VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LỜI CAM ĐOAN

Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019

ĐINH THỊ THANH NGA Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

DI TÍCH BẾN CỐNG CÁI TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG CẢNG VÂN ĐỒN (QUẢNG NINH)

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Thị Thanh Nga

I

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận văn khảo cổ này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới

các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Khảo cổ học, Học Viện Khoa học xã hội đã giúp

đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Liên, người thầy đã định

hướng và luôn giúp đỡ, tân tâm dạy dỗ tôi trong suốt quá trình thu thập tư liệu,

nghiên cứu đề tài này, ngay từ ý tưởng ban đầu cho tới khi hoàn thành luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Khảo cổ học, Trung tâm

Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước, phòng Thư viện…. đã tạo điều kiện về thời

gian và tài liệu để hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Quảng Ninh, chính

quyền xã Quan Lạn, xã Minh Châu, xã Thắng Lợi, huyện Vân Đồn đã tạo điều kiện

cho tôi cùng đoàn nghiên cứu của Viện Khảo cổ học được khảo sát và khai quật trên

địa bàn các xã từ năm 2014 đến nay.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân đã động

viên, giúp đỡ và tạo cho tôi những điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian học tập

vừa qua.

Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2019

Tác giả Luận văn

Đinh Thị Thanh Nga

II

MỤC LỤC

Mở đầu………………………………………………………………………….....1 Chương 1: Tổng quan tư liệu về thương cảng Vân Đồn và di tích bến Cống Cái………………………………………………………………………………...11 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của thương cảng Vân Đồn và di tích bến Cống Cái………………………………...........................................................................11 1.2. Lịch sử hình thành thương cảng Vân Đồn và vị trí địa - lịch sử qua sử liệu..15 1.3. Các cuộc khảo sát và khai quật tại di tích bến Cống Cái……….……………18 1.3.1. Khảo sát năm 2012-2013…………………………………..……………....18 1.3.2. Khảo sát năm 2014…………………………………………………………20 1.3.3. Khảo sát và khai quật năm 2016-2017…………………………………..21 1.3.4. Khảo sát năm 2018………………………………………………………….23 1.3.5. Khảo sát năm 2019………………………………………………………….23 1.4. Tiểu kết chương 1………………………………………………………….....25 Chương 2: Di tích bến Cống Cái qua tư liệu khảo cổ học…………………….27 2.1. Đặc trưng di tích……………………………………………………………...27 2.1.1. Bến cảng……………………………………………………………………...27 2.1.2. Đặc điểm tầng văn hóa……………………………………………………..29 2.1.3. Dấu tích kiến trúc……………………………………………………………30 2.1.4. Di tích hố đất đen…………………………………………………………...33 2.2. Đặc trưng di vật………………………………………………………………34 2.2.1. Đồ gốm men………………………………………………………………….35 2.2.2. Đồ gốm có áo………………………………………………………………..48 2.2.3. Đồ sành mịn………………………………………………………………….49

2.2.4. Đồ đất nung………………………………………………………………….52 2.2.5. Đồ kim loại……………………………………………………………...…...54 2.2.6. Các loại hiện vật khác………………………………………………………55 2.3. Tiểu kết chương 2…………………………………………………………….56 Chương 3: Vị trị bến Cống Cái trong bối cảnh thương cảng Vân Đồn………60 3.1. Mối quan hệ với các khu vực khác của thương cảng Vân Đồn………………60 3.2. Vai trò của di tích bến Cống Cái trong kháng chiến chống Mông - Nguyên...70 3.3. Tiểu kết chương 3………………………………………………………….....73 KẾT LUẬN………………………………………………………………………74 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………77 PHỤ LỤC………………………………………………………………………...87

III

Ảnh

a

Bảng

B

Bản ảnh

Ba

Bản dập

Bd

Bản đồ

BQL Ban quản lý

BP Cách ngày nay

Bv

Bản vẽ

CDTTĐ Các di tích trọng điểm

h

Hình

H

Hố

HTS

Hố thám sát

KXĐ Không xác định

L Lớp

LM Lớp mặt

Nxb

Nhà xuất bản

PL

Phụ lục

Sơ đồ

SCN

Sau Công Nguyên

TCN

Trước Công Nguyên

TK Thế kỷ

Tr.

Trang

IV

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU, BẢN ĐỒ, S Ơ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN DẬP VÀ BẢN ẢNH

I. DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG CHÍNH VĂN Bảng 2.1:

Tổng hợp hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017

Bảng 2.2:

Niên đại nhóm gốm men Việt Nam trong đợt khai quật tháng 8/2016

Bảng 2.3:

Niên đại nhóm gốm men Việt Nam trong đợt khai quật tháng 8/2016

Bảng 2.4:

Niên đại hiện vật lon/vại qua đợt khai quật năm 2016

Bảng 2.5:

Các kỹ thuật tạo hoa văn thân sành mịn trong đợt khai quật năm 2016

Biểu đồ 2.1: Số lượng hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ các dòng gốm men Việt Nam trong đợt khai quật năm 2016

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các dòng gốm men Trung Quốc trong đợt khai quật năm 2016

Hình 2.1:

Một số loại hình chính của gốm men Việt Nam

Hình 2.2:

Diễn tiến niên đại gốm men Việt Nam thời Trần

Hình 2.3:

Diễn tiến kỹ thuật tạo dáng trên lon sành mịn

II. DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN DẬP VÀ BẢN ẢNH TRONG PHỤ LỤC

1. BẢNG THỐNG KÊ: Phụ lục 1: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái Phụ lục 2: Bảng thống kê hiện vật khảo sát tháng 3 năm 2016 tại di tích bến

Cống Cái

Phụ lục 3: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2017 tại di tích bến Cống Cái Phụ lục 4: Bảng thống kê hiện vật khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến Cống

Cái

Phụ lục 5: Bảng thống kê các dòng gốm men Việt Nam khai quật tháng 8/2016 Phụ lục 6: Bảng thống kê các dòng gốm men Trung Quốc khai quật tháng

8/2016

Phụ lục 7: Bảng thống kê tiền đồng năm 2014-2017 Phụ lục 8: Bảng thống kê hiện vật sắt khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến

Cống Cái

Bản đồ huyện Vân Đồn

2. BẢN ĐỒ-SƠ ĐỒ: Phụ lục 9: Phụ lục 10: Bản đồ khu vực khảo sát di tích bến Cống Cái năm 2014 Phụ lục 11: Bản đồ khu vực khảo sát di tích Mang Thúng năm 2014

V

Phụ lục 12: Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực phía bắc bến

Cống Cái năm 2014-2017

Phụ lục 13: Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực thung lũng Sơn

Phụ lục 14:

Hào năm 2014-2017 Sơ đồ khu vực khảo sát bằng máy dò kim loại và các hố thăm dò tháng 3/2016 Sơ đồ vị trí các hố khai quật tại di tích bến Cống Cái năm 2016

Sơ đồ vị trí ô lưới Grid và hố kiểm tra tại di tích Sơn Hào năm 2019

Sơ đồ hành trình hàng hải đi qua Vân Đồn

Phụ lục 15: Phụ lục 16: Bản đồ vị trí các viên đá buộc thuyền và Giếng Đình tại bến Cống Cái Phụ lục 17: Phụ lục 18: Bản đồ các di tích thuộc xã Quan Lạn và Minh Châu Phụ lục 19: Bản đồ các di tích trên đảo Thừa Cống Phụ lục 20: Bản đồ các cụm di tích thuộc hệ thống thương cảng Vân Đồn Phụ lục 21: 3. BẢN ẢNH - BẢN VẼ: Phụ lục 22: Ảnh khảo sát năm 2012, 2014, 2015, 2016 tại bến Cống Cái Phụ lục 23: Bản vẽ địa tầng khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái Phụ lục 24: Bản vẽ hố 16SH.TS1 Phụ lục 25: Bản vẽ hố 16SH.TS2, TS3 Phụ lục 26: Bản vẽ hố 16SH.TS4, TS5, TS6 Phụ lục 27: Ảnh khai quật hố H1, H2, H3 năm 2016 tại bến Cống Cái Phụ lục 28: Ảnh khai quật hố H4, H5 năm 2016 Phụ lục 29: Ảnh hố thám sát TS1, TS3, TS6, TS7, TS8 năm 2016 Phụ lục 30: Ảnh di tích Giếng Đình và đá neo thuyền Phụ lục 31: Ảnh một số di tích khác trong hệ thống thương cảng Vân Đồn Phụ lục 32: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H1 Phụ lục 33: Bản vẽ mặt bằng và địa tầng hố 16SH.H1 Phụ lục 34: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H2.L2-L5 Phụ lục 35: Bản vẽ mặt cắt vách bắc hố 16SH.H3 Phụ lục 36: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H3, 17SH.TS2, 17SH.TS3 Phụ lục 37: Ảnh 3D mặt bằng hố 16SH.H3, 17SH.TS1, TS2 Phụ lục 38: Bản vẽ hố 16SH.H4 Phụ lục 39: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H5 Phụ lục 40: Bản vẽ mặt cắt vách Bắc hố H5 Phụ lục 41: Bản vẽ địa tầng hố 16SH.H5, TS8 Phụ lục 42: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam Phụ lục 43: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

VI

Phụ lục 44: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam Phụ lục 45: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam Phụ lục 46: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam Phụ lục 47: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu, ngọc, hoa nâu Việt Nam Phụ lục 48: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam Phụ lục 49: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam Phụ lục 50: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc Phụ lục 51: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc Phụ lục 52: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc Phụ lục 53: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc Phụ lục 54: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc Phụ lục 55: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc Phụ lục 56: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam và KXĐ men Trung Quốc Phụ lục 57: Ảnh-bản vẽ gốm có áo Phụ lục 58: Ảnh-bản vẽ gốm có áo Phụ lục 59: Ảnh-bản vẽ sành mịn Phụ lục 60: Ảnh-bản vẽ sành mịn Phụ lục 61: Ảnh-bản vẽ sành mịn Phụ lục 62: Ảnh-bản vẽ sành mịn Phụ lục 63: Ảnh-bản vẽ sành mịn Phụ lục 64: Ảnh-bản vẽ đồ đất nung Phụ lục 65: Ảnh hiện vật kim loại Phụ lục 66: Ảnh chụp X-quang đồ sắt và thiên thạch 4. BẢN DẬP: Phụ lục 67: Hoa văn trên miệng và quai sành mịn Phụ lục 68: Hoa văn bập vân trên thân sành mịn Phụ lục 69: Hoa văn bập vân kết hợp hoa văn khác trên thân sành mịn Phụ lục 70: Hoa khắc vạch bằng que 1 hay nhiều răng trên thân sành mịn Phụ lục 71: Hoa trên thân sành mịn và sành thô

VII

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử Việt Nam, ở một số khu vực đã hình thành các trung tâm

kinh tế và thương cảng quan trọng. Khu vực miền Bắc từ rất sớm đã tham gia

vào quá trình giao lưu buôn bán với các nước Ấn Độ, Đông Á, Địa Trung

Hải...Các kết quả nghiên cứu cho thấy, khu vực Vân Đồn đã có sự giao lưu

với khu vực nam Trung Quốc từ rất sớm. Quá trình giao thương này tồn tại

đến thế kỷ XII thì chính thức được thành lập “trang Vân Đồn” và chỉ thực sự

suy tàn vào thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Trong thời kỳ phát triển hưng thịnh, các

thuyền buôn và thương nhân Trung Quốc, Lưu Cấu (Nhật Bản), Đông Nam Á

như Trảo Oa (Java), Lộ Hạc, Xiêm La, Tam Phật Tề, Chiêm Thành và có thể

cả những thương nhân vùng Tây Nam Á và Châu Âu đến buôn bán trao đổi

hàng hóa. Cùng với Hội Thống, Vân Đồn trở thành hai thương cảng quan

trọng, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế đất nước ở khu vực miền Bắc.

Từ khá sớm thương cảng Vân Đồn đã thu hút sự chú ý quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Thương cảng Vân Đồn là một hệ

thống gồm nhiều bến bãi, trong đó đã được các nhà nghiên cứu và xác nhận là

các bến Cống Cái, Cái Làng, Cống Đông, Công Tây, Cống Hẹp, Vạn Ninh,

Đượng Hạc...

Bên cạnh một số vấn đề đã được giải quyết, nhiều vấn đề của thương

cảng Vân Đồn đã và đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu như : vị trí phân bố,

quá trình hình thành và phát triển, và mối quan hệ của các bến bãi trong hệ

thống cảng Vân Đồn như thế nào?; Cấu trúc hay chức năng của chúng như

thế nào ?; Trung tâm chính của thương cảng nằm ở đâu, có sự thay đổi qua

các thời kỳ không?. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu điều tra, khảo sát về

1

thương cảng này là hết sức cần thiết.

Cống Cái là một trong những bến bãi nằm trong hệ thống thương cảng

Vân Đồn. Vị trí nằm về phía bắc thôn Sơn Hào, thuộc xã Quan Lạn, huyện

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Sau nhiều đợt tiến hành khảo sát và khai quật, các

nhà nghiên cứu đã phát nhiều di vật xuất lộ trên bề mặt ven bờ vụng và cả

trong địa tầng. Các di vật xuất lộ gồm gốm men, sành, đồ đất nung, đồ kim

loại. Nghiên cứu các mặt cắt cho thấy tầng văn hóa ở di tích này khá dày.

Phần lớn các di vật xuất lộ có thể xác định niên đại vào thời Trần. Ngoài ra

cũng xuất hiện các di vật thuộc thời kỳ sớm hơn và muộn hơn. Với số lượng

lớn di vật và tầng văn hóa dày, ổn định, có thể xác định khu vực này đã tồn tại

một khu dân cư phát triển nhất vào thời Trần. Đây là một khu vực lý tưởng

cho việc nghiên cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với lịch sử hình thành và

phát triển của thương cảng cổ Vân Đồn và những sự kiện liên quan đến cuộc

kháng chiến chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, đặc biệt là trận đánh

của Trần Khánh Dư.

Tôi là người may mắn được trực tiếp tham gia khảo sát và khai quật tại

di tích bến Cống Cái từ năm 2014 cho đến nay. Vì vậy, tôi mong muốn tìm

hiểu quá hình hình thành, phát triển, suy tàn của di tích bến Cống Cái nói

riêng và hệ thống thương cảng Vân Đồn nói chung.

Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Di tích bến Cống Cái

trong hệ thống thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh)” làm luận văn thạc sĩ

của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Được nhiều tư liệu lịch sử trong và ngoài nước nói đến với tư cách là

một thương cảng quốc tế do nhà Lý thành lập từ năm 1149, các xã đảo thuộc

huyện Vân Đồn nói chung và khu vực đảo Quan Lạn nói riêng luôn là đối

2

tượng nghiên cứu của các nhà sử học, khảo cổ học và các nhà nghiên cứu lịch

sử văn hóa. Vị trí và hình thế của thương cảng Vân Đồn được mô tả trong các

sách sử Việt Nam và Trung quốc như Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Trãi

toàn tập, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt địa dư toàn biên, Đồng

Khánh dư địa chí, Lĩnh ngoại đại đáp, An Nam Chí Nguyên…

Cuộc khảo sát về thương cảng Vân Đồn sớm nhất tại khu vực đảo Quan

Lạn có lẽ là của GS. Yamamoto Tatsuro vào năm 1936, khi ông nhắc tới

chuyến khảo sát tại đảo Vân Hải, bến Con Quy, xã Quang Châu (xã Minh

Châu ngày nay) và xã Quan Lạn. Trong đợt này, ông đã thu thập được số

lượng lớn tiền đồng Trung Quốc và Việt Nam. Tiền Trung Quốc chủ yếu là

thời Tống, một số ít thuộc thời Đường và thời Minh Thanh. Tiền Việt Nam

chủ yếu thuộc thời Lê và Nguyễn, đặc biệt là tiền Cảnh Hưng và tiền Minh

Mạng. Đồ gốm sứ sưu tầm trong dân (36 hiện vật và mảnh vỡ) được chuyên

gia Nhật Bản cho rằng chúng thể hiện nhiều loại hình, có ảnh hưởng lớn từ

các truyền thống Trung Hoa, nhưng vẫn là sản phẩm của Việt Nam, được chở

từ phía tây tới (nội địa), có lẽ để buôn, niên đại từ thời Tống đến thời Thanh.

Ông cho rằng bến Con Quy ở phía Bắc của đảo Quan Lạn là bến tốt nhất có

thể tránh sóng và có thể là một bến quan trọng trong thời phồn vinh của cảng

Vân Đồn [5, tr.76-122]. Tại đây, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được một

số tiền đồng thời Hán và di vật gốm, sành nhưng số lượng không nhiều. Có

thể, vào thời kỳ phát triển của thương cảng Vân Đồn, bến Con Quy chỉ đóng

vai trò là cửa ngỏ, trạm dừng chân của thuyền buôn trước khi vào bến chính.

Từ những năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tham gia vào

việc nghiên cứu các thương cảng. Thương cảng đầu tiên được chọn lựa

nghiên cứu là thương cảng Vân Đồn. Những kết quả nghiên cứu Vân Đồn

thời kỳ này đã được Đỗ Văn Ninh công bố trong tập sách “Tìm lại dấu vết

Vân Đồn lịch sử” do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh xuất bản năm 1971

3

(tái bản năm 1997), và “Thương cảng Vân Đồn” xuất bản năm 2004. Tại Vân

Đồn, các nhà khảo cổ học cũng đã tiến hành khai quật một ngôi chùa - chùa

Lấm và một ngọn tháp thời Trần trên đảo Thừa Cống. Hàng loạt dấu vết các

ngôi chùa khác, các nền nhà và một hệ thống hàng chục bến bãi như Cống

Đông, Cống Yên, Cống Hẹp, Cái Làng, Con Quy… đã được phát hiện. Trong

đó, tác giả có nhắc đến cuộc khảo sát khu vực bến Cống Cái và cũng đã xác

định dấu tích sành sứ trải dài hàng trăm mét trên bờ nam bến Cống Cái. Trên

sườn núi là dấu tích các lớp nhà từ chân lên tới lưng chừng núi. Trên đỉnh núi

còn kiến trúc đình quay hướng chính nam và một lối đi mở xuống giếng Đình

quanh năm đầy nước. Trên cơ sở kết quả khảo sát của ông cho rằng trung tâm

giao dịch xưa nằm ở khu vực giữa đảo Vân Hải, tức là bến Cống Cái và Cái

Làng [60]. Như vậy, vào những năm 60-70 của thế kỷ XX, các nhà khảo cổ

học đã xác định vai trò quan trọng của khu vực Cống Cái trong thương cảng

Vân Đồn.

Năm 1990, đẩy thêm một bước nữa trong việc nghiên cứu thương cảng

Vân Đồn. Ban Quản lý các di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức một

cuộc hội thảo về thương cảng Vân Đồn tại huyện Cẩm Phả. Kỷ yếu hội thảo

“Thương cảng Vân Đồn, lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn

hóa” được xuất bản năm 2009. Sau đó được chỉnh sửa và xuất bản cuốn sách

“Di tích lịch sử-văn hóa thương cảng Vân Đồn” năm 2010. Trong cuộc hội

thảo này, các nhà khảo cổ học đã cố gắng đi thêm một bước trong việc xác

định trung tâm của thương cảng Vân Đồn, nhưng tại đây đã xuất hiện hai

quan điểm trái ngược nhau. Một ý kiến cho vị trí trung tâm của thương cảng

Vân Đồn từ thời Lý cho đến ngày Vân Đồn suy tàn nằm trên đảo Quan Lạn.

Ý kiến thứ hai cho rằng, tài liệu khảo cổ học cho phép xác định trung tâm

cảng Vân Đồn thời Trần là đảo Thừa Cống (xã Thắng Lợi). Cho đến nay, câu

trả lời cho vấn đề này còn để ngỏ. Trong luận văn này, theo tôi, có thể trung

4

tâm thương cảng Vân Đồn vào giai đoạn sớm, thế kỷ XII-XIV nằm ở đảo

Quan Lạn và bắt đầu suy tàn cuối thế kỷ XV. Trong giai đoạn, thế kỷ XIV-

XVI, đảo Thừa Cống trở thành là trung tâm của thương cảng Vân Đồn.

Bên cạnh đó, trong các năm 1990, 1993, 1997, 2000, 2002, 2003, Trung

tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Tổng hợp Hà Nội nay là Viện

Việt Nam học và Khoa học phát triển, phối hợp với Khoa Lịch sử, Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Chiêu Hòa,

Đại học Tổng hợp Osaka, Trung tâm Khảo cổ học tỉnh Okinawa cùng một số

cơ quan khoa học khác của Nhật Bản đã đến khảo cứu nhiều bến cảng cổ

thuộc Vân Đồn. Đáng chú ý là cuộc khai quật năm 2002-2003 tại di tích bến

Con Quy (xã Quan Lạn) và Cống Tây (xã Thắng Lợi). Năm 2002, tại di tích

Cống Tây, đoàn nghiên cứu đã tiến hành khai quật ở vụng thôn 3và vụng thôn

5. Kết quả khai quật cho thấy, tầng văn hóa dày 40cm, hiện vật chủ yếu là

gốm men Việt Nam và Trung Quốc, sành, vật liệu kiến trúc. Một số loại hình

gốm men Việt Nam như hộp bát, bình hoa lam có nguồn gốc từ Hải Dương,

niên đại thế kỷ XV-XVI. Hiện vật gốm men Trung Quốc có niên đại thế kỷ

XIV-XV, trong đó men ngọc là điển hình gốm lò Long Tuyền, thời Nguyên.

Từ kết quả khai quật này, đoàn khai quật cho rằng: có thể ở đảo Thừa Cống

có 2 loại bến: bến chuyên chứa hàng nhập khẩu, chủ yếu lưu chứa gốm men

Trung Quốc như vụng thôn 5, vụng Chuồng Bò. Và bến chuyên lưu chứa,

xuất khẩu gốm men Việt Nam như vụng thôn 3 [40, 44, tr.56-57]. Tại bến

Con Quy, năm 2002, đoàn nghiên cứu đã tiến hành mở 3 hố thăm dò với tổng

diện tích 14m2. Ở khu vực khai quật, bề mặt đã bị san lấp do quá trình khai

thác cát, chỉ còn lớp xáo trộn dày 60-100cm, là lớp cát màu xám chưa các

mảnh hiện vật đồ gốm men, đồ sành Việt Nam và Trung Quốc, có niên đại

TK XIII-XVII và bộ sưu tập tiền đồng mà chủ yếu là tiền Trung Quốc có niên

5

đại khá dài từ TK I đến TK XIII [39]. Như vậy, có thể nhận thấy di tích bến

Con Quy có thời gian tham gia vào hệ thống thương mại sớm hơn các di tích

khác trên đảo Quan Lạn.

Năm 2003, một cuộc khai quật đã được thực hiện ở Bến Cái Làng, cách

khu vực Cống Cái-Sơn Hào khoảng 3km về phía tây nam. Kết quả đã xác

định được các dấu tích cầu cảng, kiến trúc nhà ở và nhiều di vật gốm sành, đồ

sứ Trung Quốc và Việt Nam. Trong đó đồ sứ Việt Nam được xác định có các

loại hình từ thời Lý đến thời Lê, số lượng nhiều nhất thuộc thời Trần và thời

Lê Sơ. Di tích theo đó được cho là phát triền thịnh đạt nhất từ thời Trần đến

thời Lê Sơ [36].

Năm 2014, cuốn sách “Vân Đồn thương cảng quốc tế của Việt Nam”

của PGS. TS. Nguyễn Văn Kim được xuất bản, đã nêu ra thương cảng Vân

Đồn vào thời Lý - Trần đã hình thành ba tiểu vùng. Tiểu vùng thứ nhất tập

trung ở đảo Thừa Cống, là nơi đặt trị sở của trang Vân Đồn thời Lý-Trần.

Tiểu vùng thứ hai gồm các địa điểm ở đảo Quan Lạn, là cửa ngõ của vùng

thương cảng, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh và kiểm soát

thuế, đảm bảo các hoạt động bang giao và trao đổi sản phẩm cao cấp của tiểu

vùng thứ nhất. Tiểu vùng thứ ba là nhóm đảo phía đông nam của thương cảng

thuộc xã Ngọc Vừng, là nơi buôn bán, kiểm soát và đảm bảo an ninh cho phía

nam thương cảng Vân Đồn. Ba tiểu vùng này hợp thành một hệ thống tạo nên

vùng thứ nhất, hay gọi là vùng lõi của thương cảng. Vùng thứ hai là cụm bến,

cảng ven bờ bao gồm các tiểu vùng: Yên Hưng, Cửa Lục, Cái Bầu kéo dài

đến Vạn Ninh ở phía Bắc. Vùng thứ hai có vai trò trong việc cung cấp, luân

chuyển hàng hòa từ các làng nghề thủ công, trung tâm nội địa ra thương cảng

quốc tế, đồng thời đón nhận, tiêu thụ, điều phối hàng hóa của vùng thứ nhất.

Vùng thứ ba là các cảng vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh, là các cảng trung chuyển

của Vân Đồn. Như vậy, Nguyễn Văn Kim đã hệ thống các địa điểm theo tầm

6

quan trọng của các địa điểm, Cống Cái là một địa điểm nằm ở tiểu vùng thứ 2

trong Vùng thứ nhất. Ông nhận định các địa điểm ở đảo Thừa Cống vào giai

đoạn thời Lý-Trần có vai trò quan trọng nhất [46, tr.278-297]. Việc xác định

các vùng và tiểu vùng trong thương cảng Vân Đồn và chỉ ra mối quan hệ của

chúng với nhau, đã làm cho chúng ta có cái nhìn tổng thế, mối quan hệ khăng

khít giữa các di tich trong hệ thống thương cảng Vân Đồn. Tuy nhiên, theo

ông thì các di tích trong đảo Thừa Cống có vai trò quan trọng nhất vào giai

đoạn thời Lý-Trần.

Từ năm 2012 – 2019, kết quả 8 cuộc khảo sát và 1 cuộc khai quật do

Viện Khảo cổ học và nhóm chuyên gia quốc tế về khảo cổ học dưới nước

cũng đã xác định được khu vực có tầng văn hóa thời Trần và nhiều dấu tích có

liên quan đến bến bãi ở khu vực bến Cống Cái như giếng nước, đá neo

thuyền, các dấu tích kiến trúc và số lượng lớn hiện vật có nguồn gốc Việt

Nam và Trung Quốc, niên đại thế kỷ IX-XIX, nhưng tập trung nhất vẫn là thế

kỷ XII-XIV. Bến Cống Cái do vậy là một khu vực lý tưởng cho việc nghiên

cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với lịch sử hình thành và phát triển của

thương cảng cổ Vân Đồn và những sự kiện liên quan đến cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, đặc biệt là trận đánh Trần Khánh

Dư. Các dấu tích khảo cổ học mới phát hiện còn cho thấy lịch sử chiếm cư ở

khu vực này có thể còn bắt đầu từ thời xa xưa hơn. Ngoài ra nhóm nghiên cứu

còn phát hiện loại hình di vật đáng chú ý là khẩu súng thần công, thuộc phong

cách thế kỷ 16, nhưng được đúc tại địa phương [49, tr.1].

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Thu thập và hệ thống hoá, phân tích, đánh giá tư liệu lịch sử và khảo cổ

học đầy đủ nhất, từ trước đến nay về địa điểm bến Cống Cái.

Nghiên cứu tính chất và loại hình của các di vật xuất lộ, vai trò của

7

những di vật này đối với sự phát triển của thương cảng

Trên cơ sở các kết quả khai quật và nghiên cứu khảo cổ học, bước đầu

xác định niên đại hình thành và phát triển của di tích, vai trò và vị trí của di

tích trong bối cảnh chung của khu di tích thương cảng Vân Đồn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Di tích, di vật kết hợp với các tư liệu liên ngành

liên quan đến địa điểm Bến Cống Cái và hệ thống thương cảng Vân Đồn.

Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Toàn bộ khu vực Bến Cống Cái, thuộc thôn Sơn Hào, xã

Quan Lạn, huyện Vân Đồn. Luận văn kết hợp nghiên cứu so sánh một số di

tích bến bãi khác trong hệ thống thương cảng Vân Đồn.

Về thời gian: Trong thời gian hình thành, phát triển và suy tàn của di tích

bến Cống Cái, từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII. Ngoài ra còn liên hệ với các

thời kỳ trước và sau đó.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Nguồn tư liệu: Các báo cáo điều tra, khai quật khảo cổ học, các bài

nghiên cứu về di tích bến Cống Cái nói riêng, các di tích bến bãi khác thuộc

thương cảng Vân Đồn nói chung đã được công bố trên các sách, tạp chí

chuyên ngành và trong các kỷ yếu hội thảo về khảo cổ học. Luận văn tham

khảo một số sách khoa học có liên quan như địa chất, địa mạo, địa hình, khí

hậu thuỷ văn, môi trường, dân tộc học... có liên quan đến khu vựcVân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh.

Các nguồn tư liệu lịch sử liên quan đến hệ thống thương cảng Vân Đồn

và kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ 3.

8

Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như:

phương pháp điều tra, khảo sát không tác động, thăm dò và khai quật khảo cổ,

phân loại loại hình học, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật khảo cổ...

Phương pháp nghiên cứu so sánh khảo cổ học được sử dụng nhằm làm rõ

sự tương đồng và khác biệt giữa di tích bến Cống Cái và những di tích bến bãi

khác thuộc hệ thống thương cảng Vân Đôn. Từ đó làm rõ những đặc trưng

riêng, nổi bật của di tích bến Cống Cái trong lịch sử. Ngoài ra, sử dụng

phương pháp này để làm rõ xuất xứ, niên đại của các nhóm đồ gốm men đặc

biệt là nhóm gốm men Trung Quốc.

Vận dụng kết quả nghiên cứu của các khoa học có liên quan như: địa lý,

địa chất, ... để bổ sung vào phương pháp tiếp cận đánh giá tổng thể.

Ứng dụng phương pháp sử dụng hệ thống tọa độ GPS để xây dựng bản

đồ tiềm năng phân bố của những dấu tích thương mại ở khu vực này.

Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, toàn diện, cụ thể và biện chứng

trong luận giải các mối quan hệ giữa di tích, di vật và các hiện tượng tự nhiên,

xã hội có liên quan để minh chứng cho các nội dung khoa học cần giải quyết

của luận văn.

Thuật ngữ:

Luận văn còn bàn về một số thuật ngữ được sử dụng như thương cảng,

bến bãi/bến tàu/thuyền.

Thương cảng: là khu vực bờ cùng với vùng nước tiếp giáp (nước ngọt,

nước lợ, nước mặn) và tổ hợp những công trình, thiết bị được sử dụng cho

hoạt động giao thương buôn bán trong và ngoài nước. Nó phải có những điều

kiện và trang thiết bị cần thiết cho việc dừng đỗ tàu thuyền, sửa tàu, cung cấp

9

nhiên liệu, vật liệu, bốc dỡ hàng hóa. Quy mô của thương cảng được biểu thị

qua lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và nó là đầu mối quan trọng trong việc

vận chuyển lưu thông hàng hóa [33, tr.28]. Như vậy, Vân Đồn hoàn toàn

xứng đáng là một thương cảng quốc tế có số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu

lớn, đa dạng và là một hệ thống với nhiều bến bãi.

Bến bãi/bến tàu/thuyền: Là một bến trong hệ thống cảng/thương cảng.

Theo đó, về cơ bản, bến được hiểu là chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống

để lấy nước tắm giặt. Chỗ quy định để tàu/thuyền, dừng lại để xếp dỡ hàng

hóa [88, tr.97]. Địa điểm Cống Cái là một bến bãi điển hình với các di tích có

liên quan như giếng nước, bãi sành sứ dài 200m, các viên đá neo thuyền, dấu

tích kiến trúc hai bên bờ. Vào thời kỳ thương cảng Vân Đồn hoạt động, bến

Cống Cái là nơi neo đậu tàu/thuyền, bốc dỡ hàng hóa. Tuy nhiên, vào thời

Nguyễn trở về sau, địa điểm này đã đánh mất vai trò là bến bãi mà nó chỉ còn

tính chất là bến neo đậu tàu thuyền, không còn hoạt động buôn bán.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về mặt

tư liệu khoa học với hệ thống di tích, di vật ở di tích bến Cống Cái. Góp phần

làm rõ diện mạo của di tích này và bổ sung tư liệu mới cho việc nghiên cứu

thương cảng Vân Đồn.

Ý nghĩa lý luận: Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu về

di tích bến Cống Cái nói riêng, các di tích bến bãi khác thuộc thương cảng

Vân Đồn nói chung.

Phân tích, nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về quy mô, tính chất, chức

năng, thời gian sử dụng của di tích bến Cống Cái. Nêu bật các giá trị về lịch

sử, văn hóa của di tích bến Cống Cái trong hệ thống thương cảng Vân Đồn.

Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề lịch sử thương cảng

10

Vân Đồn.

Cung cấp cơ sở khoa học tin cậy phục vụ cho công tác quy hoạch, bảo

tồn và phát huy giá trị địa điểm bến Cống Cái trong hệ thống thương cảng

Vân Đồn.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục minh họa,

luận văn được bố cục thành 3 chương:

Chương 1. Tổng quan tư liệu về thương cảng Vân Đồn và di tích bến

Cống Cái

Chương 2. Di tích bến Cống Cái qua tư liệu khảo cổ học

Chương 3. Vị trí bến Cống Cái trong bối cảnh thương cảng Vân

11

Đồn.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TƯ LIỆU VỀ THƯƠNG CẢNG VÂN ĐỒN VÀ DI

TÍCH BẾN CỐNG CÁI

1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của thương cảng Vân Đồn và di

tích bến Cống Cái

Thương cảng Vân Đồn là một hệ thống có nhiều bến bãi, nằm về phía

đông bắc của Việt Nam, hiện nay các di tích của thương cảng này thuộc tỉnh

Quảng Ninh gồm các huyện Vân Đồn, Hoành Bồ, Móng Cái, Quảng Yên.

Theo Địa chí Quảng Ninh thì: “khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các

tỉnh miền Bắc Việt Nam vừa có nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Các

quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân Đồn ... có đặc trưng của khí hậu đại dương.

Theo số liệu quan trắc, mùa lạnh ở Quảng Ninh bắt đầu từ hạ tuần tháng 11

và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết

thúc vào đầu tháng 10. Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm

sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10. Giữa

hai mùa lạnh và mùa nóng, hai mùa khô và mùa mưa là hai thời kỳ chuyển

tiếp khí hậu, mỗi thời kỳ khoảng một tháng (tháng 4 và tháng 10). Dưới tác

động của sự biến đổi khí hậu hiện nay, thời tiết của khu vực đảo Quan Lạn

cũng có nhiều biến đổi” [83, tr.229]. Vào tháng 8 - 9 năm 2016, vẫn có những

cơn bão liên tiếp cùng với lượng mưa lớn. Vào tháng 4 năm 2017, thời tiết đã

nắng gắt nhưng rất khô hạn, mực nước ngầm trong các giếng xuống rất thấp.

Bến Cống Cái có vai trò quan trọng trong hệ thống các bến ở đảo Quan

Lạn nói riêng và cả hệ thống thương cảng Vân Đồn nói chung. Di tích bến

Cống Cái nằm ở phần trung tâm của đảo Quan Lạn, một hòn đảo thuộc tuyến

Vân Hải nằm ở rìa phía đông nam của huyện đảo Vân Đồn. Về quản lý hành

12

chính, hiện nay khu vực này thuộc thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn, huyện Vân

Đồn. Di tích nằm cách trung tâm xã Quan Lạn khoảng 5km về phía đông bắc,

các xã Minh Châu khoảng 5km về phía tây nam. Di tích này gồm thung lũng

Sơn Hào và ngã ba Cống Cái - Sông Mang.

Thung lũng Sơn Hào được vây quanh bởi một dãy núi cao ở phía tây

nam và một dãy đồi thấp ở phía đông bắc. Nhân dân địa phương gọi đây là

núi Vân, có thể đây là nguồn gốc tên gọi Vân Đồn ngày nay. Những cồn cát

trắng ở phía đông chạy dọc theo bờ biển theo hướng đông bắc - tây nam tạo

cho thung lũng khá kín, tránh được gió bão từ biển đông và khá rộng rãi, với

nhiều cánh ruộng kiểu bậc thang từ trên sườn các quả đồi thấp và ven chân

núi kéo xuống vùng trũng thấp giữa thung lũng.

Về phía bắc thung lũng Sơn Hào, những quả núi nhỏ có độ cao không

lớn lắm nằm bao lấy một vụng nước - vụng Cống Cái, mở vào dòng Cống Cái

ở phía tây. Quanh ba phía của vụng là những quả núi khá cao, nối với nhau

bằng các võng núi hoặc khe núi thấp, có thể leo qua khá dễ dàng, đặc biệt là

sườn đồi phía nam, nơi dẫn xuống thung lũng Sơn Hào. Cống Cái là một cửa

vụng được mở ra do đảo Quan Lạn và núi Man chạy song song ngăn một dải

nước tạo thành. Mỗi lần thủy triều lên xuống, nước biển cũng chảy vào hay

rút ra theo dải sông này như cái cống. “Người vùng đảo gọi những dải nước

hẹp là “cống”, như vậy cống là chỉ dòng sông nhỏ. Vì nhỏ, nên nước ra vào

với lưu tốc lớn hơn sông và lưu tốc nước lớn lại là một tiêu chí quan trọng để

gọi dải nước biển là sông hay là cống” [60, tr.133]. “Cái” là vụng biển kín

đáo, không sâu, khi thủy triều dâng cáo thuyền bè vừa và nhỏ có thể cập bờ.

Chính vì vụng ở ngay bên cống và cống lại chảy qua cái nên vụng này được

gọi là Cống Cái” [60, tr.143].

Vụng Cống Cái kín gió và không lớn lắm. Cửa vào rộng khoảng 100m

khi nước triều lên, nơi hẹp nhất khoảng 50m rồi lại mở rộng ở phía trong, có

13

diện tích mặt nước khoảng 20,000m2 khi triều lên. Hiện nay, do việc đắp

đường ngăn một phần vụng cho việc xây dựng lò đốt rác nên diện tích phần

còn lại chỉ khoảng hơn 1/2. Vụng thường cạn trơ đáy khi thủy triều xuống

thấp, nhưng lúc thủy triều lên cao đủ sâu cho thuyền bè hàng chục tấn vào neo

đậu. Đặc biệt là ở bờ phía bắc, nơi có các khúc bãi khá phẳng và rộng. Tình

trạng cạn kiệt khi triều rút ngày nay còn do một thời kì đây là bến vận chuyển

cát khai thác từ các cồn ven biển, tạo nên một lớp cát đọng phủ dầy dưới đáy.

Án ngữ phía bắc vụng Cống Cái là Đồi Đình, một quả đồi khá cao, có

sườn phía tây nam thoải xuôi xuống dòng Cống Cái. Đồi Đình cũng chắn

ngay phía đông nam khu vực ngã ba sông Mang mở vào Cống Cái, cách nơi

mở vào vụng Cống Cái khoảng 500m. Phía nam Vụng Cống Cái là một quả

đồi khác, thấp hơn Đồi Đình, nhưng có sườn phía bắc khá dốc với nhiều khối

đá lổn nhổn, không thuận lợi cho việc đi lại trên bộ cũng như dưới nước. Tuy

nhiên, một số khe nước chảy từ trên núi xuống được các khối đá lớn chặn lại,

tạo nên những điểm dừng chân nhỏ, được chứng thực bởi sự có mặt của một

số mảnh sành sứ phía trong vụng.

Ở khu vực rộng hơn, vụng Cống Cái là một trong những vụng nhỏ nằm

hai bên bờ Cống Cái, một dòng nước từ Sông Mang mở vào khu vực Cái

Làng. Vụng Cái Làng là một vụng biển rộng, được ngăn lại bởi đảo Quan Lạn

phía nam và núi Man nằm chặn giữa Sông Mang và Cống Cái ở phía bắc. Về

phía bắc, ở khoảng giữa vụng là làng Cái Làng, một làng cổ nổi tiếng trong hệ

thống các di tích của thương cảng cổ Vân Đồn.

Từ cửa Cống Cái mở về phía bắc là Sông Mang, đoạn này rộng tới

khoảng gần 900m. Đảo Con Quy nằm về phía bắc-đông bắc, cách Đồi Đình

khoảng hơn 900m. Nhưng những cồn cát và doi đất nổi lên về phía nam của

đảo kéo tới cách Đồi Đình khoảng 300m, tạo nên những bãi nông rộng rãi.

Giữa Đồi Đình và cụm đảo này là một dòng nước mở ra hướng biển Đông,

14

nhưng nay đã bị chặn lại bởi các cồn cát và đường nhựa. Từ trên sườn phía

bắc đồi đình, một khe nước hầu như chảy suốt quanh năm đã được cư dân địa

phương lợi dụng, thu vào một cái giếng nông, với một khối đá lớn bên ngoài,

có thể để neo thuyền.

Sông Mang, có hình cách cung, chảy theo hướng đông bắc-tây nam, đến

đoạn mở vào Cống Cái lại có hướng đông-tây, chếch nam khoảng 15. Chiều

rộng trung bình khoảng 7-800m, nơi rộng nhất tới trên 1000-1500m. Nơi sâu

nhất đo được ở cửa Đối tới trên 30m, trong dòng chính trung bình khoảng 10-

15m. Hai bên bờ có nhiều vụng, được gọi là “mang”, như Mang Thúng, Mang

Đò… Hiện nay, nhiều mang được xây bờ chặn lại để nuôi thủy sản. Hướng và

mức độ dòng chảy của sông Mang phụ thuộc vào thủy triều và thời gian trong

năm. Trong các cuộc lặn khảo sát năm 2014 ở đây, có thể thấy dòng nước

chảy khá mạnh khi triều rút, độ sâu ở khu vực lặn khảo sát trong Mang Thúng

và Cống Cái không quá 9m [98].

Về phía đông khu vực nghiên cứu, dọc theo đảo Quan Lạn là những cồn

cát cao ngăn những bãi cát trắng phau với những cánh ruộng và đồi núi bên

trong. Một số quả núi ăn lan ra biển, ngắt đoạn những cồn cát, tạo thành

những bãi tắm tuyệt đẹp, như bãi tắm Quan Lạn, bãi tắm Sơn Hào và bãi tắm

Minh Châu. Bên trong những cồn cát cao, nay phủ đầy phi lao và các loại cây

khác, được giữ làm rừng phòng hộ, có những gò đất pha cát xám nâu. Một số,

hiện là nơi cư trú hoặc được sử dụng làm đất nghĩa trang.

Ngoài thung lũng Sơn Hào và những cánh ruộng thấp xen giữa các cồn

cát, núi đá, đồi đất, phần lớn diện tích đồi núi, gò cát ở đây là rừng tạp tự

nhiên, một phần là rừng trồng cây công nghiệp, chủ yếu là cây keo và cây

thông. Trước đây, rừng có nhiều loại cây gỗ quý, nhưng nay ở khu vực Sơn

Hào rất ít thấy. Rừng tự nhiên ở đây có nhiều loại cây làm thuốc và gia vị có

15

giá trị, vẫn được dân địa phương thu hoạch, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tại

chỗ. Hải sản ở khu vực này, cũng như trong toàn huyện Vân Đồn nói chung

rất đa dạng và có nhiều loài quý, có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là sá sùng.

Một trong những bãi khai thác sá sùng lớn của Quan Lạn là khu vực Cống Cái

- Cái Làng.

1.2. Lịch sử hình thành thương cảng Vân Đồn và vị trí địa - lịch sử

qua sử liệu

Ngày xưa, việc đi lại với phương Bắc theo con đường thủy ven vịnh Bắc

Bộ. Thiên nhiên đã bố trí một loạt đảo chạy suốt ven biển tạo bức bình phong

kín đáo, ngăn dòng nước ở giữa khiến việc đi lại yên bình như trên đường

sông. Theo “Lĩnh Nam ngoại đáp” đời Tống ghi rõ: từ Khâm Châu thuyền đi

hướng Tây-Nam, một ngày đến châu Vĩnh An, theo trại Đại Bàn thuộc Ngọc

Sơn, tới Vĩnh Thái, Vạn Xuân liền tới Thăng Long, thuyền đi mất 5 ngày” [60,

tr.121]. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: năm 1006, “Duyên biên an phủ

sứ Thiệu Việp từng dâng vua Tống bản đồ đường thủy, bộ từ Ung Châu đến

Giao Châu với ý đồ muốn lấy nước ta”[29; tr.168]. Chứng tỏ con đường này

đã được người Tống nghiên cứu rất kỹ.

Đường đi thuận lợi không những dùng cho quân đội mà còn là con

đường buôn bán giữa nước ta với phương Bắc. Trong suốt những năm chống

Hán hóa, thuyền buôn các nước vẫn buôn bán với Việt Nam. Đến năm 792,

thuyền buôn qua lại nhiều đến nỗi, bọn quan lại nhà Đường cho rằng sự phồn

vinh của Đại Việt có hại cho nền ngoại thương ở Quảng Châu nên họ yêu cầu

vua Đức Tông ra lệnh cấm không cho tàu buôn các nước qua lại với Đại Việt

[5, tr.20]. Năm 1009, vua Lê Ngọa Triều đã cầu thông thương với Ung Châu

nhưng vua Tống chỉ cho “thông thương với Liêm Châu và trấn Như Hồng

16

thôi” [29, tr.169].

Qua kết quả khai quật 3 ngôi mộ tại khu mộ Đá Bạc (xã Minh Châu) cho

thấy người chết cùng gia quyến là người có quan chức cao. Niên đại thế kỷ II-

III với số lượng di vật phong phú và đa dạng đã cho thấy tầm quan trọng về

mặt kinh tế vùng hải đảo, có thể là vào thời Hán, người Trung Quốc đã thiết

lập một trị sở quản lý ở đâu đó xung quanh đảo Trà Bản hoặc Quan Lạn [60,

tr.120]. Với những tư liệu khảo cổ học được phát hiện tại di tích Đồng Chổi

và các ngôi mộ Hán tại Đá Bạc (xã Minh Châu), đảo Thẻ Vàng (xã Thắng

Lợi) cho phép ta tin rằng, khu vực Vân Đồn vào khoảng 2000 năm trước đã

có thể là trọng điểm kinh tế và nằm trên trục đường biển quốc tế.

Tên gọi Vân Đồn xuất hiện lần đầu tiên trong chính sử nước ta vào năm

1149 đời vua Lý Anh Tông, “lúc này thuyền buôn nước ngoài đến xin đỗ một

chỗ để buôn bán, vua cho ở, lập các trang trại ở cạnh bờ biển nên mới gọi là

trang Vân Đồn, thuộc đạo Hải Đông, để buôn bán với ba nước ở phía Nam

nước ta là Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La” [29, tr.302].

Từ đơn vị “trang” thời Lý, sau hai thế kỷ tồn tại, Vân Đồn phát triển

mạnh mẽ trở thành thương cảng lớn và quan trọng của Đại việt. Chính sử

nhiều lần chép về việc thuyền buôn từ nhiều nước trong khu vực đến Vân

Đồn xin buôn bán cư trú. Bời vậy, vào năm 1349, đời Trần Dụ Tông, Vân

Đồn đã được nâng lên thành “trấn” thuộc lộ Hải Đông, và cử quan lại, quân

đội đến đây để quản lý đời sống của cư dân và khách thương.

Thời thuộc Minh, Vân Đồn được đặt làm một huyện thuộc châu Tĩnh

An. Vào thời Lê sơ, Vân Đồn được lập làm châu thuộc phủ Hải Đông, đạo An

Bang. Sang thời Lê Trung Hưng và Nguyễn, Vân Đồn là một châu thuộc phủ

Hải Đông, trấn Yên Quảng. Ngày nay, Vân Đồn là một huyện của tỉnh Quảng

17

Ninh.

Về vị trí của trang Vân Đồn, đến ngày nay vẫn là một câu hỏi lớn vì các

ghi chép trong sử sách không rõ ràng khiến các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều

ý kiến trái ngược nhau. Tuy nhiên, có thể xác định, thương cảng Vân Đồn

được lập trên một hòn đảo trong vùng vịnh Bái Tử Long kín đáo.

Sách “Đại Việt địa dư toàn biên” của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu

chép: “Núi Vân Đồn ở phía đông bắc phủ Giao Châu, huyện Vân Đồn, ở

trong biển lớn. Hai núi đối nhau, một dòng nước chảy qua giữa, thuyền buôn

của các phiên quốc phần nhiều họp ở đấy” [78, tr.112]. Như vậy, sách này chỉ

rõ địa điểm núi Vân, sông Mang. Điều này hoàn toàn phù hợp với địa danh

hiện nay tại đảo Quan Lạn.

Ngoài ra có một số sách ghi chép về cửa biển Vân Đồn. Sách “Đại Nam

nhất thống chí” ghi: “ở phía đông của huyện bên ngoài có đảo Mai, cũng gọi

là cửa biển Mai”. Có thể là chỉ cửa Gót, cũng có thể là cửa vào giữa núi Gót

với đảo Phượng Hoàng, cũng có thể là chỉ cửa giữa đảo Phượng Hoàng và

Ngọc Vừng ngày nay. Sách “Đồng Khánh dư địa chí” ghi: “Đảo Vân Đồn ở

giữa biển, ngoài cửa biển Vân Đồn”, “cửa biển Vân Đồn ở địa phận xã Quan

Lạn, phía ngoài có đảo Mai, còn gọi là cửa biển Mai, bên phải có đảo Ngọc

Vừng, bên trái có đảo Cảnh Cước, phía trong có đảo Phượng Hoàng, phía

đông đảo là sông Trạo Lai, thủy triều ở cửa biển sâu 1 trượng 8 thước, mực

nước ban đêm sâu 1 trượng, rộng 140 trượng” [dẫn theo 5, tr.22].

Nhiều tài liệu xưa có ghi chép chung chung, như trong “An Nam chí

nguyên” của Cao Trùng Hưng chép: “Vân Đồn, tức Đồn Sơn, ở huyện Vân

Đồn, trong biển, hai dãy núi đối ngọn nhau, một dải nước chảy thông ở giữa,

lập các hành rào chắn bằng gỗ đặt làm cửa biển, nhà dân ở dọc hai bên bờ.

Thời Lý-Trần thuyền buôn các nước thường tụ tập nhiều ở đó” [87]. Theo Đỗ

18

Văn Ninh thì hai ngọn núi ở đây là núi của đảo Trà Bản và núi đảo Quan Lạn

(xã Quan Lạn), dải nước chảy thông ở giữa là sông Mang. Tuy nhiên, Trịnh

Cao Tưởng lại cho rằng hai ngọn núi là chỉ “đảo cống Đông và cống Tây (xã

Thắng Lợi) cách nhau khoảng 200m thì mới có thể lập rào chắn” [93, tr.66].

Ngoài ra, trong các đợt khảo sát, nghiên cứu tại một số địa điểm có liên

quan đến hệ thống thương cảng Vân Đồn ở thị xã Quảng Yên, huyện Hoành

Bồ, thành phố Móng Cái đã phát hiện một số bến bãi có dấu tích như đồ gốm

sứ, sành, lò nung gốm, dấu vết kiến trúc, thành lũy…có thể các địa điểm này

là điểm tập kết, trạm trung chuyển hàng hóa từ đất liền ra cảng và từ bên

ngoài vào Đại Việt [63, 64, 93].

1.3. Các cuộc khảo sát và khai quật tại di tích bến Cống Cái

Trong thời gian từ năm 2012 đến 2019, tại di tích bến Cống Cái đã tiến

hành 8 cuộc khảo sát và 1 cuộc khai quật. Các đợt khảo sát năm 2012, 2013,

2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019 đều được thực hiện bởi chương trình

Khảo cổ học Hàng hải Việt Nam (VMAP) phối hợp với Viện Khảo cổ học và

ngành Văn hóa tỉnh Quảng Ninh. Trong đó, năm 2015, nhóm nghiên cứu tiến

hành khoan mẫu ở vụng Cống Cái, nhưng đến nay chưa có kết quả. Đợt khai

quật tháng 8 năm 2016 được thực hiện bởi Viện Khảo cổ học và BQL các

công trình trọng điểm tỉnh Quảng Ninh.

1.3.1. Khảo sát năm 2012-2013

Năm 2012 là năm đầu tiên nhóm nghiên cứu quốc tế tiến hành khảo sát

chiến trận của Trần Khánh Dư và thương cảng Vân Đồn. Chương trình này

được tiếp tục vào năm 2013. Phương pháp chính sử dụng là dùng máy quyét

cạnh sóng âm (slide scan sonar) để khảo sát dọc theo sông Mang. Năm 2012,

nhóm chuyên gia đã khảo sát được khu vực dài khoảng 25km trên sông Mang,

phát hiện khoảng 55 điểm chướng ngại vật. Có thể 5-6 điểm trong số này là

19

tàu đắm cổ. Năm 2013, tiếp tục khảo sát từ Cửa Đối đến gần Hòn Dài. Khu

vực khảo sát dài khoảng 13km, rộng 0,5-1,5km. Tại các điểm nghi vấn tiến

hành kiểm tra bằng phương pháp lặn sử dụng bình khí nén, tuy nhiên chưa

phát hiện dấu tích tàu đắm ở đây.

Một nhóm khác, tiến hành khoan lấy mẫu phân tích bào tử phấn hoa ở

thôn Thái Hòa, xã Quan Lạn (Pl 2-h1,2) nhằm nghiên cứu môi trường cổ. Kết

quả phân tích cho thấy sự phản ảnh của hệ sinh thái môi trường đối với sự

dịch chuyển xã hội do chiến tranh hoặc bất ổn và biến đổi khí hậu. Một

nghiên cứu đa bào, bao gồm phấn hoa, mẫu than, mẫu thực vật, cho thấy thảm

thực vật bản địa rất phong phú và ở mức độ thấp, nông nghiệp lúa nước và sự

đốt cháy trong thời gian gió mùa tăng từ năm 1150 TCN đến 950 SCN. Các di

vật đồ gốm, công cụ bằng đá và các mảnh công cụ nhỏ được phát hiện tại di

tích Đồng Chổi, ở phía bắc của đảo Quan Lạn cho ta biết sự chiếm đóng của

cư dân cổ đã bắt đầu từ 3000 BP. Đến thời Hán, đã có sự trao đổi buôn bán và

ảnh hưởng bởi văn hóa Hán qua việc phát hiện các mộ gạch tại di tích Đá

Bạc. Điều này cho thấy sự hiện diện của nông nghiệp sớm là phù hợp.

Từ năm 950 đến 1450 SCN có sự thay đổi thảm thực vật ở vùng nhiệt

đới khá rõ rệt, đó là phấn hoa của các loài dương xỉ tăng mạnh, họ hòa thảo

giảm đáng kể, điều này cho thấy năng suất nông nghiệp giảm, sự đốt cháy hầu

như không còn bởi sự thiếu vắng của than củi. Thời kỳ này, khí hậu có sự

biến đổi mạnh, giai đoạn đầu là khí hậu khô sau đó tăng độ ẩm, đây là khí hậu

phù hợp với sự phát triển của các loại dương xỉ. Nguồn nước thiếu hụt vào

mùa thu và mùa đông làm cho nông nghiệp không thể canh tác 2 vụ/năm. Một

sự thay đổi khác là khí hậu khô cằn hơn, với những năm hạn hán kéo dài.

Không có nguồn nước ngọt, sản xuất lúa gạo đã giảm hoặc được thay thế

bằng thương mại. Mà minh chứng rõ nét nhất đó là sự ra đời của thương cảng

20

Vân Đồn vào thế kỷ XII, phát triển rực rỡ đến thế kỷ XVI.

Từ sau năm 1450, thương cảng đã dần mất vai trò chủ chốt của mình

trong nền kinh tế thương mại, thể hiện rõ qua số lượng hàng hóa đã giảm rõ

rệt từ thế kỷ 16. Trong thời gian này, khí hậu trở nên ẩm ướt hơn và lượng

mưa tăng hơn giai đoạn trước. Nghề nông nghiệp được phát triển mạnh hơn,

phản ánh qua số lượng phấn hoa, sự đốt cháy và dân số ngày càng tăng. Sự

suy giảm của thương cảng Vân Đồn tỷ lệ nghịch với sự phát triển của ngành

nông nghiệp và dân số đã gợi ý về sự trở lại của nền kinh tế tự cung tự cấp ở

vùng ven biển [97, tr.6-9]. Ngoài ra, quỹ đất dành cho nông nghiệp ở khu vực

đảo Quan Lạn là khá hạn chế nên cư dân đồng thời phải tham gia vào các hoạt

động kinh tế khác như ngoại thương, ngư nghiệp… để đảm bảo đời sống của

họ.

1.3.2. Khảo sát năm 2014

Tháng 5 năm 2014, trong quá trình làm đường để xây dựng lò đốt rác

thải ở khu vực Cống Cái đã làm phát lộ một số lớn di vật. Sau khi nhận được

thông tin từ nhân dân, BQL các di tích trọng điểm Quảng Ninh (CDTTĐ) đã

phối hợp với Viện Khảo cổ học tổ chức khảo sát nhanh tại khu vực này. Cuộc

khảo sát đã phát hiện nhiều mảnh sành sứ và gốm men, đặc biệt là các mảnh

sành và gốm có đặc điểm thời Trần.

Tháng 7 năm 2014, Viện Khảo cổ học phối hợp với BQL CDTTĐ tỉnh

Quảng Ninh và các chuyên gia khảo cổ học dưới nước quốc tế tiến hành khảo

sát trong khu vực này và thu thập nhiều di vật xuất lộ dọc theo con đường dẫn

ra Cống Cái của thôn Sơn Hào và rất nhiều mảnh sành, sứ, đất nung ven bờ

vụng. Các di vật xuất lộ bao gồm trang trí đất nung, mảnh sứ, sành, mảnh

gạch và ngói. Nghiên cứu mặt cắt ở vách phía tây của con đường trong khu

vực này, ký hiệu 14SH3, 14SH4, đoàn đã xác định được dấu tích tầng văn hóa

21

dày 30-40cm, hiện vật chủ yếu là đồ gốm men Việt Nam và đồ sành. Phần lớn

các di vật xuất lộ có thể xác định niên đại vào thời Trần, và các di vật thuộc

thời kỳ sớm hơn và muộn hơn [31, tr.15] (Pl 22, h3-4; pl 28).

Ngoài việc khảo sát trên bề mặt, một số hố kiểm tra được thực hiện. Trên

bờ vụng, trong phạm vi 1m2, ký hiệu 14CC.TS1, đã thu được 121 mảnh gồm

đồ gốm, sành, trong đó có 34 hiện vật thời Trần và 97 hiện vật thời Lê sơ.

Ngoài ra, mở 02 hố kiểm tra ở mép nước khi thủy triều xuống, khi thủy triều

lên bị ngập nước hoàn toàn. Mỗi hố có diện tích 1m2, ký hiệu 14CC.TS2,

14CC.TS3, sử dụng phương pháp lặn bình khí nén để tiến hành khai quật. Các

hố thăm dò này dừng lại ở độ sâu chừng 30-40cm so với bề mặt vụng. Hiện

vật thu được 20 mảnh đồ gốm men, sành mịn của loại hình bát, lon, bình/vò.

Số lượng không nhiều như khu vực dọc bờ Cống Cái [31, tr.14-15, 23] (Pl 1;

pl 10; pl22,h5-6).

1.3.3. Khảo sát và khai quật năm 2016-2017

Sau việc phát hiện di tích năm 2014, di tích bến Cống Cái được đánh giá

có vai trò quan trọng trong hệ thống thương cảng Vân Đồn, đặc biệt là trận

thủy chiến của Trần Khánh Dư năm 1288. Nhằm tìm hiểu tính chất, đặc điểm

và phạm vi phân bố của di tích và lịch sử khai thác vùng, tháng 2-3/2016,

tháng 4/2017, Viện Khảo cổ học đã phối hợp với BQL CDTTĐ và các chuyên

gia quốc tế tiến hành khảo sát và thăm dò trên diện rộng toàn bộ khu vực. Kết

quả đã phát lộ nhiều dấu tích liên quan đến bến cảng, dấu tích kiến trúc, giếng

nước và các di tích thuộc giai đoạn tiền sử. Đặc biệt là số lượng rất lớn hiện

vật thuộc nhiều loại chất liệu và nguồn gốc. Cùng trong năm đó, cuối tháng 8

đầu tháng 9, Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật di tích này.

Đầu năm 2016, đoàn nghiên cứu tiến hành kiểm tra 6 hố thăm dò trong

khu vực thung lũng Sơn Hào, kí hiệu 16SH.TS1-TS6, tổng diện tích 14m2

22

nhằm chuẩn bị cho việc khai quật. Kết quả đã xác định được lớp văn hóa chứa

nhiều di vật sành và gốm men thời Trần cùng với một số ít hiện vật Trung

Quốc cùng thời. Đặc biệt phát hiện được một số hố chôn cột nhưng chưa rõ

quy mô của nó. Tại khu vực bến cảng, gần Giếng Đình phát hiện được khúc

gỗ thân tàu được sử dụng để lót đường vào Giếng, khúc gỗ này nằm đè lên

đồng tiền “Nguyên Hựu Thông Bảo” và 6 khối đá lớn được xác định dùng neo

thuyền. Ngoài ra, ở gần đền Vân Sơn phát hiện một số mảnh gốm thô, niên

đại có thể thế kỷ I-II. Do vậy, “bến Cống Cái - làng cổ Sơn Hào được đánh

giá là khu vực lý tưởng cho việc nghiên cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với

lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng cổ Vân Đồn” [49, tr.1]. Các

dấu tích khảo cổ học mới phát hiện còn cho thấy lịch sử chiếm cư ở khu vực

này có thể còn bắt đầu từ thời xa xưa hơn (Pl 14; Pl 16; Pl 22, h7-8; Pl 29-

30).

Trên cơ sở này, tháng 8-9 năm 2016, Viện Khảo cổ học đã tiến hành đào

5 hố khai quật và 2 hố thăm dò, tổng diện tích 71m2. Các hố khai quật có ký

hiệu 16SH.H1, H2, H3, H4, H5 và 2 hố thăm dò, ký hiệu 16SH.TS7, TS8. Tại

khu vực bến bãi mở hố H1 (phía tây Giếng Đình), H2 (trên bờ vụng), H3 (trên

cấp nền 1 phía tây nam sườn Đồi Đình), TS7 (ven bờ vụng), khu vực thung

lũng Sơn Hào mở hố H4 (trên sườn đồi phía tây đường vào lò đốt rác), H5

(trên sườn đồi phía đông đường vào lò đốt rác), TS8 (trên sườn đồi) (Pl 12,

13, 15, 27-29, 32-35, 38-41). Do tác động của các cơn bão, hố 16SH.H3 phải

dừng lại và được tiếp tục nghiên cứu vào tháng 4/2017. Trong đợt này, có 3

hố thăm dò 17SH.TS1-TS3 được tiếp tục mở trong khu vực xuất lộ nền móng

kiến trúc ở hố 16SH.H3. Hai hố 17SH.TS4-TS5 được mở trên cấp nền 2 ở

phía tây nam sườn Đồi Đình. Tổng diện tích là 45m2 (Pl 25, 26, 36, 37).

Kết quả cho thấy, tầng văn hóa dày 30-70cm , tùy vào từng khu vực. Đã

23

phát hiện lớp văn hóa chứa dấu tích thời Lê bao trùm lên các hoạt động vào

thời Trần trong các hố H1, H3, H5. Tại hố H4 chỉ có mặt lớp văn hóa thời

Trần. Xuất lộ các dấu tích kiến trúc thời Trần, Lê Trung Hưng.

Hiện vật thu được qua ba cuộc khai quật và thăm dò năm 2016-2017 có

số lượng lớn, hơn 28.800 hiện vật với nhiều chất liệu như: gốm men Việt

Nam và Trung Quốc, gốm có áo, đồ sành mịn, đồ đất nung, đồ kim loại [57,

tr.655-656] (Pl 2-4).

1.3.4. Khảo sát năm 2018

Năm 2019, Viện Khảo cổ học phối hợp với SVHTT tỉnh Quảng Ninh và

nhóm chuyên gia quốc tế tiến hành khảo sát khu thương cảng Vân Đồn tại xã

Quan Lạn và Minh Châu.Từ kết quả nghiên cứu của các năm trước đã phát

hiện những di tích khảo cổ học quan trọng như bãi gốm sành ở ven vịnh,

giếng nước, đá neo thuyền….. Tuy nhiên di tích này đã bị ảnh hưởng nghiêm

trọng bởi hoạt động ủi đường và đốt rừng xảy ra vào khoảng cuối năm 2017.

Thậm trí những di tích quan trong như giếng Đình đã biến mất, các khối đá

được xác định là đá neo thuyền bị dịch chuyển khỏi vị trí nguyên gốc, bến

nước nơi phủ đày mảnh gốm cổ bị xáo trộn nghiêm trọng. Các dấu tích kiến

trúc phía tây nam, dưới chân đồi Đình đã bị xe ủi đường chạy qua làm biến

dạng [37, tr.831; 55] (Pl 30, h1-2).

1.3.5. Khảo sát năm 2019

Năm 2019, Viện Khảo cổ học phối hợp với SVHTT tỉnh Quảng Ninh và

nhóm chuyên gia quốc tế tiến hành ứng dụng các phương pháp khảo sát

không tác động bằng máy dò GPR, để đánh giá đặc điểm và sự phân bố của

các dấu tích khảo cổ học, phục vụ cho việc lựa chọn điểm khai quật và xây

dựng bản đồ di sản văn hóa tại khu vực Sơn Hào. Có 7 ô lưới (Grid) đã được

thiết lập, đều nằm trên khu gò cao của di tích, trong đó Grid 1-5 nằm về phía

24

đông lối vào lò đốt rác, Grid 6,7 nằm ở phía tây lối vào lò đốt rác (Pl 17).

Ở Grid 1-2, ngay trên bề mặt là các hiện tượng nằm tập trung, mật độ

dày đặc, có thể là hiện vật hoặc đá. Ở góc tây bắc của Grid 1, mở hố kiểm tra

19SH1, diện tích 1m2. Tại hố kiểm tra này, ở độ sâu -40cm, đã xuất lộ lớp đất

sinh thổ, là sét vàng lẫn sỏi. Tầng văn hóa chỉ dày 40cm, trong tầng văn hóa

phát hiện lác đác các mảnh sành, gốm men nhỏ.

Ở Grid 4, trên bề mặt xuất lộ các hiện tượng nằm tập trung, có thể là

hiện vật. Ở góc tây bắc của Grid 4, mở hố kiểm tra 19SH2, diện tích 1m2.

Trong hố kiểm tra này, từ độ sâu -10cm, xuất lộ lớp sành, gốm men ken dày

đặc với lớp đá cuội [56; 81].

1.4. Tiểu kết chương 1

Các thư tịch cổ trong và ngoài nước phần nào cho chúng ta thấy những

thông tin cơ bản về thương cảng Vân Đồn.Tuy nhiên, các ghi chép rất giản

lược và mơ hồ nên không tránh khỏi những các hiểu khác nhau của người đọc

nên có rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ.

Khu vực vụng Sơn Hào - bến Cống Cái có nhiều điều kiện tự nhiên

thuận lợi cho sự hình thành và phát triển thương cảng. Đây cũng là vùng đất

có diễn trình lịch sử phát triển lâu dài, liên tục từ hậu kỳ đồ đá mới cho đến

ngày nay. Trong quá trình phát triển của mình, bến Cống Cái một trong những

trung tâm trao đổi buôn bán giao thương, giao lưu văn hóa, có mối quan hệ

với nhiều vùng, khu vực trong và ngoài nước.

Tại di tích bến Cống Cái, qua 8 năm với 8 cuộc khảo sát và 1 cuộc khai

quật đã xác định được một phần quy mô, tầng văn hóa, đặc trưng di vật và

mối quan hệ của bến Cống Cái với thương cảng Vân Đồn. Tại đây đã xuất lộ

nhiều di tích quan trọng, là minh chứng cho vai trò bến cảng của di tích này.

Gồm có những vết tích của móng, cấp nền, bến bãi, giếng, đá neo thuyền, hố

25

chân cột. Tuy nhiên, vì diện tích khai quật còn hạn chế nên chưa thể phục

dựng lại kiến trúc của bến cảng xưa. Số lượng di vật thu được khá phong phú

bao gồm gốm men, gốm có áo, sành mịn, đồ đất nung, đồ kim loại, đồ đá.

Năm 1149, thương cảng Vân Đồn được chính thức thành lập, từ đó đến

giai đoạn suy tàn vào thế kỷ XVI, thương cảng Vân Đồn đã phát triển mạnh

mẻ, “đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động ngoại thương của Đại

Việt” [5, tr.67]. Quỹ đất hạn chế, thêm vào đó là khí hậu khô nóng trong giai

đoạn phát triển của thương cảng Vân Đồn, không phù hợp với nông nghiệp.

Nên có thể phần lớn dân cư chuyển sang tham gia vào các hoạt động thương

26

nghiệp.

CHƯƠNG 2

DI TÍCH BẾN CỐNG CÁI QUA TƯ LIỆU KHẢO CỔ HỌC

2.1. Đặc trưng di tích

2.1.1. Bến cảng

2.1.1.1. Bến bãi

Bến để neo đậu nằm ở phía tây nam, dưới chân Đồi Đình, bề mặt khá

rộng, khoảng 10-15m, bằng phẳng. Trên bề mặt có nhiều đá và cát nhưng kích

thước không lớn lắm. Xung quanh có 2 ngọn núi bao bọc, kín gió nên an toàn

khi neo đậu. Hiện nay, chúng ta có thể thấy bến dài khoảng 100m, từ cống

thoát nước về phía tây, là nơi tích tụ nhiều hiện vật gốm men và sành. Mật độ

hiện vật đậm đặc ở khoảng giữa vụng, từ giếng Đình đến sát cửa sông vào

Bến. Bến có hai khu vực khác nhau về vị trí và mật độ hiện vật xuất lộ. Khu

vực tập trung nhiều hiện vật là từ giếng Đình đến sát cửa sông vào Bến (khu

vực 1). Và khu vực cửa vụng, nơi ngã ba mở vào Cống Cái, ít hiện vật hơn

(khu vực 2). Giữa hai khu vực này có thời gian sử dụng, hiện vật và niên đại

khác nhau.

Ba hố khai quật và thăm dò đã được thực hiện ở bờ vụng. Hai hố thăm

dò trong phạm vi 1m2 và hố khai quật 16SH.H2 có diện tích 3m2, được mở sát

mép nước. Ở khu vực 1, đã mở hố 14CC.TS1, dưới chân giếng Đình, sưu tập

hiện vật ngay trên bề mặt, tổng số 121 hiện vật, trong đó 41 mảnh thời Trần

(chiếm 34%), 80 mảnh thời Lê (chiếm 66%) [31, tr.23]. Hố khai quật

16SH.H2 có tầng văn hóa dày 25cm. Ở khu vực 2, ở cửa sông vào bến Cống

Cái, mở hố thăm dò 16SH.TS7, tầng văn hóa dày 10cm. Sử dụng các hiện vật

ở LM để so sánh niên đại với hiện vật hố 14CC.TS1, tổng số 88 mảnh, trong

27

đó 83 mảnh thế kỷ XIII-XIV, chiếm 94%, 5 mảnh thế kỷ XV-XVI, chiếm 6%

[49, tr.118]. Như vậy, khu vực 2 được sử dụng trong thời gian ngắn, vào thế

kỷ XIII-XIV. Khu vực 1 có thời gian sử dụng dài hơn, vào thế kỷ XV-XVIII.

2.1.1.2. Giếng nước

Giếng Đình (còn có tên Giếng Rùa Vàng hoặc Giếng Tiền) nằm ở giữa

và ngay sát chân sườn Đồi Đình. Giếng có hình tròn, kè bằng đá, đường kính

2,8m, lòng giếng rộng 2m, sâu 1m, luôn luôn có nước ngọt. Ở phía đông của

giếng có đường bậc, được kê bằng đá. Trên lối vào này, năm 2016 đã phát

hiện được 1 đồng tiền thời Tống “Nguyên Hựu thông bảo”, nằm bên dưới

đoạn ván thuyền. Có thể đồng tiền và ván thuyền có liên quan đến thời gian

hình thành và sử dụng của giếng Đình. Thêm vào đó là các dấu tích kiến trúc

phát hiện ở hố 16SH.H1 cho thấy vào các thời Trần- Lê Trung hưng đã có sự

san lấp mặt bằng xung quanh Giếng để sử dụng.

Thuyền buôn tới đây, ngoài việc trao đổi hàng hóa, nghỉ chân còn phải

cần tiếp tế nước ngọt. Giếng Đình có thể là một trong những nguồn tiếp tế

nước ngọt quan trọng cho thuyền đi biển. Hiện nay, giếng này đã bị lấp do

quá trình khai thác gỗ (Pl 22-h7,8; Pl 30-h1,2).

Ngoài ra, ở phía bắc của Đồi Đình đã phát hiện một lạch nước, một

tường đá xếp để thu nước vào giếng cạn và một khối đá lớn có thể dùng để

neo thuyền. Xung quanh khu vực này xuất lộ khá nhiều mảnh sành. Hiện nay,

ngư dân vẫn dừng thuyền lấy nước ngọt ở đây

2.1.1.3. Đá neo thuyền

Tổng số 7 viên đá neo thuyền được phát hiện, tập trung ở khu vực 1,

trong đó có 1 khối đá ở khu vực phía bắc Đồi Đình (phía nam bến Con Quy).

Ở trong khu vực có khá nhiều viên đá nhỏ, nổi bật trên đó là các khối đá lớn,

28

có hình trụ hoặc chữ nhật, nằm dọc theo bến, sát mép nước, có thể chúng

được được dùng để neo đậu tàu/thuyền. Kích thước bề mặt chủ yếu 60-

120cm, cao 50-100cm (Pl 15-16; Pl 30-h3).

2.1.2. Đặc điểm tầng văn hóa

Ở khu vực bến Cống Cái, tầng văn hóa dày nhất trong khoảng từ 50-

70cm, xuất lộ trong các hố 16SH.H1, H3, 17SH.TS1,2,3. Ở đây đã phát hiện

được lớp văn hóa thời Lê sơ và Lê Trung Hưng bao trùm lên các dấu tích hoạt

động vào thời Trần. Lớp văn hóa thời Lê Trung Hưng chủ yếu là các dấu tích

kiến trúc. Sự xuất lộ của nhiều mẩu than và số lượng khá lớn di vật có mặt

trong khu vực phía đông hố 16SH.H3, cùng với sự có mặt của các di vật thời

Trần và sứ celadon Trung Quốc ở những lớp sâu nhất trong địa tầng các hố

thăm dò cho thấy có mặt khu vực sinh hoạt thời Trần ở đây. Sinh thổ ở khu

vực này là lớp đất đất đồi thuộc loại sét cát loang lổ màu xám xanh và xám

vàng, đôi chỗ là đá gốc nhiều cỡ (Pl 35).

Ở khu vực thung lũng Sơn Hào, tầng văn hóa dày 50-70cm ở hố

16SH.TS1, H5. Ngoài lớp xáo trộn bởi hoạt động của cư dân thời hiện đại, đã

phát hiện các lớp văn hóa chứa dấu tích hoạt động vào thời Lê bao trùm lên

các dấu tích hoạt động vào thời Trần. Tuy nhiên dấu tích lớp văn hóa thời Lê

Trung Hưng không rõ như ở khu vực bến bãi, nhưng lớp văn hóa thời Trần

với các dấu tích ở đây lại rất rõ. Có khả năng có dấu tích hoạt động vào thời

Lý ở những lớp đào sâu nhất của hố H5, căn cứ vào sự có mặt của gốm men

Trung Quốc (Pl 40). Phía tây lối vào lò đốt rác, tầng văn hóa chỉ dày khoảng

30-50cm ở hố 16SH.TS2,3,4,8 và hố 16SH.H4. Ở khu vực này, hầu như chỉ

thấy sự có mặt của lớp văn hóa thời Trần. Sinh thổ ở khu vực thung lũng Sơn

Hào là lớp đất sét đồi màu vàng lẫn các hạt sạn laterite màu đỏ, riêng ở phía

29

tây có đá gốc nhiều kích cỡ.

Trong hố H2 và TS7, tính chất của địa tầng không rõ ràng do ảnh hưởng

bởi thủy triều. Tuy nhiên, có thể nhận thấy sự tập trung khá thuần của hiện vật

thời Trần trong hố TS7.

Đặc biệt, ở hai hố 16SH.H3, H5, trong lớp văn hóa thời Trần chứa số

lượng lớn mảnh hiện vật với nhiều hiện vật vỡ lớn. Đặc biệt trong hố H5, phát

hiện tập trung số lượng lớn các mẩu di vật kim loại, loại hình này lác đác ở hố

H3.

2.1.3. Dấu tích kiến trúc

2.1.3.1. Dấu tích kiến trúc ở khu vực bến Cống Cái

Theo các tài liệu cổ và lời kể của người dân địa phương, thì ở Đồi Đình

có 9 cấp nền, nhưng vì cây cối rậm rạp nên hiện tại mới chỉ xác định được vị

trí và quy mô của hai cấp nền dưới cùng ở góc tây nam, gọi là cấp nền I và II.

Cấp nền I có dạng gần hình chữ nhật, chiều đông - tây 19m, bắc - nam 22m,

xuất lộ dấu tích kiến trúc bằng đá. Cấp nền II nằm về phía đông bắc cấp nền I,

ở giữa hai cấp nền có một khe nước ngọt được xếp bằng đá. Cấp nền II cũng

có dáng gần hình chữ nhật, nhưng ở giữa rộng, thu hẹp về hai bên, có chiều

dài 25m theo hướng tây bắc - đông nam, rộng 7 - 11m theo hướng đông bắc-

tây nam.

- Nền kiến trúc có móng kè đá xuất lộ ở khu vực cấp nền I

Từ kết quả khai quật và thăm dò năm 2016-2017, đã phát hiện móng

kiến trúc rộng 1,4-1,5m, được xây dựng bằng việc xếp các khối đá nhiều cỡ

thành hàng song song, chèn giữa và trên mặt bằng các loại đá nhiều cỡ và vô

số mảnh sành, gốm vỡ xuất lộ trong hố 16SH.H3, 17SH.TS1-TS3. Các viên

đá có kích thước và hình dạng không đều. Chúng được chèn thêm bằng các

mẩu đá nhỏ và các mảnh sành vụn. Móng đá có hướng bắc lệch đông 150. Nền

30

được nện bằng sét đồi lẫn các hạt laterit và số ít các mẩu gốm, sành, đá vụn.

Mặc dù mới chỉ bộc lộ được phần đường móng phía tây và tây nam, nền kiến

trúc này được xác định trong phạm vi diện tích khoảng 5m (bắc-nam) x 9m

(đông - tây). Bên trong nền kiến trúc, có mặt một số khu vực được chèn nhiều

đất đồi lẫn đá vụn và các khối đá kê cột có kích thước không đồng nhất. Mặc

dù chưa bộ lộ đầy đủ và rõ ràng, nhưng “có thể dự đoán các bước gian rộng

khoảng 3m (gian chính) và 2m (gian phụ)” [49; tr. 103]. Về phía đông bắc

kiến trúc, xuất lộ dấu tích các hố cột và hố than tro, có thể liên quan đến các

công trình phụ như bếp lửa, nhà vệ sinh. Tuy nhiên quy mô nhỏ và không có

mặt các dấu tích khác như xương động vật, tàn tích thức ăn. Dự đoán kiến

trúc này được tạo dựng thời Lê Trung Hưng, căn cứ vào các mảnh sành gốm

chèn vào kiến trúc (Pl 27-h5; Pl 36-37;).

Vào thời kỳ sớm hơn (thời Trần), có dấu vết kiến trúc sử dụng cột chôn

trong hố kê và chèn các mẩu đá nhỏ ở đầu phía đông cấp nền 1. Như vậy, cấp

nền I cũng được sử dụng vào thời Trần. Tuy nhiên, do diện tích khai quật còn

hạn chế, đặc điểm kiến trúc chưa được nhận diện rõ.

- Cấp nền II và móng kè đá ven chân phía nam Đồi Đình

Kết quả khảo sát và phát quang cấp nền II ven chân đồi phía tây nam Đồi

Đình cho thấy, những đường kè đá và mảnh sành, gốm đã được tạo dựng, tạo

nên những cấp nền có quy mô rộng hẹp khác nhau. Về phía tây nam, những

khối đá kè lớn ngăn cách cấp nền này với một khe nước lớn chảy từ trên núi

xuống. Một số khối đá bằng phẳng mở xuống khe nước có thể được sắp đặt có

chủ ý. Về phía đông nam, các khối đá nhỏ hơn tạo ra một cấp nền thấp, mở

xuống một khoảng bằng phẳng thấp xuôi dần xuống ven bờ vịnh. Địa tầng hai

hố kiểm tra 17SH.TS4 và 17SH.TS5 cho thấy cấp nền này có thể được san bạt

hai lần và cao hơn bề mặt nguyên thủy khoảng 55cm. Trên đó có thể có kiến

31

trúc dạng nhà có cột kê trên các khối đá tảng [49; tr.104].

- Dấu tích kiến trúc khu vực Giếng Đình

Các lớp đá kè tạo mặt phẳng trong khu vực gần Giếng Đình (hố

16SH.H1) có thể đã được tạo tác để phục vụ cho việc lấy nước và sử dụng

quanh khu vực Giếng. Các viên đá nhiều cỡ được xếp và chèn thêm các mẩu

đá nhỏ, mảnh sành, gốm để tạo mặt bằng hơi dốc. Các lớp kè phía trên chứa

các hiện vật thời Lê Trung Hưng, Nguyễn đã được tiếp tục và mở rộng, bên

dưới là lớp kè chứa hiện vật thời Trần. Cùng với một mảnh ván gỗ, có thể là

mảnh tàu, và một đồng tiền thời Tống phát hiện trong lớp đá kè đường dẫn lên

Giếng, có thể cho rằng giếng nước này đã được sử dụng chủ yếu từ thời Trần

cho đến gần đây.

Như vậy về cơ bản khu vực hố H1 thể hiện tính chất của các bậc cấp,

được tạo dựng khoảng 3 lần vào những thời kỳ khác nhau. Thời kỳ sớm nhất,

các khối đá được chèn vào lớp đá gốc và được rải lên bề mặt bằng đất lẫn

cuội, đá dăm nhỏ là chính. Căn cứ vào sự xuất lộ của hiện vật, có thể chúng

được tạo dựng vào thời Trần, thế kỷ XIII-XIV. Thời kỳ thứ hai, các bậc cấp

được thay đổi so với giai đoạn trước. Trong thành phần rải nền có nhiều hiện

vật hơn, nhưng đá cuội và đá dăm vẫn chiếm phần lớn. Các di vật xuất lộ cho

thấy các cấp nền này được tạo dựng vào thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII-

XVIII. Thời kỳ thứ 3, các cấp nền mở rộng nhất, trong khoảng 2m, ngoài vật

liệu đá, rất nhiều mảnh sành được sử dụng để tạo nền. Cấp nền này có thể

được tạo vào khoảng thế kỉ XVIII-XIX (Pl 27-h1-3; Pl 32, 33).

2.1.3.2. Dấu tích kiến trúc ở khu vực thung lũng Sơn Hào

- Móng kiến trúc chôn cột

Di tích này xuất lộ trong hố 16SH.H4, ở độ sâu -10cm, bề mặt xuất lộ có

hình gần tròn, được đầm bằng đá nhỏ, các mảnh gốm men, sành vỡ nhỏ. Phần

32

xuất lộ có đường kính 1,6 – 1,7m theo chiều bắc - nam, chiều đông tây chưa

xuất lộ rõ nhưng đo được 1,5m. Giữa móng kiến trúc là một hố đất lẫn cát

màu xám vàng có đường kính khoảng 45 - 50cm, thuần, gần như không có

hiện vật trên bề mặt. Sau khi cắt ¼ diện tích của kiến trúc cho thấy, ở độ sâu

10cm so với bề mặt móng kiến trúc xuất lộ nhiều mảnh sành và gốm sứ khác

nhau, chủ yếu là sành mịn, mảnh gốm men trắng và men ngọc thời Trần.

Xuống đến -20cm so với bề mặt móng kiến trúc, có nhiều đá dăm nhỏ, một số

mảnh đá hộc, mảnh sành và gốm sứ thời Trần, tuy nhiên mật độ hiện vật

không nhiều như lớp trên. Về cơ bản đất màu nâu sẫm, vẫn là lớp vật liệu đầm

bên trên sâu xuống. Từ -20 đến -30cm so với bề mặt móng kiến trúc, đất vẫn

màu nâu sẫm, có lẫn ít cát mịn và dăm đá nhỏ. Hố đất này có thể là hố chôn

cột.Từ tính chất của các di vật cho thấy có thể di tích thuộc thời Trần (Pl 28-

h1-3; Pl 38).

- Hố cột

Ở hố 16SH.TS1 xuất lộ 3 di tích hố cột, đường kính 10-30cm, cách nhau

2m, nằm trong tầng văn hóa thời Trần. Các hố này sâu khoảng 20-30cm, bên

trong chỉ có vài mảnh gốm men, sành có niên đại thời Trần. Đây có thể là dấu

tích của kiến trúc bằng gỗ. Nhưng vì diện tích khai quật nhỏ nên chưa xác

định được tính chất cũng như quy mộ của kiến trúc này (Pl 24-h1).

2.1.4. Di tích hố đất đen

Ở khu vực phía bắc bến Cống Cái có khá nhiều hố đất đen xuất lộ ở hố

17SH.TS2, TS3. Các di tích này không có hình dạng cố định, không có cấu

trúc nhất định. Các hố đất chứa bùn hoặc than tro, đá lổn nhổn. Hoặc bề mặt

có lẫn nhiều sỏi nhỏ lổn nhổn. Có thể chúng là các hố cột hay hố than tro có

liên quan đến di tích kiến trúc móng đá ở khu vực cấp nền 1. Các hố đất đen

33

này xuất lộ trong lớp văn hóa thời Lê Trung Hưng (Pl 36, 37).

Ở khu vực thung lũng Sơn Hào, các dấu tích bếp lửa và hố đất đen chứa

chủ yếu là các mảnh vỏ nhuyễn thể có mặt trong hố 16SH.TS1, 16SH.H5,

xuất lộ ở độ sâu -3-30cm, cho thấy chúng thuộc giai đoạn cư trú thời Lê

Trung Hưng, Nguyễn và thời kỳ gần đây. Đáng chú ý nhất là hố đen

16SH.H5.L6.F4 xuất lộ ở hố H5, ở độ sâu -60cm đến sinh thổ. Hố không có

hình dạng nhất định, rộng theo chiều đông - tây 2,5m, vẫn tiếp tục ăn sâu vào

vách bắc - nam. Đất có màu đen, ẩm ướt, thành phần khá nhiều sét dẻo, càng

xuống dưới tỷ lệ cát càng lớn. Bên trong chứa số lượng lớn hiện vật, 3177

mảnh, chiếm 20% trong tổng số hiện vật thu được ở hố H5, gồm nhiều loại

chất liệu như gốm men Việt Nam, Trung Quốc, gốm có áo, đồ kim loại [49;

Tr. 117]. Đáy hố đen F4 thể hiện không rõ, chỉ là một vùng rộng ăn lõm vào

sinh thổ, có thế dốc xuôi xuống góc tây nam. Có thể thấy các hiện vật được

dồn vào khu vực sườn đồi thấp, tạo nên F4, chứ không phải là một hố đào

nhân tạo. Di tích này được xác định vào thời Trần, thế kỷ XIII-XIV (Pl 39-

h2).

2.2. Đặc trưng di vật

Tổng số 29.174 hiện vật thu được qua các đợt khảo sát và khai quật, gồm

các loại hình đồ sành, đồ gốm men Trung Quốc và Việt Nam, đồ gốm có áo,

đồ đất nung (sành thô/gốm, vật liệu kiến trúc, chì lưới), đồ kim loại (Pl 1-4).

Bảng 2.1: Tổng hợp hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017

%

Tổng

Gốm có áo

Sành mịn

Ghè tròn

VL KT

Thiên thạch

Chì lưới

HV khác

Gốm men VN

Gốm men TQ

Sành thô /gốm

Đồ kim loại

1,1

KS 2014

17,7

0 506

13 149

KS 2016

77,2

KQ 2016

4

23

4

KS 2017

409 2234 148 2791

8 2 10

Tổng

100

%

206 105 2445 1309 3331 1208 3712 11430 160 757 4905 1393 4222 14838 51 4,7 14,5 16,8

2 59 42 103 9,5 0,35

9 336 132 6 483 1,7

1 3 19 1 24 0,04 0,08

1 335 2 5176 29 22504 0 1159 32 29174 100 0,1

0 15 342 16 373 1,3

34

Biểu đồ 2.1: Số lượng hiện vật xuất lộ tại bến Cống Cái năm 2014-2017

2.2.1. Đồ gốm men

2.2.1.1. Gốm men Việt Nam

- Về đặc điểm phân bố

Tổng số 4905 mảnh gốm men, chiếm 16,8 %, gồm các dòng men khác

nhau có xuất xứ Việt Nam được phát hiện qua các đợt khảo sát và khai quật

năm 2014-2017. Trong đợt kháo sát năm 2014, các hố 14CC.TS1, TS2, TS3

và điểm khảo sát ở trên vách tây đường vào nhà máy rác14SH3, 14SH4 đã

phát hiện được 105 hiện vật (trong đó 2 bát đủ dáng và 103 mảnh vỡ); các hố

thăm dò năm 2016 16SH.TS1-TS6 phát hiện được 1309 hiện vật (gồm 1 đĩa

đủ dáng và 1308 mảnh vỡ); các hố thăm dò năm 2017 17SH.TS1-5 phát hiện

được 160 mảnh); cuộc khai quật năm 2016 phát hiện được 3331 hiện vật

(gồm 23 bát, đĩa đủ dáng và 3308 mảnh), trong đó phân loại chi tiết 3085 hiện

vật (Pl 5).

Nhóm gốm men Việt Nam xuất lộ trong tất cả các hố thăm dò, khai quật,

35

trong tất cả các lớp đào. Ở mỗi khu vực có số lượng xuất lộ nhiều ít khác

nhau. Trong đó tập trung chủ yếu trong hố 16SH.H5, có 2585 mảnh, chiếm

54% trong tổng số hiện vật gốm men thu được qua các năm (Pl 4).

- Về dòng men và loại hình

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ các dòng gốm men Việt Nam trong đợt khai quật

tháng 8 năm 2016

Gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men nâu, gốm hoa nâu, gốm

hai màu men và gốm hoa lam. Trong đó tuyệt đại đa số là gốm men trắng,

chiếm 82,4% trong tổng số các dòng men gốm (năm 2016). Men trắng thường

có màu trắng ngả xám/ ngả vàng, men bong tróc nhiều, xương thô; còn các

mảnh men trắng ngả xanh, men bám chắc, xương mịn, đanh. Men ngọc có số

lượng không nhiều, thường phủ không đều, nhiều mảnh có hiện tượng đọng

men. Các mảnh men nâu thường phủ dày nhưng bị phai và sủi men. Các mảnh

gốm hoa nâu chỉ phủ men bên ngoài, nền men trắng thường mỏng, rạn, cạo

men vẽ hoa nâu mô típ hoa lá.

Loại hình chủ yếu của nhóm gốm men Việt Nam là bát, đĩa, âu, một số ít

bình/vò, thạp, chậu. Loại hình bát, đĩa, âu/liễn, chậu, bình/vò xuất hiện ở các

dòng men trắng, nâu, ngọc, hai màu men. Riêng loại hình thạp chỉ xuất lộ

36

trong dòng gốm hoa nâu (Hình 2.1).

a

b c d

- Về kỹ thuật tạo dáng

Hình 2.1: Một số loại hình chính của gốm men Việt Nam

a. Bát; b,c. Đĩa, d. Âu (Bv: Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

Các mảnh miệng chủ yếu của loại hình bát có miệng loe xiên thẳng, mép

trơn. Loại hình đĩa có miệng loe bẻ, bản miệng rộng. Các mảnh bình/vò/chậu

có miệng loe cong. Loại hình âu có kiểu miệng khum, đáy bằng.

Khác với gốm men Trung Quốc, gốm men Việt Nam có 3 kiểu đáy bằng,

đáy đặc, chân đế vành khăn. Riêng kiểu đáy đặc chỉ xuất hiện ở dòng men

trắng, phần lớn thuộc loại hình bát. Kiểu đáy bằng và chân đế vành khăn xuất

lộ ở phần lớn các dòng men. Kiểu đáy bằng xuất lộ ở loại hình âu/liễn, đĩa,

bình/vò, thạp, chậu. Chân đế vành khăn trên loại hình bát, đĩa là chủ yếu.

Các mảnh chân đế vành khăn có kỹ thuật tạo chân đế khác nhau. Phổ

biến là loại chân đế cắt phẳng, tạo mặt cắt hình chữ nhật, nhóm này thường

được sử dụng trong cả 3 kỹ thuật nung. Nhưng các mảnh chân đế có mặt cắt

hình thang ngược thường dùng trong kỹ thuật nung có bột chống dính và con

37

kê có mấu. Kiểu chân đế thấp, gần đặc, mép rộng và cắt nham nhở của nhóm

men trắng tương đồng với các mảnh phát hiện ở Thung Lấm (Tràng An, Ninh

Bình).

- Về kỹ thuật nung và niên đại

+ Niên đại thời Trần, TK XIII-XIV (Bảng 2.2, Hình 2.2):

Gồm các dòng men trắng, ngọc, nâu, hoa nâu, hai màu men. Có số lượng

và loại hình đa dạng nhất, gồm bát, đĩa, âu/liễn, bình/vò, thạp, chậu. Hầu hết

các mảnh trong nhóm gốm men trắng, trừ nhóm ve lòng chiếm tỉ lệ nhỏ, đều

thuộc thời Trần, thế kỷ XIII-XIV. Các dòng men nâu, hoa nâu, hai màu men

đều mang các đặc điểm men và kĩ thuật tạo tác thời Trần. Các hiện vật sử

dụng kỹ thuật nung đơn chiếc va đa chiếc. Các mảnh đáy đặc nung đơn chiếc

là chủ yếu. Kiểu đáy bằng được nung đơn chiếc đối với các loại hình có kích

thước lớn như âu lớn, thạp, bình/vò. Loại hình âu nhỏ, đĩa nhỏ sử dụng bột

chống dính hoặc con kê có mấu để xếp nung, cá biệt một số nung đơn chiếc.

Chân đế vành khăn sử dụng kỹ thuật chống dính khi nung như dùng bột

chống dính, con kê có mấu và các mảnh nung đơn chiếc (Pl 42-47).

Các hiện vật có vòng tròn chống dính trong lòng, rộng, nông, khá giống

kiểu cạo ve lòng nhưng độ rộng không đều, không quy chuẩn, chân đế mặt cắt

hình chữ nhật, khá cao, chủ yếu trong nhóm gốm men ngọc, có niên đại giữa

TK XIII, giai đoạn này số lượng hiện vật không nhiều. Tuy nhiên nhóm hiện

vật có kỹ thuật nung sử dụng bột chồng dính để lại dấu vết là các vòng tròn

chống dính trong lòng, một số mảnh còn bột chống dính ở vành đế, và chân

đế thấp, vành đế được cắt vát, được phát hiện nhiều ở hố H5, từ L5b – L8.F4

có niên đại cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV, số lượng khá nhiều 151 mảnh

của dòng men trắng, ngọc, nâu (đợt khai quật tháng 8 năm 2016) (Pl 43, 44;

38

Pl 45-h1,2; Pl 46-h4). Sang TK XIV, kỹ thuật sử dụng con kê có mấu trở nên

phổ biến, con kê có kích thước nhỏ, loại 3-5 mấu, chân đế được cắt gọt cẩn

thận, tạo mặt cắt hình thang (Pl 45-h3).

Các trang trí hoa văn ở bên trong hoặc bên ngoài. Ở nhóm men trắng,

motip hoa văn rất đa dạng, bên trong chủ yếu in nổi, in chìm hoặc dùng que

tạo hoa văn dưới men tạo motip hoa lá, sóng nước, đường gờ…bên ngoài

thường cạo thân dọc tạo cánh hoa cúc nhỏ, hoặc cắt thân tạo cánh sen, kiểu

tạo hoa văn này tương tự kỹ thuật tạo hoa văn của các hiện vật trên dòng men

ngọc nhạt Trung Quốc.

Với nhóm gốm men ngọc, đặc biệt có nhiều mảnh hoa văn cho thấy bị

vỡ ra từ một hiện vật, được trang trí bằng khuôn in trong, có kỹ thuật tương tự

gốm lò Yaozhou [50, tr.681]. Tuy nhiên các mảnh vỡ nhỏ có xương mỏng,

chất lượng không cao, nét in khuôn không sâu, thanh mảnh. Đây có thể là loại

gốm theo truyền thống Yaozhou nhưng là sản phẩm được sản xuất ở Việt

Nam, có thể ở ngay vùng Quảng Ninh. Chất lượng xương và men không cao

như các sản phẩm chính gốc.

Bảng 2.2: Niên đại nhóm gốm men Việt Nam trong đợt khai quật tháng 8/2016

Khung niên đại

Tổng

Men ngọc

Men nâu

Gốm hoa nâu

Hai màu men

Gốm hoa lam

Men trắng

TK XIII-XIV

69

66

10

4

1117

1266

8

115

TK XV-XVI

123

14

164

TK XVII-XVIII

178

94

TK XIX-XX

94

1303

KXĐ

1303*

2442

69

66

10

4

373

2964

Tổng

 Ghi chú: Các mảnh thân và miệng vỡ nhỏ, bị tác động bởi nước mặn làm biến dạng

màu men và bị bào mòn nên không phân loại được

39

a b

c

d e

f g

Hình 2.2: Diễn tiến niên đại gốm men Việt Nam thời Trần (Ả: Lê Thị Liên)

a. Giữa TK XIII; b, c. Cuối thế kỉ XIII – đầu thế kỷ XIV; d,e. Đầu thế kỷ XIV; f, g. Cuối thế kỷ XIV

Nhìn chung, gốm Việt Nam có mặt trong di tích chủ yếu là những sản

phẩm thời Trần, đặc biệt là trong hố 16TS1, TS3, TS4, các lớp dưới hố

16SH.H3, H5. Có sự tập trung lớn của các mảnh có kỹ thuật xếp nung và cắt

chân đế được Noriko xác định vào giai đoạn cuối thế kỉ XIII – đầu thế kỷ XIV

40

[73, tr.469].

+ Niên đại thời Lê, TK XVI-XVIII

Dòng gốm hoa lam và một số mảnh gốm men trắng dùng kỹ thuật xếp

nung ve lòng có niên đại muộn hơn các kỹ thuật tạo tác khác, khoảng thế kỷ

XV-XIV và XVII-XVIII, xuất lộ với số lượng nhỏ, chủ yếu có mặt trong các

lớp trên, khu vực xáo trộn (Bảng 2.2). Loại hình chủ yếu là bát, đĩa. Sử dụng

kỹ thuật nung đa chiếc bằng cách cạo thân tạo ve lòng và số ít các mảnh nung

đơn chiếc.

Các mảnh có chân đế vành khăn, kiểu đế thụt, mép cắt phẳng thường đi

kèm với kỹ thuật nung ve lòng, chân đế thấp. Vẽ hoa lam các motip hoa lá và

đường chỉ lam, có niên đại TK XV-XVIII (Pl 48-h1).

Các mảnh chân đế được cạo khá tròn, thấp, xương xốp, màu nâu, vàng

sẫm lẫn nhiều sạn. Hoa văn trang trí đơn điệu, vẽ các chấm tròn màu nâu, có

niên đại TK XVII-XVIII (Pl 48-h2,3; Pl 49-h1).

+ Niên đại thời Nguyễn, TK XIX-XX

Số lượng các mảnh không nhiều, xuất lộ ở các lớp trên và trong các di

tích hố đất đen bị xáo trộn của hố khai quật. Các mảnh gốm hoa lam có men

trắng, bóng, xương khá đanh, mịn, chân đế mỏng, cao. Hoa văn vẽ sắc, môtip

chủ yếu là hoa lá (Pl 49-h2).

2.2.1.2. Gốm men Trung Quốc

Tổng số 1393 hiện vật gốm men Trung Quốc, thu thập được qua các năm

2014-2017, chiếm 4,7% trong tổng số hiện vật. Năm 2014 phát hiện được 13

mảnh ở trên vách tây đường vào nhà máy rác; đợt khảo sát năm 2016 phát

hiện được 149 mảnh trong các hố 16SH.TS1, TS3; đợt khảo sát năm 2017

41

phát hiện được 23 mảnh, xuất lộ lác đác ở các hố 17TS1, TS2, TS3. Đợt khai

quật năm 2016 có 1208 mảnh (trong đó có 1 bát sưu tầm trong nhà dân) xuất

lộ chủ yếu ở các lớp từ L5b của hố 16SH.H5và (Pl 6).

Có bốn dòng men chính là gốm men trắng mang đặc trưng của gốm lò

Định hoặc truyền thống gốm lò Định, men trắng, bóng, bám chắc, xương

đanh. Gốm men ngọc đa dạng về màu men, niên đại và xuất xứ. Gốm men

nâu cũng có 3 màu men khác nhau, cho thấy có sự khác nhau về niên đại và

nguồn gốc. Gốm hoa lam, số lượng ít, vẽ hoa lam trên nền men trắng, bóng

(Biểu đồ 2.3; Bảng 2.3).

Vì các đợt khảo sát năm 2014, 2016, 2017 không phân loại theo dòng

men nên chỉ dùng kết quả của đợt khai quật năm 2016.

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các dòng gốm men Trung Quốc trong đợt khai quật tháng 8/2016

- Về gốm men trắng (Pl 50, 51)

Tổng số 379 mảnh (chiếm 31,5% trong tổng số gốm men Trung Quốc),

42

về cơ bản có 2 nhóm: Nhóm 1 là loại men trắng tinh hoặc hơi ánh xanh,

xương đanh, mịn, gõ có tiếng kêu lanh lảnh; Nhóm 2 là loại men màu trắng

ngà hoặc xanh nhạt, rạn.

Chúng có đặc điểm chung về loại hình, kỹ thuật tạo dáng và kỹ thuật

nung: Kiểu miệng loe xiên, mép cạo chống dính trong kỹ thuật nung úp miệng

xuất hiện ở dòng sứ men trắng cả ở Trung Quốc và Việt Nam, của loại hình

bát/đĩa là chủ yếu. Các đường cạo men ở gốm men Trung Quốc sắc sảo và

vuông vắn hơn. Các mảnh đáy bằng của loại hình âu/hộp nhỏ thể hiện kỹ

thuật nung đơn chiếc. Chân đế vành khăn có kiểu đế rất thấp, được chế tác

bằng khuôn. Đây là điểm đặc trưng của đồ sứ men trắng Trung Quốc trong

đợt khai quật này, dựa vào các hiện vật còn dáng có thể xác định kiểu chân đế

này kết hợp với kiểu miệng loe xiên, mép cạo chống dính thuộc loại hình đĩa.

Dựa vào chất liệu, màu men và kỹ thuật chế tác, xác định đây là nhóm

gốm men cao cấp. Nhóm 1 có thể thuộc lò Định và có chất lượng của loại

gốm Bạch Định. Nhóm 2 vẫn thuộc truyền thống gốm lò Định nhưng chưa rõ

được sản xuất cùng một khu vực hay ở nơi khác. Mặc dù gốm lò Định được

sản xuất trong một thời gian dài từ thế kỉ VIII-XIV, với thế kỉ XI là thời kì

phát triển nhất. Trong bối cảnh di tích Sơn Hào, có thể định khung niên đại

cho nhóm này vào thế kỷ XI-XII. Sự có mặt với số lượng khá lớn của dòng

gốm cao cấp này ở các hố 16SH.H4, H5 và TS8 và sự có mặt của các hiện vật

vỡ lớn, còn nhận được dáng ở những lớp sâu nhất của hố cho thấy có khả

năng “đã có khu vực cư trú của tầng lớp trên hoặc thương nhân giàu có trong

khu vực này vào thời kỳ Lý- Trần” [57, tr.682].

- Về gốm men ngọc

Các dòng men ngọc chiếm số lượng lớn nhất trong số các dòng gốm sứ

Trung Quốc được phát hiện, chiếm 56%. Tuy nhiên, tính khác biệt về chất

43

liệu xương, các tạo chân đế, các dấu vết thể hiện kỹ thuật xếp nung, kiểu con

kê, màu và độ bóng của men, cho thấy chúng là sản phẩm của nhiều địa

phương khác nhau và được sản xuất vào nhiều giai đoạn khác nhau.

Về loại hình và kỹ thuật chế tác: các kiểu miệng của nhóm men ngọc

không đa dạng, chủ yếu là miệng loe trơn và loe bẻ. Kiểu miệng có các đường

cạo men chống dính rất ít. Không có kiểu đáy đặc, đáy bằng cũng khá ít.

Những mảnh đáy bằng chủ yếu thuộc loại hình âu, lọ, sử dụng kỹ thuật nung

đơn chiếc là chính. Chân đế vành khăn có số lượng nhiều hơn đáy đặc, có hai

kỹ thuật xếp nung đơn chiếc và đa chiếc. Đối với kỹ thuật nung đơn chiếc có

kiểu chân đế khác biệt là loại chân đế gần đặc, cắt nham nhở, lồi lõm, ít cạo

sửa, chỉ có 3 mảnh, nhiều nhất là kiểu chân đế được tu chỉnh, có mặt cắt hình

chữ nhật. Đối với kỹ thuật nung đa chiếc, sử dụng bột chống dính, con kê có

mấu và ve lòng trong đó ve lòng có số lượng ít nhất, đường ve lòng ở nhóm

men này nông, hẹp, chân đế được cắt gọt cẩn thận, phẳng, tạo mặt cắt hình

chữ nhật và hình thang. Không có kiểu chân đế in khuôn như nhóm men trắng

[57, tr.683].

Hoa văn trang trí: chủ yếu là khắc thân tạo cánh sen, đặc biệt là nhóm

men ngọc nhạt (nhóm 4), đây là điểm đặc trưng của nhóm này. Ngoài ra có

một số kỹ thuật tạo hoa văn như vẽ dưới men, in khuôn và dùng que nhiều

răng tạo sóng nước.

Niên đại: Sự khác biệt về màu men, chất liệu, kỹ thuật tạo tác đã khiến

cho nhóm men ngọc có sự đa dạng về nguồn gốc và niên đại. Có 6 nhóm men

ngọc:

Nhóm 1 là dòng men ngọc xám hoặc xanh nhạt (3 hiện vật). Nhóm này

có số lượng rất ít, có thể là sản phẩm của khu vực phía nam Trung Quốc hoặc

44

có thể được sản xuất tại địa phương. Tuy nhiên chưa xác định được thuộc lò

nào. Nhóm 1 có thể có niên đại sớm hơn so với các nhóm khác, thế kỉ IX-X

(Pl 52-h1,2).

Nhóm 2 là dòng men ngọc xám xanh hoặc xám vàng/nâu (45 hiện vật).

Chỉ có mặt ở hố H5, tập trung nhất trong lớp 5b và lớp 6 và một vài mảnh

trong hố TS8. Nhóm 3 là dòng men ngọc xám, mỏng, không bóng (53 hiện

vật). Các mảnh của hai nhóm này thuộc các lò khác nhau của truyền thống

gốm men ngọc Nam Tống, tiếp tục phát triển đến thời Nguyên, niên đại thế kỉ

XII-XIII (Pl 52-h3).

Nhóm 4 là dòng men ngọc nhạt hoặc màu xanh ghi nhạt men bóng, khá

mỏng, bám chắc (364 hiện vật), có mặt tập trung nhất trong hố H5 và có mặt

rải rác trong các hố H3, H4, TS8. Dựa vào việc so sánh màu men, kiểu miệng

và kỹ thuật tạo hoa văn của nhóm 4 với hiện vật được tìm thấy trong tàu chiến

quân Mông - Nguyên bị đắm tại vùng biển Takashima, tỉnh Nagasaki, Nhật

Bản, có thể nhận định nhóm này có niên đại khoảng thế kỉ XIII [3, tr.69] (Pl

53-h1,2,3).

Nhóm 5 là dòng men dày, xanh bóng (126 hiện vật). Nhóm này có

xương đanh chắc, mịn, men phủ dày; Nhóm 6 là dòng men dày, xanh sẫm (85

hiện vật). Nhóm này có xương và độ dày men tương tự nhóm 5 nhưng độ

bóng không bằng. Các nhóm 5 và nhóm 6 có mặt ở hầu hết các hố thăm dò và

khai quật, tập trung nhất trong hố H5, lớp 5a,b.Các mảnh của hai nhóm này có

kỹ thuật tạo tác giống nhau, đều là các mảnh men ngọc cao cấp, men dày,

xương đanh. Nhóm 5 có thể thuộc dòng sứ celadon Long Tuyền, niên đại thế

kỉ XIII-XIV. Nhóm 6 vẫn thuộc dòng sứ celadon Long Tuyền, nhưng có thể

khác về nơi sản xuất và niên đại, có thể nằm trong khung niên đại này hoặc

45

muộn hơn (Pl 53-h4).

Nhìn chung nhóm gốm men ngọc Trung Quốc có nguồn gốc từ các lò

Định, Long Tuyền, niên đại sản xuất khá dài, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIV

hoặc muộn hơn.

- Về gốm men nâu

Dòng gốm này có mặt không nhiều và chỉ phát hiện được trong các hố

H4, H5 và TS8. Tuy nhiên, những khác biệt khá lớn về màu sắc, độ bám và

độ bóng của men, dấu vết kỹ thuật xếp nung, loại hình và kỹ thuật tạo dáng,

cho thấy chúng thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau.

Nhóm 1: men nâu vàng, có số lượng rất ít trong hố H5. Đáng chú ý, một

hiện vật gần nguyên có mặt trong lớp 8. Những mảnh tương tự cũng đã được

phát hiện trong lớp sâu nhất của hố kiểm tra 16SH.TS1. Chưa rõ nguồn gốc

của dòng gốm này. Nhóm men này có thể có niên đại sớm nhất, thế kỷ IX-X

(Pl 54-h1).

Nhóm 2: men nâu đen hoặc nâu hồng sẫm, có kiểu con kê hình tròn, to,

thô tương tự loại hình gốm ở lò Nghiêm Quan huyện Hưng An và lò Nam Lập

Xung, huyện Liễu Giang và nhiều lò khác thuộc tỉnh Quảng Tây, niên đại thế

kỷ XI-XII [103, tr.358-359] (Pl 54-h2,3).

Nhóm 3: men nâu đen đáy hẹp, bát dáng chiết yêu (Pl 55), cũng có loại

hình tương tự như các sản phẩm được phát hiện ở các lò thuộc tỉnh Quảng

Tây, đồng thời rất gần gũi với loại hình bát uống rượu gốm men nâu dòng

gốm Kiến (Jian ware) của vùng Phúc Kiến, sản xuất trong khoảng thế kỉ X-

XIII. Loại gốm này được cho là thuộc loại hình bình dân. Tuy nhiên, những

sản phẩm cao cấp cũng được sản xuất và xuất khẩu, với những màu men pha

trộn đặc sắc, đặc biệt là màu men pha xanh đen kiểu “lông thỏ”, rất được

người Nhật ưa chuộng trong trà đạo [105, pg.188, Pl. 6.1; 103, pg.114, Pl.109,

46

111]. Các di vật phát hiện ở Sơn Hào phần lớn có thể thuộc loại bình dân, với

các kiểu chân đế cắt thô phác, kiểu vành khăn chưa phát triển. Tuy nhiên một

số mảnh có men bóng màu xanh pha đen kiểu “dao biến dầu” rất đáng chú ý.

Như vậy, có thể thấy nhóm gốm men nâu đen (nhóm 3) ở Sơn Hào chia sẻ

những đặc điểm chung của các lò nam Trung Quốc thời kì Nam Tống. Tuy

nhiên, như GS.Yamamoto Tatsuro nhận xét cho nhiều loại sản phẩm gốm

khác phát hiện trước đây ở khu vực Minh Châu - Quan Lạn [5:114-122],

nhóm gốm này thuộc sản phẩm của lò nào hay được sản xuất tại địa phương

là một câu hỏi cần tiếp tục tìm câu trả lời. “Khung niên đại cho nhóm này tạm

xác định khoảng thế kỷ XII-XIII” [57, tr.684].

- Về gốm hoa lam

Tổng số 11 hiện vật gồm 2 đĩa đủ dáng, 9 mảnh vỡ của loại hình bát/đĩa.

Số lượng rất ít, có mặt trong hô H5, từ L2-L4 và 2 mảnh rơi rớt xuống lớp 5.

Có 1 đĩa nung đơn chiếc, dưới đáy vẽ đường tròn gồm 2 đường chỉ lam đồng

tâm, đk 5cm, bên trong viết chữ đá thảo “Lương” hoặc “Dân”. Lòng đĩa vẽ

hoa lá. Đĩa còn lại cạo thân tạo ve lòng. Niên đại của đĩa này có thể xác định

vào thế kỉ XV-XVI (Pl 56-h1,2).

Mảnh miệng đĩa loe bẻ, bản miệng rộng 2,6cm, mép vuốt mỏng, trên

mảnh miệng vẽ bông hoa. Miệng bát loe xiên, mép vuốt mỏng, bên ngoài vẽ

cánh hoa. Các mảnh chân đế vành khăn, nung đơn chiếc, gồm các kiểu đế

thụt, nhưng các đặc điểm khác với nhóm đế thụt của Việt Nam, men phủ kín

hiện vật, mép đế rất hẹp. Mặt cắt hình chữ nhật hoặc V lệch.

Các dòng gốm men Trung Quốc xuất lộ trong đợt khai quật này có số

lượng lớn nhất từ trước đến nay, bao gồm nhiều dòng gốm có chất lượng cao

như gốm trắng lò Định, gốm men ngọc Long Tuyền. Các dòng gốm Nam

Trung Quốc, thời kì Nam Tống có số lượng lớn. Khung niên đại phổ biến

47

trong khoảng thế kỉ XI-XIV, tập trung nhất vào thế kỉ XII-XIII. Vào thời kì

muộn hơn, có mặt rất ít. “Nhìn chung, sau thế kỷ XV-XVI, gốm men Trung

Quốc ít xuất hiện ở khu vực này” [57, tr.684].

Bảng 2.3: Niên đại nhóm gốm men Trung Quốc đợt khai quật tháng 8/2016

Khung niên đại

Men nâu

KXĐ

Tổng

Men trắng

Men ngọc

Gốm hoa lam

3

6

TK IX-X

9

379

6

TK XI-XII

385

98

127

TK XII-XIII

225

575

TK XIII-XIV

575

4

TK XV-XVI

4

7

TK XVII-XVIII

7

KXĐ

3

3

379

676

139

11

Tổng

3

1208

2.2.2. Đồ gốm có áo (Pl 57, 58)

Đây là loại hình gốm đặc biệt, phát hiện được với số lượng rất lớn, chỉ

sau loại sành mịn (4222 mảnh trong các hố thăm dò và khai quật). Loại hình

gốm này bắt đầu được nhận diện rõ ràng trong cuộc khảo sát 2016, ở hố

16SH.TS1, TS3, TS4. Sự có mặt với mật độ lớn, nhiều hiện vật nguyên dạng

tập trung chủ yếu trong hố 16SH.H5, đã khiến chúng được xếp thành một

dòng riêng. Chúng chỉ phân bố ở khu vực thung lũng Sơn Hào, trong lớp văn

hóa thời Trần là chủ yếu.

Đặc điểm chung của loại gốm này là có xương rất thô ráp, pha nhiều cát

sạn, độ nung thấp hơn sành, nhưng lại cứng hơn gốm men, khiến cho xương

gốm khô cứng. Xương thường thô ráp, có lẫn cát, sỏi nhỏ. Phần lớn các đồ vật

được phủ một lớp áo hoặc men mỏng, ở bên trong hoặc bên ngoài, hoặc cả

48

trong và ngoài, tùy chức năng của từng loại hình.

Về mặt loại hình, chủ yếu là các vò có quai ngang, chậu miệng rộng

thành xiên, đáy bằng và bát cùng kiểu dáng của chậu nhưng kích thước nhỏ

hơn. Đặc biệt xuất lộ loại bát có các vệt chải ngang dọc rất sâu bằng que

nhiều răng trong lòng. Loại hình tương tự được phát hiện ở hoàng thành

Thăng Long và được gọi là bát nghiền thuốc.

Mật độ tập trung cao trong khu vực hố đen ở hố H5 cho thấy chúng được

sử dụng trong một thời gian ngắn. Căn cứ vào sự phân bố trong các hố, lớp

đào và mối liên hệ với các loại hình hiện vật khác, có thể cho rằng nhóm hiện

vật có niên đại thời Trần. Tuy nhiên, hiện nay loại hình chất liệu này ít thấy

nên cần co sự so sánh và nghiên cứu sâu, rộng hơn.

2.2.3. Đồ sành mịn

Loại di vật này có số lượng lớn nhất, 14.838 mảnh, chiếm 51% trong

tổng số hiện vật thu được từ năm 2014-2017. Xuất lộ trong tất cả các lớp của

các hố thăm dò và khai quật. Sành mịn có bề mặt nhẵn, màu nâu xám, xám

xanh, xương nâu tím hoặc tím sẫm, xương được lọc kỹ, nhiệt độ nung cao.

Về loại hình: chủ yếu thuộc loại hình lon vại cỡ vừa và nhỏ (có đường

kính miệng nhỏ hơn hoặc trong khoảng 20-30cm). Loại hình bình/hũ/lọ có số

lượng không nhiều. Ngoài ra có một số mảnh thuộc loại hình chậu, có miệng

loe cong; loại hình vung, miệng cắt vát nhẹ. Ngoài ra có 121 mảnh ghè tròn,

chưa rõ chức năng chính, có thể được dùng để làm đồ chơi (Pl 59-63).

Về tạo dáng và niên đại (Bảng 2.4; Hình 2.3): Các mảnh miệng lon/vại

đứng, mép cắt phẳng hoặc hơi vát của nhóm lon thấp, có niên đại sớm nhất.

Kiểu miệng này có truyền thống từ thời Lý. Số lượng không nhiều, niên đại

thế kỷ XIII (Pl 59). Loại lon này có kiểu thành đơn hoặc thành kép. Theo

Trần Anh Dũng, loại hình này được chế tạo với mục đích để “nung gốm, cũng

49

có thể được dùng trong đời sống nhưng đó là công dụng phụ” [22, tr.597]. Đỗ

Văn Ninh cho rằng loại hình này có thể được dùng “như bát ăn của quan

quân ngày xưa” [60, tr.135]. Cũng có thể loại hình này dùng làm nắp đậy

chum/vò.

Các mảnh miệng đứng, bản miệng loe xiên, mép vê cong ra ngoài, sau

đó cắt vát tạo mặt cắt hình chữ nhật, mủ đinh, hoặc mặt cắt miệng mỏ chim,

mép vuốt mỏng dần rồi cụp sát thân cổ vuốt thắt tạo lõm lòng máng là kiểu

miệng lon/vại, có niên đại thời Trần, thế kỷ XIII-XIV, nhóm này xuất lộ trong

các lớp dưới của hố đào là chủ yếu (Pl 60-h1,2). Các kiểu miệng được vuốt

hơi tròn vào các giai đoạn sau, nhóm miệng đứng có mặt căt hình cạp rỗ có

niên đại cuối Trần-đầu Lê sơ (Pl 60-h3; Pl 61-h1). Đến nhóm miệng đứng,

mép vuốt tạo mặt cắt chữ D và mép chờm ra khỏi thân được vuốt khá phẳng,

hoặc vuốt dày ở phần miệng bên trong, kiểu miệng lon, có niên đại thế kỷ

XVII-XVIII, nhóm này xuất lộ chủ yếu từ lớp mặt đến lớp 4 (0-20cm) (Pl 61-

h2,3,4; Pl 62).

Miệng bình/vò cũng tương tự, nhóm miệng có niên đại thời Trần mang

đặc trưng miệng đứng, bản miệng loe xiên, thân cong, mặt cắt miệng tương tự

như nhóm lon/vai, đó là mặt cắt hình chữ nhật, mủ đinh, mỏ chim. Nhóm

miệng cổ trụ cao, mép ngoài chờm ra khỏi thân, cắt phẳng hoặc vuốt hơi tròn

xuất lộ nhiều trong lớp kiến trúc ở hố 16SH.H1, có niên đại thời Lê Trung

Hưng.

Các mảnh thân, đáy sành mịn, trong lòng có để lại vết chế tác là vết ép

tay hoặc ren mờ, thường xuất lộ ở các lớp dưới, có niên đại thời Trần. Các

50

mảnh được miết nhẵn hoặc có các đường ren nổi rõ có niên đại thời Lê.

Hiện vật nguyên/gần nguyên

Mảnh miệng

Hố

Bảng 2.4: Niên đại hiện vật lon/vại qua đợt khai quật tháng 8/2016

Tổng

TK XIII

TK XIII

TK XIII- XIV

TK XV- XVI 1 3

TK XVII- XVIII 9 6 4

TK XV- XVI 13 22 20

1

TK XVII- XVIII 111 119 43

2 1 19

1

6

10

15

22 2

1 23

5

19

6

TK XIII- XIV 11 70 122 32 391 8 15 649

79

11

145 220 192 33 464 10 16 1080

288

16SH.H1 16SH.H2 16SH.H3 16SH.H4 16SH.H5 16SH.TS7 16SH.TS8 Tổng

a

b

c

e

d

Hình 2.3: Diễn tiến kỹ thuật tạo dáng trên lon, sành mịn

(Bv: Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

a. TK XIII; b. TK XIII-XIV; c. TK XV-XVI; d,e. TK XVII-XVIII

51

Về hoa văn: Các mảnh thân trang trí hoa văn ở bên ngoài bằng kỹ thuật:

dùng ống tre/nứa tạo hoa văn bập vân; dùng ống tre/nứa tạo hoa văn bập vân

kết hợp que 1 hoặc nhiều răng tạo đường chỉ chìm hoặc sóng nước; dùng que

1 hoặc nhiều rằng để vẽ hoa văn; đắp nổi hoa văn tạo đường gờ, hoặc đường

gờ kết hợp hoa văn đắp nổi khác hoặc đường gờ kết hợp hoa văn bập vân.

Mỗi loại hình thường được trang trí với mỗi loại hoa văn tương tự, loại hoa

văn bập vân và bập vân kết hợp với đường/băng chỉ chìm, sóng nước được

trang trí ở nửa phía trên của lon/vại. Loại hoa văn dùng que để vẽ hoa văn và

đắp nổi, đăp nổi kết hợp các loại hoa văn khác thường được trang trí ở phần

vai của bình/vò/hũ/lọ. Kỹ thuật dùng ống tre/nứa để tạo hoa văn bập vân đến

nay vẫn được sử dụng tại làng gốm Hương Canh (Vĩnh Phúc) (Bảng 2.5)(Pl

67-71).

Bảng 2.5: Kỹ thuật tạo hoa văn thân sành mịn đợt khai quật tháng 8/2016

Khắc vạch

Đắp nổi

Bập vân kết hợp với đường chỉ chìm

Tổng

Hố khai quật

Bập vân

Chỉ chìm tạo bằng que 1 răng

Chỉ chìm tạo bằng que nhiều răng

Hoa văn tạo bằng que 1 răng

Hoa văn tạo bằng que nhiều răng

Đắp nổi đường gờ

Đắp nổi đường gờ kết hợp hoa văn đắp nổi khác

Đắp nổi đường gờ kết hợp hoa văn bập vân

127

12

49

7

4

19

1

1

220

16SH.H1

218

8

51

8

6

15

306

16SH.H2

129

3

30

2

4

6

174

16SH.H3

43

11

1

1

1

57

16SH.H4

759

3

103

13

61

10

6

955

16SH.H5

1276

26

244

31

76

50

7

1712

2

Tổng

2.2.4. Đồ đất nung

2.2.4.1. Đồ gốm/sành thô

Đồ gốm/sành thô phát hiện 2.791 hiện vật, chiếm 9,5% trong tổng số

hiện vật thu được, phần lớn xuất lộ trong hố 16SH.TS1, 16SH.H5. Chủ yếu

52

thuộc loại hình đồ đun nấu có đáy bằng, rất ít mảnh có đáy tròn. Xương rất

thô do pha thêm nhiều cát, sạn. Độ nung khá thấp, bề mặt và xương màu đỏ.

Kiểu miệng loe cong trơn, bản miệng cong, mép vuốt mỏng dần, chiếm số

lượng lớn, gần như tuyệt đối. Thành khá đứng, miệng và đáy rộng (Pl 64-h1).

Kiểu dáng nồi này tương tự các hiện vật thuộc nhóm loại 4 được phát hiện tại

Đàn Nam Giao (Thanh Hóa) [27, tr.709]. Nhóm đồ đựng có xương thô, độ

nung khá cao, màu xám xanh, có kiểu miệng đứng, mép cắt phẳng, vuốt nhọn

ra hai bên tạo mặt cắt mũ đinh hoặc có cổ trụ, loại hình bình/vò là chủ yếu.

Nhóm này ít được trang trí hoa văn.

2.2.4.2. Vật liệu kiến trúc

Số lượng phát hiện rất ít, tổng số 483 mảnh, chiếm 1,7% trong tổng số

hiện vật thu được, phát hiện trong các hố 16SH.TS1, TS3, 16SH.H3, H5.

Trong đó ngói phẳng chiếm tỷ lệ tuyệt đối, 476 mảnh. Chủ yếu có màu đỏ,

một số mảnh lẫn sét trắng, dày 0,7-1,1cm. Một số mảnh tìm thấy trong các hố

thăm dò tháng 3 năm 2016 ở khu vực thung lũng Sơn Hào thì các mảnh có

chất liệu và kỹ thuật tạo tác ấn ngón tay tạo mấu ngói thể hiện một số đặc

điểm thời Trần.

2.2.4.3. Chì lưới

Tổng số 24 hiện vật phát hiện được qua các đợt khảo sát và khai quật.

Xuất lộ chủ yếu trong hố 16SH.H5. Sự có mặt số lượng khá lớn chì lưới bằng

đất nung trong khu vực thung lũng Sơn Hào cho thấy hoạt động đánh bắt hải

sản phổ biến ở đây. Bên cạnh những di vật trong hố đào, một số chì lưới

nhiều cỡ khác nhau còn được thu lượm qua các mặt cắt làm đường, nơi xuất

lộ tầng văn hóa khá dày chứa nhiều mảnh vỏ nhuyễn thể. Những yếu tố này

53

góp phần xác định sự có mặt của một làng cổ ở đây (Pl 64-h2).

Ngoài ra còn phát hiện được 1 cốc rót kim loại trong tầng văn hóa thời

Trần, hố H5, kích thước nhỏ, có thể có liên quan đến nghề luyện kim ở khu

vực này.

2.2.5. Đồ kim loại

Đáng chú ý nhất trong đợt khai quật lần này là sự xuất lộ số lượng rất

lớn các di vật kim loại. Tổng số thu được 373 hiện vật (chiếm 1,3%) trong các

đợt khảo sát và khai quật năm 2016-2017. Gồm nhiều chất liệu: đồng, chì, sắt.

Đồ đồng: chủ yếu là tiền đồng, 28 đồng tiền phát hiện, trong đó 12 đồng

có thể đọc được chữ được, nguồn gốc Việt Nam và Trung Quốc. Tiền Việt

Nam có niên đại thời Trần “Nguyên Phong Thông Bảo” và thời Lê Trung

Hưng “Cảnh Hưng Thông Bảo”, “Cảnh Hưng Chí Bảo”, “Cảnh Hưng Cự

Bảo”. Tiền Trung Quốc xuất lộ khá sớm, chủ yếu là tiền thời Tống “Chính

Hòa Thông Bảo”, “Nguyên Hựu Thông Bảo”, “Thiệu Thánh Nguyên Bảo” và

1 đồng thời Thanh “Gia Khánh Thông Bảo”. Tiền có kích thước 2,5-2,9cm, ở

giữa có lỗ hình vuông (0,7x0,7cm), viền rộng 0,2-0,3cm, dày 0,1-0,15cm.

Ngoài ra phát hiện được 1 lưỡi câu tại hố 16SH.TS3, xuất lộ trong lớp văn

hóa thời Trần, kích thước rất nhỏ. Và một số loại hình đồ đồng khác như đinh,

dây đồng, mảnh đồng có hình đầu voi, đều bị oxi hoá thành màu xanh Pl 7; Pl

65-h1-6).

Đồ chì: 7 chì lưới, được phát hiện ở khu vực cấp nền 1, phía bắc bến

Cống Cái là chủ yếu. Có hai loại, hình dáng dài, là mảnh chì dẹt sau đó được

gập đôi nên tạo một rảnh dọc nhỏ để buộc lưới, kích thước: dài 5-6cm x rộng

0,9-1cm x dày 0,6-0,7cm. Hoặc hình chóp cụt, ở giữa đục lỗ tròn, đường kính

0,9-1,1cm, cao 0,8-0,9cm, đường kính lỗ 0,3cm. Làm từ chất liệu chì nên

54

nặng, bề mặt chì lưới phủ lớp patin dày màu xám trắng (Pl 65-h7).

Đồ sắt: 339 hiện vật, trong đó chủ yếu là đinh. Các hiện vật bị oxi hóa

nhiều, màu nâu sẫm. Kết quả xác định ban đầu cho thấy, chủ yếu là đinh sắt,

kiểu đinh thuyền, có mặt cắt vuông, phát hiện chủ yếu ở H5.L4 đến H5.L8.F4.

Một số mẫu cho thấy có tình trạng bẻ cong, có thể đã được dùng để nối kết

hai tấm gỗ. Có 20 mảnh hiện vật mũi dao/kiếm được phát hiện chủ yếu trong

các lớp chứa sành gốm thời Trần của hố H5. Do các mảnh vỡ không còn

nguyên vẹn và bị rỉ nặng nên khó nhận được loại hình cụ thể, chúng tôi chỉ

tạm thời nhận diện hình dáng qua quan sát bằng mắt thường. Và 83 mẩu tạm

thời được xác định là xỉ kim loại được phát hiện, chủ yếu phát hiện trong hố

H5. Bước đầu xử lý trong phòng thí nghiệm tại Úc đã xác định một mẫu là xỉ

sắt phát hiện trong hố H5, cùng với mảnh rót kim loại, cho thấy khả năng đã

có lò rèn tại đây.

Chúng tôi đã gửi 10 mẫu sang phòng thí nghiệm Eastern Hills Veterinary

Centre ở Mundaring, Tây Úc để xác định hình dạng gốc của các hiện vật.

Trong đó có 9 mẫu xác định là đinh sắt, 1 mẫu xỉ. Các mẫu đinh sắt thuộc loại

sắt rèn, phần lớn bị gãy và oxi hóa, chỉ còn phần mũi hoặc mũ, mặt cắt hình

vuông [101]. Một số mảnh khi phát hiện vẫn đang dính với các mảnh miệng

sành mịn, có niên đại thời Trần (Pl 8; Pl 66-h1-4).

Chúng tôi cũng đã chọn mẫu tiến hành xử lý bảo quản và chụp x-quang

một số hiện vật tại cơ sở Viện Khảo cổ học. Tổng số 20 hiện vật tiến hành bảo

quản, bao gồm đinh, các miếng sắt, khuyên sắt bị rỉ nặng sần sùi, khó đoán

định hình dáng cụ thể bên trong. Các mẫu sắt đã bị rỉ đến cốt, nên không thể

tẩy rỉ mà chỉ ức chế rỉ, giữ nguyên hình thù ban đầu [47, tr.1-4].

Việc các đinh sắt cùng với nhóm gốm và sành thời Trần có mặt rất tập

trung tồn tại trong thời gian ngắn trong một khu vực hố H5, đoàn khai quật

55

đưa đến nhận định rằng: “đây có thể là một khu vực quan trọng trong quá

trình chuẩn bị và thực hiện trận chiến của Trần Khánh Dư đánh tan đoàn

thuyền lương của quân Nguyên Mông năm 1288” [49, tr.110].

2.2.6. Các loại hiện vật khác

- Đồ đá: 3 hiện vật có vết chế tác đều có thể là hòn đập/hòn kê, được

phát hiện ở trên bề mặt và trong lớp L5b của hố 5, và hố 16SH.TS4. Công cụ

dáng hình chữ nhật, có vết sử dụng ở 2 mặt viên cuội có vết lõm tròn và hình

bầu dục. Màu xám nhạt, làm từ đá sa thạch. Kích thước: dài 8-10,7cm x rộng

5-7cm x dày 4,9cm,.

- Thiên thạch: 10 mảnh, phát hiện ở hố 16.H4, H5, 17SH.TS2, TS4,

không có dấu vết chế tác (Pl 66-h5).

- Đồ xương răng và vỏ nhuyễn thể: phát hiện 3 mảnh nhỏ ở H5.L1,

H5.L2 và H5.L5b, mảnh xương đùi trước và mảnh răng hàm của loài lợn còn

nhỏ. Và số lượng lớn các vỏ nhuyễn thể, xuất lộ ở hố H5, đặc biệt trên bề mặt

từ LM đến L4, chủ yếu là vỏ các loại ốc và sò nước mặn.

2.3. Tiểu kết chương 2

Vào thời Lý, dấu tích văn hóa thời Lý trong tầng văn hóa không rõ ràng

nhưng có khả năng có dấu tích hoạt động ở những lớp đào sâu nhất của hố

H5, căn cứ vào sự có mặt của gốm men Trung Quốc có niên đại thế kỷ IX-XII

và một số mảnh sành Việt Nam có truyền thống thời Lý.

Vào thời Trần, tầng văn hóa thể hiện rất rõ lớp cư trú và các dấu tích

kiến trúc. Ở khu vực phía bắc bến Cống Cái, trên cấp nền I và khu vực giếng

Tiền là sự san lấp mặt bằng và một số dấu tích kiến trúc hố cột chôn. Ở khu

vực thung lũng Sơn Hào, tính chất cư trú thể hiện càng rõ, kiến trúc gồm

móng chân cột được chôn trong hố đào, chèn đá, sét và dấu tích hố cột. Có thể

56

đã có những kiến trúc khá lớn, lợp ngói, có mặt trên sườn đồi cao hơn. Trong

khi đó, các kiến trúc kiểu chôn cột trong hố đất có mặt trong khu vực tích tụ

nhiều di vật. Di vật thu được gồm gốm men Việt Nam, Trung Quốc, đồ sành,

gốm có áo, đồ kim loại. Gốm men Việt Nam gồm các dòng men trắng ngả

xánh/vàng, hơi xỉn màu, men ngọc, nâu, hai màu men. Sử dụng kiểu nung đa

chiếc bằng phương pháp dùng bột chống dính, con kê có mấu. Gốm men

Trung Quốc gồm các dòng ngọc, nâu, niên đại chủ yếu thế kỷ XII-XIV. Đồ

gốm có áo chỉ xuất lộ trong khu vực thung lũng Sơn Hào và trong tầng văn

hóa thời Trần. Đồ sành mịn gồm các loại lon thấp có miệng đứng, mép vát

nhẹ hoặc miệng đứng, bản miệng loe xiên, mép vuốt tạo mặt cắt hình chữ

nhật, mủ đinh hoặc mỏ chim. Vật liệu kiến trúc chủ yếu là ngói phẳng mang

đặc trưng thời Trần. Đồ kim loại chủ yếu là đinh sắt có mặt trong lớp văn hóa

thời Trần.

Vào thời Lê Sơ, trong tầng văn hóa thể hiện khá rõ ở cả hai khu vực, chủ

yếu là dấu tích cư trú, không phát hiện dấu tích kiến trúc. Hiện vật xuất lộ khá

ít, chỉ một vài mảnh gốm hoa lam Trung Quốc, Việt Nam đều có loại đế thụt,

nung đa chiếc sử dụng ve lòng. Và nhóm đồ sành mịn có kiểu miệng đứng,

bản miệng loe xiên, mép vuốt ra ngoài tạo mặt cắt hình cạp rổ.

Vào thời Lê Trung Hưng, dấu tích cư trú và kiến trúc thể hiện khá rõ.

Dấu tích cư trú ở phía bắc bến Cống Cái xuất lộ nền móng kiến trúc ở cấp nền

I, cho ta xác định phạm vi của kiến trúc có lòng rộng khoảng 5m chiều Bắc

Nam, dài Đông Tây 9m. Kiến trúc có móng bằng đá, nền được đắp bằng sét

vàng lẫn cát mịn và đá nhỏ, dày khoảng 20cm, được đầm chặt. Các bước gian

dự đoán rộng khoảng 3m (gian chính) và 2m (gian phụ). Và các hoạt động san

lấp, tạo cấp bậc ở xung quanh khu vực Giếng Đình. Dấu tích cư trú thể hiện

rất rõ tại khu vực thung lũng Sơn Hào. Hiện vật thu được không nhiều như

57

lớp thời Trần, chủ yếu là đồ sành mịn, có kiểu miệng đứng, bản miệng đứng.

Gốm men lam và trắng Việt Nam, sử dụng kỹ thuật ve lòng khi nung, màu

men bóng, chắc.

Về hiện vật xuất lộ với số lượng lớn, đa dạng về chất liệu như gốm men,

sành mịn, gốm có áo, gốm thô, đồ kim loại. Nhóm gốm men Việt Nam có

nhiều dòng men khác nhau như men trắng, ngọc, nâu, hoa nâu, hai màu men

và hoa lam. Trong đó tỷ lệ gốm men trắng chiếm hơn 2/3 tổng số gốm men

Việt Nam. Nhóm gốm men trăng có niên đại kéo dài nhất từ thời Trần đến Lê

Trung Hưng, trong khi đó nhóm gốm men ngọc, nâu, hoa nâu, hai màu nen

xuất lộ trong các lớp dưới của các hố khai quật, nằm trong khung niên đại thời

Trần. Gốm hoa lam xuất lộ trong các lớp trên của hố khai quật, số lượng ít,

niên đại từ từ thời Lê sơ đến thời Nguyễn.

Gốm men Trung Quốc có bốn dòng men trắng, ngọc, nâu và hoa lam.

Gốm men trắng có truyền thống lò Định với kỹ thuật đúc khuôn và cạo mép

miệng chống dính, niên đại thế kỷ XI-XII. Gốm men ngọc có nhiều nguồn

gốc, niên đại kéo dài từ thế kỷ IX đến XIV, có một số mảnh xác định từ lò

Long Tuyền. Gốm men nâu cũng có các nguồn gốc và niên đại khác nhau. Có

một số mảnh tương tự với các mảnh ở lò gốm Quảng Tây. Đặc biệt là số

lượng bát dáng chiết yêu tương tự như các sản phẩm được phát hiện ở các lò

thuộc tỉnh Quảng Tây, đồng thời rất gần gũi với loại hình bát uống rượu gốm

men nâu dòng gốm Kiến của vùng Phúc Kiến, sản xuất trong khoảng thế kỉ X-

XIII. Gốm hoa lam có số lượng ít, niên đại thế kỉ XV-XVI.

Đồ sành mịn có số lượng lớn nhất, chiếm 51% trong tổng số hiện vật thu

được. Loại hình chủ yếu là lon, bình/vò, chậu, nắp. Tùy vào các giai đoạn có

cách tạo dáng và kiểu miệng khác nhau, niên đại của nhóm này kéo dài từ thế

58

kỷ XIII đến XVIII.

Gốm có áo là nhóm hiện vật có độ nung thấp hơn sành nhưng cao hơn

gốm men, phủ lớp áo mỏng màu nâu hồng hoặc nâu vàng, có thể phủ men

hoặc không. Loại hình chủ yếu là chậu, vò có quai, bát nghiền thuốc. Nhóm

này chỉ xuất lộ trong lớp văn hóa thời Trần, tồn tại trong thời gian ngắn với số

lượng khá lớn. Hiện nay, nhóm hiện vật này cần được tiếp tục nghiên cứu và

so sánh.

Trên địa tầng không có lớp vô sinh cũng như về mặt hiện vật có hiện

tượng tiếp nối của loại hình và kỹ thuật tạo tác của nhóm gốm men Việt Nam

và đồ sành mịn đã cho thấy con người hoạt động ở đây mang tính liên tục sớm

59

nhất ít nhất là vào thời Trần đến thời Nguyễn và cho đến hiện nay.

CHƯƠNG 3

VỊ TRÍ BẾN CỐNG CÁI TRONG BỐI CẢNH THƯƠNG CẢNG VÂN ĐỒN

3.1. Mối quan hệ với các khu vực khác của thương cảng Vân Đồn

3.1.1. Mối quan hệ với các di tích ở đảo Quan Lạn

Trên đảo Quan Lạn có hệ thống các bến bãi thuộc thương cảng Vân Đồn

như Cái Làng, Con Quy, Mang Thúng (Pl 18).

3.1.1.1. Với di tích bến Con Quy

Bến Con Quy thuộc thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn, là một quả đồi thấp,

nằm về phía đông bắc vụng Cống Cái, cách khoảng 1,5 km. Vài ba dải đất

thấp hơn còn tiếp tục kéo về phía tây nam, dọc theo sông Mang trong khoảng

600-700m. Khu vực này ngăn cách với Đồi Đình bằng một vụng nước nông,

có thể lội qua vào lúc thủy triều rút. Có thể vụng nước này xưa kia thông với

biển, nay đã bị các cồn cát bồi lấp cửa và bị chắn ngang bằng con đường nhựa

liên xã. Kết quả khảo sát cho thấy ven bờ phía nam bến Con Quy, đã phát

hiện nhiều mảnh sành, gốm. Trong đó tập trung nhất là ở khu vực ngã ba nơi

sông Mang mở vào Cống Cái.

Khu vực Bến này còn có tên gọi là bờ Cổng Đồn, có thể nó có liên quan

đến tên di tích Thành Đồn nằm ở phía đông nam của bến. Thành Đồn là một

đồn binh, niên đại thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Hiện nay, dấu tích Thành không

còn, năm 2017, người dân địa phương đã phát hiện được 1 khẩu súng thần

công thời Nguyễn trong khu vực Thành này.

Yamamoto Tatsuto đã tiến hành khảo sát di tích này năm 1936 và thu

được nhiều hiện vật gồm tiền đồng Trung Quốc thời Đường, Tống, tiền Việt

Nam thời Lê Trung Hưng, Nguyễn, gốm sứ từ thời Tống đến thời Thanh, ông

60

cho rằng: “bến Con Quy ở phía bắc đảo là bến tốt nhất, có thể tránh sóng gió

và có thể là một bến quan trọng trong thời phồn vinh của thương cảng Vân

Đồn” [44, tr.54].

Năm 1970, trong đợt khảo sát, Đỗ Văn Ninh đã nhận định:“Ven bờ Cổng

Đồn cũng có những phế vật bát, đĩa thời Lý-Lê. Các hiện vật gốm sứ phát

hiện trên đảo Con Quy không có sự khác biệt nhiều so với Cái Làng và Cống

Cái nhưng số lượng ít hơn. Khó có thể đặt tầm quan trọng của bến Con Quy

ngang với bến Cái Làng và Cống Cái. Có thể, bến này là trạm cửa ngỏ dừng

chân của thuyền bè khi đợi làm “thủ tục” trước khi được phép vào bến

chính” [60, tr.150].

Năm 2003, Đại học Quốc Gia Hà Nội phối hợp Đại học Chiêu Hòa đã

tiến hành mở 3 hố thăm dò với tổng diện tích 14m2, ký hiệu 13CQTS1-TS3.

Ở khu vực khai quật, bề mặt đã bị san lấp do quá trình khai thác cát, chỉ còn

lớp xáo trộn dày 60-100cm, là lớp cát màu xám chưa các mảnh hiện vật đồ

gốm men, đồ sành. Tổng số hiện vật thu được rất ít, 91 mảnh, trong đó 66

mảnh sành sứ Việt Nam, 25 mảnh sành sứ Trung Quốc. Sành Việt Nam chủ

yếu là lon, vò mịn, chắc, trang trí văn chải và khắc vạch, niên đại thế kỷ XIV-

XVII. Sành Trung Quốc mỏng, mềm hơn sành Việt Nam, xương màu trắng

xám, xám vàng hoặc xám, có lớp men da lươn mỏng và bị bong men nhiều.

Đồ sứ Việt thấy rất ít, chủ yếu men ngọc. Đồ sứ Trung Quốc có men ngọc

xanh, dày, rạn và bóng, niên đại thế kỷ XIII-XIV. Ngoài ra, sưu tầm 32 tiền

đồng, trong đó 1 đồng Việt Nam “Thiên Phúc Trấn Bảo”, 31 tiền đồng Trung

Quốc niên đại từ thời Ngũ Thù (2 đồng) đến Đông Hán (2 đồng) và 27 đồng

thời Tống, niên đại thế kỷ I-XIII [39]. Có thể nhóm sành Trung Quốc tương

tự nhóm gốm có áo. Tuy nhiên, hiện nay, rất khó để tiếp cận bộ sưu tập hiện

61

vật này nên cần có sự đối chiếu so sánh.

Như vậy, với kết quả khai quật này, mặc dù tầng văn hóa bị phá hủy

nhưng có thể nhận thấy di tích bến Con Quy có thời gian tham gia vào hệ

thống thương mại sớm hơn các di tích khác trên đảo Quan Lạn, cũng có thể

đây là nơi cư trú của người Hán, giống với di tích Đá Bạc, nằm đối diện bên

kia sông Mang. Nhưng thời gian phồn vinh và vai trò của di tích đối với

thương cảng Vân Đồn cần tiếp tục nghiên cứu.

3.1.1.2. Với di tích bến Cái Làng

Cái Làng là vụng, nằm ở phía tây nam núi Man, thuộc xã Quan Lạn. Bến

Cái Làng là một di tích bến cảng điển hình, là một trong hai bến trung tâm của

thương cảng Vân Đồn ở khu vực đảo Quan Lạn. Bờ vụng phía đông của bến

có một dải khoảng 200m chứa nhiều di vật khảo cổ gồm gốm men, sành của

nhiều giai đoạn và nguồn gốc khác nhau, hiện vật xuất lộ chủ yếu có niên đại

thế kỷ XVI-XVIII (Pl 31-h1). Tuy nhiên một số hiện vật thời Bắc Thuộc và

thời Lý đã được phát hiện trước đó như “đồng tiền “Khai Nguyên thông

bảo”, mảnh bát/đĩa gốm men ngọc xanh thời Lý, trang trí cánh sen, hoa cúc,

khắc chìm dưới men, được phỏng chế từ đồ sứ thời Tống Trung Quốc, đây là

một trong những mặt hàng xuất khẩu” [60, tr.137].

Năm 1968, Đỗ Văn Ninh đã tiến hành khảo sát di tích này, ông đã phát

hiện nhiều nền nhà cổ, xung quanh nền xếp bằng các hòn đá tạo tành các hàng

cao 0,5-1m. Nêu nền làm ở khu vực sườn dốc thì chỉ quây 3 mặt, phía sau lợi

dụng mặt bằng sườn dốc không cần kè đá. Mật độ dày đặc của những nền nhà

cổ chứng minh sự đông vui của làng cổ. Quỹ đất tại khu vực bến Cái Làng

không cho phép dân cư làm nghề trồng lúa, chỉ có thể làm vườn. Nên nghề

nghiệp chính của họ là đi biển hoặc tham gia vào hoạt động thương mại. Cũng

tương tự như ở Cống Cái, tại đây cũng có các bậc nền khá phẳng, trước đây

62

đã có một ngôi Đình mà dấu vết cho thấy Đình có 9 gian. Đến đầu thế kỷ XX,

cùng sự chuyển dời của dân cư, Đình chuyển dời sang đảo Quan Lạn

[60,tr.136].

Năm 1993, Lại Văn Tới có nhắc đến: “phế tích kiến trúc nằm ở phía tây

nam của đoạn cuối bến Cái Làng, tập trung trong diện tích khoảng 6m2, gồm

ngói “mũi hài” và gạch. Ngói có màu đỏ sẩm và đỏ tươi, phần mũi hài dày

3cm, thân dày 1-1,5cm, độ nung khá cao và không đều nhau. Đây có thể là

một kiến trúc bị sập, được xây dựng bằng gạch, ngói. Trước đây, bến Cái

Làng chỉ có các nền nhà được xếp kè ba mặt trước, phải, trái bằng các viên

đá cuội lấy từ bờ vụng. Lần đầu chúng ta biết đến một kiến trúc kiên cố, ổn

định và phát hiện loại hình chum táng?, chất liệu và màu sắc của chum giống

đồ sành tìm thấy ở bến Cái Làng, do đó chúng có cùng niên đại với những đồ

sành ở đây” [84, 213].

Năm 2003, Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật di tích bến Cái Làng.

Mở 2 hố khai quật ở hai vị trí khác nhau, tổng diện tích 52m2. Hố 1 mở sát

mép nước và hố 2 mở sát bìa rừng. Kết quả cho thấy ở hố 1 là di tích bến bãi

thuần túy, có hệ thống đá kè bến cảng ở độ sâu -70cm, sinh thổ là cát biển. Hố

2 phát hiện một dấu tích kiến trúc nhà với hệ thống các đường cống thoát

nước ốp đá, và phủ bên trên là những mảnh gạch, ngói vụn. Hiện vật phát

hiện được khá nhiều, 5000 hiện vật gồm vật liệu kiến trúc, gốm men, sành.

Tầng văn hóa dày trung bình 1m, chứng tỏ đây là trung tâm buôn bán tụ cư

lâu dài. Theo đoàn khai quật thì “sự xuất lộ các dấu tích kiến trúc nhà ở, hệ

thống giếng nước ngọt cho thấy đây đã từng là địa bàn tụ cư khá đông đúc.

Hiện tượng tiếp nối của các loại hình hiện vật, và trên địa tầng không có lớp

vô sinh cho thấy con người hoạt động ở đây mang tính liên tục. Mật độ hiện

vật tăng lên ở các lớp dưới hố khai quật cho thấy cảng ở lớp dưới, mật độ

63

sinh sống, làm ăn của con người càng tập trung. Theo đó, hoạt động của bến

Cái Làng diễn ra thịnh đạt nhất vào giai đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”

[36, tr.356-357].

Năm 2012, Viện Khảo cổ học và đoàn chuyên gia quốc tế đã tiến hành

khảo sát tại Cái Làng, khảo sát Giếng Hệu, miếu thờ ở trng Lòng Cái Làng,

thu thập một số mảnh gốm men và sành. Người dân tại đây đã thu thập được

các mảnh gốm men, sành, đồ đất nung, tiền đồng và khóa đồng thuộc nhiều

thời kỳ. Trong đó đáng chú ý là một đồng tiền Ngũ Thù, bát gốm men thời

Bắc thuộc, mô hình tháp có thể vào thời Trần và một khẩu súng thần công

thuộc kiểu Bồ Đào Nha, nhưng có thể được người châu Á mô phỏng vào thế

kỷ XVI-XVII [53, tr.551].

Năm 2019, Hội Khảo cổ học tiến hành khảo sát tại di tích này, đặc biệt

phát hiện một vò sành mịn, có miệng đứng, bản miệng đứng, mép vê hơi tròn,

cổ trụ, bị méo ở phần thân. Có thể, tại di tích này đã từng có lò gốm. Vò có

niên đại thời Mạc, thế kỷ XVI.

Dựa vào bộ sưu tập hiện thu thập được thì di tích này cũng tương tự di

tích bến Cống Cái, được hình thành và phát triển muộn hơn di tích Đồng Chổi

và Đá Bạc. Theo nhận định của đoàn khai quật năm 2003, thì di tích bến Cái

Làng có hoạt động ngoại thương mạnh nhất vào giai đoạn thế kỷ XIV-XV.

Sau đó bắt đầu suy tàn, tuy nhiên tại đây vẫn diễn ra các hoạt động ngoại

thương mặc dù nó đã đánh mất vai trò trung tâm. Minh chứng là số lượng lớn

hiện vật có niên đại thế kỷ XVI-XVIII xuất lộ trên bề mặt bến bãi. Điều

đáng tiếc là ở di tích này, diện tích khai quật nhỏ mà tài liệu và hiện vật tản

mác, nên trong tương lai cần tiếp tục nghiên cứu di tích này một cách tổng thể

và có hệ thống

Ở phía nam của bến là một bãi cát rộng khoảng 2km, nằm giữa núi Man

64

với đảo Quan Lạn. Bãi cát này khi thủy triều lên hoàn toàn ngập nước hơn

1m, có những lạch sâu khiến thuyền dễ dàng di chuyển. Tuy nhiên, nước rút

làm lộ hoàn toàn bãi cát, có thể đi bộ để di chuyển từ Cái Làng sang Quan

Lạn. Vụng Cái Làng sâu hơn hiện nay ít nhất 60cm với kết quả khai quật năm

1968 [60, tr.134] và 70cm với kết quả khai quật năm 2003. Di tích bến Cống

Cái sâu hơn hiện nay khoảng 30cm (kết quả khai quật hố H2).

Di tích Cái Làng có các dấu tích trên mặt đất có liên quan đến sự hình

thành và phát triển của thương cảng Vân Đồn, như bãi dài khoảng 200m chứa

nhiều di vật khảo cổ gồm gốm men, sành của nhiều giai đoạn và nguồn gốc

khác nhau, hệ thống giếng nước ngọt như Giếng Hệu, các bậc nền ở sâu trong

thung lũng Cái Làng, dấu tích kiến trúc lợp ngói. Bên dưới mặt đất là các dấu

tích kiến trúc nhà ở, hệ thống kè bến bằng đá, tầng văn hóa dày 1m, cho thấy

sự tụ cư đông đúc và các hoạt động buôn bán diễn ra thịnh đạt nhất vào giai

đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.

Dựa vào kết quả nghiên cứu và khai quật, di tích bến Cống Cái phát triển

rực rỡ vào giai đoạn thế kỷ XII-XIV. Di tích Cái Làng phát triển rực rỡ vào

giai đoạn XIV-XV, nhưng trước đó có sự tham gia vào hoạt động ngoại

thương của dân cư thời Lý mà minh chứng là các mảnh gốm men xuất lộ

trong hố khai quật. Từ đó cho thấy bến Cái Làng và bến Cống Cái có giai

đoạn phát triển gần tương đồng, và hai bến này là bến trung tâm của thương

cảng Vân Đồn trong giai đoạn sớm. Sự bồi lấp của các bến bãi có thể là một

trong những nguyên nhân khiến hai bến này trở nên tiêu điều sau thế kỷ XV.

3.1.1.3. Với di tích Mang Thúng

Mang Thúng là một vụng nhỏ, nằm phía đông bắc của núi Man, được núi

Man bao quanh ba mặt, mặt còn lại giáp sông Mang. Vụng kín gió, cửa vào

65

khá rộng, bề mặt phẳng với các mảnh đá kích thước nhỏ lổn nhổn trên bề mặt.

Hiện nay vụng đã bị ngăn cách bởi đập nuôi tôm, nhưng trước đó bị ảnh

hưởng trực tiếp bởi thủy triều.

Di tích này được khảo sát lần đầu tiên vào năm 2012 bởi nhóm chuyên

gia quốc tế của chương trình VMAP, sau đó được tiếp tục khảo sát năm 2013,

2014. Khảo sát bằng phương pháp lặn cho thấy, đáy sông tại vụng Mang

Thúng tương đối bằng phẳng, phủ lên trên bề mặt là một lớp cát mỏng, một số

khu vực khá sâu. Đồng thời đã tiến hành khảo sát ven bờ di tích Mang Thúng.

Kết quả khảo sát cho thấy, bờ vụng phía đông bắc của di tích có một dải

khoảng 300m chứa nhiều hiện vật gồm gốm men, sành của nhiều giai đoạn từ

thế kỷ XIII-XV (Pl 11; Pl 31-h2). Tiến hành thu thập mẫu trong khung lưới

1m2, nhằm ước đoán mật độ phân bố số lượng những mảnh gốm sành sứ trong

khu vực này. Tổng số 45 mảnh đã được phát hiện gồm các mảnh đồ sành,

gốm men.

Di tích này chưa tiến hành nghiên cứu tổng thể cũng như khai quật nên

chưa thể có cái nhìn tổng quan. Nhưng dựa vào mật độ, loại hình và niên đại

của nhóm di vật sưu tầm được trong ô lưới 1m2, tiến hành so sánh với di tích

bến Cống Cái, có thể đễ dàng nhận ra hiện vật ít hơn về số lượng, nghèo nàn

về loại hình và khung niên đại ngắn hơn. Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng, di

tích Mang Thúng là một bến đậu tàu/thuyền nằm trong hệ thống thương cảng

Vân Đồn, hoạt động trong thời gian ngắn.

3.1.2. Mối quan hệ với khu vực Cống Đông - Cống Tây

Cống Đông - Cống Tây hay còn được gọi là đảo Thừa Cống, thuộc xã

Thắng Lợi gồm hai đảo nằm song song theo hướng tây bắc-đông nam, tạo nên

một dải nước dài, sâu ở giữa. Dải nước này gọi là sông Cống Đông, rộng

khoảng 200m. Vụng biển rất kín gió bởi được đảo che chắn hai bên. Đây là

66

một địa điểm hết sức thuận lợi cho việc đỗ thuyền và vận chuyển hàng hóa

lên xuống. Suốt chiều dài phía đông và một số địa điểm ở phía tây của đảo

Cống Tây, khoảng 5km là những vụng biển thuận lợi cho việc cập bến, neo

đậu tàu/thuyền. Ở phía tây của đảo Cống Đông cũng có 2 vụng biển xuất lộ

nhiều hiện vật. Như vậy, tính cả hai đảo Cống Đông - Công Tây, có 9 vụng

biển có dấu tích khảo cổ có liên quan đến hoạt động buôn bán, gồm: vụng

thôn 1 (vụng Bảo Tháp), thôn 2 (vụng Cây Dừa), thôn 3 (vụng Chùa Cây

Quéo), thôn 4 (vụng Chùa Trong), thôn 5 (phía đông đảo Cống Tây), vụng

Khe Sắc, vụng Chuồng Bò (phía tây đảo Cống Tây), Vụng Huyện 1 và 2 (phía

tây đảo Cống Công) (Pl 19; Pl 31-h3-6). Hiện nay do công cuộc hiện đại hóa,

các bến ở đảo Cống Tây đã bị lấp khá nhiều, chỉ còn một phần dấu tích. Vụng

Huyện 1 ở đảo Cống Đông đã bị san lấp hoàn toàn. Cùng với hệ thống các

bến cảng, trên đảo cống Tây có hệ thống các chùa, tháp thời Trần như ngọn

Bảo Tháp, Chùa Lấm, Chùa Cát, Chùa Trong, Chùa Cây Quéo. Qua các đợt

khảo sát và nghiên cứu những năm 1997, 2000, 2014, các loại gốm sứ, sành

có niên đại từ thế kỷ XIV-XVIII đã đước phát hiện ở các vụng hai đảo này.

Đặc biệt là số tiền đồng thu được có niên đại thời Tống.

Năm 2002, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tiến

hành khai quật ở vụng thôn 3, hố H1, và vụng thôn 5, hố H2. Kết quả khai

quật cho thấy, ở hố H1 có tầng văn hóa dày 40cm, hiện vật chủ yếu là gốm

men, sành Việt Nam. Một số loại hình gốm men Việt Nam như hộp, bát, bình

hoa lam có nguồn gốc từ Hải Dương, niên đại thế kỷ XV-XVI. Hố H2 có tầng

văn hóa thuần nhất, có dấu tích vét đất nung và than tro, hiện vật phân bố

thành từng cụm, chủ yếu là đồ gốm men Việt Nam và Trung Quốc, sành, và

ngói. Ngói có màu đỏ tươi, niên đại thời Lý - Trần. Số lượng hiện vật hố H2

nhiều hơn ở hố H1, chủ yếu là gốm men, sành Trung Quốc. Sự khác biệt về số

lượng hiện vật giữa Việt Nam và Trung Quốc khiên chúng ta nghĩ đến chức

67

năng khác nhau của 2 vụng này ở đảo Cống Tây. Hiện vật gốm men Trung

Quốc có niên đại thế kỷ XIV-XV, trong đó men ngọc là điển hình gốm lò

Long Tuyền, thời Nguyên. Từ kết quả nghiên cứu, đoàn khai quật cho rằng:

“có thể ở đảo Thừa Cống có 2 loại bến, bến chuyên chứa hàng nhập khẩu,

chủ yếu lưu chứa gốm men Trung Quốc như vụng thôn 5, vụng Chuồng Bò.

Và bến chuyên lưu chứa, xuất khẩu gốm men Việt Nam như vụng thôn 3” [44,

tr.56-57].

Năm 2014, Viện Khảo cổ đã tiến hành khảo sát các vụng tại đảo Thừa

Cống. Kết quả cho thấy, Vụng Huyện (đảo Cống Đông) xuất lộ bãi gốm sành

gồm những mảnh lon, bình/vò sành, ngói mũi lá thời Trần, các mảnh gốm

men ngọc thời Nguyên. Các vụng ở phía đông đảo Cống Tây đã bị con đường

giao thông nằm đè lên một phần các di tích này. Hiện vật chủ yếu là đồ sành

thời Trần, tập trung nhiều ở vụng thôn 2, thôn 3, và thưa hơn ở các vụng khác.

Đặc biệt tại Vụng Chuồng Bò (phía tây đảo Cống Tây) có mật độ hiện vật dày

đặc gồm đồ sành, gốm men, vật liệu kiến trúc. Đồ sành là những mảnh

bình/vò, lon/vại có niên đại thời Trần. Gốm men gồm các dòng men trắng,

ngọc, nâu, hoa lam có nguồn gốc Việt Nam và Trung Quốc với niên đại khác

nhau [34, tr.762-763]. Đặc biệt là số lượng lớn các hiện vật gốm men ngọc từ

lò Long Tuyền thời Nguyên và một số mảnh gốm có áo tương tự các mảnh ở

di tích Cống Cái.

Đảo Thừa Cống có hàng loạt các bến tham gia vào hoạt động thương mại

trong thời gian khá dài, từ thế kỷ XIV-XVIII, phát triển rực rỡ vào giai đoạn

thế kỷ XIV-XVI. Hệ thống dấu tích kiến trúc tôn giáo chùa, tháp đã minh

chứng cho sự phát triển của cư dân, thương mại giai đoạn thời Trần. Vào giai

đoạn thời Trần, tại di tích bến Cống Cái chỉ phát hiện các dấu tích kiến trúc

hố chôn cột, không có kiến trúc với quy mô lớn như ở đảo Thừa Cống. Dựa

vào loại hình hiện vật và dấu tích kiến trúc xuất lộ trong hố khai quật, có thể

68

đặt ra giả thiết rằng: các bến bãi trên đảo Thừa Cống phát triển mạnh vào giai

đoạn sau khi di tích bến Cống Cái và Cái Làng suy tàn, là sự dịch chuyển bến

trung tâm từ đảo Quan Lạn sang đảo Thừa Cống.

Từ kết quả nghiên cứu các di tích trong hệ thống thương cảng Vân Đồn,

Đỗ Văn Ninh đã vẽ lại con đường hàng hải đi lại buôn bán với Trung Quốc

(Pl 21) như sau:

“Các nguồn hàng từ đất liền theo sông Bạch Đằng qua cửa Nam Triệu

hoặc theo sông Chanh ra biển, rồi men theo đất liền tại vụng biển Cửa Lục

(bến Gạo Rang). Sau đó men theo bờ biển rồi vòng ra bến Cống Đông-Cống

Tây, đây là trạm dừng chân thứ nhất. Từ Cống Đông thuyền có thể đi vòng

phía Nam đảo Dao Trao rồi ngược lên hướng đông bắc để vào bến Cái Làng

hoặc Cống Cái. Ở bến trung tâm của cảng Vân Đồn này những thuyền buôn

của ngoại quốc kết thúc chuyến đi để lại theo đường cũ chở hàng về đất liền.

Nếu những chuyến đi xa buôn bán với các bến Châu Khâm, Châu Liêm, Châu

Ung (Trung Quốc) thì đây chỉ là trạm dừng chân. Riêng trên chặng đường

Cống Đông - Quan Lạn, có khi thuyền buôn vì thời tiết hoặc lý do nào đó phải

tạm trú trên đảo Ngọc Vừng (bến Cống Yên, bến Cống Hẹp).

Những đoàn thuyền đi buôn xa với Trung Quốc sẽ từ Vân Đồn (Quan

Lạn) ngược dòng sông Mang, sông Cổng Đồn theo dải nước trong đảo Ba

Mùn, đảo Lợn Lòi Nhỏ (hoặc Sậu Nam), rồi ngoặt phía Tây qua cửa Mô để

tránh sóng đại dương rồi men theo các đảo Vạn Nước, Vạn Mực, Vĩnh Thực

vào bến Vạn Ninh (Vạ Dạt hoặc Thoi Sành) và kết thúc hành trình trên lãnh

thổ Việt Nam để tiếp tục mở đầu chặng đường đi vào Trung Quốc láng giềng.

Thuyền buôn Trung Quốc cũng phải theo đường này để vào buôn bán tại Việt

Nam” [60, tr.189-190]. Hình luật thời Lê đã quy định đối với các thuyền buôn

nước ngoài khi đỗ lại các bến cảng: “Nếu các thuuyền buôn ấy xin đỗ lại,

69

trang chủ phải làm đơn trình An phủ ty thì mới được cho ở, nếu tự tiện cho ở

thì xử biếm hai tư, phạt tiền 200 quan, thưởng cho người cáo giác một phần

ba” [18, tr.151].

3.2. Vai trò của di tích bến Cống Cái trong kháng chiến chống Mông

- Nguyên

Vân Đồn nằm ở vị trí chiến lược thương mại và quốc phòng. Vào thời

Lý, trước khi được chính thức thành lập “trang Vân Đồn”, thì khu vực này

chứng kiến quá trình tiến công bằng đường thủy vào cửa biển Châu Khiêm,

Châu Liêm sau đó hợp với cánh quân bộ vây đánh Châu Ung của tướng Lý

Thường Kiệt. Sau đó, vùng Vân Đồn không có trận chiến nào lớn đến tận vào

thế kỷ XIII, khi đế quốc Mông Cổ nổi lên gây chiến khắp nơi. Đại Việt có 3

lần chiến thắng quân Mông - Nguyên năm 1257, 1285, 1288. Khu vực Vân

Đồn tham gia trực tiếp vào chiến thắng lần thứ ba, năm 1288.

Năm 1286, sau khi biết tin nhà Nguyên chuẩn bị binh thuyền, nhà Trần

đã tăng cường việc phòng thủ đường biển, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư

đã được phong làm Phó tướng, đóng quân ở Vân Đồn.

Theo Hà Văn Tấn: tháng 12/1287, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp xuất phát từ

Châu Khâm, đem theo 18.000 quân cùng vài vạn quân của Mã Vị, Trương

Ngọc, Lưu Khuê, mang theo chiến thuyền đến thẳng vào vùng Vạn Kiếp,

không chú ý đến đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Đến tháng 2/1288,

đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ không có chiến thuyền bảo

vệ đã chậm chạp tiến vào Hạ Long, lọt vào trận địa của Trần Khánh Dư. Thủy

quân ta đã tập kích thuyền giặc ở Vân Đồn. Trương Văn Hổ cố gắng tiến về

phía đất liền nhưng đến vùng Cửa Lục thì thuyền quan ta đổ ra đánh càng

đông, Trương Văn Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển trốn chạy về vùng Hải

Nam. Quân ta chiến thắng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không

70

kể xiết, tù binh cũng rất đông. Theo Nguyên sử: địch chết 220 tên, thuyền mất

11 chiếc, lương mất 14.300 thạch. Chiến thắng Vân Đồn có ý nghĩa rất lớn

đối với toàn bộ cuộc kháng chiến lần thứ ba của quân dân Đại Việt. Tư đó vấn

đề lương thực trở nên vô cùng khó khăn đối với kẻ thù [82, tr.260-264].

Theo Đỗ Văn Ninh: khi thuyền lương của Trương Văn Hổ tới vùng đảo

Vân Hải, tại đây một lực lượng nhỏ 30 thuyền của ta đón đánh. Quân địch

thiệt hại không nhiều. Trận đánh này diễn ra ở đoạn sông Mang và Cống Cái.

Vì ở đây địa thế hẹp, ngắn, không cho phép số đông thuyền lọt cả vào trận địa

nên ta phải tách để đánh, nhằm tiêu hao dần lực chiến đấu của Ô Mã Nhi [60,

tr.224]. Như vậy, khu vực Cống Cái có tham gia vào quá trình chiến đấu với

đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ.

Tại khu vực thung lũng Sơn Hào, lớp văn hóa thời Trần khá dày, hiện

vật tập trung đặc biệt là nhóm gốm men cao cấp có nguồn gốc Việt Nam và

Trung Quốc, có số lượng khá nhiều, có thể là hàng hóa buôn bán cũng có thể

là đồ dùng sinh hoạt của tầng lớp thượng lưu hoặc tướng lĩnh. Nhóm đồ gốm

men bình dân có số lượng lớn có thể phục vụ đời sống sinh hoạt của cư dân

và quân lính. Nhóm đinh sắt dùng để đóng thuyền và các mảnh mũi

dao/kiếm?, có mặt rất tập trung trong các lớp dưới ở hố H5.

Như đã nói ở trên, số lượng lớn đinh sắt, đồ gốm men, đồ sành xuất lộ

tập trung tại các lớp dưới hố H5 thể hiện sự đột biến về số lượng dân cư hoặc

binh lính trong khoảng thời gian ngắn, thêm vào đó là nhóm đinh thuyền có

thể liên quan đến việc đóng tàu/thuyền phục vụ trận đánh. Ngoài ra, vị trí địa

lý ở thung lũng Sơn Hào rất phù hợp với việc mai phục, đón đánh các trận

nhỏ nhằm tiêu hao sinh lực địch.

Hiện nay, tại Đình Quan Lạn thờ Trần Khánh Dư thay vào vị trí của

Thành hoàng ở bàn thờ chính giữa Hậu cung. Ngoài ra ông còn được lập

71

Nghè để thờ. Đình và Nghè, ban đầu được xây dựng ở Cái Làng nhưng sau đó

di chuyển về thôn Thái Hòa và thôn Bắc. Vẫn còn dấu vết tại vụng Nghè, nền

Đình ở Cái Làng. Tại xã Quan Lạn còn có 3 miếu thờ ba anh em tướng quan

họ Phạm, những vị tướng quân dưới trướng của Trần Khánh Dư. Theo truyền

thuyết thì ba người này đã tham gia vào trận đánh với Ô Mã Nhi tại Cửa Gót.

Hiện này, ba miếu này gồm miếu Đức Ông, Miếu Sao Ỏn, Miếu Đông Hồ và

một miếu Vân Sơn mới được xây dựng tại thôn Sơn Hào, gần vị trí chiến

thắng trận Vân Đồn xưa.

Mối quan hệ chặt chẽ giữa đình, nghè, miếu thể hiện rõ trong thủ tục lễ

hội hằng năm. Lễ hội được tổ chức 10-20/6 Âm lịch hàng năm. Trong thời

gian diễn ra Lễ hội, người dân không được ra khỏi đảo, gọi là “khóa làng”.

Theo quan sát từ lễ hội năm 2014, thì: đến ngày 16/6, làm lễ rước thần. Kiệu

rước từ Đình sang Nghè thờ Trần Khánh Dư. Sau đó rước hòm sắc phong tại

Nghè về Đình, cuộc rước sắc phong này có ý nghĩa là mời Đức thánh về duyệt

quân ngày hội. Ngày 17/6, rước binh khí và tế khí sang miếu Đức Ông. Sau

đó làm lễ tưởng nhớ và tôn vinh những người đã mất. Ngày 18/6, tiến hành

đua thuyền giữa hai giáp Văn và Võ. Các thuyền rồng sẽ đua tranh trong 3

vòng. Ngày 19/6 là ngày nghỉ ngơi, tụ tập, bàn luận. Ngày cuối cùng, rước sắc

thần trả về Nghè và làm lễ đóng cửa Đinh [110].

Di tích bến Cống Cái góp phần vào chiến thắng chống Mông - Nguyên

lần thứ 3 năm 1288, với chiến thắng này dã đập tan ý chí xâm lược Đại Việt

của đế chế Mông Cổ, còn có ý nghĩa tạo điều kiện tan rã cho đế quốc Mông

Cổ trên toàn thế giới, góp phần vào sự sống còn của các nước trong khu vực.

Sau khi chiến thắng quân Mông -Nguyên, thương cảng Vân Đồn trở lại những

72

ngày hoạt động hòa bình.

3.3. Tiểu kết chương 3

Cống Cái nằm trong hệ thống thương cảng Vân Đồn, có mối quan hệ với

các di tích trong cùng hệ thống sông Mang như Cái Làng, Con Quy, Mang

Thúng và xa hơn là với Cống Đông - Cống Tây. Đối với các di tích ở trên đảo

Quan Lạn, có thể nhận thấy rằng, di tích bến Con Quy đóng vai trò là “cửa

ngỏ” của thương cảng Vân Đồn, và di tích này tham gia vào hoạt động ngoại

thương sớm nhất. Tiếp đó, di tích bến Cống Cái và bến Cái Làng có khoảng

thời gian buôn bán mạnh mẽ khá giống nhau từ thế kỷ XII-XIV đối với Cống

Cái, XIV-XV đối với Cái Làng. Tuy nhiên trong thời gian sớm và muộn hơn,

ở 2 di tích này vẫn có hoạt động sinh sống của cư dân, kể cả buôn bán. Cùng

trong thời gian này, tại di tích Mang Thúng cũng diễn ra hoạt động thương

mại nhưng không mạnh mẽ và phát triển như ở 2 di tích trên. Khi di tích Cái

Làng bắt đầu suy tàn thì di tích Mang Thúng chấm dứt hoạt động ngoại

thương.

Đối với hệ thống các bến bãi ở Cống Đông - Cống Tây thì di tích bến

Cống Cái, Cái Làng đóng vai trò là bến trung tâm ở giai đoạn sớm sau đó dịch

chuyển đến Cống Đông - Cống Tây. Các dấu tích kiến trúc với quy mô lớn, số

lượng lớn hàng hóa xuất khẩu và sự phân hóa của các bến bãi đã cho thấy sự

phát triển mạnh mẽ của thương cảng Vân Đồn vào giai đoạn XIV-XVI cũng

như vai trò trung tâm của di tích này trong giai đoạn sau.

Bến Cống Cái là một khu vực quan trọng tham gia vào việc chuẩn bị cho

trận đánh của Trần Khánh Dư năm 1288, đánh tan đoàn thuyền lương của

Trương Văn Hổ, góp phần to lớn vào chiến thắng của nhà Trần, chấm dứt lần

73

xâm lược thứ ba của quân Nguyên Mông.

KẾT LUẬN

Từ kết quả khảo sát và nghiên cứu từ năm 2012-2019, đã có thể xác

định, bến Cống Cái là một làng cổ, có dân cư sinh sống khá trù phú vào thời

cuối thời Lý - đầu thời Trần. Đánh bắt hải sản có thể là sinh kế phổ biến của

cư dân Sơn Hào. Rèn sắt và có thể cả làm gốm là những hoạt động thủ công ở

đây. Cư dân ở đây đã tham gia tích cực vào các hoạt động trao đổi hàng hóa,

đặc biệt là với nhiều vùng của Trung Quốc vào giai đoạn thế kỉ XII-XIV, như

chứng thực bởi sự có mặt của nhiều dòng gốm sứ khác nhau. Đặc biệt, vào

thời Trần mật độ người có mặt trong di tích có thể rất lớn, thể hiện bởi số

lượng lớn đồ gốm, sành, gốm men và các loại hình hiện vật khác cùng thời

phát hiện được trong khu vực thung lũng Sơn Hào. Dấu tích trong khu vực hố

H5 có thể xác định có liên quan đến việc chuẩn bị cho trận đánh của Trần

Khánh Dư, đánh tan đoàn thuyền lương của quân Nguyên năm 1288.

Đặc điểm địa hình và các dấu tích khảo cổ học hiện biết cho thấy bến

Cống Cái là nơi neo đậu tàu, căn cứ vào các loại hình di tích có mặt trên bề

mặt và di vật có mặt trong các hố khai quật. Tuy nhiên các dấu tích kiến trúc

đã phát lộ còn hạn chế, chưa đủ để xác định quy mô hoặc tính chất của bến

bãi vào thời kỳ này. Phạm vi hoạt động của bến cũng có thể tập trung chủ yếu

ở bên ngoài vụng.

Vào thời Lê, đặc biệt là thời Lê Trung Hưng, có thể thấy đây là một bến

thuyền rất nhộn nhịp và đông đúc. Có thể đây là nơi tập kết, trao đổi một số

loại hàng hóa sử dụng đồ đựng là các loại lon, vại, hũ bằng sành, căn cứ vào

sự có mặt dày đặc của chúng trên bờ vụng và trong các hố đào ở khu vực này.

Những kiến trúc được tạo dựng chủ yếu vào thời Lê Trung Hưng quanh chân

74

Đồi Đình góp phần chứng thực cho nhận định này. Với những chứng cứ còn ít

ỏi, có thể giả thiết rằng đó là các khu vực chứa hàng và là nơi giao nhận. Khu

vực này có thể hoạt động đồng thời với bến Cái Làng.

Sự vắng mặt của đồ gốm men Trung Quốc và Việt Nam từ sau thế kỉ

XIV cho thấy có một giai đoạn trầm lắng của khu di tích này vào khoảng thế

kỉ XV-XVI. Nhận định này cũng được chứng thực thêm bởi sự có mặt của

tiền thời Tống và tiền thời Lê Trung Hưng là chủ yếu trong các khu vực đã

khảo sát, nghiên cứu.

Hiện nay, giữa các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi về vị trí trung tâm

của thương cảng Vân Đồn qua từng giai đoạn lịch sử. Có hai quan điểm trái

ngược nhau: “Thứ nhất cho rằng, trung tâm của thương cảng thời Lý, Trần,

Lê, Mạc nằm ở khu vực bến Cái Làng - Cống Cái (xã Quan Lạn), đến thời

Nguyễn thì chuyển về Vụng Huyện (xã Thắng Lợi) với tư cách là trung tâm

huyện Nghiêu Phong chứ không còn giữ vai tròn là trung tâm thương cảng.

Thứ hai lại cho rằng, trung tâm thương cảng thời Lý - Trần nằm ở đảo Thừa

Cống, thời Lê - Mạc dịch chuyển ra bến Cái Làng - Cống Cái, sang thời

Nguyễn thì chuyển về Vụng Huyện” [10, tr.326]. Với kết quả nghiên cứu của

tôi, di tích bến Cống Cái nói riêng và các bến trên đảo Quan Lạn nói chung đã

tham gia vào hoạt động ngoại thương gần như sớm nhất, là trung tâm của

thương cảng vào giai đoạn sớm. Việc xuất lộ số lượng lớn di vật gốm men

trắng mang truyền thống lò Định và nhóm gốm men nâu Trung Quốc có niên

đại thế kỷ XII-XIII hoặc sớm hơn và hàng loạt các đồng tiền thời Tống đã

minh chứng rõ cho điều này. Với việc tham gia vào hoạt động ngoại thương

sôi nổi, cư dân ngày càng đông đúc vào khoảng thế kỷ XIII-XIV, lập nên làng

cổ Sơn Hào. Sau trận đánh của Trần Khánh Dư, cuối thế kỷ XIII, có thể do

tàn phá của chiến tranh, dân cư ở khu vực bến Cống Cái ngày càng thưa,

thương mại bắt đầu đấu hiệu suy tàn. Sang cuối thế kỷ XIV- đầu thế kỷ XV,

75

bến Cống Cái đánh mất vị trí trung tâm trong thương cảng Vân Đồn. Trong

giai đoạn suy tàn của bến Cống Cái, ở đảo Thừa Cống đã phát triển hệ thống

các bến cảng, tham gia mạnh mẽ vào hoạt động ngoại thương. Cống Đông -

Cống Tây trở thành trung tâm thương cảng Vân Đồn giai đoạn thế kỷ XIV-

XVI. Từ thế kỷ XVII, thương cảng Vân Đồn dần đánh mất vị trí trung tâm

của nó, mặc dù vẫn còn các hoạt động nhưng không tập trung và sôi nổi như

76

các giai đoạn trước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Abe Yuriko (2003), “Đồ gốm sứ và mối giao lưu Việt Nam- Nhật Bản, con

đường giao dịch buôn bán tại Đông Á và Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa quốc tế,

số 9, tr.134-138.

2. Bảo tàng lịch sử Quốc gia Việt Nam (2006), Kho báu tiền cổ Đại Việt.

3. Bảo tàng lịch sử Quốc gia Việt Nam (2014), Văn hóa Nhật Bản/ The culture

of Japan, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

4. BQL các DT trọng điểm Quảng Ninh (2009), Kỷ yếu hội thảo khoa học:

“Thương cảng Vân Đồn – lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa”,

Quảng Ninh.

5. BQL các DT trọng điểm Quảng Ninh (2010), Di tích lịch sử - văn hóa

thương cảng Vân Đồn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. BQL các DT trọng điểm Quảng Ninh (2011), Khu di tích lịch sử chiến

thắng Bạch Đằng năm 1288, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. BQL di tích thắng cảnh Quảng Ninh (2001), Lý lịch di tích lịch sử thương

cảng Vân Đồn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.

8. BQL di tích thắng cảnh Quảng Ninh (2003), Lý lịch di tích lịch sử thương

cảng Vân Đồn - bến Cái Làng, xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Tư

liệu Bảo tàng Quảng Ninh.

9. BQL di tích thắng cảnh Quảng Ninh, Lý lịch di tích đình Quan Lạn, xã

Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.

10. Nguyễn Ngọc Chất và nnk (2009), “Nghiên cứu hệ thống di tích thương

cảng Vân Đồn, kết quả và nhận thức”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2008,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.326-327.

77

11. Nguyễn Ngọc Chất và nnk (2009), Báo cáo khai quật Bảo Tháp (xã Thắng

Lợi, huyện Vân Đồn) năm 2009, Tư liệu BT Lịch sử quốc gia.

12. Nguyễn Ngọc Chất và nnk (2011), Báo cáo khai quật Bảo Tháp (xã Thắng

Lợi, huyện Vân Đồn) năm 2010, Tư liệu BT Lịch sử quốc gia.

13. Nguyễn Phương Chi (2005), “Vài nét tình hình kinh tế thời Trần Nhân

Tông (1258-1308)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5, tr.24-31.

14. Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng (2007), “Về các mối giao

thương của quốc gia Đại Việt thời Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV)”, Tạp chí Nghiên cứu

Lịch sử, số 7, tr.23-37.

15. Hoàng Xuân Chinh và nnk (1966), Báo cáo thăm dò hải đảo Tuần Châu

và Vân Đồn, Tư liệu Viện Khảo cổ học

16. Hoàng Xuân Chinh, Đoàn Anh Tuấn (2013), “Bãi mảnh sành sứ cổ ven bờ

đảo Thẻ Vàng trên Vịnh Bái Tử Long”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2012,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.599-601.

17. Trình Năng Chung, Nguyễn Quang Miên, Trần Minh (2008), “Phát hiện

bến gốm sứ cổ ở đảo Cái Bầu, Vân Đồn, Quảng Ninh”, Những phát hiện mới về

Khảo cổ học 2007, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.443.

18. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 3, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

19. Trần Khánh Chương (2017), Gốm Việt Nam, kỹ thuật và nghệ thuật, Nxb

Mỹ Thuật, Hà Nội.

20. Nguyễn Lân Cường (1967), Báo cáo đợt điều tra Quảng Ninh, Tư liệu

Viện Khảo cổ học.

21. Trần Anh Dũng (1992), “Góp thêm một số phương pháp chống dính men ở

giai đoạn 10 thế kỷ sau công nguyên”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1991,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.126-127.

78

22. Trần Anh Dũng (1998), “Về công dụng của một loại hiên vật sành”,

Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1997, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.595-

597.

23. Trần Anh Dũng (1999), “Một loại dụng cụ kê gốm đặc biệt”, Những phát

hiện mới về Khảo cổ học 1998, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.435-436.

24. Trần Anh Dũng (2001), “Con kê gốm thời Trần”, Những phát hiện mới về

Khảo cổ học 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.590-593.

25. Trần Anh Dũng (2010), “Đồ sứ lò Đức Hóa (Trung Quốc) phát hiện được

ở miền bắc Việt Nam”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2009, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội, tr.543-545.

26. Trần Anh Dũng, Bùi Minh Trí (1996), “Vài suy nghĩ về con kê gốm ở di

chỉ gốm Hợp Lễ”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1995, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, tr.300-301.

27. Trần Anh Dũng, Nguyễn Đức Bình (2013), “Nồi đun nấu thời Trần – Hồ

phát hiện ở Đàn Nam Giao (Thanh Hóa)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học

2012, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.708-710.

28. Vũ Thị Khánh Duyên (2015), “Dấu tích đền, miếu Vân Sơn, tỉnh Quảng

Ninh”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2014, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.327-329.

29. Đại Việt sử ký toàn thư (1993), Nxb KHXH, Hà Nội.

30. Trần Trọng Hà (2009), “Dấu tích mộ thế kỷ I-III trên đảo Thẻ Vàng

(Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2008, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, tr.372-374.

31. Bùi Văn Hiếu (2014), Báo cáo kết quả điều tra các dấu tích thương mại

quốc tế ở Vân Đồn, Quảng Ninh, Tư liệu Viện Khảo cổ học

79

32. Bùi Văn Hiếu (2016), “Nghiên cứu khảo cổ học biển gần đây ở Vân Đồn

(Quảng Ninh)”, Tạp chí Khảo cổ học, số 5, tr.88-96.

33. Bùi Văn Hiếu (2018), Luận án Tiến sĩ: Thương cảng Hội An, Nước Mặn

qua tư liệu khảo cổ học.

34. Bùi Văn Hiếu, Đinh Thị Thanh Nga, Nguyễn Văn Hội (2015), “Khảo sát dấu

vết thương cảng Vân Đồn xã Thắng Lợi, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”, Những

phát hiện mới về Khảo cổ học 2014, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.762-764.

35. Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Ngọc Chất (2008), Báo cáo kết quả điều tra, khảo

sát hiện trạng hệ thống thương cảng Vân Đồn - Quảng Ninh năm 2007, Tư liệu Bảo

tàng Quảng Ninh.

36. Phạm Như Hồ, Doãn Quang, Phan Thúy Vân (2004), “Khai quật bến Cái

Làng (Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2003, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, tr.356-358.

37. Bùi Văn Hùng (2019), “Di tích Sơn Hào kêu cứu”, Những phát hiện mới

về Khảo cổ học 2018, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.831-832.

38. Hán Văn Khẩn (2003), “Đôi điều về gốm thương mại miền Bắc Việt Nam

thế kỷ XV-XVII”, Tạp chí Văn hóa quốc tế, số 9, tr.119-126.

39. Hán Văn Khẩn (2003), Báo cáo khai quật di tích Con Quy (Quảng Ninh),

Tư liệu Trường ĐHKHXH và NV Hà Nội.

40. Hán Văn Khẩn (2003), Báo cáo khai quật di tích Cống Tây (Quảng Ninh),

Tư liệu Trường ĐHKHXH và NV Hà Nội.

41. Hán Văn Khẩn (2004), “Khai quật Cống Tây (Quảng Ninh)”, Những phát

hiện mới về Khảo cổ học 2003, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.361-362.

42. Hán Văn Khẩn (2015), “Quá trình chiếm lĩnh và khai thác vùng duyên hải

Đông Bắc Việt Nam thời tiền sơ sử”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Khảo cổ học biển

đảo Việt Nam tiềm năng và triển vọng, tr.23-48.

80

43. Hán Văn Khẩn và nnk (2003), “Điều tra và khai quật một số di tích khảo

cổ học ở huyện Vân Đồn (Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học

2002, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.385-388.

44. Nguyễn Văn Kim (2006), “Hệ thống thương cảng Vân Đồn qua tư liệu lịch

sử và khảo cổ học”, Tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr.46-65.

45. Nguyễn Văn Kim cb (2011), Người Việt với biển, Nxb Thế giới, Hà Nội.

46. Nguyễn Văn Kim (2014), Vân Đồn thương cảng quốc tế của Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

47. Lê Cảnh Lam (2017), Báo cáo bảo quản và chụp X-quang hiện vật sắt, Tư

liệu đoàn khai quật di tích bến Cống Cái.

48. Lê Thị Liên (2014), Báo cáo khảo sát khai quật khảo cổ học đồ án: Bảo

tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng, tỉnh Quảng Ninh

năm 2014, Tư liệu Viện Khảo cổ học.

49. Lê Thị Liên (2017), Báo cáo khai quật di tích bến Cống Cái, thôn Sơn

Hào, xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Tư liệu Viện Khảo cổ.

50. Lê Thị Liên (2018), “Gốm men Trung Quốc trong cuộc khai quật di tích

bến Cống Cái, Sơn Hào (Quảng Ninh) năm 2016”, Những phát hiện mới về Khảo cổ

học 2017, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.681-685.

51. Lê Thị Liên, Jun Kimura, Mark Staniforth (2015), “Kết quả hợp tác nghiên

cứu khảo cổ học dưới nước năm 2013”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2014,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.751-753.

52. Lê Thị Liên, Mark Staniforth, Jun Kimura (2015), “Kết quả hợp tác nghiên

cứu khảo cổ học dưới nước năm 2014”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2014,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.753-755.

53. Lê Thị Liên, Trần Thị Minh, Jun Kimura, Christy Briles, John Pollack,

Mark Staniforth, Paddy O'toole (2014), Kết quả khảo sát cảng Vân Đồn và di tích

81

Bạch Đằng (Quảng Ninh) năm 2012, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2013,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.550-552

54. Lê Thị Liên, Sheppard Robbert Ernt John, Jun Kimura (2017), “Hợp tác

nghiên cứu khảo cổ học hàng hải năm 2016”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học

2016, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.681-683.

55. Lê Thị Liên, Sheppard Robbert Ernt John (2018), Báo cáo sơ bộ khảo sát

khảo cổ học ở các xã Quan Lạn – Minh Châu (Khu cảng cổ Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh), Tư liệu đoàn khảo sát gửi BT Quảng Ninh.

56. Lê Thị Liên, Sheppard Robbert Ernt John, Whitley Thomas (2019), Báo

cáo sơ bộ kết quả thăm dò di tích Đồng Chổi và khảo sát khảo cổ học ở các xã

Minh Châu-Quan Lạn, Tư liệu Bảo tàng Quảng Ninh.

57. Lê Thị Liên, Phạm Thị Hải Yến (2018), “Khai quật bến Cống Cái, Sơn

Hào xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh năm 2016-2107”, Những phát

hiện mới về Khảo cổ học 2017, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.654-658.

58. Trần Minh (2002), “Phát hiện thêm một bến bãi cổ có quy mô lớn ở Quảng

Ninh”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2001, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.602-604.

59. Đỗ Văn Ninh (1971), Tìm lại dấu vết Vân Đồn lịch sử, Ty Văn hóa Thông

tin Quảng Ninh.

60. Đỗ Văn Ninh (2004), Thương cảng Vân Đồn, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

61. Đỗ Văn Ninh, Trịnh Cao Tưởng (1974), “Chùa Lấm (Quảng Ninh) một

phế tích đời Trần mới được khai quật”, Tạp chí Khảo cổ học, số 15, tr.58-63.

62. Phạm Thị Ninh (1998), Báo cáo điều tra khảo sát khảo cổ học khu vực xây

dựng nhà máy nhiệt điện, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, Tư

liệu Viện Khảo cổ học.

82

63. Phạm Thị Ninh (1999), “Điều tra khảo sát khảo cổ học khu vực xây dựng

nhà máy nhiệt điện Hoành Bồ”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1998, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.180-181.

64. Nishimura Masanari, Nguyễn Thu Thủy 1998, Có một trung tâm sản xuất

gốm sứ sành tại xã Vạn Ninh, huyện Hải Ninh (Quảng Ninh), Những phát hiện mới

về khảo cổ học ăm 1997, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 561-564.

65. Đinh Thị Thanh Nga (2018), “Gốm men trong đợt khai quật lần thứ 6 khu

di tích Bạch Đằng (Quảng Ninh)”, Tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr.75-86.

66. Đinh Thị Thanh Nga (2018), “Gốm men Việt Nam trong cuộc khai quật di

tích bến Cống Cái, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh năm 2016”, Những phát hiện

mới về Khảo cổ học 2017, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.679-681.

67. Đinh Thị Thanh Nga (2018), Điều tra khảo sát hệ thống thương cảng Vân

Đồn tại huyện Tiên Yên, Quảng Ninh, Tư liệu Viện Khảo cổ học.

68. Đinh Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Thu Hương (2019), “Kết quả khảo sát

một số di tích ven biển huyện Tiên Yê, tỉnh Quảng Ninh”, Những phát hiện mới về

Khảo cổ học 2018, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.811-813.

69. Đinh Thị Thanh Nga, Lưu Văn Phú, Sheppard Robert Ernst John (2018),

“Hiện vật kim loại trong đợt khai quật di tích bến Cống Cái, Sơn Hào, huyện Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh năm 2016”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2017, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.677-678.

70. Đinh Thị Thanh Nga, Kiều Đình Sơn, Phạm Thanh Lâm (2018), “Tiếp tục khảo sát di tích Đồng Chổi, xã Minh Châu, huyện Vân Đồn (Quảng Ninh)”, Những

phát hiện mới về Khảo cổ học 2017, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.671-673.

71. Hà Hữu Nga (1999), Hạ Long lịch sử, BQL Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.

72. Hà Hữu Nga, Trình Năng Chung, Trần Văn Minh (2001), “Di tích Hạ

Long mới phát hiện trên huyện đảo Vân Đồn (Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới

về Khảo cổ học 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.116-118.

83

73. Noriko Masanarino (2005), “Phân loại và thiết lập trình tự đồ gốm Trần

theo thời gian”, Một thế kỉ Khảo cổ học Việt Nam, Nxb KHXH, Tập II, tr. 457- 484.

74. Lưu Văn Phú, Lê thị Liên, Bùi Văn Hùng (2017), “Thêm một di tích văn

hóa Hạ Long ở xã Minh Châu, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”, Những phát hiện

mới về Khảo cổ học 2016, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.68-69.

75. Lưu Văn Phú, Bùi Văn Hùng, Ian Mccann (2017), “Sưu tập gốm văn hóa

Đông Sơn ở Quan Lạn, Vân Đồn”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2016, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.229-230.

76. Phạm Quốc Quân (2002), “Về một khuôn in hoa văn gốm men thời Trần”,

Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2001, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.748-749.

77. Vũ Hữu San (2003), “Vịnh Bắc Bộ - nơi mở đầu hàng hải”, Tạp chí Xưa

& nay, số 131, tr.26-30 & số 134, tr.25-27.

78. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb

Văn hóa, Hà Nội.

79. Đặng Hồng Sơn (2005), “Sưu tập tiền cổ bến Con Quy (Vân Đồn, Quảng

Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2004, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.716-721.

80. Nguyễn Khắc Sử (cb) (2005), Khảo cổ học vùng duyên hải đông bắc Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Sheppard Robert Ernt John, Đinh Thị Thanh Nga, Bùi Thị Giang (2019),

“Hợp tác nghiên cứu khảo cổ học hàng hải tại Vân Đồn năm 2019”, Bài viết tham

dự Hội nghị những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2019, Hà Nội.

82. Hà Văn Tấn, Phạm thị Tâm (1975), Cuộc kháng chiến chống xâm lược

Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

83. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2002), Địa chí Quảng Ninh,

tập 1, Nxb Thế giới.

84

84. Lại Văn Tới (1994), “Phát hiện mới ở bến Cái Làng, Cẩm Phả (Quảng

Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1993, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.213-214.

85. Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Nxb KHXH, Hà Nội.

86. Bùi Minh Trí (2003),“Tìm hiểu ngoại thương Việt Nam qua “con đường

gốm sứ trên biển”, Tạp chí Khảo cổ học, số 5, tr.49-74.

87. Cao Hùng Trưng, Hoa Bằng dịch (2017), An Nam chí nguyên, Nxb ĐH Sư

Phạm, Hà Nội.

88. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

89. Trịnh Cao Tưởng (1971), Báo cáo khai quật Chùa Lấm trên đảo Thừa

Cống, Quảng Ninh, Tư liệu Viện Khảo cổ học.

90. Trịnh Cao Tưởng (1991), “Mở đầu việc nghiên cứu thương cảng cổ Việt

Nam trong lịch sử trên phương diện khảo cổ học”, Tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr.66-69.

91. Trịnh Cao Tưởng (2001), “Gốm mậu dịch Việt Nam thế kỷ 14”, Những

phát hiện mới về Khảo cổ học 2000, Nxb Khoa học xã hội, tr.560-562.

92. Trịnh Cao Tưởng (2002), “Những phát hiện mới về thương cảng Vân Đồn

(Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2001, Nxb Khoa học xã hội,

tr.410-413.

93. Trịnh Cao Tưởng (2002), Điều tra Khảo cổ học một số thương cảng cổ ở

miền bắc Việt Nam từ TK IX – TK XVII, Tư liệu Viện Khảo cổ.

94. Trịnh Cao Tưởng (2007), Một chặng đường tìm về quá khứ, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

95. Bùi Vinh, Đào Quý Cảnh, Trần Hà (1998), “Khu sản xuất gốm sứ Vạn

Ninh (Quảng Ninh)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1997, Nxb Khoa học xã

hội, tr.557-558.

85

II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

96. Bob Sheppard (2016), A brief report on the use of archaeo metal detection at

Son Hao for the Vietnam Maritime Archaeology Project 2016, Tư liệu Viện Khảo cổ học.

97. Christy Briles, Olga Serenchenko, Lora Stevens, A. J. White and Nguyen

Thi Mai Huong (2019), “Late Holocene anthropogenic and climatic impact on a

tropical island ecosystem of Northern Vietnam”, Ecology and evolution, Vol.7,

Article 121.

98. Jun Kimura, Mark Staniforth, Paddy O’Toole, Lê Thị Liên và Bùi Văn

Hiếu 2014. Activity Report of the 2014 Fieldwork in Vietnam: Naval Battlefield

Study at the Bach Dang River and Van Don sites, Tư liệu Viện Khảo cổ học.

99. Le Thi Lien, Dinh Thanh Nga, Bob Sheppard, Christy Briles, Paddy

O’Toole, Jun Kimura and Mark Staniforth (2016), Recent research into the ancient

port of Van Don, Bài trình bày tại Hội thảo SEAMEO SPAFA lần thứ 2.

100. Paddy O’Toole (2016), Remembering the Battle of Van Don.

101. Sheppard Robert Ernst John (2019), Notes on xrayed metal artefacts,

Vietnam Maritime Archaeology Project.

III. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG QUỐC

102. Natioanal Palace Museum 1992. Ding Yao - Catalogue of the special

Exhibition of Ting ware white Porcelain, Published by Natioanal Palace Museum,

Taipei.

103. Quangxi Zhuang zu zi zhi quwen wu gong zuo dui (2006) (ed.). Quangxi

Kao gu wenxi, Vol. 3.

104. Valenstein, Suzanne G. (1989), A handbook of Chinese ceramics, New

York: the Metropolitan Museum of Art.

105. Ye Wencheng, Lin Zhong Gan (1993), Fujian tao ci, Fujian Renmin chu

ben she.

86

PHỤ LỤC

BẢNG THỐNG KÊ

87

Phụ lục 1: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái

Trung Quốc

Việt Nam

Địa điểm

Tổng

Gốm men

Gốm men

Đồ sành

Mảnh

ĐD Mảnh ĐD Mảnh

Ngói

Chì lưới Xương

14CC.TS1

2

3

116

121

14CC.TS2

1

1

6

8

14CC.TS3

1

9

1

1

12

14SH3.ST

2

1

50

20

6

79

14SH4.ST

11

50

3

48

1

2

115

13

2

103

7

199

1

1

335

9

Tổng

Phụ lục 2: Bảng thống kê hiện vật khảo sát tháng 3 năm 2016 tại di tích bến Cống Cái

Đá Tổng

Hố thám sát

Sành mịn

Ghè tròn

VL KT

Chì lưới

Xư ơng

Gốm có áo

Sành thô/ gốm

Cốc rót KL

Đồ kim loại

Gốm men Trung Quốc

Gốm men Việt Nam

16SH.TS1

82

910

277 1468 230

2

226

1

8

1

2

3207

16SH.TS2

10

27

11

76

8

3

2

137

16SH.TS3

45

139

117

380

82

73

3

839

16SH.TS4

12

163

89

462

89

21

2

1

1

840

16SH.TS5

70

12

54

13

149

16SH.TS6

5

5

Tổng

149

1309 506 2445 409

2

336

1

15

1

1

5177

3

88

Phụ lục 3: Bảng thống kê hiện vật khảo sát năm 2017 tại di tích bến Cống Cái

Tổng

Hố thám sát

Gốm có áo

Sành mịn

Ghè tròn

Ng ói

Đồ KL

Thiên thạch

Chì lưới

Gốm men VN

Gốm men TQ

Sành thô /gốm

17SH.TS1

17

69

9

2

174

41

4

316

1

4

1

1

9 16

7 5 1

6

1

2

63 35 1 7

1

36 33 10 9 3

1

230 242 31 70 5 5

1

17SH.TS2 17SH.TS3 17SH.TS4 17SH.TS5 17SH.P9 17SH.P10* 17SH.P11 17SH.P12 Tổng

3 1 1 1 16

352 331 50 89 11 8 1 1 1159

160

23

4

757

148

42

6

2

1

 P: Hố kiểm tra bằng máy dò kim loại

Phụ lục 4: Bảng thống kê hiện vật khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến Cống Cái

Ngói

Tổng

Hố khai quật

Gốm có áo

Sành mịn

Ghè tròn

Đồ KL

Thiên thạch

Chì lưới

HV khác

Gốm men VN

Gốm men TQ

Sành thô /gốm

16SH.H1

75

4

18

1174

40

6

2

1320

16SH.H2

108

8

0

1479

88

1684

16SH.H3

333

56

27

1570

385

39

4

7

2

2420

16SH.H4

145

65

141

404

59

1

4

776

4

16SH.H5

2585

1037 3424

6405 1605

11

126

334

18

23 15492

16SH.TS7

12

7

2

110

10

2

142

16SH.TS8

64

30

100

253

43

4

490

16SH.ST

9

1

35

4

1

1

51

Tổng

3331

1208 3712 11430 2234

59

132

342

8

19

29 22375

89

Phụ lục 5: Bảng thống kê các dòng gốm men Việt Nam khai quật tháng 8/2016

Tổng

%

Men ngọc

Men nâu

Hố khai quật

Men trắng

Gốm hoa nâu

Hai dòng men

Gốm hoa lam

1

1

27 10

3 1 5 4 55

11 7 45

9

1 2

333

1

1

2

1,5 3,5 10,2 4,9 78 0,3 1,6 0,1

100

44 106 302 145 2306 9 49 3 2964 100

16SH.H1 16SH.H2 16SH.H3 16SH.H4 16SH.H5 16SH.TS7 16SH.TS8 16SH.ST Tổng %

40 78 275 133 1862 9 43 2 2442 82,4

2 1 373 12,6

66 2,2

69 2,3

4 0,1

10 0,3 Phụ lục 6: Bảng thống kê các dòng gốm men Trung Quốc khai quật tháng 8/2016

KXĐ

Tổng %

Men trắng

Men ngọc

Men nâu

Gốm hoa lam

8 21 344

10 124

10

3

6

5

1

0,3 0,6 4,6 5,4 86 0,6 2,5

100

16SH.H1 16SH.H2 16SH.H3 16SH.H4 16SH.H5 16SH.TS7 16SH.TS8 16SH.ST Tổng %

379 31,5

4 8 48 34 556 7 18 1 676 56

139 11,5

11 0,9

3 0,2

4 8 56 65 1037 7 30 1 1208 100

90

Phụ lục 7: Bảng thống kê tiền đồng năm 2014-2017

Hố/lớp

Dày

Chữ

Niên đại

Số lượng

Đường kính

Viền rộng

Nguốn gốc

Kích thước lỗ

16SH.CC1

2,5

0,1

0,7

0,2

1

TQ

1068-1094

Nguyên Hựu Thông Bảo

16SH.TS3.L6

1

16SH.H5.L5b

2,5

0,1

1

0,8

0,2 … …. Thông Bảo

16SH.H5.L6

2,8

0,1

1

0,3

Chính Hòa ... Bảo

TQ

1111-1118

0,7

16SH.H5.L6

0,1

1

0,2

….Nguyên Thông Bảo

16SH.H5.L6

0,1

1

0,3

... ... ... Bảo

2,9

0,15

0,7

0,25

16SH.H5.L6

1

16SH.H5.L6

1

16SH.H5.L6.F4

2,9

0,15

0,7

0,25

1

Chữ triện Chưa đọc được

16SH.H5.L6.F4

1

16SH.H5.L6.F4

1

1

16SH.H5.L7

2,9

0,15

0,7

0,3

TQ

1111-1118

Chính Hòa Thông Bảo

17SH.TS1.L5

-

-

1

-

-

17SH.TS2.L2

-

-

1

-

-

TQ

1796-1820

17SH.TS3.P1

2,4

0,15

1

0,3

TQ

1094-1097

17SH.TS3.P1

2,5

0,15

1

0,15

VN

1225-1400

17SH.TS3.P1

6

17SH.TS4.LM

2,5

0,1

1

-

0,25

VN

1225-1400

17SH.TS4.LM

2,4

0,05

3

0,4

VN

1740-1786

Gia Khánh Thông Bảo Thiệu Thánh Nguyên Bảo Nguyên Phong Thông Bảo? Các đồng dính nhau, không đọc được Nguyên Phong Thông Bảo, chữ tiểu triện Cảnh Hưng Thông Bảo

17SH.TS4.LM

2,4

0,1

1

0,35

VN

1740-1786

Cảnh Hưng Chí Bảo

17SH.TS4.LM

2,3

0,1

1

0,3

VN

1740-1786

Cảnh Hưng Cự Bảo

Tổng số

28

91

Phụ lục 8: Bảng thống kê hiện vật sắt khai quật tháng 8/2016 tại di tích bến Cống Cái

Hố/lớp

Đinh

Dũa Ống

Mảnh Xỉ Tổng

Đinh móc

Dao /kiếm?

Tấm chắn?

Mũi nhọn

7

1

3 1

1

1

1 3 2 1

1

1

1

1

2 3

2

4

1

1

1

4

2 9

1

1 4 5 1 1 32 1 15 6 1

2 1

1

4 5 4

1

1 6 9 12 10 1 6 38 3 14 74 2 1 3 10 8 1 204

1

20

1

1

5

316 2 9 13 22 17 2 8 74 4 31 90 3 1 9 17 13 1 324

83

7

2

16SH.H3 H3.L1 H3.L4 H3.L5 H3.L6 16SH.H4. F1.L2b 16SH.H5 H5.ST H5.L2 H5.L3 H5.L4 H5.L4.F2 H5.L4.F3 H5.L5a H5.L5b H5.L6 H5.L6.ô1 H5.L6.F4 H5.L7.ô1 H5.L7.ô5 H5.L7.F4 H5.L8.F4 H5.L9 H5.L10 Tổng

92

PHỤC LỤC BẢN ĐỒ - SƠ ĐỒ

93

Phụ lục 9: Bản đồ huyện Vân Đồn (Nguồn: 83, tr.90)

94

Phụ lục 10: Bản đồ khu vực khảo sát tại di tích bến Cống Cái năm 2014 (Nguồn: 31, tr.14)

Phụ lục 11: Bản đồ khu vực khảo sát tại di tích Mang Thúng năm 2014 (Nguồn: 35, tr.14)

Ghi chú: Màu trắng: Các điểm lặn bằng bình khí nén Màu vàng: Khu ven bờ có chứa hiện vật

95

Phụ lục 12: Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực phía bắc bến Cống Cái năm 2014-2017 (Nguồn: GoogleEarth.com)

96

Phụ lục 13: Bản đồ vị trí các hố thám sát và khai quật tại khu vực thung lũng Sơn Hào năm 2014-2017 (Nguồn: GoogleEarth.com)

1. 14SH3 7. 16SH.TS2 13. 16SH.H1 19. 16SH.TS8

2. 14SH4 8. 16SH.TS3 14. 16SH.H2 20. 17SH.TS1

3. 14CC.TS1 9. 16SH.TS4 15. 16SH.H3 21. 17SH.TS2

4. 14CC.TS2 10. 16SH.TS5 16. 16SH.H4 22. 17SH.TS3

5. 14CC.TS3 11. 16SH.TS6 17. 16SH.H5 23. 17SH.TS4

6. 16SH.TS1 12. 16CC.TS1 18. 16SH.TS7 24. 17SH.TS5

97

Phụ lục 14: Sơ đồ khu vực khảo sát bằng máy dò kim loại và các hố thăm dò tháng 3/ 2016 [Nguồn: 96, pg.4]

98

Phụ lục 15: Sơ đồ vị trí các hố khai quật tại di tích bến Cống Cái năm

2016 (Nguồn: 49, tr.207)

99

Phụ lục 16: Bản đồ vị trí các viên đá buộc thuyền và Giếng Đình tại bến Cống Cái (Nguồn: GoogleEarth.com)

Phụ lục 17: Sơ đồ vị trí ô khảo sát (Grid) và hố kiểm tra tại di tích Sơn

Hào năm 2019 (Nguồn: 56, tr.3)

100

Phụ lục 18: Bản đồ các di tích thuộc xã Quan Lạn và Minh Châu

(Nguồn: GoogleEarth.com)

Phụ lục 19: Bản đồ các di tích trên đảo Thừa Cống (Nguồn: GoogleEarth.com)

101

Phụ lục 20: Bản đồ các cụm di tích thuộc hệ thống thương cảng Vân Đồn (Nguồn: GoogleEarth.com)

A. Cụm Cống Cái - Cái Làng - Con Quy

C. Cụm Cống Yên – Cống Hẹp

D. Cụm Gạo Rang

B. Cụm Cống Đông - Cống Tây

E. Cụm Vạn Ninh

102

Phụ lục 21: Hành trình hàng hải đi qua Vân Đồn (Nguồn: 60, tr.181)

103

PHỤ LỤC BẢN ẢNH - BẢN VẼ

104

h1. Khoan mẫu đất năm 2012 h2. Khoan mẫu đất năm 2015

h3. Địa tầng điểm 14SH3 h4. Địa tầng điểm 14SH4

h5. Hiện trạng di vật ở vụng Cống Cái h6. Hố 14CC.TS1

h7. Giếng Đình năm 2016 h8. Hố thám sát 16CC.TS1

Phụ lục 22: Ảnh khảo sát năm 2012, 2014, 2015, 2016 tại bến Cống Cái

(Ảnh: VMAP, Bùi Văn Hiếu)

105

h1: Địa tầng điểm khảo sát 14SH3

h2: Địa tầng điểm khảo sát 14SH4

Phụ lục 23: Bản vẽ địa tầng khảo sát năm 2014 tại di tích bến Cống Cái

(Bv: Bùi Văn Hiếu, Lê Thị Liên)

106

h1. Mặt bằng 16SH.TS1.L8

h2. Mặt cắt vách đông hố 16SH.TS1

Phụ lục 24: Bản vẽ hố 16SH.TS1 (Nguồn: 49, Bv 2-3)

107

h1. Mặt cắt vách Đông hố 16SH.TS2

h2. Mặt bằng hố 16SH.TS3

h3. Mặt cắt vách đông hố 16SH.TS3

Phụ lục 25: Bản vẽ hố 16SH.TS2, TS3 (Nguồn: 49, Bv 4-6)

108

h1. Mặt vách nam hố 16SH.TS4

h2. Mặt cắt vách đông hố 16SH.TS5

h3. Mặt vách Tây hố 16SH.TS6

Phụ lục 26: Bản vẽ hố 16SH.TS4, TS5, TS6 (Nguồn: 49, Bv 7-9)

109

h1: Mặt bằng hố 16SH.H1 h2. Địa tầng vách bắc hố 16SH.H1

h3. Địa tầng vách đông hố 16SH.H1 (Ảnh: Lưu Văn Phú)

h4. Mặt bằng hố 16SH.H2.L4 (Ảnh: Tác giả)

h5. Mặt bằng hố 16SH.H3.L2 (Ảnh: Lê Thị Liên)

Phụ lục 27: Ảnh khai quật hố H1, H2, H3 năm 2016 tại bến Cống Cái

110

h1. Dấu tích hố chôn cột ở hố 16SH.H4

h2. Vách nam hố gia cố chân cột H4 h3. Vách tây hố gia cố chân cột 16SH.H4

h4. Bề mặt 16SH.H5.L5b h5. Bề mặt 16SH.H5.L6.F4

h6. Mặt cắt vách Bắc hố 16SH.H5

Phụ lục 28: Ảnh khai quật hố H4, H5 năm 2016 (Ảnh: Lê Thị Liên)

111

h1. Địa tầng vách đông hố 16SH.TS1 h2. Mặt bằng hố 16SH.TS3.L4

h3. Vách tây hố 16.SH.TS6

h4. Hố thám sát 16SH.TS7 h5. Địa tầng hố 16SH.TS8

Phụ lục 29: Ảnh hố thám sát TS1, TS3, TS6, TS7, TS8 năm 2016

(Ảnh: VMAP, Tác giả, Lê Thị Liên)

112

h1. Ảnh 3D toàn cảnh Giếng Đình năm 2016

h2. Giếng Đình năm 2018 h3. Đá neo thuyền, viên số 5 và số 6

Phụ lục 30: Ảnh di tích Giếng Đình và đá neo thuyền (Ảnh: VMAP)

113

h1. Di tích Cái Làng h2. Di tích Mang Thúng

h3. Di tích Vụng Thôn 2 h4. Di tích Vụng Thôn 3

h5. Di tích Vụng Chuồng Bò h6.Di tích Vụng Huyện 1

h7. Di tích Bến Gạo Rang h8. Di tích Thoi Sành

Phụ lục 31: Ảnh một số di tích khác trong hệ thống thương cảng Vân Đồn

(Ảnh: Tác giả)

114

h1.Mặt bằng hố H1.L2

h2.Mặt bằng hố H1.L3

Phụ lục 32: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H1 (Bv: Lưu Văn Phú)

115

h2. Địa tầng vách Đông

h1. Mặt bằng L6

Phụ lục 33: Bản vẽ mặt bằng và địa tầng hố 16SH.H1 (Bv: Lưu Văn Phú)

116

Phụ lục 34: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H2.L2-L5 (Bv: Tác giả)

Phụ lục 35: Bản vẽ mặt cắt vách bắc hố 16SH.H3 (Bv: Tác giả)

117

Phụ lục 36: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H3, 17SH.TS2, 17SH.TS3

(Bv: Tác giả, Bùi Văn Hùng)

118

Phụ lục 37: Ảnh 3D hố 16SH.H3 và 17SH.TS1, TS2 (Ảnh 3D: VMAP)

119

h1

h2

h3

Phụ lục 38: Bản vẽ hố 16SH.H4 (Bv: Lưu Văn Phú)

h1.Mặt bằng H4.L2; h2.Mặt cắt di tích H4.L2.F1; h3.Mặt cắt vách Bắc

120

h1. Mặt bằng L5b

h2. Mặt bằng L6

Phụ lục 39: Bản vẽ mặt bằng hố 16SH.H5 (Bv: Lưu Văn Phú, Bùi Văn Hùng)

121

h1. Mặt cắt vách Đông

h2. Mặt cắt vách Tây

Phụ lục 40: Bản vẽ mặt cắt hố 16SH.H5 (Bv: Lưu Văn Phú, Bùi Văn Hùng)

122

h2. Mặt cắt hố TS8

h1. Mặt cắt vách Bắc hố H5

Phụ lục 41: Bản vẽ địa tầng hố 16SH.H5, TS8 (Bv: Lưu Văn Phú)

123

h1. Bát 16SH.H5.L8.F4: 121, men trắng Việt Nam, TK 14

h2. Bát 16SH.H3.L6: 5, men trắng Việt Nam, TK 13-14

h3. Bát 16SH.H5.L6.F4: 83, men trắng Việt Nam, TK 13-14

Phụ lục 42: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

124

h1. Bát 16SH.H3.L4: 3, men trắng Việt Nam, TK 13

h2. Bát 16SH.H5.L5b: 27, men trắng Việt Nam, TK 13

h3. Bát 16SH.H5.L7.ô1: 100, men trắng Việt Nam, TK 13

Phụ lục 43: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

125

h1. Bát 16SH.H5.L7.ô1: 102, men trắng Việt Nam, TK 13

h2. Bát 16SH.H5.L7.ô5: 104, men trắng Việt Nam, TK 13

H3. Bát 16SH.H5.L6.F4: 84, men trắng Việt Nam, TK 13

Phụ lục 44: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

126

h1. Bát 16SH.H5.L7.F4: 101, men trắng Việt Nam, TK 13

h2. Bát 16SH.H5.L7.F4: 103, men trắng Việt Nam, TK 13

h3. Bát 16SH.H5.ST: 105, men trắng Việt Nam, TK 14

Phụ lục 45: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

127

h1. Đĩa 16SH.H3.L3: 8, men trắng Việt Nam, TK 13-14

h2. Đĩa 16SH.H5.L6.F4: 85, men trắng Việt Nam, TK 13-14

h3. Đĩa 16SH.H5.L8.F4: 107, men trắng Việt Nam, TK 13-14

h4. Đĩa 16SH.H5.L8.F4: 112, men trắng Việt Nam, TK 13

Phụ lục 46: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu

128

h1. Bát 16SH.H5.L6.F4: 81, men nâu Việt Nam, TK 13-14

h2. Gốm men ngọc, 16SH.H3

H3. Gốm hoa nâu 16SH.H3, H5

Phụ lục 47: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu, ngọc, hoa nâu Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu

129

h1.Đĩa 16SH.H5.L4.F2: 110, gốm hoa lam, TK 16-17

h2. Bát 16SH.H3.L1: 1, gốm hoa lam TK 17-18

h3. Bát 16SH.H5.L4.F2: 111, gốm hoa lam TK 17-18

Phụ lục 48: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

130

h1.Bát 16SH.H5.L6.F4: 87, gốm hoa lam TK 17-18

h2. Bát 16SH.H5.L4.F2: 127, gốm hoa lam TK 19-20

Phụ lục 49: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam Việt Nam

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

131

h1. Đĩa 16SH.H5.L7.F4: 118, men trắng Trung Quốc, TK 11-12

h2. Hộp 16SH.H5.L7: 114 (trái) và H5.L7.ô1: 113 (phải), men trắng TQ, TK 11-12

Phụ lục 50: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

132

11. Đĩa 16SH.H5.L7.ô5: 134, men trắng Trung Quốc, TK 11-12

h2.Hộp 16SH.H5.L6.ô1: 117, H5.L6.F4: 116, H5.L3: 115 h3. 16SH.H5.L5b:501

h4. Chân đế in khuôn, men trắng Trung Quốc, TK 11-12

Phụ lục 51: Ảnh-bản vẽ gốm men trắng Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

133

h1.Đĩa 16SH.H5.L8.F4: 108, men ngọc TQ, nhóm 1, TK 9-10

h2. Đĩa 16SH.H5.L6.ô1: 106 và miệng bình 16SH.H5.L6.F4: 565, men ngọc TQ, nhóm 1,

TK 9-10

h3. Bát 16SH.H5.L8.F4: 123, men ngọc TQ, nhóm 3, TK 12-13

Phụ lục 52: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

134

h1. Bát 16SH.H5.L8.F4: 124, men ngọc TQ, nhóm 4, TK 13

h2. 16SH.H5.L2: 560, men ngọc TQ, nhóm 4, TK 13

H4. Đáy bình/vò, men ngọc TQ, nhóm 6, TK

h3. 16SH.H5.L4: 536a, men ngọc TQ, nhóm 4, TK 13

13-14

Phụ lục 53: Ảnh-bản vẽ gốm men ngọc Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

135

h1. Bát 16SH.H5.L8.F4: 122, men nâu Trung Quốc, nhóm 1, TK 9-10

h2. Bát 16SH.H5.L8.F4: 120, men nâu Trung Quốc, nhóm 2, TK 11-12

h3. Đế H5.L7.ô1: 578, men nâu Trung Quốc, nhóm 2, TK 11-12

Phụ lục 54: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

136

h1. Bát H5.L7.ô1: 128, men nâu Trung Quốc, nhóm 3, TK 12-13

h2. Bát H5.L7: 129, men nâu Trung Quốc, nhóm 3, TK 12-13

h3. 16SH.H5.L6.F4: 130, men nâu Trung Quốc, nhóm 3, TK 12-13

Phụ lục 55: Ảnh-bản vẽ gốm men nâu Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

137

h1. Đĩa 16SH.H5.L4.F2: 125, gốm hoa lam Trung Quốc, TK 15-16

h2. Đĩa 16SH.H5.L4.F2: 126, gốm hoa lam Trung Quốc, TK 15-16

h3. Bát 16SH.H5.L6.F4: 82, KXĐ men, Trung Quốc

Phụ lục 56: Ảnh-bản vẽ gốm hoa lam và KXĐ men Trung Quốc

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

138

h1. Vò 16SH.H5.L6.F4: 131

h2. Chậu H5.L6.F4: 133

Phụ lục 57: Ảnh-bản vẽ gốm có áo

(Ảnh: Nguyễn Hữu Thiết; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

139

h1. Hộp H5.L7.F4: 132

h2. Bát nghiền thuốc

Phụ lục 58: Ảnh-bản vẽ gốm có áo

(Ảnh: Nguyễn Hữu Thiết, Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

140

h1. Lon thấp, 16SH.H3.L3: 7, TK 13

h2. Lon thấp, 16SH.H3.L4: 9, TK 13

h3.Lon thấp, 16SH.H5.L5a: 29, TK 13

h4. Lon thấp, 16SH.TS3.L6: 14, TK 13

H5. Lon thấp hai lớp thành 16SH.H5.L6.F4: 37a, TK 13

Phụ lục 59: Ảnh-bản vẽ sành mịn

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv:Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

141

H1. Lon cao 16SH.H5.L7.F4: 52, TK 13-14

h2.Lon cao 16SH.H3.L6: 50 (trái), 16SH.H5.L6.F4: 48 (phải), TK 13-14

h3. Lon thấp 16SH. H2.L3: 13 , Tk 15-16

Phụ lục 60: Ảnh-bản vẽ sành mịn

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv:Bùi Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hiếu)

142

h1. Lon thấp 16SH.H1.L3: 15, TK 15-16

h2. Lon thấp 16SH.H5.L1: 28, TK 17-18

h3. Lon thấp, 16SH.H1.L2: 11 (trái), H1.L3: 12 (phải), TK 17-18

h4. Lon thấp, 16SH.H3.L1: 46 (trái), TK 17-18

Phụ lục 61: Ảnh-bản vẽ sành mịn (Ảnh: Lê Thị Liên; Bv:Bùi Văn Hùng)

143

h1. Lon thấp 16SH.H1.L3: 14 (trái), 16SH.H1.L4: 46 (phải), TK 17-18

h2. Lon thấp 16SH.H1.L3: 17 (trái), 16SH.H2.L2: 10 (phải), TK 17-18

h3. Lon thấp 16SH.H1.L3: 30, TK 17-18

Phụ lục 62: Bản vẽ sành mịn (Bv:Bùi Văn Hùng)

144

h1. Chậu 16SH.H5.L8.F4: 92, TK 13-14

h2. Vung 16SH.H3.L4: 4 h3. Vung 16SH.H3.L5: 31

Phụ lục 63: Bản vẽ sành mịn (Bv:Nguyễn Thị Thanh Hiếu, Bùi Văn Hùng)

145

h1. Nồi gốm, 16SH.H5.L6.F4: 67, TK 14

h2. Chì lưới

Phụ lục 64: Ảnh-bản vẽ đồ đất nung

(Ảnh: Lê Thị Liên; Bv: Nguyễn Thị Thanh Hiếu, Bùi Văn Hùng)

146

h1.Tiền “Chính Hòa Thông Bảo”, H5.L6

h2.Tiền “Chính Hòa Thông Bảo”, H5.L7

h3.Tiền “Nguyên Hựu Thông Bảo” h4. Chống tiền, 17SH.TS2

h5.Tiền “Cảnh Hưng Thông/Chí/Cự Bảo” h6. Lưỡi câu đồng 16SH.TS3.L7

h7. Chì lưới bằng chì

Phụ lục 65: Ảnh hiện vật kim loại (Ảnh: Lê Thị Liên, Tác giả)

147

h1. Xỉ sắt h2. Đinh sắt

h3. Đinh sắt

h4. Đinh sắt h5. Thiên thạch

Phụ lục 66: Ảnh chụp X-quang đồ sắt và thiên thạch (Ảnh: VMAP, tác giả)

148

PHỤ LỤC

BẢN DẬP

149

Phụ lục 67: Hoa văn trên miệng và quai sành mịn (Bd: Tác giả)

150

h1

h2 Phụ lục 68: Hoa văn bập vân trên thân sành mịn (Bd: Tác giả) h1. Bập vân thô; h2. Bập vân mịn

151

Phụ lục 69: Hoa văn bập vân kết hợp hoa văn khác trên thân sành mịn (Bd: Tác giả)

152

Phụ lục 70: Hoa khắc vạch bằng que 1 hay nhiều răng trên thân sành mịn (Bd: Tác giả)

153

h1

h2

h4

h3

Phụ lục 71: Hoa trên thân sành mịn và sành thô (Bd: Tác giả) h1-2. Hoa văn đắp nổi sành mịn; h3. Hoa văn in ô vuông; h4. Hoa văn trên thân sành thô

154