BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Thanh Thảo
DI DÂN Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thanh Thảo
DI DÂN Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 60 31 05 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong
luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn dựa trên số liệu Tổng điều tra và số liệu thống
kê có độ tin cậy cao.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Thảo
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị
Xuân Thọ - Người đã tận tâm hướng dẫn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu và chỉ bảo tận tình
trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn đến quý Thầy - Cô giáo khoa Địa lí, Ban giám hiệu,
Phòng Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho tác giả trong quá trình hoàn thành luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan ban ngành đã nhiệt tình
giúp đỡ và cung cấp cho tác giả nhiều tài liệu quý:
- Chi Cục dân số tỉnh Bình Dương.
- Phòng Dân số – Cục Thống kê tỉnh Bình Dương
- Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương .
- Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương .
- Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương.
- Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương.
- Sở Xây dựng tỉnh Bình Dương.
- Ban quản lí các Khu công nghiệp tỉnh Bình Dương.
- Phòng PC 64 – Công an tỉnh Bình Dương.
Cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, ủng hộ, quan tâm chia sẻ, giúp đỡ trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Thảo
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 6
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 7
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................. 7
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................... 7
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề di dân .................................................................................. 9
4. Hệ thống các quan điểm và phương pháp nghiên cứu .............................................. 10
5. Những đóng góp chính của đề tài ................................................................................ 13
6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................................ 13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DI DÂN ........................... 14
1.1. Di dân .......................................................................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm di dân ................................................................................................... 14
1.1.2. Đặc trưng của di dân ............................................................................................. 16
1.1.3. Các yếu tố tác động đến di dân ............................................................................. 17
1.1.4. Các nguyên nhân chủ yếu di dân ........................................................................... 18
1.2. Phân loại di dân.......................................................................................................... 20
1.2.1. Theo độ dài thời gian cư trú .................................................................................. 20
1.2.2. Theo khoảng cách di dân ....................................................................................... 20
1.2.3. Theo tính pháp lí ................................................................................................... 22
1.2.4. Theo các hình thức di dân khác ............................................................................. 23
1.3. Các lí thuyết giải thích nguyên nhân chủ yếu của di dân ...................................... 24
1.3.1. Lí thuyết lực hút - lực đẩy ..................................................................................... 24
1.3.2. Lí thuyết cấu trúc của Lee ..................................................................................... 25
1.4. Các chỉ tiêu đo lường di dân ..................................................................................... 26
1.4.1. Số di dân thuần (số dư biến động cơ học: NM) .................................................... 26
1.4.2. Tổng số di dân (TM) ............................................................................................. 26
1.4.3. Tỉ suất nhập cư (IMR = In Migration Rate) .......................................................... 27
1.4.4. Tỉ suất xuất cư (OMR = Out Migration Rate) ....................................................... 27
1.4.5. Tổng tỉ suất di dân (TMR = Total Migration Rate) .............................................. 28
1.4.6. Tỉ suất di dân thuần (NMR = Net Migration Rate) ............................................... 28
1.5. Các phương pháp đo lường di dân ........................................................................... 28
1.5.1. Phương pháp trực tiếp ........................................................................................... 28
1.5.2. Phương pháp gián tiếp ........................................................................................... 29
1.6. Ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội ...................................... 30
1.6.1. Ảnh hưởng của nhập cư ........................................................................................ 30
1.6.2. Ảnh hưởng của xuất cư ......................................................................................... 31
1.7. Tổng quan về di cư ở Việt Nam ................................................................................ 33
1.7.1. Trước năm 1954 .................................................................................................... 33
1.7.2. Từ năm 1954 đến năm 1975 .................................................................................. 33
1.7.3. Từ năm 1976 đến thập kỉ 90 (thế kỉ XX) .............................................................. 33
1.7.4. Từ thập kỉ 90 đến nay ............................................................................................ 33
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG DI DÂN Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ............. 36
2.1. Khái quát về tỉnh Bình Dương ................................................................................. 36
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến di dân ở tỉnh Bình Dương ......................................... 37
2.2.1. Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên .................................................... 37
2.2.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội ................................................................................... 43
2.3. Tình hình di dân ở tỉnh Bình Dương ....................................................................... 49
2.3.1. Sự biến động dân số tỉnh Bình Dương .................................................................. 49
2.3.2. Hiện trạng nhập cư ở tỉnh Bình Dương ................................................................. 51
2.3.3. Hiện trạng di dân nội tỉnh Bình Dương ................................................................. 70
2.3.4. Hiện trạng xuất cư từ tỉnh Bình Dương đi các tỉnh thành khác ............................ 72
2.4. Ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương ........ 78
2.4.1. Ảnh hưởng của nhập cư ........................................................................................ 78
2.4.2. Ảnh hưởng của xuất cư ......................................................................................... 91
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP DI DÂN Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG ...................................................................................................................... 93
3.1. Định hướng di dân và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương ..................... 93
3.1.1. Cơ sở của định hướng............................................................................................ 93
3.1.2. Định hướng chung ................................................................................................. 99
3.2. Dự báo di dân ngoại tỉnh ở Bình Dương ................................................................ 105
3.3. Một số giải pháp đối với vấn đề di dân ở tỉnh Bình Dương ................................. 106
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô nhằm giảm lực đẩy nơi xuất cư .......................................... 107
3.3.2. Các giải pháp vi mô nhằm thu hút, nâng cao chất lượng và sử dụng nguồn lao động di dân ở tỉnh Bình Dương phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH .................... 109
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 120
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 123
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BD Bình Dương :
BTB&DHNTB Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ :
Bảo vệ môi trường BVMT :
Công nghiệp hóa CNH :
Dân số DS :
Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL :
Đồng bằng sông Hồng ĐBSH :
Đông Nam Á ĐNA :
Đông Nam Bộ ĐNB :
Điều tra biến động dân số ĐTBĐDS :
Đô thị hóa ĐTH :
ĐTMDS : Điều tra mẫu về dân số
HĐH : Hiện đại hóa
KCN : Khu công nghiệp
KHHGD : Kế hoạch hóa gia đình
KT-XH : Kinh tế - xã hội
QH 2007 : Quy hoạch năm 2007
: TD&MNPB Trung du và miền núi phía Bắc
: TĐT Tổng điều tra
TKHTHK : Thống kê hộ tịch, hộ khẩu
TP : Thành phố
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TP. TDM : Thành phố Thủ Dầu Một
Tx : Thị xã
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, nhất là ở
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Sự phát triển nhanh của công nghiệp, dịch vụ đã tạo sức
hút số lượng lớn nguồn lao động từ các vùng nông thôn di chuyến đến các tỉnh, thành phố
phát triển kinh tế mạnh mẽ như: TP. HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Điều đó đã có những tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và môi trường
của các vùng nhập cư. Vì vậy, việc nắm rõ thực trạng di dân và những ảnh hưởng của nó
đến sự phát triển kinh tế - xã hội là rất cần thiết.
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và nằm trong tứ giác tăng trưởng kinh tế: TP. HCM – Bình Dương – Đồng Nai và
Bà Rịa – Vũng Tàu. Vị trí địa lí thuận lợi, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về công nghiệp
và những chính sách “trải thảm đỏ” chào đón các nhà đầu tư, hiện nay nền kinh tế Bình
Dương đang có nhiều chuyển biến. Năm 2011, tốc độ tăng trưởng GDP là 14%, GDP bình
quân đầu người 37 triệu đồng. Công nghiệp tăng nhanh cả tốc độ tăng trưởng và giá trị sản
xuất. Để đạt được thành tựu đó không thể không nói đến vai trò của lực lượng lao động
nhập cư tỉnh Bình Dương.
Bình Dương là một trong những tỉnh có sức thu hút rất nhiều dân nhập cư từ các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Do đó tỉ suất di cư thuần của Bình Dương rất cao: Cứ 1000 người
thì có 340 người nhập cư (năm 2009) và tăng lên 418 người nhập cư (năm 2011), số người
nhập cư chiếm hơn 1/3 số dân của tỉnh. Số lượng dân nhập cư lớn làm cho sự biến động dân
số của tỉnh lớn, Bình Dương là tỉnh có tỉ lệ tăng dân số lớn nhất trong vùng Đông Nam Bộ
(7,3% năm 2009 và 7,5% năm 2011). Vấn đề di dân đã có những ảnh hưởng rất lớn đến KT-
XH của tỉnh Bình Dương. Vì vậy, điều tra hiện trạng, dự báo tương lai, tìm hiểu nguyên
nhân và những ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương nhằm đề ra
phương hướng - giải pháp điều chỉnh di dân tự do có ý nghĩa cấp thiết đối với sự phát triển
KT-XH của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Đề tài “Di dân ở tỉnh Bình Dương và những
ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội” của tác giả sẽ góp phần giải quyết
những nội dung trên.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá thực trạng di dân ở tỉnh Bình Dương và ảnh hưởng của di dân đối với sự phát
triển KT-XH tỉnh Bình Dương.
- Từ đó làm cơ sở khoa học để đề ra những giải pháp thích hợp nhằm điều chỉnh các quá
trình di dân cho phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương.
Nhiệm vụ của đề tài 2.2.
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận và thực tiễn về di dân. Đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến di dân.
- Phân tích những đặc điểm chủ yếu của quá trình di dân đến tỉnh Bình Dương từ năm
1999 đến 2011.
- Phân tích đánh giá ảnh hưởng của di dân đối với sự phát triển KT-XH tỉnh Bình
Dương.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu
cực của quá trình di dân sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH của tỉnh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài 2.3.
Về không gian 1.3.1.
- Đề tài nghiên cứu hiện trạng di dân ở các huyện, thị của tỉnh Bình Dương, bao gồm di
dân nội tỉnh và di dân ngoại tỉnh.
- So sánh di dân ở tỉnh Bình Dương với một số tỉnh vùng Đông Nam Bộ.
Về thời gian 1.3.2.
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích quá trình di dân ở tỉnh Bình Dương và những
ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương giai đoạn 1999 - 2011.
Về nội dung 1.3.3.
Đề tài tập trung vào những nội dung sau:
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến di dân ở tỉnh Bình Dương.
- Phân tích hiện trạng di dân ở tỉnh Bình Dương, chủ yếu là hiện trạng nhập cư.
- Đánh giá những ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương, chủ
yếu là ảnh hưởng của nhập cư.
- Dự báo về dân số và xu hướng di dân ngắn và dài hạn của tỉnh.
- Đưa ra những định hướng và một số giải pháp nhằm chủ động góp phần điều tiết di
dân cho phù hợp với sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề di dân
Quá trình di dân đã diễn ra từ rất lâu trong lịch sử và diễn ra trên phạm vi toàn thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Con người di dân do những nguyên nhân, mục đích
khác nhau và có những ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH ở mức độ khác nhau.
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về di dân, điển hình là từ thế kỉ XIX,
người đầu tiên đưa ra học thuyết về di dân là E.G. Ranvenstein (1885). Ông đã nghiên cứu
các luồng di dân ở xứ Uyên-xơ (Anh) và đưa ra các quy luật về di dân: thành phần giới tính
trong di dân, hướng di dân, các lí thuyết về di dân từng bước…Tương tự là mô hình về lực
hút, lực đẩy và các yếu tố cản trở quá trình di dân của E.S. Lee. Các mô hình hấp dẫn của
S.A. Stourffer (1940) đã xác lập mối quan hệ giữa di dân và khoảng cách di dân [25].
Ở nước ta, cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề di dân ngày càng
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nhằm điều chỉnh dân cư hợp lí, góp phần thúc đẩy sự
phát triển KT-XH cho từng địa phương và cả nước.
Nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng di dân và những tác động tích
cực, tiêu cực của di dân đến các vùng nhập cư, di dân và phát triển. Trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm góp phần điều tiết quá trình di dân cho phù hợp với mục tiêu phát
triển KT-XH cho từng tỉnh, thành phố. Những vấn đề nêu trên được trình bày qua các
nghiên cứu sau đây: Lê Văn Thành (1998), “Dân nhập cư với vấn đề phát triển một đô thị
lớn như TP.HCM”. Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Xuân Thọ (2002), “Di dân ở
TP.HCM và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội”. Trần Thị Hương (2005),
“Dân nhập cư và những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai”.
Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2010), “Di cư ở Hà Nội và những chính sách quản
lý”. Đề tài luận văn của thạc sĩ Hoàng Thị Thêu (2011), “Nhập cư TP.HCM và ảnh hưởng
của nó đến biến động dân số”. Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Trương Văn Tuấn (2012),
“Di cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng Đông Nam Bộ”.
Ở Bình Dương, trong những năm gần đây sự phát triển công nghiệp nhanh mạnh mẽ đã
tạo lực hút dân nhập cư vào tỉnh tăng lên nhanh chóng, nên vấn đề quy mô, cơ cấu, chất
lượng dân số của tỉnh đã có sự thay đổi, chủ yếu do gia tăng cơ học. Điều đó đã ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển KT-XH của tỉnh, cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Một số
đề tài đã đi sâu nghiên cứu vấn đề dân số, lao động nhập cư ở nhiều khía cạnh khác nhau
như: Đề tài luận văn của thạc sĩ Nguyễn Thị Hiển (2009), “Dân số và phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Bình Dương”. Đề tài luận văn của thạc sĩ Nguyễn Kim Nhật Thư (2009), “Sự biến
động dân cư trong quá trình đô thị hóa tỉnh Bình Dương từ năm 1997 đến 2009”. Đề tài
luận văn của thạc sĩ Lê Thị Hồng (2012), “Hiện trạng và định hướng sử dụng lao động ở
tỉnh Bình Dương”. Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương, Viện phát
triển bền vững vùng Nam Bộ của TS.Võ Công Nguyện (2012), “Lao động nhập cư ở Bình
Dương. Hiện trạng và xu hướng”. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về dân số, biến động
dân số, hiện trạng lao động và những tác động của gia tăng dân số cơ học đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương, từ đó làm cơ sở khoa học để đề ra các chính sách
thích hợp nhằm đạt tới quy mô dân số và phân bố dân cư phù hợp với quá trình CNH, ĐTH
tỉnh Bình Dương. Đồng thời góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm áp lực dân số
lên cơ sở hạ tầng, KT-XH và môi trường đô thị tỉnh Bình Dương.
Các đề tài nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi tiến hành
nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình. Tác giả đã kế thừa một số số liệu di dân đến Bình
Dương trong Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, 2009 và Điều tra biến động dân số
và kế hoạch hóa gia đình năm 2010, 2011 nhằm phân tích biến động di dân theo thời gian.
Các đánh giá, nhận định của các nhà nghiên cứu cũng là những gợi ý cho tác giả để đi sâu
nghiên cứu chi tiết hơn. Luận văn đã chú trọng nghiên cứu hiện trạng di dân ở tỉnh Bình
Dương (đặc biệt là nhập cư), đồng thời phân tích sâu hơn những ảnh hưởng của di dân đối
với sự thay đổi cấu trúc dân cư và KT-XH tỉnh Bình Dương. Đề tài luận văn cũng nghiên
cứu vấn đề di dân nội bộ tỉnh Bình Dương.
4. Hệ thống các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ thống các quan điểm
4.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản và là quan điểm truyền thống của Địa lí học. Đề tài “Di dân
ở tỉnh Bình Dương và những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội” được
đặt trong bối cảnh không gian cụ thể của nền KT-XH tỉnh Bình Dương và trên phạm vi cả
nước. Quá trình di dân được phân tích trong mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên và KT-
XH tỉnh Bình Dương, các nhân tố đã thúc đẩy di dân đến vùng lãnh thổ này cũng như di dân
giữa các huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Bình Dương.
4.1.2. Quan điểm hệ thống
Di dân là một quá trình phức tạp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau trong hệ
thống KT-XH. Trong mối quan hệ tương tác giữa di dân và sự phát triển KT-XH thì di dân
vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển kinh tế làm cho di dân ngày càng mang
tính chọn lọc cao hơn. Trong mối quan hệ nhân quả thì quá trình di dân vừa là kết quả của
những vấn đề KT-XH vừa là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH. Quá trình di
dân diễn ra nhanh hay chậm chịu ảnh hưởng lớn của sự phát triển các ngành kinh tế, các
chính sách thu hút nguồn nhân lực…của các vùng. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề di dân cần
xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong hệ thống KT-XH của tỉnh Bình Dương
với tổng thể nền kinh tế quốc dân.
4.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Quá trình di dân ở tỉnh Bình Dương diễn ra với tốc độ, quy mô, đặc trưng… khác nhau
qua các giai đoạn lịch sử phát triển KT-XH của tỉnh. Mỗi thời kì của quá trình di dân có
những đặc điểm riêng biệt cũng như sự ảnh hưởng khác nhau đến nền KT-XH tỉnh Bình
Dương. Vì vậy, luận văn đã vận dụng quan điểm lịch sử - viễn cảnh trong quá trình nghiên
cứu di dân ở tỉnh Bình Dương. Qua đó, luận văn chú ý phân tích, đánh giá những ảnh hưởng
của di dân đến sự phát triển KT-XH tỉnh gắn với từng giai đoạn lịch sử.
4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Vấn đề di dân trong quá trình phát triển KT-XH, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực
cũng có những ảnh hưởng tiêu cực như gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, tệ nạn xã hội…Vì vậy, nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình di
dân đến môi trường xung quanh cần phải quán triệt quan điểm sinh thái và phát triển bền
vững. Trong nghiên cứu di dân, cần phải xây dựng và thực hiện các phương án di dân một
cách hợp lí để phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế tiêu cực nhằm đảm bảo sự
phát triển hài hòa giữa KT-XH, tài nguyên môi trường và phát triển bền vững cho vùng di
dân. Quan điểm này được vận dụng trong khi nghiên cứu vấn đề di dân của tỉnh Bình
Dương.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thống kê
Trong luận văn tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê để xử lí và phân tích các số
liệu từ cơ sỡ dữ liệu và kết quả của các cuộc tổng điều tra dân số, thống kê KT-XH của
Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê tỉnh Bình Dương, Chi cục dân số, Công an tỉnh Bình
Dương, Sở kế hoạch và đầu tử, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các cơ quan tổ
chức, ban ngành có liên quan. Từ những nguồn tài liệu trên, tác giả đã có cơ sở để đánh giá
thực trạng di dân và những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương.
4.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh
Các số liệu thu thập và được sử dụng trong luận văn đã được tác giả thu thập từ các
nguồn qua các thời điểm khác nhau. Thông qua việc sắp xếp, phân loại theo từng nội dung
cụ thể, sau đó tiến hành phân tích thông tin về quá trình di dân, so sánh sự khác biệt về di
dân trong các giai đoạn lịch sử. Đồng thời so sánh di dân ở tỉnh Bình Dương với một số các
tỉnh, thành phố khác trong cả nước; di dân giữa các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Bình
Dương và nguyên nhân của di dân. Từ đó, rút ra những kết luận có tính quy luật và những
dấu hiệu bản chất nhất của di dân.
4.2.3. Phương pháp bản đồ
Dựa trên các số liệu đã thu thập, trong luận văn đã tiến hành thành lập một hệ thống
các bản đồ như: Bản đồ di dân ngoại tỉnh vào Bình Dương; bản đồ phân bố nhập cư của tỉnh
theo các các đơn vị hành chính…Các bản đồ được xây dựng nhằm xác lập mối liên hệ giữa
các đối tượng địa lí, các vấn đề tìm hiểu sẽ chính xác và phong phú hơn thuận tiện cho việc
so sánh, đánh giá.
4.2.4. Phương pháp điều tra thực địa
Để đảm bảo được mức độ tin cậy cao của các số liệu, tài liệu đã thu thập được và đánh
giá đúng đắn những vấn đề vấn đề thực tiễn di dân của tỉnh Bình Dương, tác giả đã tiến
hành triều tra thực địa như: điều tra thực tế tại những khu vực tập trung đông dân nhập cư
của tỉnh Bình Dương, trực tiếp quan sát và chụp ảnh cảnh sinh hoạt của dân nhập cư cũng
như quá trình tham gia lao động vào sự phân công lao động xã hội của tỉnh, tìm hiểu nguyên
nhân di chuyển, những thuận lợi và khó khăn của dân nhập cư để phục vụ cho đề tài.
4.2.5. Phương pháp toán học
Từ các số liệu đã thu thập được, tác giả đã sử dụng phương pháp toán học để tính toán
một số nội dung phục vụ cho đề tài như: tính toán mật độ phân bố dân nhập cư của tỉnh; của
các huyện, thị xã, thành phố; tính toán sự đóng góp của bộ phận dân nhập cư đối với nền
KT-XH của tỉnh; dự báo sự phát triển KT-XH của tỉnh.
4.2.6. Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo di dân và ảnh hưởng của nó đến KT-XH là vấn đề mang tính chất
phức tạp và tính chính xác của dự báo còn phụ thuộc vào mối quan hệ với sự biến động KT-
XH của tỉnh. Trên cơ sở vận động, chuyển biến của quá trình di dân và mối quan hệ giữa
quá trình di dân với tình hình KT-XH của tỉnh trong thời gian qua, tác giả đã mạnh dạn dự
báo tình hình di dân và những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển KT-XH của tỉnh Bình
Dương trong thời gian tới.
4.2.7. Phương pháp hệ thống thông tin địa lí (GIS)
Hệ thống thông tin địa lí (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân tích xử lí các
thông tin không gian lãnh thổ. Hế thống thông tin địa lí cho phép chồng xếp các thông tin
địa lí để thấy được nét đặc trưng riêng của các đối tượng địa lí. Luận văn đã sử dụng phần
mềm MapInfo 10.5 để thiết lập hệ thống bản đồ minh họa cho đề tài.
5. Những đóng góp chính của đề tài
- Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề cơ bản lí luận về di dân, tính chọn lọc của di dân,
mối quan hệ giữa di dân và phát triển KT-XH.
- Phân tích hiện trạng nhập cư vào tỉnh Bình Dương giai đoạn 1999 – 2011, ảnh hưởng
của di dân đến sự phát triển KT-XH.
- Phân tích, đánh giá vấn đề di dân nội tỉnh Bình Dương trong những năm gần đây.
- Dự báo di dân trong tương lai, đưa ra một số giải pháp điều chỉnh di dân tự do và sử
dụng nguồn lao động nhập cư có hiệu quả nhất.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về di dân
Chương 2: Hiện trạng di dân ở tỉnh Bình Dương và những ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế - xã hội
Chương 3: Định hướng và các giải pháp di dân ở tỉnh Bình Dương
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DI DÂN
1.1. Di dân
1.1.1. Khái niệm di dân
Một trong những đặc tính nổi bật của con người là xu hướng di dân, thể hiện ở khoảng
cách và số lần di chuyển. Đó cũng là lí do tại sao trong cộng đồng dân cư trên thế giới hiện
nay đan xen nhiều thứ ngôn ngữ, dân tộc. Quá trình di dân tỉ lệ thuận với tiến bộ về kinh tế
và công nghệ, đặc biệt với các lĩnh vực thông tin và vận chuyển.
Có nhiều khái niệm về di dân được đưa ra, mỗi khái niệm xuất phát từ những phương
diện khác nhau, do đó khó có thể lựa chọn được khái niệm thống nhất, bao quát cho mọi
tình huống, bởi tính đa dạng, phức tạp của hiện tượng di dân. Không phải mọi sự di chuyển
của con người đều được coi là di dân. Trước hết, người ta phân biệt di dân với các hình thức
di chuyển thông thường hàng ngày: dời khỏi nhà để đi học, đi làm, đi chơi, tham quan du
lịch... Nhưng trong thực tế có nhiều hình thức di chuyển như đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, công tác biệt phái xa nhà, di chuyển làm việc theo thời vụ, chuyển cư do hôn nhân
của phụ nữ theo các khoảng cách đủ xa nhất định, với những mục tiêu nghiên cứu đặc biệt,
lại được coi là di dân. Bởi vậy, việc đưa ra một định nghĩa di dân có ý nghĩa làm sáng tỏ
thêm nội dung và các hình thức di dân.
Sự di chuyển được mô tả như quá trình di dân nếu đó là sự di chuyển cố định hoặc ít
nhất cũng là bán cố định. Theo Lee (1966) di dân như là “sự thay đổi cố định nơi cư trú”.
Trong khi đó theo Mangalam và Morgan (1968) lại xác định di dân là “sự di chuyển vĩnh
viễn tương đối của người di dân ra khỏi tập đoàn đang sống từ một đơn vị địa lí khác” [17].
Tuy nhiên cả hai định nghĩa trên đều không xác định được một cách rõ ràng khái niệm về
mặt thời gian.
Theo V.I.Xtaroverov (1975): “Di dân là sự thay đổi vị trí của con người về mặt địa lí,
do có sự di chuyển thường xuyên hoặc tạm thời của họ từ một cồng đồng kinh tế này sang
một cộng đồng kinh tế khác, trở về hoặc có sự thay đổi vị trí không gian của toàn bộ cồng
đồng nói chung” [32].
Theo khái niệm của Liên Hiệp Quốc (1958): “Di dân là một sự di chuyển từ một đơn
vị lãnh thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là một sự di chuyển với khoảng cách tối
thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong một khoảng thời gian di dân xác định và
được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên” [17].
Trong khái niệm di dân của Liên Hiệp Quốc đã nhấn mạnh di dân là sự di chuyển của
con người kèm theo sự thay đổi chỗ ở của họ. Như vậy, khái niệm của Liên Hiệp Quốc đã
loại bỏ những trường hợp người sống lang thang, dân du mục, di dân theo mùa và di dân
theo kiểu con lắc (đi về hằng ngày) [32].
Nhìn chung, ở đa số các nước, dân cư di chuyển ra khỏi giới hạn hành chính của một
thành phố, tỉnh, huyện trong một khoảng thời gian xác định được xem là di dân.
Như vậy, di dân hay di cư bao gồm hai quá trình: xuất cư và nhập cư
• Xuất cư: Là một quá trình chuyển đi của dân cư từ một vùng hay một quốc gia này
sang một vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hoặc tạm thời (trong một
khoảng thời gian dài).
• Nhập cư: Là quá trình chuyển đến của dân cư từ một vùng hay một quốc gia khác để
sinh sống thường xuyên hay tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).
Năm 1973, Liên Hiệp Quốc đưa ra khái niệm phân biệt giữa người di dân dài hạn và di
dân ngắn hạn, trong đó người di dân dài hạn là người có ý định ở lại nơi mới đến từ 12
tháng trở lên. Tuy nhiên, khái niệm này cũng bộc lộ nhược điểm là người di dân sau khi
đến nơi ở mới do nhiều lí do khác nhau mỗi người đều có thể thay đổi ý định của họ, nên
những khó khăn trong việc xác định người di dân vẫn còn tồn tại [17].
Nhưng nếu người di dân chuyển đến nơi ở mới từ 12 tháng trở lên có thể coi là di dân
dài hạn, nếu người di chuyển đó có nơi cư trú (nhà cửa) cố định, có việc làm ổn định và có ý
định ở lại nơi đó lâu dài.
Tóm lại, khái niệm di dân có thể được các nhà địa lí định nghĩa không giống nhau,
nhưng hiểu về di dân theo các cách tiếp cận trên đều dựa vào các đặc điểm chủ yếu sau [35]:
• Một là, con người di chuyển khỏi một địa phương nào đó đến một nơi khác, với một
khoảng cách nhất định. Nơi đi (nơi xuất cư) và nơi đến (nơi nhập cư) phải được xác định, có
thể là vùng lãnh thổ hoặc một đơn vị hành chính. Khoảng cách giữa nơi xuất cư và nơi nhập
cư là độ dài di dân.
• Hai là, con người khi di dân bao giờ cũng với những mục đích cụ thể. Họ đến một
địa điểm mới và ở lại đó trong một thời gian nhất định.
• Ba là, khoảng thời gian ở lại nơi mới trong bao lâu là đặc điểm quan trọng xác định
sự di chuyển đó có phải là di dân hay không. Tùy mục đich, thời gian "ở lại" có thể là một
số năm, một số tháng.
Một số đặc điểm khác nữa có thể được đưa vào trong nghiên cứu cụ thể, chẳng hạn sự
thay đổi các hoạt động lao động. Thông thường di dân được hiểu khi thay đổi nơi cư trú
cũng thường kèm theo sự thay đổi công việc, nơi làm việc, nghề nghiệp... Song không nhất
thiết bao giờ cũng vậy. Trong không ít trường hợp hai sự thay đổi nêu trên không đi đôi với
nhau. Như vậy, đưa thêm đặc điểm này cho phép hiểu sâu thêm nội dung di dân.
Ngoài ra, trong nghiên cứu di dân một số khái niệm cần quan tâm là:
+ Nơi đi: Còn gọi là nơi xuất cư, là địa điểm cư trú trước khi một người rời đi nơi khác
sinh sống.
+ Nơi đến: Còn gọi là nơi nhập cư, là điểm kết thúc quá trình di chuyển, là địa điểm
mà một người dừng lại để sinh sống. Nơi và địa điểm ở đây là chỉ một lãnh thổ, một đơn vị
hành chính nhất định.
+ Người xuất cư hay còn gọi là người di dân đi là người rời nơi đang sinh sống để đi
nơi khác.
+ Người nhập cư hay còn gọi là người di dân đến là người đến nơi mới để sinh sống.
+ Luồng (dòng) di dân là tập hợp người đi ra khỏi vùng đang sinh sống và đến cùng
một vùng mới để cư trú theo những hướng nhất định vào những khoảng thời gian xác định.
+ Chênh lệch giữa số người đến và số người đi trong cùng một lãnh thổ, đơn vị hành
chính trong cùng một khoảng thời gian nhất định được gọi là di dân thuần túy.
1.1.2. Đặc trưng của di dân
Mỗi một hiện tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, dòng...) di dân đều chứa đựng những
nguyên nhân, những động cơ thúc đẩy di dân. Bản chất xã hội và bản chất sinh học của con
người trong di dân hoà quyện, tạo nên các đặc trưng mang tính quy luật. Dưới đây là một số
đặc trưng chủ yếu [35]:
• Một là, con người có thuộc tính là luôn vươn tới điều kiện sống tốt hơn về vật chất và
tinh thần. Đặc trưng này cho phép nhìn nhận lại động cơ và mục đích di dân. Nơi người ta
dự định di dân đến, nhìn chung, phải có điều kiện sống tốt hơn về phương diện này hay
phương diện khác.
• Hai là, mức di dân cao hay thấp cũng liên quan chặt chẽ với độ tuổi. Các nghiên cứu
chỉ ra rằng những người trong khoảng tuổi từ 15 đến 30 chiếm đa số trong các dòng di dân.
Họ có cơ hội và triển vọng lớn hơn so với các độ tuổi còn lại trong đào tạo nghề, tìm kiếm
việc làm.
• Ba là, trong lịch sử trước đây, nam giới có xu hướng di dân nhiều hơn phụ nữ. Đây
có thể phần nào đó được giải thích do bản năng và sự phân công lao động theo giới tính.
Song trong điều kiện xã hội hiện nay, do nhu cầu trong lĩnh vực dịch vụ tăng cao, xu hướng
nữ hóa các dòng di dân đã xuất hiện. Ở một số vùng, với một số độ tuổi, nữ giới có xu
hướng di dân nhiều và mạnh hơn nam.
• Bốn là, trước thời kì “mở cửa” người nào có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình
độ lành nghề cao hơn thì khả năng di dân lớn hơn. Họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn về
việc làm với người sở tại, dễ dàng tạo được các điều kiện định cư lâu dài tại nơi mới.
• Năm là, người nào ít bị ràng buộc về tôn giáo, các yếu tố văn hóa truyền thống, hoàn
cảnh gia đình sẽ dễ dàng thích nghi hơn với điều kiện sống ở nơi mới do đó khả năng di dân
sẽ cao hơn so với bộ phận dân số còn lại.
1.1.3. Các yếu tố tác động đến di dân
Có nhiều yếu tố tác động đến sự di chuyển của dân cư. Các yếu tố này thuộc về các
điều kiện tự nhiên như: khí hậu, địa hình, đất đai, tài nguyên…hay các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và chính sách dân số của quốc gia. Sự thuận lợi hay khó khăn của các yếu
tố này ở các vùng sẽ tạo nên lực hút hay lực đẩy của mỗi vùng mà có ảnh hưởng tới sự
chuyển đến hay chuyển đi của dân cư.
• Lực hút: Bao gồm những điều kiện thuận lợi cho việc sinh sống, làm việc, học tập và
phát triển.
• Lực đẩy: Bao gồm những trở ngại hay hạn chế cho việc sinh sống, làm việc, học tập
và phát triển.
Bất kì một vùng lãnh thổ nào cũng đều có những thuận lợi hay khó khăn nhất định, nói
khác đi yếu tố lực hút, lực đẩy của một vùng luôn tồn tại song song.
Quá trình di dân xảy ra khi có sự khác biệt nhất định giữa vùng đi và vùng đến về một
số yếu tố đặc trưng: kinh tế, việc làm, thu nhập, tài nguyên thiên nhiên và môi trường; yếu
tố dân cư và xã hội; sự thay đổi về tiến bộ kĩ thuật và công nghệ. Ngoài ra, yếu tố lực hút và
lực đẩy còn bao gồm những yếu tố cá nhân như tình trạng hôn nhân gia đình, thay đổi nghề
nghiệp, việc làm…; các yếu tố Lí thuyết lực hút và lực đẩy đã đưa ra quy luật chung của di
dân là: Dân cư sẽ di chuyển từ nơi có đời sống thấp đến nơi có đời sống cao hơn, từ vùng có
điều kiện tự nhiên kém thuận lợi đến vùng có điều kiện thuận lợi hơn. Phong trào di dân
ngày càng mạnh theo sự tiến bộ ngày càng cao của xã hội. Chính sự thay đổi về tiến bộ khoa
học kĩ thuật dẫn đến sự hình thành các vùng trung tâm phát triển như khu công nghiệp, hiện
đại hóa sản xuất nông nghiệp…sẽ thu hút các dòng di dân.
Ví dụ, vùng nông thôn xa xôi thường là nơi ra đi của lực lượng lao động trẻ, bởi ở đó
không có các cơ hội kinh tế, lối sống buồn tẻ, ít cơ hội phát triển. Ngược lại, các trung tâm
công nghiệp, đô thị hay thành phố lớn thường là những nơi có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
giới trẻ vùng nông thôn vì có nhiều cơ hội việc làm, học tập, tiện nghi sinh hoạt và những
triển vọng tương lai đầy sáng lạn…từ đó hình thành nên luồng chuyển cư đặc trưng nông
thôn – thành thị.
Ngoài ra, trong quá trình di chuyển, người di dân cũng phải tính đến những trở ngại
trung gian như: khoảng cách di chuyển và chi phí di chuyển. Khoảng cách di chuyển càng
xa thì chi phí di chuyển càng lớn. Chi phí bao gồm hai dạng: chi phí kinh tế và chi phí tinh
thần (như sự cắt rời những mối quan hệ gia đình, bạn bè, láng giềng); trong đó chi phí tinh
thần mặc dù khó có thể tính toán cụ thể nhưng đây lại là nhân tố có ý nghĩa quan trọng
không thể bỏ qua.
1.1.4. Các nguyên nhân chủ yếu di dân
Những yếu tố thuộc về sức đẩy như: buồn tẻ, khan hiếm cơ hội để phát triển, để cải
thiện cuộc sống đã tạo nên dòng di dân của thanh niên trẻ đến đô thị tìm việc làm, học hành
và tự do lựa chọn bạn đời, đồng thời quyết định ra đi này thường gắn liền với mong muốn
giàu có hơn, văn minh hơn.
Sự khác biệt về KT-XH và dân số của các dòng di dân lại ảnh hưởng tới nơi đến và nơi
đi. Dòng thanh niên ra đi từ nông thôn đến thành phố làm chảy máu chất xám và khả năng
sáng tạo ở nông thôn, những yếu tố có thể là động lực phát triển ở nông thôn. Sự gia tăng
dân số trẻ ở đô thị có khả năng đi kèm với gia tăng tỉ lệ thất nghiệp, tạo ra đội quân vô gia
cư, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội như: tội phạm, gái mại dâm và bất bình đẳng,
chênh lệch giàu nghèo…
Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 cho thấy các nguyên nhân chủ yếu khiến cho người
dân di cư lần đầu tiên là :
1. Tìm được việc làm ở nơi ở mới (51,1%). Đây là lí do quan trọng nhất.
2. Để cải thiện đời sống (47,6%)
3. Gần người thân (20,8%)
4. Vì tương lai của con cái (11,9%)
5. Để cải thiện điều kiện xã hội và môi trường (11,2%)
6. Không có việc làm ở nơi ở cũ (9,8%)
Các nguyên nhân khác như: đã học xong, đi học, tái định cư, chỉ có dưới 10% người di
dân xác nhận là họ di chuyển vì những lí do này bên cạnh những lí do khác.
Kết quả của TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009, cũng chỉ rõ “Lí do chủ yếu làm cho người
di dân lựa chọn vùng chuyển đến là việc làm. Tiếp đó là khoảng cách di chuyển, đa số
người di dân thích chuyển đến những vùng lân cận”. Điều này cũng dễ hiểu đối với người
Việt Nam, khi di dân vẫn muốn có khoảng cách gần với quê hương, người thân [35]. Cụ thể
là, người di dân của vùng ĐBSCL chuyển đến Bình Dương chiếm tỉ lệ lớn nhất.
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân khiến người dân có thể di dân từ nơi này đến nơi
khác để sinh sống. Mỗi cá nhân có những quyết định khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Các yếu tố đó gồm:
• Các đặc trưng nhân khẩu học như: tuổi, giới tính. Các đặc trưng này quyết định vị trí
của mỗi cá nhân trong chu kì cuộc sống và vai trò của họ trong gia đình và xã hội.
• Trình độ chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp của từng người. Ở đây có thể hiểu là trình
độ học vấn và trình độ chuyên môn kĩ thuật. Các trình độ, kĩ năng này có thể giúp hoặc ngăn
cản họ tham gia vào lực lượng lao động ở địa phương nơi đi và nơi đến.
• Sự nắm bắt và nhận thức về các cơ hội tại địa phương nơi họ đang sinh sống và
những địa phương nơi họ dự định ra đi. Điều này sẽ thúc đẩy họ ra đi hay ở lại.
• Nhận thức về lối sống, điều kiện vật chất. Đây là những cái cá nhân mong muốn đạt
được. Điều này cũng là những yếu tố góp phần hình thành quyết định di dân.
• Người thân và bạn bè cũng có thể ảnh hưởng tới quyết định của mỗi cá nhân. Người
ta thường chọn chuyển đến những nơi bạn bè và người thân đang sống. Đây là một hình
thức di dân gọi là di dân dây truyền. Do di chuyển theo dây chuyền, các dòng di dân từ một
vùng này đến một vùng khác có thể tiếp tục diễn ra khá lâu, ngay cả khi lí do lựa chọn ra đi
ban đầu không còn nữa.
Quyết định ra đi hay ở lại của mỗi người được hình thành nhờ sự tổng hợp của tất cả
các yếu tố này. Nhiều khi người ngoài rất khó hiểu đầy đủ lí do quyết định của từng cá
nhân.
Thu thập thông tin để xem xét lí do vì sao ai đó ra đi hay ở lại không phải là dễ dàng.
Điều này cho thấy trong các cuộc TĐT dân số hay trong các cuộc điều tra quy mô lớn rất
khó thu thập chính xác nguyên nhân của các quyết định di chuyển. Vì vậy, các cuộc nghiên
cứu quy mô nhỏ áp dụng các kĩ thuật nghiên cứu định tính rất thích hợp để làm sáng tỏ vấn
đề này. Tuy nhiên tại các cuộc điều tra lớn, có thể thu thập được các thông tin về các
nguyên nhân gián tiếp ảnh hưởng tới quyết định di dân như: các đặc trưng về kinh tế - văn
hóa của những người ra đi hay ở lại. Các đặc trưng như tuổi, giới tính, học vấn, việc làm thu
nhập và vị trí trong gia đình thường được thu thập trong các cuộc TĐT dân số sẽ là những
yếu tố quan trọng để giúp hiểu biết thêm về nguyên nhân di chuyển. Những người ra đi hay
ở lại thông thường khác nhau về những đặc trưng nêu trên.
1.2. Phân loại di dân
Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích
nghiên cứu. Tuy nhiên cần hiểu rằng cách phân chia nào cũng chỉ là tương đối và có thể đan
xen nhau trong các loại di dân. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu theo những chỉ
tiêu cơ bản: theo độ dài thời gian cư trú, theo khoảng cách di dân, theo tính pháp lí.
1.2.1. Theo độ dài thời gian cư trú
Có các hình thức di dân: lâu dài và tạm thời
Di dân lâu dài (di dân vĩnh viễn hay di dân không quay trở lại): Sự di chuyển thay đổi
chỗ ở của người dân được xác định trong thời gian dài trên 12 tháng. Bao gồm người di
chuyển đến nơi mới với mục đích sinh sống lâu dài, trong đó phần lớn những người di dân
là do chuyển công tác, thanh niên tìm cơ hội việc làm mới lập nghiệp và tách gia đình...
Những người này thường không quay trở về quê hương cũ sinh sống.
Di dân tạm thời: là sự thay đổi nơi ở gốc không lâu dài và khả năng quay trở lại là
tương đối chắc chắn (với thời gian dưới 6 tháng). Kiểu di dân này bao gồm các hình thức di
chuyển làm việc theo thời vụ, lao động và học tập có thời hạn...
1.2.2. Theo khoảng cách di dân
Người ta phân biệt di dân xa hay gần giữa nơi đi và nơi đến. Chia thành: di dân quốc
tế, di dân nội địa.
Trong nhiều trường hợp, người ta tách di dân quốc tế và di dân nội địa thành các nội
dung nghiên cứu riêng, trong mỗi nội dung lại đề cập đến các hình thức di dân khác nhau.
• Di dân quốc tế: hình thức di dân ra khỏi biên giới của một quốc gia, tức là di dân từ
nước này sang nước khác. Trong đó, có thể bao gồm dòng di chuyển của dân tị nạn, hợp tác
và xuất khẩu lao động, di dân thuộc địa.
Lịch sử di dân ghi nhận những thay đổi bước ngoặt trong việc phân bố lại dân cư giữa
các châu lục, đặc biệt từ thế kỉ XV, XVI, các cuộc chuyển cư với cường độ ngày càng lớn từ
các nước châu Âu sang châu Mĩ, từ châu Âu tới châu Đại Dương, châu Phi và từ châu Phi
tới châu Mĩ. Quá trình này gắn với việc xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ.
Trong giai đoạn hiện nay di dân quốc tế thường gắn với quá trình di chuyển lao động
(hoặc là có thời hạn hoặc là lâu dài) từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, từ
các nước đông dân nghèo tài nguyên đến các nước giàu tài nguyên và thưa dân. Số lao động
này bao gồm không chỉ những nhân công làm việc giản đơn, mà có cả những lao động "chất
xám", những chuyên gia, tạo nên hiện tượng "chảy máu chất xám" từ các nước đang phát
triển sang các nước phát triển. Chẳng hạn các chuyên gia công nghệ tin học của Ấn Độ xuất
ngoại làm việc ở Anh, Mĩ, Canada... Di dân quốc tế theo hướng trên thường gắn với việc
hoạch định chính sách xuất khẩu lao động của mỗi quốc gia.
Việt Nam cũng là một trong những nước đang phát triển có định hướng chiến lược
xuất khẩu lao động. Khoảng cuối thập kỉ 80 và 90 của thế kỉ 20, Việt Nam đã đưa hàng trăm
nghìn lao động có thời hạn sang các nước Đông Âu. Khi đó người ta nói về "hợp tác lao
động" thay vì "thị trường lao động" theo tính chất của liên kết kinh tế và chính trị.
Hiện nay, xuất khẩu lao động được xem là quốc sách ở nước ta, trong xu thế hội nhập,
tìm kiếm thị trường để xuất khẩu lao động đang là nhiệm vụ quan trọng khi các "thị trường
truyền thống" trước đây bị thu hẹp hoặc bị mất, đã thay đổi cả về tính chất và nội dung. Các
thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước có dầu mỏ ở Trung
Đông đang là một hướng mới đã làm thay đổi cả về tính chất và nội dung của di dân [35].
• Di dân nội địa: là quá trình di dân diễn ra trong nội bộ của một quốc gia. Tùy thuộc
vào mục đích và cấp hành chính mà có thể thống kê di dân theo từng cấp khác nhau: di dân
nội vùng, ngoại vùng; di dân nội tỉnh, ngoại tỉnh; di dân nội và ngoại huyện. Di dân nội địa
là một nội dung luôn được ưu tiên nghiên cứu đối với mỗi nước nhằm phục vụ việc hoạch
định chính sách phát triển KT-XH.
Việt Nam, do tính lịch sử của sự phân chia địa giới trong quá trình dựng nước và giữ
nước, có các hình thức di dân: giữa ba miền Bắc, Trung, Nam; giữa các vùng kinh tế và giữa
các đơn vị hành chính. Kết quả TĐT dân số ngày 1/4/2009 và ĐTBĐDS và KHHGĐ ngày
1/4/2011 cho thấy: tất cả các vùng đều có sự xuất cư khá mạnh mẽ, đặc biệt là vùng ĐBSCL
và BTB&DHNTB, ngược lại vùng ĐNB lại có số lượng nhập cư lớn hơn rất nhiều so với
xuất cư [35].
1.2.3. Theo tính pháp lí
Tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của chính quyền Trung ương hay địa phương mà
người ta phân chia di dân thành các loại: di dân hợp pháp hay bất hợp pháp, di dân tự do
hay có tổ chức, di dân tự nguyện hay bắt buộc.
• Di dân hợp pháp: là những cuộc di dân phù hợp với luật pháp của một quốc gia.
• Di dân bất hợp pháp: là di dân không được chính quyền, Nhà nước chấp nhận. Sau
các cuộc chiến tranh có thể có hiện tượng "di tản", "vượt biên trái phép" từ các nước không
ổn định về chính trị hoặc nghèo về kinh tế đến các nước ổn định hơn và kinh tế phát triển
hơn. Chẳng hạn, như sự nhập cư trái phép của người vượt biên châu Á, châu Phi vào châu
Âu, châu Úc, vào các nước Bắc Mĩ…
• Di dân có tổ chức: là sự di chuyển theo các chương trình nhằm thực hiện các mục
tiêu hay chương trình phát triển KT-XH do Nhà nước trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và đầu tư
kinh phí.
Di dân có tổ chức bao gồm các hình thức:
+ Di dân xây dựng các vùng kinh tế mới.
+ Định canh, định cư.
+ Di dân ổn định biên giới.
+ Điều lao động, thuyên chuyển công tác.
+ Tổ chức các đội thanh niên xung phong.
+ Tuyển sinh và phân phối học sinh tốt nghiệp các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề.
Hình thức di dân có tổ chức, trong đó Nhà nước và chính quyền các cấp có thẩm
quyền, hoặc có cơ quan chuyên trách về di dân, đóng vai trò quyết định và chủ động theo kế
hoạch thống nhất. Đó là việc đề ra và thực thi các chính sách điều động dân cư, đi xây dựng
các khu kinh tế mới, giãn dân...với mục đích sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên và
phân bố lại lao động, đem lại lợi ích về kinh tế, chính trị và quốc phòng cho quốc gia. Sự
phân bố lại dân cư ở Liên Xô (cũ): di dân từ phía Tây sang phía Đông nhằm phát triển kinh
tế vùng Xibia và Viễn Đông. Ở Việt Nam cũng tiến hành nhiều cuộc di dân có tổ chức như:
phân bố lại dân cư lên vùng núi và trung du phía Bắc trong những năm 1960 để phát triển
KT-XH các vùng. Sau ngày giải phóng miền Nam 1976, nước ta có sự điều động cán bộ từ
miền Bắc vào miền Nam công tác đã bổ sung một lực lượng cán bộ khoa học và cán bộ
quản lí, tạo điều kiện cho sự tiếp quản, phát triển KT-XH miền Nam. Sự di chuyển dân cư
từ TP.HCM đi Long Thành, Đồng Nai, Sông Bé giai đoạn 1976 - 1984 nhằm giãn dân do
ĐTH quá mức.
• Di dân không có tổ chức (di dân tự do): Là sự di chuyển đến nơi cư trú mới, hoàn
toàn do người di dân quyết định về việc lựa chọn địa điểm, cách di chuyển, chi phí trang trải
và tìm việc làm ở nơi mới đến. Tuy nhiên, những người di dân này đã thực hiện một số thủ
tục tối thiểu cần thiết với chính quyền địa phương nơi họ cư trú.
Bản chất của di dân tự do là người di chuyển tự quyết định nơi đến theo mục đích
riêng của mình. Họ ra đi để hướng đến một nơi có cuộc sống vật chất tốt đẹp hơn, thu nhập
khá hơn hoặc có điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ học vấn của mình…Ở Việt Nam,
di dân tự do phát triển mạnh từ sau năm 1989, khi cơ chế thị trường thực sự phát huy tác
dụng của nó. Quá trình di dân tự do cũng đã đem lại lợi ích không nhỏ cho cả nơi xuất cư và
nơi nhập cư. Tuy vậy, do tính chất tự phát nên ngoài những ảnh hưởng tích cực, di dân tự do
cũng không tránh khỏi những hậu quả tiêu cực đối với nền KT-XH.
Trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, di dân tự do phát triển khá mạnh. Các kết
quả điều tra cho thấy cường độ di dân tự do ngày càng cao, hướng di chuyển đa dạng, quản
lí phức tạp. Di dân tự do được coi là một trong những phương tiện điều tiết thị trường lao
động [36]. Tuy nhiên, di dân tự do cũng đang gây nhiều khó khăn trong quản lí, làm tăng
nạn phá rừng, làm trầm trọng thêm nạn ách tắc giao thông ở các thành phố lớn, làm ảnh
hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người di dân…Để nắm bắt tính quy luật của
các hướng di dân tự do trong điều kiện kinh tế thị trường đang hình thành còn cần có thời
gian.
1.2.4. Theo các hình thức di dân khác
Ngoài các loại di dân trên, có thể liệt kê một số loại di dân đáng chú ý khác. Nếu căn
cứ vào số lượng người di dân có thể phân biệt di dân cá nhân hay hộ gia đình. Căn cứ vào
hướng di dân, có thể chia thành 4 dòng: nông thôn - nông thôn; nông thôn - thành thị; thành
thị - thành thị; thành thị - nông thôn. Tùy theo trình độ phát triển KT-XH của đất nước sẽ có
một luồng chủ yếu, các luồng còn lại ít hơn.
Một hình thức di dân phổ biến nữa hiện nay là di dân của những người ở nông thôn,
đặc biệt là những người trẻ tuổi đến tìm việc ở khu vực phi chính thức tại các thành phố lớn.
Đặc điểm của những người này là không có chuyên môn nghề nghiệp, làm việc cho những
chủ nhỏ hoặc cá thể, tiểu chủ. Những người chủ này thường không đăng kí sản xuất kinh
doanh và không đăng kí chính thức tuyển dụng lao động. Những người lao động tại khu vực
phi chính thức, thường không kí hợp đồng lao động, nên thường không được hưởng các chế
độ như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không có chế độ nghỉ lễ và chủ nhật. Họ thường là
những người gặp nhiều rủi ro trong cuộc sống như: dễ bị lạm dụng tình dục (đối với phụ
nữ), bị đối xử không công bằng. Họ thường phải sống trong những ngôi nhà thiếu tiện nghi
sinh hoạt. Nhiều nơi hình thức di dân này còn được gọi dưới cái tên “di dân trôi nổi”.
1.3. Các lí thuyết giải thích nguyên nhân chủ yếu của di dân
Nhằm giải thích đầy đủ hơn bản chất của di dân trong các điều kiện KT-XH cụ thể, các
nhà nghiên cứu thường tập trung phân tích vì sao một số người di dân và một số khác lại
không, một số người di dân theo hướng này một số khác lại lựa chọn các hình thức và
hướng di dân khác.
1.3.1. Lí thuyết lực hút - lực đẩy
Trên cơ sở quan sát các hiện tượng di dân, nhiều lí thuyết di dân đã được khái quát,
trong đó phải kể đến lí thuyết "lực đẩy - lực hút" do Ravenstein (1889) là người đầu tiên đưa
ra. Khi phân tích các dòng di dân ở nước Anh, ông cho rằng các yếu tố "lực hút" quan trọng
hơn các yếu tố "lực đẩy". Theo ông: "Các luật lệ tồi hoặc ngột ngạt, thuế khóa nặng nề, khí
hậu không thuận hòa, môi trường xã hội xung quanh không cởi mở, thậm chí có sự cưỡng
bức (trong buôn bán, vận chuyển nô lệ),…tất cả những điều đó đã và đang tạo ra các hình
thức di dân, tuy nhiên không có loại hình di dân nào có thể so sánh với khát vọng tiềm ẩn
trong mỗi người đàn ông vươn lên làm tốt hơn cho cuộc sống của chính họ về phương diện
vật chất". Rõ ràng Ravenstein cho rằng khát vọng vươn lên phía trước, tới điều kiện sống tốt
hơn, mạnh mẽ hơn, mong muốn trốn tránh hoàn cảnh không thuận lợi. Và đó cũng chính là
thực chất động cơ di dân của phần lớn dân cư. Cũng cần nhấn mạnh rằng, thường thì người
di dân, đặc biệt là người nghèo khổ tham gia di dân đều chịu tác động đồng thời của cả “lực
đẩy” và “lực hút” [35].
Ngoài ra, quá trình di dân còn được thúc đẩy bởi sự tiến bộ của công nghệ, sự phát
triển kinh tế và giao thông vận tải. Các yếu tố thuộc về sức đẩy là: Thiếu đất đai canh tác,
thiếu việc làm có thu nhập cao, không có cơ hội phát triển kinh tế, cuộc sống buồn tẻ, thiếu
cơ hội giao lưu xã hội, chiến tranh và thiên tai, bệnh dịch.
Các yếu tố thuộc về sức hút: Kinh tế phát triển, giao thông thuận tiện, cơ hội việc làm có thu
nhập cao, cơ hội học tập đào tạo nâng cao trình độ học vấn, cơ hội giao lưu…
Theo phân tích của Todaro về vai trò của các nhân tố kinh tế trong di dân nông thôn –
thành thị, tác giả chỉ ra rằng giữa nông thôn và thành thị luôn có những chênh lệch về tiền
lương. Chính sự khác biệt này đóng vai trò thúc đẩy sự di dân. Để có thể tham gia vào thị
trường lao động ở thành thị, người lao động chấp nhận tất cả các công việc có thể làm được
dù là nặng nhọc, ngắn hạn, không ổn định. Những người di dân tiềm năng sẽ tính toán và
tiếp tục di dân khi mà tiền lương của họ mong đợi ở thành thị vượt quá thu nhập cơ bản của
nông nghiệp.
Một số tác giả khác như Asfaha và Jooste (2006) và Nanavati (2004) cũng đồng tình
với quan điểm của Todaro, đồng thời nhấn mạnh rằng hiện tượng dư thừa lao động hoặc thất
nghiệp tạm thời ở khu vực nông thôn trong giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp
sang công nghiệp hóa là phổ biến. Các tác giả này chứng minh rằng quá trình chuyển đổi
này có liên hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang công
nghiệp, nơi có năng suất trên mỗi đơn vị lao động cao hơn, có nghĩa là tiền lương nhận được
cũng cao hơn. Xu hướng di dân từ nông thôn ra thành thị được xem là một quá trình tự
nhiên, trong đó lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn được dùng để bù vào sự thiếu hụt lao
động trong khu vực công nghiệp, đô thị trong quá trình phát triển công nghiệp [17].
1.3.2. Lí thuyết cấu trúc của Lee
Lee (1966) tổng kết hai nhóm yếu tố quyết định việc di dân của người dân từ nông
thôn ra thành thị:
1) Nhóm yếu tố tiêu cực - nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế, thiếu đất, mức
sống thấp ở quê nhà;
2) Nhóm yếu tố tích cực - sự thịnh vượng, cơ hội, công việc làm ăn, mức sống cao ở
nơi đến…
Trong hai nhóm yếu tố này, những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc người ta
phải rời nơi sinh sống của mình còn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp dẫn của nơi đến.
Tác giả cũng đã khái quát hai tính chất cơ bản của di dân như sau:
• Một là, di dân mang tính chất chọn lọc (không phải mọi người đều di dân, mà chỉ một
bộ phận "chọn lọc" trong dân số di dân mà thôi).
• Hai là, mỗi thời kì của chu kì cuộc sống con người có các thiên hướng di dân khác
nhau, chẳng hạn thanh niên khi trưởng thành có nhu cầu, mong muốn cơ hội học tập cao
hơn, có việc làm tốt hơn, thăng tiến trong sự nghiệp và xây dựng gia đình.
Mitchell (1985) nhấn mạnh nhận thức tầm quan trọng của cơ chế di dân. Điều này rất
hữu ích trong việc lí giải nguyên nhân vì sao một số người ra đi và những người khác vẫn ở
lại, dù đó là mỗi cá nhân hay cộng đồng. Các yếu tố quyết định đến quyết định di chuyển
bao gồm:
• Các yếu tố mang tính cơ học như: khí hậu hay năng suất của đất đai.
• Các yếu tố kinh tế như sự giàu có (hay nghèo khó) tương đối hay cơ hội về việc làm.
• Các yếu tố xã hội cản trở họ ra đi hay thúc đẩy họ ra đi.
• Các yếu tố chính trị như vấn đề luật pháp khuyến khích hoặc bắt buộc họ phải di
chuyển đến một vùng nhất định hay bất cứ đâu.
Mitchell cũng khẳng định sự quyết định ra đi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác,
như các đặc trưng về dân số (tuổi, giới tính, vai trò của cá nhân trong gia đình và xã hội);
trình độ học vấn và tay nghề giúp họ có thể tham gia vào cộng đồng, người thân bạn bè nơi
đến cũng ảnh hưởng đến khả năng di dân. Cuối cùng sự quyết định ra đi phụ thuộc tổng hợp
vào những yếu tố trên [17].
1.4. Các chỉ tiêu đo lường di dân
Thông thường người ta thường sử dụng các chỉ tiêu đo lường về di dân sau:
1.4.1. Số di dân thuần (số dư biến động cơ học: NM)
Đây là chỉ tiêu thể hiện chênh lệch giữa số người di dân đến (số người nhập cư) và số
người di dân đi (số người xuất cư).
NM = I – O
Trong đó NM: Di dân thuần túy; I: số người nhập cư đến; O: số người xuất cư.
NM cho biết tổng số dân của địa phương, vùng tăng lên hay giảm đi trong kì do ảnh
hưởng của quá trình di dân (nếu O lớn hơn I, NM mang dấu âm). Đây cũng là một trong
những căn cứ quan trọng để phân tích đánh giá ảnh hưởng của di dân đến phát triển KT-XH
của vùng, địa phương [35].
1.4.2. Tổng số di dân (TM)
Là tổng số người di chuyển trong thời gian nhất định, tính tổng cộng cả người di
chuyển đi và người di chuyển đến
TM = I + O
Trong đó TM: Tổng số di dân; I: số người nhập cư đến; O: số người xuất cư.
TM không cho biết số dân tăng lên hay giảm đi do tác động của di dân, mà cho thấy rõ
sự “năng động xã hội” của tổng thể dân cư thông qua quá trình di dân. Tổng số di dân có
nhiều tác động đến tình hình KT-XH do việc di chuyển của người dân thường kèm theo việc
thay đổi nơi ở, nghề nghiệp, tập quán sinh hoạt.
1.4.3. Tỉ suất nhập cư (IMR = In Migration Rate)
Là tỉ số tương quan giữa số người nhập cư đến một nơi định cư mới, tính trên 1000
IMR =
dân của nơi đến trong năm đó.
I P
Tỉ suất nhập cư (‰):
Trong đó IMR: Tỉ suất nhập cư (‰); I: số người nhập cư đến vùng trong năm; P : số
dân bình quân trong năm.
Như vậy, chỉ tiêu này biểu thị cường độ của quá trình nhập cư trong năm. Những
người mới nhập cư thường là chưa được thực sự ổn định về chỗ ở, về công ăn việc làm, về
các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng dân cư mới…Vì vậy, đây cũng là một trong những
căn cứ để phân tích đánh giá ảnh hưởng của di dân đến phát triển KT-XH của vùng, địa
phương [35].
Để tính được chỉ tiêu này, cần phải thống kê được số người nhập cư trong năm và số
dân bình quân năm.
1.4.4. Tỉ suất xuất cư (OMR = Out Migration Rate)
Là tỉ số tương quan giữa số người di cư rời bỏ nơi mình đang sinh sống để đến một nơi
OMR =
một nơi định cư mới, tính trên 1000 dân của nơi họ rời bỏ trong năm đó.
O P
Tỉ suất xuất cư (‰):
Trong đó OMR: Tỉ suất xuất cư (‰); O: số người xuất cư khỏi vùng trong năm; P : số
dân bình quân trong năm.
Chỉ tiêu này biểu thị cường độ của quá trình xuất cư trong năm. Người xuất cư gây ra
sự thiếu hụt về lao động, sự xáo trộn về cơ cấu dân cư theo độ tuổi, giới tính. Vì vậy, nó
cũng ảnh hưởng nhất định đến phát triển KT-XH của vùng, địa phương có người xuất cư
[35].
Để tính được chỉ tiêu này, cần phải thống kê được số người xuất cư trong năm và số
dân bình quân năm.
1.4.5. Tổng tỉ suất di dân (TMR = Total Migration Rate)
Là tỉ số tương quan giữa tổng số người nhập cư và xuất cư so với dân trung bình của
=
TMR
một lãnh thổ trong một năm.
+ OI P
Tổng tỉ suất di dân (‰):
Trong đó TMR: Tổng tỉ suất di dân (‰).
Như vậy, TMR không phản ảnh nhịp độ gia tăng dân số, mà nó phản ánh nhịp độ biến
động dân số do tác động của di dân. Cả nhập cư và xuất cư đều có những tác động tích cực
và tiêu cực nhất định cho phát triển KT-XH, nhất là cho việc quản lí xã hội, quản lí dân số.
Vì vậy, độ lớn của chỉ tiêu này cho phép đánh giá tác động chung của di dân đến các vấn đề
KT-XH của tổng thể dân cư được nghiên cứu [35].
1.4.6. Tỉ suất di dân thuần (NMR = Net Migration Rate)
Tỉ suất di dân thuần túy hay tỉ suất di dân thực của một vùng là hiệu số giữa tỉ suất
=
NMR
nhập cư và tỉ suất xuất cư của dân số một vùng trong một năm.
− OI P
Tỉ suất di dân thuần (‰):
Trong đó NMR: Tỉ suất di dân thuần (‰). NMR cho biết, cứ bình quân 1000 người
dân trong kì (thường là 1 năm) thì quá trình di dân làm cho số dân của địa phương tăng
thêm hoặc giảm bớt bao nhiêu người. Do đó, có thể dùng chỉ tiêu này để so sánh, đánh giá
tác động của di dân đến nhịp độ tăng (giảm) dân số giữa các vùng, các địa phương không có
cùng quy mô dân số. Tỉ suất di dân thuần là chỉ tiêu tổng hợp cho phép nghiên cứu xu
hướng di dân của một địa phương, đồng thời cho phép so sánh mức độ di dân giữa các địa
phương với nhau [35].
1.5. Các phương pháp đo lường di dân
Các phương pháp đo lường di dân có thể chia tương đối thành hai loại: trực tiếp và
gián tiếp.
1.5.1. Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này cho phép xác định quy mô di dân dựa vào các cuộc TĐT dân số,
thống kê hộ tịch, hộ khẩu (TKHTHK) và điều tra mẫu về dân số (ĐTMDS).
Trong các cuộc TĐT dân số thường có các câu hỏi để đo lường mức độ di dân như: 1/
Nơi sinh, 2/ Thời gian cư trú, 3/ Nơi cư trú cuối cùng, 4/ Nơi cư trú vào một thời điểm xác
định trước đó…dựa vào đó có thể thống kê được số người di dân.
Nếu dựa trên chuẩn mực về không gian qua số liệu TĐT dân số và nhà ở, ta có thể xác
định được người di dân và không di dân. Tuy nhiên phương pháp này cũng còn chưa thống
kê được số người chuyển đi nhưng đã chuyển về nơi ở cũ hoặc chuyển đến rồi lại chuyển đi
trong cùng kì. Đồng thời, cũng không cho phép xác đinh được tình trạng di dân của số trẻ
em dưới 5 tuổi (đối với TĐT dân số) và của số trẻ em dưới 1 tuổi (đối với các cuộc điều tra
chọn mẫu biến động dân số) hằng năm. Vì vậy, trong các cuộc TĐT dân số, người ta chỉ xác
định được tình trạng di dân của dân số từ 5 tuổi trở lên. Tuy có hạn chế về mức độ chính
xác, nhưng nó cũng cho biết bức tranh di dân về tổng thể.
Ngoài TĐT dân số, quy mô di dân còn được xác định thông qua thống kê hộ tịch hộ
khẩu. Di dân quốc tế có thể được biết qua số lượng người xuất và nhập cảnh tại các cửa
khẩu. Di dân nội địa có thể nắm bắt được qua hệ thống đăng kí hộ tịch, hộ khẩu tại các cấp
chính quyền. Hệ thống đăng kí hiện nay ở nước ta đang dần được hoàn thiện để có thể phục
vụ cho mục đích này.
1.5.2. Phương pháp gián tiếp
Khi thiếu các nguồn số liệu nêu trên có thể sử dụng phương pháp gián tiếp để tính một
số chỉ tiêu di dân dựa vào: 1/ Thống kê hộ tịch, 2/ Biến động chung và biến động tự nhiên
dân số, biến động cơ học dân số.
Nếu biết quy mô gia tăng dân số chung và gia tăng tự nhiên dân số thì có thể tính được
di dân thuần túy theo công thức sau:
NM = (Pt+n - Pt) - (B - D)t,t+n
Trong đó:
NM: lượng di dân thuần túy, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư trong
khoảng thời gian từ thời điểm t đến thời điểm t+n tính bằng năm.
Pt và Pt+n: tổng dân số vào thời điểm t và t+n.
B và D: tổng số sinh và chết trong cùng thời kì.
)
Nếu không có số liệu về sinh và chết, thì có thể ước lượng gần đúng di dân thuần túy
(P và tỉ suất tăng cơ học dân số của kì trước như sau:
(NM) dựa vào số dân
NM = ( P * NMR0) * n
Trong đó :
NM: lượng di dân thuần túy, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư trong
khoảng thời gian từ thời điểm t đến thời điểm t+n tính bằng năm.
P : số dân trung bình giữa thời điểm t và t+n.
NMR0: tỉ suất di dân thuần túy (tỉ suất tăng cơ học dân số) của kì gốc.
n : số năm hay khoảng thời gian giữa hai thời điểm.
1.6. Ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Như đã nêu, di dân mang bản chất KT-XH sâu sắc.Trong điều kiện bình thường người
ta di dân vì các nguyên nhân kinh tế và xã hội là chủ yếu. Do đó, động cơ di dân đã và đang
là vấn đề được các nhà nghiên cứu dân số và xã hội học quan tâm. Di dân có ảnh hưởng sâu
sắc đến phát triển KT-XH ở cả nơi đến và nơi đi.
1.6.1. Ảnh hưởng của nhập cư
1.6.1.1. Ảnh hưởng tích cực
Ảnh hưởng của người nhập cư đến phát triển KT-XH rất rõ rệt, cụ thể như sau:
- Góp phần phát triển KT-XH làm tăng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao
động ở nơi đến đặc biệt là các thành phố.
- Góp phần đa dạng cơ cấu ngành nghề cho vùng nhập cư, thúc đẩy phát triển ngành
nghề dịch vụ, làm cho các dịch vụ đến gần dân hơn, tiện lợi hơn.
- Trong nền kinh tế thị trường, điều tiết vĩ mô về di dân góp phần hình thành và hoàn
thiện thị trường lao động giữa các vùng kinh tế, giữa nông thôn và thành thị.
- Góp phần điều tiết giá cả lao động trên thị trường lao động. Nếu không có người di
dân đến, tại các thành phố lớn nói chung sẽ thiếu lao động làm việc trong các ngành xây
dựng, may mặc…
- Di dân ảnh hưởng lớn đến sự phát triển dân số: Thể hiện ở quy mô dân số, ngoài ra di
dân không chỉ ảnh hưởng đến quy mô dân số mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu dân số. Những
cơ cấu dân số có thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất của di dân là cơ cấu tuổi, cơ cấu giới tính và
cơ cấu theo trình độ học vấn.
- Di dân gián tiếp tác động đến các chỉ tiêu dân số học, trong đó trước hết phải kể đến
sinh, chết và hôn nhân. Cụ thể là dòng di dân từ nông thôn - thành thị thường là có mức sinh
giảm và độ tuổi kết hơn muộn hơn.
- Di dân góp phần phân bố lại dân cư và lao động di dân là nguồn cung cấp nhân lực
cho các ngành kinh tế, đặc biệt trong ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Mặt khác, trong những trường hợp nếu người di dân lớn, chắc chắn chất lượng dân số
có sự thay đổi, bởi vì sự hiện diện của những người mới đến sẽ mang trong mình các đặc
trưng văn hóa, trình độ chuyên môn, tay nghề, tính cách khác với những người dân đang
sinh sống tại chỗ.
- Nhập cư làm đa dạng nền văn hóa: Thành phần di dân vào nơi nhập cư rất đa dạng,
người di dân có những nét văn hóa riêng. Vì vậy, khi di chuyển đến vùng đất mới, chính
những người di dân đã góp phần làm cho nền văn hóa của nơi đến trở nên đa dạng và phong
phú hơn.
1.6.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực
- Gia tăng dân số cơ học nhanh, đặc biệt là ở những nơi đô thị hóa nhanh đã làm tăng
gánh nặng về KT-XH, làm cho cơ sở hạ tầng trở lên quá tải. Các điều kiện về cơ sở hạ tầng
như nhà ở, trường học, bệnh viện, điện, nước, đường phố, vệ sinh môi trường và các điều
kiện khác hiện chưa thể đáp ứng được tốt so với số dân thực tế đang sống tại các tỉnh, thành
phố.
- Di dân từ nông thôn - thành thị đã làm cho diện tích đất đô thị ngày càng mở rộng,
điều đó cũng đồng nghĩa với sự lấn chiếm một phần lớn diện tích đất nông nghiệp để làm
nhà ở, công xưởng, đường sá…
- Người di dân chưa có thói quen bảo vệ môi trường đã làm ảnh hưởng xấu đến vệ sinh
đường phố và môi trường đô thị. Mặt khác, người di dân thường không tham gia vào các
hoạt động cộng đồng.
- Người di dân làm việc ở khu vực phi chính thức hay thay đổi chỗ làm việc và chỗ ở,
số người không đăng kí tạm trú rất nhiều. Điều này gây khó khăn cho công an trong việc
quản lí trật tự trị an.
- Số lượng người di dân đến các thành phố lớn, đặc biệt là những người trình độ học
vấn thấp, chưa qua đào tạo nghề nghiệp. Vì vậy, rất nhiều người di dân không có việc làm
ổn định, thu nhập thấp. Di dân ồ ạt đến các thành phố cũng góp phần làm tệ nạn trộm cắp
gia tăng, đại bộ phận trong số họ là thanh niên ngoại tỉnh.
1.6.2. Ảnh hưởng của xuất cư
1.6.2.1. Ảnh hưởng tích cực
- Xuất cư làm cho quy mô dân số nơi đi giảm đi, qua đó góp phần giảm sức ép về dân
số, lao động và việc làm. Tạo điều kiện cho các vùng xuất cư tăng diện tích đất canh tác
theo đầu người, tăng thu nhập đầu người, nâng cao mức sống cho nhân dân, giảm sự cách
biệt về mức sống giữa các vùng.
- Góp phần phát triển kinh tế gia đình ở địa phương nơi đi qua đó làm thay đổi bộ mặt
làng quê ở nơi đi. Ảnh hưởng tích cực của người di dân đối với gia đình và địa phương nơi
đi được đánh giá qua số tiền gửi về gia đình, sử dụng tiền gửi của gia đình vào phát triển
kinh tế, giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và đầu tư phát
triển kinh tế ở địa phương.
- Phổ biến lối sống văn minh đô thị cho vùng xuất cư, góp phần nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần cho vùng xuất cư.
- Giảm đói nghèo ở vùng xuất cư.
- Giảm sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện phát triển, bảo vệ nguồn tài
nguyên nông - lâm - ngư nghiệp ở các nơi xuất cư.
1.6.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
- Thiếu lao động tại địa phương nơi đi: Khi người di dân tìm việc làm một cách ồ ạt,
do đặc trưng chủ yếu của người di dân là những người trong độ tuổi lao động, nên đã làm
cho nơi xuất cư thiếu nguồn lao động trong sản xuất nông nghiệp.
- Một số lối sống đô thị không phù hợp với truyền thống đã du nhập vào cuộc sống
hàng ngày ở nơi đi, làm mất thuần phong mỹ tục ở nông thôn.
- Một ảnh hưởng tiêu cực nữa cần phải kể đến là :
+ Một số nữ thanh niên đã có quan hệ tình dục tiền hôn nhân và mang thai ngoài giá
thú. Số nữ thanh niên này quay về quê cũ tìm sự giúp đỡ của gia đình. Làm cho gia đình ở
nơi đi không chỉ chịu thiệt thòi về kinh tế mà còn là gánh nặng tâm lí đối với họ.
+ Nhiều thanh niên di dân mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS tạo
ra gánh nặng về chăm sóc về y tế, về tinh thần cho gia đình.
+ Nhiều trẻ em đã chịu những cú sốc tâm lí khi cha mẹ di dân tìm việc làm ở nơi khác
không thể chăm sóc chúng hàng ngày. Các biểu hiện cụ thể là: Kết quả học tập kém đi,
không nghe lời ông bà hoặc người đỡ đầu, trộm cắp, sử dụng ma túy…
+ Một số cặp vợ chồng đã ly hôn sau thời gian xa cách vì nhiều lí do: không còn phù
hợp về lối sống, nghi ngờ vợ (chồng) không chung thủy…
1.7. Tổng quan về di cư ở Việt Nam
1.7.1. Trước năm 1954
Đây là giai đoạn di cư tự do tồn tại khách quan theo quy luật của hiện tượng này, các
cuộc di cư chủ yếu là đi tìm vùng đất mới và chịu tác động của chế độ phong kiến thời xa
xưa. Miền Nam với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi là động lực chính cho dân từ các
tỉnh thành khác đến. Do quá trình Nam tiến diễn ra liên tục từ thế kỉ XVI đến vùng đất Đồng
Nai – Gia Định nói riêng và vùng đất ĐNB nói chung nên dân cư vùng ngày càng đông.
Thống kê của Tổng cục thống kê cho thấy phần lớn dân cư vùng ĐNB hiện nay là dân di cư
[36].
1.7.2. Từ năm 1954 đến năm 1975
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này chịu tác động của chiến tranh Bắc – Nam. Sự chia
cắt đất nước thành hai miền làm cho di cư hạn chế và chỉ diễn ra trong từng miền. Ở miền
Bắc có gần 1,1 triệu người di dân do Nhà Nước tổ chức đi xây dựng vùng kinh tế mới từ
ĐBSH tới các tỉnh TD&MNPB. Ở miền Nam việc tổ chức các ấp chiến lược và do chiến sự
nên dân dồn về các thành phố, các tỉnh và vùng ven đô thị trong đó nhiều nhất là các thành
phố, các tỉnh thuộc vùng ĐNB. Trong cả nước, giai đoạn đầu của thời kì, do hậu quả của
việc chia cắt đất nước bị chia cắt nên di cư Bắc - Nam diễn ra mạnh do nguyên nhân chiến
tranh, trong đó điển hình là “cuộc di cư vào Nam” năm 1954 [36].
1.7.3. Từ năm 1976 đến thập kỉ 90 (thế kỉ XX)
Là giai đoạn có nhiều khó khăn và biến động lớn của xã hội. Sau thống nhất đất nước
1975, di cư trong những năm đầu của giai đoạn diễn ra chủ yếu do sự sum họp sau 30 năm
đất nước bị chia cắt. Sau năm 1975, do có sự biến động lớn về chính trị (đất nước thống
nhất), di cư một phần do chạy loạn chiến tranh nay trở về quê cũ, một phần do đồng bào một
số tỉnh miền Bắc và miền Trung di cư “vào Nam” lập nghiệp theo chính sách kinh tế mới
của Nhà nước. Vì thế số người di cư rất lớn. Nổi bật nhất về di cư trong giai đoạn này là
hình thức di cư có tổ chức, di dân nông nghiệp từ ĐBSH, BTB&DHNTB đến Tây Nguyên,
ĐNB và ĐBSCL. Riêng giai đoạn này đã chuyển cư được gần 4 triệu người [36].
1.7.4. Từ thập kỉ 90 đến nay
Sự nghiệp đổi mới đã đem lại những biến đổi về cấu trúc xã hội với sự chuyển đổi từ
hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Sự gia tăng tốc độ thương mại
hóa sản xuất nông nghiệp và sự thay thế lao động sống bằng áp dụng các thành tựu khoa học
trong nông nghiệp là nhân tố cơ bản giải phóng sức lao động tạo ra một bộ phận lớn lao
động dư thừa ở nông thôn làm cho họ phải đi tìm cơ hội về việc làm và thu nhập. Vì thế lao
động ngoại tỉnh, ngoại vùng ngày càng phổ biến và đã trở thành một nguồn lực quan trọng
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường dịch vụ và việc làm tại các trung tâm đô thị
và vùng kinh tế trọng điểm. Vì thế trong giai đoạn này di cư lao động là một tất yếu, phổ
biến ở nước ta, nó đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của xã hội [36].
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG DI DÂN Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI
2.1. Khái quát về tỉnh Bình Dương
Tỉnh Bình Dương được tách ra từ tỉnh Sông Bé theo Nghị quyết kì họp thứ 10 Quốc
hội khóa IX ngày 06/11/1996 và đi vào hoạt động từ năm 1997.
Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
(gồm 8 tỉnh thành: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Phước, Tây Ninh, Long An và tỉnh Tiền Giang), là một trong những tỉnh có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, phát triển công nghiệp năng động của cả nước.
Diện tích tự nhiên 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước, hơn 11,4%
diện tích miền Đông Nam Bộ). Dân số 1.705.283 người (1/4/2011), mật độ dân số khoảng 628 người/km2. Gồm 7 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó TP. Thủ Dầu Một là trung
tâm kinh tế - chính trị - văn hóa quan trọng của tỉnh.
Bình Dương là cửa ngõ giao thương với TP. Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế - văn hóa
của cả nước; có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13,
quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á …; cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và
các cảng biển chỉ từ 10 - 15 km… thuận lợi cho phát triển KT-XH toàn diện, tạo điều kiện
thu hút dân nhập cư đến tỉnh.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn ở mức cao, GDP
tăng bình quân khoảng 14,7%/năm (1999 – 2011). Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực,
công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng nhanh và chiếm tỉ trọng cao, năm 2011, tỉ lệ công nghiệp -
xây dựng 62,2%, dịch vụ 33,7% và nông – lâm – thủy sản 4,1%.
Hiện nay, Bình Dương có 28 KCN được thành lập có tổng diện tích gần 9.000 ha với
7.436 doanh nghiệp, trong đó: 54 doanh nghiệp nhà nước, 6.036 doanh nghiệp ngoài nhà
nước và 1.346 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động sản xuất với tổng
số vốn sản xuất kinh doanh hơn 340,7 tỉ đồng [13].
Với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, tiềm năng KT-XH và chính sách lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển bền vững, trở thành một trong những
thành phố văn minh, hiện đại ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Điều đó sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến di dân vào Bình Dương.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến di dân ở tỉnh Bình Dương
2.2.1. Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.2.1.1. Vị trí địa lí
Tọa độ địa lí từ 10o-50’-27’’ đến 11o-24’-32’’ vĩ độ Bắc và từ 106o-20’đến 106o25’
kinh độ Đông [19]. Phía Bắc tiếp giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam tiếp giáp TP. Hồ Chí
Minh, phía Đông tiếp giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây tiếp giáp tỉnh Tây Ninh và một phần TP.
Hồ Chí Minh.
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và là một góc quan trọng trong tứ giác tăng trưởng kinh tế: TP. Hồ Chí Minh –
Bình Dương – Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Với vị trí nằm gần trục hàng hải châu Á –
Thái Bình Dương, giáp với TP. Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế - văn hóa của cả nước,
có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua. Mặt khác, Bình Dương gần với
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vùng khai thác dầu khí lớn nhất nước ta), gần với Tây Nguyên
(vùng nguyên liệu nông sản lớn) và gần với đồng bằng sông Cửu Long (vùng lương thực,
thực phẩm lớn nhất cả nước).
Cự li tính từ đường ranh giới của Bình Dương về trung tâm TP. Hồ Chí Minh là gần
nhất và thuận tiện hơn so với các tỉnh lân cận, hơn nữa hệ thống giao thông cho phép kết
nối trong vùng ĐNB với vùng Tây Nguyên thì Bình Dương vừa được xem là cửa ngõ vừa
là nơi trung chuyển tải vận hàng hóa và hành khách…[8].
Từ vị trí địa lí gắn với tiềm năng lợi thế của các nguồn lực đã tạo thuận lợi cho sự
phát triển KT-XH, giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các tỉnh, các vùng trong nước và với
nước ngoài. Cùng với vị trí thuận lợi đó, đã tạo điều kiện cho tỉnh Bình Dương nhanh chóng
thu hút nguồn lao động chất xám nhập cư từ TP. Hồ Chí Minh, nguồn lao động phổ thông
nhập cư vào tỉnh từ hầu hết các tỉnh trong cả nước. Chính điều đó, làm cho tỉnh Bình
Dương có biến động dân số lớn và có tỉ lệ tăng dân số lớn nhất trong vùng ĐNB, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển KT-XH.
2.2.1.2. Địa hình
Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường
Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh ĐBSCL, là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng
yếu từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển.
Vùng đất Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Nhìn tổng
quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau: vùng địa hình núi thấp có lượn sóng
yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi ... Các quy luật tự nhiên tác
động lên vùng đất này tạo nên nhiều dạng địa mạo khác nhau: có vùng bị bào mòn, có vùng
tích tụ (do có sự lắng đọng của các vật liệu xâm thực theo dòng chảy), có vùng vừa bị bào
mòn, vừa tích tụ và lắng đọng. Có một số núi thấp, như núi Châu Thới (thị xã Dĩ An), núi
Cậu (còn gọi là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và một số đồi thấp.
Nhìn chung, với địa hình cao trung bình từ 6 – 60m (trừ một vài khu vực dọc sông Sài Gòn, sông Đồng Nai), độ dốc bình quân không quá 15o, đất đai ở đây ít bị lũ lụt, ngập úng,
thuận lợi cho phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, KCN và sản xuất nông nghiệp. Địa hình
của tỉnh tương đối bằng phẳng, nền địa chất ổn định, vững chắc nên thuận lợi cho việc phát
triển các công trình công nghiệp và giao thông vận tải, tạo điều kiện cho Bình Dương nối
với các tỉnh bạn bằng hệ thống các tuyến đường giao thông đường bộ, thuận tiện cho việc di
chuyển giữa các tỉnh, là lợi thế thu hút dân nhập cư vào tỉnh.
2.2.1.3. Khí hậu
Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền ĐNB: nắng nóng và
mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Khí hậu mang đặc trưng nhiệt đới cận xích đạo gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm (nhiệt độ: 250C - 270C), sự chênh lệch về nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất trong năm không cao, chỉ dao động từ 3 – 50C. Tổng nhiệt hoạt động hàng năm khoảng 9.500 – 10.0000C, số giờ nắng trung bình 2.400 giờ, lượng bức xạ cao và ổn định (75 - 80 Kcal/cm2/năm).
Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình 80 – 90% và có sự biến đổi theo mùa, cao
nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Đặc biệt ở Bình Dương hầu
như không có bão, mà chỉ bị ảnh hưởng những cơn bão gần. Lượng nước mưa trung bình
năm khá lớn, từ 1.800 – 2.000 mm với số ngày có mưa trung bình là 120 ngày. Mưa phân bố
theo mùa rõ rệt, trong năm phân chia thành hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với
lượng mưa chiếm trên 85% so với tổng lượng mưa cả năm, mùa khô từ khoảng tháng 11
năm trước đến tháng 4 năm sau, mưa rất ít chỉ chiếm 12 - 15% so với lượng mưa cả năm.
Có thể thấy, sự phân hoá giữa mùa mưa và mùa khô tương đối sâu sắc, vấn đề thuỷ lợi
cần được quan tâm, nhất là giải quyết nước tưới cho các vùng trồng cây công nghiệp vào
mùa khô. Do vậy trong khi đất thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước nhanh, giữ nước kém và
hệ thống thủy lợi cấp nước tưới có số lượng không lớn nên tại tỉnh Bình Dương nhà nông đã
chọn trồng cao su, khoai mì, điều với diện tích lớn, đây là giải pháp bố trí cây trồng phù hợp
với điều kiện khí hậu.
Nhìn chung, khí hậu Bình Dương tương đối hiền hoà, ít thiên tai như bão, lũ…phù hợp
cho việc xây dựng nhà xưởng, kho bãi. Khí hậu nhiệt đới mang tính cận xích đạo, nền nhiệt
độ cao quanh năm, độ ẩm lớn cùng với nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày, cây ăn quả, rau màu thực
phẩm. Bên cạnh đó còn giúp phơi sấy nông sản cung cấp nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến, tạo điều kiện phát triển mạnh công nghiệp chế biến. Đây là lợi thế cho
nhập cư của tỉnh.
2.2.1.4. Thủy văn
Do lượng mưa trung bình năm của tỉnh vào loại cao nên có lượng nước mặt khá phong
phú và mật độ sông, suối ở Bình Dương vào loại trung bình.
Các sông chảy qua Bình Dương thường ở đoạn trung lưu và hạ lưu nên độ dốc trung
bình, lòng sông mở rộng, lưu lượng khá lớn như sông Đồng Nai. Diện tích mặt nước toàn
tỉnh hơn 500ha. Hệ thống sông ngòi ngoài có giá trị lớn về cung cấp nước tưới cho sản xuất
nông nghiệp, còn mang lại nhiều nguồn lợi kinh tế khác như: phát triển giao thông vận tải
đường thủy, thủy điện, bồi đắp phù sa, cung cấp thủy sản, là nguồn nước quan trọng phục
vụ nhu cầu của các KCN, đô thị và cho hoạt động du lịch của tỉnh.
Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi
theo mùa: mùa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 10 (tương ứng với mùa mưa) và mùa nước
cạn (tương ứng với mùa khô) từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Bình Dương có các sông lớn
(sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Tính, sông Bé) và nhiều suối, kênh rạch khác.
Bên cạnh nguồn nước mặt, Bình Dương còn có nguồn nước ngầm dồi dào, trữ lượng
lớn, có chất lượng tốt và dễ khai thác để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Nhiều nhất là ở
khu vực phía tây huyện Bến Cát đến bờ sông Sài Gòn.
Nhìn chung, tài nguyên nước của tỉnh khá phong phú và đa dạng thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, thủy sản, phục vụ nhu cầu của các KCN, nhu cầu đời sống cho dân cư
tỉnh Bình Dương. Đây sẽ là những cơ sở quan trọng cho sự phát triển một nền kinh tế đa
dạng, tạo thuận lợi cho việc tổ chức đời sống dân cư, từ đó tạo điều kiện thu hút dân nhập
cư vào tỉnh.
2.2.1.5. Thổ nhưỡng
Đất ở tỉnh Bình Dương phong phú và đa dạng về chủng loại với tổng diện tích đất tự
nhiên là 269.443 ha (chiếm khoảng 0,81% diện tích cả nước, hơn 11,4% diện tích vùng
ĐNB) được chia thành 6 loại đất trồng chính, trong đó chiếm diện tích lớn nhất là đất xám
142.445 ha (chiếm 52,9%), kế tiếp là đất đỏ vàng 65.243 ha (24,2%), đất dốc tụ 32.848 ha
(chiếm 12,2%).
• Đất xám là nhóm đất có diện tích lớn nhất, được hình thành trên phù sa cổ được nâng
cao với nhiều bậc khác nhau, trong đó đất xám điển hình trên phù sa cổ chiếm 44,1% diện
tích đất trồng của tỉnh và chiếm 83% diện tích đất xám. Phân bố trên các huyện Dầu Tiếng,
Bến Cát, thị xã Thuận An, TP. Thủ Dầu Một. Do phân bố trên địa hình bằng phẳng hoặc đồi
thoải và có tính vật lí phù hợp (đất xốp, nhẹ, thoát nước) nên thích hợp với nhiều loại cây
trồng: cây công nghiệp dài ngày (cao su, điều, tiêu), cây công nghiệp ngắn ngày (mía, đậu
phộng), cây ăn quả…
• Nhóm đất thứ hai là đất đỏ vàng, trong đó đất vàng nâu trên phù sa cổ chiếm 16,7%
diện tích đất trồng của tỉnh. Phân bố trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các huyện
Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực TP. Thủ Dầu Một, thị xã Thuận An và một ít chạy dọc quốc
lộ 13. Do lớp đất dày, thành phần cơ giới nhẹ và độ phì khá nên đất thích hợp với cây công
nghiệp, cây ăn quả, hoa màu…
• Đất phù sa glây (đất dốc tụ), diện tích lớn thứ ba trong tỉnh, chủ yếu là đất dốc tụ trên
phù sa cổ, nằm ở phía bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, thị xã Thuận
An và Dĩ An; đất thấp mùn glây nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối. Đất
này có chua phèn, tính axít, loại đất này sau khi được cải tạo có thể trồng lúa, rau và cây ăn
trái…
Ngoài 3 nhóm đất chính trên, còn có đất phù sa không được bồi thêm, đất phèn, đất xói
mòn trơ sỏi đá. Các nhóm đất trên có diện tích nhỏ và tiềm năng nông nghiệp còn thấp, cần
phải chú ý một số những biện pháp kĩ thuật và lựa chọn cây trồng phù hợp mới có thể đạt
hiệu quả sử dụng.
Về cơ cấu sử dụng đất, đất sản xuất nông nghiệp chiếm diện tích lớn nhất với 192.619 km2 (chiếm 71,5% tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh), tiếp đến là đất chuyên dùng cao hơn
mức trung bình của toàn vùng ĐNB và ngày càng tăng nhanh trong những năm gần đây do việc mở rộng các đô thị, hình thành các KCN với diện tích 34.650 km2 (chiếm 12,9%), đất lâm nghiệp 15.138 km2 (chiếm 5,6%), đất ở 13.582 km2 (chiếm 5%), còn lại là các loại đất chưa sử dụng 13.454 km2 (chiếm 5%) (năm 2010) [8].
Nhìn chung, xét tiềm năng đất sản xuất nông nghiệp Bình Dương ít có lợi thế đối với
lúa, ngô, mía, cà phê,… mà chỉ thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là cây cao
su trên quy mô lớn và trồng rau, cây ăn quả chỉ thích hợp với đất phù sa phân bố ở cù lao
và ven sông Đồng Nai, sông Sài Gòn. Nông nghiệp phát triển thuận lợi, dân cư có điều kiện
nâng cao chất lượng cuộc sống, từ đó tạo điều kiện thu hút nhập cư sản xuất nông nghiệp.
Mặt khác, nền đất ổn định và tương đối bằng phẳng, giá đất rẻ hơn so với TP. Hồ Chí
Minh, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc xây dựng các công trình công nghiệp, kết cấu hạ
tầng giao thông, đô thị…Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến đặc điểm, quy mô số lượng và chất
lượng của dân nhập cư, đặc biệt là dân nhập cư vào tỉnh phát triển công nghiệp, sản xuất
cây công nghiệp và lâm nghiệp.
2.2.1.6. Sinh vật
Do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mang tính chất cận xích đạo, đất trồng đa dạng, nguồn
nước dồi dào nên Bình Duơng có tài nguyên sinh vật phong phú cả lớp phủ thực vật và động
vật.
Rừng: Nằm ở gần trung tâm của vùng ĐNB, rừng của Bình Dương thuộc về hệ sinh
thái rừng rậm nội chí tuyến gió mùa ẩm, nửa rụng lá hay rụng lá. Theo số liệu thống kê năm
2010, tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng của Bình Dương là 15.135 ha, trong đó đất rừng
sản xuất là 11.750 ha và rừng phòng hộ là 3.388 ha trồng rừng (chủ yếu là bạch đàn, keo,
sao, dầu, kên kên…).
Rừng có vai trò lớn về phòng hộ và ổn định môi trường sinh thái, trữ lượng gỗ còn 260.100m3, rừng còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm.
Ngoài ra còn có kiểu rừng tre nứa, dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất giấy, xây
dựng và các công dụng khác. Bình Dương là cái nôi có vùng chuyên canh cây công nghiệp
lớn của cả nước, đặc biệt phải kể đến là cây cao su.
Cây trồng: Tại tỉnh Bình Dương đã có được tập đoàn giống rau, giống cây ăn quả, giống
cao su… đặc biệt có một số cây ăn quả đặc sản nhiệt đới nổi tiếng như: bưởi đường lá cam,
bưởi xanh da láng, măng cụt,… cần được thu thập, tuyển chọn, phục tráng phục vụ trồng theo
hướng chuyên canh, chất lượng cao.
Các loại vật nuôi: Trong sản xuất khá phong phú nhất là heo, gà, vịt, bò sữa, dê… trong đó
đàn heo giống và gà giống chuyên thịt hoặc chuyên trứng nhập từ nước ngoài vào nuôi ở tỉnh
Bình Dương được đánh giá đạt chất lượng khá cao, đây là cơ sở cho việc đẩy mạnh việc sản xuất
giống vật nuôi chất lượng cao phục vụ phát triển ngành chăn nuôi của tỉnh và cung cấp cho các
địa phương lân cận (Bình Phước, Tây Ninh,…).
Nguồn lợi thủy sản: Theo điều tra nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực ở tỉnh Bình
Dương có 41 loại cá thuộc 14 họ trong đó có một số loài cá quý hiếm chất lượng cao như: cá
lăng, cá thát lát,… Ngoài ra còn có các loại tôm càng xanh, tép ruộng,… song do ít chú trọng
bảo vệ và khai thác tùy tiện đã làm cho số lượng và trữ lượng các loại thủy sản giảm đáng kể.
Tóm lại, tài nguyên sinh vật ở tỉnh Bình Dương khá phong phú, song các loài sinh
vật tự nhiên đã và đang giảm, riêng các loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản nuôi đã được
“nhà nông” và ngành nông nghiệp tích cực tìm kiếm, du nhập nhất là các loại rau, quả và
heo, gà. Đây là các vật liệu quan trọng cho việc chọn lọc bố trí cây trồng vật nuôi có chất
lượng theo hướng sản xuất hàng hóa đạt hiệu quả cao theo phương châm “nhất giống”. Sự
đa dạng sinh vật tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh phát triển nền nông nghiệp toàn diện và đa
ngành nghề, là điều kiện thu hút dân nhập cư đủ mọi thành phần từ các tỉnh.
2.2.1.7. Khoáng sản
Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất
được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất,
nhất là khoáng sản phi kim loại.
Kết quả thăm dò địa chất và điều tra tài nguyên khoáng sản, Bình Dương có 9 loại
khoáng sản chính sau: Cao lanh, đất sét, than bùn, đá xây dựng, cát xây dựng, cát kết, cuội
sỏi, laterit. Trên đia bàn tỉnh có 82 mỏ với trữ lượng khá lớn. Bốn loại khoáng sản chính
đang được khai thác là : Cao lanh, đất sét, đá xây dựng, cát xây dựng phân bố rải rác ở nhiều
nơi nhưng tập trung nhất là ở các huyện Tân Uyên, thị xã Thuận An và Dĩ An, TP. Thủ Dầu
Một. Toàn tỉnh có 60 mỏ đang khai thác (33 mỏ khai thác công nghiệp, 27 mỏ khai thác tận
thu, 13 mỏ ngưng khai thác).
Với tiềm năng khoáng sản phong phú, đa dạng. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề
truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài ...Bên
cạnh đó, Bình Dương có điều kiện phát triển mạnh các ngành công nghiệp khai khoáng,
hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, ngành xây dựng, phát triển giao thông vận tải, là điều
kiện thu hút nguồn lao động nhập cư vào tỉnh hoạt động trong nhiều ngành nghề.
Đánh giá chung
Tự nhiên tỉnh Bình Dương tương đối thuận lợi : Với bề mặt địa hình tương đối bằng
phẳng, nền địa chất ổn định, vững chắc. Khí hậu nhiệt đới mang tính cận xích đạo. Lượng
nước của tỉnh khá phong phú, nền đất ổn định và tương đối bằng phẳng, khoáng sản phong
phú và đa dạng. Vì thế vùng có thế mạnh chuyên canh cây công nghiệp trên quy mô lớn, có
điều kiện thuận lợi phát triển mạnh công nghiệp khai khoáng, ngành xây dựng, tiểu thủ công
nghiệp. Đó sẽ là điều kiện cơ bản để tạo sức hút cho dân nhập cư vào tỉnh trong thời gian
dài.
2.2.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
2.2.2.1. Dân số - lao động
• Dân cư
Tính từ năm 1999 đến năm 2011, dân số Bình Dương có nhiều thay đổi. Theo số liệu
TĐT 1999, dân số tỉnh Bình Dương có 716.661 người, năm 2009 là 1.481.550 và năm 2011
là 1.705.283 người. Trong 12 năm, dân số Bình Dương tăng thêm 988.622 người, tăng 2,38
lần và trung bình mỗi năm tăng 82.385 người.
Quy mô dân số của các thành phố, huyện, thị trong tỉnh có sự khác nhau. Quy mô lớn
ở các huyện phía Nam, lớn nhất là thị xã Thuận An năm 2011 có 432.928 người (chiếm
25,4%), thị xã Dĩ An đứng thứ 2 với số dân là 337.941 người (chiếm 19,8%), tiếp đến là TP.
Thủ Dầu Một có 252.817 người (chiếm 14,8%), huyện có dân số thấp nhất là huyện Phú
Giáo có 89.793 người (chiếm 5,3%) (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Dân số chia theo đơn vị hành chính tỉnh Bình Dương
TĐT 1999
TĐT 2009
ĐTBĐDS 2011
Đơn vị hành chính
% so với toàn tỉnh 20,0 11,7 14,6 8,3 16,4 13,4 15,7 100
Dân số (người) 222.845 103.421 192.818 83.555 204.825 298.515 375.571 1.481.550
Dân số (người) 143.083 83.561 104.391 59.539 117.693 96.112 112.282 716.661
% so với toàn tỉnh 15,0 7,0 13,0 5,6 13,8 20,2 25,4 100
Dân số (người) 252.817 114.893 234.989 89.793 241.922 337.941 432.928 1.705.283
% so với toàn tỉnh 14,8 6,7 13,8 5,3 14,2 19,8 25,4 100
TP.TDM H.Dầu Tiếng H.Bến Cát H.Phú Giáo H.Tân Uyên Tx.Dĩ An Tx.Thuận An Toàn tỉnh Nguồn: Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009.
Số liệu Điều tra BĐDS và KHHGD thời điểm 1/4/2010, 1/4/2011.
Tỉnh Bình Dương có mật độ dân số trung bình 628 người/km2 nhưng phân bố rất
không đồng đều giữa các huyện, thị. Sự chênh lệch về mật độ dân số giữa nơi cao nhất và thấp nhất lên tới 35 lần. Thị xã Dĩ An có mật độ dân số đông nhất tỉnh: 5.581 người/km2,
cao gấp gần 8,9 lần mật độ dân số chung toàn tỉnh và gấp 35,1 lần so với huyện Dầu Tiếng (huyện có mật độ dân số thưa nhất). Tiếp theo là thị xã Thuận An: 5.125 người/km2 và TP. Thủ Dầu Một: 2.123 người/km2.
Nguyên nhân: Các thành phố, thị xã kinh tế đang ngày phát triển mạnh mẽ, là nơi tập
trung đa số các trung tâm công nghiệp của tỉnh vì vậy thu hút nhiều lao động trong và ngoài
tỉnh làm việc tại các thành phố, thị xã (mật độ dân số cao một phần do dân nhập cư nhiều).
Còn ở các huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, kinh tế
chưa thực sự phát triển mạnh nên một bộ phận lao động di cư sang các thành phố, thị xã tìm
việc làm, trong khi đó diện tích lại tương đối lớn nên mật độ dân số thấp hơn so với các
thành phố, thị xã, huyện khác.
Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên của Bình Dương giảm đáng kể (1,53% năm 1999 đến
năm 2011 giảm còn 1,00%) nhưng số dân tăng hàng năm vẫn không giảm. Có thể nói dân số
Bình Dương có sự biến động chủ yếu phụ thuộc vào gia tăng cơ học.
Bình Dương có kết cấu dân số thuộc loại trẻ. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số tự
nhiên của Bình Dương trong những năm gần đây giảm đáng kể và đạt chỉ số tương đối thấp
nên cơ cấu dân số của tỉnh có phần “già đi”, được thể hiện qua tỉ lệ giữa các nhóm tuổi: So
với năm 1999, tỉ lệ người dưới độ tuổi lao động (0-14 tuổi) giảm nhiều (29,00% giảm còn
20,32% năm 2011), tỉ lệ người trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tăng cao (63,75,% tăng
lên 75,06% năm 2011) và tỉ lệ người trên tuổi lao động (trên 60 tuổi) giảm dần (7,25%
xuống còn 4,62% năm 2011). Với cơ cấu này cho thấy số người trong tuổi lao động của tỉnh
cao hơn rất nhiều so với các tỉnh khác. Nguyên nhân do người nhập cư từ các tỉnh thành
khác đến và lực lượng lao động dồi dào sẽ tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Tỉ lệ giới tính của tỉnh Bình Dương ngay từ khi tái lập tỉnh đến nay luôn có sự thay đổi
theo thời gian và thấp hơn mức trung bình so với vùng ĐNB cũng như so với cả nước. Năm
1999 tỉ lệ giới tính của tỉnh Bình Dương là 93,6; vùng ĐNB là 96,6 và cả nước là 96,7. Năm
2009 tương ứng là 92,7 ; 95,3 và 98,1. Năm 2011 là: 92,6; 94,2 và 97,9. Số lượng nữ cao
hơn nam trong dân số và tham gia hoạt động kinh tế nhiều hơn so với nam, nguyên nhân
chủ yếu do các ngành sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đa số là những ngành công
nghiệp nhẹ nên có sức hút mạnh đối với lao động nữ.
• Lao động
Bình Dương là tỉnh có nguồn lao động dồi dào, nguồn lao động Bình Dương tăng lên
đáng kể do gia tăng dân số cơ học và kết cấu dân số thuộc loại trẻ. Năm 1999, số người
trong độ tuổi lao động của tỉnh là 371.496 người, chiếm 63,75% dân số; năm 2011 là
1.340.433 người, chiếm 75,06% dân số [12]. So với năm 1999, nguồn lao động tăng gấp 3,6
lần. Bình Dương là tỉnh có số người trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động trong các
ngành kinh tế chiếm tỉ lệ cao (trên 84%) và liên tục tăng nhanh: năm 1999, số lao động tham
gia hoạt động trong các ngành kinh tế là 333.664 người, đến năm 2009 là 970.511 người,
năm 2011 là 1.103.695 người (đứng thứ 3 vùng ĐNB).
Về trình độ chuyên môn kĩ thuật, tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật của
tỉnh có xu hướng tăng lên. Năm 2001, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh là 7,8%; năm
2009 là 10,4% (vùng ĐNB: 19,4%; cả nước: 14,9%) đến năm 2011 tăng lên 11,8%. Tuy
nhiên, so với mức trung bình của vùng ĐNB và cả nước thì tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở
Bình Dương còn thấp. Nguyên nhân do lao động nhập cư vào tỉnh chủ yếu là lao động phổ
thông, hoạt động trong các ngành công nghiệp chế biến, may mặc, giày da…Tỉ lệ lao động
chưa qua đào tạo chiếm tỉ lệ cao, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất trong điều kiện CNH
- HĐH.
2.2.2.2. Sự phát triển kinh tế Bình Dương tạo lực hút đối với dân nhập cư
Trong những năm qua kinh tế của Bình Dương đã có nhiều chuyển biến tích cực. Năm
1999 GDP đạt 3.598 tỉ đồng đến năm 2011 GDP đạt 18.662 tỉ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 1999 – 2011 đạt 14,7%/năm đứng thứ 3 trong những tỉnh, thành phố thuộc
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và gấp 2 lần so với bình quân chung cả nước.
Năm 2011, cơ cấu ngành kinh tế như sau: Công nghiệp – xây dựng 62,2%; Dịch vụ
33,7%; Nông - lâm - thủy sản 4,1%. Trong đó, nổi bật nhất là ngành công nghiệp phát triển
liên tục với nhịp độ cao, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh) năm 1999 đạt 6.513
tỉ đồng đến năm 2011 tăng lên 123.201 tỉ đồng.
Bình Dương thực hiện phát triển công nghiệp theo đúng định hướng, công nghiệp phát
triển ổn định phía Nam và lan tỏa dần về phía Bắc. Tỉnh đã quy hoạch phát triển, mở rộng
thêm một số KCN ở phía Bắc để chuẩn bị quỹ đất sạch phục vụ cho việc phát triển công
nghiệp. Từ năm 2005, tỉnh đã phát triển thêm 13 KCN. Toàn tỉnh có 28 KCN với diện tích
gần 9.000 ha, trong đó 24 khu đã đi vào hoạt động, tỉ lệ lấp đầy bình quân đạt 60% và 8
cụm công nghiệp tổng diện tích 593 ha. Điều đó đã tạo cho công nghiệp Bình Dương một
động lực mới, thu hút nhiều dân nhập cư ảnh hưởng lớn đến sự phát triển KT-XH của tỉnh.
2.2.2.3. Khả năng sản xuất của nền kinh tế
• Thu hút đầu tư
Bình Dương là một trong những địa phương đi đầu trong thu hút vốn đầu tư phát triển.
Năm 2011: Đầu tư nước ngoài chiếm 49,1%, ngoài nhà nước 39,1% và nhà nước 11,8%.
Đầu tư trong nước: thu hút vốn được 25.559 tỉ đồng; gồm 1.439 doanh nghiệp mới
đăng kí kinh doanh, vốn 14.427 tỉ đồng và 479 doanh nghiệp điều chỉnh tăng vốn là 11.132
tỉ đồng. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 13.139 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh với tổng vốn
là 90.027 tỉ đồng.
Đầu tư nước ngoài: thu hút 841 triệu USD; gồm 81 dự án mới với tổng số vốn đăng kí
là 477 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 238 triệu USD (các KCN chiếm 94%). Lũy kế
đến nay, toàn tỉnh có 2.221 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 14.876 triệu USD (các
KCN có 1.125 dự án chiếm 55%, với số vốn 8.477 triệu đô la Mỹ chiếm 58%) [27].
Nguồn vốn đầu tư trong tỉnh tập trung vào mục tiêu phát triển các ngành kinh tế then
chốt, mũi nhọn trong tỉnh, đầu tư vào sự nghiệp phát triển con người - nguồn nhân lực và
xây dựng kết cấu hạ tầng. Đây là nhân tố tạo sức hút mạnh mẽ người nhập cư vào tỉnh Bình
Dương.
• Cơ sở hạ tầng
- Giao thông vận tải
Đây là nhân tố rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến di dân. Mạng lưới giao thông
trên địa bàn tỉnh Bình Dương ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của
tỉnh.
+ Đường bộ: Trên địa bàn tỉnh hiện có 3.730 tuyến đường các loại với tổng chiều dài
trên 5.000 km; trong đó, quốc lộ có 3 tuyến (quốc lộ 13, quốc lộ 1K và quốc lộ 1A) tổng
chiều dài 68,85km. Trong hệ thống đường bộ, nổi lên đường quốc lộ 13 – con đường chiến
lược cực kì quan trọng xuất phát từ TP. Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía
nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia đến biên giới Thái
Lan. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế.
+ Đường sắt: Tuyến đường sắt quốc gia chạy qua thị xã Dĩ An khoảng 8km; trong
đoạn này có 2 ga Sóng Thần và Dĩ An. Theo quy hoạch, tuyến đường sắt Dĩ An - Lộc
Ninh sẽ được phục hồi trong dự án “đường sắt xuyên Á”; hai ga này sẽ được mở rộng;
đặc biệt là ga Sóng Thần sẽ là đầu mối vận chuyển hàng hoá quan trọng nhất phía Nam.
+ Đường thuỷ: Sông Đồng Nai và sông Sài Gòn là 2 tuyến đường thuỷ để vận
chuyển vật tư nông sản, hàng hoá và hành khách. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn
ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh ĐBSCL.
Tóm lại, giao thông vận tải ở Bình Dương được đánh giá là địa phương có tốc độ phát
triển nhanh so với cả nước; đặc biệt là hệ thống đường bộ đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu
vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển KCN, cụm công nghiệp, khu dân cư. Giao thông vận tải phát triển mạnh là một trong
những nhân tố gia tăng dân nhập cư vào tỉnh.
- Điện
Hiện tại, mạng lưới truyền tải điện Bình Dương được cấp điện chủ yếu từ các nguồn
điện quốc gia: Thủy điện Thác Mơ, Trị An. Trên địa bàn tỉnh có 4.531 trạm biến áp. Tuyến
hạ thế: tổng chiều dài toàn tỉnh là 977,2km. Cuối năm 2003, tỉnh đã thực hiện xong chương
trình xóa tất cả các ấp chưa có điện.
Bình Dương nhận điện từ các tỉnh lân cận để cung cấp cho sản xuất công nghiệp, phần
còn lại cho công tác điện khí hóa nông thôn. Các đường dây 22KV được đưa đến tận các
KCN Sóng Thần I, Sóng Thần II, Đồng An, Việt Hương, Bình Đường.
- Hệ thống cấp và thoát nước
Nhìn chung, lượng nước ngầm và nước trên mặt tương đối phong phú tạo điều kiện
thuận lợi cho việc cung cấp nước phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của tỉnh. Tuy nhiên
hệ thống thoát nước chưa đảm bảo và chưa đồng bộ, nước thải chưa được xử lí tốt gây ô
nhiễm môi trường.
- Thông tin liên lạc
Năm 2011 tỉnh đã có 1 bưu cục trung tâm, 10 bưu cục quận huyện và 36 bưu cục khu
vực. Hầu hết các bưu cục được trang bị các thiết bị hiện đại, tự động hóa nhiều công đoạn.
Thiết bị vô tuyến và hữu tuyến ngày càng gia tăng.
2.2.2.4. Đường lối, chủ trương, chính sách phát triển KT-XH đúng đắn của tỉnh Bình
Dương ảnh hưởng rất lớn đến quá trình di dân
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới KT-XH, sự nhạy bén với thị trường, năng động trong
công tác và sự nắm bắt cơ hội của các cấp lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã tạo ra những thành
quả cao, quyết định đến sự phát triển KT-XH, làm tăng quá trình di dân, đặc biệt là thu hút
nhập cư vào tỉnh trong những năm qua.
Những chủ trương lớn đã được chỉ đạo thực hiện đúng đắn, kịp thời và có sự điều
chỉnh, chỉ đạo sát sao của Ủy ban nhân dân tỉnh qua các nhiệm kì. Cụ thể hóa những chủ
trương của tỉnh bằng những chương trình hành động như:
Tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh đến năm 2015, cũng như các
quy hoạch ngành đến năm 2020 và xa hơn, phù hợp với tiến trình phát triển của thực tế.
Hiện nay, tỉnh Bình Dương đã xây dựng quy hoạch phát triển nhiều ngành kinh tế quan
trọng đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2025, 2030 như: quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng
đến 2020, tầm nhìn đến 2025, quy hoạch phát triển đô thị đến 2020 và tầm nhìn đến 2030…
Nhiều chương trình phát triển quan trọng đã được xây dựng và thực hiện nghiêm túc
qua nhiều thời kì kế tiếp nhau. Từ các chương trình mang tính chỉ đạo lâu dài, đã tiếp tục cụ
thể hóa bằng các chương trình chỉ đạo phát triển từng ngành, từng lĩnh vực phát triển đúng
hướng, như các chương trình phát triển 2011 - 2020; trong đó: Chương trình số 19-CTr/TU
(tháng 7/2011) về phát triển đô thị giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020; số 20-
CTr/TU (tháng 7/2011) về phát triển nguồn nhân lực giai đọan 2011 - 2020; số 21-Ctr/TU
(tháng 7/2011) về phát triển dịch vụ chất lượng cao giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến
2020; số 23-CTr/TU (tháng 8/2011) bảo vệ môi trường; số 27-CTr/TU về phát triển nhà ở
xã hội; số 31-CTr/TU (tháng 10/2011) về phát triển văn hóa, thể thao, du lịch; đầu tư, xây
dựng và sử dụng có hiệu quả các thiết chế văn hóa, thể thao...
Thực hiện nhất quán chủ trương mở cửa nền kinh tế với chính sách thông thoáng, tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi. Phát huy mạnh mẽ các lợi thế so sánh, tiềm năng trong
dân, các doanh nghiệp trong tỉnh, các nguồn lực ngoài tỉnh và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Với cơ chế chính sách đầu tư mở cửa tạo động lực để phát triển, mở rộng các quan hệ
kinh tế với bên ngoài từng bước hội nhập vào khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH, phát triển công nghiệp gắn với đô thị
và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế Bình Dương làm tăng thêm sức hút đối với nguồn nhân lực
từ TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành khác trong cả nước.
Chính sách tập trung và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, coi trọng giáo dục đào tạo
để nâng cao dân trí, trình độ chuyên môn đáp ứng nhu cầu phát triển. Kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng an ninh.
Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước đã tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế trong tỉnh phát triển mạnh, tạo sự chuyển biến trong cơ cấu thành
phần của nền kinh tế. Trong khi kinh tế nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước vẫn
tăng trưởng khá thì khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã
tăng trưởng mạnh, góp phần tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá nhanh. Năm 2011, tỉ
trọng đóng góp trong GDP (theo giá so sánh) của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 18,83%;
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 41,00% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm 40,17%.
2.3. Tình hình di dân ở tỉnh Bình Dương
2.3.1. Sự biến động dân số tỉnh Bình Dương
Dân số tỉnh Bình Dương tăng rất nhanh từ sau khi tách tỉnh (1997) đến nay.
Dân số trung bình năm 1997 là 658.570 người; năm 1999 là 716.661 người đến 2011:
1.705.283 người. Tốc độ tăng dân số bình quân 12 năm (1999 – 2011) tăng 7,5%/năm.
Nguyên nhân là do dòng di dân từ các tỉnh khác đến làm việc tại các KCN, đô thị trên
địa bàn tỉnh, kết quả là dân số của tỉnh có nhiều biến động. Nếu chỉ tính người nhập cư vào
tỉnh giai đoạn 1994 – 1999 là: 64.852 người, giai đoạn 2004 – 2009 là: 499.781 người thì
giai đoạn 2009 – 2011 là: 751.852 người. Như vậy, trong vòng 12 năm tỉnh tiếp nhận
678.000 người. Trong khi đó, số người xuất cư tăng 72.871 người trong cùng giai đoạn (số
người xuất cư giai đoạn 1994 – 1999 là: 23.270 người, giai đoạn 2004 – 2009 là: 34.732
người, giai đoạn 2009 – 2011 là 96.141 người). Số người di dân thuần túy của tỉnh năm
1999 là 41.582 người, năm 2009 là 465.049 người, năm 2011 là 655.711 người [1],[4]. Kết
quả là tỉ lệ tăng dân số tỉnh Bình Dương rất cao (7,5% năm 2011), mặc dù tỉ sinh rất thấp.
Như vậy nguyên nhân chính của tăng dân số cao của tỉnh là do người nhập cư tăng nhanh.
Các huyện, thị trong tỉnh có số lượng nhập cư lớn là những huyện, thị có biến động
dân số lớn, ví dụ: thị xã Thuận An có tỉ lệ tăng dân số lớn nhất (11,9%/năm), kế tiếp là thị
xã Dĩ An (11,1%/năm).
Bảng 2.2. Dân số và tỉ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999 - 2011 theo đơn
Dân số (người)
vị hành chính tỉnh Bình Dương
Đơn vị hành chính
TĐT 1999
ĐTBĐDS 2011
252.817 114.893 234.989 89.793 241.922 337.941 432.928 1.705.283
143.083 83.561 104.391 59.539 117.693 96.112 112.282 716.661
Tỉ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999 - 2011 (%) 4,9 2,7 7,0 3,5 6,2 11,1 11,9 7,5
TP.Thủ Dầu Một H.Dầu Tiếng H.Bến Cát H.Phú Giáo H.Tân Uyên Tx.Dĩ An Tx.Thuận An Toàn tỉnh Nguồn: Tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, ĐTBĐDS và KHHGD thời
điểm 1/4/2011, [9].
Từ năm 1999 đến 2011, nhìn chung dân số các tỉnh thành trong vùng ĐNB đều tăng
nhưng xét về giá trị tương đối thì chỉ có tỉ trọng dân số của Bình Dương và TP. Hồ Chí
Minh tăng, còn các tỉnh thành khác trong vùng dân số tăng chậm hơn nên giảm tỉ trọng
tương đối. Bình Dương là tỉnh có quy mô dân số trung bình so với các tỉnh trong vùng ĐNB
nhưng là tỉnh có tốc độ gia tăng dân số nhanh nhất, nhanh hơn TP. Hồ Chí Minh. Năm
2011, dân số Bình Dương tăng nhanh chiếm 11,45% dân số toàn vùng ĐNB (đứng thứ 3
trong vùng), sau TP. Hồ Chí Minh chiếm 50,71% và tỉnh Đồng Nai chiếm 17,62% (Bảng
2.3).
Bảng 2.3. Dân số và tỉ trọng dân số tỉnh Bình Dương và các tỉnh
trong vùng ĐNB
Năm 1999 Năm 2011
Tỉnh
Dân số (nghìn người) 653,9 967,1 716,6 1990,6 Tỉ trọng (%) 6,43 9,52 7,05 19,60 Dân số (nghìn người) 907,3 1081,4 1705,3 2622,8 Tỉ trọng (%) 6,09 7,26 11,45 17,62 Bình Phước Tây Ninh Bình Dương Đồng Nai
1022,0 7549,3 14888,1 796,1 5034,0 10158,3 6,86 50,71 100 7,84 49,56 100 Bà Rịa - Vũng Tàu TP. Hồ Chí Minh Đông Nam Bộ Nguồn: Tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, ĐTBĐDS và KHHGD thời
điểm 1/4/2011.
Biểu đồ 2.1. Tỉ trọng dân số tình Bình Dương và các tỉnh trong vùng ĐNB
2.3.2. Hiện trạng nhập cư ở tỉnh Bình Dương
2.3.2.1.Cơ cấu các luồng nhập cư đến Bình Dương theo địa bàn xuất cư
Giai đoạn 1994 – 1999 số người nhập cư vào tỉnh là 64.852 người. Người nhập cư
xuất phát chủ yếu từ vùng BTB&DHNTB: 32,1%, ĐNB: 29,6%, ĐBSH: 18,75%, ĐBSCL:
14,8%, TD&MNPB: 3,5%, Tây Nguyên: 1,3%. Tỉ suất nhập cư giai đoạn này là 98,2‰, tỉ
suất xuất cư 35,2‰, tỉ suất di dân thuần túy là 63,0‰.
Giai đoạn 2004 – 2009 số người nhập cư tiếp tục tăng nhanh, tỉ lệ tăng cơ học thường
vượt trội hơn nhiều so với tỉ lệ gia tăng tự nhiên. Số người nhập cư là 499.781 người, tăng
7,7 lần so với giai đoạn 1994 – 1999. Quy mô nhập cư đến tỉnh Bình Dương tăng nhanh do
tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh, số vốn đầu tư nước ngoài tăng cao, việc xây dựng và
mở rộng các KCN, cụm công nghiệp nên nhu cầu về lao động cũng tăng lên nhanh chóng đã
tạo lực hút các dòng chuyển cư vào tỉnh Bình Dương. Cơ cấu vùng xuất cư đã có sự thay đổi
rõ rệt, các luồng di dân cự li gần tăng lên, từ vùng ĐBSCL chiếm ưu thế với 38,4%,
BTB&DHNTB: giảm xuống 30,5%, ĐNB: 13,4%, ĐBSH: chỉ còn 9,0%, TD&MNPB:
5,9%, Tây Nguyên: 2,8%. Tỉ suất nhập cư giai đoạn này là 365,9‰, tỉ suất xuất cư 25,4‰,
tỉ suất di dân thuần túy là 340,4‰.
Giai đoạn 2009 – 2011 số người nhập cư tiếp tục tăng lên 751.852 người. Cơ cấu vùng
xuất cư có sự thay đổi: Các luồng nhập cư với khoảng cách ngắn chiếm trên 60% tổng số
dân nhập cư. Tỉ lệ nữ nhập cư cao hơn nam chiếm 53,7% nhưng chênh lệch không lớn nên
không ảnh hưởng đến tỉ số giới tính chung của tỉnh vì ở Bình Dương trong những năm gần
đây phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm
nên nhu cầu lao động nữ tăng. Tỉ lệ người người nhập cư đến tỉnh Bình Dương từ vùng
ĐBSCL tăng lên chiếm 41,1%, BTB&DHNTB: giảm còn 28,5%, ĐNB: tăng lên chiếm
14,5%, ĐBSH: giảm còn 7,5%, TD&MNPB: 5,6%, Tây Nguyên: 2,8%. Có thể thấy, cự li di
chuyển gần ngày càng chiếm ưu thế hơn.
VÙNG Đến Bình Dương 1994-1999 (người) Đến Bình Dương 1994-1999 (%) Đến Bình Dương 2004-2009 (người) Đến Bình Dương 2004-2009 (%) Đến Bình Dương 2009-2011 (người) Đến Bình Dương 2009-2011 (%)
BTB& DHNTB 20.812 32,1 152.476 30,5 214.304 28,5
ĐNB 19.201 29,6 67.099 13,4 108.824 14,5
Tây Nguyên 846 1,3 14.043 2,8 21.428 2,9
TD& MNPB 2.260 3,5 29.672 5,9 41.712 5,5
ĐBSCL 9.580 14,8 191.676 38,4 309.103 41,1
ĐBSH 12.153 18,7 44.815 9,0 56.481 7,5 Biểu đồ 2.2. So sánh nhập cư ngoại tỉnh vào Bình Dương giai đoạn
1994 – 1999, 2004 - 2009 và 2009 – 2011
Biểu đồ trên cho thấy những thay đổi quan trọng trong các luồng di dân đến tỉnh Bình
Dương trong 12 năm. Tổng số người nhập cư giai đoạn 1994 – 1999 là 64.852 người, đến
giai đoạn 2004 – 2009 là 499.781 người và giai đoạn 2009 – 2011 tăng lên 751.852 người.
Các địa bàn xuất cư vào tỉnh chủ yếu từ ĐBSCL, BTB&DHNTB và ĐNB. Trước hết, những
vùng ở cự li gần có ưu thế hơn cả, rồi đến các vùng khác là ĐBSH và TD&MNPB.
Những tỉnh có số người nhập cư nhiều nhất vào tỉnh Bình Dương giai đoạn 1999 –
2011 là những tỉnh có khoảng cách gần và các tỉnh miền Trung tuy khoảng cách xa hơn
nhưng là những tỉnh khó khăn về điều kiện tự nhiên: bão lụt nhiều, đất đai kém màu mỡ, tỉ
lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở thành thị cao, tỉ lệ sử dụng lao động thường xuyên
trong nông nghiệp thấp. Các tỉnh dân cư có tính năng động cao như Thanh Hóa, Nghệ An có
số dân di dân rất lớn không chỉ đến Bình Dương, mà còn di dân đến TP. HCM và Đồng Nai
với tỉ lệ cao hơn hẳn so với các tỉnh khác.
Bảng 2.4, 2.5 và 2.6 cho thấy 10 tỉnh nhập cư lớn nhất đến tỉnh Bình Dương của cả 3
thời kì chiếm trên 50% số người nhập cư vào tỉnh và đều tập trung vào 3 vùng là ĐBSCL,
BTB&DHNTB và ĐNB. Giai đoạn 1994 - 1999 nhập cư chủ yếu là các tỉnh thuộc vùng
BTB&DHNTB và ĐNB. Giai đoạn 2004 – 2009 nhập cư vào tỉnh có cự li di chuyển ngày
càng gần hơn, chủ yếu là các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL (có 6/10 tỉnh có dân nhập cư lớn nhất
vào Bình Dương) và giai đoạn 2009 – 2011 có 5/10 tỉnh vùng ĐBSCL có dân nhập cư lớn
nhất vào Bình Dương. Nguyên nhân do cự li di chuyển gần và di dân thời vụ là ưu thế nổi
trội của dân cư vùng ĐBSCL.
TT
Tỉnh
Tổng số (người)
%
Bảng 2.4. Mười tỉnh có số người nhập cư lớn nhất đến Bình Dương, 1994 – 1999
Tổng số dân ngoại tỉnh di chuyển đến BD Tổng số 10 tỉnh Thanh Hóa Hà Tĩnh TP.HCM Bến Tre Nghệ An Đồng Nai Thái Bình Ninh Bình Long An
A B 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tiền Giang
64.852 35.403 8.443 6.786 6.148 4.062 3.048 2.101 1.66 1.34 956 859
100 54,59 13,02 10,46 9,48 6,26 4,70 3,24 2,56 2,07 1,47 1,32
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà 1/4/1999
Bảng 2.5. Mười tỉnh có số người nhập cư lớn nhất đến Bình Dương, 2004 - 2009
Trong đó
TT
Tỉnh
Tổng số
Nam
Nữ
%
Đơn vị: người
Tổng số dân ngoại tỉnh di chuyển đến BD Tổng số 10 tỉnh Thanh Hóa An Giang Nghệ An TP.HCM Đồng Tháp Cà Mau Sóc Trăng Hà Tĩnh Kiên Giang
A B 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Trà Vinh
499.791 277.184 58.902 42.993 35.489 32.534 19.791 19.193 19.168 18.616 15.569 14.929
231.223 126.697 25.788 19.525 13.758 17.025 8.996 9.529 9.044 7.954 7.636 7.442
268.568 150.487 33.114 23.468 21.731 15.509 10.795 9.664 10.124 10.662 7.933 7.487
100 55,46 11,79 8,60 7,10 6,51 3,96 3,84 3,84 3,72 3,12 2,99
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà 1/4/2009
Bảng 2.6. Mười tỉnh có số người nhập cư lớn nhất đến Bình Dương, 2009 - 2011
TT
Tổng số
%
Đơn vị: người
Tỉnh Tổng số dân ngoại tỉnh di chuyển đến BD
Tổng số 10 tỉnh Thanh Hóa An Giang TP.HCM Nghệ An Cà Mau Sóc Trăng Kiên Giang Đồng Tháp Hà Tĩnh
A B 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Đồng Nai
751.852 437.553 81.184 68.399 52.716 52.337 42.947 32.562 30.937 28.618 25.368 22.485
100 58,20 10,80 9,10 7,01 6,96 5,71 4,33 4,11 3,81 3,37 2,99
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà 1/4/2009 và Số liệu Điều tra BĐDS và
KHHGD thời điểm 1/4/2010, 1/4/2011.
Số liệu Bảng 2.7 cho thấy, giai đoạn 1994 – 1999 số người nhập cư đến Bình Dương
chỉ chiếm 9,05% tổng dân số của tỉnh, do tách tỉnh và mới đi vào hoạt động từ năm 1997
nên số lượng dân nhập cư vào tỉnh giai đoạn này tương đối thấp hơn so với các tỉnh, thành
trong vùng ĐNB là TP.HCM, Đồng Nai và Bình Phước. So với nhập cư ngoại tỉnh vào
TP.HCM chỉ bằng 0,15 lần và 0,41 lần so với nhập cư vào TP.Hà Nội.
Từ giai đoạn 2004 - 2009 trở đi, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ với sự ra đời của
hàng loạt các KCN, cụm công nghiệp, cơ sở dịch vụ tăng lên. Từ năm 2005 đến nay tỉnh đã
xây dựng và mở rộng thêm 13 KCN, nâng tổng số KCN hiện có là 28 KCN đã tạo ra nhu
cầu lao động ngày càng lớn, cùng với những chính sách hợp lí của các nhà hoạch định chính
sách “Trải thảm đỏ thu hút đầu tư, trải chiếu hoa mời gọi nhân tài” Bình Dương đã thực sự
là “vùng đất hứa”, trở thành điểm đến, điểm hẹn cho công việc kinh doanh, phát triển sản
xuất các các loại hình công nghiệp và dịch vụ, thu hút hàng ngàn nhà đầu tư nước ngoài và
hàng trăm lao động trong và ngoài tỉnh. Số người nhập cư đến Bình Dương tăng rất nhanh
chiếm 33,73% tổng dân số của tỉnh. Là tỉnh có sức thu hút lớn thứ 2 cả nước những người
nhập cư ngoại tỉnh (sau TP. HCM), so với nhập cư ngoại tỉnh vào TP. HCM bằng 0,48 lần
và cao hơn 1,31 lần so với nhập cư vào TP. Hà Nội. Giai đoạn 2009 - 2011, số người nhập
cư đến Bình Dương có xu hướng tăng nhanh chiếm 44,09% tổng dân số của tỉnh, so với
nhập cư ngoại tỉnh vào TP. HCM bằng 0,53 lần và cao hơn 1,43 lần so với nhập cư vào TP.
Hà Nội.
Bảng 2.7. Quy mô nhập cư ngoại tỉnh vào tỉnh Bình Dương
Theo TĐT dân số 1/4/1999
Theo TĐT dân số 1/4/2009
Theo ĐTBĐDS 1/4/2011
64.852
499.781
751.852
98,23
365,86
479,83
9,05
33,73
44,09
4,8
21,2
21,0
0,15
0,48
0,53
Số người nhập cư ngoại tỉnh (người) Tỉ suất nhập cư (‰) So với dân số của tỉnh cùng kì (%) So với tổng số người di chuyển ngoại tỉnh cả nước (%) So với nhập cư ngoại tỉnh vào TP. HCM (lần) So với nhập cư ngoại tỉnh vào TP. Hà Nội (lần)
0,41
1,31
1,43
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà 1/4/1999,1/4/2009 và Số liệu Điều tra
BĐDS và KHHGD thời điểm 1/4/2010,1/4/2011.
Tỉ suất nhập cư của tỉnh tăng nhanh từ 98,23‰ (1994 – 1999), lên 365,86‰ (2004 –
2009) và 479,83‰ (2009 – 2011). Tỉ suất nhập cư lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh khác,
gấp 2,3 lần so với tỉ suất nhập cư của TP. HCM, gấp 3 lần so với tỉ suất nhập cư tỉnh Đồng
Nai và gấp 2,4 lần so với tỉ suất chung của vùng ĐNB.
Qua đó một lần nữa khẳng định, với nhiều điều kiện thuận lợi, tỉnh Bình Dương đã trở
thành nơi dừng chân của nhiều dân cư từ khắp mọi miền đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay, quá trình CNH – HĐH diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhiều KCN, khu đô thị được
quy hoạch xây dựng đã tạo được nhiều việc làm với thu nhập cao đã thu hút mạnh các luồng
di dân từ khắp nơi.
2.3.2.2. Nguyên nhân di chuyển của người nhập cư vào tỉnh Bình Dương
Người nhập cư vào tỉnh Bình Dương phần lớn là trong độ tuổi lao động. Theo TĐT
dân số 1/4/2009 trong tổng số dân nhập cư ở Bình Dương, có đến 95,43% (476.943/499.781
người) số người trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương: năm 2010 có 602.043 lao động nhập cư ở tỉnh
Bình Dương, chiếm 83,86% (602.043/717.850) tổng số lao động của doanh nghiệp đang
làm việc tại địa phương. Năm 2011, lao động nhập cư chiếm 85,28% (651.631/764.029
người) tổng số lao động của doanh nghiệp toàn tỉnh. Nhìn chung, số lao động ngoài tỉnh của
doanh nghiệp chiếm trên 84%.
Người nhập cư do nhiều nguyên nhân đã rời bỏ nơi cư trú đến tỉnh Bình Dương. Theo
tài liệu “Di cư từ nông thôn ra thành thị” (Rural to urban migration) của Tổng cục thống kê
Việt Nam (2000), vào những năm thập niên 90 của thế kỉ XX, lao động từ các tỉnh về vùng
ĐNB chiếm 57,9%, trong đó nhiều nhất từ ĐBSCL (15,8%).
Theo số liệu điều tra của Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương cũng có cùng kết quả
trên (Bảng 2.8), điều tra từ tháng 5 đến tháng 12 năm 2009 tại 3 KCN nổi bật của Bình
Dương (VSIP, Sóng Thần, Mỹ Phước) cho thấy trong số 970 lao động được thu thập thông
tin chỉ có 15,7% là người gốc Bình Dương, 84,3% số lao động còn lại là người ngoài tỉnh
đến từ mọi miền đất nước. Đông nhất là lao động nhập cư đến từ ĐBSCL (28%), kế đến là
vùng BTB (19,7%), số còn lại từ vùng ĐNB (10,8%), từ ĐBSH là 8,6%. Các vùng Tây Bắc,
Đông Bắc, Tây Nguyên có số lượng lao động trong mẫu điều tra không đáng kể, tỉ lệ lần
lượt là 5,7%; 5,1% và 2,2%. Riêng ở ĐBSCL thì số lao động đến từ An Giang cao nhất
(22%), kế đến là Đồng Tháp (12%), Cà Mau (9,8%).
Trong khi đó ở vùng BTB số lao động đến từ Thanh Hóa chiếm hơn 50% toàn vùng,
kế đến là Nghệ An (21%) và Hà Tĩnh (18%). Vùng ĐNB số lượng lao động đến từ TP. Hồ
Chí Minh chiếm cao nhất (31,4%), kế đến là Đồng Nai (27,6%), Bình Phước (21%). Kết
quả điều tra này cũng tương tự kết quả theo TĐT dân số 1/4/2009 đã được trình bày ở phần
2.3.2.1 (trang 50).
Bảng 2.8. Quê quán và nguyên nhân chuyển khỏi nơi cư trú của người lao động nhập
Khu công nghiệp
VSIP
Tỉnh/Vùng
Mỹ Phước Số người
Tỉ lệ (%)
Sóng Thần Số người
Tỉ lệ (%)
Số người
Tỉ lệ (%)
cư điều tra phân theo KCN
Tất cả mẫu Tỉ lệ Số (%) người
Quê quán Bình Dương
17
5,1
53
18,3
82
24,2
153
15,7
50 12 18 54 11 5 35 52 290
19 21 16 59 18 9 43 139 341
5,6 6,2 4,7 17,3 5,3 2,6 12,6 40,8 100
17,2 4,1 6,2 18,6 3,8 1,7 12,1 17,9 100
14 16 21 78 13 7 27 81 339
4,1 4,7 6,2 23 3,8 2,1 8 23,9 100
83 49 55 191 42 21 105 272 970
8,6 5,1 5,7 19,7 4,3 2,2 10,8 28 100
26 31,7 6,2 17,5
88 107 21 59
61 125 11 45
18,5 40,3 4,1 16,8
71 131 18 48
22,6 40,3 5,7 15,3
220 363 50 152
22,7 37,4 5,2 15,7
8,6 10,1 100
29 34 338
24 42 330
9 15,7 100
20 36 324
6,4 11,5 100
73 112 970
7,5 11,5 100
61,3 38,7 100
209 132 341
207 83 290
71,4 28,6 100
222 117 339
65,5 34,5 100
ĐBSH Đông Bắc Tây Bắc BTB DHNTB Tây Nguyên ĐNB ĐBSCL Tổng cộng Lí do di chuyển đến làm việc tại Bình Dương Không có việc làm ở quê Thu nhập ở quê thấp Không/ Thiếu đất SXNN Theo người thân/bạn bè Không phù hợp với chỗ làm trước đây Khác… Tổng cộng Vị trí của người lao động nhập cư trong gia đình Là lao động chính Không phải là lao động chính Tổng cộng
638 332 970
65,8 34,2 100
Nguồn: Số liệu điều tra của Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương, tháng 5-11/2009
Theo kết quả điều tra cho thấy, lao động nhập cư từ khắp nơi trong nước di chuyển đến
Bình Dương vì nhiều nguyên nhân trong đó đa phần là nguyên nhân kinh tế, do ở quê việc
làm có thu nhập thấp (37,4%) hoặc không có việc làm (22,7%). Bình Dương là tỉnh có nhiều
KCN nên người di dân theo bạn bè người thân vào đây lập nghiệp (15,7%). Cũng có nhiều
trường hợp người nhập cư đến Bình Dương là do không phù hợp với việc làm trước đây ở
nơi khác (7,5%). Thành phần di dân tìm việc làm để tự lập hoặc kiếm tiền để đi học thêm,
hoặc đi làm để có thu nhập gửi về phụ giúp gia đình hay không có đất sản xuất nông nghiệp
ở quê quán, có người theo công ty chuyển từ nơi khác đến Bình Dương chiếm 12,2%. Trong
số lao động nhập cư được điều tra có tới 65,8% là lao động chính trong gia đình, là người
tạo nguồn thu nhập chính để nuôi gia đình.
Thực tế cho thấy, ở Bình Dương do tốc độ phát triển công nghiệp nhanh chóng nên
nhu cầu lao động tăng nhanh. Ngược lại ở các vùng có công nghiệp phát triển chậm hơn như
ĐBSCL, BTB&DHNTB nên dẫn đến tình trạng người dân di chuyển khỏi nơi cư trú và
phần lớn là trong độ tuổi lao động. Vì vậy, theo thời gian số người nhập cư ở tỉnh Bình
Dương với nguyên nhân kinh tế là chủ yếu và có chiều hướng tăng, đặc biệt là nhóm người
nhập cư xuất phát từ vùng nông thôn, đây là điều cần quan tâm giải quyết của các nhà hoạch
định chính sách phát triển KT-XH.
2.3.2.3. Địa bàn cư trú của người nhập cư
Theo kết quả TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy, đến 31/3/2009 tỉnh Bình Dương
có 499.781 người nhập cư từ các tỉnh thành khác, trong đó số nhập cư đến 2 thị xã Thuận
An (191.484 người) và Dĩ An (130.724 người) là nhiều nhất chiếm 64,47% tổng số người
nhập cư toàn tỉnh (Bảng 2.9). Nguyên nhân chính do thị xã Thuận An và thị xã Dĩ An tập
trung nhiều KCN, cụm công nghiệp lớn của tỉnh. Theo Cục Thống kê Bình Dương năm
2000, thị xã Thuận An và Dĩ An chỉ tâp trung 1252/3342 cơ sở sản xuất công nghiệp của
tỉnh (chiếm 30,7%), nhưng đến năm 2005 đã tăng lên 2582/5110 cơ sở (chiếm 50,5%), năm
2011 có 3646/7877 cơ sở (chiếm 46,3%) theo đó tạo điều kiện thu hút lao động nhập cư tập
trung phần lớn vào 2 thị xã: Thuận An tăng thêm 156.306 lao động nhập cư, Dĩ An tăng
thêm 117.384 lao động nhập cư. Đồng thời, với lợi thế tiếp giáp với TP. Hồ Chí Minh và
tỉnh Đồng Nai và là cửa ngõ quan trọng để đi các tỉnh miền Trung cũng như các tỉnh phía
Bắc. Hai thị xã này có một vị trí đặc biệt thuận lợi để mời gọi các nhà đầu tư. Hiện tại phần
lớn diện tích 2 thị xã đã dần đô thị hóa với các KCN lớn như: Việt Hương, Việt Nam –
Singgapore, Sóng Thần 1, Sóng Thần 2, Bình Đường, Tân Đông Hiệp A, Tân Đông Hiệp
B…Bình quân mỗi năm thu hút gần 65.000 người nhập cư vào thị xã Thuận An và thị xã Dĩ
An giai đoạn 2004 – 2009.
Bảng 2.9. Phân bố người nhập cư ngoại tỉnh vào tỉnh Bình Dương,
giai đoạn 2004 - 2009
Đơn vị hành chính
Toàn tỉnh TP.Thủ Dầu Một H.Dầu Tiếng H.Bến Cát H.Phú Giáo H.Tân Uyên Tx.Dĩ An Tx.Thuận An Dân số tại thời điểm TĐT 1/4/2009 (người) 1.481.550 222.845 103.421 192.818 83.555 204.825 298.515 375.571 Số người nhập cư vào tỉnh theo TĐT 1/4/2009 (người) 499.781 42.254 6.230 63.529 3.691 61.868 130.724 191.484 Tỉ lệ người nhập cư trong tổng dân số (%) 33,73 18,96 6,02 32,95 4,42 30,21 43,79 50,98 Tỉ lệ trong tổng số người nhập cư (%) 100,00 8,45 1,25 12,71 0,74 12,38 26,16 38,31
Nguồn: Tổng hợp và tính toán theo số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009, [15], [36].
Hai huyện có số lượng nhập cư lớn thứ hai là huyện Bến Cát (63.529 người) và huyện
Tân Uyên (61.868 người), chiếm 25,09% tổng số người nhập cư toàn tỉnh. Đây là hai huyện
tiềm năng đang phát triển mạnh với các KCN khá lớn như: KCN Nam Tân Uyên, KCN Mỹ
Phước 1,2,3…đa số người nhập cư ở hai huyện này chủ yếu là làm việc tại các KCN và
được chuyển đến từ các tỉnh phía Bắc.
TP.Thủ Dầu Một có số lượng người nhập cư đứng thứ 5/7 huyện, thị với 42.254 người
(chiếm 8,45%) tổng số người nhập cư vào tỉnh. Thành phố là nơi chủ yếu phát triển về dịch
vụ, mặc dù không có KCN nhưng số lượng người nhập cư đến đây cũng lớn. Tuy nhiên, so
với 2 thị xã thuộc khu vực phía Nam, số lượng người nhập cư TP. Thủ Dầu Một chỉ bằng
1/3 so với thị xã Dĩ An và bằng 1/4 so với thị xã Thuận An. Nguyên nhân chính là do ngay
từ khi tái thành lập, Bình Dương đã chủ động xây dựng TP.Thủ Dầu Một trở thành trung
tâm văn hóa hành chính của tỉnh, hạn chế lao động nhập cư.
Hai huyện có số lượng người nhập cư thấp nhất là huyện Dầu Tiếng (6.320 người) và
huyện Phú Giáo (3.691 người), chỉ chiếm 1,99% tổng số người nhập cư toàn tỉnh. Nguyên
nhân do hai huyện này phát triển mạnh về nông nghiệp nên ít có sức hút đối với người nhập
cư.
Bảng 2.10. Phân bố người nhập cư ngoại tỉnh vào tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2009 – 2011
Đơn vị hành chính
Toàn tỉnh TP.Thủ Dầu Một H.Dầu Tiếng H.Bến Cát H.Phú Giáo H.Tân Uyên Tx.Dĩ An Tx.Thuận An Dân số tại thời điểm ĐTBĐDS 1/4/2011 (người) 1.705.283 252.817 114.893 234.989 89.793 241.922 337.941 432.928 Số người nhập cư vào tỉnh theo ĐTBĐDS 1/4/2011 (người) 751.852 74.026 14.502 121.601 8.929 111.965 171.990 248.839 Tỉ lệ người nhập cư trong tổng dân số (%) 44,09 29,28 12,62 51,75 9,94 46,28 50,89 57,48 Tỉ lệ trong tổng số người nhập cư (%) 100,00 9,85 1,93 16,17 1,19 14,89 22,88 33,10
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009 & ĐTBĐDS
1/4/2010, 1/4/2011, [9].
Giai đoạn 2009 – 2011, sự phân bố người nhập cư đã có sự thay đổi (Bảng 2.10) do
nhiều KCN mới ở phía Bắc (huyện Bến Cát và Tân Uyên) đã được thành lập và đi vào
hoạt động nên đã thu hút người nhập cư đông hơn nhiều so với giai đoạn 2004 – 2009.
Hiện nay, Các KCN của tỉnh được phân bố trên địa bàn 4 huyện, thị xã: Dĩ An có 6 KCN,
Thuận An có 3 KCN, Bến Cát có 9 KCN, Tân Uyên có 3 KCN. Xu hướng công nghiệp
chuyển dịch theo không gian, chuyển từ phía Nam lên các huyện phía Bắc là đúng
hướng, phù hợp với định hướng của Quy hoạch 2007 của tỉnh. Vì vậy, số người nhập cư
vào các huyện phía Bắc của tỉnh tăng nhanh.
Hai thị xã Thuận An và Dĩ An vẫn có số lượng nhập cư đông nhất tỉnh nhưng tốc
độ gia tăng người nhập cư chậm hơn so với giai đoạn 2004 – 2009, số người nhập cư vào
2 thị xã hiện nay chỉ còn 55,98% (giảm 8,52%) tổng số người nhập cư toàn tỉnh. Hai
huyện Bến Cát và Tân Uyên (hai huyện thuộc phía Bắc nhưng có vị trí sát với các huyện
thuộc khu vực phía Nam) đang có sức hút mới đối với dân nhập cư trong những năm gần
đây đặc biệt là huyện Bến Cát, 2 huyện chiếm 31,06% (tăng 5,97%) so với giai đoạn
2004 – 2009. Số người nhập cư vào TP. Thủ Dầu Một có xu hướng tăng nhưng chậm
(tăng 1,4%) so với giai đoạn 2004 – 2009.
Hai huyện Phú Giáo và Dầu Tiếng vẫn là 2 huyện có số người nhập cư thấp nhất
tỉnh, hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp với các nông trường cao su, bên cạnh đó
do cách biệt về vị trí địa lí không thuận lợi về giao thông, hạn chế về phát triển công
nghiệp…Vì vậy, đây là hai huyện ít chịu tác động của những luồng nhập cư so với toàn
tỉnh.
2.3.2.4. Tính chọn lọc của người nhập cư ở tỉnh Bình Dương
• Về giới tính
Người nhập cư vào tỉnh Bình Dương có nét đặc trưng riêng, tỉ lệ nữ giới nhập cư cao
hơn nam giới ở cả 2 giai đoạn 2004 – 2009 và 2009 – 2011, trong khi người nhập cư đến Bà
Rịa – Vũng Tàu, Đắk Lắk có tỉ lệ nam nhiều hơn nữ. Sự khác biệt này có liên quan đến sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp nhẹ ở tỉnh Bình Dương nên thu hút nhiều lao
động nữ như các ngành: dệt, may mặc, giày da, công nghiệp chế biến thực phẩm…
Bảng 2.11. Tỉ lệ giới tính của người nhập cư đến Bình Dương chia theo vùng xuất cư,
2004 - 2009
Tây Tổng số TD& MNPB ĐBSH
9,0
38,4 91.657 47,82
Nơi thực tế thường trú 5 năm trước điều tra BTB& DHNTB Tổng số 499.781 29.672 44.815 152.476 5,9 % 13.548 22.455 Nam 45,66 % nam 50,11 16.124 22.360 Nữ 49,89 54,34 % nữ Nguyên ĐNB 14.043 2,8 6.223 44,31 7.820 55,69 100 231.213 46,26 268.568 53,74 30,5 64.264 42,15 88.212 57,85 ĐBSCL 67.099 191.676 13,4 33.066 49,28 34.033 100.019 50,72 52,18
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009.
Bảng 2.12. Tỉ lệ giới tính của người nhập cư đến Bình Dương chia theo vùng xuất cư,
2009 - 2011
Tây Tổng số
Nơi thực tế thường trú 2 năm trước điều tra BTB& TD& DHNTB MNPB ĐBSH 751.852 41.712 56.481 214.304
7,5 5,5 41,1
100 347.885 46,27 403.967 53,73 28,5 99.178 20.556 28.340 46,28 50,18 49,28 22.156 28.141 119.126 53,72 49,82 50,72 Nguyên ĐNB ĐBSCL 21.428 108.824 309.103 14,5 54.012 135.883 43,96 49,63 54.812 168.220 56,04 50,37 2,9 9.916 46,28 11.512 53,72 Tổng số % Nam % nam Nữ % nữ
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009 & ĐTBĐDS
1/4/2010, 1/4/2011.
Theo số liệu thống kê, năm 2009 trong tổng số 499.781 người nhập cư vào tỉnh Bình
Dương có 268.568 nữ (chiếm 53,74%) tổng số người nhập cư, đến năm 2011 trong số
751.852 người nhập cư có 403.769 nữ (chiếm 53,73%). Tuy nhiên tỉ lệ giới tính giữa các
luồng nhập cư từ các tỉnh với cự li khác nhau vẫn có sự khác biệt rõ rệt (xem Bảng 2.11 và
2.12). Các luồng nhập cư từ các tỉnh lân cận, khoảng cách di dân ngắn thường có tỉ lệ di dân
cao và tỉ số nữ di cư cao hơn nam. Năm 2011, chỉ riêng hai vùng ĐBSCL và ĐNB đã chiếm
đến 55,6% tổng số dân nhập cư vào tỉnh Bình Dương. Đây cũng là hai vùng có tỉ lệ nữ nhập
cư cao hơn nam: ĐBSCL (54,42%), ĐNB (50,37%). Trong khi đó tỉ lệ giới tính của người
nhập cư từ vùng có cự li xa tỉnh Bình Dương có tỉ lệ nam lớn hơn tỉ lệ nữ như vùng ĐBSH
(50,18%). Nhìn chung, ở tỉnh Bình Dương do phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ
nhu cầu cần nhiều lao động nữ nên tỉ lệ nữ nhập cư thường cao hơn so với tỉ lệ nhập cư
nam.
• Kết cấu tuổi
Bảng 2.13. Tỉ lệ di dân theo tuổi và giới tính tỉnh Bình Dương, 2004 - 2009
Đơn vị: %
Tuổi Tổng số 5 6-10 11-14 15-17 18-19 20-24 25-29 30-39 40-49 50+ Nam 100 1,0 2,6 2,2 6,1 12,0 32,0 19,3 15,1 6,4 3,3 Nữ 100 0,6 2,0 2,3 6,1 12,2 32,8 19,8 14,9 6,2 3,1
Chung 100 0,8 2,3 2,2 6,1 12,1 32,4 19,6 15,0 6,3 3,2 Nguồn: Tính toán theo số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009.
Cục Thống kê Bình Dương, 2010. Tổng quan dân số và nhà ở tỉnh Bình
Dương năm 2009.
Phần lớn số người nhập cư vào tỉnh là những người trong độ tuổi lao động, là
những người có sức khỏe, năng động và có khả năng thích nghi hòa nhập với cuộc sống
mới. Theo TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy, số người nhập cư vào tỉnh là 499.781
người, trong đó số người ở độ tuổi từ 18-39 tuổi là hơn 395.326 người. Như vậy ta có thể
thấy số người di dân vào Bình Dương cũng như ở các huyện, thị trong tỉnh ở độ tuổi rất
trẻ chủ yếu là trong độ tuổi lao động.
35
30
25
20
15
10
5
0
%
5 tuổi 6-10 tuổi
11-14 15-17 18-19 20-24 25-29 30-39 40-49 50 + tuổi tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
Tuổi
Biểu đồ 2.3. Số người di dân vào tỉnh Bình Dương chia theo nhóm tuổi,
2004 - 2009
• Tỉ số giới tính
Tỉ số giới tính nhập cư đến tỉnh Bình Dương giai đoạn cả 3 giai đoạn có sự chênh lệch
giữa nam và nữ, tuy nhiên không đáng kể. Giai đoạn 1994 – 1999 tỉ số giới tính nhập cư là
86,5 nam/100 nữ, giai đoạn 2004 – 2009 là 86,1 nam/100 nữ, giai đoạn 2009 – 2011 là 86,2
nam/100 nữ. Giai đoạn 1994 – 1999 là giai đoạn tỉnh Bình Dương bắt đầu xây dựng các
KCN, vì thế nhu cầu nam nhiều hơn nữ nên nhập cư nam tăng hơn so với giai đoạn sau. Từ
2005 các KCN, cụm công nghiệp (ở phía Nam) đã đi vào sản xuất mà chủ yếu là các ngành
công nghiệp nhẹ và dịch vụ cần lao động nữ nhiều hơn nên các luồng nhập cư từ các tỉnh
thành phố khác đến Bình Dương có số nữ nhiều hơn số nam. Ngược lại, ở Bà Rịa – Vũng
Tàu tỉ số giới tính nhập cư nam cao hơn nữ, giai đoạn 2004 – 2009 là 103,1 nam/ 100 nữ
(28.825 nam/ 27.948 nữ), vì liên quan đến ngành công nghiệp dầu khí nhu cầu nam cần
nhiều hơn nữ. Qua đó cho thấy, cơ cấu kinh tế của từng tỉnh, thành ảnh hưởng trực tiếp đến
tính chọn lọc về giới tính trong nhập cư.
Bảng 2.14. Số người và tỉ số giới tính nhập cư tỉnh Bình Dương
Số lượng Nam/Nữ
1994 – 1999
2004 – 2009 Nam (người) Nữ (người) Tỉ số nam/nữ (%) Nam (người) Nữ (người) Tỉ số nam/nữ (%) Bình Dương 30.086 34.784 86,49 231.213 268.568 86,09
2009 – 2011 Nam (người) Nữ (người) Tỉ số nam/nữ (%) 347.985 403.867 86,16
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009 &
ĐTBĐDS 1/4/2010, 1/4/2011, [36].
2.3.2.5. Việc làm và nghề nghiệp của người nhập cư
• Việc làm của người nhập cư
Tính đến nay toàn tỉnh Bình Dương đã có 28 KCN được thành lập phân bố trên địa
bàn 4 huyện, thị là thị xã Dĩ An, Thuận An, huyện Bến Cát và Tân Uyên. Đây là nơi tập
trung nhiều nhà máy, xí nghiệp tư nhân có sự tăng nhanh về số lượng, quy mô sản xuất và
nguồn nhân công. Ngoài ra có nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, trình độ khoa học kĩ thuật chưa
cao, hoạt động chủ yếu về các ngành công nghiệp nhẹ, không đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao. Các nhân tố này đã trở thành lực hút mạnh mẽ dân nhập cư vào làm việc tại Bình
Dương.
Bảng 2.15 cho thấy, tình trạng việc làm của người nhập cư vào tỉnh Bình Dương trong
12 năm qua có sự thay đổi rõ rệt. Giai đoạn 2004 – 2009, tỉ lệ người nhập cư có việc làm
tăng và tỉ lệ người thất nghiệp giảm 2,89% so với giai đoạn 1994 – 1999. Nhưng giai đoan
2009 – 2011, tỉ lệ người có việc làm giảm và tỉ lệ người thất nghiệp tăng 1,35% so với giai
đoạn 2004 – 2009. Với sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động, là nguyên nhân làm cho nhập cư vào tỉnh tăng nhanh hơn so với các
tỉnh trong vùng ĐNB. Tuy nhiên, sự tăng quá nhanh về lực lượng lao động ngoài tỉnh vào
làm việc tại Bình Dương trong những năm gần đây cũng đang làm gia tăng áp lực ngày
càng lớn đối với việc đào tạo nghề, tạo việc làm nhất là đối với lao động chưa qua đào
tạo và nhà ở cho người lao động. Do đó, cần có chính sách giải quyết tốt nhằm sử dụng
có hiệu quả lực lượng lao động di chuyển đến và điều chỉnh quá trình di chuyển để ổn
định sự phát triển xã hội.
Bảng 2.15. Tình trạng việc làm của lao động nhập cư tỉnh Bình Dương
Tình trạng việc làm
Dân số hoạt động (người) Số người có việc làm (người) Số người thất nghiệp (người) Tỉ lệ có việc làm (%) Tỉ lệ thất nghiệp (%) Dân số hoạt động (người) 1994 – 1999 2004 – 2009 Tổng số 47.307 44.894 2.413 94,90 5,10 430.816
2009 – 2011 Số người có việc làm (người) Số người thất nghiệp (người) Tỉ lệ có việc làm (%) Tỉ lệ thất nghiệp (%) Dân số hoạt động (người) Số người có việc làm (người) Số người thất nghiệp (người) Tỉ lệ có việc làm (%) Tỉ lệ thất nghiệp (%) 421.285 9.531 97,79 2,21 590.987 569.963 21.024 96,44 3,56
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009.
Sở Lao động – Thương binh & Xã hội tỉnh Bình Dương (2012), Kết quả điều tra
thực trạng nguồn lao động và việc làm tỉnh Bình Dương, 2011.
• Nghề nghiệp của người nhập cư
Từ số liệu bảng 2.16 cho thấy, lao động nhập cư tỉnh Bình Dương chủ yếu hiện nay là
lao động trong các ngành lắp ráp máy móc, lao động thủ công và lao động giản đơn. Tuy
nhiên cùng với quá trình CNH, lao động thủ công và lao động giản đơn có xu hướng ngày
càng giảm: tỉ lệ lao động thủ công giảm 5,5%, lao động giản đơn giảm 6,1%. Tỉ lệ lao động
trong các nhóm ngành chuyên môn và dịch vụ tăng: tỉ lệ lao động chuyên môn bậc trung
tăng 1,3%, tỉ lệ lao động dịch vụ và bán hàng tăng 2,3%.
Nhìn chung, tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh phát triển nhanh các KCN trong
những năm gần đây, do đó lao động nhập cư làm việc trong môi trường vận hành máy móc
thiết bị chiếm tỉ lệ lớn nhất và giai đoạn sau có tỉ lệ cao hơn nhiều so với giai đoạn trước
35,3% (1994 – 1999) tăng lên 53,5% (2004 – 2009).
Trong số chín nhóm nghề đang nghiên cứu, chỉ có hai nhóm nghề sử dụng nhiều lao
động nữ hơn là “Nhân viên dịch vụ và bán hàng” và “Thợ vận vận hành lắp ráp máy móc
thiết bị”. Rõ ràng đây là những nhóm nghề chủ yếu đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn
kĩ thuật thấp, nên lao động nhập cư vào tỉnh có số lượng nữ cao hơn nam.
Bảng 2.16. Lao động nhập cư tỉnh Bình Dương phân theo nghề nghiệp
Đơn vị :%
1994 - 1999 2004 – 2009
Nghề nghiệp
1. Nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp 2. Nhà chuyên môn bậc cao 3. Nhà chuyên môn bậc trung Số lượng (người) 60 549 677 Tỉ lệ (%) 0,1 1,3 1,5 Số lượng (người) 634 5.848 10.827 Tỉ lệ (%) 0,2 1,4 2,8
4. Nhân viên trợ lý văn phòng 5. Nhân viên dịch vụ và bán hàng 6. Lao động có kỹ năng trong NN-LN-TS 7. Lao động thủ công 8. Thợ vận hành và lắp ráp máy móc thiết bị 9. Lao động giản đơn
9.838 39.828 4.209 74.027 225.387 49.669 421.285 975 3.064 3.155 10.074 15.867 7.807 44.894 2,2 7,1 7,2 23,0 35,3 17,8 100 Tổng số
2,3 9,4 1,3 17,5 53,5 11,7 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009, [36].
2.3.3. Hiện trạng di dân nội tỉnh Bình Dương
Qua bảng 2.17 cho thấy, hiện trạng di dân nội tỉnh giữa các huyện, thị ở tỉnh Bình
Dương là không lớn về số lượng. Các huyện xuất cư đi các huyện, thị khác trong tỉnh nhiều
nhất là huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo, Bến Cát. Các huyện, thị nhập cư nhiều là TP. Thủ Dầu
Một, thị xã Thuận An, thị xã Dĩ An.
2.3.3.1. Các thành phố, thị xã, huyện di chuyển dân đi
Hầu hết các huyện, thị đều có số người xuất cư đi các huyện khác, nhưng các huyện có
số người xuất cư đi giai đoạn sau cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Bảng 2.17. Di dân nội tỉnh giữa các thành phố, huyện, thị xã ở tỉnh
Bình Dương, 1999 - 2009
Đơn vị: người
1994 - 1999 2004 – 2009
Đơn vị hành chính
1.103 131 2.510
1.713
TP.Thủ Dầu Một H.Dầu Tiếng H.Bến Cát H.Phú Giáo H.Tân Uyên Tx.Dĩ An Tx.Thuận An Nhập cư Xuất cư Cán cân Nhập cư Xuất cư Cán cân 4.152 -1.866 -1.042 -1.352 -262 280 272 2.091 38 -1.801 378 -870 340 -176 2.796 2.567 3.704 1.937 2.948 2.159 4.547 6.948 701 2.662 586 2.686 2.439 4.819 3.194 169 709 378 843 340 1.216 1.392
Nguồn: Tính toán từ số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009, [15], [36]. Giai đoạn 2004 – 2009 các huyện, thị có số người xuất cư nhiều là thị xã Thuận An
(4.547 người), tuy nhiên đây cũng là thị xã có số người nhập cao hơn nên có cán cân dương
(272 người), so với giai đoạn 1999 số người xuất cư đi đến các huyện thị khác cao hơn nhập
cư nên có cán cân âm. Tiếp theo là huyện Bến Cát và Tân Uyên, cả 2 giai đoạn đều có số
người xuất cư cao hơn nhập cư (3.704 người), huyện Tân Uyên (2.948 người), nguyên nhân
do giai đoạn 2004 – 2009 các KCN ở hai huyện đang trong quá trình xây dựng và mới đi
vào hoạt động nên số lượng người nhập cư đến chưa ổn định.
Các huyện, thị có số người xuất cư cao hơn so với nhập cư nên có cán cân di dân âm,
cao nhất trong tỉnh là: Huyện Dầu Tiếng (-1.866), Phú Giáo (-1.352), đây là hai huyện hoạt
động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, có ít nhà máy, xí nghiệp.
2.3.3.2. Các thành phố, thị xã, huyện tiếp nhận dân cư
Là những huyện, thị có sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ nên có sức
hút nhập cư từ các huyện, thị khác trong tỉnh.
Giai đoạn 2004 – 2009, những huyện, thị có người nhập cư nhiều hơn số người di
chuyển đi các huyện, thị khác nên có cán cân dương là TP. Thủ Dầu Một nhập cư 6.948
người (cán cân: 4.152), thị xã Thuận An nhập cư 4.819 người (cán cân: 272), thị xã Dĩ An
số người nhập cư nội tỉnh tuy không cao so với huyện Bến Cát và Tân Uyên chỉ có 2.439
người nhập cư nhưng có cán cân di dân dương (cán cân: 280). Đây là 3 thành phố, thị xã có
sức thu hút đầu tư cao và phát triển công nghiệp và dịch vụ nên số người nhập cư nhiều hơn
số người xuất cư đi. Hai huyện Tân Uyên và Bến Cát, đây là hai huyện đang có tiềm năng
về phát triển công nghiệp với các KCN khá lớn đang được xây dựng và đi vào hoạt động
nên đã thu hút người nhập cư đông vào hai huyện: Tân Uyên (2.686 người), huyện Bến Cát
(2.662 người). Tuy nhiên do các KCN chưa thực sự hoạt động ổn định nên số người xuất cư
hai huyện cao hơn nhập cư. Đa số lượng người nhập cư ở hai huyện này chủ yếu là làm việc
tại các KCN và được chuyển từ các tỉnh phía Bắc. Do đó có thể thấy, di dân nội tỉnh ở tỉnh
Bình Dương cũng là di dân công nghiệp là chính.
Biểu đồ 2.4. Tỉ lệ xuất, nhập cư nội tỉnh Bình Dương phân theo các đơn vị
hành chính, giai đoạn 2004 – 2009
2.3.4. Hiện trạng xuất cư từ tỉnh Bình Dương đi các tỉnh thành khác
Trong những năm gần đây, cùng với tình hình nhập cư với số lượng lớn vào tỉnh thì
hiện tượng xuất cư từ tỉnh Bình Dương và các tỉnh trong vùng ĐNB đi các tỉnh, thành phố
khác cũng có xu hướng tăng nhanh hơn so với những năm trước (xem Bảng 2.18).
Bảng 2.18. Số người và tỉ suất xuất cư tỉnh Bình Dương và các tỉnh
Tỉnh
trong vùng ĐNB
Toàn vùng
1994 –1999
Số
Đồng Nai 92.782
Bà Rịa - Vũng Tàu 28.031
TP. HCM 97.399 278.963
Tây Bình Bình Phước Ninh Dương 15.380 22.101 23.270
26,7 5,5
24,9 7,9
51,7 33,3
39,0 10,0
20,9 34,9
33,0 100
35,2 8,3
85.626
37.429
137.031 367.605
36.556 36.231 34.732
2004 –2009
46,6 9,9
36,9 9,9
37,0 23,3
41,2 10,2
20,8 37,3
34,8 100
25,4 9,4
57.410
297.194 702.836
62.519 52.003 96.141 137.569
người Tỉ suất(‰) Tỉ lệ (%) Số người Tỉ suất(‰) Tỉ lệ (%) Số người Tỉ suất(‰) Tỉ lệ (%)
2009 –2011
75,6 8,9
52,0 7,4
56,9 19,6
60,6 8,2
42,1 42,3
50,9 100
61,4 13,6
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999,1/4/2009, Số liệu ĐTBĐDS
và KHHGD thời điểm 1/4/2010,1/4/2011, [36].
Số người xuất cư từ Bình Dương tuy không lớn so với số người nhập cư đến có 96.141
người xuất cư so với 751.852 người nhập cư vào tỉnh, số người xuất cư khỏi Bình Dương đi
các tỉnh thành khác chỉ chiếm 14,6% tổng số di dân thuần ở Bình Dương (2009 – 2011).
Tuy nhiên, nếu so với các giai đoạn 2004 - 2009 thì số người xuất cư khỏi Bình Dương
trong tổng số di dân thuần đã tăng 7,1%.
Số người xuất cư nhiều nhất trong vùng ĐNB là TP. Hồ Chí Minh (297.194 người),
sau đó là Đồng Nai (137.569 người) và Bình Dương (96.141 người). Tỉ suất xuất cư lớn
nhất là Bình Phước (75,6‰), Bình Dương (61,4‰) và Đồng Nai (60,6‰).
VÙNG
TD& MNPB
ĐBSH
BTB& DHNTB
Tây Nguyên
ĐNB
ĐBSCL
Xuất cư từ Bình Dương 2004-2009 (người)
866
2.129
3.822
1.761
23.711
2.443
Xuất cư từ Bình Dương 2004-2009 (%)
2,5
6,1
11,0
5,1
68,3
7,0
Xuất cư từ Bình Dương 2009-2011 (người)
4.786
5.620
32.952
1.992
38.007
12.784
Xuất cư từ Bình Dương 2009-2011 (%)
4,9
5,9
34,3
2,1
39,5
13,3
Biểu đồ 2.5. So sánh xuất cư từ tỉnh Bình Dương đến các vùng giai đoạn 2004 - 2009 và 2009 - 2011
Biểu đồ trên cho thấy, nơi đến (địa bàn xuất cư đi các vùng) của những người xuất cư ở
tỉnh Bình Dương cả 2 giai đoạn nhiều nhất là đến vùng ĐNB, BTB&DHNTB và ĐBSCL.
Giai đoạn 2009 – 2011, xuất cư đi các vùng như sau: ĐNB: 38.007 người (39,5%),
BTB&DHNTB: 32.952 người (34,3%), ĐBSCL: 12.784 người (13,3%), ĐBSH: 5.620 người
(5,9%), TD&MNPB: 4.786 người (4,9%) và ít nhất là vùng Tây Nguyên: 1.992 người
(2,1%). Nếu so sánh với số người nhập cư đến tỉnh Bình Dương (biểu đồ 2.1 cho thấy các
địa bàn nhập cư vào tỉnh chủ yếu từ ĐBSCL, BTB&DHNTB và ĐNB) thì biểu đồ 2.4 cho
thấy xuất cư từ tỉnh Bình Dương đến các vùng cũng tập trung nhiều nhất vào 3 vùng đã xuất
cư đi là ĐNB, BTB&DHNTB và ĐBSCL. Điều đó cho thấy, giữa xuất cư và nhập cư có sự
tương đồng về tỉ lệ. Nghĩa là những tỉnh, những vùng nào nhập cư vào tỉnh Bình Dương cao
thì cũng nhận nhiều người xuất cư từ tỉnh Bình Dương.
Bảng 2.19. Số người xuất cư từ tỉnh Bình Dương đến các tỉnh, thành phố giai đoạn
2004 - 2009
Đơn vị: người
Từ tỉnh Bình Dương đến các tỉnh, thành phố Tổng số
TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 TP. HCM Đồng Nai Bình Phước Thanh Hóa Tây Ninh Hà Tĩnh Nghệ An Đắk Lăk Bà Rịa - Vũng Tàu Long An
Tổng số 34.732 15.347 5.110 2.014 1.240 745 574 572 551 495 476 7.608 % so với tổng số xuất cư từ tỉnh Bình Dương 100,00 44,19 14,71 5,80 3,57 2,14 1,65 1,65 1,59 1,43 1,37 21,90 Các tỉnh khác
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009.
Bảng 2.20. Số người xuất cư từ tỉnh Bình Dương đến các tỉnh, thành phố giai đoạn
2009 - 2011
Đơn vị: người
TT Từ tỉnh Bình Dương đến các tỉnh, thành phố Tổng số % so với tổng số xuất cừ từ tỉnh Bình Dương
Tổng số
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Thanh Hóa TP.HCM Đồng Nai Bình Phước Nghệ An Cà Mau Hà Tĩnh An Giang Tiền Giang Trà Vinh
Các tỉnh khác 96.141 22.405 21.868 8.876 4.737 3.942 3.261 2.369 1.821 1.747 1.793 23.322 100,00 23,30 22,75 9,23 4,93 4,10 3,39 2,46 1,89 1,82 1,86 24,26
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/2009, Số liệu Điều tra BĐDS và
KHHGD thời điểm 1/4/2010,1/4/2011.
Bảng 2.19 và 2.20 cho thấy, giai đoạn 2004 – 2009 số người xuất cư từ tỉnh Bình
Dương chủ yếu di chuyển đến các tỉnh lân cận, đặc biệt giai đoạn này số người xuất cư chủ
yếu di chuyển đến tất cả các tỉnh trong vùng ĐNB (chiếm 68,3%) tổng số người xuất cư.
Giai đoạn 2009 – 2011, số người di chuyển khỏi tỉnh số người xuất cư lớn nhất đến các 3
tỉnh ĐNB chiếm 36,9% tổng số người xuất cư, tiếp theo là xuất cứ lớn nhất đến 3 tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ chiếm 29,9% và 4 tỉnh ĐBSCL chiếm 9,0%.
Qua phân tích trên cho thấy, trong thời kì hiện đại khi giao thông vận tải và thông tin
liên lạc trở nên rất thuận tiện thì vấn đề khoảng cách không còn là trở ngại lớn. Số người
xuất cư giai đoạn 2009 – 2011 không chỉ di chuyển với khoảng cách gần (đến ĐNB,
ĐBSCL) mà còn di chuyển với khoảng cách xa hơn (đến BTB&DHNTB), phần lớn các
trường hợp xuất cư khỏi tỉnh Bình Dương là những người quay về quê cũ và do gặp khó
khăn về điều kiện sống vật chất đặc biệt là vấn đề nhà ở.
2.4. Ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương
2.4.1. Ảnh hưởng của nhập cư
2.4.1.1. Ảnh hưởng tích cực
• Cung cấp nguồn lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương, đồng
thời góp phần thay đổi cơ cấu lao động
Trong những năm gần đây, kinh tế tỉnh Bình Dương có sự phát triển mạnh mẽ với sự
ra đời và mở rộng các KCN, cụm công nghiệp…nên nhu cầu lao động tăng nhanh, trong khi
đó tỉ lệ gia tăng tự nhiên của tỉnh thuộc loại thấp và giảm dần so với các tỉnh trong vùng
ĐNB và so với cả nước: tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của tỉnh năm 1999 (1,53%), năm 2009
(1,17%), năm 2011 (1,00%). Do đó, lực lượng lao động nhập cư vào tỉnh tăng nhanh trong
những năm qua đã góp phần rất lớn vào việc bổ sung thêm một nguồn lực lượng lao động
dồi dào, đáp ứng nhu cầu lao động trong các ngành, qua đó có ảnh hưởng khá lớn đến sự
phát triển kinh tế tỉnh Bình Dương.
Bảng 2.21. Quy mô và tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh
tế tỉnh Bình Dương giai đoạn 1999 - 2009
Đơn vị: người
1999
2001
2003
2005
2007
2009
2011
333.664
406.435 526.602 723.012 854.963 970.511 1.103.695
100,00
121,81
157,82
216,69
256,23
290,86
330,78
Toàn tỉnh Tốc độ tăng trưởng lao động (%)
Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương. Báo cáo phân tích tình hình phân bố và sử dụng
lao động xã hội qua các năm.
Biểu đồ 2.6. Quy mô và tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động tỉnh
Bình Dương, giai đoạn 1999 – 2011
Nhờ chính sách phát triển KT-XH hợp lí nên các ngành sản xuất ở tỉnh Bình Dương
phát triển mạnh, nhu cầu lao động trong các doanh nghiệp ngày càng tăng đã thu hút mạnh
mẽ dân nhập cư từ các tỉnh khác tới.
Bảng 2.22. Quy mô và cơ cấu lao động nhập cư trong tổng số lao động của các doanh
nghiệp tỉnh Bình Dương, giai đoạn 2009 - 2011
Đơn vị: người
Tổng số lao động trong doanh nghiệp toàn tỉnh Lao động ngoài tỉnh Tỉ lệ (%) 2009 672.296 567.446 84,40 2010 717.850 602.403 83,92 2011 764.029 651.631 85,29
Nguồn: Phòng Việc làm Sở Lao Động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương
Năm
Biểu đồ 2.7. Quy mô lực lượng lao động ngoài tỉnh trong tổng số lao động của doanh
nghiệp tỉnh Bình Dương, 2009 - 2011
Nhìn chung, trong tổng số lao động đang hoạt động trong các doanh nghiệp, lao động
ngoài tỉnh chiếm trên 84%. Điều đó cho thấy, nguồn lực lao động của tỉnh Bình Dương phụ
thuộc phần lớn vào lực lượng lao động nhập cư.
Đến năm 2011, trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 1.079.919 người từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc trong các ngành kinh tế (chiếm 80,56%). Số người trong độ tuổi lao động
đang đi học là 82.462 người (chiếm 6,2%). Lao động hoạt động chủ yếu trong khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Tập trung chủ yếu ở địa bàn các thị xã Dĩ An, Thuận An, TP. Thủ Dầu
Một, huyện Bến Cát…những địa bàn tập trung các KCN, cụm công nghiệp và hoạt động
kinh tế phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Bảng 2.23. Cơ cấu lao động có việc làm phân theo khu vực kinh tế tỉnh
Bình Dương, giai đoạn 2005 – 2011
2011
Khu vực kinh tế
2005 Số người %
2009 Số người %
Số người
%
Toàn tỉnh I. Nông, lâm, ngư nghiệp
650.999 138.521
950.947 122.193
100 12,85
1.079.919 119.435
100 21,2
100 11,1
II. Công nghiệp và xây dựng 399.470
621.633
65,37
688.509
61,4
63,8
III. Dịch vụ
113.008
207.121
21,78
271.975
17,4
25,1
Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương. Báo cáo phân tích tình hình phân bố và sử dụng
lao động xã hội qua các năm.
Biểu đồ
2.8. Quy mô lao động có việc làm phân theo khu vực kinh tế tỉnh Bình Dương, giai đoạn
2005 – 2011
Phần lớn dân cư di chuyển đến Bình Dương đã đáp ứng nhu cầu nhân lực đa dạng cho
tỉnh, tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp nhẹ như giày da, may mặc, các ngành
dịch vụ. Vì vậy hàng năm tỉnh tạo thêm được một khối lượng việc làm tương đối lớn cho số
lao động tăng thêm trên địa bàn tỉnh và lao động nhập cư trong các ngành kinh tế, đặc biệt là
lao động ngành công nghiệp và xây dựng có xu hướng tăng lên từ 61,4% (2005) lên 63,8%
(2011), dịch vụ tăng tương ứng từ 17,4% lên 25,1%, ngược lại lao động có việc làm ngành
nông nghiệp giảm từ 21,2% xuống còn 11,1%.
Sự thay đổi cơ cấu lao động có việc làm trong các khu vực kinh tế theo hướng giảm tỉ
lệ dân số có việc làm trong ngành nông nghiệp, tăng tỉ lệ lao động có việc làm phi nông
nghiệp đã góp phần tăng nhanh tăng năng suất lao động trong các ngành nghề công nghiệp
và dịch vụ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
• Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu sản phẩm
Người lao động nhập cư vào tỉnh Bình Dương có địa bàn xuất cư là từ hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước, chính sự tập trung lao động từ nhiều địa phương đã tạo điều kiện cho
người lao động có cơ hội trao đổi học hỏi kinh nghiệm sản xuất, từ đó nâng cao năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm, góp phần tăng tính năng động và nhạy bén hơn cho lao
động và cho nền kinh tế tỉnh Bình Dương. Lao động nhập cư đã đóng góp phần lớn sức lao
động cho các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp, góp phần làm tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu công nghiệp trên địa bàn tỉnh nhất là công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp
(chiếm 77,68% năm 2011), tạo ra các mặt hàng giá trị xuất khẩu cao như hàng may mặc,
giày dép…nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của toàn tỉnh.
Bảng 2.24. Giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Bình Dương,
giai đoạn 1999 –2011
Kim ngạch XK
1999 430 2005 3.046 2009 6.714 2011 10.342
Tổng số (Triệu USD) Trong đó: Hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp (triệu USD) Cơ cấu ( %) 294 68,37 2.076 68,15 4.820 71,79 8.034 77,68
Nguồn: Niên giám thống kê 2011_Cục thống kê Bình Dương.
Ngoài ra, người nhập cư được thu hút mạnh mẽ vào các ngành có khả năng xuất khẩu
cao, đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế cũng phù hợp với quy luật phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH –
HĐH. Trong giai đoạn 1999 – 2011, cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương có xu hướng tăng tỉ
trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và ngành nông nghiệp giảm.
Biểu đồ 2.9. Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế của tỉnh Bình Dương,
giai đoạn 1999 – 2011
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo khu vực kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Chỉ
trong vòng 12 năm, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển biến đáng kể theo hướng tích cực.
Đặc biệt khu vực công nghiệp và xây dựng đã chiếm tỉ trọng cao nhất 62,2% (năm 2011),
khu vực nông - lâm - thủy sản giảm nhanh, từ 18,9% (năm 1999) xuống còn 4,1% (năm
2011), khu vực dịch vụ tăng tương ứng cùng thời kì từ 25,8% (năm 1999) lên 33,7% (năm
2011).
Trong 12 năm (từ năm 1999 đến năm 2011) kinh tế của tỉnh Bình Dương đã tăng
trưởng rất cao, tốc độ tăng trưởng bình quân tăng 14,7%/năm. Trong đó: Khu vực dịch vụ
có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, bình quân thời kì 1999 - 2011 tăng 19,76%/năm; sau đó là
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng bình quân 14,47%/năm và khu vực nông - lâm - thủy
sản có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, bình quân tăng 2,61%/năm.
Kinh tế Bình Dương trong những năm qua hướng mạnh sang sản xuất công nghiệp và
dịch vụ, lực lượng lao động nhập cư vào tỉnh chủ yếu tập trung nhiều trong ngành công
nghiệp và dịch vụ. Sự thay đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ
làm tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo khu vực kinh tế.
• Nâng cao mức sống dân cư và giảm tỉ lệ hộ nghèo
Mức sống dân cư tăng lên qua các năm. Giá trị tăng thêm bình quân
đầu người năm 1996 đạt 4,8 triệu đồng; năm 2000 đạt 7,8 triệu đồng.
Năm 2005 đạt 13,5 triệu đồng; năm 2010 đạt 30,1 triệu đồng và năm 2011 đạt 36,9
triệu đồng [27].
Tỉ lệ hộ nghèo giảm, năm 2000 có khoảng 5,62% số hộ nghèo. Năm 2006 còn 0,5%
số hộ nghèo và đến năm 2011 xuống còn 0,2%. So với các tỉnh ĐNB, tỉ lệ hộ nghèo ở
Bình Dương chỉ cao hơn TP. Hồ Chí Minh (0,1%); nhưng thấp hơn so với các tỉnh trong
vùng: Đồng Nai (còn 3,0%); Bà Rịa - Vũng Tàu (còn 4,8%); Tây Ninh (còn 5,5%); Bình
Phước (còn 9,1%).
Bảng 2.25. Tỉ lệ hộ nghèo các tỉnh trong vùng ĐNB, giai đoạn 2006 - 2011 Đơn vị: %
Tỉnh
2006 3,1 10,5 7,0 7,0 5,0 0,5 0,5 2008 2,5 9,1 6,0 6,3 4,3 0,4 0,3 2010 2,3 9,4 6,0 6,8 3,7 0,5 0,3 2011 1,7 9,1 5,5 4,8 3,0 0,2 0,1 Toàn Vùng Bình Phước Tây Ninh Bà Rịa Vũng Tàu Đồng Nai Bình Dương TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: Niên giám thống kê 2011_Tổng cục Thống kê.
• Nhập cư ảnh hưởng lớn đến quy mô và kết cấu dân số tỉnh Bình Dương
Dân số tỉnh Bình Dương tăng nhanh từ 716.661 người (năm 1999) lên 1.705.283
người (năm 2011), trong đó người nhập cư chiếm khoảng 40% dân số toàn tỉnh. Tốc độ gia
tăng dân số tự nhiên tỉnh Bình Dương giảm đáng kể nhưng số dân tăng hàng năm vẫn không
giảm, năm 1999 gia tăng tự nhiên là 1,53% đến năm 2011 là 1,00%. Có thể thấy, tỉ lệ tăng
tự nhiên của tỉnh rất thấp nhưng có tỉ lệ tăng dân số rất cao 7,5% ( năm 2011). Sự tăng dân
số của Bình Dương chủ yếu là nhập cư tăng nhanh qua các năm, nguyên nhân do kinh tế
phát triển nhanh nhu cầu lao động của tỉnh tăng cao, nguồn lao động nhập cư đã góp phần
đáp ứng nhu cầu lao động của tỉnh trong thời gian qua.
Trung bình mỗi năm tỉnh Bình Dương có thêm 57.000 người nhập cư (1999 – 2011),
người nhập cư với đặc điểm riêng về lứa tuổi, giới tính có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu dân số
của tỉnh Bình Dương: làm tăng tỉ lệ lao động, giảm gánh nặng phụ thuộc ở tỉnh. Bảng 2.26
cho thấy, tỉ lệ phụ thuộc chung (biểu thị phần trăm số người dưới 15 tuổi (0-14) và từ 65
tuổi trở lên trên 100 người ở nhóm tuổi 15-64) của tỉnh Bình Dương giảm nhanh, theo kết
quả của 2 cuộc TĐT dân số cho thấy sau 10 năm (1999 – 2009) tỉ lệ phụ thuộc chung giảm
từ 34,6% (1999) xuống còn 21,1% năm 2009.
Tuy nhiên trong những năm gần đây theo báo cáo của phòng dân số_Cục thống kê
Bình Dương, năm 2011 dân số dưới 15 tuổi có xu hướng tăng lên (chiếm 20,3%), trong khi
tỉ lệ sinh và tỉ lệ tăng tự nhiên của tỉnh giảm. Điều đó cho thấy, người nhập cư vào tỉnh dưới
15 tuổi có xu hướng tăng. Dân số trong độ tuổi lao động vẫn chiếm tỉ lệ cao 75,06% (năm
2011), sẽ tạo sức ép đối với vấn đề giáo dục và giải quyết việc làm trong tỉnh.
Tỉ số phụ thuộc Tỉ số phụ thuộc trẻ em (0-14) Tỉ số phụ thuộc người già (65+) Tỉ số phụ thuộc chung
1999 29,0 5,6 34,6
2009 17,7 3,4 21,1
Bảng 2.26. Tỉ lệ dân số phụ thuộc tỉnh Bình Dương, giai đoạn 1999 - 2009
Nguồn: Số liệu TĐT dân số và nhà ở năm 1999, 2009.
Do sức hút mạnh mẽ vào các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ nên số lượng nữ nhập
cư nhiều hơn nam, năm 1999 tỉ số giới tính nhập cư là 86,5 nam/100 nữ, năm 2009 tỉ số giới
tính nhập cư là 86,1 nam/100 nữ, năm 2011 tỉ số giới tính nhập cư là 86,2 nam/100 nữ. Tỉ số
giới tính nữ nhập cư cao đã góp phần làm cho tỉ số giới tính nữ cao hơn nam trong tổng dân
số của tỉnh Bình Dương, năm 2011 tỉ số giới tính của tỉnh là 92,6 nam/100 nữ.
• Nhập cư góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hóa
Sự di dân đã góp phần tăng nhanh tốc độ tăng dân số đô thị qua các năm, góp phần
phân công lại lao động, nâng cao mức thu nhập cũng như chất lượng cuộc sống của người
dân. Góp phần nhất định vào quá trình CNH và phổ biến lối sống đô thị vào nông thôn.
Số người nhập cư tăng nhanh tập trung chủ yếu ở TP. Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An,
Thuận An, huyện Bến Cát do tập trung nhiều KCN, cụm công nghiệp và các ngành dịch vụ
phát triển đã làm cho quá trình ĐTH của tỉnh trong những năm gần đây diễn ra mạnh mẽ
hơn, tỉ lệ dân số đô thị tăng nhanh từ 30,3% (năm 1999) lên 64,1% (năm 2011) và 64,5%
(năm 2012).
Số dân đô thị tăng lên nhanh chóng, từ năm 1999 đến năm 2012 dân số đô thị đã tăng
thêm 907.130 người, cụ thể tăng từ 219.148 người (năm 1999) lên 1.126.278 người (năm
2012), đạt tốc độ tăng trưởng 13,4%/năm cao hơn 6,1% so với giai đoạn 2004 – 2009
(7,3%/năm).
Bảng 2.27. Dân số và tỉ lệ dân số thành thị tỉnh Bình Dương, 1999 – 2012
Năm Dân số (người) Dân số thành thị (người) Tỉ lệ (%) 2011 1.705.283 1.084.226 64,1 2012 1.746.990 1.126.278 64,5
1999 716.661 219.148 30,3 Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, Số liệu ĐTBĐDS và
KHHGD thời điểm 1/4/2010,1/4/201,1/4/2012.
• Nhập cư góp phần phân bố lại dân cư
Sự phân bố lại dân cư giữa các huyện, thị, thành phố trong tỉnh đã có sự thay đổi lớn
qua các giai đoạn do số lượng người nhập cư ngày càng nhiều, tuy nhiên giữa các huyện, thị
dân cư phân bố không đều.
Số người nhập cư tăng nhanh làm cho mật độ dân số của tỉnh cũng tăng nhanh qua các năm, từ 266 người/km2 (năm 1999) tăng lên 550 người/km2 (năm 2009) và 628 người/km2
(năm 2011).
Bảng 2.28. Mật độ dân số chia theo đơn vị hành chính tỉnh Bình Dương,
1999, 2009 và 2011
Đơn vị hành chính
Toàn Tỉnh TP. Thủ Dầu Một Huyện Dầu Tiếng Huyện Bến Cát Huyện Phú Giáo Huyện Tân Uyên Thị xã Dĩ An Thị xã Thuận An Mật độ dân số (người/km2) Năm 2009 550 2.536 143 330 154 334 4.967 4.457 Năm 1999 266 2.106 116 180 111 190 1.592 1.308 Năm 2011 628 2.123 159 408 163 403 5.581 5.125
Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương.
Những huyện, thị có mật độ dân số tăng nhanh so với trung bình của tỉnh là thị xã Dĩ
An, Thuận An, TP. Thủ Dầu Một. Trong đó mật độ dân số cao nhất là thị xã Dĩ An: 1.592 người/km2 (năm 1999) tăng lên 4.967 người/km2 (năm 2009) và 5.581 người/km2 (năm 2011), tiếp theo là thị xã Thuận An với các số tương ứng là: 1.308 người/km2 tăng lên 4.457 người/km2 và 5.125 người/km2. Hai thị xã này tập trung tới 45,5% dân số cả tỉnh, nhưng chỉ
chiếm gần 5,5% diện tích của tỉnh. Mật độ dân số TP. Thủ Dầu Một đứng thứ 3 trong tỉnh nhưng đến năm 2011 giảm còn 2.123 người/km2.
Tiếp theo là hai huyện Bến Cát và Tân Uyên, mật độ dân số cũng có xu hướng tăng cao hơn so với giai đoạn trước nhờ nhập cư nhiều. Bến Cát là 408 người/km2 năm 2011 so với 180 người/km2 năm 1999. Huyện Tân Uyên là 403 người/km2 năm 2011 so với 190 người/km2 năm 1999.
Hai huyện Dầu Tiếng và Phú Giáo do chủ yếu phát triển mạnh về nông nghiệp, ít có
sức thu hút nhập cư nên mật độ dân số của 2 huyện tăng chậm và thấp nhất trong tỉnh. Đồng
thời đây cũng là hai huyện chiếm gần 50% diện tích cả tỉnh, trong khi chỉ tập trung 12% dân
số toàn tỉnh.
• Nhập cư góp phần làm phong phú đa dạng nền văn hóa cho tỉnh
Người nhập cư vào tỉnh từ khắp mọi miền đất nước đã mang theo những phong tục tập
quán khác nhau, làm tăng thêm nét văn hóa phong phú đa dạng cho tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có tất cả 18 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh chiếm
97,2% dân số, dân tộc Hoa chiếm 2% dân số, các dân tộc thiểu số khác chiếm khoảng
0,75%. Trong đó chủ yếu là người Khơme chiếm 56,68% dân tộc thiểu số toàn tỉnh, ngoài ra
còn có một bộ phận các dân tộc khác như: Tày, Chăm, Nùng, Mường…Các dân tộc này tập
trung chủ yếu ở các huyện phía Bắc của tỉnh, người Hoa tập trung chủ yếu ở các huyện phía
Nam nhất là ở TP. Thủ Dầu Một, phường Lái Thiêu (Thuận An). Mỗi dân tộc đều mang một
nét văn hóa riêng đã góp phần làm đa dạng thêm cho nền văn hóa của tỉnh.
2.4.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, người nhập cư vào tỉnh tăng nhanh qua các năm
cũng đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như:
• Nhập cư tăng nhanh làm cho cơ sở hạ tầng trở nên quá tải
Các điều kiện về cơ sở hạ tầng như nhà ở, trường học, bệnh viện, điện, nước, đường
phố, vệ sinh môi trường và các điều kiện khác hiện chưa thể đáp ứng được tốt khi số lượng
nhập cư ngày một tăng nhanh vào tỉnh. Đặc biệt là vấn đề xung quanh về chỗ ăn, ở cho
người nhập cư trong các KCN. Đây là một trong những mối bận tâm rất lớn của những nhà
làm chính sách cũng như cộng đồng xã hội.
Theo Văn kiện Đại hội công đoàn tỉnh Bình Dương khóa VIII, 2008: Trong tổng số
công nhân, lao động đang làm việc tại các KCN và các nhà máy trên địa bàn tỉnh Bình
Dương có khoảng 625.000 người, nhưng chỉ có trên 200 doanh nghiệp xây dựng nhà ở đáp
ứng nhu cầu của khoảng 40.000 cán bộ, công nhân, lao động. Số công nhân còn lại chưa
được đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Khu nhà ở công nhân được xây dựng tập trung nhiều nhất
là các KCN phía Bắc như Mỹ Phước 1, Mỹ Phước 2, Mỹ Phước 3, Việt Hương 2. Đây là
các KCN mới thành lập từ năm 2002 và hoạt động từ năm 2005 đến nay. Phần lớn các
doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người lao động là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, cơ khí, gỗ.
Theo số liệu thống kê khảo sát của Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương năm 2010 về
vấn đề nhà ở cho người lao động nhập cư tại thị xã Thuận An, Bình Dương cho thấy với
6.251 cơ sở cho thuê phòng trọ thì có đến 42% không đảm bảo về tiêu chuẩn xây dựng, diện
tích và dụng cụ phòng cháy chữa cháy. Diện tích bình quân mỗi phòng quá nhỏ chỉ từ 8 – 10m2 cho từ 2 – 3 người ở. Ngay cả KCN VSIP là một trong những KCN điển hình và được
xem là tiên tiến nhất Việt Nam hiện nay thì vấn đề quy hoạch nhà ở cho người lao động vẫn
còn nhiều điều phải bàn. Đa phần, người lao động nhập cư phải tự lo chỗ ở. Chỉ có một
doanh nghiệp có kí túc xá (công ty Showa Gloves – Nhật Bản) xây dựng cho người lao động
của chính công ty họ cư trú (gồm 140 phòng, sức chứa 550 người) và một kí túc xá do công
ty liên doanh VSIP xây dựng với sức chứa khoảng 500 người trên tổng số 68 ngàn lao động
(Ban quản lí KCN VSIP)
Tình trạng điện sinh hoạt của lao động nhập cư ở các khu nhà trọ hiện nay cũng được
cải thiện hơn. Tuy nhiên vào các giờ cao điểm, xảy ra tình trạng mất điện và giá điện phải
trả khá cao và chưa có sự thống nhất chung, giá điện bình dân tại các khu nhà trọ từ 2000 –
3000 đồng/kwh, tuy nhiên có nơi giá điện từ 3000 – 4000 đồng/kwh và trên 4000 đồng/kwh.
Nước sạch là nhu cầu rất cần thiết cho sinh hoạt cá nhân, tuy nhiên vấn đề nước sạch
đối với người nhập cư còn thiếu trầm trọng. Chất lượng nước không sạch và bị phèn. Hệ
thống thiết bị nước ở các khu nhà trọ cho lao động nhập cư phần lớn là sử dụng chung, còn
ở các khu nhà trọ mới được xây dựng có hệ thống nước riêng trong các phòng, tuy nhiên
tiền nước phải trả với giá rất cao trung bình từ 3000 – 5000 đồng/m3, có nơi từ 5000 – 7000 đồng/m3 và trên 7000 đồng/m3.
Về phương tiện đi lại của người lao động tại các KCN Bình Dương cho thấy: Có 45%
là đi làm bằng xe máy của riêng mình, 28,5% đi bộ và 23,8% là đi làm bằng xe đạp, chỉ có
2,6% lao động đi làm bằng xe đưa đón của công ty, còn phương tiện xe buýt càng ít. Kết
quả trên cho thấy các công ty ở các KCN Bình Dương chưa chú ý đến việc hỗ trợ phương
tiện xe đưa đón công nhân đi làm (Số liệu điều tra của Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương,
tháng 5 – 11, năm 2010). Đồng thời, tình trạng ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra vào
giờ cao điểm tại các KCN Bình Dương.
• Lao động nhập cư chưa qua đào tạo nghề có việc làm kém ổn định.
Phần lớn lao động nhập cư vào Bình Dương là lao động theo thời vụ, không qua đào
tạo nghề, điều đó đã góp phần nâng cao tổng số lao động chưa qua đào tạo trên địa bàn tỉnh.
Theo báo cáo của Công đoàn các KCN Bình Dương, với lực lượng lao động tại các KCN
trong toàn tỉnh tỉ lệ chưa qua đào tạo chiếm 64,5% (năm 2009), số lao động đã được đào tạo
nghề chiếm 32,5% nhưng số lao động chưa có bằng cấp, chứng chỉ nghề còn cao. Số lao
động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ chiếm 3%, cho thấy chất lượng lao động
công nghiệp của tỉnh còn thấp [22].
Theo kết quả điều tra tình hình việc làm tại các doanh nghiệp ở Bình Dương những
năm qua cơ bản ổn định, có thời gian làm thêm để tăng thu nhập. Trên 88% lao động trả lời
có việc làm ổn định, lao động chưa qua đào tạo nghề có tỉ lệ việc làm kém ổn định hơn so
với lao động ở các trình độ khác. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì lao động có trình độ thấp
mới vào làm việc thường có hợp đồng ngắn hạn, họ không có nhiều lựa chọn chỗ làm việc ở
các doanh nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định [22].
Bảng 2.29. Tình hình việc làm của công nhân lao động phân theo trình độ chuyên
môn, tay nghề
Đơn vị: %
Việc làm Không trả lời Ổn định Không ổn định Thường xuyên thiếu VL Tổng số Không trả lời 7,3 88,3 4,4 100 Chưa qua đào tạo nghề 2,4 85,9 11,8 100 Đào tạo nghề tại DN 1,5 92,6 5,1 0,8 100 TH chuyên nghiệp 0,9 90,8 6,4 1,8 100 Công nhân kĩ thuật 1,4 90,4 8,2 100 CĐ, ĐH 4,8 92 3,2 100
Nguồn: Kết quả điều tra của Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương năm 2009.
• Người lao động nhập cư đông tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thường xảy ra
tranh chấp lao động và đình công, làm gia tăng tình trạng tranh chấp, đình công của người
lao động tại các doanh nghiệp.
Tình hình tranh chấp lao động tập thể, đình công xảy ra đang có xu hướng tăng về số
vụ, số lượng người tham gia. Theo báo cáo tình hình KT-XH Bình Dương năm 2010, có 65
vụ tranh chấp lao động tập thể tại 60 doanh nghiệp với khoảng 21.000 lao động tham gia, 82
vụ đình công tại 78 doanh nghiệp với khoảng 60.000 lao động tham gia. Nguyên nhân chủ
yếu là yêu cầu tăng lương, tăng các loại phụ cấp, tiền hỗ trợ thuê nhà trọ, hỗ trợ trượt giá,
cải thiện chất lượng bữa ăn…; nhìn chung các vụ đình công đều tự phát và chưa đúng trình
tự pháp luật, các ngành chức năng đã phối hợp giải quyết kịp thời, đảm bảo chế độ chính
sách cho người lao động và giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất. Điều đặc biệt cần quan
tâm giải quyết hiện nay là đa số công nhân tham gia đình công, tranh chấp lao động là lao
động nhập cư ở các tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh
nên hiện nay nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương khi tuyển dụng lao động đều
không xét tuyển những người có quê quán ở 3 tỉnh này, đặc biệt là công nhân lao động tỉnh
Thanh Hóa. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết việc làm cho người nhập cư, đồng
thời làm gia tăng thêm tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh [37].
• Nhập cư đông ảnh hưởng xấu đến môi trường đô thị
Môi trường công nghiệp và đô thị vẫn còn những hạn chế, như quản lí, vận hành các
trạm xử lí nước thải ở một số khu vực chưa được giải quyết, dân cư còn đan xen với các cơ sở
sản xuất công nghiệp, hệ thống cấp thoát nước đô thị chưa đồng bộ …đã làm tăng áp lực về
môi trường như: chất thải nguy hại chưa kiểm soát được, như hệ thống thoát nước và chất thải
trong các KCN đan xen với khu dân cư; các nguồn nước mặt và nước ngầm bị ảnh hưởng…
Điều đó cho thấy việc xử lí nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt chưa được đầu tư
đúng mức. Công tác quản lí tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường chưa tốt. Chậm đầu tư
nhà máy xử lí nước thải sinh hoạt tập trung; việc đầu tư bảo vệ môi trường chưa đồng bộ với
phát triển kinh tế.
• Những yếu tố nội tại của tỉnh Bình Dương cũng có sự biến động; đó là sử dụng đất
đai. Do quá trình CNH tăng nhanh, ĐTH cũng tăng nhanh, nhiều công trình hạ tầng phát
triển do đó có sự biến động lớn về đất đai theo mục đích sử dụng.
• Dân nhập cư đông, tăng nhanh gây sức ép cho y tế, giáo dục, đặc biệt là trường học
và cơ sở vật chất thiếu, sỉ số lớp đông.
Giai đoạn 2006 – 2010, toàn tỉnh hiện có 369 đơn vị trường học với 215.333 học sinh,
so với đầu nhiệm kì tăng 58 đơn vị, 25.639 học sinh [28]. Năm học 2010 - 2011, có 53.544
trẻ em vào mầm non, tăng 14,4%; 93.127 học sinh tiểu học, tăng 8,1%; 21.879 học sinh
trung học phổ thông, tăng 0,8%; 51.491 học sinh trung học cơ sở, giảm 2,9% so với năm
học trước. Đầu năm học 2011 - 2012 tăng 14.387 học sinh so với cuối năm học 2010-2011
[25].
• Nhập cư đông gây khó khăn cho việc quản lí an ninh trật tự xã hội
Theo kết quả thống kê rà soát nhân hộ khẩu hiện cư trú trên địa bàn tỉnh Bình
Dương của Phòng Cảnh sát quản lí hành chính về Trật tự xã hội tỉnh Bình Dương (Phòng
PC64 ngày 30/01/2011), trên địa bàn tỉnh có 4.307 hộ cư trú không đăng kí tạm trú, trong
đó có 28.244 nhân khẩu (15.437 nữ), số người từ 15 tuổi trở lên là 20.666 người. Điều đó đã
làm cho công tác quản lí nhân khẩu gặp nhiều khó khăn, tình hình trật tự an toàn xã hội diễn
biến phức tạp: nhiều vụ cướp giật, tội phạm, tệ nạn, tai nạn giao thông…trên địa bàn xảy ra
nhiều, chủ yếu là người nhập cư ngoại tỉnh. Năm 2011, phạm pháp về trật tự xã hội: xảy ra
999 vụ (tăng 10 vụ so với năm 2010), trong đó có 153 vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng; phạm pháp về ma túy: phát hiện 250 vụ (tăng 83 vụ), bắt 381 đối tượng;
phạm pháp về kinh tế: phát hiện 441 vụ (tăng 136 vụ), xử lí 406 vụ và 409 đối tượng; vi
phạm pháp luật về môi trường: kiểm tra, phát hiện 96 vụ (tăng 63 vụ); về tai nạn giao thông:
xảy ra 328 vụ (giảm 32 vụ). Năm 2012, phạm pháp về trật tự xã hội: xảy ra 1.000 vụ (tăng
01 vụ so với năm 2011); trong đó, có 136 vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng,
đã điều tra làm rõ 843 vụ (đạt 84,3%), bắt 1.301 tên. Phạm pháp về ma túy: phát hiện 298
vụ (tăng 48 vụ), xử lí 488 đối tượng; về kinh tế: phát hiện 482 vụ (tăng 41 vụ), xử lí 99 đối
tượng; về môi trường phát hiện 224 vụ (tăng 128 vụ). Tai nạn giao thông xảy ra 312 vụ, làm
chết 327 người, bị thương 197 người; va chạm giao thông xảy ra 3.005 vụ, làm bị thương
nhẹ 4.229 người [25].
Những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh trật tự nói chung có ảnh hưởng trực
tiếp công tác quản lí người lao động tự do ngoại tỉnh. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cấp bách
cho các cơ quan chức năng nói chung, lực lượng Cảnh sát nhân dân nói riêng trong việc
nghiên cứu và áp dụng những mô hình quản lí số lao động tự do sao cho phù hợp với pháp
luật về quyền đảm bảo tự do cư trú của công dân.
• Người nhập cư làm việc ở khu vực phi chính thức là hay thay đổi chỗ làm việc chỗ ở,
số người không đăng kí tạm trú rất nhiều. Điều này gây khó khăn cho công an trong việc
quản lí trật tự trị an.
• Do số dân cơ học tăng cao nên tình trạng chăm sóc sức khỏe cho người dân gặp
nhiều khó khăn, ngoài ra công tác phòng chống dịch bệnh, nạo hút thai tăng
Năm 2011 toàn tỉnh có 861 ca nạo hút thai [4], đến đầu năm 2012 tăng lên 1.438 ca
nạo hút thai [5], tập trung chủ yếu là dân nhập cư trong đó công nhân chiếm tỉ lệ cao.
• Nhập cư ở tỉnh Bình Dương có tỉ lệ giới tính không cân bằng, số lượng nhập cư nữ
chiếm tỉ lệ cao hơn nam nên ảnh hưởng đến chênh lệch nam, nữ trong dân cư: Phần lớn
người nhập cư trong tuổi lao động nên tỉ lệ giới tính những người trong tuổi lao động chênh
lệch nhau rất nhiều trong lúc tỉ lệ nam/ nữ dưới 15 tuổi và trên 40 tuổi rất cân đối [36]. Bên
cạnh đó, nhập cư cũng ảnh hưởng đến tuổi kết hôn sẽ muộn hơn và tình trạng hôn nhân,
năm 2011 tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa vợ, chưa chồng của tỉnh là 30,3% [4].
Với những bất cập trên ta có thể thấy mục tiêu lớn nhất trong giải quyết vấn đề di dân
tự do là phải bằng mọi biện pháp chủ động hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu
cực đối với các vấn đề KT-XH và an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
2.4.2. Ảnh hưởng của xuất cư
2.4.2.1. Ảnh hưởng tích cực
Xuất cư làm cho dân số của tỉnh giảm, qua đó góp phần giảm sức ép về vấn đề việc
làm, giảm thất nghiệp. Tạo điều kiện cho các huyện, thị xã xuất cư tăng diện tích đất canh
tác theo đầu người, tăng thu nhập đầu người, nâng cao mức sống.
Góp phần tăng thêm vốn đầu tư phát triển kinh tế gia đình, qua đó làm thay đổi bộ mặt
làng quê ở nơi đi thông qua số tiền người xuất cư gửi về gia đình, sử dụng tiền gửi của gia
đình vào phát triển kinh tế, giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình.
Góp phần phát triển kinh tế ở địa phương, thông qua việc người xuất cư có thu nhập
cao đầu tư về phát triển ngành nghề ở địa phương, trang bị máy móc, thiết bị kỹ thuật cho
sản xuất nông nghiệp. Nhiều người xuất cư đã học được kinh nghiệm sản xuất ở nơi đến, khi
trở về tỉnh họ mở ngành nghề mới thu hut lao động địa phương qua đó cải thiện đời sống
cho người lao động.
Phổ biến lối sống văn minh đô thị, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.
Giảm đói nghèo, sức ép về giáo dục, y tế, nhà ở, cơ sở hạ tầng đối với tỉnh.
2.4.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Xuất cư làm nguồn lao động của tỉnh giảm đi, do đặc trưng chủ yếu của người xuất cư
là những người trong độ tuổi lao động và họ trở về quê cũ.
Một số lối sống đô thị không phù hợp với truyền thống đã du nhập vào cuộc sống hàng
ngày của tỉnh làm mất thuần phong mỹ tục và ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa của tỉnh
nói riêng và cả nước nói chung.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP DI DÂN Ở TỈNH
BÌNH DƯƠNG
3.1. Định hướng di dân và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương
3.1.1. Cơ sở của định hướng
Thực tế so với thời điểm xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Bình
Dương đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt theo Quyết định số
81/2007/QĐ-TTg, ngày 5/6/2007 (gọi tắt là QH 2007), tỉnh Bình Dương đã có nhiều thay
đổi lớn về phát triển công nghiệp, đô thị và dịch vụ. Trên địa bàn tỉnh Bình Dương hiện nay
đã hình thành nhiều KCN tập trung hoạt động có sức phát triển mạnh làm cho quy mô nhập
cư vào tỉnh tăng lên nhanh chóng qua các năm; nhiều khu đô thị mới được hình thành; nhiều
ngành dịch vụ phát triển nhanh… đã làm cho bộ mặt của Bình Dương thay đổi rõ rệt. Việc
xây dựng định hướng di dân cho tỉnh từ nay đến năm 2025 dựa trên những cơ sở sau:
3.1.1.1. Quan điểm chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh đến năm 2025
+ Trong 10 – 15 năm tới, nền kinh tế của Bình Dương vẫn tiếp tục phát triển các ngành
có ưu thế, có giá trị gia tăng cao để phục vụ một phần cho nhu cầu trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu; đồng thời phải nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, các doanh
nghiệp chủ lực của tỉnh phải hướng đến đầu tư ngoài tỉnh và đầu tư ra nước ngoài.
+ Tiếp tục phát triển KT-XH theo hướng cân đối, bền vững với tốc độ cao và đảm bảo
công bằng xã hội. Thực hiện phương châm phát triển nhanh nhưng phải bền vững, giàu
nhưng phải đẹp. Cùng với TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai tạo ra bước
phát triển đột phá, thúc đẩy nền kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chuyển đổi
mạnh mẽ về lượng và chất.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng mạnh tỉ trọng dịch vụ, ổn định tỉ trọng
công nghiệp và giảm tỉ trọng nông nghiệp; đẩy nhanh tốc độ ĐTH, CNH và HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020, Bình Dương trở thành thành phố loại I trực
thuộc Trung ương và là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước.
+ Phát triển nền kinh tế mở, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế, thu hút vốn, công nghệ của các nước phát triển trên cơ sở
tập trung đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời thực hiện
cơ chế kinh tế, tiếp tục tạo dựng một môi trường hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tăng cường sức
hấp dẫn của các nhà đầu tư vào địa bàn, đặc biệt ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
và dịch vụ cao trong các KCN, các khu đô thị. Phát triển chọn lọc một số ngành công
nghiệp mũi nhọn, các ngành dịch vụ có hiệu quả cao, trên cơ sở phát huy thế mạnh của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tham gia vào thị
trường thế giới.
+ Đầu tư có trọng điểm, ưu tiên đầu tư những ngành, lĩnh vực có giá trị tăng thêm cao,
có khả năng thúc đẩy sự phát triển KT-XH, tăng việc làm và thu nhập dân cư. Phát triển
công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ, nông nghiệp và phát triển nông thôn đưa Bình
Dương cơ bản trở thành thành phố văn minh, hiện đại.
+ Chú trọng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao và coi
đây là điều kiện quyết định để có thể phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. Nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa của người lao động. Phát triển KT-XH phải kết hợp chặt chẽ
với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt cải cách hành chính, tạo môi trường thông thoáng để
thu hút đầu tư.
+ Phát triển các KCN theo hướng nhanh và bền vững; chú trọng thu hút các ngành
công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao để phục vụ một phần cho nhu
cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Phát triển công nghệ sạch để tăng giá trị sản phẩm và
bảo vệ môi trường. Đổi mới công nghệ hiện đại, tiên tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát triển kinh tế phải đồng bộ với phát triển xã hội và gắn với quốc phòng – an ninh
để đảm bảo quá trình phát triển được ổn đinh và bền vững.
3.1.1.2. Mục tiêu phát triển cụ thể
Trước mắt đến năm 2015
Về phát triển kinh tế:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế với mức trung bình 13,5%/năm. Trong đó, công nghiệp -
xây dựng: 9,0%/năm; khu vực dịch vụ: tăng lên 22,0%/năm; khu vực nông - lâm - thủy sản:
2,0%/năm [27].
+ Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành
dịch vụ lên 37,99% GDP năm 2015. Các ngành công nghiệp - xây dựng sẽ giảm, còn
59,04% GDP; Các ngành nông - lâm - thủy sản giảm nhanh, còn khoảng 2,97% GDP.
+ Kim ngạch xuất - nhập khẩu tiếp tục tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu tăng lên
23,55 tỉ USD, kim ngạch nhập khẩu tăng lên 16,05 tỉ USD.
+ Phát triển kết cấu hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội đạt nền tảng của đô thị loại I: tập
trung xây dựng đường trục giao thông huyết mạch, hoàn thiện một số trục kết nối với các
trung tâm kinh tế, cảng, sân bay trong vùng ĐNB.
Về phát triển xã hội:
+ Tổng dân số đến năm 2015: 2,043 triệu người. Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân
là 4,8%/năm. Trong đó, chủ trương tiếp tục duy trì tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở mức
1,00%.
+ Quá trình ĐTH tiếp tục tăng nhanh. Tỉ lệ dân số đô thị tăng lên 70,0%.
+ Nâng cao thu nhập cho người lao động và cho nhân dân, tăng lên 63,2 triệu
đồng/người.
+ Tỉ lệ hộ nghèo theo tiêu chí của tỉnh còn dưới 1% vào năm 2015.
+ Số lao động được giải quyết việc làm: 44,0 nghìn lao động. Tỉ lệ lao động qua đào
tạo: 50,0% lực lượng lao động.
+ Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi cân nặng theo tuổi: dưới 11,0%.
Giai đoạn 2016 – 2020
Về phát triển kinh tế:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 với mức trung bình 13,0%/năm;
Trong đó, công nghiệp - xây dựng: 10,0%/năm; dịch vụ: 16,63%/năm; nông - lâm - thủy
sản: 2,3%/năm [27].
+ Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành
dịch vụ, tăng lên 47,59% GDP; Các ngành công nghiệp - xây dựng sẽ giảm, còn 50,44%
GDP; Các ngành nông - lâm - thủy sản tiếp tục giảm nhanh, còn khoảng 1,97% GDP.
+ Kim ngạch xuất - nhập khẩu tiếp tục tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu tăng lên
68,95 tỉ USD, kim ngạch nhập khẩu tăng lên 32,3 tỉ USD.
+ Cơ bản hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đạt tiêu chuẩn đô thị trực thuộc
Trung ương.
Về phát triển xã hội:
+ Tổng dân số tăng lên 2,5 triệu người. Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân giảm, còn
4,1%/năm. Trong đó, tiếp tục duy trì tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở mức 1,00%.
+ Quá trình ĐTH tiếp tục tăng nhanh. Tỉ lệ dân số đô thị tăng lên 80,0%.
+ Tiếp tục nâng cao thu nhập cho người lao động và cho nhân dân, tăng lên 132,7 triệu
đồng/người (tương đương 5.769USD/người).
+ Tỉ lệ hộ nghèo hàng năm theo tiêu chí của tỉnh còn dưới 0,8%.
+ Số lao động được giải quyết việc làm: 40,0 nghìn lao động. Tỉ lệ lao động qua đào
tạo: 70,0% lực lượng lao động.
+ Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi theo cân nặng theo tuổi: dưới 8,0%.
Giai đoạn 2021 – 2025
Về phát triển kinh tế:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 với mức trung bình 13,0%/năm;
Trong đó, công nghiệp - xây dựng: 10,81%/năm; khu vực dịch vụ: 15,61%/năm; khu vực
nông - lâm - thủy sản: 2,5%/năm [27].
+ Cơ cấu kinh tế có sự cân đối giữa tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Các
ngành công nghiệp - xây dựng: 49,03% GDP; Các ngành dịch vụ: 49,00%; Các ngành nông
- lâm - thủy sản: 1,97% GDP.
Biểu đồ 3.1. Dự báo cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế tỉnh Bình Dương
đến năm 2025 (%)
+ Kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu đạt 186,0 tỉ USD,
kim ngạch nhập khẩu đạt 63,0 tỉ USD.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.
Về phát triển xã hội:
+ Tổng dân số tăng lên 3,0 triệu người. Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân giảm, còn
3,7%/năm. Trong đó, tiếp tục duy trì tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở mức 1,00%.
+ Thu nhập bình quân đầu người đạt 324,3 triệu đồng/người (tương đương
14.000USD/người).
+ Tỉ lệ lao động qua đào tạo: 90,0% lực lượng lao động.
+ Quá trình đô thị hóa tiếp tục tăng nhanh, tỉ lệ dân sô đô thị đạt 83%.
+ Xã hội văn minh, đô thị hiện đại, tiên tiến, nông thôn phát triển bền vững. Phúc lợi
xã hội cao.
Bảng 3.1. Dự báo dân số và tỉ lệ dân số đô thị tỉnh Bình Dương đến năm 2025
Chỉ tiêu Tổng dân số (nghìn người) Tốc độ tăng dân số bình quân thời kì (%) Dân số đô thị (nghìn người) Tỉ lệ (%) Dân số nông thôn (nghìn người) Tỉ lệ(%) 2015 2.043 4,8 1.430 70 613 30 2020 2.500 4,1 2.000 80 500 20 2025 3.000 3,7 2.500 83 500 17
Báo cáo Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương đến 2025_
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương - Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam.
Biểu đồ 3.2. Dự báo dân số và tốc độ tăng dân số tỉnh Bình Dương đến năm 2025
Về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên:
+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là vấn đề quan trọng cho cuộc sống
không chỉ hôm nay mà còn cho cả thế hệ mai sau. Tăng trưởng kinh tế kết hợp với phát triển
xã hội và bảo vệ môi trường với cách nhìn thân thiện với môi trường. Từ nay đến 2025, tốc
độ phát triển công nghiệp và đô thị tăng lên rất nhanh, cùng theo đó, chương trình bảo vệ
môi trường đã xác định cụ thể theo quy trình cập nhật, bổ sung và thực hiện quy hoạch.
Thực hiện nghiêm túc Chương trình bảo vệ môi trường đến năm 2025.
+ Đến năm 2015 phấn đấu tỉ lệ dân số đô thị sử dụng nước sạch: 99,0%. Tỉ lệ dân số
nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh: 98,0%. Tỉ lệ che phủ xanh, cây lâm nghiệp và cây
công nghiệp lâu năm: 57,0%. Tỉ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lí: 90,0%. Chất thải rắn
y tế sẽ được thu gom và được xử lí: 100,0%. Giai đoạn 2016 – 2020 phấn đấu tỉ lệ dân số đô
thị sử dụng nước sạch: 100,0%. Tỉ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh: 99,5%. Tỉ
lệ che phủ xanh: cây lâm nghiệp và cây lâu năm: đạt 60,0%.
+ Khai thác, sử dụng hợp lí, bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học. Khai thác khoáng
sản trên tinh thần không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên; đặc biệt tài nguyên không tái tạo
được. Chú trọng phục hồi môi trường sau khai thác.
+ Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Kiểm soát chặt chẽ phá rừng, khai thác rừng
không theo quy hoạch, ngăn chặn khai thác các loại động, thực vật quý hiếm và bảo tồn đa
dạng sinh học.
Về quốc phòng – an ninh
+ Phát triển KT- XH gắn liền với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để KT-XH phát triển bền vững; xã
hội bình an. Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và quốc phòng - an ninh với kinh tế là
nội dung cơ bản có quan hệ mật thiết lẫn nhau.
+ Phương hướng chung là có quy hoạch quốc phòng - an ninh hợp lí, bảo đảm nhu cầu
quốc phòng hiện tại và tương lai; đồng thời lồng ghép với phát triển kinh tế đem lại hiệu quả
cao với đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
3.1.2. Định hướng chung
Dựa trên các cơ sở định hướng được trình bày phần 3.1.1 cho thấy: trước hiện trạng
dư thừa về lao động giản đơn, đặc biệt là lao động chưa qua đào tạo tham gia hoạt động
trong các ngành sản xuất đã tạo nên sức ép không nhỏ ảnh hưởng đến sự phát triển KT-
XH của tỉnh, nguyên nhân do hiện tượng di dân tự do vào tỉnh diễn ra ồ ạt trong những
năm qua. Theo định hướng phát triển đô thị của tỉnh, sẽ hạn chế mức tăng dân số không
quá 4,8%/năm (2012 – 2015); 4,1%/năm (2016 – 2020) và 3,7%/năm (2021 – 2025).
Trong đó, tiếp tục duy trì tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở mức 1,00% thì tỉ lệ gia tăng dân
số cơ giới sẽ là 3,8% (2012 – 2015); 3,1%/năm (2016 – 2020) và 2,7%/năm (2021 –
2025). Qua đó, trong những năm tới tỉnh sẽ đưa ra những chính sách mới bổ sung, điều
chỉnh phát triển KT-XH phù hợp với bối cảnh và nhiệm vụ mới, đồng thời quản lí di dân
theo hướng hạn chế nhập cư lao động giản đơn và khuyến khích lao động nhập cư có trình
độ chuyên môn kĩ thuật cao.
3.1.2.1. Định hướng di dân và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các chính sách di dân phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh ở từng
giai đoạn. Cơ cấu kinh tế Bình Dương chuyển dịch mạnh hơn theo hướng nâng cao tỉ trọng
các ngành dịch vụ cân bằng với tỉ trọng các ngành công nghiệp, tương ứng là: dịch vụ:
49,0%; công nghiệp - xây dựng: 49,03% và nông - lâm - thủy sản: 1,97% đến năm 2025. Sự
phát triển các ngành dịch vụ trong những năm tới sẽ biểu hiện trình độ phát triển của nền
kinh tế đô thị, khi các ngành công nghiệp đô thị ngày càng phát triển thì các nhu cầu dịch vụ
càng cao. Cho nên trong những năm tới tỉnh Bình Dương sẽ hạn chế thu hút lao động phổ
thông, tăng cường thu hút số lượng lớn lao động nhập cư có trình độ khoa học kĩ thuật cao.
Phấn đấu nâng cao thu nhập bình quân đầu người đạt 132,7 triệu đồng/người (tương
đương 5.769USD/người) giai đoạn 2016 – 2020 và đạt 324,3 triệu đồng/người (tương
đương 14.000USD/ng) giai đoạn 2021 - 2025. Với định hướng phát triển như trên, sự chênh
lệch mức thu nhập bình quân đầu người giữa tỉnh Bình Dương với các tỉnh sẽ còn rất lớn. Vì
vậy, Bình Dương là địa bàn ngày càng hấp dẫn hơn, thu hút người lao động nhập cư ngày
càng lớn.
3.1.2.2. Định hướng di dân và sự phát triển đô thị Bình Dương
Xây dựng đô thị Bình Dương trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ
thuật, quốc phòng - an ninh, là một cực phát triển mạnh có sức lan tỏa lớn trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, với mô hình kinh tế công nghiệp - dịch vụ thương mại, du lịch vào năm
2015 và trở thành trung tâm dịch vụ công nghiệp công nghệ cao, sạch, du lịch sinh thái đa dạng,
có sức hấp dẫn con người đến sinh sống, làm việc, xây dựng đô thị Bình Dương ngày càng văn
minh hiện đại ngang tầm khu vực.
Mật độ dân số toàn tỉnh dự báo sẽ tăng từ 628 người/km2 (năm 2011) lên 928 người/km2 (năm 2020). Xu hướng chung của tỉnh là phát triển đồng đều hệ thống các đô
thị trên khắp lãnh thổ nhằm mục đích phân bố lại dân cư, tránh tình trạng phân bố không
đồng đều như hiện nay. Dân cư tỉnh Bình Dương được phân bố lại cùng xu hướng phát
triển kinh tế theo lãnh thổ.
Quá trình ĐTH diễn ra nhanh chóng, sẽ giảm mạnh dân số nông thôn đến năm 2025. Đến
năm 2020, dân số đô thị có khoảng 2,0 triệu người; tỉ lệ dân số đô thị chiếm 80,0% tổng dân số,
cao hơn trung bình vùng ĐNB ( 75,0%). Đến năm 2025, dân số đô thị có khoảng 2,5 triệu
người, chiếm 83,3% tổng dân số toàn tỉnh.
Mục tiêu chung là bảo đảm đô thị phải đi đầu trong quá trình phát triển để đô thị thực
sự là địa bàn quan trọng nhất, có động lực to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH - HĐH cho các vùng khác. Do đó, phát triển đô thị Bình Dương sẽ theo 3 khu
vực đô thị: Đô thị trung tâm (TP. Thủ Dầu Một, đô thị Nam Tân Uyên, Nam Bến Cát); Đô
thị phía Nam (TX. Thuận An, TX. Dĩ An) và đô thị phía Bắc (Dầu Tiếng, Phú Giáo, Bàu
Bàng, Bắc Tân Uyên).
Khu vực Đô thị trung tâm: gồm một chùm đô thị; trong đó có một đô thị trung tâm là
Khu Liên hợp đô thị mới – TP. Thủ Dầu Một và các đô thị vệ tinh: Thuận An, Dĩ An, Nam
Bến Cát, Nam Tân Uyên, Bắc Tân Uyên. Xây dựng khu đô thị mới Hòa Phú là trung tâm
hành chính của tỉnh.
Đô thị trung tâm: Khu Liên hiệp đô thị mới – TP. Thủ Dầu Một có diện tích đất xây
dựng đô thị khoảng 7.747 ha. Tổng dân số khoảng 600 nghìn người. Mô hình đô thị sẽ là đa
trung tâm, có các trung tâm: Phú Tân, Phú cường, Phú Lợi, Tân Định. Đây là trung tâm đô
thị hiện đại, văn minh, sinh thái kiểu mẫu, đạt tiêu chuẩn loại I vào năm 2020, có vai trò
quan trọng trong đóng góp tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kĩ thuật, giáo
dục và đào tạo và du lịch, dịch vụ cao; là trung tâm chính trị, hành chính của Bình Dương.
Đô thị Nam Bến Cát mở rộng: có chức năng chính: dịch vụ, công nghiệp; là một đô thị
liên kết, phát triển đô thị hiện đại gắn với cảnh quan thiên nhiên sông Sài Gòn, sông Thị
Tính, di tích lịch sử địa đạo tam giác sắt (An Tây, Phú An); quy mô diện tích xây dựng đô
thị khoảng 5.600 ha, dân số khoảng 425 nghìn người.
Đô thị Nam Tân Uyên: có chức năng là đô thị công nghiệp; dịch vụ thương mại - công
nghiệp và nông nghiệp sinh thái, là một trong những động lực phát triển quan trọng; quy mô
diện tích 4.900 ha, dân số khoảng 456 nghìn người.
Đô thị Dĩ An: có chức năng là đô thị trung tâm dịch vụ đào tạo đại học, vận tải, công
nghiệp công nghệ cao; dịch vụ văn hóa, thể thao; quy mô diện tích đất xây dựng 5.385 ha,
dân số khoảng 600 nghìn người.
Đô thị Thuận An: có chức năng đô thị nghiên cứu phát triển công nghiệp và trung tâm
dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, dịch vụ du lịch ở phía Nam Bình Dương, dịch vụ thương
mại, nhà ở; quy mô đất xây dựng khoảng 5.380 ha, dân số khoảng 500 nghìn người.
Đô thị Bàu Bàng: là trung tâm dịch vụ công nghiệp, nông nghiệp; có quy mô diện tích
xây dựng 5.440 ha, dân số khoảng 240 nghìn người.
Đô thị Dầu Tiếng: là trung tâm dịch vụ nông nghiệp và du lịch sinh thái, quy mô diện
tích xây dựng 552 ha, dân số khoảng 75 nghìn người.
Đô thị Phước Vĩnh: là trung tâm hành chính của Phú Giáo; trung tâm dịch vụ công
nghiệp phụ trợ, thương mại, du lịch, bảo tàng, di tích lịch sử…quy mô diện tích xây dựng
2.000 ha, dân số khoảng 105 nghìn người.
Đến năm 2020: tỉnh Bình Dương gồm có 10 đơn vị hành chính thuộc tỉnh (1 thành
phố, 5 thị xã, 4 huyện). Gồm 113 xã, phường, thị trấn (40 xã, 60 phường, 13 thị trấn). Giảm
35 xã, tăng 54 phường, tăng 5 thị trấn so với hiện trạng.
Bảng 3.2. Đơn vị hành chính tỉnh Bình Dương phân theo các địa phương
đến năm 2020
Trong đó Phường Thị trấn
Thành phố, huyện, thị
TP. Thủ Dầu Một Thị xã (mới) Thị xã Dĩ An Thị xã Thuận An Thị xã Nam Bến Cát Thị xã Nam Tân Uyên
STT 1 2 3 4 5 6 7 Huyện Bắc Bến Cát 8 Huyện Bắc Tân Uyên 9 Huyện Dầu Tiếng 10 Huyện Phú Giáo
Toàn tỉnh
Số đơn vị hành chính 9 9 9 10 13 10 10 12 17 14 113
Xã 7 10 13 10 40
9 9 9 10 13 10 60
Ghi chú Đô thị loại I Đô thị loại III Đô thị loại III Đô thị loại III Đô thị loại III Đô thị loại III
3 2 4 4 13
Nguồn: Theo Quyết định 3123/QĐ-UBND, ngày 11/7/2007.
BẢN ĐỒ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN ĐÔ THỊ
BÌNH DƯƠNG ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Bình Dương
QUY HOẠCH CHUNG XÂY DỰNG ĐÔ THỊ TỈNH BÌNH DƯƠNG
ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
Tỉ lệ 1: 25.000
SƠ ĐỒ VỊ TRÍ VÀ MỐI LIÊN HỆ VÙNG
Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Bình Dương
3.1.2.3. Định hướng di dân và sử dụng lao động
Trong những năm qua, KT-XH Bình Dương phát triển mạnh, hình thành và hoạt động
các KCN ngày càng nhiều; đô thị phát triển nhanh, lao động tăng rất nhanh. Từ nay đến
2025, nhu cầu lao động ở Bình Dương vẫn tăng cao, do đô thị phát triển mạnh hơn; đặc biệt
là khi Bình Dương trở thành thành phố trực thuộc Trung ương và là trung tâm công nghiệp
lớn của cả nước (đến năm 2020) thì sức thu hút lao động vẫn gia tăng.
Tương ứng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội theo ngành
sẽ có sự thay đổi quan trọng. Tăng tỉ lệ lao động qua đào tạo, cơ cấu sử dụng lao động của
tỉnh sẽ có sự chuyển dịch theo hướng tăng lao động dịch vụ, lao động công nghiệp giảm dần
và ổn định.
Tỉ lệ lực lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế đến 2015 chiếm 62,7%
dân số, tương ứng khoảng 1,28 triệu người. Đến năm 2020, lao động đang làm việc trong
các ngành kinh tế có khoảng 1,54 triệu người. Dự báo đến năm 2025, có khoảng 1,91 triệu
người. Trong đó, lao động đang làm việc trong khu vực dịch vụ có xu hướng tăng lên
nhanh; lao động trong khu vực công nghiệp – xây dựng và nông – lâm – thủy sản có xu
hướng giảm dần.
Bảng 3.3. Dự báo cơ cấu sử dụng lao động theo ngành của tỉnh Bình Dương đến năm
2025
2020 2015
1.668.470 2.011.427 2025 2.515.028
1.281.540 1.541.498
1.912.000 100 6,4 54,4 39,2 100 8,0 56,9 35,1 100 10,0 63,0 27,0
Số người trong độ tuổi lao động (người) Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế (người) Tỉ trọng (%) Khu vực nông - lâm - thủy sản Khu vực công nghiệp - xây dựng Khu vực dịch vụ Nguồn: Báo cáo Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương đến
2025_ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương - Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam.
3.2. Dự báo di dân ngoại tỉnh ở Bình Dương
Với mục tiêu phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương đến năm 2020 là một đô thị văn
minh, hiện đại, trở thành một cực phát triển KT-XH của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
có sức lan tỏa lớn, có tác động mạnh đến các tỉnh lân cận và vùng xung quanh. Đồng thời
với chủ trương điều chỉnh gia tăng cơ học hợp lí, điều chỉnh mức tăng dân số tăng chậm lại
và tăng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai. Điều này sẽ ảnh hưởng đến di dân
của tỉnh trong những năm tới, nhất là nhập cư sẽ không diễn ra ồ ạt như hiện nay.
Dự báo dân số giai đoạn 2012 – 2015 tăng thêm 338 ngàn người, di dân ngoại tỉnh với
tốc độ 3,8%/ năm, trung bình mỗi năm số người di dân khoảng 66,9 ngàn người/năm. Trong
khoảng 4 năm, tổng số người di dân ngoại tỉnh khoảng 267,6 ngàn người.
Dự báo dân số giai đoạn 2016 – 2020 tăng thêm 457 ngàn người, di dân ngoại tỉnh với
tốc độ 3,1%/ năm, trung bình mỗi năm số người di dân tăng thêm khoảng 69,1 ngàn
người/năm. Trong khoảng 5 năm, tổng số người di dân ngoại tỉnh khoảng 345,5 ngàn người.
Dự báo dân số giai đoạn 2021 – 2025 tăng thêm 500 ngàn người, di dân ngoại tỉnh với
tốc độ 2,7%/ năm, trung bình mỗi năm số người di dân tăng thêm khoảng 73,0 ngàn
người/năm. Trong khoảng 5 năm, tổng số người di dân ngoại tỉnh khoảng 364,9 ngàn người
[27].
Từ kết quả dự báo trên cho thấy, trong xu hướng CNH, ĐTH đất nước ngày càng phát
triển thì di dân ngoại tỉnh ở Bình Dương trong thời gian tới sẽ tiếp tục gia tăng, tuy nhiên mức
tăng chậm lại và ổn định hơn so với trước.
3.3. Một số giải pháp đối với vấn đề di dân ở tỉnh Bình Dương
Di dân là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển KT-XH. Do vậy phải vận dụng làm
sao cho quy luật này trở thành một chiến lược để phát triển KT-XH có hiệu quả, phát huy tối
đa nội lực nguồn lao động di dân trong toàn quốc.
Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp và dịch vụ ở Bình Dương, cùng với
các chủ trương chính sách phát triển KT-XH hợp lí và thu hút nhân tài đã tạo ra lực hút mạnh
mẽ dòng di dân tự do từ khắp các tỉnh thành đến Bình Dương. Góp phần làm tăng lực lượng
lao động cho tỉnh, tăng giá trị sản xuất trong các ngành kinh tế đặc biệt là công nghiệp và dịch
vụ, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa của tỉnh tạo điều kiện phát triển KT-XH.
Với phướng châm: “An cư lạc nghiệp”, “dân giàu, nước mạnh”. Các giải pháp để điều
tiết di dân đến Bình Dương có thể chia thành 2 nhóm giải pháp dưới đây nhằm góp phần
điều chỉnh các luồng di dân phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH của cả nước, của vùng
và của tỉnh trong giai đoạn hiện nay:
Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm giảm lực đẩy ở nơi xuất cư. •
• Nhóm giải pháp vi mô nhằm thu hút, nâng cao chất lượng và sử dụng nguồn lao
động di dân ở tỉnh Bình Dương phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH.
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô nhằm giảm lực đẩy nơi xuất cư
Hiến pháp nước ta đã công nhận quyền tự do cư trú của công dân, Bộ luật lao động quy
định người lao động có quyền tự do làm những công việc không bị pháp luật ngăn cấm nhưng
phải quản lí được số người lao động không để họ tự phát, vô tổ chức. Vì vậy, Nhà nước cần
phải có biện pháp cụ thể quản lí dân nhập cư theo hướng không cấm đoán song cần được
quản lí và giúp đỡ người lao động, đồng thời tạo mối liên kết giữa các địa phương và có các
chính sách ưu đãi nhằm giảm sự cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các vùng, hạn chế
di dân ở vùng nông thôn.
3.3.1.1. Thực hiện chính sách kiểm soát dân số và kế hoạch hóa gia đình
Các chính sách về di dân phải trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược dân số.
Các chính sách về KT-XH thích ứng với quá trình di dân sẽ duy trì và phát triển lao động có trình
độ, kĩ năng cho các vùng đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng, đồng thời giúp giảm
tải cho các vùng có dân số quá lớn. Chăm sóc sức khỏe của lao động di dân cần được chú trọng,
quan tâm nhiều hơn thông qua các chương trình, chính sách an sinh xã hội.
Có sự kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát và
quản lí các luồng di dân. Cần tạo được mối liên kết giữa địa phương có dân nhập cư và địa
phương nơi có dân xuất cư để đưa ra biện pháp đồng bộ trong việc quản lí các luồng di dân ở các
địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung [36].
3.3.1.2. Nhà nước cần sớm có pháp lệnh về di dân, đặc biệt là nhập cư
Cần mở rộng việc cấp sổ lao động và quy định tính pháp lí của sổ lao động trong việc
di chuyển và quản lí lao động để công tác quản lí lao động nhập cư tại các địa phương được
thuận lợi hơn [36]. Hoặc quy định về vấn đề lao động tự do di chuyển đến KCN, thành thị
phải đảm bảo thủ tục tối thiểu là thẻ lao động.
Điển hình như Thành phố Đại Liên của Trung Quốc đã áp dụng thành công biện pháp
quản lí dân cư bằng “lí lịch điện tử”, người lao động tự do được cấp thẻ lao động, mỗi thẻ
được gắn chip và cơ quan công quyền dễ dàng kiểm tra thông tin bất cứ đâu. Nếu người lao
động vi phạm luật của thành phố, mỗi lần vi phạm sẽ bị đục lỗ ở thẻ và nếu thẻ bị đục lỗ 5
lần thì họ sẽ không được làm việc ở thành phố nữa.
Hiện nay ở nước ta việc quản lí dân cư đang là thủ công, do đó chưa thể áp dụng kiểu
quản lí này. Trong tương lai với sự phát triển của khoa học công nghệ, thì việc áp dụng quản
lí dân cư bằng thẻ lao động sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lí dân cư, đồng thời
sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động nhập cư.
3.3.1.3. Phát triển kinh tế ở các vùng nông thôn
Quá trình phát triển kinh tế và ĐTH đã tạo ra các dòng di dân chủ yếu từ nông thôn vào
các KCN tỉnh Bình Dương để tìm kiếm việc làm. Trong giai đoạn phát triển mới của nền kinh
tế, dân số tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn trong khi tăng trưởng kinh tế diễn ra chủ
yếu ở những địa bàn đô thị và các tỉnh có sự phát triển mạnh về công nghiệp và dịch vụ. Bình
Dương là tỉnh tiếp nhận số lượng di dân lớn từ khắp các tỉnh thành trong cả nước. Do vậy,
việc phát triển kinh tế ở các vùng nông thôn, ngoại tỉnh không chỉ nhằm nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của người nông dân mà còn có ý nghĩa hạn chế di dân ở vùng nông thôn.
Phát triển kinh tế thông qua các hình thức:
+ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các tỉnh: Hình thành các nhà máy, cơ sở công
nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các khu sản xuất nông nghiệp sạch chất lượng cao, phát triển sản
xuất hàng hóa, đa dạng ngành nghề ở các tỉnh lân cận và vùng nông thôn. Xây dựng các
trường học, bệnh viện, hệ thống điện nước…Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội cung cấp nhiều
hơn các dịch vụ cho các tỉnh. Nhằm thúc đẩy sự phát triển cho các tỉnh, nhất là ở các vùng
nông thôn. Điều kiện sống tốt lại dễ dàng tìm kiếm việc làm và tăng thu nhập, đáp ứng dịch
vụ cho người dân sẽ hạn chế di dân.
+ Xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới: Đưa ra các chính sách hỗ trợ người
nghèo, như hỗ trợ vốn, tạo điều kiện cho họ có thể tìm kiếm công ăn việc làm. Ở các tỉnh kết
hợp mở các khu công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc xây dựng nông thôn mới.
+ Xây dựng các cơ sở đào tạo lao động kĩ thuật, giới thiệu việc làm và tạo việc làm cho
người lao động ngay tại quê hương: Người di dân phần lớn là để tìm kiếm việc làm, để có
một công việc tốt hơn và thu nhập cao hơn. Do vậy, giải quyết được vấn đề phát triển kinh tế,
tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo tại các vùng xuất cư sẽ góp phần đáng kể “giữ chân” người
dân ở lại xây dựng quê hương, qua đó sẽ giảm bớt một lượng lớn người di dân vào tỉnh như
hiện nay. Vì vậy, cần tạo công ăn việc làm cho người dân ngay tại quê hương của họ. Trong
vấn đề này, quan tâm và hỗ trợ đầu tư của Trung ương sẽ góp vai trò quan trọng.
Đa số người lao động ở các vùng nông thôn có trình độ còn thấp, chưa tiếp xúc nhiều
với máy móc kĩ thuật. Do vậy cần xây dựng các cơ sở để đào tạo lao động kĩ thuật, giới thiệu
việc làm và tạo việc làm cho người dân đặc biệt là thanh niên những chủ nhân tương lai của
đất nước. Như vậy, những người có trình độ có thể làm việc ngay trên quê hương mà không
phải di chuyển, đồng thời có việc làm tốt hơn.
Không chỉ làm nông nghiệp, người dân còn tham gia vào các hoạt động công nghiệp và
dịch vụ, vấn đề việc làm được giải quyết đáng kể. Nhờ vậy thu nhập ngày càng tăng cao, đời
sống được cải thiện hơn, góp phần phát triển kinh tế.
+ Nhà nước cần đầu tư cho các tỉnh để phát triển kinh tế: nhất là cho các khu vực nông
thôn, đồng thời chính quyền địa phương cần có chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước
để phát triển thế mạnh của từng địa phương như phát triển các làng nghề truyền thống, các
khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh…từ đó tạo ra mức sống không quá chênh lệch giữa
các tỉnh thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi để điều chỉnh hợp lí các dòng di dân, hạn chế di dân ồ
ạt ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi lực lượng lao động giữa các tỉnh và giữa các khu vực
sản xuất, giữa các ngành kinh tế.
3.3.2. Các giải pháp vi mô nhằm thu hút, nâng cao chất lượng và sử dụng nguồn
lao động di dân ở tỉnh Bình Dương phù hợp với mục tiêu phát triển KT-XH
Tăng cường nghiên cứu đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di dân của
người di cư, trên cơ sở đó chú trọng đến việc khai thác những thế mạnh các nhân tố có nhiều
lợi thế của tỉnh và các huyện, thị nhằm thu hút, sử dụng và phân bố lao động phù hợp với mục
tiêu phát triển KT-XH.
3.3.2.1. Xây dựng chính sách giáo dục – đào tạo hợp lí, phát triển nhân lực
Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho giáo dục – đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, đào tạo những
ngành nghề mà xã hội, tỉnh đang có nhu cầu cao. Phát triển giáo dục, nâng cao trình độ dân
trí nói chung và trình độ người lao động nói riêng phải được coi là giải pháp cơ bản và lâu
dài.
Để đáp ứng nhu cầu lao động có nghề phù hợp với công nghệ sản xuất của một số
ngành nghề đang thu hút nhiều lao động ở các KCN (dệt may, da giày, lắp ráp điện, điện tử,
vận hành máy, hoá dầu...) tỉnh cần có chính sách nhằm thu hút đào tạo nghề theo hình thức
đầu tư trực tiếp của nước ngoài, cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài mở cơ sở dạy nghề trong các KCN hoặc tự tổ chức dạy nghề ngắn hạn...trong nhà
máy theo nhiều hình thức; quan tâm đến hình thức vừa học, vừa làm… Tạo điều kiện để các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể phối hợp hoặc tự mình mở các cơ sở giáo
dục, cơ sở đào tạo nghề hoặc chuyển giao công nghệ đào tạo.
Là một tỉnh phát triển rất năng động thuộc vùng ĐNB và vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, kế cận TP. Hồ Chí Minh có rất nhiều lợi thế, nhưng có những cạnh tranh. Bình Dương
cần chú trọng đến đào tạo lao động cho các ngành dịch vụ cao cấp trong dịch vụ giáo dục,
dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, dịch vụ nhà ở và quản lí đô thị…
Đào tạo nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức ngoại ngữ, quan hệ giao tiếp…nhằm thay
đổi tư duy kinh tế cho người sử dụng lao động cũng như người lao động tìm được tiếng nói
chung và cùng nhau hợp tác mang lại hiệu quả KT-XH.
3.3.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội và tăng khả năng sử dụng lao động
+ Xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí
Để đảm bảo cho phát triển ổn định, bền vững tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút
lao động nhập cư, giải quyết việc làm tỉnh cần có sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn tới đa dạng hóa các loại hình việc làm, vừa tạo nhiều chỗ
làm việc vừa giúp cho lực lượng lao động Bình Dương đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH.
Trong nông nghiệp
Đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông thôn và phát triển các ngành công nghiệp chế
biến, các làng nghề thủ công truyền thống, làng nghề sinh vật cảnh và dịch vụ ở nông thôn.
Từ đó chuyển dần lực lượng lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, dịch vụ nông thôn
phát triển và tạo thị trường mới tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp, góp phần mở rộng các
loại hình việc làm.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện
nước…) đang là yêu cầu cấp bách nhằm phát triển nông thôn. Thu hút đầu tư của các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài đến đầu tư nhằm nâng cao hơn nữa năng suất lao động
nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Xây dựng các cơ sở khoa học kĩ thuật (trạm trại, thực nghiệm, giống, thú y, kĩ thuật
canh tác…) ở từng huyện nhằm nâng cao năng suất, tạo thu nhập ổn định cho nông dân.
Trong công nghiệp
Tập trung đầu tư đổi mới công nghiệp, nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp
hiện có. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực
sản xuất quan trọng của nền kinh tế, ưu tiên những dự án sử dụng nhiều lao động. Đa dạng
hóa các hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước
ngoài. Đảm bảo tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn trong chính sách
thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Đổi mới phương thức quản lí nhà nước và cải tiến mạnh
mẽ thủ tục đầu tư, thực hiện đúng các quy định của Luật đầu tư và phù hợp với tình hình
phát triển KT-XH của tỉnh. Đồng thời, có cơ chế quản lí phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi
của người lao động.
Trong ngành thương mại và dịch vụ
Các ngành dịch vụ phát triển theo hướng đa dạng các thành phần kinh tế, đáp ứng ngày
càng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Tỉnh đang
triển khai xây dựng hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị quy mô lớn đến năm 2025.
Đẩy mạnh phát triển hơn nữa ngành du lịch của tỉnh, một mặt nhằm khai thác các tiềm
năng thế mạnh du lịch của tỉnh, mặt khác tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
+ Khuyến khích đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất công nghiệp, dịch
vụ
Tỉnh Bình Dương hiện có 36 KCN và cụm công nghiệp thu hút trên 700.000 lao động,
dự kiến sẽ thu hút trên 1 triệu lao động vào năm 2020. Đây là yếu tố quan trọng cho sự phát
triển KT-XH của tỉnh. Trong thời gian tới lợi thế này cần tiếp tục được phát huy. Do đó, cần
tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn
theo quy mô lớn, ổn định. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ
phục vụ cho nhu cầu sơ chế tại chỗ nhằm cung cấp nguyên liệu có chất lượng cho công
nghiệp chế biến tập trung. Có chính sách khen thưởng hợp lí đối với các doanh nghiệp thu
hút được lao động và đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động.
+ Phát triển đô thị và phân bố dân cư hợp lí: Cần phải có chiến lược quy hoạch mở rộng
tỉnh Bình Dương, phát triển đô thị Bình Dương theo 3 khu vực đô thị: Đô thị trung tâm (TP.
Thủ Dầu Một, đô thị Nam Tân Uyên, Nam Bến Cát); Đô thị phía Nam (Tx. Thuận An, Tx.
Dĩ An) và Đô thị phía Bắc (Dầu Tiếng, Phú Giáo, Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên). Khu vực Đô
thị trung tâm: gồm một chùm đô thị; trong đó có một đô thị trung tâm là Khu Liên hợp đô
thị mới – TP. Thủ Dầu Một và các đô thị vệ tinh: Thuận An, Dĩ An, Nam Bến Cát, Nam Tân
Uyên, Bắc Tân Uyên.
Tăng cường phát triển hệ thống đô thị đồng bộ kết hợp giữa hệ thống đô thị trung tâm
với hệ thống đô thị vệ tinh và phân bố dân cư hợp lí giữa các đô thị. Việc phát triển hệ thống
đô thị vệ tinh sẽ giảm bớt sự dồn nén dân cư vào các đô thị trung tâm, sẽ khó kiểm duyệt xã
hội và mất cân đối các điều kiện dịch vụ đời sống cũng như tạo việc làm. Đồng thời giảm
bớt sự chênh lệch giữa các huyện, thị và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho khu vực còn chậm
phát triển về công nghiệp như huyện Phú Giáo, Dầu Tiếng, từ đó hạn chế di dân khỏi tỉnh.
+ Nâng cao chất lượng đời sống cho người lao động
Tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động nhập cư như: nơi ăn ở,
điện, nước, tạo sân chơi và giải trí lành mạnh cho người lao động…đặc biệt là vấn đề nhà ở.
Các xí nghiệp, các cấp có thẩm quyền cần quy hoạch xây dựng nhà trọ, nhà cho thuê cho
người di dân. Nhà thuê phải đảm bảo về sinh môi trường và các tiện nghi sinh hoạt tối thiểu.
Các chủ thuê mướn lao động phải mua các loại phí bảo hiểm cho người lao động để đảm
bảo quyền lợi, nghĩa vụ của người nhập cư. Đó cũng là một khâu quan trọng nhằm giữ chân
người lao động và quản lí tốt nhân khẩu, hộ khẩu nhập cư. Đồng thời tiến tới việc sử dụng
hợp lí nguồn lao động nhập cư, từng bước nâng cao đời sống và tinh thần của người nhập
cư.
+ Tăng cường các chính sách xã hội
Tăng cường thực hiện các chính sách cho người lao động như: hỗ trợ việc làm, bảo
hiểm y tế, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ thất nghiệp…Điển hình như bảo quỹ hiểm thất nghiệp
được sử dụng để chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp theo mức đóng góp của người tham
gia, chi cho việc đào tạo và đào tạo lại người lao động, hỗ trợ cho doanh nghiệp nhận người
thất nghiệp vào làm việc và chi cho công tác quản lí.
Việc thực hiện các chính sách này rất cần thiết đối với người di dân tự do, giúp cho
người lao động có điều kiện thực hiện các quyền cơ bản của công dân, tạo điều kiện cho họ
tham gia tốt hơn vào thị trường lao động.
3.3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền thu hút lao động
+ Xây dựng hệ thống thông tin lao động
Tỉnh cần xây dựng một hệ thống thông tin lao động và thị trường lao động, nhằm đảm
bảo cung cấp một cách đầy đủ, kịp thời và có đô tin cậy về nhu cầu sử dụng lao động. Thành
lập và phát huy vai trò của các trung tâm hỗ trợ việc làm cho người di dân. Đây là một giải
pháp nhằm tạo điều kiện giúp người di dân tìm kiếm việc làm, đồng thời nhằm tăng cường
quản lí người di dân vào làm việc tại Bình Dương. Đây có thể là những tổ chức tư vấn về việc
làm nhằm hướng họ vào những ngành nghề phù hợp với năng lực của họ. Đồng thời, từng
bước hình thành nên thị trường lao động có thể quản lí được, giúp nhà quản lí thực hiện tốt
chức năng của mình.
Thông tin về thị trường lao động được cung cấp từ hệ thống là cơ sở thực tiễn để
hoạch định chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường lao động phát triển đúng
hướng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tiến bộ hơn. Các nguồn thông tin này chỉ có được nếu có sự liên kết chặt chẽ giữa các
cơ quan quản lí và doanh nghiệp sử dụng lao động. Cần dự báo nhu cầu về nguồn lao động
cho công nhân.
+ Xây dựng sàn giao dịch việc làm
Xây dựng sàn giao dịch việc làm và đưa sàn giao dịch vào hoạt động, tỉnh cần phân bổ
kinh phí đầu tư xây dựng và sự hỗ trợ kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
của Trung ương, bố trí mặt bằng xây dựng, tổ chức biên chế hoạt động cấp kinh phí hoạt
động, tốt nhất là giao cho trung tâm hỗ trợ việc làm của tỉnh quản lí để thuận tiện hoạt động
cũng như vận dụng những cơ sở vật chất hiện có. Để có những thông tin về lao động và thị
trường lao động thật nhiều, đa dạng và hữu ích, cần duy trì hoạt động thường xuyên của các
doanh nghiệp, thị trường lao động, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho người lao động cũng như
các doanh nghiệp cần tuyển dụng lao động. Bên cạnh đó, tỉnh cần có nhiều chính sách thu
hút lao động từ các tỉnh khác.
+ Xây dựng chính sách thu hút nhân tài
Các chính sách thu hút nhân tài nhập cư vào tỉnh trong thời gian tới cần tập trung theo
hướng tạo điều kiện, khuyến khích cho người có trình độ kĩ thuật cao và các nhà đầu tư đến
tỉnh định cư. Tiếp tục thực hiện chính sách thu hút “chất xám”, “chiêu hiền đãi sĩ” bằng cách
dành những ưu đãi thích hợp về chế độ nhà ở, tuyển dụng và các chính sách khác về lương,
phụ cấp, tạo điều kiện việc làm thoải mái để thu hút nhân tài trong và ngoài nước ở các lĩnh
vực phù hợp đến phục vụ tại tỉnh Bình Dương.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng có chính sách khuyến khích lao động có tay nghề và trình độ
chuyên môn kĩ thuật đến vùng sâu công tác nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo thêm thu
nhập.
+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ quản lí về lao động
Hoàn thiện tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí ở các cấp từ tỉnh đến xã,
phường, thị trấn là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định chất lượng, hiệu
quả của công tác quản lí lao động ở tỉnh Bình Dương.
Sắp xếp lại hệ thống các cơ quan làm công tác quản lí lao động với chức năng, nhiệm vụ
cụ thể, rõ ràng. Tăng cường về cả số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lí
lao động ở các huyện, thị và thành phố nhất là ở cấp cơ sở. Tăng cường cơ sở vật chất phục
vụ cho công tác quản lí lao động. Đánh giá, chọn lọc lại cán bộ quản lí nhà nước về lao động
việc làm. Đảm bảo bố trí cán bộ quản lí lao động việc làm phải có trình độ trung cấp trở lên.
3.3.2.4. Hoàn thiện chính sách quản lí nhân khẩu, hộ khẩu
Phần lớn dân nhập cư vào tỉnh Bình Dương là di dân tự do theo diện đăng kí tạm trú,
nhân khẩu lưu trú, nhân khẩu tạm vắng. Dân nhập cư chủ yếu làm công nhân trong các KCN,
thu nhập thấp. Bên cạnh đó, còn có một bộ phận dân nhập cư làm các công việc phi chính
thức khác, không đăng kí tạm trú đã gây khó khăn cho công tác quản lí của các cấp chính
quyền địa phương.
Do đó, để thực hiện tốt hơn công tác quản lí nhân khẩu, hộ khẩu, đòi hỏi các cấp chính
quyền trong thời gian tới cần có sự kết hợp chặt chẽ với nhau tăng cường kiểm tra hộ khẩu,
rà soát kĩ lưỡng tình hình đăng kí tạm trú, nhân khẩu lưu trú, nhân khẩu tạm vắng của người
nhập cư [36]. Cấp giấy tạm thời cho người không có giấy tờ tùy thân sau khi xác minh rõ
nhân thân của họ để có cơ sở quản lí hành chính. Đăng kí tạm trú dài hạn cho các hộ nhập
cư, cấp sổ đăng kí tạm trú có thời hạn. Thường xuyên kiểm tra và xử lí những trường hợp
không đăng kí tạm trú.
3.3.2.5. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng, xây dựng nếp sống văn
minh đô thị
Cần phải có các chương trình tuyên truyền nếp sống văn minh thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng được phổ biến rộng rãi hơn. Tránh gây ô nhiễm môi trường, ngăn
chặn dịch bệnh…Bên cạnh đó cũng cần có những chế tài, những hình thức xử phạt hành
chính để nhắc nhở người dân, qua đó để xây dựng nếp sống văn minh đô thị ngày một tốt hơn.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Bài toán dân số là một bài toán nan giải. Di dân từ các khu vực nông thôn lên các đô thị,
các tỉnh thành có kinh tế phát triển không phải là mối đe dọa cho đô thị mà là một phần tất
yếu trong quá trình phát triển KT-XH. Hiện tượng di dân đã góp phần không nhỏ vào sự phát
triển KT-XH của tỉnh Bình Dương nói riêng và cả nước nói chung, góp phần đẩy nhanh quá
trình đô thị hóa của tỉnh. Di dân đã và sẽ còn là một quá trình tất yếu đối với sự phát triển KT-
XH, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ĐTH. Khi còn sự khác biệt về kinh tế thì
còn hiện tượng di dân, vì vậy ngoài việc nâng cao chất lượng dân số ở tỉnh Bình Dương thì
cũng phải song hành với nó là phát triển kinh tế nông thôn, tạo ra nông thôn mới.
Đề tài luận văn nghiên cứu di dân ở tỉnh Bình Dương phân tích thực trạng di dân và
đánh giá ảnh hưởng của quá trình di dân, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm điều tiết số
lượng, chất lượng dân nhập cư để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương trong
những năm tới.
Kết quả nghiên cứu đề tài đã đạt được:
Tổng quan có chọn lọc các vấn đề lí luận cơ bản về di dân. Đề tài đã phân tích các
nguyên nhân chủ yếu và các yếu tố tác động đến quá trình di dân, cũng như phân tích sự khác
biệt về di dân theo các hình thức tổ chức di dân khác nhau và ảnh hưởng của di dân đến sự
phát triển KT-XH.
Di dân vào tỉnh Bình Dương chủ yếu theo hình thức di dân tự do và do nguyên nhân
kinh tế, cơ cấu người nhập cư theo vùng cũng thay đổi trong những năm gần đây: Người nhập
cư cự li gần chiếm ưu thế, chủ yếu từ vùng ĐBSCL và vùng ĐNB do sự chênh lệch vùng còn
khá lớn và khoảng cách ngắn. Nhưng một số tỉnh thành ở vùng Bắc Trung Bộ cự li xa hơn
như Thanh Hóa, Nghệ An,…cũng có tỉ lệ nhập cư lớn, do tính năng động của dân cư cao và
đây là những tỉnh còn khó khăn về điều kiện tự nhiên: bão lụt nhiều, đất đai kém màu mỡ, tỉ
lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở thành thị cao, tỉ lệ sử dụng lao động thường xuyên
trong nông nghiệp thấp. Số người di dân rất lớn không chỉ đến Bình Dương, mà còn di dân
đến TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai, với tỉ lệ cao hơn hẳn so với các tỉnh khác.
Số lượng người nhập cư vào tỉnh Bình Dương không ngừng tăng lên gắn với tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Số dân nhập cư ngoại tỉnh tăng từ 64.852 (năm 1999) lên 751.852 (năm
2011); tăng 11,5 lần chỉ trong vòng 12 năm; làm tăng nhanh dân số Bình Dương từ 716,6
nghìn người (năm 1999) lên 1705,3 nghìn người (năm 2011). Người nhập cư phân bố chủ
yếu ở các huyện, thị tập trung các KCN như thị xã Thuận An, Dĩ An và các huyện tập trung
nhiều KCN mới xây dựng là huyện Bến Cát và Tân Uyên (hai huyện thuộc phía Bắc
nhưng có vị trí sát với các huyện thuộc khu vực phía Nam) đang có sức hút mới đối với
dân nhập cư trong những năm gần đây, đặc biệt là huyện Bến Cát. Bên cạnh đó, TP. Thủ
Dầu Một cũng có số lượng người nhập cư đứng thứ 5/7 huyện, thị, chủ yếu phát triển về
dịch vụ, mặc dù không có KCN nhưng số lượng người nhập cư đến đây cũng lớn nhưng chỉ
bằng 1/3 so với thị xã Dĩ An và bằng 1/4 so với thị xã Thuận An. Nguyên nhân do Bình
Dương đã chủ động xây dựng TP.Thủ Dầu Một trở thành trung tâm văn hóa hành chính của
tỉnh, hạn chế lao động nhập cư.
Khi đánh giá những ảnh hưởng của nhập cư đối với sự phát triển KT-XH tỉnh Bình
Dương, tác giả đã khẳng định những đóng góp của người nhập cư đối với sự phát triển KT-
XH tỉnh Bình Dương như: Cung cấp nguồn lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh
Bình Dương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu sản phẩm đặc biệt là xuất khẩu hàng
công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, nâng cao mức sống dân cư và giảm tỉ lệ hộ nghèo…
Đề tài cũng dự báo dân số và hướng di dân ngoại tỉnh vào Bình Dương trong xu thế đổi
mới và hội nhập vào khu vực và thế giới, sẽ gia tăng nguồn lao động có trình độ khoa học kĩ
thuật cao. Đưa ra định hướng di dân và phát triển KT-XH, các giải pháp nhằm sử dụng hợp
lí nguồn nhân lực nhập cư vào tỉnh Bình Dương, đồng thời điều tiết số lượng, chất lượng dân
nhập cư để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương trong những năm tới. Đồng
thời với các định hướng di dân tỉnh Bình Dương gắn liền với định hướng phát triển sản xuất,
phân bố công nghiệp ở các huyện, thị tập trung công nghiệp và dịch vụ đã phát triển như TP.
Thủ Dầu Một, thị xã Thuận An , Dĩ An thì cần mở rộng sản xuất, phân bố công nghiệp ra các
huyện, thị ở phía Bắc và tạo lực hút dân cư vào các đô thị mới như: Nam Tân Uyên, Nam
Bến Cát, Dầu Tiếng, Bắc Tân Uyên…
Đề tài cũng đưa ra một số biện pháp hữu hiệu và đề xuất kiến nghị nhằm giảm bớt gánh
nặng di dân cho các vùng xuất, nhập cư đồng thời sẽ góp phần thực hiện tốt công tác quản lí
dân số trong tỉnh như phân bố lại dân cư, giảm bớt sự chênh lệch vùng, sử dụng hợp lí nguồn
lao động, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho nhân dân. Dự báo và định hướng di dân,
phát triển KT-XH trong từng giai đoạn để có giải pháp phù hợp với từng giai đoạn trong việc
phân bố, sử dụng nguồn lao động và phát triển KT-XH.
Những hạn chế của đề tài:
Đề tài phân tích hiện trạng di dân, đánh giá những ảnh hưởng của người dân nhập cư
đối với phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương theo phương pháp định lượng còn hạn chế. Việc
dự báo và định hướng di dân mới chỉ là bước đầu, do di dân là hiện tượng KT-XH phức tạp,
phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố KT-XH thường xuyên biến động. Đặc biệt, vấn đề di dân
nội bộ còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các chính sách đền bù, giải tỏa, quản lí đất đai và quy
hoạch phát triển đô thị Bình Dương nên khó dự báo.
Tuy nhiên với sự nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình hình nhập cư ngoại tỉnh vào
tỉnh Bình Dương, tác giả cũng hy vọng góp phần nghiên cứu di dân, nghiên cứu những ảnh
hưởng của quá trình di dân đối với sự phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương, đễ xuất một số
giải pháp nhằm phát huy hơn nữa những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực do quá trình
di dân gây ra.
2. KIẾN NGHỊ
Mặc dù có nhiều giải pháp được đưa ra nhưng hiện nay số lượng người di dân vào tỉnh
Bình Dương vẫn cao. Do vậy, tác xin phép đưa ra một số kiến nghị về vấn đề này.
2.1. Kiến nghị với Nhà nước
Nhà nước cần có một chiến lược phát triển kinh tế hợp lí, bên cạnh việc ưu tiên cho các
vùng kinh tế trọng điểm, cần phải chú trọng đầu tư hơn nữa cho các vùng thiếu đất, bị thiên
tai, chưa phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, khôi phục và phát triển rừng, hỗ trợ gia
đình chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, giúp các vùng chưa phát triển không bị bỏ cách xa các
vùng phát triển. Trong các chương trình Quốc gia Xóa đói giảm nghèo, Chương trình Quốc
gia về việc làm…có vai trò quan trọng, góp phần điều tiết và quản lí di dân tự do, cung cấp
việc làm, giúp người dân nâng cao mức sống.
Cần nâng cao trình độ cán bộ quản lí, để đưa ra được những giải pháp đúng đắn và thực
tế hơn. Nâng cao nghiệp vụ các cán bộ quản lí về các vấn đề di dân. Bộ máy quản lí còn khá
phức tạp, nhiều phân cấp. Do vậy cần đơn giản bộ máy quản lí để các vấn đề sẽ được giải
quyết nhanh hơn, đơn giản hơn, giảm bớt các thủ tục rườm rà.
Nhiều giải pháp được đưa ra nhưng đến nay nhiều vấn đề di dân vẫn chưa được giải
quyết được triệt để. Do vậy, các nhà quản lí cần phải có các biện pháp thúc đẩy việc thực hiện
các giải pháp. Vùng nào phát triển kinh tế thì người dân sẽ di dân tới vùng đó để sống và làm
việc. Chỉ khi kinh tế các vùng nông thôn, các tỉnh lân cận phát triển thì mới hạn chế được di
dân tự do đến Bình Dương. Nhà nước cần hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện để các địa phương,
các vùng có điều kiện phát triển kinh tế.
Việc mở rộng đô thị thiếu tính toán làm mất đất sản xuất, mất cơ hội sống sẽ gây ra hệ
quả là dân cư từ những nơi đó đổ dồn về các thành phố, các tỉnh thành có kinh tế phát triển để
kiếm sống. Do vậy, quá trình đô thị hóa cần xác định rõ là phải nhằm mục đích tạo thêm công
ăn việc làm cho người dân chứ không phải làm mất tư liệu sản xuất của họ.
Cần có chính sách tạo ra sự công bằng xã hội liên quan đến người lao động nhập cư như:
chính sách về giáo dục, dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, về vốn hỗ trợ, bảo hiểm xã
hội…đảm bảo không có sự phân biệt giữa người nhập cư và người địa phương.
2.2. Kiến nghị với Tỉnh
Đối với người nhập cư, tỉnh cần phải có những biện pháp phối hợp với các địa phương
có lao động đến làm việc tại tỉnh, mở ra các lớp đào tạo nâng cao tay nghề để thu hút người
lao động; hạn chế tình trạng bức xúc như hiện nay về vấn đề nhà ở, tiền điện, nước tăng cao
ở các nhà trọ của công nhân; trước mắt là phải đổi mới các quy định về hộ khẩu và tuyển
dụng lao động, vấn đề xây dựng và tạo điều kiện về nhà ở cho công nhân và người có thu
nhập thấp.
Cần có những quy hoạch tổng thể với những định hướng phát triển các ngành KT-
XH phù hợp với những đặc điểm dân cư, nhằm đào tạo ra những sức hút lao động hợp lí,
đáp ứng yêu cầu phân bố sử dụng lao động. Phải có biện pháp cần thiết để thu hút vốn đầu
tư đổi mới công nghệ, hiện đại hóa máy móc, thiết bị, nâng cao tay nghề lao động. Tỉnh cần
có những chính sách giảm thuế đặc biệt đối với những doanh nghiệp nước ngoài có dây
chuyền hiện đại đầu tư vào tỉnh nhằm tạo sức hút đầu tư dây chuyền công nghệ mới, giải
quyết công việc làm cho người lao động và tạo điều kiện đào tạo nâng cao tay nghề cho số
lao động này.
Cần thành lập một Ban quản lí chung của Tỉnh ủy và UBND tỉnh chỉ đạo về vấn đề di
dân vì hiện nay di dân nông nghiệp do chi cục di dân (trực thuộc UBND tỉnh) theo dõi, di
dân công nghiệp do Sở Lao động – Thương binh & Xã hội theo dõi, Công an theo dõi về
nhân hộ khẩu. Tuy nhiên, hiện nay các cơ quan ban ngành dường như vẫn chưa có sự phối
hợp chặt chẽ, chưa thống nhất chỉ đạo chung.
UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo UBND các huyện, thị theo dõi, nắm chắc diễn biến
tình hình di dân tự do trên địa bàn mình quản lí và báo cáo kịp thời với các cơ quan chức năng
có thẩm quyền.
Quy hoạch và có chính sách khuyến khích đầu tư mạnh từ nay cho đến những năm tới ở
các vùng Bến Cát, Tân Uyên với các ngành sử dụng nhiều lao động như: Vật liệu xây dựng,
chế biến nông – lâm – thủy sản, gia công may mặc, giày da, gắn với nguồn lao động tại chỗ
góp phần giải quyết việc làm ở địa phương (vì hiện nay vẫn tập trung chủ yếu ở thị xã Thuận
An và Dĩ An).
Trung ương và tỉnh cần đầu tư vốn cho các cơ sở dạy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm
để nâng cấp cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị phù hợp với chương trình và chất lượng đào tạo
để cung cấp lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp cần có lao động
kĩ thuật nên các doanh nghiệp cần phải có chính sách đào tạo nâng cao tay nghề, nâng cao
trình độ cho người lao động để đáp ứng nhu cầu công việc của các doanh nghiệp.
Cần có những biện pháp, tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao động (tổ chức công
đoàn), nhất là những lao động đang làm việc cho doanh nghiệp nước ngoài, tránh những
tình trạng xúc phạm người lao động. Do đó cần thành lập tổ chức công đoàn trong các công
ty nhằm bảo vệ quyền lợi cho công nhân.
Về vấn đề môi trường cần phải có những biện pháp cấp bách trong việc bảo vệ môi
trường ở Bình Dương. Các công ty, xí nghiệp sản xuất công nghiệp cần phải có những dây
chuyền, công nghệ xử lí nước thải, khói ... các ban ngành có chức năng cần đôn đốc, kiểm
tra và có biện pháp xử lí đối với những đơn vị cố tình vi phạm và không tuân thủ chặt chẽ.
Có như vậy thì môi trường của tỉnh sẽ ngày một trong sạch hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo TĐT dân số và nhà ở Trung ương, TĐT dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009 (6/2010), Các kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo TĐT dân số và nhà ở Trung ương, TĐT dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009 (2009), Kết quả toàn bộ, Nxb Thống kê.
3. Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa
gia đình 1/4/2010 (11/2010), Các kết quả chủ yếu, Hà Nội.
4. Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa
gia đình 1/4/2011 (11/2011), Các kết quả chủ yếu, Hà Nội.
5. Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa
gia đình 1/4/2012 (11/2012), Các kết quả chủ yếu, Hà Nội.
6. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2004), Lao động nhập cư trong các KCN ở Bình
Dương: thực trạng và giải pháp.
7. Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương (2008), Báo cáo một số chủ trương giải
pháp tiếp tục giải quyết tình trạng di dân tỉnh Bình Dương.
8. Chi cục phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương (2011), Báo cáo quy hoạch phát triển
nông – lâm – ngư nghiệp tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
9. Cục thống kê Bình Dương (2012), Báo cáo kết quả điều tra tình hình phân bố dân nhập
cư trên địa bàn tỉnh Bình Dương 2011.
10. Cục thống kê Bình Dương (2006), Báo cáo phân tích tình hình phân bố và sử dụng lao
động xã hội năm 2005.
11. Cục thống kê Bình Dương (2010), Báo cáo phân tích tình hình phân bố và sử dụng lao
động xã hội năm 2009.
12. Cục thống kê Bình Dương (2012), Báo cáo phân tích tình hình phân bố và sử dụng lao
động xã hội năm 2011.
13. Cục thống kê Bình Dương (2012), Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2011.
14. Cục thống kê Bình Dương (2009), Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương 1997 –
2008.
15. Cục thống kê Bình Dương (2010), Tổng quan dân số và nhà ở tỉnh Bình Dương năm
2009, TP. Thủ Dầu Một, tháng 11 năm 2010.
16. Nguyễn Đình Cử (2004), Giáo trình dân số và phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
1997.
17. David Lucas & Paul Meyer (Phan Đình Thế dịch, Dự án VIE/92/P04), Nhập môn
nghiên cứu dân số, Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc gia, Đại học tổng hợp
quốc gia Australia.
18. Nguyễn Thị Hiển (2009), Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm TP. HCM.
19. Hội thống kê Việt Nam (2011), Số liệu thống kê vị thế kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành
phố Việt Nam (xếp hạng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội), Nxb Thống kê.
20. Lê Thị Hồng (2012), Hiện trạng và định hướng sử dụng lao động ở tỉnh Bình Dương,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm TP. HCM.
21. Nguyễn Đức Lộc (2012), Vấn đề di dân và kiểm soát rủi ro của người công nhân tại
các KCN tỉnh Bình Dương.
22. Nguyễn Văn Nam (2010), Xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Bình Dương.
Thực trạng và giải pháp, Báo cáo tổng kết đề tài, Liên đoàn Lao động tỉnh Bình
Dương.
23. Võ Công Nguyện (2012), Lao động nhập cư ở Bình Dương. Hiện trạng và xu hướng,
Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương, Viện phát triển bền
vững vùng Nam Bộ.
24. Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương (2012), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2011 – 2015.
25. Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương (2012), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh năm 2011, phương hướng – nhiệm vụ năm 2012.
26. Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương (2012), Chương trình phát triển đô thị tỉnh
Bình Dương giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
27. Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương , Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam
(2012), Báo cáo điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình
Dương đến 2025.
28. Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương, Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam
(2012), Chiến lược - Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Bình Dương đến năm
2020.
29. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương (2011), Kết quả điều tra thực
trạng lao động và việc làm tỉnh Bình Dương.
30. Nguyễn Văn Sơn (1998), Di dân tự do đến Sông Bé. Thực trạng và giải pháp, Đề tài
khoa học cấp bộ, Công an tỉnh Bình Dương.
31. Sở Xây dựng tỉnh Bình Dương (2012), Quy hoạch chung xây dựng đô thị Bình Dương
tới năm 2020, tầm nhìn tới năm 2030.
32. Phạm Thị Xuân Thọ (2002), Di dân ở TP. HCM và tác động của nó đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
33. Nguyễn Kim Nhật Thư (2009), Sự biến động dân cư trong quá trình đô thị hóa tỉnh
Bình Dương từ năm 1997 đến 2009, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm
TP. HCM.
34. Tổng cục thống kê (2005), Điều tra di cư Việt Nam 2004: Những kết quả chủ yếu, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
35. Tổng cục thống kê (2012), Giáo trình thống kê dân số và lao động, Nxb Lao động – xã
hội, Hà Nội.
36. Trương Văn Tuấn (2012), Di cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội
ở vùng Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học sư phạm TP. HCM.
37. Trần Thị Út (2011), Các giải pháp nâng cao đời sống văn hóa của người lao động
trong các khu công nghiệp tập trung ở Bình Dương, Báo cáo khoa học tổng kết
thực hiện đề tài, Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Bình Dương.
38. Văn kiện Đại hội công đoàn tỉnh Bình Dương khóa VIII, 2008, tr12.
39. Các Website của tỉnh Bình Dương, TP. HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Dân số chia theo giới tính phân theo đơn vị hành chính tỉnh Bình Dương
Đơn vị: Người
Đơn vị
TĐT 1999
TĐT 2009
ĐTBĐDS 2011
hành chính
Dân số
Nam
Nữ
Dân số
Nam
Nữ
Dân số
Nam
Nữ
TP.TDM
143.083
88.162
54.921
222.845
105.288 117.557
252.817
120.986 131.831
H. Dầu Tiếng
83.561
40.292
43.269
103.421
51.491
51.930
114.893
56.967
57.926
H.Bến Cát
104.391
48.166
56.225
192.818
93.830
98.988
234.989
113.699 121.290
H.Phú Giáo
59.539
30.129
29.410
83.555
44.304
39.251
89.793
44.571
45.222
H.Tân Uyên
117.693
53.498
64.195
204.825
101.110 103.715
241.922
118.447 123.475
Tx.Dĩ An
96.112
33.507
62.605
298.515
139.674 158.841
337.941
160.583 177.358
Tx.Thuận An
112.282
52.602
59.680
375.571
174.233 201.338
432.928
204.682 228.246
Toàn tỉnh
716.661 346.356 370.305 1.481.550 709.930 771.620 1.705.283 819.935 885.348
Nguồn: Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009 và Số liệu ĐTBĐDS và
KHHGD thời điểm 1/4/2010, 1/4/2011 _Cục Thống kê tỉnh Bình Dương.
Phụ lục 2: Số người nhập cư, số người xuất cư và tỉ suất di dân tỉnh Bình Dương, 1999 -
2011
Số dân nhập cư, xuất cư Đơn vị tính
và tỉ suất di dân
1994 – 1999
2004 – 2009
2009 - 2011
Số người từ 5 tuổi trở lên
Trong đó: Nam
Nữ Số người nhập cư Trong đó: Nam
Nữ Số người xuất cư Trong đó: Nam
Nữ Tỉ suất nhập cư
Trong đó: Nam
Nữ Tỉ suất xuất cư
Trong đó: Nam
Nữ Tỉ suất di cư thuần Trong đó: Nam
Nữ
Người Người Người Người Người Người Người Người Người ‰ ‰ ‰ ‰ ‰ ‰ ‰ ‰ ‰
660.217 317.159 343.058 64.852 30.068 34.784 23.270 12.916 10.354 98,2 94,8 101,4 35,2 40,7 30,2 63,0 54,1 71,2
1.366.040 653.215 712.825 499.781 231.213 268.568 34.732 16.268 18.464 365,9 354,0 376,8 25,4 24,9 25,9 340,4 329,1 350,9
1.566.901 749.020 817.881 751.852 347.985 403.867 96.141 44.182 51.959 479,8 464,6 493,8 61,4 59,0 63,5 418,5 405,6 430,3
Nguồn: Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009 và Số liệu ĐTBĐDS và
KHHGD thời điểm 1/4/2010, 1/4/2011 _Cục Thống kê tỉnh Bình Dương.
Phụ lục 3: Số người và tỉ suất di dân tỉnh Bình Dương và các tỉnh trong vùng ĐNB
Tỉnh
Bình Phước Tây Ninh Bình Dương Đồng Nai BR - VT TP.HCM 1994 - 1999 Số người 57.119 -6.264 41.582 19.771 24.989 336.366 Tỉ suất (‰) 99,1 -7,1 63,0 11,0 34,8 72,1 2004 - 2009 Số người -511 -19.061 465.049 149.422 19.344 895.760 Tỉ suất (‰) -0,7 -19,4 340,4 66,1 21,3 135,7 2009 - 2011 Số người -7.431 -25.033 655.711 248.991 29.597 1.117.575 Tỉ suất (‰) -9,0 -25,0 418,5 103,1 31,26 158,4
Nguồn: Tính toán từ Số liệu TĐT dân số và nhà ở 1/4/1999, 1/4/2009.
Số liệu Điều tra BĐDS và KHHGD thời điểm 1/4/2010, 1/4/2011.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TIÊU CỰC CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
Hình 1: Buôn bán lấn chiếm lòng lề đường trước cổng chợ Phước Vĩnh – thị trấn Phước Vĩnh
– huyện Phú Giáo
Hình 2: Vỉa hè, lề đường gần vòng xoay Hình 3: Bán rau, hoa quả lấn chiếm lòng,
An Phú – thị xã Thuận An thường xuyên lề đường trước trường THPT Võ Minh
bị lấn chiếm cản trở giao thông Đức - Tp.Thủ Dầu Một giảm mĩ quan,
văn minh đô thị
BƯƠN CHẢI KIẾM SỐNG, LÀM MỌI NGÀNH NGHỀ
Hình 4: Phát tờ rơi quảng cáo ở những ngã tư đèn tín hiệu
Hình 5: Người đàn ông vội vã bước chân tập tễnh ra chào mời
mua vé số tại ngã tư chợ Đình - Thành phố Thủ Dầu Một
Hình 6: Bán sim hòa mạng Beeline tại các ngã ba, ngã tư đường
Theo bạn Hoa, nhân viên làm việc bán thời gian của nhà mạng này cho biết: “Bọn mình bán sim ở
đây cũng được giao chỉ tiêu, lương trung bình mỗi tháng từ 1 - 1,5 triệu đồng. Số lượng sim phải
bán là khoảng 200 chiếc”.