
chín tƣớng hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nƣớc ta. Vua sai
Lý Thƣờng Kiệt đem quân đón đánh, quân Tống chết hơn một nghìn ngƣời.
Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta. [23;tr278-279].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Năm 1076 (Bính Thìn), xuống chiếu cầu lời nói thẳng [23;tr280].
- Năm 1077 (Đinh Tị), tháng ba ta đem đại binh đánh châu Khâm và châu
Liêm nƣớc Tống. Nói rằng lấy tiếng rằng nhà Tống thi hành phép thanh miêu,
tàn hại dân Trung Quốc. Cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau.
Tháng 12 mùa đông, Triệu Tiết nhà Tống sang xâm lấn , không đƣợc lại đem
quân về. [23;tr280].
- Năm 1079 (Kỷ Mùi), Châu lạng dâng voi trắng. Mƣa đá. Đƣợc mùa to. Nhà
Tống đem Thuận Châu trả cho ta. [23;tr280].
- Năm 1086 (Bính Dần), thi ngƣời có văn học trong nƣớc, sung làm quan ở
Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích trúng tuyển bổ làm Hàn lâm học sĩ[23;tr281].
- Năm 1089 (Kỷ Tị), mùa xuân, tháng ba định các chức quan văn võ, quan
hầu vua và các chức tạp lƣu [23;tr282]
- Năm 1098 (Mậu Dần) mùa thu, tháng tám động đất. Sao chổi hiện ra [23;
tr284].
- Năm 1110 (Canh Dần) mùa xuân Từ Văn Thông dâng hổ trắng, ngựa
trắngcó cựa và cây cau một gốc có mƣời hai thân.[23;tr286].
- Năm 1112 ( Nhâm Thìn) vua tuổi đã nhiều mà chƣa có con trai nối dõi,
xuống chiếu chọn con của tông thất để lập làm con nối. Em vua là Sùng Hiền
Hầu cũng chƣa có con trai. Gặp lúc nhà sƣ núi Thạch Thất là Từ Đạo Hạnh
đến chơi nhà, Hầu nói với Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng “Bao giờ
phu nhân sắp đến ngày sinh thì báo cho tôi biết trƣớc để cầu khấn với sơn
thần. Ba năm sau phu nhân có mang sinh con trai là Lý Dƣơng Hoán
[23;tr286].
- Năm 1117 (Đinh Dậu), mùa thu , tháng 7 ngày 25, Ỷ Lan Thái Hậu băng.
Hỏa tang bắt ba ngƣời hầu gái chôn theo. Tôn tên thụy là phù thánh Linh
Nhân Hoàng Thái hậu [23;tr288].
- Năm 1117(Đinh Dậu) mùa đông, tháng mƣời vua ngự đến hành cung Khải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thụy xem gặt. Đêm hôm ấy mặt trăng có hai quầng.[23;tr288].
- Năm 1127 (Đinh Mùi) , Ngày Ất Dậu vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi
chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở. Ngày hôm ấy vua ngự giá đi Na
Ngạn xem các cung nữ lên giàn thiêu để chết theo Đại Hành hoàng đế
[23;tr297].
- Năm 1128 (Mậu Thân), ngày Kỷ Sửu : biếm đại liêu ban Lý Sùng Phúc vì
khi đi qua cửa thành Tây Dƣơng, ngƣời tuần lại hỏi mà không trả lời. Ngày
Tân Mão xuống chiếu nƣớc đang có tang, dân chúng không đƣợc cƣỡi ngựa
và đi võng màu lam, đi xe che màn. Ngày Tân Sửu lấy Nội Vũ vệ Lê Bá Ngọc
làm Thái Úy, thăng tƣớc hầu, Nội nhân hỏa đầu Lƣu Ba, Dƣơng Anh Nhĩ làm
Thái phó, tƣớc Đại liêu ban, Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị đại phu,
thăng chức Trật chƣ vệ, Nội nhân hỏa đầu Lý Khánh, Nguyễn Phúc, Cao Y
làm Thái bảo, tƣớc Nội thƣơng chế, Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn làm Điện
tiền chỉ huy sứ, tƣớc Đại liêu ban,Linh nhân Ngô Toái làm Thƣơng chế; Ngự
khố thƣ gia Từ Diên làm Viện Ngoại lang. Lại ban tiền lụa cho Bá Ngọc, Lƣu
Ba và Mâu Du Đô cùng quan chứ đo theo thứ bậc khác nhau để thƣởng công
phò tá [23;tr298]
Tháng hai ngày Ất Mão, xuống chiếu tha cho các tội nhân ở phủ Đô Hộ.
Ngày Nhâm Tuất, xuông chiếu tha cho 130 ngƣời bi biếm truất.
Tháng giêng, ngày Giáp Dần: hơn hai vạn ngƣời Chân Lạp vào cƣớp bến Ba
Đầu ở châu Nghệ An. Xuông chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem
các quan chức đo cùng ngƣời châu Nghệ An đi đánh [23;tr299]
Ngày Đinh Mão thƣ báo thắng trận của Lý Công Bình đến kinh sƣ [23;tr299]
Ngày Mậu Thìn vua ngự đến hai cung: Thái Thanh, Cảnh Linh và các chùa
quán trong thành để tạ ơn Phật và Đạo đã giúp cho Công Bình đánh đƣợc
ngƣời Chân Lạp[23;tr300]
- Năm 1129 (Kỷ Dậu) mùa xuân, tháng giêng mở hội khánh thành tám vạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
bốn nghìn bảo tháp ở gác Thiên phù.
- Năm 1130 (Canh Tuất) mùa xuân, tháng giêng xuống chiếu cho con gái các
quan không đƣợc lấy chồng trƣớc, đợi sau khi chọn sung vào hậu cung, ngƣời
nào không trúng tuyển mới đƣợc lấy chồng[23;tr303]
- Năm 1131 (Tân Hợi) tháng năm dựng nhà cho đại sƣ Minh Không
[23;tr305]
- Năm 1136 ( Bính Thìn) vua bệnh nặng chữa không khỏi, nhà sƣ Minh
Không chữa khỏi phong làm Quốc sƣ.[23;tr308]
- Năm 1138 (Mậu Ngọ) tháng sáu hạn, vua sai nhập nội tạ ty lang trung là
Ngụy Quốc Bảo triệu các quan hội bàn. Chƣ vệ là Phạm Tín xin đến vu đàn
làm lễ cầu mƣa. Vua y theo. Tháng 7, trời không mƣa. Vua sai Hữu ty làm lễ
cầu ở Vu Đàn và chùa Báo Thiên.[23;tr310]
- Năm 1138 (Mậu Ngọ) vua không khỏe. Lập hoàng tử trƣởng Thiên Tộ làm
Hoàng Thái tử, trƣớc vua đã lập Thiên Lộc làm con nối. Ba phu nhân Cảm
Thánh, Nhật Phụng và Phụng Thánh muốn lập thái tử khác sai ngƣời đem đút
cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di
chiếu thì chớ bỏ lời ba phu nhân. Văn Thông nhận lời. Đến khi vua ốm nặng
sai soạn thảo di chiếu, Văn Thông tuy vâng mệnh vua nhƣng nhớ lời dặn của
ba phu nhân cứ cầm bút mà không viết. Một lát ba phu nhân đến khóc lóc
nghẹn ngào nói rằng: “bọn thiếp nghe rằng đời xƣa lập con nối ngôi thì lập
con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của ngƣời thiếp đƣơc vua
yêu mến, nếu cho nối ngôi thì ngƣời mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét
làm hại, nhƣ thế thì mẹ con thiếp làm sao tránh khỏi nạn?”Vua vì thế xuống
chiếu rằng : Hoàng tử Thiên Tộ tuy còn tuổi thơ ấu, nhƣng là con đích thiên
hạ đều biết, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử Thiên Lộc thì phong
làm Minh Đạo Vƣơng. Ngày 26, vua băng ở điện Vĩnh Quang, quàn ở thềm
phía tây điện ấy. Các quan dâng tôn hiệu Quảng Nhân Sùng Miếu Văn Vũ
Hoàng Đế hiệu là Thần Tông. Mùa đông, tháng mƣời ngày mồng một Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thái tử Thiên Tộ ở trƣớc linh cữu bấy giờ mới lên ba tuổi. Đổi niên hiệu là
Thiệu Minh năm thứ nhất. Đại xá thiên hạ. Tôn mẹ là Cảm thánh phu nhân họ
Lê làm Hoàng thái hậu. [23;tr310-311]
Qua những sự kiện lịch sử ghi trong sử sách này, Võ Thị Hảo đã có những
sáng tạo độc đáo khi không trung thành theo lối viết biên niên của các nhà sử
học mà chọn lọc các sự kiện này không theo trình tự thời gian (Ở đây chúng
tôi đã sắp xếp lại theo trình tự thời gian). Tác giả sử dụng những chi tiết lịch
sử để làm nổi bật ý đồ nghệ thuật của mình.
* Những hư cấu trong tiểu thuyết
- Năm 1066 (Bính Ngọ) ngày 25 tháng giêng, tiên hoàng hạ sinh, tuổi ngọ,
ngay ngày hôm sau đã đƣợc lập làm Hoàng thái tử[35;tr27].
- Năm 1069 (Kỷ Dậu) mùa xuân năm Kỷ Dậu, Thánh tông hoàng đế thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, có Lý Thƣờng Kiệt làm tiên phong, bắt đƣợc
Chế Củ giải về kinh, thu phục ba châu: Địa Lý, Mai Linh, Bố Chính
[35;tr176].
- Năm 1072 (Nhâm Tý) Đức THánh Tông hoàng đế băng ở Hội Tiên, ngày
Canh Dần, tháng giêng, năm Thần Vũ thứ tƣ…Hoàng Thái tử Càn Đức con ta
lên ngôi trƣớc linh cữu khi mới 7 tuổi. Dƣơng Thái Hậu đƣợc tôn làm Hoàng
Thái hậu, Nguyên Phi Ỷ Lan đƣợc tôn làm Hoàng Thái phi[35;tr234].
- Năm 1073 (Quý Sửu) Tại cung Thƣợng Dƣơng cách đây năm mƣơi tƣ năm,
Nhân Tông nghe lời mẹ là Nguyên Phi Ỷ Lan sai ngƣời giam Dƣơng Thái hậu
và 76 thị nữ, bức phải chết và chôn theo lăng Thánh Tông vì ghen và đam mê
quyền lực. Ngày ấy, ta đã nói cùng Càn Đức: “Con trai ơi, mẹ già khó nhọc
mới có ngày nay mà bây giờ phú quý ngƣời khác đƣợc hƣởng thế thì con sẽ
để mẹ già vào đâu?”[35;tr231-233].
- Năm 1075 (Ất Mão) Mở khoa thi chọn kẻ hiền tài đặt lên ngôi vị chăn dân
[35;tr58].
- Năm 1076 (Bính Thìn) Xuống chiếu cầu lời nói thẳng, chon ngƣời vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Quốc Tử giám [23;tr85].Mùa xuân, tháng 3 vua Tống sai Tuyên phủ xƣa
Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân
chin tƣớng hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp sang đánh nƣớc ta để trả thù.
Vua sai Lý Thƣờng Kiệt đem quân đón đánh bên sông Nhƣ Nguyệt chém hơn
một nghìn đầu giặc, Quách Quỳ phải lui quân[35;tr143].
- Năm 1077 (Đinh Tỵ) Tháng 3 ta lại đem quân sang đánh Châu Khâm và
Châu Liêm nƣớc Tống. Mùa đông, tháng 12, nƣớc Tống sai Triệu Tiết đƣa
quân sang xâm chiếm bờ cõi nƣớc ta. Đánh đi đánh lại, giằng co, không khuất
phục đƣợc thì tha làm phúc [35;tr143]
- Năm 1079 (Kỷ Mùi) Nhà Tống đem trả cho ta châu Quảng Uyên dẫu rằng
trƣớc đó họ đã đổi tên thành Thuận Châu. Để đổi lại, vua ta cũng sai ngƣời
mang voi trắng, ngựa trắng sang dâng vua Tống. Trả lại cho nhà Tống dân,
lính bị bắt [35;tr143]
Cũng năm nay, Anh vũ Chiêu Thắng thứ tƣ, Châu Lạng dâng voi trắng. Có
mƣa đá. Nhƣng cả nƣớc lại đƣợc mùa to. Nhà nhà thóc chứa đầy cót, khoai củ
chật gầm giƣờng. Khắp nơi vang tiếng ca ngợi công đức của Linh Nhân Thái
hậu và đức Nhân Tông trị nƣớc. Dân chúng lại nức lòng theo việc triều
đình[35;tr135]
- Năm 1086 (Bính Dần) chọn ngƣời vào Hàn lâm viện, khởi sự Nho học để
giáo hóa dân chúng[35;tr85]
- Năm 1089 (Kỷ Tỵ) Định quan chế, chia bậc phẩm ngăn nắp, dẫu rằng mô
phỏng theo lối triều đình nhà Tống, nhƣng có công lớn trong việc khai hóa
văn hiến nƣớc nhà [35;tr85]
- Năm 1098 (Mậu Dần) Năm Hội Phong thứ 7, mùa thu sao chổi hiện ra ở
phía tây bắc kinh thành Thăng Long[35;tr374]. Cuối tháng 8 lại động đất ở
trấn Kinh Bắc. Địa chất rùng rùng chuyển về Thăng Long. Một góc phía tây
kinh thành sạt lở chôn vùi mấy trăm hộ dân. Nƣớc sông Cái, sông Nhuệ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sông Tô đỏ nhƣ máu[35;tr374]
- Năm 1110 (Canh Dần) Mùa xuân, Hội Trƣơng Đại Khánh năm thứ nhất, nhờ
dâng hổ trắng, ngựa trắng có cựa, cây cau một gốc mƣời hai thân nên đức
Tiên hoàng Nhân Tông mà Từ Văn Thông từ một chức quan ngũ phẩm lẹt đẹt
thăng lên chức Tham chính[35;tr505]
- Năm 1112 (Nhâm Thìn) Đức vua Nhân Tông không có con nối dõi, dù đã
cầu thần phật khắp nơi, ngay cả nhờ ngƣời dùng phép đầu thai mà vẫn không
khai hoa kết quả[35;tr443]. Đức vua Nhân Tông và Linh Nhân Thái hậu đã
xuống chiếu tìm ngƣời con trai xuất sắc từ hoàng tộc để lập làm Hoàng thái
tử, trong dòng thân vƣơng bắt đầu sôi sục lên nhƣ một vạc dầu, các thân
vƣơng đua nhau cƣới thêm vợ bé [35;tr444]. Trong hoàng thân, ai có con trai
sẽ đƣợc đƣa vào cung nuôi dạy. Em kế vua là Sùng Hiền Hầu cũng chƣa có
con trai đã đến cầu cứu nhà sƣ Từ Đạo Hạnh. Nhà sƣ nhận lời hẹn 3 năm sau
khi phu nhân của Sùng Hiền Hầu sắp sinh thì báo cho nhà sƣ. Đúng hẹn, 3
năm sau phu nhân có mang và sinh hạ đƣợc con trai đặt tên là Dƣơng
Hoán[35;tr445-458]
- Năm 1117 (Đinh Dậu) Noi theo các phép tắc thời Tần Thủy Hoàng phƣơng
Bắc, Thái hậu trƣớc khi chết trăng trối rằng: “nhất thiết phải chôn sống ba
ngƣời hầu gái để đi theo hầu hạ Thái hậu”. Vì thế, mùa thu tháng 7 ngày 25,
Hội Tƣờng Đại Khánh năm thứ 8, ba cung nữ đã bị chôn sống theo lễ hỏa
táng của Thái hậu trên đảo Âm Hồn[35;tr26]
- Sau khi Thái hậu mất, mùa đông tháng 10, vua Nhân Tông lệnh cho quần
thần, văn võ ngự đến hành cung Khải Thụy xem gặt và cày ruộng tịch điền
[35;tr258]
- Năm 1127 (Đinh Mùi) Ngày Ất Dậu, giờ dần, bốn mƣơi chín cung nữ của
hoàng đế Nhân Tông vừa băng hà đƣợc đƣa tới đảo Âm Hồn ở Na Ngạn lên
giàn thiêu để chết theo vua tới cõi niết bàn hầu hạ Tiên Đế. Vua Thần Tông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lúc đó mới 12 tuổi [35;tr19-53].
- Năm 1128 (Mậu Thân) Ngày Tân Mão, tháng giêng, để tỏ lòng tiếc nhớ Tiên
Nhân Hoàng đê vừa băng hà, vua ban chiếu cấm dân chúng cƣỡi ngựa, đi
võng mầu lam, xe che màn. Thế nhƣng chƣa đƣợc một tháng sau, chƣa đến lễ
tốt Khốc, đã cho các quan cởi bỏ áo trở. Lại sai viên ngoại lang Lý Khánh
Thần và vợ đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn để lập làm Lệ
Thiên Hoàng hậu, sai viên ngoại lang Trần Ngọc Độ và vợ đi đón con gái của
Lê Xƣơng là cháu chú bác của Thái Úy Lê Bá Ngọc vào cung lập làm Minh
Bảo phu nhân…Khiến thiên hạ có lời đàm tiếu về chữ hiếu của đấng tân
vƣơng. Định đoạt các chức quan trong triều theo ý thích của vị tân vƣơng non
trẻ.[35;tr243].
- Ngày Kỷ Sửu, tháng giêng, biếm Đại Liêu bang Lý Sùng Phúc vì đi qua cửa
thành Tây Dƣơng, ngƣời tuần tra hỏi mà không trả lời.
- Ngày Tân Sửu cùng tháng ấy, lấy Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tƣớc Hầu.
Nội nhân hỏa đầu Lƣu Ba, Dƣơng Anh Nhĩ làm Thái phó, tƣớc Đại liêu ban.
Nội nhân hỏa đấu Lý Khánh, Nguyễn Phúc, Cao Y làm Thái Bảo, tƣớc Nội
thƣơng chế, Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung
Thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị đại phu. Rồi Lý Tử khắc chỉ có công dâng
tấu ở rừng Giang Đề có hƣơu trắng, vua sai ngƣời đi bắt đƣợc liền sắc phong
ngay làm Khu mật sứ, xếp vào hàng Minh Tự đƣợc đội mũ bảy cầu
[35;tr243]. Tháng hai, Thuận Thiên năm thứ nhất, Thuận Thiên năm thứ hai,
vua xuống chiếu nhất loạt tha cho các tội nhân và những kẻ bị biếm truất
trong nƣớc[35;tr244], Tháng giêng, Mậu Thân, Nhập nội Thái phó Lý Công
Bình, phụng chỉ đem quân đi đánh ngƣời Chân Lạp vào cƣớp bóc ở bến Ba
Đầu, châu Nghệ An[35;tr244]. Ngày Đinh Mão, tháng hai, tin thắng trận về
kinh. Hôm sau ngày Mậu Thìn, vua ngự đến hai cung Thái Thánh, Cảnh Linh
cùng nhiều chùa quán trong kinh thành để làm lễ tạ ơn Phật, Đạo…mà quyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những việc thƣởng, ủy lao tƣớng đã có công phá giặc..,[35;tr244].
- Năm 1129 (Kỷ Dậu) Mùa xuân, tháng giêng, ngày thin, vua mở hội khánh
thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp ở gác Thiên Phù. Vua cấp báo khắp các
ngôi chùa trong nƣớc truyền cho tất cả các sƣ sãi phải về kinh dự đại lễ
[35;tr265].
- Năm 1130 (Canh Tuất) Hoàng thƣợng xuống chiếu lệnh cho con gái các
quan và các nhà hào phú trong thiên hạ đến tuổi cũng chƣa đƣợc lấy chồng,
phải chờ đợt tuyển chọn ngƣời vào hậu cung, ai bị loại mới đƣợc tính đến
chuyện hôn thú [35;tr287].
- Năm 1131 (Tân Hợi) Đức Thần Tông đã cho dựng chùa lớn, sửa nhà rộng,
thỉnh đại sƣ Minh Không về ở. Nể tình đức Kim Thƣợng sƣ đến ngụ lại một
hôm rồi đi [35;tr315].
- Năm 1136 (Bính Thìn) Vua Thần Tông lâm bệnh hóa hổ đƣợc sƣ Minh
Không đến cứu chữa[35;tr459-473]
-Năm 1138 (Mậu Ngọ) Tháng ngâu mà trời vẫn không mƣa, khô hạn từ đầu
tháng 5, nay đã 3 tháng ròng. Ruộng vƣờn hết thảy nứt nẻ. Vua Thần Tông
đích thân mặc áo vải, xõa tóc, ăn chay, niệm phật đến vu đàn và chùa Bảo
Thiên làm lễ cầu mƣa [35;tr474]. Giờ tuất, đêm 25 tháng 9, lúc vua con thở
thoi thóp, thều thào đọc cho Từ Văn Thông viết di chiếu…phong cho Hoàng
tử Thiên Tộ làm Minh Đạo Vƣơng, lập Hoàng thái tử Thiên Lộc nối
nghiệp…NHƣng do Từ Văn Thông đƣợc ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật
Phụng và Phụng Thánh cho ăn đút lót, cùng vơi việc cả ba phu nhân đó bám
lấy long sàng, đập đầu lạy: “Bọn thiếp trộm nghe đời xƣa chọn con đích chứ
không chọn con thứ. Thiên Lộc dẫu lớn, đã đƣợc lập làm Hoàng thái tử,
nhƣng chỉ là đứa con ngƣời thiếp yêu của Hoàng thƣơng. Nhƣ vậy, nay mai
Hoàng thƣợng theo các tiên đế về trời thì ngôi báu có đủ đức để uy trùm thiên
hạ? Lại nữa, lúc đó ngƣời mẹ sẽ tiếm quyền thì tính mạng lũ thiếp và đứa trẻ
này biết tránh nơi đâu?”…nên Từ Văn Thông đã đổi di chiếu thành: “Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, nhƣng là con đích thiên hạ đều biết nên cho
nối nghiệp trẫm, còn Thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo Vƣơng”. Di
chiếu lập xong, vua còn đủ sức trông thấy chuyện đánh tráo mà không làm gì
đƣợc[35;tr529-532]. Cuối giờ dần, ngày 26 tháng 9, vua băng hà, hƣởng
dƣơng 23 tuổi[37;tr532]. Ngày mồng một, tháng 10, Thiên Tộ lên ngôi trƣớc
linh cữu. Cùng ngày Thiên Tộ lên ngôi, Lê Thái Hậu thay vua xuống chiếu.
Mẹ của cựu hoàng tử Thiên Lộc, cung nhân Ngạn La cùng với 27 cung nữ
khác lập tức lên giàn thiêu để trọn nghĩa trọn đạo với đấng Tiên vƣơng
[35;tr523-533]
Tiểu thuyết Giàn thiêu tập trung vào khoảng thời gian từ năm 1088 đến
năm 1138 bắt đầu từ chi tiết các cung nữ đi lên giàn thiêu Na Ngạn để chết
theo vua. Mở đầu là lễ hỏa táng của vua Lý Nhân Tông kết thúc là lễ hỏa táng
của vua Lý Thần Tông. Nhìn chung nhà văn không sử dụng mọi chi tiết trong
quốc sử mà chọn lọc và đảo lộn trật tự lịch sử theo mục đích sáng tạo của nhà
văn. Nhờ có những chi tiết hƣ cấu tác giả sáng tạo khiếp cho các nhân vật , sự
kiện cho tác phẩm liên kết liền mạch với nhau, đồng thời đƣa ra những lý giải
về những bí ẩn chƣa đƣợc lý giải của lịch sử. Các sự kiện lịch sử bị bẻ gẫy,
xáo trộn để ngƣời đọc có thể nhìn thấy đƣợc những “khoảng trắng” của lịch
sử, để cho ngƣời đọc có cơ hội nhìn cận cảnh nhân vật. Và những “khoảng
trắng” lịch sử đó sẽ đƣợc tác giả bổ sung bằng những chi tiết hƣ cấu, tƣởng
tƣợng nhằm đƣa ra những thông điệp về cuộc sống.
3.1.3 Thời gian nghệ thuật trong Giàn thiêu
Trƣớc hết có thể khẳng định đƣợc rằng thời gian trong Giàn thiêu không
phải là thời gian tuyến tính đơn giản mà là một kiểu thời gian đứt đoạn rất khó
nắm bắt. Theo Nguyễn Thị Tuyết Minh đây là kiểu thời gian theo kiểu lắp
ghép, đồng hiện. Kiểu thời gian này là kiểu thời gian đặc biệt đậm chất hiện
đại theo ngôn ngữ của điện ảnh. Sử dụng kiểu thời gian này đƣợc coi là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cách tân nổi bật của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại.
Việc đặt các hiện tƣợng cách xa nhau gần nhau sẽ tạo ra nhiều câu hỏi gợi
mở, đặt ra nhiều vấn đề mới, đồng thời khiến hiện thực đời sống không hiện
ra đơn giản, bằng phẳng mà hỗn độn, đa tầng. Việc dùng kết cấu lắp ghép này
khiến cho “mở rộng đƣờng biên thể loại, làm cho tiểu thuyết có thể dung nạp
đƣợc nhiều gốc độ tiếp cận đời sống và có khả năng ôm chứa trong nó nhiều
thể loại khác nhau”. Chƣa dừng lại ở đó “Việc xây dựng kết cấu đồng hiện sẽ
xóa bỏ đƣợc sự ngăn cách của các thời đại quá khứ - hiện tại – tƣơng
lại”[75;tr172]. Kết cấu của tác phẩm là sự chắp nối những mảnh rời rạc của
hiện thực. Kết cấu của tác phẩm là sự vận động của dòng ý thức, là tiếng nói
của tiềm thức thể hiện sự vận động không ngừng của hiện tại. Kết cấu này
khiến cốt truyện lỏng lẻo mơ, hồ, co giãn, khó kể lại.
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo là sự đảo lộn thời gian vô cùng hấp dẫn và
thông minh của tác giả. Hoàn toàn không có sự ăn khớp giữa thứ tự thời gian
với diễn biến sự kiện cuộc đời nhân vật. Câu chuyện nhƣ không có kết thúc,
phần cuối của chuyện lại là lúc bắt đầu nối tiếp câu chuyện. Tác phẩm gồm 4
phần : Lời Phật, Ru cá Bơn, Bài ca đầu lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ. Nếu
theo trật tự thời gian lịch sử thì câu chuyện phải đƣợc bắt đầu từ tuổi trẻ của
Từ Lộ, đến lúc tu hành thành Từ Đạo Hạnh rồi, đầu thai làm Dƣơng Hoán và
trở thành Lý Thần Tông. Nhƣng trong Giàn thiêu không theo trình tự thời
gian nhƣ thế.
Ngay ở chƣơng đầu, Lý Thần Tông đã xuất hiện ở giàn thiêu với tƣ cách là
tân vƣơng. Ngài “không khỏi ngạc nhiên khi chợt nhận ra mình bỗng già dặn
nhƣ một ngƣời đàn ông từng trải, lúc lại chỉ là một đứa trẻ non nớt, thích
những trò nghịch ngợm”[35;tr43]. Tác giả đã động chạm ngay những bí ẩn
con ngƣời Thần Tông với những suy nghĩ ý thức và vô thức, mơ và thực giữa
hai kiếp ngƣời. Cách viết này đã dẫn dắt ngƣời đọc bị hút vào trò chơi của kết
cấu truyện, khiến ngƣời đọc có cơ hội đi sâu vào những chuyển động tâm hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sâu thẳm của nhân vật.
Tiếp đến tác giả tập trung nói về nhân vật Từ Lộ - kiếp trƣớc của Thần
Tông. Tuy so với thời điểm hiện tại thì đấy là câu chuyện của quá khứ nhƣng
tác giả không tái hiện nó dƣới dạng hồi ức, quá khứ mà lại tái hiện đồng hiện
song hành với hiện tại. Vì vậy mà “quá khứ mang hình thức của hiện tại, trở
thành một hiện thực thứ hai”[75;tr173]. Việc này đặt nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo
Hạnh – Lý Thần Tông phải đối mặt với câu hỏi về hạnh phúc cuộc đời mà cả
hai kiếp nhân vật đều khao khát tìm kiếm. Từ đó ngƣời đọc cũng đƣợc lý giải
về cuộc đời của những nhân vật lịch sử này với những dục vọng cá nhân đời
thƣờng, tạo ấn tƣợng về tính cách nhân vật một cách rõ nét. Dù có là hiện tại
hay quá khứ thì Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông vẫn là con ngƣời lƣu
luyến trần thế, luôn phải sống trong sự đấu tranh giằng xé giữa lý tƣởng với
dục vọng bản thân khao khát.
Những phần tiếp theo “ mới có sự phân vai giữa quá khứ và hiện tại, rồi
lại dần dần nhập hai làm một, ngƣời này là duyên nghiệp của ngƣời
kia”[75;tr173]. Nhƣng đến đó vẫn không phải là thời gian tuyến tính mà sự
kiện trong cuộc đời nhân vật vẫn vừa tách bạch vừa tồn tại song hành khiến
bi kịch về hai kiếp sống của Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Thần Tông càng hiện
lên bất hạnh, cay đắng. Sự đứt gãy, lắp ghép, đồng hiện thời gian trong Giàn
thiêu còn tạo ra sự đan lồng của không gian tâm lý, không gian thực tại, quá
khứ, không gian cõi âm, tạo ra sự huyền ảo, đa tầng đậm nét. Ngoài ra việc
mở đầu các phần của tác phẩm bằng các đoạn thơ khiến cho ngƣời đọc nhƣ
đƣợc dẫn dắt vào thế giới của cổ tích, của đồng dao nhƣng lại mang hơi thở
của thời đại.
Tóm lại, việc tiếp cận tác phẩm tiểu thuyết lịch sử dƣới góc nhìn của điện
ảnh hiện đại là một sáng tạo rất thành công của nhà văn. Nó khiến tác phẩm
chân thực hơn nhƣng cũng mơ hồ đa nghĩa hơn. Càng đa nghĩa thì càng kích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thích ngƣời đọc phải tìm hiểu, phải có câu trả lời. Với cách kể chuyện theo kết
cấu thời gian này Võ Thị Hảo đã khiến thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại lại
có thêm một thành công mới.
3.2 Các yếu tố huyễn hoặc, hoang đƣờng trong Giàn thiêu
Giàn thiêu là một tiểu thuyết lịch sử với nhiều lớp trầm tích : Lịch sử, tôn
giáo, huyền thoại..[68]. Viết về một giai đoạn lịch sử của đất nƣớc với những
biến cố lịch sử và những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm con ngƣời, Võ Thị
Hảo đã khiến ngƣời đọc cảm thấy câu chuyện không chỉ có những chi tiết lịch
sử xơ cứng, những mâu thuẫn gay gắt, những bài học đạo lý đƣợc phát biểu
mà ngƣợc lại Giàn thiêu lại nhẹ nhàng hấp dẫn ngƣời đọc bằng không khí cổ
tích, liêu trai, kỳ ảo. Đành rằng bản thân nhân vật Từ Đạo Hanh – Lý Thần
Tông đã gắn với những truyền thuyết, những bí ẩn đủ để tạo ra đƣợc không
gian cổ tích trong truyện. Nhƣng không chỉ có thế, các yếu tố huyễn hoặc,
hoang đƣờng đƣợc tác giả sử dụng rất hợp lý và đậm đặc.
Những yếu tố huyễn hoặc, hoang đƣờng trong truyện ta có thể hiểu đó là
những chi tiết không có thật, không thể xảy ra trong cuộc sống bình thƣờng.
Trong Giàn thiêu những yếu tố này cũng đƣợc gọi bằng cái tên khác là những
yếu tố kì ảo – nhằm thể hiện không khí truyền thuyết, mơ hồ của tác phẩm.
Yếu tố hoang đƣờng, kì ảo đầu tiên có thể nói đến là tình huống xác chết
của Từ Vinh trôi ngƣợc sông rồi đứng dậy,chỉ tay thẳng vào nhà Diên Thành
Hầu. Đây là chi tiết kinh dị, dữ dội, đáng sợ nhằm thể hiện nỗi oan khuất của
Từ Vinh trƣớc sự hãm hại bẩn thỉu của Diên Thành Hầu và pháp sƣ Đại Điên.
Từ cái chết đƣợc dùng yếu tố kì ảo làm sinh động hóa này khiến ngƣời đọc
hiểu ra bộ mặt thực sự của kẻ nắm quyền nghiêng ngửa thiên hạ -Diên Thành
Hầu, và kẻ tu hành nhƣng lại vì lợi ích của mình mà đi hãm hại ngƣời khác –
pháp sƣ Đại Điên. Sau cái chết dữ dội của một con ngƣời ngay thẳng này là
sự tan vỡ của một gia đình yên ấm, sự thay đổi hoàn toàn số phận của một
con ngƣời. Lời cha dặn Từ Lộ trong mơ là hãy báo thù cho mình cũng là chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tiết kì ảo làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Từ Lộ. Khi nói đến cái chết của
Tử Vinh bằng câu chuyện kì ảo dữ dội này tác giả đã cùng với chất liệu truyền
thuyết trong dân gian và sự sáng tạo của mình tạo nên một thông điệp: dù
bằng cách nào đi nữa, cái ác cũng sẽ bị vạch trần.
Chi tiết kì ảo thứ hai trong tác phẩm cũng đã đƣợc lƣu truyền trong
Thiền uyển tập anh và dân gian đó là chi tiết nhà vua hóa hổ. Vì luôn giằng xé
giữa ham muốn thực tại với lý tƣởng cuộc sống không thể tìm đƣợc ở cả hai
kiếp ngƣời. Nhà vua lâm bệnh nặng. Chỉ sau một đêm khắp ngƣời ngài đã
mọc đầy lông lá, trở thành hổ dữ đau đớn, lồng lộn nhƣ muốn ăn tƣơi nuốt
sống ngƣời khác. Đây là chi tiết nhằm khắc họa cái giá phải trả của nhà vua
khi quá tham vọng, quá thúc giục đáp ứng dục vọng của mình. Với tình huống
này, Võ Thị Hảo đã cho thấy bi kịch của con ngƣời không biết hài lòng với
những gì mình đã có, vì vậy dù đã đầu thai và sống hai kiếp ngƣời nhƣng vẫn
chỉ là những chuỗi bi kịch không có lấy một ngày hạnh phúc. Con ngƣời càng
chìm trong dục vọng, để những dục vọng đen tối chi phối thì sớm muộn sẽ
phải chịu hậu quả.
Tình huống kì ảo khác đƣợc tác giả dụng công xây dựng là cảnh nơi giàn
thiêu – hình ảnh trung tâm, đa nghĩa của tác phẩm. Không khí ảm đạm, chết
chóc, ghê rợn nơi giàn thiêu, cái chết đậm chất kì ảo của Ngạn La đều khiến
ngƣời đọc cảm thấy đau đớn, nhức nhối đến bỏng rát, tạo ra nhiều câu hỏi về
số phận ngƣời phụ nữ.
Các tình huống này đều có “sự đan cài của yếu tố thực - ảo”[48;tr76]. Sự đan
cài này khiến cho ngƣời đọc mơ hồ nhận thức giữa thực và ảo tạo sức hấp dẫn
cho truyện. Những chi tiết kì ảo này đều có tác dụng liên kết câu chuyện, thúc
đẩy diễn biến chuyện.
Tình huống kì ảo tiếp theo có tác dụng quan trọng trong việc khắc họa nhân
vật lịch sử Ỷ Lan là cuộc đối thoại giữa hồn ma của Ỷ Lan và Dƣơng Thái
hậu. Cuộc đối thoại của hai hồn ma đầy quyền lực diễn ra trong lãnh cung đổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nát với những đàn chuột đói to. Cuộc đối chất này khiến ta thêm hiểu về số
phận “bị chọn” của những nhân vật lịch sử. Dù trong thực tế, Ỷ Lan đã làm
nhiều việc thiện sau đó mong thoát tội nhƣng bà luôn day dứt và bị chịu hành
hạ bởi chính việc làm tội lỗi của mình. Bà thực sự đã phải chịu “quả báo” về
những việc mình đã làm.
Tình huống kì ảo do tác giả sáng tạo ra dựa trên những thông tin ít ỏi của
lịch sử nhƣng lại mang nhiều ý nghĩa. Đó là cuộc trả thù của Từ Lộ với Đại
Điên. Sau bao công sức gian khổ, vứt bỏ tất cả để trả thù thì một lần nữa cuộc
đời Từ Lộ lại lâm vào một bi kịch khác – bi kịch không tìm đƣợc lẽ sống của
cuộc đời. Kẻ thù Diên Thành Hầu năm xƣa đã hóa điên, con pháp sƣ Đại Điên
thì đón cái chết trừng phạt một cách nhẹ nhàng, thanh thản. Dƣờng nhƣ tác
giả muốn nói đến một điều: Đại Điên đã dám nhìn vào sự thật và chấp nhận
mọi sự trừng phạt nên hắn chết trong sự bình thản, còn Từ vì có lòng thù hận
quá lớn lấn át cả lý trí nên lâm vào tình trạng hụt hẫng bất ngờ, dẫn đến cảm
giác ghen tỵ với cái chết của Đại Điên.
Chi tiết kì ảo gây ấn tƣợng cảm động sâu sắc trong lòng ngƣời đọc là cái
chết của Dã Nhân. Vì cứu Từ, Dã Nhân đã ăn thử quả độc trƣớc. Cái chết đau
đớn và biến dạng của Dã Nhân sau khi chết khiến ngƣời đọc không khỏi cảm
thƣơng, xúc động. Chi tiết kì ảo này là lời ngợi ca và thƣơng xót những trái
tim nhân hậu của tác giả. Một lần nữa tác giả khẳng định, đừng để lòng thù
hận giết hại tâm hồn, sự sống con ngƣời.
Chi tiết đàn chuột đói, to gặm nhấm ăn thịt các cung nữ, Ỷ Lan,Dƣơng
Thái hậu…mang ý nghĩa biểu tƣợng sâu sắc “ lòng hận thù không chỉ là công
cụ báo oán mà còn là kẻ thù của chúng ta”[48;tr78]
Nhƣ vậy, việc dùng yếu tố huyễn hoặc, kì ảo trong Giàn thiêu là công cụ
không thể thiếu đƣợc của tác giả để hoàn thiện nhân vật của mình trong không
gian quá khứ. Điều kì lạ là những yếu tố huyễn hoặc này không khiến tác
phẩm trở nên rối rắm, xa lạ mơ hồ mà ngƣợc lại nó chuyển tải đƣợc ý đồ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhà văn một cách hấp dẫn nhất.
3.3 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu
3.3.1 Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện
Viết tiểu thuyết lịch sử nghĩa là phải chọn ngôn ngữ hợp lý để làm sống lại
không khí lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chân thật nhất để ngƣời đọc
không cảm thấy đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử khiên cƣỡng vụng về.
Chọn ngôn ngữ viết làm sao để phát huy hết đƣợc khả năng sáng tạo và dụng
ý nghệ thuật của mình là điều không dễ dàng với các nhà văn khi tiếp cận thể
loại này. Nhiều tác giả đã chú ý viết bằng “ngôn ngữ thuần Việt, gần gũi, dễ
hiểu với muôn màu sắc của đời thƣờng, hay ngôn ngữ tràn đầy sức sống của
dân gian”[68]. Tƣớc bỏ bớt hệ thống ngôn ngữ mang tính trang trọng, giảm
thiểu số từ Hán Việt nhƣ trong một số tác phẩm gần đây : Hồ Quý Ly (Nguyễn
Xuân Khánh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải)…ngoài ra là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ lịch sử và ngôn ngữ tiểu thuyết, kết hợp các yếu
tố lịch sử, văn hóa, tôn giáo trong một hệ thống ngôn ngữ thống nhất, hay dấu
ấn ngôn ngữ của nhà Phật, Nho học…Ngôn ngữ của Giàn thiêu chính là một
tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn của tất cả các yếu tố đó. Võ Thị hảo
cũng đã sử dụng triệt để ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, cung cấp thông tin lịch
sử bằng việc đƣa thời gian trƣớc sự kiện theo các cứ liệu lịch sử khiến ngƣời
đọc vừa dễ đọc, dế tiếp cận, dễ hiểu.
Giàn thiêu đã sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ cổ xƣa tạo ra đƣợc không
khí lịch sử cổ kính. Những ngôn ngữ biểu hiện về thời đại phong kiến đƣợc
tác giả sử dụng qua ngôn ngữ đối thoại nhƣ cách xƣng hô: Bệ hạ – thần,
Hoàng thƣợng – hạ thần,tội thần, ta – ngƣơi, chàng – thiếp (nàng)…
Qua đoạn Lê Thị Đoan xin tha tội cho Ngạn La nhân vật đã nói năng hành
xử đúng vị trí của một kẻ bề tôi khi đối diện với đức minh quân, dù khi đó
vua mới mƣời hai tuổi: “Xin bệ hạ cho tiện dân đƣợc thƣa một lời”[35;tr46].
Hay đoạn Lý Trác dỗ dành vua: “Tâu bệ hạ, bệ hạ nối nghiệp tiên vƣơng, cai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trị giang sơn xã tắc, thiên hạ này là trong tay bệ hạ”[35;tr28]. Hay những câu
tung hô, chào hô của thần dân khi gặp bề trên ta cũng thấy đƣợc sự kính cẩn,
phục tùng của họ: “Thái hậu vạn vạn tuế! Hoàng thƣợng vạn vạn tuế!”. Khi
thần dân muốn tấu trình thì luôn là những câu “Tâu thái hậu!Tâu hoàng
thƣợng…Khi đƣợc gọi tới sẽ: dạ, bẩm..đó là lớp ngôn ngữ cổ kính mang tính
trang trọng, kính cẩn phù hợp với lễ giáo phong kiến.
Ngoài ra tên các nhân vật cũng gắn liền với ngôi vị, chức tƣớc cũng đƣợc
tác giả dùng rất tốt tạo không khí lịch sử sống động nhƣ: Tiên Hoàng Nhân
Tông, Dƣơng Hoàng thái hậu, Nguyên Phi Ỷ Lan, Quan Thái bảo Lý Trác,
Tăng Đô án Từ Vinh…Nhân vật luôn gắn với vai trò, chức danh lịch sử mà họ
đảm nhận khiến tác phẩm tái hiện đƣợc không khí lịch sử với độ tin cậy về
mặt cứ liệu lịch sử.
Ngoài ra việc sử dụng các yếu tố Hán Việt gắn với thời điểm lịch sử đó nhƣ
: Tiếng chuông báo giờ tuất, đêm Nguyên tiêu, năm Hội Phong thứ bẩy…
Đó hoàn toàn là ngôn ngữ cổ xƣa mang sắc thái cổ kính, trang trọng nhƣng
tác giả sử dụng phù hợp khiến ta cảm thấy không khí lịch sử đƣợc tái hiện
nhƣng không tạo cảm giác tối nghĩa, khó hiểu, rắc rối.
Giàn thiêu còn mang ngôn ngữ của đời sống gần gũi, giản dị. Việc sử dụng
ngôn ngữ của tác giả đƣợc chú trọng, trau chuốt, giàu hình ảnh, cảm xúc , gần
với lời ăn tiếng nói của con ngƣời hiện tại. Việc đƣa ngôn ngữ đời sống vào
tác phẩm của mình Võ Thị Hảo thành công khi ghi dấu ấn giọng văn của mình
trên văn đàn. Chọn ngôn ngữ nhƣ vậy, Võ Thị Hảo đã xóa bỏ đƣợc khoảng
cách giữa ngƣời kể và đối tƣợng trần thuật. Việc đƣa ngôn ngữ đời sống vào
tác phẩm khiến cho tác phẩm bình dị, gần gũi hơn nhƣng mang hơi thở của
thời đại, đằng sau những câu chữ khiến ngƣời ngƣời đọc phải suy ngẫm.
Trong một xã hội lễ giáo đặt lên hàng đầu nhƣng tác giả lại dùng nhiều
những từ xƣng hô rất hiện đại, gần gũi với cuộc sống nhƣ : Mẹ (Mẫu thân), cô
(nàng) , anh (chàng), nó (hắn)… Nhƣ khi lúc Ngạn La cố gắng thoát khỏi giàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thiêu trƣớc mặt vua và quần thần: “mẹ ơi! Ngƣời ta giết con. Mau cứu con!
mẹ ơi!..”[35;tr42] . Ngay trong chính tiểu thuyết lịch sử cùng thời ta rất ít khi
gặp lối xƣng hô sau đây : “Vua nghe nói cả cƣời mà rằng : cái thằng phụ quốc
này mới thật thà làm sao”[35;tr87]. Ngay cả cách xƣng hô của đôi lứa yêu
nhau cũng khác với cách xƣng hô của thời đại phong kiến mà rất hiện đại : Từ
Lộ! Em là vợ chàng…[35;tr213]. Hay cách tiểu thƣ Nhuệ Anh khi nói với
Chàng cá Bơn bằng ngôn ngữ xa lạ với thời đó nhƣng lại rất gần gũi với bạn
đọc ngày nay: “Sao anh không để tôi chết đi…? Tôi muốn chết! Tôi phải chết
! Anh là ai mà dám cản?[35;tr324]. Bằng cách xƣng hô gần gũi này tác giả đã
khiến cho câu chuyện lịch sử xa vời nhƣng vẫn mang hơi thở của thời đại
ngƣời đọc đang sống. Giúp ngƣời đọc cảm thấy thân mật, gần gũi với nhân
vật hơn.
Việc sử dụng ngôn ngữ đời sống giúp Võ Thị Hảo dễ dàng đƣa những
thông điệp cuộc sống về hiện thực cuộc sống một cách dễ dàng nhất. Bằng
cách viết này tác giả cũng thể hiện đƣợc thái độ với sự việc, nhân vật một
cách cụ thể.
Một sáng tạo nữa về ngôn ngữ của tác giả là đƣa những câu thành ngữ, tục
ngữ, những bài đồng dao…quen thuộc trong cuộc sống vào tác phẩm của
mình rất nhẹ nhàng, tự nhiên. Nhƣ đoạn văn miêu tả cảnh hai anh em bán tơ
lụa mà Từ Lộ nghe đƣợc mang đậm ngôn ngữ đời sống: “chú mày chỉ giỏi đòi
ăn. Ngày hôm qua mới chén một bữa thịt chó no nê ở quán Đốc chƣa đủ nở
ruột hay sao? Buôn bán nhƣ chú bóc ngắn cắn dài, đƣợc một ăn mƣời. Cai
ngữ chú bao giờ dựng đƣợc nhà, cƣới đƣợc vợ?[35;tr403]. Hay cuộc đối thoại
của vợ chồng nhà chủ quán cũng mang đậm ngôn ngữ đời sống.
Đặc biệt trong tác phẩm còn có rất nhiều bài đồng dao lời lẽ mộc mạc nhƣng
gần gũi với tất cả mọi ngƣời qua lời hát của cung nữ Ngạn La. Vào cung đã
hơn mƣời năm nhƣng những lễ giáo phong kiến không thắng nổi những lời ru
mộc mạc mà nàng đƣợc nghe những lúc nhỏ và giờ nàng đang dùng nó để dùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nó để hát cho vua nghe khi vua bệnh nặng không ai dám đến gần:
“Thả đỉa va va
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông”
..[35;tr264]
Những bài đồng giao mộc mạc ấy có sức sống mãnh liệt, có thể đƣa con
ngƣời về với tuổi thơ, sống những ngày bình yên. Những câu hát ấy tuy bị các
vị quan triều đình cho là nhảm nhí mà quên rằng chính họ cũng đƣợc nuôi
dƣỡng, lớn lên từ những câu hát ấy. Những câu đồng giao đã thể hiện sức
sống nội tại vô cùng lớn của nó trong lòng ngƣời Việt.
Bằng cách đƣa ngôn ngữ đời sống gắn với hơi thở hiện tại, ngôn ngữ của
tục ngữ đồng dao, Võ Thị Hảo đã tạo ra đƣợc ngôn ngữ trần thuật gần gũi, thể
hiện đƣợc ý đồ nghệ thuật của mình.
Ngoài hai kiểu ngôn ngữ trên, trong tác phẩm còn có sự kết hợp của các
kiểu ngôn ngữ khác nhau trong tác phẩm nhƣ ngôn ngữ của đạo Phật, đạo
Nho, ngôn ngữ của Đạo giáo…
Dù bằng kiểu biểu hiện ngôn ngữ nào thì tác giả cũng đã thành công khi tạo
ra sự gần gũi và đa nghĩa của tác phẩm. Tác phẩm vẫn tái hiện đƣợc không
khí cổ kính của lịch sử mà vẫn giản dị, gần gũi, thể hiện đƣợc thông điệp của
tác giả về cuộc sống.
3.3.2 Ngôn ngữ nhân vật trong Giàn thiêu
Ngôn ngữ của nhân vật cũng là một phƣơng tiện để bộc lộ phẩm chất của
nhân vật, gửi gắm dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nhân vật trong Giàn thiêu
cũng sử dụng ngôn ngữ cổ xƣa trang trọng, cổ kính, ngôn ngữ đời sống giản
dị, suồng sã, ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo. Điểm đáng chú ý mà ta có thể
dễ dàng nhận ra về ngôn ngữ của nhân vật nữ trong Giàn thiêu là “những
nhân vật nữ trong Giàn thiêu sử dụng những câu hát”[46;tr60].
Những lời đồng giao mộc mạc mà Ngạn La hát nhƣ là những liều thuốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thần kì giúp nhà vua đỡ đau đớn khi lâm bệnh.
“Không quần không thần
Ta làm nhà giữa đám mây trôi
Hoa sen làm thuyền, cuống sen làm chèo
Thủy nữ Dâm Đàm bơi theo”
[35;tr488]
Hay ngôn ngữ của nhân vật Nhuệ Anh cũng đƣợc bộc lộ qua những câu hát
hóa thành những hạt mƣa để cứu chúng sinh. Những câu hát mang theo tình
yêu thƣơng, tâm hồn vị tha và cao cả của nàng Nhuệ Anh đã giúp thanh tẩy
mọi điều xấu xa của cõi trần. Ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rất rõ bản chất,
tính cách của nhân vật. Với nhân vật Ngạn La, qua những lời hát đồng dao
hay những lời của nàng khi lên giàn thiêu cho thấy hình ảnh một cô gái trong
sáng, thơ ngây, mộc mạc. Với nhân vật Nhuệ Anh, những lời hát của nàng,
những lời với Từ Lộ cho ta thấy nàng là một ngƣời thủy chung, nhân hậu, vị
tha. Nhân vật nữ khác là Lê Thị Đoan lại khiến ngƣời đọc nhớ đến với ngôn
ngữ mang màu sắc Nho giáo, khoa cử. Tuy nhiên nó vẫn toát lên khí phách
anh hùng, dũng cảm, thẳng thắn trong con ngƣời nàng. Qua ngôn ngữ của
nhân vật ta cũng sẽ nhận ra thái độ của tác giả dành cho nhân vật.
Còn đối với nhân vật nam, tác giả cũng có cách dùng ngôn ngữ riêng để thể
hiện sự phê phán chế độ nam quyền, vƣơng quyền trong xã hội. Điển hình là
qua nhân vật Lý Trác.Ta nhận thấy y sử dụng nhiều lần những lời chửi “đây là
nhân vật chửi nhiều nhất trong tác phẩm”[46;tr64]. Qua những ngôn ngữ của
nhân vật đƣợc tác giả khắc họa khiến ta nhận thấy bộ mặt tàn độc, vô ơn, đại
diện cho chế độ nam quyền của y. Ngôn ngữ của Thần Tông thì càng làm rõ
sự mâu thuẫn nội tại trong nhân vật, khó xác định nhân vật thiện – ác một
cách rành mạch. Ngoài ra tác giả Nguyễn Thị Hoa cũng đã nhận định hiện
tƣợng “nữ giới sử dụng phong cách nói năng gần nhƣ nam giới (Ỷ Lan. Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thái Hậu) đây là xu hƣớng sử dụng ngôn ngữ hiện nay” [46;tr65].
Nhƣ vậy việc tìm hiểu ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong tác phẩm qua ngôn
ngữ của ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật sẽ là cách để ta thấy đƣợc
thái độ của tác giả đối với nhân vật,hiểu sâu sắc hơn thông điệp mà tác giả gửi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
gắm trong tác phẩm.
KẾT LUẬN
Với đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo (Qua tiểu thuyết Giàn
thiêu) chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định vai trò, vị trí, sự
thành công của Võ Thị Hảo vào việc cách tân, đổi mới cách viết tiểu thuyết
lịch sử sau thời kì Đổi mới.
Giàn thiêu xứng đáng là một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử dành giải của Hội
Nhà văn Hà Nội bởi nó thực sự hấp dẫn, gây ấn tƣợng mạnh mẽ cho ngƣời
đọc. Bằng giọng văn lôi cuốn và tài năng sáng tạo, Võ Thị Hảo đã làm sống
lại cả một thời kì lịch sử còn nhiều bí ẩn, với nhiều truyền thuyết, huyền tích
lịch sử. Để có đƣợc thành công này, không thể không thể không khẳng định
về sự hiểu biết lịch sử đáng khâm phục, trí tƣởng tƣợng phong phú, tài năng
biểu đạt xây dựng nhân vật lịch sử, nhân vật hƣ cấu thông qua các dữ liệu lịch
sử, qua hành động, tâm lý, ngôn ngữ của nhân vật.
Việc xử lý chất liệu lịch sử không theo lối biên niên, Võ Thị Hảo đã mạnh
dạn dùng nhiều cách tiếp cận, xử lý chất liệu lịch sử nhƣ dùng cách cắt, ghép,
đồng hiện thời gian trong điện ảnh để giúp ngƣời đọc có đƣợc cái nhìn mới
mẻ về một câu chuyện lịch sử quen thuộc. Nhƣng không chỉ dừng lại ở việc
làm cho câu chuyện quen thuộc đƣợc kể theo cách mới mà cách kể chuyện
của Võ Thị Hảo lại khiến ngƣời đọc liên tƣởng phải tìm ra đƣợc thông điệp
sâu sắc đằng sau mỗi một chi tiết lịch sử quen thuộc, phải liên tƣởng đến cuộc
sống phức tạp hiện tại.
Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc biệt này, Võ Thị Hảo đã khiến Giàn
thiêu trở thành cuốn tiểu thuyết độc đáo, mới mẻ, gây ấn tƣợng và hấp dẫn
ngƣời đọc.
Ngoài ra cách kết hợp sự kiện lịch sử với những chi tiết hoang đƣờng kì ảo
đã giúp tác giả không chỉ lấp đƣợc những “khoảng trắng” của lịch sử mà còn
giúp tác giả lý giải, đối thoại với quá khứ, đặt ra những câu hỏi không bao giờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cũ đối với cuộc sống con ngƣời.
Cách viết tạo bạo và cách nhìn mới mẻ về những nhân vật lịch sử của Võ
Thị Hảo khiến ta có cái nhìn đa chiều hơn về những nhân vật vốn đƣợc xem là
bất biến. Cách nhìn mới này của Võ Thị Hảo đã góp phần vào việc nhìn nhận
con ngƣời cá nhân với đúng bản chất chân thực nhất của nó, đồng thời khẳng
định tên tuổi của chị - một nhà văn nữ đã “dám” và thành công trên lãnh địa
của thể loại tiểu thuyết lịch sử - một thể loại mà đa số các nhà văn nữ đều
ngoảnh mặt làm ngơ. Cách tiếp cận và khai thác đề tài lịch sử của chị đã đóng
góp vào sự thành công của tiểu thuyết lịch sử trong thời kì Đổi mới.
Giàn thiêu là cuốn tiểu thuyết gây đƣợc cảm tình, ấn tƣợng sâu sắc cho
ngƣời đọc. Qua những sự kiện lịch sử, truyến thuyết, huyền tích không dứt
trong tác phẩm, cả một giai đoạn lịch sử triều Lý với bao ngổn ngang, mâu
thuẫn nội tại đƣợc hiện lên cụ thể, chân thực. Không chỉ vậy, số phận con
ngƣời trong giai đoạn lịch sử đó cũng đƣợc tái hiện nhƣng mang góc nhìn của
thời đại mới, góc nhìn đa diện, công bằng. Do vậy mà nhân vật lịch sử cũng
nhƣ nhân vật hƣ cấu không xa lạ với cuộc sống. Mà ngƣợc lại, nhân vật lịch
sử từ thời gian xa xƣa lại đang gửi đến ngƣời đọc thông điệp của cuộc sống
hiện tại – cuộc sống bao giờ cũng là những phức tạp, những mâu thuẫn riêng.
Con ngƣời cũng vậy, dù ở thời nào cũng có những góc khuất trong tâm hồn
không dễ dàng bộc lộ. Vì vậy để khám phá đƣợc những rung động tinh tế nhất
của tâm hồn con ngƣời đòi hỏi nhà văn phải có đƣợc cái nhìn đúng đắn, toàn
diện, nhạy cảm. Võ Thị Hảo đã làm đƣợc điều đó. Bằng những trang viết
trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã thuyết phục đƣợc ngƣời đọc. Mặc dù Giàn
thiêu chƣa phải là tác phẩm toàn bích, bản thân nó còn có một số hạn chế nhƣ
yếu tố kì ảo quá tay ở một số chi tiết, hay phần ngôn ngữ hiện đại đan xen
trong tác phẩm xuất hiện quá nhiều trong một trang…nhƣng Giàn thiêu vẫn là
một tác phẩm hay, thành công cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy cách tân
đổi mới tiểu thuyết lịch sử theo dòng chung của văn học thời kì Đổi mới
nhƣng với một giọng văn nữ tính rất riêng Võ Thị Hảo đã thành công và ghi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đƣợc dấu ấn của mình qua thể loại văn học này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc Anh, “Đã đến lúc ngƣời đàn bà nổi loạn”, Báo nông thôn ngày nay,
10/7/2003.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2005), “Tiểu thuyết và lịch sử”, htt://vietbao.vn
4. Lại Nguyên Ân , “Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động lịch sử”,
Tạp chí văn học số 4 ,1981.
5. Lại Nguyên Ân (2000), “Hồ Quý Ly”, Nhà văn (số 6).
6. M.Bakhtin (1992), Lý Luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cƣ tuyển
chọn, dịch và giới thiệu, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
7. Anh Chi, “Hiện tƣợng văn chƣơng Hồ Anh Thái”, Nghiên cứu văn học số
8-2009.
8. Diễn Chi (2005), “Tôi là ngƣời nô lệ cho gia đình” (Phỏng vấn nhà văn Võ
Thị Hảo), Phụ nữ chủ nhật.
9. Nguyễn Diệu Cầm (2004), “Tiểu thuyết lịch sử đang hấp dẫn trở lại”,
http://www.laodong.com/vn.
10. Phạm Vĩnh Cƣ (2009), Cái đƣơng thời và cái lịch sự trong sáng tác của
Gogol, Nghiên cứu văn học số 5 -2009.
11. Trần Cƣ (2000), “Đến với Nguyễn Trãi qua Vằng vặc sao Khuê”, Văn
nghệ (4).
12. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
13. Nam Dao – Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”,
htt://vietbay.com.
14. Trƣơng Đăng Dung (1994), “Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của
Lucacs”, Tạp chí văn học, (5).
15. Trƣơng Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
học Xã hội, Hà Nội.
16. Trƣơng Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội
17. Đoàn Ánh Dƣơng, “Lối viết tiểu thuyết Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập”, Nghiên cứu văn học số 7-2009.
18. Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết lịch sử”, Nhà văn, (1).
19. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Minh Đức (2005), “ Tôi không định mê hoặc…” (Phỏng vấn nhà văn Võ
Thị Hảo), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, HàNội.
22. Trung Trung Đỉnh (2004), “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu
thuyết lịch sử nƣớc nhà”, Văn nghệ quân đội (10).
23. Đại Việt sử ký toàn thư, tập2 (1985), Nxb Khoa Học, Xã Hội.
24. Lƣu Hà (32/10/2007), “Tôi có văn chƣơng để ấn náu” ( Phỏng vấn nhà văn
Võ Thị Hảo), http://www.evav.com.vn.
25. Ngân Hà (2009), “Tiểu thuyết lịch sử ăn theo sự kiện lịch sử”,
Http://vannghequandoi.com.
26. Minh Hà(2005) “Tôi vốn là ngƣời đàn bà thích đƣợc che chở” (Phỏng vấn
nhà văn Võ Thị Hảo), Hồn trinh nữ, nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
27. Thu Hà (phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo) (6/11/2004) “Tôi biết mình
không đƣợc phép quay đầu”, http://www.evan.com.vn.
28. Hoàng Quốc Hải “Tiểu thuyết lịch sử là hƣ cấu đến độ chân thực”, Nguyễn
Thị Minh Thái thực hiện, http://www.qdndvn.vn
29. Hoàng Quốc Hải (2005) “Đừng trách lịch sử”,http://www.vnxpress.vn
30. Hoàng Quốc Hải (2006) Bão táp cung đình, nxb Phụ nữ, Hà Nội
31. Hoàng Quốc Hải (2006) Thăng Long nổi giận, nxb Phụ nữ, Hà Nội
32. Hoàng Quốc Hải (2006) Huyền Trân công chúa, nxb Phụ nữ, Hà Nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
33. Hoàng Quốc Hải (2006) Vương triều sụp đổ, nxb Phụ nữ, Hà Nội
34. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)(2001), Từ
điển thuật ngữ văn học, nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
35. Võ Thị Hảo (2003) Giàn thiêu, nxb Phụ nữ, Hà Nội
36. Võ Thị Hảo (2005) Hồn trinh nữ, nxb Phụ nữ, Hà Nội
37. Võ Thị Hảo (2006) Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, nxb Phụ nữ,
Hà Nội
38. Võ Thị Hảo (2005) Người sót lại của rừng cười, nxb Phụ nữ, Hà Nội
39. Võ Thị Hảo (2005) Góa phụ đen, nxb Phụ nữ, Hà Nội
40. Võ Thị Hảo “Tôi lạc quan về tiểu thuyết Việt Nam”, Thụ Nhân thực hiện,
http://www.vnn.vn
41. Võ Thị Hảo “Đôi khi viết văn nhƣ cầu nguyện”,http://www.vnn.vn
42. Võ Thị Hảo “Mỗi ngày một chƣơng tiểu thuyết”, http://www.vietbao.vn
43. Võ Thị Hảo (2005) Kịch bản phim truyện, nxb Hội nhà văn,Hà Nội
44. Nguyễn Thị Hằng (2009), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Võ Thị Hảo, Tạp
chí khoa học, tập XVIII, số 2b, ĐH Vinh
45. Nguyễn Thị Hoa (2003), Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả nữ: Y
Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn ĐHSP
Hà Nội
46. Nguyễn Thị Hoa (2010) Ngôn ngữ nhân vật nữ trong tiểu thuyết Giàn
Thiêu của Võ Thị Hảo, Đại Học Vinh
47. Nguyễn Hòa (2005) “Tiểu thuyết giữa khát vọng và khả năng thực tế”,
http://www.vietbao.vn
48. Cao Thị Thu Hoài (2009), Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo (Qua
tiểu thuyết Giàn thiêu và Tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc
nửa đêm), Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên
49. Hoàng Công Khanh (1999), Vằng vặc sao Khuê, nxb Văn học, Hà Nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
50. Nguyễn Vi Khanh, “Về tiểu thuyết – lịch sử”, http://www.honque.com
51. Nguyễn Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX đến
1945, Luận văn Tiến sĩ Ngữ văn ,ĐHSP Hà Nội
52. Phong Lê (2008), “Vấn đề hiện thực xã hội chủ nghĩa trong Văn học Việt
Nam – Nhìn từ lịch sử, Nghiên cứu văn học số 10
53. Phƣơng Lựu(Chủ biên) (2004), Lý luận văn học, nxb Giáo dục,Hà Nội
54. Hoài Nam (2008), Bàn về tiểu thuyết lịch sử, Văn nghệ, (45)
55. Hoài Nam(2008), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam – truyện kể hay tiểu
thuyết, http://www.vietnamnet.vn
56. Ngô Thị Quỳnh Nga (2007), Những hướng tìm tòi của văn xuôi viết về đề
tài lịch sử trong văn học Việt Nam sau 1975, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,
ĐH Vinh
57. Đỗ Thị Thanh Nga (2002), Cảm hứng lịch sử trong tiểu Nguyễn Huy
Thiệp, Nghiên cứu văn học số 7 – 2009
58. Lê Thanh Nga (2002) Nghệ thuật trần thuật trong truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH Vinh
59. Lê Thanh Nga (2006),“Những vấn đề thực hiện trong tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí ĐH Vinh, tập 35,4b
60. Phạm Thị Ngọc (2008), Lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết Giàn thiêu của
Võ Thị Hảo, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, ĐH Vinh
61. Phạm Xuân Nguyên (2007) , Giàn thiêu – xứ sở của lối văn chương mê
hoặc huyền bí, Giàn thiêu, nxb Phụ nữ, Hà Nội
62. Nhiều tác giả (2000), “Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly”, Văn nghệ, 41
63. Nhiều tác giả (2006), Bão táp triều Trần – Tác phẩm và dư luận, nxb Phụ
nữ, Hà Nội
64. Nhiều tác giả (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy, nxb Giáo dục, Hà Nội
65. Báo Người đại biểu nhân dân ( 2005), “Còn điều chị em mải miết đi tìm”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Giàn thiêu, nxb Phụ nữ, Hà Nội
66. Tuyết Nhung, “Dù đọc văn hay đọc sử cũng cần sòng phẳng”, Văn
nghệ,(43)
67. Đỗ Hải Ninh (2009), “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh”, Nghiên cứu văn học số 2
68. Đỗ Hải Ninh (2009), “Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam đƣơng đại”, http://www.phongdiep.net
69. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, nxb Giáo dục, Hà Nội
70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch
sử, nxb ĐH sƣ phạm, Hà Nội
71. Trần Khánh Thành (2004), “ Những thông điệp từ lửa và nƣớc”, văn nghệ (16)
72. Phạm Xuân Thạch (2005), “Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề
lịch sử”, http://www.vietnamnet.vn
73. Nguyễn Huy Thiệp (2003) , Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
nxb Văn học
74. Đỗ Minh Tuấn, “Muốn đƣa Giàn thiêu lên phim”, http://www.vnn.vn.72
75. Nguyễn Thị Minh Tuyết (2008), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến
nay, Luận văn tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội
76. Nguyễn Thị Minh Tuyết (2009), “Tƣ duy phân tích và giả định lịch sử
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986”,
http://www.vannghequandoi.com
77. Hoàng Minh Tƣờng (2006), “Lời mở đầu tiểu thuyết Tây sơn bi hùng
truyện”
78. Tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo, Thụ Nhân thực hiện,
http://www.vnn.vn
79. Trần Vũ, “Lịch sử trong tiểu thuyết – một tùy tiện ý thức”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
http://www.hopluu.net