ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGỌC
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI TRẦN
Ở PHÍA TÂY YÊN TỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Thái Nguyên - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGỌC
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI TRẦN
Ở PHÍA TÂY YÊN TỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2016
LỜ I CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứ u củ a riêng tôi, các thông
tin, kết quả nghiên cứ u trong luâ ̣n văn là trung thực.
Thá i Nguyên, thá ng 4 năm 2016
Tá c giả luận văn
i
Hoàng Thị Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan: Sở Văn
hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang; Bảo tàng tỉnh Bắc Giang; Ủy ban nhân
dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang; Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Giang đã
giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS.Nguyễn Quang Ngọc cùng
các thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam – khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm
– Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời
gian học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp và
những người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
ii
Hoàng Thị Ngọc
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lờ i cam đoan ........................................................................................................ i Lờ i cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục .............................................................................................................. iii
Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt ..................................................................... iv
Danh mục các bảng .............................................................................................. v
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 3
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................... 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 6
5. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 7
6. Bố cục luận văn ................................................................................................ 8
Chương 1. KHÁI QUÁT KHÔNG GIAN LỊCH SỬ - VĂN HÓA TÂY
YÊN TỬ .............................................................................................................10
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ....................................................................10
1.2. Lịch sử tụ cư và quá trình thay đổi của các đơn vị hành chính ...................15
1.3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa ...........................................................................16
1.3.1. Đặc điểm hình kinh tế ...............................................................................16
1.3.2. Đặc điểm văn hóa .....................................................................................20
Tiểu kết chương 1 ...............................................................................................25
Chương 2. HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI TRẦN
Ở TÂY YÊN TỬ ...............................................................................................26
2.1. Lịch sử hình thành khu di tích .....................................................................26
2.2. Phân loại di tích ...........................................................................................34
2.2.1. Khái quát các loại hình di tích trong không gian lịch sử - văn hóa
iii
Trần ở Tây Yên Tử .............................................................................................36
2.2.2. Phân nhóm di tích lịch sử - văn hóa Trần .................................................42
2.3. Phân bố di tích .............................................................................................47
Tiểu kết chương 2 ...............................................................................................50
Chương 3. MỘT SỐ DI TÍCH TIÊU BIỂU THUỘC THIỀN PHÁI
TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở TÂY YÊN TỬ .................................................52
3.1. Chùa Vĩnh Nghiêm ......................................................................................52
3.2. Chùa Thanh Mai ..........................................................................................58
3.3. Chùa Am Vãi. ..............................................................................................66
Tiểu kết chương 3 ...............................................................................................72
Chương 4. GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA 74
4.1. Giá trị lịch sử ...............................................................................................74
4.2. Giá trị văn hóa .............................................................................................78
4.3. Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa Trần ở
Tây Yên Tử: Thực trạng và giải pháp ................................................................85
Tiêu kết chương 4 ...............................................................................................87
KẾT LUẬN ........................................................................................................89
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .........91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................92
iv
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nhắc đến “Yên Tử”, chắc rằng sẽ không ít người dân Việt Nam
cảm thấy thiêng liêng và trân trọng. Tại sao vậy? Bởi “Yên Tử” đã trở thành
một biểu tượng đẹp trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử văn
hóa, tôn giáo Việt Nam. Yên tử gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của một vị
Vua thời Trần đó là Trần Nhân Tông, một vị Vua có công lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Nơi đây được xem là kinh đô Phật giáo, một vùng
văn hóa tâm linh của Việt Nam qua nhiều thời kỳ.
Yên Tử là một dãy núi lớn, cao 1068m so với mực nước biển, nằm
trong cánh cung Đông Triều, nơi có cả một quần thể di tích lịch sử, danh
thắng qua các thời đại nhất là thời Lý, Trần. Sườn Đông Yên Tử thuộc tỉnh
Quảng Ninh và sườn Tây là thuộc các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn
Sơn Động của tỉnh Bắc Giang và huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Không chỉ
miền Đông Yên Tử là một quần thể di tích, danh thắng mà sườn Tây Yên Tử
cũng là một vùng non thiêng không kém, như nội dung của hai câu thơ
“Ai qua Yên Tử, Quỳnh Lâm
Vĩnh Nghiêm chưa tới Thiền tâm chưa về”.
Nếu bên kia phía Đông núi Yên Tử là khu di tích nhà Trần thuộc Đông
Triều và hệ thống chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trên đất Uông Bí
,Quảng Ninh thì bên này sườn Tây Yên Tử là hệ thống di tích chùa tháp nằm
trên sườn núi, trải dài từ huyện Sơn Động theo dọc sông Lục Nam đến huyện
Yên Dũng khoảng 100km và kết thúc ở huyện huyện Chí Linh. Đặc biệt hơn,
Tây Yên Tử không chỉ có 11 ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm mà còn có
1
nhiều di tích lịch sử gắn với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm
lược thời Trần. Nếu bên kia có danh thắng rừng quốc gia Yên Tử thuộc Uông
Bí tỉnh Quảng Ninh thì bên này là khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc
2 huyện Sơn Động và Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Với hệ thống di tích lịch sử
nhà Trần trải dài từ Sơn Động dọc theo sông Lục Nam đến Yên Dũng đặc biệt
là những di tích thuộc Thiền phái Trúc Lâm ở phía tây Yên Tử thuộc tỉnh Bắc
Giang đã góp phần quan trọng tạo nên một vùng non thiêng Yên Tử, để cho
Yên Tử nằm trong danh sách được Unesco công nhận là một di sản văn hóa
thế giới.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ hội nhập để phát triển, cùng với đó là
sự phát triển với tốc độ chóng mặt của khoa học kỹ thuật. Bên cạnh những lợi
ích thì khoa học kỹ thuật cũng tạo ra những mặt trái của xã hội, khiến con
người ta quên đi những giá trị nhân văn của đất nước. Trong khi đó giá trị
nhân văn hay nói khác là bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành lâu dài
trong quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha, thế hệ trẻ cần có nhiệm
vụ giữ gìn và phát huy. Hưởng ứng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, đã xác định 10 nhiệm vụ về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong đó nhiệm vụ thứ tư là “bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa”. Nghị
quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ là “Di sản văn hóa là tài sản vô giá,
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, có cơ sở để sáng
tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa, hết sức coi trọng bảo tồn kế thừa;
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa
cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo
dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại”.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn tên đề tài nghiên cứu của
mình là: “Di tích lịch sử -văn hóa thời Trần ở phía Tây Yên Tử”, để khẳng
2
định giá trị to lớn của những di tích lịch sử thời Trần, nhất là những di tích
thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đã giúp nơi đây trở thành một trung tâm
phật giáo thời Trần, cùng với Đông Yên Tử để tạo nên Yên Tử - một cõi phật
trời Nam. Qua đó làm tăng thêm giá trị văn hóa của ông cha để lại, giúp cho
thế hệ trẻ hôm nay hình dung được diện mạo của văn hóa thời Trần trên các
lĩnh vực kiến trúc, tôn giáo, khảo cổ học… Đồng thời từ đó, góp phần giáo
dục thế hệ trẻ cần nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc, tích cực học tập xây dựng đất nước ngày một giàu
mạnh hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Di tích lịch sử - văn hóa, đã trở thành một biểu tượng đẹp trong quá
trình hình thành và phát triển của lịch sử nước nhà. Dù đó là di tích lịch sử
kháng chiến hay di tích tôn giáo, di tích khảo cổ học…thì đều mang ý nghĩa
và giá trị nhất định. Mỗi loại hình di tích đều thể hiện nét đặc sắc, vai trò to
lớn trong việc hình thành nên một nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống
nhất. Bởi vậy mà từ rất lâu, có không ít những di tích lịch sử trên cả nước đã
đi vào sử sách, trở thành đối tượng cho các nhà nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học như: Khảo cổ học , Văn hóa học, Sử học…
Hệ thống sách, tài liệu viết về di tích lịch sử - văn hóa không hề ít,
trong đó phải kể đến cuốn sách “Mục lục giới thiệu ảnh các di tích văn hóa
Việt Nam -Tập 2” được nhà xuất bản Thư viện Khoa học xã hội xuất bản
năm 1973. Tác phẩm đã giới thiệu những di tích lịch sử tiêu biểu của Việt
Nam từ vần H đến vần P. Thông qua cuốn sách, tác giả giới thiệu về kiến trúc,
lịch sử…các di tích tiêu biểu của đất nước. Cuốn sách “Hà Bắc ngàn năm văn
hiến - Tập 2” do Ty văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1973, đã giới thiệu một
số di tích nổi tiếng của tỉnh Hà Bắc, trong đó có đền, chùa, miếu mạo. Cuốn
“101 điều cần biết di tích và văn minh Việt Nam: Sổ tay du lịch” của tác giả
3
Phạm Côn Sơn, được nhà xuất bản văn hóa thông tin xuất bản năm 2001,
cuốn sách đã giới thiệu các di tích văn hóa, di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh nước ta, giới thiệu các nền văn hóa, di chỉ khảo cổ, nền kiến trúc, mỹ
thuật cổ của Việt Nam. Cuốn sách “Xóm Rền, một di tích khảo cổ học đặc
biệt quan trọng của thời đại đồ đồng Việt Nam” của tác giả Hán Văn Khẩn,
được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2009.
Những tài liệu viết về di tích lịch sử - văn hóa nhà Trần cũng tương
đối nhiều như: cuốn sách “Chùa tháp và phật giáo thời Trần qua những dấu
tích hiện có” của tác giả Tạ Quốc Khánh, được nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội xuất bản năm 2010. Cuốn sách đã miêu tả một số di tích nhà Trần:
Chùa Côn Sơn, Tháp Đăng Minh, chùa Báo Thiên, chùa Bảo Ân. Quan đó
giúp người đọc thấy được nét tiêu biểu của các di tích, đặc biệt là về kiến trúc.
Cuốn “Di tích lịch sử văn hóa đền Trần, chùa, tháp tỉnh Nam Định”, của tác
giả Trịnh Thị Nga, do nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản, đã giới thiệu
lịch sử các Vua Trần và kiến trúc, cách bày trí sắp xếp tượng, bài vị đền Trần
và sơ đồ bài trí thờ tại các chùa, phủ Nam Định. Năm 2010 trong luận văn
thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Khánh Duyên đã nghiên cứu về “Di tích lịch sử
nhà Trần tại Đông Triều Quảng Ninh”. Tác giả đã trình bày lịch sử các di tích
lăng mộ, đền, miếu, chùa, tháp thời Trần tại Đông Triều Quảng Ninh, và một
số tư liệu Hán, Nôm di tích.
Tây Yên Tử đã chính thức trở thành một vùng danh thắng linh thiêng
với hệ thống di tích lịch sử và khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử theo quyết
định số 105 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ngày 29/1/2013. Tuy nhiên
những tài liệu viết về Tây Yên Tử, cụ thể là về các di tích lịch sử - văn hóa
nhà Trần ở Tây Yên Tử chưa nhiều. Cho đến nay đã có một số tác phẩm đề
cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở phía Tây
Yên Tử như cuốn: “Chốn tổ Vĩnh Nghiêm” do Nguyễn Xuân Cần chủ biên,
4
được Bảo Tàng Bắc Giang xuất bản năm 2004. Tác phẩm đã miêu tả tương
đối chi tết về chùa Vĩnh Nghiêm, ngoài ra cuốn sách còn nhắc đến lịch sử địa
lý, dân cư huyện Yên Dũng nơi có chùa tọa lạc. Cuốn sách “Kỷ yếu hội thảo
khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa Lý - Trần tỉnh Bắc
Giang”, của Bảo tàng tỉnh Bắc Giang viết, được xuất bản bởi nhà xuất bản
Thông Tấn năm 2011. Cuốn sách là sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu về
các khía cạnh của nhiều di tích lịch sử Lý -Trần tiêu biểu của tỉnh Bắc
Giang.Trong đó có cả di tích lịch sử, di tích văn hóa tôn giáo. Tuy nhiên việc
nghiên cứu có hệ thống di tích lịch sử nhà Trần ở phía tây Yên Tử thuộc bốn
huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng, Chí Linh thuộc tỉnh Bắc
Giang và Hải Dương thì chưa có một công trình nghiên cứu nào. Đây là nội
dung hoàn toàn mới với cái nhìn tổng thể và đánh giá giá trị của hệ thống di
tích lịch sử văn hóa theo không gian và thời gian. Cùng với những tư liệu thu
thập được bằng phương pháp điền dã, trong quá trình thực hiện đề tài chúng
tôi hy vọng sẽ góp phần đánh giá đúng giá trị của hệ thống di tích lịch sử thời
Trần ở phía tây Yên Tử trong việc hình thành nên vùng non thiêng Yên Tử,
để trong thời gian ngắn nhất tới đây Yên Tử sẽ trở thành một di sản văn hóa
thế giới.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là di tích lịch sử - văn hóa thời Trần ở
phía tây Yên Tử.
3.2. Nhiệm vụ
- Cần phản ánh đúng, khách quan về thực trạng của di tích lịch sử thời
Trần ở phía tây Yên Tử. Các di tích hình thành một cách có hệ thống, chạy
dọc từ huyện Sơn Động, đến Lục Ngạn, theo sông Lục Nam xuống đến Yên
5
Dũng và kết thúc tại Chí Linh Hải Dương.
- Khẳng định giá trị, ý nghĩa to lớn của di tích lịch sử đó trong việc
hình thành nên “cõi phật trời Nam” (Yên Tử) và mục đích cả về quân sự của
vua Trần Nhân Tông.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Các di tích lịc sử thời Trần.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu các di tích lịch sử nhà Trần ở
phía tây Yên Tử, thuộc 4 huyện của tỉnh Bắc Giang là: Sơn Động, Lục Ngạn,
Lục Nam, Yên Dũng và huyện Chí Linh thuộc tỉnh Bắc Giang. Đề tài nghiên
cứu trên các khía cạnh: lịch sử hình thành, phân bố, số lượng, kiến trúc, lễ hội.
- Phạm vi thời gian: Thời đại nhà Trần từ 1226 - 1400.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Đề tài của chúng tôi được thực hiện trên cơ sở các nguồn tài liệu sau:
- Tư liệu thành văn:
+ Đó là những sách đã được xuất bản như : “Đại Nam nhất thống chí” “
Hà Bắc ngàn năm văn hiến - T.1: Những di tích lịch sử”, “Địa chí Bắc Giang
lịch sử văn hóa”, “Chốn tổ Vĩnh Nghiêm”…và các sách viết về văn hóa lễ hội.
+ Các công trình khoa học được xuất bản thành sách, các bài nghiên
cứu được đăng trên tạp chí, bài viết trên các báo.
- Tư liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã đi thực địa
khảo sát ở 5 huyện thuộc vùng Tây Yên Tử và sang phía Đông Yên Tử khảo
sát khu di tích nhà Trần thuộc Đông Triều, Quảng Ninh, để khai thác các câu
chuyện từ nhân dân về lịch sử các ngôi đền, chùa, khi tích khảo cổ học, lịch sử
6
xây dựng đền, chùa và các hình thức thờ cúng của nhân dân trong đền, chùa.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu. Trong đó có hai phương pháp chủ yếu là: phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành; phương pháp nghiên cứu liên ngành. Hai phương pháp
này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận văn.
Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của mỗi nguồn sử liệu mà sử dụng phương
pháp nghiên cứu thích hợp. Đối với việc sưu tầm tài liệu, chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic, phương pháp thực địa điền dã, nhằm tiếp cận, khai thác nguồn sử liệu
có ở địa phương như văn bia, hệ thống công trình kiến trúc, tôn giáo, tín
ngưỡng, di tích khảo cổ học, truyền thuyết, thần tích, ca dao tục ngữ. Trên cơ
sở đó chúng tôi dùng phương pháp lọc nhiễu (Còn gọi là phương pháp sử học
truyền miệng) đối với nguồn sử liệu truyền thuyết để xử lý các nguồn thông tin.
Đối với nguồn sử liệu thành văn, khi sưu tầm, xử lý, chúng tôi phải sử
dụng phương pháp logic để nhìn nhận đánh giá vấn đề một cách khách quan
nhất. Khi nghiên cứu từng lĩnh vực của các di tích chúng tôi cần sử dụng
phương pháp liên ngành để nhìn nhận được mọi khía cạnh của vấn đề đang
nghiên cứu.
Đối với nguồn sử liệu hiện vật, hay còn gọi là nguồn sử liệu vật thật,
chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu khảo cổ học lịch sử để giám định,
phân loại theo đặc trưng, niên đại từng di vật khảo cổ như kiến trúc đền, chùa,
di tích khảo cổ học…
5. Đóng góp của luận văn
Bên cạnh việc khẳng định giá trị của di tích lịch sử thời Trần ở phía
Tây Yên Tử trong việc hình thành nên một vùng non thiêng Yên Tử, luận văn
7
còn khẳng định đây chính là một trung tâm văn hóa phật giáo thời Lý - Trần.
Và đặc biệt là qua đề tài nghiên cứu, chúng tôi muốn làm rõ hơn một quan
điểm là việc vua Trần Nhân Tông lên đỉnh Yên Tử với mục đích tạo ra một
dòng thiền riêng của Việt Nam chưa phải là mục đích chính mà mục đích
chính là vấn đề quân sự, để nhìn nhận địa hình một cách chính xác để có biện
pháp phòng thủ cho đất nước trước âm mưu xâm chiếm của giặc phương Bắc.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận văn
này gồm có 4 chương nội dung:
Chương 1: Khái quát về không gian lịch sử - văn hóa Tây Yên Tử
Chương 2: Hệ thống di tích thời Trần ở Tây Yên Tử
Chương 3: Một số di tích Thiền phái Trúc Lâm thời Trần ở Tây Yên Tử
Chương 4. Giá trị của hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa thời Trần ở Tây
8
Yên Tử.
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THỂ HIỆN KHU VỰC TÂY YÊN TỬ
9
Nguồn: Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
Chương 1
KHÁI QUÁT KHÔNG GIAN LỊCH SỬ - VĂN HÓA TÂY YÊN TỬ
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Yên Tử là một dãy núi lớn nằm trong cánh cung Đông Triều trải dài từ
Hòn Gai - Quảng Ninh xuôi về vùng Đông Bắc Bắc Giang và có đột dừng ở
vùng Lục Nam - Chí Linh thuộc hai tỉnh Bắc Giang và Hải Dương. Các nhà
“địa lý - phong thuỷ học” đã ví dãy núi Yên Tử trong vòng cung Đông Triều
như một con rồng lớn vươn mình ra Biển Đông. Đầu rồng là núi Yên Tử, thân
rồng là núi Ngọc Thanh (Phật Tích) và đuôi rồng là núi Côn Sơn (núi Hun).
Trong sơn phận của núi Yên Tử ta có thể dễ dàng nhận thấy sự phân chia
thành hai vùng Tây Yên Tử và Đông Yên Tử. Đi tìm hiểu sâu hơn về vùng
Tây Yên Tử thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang và Hải Dương ta có thể khoanh
vùng vị trí của khu vực được trải dài từ thuộc huyện Sơn Động xuống Lục
Ngạn xuôi dòng sông Lục Nam qua Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang và dừng ở
huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Phía Tây tiếp giáp với huyện Lạng Giang,
Thành phố Bắc Giang. Phía Bắc và Đông Bắc giáp đại giới 4 huyện của tỉnh
Lạng Sơn là: Hữu Lũng, Chi Lăng, Lộc Bình và Đình Lập. Phía Đông và
Đông Nam giáp huyện Hoành Bồ, Đông Triều và Thị xã Uông Bí tỉnh Quảng
Ninh. Phía Nam giáp huyện Nam Sách, Kinh Môn tỉnh Hải Dương và huyện
Quế Võ tỉnh Bắc Ninh.
Trong giới hạn địa lý tự nhiên của Tây Yên Tử, chủ yếu được đánh dấu
bằng các dãy núi: Mặt Bắc có dãy núi Bảo Đài ngăn cách huyện Hữu Lũng,
Chi Lăng của Lạng Sơn với huyện Lục Nam, Lục Ngạn của tỉnh Bắc Giang.
Mặt Đông và Đông Nam có dãy Huyền Đinh ngăn cách huyện Lục Nam và
Chí Linh với bên kia núi là huyện Đông Triều, huyện Hoành Bồ và Thị xã
Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh đó lại có sông được lấy làm điểm
10
ngăn cách của vùng với miền giáp gianh. Như ở mặt Nam đoạn cuối sông
Thương giao với sông Cầu làm giới hạn ngăn cách giữa huyện Yên Dũng với
Quế Võ Bắc Ninh. Chếch sang mặt hướng Tây Nam của vùng là một phần
quan trọng của dòng sông Thương làm điểm ngăn cách giữa Yên Dũng với
Lạng Giang, Thành phố Bắc Giang và xa hơn là với tỉnh Thái Nguyên.
Tại miền Tây Yên Tử, địa hình có sự chia cắt tạo ra các mạch núi kề
nhau và bao bọc lấy thung lũng. Cùng với những con sông Lục Nam, sông
Kinh Thầy, các mạch núi tạo thành những bồn địa vừa và nhỏ Chí Linh -
Kinh Môn, Lục Nam - Lục Ngạn. Mỗi mạch núi đều có tên gọi khác nhau: núi
Phật Sơn, Núi Am Ni, Núi Huyền Đinh, Núi Côn Sơn… và độ cao khác nhau.
Trong đó cao nhất là mạch núi Phật Sơn (cao gần 1000m), còn lại các mạch
núi khác có độ cao từ 800m đổ xuống. Như núi Am Ni (Quan Âm) (Nam
Dương - Lục Ngạn) cao gần 780m, núi Huyền Đinh (Huyền Sơn - Lục Nam)
cao xấp xỉ 700m, núi Côn Sơn (Chí Linh - Hải Dương) cao gần 200m. Từ
những ngọn núi cho phép bao quát một vùng đất rộng lớn xung quanh. Tại
các khu vực này đều có đường thông từ Bắc Giang sang Quảng Ninh hay Hải
Dương bằng đường đèo, như: đèo Hồ Bấc, đèo Ba Đác, đèo Đá Bạc, đèo
Thanh Mai. Trong sách Đại Nam nhất thống chí tập IV có ghi chép về vị trí
của các núi: “Núi Phật Sơn, ở xã Hổ Lao, cách huyện Lục Ngạn 12 dặm về
phía Nam, thế núi cao chót vót và bằng phẳng, phía Đông có Liên Sơn (ở xã
Vĩnh Ninh), phía tây có Định Sơn (ở xã Áng Trì), giáp địa giới Hải Dương
cũng là đường quan yếu”. “Núi Am Ni: ở xã Nam Điện, phía Nam huyện Lục
Ngạn, mạch núi từ Phật Sơn, Thù Sơn kéo đến, phía tả có giếng nước, nước
trong không bao giờ cạn, cạnh núi có hai bồn đá, trên núi có nền chùa cũ”
[65, tr. 77]. “Núi Tượng Sơn: ở xã cẩm Lý, phía Tây huyện Lục Ngạn, mạch
từ núi Huyền Đanh kéo đến, các núi liên tiếp nhau, trông như hình bầy voi
phục, giữa núi có chỗ lõm vào là đường đi, cửa đường hẹp hiểm, có hình thể
một người địch trăm người” [65, tr. 76 – 77]. “Núi Huyền Đanh: Ở địa phận
11
hai tổng Đan Hội và Trạm Điền, cách huyện Phượng Nhãn 29 dặm về phía
Đông, giáp địa giới huyện Lục Nam, thế núi cao dốc liên tiếp như hình cái
đanh treo, nên gọi tên thế, chạy dài trên địa phận mấy làng, là Trấn Sơn của
huyện, trong loạn Tây Sơn, Lê Chiêu Thống chạy sang Bắc, đóng quân ở
đây”[65, tr.75]. “Núi Côn Sơn theo An - Nam chí, thì núi này ở địa phận
huyện Phượng Sơn, là chỗ Trần Nguyên Đán về hư, núi có động Thanh Hư,
lưng núi có cầu Thấu Ngọc và Am Bạch Vân, phong cảnh thanh nhã, cây cối
um tùm, thực là một thắng cảnh nơi rừng núi. Phượng - Sơn nay là huyện
Phượng - Nhãn” ”[65, tr.75].
Do đặc điểm kiến tạo địa lý nên các ngọn núi thuộc Tây Yên Tử cơ bản
là núi đất, trong các dải núi đất là những khối núi đá vôi, đá cát kết, sa thạch,
dung nham đã xen lẫn tạo nên những vách đá với những hang rộng, mái đá
vừa và nhỏ. Đặc biệt trong địa phận Bắc Giang mạch núi thuộc huyện Lục
Nam có núi đá xen trong núi đất tạo hang động. Hang động trong khối núi nơi
đây hầu hết do chấn động phun trào của các đợt kiến tạo địa lý địa cầu hình
thành. Do đó hiện tượng sập đá, đá lở chèn lấp cửa hang đã xảy ra ở một số
hang, mái đá được phát hiện như Hang Non (Khám Lạng), hang Vực Rêu
(Cẩm Lý). Trong hầu hết các mạch núi ở Tây Yên Tử thì đều có trữ lượng
khóang sản chủ yếu là than đá, tuy nhiên không nhiều như ở vùng Đông Yên
Tử và khó khai thác.
Mạch núi Yên Tử là vành đai ngăn cách miền Đông Bắc với miền biển
Đông Triều - Quảng Ninh. Hàng năm lượng mưa ở vùng núi Yên Tử ở cả
phía Đông và phía Tây đều nhiều hơn so với các vùng sâu trong nội địa.
Những cơn gió nồm từ biển thổi vào đất liền bị dãy Yên Tử chặn lại tạo nên
những đám mây đầy hơi nước mang đến những cơ mưa lớn làm cho vùng
đất nơi đây trở nên ẩm hơn, tạo điều kiện cho thảm thực vật và các loài động
vật hoang dã sinh sống. Tuy nhiên vùng cũng không tránh khỏi sự ảnh
hưởng của miền khí hậu nhiệt đới vùng trung du miền núi phía Bắc: Mùa hè
12
diễn ra từ tháng 4 đến tháng 9, còn lại là từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau là
mùa đông. Thời tiết khí hậu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
kinh tế trong vùng.
Thảm thực vật của rừng núi Tây Yên Tử là thảm thực vật nhiều tầng
vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn
đủ các loài cây cối. Gỗ quý có các loài như: Lim, táu, trầm… Thực vật thông
dụng phổ biến như dẻ, thông đất, dương xỉ… Đặc biệt trong vùng có khu bảo
tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, được thành lập theo Quyết định số 82/2002/QĐ-
UBND, ngày 24/5/2002 của UBND tỉnh Bắc Giang; nằm trên địa bàn 4 xã, 1
thị trấn: Thị trấn Thanh Sơn, xã Thanh Luận, xã Tuấn Mậu, xã An Lạc thuộc
huyện Sơn Động, xã Lục Sơn thuộc huyện Lục Nam. Đây là khu bảo tồn có
giá trị rất lớn “Đa dạng thành phần loài, đã phát hiện khu bảo tồn có 1055
loài, thuộc 577 chi, 150 họ và 6 ngành”[56, tr.97]. Trong đó có nhiều loài
được ghi trong sách đỏ Việt Nam như: Pơ Mu, sồi phẳng, sến mật. Tuy nhiên
do đặc điểm địa lý riêng biệt và độc đáo nên cùng một dãy núi Tây Yên Tử
nhưng có những mạch núi mang đặc thù riêng, tạo nên những mạch núi trọc
nguyên sinh. Ở những mạch núi này, hiện nay thảm thực vật không còn đa
dạng phong phú nữa mà chủ yếu là những trảng cỏ tranh lớn. Xen lẫn trong
các trảng cỏ là các cây chịu hạn như tầu tấu, sầm, trà hươu, găng, me dại…
mọc thưa thớt. Giữa những ngọn núi trọc như núi Sơn Tháp, núi Khám Lạng
là những khe suối có nước mạch nguồn tạo nên giúp cây cối phát triển, đồng
thời, nước suối chảy ra những con kênh dưới chân núi cung cấp cho việc sản
xuất của nhân dân nơi đây. Theo quy luật của vùng nhiệt đới gió mùa thì thảm
thực vật nhất là thực vật bậc thấp vào mùa xuân thì xanh tốt nhưng đến mùa
thu tất cả mang một màu vàng úa và vùng này cũng vậy, giống như những cao
nguyên Sa -va -la -khét, Sa -la -van của Lào vào mùa khô cũng vậy. Với thảm
thực vật phong phú của núi rừng Tây Yên Tử đã tạo điều kiện cho sự phát
triển của hệ động vật. Dưới chân núi là cộng đồng dân cư sinh sống với những
bồn địa được tạo nên bởi những con sông, phục vụ cho canh tác nông nghiệp
13
của người dân nơi đây.
Động vật hoang dã của sườn Tây Yên Tử có nhiều loại như: Hổ, báo,
gấu, lợn rừng, hươu, nai… Chim muông cũng có nhiều loài: Đại bàng đất,
diều hâu, công, trĩ… Tuy nhiên do việc phá hoại rừng của con người ngày
một tăng nhất là việc săn bắt đã khiến cho thú vật trong rừng trở nên thưa thớt
ít dần.
Địa hình Tây Yên Tử chủ yếu là đồi núi hạ thấp dần xuống trung du
xen bồn địa nhỏ. Tuy nhiên lại có sự kết hợp bổ sung cho nhau tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng. Nhiều nhánh sông được bắt nguồn từ
các đỉnh núi thuộc dãy Yên Tử chảy vào sông lớn: Sông Lục Nam, Sông cầu,
Sông Thương. Trong đó Sông Lục Nam là sông đẹp nhất ở Tây Yên Tử và
cũng là “sông đẹp bậc nhất của cả nước” và được bắt nguồn từ núi Kham -
Lạng Sơn chảy qua 15km thì thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang. Sông Lục Nam
là con sông dài nhất trong khu vực Tây Yên Tử, bởi nó chạy qua cả bốn
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng. Sông chảy giữa các núi,
lòng sông rộng rãi và êm ả, chỉ có 1 đoạn ngắn ở thượng nguồn là hẹp. Sông
được tạo nên bởi hệ thống các chi lưu bên tả ngạn và hữu ngạn: bên tả ngạn
có sông Bò, sông Lê Ngạc, sông Chỉ Tác, sông Om, sông Đồng Đỉnh; bên
hữu ngạn có sông Căn, sông Cỏ Mạt, sông Cẩm Đàn. Sông chảy qua các
huyện đổ về sông Thương rồi đổ ra Lục Đầu Giang - Phả Lại, sau đó hợp
thành sông Thái Bình. Cũng nhờ một phần ở sự bồi đắp của sông mà hai bên
bờ sông có nhiều cánh đồng bằng phẳng như cánh đồng Khám Lạng, cánh
đồng chân núi Bảo Đài.
Hệ thống sông Tây Yên Tử nói chung và sông Lục Nam nói riêng,
không chỉ là vấn đề khai thác thuỷ hải sản, phục vụ canh tác nông nghiệp của
vùng mà còn là một tuyến giao thông quan trọng không chỉ ngày nay mà xưa
kia sông đã là một phòng tuyến quân sự quan trọng ở thời Lý –Trần. (Thế kỷ
14
XI -XIII).
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Tây Yên Tử đã mang đến cho vùng
những nét riêng ở cả lịch sử hình thành và lịch sử văn hóa tôn giáo, để cùng
với Đông Yên Tử tạo nên một “non thiêng Yên Tử” mang nhiều giá trị to lớn
không chỉ ở thời Trần mà còn mãi về sau.
1.2. Lịch sử tụ cư và quá trình thay đổi của các đơn vị hành chính
Từ độ cao 200m của dãy Tây Yên Tử trở nên là hệ thống núi nối tiếp
nhau, ven theo chân núi là hệ thống hành chính làng, xã đông đúc dân cư sinh
sống. Để hình thành nên cộng đồng dân cư trong vùng là cả một quá trình an
cư lập nghiệp lâu đời của người dân nơi đây.
Từ hàng vạn năm trước, vùng Tây Yên Tử đã có con người cư trú, khai
phá làm ăn. Bởi trải qua quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện
ra di tích văn hóa Sơn Vi ở Lục Ngạn, Sơn Động (Bắc Giang), là di tích thuộc
văn hóa hậu kỳ đá cũ. Tổng thể đã phát hiện 17 di tích thuộc các địa điểm thị
trấn Trũ, xã Hồng Giang, xã Tân Quang huyện Lục Ngạn, xã Quốc Tuấn trị
trấn An Châu huyện Sơn Động. Trong đó tìm thấy 200 di vật chủ yếu là công
cụ đá cuội ghè, khẳng định quá trình sinh sống lao động sản xuất của người
Việt cổ tại nơi đây. Nhóm di tích mang những đặc trưng riêng về địa vực
phân bố, nguyên liệu sử dụng, kỹ thuật chế tác và loại hình công cụ, hợp
thành loại hình thượng lưu sông Lục Nam - một trong bốn loại hình địa
phương của văn hóa Sơn Vi. Và phát hiện khảo cổ học này đã khẳng định Bắc
Giang là một vùng đất cổ, chứ không phải là vùng đất mới như nhiều người
đã kết luận. Và ý nghĩa hơn nữa là phát hiện đã góp phần làm phong phú và
sáng tỏ nhiều nội dung của văn hóa Sơn Vi - nền văn hóa cuội ghè tiêu biểu
nhất ở Việt Nam, một nền văn hóa bản địa.
Thời kỳ sơ khai Tây Yên Tử có dấu tích con người tụ cư, đã đặt cơ sở
cho sự phát triển mở rộng về địa bàn sinh sống và hình thành cộng đồng xóm
làng để hình thành nên những làng xã cả một vùng Tây Yên Tử trải dài như
15
ngày nay. Thời dựng nước Vua Hùng chia nước ta làm 15 bộ thì vùng Tây
Yên Tử thuộc bộ Vũ Ninh và một phần thuộc bộ Dương Tuyền. Bốn huyện
vùng Bắc Giang là Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng thuộc thuộc
bộ Vũ Ninh, huyện Chí Linh Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền. Lúc bấy giờ
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam Yên Dũng nằm cạnh sông Lục Nam,
sông Thương, có nhiều điều kiện để phát triển sản xuất. Dưới ách thống trị
của các vương triều Trung Hoa, vùng Bắc Giang trong đó có bốn huyện thuộc
Tây Yên Tử thuộc quận Tượng (nhà Tần), thuộc huyện Long Biên (nhà Tuỳ -
Đường). Thời Lý - Trần thuộc Lộ Bắc Giang, trong đó Lục Nam và Lục Ngạn
có tên là Na Ngạn - Lục Na, Yên Dũng là Cổ Dũng. Thời Hậu Lê thuộc thừa
tuyên Bắc Giang sau đổi thành Trấn Bắc Ninh. Thời vua Minh Mạng, Bắc
Giang thuộc phủ Thiên Phúc, năm 1831 đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Năm
1895 tỉnh Bắc Giang được thành lập trên cơ sở tách phủ Đa Phúc và Lạng
Giang ra từ tỉnh Bắc Ninh. Sau đó tỉnh Hà Bắc được thành lập trên cơ sở sát
nhập Bắc Giang với Bắc Ninh. Ngày 06/11/1996, Quốc hội khóa XI nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn tách tỉnh Hà Bắc tái lập
hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Bộ máy hành chính tỉnh Bắc Giang chính thức
đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997 đến nay. Huyện Chí Linh thời Trần gọi là
Bàng Châu thuộc Hồng Lộ, sau gọi là lộ Hải Đông. Địa danh Chí Linh có từ
thời Lê Sơ từ đó đến nay không thay đổi, chỉ có địa giới thay đổi một số lần.
Vùng Tây Yên Tử hiện nay gồm 5 huyện với diện tích khoảng hơn
1300km2, trong đó có 111 xã, 9 thị trấn và 26 khu dân cư. Trong đó huyện có
diện tích tự nhiên lớn nhất là huyện Sơn Động, tuy nhiên do địa hình chủ yếu
là đồi núi nên việc phát triển kinh tế còn có nhiều mặt hạn chế.
1.3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa
1.3.1. Đặc điểm kinh tế
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nơi đây đã quyết định những đặc
16
trưng về kinh tế và văn hóa của người dân trong vùng. Từ thời sơ khai, con
người trên mảnh đất Tây Yên Tử đã gắn với nền kinh tế nông nghiệp trong
một tổng thể nền văn minh lúa nước Sông Hồng của Đại Việt. Họ đã hình
thành nên bản, làng, thôn xóm với những hình thức kinh tế và văn hóa riêng,
mang đặc trưng vùng miền. Địa hình nơi đây được phân vùng rõ rệt quyết
định tới việc canh tác của con người.
Ở độ cao khoảng 160m trở lên là vùng núi chủ yếu là loại đất Peralit,
mức độ phong hóa yếu, tầng đất mỏng nên phù hợp cho việc trồng rừng. Bởi
vậy mà kéo dài từ Sơn Động xuống đến Chí Linh diện tích rừng tương đối
lớn, huyện nào cũng có, chủ yếu là trồng cây lâu năm lấy gỗ. Ở độ cao dưới
160m là đồi, sườn đồi thoai thoải, có tầng đất tương đối dầy nên người dân
có thể canh tác được những loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như:
Vải, dứa, sắn…Chính đặc điểm của đất đã tạo nên một vùng đặc sản nổi
tiếng Vải Thiều mỗi khi nhắc đến Bắc Giang Hải Dương, nhất là vùng Lục
Ngạn, Lục Nam, Sao Đỏ. Lượng Vải hàng năm không chỉ xuất đi trong cả
nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài, đem lại giá trị kinh tế lớn cho người
trồng cây. Thấp nhất là vùng đồng bằng và thung lũng, vùng này có đất đồi
trọc bạc màu, có đất phù sa được bồi đắp bởi Sông Lục Nam, sông Thương.
Tạo ra những cánh đồng lúa khá lớn như: Tân An, Huyền Sơn, Cộng Hòa…
Do đặc điểm về địa hình và khí hậu nên các cánh đồng chuyên canh lúa
ở huyện Lục Nam và Yên Dũng thường bị ngập lụt kéo dài hàng năm (từ
tháng 7 đến tháng 9). Mỗi năm nhân dân trong vùng chỉ canh tác được hai vụ
là vụ chiêm và vụ mùa, không trồng xen canh được cây hoa màu. Tuy nhiên,
khi vào chính vụ, với đức tính cần cù chịu khó, nhân dân nơi đây vẫn khắc
phục những khắc nhiệt của thời tiết, đưa những giống lúa mới vào gieo trồng
và đạt năng suất cao với sản lượng lúa 170 -200kg/sào. Nhiều loại giống lúa
lai được đưa vào sản xuất như: Si 23, Khang dân, nếp tám thơm… Sản lượng
lương thực không chỉ đáp ứng được nhu cầu lương thực của nhân dân trong
17
vùng, mà hàng năm nhân dân còn xuất rất nhiều thóc bán cho các nhà buôn
chuyên chở đi cả nước. Ngoài ra trong khu vực cũng có một số cánh đồng nhỏ
nằm ở trên cao không bị ngập lụt nên ngoài hai vụ cấy thì người dân có thể
trồng xen canh các loại cây công nghiệp ngắn ngày cây hoa màu như: hành,
tỏi, lạc, củ đậu… đem lại thêm nguồn thu nhập cho người nông dân.
Hệ thống giao thông ở khu vực Tây Yên Tử có đủ cả đường sắt, đường
bộ, đường sông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế văn hóa giữa
các vùng miền. Trong đó chủ yếu là đường bộ, một trục đường chính liên tỉnh
Bắc Giang - Hải Dương chạy dài từ Sơn Động xuống Chí Linh. Đặc biệt là
huyện Lục Nam là cửa ngõ vùng Đông Bắc, tiếp điểm của vùng ngược với
vùng xuôi. Ngoài ra hệ thống đường sông rất thuận lợi, dọc sông Lục Nam từ
đầu nguồn là Lục Ngạn, xuống Lục Nam, qua Yên Dũng và Phả Lại - Hải
Dương. Lục nam còn có thể liên hệ dễ dàng với thị xã Bắc Giang, Đáp Cầu
hoặc xa hơn là thành phố Thái Nguyên bằng đường sông. Bởi vậy mà từ thế
kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn đã chốt giữ Cẩm Nang - Làng Bến, nay thuộc Khám
Lạng - Lục Nam. Giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa trong toàn
vùng, giữa các huyện của hai tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Nhiều
tuyến đường có ý nghĩa chiến lược và quốc phòng. Như tuyến đường Kép -
Hạ Long chạy qua Lục Nam 31 km chuyên chở một khối lượng hàng hóa,
hành khách đến nhiều trung tâm đầu mối quan trọng.
Kinh tế chăn nuôi trong vùng được người dân phát triển khá phong phú
với đầy đủ các loại gia súc gia cầm như: vịt, gà, ngan, ngỗng, trâu, bò… ngoài
ra có một số hộ gia đình còn nuôi nhím, hươu sao, dế… có giá trị kinh tế cao.
Tận dụng địa hình nhiều đồi núi nên hầu hết các hộ gia đình trong xã đều
chăn nuôi gia súc để phục vụ cho nhu cầu sức kéo và cũng tạo ra một nguồn
thu nhập lớn cho gia đình. Vào mùa lụt hàng năm (tháng 6 đến tháng 9) khi
các cánh đồng chuyên canh lúa đều bị ngập lụt thì toàn bộ gia súc trong xã
được thả vào rừng. Cứ vào đầu mùa nước lụt thì những đàn trâu đàn bò lại lần
18
lượt được đưa vào rừng thả trong đó có khi hết mùa lụt thì mới được đưa về
nhà. Đây cũng là điểm khác trong việc chăn thả gia súc của nhân dân trong
vùng so với các nơi. Những đàn gia súc khi được thả vào rừng thì ăn ven ở
các đồi, núi tới khi nào có người vào dắt về mới về. Đó là vào mùa nông nhàn
còn ngày mùa vụ hay những ngày cuối vụ thu hoạch lúa, khi những cánh đồng
cỏ đã lụi thì các đàn gia súc cũng được đưa vào rừng thả ăn cỏ và lá rừng từ
sáng sớm cho tới chiều là tự động ra cửa rừng để về.
Hầu hết các hộ gia đình trong vùng đều có mô hình kinh tế vườn ao
chuồng. Tuy nhiên, về quy mô thì còn nhỏ, chỉ có một số hộ gia phát triển
hình thức trang trại lớn với số lượng lớn khoảng 20.000 đến 50.000 con gia
cầm. Còn lại đa số là mô hình nhỏ, khoảng 20 đến 30 con gia cầm, chủ yếu là
để phục vụ nhu cầu thực phẩm hàng ngày. Gia súc cũng vậy, gia đình nào
nhiều thì có khoảng 10 đến 15 con, còn lại chủ yếu là từ 3 đến 5 con, để phục
vụ nhu cầu về sức kéo trong sản xuất. Tuy nhiên hiện nay việc chăn nuôi gia
súc giảm dần bởi nhu cầu về sức kéo ít hơn. Chủ yếu phục vụ cho nhu cầu về
thực phẩm.
Tận dụng địa hình nhiều đồi núi, nhân dân nơi đây đều tham gia vào
các dự án trồng cây gây rừng của Bộ Nông nghiệp để phủ xanh đồi trọc và
tăng thu nhập cho gia đình. Tham gia các dự án trồng rừng, các hộ có diện
tích rừng thì được giao cây để trồng, hàng năm được nhận tiền trồng rừng
tương ứng với diện tích rừng trồng đó. Việc trồng rừng đã giúp người dân
trong vùng tận dụng được các đồi cao không trồng được cây lương thực cũng
như cây ăn quả để phát triển cây công nghiệp lâu năm, hàng năm cho thu
hoạch lượng gỗ cũng khá lớn. Đồng thời chống sói mòn và tạo ra bầu không
khí trong lành.
Các ngành thủ công trong xã cũng khá phong phú với các nghề như;
Đan lát, làm gốm, dệt, nuôi tằm, nhưng những năm gần đây hầu hết người dân
chủ yếu phát triển nông nghiệp và thương nghiệp nên các nghề thủ công đã
19
dần bị mai một. Hiện nay chỉ còn một số hộ giữ nghề đan lát và làm vào lúc
thời gian rảnh rỗi nông nhàn phục vụ nhu cầu cho gia đình, cho người dân
trong làng xã chứ không phát triển mở rộng sản phẩm ra bên ngoài.
Cùng với các ngành kinh tế trên thì thương nghiệp các huyện cũng rất
phát triển. Đặc biệt là vào mùa thu hoạch hoa quả và vụ màu, không chỉ có
các thương nhân nơi khác tới mà thương nhân trong vùng cũng buôn bán, xe
cộ đi lại tấp nập. Nhất là vào mùa thu hoạch Vải Thiều hầu hết ở các tuyến
đường trở nên tấp nập, đông đúc hơn rất nhiều, đặc biệt tuyến đường Lục
Ngạn, Lục Nam. Vào mùa vụ, thương nhân từ các nơi đổ về mua hàng, các xe
lớn, nhỏ chuyên chở đông gấp mấy lần so với ngày thường nên tình trạng ách
tắc giao thông thường xuyên xảy ra. Do đặc thù về canh tác trồng trọt đã hình
thành nên những hộ kinh doanh mùa vụ. Chỉ đến mùa thu hoạch hoa quả thì họ
mới đi buôn bán, làm kinh doanh. Khi hết mùa thì họ lại trở về làm vườn chăm
sóc mô hình vườn, ao, chuồng và làm nông, lâm nghiệp. Có thể thấy, nhân dân
nơi đây vẫn giữ phương thức sản xuất xưa, luôn gắn liền với đồng ruộng.
Hầu hết nhân dân trong vùng đều thu nhập chính từ làm nông nghiệp,
rất ít hộ làm thủ công và thương nghiệp. Tuy nhiên hiện nay hầu hết các hộ
đều có người đi làm xa. Bởi bên cạnh những gia đình có diện tích vườn đồi
lớn thì có không ít những gia đình có số lượng đất canh tác hạn chế nên
thường có một, hai người trong gia đình đi làm ăn xa, chỉ tới mùa vụ mới về
sản xuất ngắn ngày phụ giúp gia đình rồi lại đi làm. Có một số lượng lao động
đi làm hẳn tại các công ty, xí nghiệp ở các khu công nghiệp. Do thời gian
nông nhàn kéo dài nên đây chính là một hạn chế và cũng là điểm cần khắc
phục trong sản xuất kinh tế của nhân dân trong vùng.
1.3.2. Đặc điểm văn hóa
Làng quê Kinh Bắc xưa là nơi tụ cư sớm của nhiều dân tộc anh em.
Cùng với miền Chí Linh, Hải Dương đã tạo ra một vùng văn hóa có sự đan
20
xen giữa văn hóa hai miền xuôi ngược.
Về tổ chức bộ máy chính trong vùng, thời phong kiến đứng đầu huyện
là quan tri phủ, đứng dầu làng xã là hội đồng kỳ mục và hội đồng Lý dịch.
Hội đồng kỳ mục bao gồm những cụ cao niên trong làng, những người có
chức sắc về hưu và những người có nhiều tài sản. Hội đồng kỳ mục không
trực tiếp nắm chính quyền mà chỉ tham gia bàn luận những vấn đề của làng.
Hội đồng lý dịch là bộ máy trực tiếp quản lý điều hành việc thực hiện các
chính sách trên giao xuống cho làng. Nhìn chung thời phong kiến đời sống
của người dân trong vùng còn khó khăn, bởi hạn chế từ nhiều mặt nhất là từ
xã hội. Tuy nhiên lúc đó đã hình thành nên nhiều nét văn hóa vùng mà vẫn
còn lưu giữ đến tận ngày nay. Tại vùng Sơn Động và Biển Động Lục Ngạn,
nơi có nhiều dân tộc thiểu số như bản Dao ở Đổng Lang (Sơn Động), bản Sán
Chí ở Lục Ngạn, bản Cao Lan ở Nghè Mán (Lục Sơn - Lục Nam), các dân tộc
anh em sinh sống trong các bản làng này đã tạo nên một nét văn hóa riêng
trong sinh hoạt, từ ăn ở, trang phục, lễ hội.
Ta có thể tìm hiểu vài nét văn hóa của dân tộc thiểu số trong vùng để
thấy được điều đó. Đám cưới của người Sán Dìu: Theo nghi thức cổ truyền
của người Sán Dìu, việc cưới xin phải trải qua các bước: Lễ dạm hỏi, lễ so
tuổi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Sau khi xem xét nếu thấy ưng thuận, nhà
trai nhờ một người thân làm ông mối mang lễ vật gồm 10 quả cau, 10 lá trầu
đến nhà gái để ngỏ lời. Khi nhà trai đến dạm hỏi, nhà gái đã chuẩn bị lá số
cho con gái mình gồm tên tuổi, ngày, tháng, năm sinh để dưa ông mối mang
về nhờ thầy cúng so tuổi. Người Sán Dìu có cách xem tuổi dựa theo thuyết
ngũ hành. Nếu so tuổi thấy hợp, ông mối sẽ báo cho nhà gái biết việc xem lá
số đã thành công, bằng một lễ nhỏ gồm nải chuối, 10 lá trầu, 10 quả cau. Sau
10 ngày, nếu nhà gái không đồng ý sẽ đem lễ vật đến trả nhà trai, nếu đồng ý
sẽ không có ý kiến gì. Từ đó, đôi trai gái có thể tự do đi lại tìm hiểu nhau.
Đây cũng là thời gian để ông mối thông báo, hỏi ý kiến nhà gái về cuộc hôn
21
nhân và báo cho nhà trai biết để chuẩn bị lễ ăn hỏi.
Sau lễ so tuổi từ một tới ba tháng, nhà trai mang lễ vật gồm 10 quả cau,
2 phong bánh khảo, chai rượu, gạo, chè để báo tin cho nhà gái ngày ăn hỏi.
Trong buổi báo tin này, ông mối và đại diện nhà gái sẽ thống nhất về số tiền
và lễ vật thách cưới. Trong lễ ăn hỏi này, nhà trai thông báo ngày cưới, giờ
đón dâu cho nhà gái. Trước lễ cưới khoảng một tháng, ông mối đưa nhà gái
một nửa số tiền dẫn cưới gọi là tiền đặt "cọc", cùng với một ít trầu cau, còn
nửa số tiền sẽ giao nốt cho nhà gái vào lễ cưới chính thức.
Lễ cưới của người Sán Dìu thường diễn ra trong ba ngày. Trước ngày
cưới từ 15 đến 20 ngày, chọn ngày tốt, nhà trai nhờ người chặt tre, đan rọ lợn,
lồng gà. Giáp ngày cưới, một không khí nhộn nhịp diễn ra: hai bên gia đình
chuẩn bị nấu ăn, chặt tre vót đũa, sửa sang nhà cửa... Khi hai nhà bắt đầu
dựng rạp, cũng là lúc nhà trai đem nốt số lễ vật đã được ghi trong hôn thư
trong lễ ăn hỏi sang nhà gái. Các đồ lễ đều được dán giấy đỏ, tượng trưng cho
màu của hạnh phúc, vui vẻ, đầy đủ.
Thông thường, chú rể không đi đón dâu. Đoàn dẫn lễ và đi đón dâu
gồm: Một quan lang trưởng, làm trưởng đoàn đại diện họ nhà trai đưa các lễ
vật cho nhà gái, một quan lang phụ, ông mối, một thanh niên trẻ bưng tráp
trầu cau, một cô gái mang theo chiếc ô để phù dâu, bốn người khiêng lợn, một
người gánh trầu cau, một người gánh gạo. Khi đoàn đón dâu tới cổng nhà gái,
nhà gái cử hai, hoặc bốn người con gái khiêng bàn ra, đặt trên đó chiếc đèn,
bộ ấm chén, trầu cau... cùng một cành tre có dán giấy đỏ để chắn cửa vào. Đại
diện nhà gái hát, nhà trai phải hát đối lại, nếu được thì nhà gái dọn bàn để cho
nhà trai vào, nếu không hát đối được, nhà trai phải nộp một ít tiền nhỏ và ít
trầu cau mới dược vào nhà. Thông thường, nhà trai phải hát đối lại ít nhất ba
bài hát.
Vào nhà, ông trưởng đoàn cùng một anh bưng tráp trầu cau sắp đặt nên
bàn thờ tổ tiên. Sau đó ông làm lễ trình báo với tổ tiên nhà gái, nội dung "Hai
22
gia đình đã sinh thành hai cháu trưởng thành. Sự tìm hiểu của hai cháu đã
thuận tình và được nhờ tổ ấm của gia đình, sự vun đắp của hai họ, hai gia đình
đã chọn được ngày lành tháng tốt tổ chức lễ thành hôn cho hai cháu. Nhà gái
nhận đủ lễ vật xong, mời mọi người dự cưới ăn cơm tối".
Sau bữa cơm tối là lễ "Khai hoa tửu", đây là nghi lễ không thể thiếu của
đám cưới người Sán Dìu. Lễ vật do nhà trai chuẩn bị trước gồm hai quả trứng
luộc, hai sợi chỉ xanh, đỏ xuyên qua quả trứng và mỗi bên buộc hai đồng tiền
xu, được đặt trên đĩa có giấy trắng, giấy đỏ được cắt hình hoa. Đặt bên cạnh là
chiếc lẵng trong có bình rượu có mở nút sẵn. Hai vị đại diện nhà gái bắt đầu
bài diễn ca mừng tổ tiên. Nội dung bài diễn ca kính báo tổ tiên về lễ cưới, ca
ngợi công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, căn dặn đôi vợ chồng trẻ về nết
ăn, nết ở....
Đại diện nhà gái hát hỏi về mùi vị rượu, về thời gian làm rượu...Sau
cùng hai quả trứng luộc được bóc vỏ, lấy lòng đỏ hoà rượu mời mọi người dự
cưới uống. Tiếp theo, đại diện người già họ nhà gái nên hát đố về chữ. Sau lễ
"Khai hoa tửu", mọi người hân hoan hát chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc.
Trai gái vui hát song ca suốt đêm, mọi người ở lại để hôm sau đưa cô dâu về
nhà chồng.
Sáng hôm sau, nhà gái tiếp tục mở tiệc chiêu đãi họ hàng, làng xóm.
Đến chiều tối, gần giờ đón dâu, mọi người giúp cô dâu trang điểm. Trước khi
ra khỏi nhà, cô dâu ra làm lễ tổ tiên và khóc than khi chia tay với cha mẹ, anh
chị em ruột, họ hàng. Chọn giờ tốt, cô dâu bước ra khỏi ngưỡng cửa, được
anh trai cõng ra khỏi giọt giang của nhà ba bước, dưới chiếc ô của ông trưởng
đoàn che thì đặt xuống. Cô dâu phủ lên đầu hai tấm khăn một xanh, một đỏ,
bước đi từng bước tỏ lòng luyến nhớ gia đình và họ hàng. Đi theo cô dâu là
đoàn đón dâu của nhà trai và đoàn đưa dâu của nhà gái. Trên đường đi mỗi
khi qua con suối hay giếng nước, cô dâu phải thả vào đó mấy đồng tiền lẻ để
cầu mong may mắn. Khi gặp đám đón dâu khác, hai cô dâu thường trao đổi
23
với nhau một vật nhỏ để chúc nhau hạnh phúc.
Đến tối, đoàn đón dâu được mời vào nhà. Cô dâu được đưa thẳng tới
buồng của mình. Vào buồng, cô dâu được một bà cô bên chồng trải chiếu mời
ngồi và giúp sắp xếp đồ đạc. Nhà trai tổ chức bữa cơm mừng cô dâu mới. Cô
dâu làm thủ tục nhận mặt họ hàng nhà trai. Suốt đêm trai gái tổ chức hát đối
đáp chúc mừng.
Sang ngày thứ ba, cô dâu cùng mẹ chồng và một vài bà bác hoặc dì
mang hai chiếc chân giò lợn, hai con gà, hai chai rượu về nhà bố mẹ đẻ làm lễ
lại mặt. Nhà gái làm lễ cúng gia tiên. Cô dâu đi thăm hàng xóm, xong trở lại ở
hẳn nhà chồng.
Đám cưới của người Sán Dìu không chỉ là sinh hoạt tinh thần mà còn
thể hiện tình cảm, đạo đức, lối sống, phép ứng xử giữa người với người, giữa
con người với thiên nhiên...Với những nghi lễ đặc sắc đám cưới của dân tộc
Sán Dìu là một sinh hoạt văn hóa dân gian, một đặc trưng văn hóa của dân tộc
Sán Dìu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đến với vùng Sơn Động, Lục Ngạn, Bắc Giang, chúng ta còn được trải
nghiệm nhiều nét văn hóa đặc trưng khác như hát then của người Tày xã An
Lạc huyện Sơn Động, hát giao duyên của người San Chí ở Kiên Lao, Lục
Ngạn, lối nhà sàn của người Cao Lan, hay trang phục tuyền thống của các dân
tộc Dao, Nùng, Tày, Sán Chí...
Số lượng người dân tộc thiểu số trong vùng chỉ chiếm 1/5 trong tổng
thể dân số vùng, còn chủ yếu là người Kinh. Vùng Chí Linh thì số lượng
người dân tộc là rất ít bởi nơi đây thuộc đồng bằng nên lịch sử định cư muộn
hơn. Người Kinh trong vùng cũng có nhiều nét văn hóa đặc trưng trong sinh
hoạt hàng ngày. Họ thường cư trú ở vùng thấp hơn so với các dân tộc thiểu số
nên có sự tác động đến văn hóa. Về nhà ở chủ yếu là nhà xây gạch, còn trang
phục truyền thống là áo dài, áo tứ thân. Trong các nghi lễ cưới hỏi, ma chay
thì khác nhiều so với người dân tộc, có phần đơn giản hơn so với người dân
tộc thiểu số, tuy nhiên về ẩm thực thì khá phong phú so với người các dân tộc
24
khác trong vùng.
Mặc dù về ăn hóa có những nét đặc trưng giữa các dân tộc trong vùng
nhưng tất cả đều hòa quện tạo nên một vùng văn hóa giàu truyền thống mang
nhiều ý nghĩa. Đặc biệt nơi đây có một truyền thống đoàn kết, cùng chống giặc
ngoại xâm, là một bức tường thành vững chắc bảo vệ kinh đô và đất nước.
Tiểu kết chương 1
Qua việc tìm hiểu khái quát về điều kiện cùng đặc điểm về kinh tế văn
hóa xã hội của Tây Yên Tử, đã giúp ta thấy được nhiều nét đặc trưng về mọi
mặt của một vùng quê miền trung du. Mặc dù là vùng có điều kiện tự nhiên
không thuận lợi nhưng đức tính cần cù chịu khó ham học hỏi của người Việt
Nam, nhân dân nơi đây đã vươn nên khắc phục khó khăn đưa nền kinh tế của
xã ngày một phát triển hơn góp phần làm giầu cho đất nước. Là một vùng đất
cổ, nơi đây từ sớm đã có nhiều dân tộc anh em chung sống đã cùng nhau đoàn
kết, giao lưu học hỏi xây dựng một nền kinh tề ngày một phát triển, một nền
văn hóa ngày một tươi đẹp phong phú đa dạng mà thống nhất. Nhờ sự cộng
cư lâu đời, mà nhân dân trong vùng luôn cùng nhau gồng mình chống giặc
ngoại xâm mỗi khi đất nước lâm nguy, tạo nên một tinh thần quật cường bất
khuất, một truyền thống tốt đẹp cho thế hệ mai sau.
Quá trình phát triển lịch sử nơi đây luôn gắn liền với đời sống sản xuất
sinh hoạt của nhân dân vùng. Điều kiện tự nhiên đã quy định đời sống vật
chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân nơi đây. Gắn liền với vùng đất
nhiều đồi núi, nơi có vị trí “tầm long trắc địa”, là phên dậu của đất nước, Tây
Yên Tử đã trở thành nơi phát tích của một dòng thiền Việt Nam, thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử và để rồi ngày nay dòng Thiền ấy vẫn mang một giá trị vô
cùng to lớn đối với nền văn hóa dân tộc và thế gới. Nơi đây còn chứa những
di tích lịch sử gắn liền với nhiều triều đại phong kiến, nhất là thời Trần, đã
25
hình thành nên một hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thời Trần.
Chương 2
HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
THỜI TRẦN Ở TÂY YÊN TỬ
2.1. Lịch sử hình thành khu di tích
Triều đại nhà Trần là giai đoạn phát triển thịnh đạt của quốc gia Đại
Việt, với vũ công ba lần đại thắng đại đế chế Nguyên Mông, với hào khí
Đông A rạng ngời muôn thuở. Không chỉ có đóng góp về chính trị, quân sự
mà ở các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, nhà Trần cũng làm nên những giá trị đi
cùng năm tháng. Nói đến phật giáo thời Trần ta không thể bỏ qua sự hình
thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và nó cũng kết thúc
những dòng thiền trước đó để quy về một mối tạo thành một dòng Thiền của
Phật giáo Việt Nam. Người mở đầu cho Thiền phái Trúc Lâm là vua Trần
Nhân Tông, vị vua đã hai lần lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh thắng quân
Nguyên Mông xâm lược. Sau khi chiến thắng giặc phương Bắc, Trần Nhân
Tông đã lên đỉnh núi Yên Tử tu hành vào năm 1299 và lập nên Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Cùng với sự ra đời của dòng Thiền này, nhiều thiền viện,
chùa, am trên đỉnh núi Yên Tử cũng được ra đời mang dấu ấn của Thiền Trúc
Lâm. Đặc biệt ngày nay ở phía Tây Yên Tử thuộc địa phận hai tỉnh Bắc Giang
và Hải Dương những di tích lịch sử nhà Trần đã trở thành một hệ thống trải
dài từ Huyện Sơn Động (Bắc Giang) theo dòng sông Lục Nam xuống huyện
Chí Linh (Hải Dương) trong đó chủ yếu là di tích thuộc thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử.
Thiền phái Trúc Lâm có nguồn gốc từ thời Lý (Thế kỷ XI -XIII).
Người đặt nền móng cho dòng Thiền này là tổ sư Hiện Quang. Thời nhà Lý,
trên đỉnh núi Yên Tử đã có chùa, am thờ phật và chùa Hoa Yên là ngôi chùa
đầu tiên. Sau khi lập chùa và đăng đàn giảng đạo - Thiền sư Hiện Quang ngồi
trên phiến đá tọa thiền rồi tịch vào năm 1220. Tiếp tổ sư Hiện Quang là các
26
thiền sư: Viên Chứng Quốc Sư, Đại Đăng Quốc Sư, Tiêu Dao Tổ Sư, Huệ
Tuệ Tổ Sư đã đến Yên Tử tu hành. Năm 1299 vua Trần Nhân Tông lên Yên
Tử sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm và chính thức trở thành vị Tổ sư thứ nhất
của dòng Thiền này. Sau Trần Nhân Tông là hai đệ tử xuất sắc được truyền
thừa là Pháp Loa và Huyền Quang. Đó cũng là hai vị tổ sư tiếp theo của Thiền
Trúc Lâm mà người ta gọi là Trúc Lâm Tam Tổ. Núi Yên Tử là một danh lam
thắng cảnh, nơi có vị trí địa lý quan trọng đã được ba vị tổ sư của Thiền phái
Trúc Lâm kết hạ an cư. Hồi đó cả nước hướng về Yên Tử và Yên Tử trở
thành trung tâm Phật giáo của cả nước. Trong thời kỳ này hầu hết các núi
thuộc cánh cung Đông Triều mà Yên Tử là tâm điểm đều được ba vị Tổ sư
cho xây dựng chùa, am, thiền viện. Các chùa, am, thiền viện trải dài từ Tây
sang Đông có mối liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống.
Nếu như các vị Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm tu luyện và đắc đạo ở
đông Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, thì có thể nói vùng
Tây Yên Tử cụ thể là chùa Vĩnh Nghiêm thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc
Giang là nơi phát tích của Thiền phái Trúc Lâm. Một câu truyện truyền
thuyết được lưu truyền trong dân gian rằng “Vào thời Trần khi đó Yên Dũng
Bắc Giang còn là vùng rừng núi rậm rạp, vua Trần Nhân Tông cùng đoàn tùy
tùng đi du ngoạn, cũng là để xem xét các địa thế hiểm yếu nơi địa đầu biên
giới, nhằm xây dựng phòn tuyến chuẩn bị chống giặc phương Bắc tràn sang.
Con ngựa của nhà vua cứ bon bon chạy đến đất này rồi nó bỗng dừng lại hí
vang không chịu bước tiếp. Thấy lạ, vua Trần bèn hỏi nguyên nhân và được
mọi người cho biết “đây là đất hình con quy ẩm thực, trên lưng nó là một
ngôi chùa cổ đã có từ rất lâu đời”. Ngắm thế đất cao đầy vượng khí, lại có
chùa thiêng tọa lạc, vua Trần Nhân Tông cho đây là một duyên may đưa đến
đất này, liền cho sửa sang chùa thật khang trang rộng rãi và đặt tên chùa là
“Vĩnh Nghiêm” cho hậu thế thấy được “Vĩnh là Vĩnh hằng” “Nghiêm là
trang nghiêm” (từ trang nghiêm thường được dùng trong kinh phật). Trần
27
Nhân Tông rất muốn “chùa ấy được vĩnh hằng, phật pháp phải trang nghiêm
và trường cửu”. Chùa Vĩnh Nghiêm với thế “tầm long trắc địa”, lưng tựa vào
núi cô tiên, bên tả có tay Long là sông Lục Nam, bên hữu có tay Hổ là sông
Thương và dãy núi Nham Biền, nhìn ra xa là sự hội tụ của sông Lục Đầu cách
chừng 5km. Sự hội tụ của Lục Đầu giang đã cho thế đất tụ được khí thiêng,
như một vành đai thứ hai chặn bước tiến của quân xâm lược nếu chúng tràn
qua biên giới. Cùng với việc đứng trên ngọn núi Yên Tử sẽ bao quát được
khắp địa đầu phía Bắc và Đông Bắc của tổ quốc. Bởi vậy khi còn tại vị điều
hành chính sự đất nước thì Ngài đã có nhiều lần về thăm chùa. Đến năm 1299,
sau khi nhường ngôi cho con chính thức trở thành Thái Thượng Hoàng, Trần
Nhân Tông đã đến ngôi chùa thụ giới và trụ trì một thời gian trước khi nên
Yên Tử. Các tác giả của cuốn Chùa Việt Nam đều khẳng định chùa Vĩnh
Nghiêm “được khởi dựng từ thời Lý, đến đầu thời Trần thành nơi dừng chân
cho khách hành hương từ Kinh Bắc trước khi vượt đường nên Yên Tử” [57,
tr.160). Khi tu hành trên đỉnh Yên Tử, thi thoảng Trần Nhân Tông trở về Vĩnh
Nghiêm tham thiền, giảng đạo cho các tăng đồ. Ngay năm cuối của Người
(năm 1308), tháng 11 Người viên tịch thì tháng 4 năm ấy Người về Vĩnh
Nghiêm làm lễ kết hạ và giao cho Pháp Loa trụ trì Vĩnh Nghiêm.
Như vậy, trong các di tích thuộc Thiền phái Trúc Lâm ở Tây Yên Tử
thì ngôi chùa đầu tiên mang dấu ấn của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử là chùa
Vĩnh Nghiêm. Và ở thời đó Vĩnh Nghiêm là một trong bốn trung tâm phật
giáo lớn của Đại Việt gồm Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Ngọa Vân, Hồ Thiên
(Quảng Ninh), Quỳnh Lâm, Chân Lạc (Quảng Ninh), Thanh Mai, Côn Sơn
(Hải Dương).
Vai trò của vị Tổ sư thứ nhất Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông là
vai trò sáng lập và gây dựng tổ chức các tông phái phật giáo quy về Giáo hội
phật giáo Đại Việt mà trung tâm là Thiền phái Trúc Lâm. Ngài đã đi các ngọn
núi cao của dãy Yên Tử để tìm địa thế phù hợp mở mang chùa, am, thiền
28
viện, đồng thời quan sát tình hình giặc phương Bắc. Tuy nhiên nói về sự kiến
tạo cơ sở vật chất, biên soạn kinh sách, thuyết pháp đào tạo tăng ni của Thiền
Trúc Lâm thì phải nói đến vai trò của Tổ sư thứ hai Pháp Loa. Thời kỳ Pháp
Loa tu hành có nhiều ngôi chùa mới được xây dựng, những ngôi chùa cũ cũng
được trùng tu mở rộng trên núi Yên Tử nhất là ở phía Tây Yên Tử. Ngôi chùa
được xây mới là chùa Thanh Mai thuộc huyện Chí Linh - Hải Dương, chùa
Hồ Bấc, chùa Ngọ ở Lục Nam - Bắc Giang còn các ngôi chùa khác như Am
Vãi, Bình Long, Hòn Tháp, Vĩnh Nghiêm… đều được xây dựng từ thời nhà
Lý. Đến thời kỳ này được trùng tu mở rộng mang đậm dấu ấn của Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử.
Ngày 29 tháng 01, năm 2013, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang đưa ra
quyết định quy hoạch hệ thống di tích và danh thắng Tây Yên Tử và triển khai
kế hoạch xây dựng Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử thuộc địa bàn xã Tuấn
Mậu (huyện Sơn Động, Bắc Giang). Địa phận Tây Yên Tử khởi đầu từ huyện
Sơn Động cụ thể là xã Tuấn Mậu nơi có khu Tâm linh văn hóa Tây Yên Tử,
nằm ngay sát chân núi Yên Tử. Liền kề đó là núi Phật Sơn, đỉnh núi có chùa
Đồng.
Từ Sơn Động xuống đến Lục Ngạn, ta được biết đến chùa Am Vãi
thuộc xã Nam Dương (huyện Lục Ngạn). Chùa nằm trên núi Am Ni. Sách Đại
Nam Nhất Thống Chí có ghi: “Núi Am Ni ở xã Nam Điện, phía Nam huyện
Lục Ngạn. Mạch núi từ Phật Sơn và Thù Sơn kéo đến, phía tả có giếng nước
trong không bao giờ cạn. Cạnh núi có hai cái bồn bằng đá, trên núi có nền
chùa cũ” [65, tr. 88]. Tương truyền là nơi công chúa nhà Trần xuất gia tu
hành ở đó. Tiếp xuống Lục Nam có núi Phật Sơn, trên núi có chùa Ngọ hay
còn gọi là chùa Đồng Vành. “Núi Phật Sơn là dải núi có hình đức phật ngọa
thiền nhập niết bàn đầu quay về phía Tây hướng về phía sông Lục Nam, chốn
tổ Vĩnh Nghiêm” [65, tr.88]. Vị trí của núi là một vùng đất xung yếu bởi lẽ
Phật Sơn là nơi tiếp giáp của ba tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh.
29
Đặc biệt “Từ đỉnh núi Phật Sơn linh thiêng, nơi Phật Hoàng mở thiền viện, tu
luyện có chảy ra một dòng suối rất đặc biệt với màu nước vàng óng như mật
ong rừng”[75] mà người ta gọi là danh thắng “Suối nước Vàng”. Từ ngày
10/5 đến ngày 17/5/2014, UBND tỉnh Bắc Giang tổ chức 2 Hội nghị công bố
quy hoạch và triển khai xây dựng Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử và lễ đặt
đá xây dựng chùa Hạ (Phật Quang tự) nối liền với chùa Đồng trên đỉnh núi.
Trong sơn phận của núi Phật Sơn có chùa Hồ Thiên, am Ngọa Vân, Chùa Ngọ
(Đồng Vành) và một số di tích khác do Pháp Loa xây dựng. Trong số các di
tích đó thì chùa Đồng Vành là ngôi chùa cổ nằm ở phía Tây núi Yên Tử thuộc
Bắc Giang còn lại đều nằm ở phía Đông thuộc tỉnh Quảng Ninh. Chùa Ngọ
nay thuộc xã Lục Sơn, huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
Từ mạch núi Phật Sơn kéo đến là núi Bác Mã, trên núi có chùa Hồ
Bấc. Ngọn núi cao chừng 800m, ở thượng nguồn Suối Mỡ, núi thuộc xã
Nghĩa Phương, huyện Lục Nam. Thế núi dồn gấp nổi nên mấy ngọn núi liên
tiếp, có ngọn cao bằng núi Bác Mã có tên là núi Hồ Bấc, trên núi có hồ nước
và chùa Phúc Chủ, nhân dân hay gọi là chùa Hồ Bấc. Trải qua quá trình
nghiên cứu của Bảo tàng Bắc Giang đã có kết luận về ngôi chùa được xây
dựng ở thời Pháp Loa, cùng với xây dựng chùa Thanh Mai cách đó không xa.
Nối liền với núi Bác Mã là núi Huyền Đinh trên dãy Yên Tử. Núi đã được
nhiều sách cổ nhắc đến. Sách Lục Nam địa chí có ghi: “Núi Huyền Đinh,
mộng danh là núi ngàn vạn ngọn vạn đỉnh, nhấp nhô muôn trùng”. Lên núi có
thể quan sát toàn bộ khu vực Lục Nam - Chí Linh - Yên Dũng. Trên núi có
nhiều ngọn cao như: Rừng Gianh, Hang Dơi, Cửa Cốc, Bình Long… Đặc biệt
trên sườn núi Bình Long có chùa Bình Long cổ nay thuộc xã Huyền Sơn
huyện Lục Nam. Ngày nay trên vách đá của khu vựa núi nơi chùa xưa tọa lạc
vẫn còn dấu tích có hai chữ “Thanh Thủy” tức “nước trong”. Trong nhân dân
địa phương vẫn còn lưu truyền một câu chuyện “Chùa Bình Long ở núi cao
cách xa lành xóm. Trong chùa có giếng nước trong những chỉ đủ cho một nhà
30
sư sinh hoạt đạm bạc. Một lần sư có khách đến thăm, do lòng hiếu khách nên
nhà sư đã khơi nước đủ hai người ăn. Từ đó nước cạn nên vắng dần người tu
hành. Đến thời Trần thì chùa được trùng tu mở rộng.
Từ mạch núi Huyền Đinh nối liền sang núi Tượng Sơn. Sách Đại Nam
nhất thống chí có ghi: “Núi Tượng Sơn ở xã Cẩm Lý, phía Tây huyện Lục
Ngạn, mạch núi từ núi Huyền Đinh kéo đến. Các núi liên tiếp nhau trông như
bầy voi phục, giữa núi có chỗ lõm vào là đường đi cửa đường hiểm hẹp, có
thế một người địch trăm người”[65, tr.76 – 77]. Trong một tư liệu hán nôm
Đạo giáo nguyên lưu đã chép về chùa Hòn Tháp là “Quá trình Trần Nhân
Tông nên núi Yên Tử tu hành trên đường đi vua đã ghé lại nghỉ chân ở chùa
Hòn Tháp”. Nằm sâu hơn so với chùa Hòn Tháp là chùa Yên Mã. Chùa nhìn
thẳng xuống khu chùa Hòn Tháp nhưng cùng một trục thẳng. Đặc biệt ở chùa
Yên Mã đã tìm thấy dấu chân Phật trên phiến đá lớn. Cả hai ngôi chùa đều
được xây từ thời nhà Lý đến thời Trần khi đạo Phật của Việt Nam chính thức
ra đời thì hai ngôi chùa được trùng tu mở rộng mang đậm dấu ấn của Thiền
Trúc Lâm. Một ngọn núi thường được gọi là núi sót trong hệ thống kéo dài
của Tây Yên Tử nằm ở bờ hữu sông Lục Nam là núi Khám Lạng. Trên núi có
hang lớn, hang non gắn với truyền tích Thánh Mẫu và dấu bàn chân. Quá
trình nghiên cứu của Bảo tàng tỉnh Bắc Giang đã tìm thấy nhiều hiện vật để
có thể khằng định trên núi có chùa Cao được xây dựng từ thời Lý khá khang
trang và đến thời Trần chùa vẫn tồn tại được xây dựng mở rộng phát triển
hưng thịnh hơn.
Vẫn trên cánh cung Đông Triều ấy, điểm dừng của dãy Yên Tử (trải dài
từ Hòn Gai - Quảng Ninh) là núi Côn Sơn hay còn gọi là núi Kỳ Lân hay núi
Hun. Sườn núi có chùa Côn Sơn được xây dựng bởi Pháp Loa vị tổ sư của
Thiền phái Trúc Lâm và ngôi chùa cũng là một trung tâm phật giáo lớn thời
Trần. Cách đó không xa là chùa Thanh Mai cùng nằm trong hệ thống chùa
thuộc Thiền Phái Trúc Lâm ở Tây Yên Tử. Khi nhắc tới Côn Sơn thường đi
31
liền với một di tích nổi tiếng là Kiếp Bạc thời Trần là Vạn Kiếp.
Côn Sơn - Kiếp Bạc là hai di tích Quốc gia đặc biệt thời Trần thuộc
huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang nay thuộc xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Đây là một vùng danh sơn huyền thoại gắn liền với thân thế sự nghiệp của
những danh nhân kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất nước và rạng ngời
Việt sử suốt nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đặc biệt là ở thời nhà Trần,
là Tam tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (Đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng
Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa, đệ Tam tổ Huyền Quang) đã về đây
hoằng dương thuyết pháp, phát triển giáo giới; là quan Đại tư đồ Trần Nguyên
Đán - Vị Tư đồ phụ chính thời Hậu Trần đã lui về đây ở ẩn lúc tuổi già. Sau
này đến thời Lê, một anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn
Trãi đã về sống trong tòa thiên nhiên tráng lệ, lấy Côn Sơn làm tri ân tri kỷ.
Cách Côn Sơn chừng 5km là Kiếp Bạc một danh sơn huyền thoại với thế
“rồng vươn, hổ phục” có huyền thoại gắn với nhà quân sự kiệt suất thời Trần
là Trần Hưng Đạo Đại Vương. Với tầm nhìn của một nhà chỉ huy tài ba,
Hưng Đạo Vương đã chọn Kiếp Bạc làm đại bản doanh trong cuộc hai cuộc
kháng chiến quân Nguyên Mông lần thứ II và lần III.
Từ Kiếp Bạc - Hải Dương ngược về Sơn Động Bắc Giang men theo
chân núi phía tây Yên Tử ta lại tiếp tục bắt gặp thêm những di tích lịch sử thời
Trần gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Trên đỉnh núi với thế núi cao cảnh đẹp là chùa thiêng thì dọc theo các núi có
sông uốn quanh thì những nơi hiểm yếu đều được Hưng Đạo Vương cho xây
đắp ải lũy để phòng ngự. Phía Tây Yên Tử gồm Huyện Yên Dũng, Lục Nam,
Lục Ngạn, Sơn Động Bắc Giang cùng với Chí Linh Hải Dương đã trở thành
phên dậu của đất nước ngăn bước chân quân xâm lược trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông thời Trần. Kéo dài từ biên giới Lạng Sơn qua ải
Chi Lăng, Nội Bàng theo sông Lục Nam, qua Lục Đầu Giang, Bạch Đằng ra
Biển Đông được Trần Hưng Đạo cho xây bốn ải chính: Gồm ải Xa Lý (Khả
32
Lý) nay thuộc Xã Xa Lý huyện Lục Ngạn, ải Biển Động (Động Bản) nay
thuộc xã Biển Động thuộc huyện Lục Ngạn, ải Nội Bàng thì chưa xác định
được địa điểm chính xác hiện nay ở đâu, chỉ biết là ải Nội Bàng “ở vào
khoảng Chũ và xã Bình Nội” và Vạn Kiếp nay là Kiếp Bạc thuộc huyện Chí
Linh tỉnh Hải Dương. Vạn Kiếp có dãy núi Trán Rồng hình tay ngai, bao bọc
những thung lũng của sông Thương ăn sâu vào hẻm núi, có thể tập kết hàng
nghìn chiến thuyền trước khi xông trận. Trên các đỉnh núi có thể quan sát một
vùng sông nước, làng mạc bao la tạo thế chủ động cho quân sĩ khi tiến công
cũng như lúc lui. Phía Bắc có hệ thống núi rừng trùng điệp của cánh cung Yên
Tử, nơi có thể ẩn náu hàng vạn quân, lập căn cứ an toàn. Phòng tuyến ải Xa
Lý, Biển Động, Nội Bàng là một vùng núi có địa hình hiểm trở, có cây rừng
rậm rạp và nhiều sông suối án ngữ. Phía Bắc có dãy núi Bảo Đài, phía Nam
có dãy núi Huyền Đinh và dòng sông Lục Nam bao bọc, tạo thành hai cánh
cung Huyền Đinh - Yên Tử và Bảo Đài chạy dài theo hướng Đông Bắc - Tây
Nam giữa hai cánh cung là thung lũng với rừng cây rậm . Ải Xa Lý là cửa ngõ
phía Đông Bắc, ải Nội Bàng là cửa ngõ phía tây, do vậy dựa vào thực tế vị trí
đó, mà phòng tuyến Xa Lý - Biển Động - Nội bàng có thể giúp quân dân nhà
Trần ngăn được bước tiến của quân thù. Bởi đến đây kẻ địch gặp phải núi
rừng hiểm trở, sông suối án ngữ nên không phát huy được sở trường kỵ binh
như những nơi khác. Ngoài ra còn một số di tích khác, nơi mà nghĩa quân của
Hưng Đạo Vương luyện tập để chuẩn bị chiến đấu. Khi nghe tin tướng tài nhà
Trần tuyển binh, trai tráng trong vùng kéo đến xin đầu quân đông đến mức
không đếm xuể. Người bèn cho đào một cái đấu đất để đong quân, quân
không đếm được bằng đầu người phải đếm bằng đấu mới xong, nay di tích
Đấu Long Quân vẫn còn trên núi Huyền Đinh. Hay là di tích Bãi Quần Ngựa,
Ba Dinh, Bảy Nền, Thao Trường đều gắn với sự kiện lịch sử vĩ đại này.
Dưới sự chỉ huy của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương, “quân
và dân Đại Việt trên dưới một lòng với sự giúp sức của cả nước” đã làm nên
33
chiến công vang dội, chiến thắng Vạn Kiếp cùng với chiến thắng Hàm Tử,
Chương Dương, Bạch Đằng lẫy lừng đã đánh tan đội quân xâm lược Nguyên
Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Một điều ý nghĩa hơn là trong hệ
thống di tích thời Trần ở phía Tây Yên Tử những di tích lịch sử thể hiện lòng
biết ơn sâu sắc của người dân nơi đây đối với người có công. Đó là những ngôi
đền thờ những anh hùng dân tộc, những người có đóng góp to lớn cho độc lập
của Đại Việt. Đó là đền thờ vua Trần Minh Tông, thờ Trần Thủ Độ ở huyện
Yên Dũng, đền Quan Quận ở huyện Lục Ngạn, đền Quan Sang ở Lục Nam.
Tây Yên Tử mang nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng trong một thời đại
hùng tráng của dân tộc. Trên đỉnh núi là những ngôi chùa cổ linh thiêng thuộc
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, với hệ thống trải dài từ Sơn Động xuống Lục
Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng rồi đến Chí Linh để cùng với Đông Yên Tử thuộc
tỉnh Quảng Ninh trở thành một “cõi Phật trời Nam” của dòng Thiền Việt
Nam, mang giá trị đến tận ngày nay và mãi mãi về sau. Cùng với đó là những
di tích gắn liền với cuộc kháng chiến chống xâm lược của quân dân thời Trần
đã nói nên vị trí chiến lược của Tây Yên Tử trong việc bảo vệ độc lập dân tộc,
thể hiện được tinh thần chiến đấu quật cường bền bỉ của nhân dân nơi đây.
2.2. Phân loại di tích
Hiến chương Vơnidơ - Italia năm 1964 có nêu “Di tích lịch sử văn hóa
bao gồm những công trình xây dựng lẻ loi, những khu di tích ở đô thị hay ở
nông thôn, là bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến
hóa có ý nghĩa hay là một biến cố về lịch sử”.
Luật Di sản văn hóa Việt Nam đã giải thích di tích lịch sử - văn hóa là
công trình xây dựng, địa điểm và các di vật cổ, bảo vật quốc gia thuộc công
trình địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Đồng thời trong luật cũng
quy định di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí:
a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
34
quá trình dựng nước và giữ nước.
b) Công trình xây dựng địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của
các anh hùng dân tộc danh nhân của đất nước;
c) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kỳ cách mạng kháng chiến;
d) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ học;
đ) Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công kiến trúc đơn lẻ có giá
trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
Giáo sư Trần Quốc Vượng đã giải thích: “Di: còn sót lai; Tích: Dấu vết
- vết tích”. Vậy di tích là dấu vết còn sót lại (không nguyên vẹn) của một công
trình lịch sử - văn hóa nào đã được xây dựng trong quá khứ (thế kỷ XX trở về
trước lùi sâu cho đến thời Tiền sử - Sơ sử) có quy mô to nhỏ khác nhau.
Vậy ta có thể hiểu một cách cơ bản về di tích lịch sử - văn hóa là: “Di
tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể khách quan, chứa
giá trị lịch sử văn hóa do tập thể hoặc cá nhân con người sáng tạo ra trong
lịch sử”. Trên cơ sở thực tiễn ta có thể phân loại di tích lịch sử - văn hóa như
sau:
1) Di tích lịch sử là những di tích gắn liền với sự kiện lịch sử có giá trị
của đất nước. Các công trình kiến trúc có giá trị ghi dấu về dân tộc, ghi dấu
các chiến công chống xâm lược áp bức, nơi ghi dâu về nhân vật lịch sử, anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, khoa học, vinh quang lao động, tội ác của
đế quốc và phong kiến.
2) Di tích kiến trúc nghệ thuật là những di tích gắn với các công trình
kiến trúc có giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần.
3) Di tích khảo cổ học là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị
văn hóa thuộc một thời kỳ xã hội loài người có văn tự và có thời gian nào đó
35
trong lịch sử.
4) Danh lam thắng cảnh do thiên nhiên bài trí và có bàn tay sáng tạo
của con người chứa đựng nhiều loại hình di tích lịch sử văn hóa.
2.2.1. Khái quát các loại hình di tích trong không gian lịch sử - văn hóa
Trần ở Tây Yên Tử
Trong hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thời Trần ở phía Tây Yên Tử
thì chủ yếu là các di tích gắn với sự kiện lịch sử và di tích tôn giáo thuộc
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với 11 ngôi chùa cổ, 4 ngôi đền đã tạo thành
một hệ thống di tích lịch sử trải dọc sườn Tây Yên Tử từ huyện Sơn Động
tỉnh Bắc Giang xuống đến huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Ngoài ra còn
hàng chục di tích lịch sử gắn với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông
và một danh lam thắng cảnh suối Nước Vàng
Trong 11 di tích tôn giáo thuộc Thiền phái Trúc Lâm thì huyện Sơn
Động tỉnh Bắc Giang đang tiến hành xây dựng khu “văn hóa tâm linh Tây
Yên Tử” thuộc khu Đồng Thông, xã Tuấn Mậu huyện Sơn Động. Khu văn
hóa tâm linh có hệ thống chùa được xây dựng với quy mô lớn gồm 4 cụm
chùa độc lập gồm: chùa Trình, chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng (chùa Kim
Quy). Các điểm chùa có cao độ từ 145m đến điểm cao nhất gần 1.000m, kết
nối với chùa Đồng nơi có tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên đỉnh Yên
Tử cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ, giao thông, cáp
treo đồng bộ.
Xuống đến huyện Lục Ngạn, nơi đây có Chùa Am Vãi trên núi Am Ni,
thuộc địa phận xã Nam Dương, Tân Mộc, Nghĩa Hồ. Mạch núi từ Phật Sơn
kéo đến cao chót vót, cảnh sắc hoang vu mà đẹp lạ lùng. Nên đỉnh núi có thể
xem toàn cảnh Lục Nam, Lục Ngạn. Chùa được xây dựng ở thời nhà Trần,
thời kỳ đạo Phật phát triển cực thịnh. Trải qua năm tháng, sự tàn phá của thiên
nhiên và chiến tranh, hiện nay chùa được nhân dân phục hồi lại với tòa
36
thượng điện ba gian dài 11m, rộng 6,1m, theo kiến trúc chữ Đinh (丁). Tiếp
trên con đường của huyện Lục Ngạn là huyện Lục Nam, một huyện chứa
nhiều di tích lịch sử và nổi tiếng với di tích danh thắng Suối Mỡ. Diện tích
không lớn nhưng cảnh vật nơi đây nên thơ chữ tình bởi thế núi hình sông uốn
lượn quanh co, có thể đây cũng là một lý do mà đã được vị tổ sư Pháp Loa
cho đặt nhiều chùa để đăng đàn giảng đạo. Trong huyện có sáu ngôi chùa
thuộc thiền phái Trúc Lâm, gồm các chùa: Chùa Ngọ (chùa Đồng Vành), chùa
Hồ Bấc, chùa Bình Long, chùa Hòn Tháp, chùa Yên Mã và chùa Cao. Trong
đó có chùa Cao và chùa Yên Mã là nằm trên núi Khám Lạng còn gọi là núi
sót có phần tách riêng với dãy Yên Tử một đoạn nhỏ, còn lại bốn ngôi chùa:
Chùa Ngọ, chùa Hồ Bấc, chùa Bình Long, chùa Sơn Tháp đều nằm trên các
ngọn núi thuộc dãy Yên Tử trải dài từ Hòn Gai, Quảng Ninh đến Chí Linh,
Hải Dương. Trong sáu ngôi chùa ở huyện Lục Nam thì có hai ngôi được xây
dựng ở thời kỳ Pháp Loa là: Chùa Ngọ và chùa Hồ Bấc còn lại các ngôi chùa
đều có trước thời Trần và có thể là được xây dựng từ thời Lý. Bởi hiện nay
trải qua quá trình nghiên cứu kết hợp với công tác khảo cổ học, các nhà khoa
học đã tìm thấy nhiều hiện vật từ thời Lý để lại. Hầu hết các ngôi chùa hiện
nay đều được tu sửa lại trên cơ sở là nền cũ rất khang trang, tuy nhiên có duy
nhất là chùa Hồ Bấc là chỉ còn lại nền cũ trên đỉnh núi.
Dãy Yên Tử kết thúc bởi núi Kỳ Lân (núi Hun) thuộc huyện Chí
Linh, tỉnh Hải Dươnng. Trên núi có chùa cổ Côn Sơn và cách đó không xa
là chùa Thanh Mai. Cả hai ngôi chùa đều thuộc huyện Chí Linh và được
xây dựng thời nhà Trần. Núi Kỳ Lân có chùa C«n S¬n - Nơi cảnh
quan thiên nhiên tươi đẹp, từ xưa vốn đã trở thành chốn danh lam cổ tích
nổi tiếng được nhiều người biết đến. Chính vì cảnh đẹp này mà nhà thơ
Cao Bá Quát đã từng ca ngợi:
“Thấu Ngọc kiều biên dã hoa tiên
37
Thanh Hư động kỷ vẫn đề điểu”
Dưới chân núi Kỳ Lân có một giếng nước trong vắt, mát lạnh, nước
quanh năm đầy gọi là giếng ngọc. Có người cho rằng đó là mắt của con Kỳ
Lân. Trong dân gian vẫn lưu truyền về sự tích giếng ngọc. Truyện kể rằng
“vào một đêm rằm tháng bẩy, thiền sư Huyền Quang đêm ngủ có mơ thấy một
vị thần dắt tay mình đi và chỉ cho ông thấy một viên ngọc sáng lấp lánh bên
sườn núi. Huyền Quang cúi xuống xem thì chuông chàu lúc ấy cũng vang nên
làm ông tỉnh giấc. Ngẫm lại giấc mơ ban đêm, ông bèn cùng các tăng ni nên
núi xem xét và sau khi phát quang các các bụi cây ven sườn núi thì thấy hiện
ra một dòng nước. Sư Huyền Quang bèn uống thử thấy nước mát ngọt và cảm
giác trong người thấy dễ chịu. Huyền Quang bèn khơi sâu dòng nước và về
chùa làm lễ tạ thần linh. Sau đó ông cho đào sâu xuống lòng đất dùng gạch,
đá kè thành bờ giếng. Từ đó giếng ông cho đào có tên là giếng ngọc và nước
giếng được các nhà sư nơi đây dùng làm nước ăn và nước cúng trong những
ngày sóc vọng. Ngày nay các du khách khi đên đến thăm chùa ai cũng muốn
soi mình xuống giếng và được uống một chút nước thiêng để mong muốn
mình trẻ khỏe, sống lâu trăm tuổi.
Chùa Côn Sơn hiện quay hướng nam, ghé đông một chút. Cấu trúc của
chùa tương đối rộng có: Chùa chính có kết cấu chữ công (工), bao gồm tiền
đường, thiêu hương và thượng điện. Phía sau chùa chính là sân, qua khoảng
sân đó là nhà tổ. Hai bên chùa chính là hay dãy nhà bia đặt cân xứng với
nhau. Phía bên trái chùa là nhà trưng bày Nguyễn Trãi, phía bên phải, lùi về
phía sau nhà tổ nằm ở sườn núi là khu vườn tháp. Leo nên núi theo bậc thang
đá là bàn cờ tiên.
Cách chùa Côn Sơn chừng 5 km là chùa Thanh Mai, chùa tọa lạc trên
một ngọn đồi cao tầm 250m. Chùa có hai đơn nguyên kiến trúc song song với
nhau là: chùa chính (điện phật) người dân hay gọi là chùa Thượng, ở phía
38
ngoài cùng, phía sau là nhà tổ hay còn gọi là chùa Trung.
Hệ thống những di tích gắn với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông của nhà Trần ở Tây Yên Tử cũng được trải dài từ Sơn Động ,
Lục Ngạn đến Chí Linh, Hải Dương. Ngoài bốn ải chính được Trần Hưng
Đạo cho xây dựng làm phòng tuyến gồm: Gồm ải Xa Lý (Khả Lý), ải Biển
Động (Động Bản), ải Nội Bàng, Kiếp Bạc (Vạn Kiếp) thì còn nhiều di tích là
nơi gắn với quá trình tuyển quân, phòng ngự của cuộc kháng chiến vĩ đại đó.
Nơi mà nghĩa quân của Hưng Đạo Vương luyện tập để chuẩn bị chiến đấu.
Khi nghe tin tướng tài nhà Trần tuyển binh, trai tráng trong vùng kéo đến xin
đầu quân đông đến mức không đếm xuể. Người bèn cho đào một cái đấu đất
để đong quân, quân không đếm được bằng đầu người phải đếm bằng đấu mới
xong, nay di tích Đấu Đong Quân vẫn còn trên núi Huyền Đinh. Hay là di tích
bãi Quần Ngựa, Ba Dinh, Bảy Nền, Thao Trường đều gắn với sự kiện lịch sử
này. Tại làng Bình Nội hiện nay (nơi được cho là Ải Nội Bàng xưa) còn lưu
giữ tên các địa danh, xứ đồng có từ cổ xưa gắn vơi dấu tích của một thời kỳ
lịch sử chống Nguyên Mông như: Xứ đồng Lò Muối có thể là nơi đặt kho
muối của nhà Trần. Xứ đồng Nom Hơm nơi được quan quân thắp hương
trước khi xuất binh. Ao đong quân có thể giống như “đấu đong quân”. Ao
quan nơi quan quân nhà Trần tắm gội. Xứ đồng Xe Lẻ nơi có thể xuất quân đi
các hướng. “Gò Cây Lọng nơi quan dựng lọng”. Để nhớ ơn những người có
công bảo vệ độc lập dân tộc trước nạn ngoại xâm, thì ngay từ thế kỷ XIII, tại
khu vực Tây Yên Tử đã có nhiều ngôi đền được xây dựng và tôn vinh thành
các bậc “Thánh” trong dân gian. Trước tiên là đền thờ Trần Hưng Đạo, còn
gọi là đền Quan Sang, thuộc xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam. Đền được nhân
dân xây dựng sau khi Hưng Đạo Vương qua đời. Nơi đền được xây dựng là
trên sườn núi Huyền Đinh, nơi đây khi Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân
kháng chiến chống quân Mông Nguyên, đã lập một chốt tiền tiêu ở đền và
thường cưỡi ngựa sang chốt để thám thính tình hình của địch. Sau này khi
Trần Hưng Đạo mất nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và gọi là đền Quan
39
Sang. Đền có tên gọi như vậy là vì ngày xưa quan hay cưỡi ngựa sang đó nên
gọi là đền Quan Sang. Ngày nay, các ngôi đền, chùa ở dưới chân núi Huyền
Đinh đều thờ Đức Thánh Trần, “vị thánh sống” của nhân dân. Liền với dải
núi Huyền Đinh là núi Côn Sơn, cách đó không xa là Đền Kiếp Bạc thờ Đức
thánh Trần (Trần Hưng Đạo), xưa là biên ải quan trọng được Trần Hưng Đạo
cho đóng quân và đánh tan quân Nguyên Mông tại điểm này.
Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của quân dân nhà Trần thì tại miền Bắc
Giang có một vị tướng lĩnh có công lớn trong việc đánh bại quân Nguyên
Mông đó là người anh hùng Vi Hùng Thắng. Tướng quân Vi Hùng Thắng là
một vị tướng có công đánh giặc Nguyên - Mông, chặn đường tiến của giặc
Nguyên trên đất Lục Ngạn để quan quân nhà Trần do Trần Hưng Đạo chỉ huy
nên thuyền rút về Kiếp Bạc an toàn. Đầu năm 1285, giặc Nguyên Mông do
Thoát Hoan chỉ huy chia làm nhiều cánh quân thủy, bộ tiến vào nước ta, theo
các hướng khác nhau. Cánh quân chủ lực của chúng tiến qua lộ Bắc Giang.
Vua quan nhà Trần đã chọn Bắc Giang làm một địa bàn quan trọng, lập phòng
tuyến ngăn chặn đạo quân chủ lực của giặc trước cửa ngõ Thăng Long. Một
lực lượng lớn quân chủ lực đã được Trần Quốc Tuấn điều động để trấn giữ
vùng Bắc Giang - Lạng Giang, lập một phòng tuyến quân sự ở vùng đông bắc
lộ Bắc Giang, từ Khả Lý (Xa Lý) đến Động Bản (Biển Động), Nội Bàng.
Trong một trận chiến đấu tại ải Nội Bàng, khi Thoát Hoan tập trung toàn bộ
lực lượng, chia làm sáu mũi tiến quân đánh vào ải Nội Bàng nhằm tiêu diệt
quân chủ lực của ta. Trước thế lực tấn công ồ ạt của địch, quân Trần bị tổn
thất phải lui về Vạn Kiếp. Trong cuộc chiến đấu dọc tuyến Khả Lý - Nội
Bàng, các đội quân của tướng Vi Hùng Thắng đã sát cánh cùng chiến đấu với
quân chủ lực của Trần Quốc Tuấn. Trong trận đánh Nội Bàng, tướng quân Vi
Hùng Thắng đã hy sinh anh dũng ở núi Tân Dã (Thị Trấn Trũ ngày nay). Sau
đó nhân dân đã lập đền thờ với tên là Đền Quan Quận hay còn gọi là đền
Khánh Vân, thuộc trị trấn Trũ ngày nay. Trong đền có bức đại tự đề bốn chữ
40
“Vi Hùng Thắng” và có hai câu đối có nội dung:
“Thượng Mã đề yên tam xích kiếm
Bảo dân hộ quốc vạn cổ lưu thanh sử uy quang”
Nghĩa là:
“Sửa ngựa nên đường, vung ba thước kiếm, chiến công hiểm hách
Giúp dân giúp nước muôn đời rạng rỡ trong sử xanh”
“Hùng Thắng tôn thần thiên thu tải
Quận Công dũng tướng vạn cổ lưu”
Nghĩa là:
“Vị tôn thần Hùng Thắng muôn năm còn đó
Vị quận công dũng tướng vạn thuở còn truyền”
Xuống đến huyện Yên Dũng, nơi đây có ngôi đền thờ vua Trần Minh
Tông. Đền thờ vua Trần Minh Tông một vị vua có nhiều đóng góp cho Đại
Việt nằm kề bên bờ hữu sông Thương, nay thuộc làng Tiên La, xã Đức Giang.
Ngôi đền có sự kết hợp hài hòa cùng đình và chùa làng tạo nên một quần thể
di tích có cảnh quan đẹp ở vùng hạ huyện Yên Dũng. Đền thờ vua Trần Minh
Tông là công trình tín ngưỡng văn hóa có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh
thần của người dân quê hương. Công trình được khởi dựng từ thế kỷ XIV, sau
khi đức vua Minh Tông qua đời. Truyền thuyết làng Tiên La kể rằng: “Thái
thượng hoàng Trần Anh Tông sau khi nhường ngôi cho Thái tử Mạch (tức
Trần Minh Tông), thì thường lui tới chùa Vĩnh Nghiêm tu hành. Trần Minh
Tông khi ấy thường về chốn tổ thăm vua cha, thông thường người đi theo
đường thủy qua ngã ba Nhãn rồi ngược sông Lục về Vĩnh Nghiêm nhưng
cũng nhiều khi người đi đường bộ và xa giá nhiều lần dừng ở bến đò Lá (tên
nôm là làng Tiên La) rồi mới qua sông về gặp vua cha. Sau những lần qua lại
Tiên La, đức vua có nhiều ấn tượng tốt đẹp với miền quê này nên đã cho cấp
41
cho ba mẫu ruộng để trả lương cho người lái đò qua sông. Dân Tiên La từ đó
qua sông không phải trả tiền đò, lại được vua giúp đắp đê chống lụt nên khi
người mất (1357) đã lập am miếu tôn thờ bên bến đò xưa” [8, tr.48].
Ở khu vực Tây Yên Tử có năm ngôi đền thì huyện Yên Dũng có hai
ngôi đền được xây dựng từ thời nhà Trần. Ngoài đền thờ vua Trần Minh Tông
thì có đền Trần Thủ Độ. Đền nằm ở thôn Minh Phượng xã Nham Sơn, huyện
Yên Dũng. Thần tích ở đền kể rằng: Thời bấy giờ vùng Nham Biền còn rậm
rạp, nơi đây là thang mộc ấp của Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, đồng
thời là hậu cứ quan trọng của nhà Trần nên nhân chuyến đi kinh lý Đông Bắc,
Trần Thủ Độ đã dừng chân ở Hương Cảo (khu vực thôn Minh Phượng ngày
nay). Nhân dân trong vùng biết Thái Sư đến bèn mang lễ vật tạ và tâu rằng:
Trong khe núi có một con rắn khổng lồ thường xuống làng xung quanh bắt
người ăn thịt, rất mong được Thái Sư ra tay trừ ác thú (nơi đó nay vẫn gọi là
Khe Rắn). Nghe xong Thái Sư vỗ về nhân dân rồi lập kế nhử rắn ra khỏi hang
mà giết chết, mang lại bình an cho nhân dân trong vùng. Sau đó ông lại dạy
dân chế tạo ra cạm bẫy để trừ bắt các loài thú phá hoại mùa màng. Tưởng nhớ
đến công lao của Thái Sư, sau khi ông qua đời nhân dân đã lập đền thờ tại nơi
ông hạ trại nghỉ ngơi và lấy tên là Thanh Nhàn Từ. Trong đền còn thờ vợ ông
là Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung. Hiện nay cơ bản đền được trùng tu xây
dựng lại trên nền cũ bởi trong kháng chiến chống Pháp, đền bị bắn phá nhiều
lần nên bị hư hại rất nhiều.
2.2.2. Phân nhóm di tích lịch sử - văn hóa Trần
Qua quá trình tìm hiểu một cách khái quát về các di tích lịch sử văn hóa
thời Trần ở Tây Yên Tử, ta thấy hệ thống di tích thời Trần tương đối nhiều, có
những di tích ngày nay còn giữ lại được nguyên bản kiến trúc đương thời,
nhiều hiện vật của thời Trần như Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Cao, chùa Am
Vãi… Tuy nhiên cũng có nhiều di tích chỉ còn lại nền móng cũ, chỉ là những
phế tích như chùa Bình Long, chùa Hồ Bấc, bãi Quần Ngựa… Bởi vậy mà
42
trong tổng thể các di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở Tây Yên Tử, ta có thể
chia làm hai nhóm di tích chính: Đó là nhóm di tích khảo cổ học là các công
trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử, các di chỉ cư trú thời Trần đã bị
tàn phế từ lâu đời chỉ để lại phế tích nằm sâu trong lòng đất. Nhóm di tích thứ
hai là nhóm di tích, các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, các di tích,
di vật thời Trần được bảo tồn, tôn tạo hoặc đang được khai thác phục vụ đời
sống văn hóa – tín ngưỡng hiện nay.
Nhóm di tích thứ nhất thì cơ bản là những di tích gắn liền với cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà Trần. Bởi ngày đó là nơi
nghĩa quân tập luyện, nơi biên ải chấn giữ quân thù nay được biết đến qua câu
chuyện kể lại trong nhân dân, qua tên gọi của các địa danh như: Bãi Quần
Ngựa, Đấu Đong Quân, Ba Dinh, Bảy Nền… Những địa danh xưa là biên ải
thì nay là các làng, xã hành chính, cư dân sinh sống đông đúc. Như ải Khả Lý
nay thuộc xã Xa Lý huyện Lục Ngạn, nằm trên dãy núi Bảo Đài, bên cạnh có
con sông Xa Lý chảy xuôi về vùng Biển Động. Đây là cửa ải duy nhất giặc
phải vượt qua để tiến về vùng Động Bản, Nội Bàng. Ải Khả Lý nằm trên eo
núi đoạn thắt lại rất hiểm trở nên thường gọi là đèo ải. Đèo có độ cao khoảng
500m. Tại đây có thể quan sát rõ đất Lục Bình (Lạng Sơn) và đất Lục Ngạn
(Bắc Giang). Trên đỉnh đèo là cửa ải Khả Lý, trong khe ải có suối chảy vào
sông Xa Lý. Sông này chảy quanh co qua Cooc Nhi, Cooc Vặn, làng Vai rồi
nhập vào sông Lục Nam ở khu vực Động Bản. Dưới chân đèo Xa Lý (Khả
Lý) về phía Lục Ngạn có làng Đồn vốn trước kia là làng của người kinh nay
người Tày cư trú. Thế kỷ XIII quân dân nhà Trần đã tổ chức chặn đánh đại
quân Nguyên Mông do tướng Thoát Hoan chỉ huy ở Khả Lý. Hai tướng nhà
Trần đã hy sinh anh dũng trong lúc giữ ải là Đỗ Vĩ, Đỗ Hựu. Sau khi phá ải
Khả Lý giặc tràn xuống Động Bản nay là Biển Động, tướng quân nhà Trần là
Tần Sầm giữ ải bị tử trận, phòng tuyến bị vỡ giặc tràn xuống Nội Bàng (Trũ)
uy hiếp phòng tuyến phía sau. Hiện nay trên địa phận xã Xa Lý còn nhiều dấu
tích hệ thống đồn lũy của ải Khả Lý (Xa Lý) trong cuộc kháng chiến chống
43
quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần ba (1288).
Dọc tuyến sông Lục Nam, nơi phòng tuyến quan trọng trong chiến
công của quân dân nhà Trần chống giặc thì nay là những địa danh diễn ra
cuộc sống thường nhật của người dân. Làng Ải (thôn Bình Ải) xã Phượng
Sơn, huyện Lục Ngạn nằm sát chân núi Ải, một dãy núi cắt ngang thung lũng
sông Lục Nam. Nơi tiếp giáp giữa hai huyện Lục Ngạn và Lục Nam. Phía
Đông làng có sông Lục Nam chảy xuôi về phía sông Lục Đầu, phía Tây làng
là dãy núi Bảo Đài. Địa thế nơi đây đã tạo nên vị trí xung yếu nên các triều
đại phong kiến đã dựa vào đó để bố trí lực lượng ngăn chặn sự xâm lấn của
các thế lực phong kiến phương Bắc đi qua tràn về kinh thành. Trong quá trình
đó núi Ải được đắp nên tạo một bức tường thành nối liền với núi Bảo Đài và
có thể vì thế mà cái tên làng Ải xuất hiện. Trải qua quá trình nghiên cứu bằng
công tác Khảo cổ học, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều dấu tích là các vật
liệu xây dựng thời Trần như: gạch chỉ, gạch lát các loại… Và đã xác định khu
vực làng Ải, núi Ải xã Phượng Sơn chính là khu vực ải Nội Bàng trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược. Nằm sát và đối diện với
làng Ải là xóm Bãi Tân thuộc xã Tiên Nha huyện Lục Nam, xưa là Bến Bãi
nơi Yết Kiêu đón Trần Quốc Tuấn để rút về Vạn Kiếp. Trong một lần cánh
quân nhà Trần tiến quân nên vùng Nội Bàng - Xa Lý chặn giặc. Trên đường
đi đã dừng lại nghỉ ngơi, sau đó mang gươm ra mài tại một tảng đá, làm vẹt đi
một góc, người đời sau gọi là đá mài gươm. Và ngày nay tại ở làng Dùm xã
Nghĩa Phương vẫn còn lưu truyền về truyền thuyết về “đá mài gươm”. Ở hai
xóm Bình Voi và An Gạo thuộc xã Cảnh Thụy huyện Yên Dũng ngày nay có
truyền thuyết rằng: Tại địa phương Trần Hưng Đạo đã chọn vùng đất này để
luyện voi và tích trữ lương thảo phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trong nhiều
năm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến nhân dân khắp nơi đưa đến hàng trăm con
voi to khỏe. Có người quản tượng họ Ong từ Đàng Trong dẫn đàn voi chiến ra
cho Trần Hưng Đạo rèn luyện. Bên cạnh là những kho lương đầy ắp. Thóc
gạo từ khắp nơi được đưa về đây tập trung. Đây là hai dải đất hiểm yếu nằm
44
giữa lưu vực sông Thương và sông Lục Đầu, cách Vạn Kiếp không xa. Đồng
thời lại là nơi Thái Sư Trần Thủ Độ được phong thực ấp. Ông cùng với vợ là
bà Trần Thị Dung đã được nhiều làng trong vùng thờ làm thành hoàng làng vì
đã có nhiều công tích lũy lương thảo chiêu dân khai phá lập làng. Từ đây có
thể làm bàn đạp tấn công vùng Vạn Kiếp - Phả Lại bằng nhiều đường. Có
được sự chuẩn bị kỹ lưỡng, khi quân Nguyên tràn đến đóng đồn lập trại ở
vùng Vạn Kiếp. Trần Hưng Đạo đã hạ lệnh cho đàn voi chiến được rèn luyện
tinh nhạy, bất thần từ Cảnh Thụy hùng dũng đi ra xông vào trận mạc. Đồng
thời cho thuyền chở thóc gạo được chuẩn bị sẵn ra các nơi chiến trận. Quân ta
đã giáng cho quân Nguyên một trận kinh hồn ở Vạn Kiếp - Đa Mai. Ngày nay
con ngòi chảy qua Cảnh Thụy xưa làm đường vận chuyển lương thực nay
được gọi là Ngòi Chở Thuyền. Đất nước sạch bóng quân thù, để ghi nhớ công
lao rèn voi, tích lương thực, nhà vua đã cho hai xóm mang tên Bình Voi và
An Gạo, nhân dân về đó sinh sống lao động sản xuất. Cùng với truyền thuyết
này, trong quá trình sản xuất nhân dân nơi đây đã tìm thấy nhiều đĩa lọ, vò
bình thời Trần nằm sâu trong lòng đất. Nhiều hiện vật đang được trưng bày tại
nhà truyền thống của xã. Điều này đã chứng minh cho truyền thuyết về một
thời chống giặc oanh liệt của nhân dân nơi đây.
Nhóm di tích thứ hai chủ yếu là các công trình kiến trúc tôn giáo, tín
ngưỡng. Các ngôi đền, chùa: Đền Quan Quận, đền Kiếp Bạc, đền Quan Sang,
đền thờ vua Trần Minh Tông… chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Cao, chùa Bình
Long, chùa Hòn Tháp… đều diễn ra những hoạt văn hóa tôn giáo phục vụ đời
sống văn hóa - tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Trước tiên là phải nói
đền khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử. Nơi đây gắn liền với truyền thuyết:
“Vua Trần Nhân Tông vốn có nhiều cung tần, mỹ nữ. Sau khi vua xuất gia đi
tu thì nhiều người con gái đẹp tuẫn tiết nơi suối Giải oan, một số khác vua cho
về khu vực phía Tây (khu vực bản Mậu) làm ăn sinh sống, lấy chồng sinh
con. Cũng chính vì thế, những người con gái ở đây rất xinh đẹp và thường
45
được gọi là gái tiễn vua hoặc gái tiến vua”. Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử
thuộc trục đường phía sườn Tây Yên Tử nên chùa Đồng (thuộc đỉnh Yên Tử,
tỉnh Quảng Ninh) với tổng diện tích là 13,8ha, với bốn cụm chùa thuộc khu
vực Đồng Thông, xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Tháng
5/2014, UBND tỉnh Bắc Giang đã tổ chức hội nghị công bố quy hoạch và tổ
chức lễ đặt đá xây dựng Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử. Dự án được thực
hiện nhằm khôi phục lại con đường hành hương trong không gian văn hóa
chung để du khách có thể khởi hành từ Bắc Giang đến được chốn tổ Trúc
Lâm Yên Tử.
Chùa Vĩnh Nghiêm thời Trần được coi là trường đại học Phật giáo của
Việt Nam, nơi đào tạo nhiều tăng ni phật tử cho cả nước. Hiện chùa có
khuôn viên tương đối rộng,với nhiều đơn nguyên kiến trúc được sắp xếp trong
một mảnh đất hình chữ nhật chạy dài hướng Bắc – Nam. Trong đó có bốn tổ
hợp kiến trúc chính: Chùa Phật, nhà tổ đệ nhất, gác chuông, và nhà tổ đệ nhị.
Đây là những kiến trúc mang nhiều giá trị văn hóa. Ngoài ra có hai dãy hành
lang và nhà vong mới được sửa chữa và xây dựng mới.
Chùa Am Vãi trên núi Am Ni, chùa được xây dựng từ thời Trần, đã bị
tàn phá nhiều bởi chiến tranh. Gần đây chùa đã được tu sửa lại theo lối kiến
trúc cũ hình chữ đinh (丁). Ở chùa còn có hai chiếc tháp đá, một chiếc đã bị
sập gẫy và được tu sửa lại, trong tháp có khắc dòng chữ Hán “Liên Hoa bảo
tháp”. Tháp được xây dựng bằng loại đá sa thạch mầu nâu nhạt, tuy nhiên quy
mô không lớn. Thân tháp có để buồng tháp, trong đó có bài vị thiền sư được
thờ, trên đó tạc dòng chữ Hán nội dung: “Trúc Lâm viên tịch ma ha bất
thường Tỳ Khưu Như Liên thiền sư hóa thân Bồ Tát cẩn vị”. Nghĩa là: Vị
thiền sư là ma ha bất thường Tỳ Khưu Như Liên hóa thân Bồ Tát được viên
tịch về chốn Tùng Lâm”[7, tr.93 ].
Chùa Cao thuộc thôn Nồi, xã Khám Lạng có tên chữ là Hưng Quang
46
Tự. Nơi đây từng có một ngôi chùa có quy mô kiến trúc khá đồ sộ, được bố
cục theo kiểu nội công ngoại quốc. Quanh khu vực chùa được khuôn lại bằng
bức tường đắp đất lẫn sỏi cơm nay vẫn còn dấu tích. Công trình kiến trúc
trang nghiêm đó đã bị tàn phá khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX bởi
chiến tranh. Đến giữa thế kỷ XIX nhân dân địa phương đã phục hồi lại tuy
nhiên ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa lại bị phá hủy thêm lần nữa.
Đến năm 1995 nhân dân mới tiếp tục trùng tu lại lần hai nhưng quy mô nhỏ
hơn gồm ba gian tiền đường, hai gian phật điện. Trong quá trình xây dựng lại,
nhân dân đã tìm thấy nhiều di vật thời Lý và Trần như: Ngói mũi cao 5 - 7cm,
gạch, đầu rồng bằng đất nung. Điều này càng khẳng định niên đại khởi dựng
của ngôi chùa.
Những ngôi chùa còn lại: chùa Đồng Vành, chùa Bình Long, chùa Hòn
Tháp… cũng đều được trùng tu xây dựng và tổ chức các lễ hội phục vụ đời
sống văn hóa tôn giáo của nhân dân, đồng thời thể hiện sự tiếp nối, phát huy
một nền phật giáo Việt Nam.
2.3. Phân bố di tích
Những di tích thời Trần ở Tây Yên Tử đóng một vai trò quan trọng,
không chỉ về mặt văn hóa tôn giáo mà còn giữ vị trí chiến lược về quân sự.
Núi Yên Tử là nơi phát tích ra dòng Thiền Trúc Lâm, một dòng thiền của Việt
Nam, đồng thời có trung tâm đào tạo tăng ni phật tử lớn nhất cả nước lúc bấy
giờ là chùa Vĩnh Nghiêm. Từ trung tâm phật giáo Vĩnh Nghiêm lan tỏa ra các
hướng, các chùa, am, thiền viện theo dòng Thiền ấy được phát triển mở rộng
phục vụ cho việc truyền đạo đến nhân dân. Đến thế kỷ XIV thì hệ thống di
tích ở Tây Yên Tử được hình thành , được phân bổ khoa học, hợp lý, phù hợp
với địa hình, địa phận nơi đây.
Trước tiên về mặt không gian. Ta có thể hình dung lược đồ về một con
đường tâm linh Tây Yên Tử với sự khởi nguồn từ chùa Vĩnh Nghiêm (Yên
47
Dũng) lan tỏa đến những ngôi chùa cổ như: chùa Cao thuộc xã Khám Lạng;
chùa Yên Mã thuộc xã Bắc Lũng; chùa Sơn Tháp thuộc xã Cẩm Lý; chùa
Bình Long thuộc xã Huyền Sơn ,chùa Hồ Bấc thuộc xã Nghĩa Phương; chùa
Đồng Vành (chùa Ngọ) thuộc xã Lục Sơn, huyện Lục Nam. Sau đó xuống
đến huyện Chí Linh, Hải Dương có chùa Côn Sơn thuộc xã Cộng Hòa, và
chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám của huyện Chí Linh, Hải Dương.
Theo hướng đông Bắc nên đến xã Nam Dương, Lục Ngạn ta lại gặp chùa Am
Vãi và nên đến điểm cuối của Bắc Giang là huyện Sơn Động với cụm chùa
Trình, Hạ, Trung, Thượng - Kim Quy thuộc xã Tuấn Mậu. Sự lan tỏa này
càng khẳng định cho sự phát triển của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Những
ngôi chùa cổ ở thời kỳ đó đều khang trang, rộng rãi. Bởi ngày nay trải qua quá
trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra nền cũ qua đó biết được
quy mô kiến trúc các ngôi chùa cổ này.
Nói về lịch sử của các di tích tôn giáo thuộc thiền phái Trúc Lâm ở Tây
Yên Tử, thì khó xác định được ngôi chùa nào được xây dựng trước tiên, mà
chỉ biết chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa đầu tiên mang dấu ấn của dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Bởi phật Hoàng Trần Nhân Tông đã nhiều lần ngự giá đến
đây. Từ đây người nên đỉnh Yên Tử tu hành. Tuy nhiên ngôi chùa lại được
xây dựng từ thời Lý. Trong tổng số mười một ngôi chùa ở Tây Yên Tử, thì
chỉ có bốn ngôi chùa được xây dựng thời nhà Trần, cụ thể là thời kỳ Pháp Loa
đó là chùa Ngọ (Đồng Vành), chùa Hồ Bấc, chùa Côn Sơn và chùa Thanh
Mai. Các ngôi chùa còn lại được xây dựng từ thời nhà Lý, đến khi Thiền phái
Trúc Lâm chính thức ra đời thì những ngôi chùa ấy được trùng tu mở rộng để
phục vụ cho việc giảng đạo của các nhà sư tới nhân dân. Đưa dòng Thiền của
Việt Nam phát triển rộng trong quần chúng.
Những di tích, những địa điểm lịch sử gắn với cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên Mông của quân dân nhà Trần nằm dọc từ Sơn Động theo phòng
tuyến sông Lục Nam xuống đến Kiếp Bạc - Chí Linh: Ải Nội Bàng, ải Khả
48
Lý, ải Động Bản, ải Vạn Kiếp thì được hình thành trong thời gian diễn ra cuộc
chiến đấu oanh liệt ấy( 1285; 1288). “Lục Ngạn nói riêng, Bắc Giang nói
chung, chính là một trong những địa bàn đặc biệt quan trọng gắn liền với các
cuộc đại thắng lần thứ hai (năm 1285) và lần thứ 3 (năm 1288), bởi nơi đây
chính là địa bàn diễn ra cuộc đụng đầu quyết liệt giữa quân dân nhà Trần,
dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, với quân xâm
lược, khi đại quân bộ của chúng theo đường Xa Lý - Nội Bàng để tiến vào
nước ta”[4, tr.59]. Tại Ải Nội Bàng, đã có một vị tướng quân là Vi Hùng
Thắng anh dũng hy sinh để bảo vệ cho quan quân nhà Trần rút về Vạn Kiếp
và sau đó nhân dân đã lập đền thờ ông có tên là đền Quan Quận (đền Khánh
Vân). Hàng năm vào ngày 20 -2 (âm lịch), người dân lại mở hội, diễn lại sự
tích đánh giặc của ông và mở tiệc khao quân. Về ải Vạn Kiếp trong sách Địa
chí Hải Dương tập II có ghi:“Trần Hưng Đạo sinh ở Nam Định nhưng lại
chọn Vạn Kiếp là nơi đóng đại bản doanh và là nơi an nghỉ sau cuộc đời binh
nghiệp của mình. Ông và các con trấn giữ mảnh đất và vùng biển đảo phía
Đông kinh thành Thăng Long. Các trận đánh lớn và quyết định tiêu diệt quân
địch cũng được ông định đoạt tại vùng cửa sông phía đông kinh đô thuộc đất
Hồng Lộ (Hải Dương)”[63, tr46]. Cũng bởi lý do này mà sau ngày ông mất,
nhân dân Vạn Kiếp đã lập đền thờ ông nay là đền Kiếp Bạc huyện Chí Linh,
Hải Dương. Cùng với tấm lòng thành kính biết ơn của nhân dân Vạn Kiếp thì
người dân quê vùng Yên Dũng cũng đã xây Đền thờ Vua Trần Minh Tông và
Đền thờ Thái Sư Trần Thủ Độ, bên bờ sông Thương, sau khi hai vị anh quân
qua đời để tỏ lòng ghi cảm tạ.
Qua việc tìm hiểu về sự phân bố các di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở
vùng Tây Yên Tử ta thấy rằng, sự phân bố của các di tích tưởng chừng rời rạc
tách biệt nhau nhưng thực chất lại có mối liên hệ khăng khít với nhau. Trên
mỗi đỉnh núi là chùa Thiêng, nơi Thái Thượng Hoàng tu hành đắc đạo, dưới
chân núi là biên ải trọng yếu, là phên dậu cả vùng Đông Bắc của đất nước.
49
Trần Nhân Tông là một vị minh quân, là người từng cầm quân đánh bại một
đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, thì Ngài không thể nào rũ
áo ẩn tu mà không màng tới chính sự. Chọn Vĩnh Nghiêm Bắc Giang với núi
non hiểm trở, trước mặt là ngã ba sông tạo ra bức tường có thể ngăn bước
quân thù từ phương Bắc. Hơn nữa Yên Tử với thế núi cao có thể bao quát
khắp vùng địa đầu phía Bắc và Đông Bắc. Trần Nhân Tông quả đã chọn đúng
nơi đắc địa để tu hành. Điểm được chú ý nhất là mỗi một ngôi chùa ở Tây
Yên Tử thuộc thiền phái Trúc Lâm đều được nằm riêng biệt ở một khu rừng,
hay chính xác là một núi thuộc cánh cung Đông Triều. Địa điểm dựng chùa là
“điểm chốt” để bao quát và khống chế toàn khu vực. Cụ thể là chùa Đồng
Vành thuộc núi Phật Sơn có thể bao quát vùng Mai Sưu (Lục Nam), bên
Đông Yên Tử có chùa Hồ Thiên bao quát được vùng An Sinh (Quảng Ninh).
Khu vực núi Bác Mã có chùa Hồ Bấc bao quát vùng Thanh Mai (Chí Linh -
Hải Dương), Nghĩa Phương - Lục Nam. Khu vực núi Tượng Sơn có chùa
Hòn Tháp, Yên Mã, giúp bao quát vùng sông Lục Đầu. Khu vực chùa Bình
Long trên núi Huyền Đinh giúp bao quát vùng Lan Mẫu, Chu Điện, Cương
Sơn (Lục Nam). Khu vực chùa Am Vãi trên núi Am Ni giúp bao quát vùng
Nghĩa Hồ, Hả Lộ, Phì Điền (tuyến Lục Nam - Sơn Động).
Như vậy ta thấy cách phân bố các di tích kết hợp với địa hình thế núi
hình sông đã trở thành một nơi có vị trí chiến lược thời Trần. Không riêng nhà
Trần mà trước đó là nhà Lý sau này là nhà Mạc và cho đến tận ngày nay đều
được quan tâm và là vị trí quan yếu của Thủ đô và đất nước.
Tiểu kết chương 2
Quá trình tìm hiểu về lịch sử hình thành, sự phân loại, phân nhóm của
hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thời Trần ở Tây Yên Tử đã giúp ta thấy
được tầm nhìn chiến lược của vua Trần Nhân Tông. Giữa các di tích tôn giáo
50
như chùa Ngọ, chùa Hồ Bấc, chùa Am Vãi… với di tích lịch sử ải Khả Lý, ải
Nội Bàng… có sự gắn bó qua lại, hỗ trợ cho nhau, giúp cho đất nước luôn
sạch bóng quân thù. Trần Nhân Tông không chỉ là một nhà chính trị nhìn xa
trông rộng, mà còn là nhà quân sự tài ba, một nhà tư tưởng văn hóa kiệt xuất,
một Thiền sư lỗi lạc. Ngài đã chọn Yên Tử chứ không phải là nơi khác, nó thể
hiện sự gần gũi giữa con người với thiên nhiên, sau lưng tựa núi trước mặt là
biển rộng, dưới chân núi là sông uốn lượn quanh co, càng khẳng định cho
phật giáo Việt Nam với tư tưởng “nhập thế”. Những di tích nơi đây đã cho ta
biết thêm một con đường nên đỉnh Yên Tử từ phía Bắc với những con đường
núi đá gập ghềnh rêu phong, rừng cây ngăn lối nhưng chốn cũ ta về, cho dù có
hiểm trở hơn đi chăng nữa cũng không ngăn được những bước chân của du
khách khi hành hương về với chốn tổ phật giáo Việt Nam. Càng khẳng định
cho sự phát triển rộng lớn của dòng Thiền Trúc Lâm trên vùng cánh cung
Đông Triều. Một dòng thiền hòa hợp được tinh thần dân tộc, khéo léo dung
hợp tất cả tôn giáo đang tồn tại để tạo thành một thể thống nhất. Bên cạnh đó
những di tích lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
Mông xâm lược nơi đây, đã khẳng định lại một lần nữa cho tinh thần “Sát
Thát” của quân và dân Đại Việt thời Trần không lùi bước trước kẻ thù tàn
51
bạo.
Chương 3
MỘT SỐ DI TÍCH TIÊU BIỂU THUỘC THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
THỜI TRẦN Ở TÂY YÊN TỬ
3.1. Chùa Vĩnh Nghiêm
Nhìn lại lịch sử nước ta ở thế kỷ XIV, trong vấn đề tôn giáo thì chùa
nước ta được xây dựng mới và trùng tu lại rất nhiều. Những người cắt tóc làm
tăng ni nhiều bằng một nửa số dân thường. Đặc biệt lúc đó chùa Vĩnh Nghiêm
là nơi có vai trò quan trọng, nơi cả ba vị sư Tổ của Thiền Trúc Lâm đều thụ
giới và trụ trì một thời gian.
Chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng từ thời Lý theo Hòa thượng Thích
Thanh Kiểm đã viết “Chùa Vĩnh Nghiêm được kiến lập vào đời vua Lý Thái
Tổ (1010 -1028), kiến trúc thuần túy Á Đông và được trùng tu nhiều lần.
Cảnh trí tôn nghiêm, tráng lệ hiện nay là do vào năm Thành Thái nguyên niên
(1889) Hòa Thượng Thanh Hanh đứng ra đảm trách trùng tu” [24, tr. 74].
Khuôn viên chùa rộng, chiếm gần 3 mẫu Bắc Bộ. Kiến trúc chính của chùa
nằm trên một trục dọc, hướng Đông Nam, gồm 4 khối lớn chính: Khối thứ
nhất gồm chùa Hộ, tòa Thiêu Hương, chùa Phật; khối kiến trúc thứ hai là Nhà
Tổ đệ nhất; khối kiến trúc thứ ba là gác chuông và khối kiến trúc cuối cùng là
Nhà Tổ đệ nhị. Ngoài ra chùa còn có vườn Tháp, nhà bếp, nhà xay giã. Trước
kia còn hai dãy tả vu, hữu vu 36 gian, hàng năm chư tăng các nơi về kiết hạ.
Trong đó Chùa Phật là nguyên đơn kiến trúc chính của chùa và cũng là lớn
nhất, đẹp nhất. Nền chùa cao hơn mặt sân 0,62m. Toàn bộ mặt trước nền
được bó bằng tấm đá lớn, ba mặt còn lại xây gạch. Bộ mái của tòa Tiền
Đường cao khoảng 7m được lợp ngói mũi hài, kết cấu theo kiểu mái lá. Bờ
nóc và bờ giải có gắn hoa. Khoảng giữa bờ nóc tòa Tiền Đường có một cuốn
52
thư lớn đắp ba chữ đại triện, được bao quanh bằng những hoa lá và đường
viền hoa văn. Ba nếp chùa Hộ, tòa Thiêu Hương, và chùa Phật liên kết với
nhau trong một khối kiến trúc kiểu chữ công.
Nhà Tổ Đệ Nhất thì kiến trúc đơn giản hơn nhưng cũng có kết cấu hình
chữ Công (工). Nhà Tổ Đệ Nhất gồm ba nguyên đơn kiến trúc tạo thành gồm:
Tòa đại bái, chuôi vồ và hậu cung. Niên đại chung của tòa kiến trúc này mang
dáng dấp của kiến trúc thời Lê Trung Hưng bởi hệ thống ván giống trang trí
những cụm mây lăn tăn, gọi là mây Linh Chi. Hiện vật có một hương án chân
quỳ dạ cá cũng là sản phẩm đời Lê và tấm hoành phi “Trúc Lâu hội thượng”.
Gác chuông là khối kiến trúc thứ ba, nằm trên một trục chính dọc theo
hướng Bắc Nam, sau nhà Tổ Đệ Nhất, trước nhà Tổ Đệ Nhị. Gác chuông có
cấu trúc kiến trúc kiểu tầu đao lá mái gồm một gian hai trái chồng diêm hai
tầng sáu mái với chiều cao gần 8m. Tầng trên có sàn gỗ, giữa nhà treo một
quả chuông lớn, tầng dưới dùng làm nơi tiếp khách. Theo tài liệu bia ký còn
được lưu giữ ở chùa thì gác chuông và quả chuông hiện hành có niên đại đầu
thế kỷ XIX. Quả chuông niên đại thế kỷ XIX vẫn còn nhưng gác chuông đã
được tu sửa nhiều lần. Lần gần đây nhất là vào năm 1975 các kết cấu kiện gỗ
đã bị thay thế nhiều. Bộ khung chịu lực chính của gác chuông là bốn cột cái
với chiều cao 6m, vươn từ tầng một nên tầng hai cho tới nóc. Mười hai cột
quân gắn với cột cái bằng xà lòng và xà nách để đỡ bốn cột quân tầng trên.
Tại bốn cột quân gần tường hồi còn đội thêm đấu dội để đỡ bốn cột quân tầng
trên. Trên tầng là phần lòng của tầng dưới được nâng cao, nên dài và hẹp hơn
tầng dưới. Ở độ cao 4,31 mét có dầm gỗ liên kết lòng gian giữa, trên lát ván
sàn, chạy lan can con tiện cả hai bên sau trước. Một tấm thang gỗ dài bắc
chéo ở nách bên trái nối liền tầng dưới với tầng trên. Mái trên gác chuông đắp
bốn đao cong và nghê chầu, phượng xòe cánh. Trên hai đầu nóc đắp mặt hổ
phù, cả bốn góc đao được hỗ trợ thêm bốn cây cột ngõa đắp bốn con lân cõng
bốn đầu đao miệng lân như đang cười. Nhìn tổng thể khuôn viên chùa thì gác
53
chuông là nguyên đơn kiến trúc cao hơn tất cả.
Nhà Tổ Đệ Nhị là cụm kiến trúc cuối cùng của chùa Vĩnh Nghiêm nằm
trên trục chính dọc. Tòa kiến trúc có kết cấu chữ nhị (二), bao gồm tòa nhà
phía trước 11 gian tường hồi kín. Phía sau là tòa nhà ngắn hơn ba gian. Hai
tòa nhà này mới được xây dựng vào thời Nguyễn muộn. Các vì kèo của nhà
Tổ Đệ Nhị là bốn hàng cột chôn. Liên kết các cột tòa bái đường của nhà Tổ
Đệ Nhị là kẻ chuyền. Các cột chịu lực của tòa Bái Đường nhà Tổ Đệ Nhị nhỏ
nhắn nhưng khá vững chắc.
Bên cạnh giá trị về mặt kiến trúc, ở chùa Vĩnh Nghiêm còn có một bộ
sưu tập điêu khắc lớn bao gồm tượng phật, tượng chân dung khá tiêu biểu.
Toàn bộ tượng phật được bày khối kiến trúc thứ nhất gồm Chùa Hộ, Thiêu
Hương và Chùa Phật.
Chùa Phật là nguyên đơn kiến trúc nằm trên trục chính dọc ở Chùa
được bài trí nhiều tượng phật, cụ thể là:
Tượng Tứ Thiên Vương: Tượng này được bài trí ở hai bên tường hồi tòa
Tiền Đường. Tượng cao 1,47m được làm bằng đất. Tượng đội mũ trụ, có dây
thần thông, mặc áo giáp, chân đi giày, tay phải cầm đao, tay trái cầm kiếm.
Tượng được tạo tác ở tư thế cảnh giác giữu gìn phật pháp. Tượng có niên đại
muộn khoảng đầu thế kỷ XX.
Tượng Quan âm tổng tử: Tượng được tạc ở tư thế ngồi trong động, trên
tay bế một đứa trẻ, tay trái có con vẹt. Tượng cao 1,21m cả động và tượng
được làm bằng đất có niên đại thế kỷ XX. Bên phải động có một pho tượng
đứng đó là long nữ là con vua Long Vương, mới 8 tuổi, nghe Văn Thù thuyết
pháp đã ngộ đạo bỏ lốt long thần mà hiện thành người, nên linh sơn quy phật.
Bên trái động có một pho tượng đứng, râu bạc, tóc bạc búi nên đỉnh đầu, gọi
là thiện đài, ông thầy học 53 tuổi đắc đạo thành Phật.
Tượng Hộ pháp: Tượng Hộ pháp được đặt ở hai gian bên phải và bên
54
trái tòa tiền đường (bái đường). Đó là hai pho tượng bằng đất rất lớn. Tượng
được tạc ở tư thế ngồi trên lưng sấu (một loài sư tử huyền thoại). Tượng Hộ
Pháp có đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, có dây thần thông, phía bên trái là ông
Khuyến Thiện, ông này có khuôn mặt hiền từ, trắng trẻo, tay trái cầm viên
ngọc báu mầu nâu, tay phải chống nên đùi phải, chân phải gác nên đầu sư tử
trắng. Ngồi trong tư thế chân co chân duỗi. Tượng cao 2,52m vai rộng 84cm.
Vị ngồi ở phía bên phải Tiền Đường là ông Trừng Ác. Ông này có
khuôn mặt đỏ, mắt xếch trông dữ tợn, tay phải cầm tích trượng, tay trái chống
nên đầu sư tử hồng. Tượng ngồi trong tư thế phán xét. Cả hai tượng (khuyến
hiện và trừng ác có niên đại giữa thế kỷ XIX).
Ngoài ra trong ba kiến trúc của khối kiến trúc thứ nhất có rất nhiều pho
tượng giá trị khác như: Tượng đức ông; Tượng Thánh Tăng; Tượng Kim
Cương; Tượng Phạm Thiên; Tượng Đế Thích; Tượng Bồ Tát; Tượng Di Đà
Tiếp Dẫn; Tượng Quan Âm Chuẩn Đề; Tượng Phổ Hiền Bồ Tát; Tượng Thích
Ca Niệm Sen; Tượng Văn Thù Bồ Tát; Tượng A Nan Đà; Tượng Thích Ca Mâu
Ni phật; Tượng Ca Diếp; Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát: Tượng Tam Thế Phật.
Tượng Phật chùa Vĩnh Nghiêm đều có quy mô lớn, phủ màu sơn nâu
cánh gián rất trang nghiêm. Các tượng đều đặt ngồi nhập định trên tòa sen hoặc
đang thuyết pháp. Tượng Phật chùa Vĩnh Nghiêm đã tuân thủ những quy pháp
của phép tạo tượng nên đều là những tác phẩm điêu khắc mang giá trị cao.
Trong số tượng chân dung tại chùa, phải kể đến tượng Tam Tổ: Trần
Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Trong đó đáng chú ý là tượng Tổ đệ
nhất Trần Nhân Tông ngồi trong tư thế “tham thiền nhập định”. Tượng được
bài trí ở chính điện nhà tổ đệ nhất. Tượng bằng gỗ được tạc ở tư thế ngồi
trong một chiếc khảm cũng bằng gỗ. Niên đại khảm thờ khoảng thế kỷ XIX.
Tượng Trần Nhân Tông ngồi khoanh chân, tay phải cầm tràng hạt (dây thời
gian) để trên đùi phải, tay trái để úp nên đầu chân trái. Tượng mặc áo cà sa
kín đến cổ, vạt áo ngoài có hai nếp gấp từ vai trái qua sườn bên phải và được
55
quấn qua bụng. Niên đại tượng được xác định là cuối thời Lê đầu Nguyễn.
Trong chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: Nhang án, khám,
bộ bát bửu, chuông đồng, mõ, bia đá, ván in. Trong đó kho ván in là một tài
liệu mang tầm giá trị thế giới vớ 3050 tấm bản mộc. Đây là một di sản văn
hóa đặc biệt quý giá ở chùa. Tất cả được bảo quản trong tủ gỗ nên gọi là kệ
kinh và tất cả có 7 kệ kinh, được bảo quản tại chùa hộ hai kệ, thiêu hương 4
kệ, một kệ đặt ở nhà tổ Đệ Nhất. Các ván in có gần 35 loại kinh Phật giáo, với
hơn ba nghìn bản lẻ hàm chứa lượng thông tin phong phú, đa lĩnh vực như:
Lịch sử Phật giáo, tư tưởng - văn hóa hành đạo, nhập thế của dòng Thiền Trúc
Lâm, lịch sử nghề khắc in mộc bản, thân thế sự nghiệp một số vị cao tăng có
nhiều cống hiến cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc. Đặc biệt qua các mộc
bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang giúp chúng ta hiểu hơn về sự ra
đời và những tư tưởng, giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm - một dòng thiền
mang yếu tố đặc trưng của dân tộc Việt. Thiền phái Trúc Lâm ra đời lấy
phương pháp tu hành "thiền tâm" là chính và bài phú "Cư trần lạc đạo" của Trần
Nhân Tông, được lưu giữ tại kho mộc bản kinh phật ở chùa thể hiện rõ điều đó.
Nội dung bài phú như sau:
Cư Trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc san hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nghĩa là:
Ở đời theo đạo cũng tùy duyên
Đói thời ăn nhé, mệt nghỉ liền
Trong nhà có của thôi đừng kiếm
Vô tâm trước cảnh chớ hỏi thiền.
Bài thơ là sự phá bỏ lối tu hành khổ hạnh tu cho cá nhân mình, nó mở ra
hướng tu mới, đó là tu tâm - tâm là Phật, Phật là tâm. Lối tu ấy ở núi non cũng
được mà xuống tận lòng người ở tại nhà dân cũng chẳng sao. Phật tới tận tâm
56
người mới quý, kết nhân tâm lại thành một kết đoàn Phật giáo mới là trọng, là
đạo, việc đạo cũng là việc dân, việc quốc gia. Với quan điểm là đưa đạo phật
về với dân, hợp với lòng dân, lòng người, nên trong suốt quá trình tu hành của
ngài, các ngôi chùa được xây dựng không hẳn là trên đỉnh núi cao mà ở sườn
núi dần về gần với làng xã hơn, tức là về gần với dân hơn.
Bên cạnh đó, kho mộc bản kinh Phật còn cho biết các tăng đồ trong Thiền
phái Trúc Lâm tham cứu các kinh sách khác như: Kinh đại phương quảng Phật
Hoa Nghiêm sớ sao huyền đàm, soạn năm 1412; kinh Tỳ kheo ni giới, khắc năm
1881; truyện Tây Phương mỹ nhân, khắc năm 1873. Những kinh này kể về cuộc
đời đức Phật Thích Ca hy sinh hạnh phúc để theo con đường đạo phật; Kinh giới
luật, khắc năm 1871, gồm các điều luật răn dạy các sư nữ theo đạo; sách Kính tín
lục, soạn năm 1703, khắc năm Tự Đức thứ 39 (1876) có nội dung gồm các bài
kinh ngắn, văn, giáo huấn, đạo giáo, y dược… sách Đại thừa chỉ quán thuật ký
do Tì kheo Thanh Anh viết, khắc năm Bảo Đại thứ 10 (1934); …Ta thấy Thiền
phái Trúc Lâm ngoài việc truyền thừa tư tưởng của Thiền phái, còn tham cứu
thêm các kinh sách đạo Phật khác. Điều đó cho thấy Thiền phái Trúc Lâm tuy
giữ hệ tư tưởng riêng của mình, nhưng vẫn hội nhập, tìm hiểu nghiên cứu đạo
Phật thế giới.
Với hơn ba nghìn bản, được san khắc nhiều đợt trong khoảng thời gian
từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, được chế tác từ những đôi bàn tay khéo léo
của người thợ thủ công lành nghề thuộc các phường thợ ở Bắc Ninh, Bắc
Giang và đặc biệt là Liễu Tràng (Hải Dương) - một làng chuyên làm nghề
khắc mộc bản từ lâu đời. Các bản khắc đều được làm từ gỗ cây thị, khắc
bằng chữ Hán cổ và Nôm, số ít khắc xen cài chữ Phạn. Chữ được khắc ngược
trên hai mặt của mỗi ván gỗ (số ít khắc một mặt) với độ sâu từ 1 – 1,5mm.
Kho mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm có nội dung gắn với sự hình
thành, phát triển của Thiền phái Trúc Lâm là tài sản quý hiếm đặc biệt. Bởi
57
trong sơn môn Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trên đất nước Việt Nam hiện duy
nhất có chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) có tàng lưu kho mộc bản với số lượng
lớn khá đầy đủ và nguyên vẹn.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của kho mộc bản, vừa qua Sở VHTTDL
Bắc Giang đã phối hợp với các cơ quan liên quan lập hồ sơ khoa học và pháp
lý đề nghị Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO)
công nhận là Di sản tư liệu trong Chương trình Kí ức thời gian thế giới. Và
thật xứng đáng khi vào ngày 16/05/2012 hệ thống Mộc bản kinh phật Thiền
phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư
liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, dựa trên ba tiêu chí là: tính xác thực, tính độc đáo không thể thay thế
và vị trí, vai trò trong khu vực. Tại hội nghị của Ủy ban UNESCO khu vực
châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Bangkok (Thái Lan). Và gần đây
Chùa Vĩnh Nghiêm lại được Nhà nước công nhận là Di sản Quốc gia đặc biệt,
Ủy ban nhân dân tỉnh cùng nhân dân nơi đây đã tổ chức lễ đón nhận rất trọng
thể vào tháng 3 năm 2016.
Thành lệ, hàng năm cứ vào ngày ngày 14 tháng 2 âm lịch, lễ hội chùa
Vĩnh Nghiêm (chùa La) lại được tổ chức tại thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện
Yên Dũng. Nhân dân trong vùng cùng với khách thập phương nô nức về trảy
hội, dâng hương.
Chùa Vĩnh Nghiêm là công trình văn hóa tôn giáo cổ, còn được bảo lưu
đến ngày nay. Mặc dù trải qua thời gian chịu nhiều mưa nắng thiên tai và chiến
tranh tàn phá, di tích chùa Vĩnh Nghiêm đã được tu sửa và trùng tu nhiều lần
song vẫn giữ được vẻ trang nghiêm cổ kính và lưu giữ được nhiều giá trị, các tài
liệu, hiện vật còn bảo lưu trong chùa mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa không
chỉ cho riêng Phật giáo mà còn cho nền lịch sử văn hóa dân tộc nước nhà.
58
3.2. Chùa Thanh Mai
Chùa Thanh Mai là công trình tôn giáo tiêu biểu của dòng Thiền Trúc
Lâm Yên Tử được xây dựng ở thời Trần. Chùa hiện tọa lạc trên một ngọn đồi
ở độ cao 250m so với mặt nước biển, ngọn đồi này nằm trong vòng cung
Đông Bắc, thuộc địa phận xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương. Chùa quay hướng Đông Nam.
Vì nằm trên đỉnh một quả đồi nên nhìn xuống phía dưới là cả một
thung lũng với những cây cổ thụ lâu năm: nhãn, đại... Vì chùa tọa lạc trên núi
nên xung quanh không có dân ở rất hợp cho việc tu thiền. Điều này càng thêm
khẳng định chùa thuộc dòng Thiền Trúc Lâm. Bởi Thiền phái Trúc Lâm chọn
những nơi vắng lặng, u tịch mới là nơi dễ để con người toàn tâm, toàn ý cho
việc tu luyện kinh Phật, có như vậy mới gạt hết mọi âu lo của cuộc sống đời
thường để toàn tâm tu hành đắc đạo. Vị trí địa lý ở đây cũng gần giống như vị
trí chùa Hoa Yên trên dãy Yên Tử và chùa Côn Sơn trên dãy Phượng Hoàng.
Cũng bởi vị trí của chùa nên kết cấu kiến trúc cũng có phần ảnh hưởng
đến. Chùa không có Tam Quan mà chỉ có có hai đơn nguyên kiến trúc kết cấu
chữ đinh (丁) song song với nhau. Phía ngoài cùng là chùa chính (điện Phật),
người dân cũng gọi đây là chùa Thượng, phía sau nhà tổ (còn gọi là chùa
Trung). Hiện nay trong chùa còn một hòn đá tảng kê chân cột rất to, mang dấu
ấn thời Trần.
Điện phật: có kết cấu chữ đinh, gồm tòa tiền đường và hậu cung. Tiền
đường có 5 gian, hai dĩ, hai tầng, tám mái được làm theo kiểu tàu đao lá mái
nhưng ở tầng một người ta đã xây tường hồi bịt lại như kiểu tường hồi bít đốc.
Tầng hai có bốn mái cong kiểu tầu đao lá mái. Điện phật được làm mới trong
những năm gần đây gồm 7 gian với những cây cột khá lớn bằng gỗ lim. Bộ vì
tiền đường có bốn hàng chân cột, hai cột cái và hai cột quân, liên kết giữa cột cái
59
ra cột quân là một cái kẻ suốt kéo từ cột cái ra cột quân và đến tận hiên để đỡ tầu
đao và đặt lá mái. Vì nóc được làm theo kiểu chồng rường - giá chiêng. Tất cả
các cây cột và liên kết cột đều được làm lại mới trong các năm từ 2005 -2006.
Hậu cung là một gian nhà dọc một tầng chỉ có hai mái. Mái được lợp
bằng ngói vẩy cá hơi nhỏ. Bờ nóc và bờ dải là một dải xi măng đặc không có
trang trí. Hậu cung cũng được chia ra làm bốn gian, với các bộ vì bốn hàng
chân cột. Liên kết cột ở hậu cung cũng là một chiếc kẻ suốt xuống tận tường
để đỡ mái.
Đơn nguyên kiến trúc thứ hai (tức nhà tổ). Đơn nguyên kiến trúc này
cũng giống với kiến trúc điện Phật, là một ngôi nhà có kết cấu chữ Đinh (丁)
gồm tiền đường và hậu cung.
Tiền đường: có năm gian kiểu tường hồi bít đốc, phần chuôi vồ ba gian.
Ba gian chuôi vồ nối với tiền đường ở ba gian chính. Tiền đường của nhà tổ
có hai tầng sáu mái, tầng một 5 gian tường hồì bít đốc, tầng hai bốn mái và
được làm theo kiểu tầu đao lá mái. Bờ nóc tầng hai là một dải xi măng đặc
được trang trí ở hai đầu kìm những hoa văn đơn giản thời Nguyễn muộn. Bức
tường hồi tầng một được xây bằng gạch có trát vữa và với cột trụ được ghép
bốn con phượng ở phần cao nhất. Đây là sản phẩm của thời Nguyễn muộn.
Phần mái của cả hai tầng đều được lợp bằng ngói ri nhỏ xếp hình vẩy cá. Phần
cổ diêm tầng hai được thay bằng những ván gỗ chạy dọc theo chiều cao. Mỗi
gian lại có một ô tròn để lấy ánh sáng.
Phần chuôi vồ của nhà tổ: là một ngôi nhà dọc với chiều dài khoảng 3m,
chiều rộng là 3 gian chính của nhà tổ. Nhà Tổ được xây gạch bịt kín ba phía.
Phần chuôi vồ chỉ có hai mái cũng được lập ngói rì đơn giản. Niên đại chuôi
vồ cùng với niên đại nhà tiền đường (Nguyễn muộn). Nhưng dù có niên đại
Nguyễn muộn thì nhà tổ cũng là đơn nguyên có niên đại sớm hơn tòa điện
phật hiện nay khoảng 50 năm. Cho nên có thể nói về giá trị kiến trúc chùa
60
Thanh Mai thì nhà Tổ là ngôi nhà có giá trị nhất.
Ngoài ra, chùa Thanh Mai còn có bia và tháp có giá trị về mặt lịch sử
và văn hóa. Chùa có tất cả bốn bia đá, trong đó bia có niên đại lâu đời nhất là
bia Đại Trị năm thứ năm (1362), thời Trần. Bia được dựng trước cửa bên tay
trái của chùa. Bia cao 1,3m chiều rộng 0,8m, chiều dày 15cm. Bia được đặt
trên lưng một con rùa có kích thước khá lớn, rùa được tạc bằng đá xanh và có
niên đại như niên đại của bia đá. Trên trán bia có trang trí một đôi rồng chầu
vào ba hàng chữ viết theo lối chữ triện xưa. Rồng uốn khúc rất đều nhau
giống rồng thời Lý. Điều này dễ hiểu bởi vì thời Trần gần thời Lý cho nên các
nghệ nhân có thể còn ảnh hưởng và nhiều tác phẩm của họ còn mang dáng
dấp thời Lý. Diềm dọc của bia trang trí hoa cúc dày và diềm chân bia (sát với
lưng rùa) trang trí hình sóng nước. Nội dung văn bia cho biết việc xây dựng
tháp Viên thông (tức Viên thông bảo tháp), trong tháp chứa đựng di cốt nhà
sư Pháp Loa. Như vậy qua văn bia thời Trần giúp ta khẳng định rằng chùa
Thanh Mai được xây dựng từ thời Trần hoặc it nhất là khởi công trước năm
1362. Đồng thời đây là một tư liệu quý để nghiên cứu về chữ Hán cổ kiểu chữ
triện. Điều này chứng tỏ rằng thứ chữ Hán hiện đại về sau này du nhập nhiều
hơn và được dùng phổ biến trên các văn tự của nhà nước phong kiến và lối
chữ triện cổ, vào thời Trần vẫn còn được dùng trong một số trường hợp.
Bia thứ hai: Bia có niên đại Hoằng Định năm thứ 10 (1609). Bia có kích
thước nhỏ hơn bia trước, được làm bằng chất liệu đá xanh có chiều cao
1,05m, rộng 0,6m, dày 0,14m. Trán bia có trang trí những đao mác đặc trưng
của thời hậu Lê. Nội dung văn bia nói về trùng tu chùa Thanh Mai, mặt trước
có dòng chữ “trùng tu thanh mai tự bi” dịch là “bia ghi trùng tu chùa Thanh
Mai” và mặt sau có ghi khắc tên những người cung tiến tiền của, sửa chữa
chùa. Nội dung của bia đã góp phần khẳng định trong nửa đầu thế kỷ 17,
nhiều ngôi chùa lớn ở miền Bắc đã được vua Lê, chúa Trịnh và nhân dân cả
nước góp tiền sửa chữa. Hệ thống chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm cũng được
đồng loạt trùng tu như chùa Côn Sơn, chùa Thanh Mai, chùa Vĩnh Nghiêm.
61
Điều này cũng chứng tỏ sự chấn hưng phật giáo phát triển đồng loạt trên cả
nước. Về mặt tư tưởng, sau thời gian dài sử dụng nho giáo như một học
thuyết để quản lý nhà nước, chính quyền phong kiến và nhân dân vẫn rất
ngưỡng mộ đạo phật. Tuy nhiên, sự chấn hưng Phật giáo thời kỳ này cũng
không giúp cho đạo phật trở lại thời kỳ vàng son thủa Lý - Trần.
Bia thứ ba: Bia được đặt ở phía bên phải của chùa. Bia hai mặt, có mái
che, mặt một ghi “trùng tu phật tích sơn Thanh Mai tự bi ký”. Tạm dịch là
“bia ghi việc sửa chữa chùa Thanh Mai và tu bổ tượng phật”, niên đại bia năm
Vĩnh Thịnh thứ ba (1767). Mặt hai “trùng quang tập ký” tạm dịch là “một bài
ký ghi việc tu sửa chùa”. Sau khi công việc tu sửa chùa Thanh Mai vào nửa
cuối thế kỷ 18 hoàn tất, người ta đã làm một bài ký ghi nhận việc sửa chữa và
ghi tên những người đã góp tiền, của hoặc ruộng làm hương hỏa cho chùa
Thanh Mai.
Bia thứ tư: Tên bia là “trùng tu phật tích sơn bi ký”, niên đại Vĩnh
Thịnh Bính Tuất (1766), sớm hơn bia thứ ba một năm, nhưng kích thước nhỏ
hơn. Về kiểu dáng và hình thức bia thứ tư giống hệt bia thứ ba. Vì nhà chùa
đang tu sửa cho nên bia thứ ba được di chuyển nên và hiện nay đặt sát nhà
tiền đường của phật điện.
Ở chùa Thanh Mai hiện nay còn một số cây tháp cổ. Những ngôi tháp
này là tháp mộ sư. Đáng chú ý nhất là Viên thông bảo tháp. Hiện tháp tọa lạc
ở nơi cao nhất của ngôi chùa (đằng sau nhà tổ). Xung quanh tháp, người ta
trồng những cây đại là cây lâu năm.
Pháp Loa đã từng cho đúc rất nhiều tượng phật. Theo GS Hà Văn Tấn
cho đến cuối đời, “Pháp Loa đã đúc được hơn 1.300 pho tượng đồng lớn nhỏ,
đắp hơn trăm pho tượng đất và cho làm hai bộ tranh phật bằng vải sơn” [57,
tr.43]. Trong đó cũng có thể chùa Thanh Mai cũng có tượng thời Trần do
chính tay Pháp Loa cho đúc. Nhưng tiếc thay, trải qua chiến tranh và trải qua
62
thời gian, các pho tượng thời Trần hiện không còn một pho nào ở chùa Thanh
Mai để làm bằng chứng cho sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm nói riêng
và phật giáo Việt Nam nói chung. Ngoài việc đúc tượng, Pháp Loa còn tổ
chức đào tạo tăng, ni trong cả nước, “cho đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329),
Pháp Loa đã độ được 15.000 tăng ni” [57, tr.42]. Nhiều người trở thành tăng
ni thì hiển nhiên là phải xây dựng nhiều chùa, trong đó có sự mở rộng chùa
Thanh Mai, một trung tâm quan trọng của thiền phái Trúc Lâm mà Pháp Loa
đã từng trụ trì ở đó 6 năm.
Hệ thống tượng phật trong chùa hiện nay có niên đại muộn, khoảng ở
cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và muộn hơn Tuy nhiên vẫn mang nhiều
giá trị văn hóa. Tuy có niên đại khởi dựng vào thời Trần và theo minh văn của
một số bia đá còn lưu giữ tại chùa, vào thời hậu Lê người ta đã cho tu sửa lại
kiến trúc và đúc một số tượng phật. Song cho tới nay những sản phẩm này đã
bị thất lạc. Chùa hiện nay chỉ còn lại một số ít tượng phật có niên đại thời hậu
Lê, còn lại số đông có niên đại thời Nguyễn.
Ở chùa Thanh Mai có nhiều pho tượng mang giá trị văn hóa, nhưng đó
chỉ là những pho tượng có niên đại cuối thế kỷ18, đầu thế kỷ19 và những pho
tượng có niên đại muộn hơn. Tuy có niên đại khởi dựng vào thời Trần và theo
minh văn của một số bia đá còn lưu giữ tại chùa, vào thời hậu Lê người ta đã
cho tu sửa lại kiến trúc và đúc một số tượng phật. Song cho tới nay những sản
phẩm này đã bị thất lạc. Chùa hiện nay chỉ còn lại một số ít tượng phật có niên
đại thời hậu Lê, còn lại số đông có niên đại thời Nguyễn. Mặc dù vậy những
pho tượng này cũng vẫn có những giá trị nhất định. Một số pho tượng tiêu biểu
như: Tượng Tam Thế Phật, Tượng A Di Đà, Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát,
Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, Tượng Thích Ca Niên Hoa, Tượng Ca Diếp.
Tượng tam thế phật: Tượng được đặt trên vị trí cao nhất của điện phật.
Tượng được tạc bằng gỗ, sơn son thiếp vàng. Tượng ngồi trên đài sen, đài sen
có ba lớp cánh ngửa, đài sen lại được đặt trên một bệ gỗ hình chữ nhật. Tượng
63
ngồi ở tư thế thiền định chân xếp hình chữ X, bàn chân phải để trần, hai tay
theo tư thế định ấn. Thân hình mình tròn đầy, khuôn mặt phúc hậu, mặt hướng
về phía trước, hơi cúi xuống. Tóc xoắn ốc, nhục kháo nổi cao, mặt tròn, mũi
thẳng, miệng mím, mắt nhắm, lông mày cong. Áo cà sa chùng rộng, cổ áo
lượn tròn trước bụng. Các nếp áo khác cân xứng qua hai bờ vai. Nhìn chung,
cả ba pho tam thế phật chùa Thanh Mai có kích thước và được tạo tác giống
nhau. Căn cứ vào phong cách tượng và những lớp cánh sen, ta thấy được
tượng có niên đại cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 như tượng chùa Côn Sơn. Vì
ba pho tượng Tam Thế ở chùa Thanh Mai có hình thức giống nhau, được tạc
với kích thước bằng nhau nên tôi chỉ mô tả một pho.
Tượng A Di Đà: Tượng A di đà cũng được tạc ở tư thế ngồi trên đài sen.
Đài sen có ba lớp cánh ngửa như đài sen ba pho tam thế phật. Tượng được tạc
bằng gỗ sơn son thiếp vàng và ngồi theo tư thế kiết giá và thiền. Tay phải đặt
ngửa ở phía dưới, tay trái đặt nên tay phải, hai ngón tay cái chồng vào nhau.
Tay đặt trước lòng đùi và đặt nên bàn chân. Chân trái trần lộ ra khỏi lớp áo,
chân vắt chéo hình chữ X. Nhìn bệ tượng và phong cách của tượng ta có thể
kết luận rằng tượng A Di Đà có niên đại như tượng Tam thế phật cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX.
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát: Tượng được tạc ở tư thế đứng trên đài sen
phía bên trái tượng A di đà. Đài sen được tạc bằng gỗ đặt trên bệ vuông. Đài
sen có ba lớp cánh ngửa, áo cà sa nhiều lớp, lớp cuối cùng này hơi cong nên
một chút, vai phía trái để hở, áo cà sa trùm rộng phủ kín đến cổ tay. Mặt
tượng trái xoan, đầu đội mũ tỳ lư, tai to và dầy, mũi thẳng. Căn cứ vào đài sen
và tượng thì tượng có niên đại thời Nguyễn (cuối Lê - đầu Nguyễn).
Tượng Đại thế chí bồ tát: Cũng tương tự như tượng Quan Thế âm bồ tát.
Tượng Thích ca niệm hoa: Tượng được tạc bằng gỗ, sơn son thiếp vàng ngồi
trên đài sen theo tư thế kiết giá và thiền. Tay phải cầm bông hoa sen, bàn tay
64
ngửa về phía trước, ba ngón cuối vuông góc với cổ tay, ngón trỏ dọc theo
bông hoa, ngón cái song song với ngón trỏ, tay trái đặt trên lòng đùi. Vóc
dáng tượng với thân hình thon mập, ngực nở, khuôn mặt đầy đặn, mắt hơi
nhắm, mũi dọc dừa, miệng mím, hai tai dài, to, chảy xuống dưới ngang cằm,
mặt hướng thẳng ra phía trước, hơi cúi. Đầu tượng với bộ tóc xoắn ốc cao,
thiên về phía đỉnh đầu.
có mối xoắn. Đầu thắt lưng buông rủ xuống hai bên. Với phong cách tượng và
bệ tượng như vậy thì có thể kết luận được niên đại là thời Nguyễn.
Hiện ở nhà tổ chùa Thanh Mai còn có ba pho tượng thờ ba vị sư tổ của
thiền phái Trúc Lâm đó là: tượng tổ Trần Nhân Tông ngồi giữa, tượng Pháp
Loa bên trái và tượng nhà sư Huyền Quang phía bên phải. Cả ba pho tượng
này được tạc ở tư thế thiền định, ngồi xếp bằng trên ba bệ gỗ hình chữ nhật.
Tượng tạc bằng gỗ theo phong cách là tượng chân dung cho nên to bằng
người thật.
Mặc dù kiến trúc cùng hiện vật của chùa Thanh Mai được xây dựng từ
thời Trần cho đến ngày nay đã không còn giữ được nguyên vẹn nét cổ xưa.
Tuy nhiên những giá trị của kiến trúc và hiện vật vẫn còn được lưu giữ mãi về
sau. Như sự hiện diện của hòn đá tảng kê chân cột cho chúng ta thấy rằng,
chùa Thanh Mai vào thời Trần có kiến trúc tương đối lớn. Bởi vì chân tảng
lớn để kê chân những cây cột gỗ lớn, và do đó chùa phải to, nặng với bộ
khung gỗ chắc khỏe và bộ mái nặng. Có thể chùa lúc này là ba gian hai chái,
hoặc một gian hai chái như những ngôi chùa thời Lý. Ngoài ra, những tấm bia
ở chùa Thanh Mai cũng chứa đựng những nội dung lịch sử lớn mà các tài liệu
khác không chép, hoặc chưa kịp chép cụ thể như theo nội dung bia tháp Viên
Thông ở chùa Thanh Mai, khắc năm Đại Trị thứ năm (1362) cho biết: “Nhà
sư Pháp Loa đã được vua Trần Anh Tông cấp cho 100 mẫu ruộng ở hương
Đội Gia, cấp luôn cả canh phu (người cầy), lại lấy 25 mẫu ở hương Đại Từ
65
cấp thêm vào số trên. Sau Trần Anh Tông lại cấp thêm 80 mẫu ruộng ở hương
An Dinh cùng với canh phu. Năm 1312, Trần Anh Tông lại lấy 500 mẫu
ruộng, thuộc trang niệm nhỏ cấp cho Pháp Loa”[57]
3.3. Chùa Am Vãi
Truyền thuyết để lại “Chùa Am Vãi sơ khai chỉ là một am nhỏ, có một
vị sư trụ trì. Ở đây có một hang tiền và một hang gạo do mái đá núi tạo
thành. Mỗi ngày cả hai hang chỉ đủ cunng cấp cho vị sư này đủ dùng trong
một ngày mà không bao giờ chảy hơn. Đến một ngày có một vị huynh đệ từ xa
đến thăm quan cảnh chùa và ở lại dùng bữa cùng. Trụ trì chùa Am Vãi phải
ra khơi cho hang tiền, gạo chảy ra đủ dùng cho hai người. Từ đó trở đi, hang
tiền và hang gạo không bao giờ chảy ra nữa. Nhà sư không có tiền gạo để tu
hành nên đã bỏ đi, từ đấy chùa trở nên vắng sư - thành hoang phế” [4,
tr.112]. Sau này có công chúa nhà Trần đến tu hành, điều này có thêm cơ sở
để khẳng định không chỉ ở sách Lục Nam địa chí đã ghi mà tên “Am Vãi” của
chùa theo như GS. Hoàng Phê giải thích trong quyển Từ điển Tiếng Việt thì:
“Ni: Người phụ nữ tu hành theo đạo phật và ở chùa. Chữ ni và chữ tăng” ;
“vãi: Người đàn bà có tuổi chuyên đi chùa lễ Phật, người đàn bà theo đạo
Phật, ở giúp việc cho nhà chùa. Sư nữ” [47, tr.1130]. Chùa hiện tọa lạc trên
núi Am Ni, cách trung tâm xã khoảng 5km đường chim bay, 12km đường bộ.
Ngày nay chùa Am Vãi không còn là một ngôi điện dọc ngang bề thế như dân
trong vùng lưu truyền. Chùa còn lại ngôi Thượng Điện là nổi bật nhất rộng ba
gian, làm bằng gỗ, theo kiểu chữ Đinh (丁).
Nói đến chùa Am Vãi thì cái quan trọng nhất cần nhắc đến đó là vị trí của
chùa. Nơi có sự kết hợp hài hòa giữ núi và sông, cảnh đẹp sơn thủy hữu tình.
Chùa nằm trên sườn của đỉnh núi Am Ni, từ chùa nhìn ra bao quát được
tứ phía xung quanh. Núi Am Ni nằm án ngữ ngay tả ngạn sông Lục Nam ở
khu vực Chũ đi Mai Sưu. Cùng xuất phát từ dãy Yên Tử, cùng với những
66
ngọn núi Huyền Đinh, núi Phật Sơn núi Am Ni bao quanh một thung lũng xưa
là địa điểm quân sự chiến lược, nay là nơi trồng vải thiều trù phú. Việc chọn
núi Am Vãi là nơi tu thiền nằm trong chiến lược bảo vệ tổ quốc, chinh giữu
điểm cao, giám sát biên cương của vua Trần. Dãy núi Am Ni như mộtcon
rồng cuộn mình. Nếu dãy Yên Tử là bình phong chắn gió bão từ biển đông đi
vào, thì núi Am Vãi đã nhô cao làm thành một đỉnh vươn nên trời xanh. Xét
về Âm Dương - Ngũ Hành, đỉnh Am Vãi là hình thái cân bằng của của tạo
hóa (thung lũng là âm, đỉnh núi là dương). Bởi ven chân núi là dòng sông Lục
uốn quanh thế núi hình sông hòa quện tạo ra cảnh vật đi vào lòng người. Chùa
được đặt ở sườn đồi không quá cao cũng không quá thấp, hướng về phía Yên
Tử. Đặc biệt hơn là chùa có giếng nước sạch, chảy nước quanh năm, dân
trong vùng còn gọi là “giếng Tiên”, bởi nước trong sạch, quanh năm không
bao giờ cạn.
Trải qua sự mai một của thời gian, của sự tàn phá bởi chiến tranh, chùa
cổ xưa đã bị đổ nát chỉ còn nền cũ. Phải từ năm 1990 trở đi thì nhân dân rong
vùng mới cùng nhau có điều kiện góp sức, góp của vào tu tạo lại chùa. Từ
năm 1998, người gùi cát, người gánh vôi, người quẩy ngói, cơm đùm cơm
nắm từ làng nên chùa để hưng công tạo dựng chùa mới. Do đó một ngôi chùa
mới đã được xây dựng nên trên nền cũ đến năm . Chùa được làm theo nối mở
cửa đầu đốc (chuôi vồ), các vì đơn giản. Tượng Phật được công đức đắp tô tại
chỗ nên không được to và chủ yếu là đắp mới. Gồm có các pho tượng: Tượng
Tam Thế, tượng A Di Đà, tượng Đức Ông, tượng Thánh Tăng, tượng Ngọc
Hoàng, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tượng Mẫu. Giá trị hơn là hiện nay chùa
còn lưu giữ được hai cây tháp bằng đá mang tên “Bảo tháo liên hoa”. Phía
đông chùa còn một giếng nước, trong mát quanh năm không cạn, cách đó
không xa là dòng suối nhỏ do nước từ núi chảy ra, tạo khung cảnh hiền hòa
gần gũi. Bên suối có khối đá lớn in dấu một bàn chân. Người dân trong vùng
gọi đó là bàn chân Phật. Hàng năm vào các ngày 23, 24 tháng 4 âm lịch là tại
67
chùa lại tưng bừng mở hội đón đông đảo du khách thập phương viếng thăm.
3.4. Vai trò và vị trí của các di tích thuộc Thiền phái Trúc Lâm thời Trần
ở Tây Yên Tử trong dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trong đời sống văn
hóa - tín ngưỡng đời Trần
Di tích lịch sử văn hóa là một phần không thể thiếu trong văn hóa mỗi
dân tộc. Với Đại Việt ta dù ở thời đại nào đi chăng nữa thì những di tích luôn
mang giá trị nhân văn sâu sắc và tính nghệ thuật cao. Đặc biệt trở lại với thế
kỷ XIV, khi mà Việt Nam ta đã có một dòng Thiền riêng mang tên Thiền Phái
Trúc Lâm, thì chúng ta càng thấy được vai trò và vị trí to lớn của những di
tích lịch sử thuộc Thiền phái Trúc Lâm thời Trần ở Tây Yên Tử đối với dòng
Thiền và cả trong đời sống văn hóa - tín ngưỡng thời Trần.
Là một vị vua thấu hiểu Phật Lý với đầy đủ tinh thần Bi - Trí - Dũng,
Trần Nhân Tông đã chủ trương xây dựng một phái Thiền thuần Việt - Thiền
phái Trúc Lâm, nhằm tìm một con đường giải thoát cho chính mình, đồng thời
giải thoát cho người dân được sống tốt đời đẹp đạo, tăng cường sợi dây kết
nối giữa những tấm lòng bởi trong mọi hoàn cảnh thì luôn cần sự gắn bó đoàn
kết của toàn thể nhân dân.
Sự đóng góp của Thiền phái Trúc Lâm trong công cuộc củng cố tinh
thần dân tộc đã góp phần không nhỏ để làm nên những thắng lợi của quân dân
Đại Việt trước giặc ngoại xâm. Bởi trong tư tưởng Thiền Trúc Lâm có nhất
nhiều điều giá trị góp phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thiền Trúc Lâm nhấn mạnh sự bình đẳng giữa con người với con người, “mọi
chúng sinh đều có phật tính”, đều sẵn có mầm giác ngộ để tương lai thành
Phật, là một chủ thuyết thực sự bình đẳng, nó giúp hạn chế và xóa nhòa ranh
giới đẳng cấp của xã hội phong kiến thời Trần. Với tư tưởng dân chủ bình
đẳng từ việc đánh giá bản chất cội nguồn của con người mà vua tôi đồng tâm,
anh em hòa thuận, cả nước ra sức để đánh thắng kẻ thù. Tư tưởng bình đẳng,
từ bi rất thích hợp để mở rộng và tô đậm thêm tình yêu thương đoàn kết trong
68
nhân dân Việt Nam, bao gồm cả vua chúa, tướng lĩnh, quan lại đến người lính
và dân thường mà Hội nghị bô lão ở Diên Hồng năm 1285 và Hội nghị tướng
sĩ ở Bình Than năm 1282 là minh chứng cho tinh thần tư tưởng đó.
Những Nhà sáng lập và đứng đầu Thiền Trúc lâm nêu cao tinh thần lấy
lý tưởng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân làm lý tưởng và nguyện
vọng của mình, luôn tha thiết, mạnh mẽ và quết liệt là làm sao để cứu nhân
dân thoát khỏi sự giày xéo dưới gót giày tàn bạo của giặc hung nô. Đây là sự
hòa đồng chặt chẽ giữa tinh thần yêu nước Việt Nam và Thiền Trúc Lâm.
Tinh thần hợp nhất giữa đạo và đời, tinh thần nhập thế tích cực cũng là
một điểm sáng trong tư tưởng của dòng Thiền. Phương châm hành động của
các vị Tổ Thiền Trúc Lâm là nhấn mạnh thái độ dưỡng chân ngay trong thế
giới bụi bặm này, phải sống “nhập trần”, phải hòa ánh sáng trong chúng sinh
“hòa quang đồng trần”. Đó là tinh thần nhập thế vì đồng bào, vì Tổ quốc, quê
hương, đất nước, không phải chỉ vì sự giải thoát cá nhân. Con người hướng
thiện phục vụ nhân sinh, nhân quần xã hội và trong quá trình đó, tâm trí khai
mở dần. Càng trải rộng bao nhiêu càng đi tới giác ngộ bấy nhiêu.
Để những tư tưởng tốt đẹp của dòng Thiền Trúc Lâm đến với quần
chúng nhân dân, tăng cường tinh thần gắn bó keo sơn trong quần chúng và
với bề tôi thì vai trò của những di tích thời Trần ở khu vực Yên Tử nói chung
và Tây Yên Tử nói riêng càng trở nên quan trọng hơn. Sự ra đời của các di
tích ở Tây Yên Tử trở thành một hệ thống đã khẳng định rằng, Thiền Trúc
Lâm thời Trần đã tích cực hoạt động trong xã hội chứ không chủ trương ẩn tu.
Việc chọn dãy núi Yên Tử mà không phải nơi khác đã thể hiện con người gần
thiên nhiên, hay cụ thể là núi cao sau lưng, biển sâu trước mặt biểu thị Phật
giáo “nhập thế” thời Trần. Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đi khắp nơi thuyết
pháp và tiến đến việc thành lập những trung tâm hoằng pháp. Chùa Vĩnh
Nghiêm ở khu vực Tây Yên Tử đã nhanh chóng chở thành một trong những
trung tâm hoằng pháp, đạo tràng an cư kiết hạ, đào tạo Tăng tài, thuyết giảng
69
giáo lý cho Tăng Ni mà Tam Tổ Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang xây
dựng dưới sự bảo trợ của triều đình. Sách Việt Nam Phật giáo sử luận viết:
“Vào đời Trần các Tu viện, đại danh lam như Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Siêu
Loại, Báo Ân, Lạc Tàng viện… là những cơ sở được Thiền phái chọn làm đạo
tràng an cư kiết hạ trọng điểm có sự bảo trợ của triều đình, ưu tiên cho
những ai là tăng sĩ ưu tú thuộc Giáo hội Trúc Lâm”[30, tr.449].
Việc tổ chức an cư kiết hạ được Tam Tổ xem là một trong những Phật
sự hàng đầu của một Giáo hội Tăng già trong sự nghiệp truyền đăng tục diệm,
phát triển đạo pháp. Trên hết, sự phật này còn góp phần bảo vệ và xây dựng
đất nước sau ba cuộc chiến tranh vệ quốc đánh đuổi quân Nguyên Mông. Đó
là lý do mà nhân dân ta đã nhìn nhận và tôn vinh chùa Vĩnh Nghiêm là một
trong những trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền Trúc Lâm thời Trần,
mang đậm bản sắc dân tộc, là nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo
Nhất tông trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã có trước đó đầu tiên trong
Lịch Sử Phật giáo Việt Nam. Cũng từ sự ra đời của dòng Thiền Trúc Lâm, lần
đầu tiên mô hình Phật giáo Nhất Tông được đi vào hoạt động mạnh mẽ, có
tôn chỉ, đường lối hoạt động trong một tổ chức thống nhất từ tư tưởng cho đến
hình thức hoạt động của Giáo hội từ Trung ương đến địa phương. Đây là một
nét mới đặc sắc của Phật giáo thời Trần. Thực tế, khi đất nước thống nhất thì
mọi tổ chức cũng phải thống nhất. Tuy nhiên ở đời nhà Lý, mặc dù Phật giáo
được xem là quốc giáo với những ông vua Phật tử thuần thành ủng hộ nhưng
Giáo hội cũng chưa được thành lập. Các chức vụ như Quốc Sư, Tăng Thống,
Tăng Lục… là những chức vụ do Vua, triều đình ban, chứ không phải của
Giáo hội. Với sự thành lập Giáo hội Trúc Lâm, rõ ràng Tam Tổ Trúc Lâm
muốn thống nhất các Thiền phái đang có mặt, quy tụ toàn bộ tăng sĩ vào trong
một tổ chức Giáo hội, hoạt động với một tinh thần và mang bản sắc dân tộc,
nhập thế tích cực và thể nghiệm tu chứng ngay giữa cõi đời thực.
Chùa Vĩnh Nghiêm vinh dự được các nhà lãnh đạo Giáo hội bấy giờ
70
chọn làm trụ sở Trung ương Giáo hội. Văn phòng Trung ương Giáo hội ra đời
tại ngôi chùa phát tích chốn Tổ này. Bởi vậy mà lúc bấy giờ chùa là nơi quy
tụ những cao tăng thánh đức trong chốn Thiền Môn, điều hành bộ máy hoạt
động của Giáo hội đối với Tăng Già, quần chúng Phật tử liên hệ đến công tác
phật sự trong nước cũng như nước ngoài. Nếu thời điểm nhà Lý ít người biết
đến chùa Vĩnh Nghiêm thì đến thời Trần, kể từ khi Trần Nhân Tông chính
thức khai sáng ra thiền phái Trúc Lâm và chủ trương đưa đạo Phật vào đời
sống, thì tại ngôi chùa Vĩnh Nghiêm với chức năng là một trung tâm hoằng
pháp của Thiền phái thì tầm ảnh hưởng của nó không chỉ ở trong giới thiền
môn mà còn có tác động ảnh hưởng rộng trên nhiều giới, nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, không chỉ đáp ứng nhu cầu lịch sử, một mặt tạo nên
sức mạnh nội tại của chính mình để phát triển Giáo hội trên một tầm vóc mới,
phục vụ công cuộc chấn hưng Phật giáo, cũng là góp phần phát triển đất nước.
Đúng như văn bia dựng trước chùa Vĩnh Nghiêm vào năm 1934 ghi: “Đức Tổ
Điều Ngự Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai mở Tùng lâm Vĩnh Nghiêm thì
kéo theo mở cả chợ chùa. Các vị vương thân quốc thích và khắp thập phương
đã phát tâm tậu nhiều ruộng cúng cho chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở
ác hạt khác nữa”. Bởi vậy mà chưa bao giờ trong lịch sử Phật giáo số lượng
tín đồ lại Phật tử trở thành thành viên Thiền Trúc Lâm lại đông đến vậy.
Cùng với Vĩnh Nghiêm, Giáo hội cũng kêu gọi đóng góp của Triều
đình và hoàng thân quốc thích cùng các phật tử để xây dựng các đạo tràng,
đáp ứng nhu cầu học cho tăng ni phật tử. Cũng từ trung tâm Vĩnh Nghiêm mà
các di tích ở Tây Yên Tử cũng được trùng tu và xây dựng mở ra từ các hướng
nối liền với trung tâm là Vĩnh Nghiêm, để đến ngày nay còn lại một hệ thống
di tích lịch sử Thiền Trúc Lâm chạy dài từ Tây sang Đông trên dãy non thiêng
Yên Tử thuộc cánh cung Đông Triều. Từ trung tâm Vĩnh Nghiêm tỏa đi các
hướng Đông, Tây, Bắc ta đều bắt gặp những di tích thuộc dòng Thiền Trúc
Lâm, về phía Đông có chùa Cao, chùa Yên Mã, xa hơn là chùa Côn Sơn, chùa
71
Thanh Mai, sang hướng bắc ta lại đến với di tích Hồ Bấc trên núi Bác Mã,
chùa Bình Long trên núi Huyền Đinh, chéo sang phía Tây là khu tâm linh Tây
Yên Tử cạnh Đồng Thông - khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, gần đó là
chùa Am Vãi trên núi Am Ni.
Hệ thống di tích lịch sử thời Trần ở Tây Yên Tử đã phản ánh lịch sử
phát triển và các giá trị nhân bản cùng sức mạnh của dòng thiền trong lòng
lịch sử dân tộc. Các di tích này cũng là những tư liệu quan trọng phục vụ cho
quá trình nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc của dòng thiền Trúc Lâm nói riêng
và của Phật giáo Việt Nam nói chung.
Tiểu kết chương 3
Với việc tìm hiểu một số ngôi chùa tiêu biểu thuộc Thiền Trúc Lâm ở
phía Tây Yên Tử, ta đã thấy được nét cơ bản về kiến trúc cũng như nghệ thuật
trong việc thiết kế bài trí tượng tại các di tích. Ngoài ra vị trí chọn để đặt chùa
cũng rất đặc biệt, có sự kết hợp hài hòa của núi, sông, cảnh vật trữ tinh. Chùa
cũng không ở quá thấp cũng không quá cao, vừa mang yếu tố âm hòa vào yếu
tố dương. Đặc biệt hơn vị trí xây dựng chùa còn ẩn chứa một tinh thần dân
tộc, một sự quan tâm lo lắng đến an ninh quốc gia của nhà chính trị, quân sự
tài ba Trần Nhân Tông. Qua đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những giá trị
văn hóa tôn giáo thời Trần. Tuy nhiên hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều bị
mai một đi ít nhiều, không còn giữ được nguyên đơn kiến trúc thời Trần, về
cơ bản do sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh mà các ngôi chùa đã được
trùng tu, sửa sang lại khá nhiều. Song những ngôi chùa không hề mất đi vẻ cổ
kính trang nghiêm, ngược lại luôn nhận được sự quan tâm của quần chúng
nhân dân và các cấp chính quyền địa phương. Công tác giữ gìn bảo vệ các di
tích ngày càng được làm tốt hơn, tinh thần nhớ về cội nguồn luôn được hiện
hữu trong lòng mỗi người con đất Việt nơi đây. Lễ hội hàng năm tại các di
tích luôn nhận được sự tham gia đông đảo của người dân trong vùng và du
khách thập phương. Công tác quản lý cũng rất tốt, đảm bảo được tính thuần
72
phong mỹ tục, không xảy ra tình trạng lạm dụng lễ hội để chuộc lợi. Hệ thống
di tích Thiền Trúc Lâm Tây Yên Tử với trung tâm là chùa Vĩnh Nghiêm không
chỉ có vai trò và vị trí quan trọng ở thời Trần với việc Vĩnh Nghiêm được chọn
là làm trụ sở Trung ương Giáo hội mà cả ở thời đại ngày nay vẫn luôn là kho
tàng quý báu để ta tìm hiểu về Thiền Trúc Lâm, đồng thời là điểm đến cho mỗi
73
người khi muốn hành hương về chốn tổ của dòng Thiền Trúc Lâm.
Chương 4
GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
THỜI TRẦN Ở TÂY YÊN TỬ
4.1. Giá trị lịch sử
Di tích lịch sử thời Trần ở Tây Yên Tử không chỉ nổi bật ở những di
tích tôn giáo mà những di tích gắn liền với thắng lợi quân xâm lược Nguyên
Mông đã phản ánh một thời kỳ vẻ vang của dân tộc.
Trên nền tảng sau gần một thế kỷ vượt qua ách thống trị của giặc
phương Bắc, với định hướng năng lực Thăng Long - vươn nên thời đại Lý -
Trần nói chung thời đại nhà Trần nói riêng là một thời đại đặc biệt văn hiến,
anh hùng. Một thời đại anh hùng bởi một quốc gia “đất không rộng, người
không đông”, mà “bất khả chiến bại” trước ngoại xâm dù là các đế chế to lớn
trong khu vực (nhà Tống) hay vũ bão của thế giới đương thời (Nguyên
Mông). Một điều đáng trân trọng hơn khi vùng Tây Yên Tử trên đất Bắc
Giang xuôi xuống Hải Dương trong lịch sử dân tộc đã không ít lần trở thành
phòng tuyến vững chắc, quyết định đến thắng lợi cho cuộc chiến đấu cam go.
Nhất là trong cuộc chiến tranh vệ quốc ở thế kỷ XIII dưới sự lãnh đạo của
tướng lĩnh nhà Trần, phòng tuyến Xa Lý -Biển Động - Nội Bàng - Kiếp Bạc
đã là phên dậu tường che ngăn bước quân thù tới đánh chiếm Đại Việt. Phòng
tuyến đã thực hiện trọn vẹn thắng lợi nhiệm vụ cản giặc và thắng giặc.
Ngày 2/2/1285, sau khi chia làm 6 mũi tiến công giặc Nguyên Mông ồ
ạt kéo vào Nội Bàng. Dưới sự chỉ đạo của triều đình, quân và dân địa phương
cùng sự lãnh đạo của tướng Vi Hùng Thắng đã đánh trả quyết liệt. Thế giặc
quân Nguyên Mông mạnh, quân ta lấy núi rừng làm nơi ẩn náu và mai phục
tiêu hao dần lực lượng giặc. Tháng 5 - 1285, quân Nguyên Mông tràn khắp
các chiến trường đã bị quân và dân ta phản công quyết liệt, lực lượng địch bị
74
tiêu hao, đường tiếp vận lương thực bị triệt cộng thêm những khó khăn về địa
hình, môi trường, khiến cho việc đánh lẫn việc giữ của giặc đều khó. Nắm
được thời cơ đó, Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân tiến đánh vào Thăng Long
khiến Thoát Hoan phải chạy về Vạn Kiếp. Tại Vạn Kiếp quân ta đã bày thế
trận chờ sẵn và tiêu diệt được phần lớn sinh lực địch. Thoát Hoan cùng đám
tàn quân đã rút chạy về nước. Trên đường rút quân, quân địch bị quân quân và
dân ta mai phục tiêu diệt nhiều tướng và binh lính giặc. Thoát Hoan phải chui
vào ống đồng cho binh lính khiêng mới tránh được tên độc của quân ta để
thoát về nước. Cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông lần hai của quân ta hoàn
toàn thắng lợi.
Không dừng lại ở đây, tháng 12/1287 một lần nữa quân Nguyên Mông
lại trở lại xâm lược nước ta. Ngày 8/4/1288 quân Thoát Hoan từ Vạn Kiếp
tiến nên Lạng Sơn, với kế hoạch kết hợp với một cánh quân từ Chi Lăng
xuống do tướng Siktur dẫn đầu. Khi sát nhập với quân của Thoát Hoan chúng
tiến vào ải Nội Bàng. Tại đây, giặc đã trúng kế mai phục của quân ta, quân
Nguyên bị đánh tơi bời, ngựa sa bẫy cạm, binh lính bị quân ta tiêu diệt phần
lớn. Mãi đến ngày 19/04/1288, quân Nguyên mới thoát được khỏi biên giới
nước ta về nước. Trong trận chiến oanh liệt này, người con ưu tú Vi Hùng
Thắng của quê hương Lục Ngạn đã hy sinh anh dũng ở Thác Giận. Nhân dân
trong vùng đã lập đền thờ ông tại đây, nay thuộc thị trấn Chũ. Khu Nội Bàng
xưa trải qua nhiều biến đổi của thời gian, khí hậu thiên tai có rất nhiều thay
đổi. Tuy nhiên địa danh với những tên gọi thể hiện những dấu ấn lịch sử oai
hùng ngày ấy vẫn còn nguyên giá trị. Tại làng Bình Nội hiện nay có những
tên gọi từ cổ xưa như: Ao quan: Nơi quan quân nhà Trần thường tắm gội;
Làng Ải: làng gần cửa ải (gần nơi hẹp và hiểm trở); xóm Dinh: Nơi Vi Hùng
Thắng đóng quân. Trong sách Di sản văn hóa Bắc Giang Khảo cổ học, trang
197 có ghi: “Khu vực xã Trù Hựu: ở làng Đại Miễn, còn một hòn đá mài
gươm củaquân sĩ nhà Trần hiện ở chùa Đại Miễn; khu vực Cầu Từ xã
75
Phượng Sơn có di chỉ kiến trúc với nhiều hiện vật thời Trần”.
Khu vực núi Núi Am Vãi có ải Nội Bàng nơi được Trần Quốc Tuấn
chọn là nơi đặt bản doanh, là một điểm cao được sánh với đồi A1, từ trên đỉnh
núi có tầm nhìn một vùng rộng lớn kéo về tận thành phố Bắc Giang, xưa
thuộc Lộ Bắc Giang. Nếu dãy núi Yên Tử có vị trí chiến lược quân sự về phía
Đông Bắc thì núi Am Vãi có vai trò chiến lược quân sự về phía Tây Bắc. Nếu
Chi Lăng cửa ngõ vào đất Đại Việt thì Ải Nội Bàng là cửa ngõ vào kinh đô
Đại Việt. Bởi vậy mà không cỉ thời Trần mà từ thời Lý, Tây Yên Tử đã trở
thành điểm chú ý của các vua quan triều đình. Việc chọn núi trên dãy Yên Tử
tu hành của Trần Nhân Tông không chỉ làm nơi tu Thiền nhập định mà còn là
chủ trương trấn giữ các điểm cao, vừa quan sát vừa bảo vệ Tổ Quốc.
Chính mảnh đất, con người giàu truyền thống nơi đây đã sát cánh cùng
cánh quân chủ lực triều đình muôn đời giữ nước. Để ngày nay khi đặt chân nên
vùng đất này ta lại càng thấy linh thiêng hơn, giá trị hơn bởi đã biết bao xương
máu của những anh hùng dân tộc đã ngã xuống cho độc lập ngày hôm nay.
Cùng với những di tích gắn với sự kiện lịch sử thì những di tích văn
hóa tôn giáo thời Trần cũng mang nhiều giá trị lịch sử trong mọi thời đại.
Những ngôi đền, chùa ở Tây Yên Tử được xây dựng ở những niên đại khác
nhau nhưng đều mang điểm chung là được trùng tu mở rộng hoặc xây dựng
mới vào thời Trần. Điều này nói nên rằng vào thời Trần phật giáo rất phát
triển, và nó đã được giới quý tộc Trần hết sức ưu ái. Nếu như không vì các lý
do khác nhau làm mất đi số lượng lớn (nếu như không muốn nói là hầu hết)
các pho tượng thời Trần, thì ngày nay chúng ta sẽ có một nguồn sử liệu vật
chất to lớn của thời đại này để bổ sung cho việc nghiên cứu của nhiều lĩnh
vực khác nhau. Những thông tin lịch sử được dịch ra từ minh văn trên bia đá
và trên các loại hình khác còn được lưu giữ ở đây đã cung cấp cho các nhà
nghiên cứu nhiều tư liệu lịch sử trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Những chứng
cứ vật chất còn lại ở nơi đây là những sử liệu vật chất quan trọng mà đem đối
76
chiếu với sử liệu viết là có sự tương đồng. Điều này càng khẳng định độ chính
xác của nhiều sự kiện lịch sử được các cuốn sử biên niên ghi lại. Ngoài ra,
dòng thiền Trúc Lâm còn là dòng thiền đã có những tác động tích cực tới tinh
thần yêu nước và tinh thần độc lập của người Việt Nam. Tinh thần yêu nước,
yêu độc lập, tự do ấy cũng được thể hiện ở vị vua đã 2 lần chiến thắng quân
Nguyên,và sau này là vị tổ đầu tiên của dòng thiền này, đã cổ vũ mạnh mẽ
hào khí đánh giặc trong thời chiến và tinh thần xây dựng lại đất nước trong
thời bình.
Giá trị thông tin lịch sử - địa lý cũng được văn bia ghi chép lại như bia
đá ở chùa Vĩnh Nghiêm. Bia đá ở chùa Côn Sơn và khu vực Kiếp Bạc cho
chúng ta biết mảnh đất này từ thời nhà Đường đã là một vị trí chiến lược quân
sự quan trọng mà sử sách chưa đề cập hoặc ít đề cập đến. Chùa Vĩnh Nghiêm
hiện còn giữ 07 tấm bia đá ghi lại lịch sử xây dựng, trùng tu, tôn tạo cũng như
việc thờ hậu tại chùa. Tấm bia cổ nhất niên đại Hoàng Định 7 (1606), ngoài ra
còn các tấm bia niên đại Hoằng Định 8 (1607), Bảo Thái 6 (1725), Cảnh
Hưng 20 (1759), Thành Thái 2 (1890), Bảo Đại 7 (1932) và Bảo Đại 10
(1935). Trong số đó tấm bia Trùng tu Vĩnh Nghiêm tự bi ký niên đại Hoằng
Định 7 (1607) là một tấm bia hình trụ khá đẹp không chỉ có giá trị về lịch sử,
văn hóa mà còn có giá trị về mỹ thuật.
Tư liệu hán nôm còn lại ở chùa Côn Sơn là những nguồn sử liệu quý
giá cho chúng ta biết về sự chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ XVII. Theo bia chùa Tư Phúc Côn Sơn, bia có niên đại Hoằng
Định thứ 4 (1604) cho biết “sư trụ trì là Mai Huệ Pháp tự là Pháp Mẫu cùng
các vị tăng chính Nguyễn Pháp Đăng tự huệ hương... sinh ra vào thời thanh
trị, phật đạo hưng thịnh mở rộng đạo phật”[3, tr.146]. Hay việc trùng tu tại
chùa Côn Sơn và Vĩnh Nghiêm có thời gian trùng nhau dưới triều vua Hoằng
Định đã nói rằng Phật giáo Việt nam đã được phục hồi mà đặc biệt là những
ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm, cả vua Lê, chúa Trịnh và cả các quý tộc
77
quan liêu và nhân dân nhiều nơi đã góp tiền, góp của để xây dựng lại hai
trung tâm phật giáo lớn thời Trần. Bia đá ở tháp Viên Thông chùa Thanh Mai
là một tài liệu lưu trữ lịch sử quan trọng cung cấp thông tin về sự xuất hiện
lần đầu tiên về loại hình tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn. Căn cứ vào dữ
liệu này, có thể kết luận rằng tín ngưỡng thờ quan âm ở Việt Nam phải có trước
thời Trần, có thể là vào thời Lý mà pho tượng quan âm ở chùa Phổ Minh chỉ là
một sự tiếp nối của tín ngưỡng thờ quan âm thời Lý - Trần mà thôi.
Với những đóng góp cùng những giá trị lịch sử to lớn, những di tích lịch
sử văn hóa thời Trần ở Tây Yên Tử không chỉ đóng góp to lớn trong lịch sử
đương thời mà còn để lại cho các thế hệ mai sau những kho tàng tư liệu quý
giá khó mà tìm đâu được. Qua đó tạo ra một động lực vô hình mà hữu ích đối
với các mầm non của đất nước hôm nay và cả tương lai. Góp phần tạo một nội
lực đất nước ngày một mạnh hơn, đưa non sông Việt Nam ngày một tươi đẹp
hơn vươn mình ra thế giới.
4.2. Giá trị văn hóa
Những di tích lịch sử - văn hóa thời Trần ở Tây Yên Tử còn lại đến ngày
nay là những dấu ấn vật chất cụ thể, ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, được chiêm
ngưỡng và cảm nhận. Tuy nhiên ẩn sâu trong đó lại là những giá trị văn hóa
tinh thần vô cùng to lớn mà khó ai thấu hiểu được đến tận cùng nếu chỉ một
lần đến.
Những di tích thuộc vùng Tây Yên Tử là những báu vật, cổ vật có một
không hai trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Nghiên cứu những di vật còn lại
sẽ giúp chúng ta tái hiện được phần nào lịch sử, thời gian mà chúng xuất hiện.
Đáng quý giá là: những di vật của một số ngôi chùa thuộc thiền phái trúc Lâm
được trải dài từ thời Trần đến thời Nguyễn. Ở thời Trần, ta có một số các di
vật tiêu biểu vẫn được giữ gìn như những báu vật: Những chân tảng bằng đá
có chạm hoa sen thời Trần còn lại ở chùa Thanh Mai, chùa Cao… Đồng thời
78
chúng ta sẽ khám phá rất nhiều bí mật về kĩ thuật xây dựng tháp cao tầng.
Truyền thống xây dựng này có thể phục vụ cho kĩ thuật xây dựng nhiều nhà
cao tầng, những khu chung cư cao tầng trên nền đất yếu ở Hà Nội hiện nay.
Đặc biệt kho tài liệu Mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm không chỉ mang
giá trị lịch sử mà còn là kho tàng thông tin phong phú. Với hơn 3000 bản khắc
với niên đại sớm nhất là thế kỷ XIV đã mang nội dung đa dạng về lịch sử Phật
giáo, tư tưởng hành đạo, nhập thế của Thiền Trúc Lâm, văn học, phong tục
tạp quán cùng sự phát triển của nghề khắc in mộc bản và nghệ thuật trạm khắc
gỗ Việt Nam. Đặc biệt, một số tài liệu mộc bản còn giới thiệu cách chữa bệnh
bằng thuốc nam, cách châm cứu với bản đồ chỉ dẫn các huyện rõ ràng. Hiện
nay, phòng mạch của nhà chùa vẫn kế thừa các bài thuốc ghi trong đó để chữa
các bệnh về thần kinh, đau xương khớp và cả các bệnh về tiêu hóa. Qua kho
mộc bản ta có thêm nhiều cơ sở để nghiên cứu về tư tưởng cũng như quá
trình ra đời của dòng Thiền Trúc Lâm. Với những giá trị to lớn đó, kho mộc
bản được lưu giữu tại chùa không chỉ là tài sản của Việt Nam mà còn mang
giá trị tầm thế gới. Bởi vậy mà năm 2012, hơn 3000 mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm đã được UNESCO vinh danh là Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Trong tổng thể hệ thống di tích lịch sử thời Trần ở Tây Yên Tử luôn
nhận được sự quan tâm của các cấp ban ngành chính quyền và nhân dân. Đã
có nhiều di tích được xếp hạng là di tích cấp tỉnh như chùa Am Vãi, chùa
Cao, khu tâm linh Tây Yên Tử và vinh dự hơn là Trung tâm phật giáo Vĩnh
Nghiêm đã nhận được nhiều vinh danh.Từ kiến trúc cho đến hiện vật cùng
với những dấu ấn lịch sử tại chùa Vĩnh Nghiêm, năm 1964 Chùa Vĩnh
Nghiêm đã được xếp hạng là di tích quốc gia, năm 2013 Lễ hội Chùa Vĩnh
Nghiêm (tổ chức hàng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch) được Bộ Văn hóa -
Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Với
những giá trị tiêu biểu nổi bật của Chùa Vĩnh Nghiêm, ngày 23/12/2015 Thủ
79
tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định về việc xếp hạng Di tích quốc gia
đặc biệt đối với Chùa Vĩnh Nghiêm và Tháng 3/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh
Bắc Giang cùng nhân dân đã long trọng tổ chức lễ dón nhận bằng xếp hạng.
Nếu như chỉ nói đến giá trị về mặt kiến trúc, những hiện vật còn lưu giữ
tại nơi đây thì vẫn chưa đủ, mà ta cần hiểu hơn, quý trọng hơn một tư tưởng
đẹp của dòng Thiền Trúc Lâm và vị Phật Hoàng trong lòng dân Việt Nam -
Trần Nhân Tông. Nhắc đến tư tưởng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, ta đều biết đó
là một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Tư tưởng hòa nhập Đạo
với Đời, thấm nhuần tính nhân văn sâu sắc, khuyên con người ta lương thiện,
sống tốt đời đẹp đạo. Trần Nhân Tông, vị Phật Hoàng Việt Nam dạy rằng
“Phật không phải ở đâu xa, không bí ẩn, diệu kỳ mà chính ở trong tâm, tâm
thanh tịnh, tâm trong sáng, chính là chân Phật”. Tư tưởng ấy không chỉ giúp
cho nhân dân Đại Việt chống lại được sức mạnh vũ bão của quân Nguyên
Mông, xây dựng một nền văn hóa Lý - Trần giá trị lớn mà trong thời đại ngày
nay tư tưởng ấy lại càng trở nên quan trọng hơn. Trong bối cảnh hội nhập và
phát triển của thế giới, chúng ta luôn nhớ đến một vị vua anh minh, một nhà
quân sự tài ba, nhà chính trị sâu sắc, một vị phật trong lòng dân - Người đã
truyền thừa, sáng lập ra Thiền Trúc Lâm. Tư tưởng đẹp của Người cần phải
được ứng dụng trọn vẹn nhất. Và Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng
dụng Phật học Việt Nam thuộc Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam đã đưa
lời dạy của Ngài, đưa Đạo vào Đời một cách thiết thực. Nhiều Câu lạc bộ
Trần Nhân Tông tại một số địa phương trên cả nước được thành lập và đi vào
hoạt động sôi nổi. Với các nội dung: Giáo dục tư tưởng, đoàn kết giúp đỡ
nhau trong cuộc sống; làm từ thiện; khuyến học và tư vấn bảo vệ sức khỏe
cho nhân dân. Trung tâm đã xuất bản gần 20 đầu sách với hàng vạn cuốn,
trong đó tập “Những điều dạy về Phật của Trần Nhân Tông”, đã tái bản và tập
Thơ “Vua Phật Trần Nhân Tông”, là những tư liệu quý, không chỉ giúp cho
giúp cho hội viên sinh hoạt tư tưởng, học tập gương sáng của Ngài, rèn luyện
80
để hoàn thiện nhân cách, phát huy trí tuệ, sáng tạo để xây dựng cuộc sống
mới, mà còn đưa tư tưởng của Ngài đến đông đảo quần chúng nhân dân, góp
phần thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam, dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Câu lạc bộ Trần Nhân Tông
đã có nhiều hoạt động thiết thực, góp phần vào công tác an sinh xã hội trong
cả nước, Hội đã đã phối hợp với ngành y tế, kịp thời hỗ trợ các gia đình gặp
hoàn cảnh khó khăn ở các vùng sâu, vùng xa, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ
em tàn tật, nhiễm chất độc màu da cam, đồng bào bị thiên tai; tặng cầu, tặng
nhà “Tình Thương” cho một số xã và gia đình gặp khó khăn thuộc các tỉnh có
địa lý vùng sâu, vùng xa với tổng số tiền nên tới hàng chục tỷ đồng. Đó chính
là sự thể hiện lòng biết ơn đối với công đức to lớn của Ngài để lại cho đời
nay.
Không chỉ ở trong nước mà kiều bào nước ngoài cũng đã thể hiện tinh
thần dân tộc Việt bằng thành lập và đi vào hoạt động Hội Thiền Trần Nhân
Tông. Ở Hà Lan, Na Uy, Úc châu đã được chính quyền địa phương cho phép
hoạt động theo hình thức tôn giáo Phật. Tượng thờ Trần Nhân Tông đã được
kiều bào ta tại các nước như Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch cung nghênh đón
rước và an vị tại các ngôi chùa Việt trên đất khách. Hàng năm, nhân dịp kỷ
niệm ngày mất của Trần Nhân Tông, các Hiền giả minh triết tại các nước
Pháp, Mỹ, Đức, Cộng hòa Séc, Slovakia, Úc châu, Đan Mạch, Hà Lan, Na
Uy… đều tổ chức tưởng niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông một cách trang
nghiêm, thành kính.
Không riêng người con đất Việt ghi nhận và tôn vinh công lao của Phật
Hoàng Trần Nhân Tông mà thế giới đã biết đến công lao to lớn của Ngài khi
81
thành lập mô ̣t viê ̣n nghiên cứ u quố c tế ta ̣i Trường Đại học Harvard, thành phố Boston, Mỹ, đươ ̣c đă ̣t theo tên mô ̣t vi ̣ vua Viê ̣t Nam: Trần Nhân Tông vào năm 2012. Viê ̣n do các nhó m chuyên gia nghiên cứ u Viê ̣t Nam và Mỹ đề xướ ng thành lâ ̣p. Giáo sư Thomas Patterson, Giám đốc nghiên cứu Trung tâm Shorenstein thuộc Đại học Harvard, làm chủ tịch.Viện Trần Nhân Tông tổ
chức nghiên cứu về Trần Nhân Tông theo chuẩn mực quốc tế, quảng bá
những giá trị tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân Tông trên toàn thế
giới. Đồng thời Viê ̣n tổ chức Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông về Hòa
giải và Yêu thương hằng năm.
Đạo Phật ở thời nhà Trần phát triển mạnh mẽ nếu không có một mô
hình tổ chức Giáo hội tốt thì khó đi đến sự thanh tịnh trong hàng ngũ Tăng
già, cũng không tránh khỏi những thành phần khác lợi dụng Phật giáo để phục
vụ cho việc thụ hưởng cá nhân hay mục đích chính trị của họ. Tuy nhiên, điều
mà đáng được nhắc đến và là một mô hình cần được học tập trong Giáo hội
Thiền Trúc Lâm là sự tổ chức thống nhất và cách quản lý chặt chẽ nghiêm
túc. Pháp Loa là người chủ trương phát triển Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm có
tổ chức hệ thống quy củ đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Chính tổ
chức Giáo hội đã làm cho các thành phần trong xã hội được kết nối và tạo nên
sức mạnh nội lực cộng sinh cho cả dân tộc. Cũng từ tổ chức Giáo hội mà tại
văn phòng Trung ương Giáo hội chùa Vĩnh Nghiêm đã ra những quyết sách,
quyết nghị, văn bản cụ thể để chỉ đạo mọi hoạt động của Giáo hội từ Trung
ương phổ cập đến địa phương thực hiện. Trong vãi trò lãnh đạo Giáo hội,
Pháp Loa đã nhìn thấy những hiện tượng tiêu cực, có một số Tăng Ni tham dự
chuyện thế tục: mê tín, bói toán, nắm giữ tài sản đã phê phán, răn đe: “Miệng
nói xuất gia nhưng tâm theo chuyện thế tục, tự mình làm còn dạy người khác
làm, không biết xấu hổ”. Ngài còn khuyến cao Tăng ni không nên bàn lý luận
suông, thực hành giới luật nghiêm túc; nếu không chẳng làm sa sút tông môn
mà còn làm rỗng mọt Chánh pháp.
Tam Tổ và giới lãnh đạo Giáo hội còn thành lập một ban tăng sự để
thống kê số lượng Tăng Ni tu học hàng năm, có kế hoạch triển khai công tác
tổ chức Giới đàn, phổ biến về quy định thời gian ba năm mới có một lần độ
Tăng. Hồ sơ thọ giới được xét duyệt rất kỹ, có hàng nghìn hồ sơ bị loại. Số
lượng Tăng Ni lúc đó rất đông nên đã có sự hạn chế về số lượng giới tử, thời
82
gian quy định tổ chức, có sự lựa chọn giới tử chặt chẽ trong việc tuyển Phật
Trường. Mặt khác Giáo hội cũng nghĩ đến việc Tăng sĩ quá đông, nếu không
học tập và thủ trì giới luật thì sẽ dẫn dến những tiềm ẩn sai phạm trong Giáo
đoàn. Bởi vậy trải qua nhiều cuộc thảo luận, hội họp, Giáo hội đã quyêt định
đưa ra kế hoạch tổ chức các lớp học Giới luật cho Tăng chúng qua các mùa an
cư, cũng như các khóa học Phật Pháp thường xuyên cùng với cho ấn bản 5000
bộ Tứ phần vào năm 1332 và thỉnh các vị cao tăng như Tông Cảnh, Bảo Phác
chỉ trì việc giảng dạy giám sát luật ghi trong Tăng chúng. Song những vấn đề
Phật sự quan trọng như tuyển Phật trường, thanh tịnh Tăng Già, giải quyết
những vấn đề liên hệ đến giới luật, những sai phạm trong Giáo hội có tính
thời sự cấp thiết, ắt hẳn được giới lãnh đạo Phật giáo bàn thảo nhiều lần để rồi
yết ma tại trụ sở Trung ương Giáo hội - Chùa Vĩnh Nghiêm, sau đó mới gửi
văn bản đến các cơ sở trị sự địa phương và tự viện để thi hành. Ngoài ra còn
rất nhiều công việc khác mà tổ chức Giáo hội đã làm để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững trong lòng xã hội, đáp ứng nhu cầu trong xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Hệ thống đền chùa Tây Yên Tử hiện nay không chỉ là nơi lưu giữ
những dấu ấn xưa để lại mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tôn giáo cho người
dân trong vùng và du khách phương xa tìm về với cõi phật. Đến đây tâm hồn
con người được thư thái, ung dung, gạt đi những muộn phiền lo toan của cuộc
sống để thả mình vào chốn Thiền thanh tịnh. Những dịp lễ hội tại các di tích
là cơ hội để người dân được tỏ lòng thành kính của mình tới những vị tổ sư,
những vị Tăng Ni đã dày công xây dựng nó để có được như ngày hôm nay.
Hệ thống lễ hội từ trung tâm Vĩnh Nghiêm lan tỏa đi các hướng xuôi xuống
Hải Dương ở Tây Yên Tử là cả một giá trị văn hóa lớn của người dân nơi đây
nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Thể hiện truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc Việt đậm nét.
Từ trung tâm Vĩnh Nghiêm tỏa đi các hướng Đông, Tây, Bắc ta đều có
83
thể thăm trọn vẹn các di tích thuộc Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ Tây sang
Đông nói riêng và hệ thống di tích lịch sử văn hóa nói chung trong toàn khu
vực Đông - Tây Yên Tử. Có rất nhiều con đường để đến với chốn Phật linh
thiêng Thiền Trúc Lâm trên non thiêng Yên Tử. Trung tâm Phật Giáo Vĩnh
Nghiêm trở thành điểm kết nối giữa điểm di tích, văn hóa, lịch sử với nhau.
Có nhiều con đường để về với chốn Phật. Như từ huyện Yên Dũng thăm chùa
Vĩnh Nghiêm có thể theo đường sông hoặc đường bộ sang Lục Nam để thăm
di tích chùa Khám Lạng, xuống Cẩm Lý rồi Chí Linh, Hải Dương thăm chùa
Hòn Tháp, khu di tích Côn Sơn, chùa Thanh Mai. Ngược nên xã Huyền Sơn
huyện Lục Nam ngắm cảnh chùa Bình Long với sơn thủy hữu tình, nằm cạnh
con kênh Minh Đức lưng tựa vào núi, cửa hướng ra dòng sông Lục hiền hòa.
Theo con đường dưới chân núi Huyền Đinh, du khách lại tiếp tục đến thăm
chùa Hồ Bấc, khu Suối Mỡ thuộc xã Nghĩa Phương, rồi chùa Ngọ, và dừng
chân tại khu tâm linh Tây Yên Tử. Từ đây có ta có hai lựa chọn, có thể nên
đỉnh chùa Đồng thăm khu di tích Đông Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh mà
không mất công đi bằng đường bộ vành sang bên kia Yên Tử, hoặc nên Lục
Ngạn thăm chùa Am Vãi rồi sang Sơn Động để đến với khu tâm linh Tây Yên
Tử rồi lại đến với đỉnh Yên Tử nơi chùa Đồng tọa lạc. Sự kết nối giữa các
điểm di tích giúp hình thành nên các tuyến du lịch khác nhau, dù xuất phát ở
điểm nào thì du khách vẫn có thể tham quan được các địa điểm từ Tây sang
Đông, hay ngược lại mà không mất nhiều công sức đi lại. Bởi thăm hết các di
tích là chúng ta đã đi trên một cánh cung Đông Triều trải dài từ Hòn Gai -
Quảng Ninh xuôi về vùng Đông Bắc Bắc Giang và có đột dừng ở vùng Lục
Nam - Chí Linh thuộc hai tỉnh Bắc Giang và Hải Dương. Việc mở rộng đầu tư
trùng tu, xây dựng các di tích lịch sử, văn hóa, không chỉ bảo tồn và phát huy
hiệu quả các giá trị văn hóa dân tộc mà còn góp phần phát triển bền vững khu
vực Đông Bắc đất nước. Sự kết hợp giữa Đông và Tây Yên Tử đã tạo dựng
nên hình ảnh một “cõi Phật trời Nam” thời Trần và trong thời đại Mở cửa và
Hội nhập quốc tế sâu rộng, nó đang hội đủ được các điều kiện để trở thành
84
một Di sản Văn hóa của nhân loại.
4.3. Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa
Trần ở Tây Yên Tử: Thực trạng và giải pháp
Di tích lịch sử văn hóa là sản vật quý giá của mỗi quốc gia bởi đó là
một phần của bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thời đại hội nhập thế giới hiện
nay, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa càng trở nên quan trọng
và cấp thiết hơn bao giờ hết. Những di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở Tây
Yên Tử cần được bảo tồn và phát huy không chỉ là nhiệm vụ của nhân dân
trong vùng mà còn có ý nghĩa lớn trong cả một khu vực rộng lớn của cả nước.
Thực tại những di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở Tây Yên Tử hiện nay
đã khác nhiều so với thời kỳ khởi dựng. Bởi sự tàn phá của thiên nhiên cùng
với chiến tranh đã làm những ngôi đền, chùa không còn giữ được nguyên bản
khi xưa. Tuy nhiên, ẩn chứa trong kiến trúc hiện nay vẫn là sự ling thiêng và cổ
kính, thu hút được sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân. Kiến trúc
hầu như bị phá hoại phần lớn, ngày nay ban quản lý di tích dựa trên nền cũ để
xác định khuôn viên các di tích, đồng thời trên cơ sở đó để trùng tu xây dựng.
Mặc dù những ngôi đền chùa có sự quan tâm, đầu tư kiến thiết của các
cấp quản lý nhưng cũng chỉ một phần nào, chứ không đảm bảo được tất cả
các ngôi đền, chùa thời Trần ở Tây Yên Tử đều được quan tâm giữ gìn bảo
vệ. Chỉ có chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Côn Sơn là hai ngôi chùa giữ được nét
kiến trúc xưa nhiều nhất. Những ngôi chùa ở các xã vùng xa so với trung tâm
ít nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền hơn, chủ yếu là do nhân
dân trong vùng tự góp tiền, góp công sức để xây dựng và trung tu lại chùa như
chùa Bình Long, chùa Sơn Tháp.
Văn hóa đền, chùa tồn tại và phát triển được là nhờ vào tính giáo dục tư
tưởng đạo đức của nó, nếu thiếu đi điều đó sẽ làm mai một đi những giá trị
truyền thống của văn hóa tôn giáo tốt đẹp. Hơn nữa những tư tưởng của Thiền
85
Trúc Lâm luôn mang nhiều giá trị nhân văn. Trong thời nhà Trần, tư tưởng ấy
đã kết nối những tấm lòng để tạo ra sức mạnh chống lại quân thù hung ác, rồi
lại đồng sức đồng lòng để xây dựng đất nước trong thời bình.
Bên cạnh đề chùa thì những di tích, nơi diễn ra những trận chiến đấu
quyết liệt để bảo vệ mảnh đất linh thiêng của tổ quốc của nhân dân Đại Việt thời
Trần như: phòng tuyến Xa Lý - Nội Bàng, Động Bản, Bãi Quần Ngựa… dựng
lại cũng mang nhiều giá trị nhân văn. Bởi vậy mà chúng ta càng phải giữ gìn và
phát huy những tư tưởng cùng những di tích lịch sử quan trọng này.
Để đạt được mục tiêu bảo tồn giá trị nhiều mặt của những di sản văn
hóa thì chúng ta cần có những biện pháp cụ thể mới đạt được mục tiêu nhằm
góp phần giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, đề cao tinh thần
tự tôn dân tộc giữ gìn và bảo vệ độc lập dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân,
nhất là đối với thế hệ thanh thiếu niên, từ đó giúp họ có bản lĩnh trau dồi đạo
đức cách mạng và đề cao trách nhiệm công dân trước tổ quốc.
Trước hết cần phục dựng lại cảnh quan nơi diễn ra những trận chiến
đấu chống quân xâm lược Nguyên Mông trên địa bàn từ Sơn Động cho đến
Chí Linh Hải Dương. Những địa điểm đã diễn ra những trận đánh quyết chiến
của quân dân Đại Việt ta với quân giặc mà không thể phục chế được thì chúng
ta có thể vẽ tranh mô tả lại những trận đánh lịch sử đó, ví dụ như: Trận đánh ở
Xa Lý, Đa Mai, Nội Bàng, Động Bản…
Việc phục chế lại di tích bằng tranh với việc vẽ lại cảnh quan, vị trí có
tác dụng giúp khách tham quan khi tìm hiểu về lịch sử thời Trần trên mảnh
đất truyền thống này dễ hình dung và dễ ghi nhớ hơn, tạo nhiều cảm xúc hơn
khi được tiếp xúc với không gian lịch sử đó.
Đối với các di tích thuộc thiền phái Trúc Lâm, công tác bảo tồn lại càng
trở nên quan trọng hơn: cần bảo vệ tốt các di vật còn được lưu giữ tại các di
tích, không để mất thêm di vật nào. Đặc biệt là bộ Mộc bản của chùa. Bởi đây
86
không chỉ là riêng tư liệu quý của Việt Nam mà còn là tư liệu thế giới. Bảo vệ
tốt cảnh quan môi trường vốn có của nó, tức là phải bảo vệ rừng cây lâu năm
ở các di tích như khu vực núi Yên Tử, khu vực chùa Thanh Mai, chùa Côn
Sơn, chùa Am Vãi… Trồng thêm một số cây thông ở chùa Vĩnh Nghiêm và
khu vực núi Yên Tử. Tổ chức tốt các mùa lễ hội theo đúng quy hoạch của
ngành bảo tồn. Tuyên truyền quảng cáo, để du khách có thể đến thăm nhiều
hơn các di tích theo các tour du lịch để thu thêm kinh phí. Sử dụng đúng số
tiền bán vé được ở các di tích vào mục đích trùng tu sửa chữa. Không để thất
thoát kinh phí vào túi một số công ty tư nhân.
Bảo tồn di tích và vấn đề khai thác di tích theo các tour du lịch phục vụ
đời sống là vấn đề cần được quan tâm và thực hiện một cách hợp lý và khoa
học. Cần xây dựng các di tích theo cụm, kết nối những di tích hợp lý để thu
hút được nhiều khách tham qua, du lịch.
Không chỉ riêng ngày hội mà những ngày thường cũng cần tuyên
truyền biết đến một dòng Thiền của Việt Nam, một tư tưởng đẹp và một nhân
cách sống. Tránh tình trạng lạm dụng lễ hội, tổ chức sai quy định, truyền
thống văn hóa. Việc kết hợp giữ tham quan di tích lịch sử với thăm cảnh chùa
là một điều nên làm và cần phát huy, để người dân mỗi khi tìm về lịch sử sẽ
được hưởng trọn vẹn nét đẹp văn hóa Đại Việt thời Trần nói riêng và truyền
thống văn hóa Việt Nam nói chung.
Tiêu kết chương 4
Qua việc tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa di tích thời Trần ở Tây Yên
Tử, đã giúp chúng ta tìm về kho tàng văn hóa dân tộc đồ sộ mà không thể phủ
nhận. Trước tiên ta tự hào về một đất nước nhỏ bé như Việt Nam nhưng con
người và trí tuệ lại không hề nhỏ bé. Mà ngược lại, luôn xứng với tầm vĩ
nhân. Không chỉ có Hồ Chí Minh mà vua Trần Nhân Tông cũng xứng đáng
87
trở thành một tên tuổi được cả thế giới ngợi ca. Bởi những tư tưởng của
Người đã đem đến một giá trị lớn cho một dân tộc không chỉ ở thời đại của
Người mà nó vẫn còn nguyên giá trị đến tận ngày hôm nay và mai sau. “Phật
là ở tại tâm, đạo hòa hợp với đời”, một hệ tư tưởng của riêng Việt Nam. Mặc
dù ở thế kỷ XV, nền văn hóa được nhà Trần cố công xây dựng lấy đạo Phật
làm chủ đạo đã bị nhà Minh tàn sát không thương tiếc nhưng dù cho có tàn
bạo hơn nữa thì sức sống của những chân lý, những tư tưởng đẹp không bao
giờ vụt tắt. Mặc dù tài liệu về dòng Thiền Trúc Lâm còn ít nhưng vẫn đủ để
minh chứng cho nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Và thật vinh dự khi kho Mộc
bản tại chùa Vĩnh Nghiêm đã được công nhận là Di sản tư liệu khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Những di tích lịch sử như Xa Lý, Nội Bàng, Kiếp
Bạc đã góp phần làm rõ nét hơn cho lịch sử dân tộc, là cơ sở để xác minh cho
nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử nước nhà. Với sự phong phú từ kiến
trúc cho đến hiện vật tại các ngôi đền chùa đã trở thành nét đẹp trong nghệ
thuật kiến trúc, điêu khắc Việt Nam ngày nay. Đúng như câu nói “phi cổ bất
thành kim”, cần có truyền thống, có nền tảng có nguồn gốc thì mới có thể
sáng tạo, xây dựng được ra cái mới. Ngày nay, biết bao công trình kiến trúc,
biết bao tác phẩm văn hóa nghệ thuật được lấy cảm hứng từ những công trình
kiến trúc xưa. Từ hoa văn trang trí cho đến kỹ thuật xây dựng chùa tháp đã
giúp chúng ta luôn tự hào với bạn bè thế giới về kho tàng văn hóa của dân tộc
mình. Với những tua du lịch từ trung tâm Vĩnh Nghiêm có thể đi về các
hướng để vãng cảnh chùa thuộc dòng Thiền Việt Nam lại càng thêm giá trị to
lớn không chỉ về văn hóa mà cả về mặt kinh tế. Tây Yên Tử cùng với Đông
Yên Tử không chỉ là cõi phật trời Nam thời Trần mà cả ngày nay cũng là
88
chốn Phật linh thiêng.
KẾT LUẬN
Nếu ở Ấn Độ có Thích Ca Mâu Ni thì ở Việt Nam ta có Điều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là một vua một vị Phật của cả nhân dân ta, một
nhà chính trị quân sự, một ông Tổ của dòng Thiền Việt Nam.
Tây Yên Tử là một vùng đất cổ với lịch sử tụ cư lâu đời của dân tộc
Việt, vinh dự hơn là chốn Tổ của dòng Thiền Việt Nam. Nếu các vị Tam Tổ
Trúc Lâm tu luyện và đắc đạo ở Đông Yên Tử (xã Yên Công, thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) thì Tây Yên Tử , chùa Vĩnh Nghiêm (xã Đức La,
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) chính là nới phát tích của Thiền phái này.
Nơi đây với vị trí địa lý đặc biệt, là phên dậu của đất nước, thế núi hình sông
tại miền Tây Yên Tử có các mạch núi bao bọc lấy thung lũng cùng với những
con sông Lục Nam, sông Kinh Thầy tạo thành những bồn địa Lục Nam - Lục
Ngạn; Chí Linh - Kinh Môn, đem lại điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của
người dân trong vùng. Đồng thời với những cửa ải vững chắc: Bản Động, Nội
Bàng, Xa Lý, Vạn Kiếp đã khiến giặc Nguyên Mông bị ba lần bị đánh bại,
đem về thắng lợi chọn vẹn cho Việt Nam ta. Đó cũng là lý do Tam Tổ Trúc
Lâm chọn là nơi xây dựng hệ thống chùa trải dài từ Tây sang Đông. Những
ngôi chùa cổ trên các ngọn núi của dãy Yên Tử tuy có niên đại khác nhau
nhưng ở thời nhà Trần đều được quan tâm trùng tu xây dựng và có một ý
nghĩa vô cùng to lớn. Chùa không chỉ là để thờ Phật mà nó thể hiện sự phát
triển của dòng Thiền Việt Nam. Thiền Trúc Lâm ra đời là do nhu cầu của tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa và tư tưởng xã hội thời Trần. Sau sự rối ren
cuối triều Lý nhà Trần đã thống nhất được các lực lượng cát cứ, quy đất nước
về một mối đồng thời nhà Trần đã thống nhất lực lượng cát cứ trong cả tinh
thần với dòng Thiền này. Bằng tư tưởng nhập thế, mang trong mình chủ nghĩa
yêu nước, kết hợp chặt chẽ giữa đời với đạo, đạo với đời, Thiền Trúc Lâm
Yên Tử đã thu phục được lòng người, tạo ra một sức mạnh không chỉ trong
89
chiến tranh mà trong cả thời bình khi xây dựng đất nước. Mặc dù lên núi tu
hành nhưng vua Trần Nhân Tông luôn quan tâm tới chính trị, tới an ninh quốc
gia. Việc Người cho xây dựng những ngôi chùa trên núi cao còn với một mục
đích có thể bao quát được cả vùng biên giới giáp ranh với Trung Quốc. Có thể
biết được ý đồ, hay những hoạt động của kẻ thù khi có hoạt động xâm lược
Việt Nam.
Trần Nhân Tông không chỉ là một vị Vua, một nhà chính trị quân sự
giỏi mà là một vị Phật trong lòng dân. Những công lao của Ngài đã góp phần
xây dựng một đất nước Đại Việt vững mạnh, làm nền tảng cho sự trưởng
thành của Việt Nam hôm nay. Ngài xứng đáng được người Việt hôm nay học
tập noi theo, từ tư tưởng cho đến việc làm. Và cũng hoàn toàn xứng đáng hơn
nếu được vinh danh bởi tổ chức thế giới khi công nhận là một danh nhân văn
hóa thế giới. Việc xây dựng khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử là hoàn toàn
phù hợp. Không chỉ góp phần phát huy những truyền thống văn hóa dân tộc
mà còn thúc đẩy kinh tế Bắc Giang nói riêng và toàn khu vực Đông Bắc Bộ
nói chung. Sự kết hợp Tây và Đông Yên Tử tạo nên một vùng văn hóa Phật
Giáo Việt Nam linh thiêng, xứng đáng được tổ chức Unesco thế giới công
nhận là di sản văn hóa thế giới.
Tại mảnh đất này, Tây Yên Tử đã thấm đậm biết bao xương máu của
quân dân Đại Việt khi đánh chiến với giặc Nguyên Mông. Trải quan những
những cuộc chiến tranh cam go đó, giá trị của vùng đất càng thêm sự linh
thiêng. Những di tích lịch sử gắn với cuộc chiến tranh ngày dó nay được nhân
dân trong vùng cùng các cấp chính quyền quan tâm, giữu gìn bảo vệ. Nhờ đó các
hệ mai sau luôn biết về những hy sinh to lớn của ông cha đã ngã xuống để bảo
vệ quê hương đất nước. Những giá trị lịch sử văn hóa thời Trần tại miền Tây
Yên Tử sẽ còn mãi cho hôm nay và mai sau, làm phong phú thêm cho truyề
90
thống văn hóa dân tộc đồng thời cho cả hệ thống lý luận triết học Việt Nam.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
Hoàng Thị Ngọc (2016), “Tây Yên Tử một con đường về với đất phật”, Tạp
91
Chí Xưa & nay. số 470 (tr.41 - 44).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Thường vụ huyện ủy huyện Lục Nam (1940), Lịch sử huyện Lục Nam,
Nxb Hà Nội.
2. Ban quản lý di tích, rừng quốc gia Yên Tử (2012), Danh sơn Yên Tử thiền
phái Trúc Lâm, Nxb Giáo dục.
3. Ban quản lý di tích Côn Sơn- Kiếp Bạc (2006), Di sản Hán Nôm (Côn Sơn
- Kiếp Bạc - Phượng Sơn), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 146.
4. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2011), Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa Lý-Trần tỉnh Bắc Giang, Nxb Thông Tấn.
5. Ban quản lý di tích Bắc Giang (2012), Di tích Bắc Giang, Nxb Thông
Tấn, Hà Nội
6. Trần Lâm Biền ( 1993), Chùa Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Trần Lâm Biền ( 2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hóa
thông tin Hà Nội.
8. Nguyễn Xuân Cần (chủ biên), Nguyễn Huy Hạnh Nguyễn Hữu Tự (2004),
Chốn tổ Vĩnh Nghiêm, Nxb Bảo tàng Bắc Giang.
9. Nguyễn Xuân Cần (chủ biên), Trần Văn Lạng, Nguyễn Hữu Tự , Nguyễn
Huy Hạnh, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Thu Minh, Anh Vũ (2001), Di
tích Bắc Giang, Nxb Bảo tàng Bắc Giang.
10. Nguyễn Xuân Cần (1980), “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-
Mông trên đất Hà Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử, tr 65.
11. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
12. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
13. Nguyễn Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tô giáo ở Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
14. Vũ Thị Khánh Duyên (2010), “Di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều
92
Quảng Ninh”.
15. Lê Quang Định, Phan Đăng dịch (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa
chí, Nxb Hải Phòng.
16. Nguyễn Ngọc Hà (2009), Hội xuân của người Việt những lễ hội xuân đặc
sắc, Nxb Thời đại.
17. Mai Thanh Hải (2006), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
18. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tôn giáo lễ hội Việt Nam đình chùa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc lâm Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật
giáo Trần Thái Tông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Trần Công Hiến, Trần Huy Phác, Nguyễn Thị Lâm dịch (2009), “Hải
Dương phong vật chí”, Nxb Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
22. Lê Thị Huyền (2008), Từ điển Tiếng việt, Nxb Thanh Niên.
23. Đặng Tiến Huy, Bá Đạt, Duy Phi (2012), “Tây Yên Tử: Văn- Thơ- Nhạc”,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
24. Thích Thanh Kiểm (1991), “Đôi nét chùa Vĩnh Nghiêm tại TPHCM”, Tập
văn Phật Đản, số 20, Nxb Ban văn hóa Trung ương - GHPGVN, tr. 74.
25. Phan Khanh (2008), “Bảo tồn, phát huy các di tích văn hóa Phật giáo thời
Trần ở Đông Triều”. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 6.
26. Vũ Ngọc Khánh (2000), “Đền miếu Việt Nam”, Nxb Thanh Niên Hà Nội.
27. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Võ Văn Cận, Phạm Thị Thảo (2004), “Lễ hội
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
28. Tạ Quốc Khánh (2010) “Chùa tháp và phật giáo thời Trần qua những dấu
tích hiện có”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
29. Hán Văn Khẩn (2009), ““Xóm Rền, một di tích khảo cổ học đặc biệt quan
93
trọng của thời đại đồ đồng Việt Nam”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
30. Nguyễn Lang (1992), “Việt Nam Phật Giáo sử luận” tập I, Nxb Văn học-
Công ty phát hành sách Hà Nội.
31. Nguyễn Lang (2000), “Việt Nam phật giáo sử luận”, tập II, Nxb Hà Nội, tr. 449.
32. Vũ Tam Lang (1998), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Hà Nội.
33. Ngô Sĩ Liên (1971), “Đại Việt sử ký toàn thư” tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
34. Phan Ngọc Liên (2000), “Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông”, Nxb đại
học quốc gia, Hà Nội.
35. Trịnh Thị Nga,“Di tích lịch sử văn hóa đền Trần, chùa, tháp tỉnh Nam
Định”,Nxb Văn hóa dân tộc.
36. Nguyễn Văn Nguyên ( 1997), “Địa lý hành chính Kinh Bắc”, Hội khoa
học lịch sử Việt Nam- Sở văn hóa Bắc Giang.
37. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập I, Nxb GD, HN.
38. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập II, Nxb GD, HN.
39. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, tập III, Nxb GD, HN.
40. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục”, tập IV, Nxb GD, HN.
41. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập V, Nxb GD, HN.
42. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập VI, Nxb GD, HN.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập VII, Nxb
GD, HN.
44. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục”, tập VIII, Nxb
GD, HN.
45. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (1992), “Đại nam nhất thống chí” ( tập IV),
Nxb Thuận Hóa, Huế.
46. Nguyễn Minh San (1998), “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam”, Nxb
văn hóa dân tộc.
47. Hoàng Phê (1988), “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. tr. 757.
48. Hà Văn Phùng (2008), “Di sản văn hóa Bắc Giang Khảo cổ học từ tiền
94
sử đến lịch sử”, Nxb Bảo tàng Bắc Giang.
49. Sở Văn hóa Quảng Ninh (1994), “Non thiêng Yên Tử”, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
50. Sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang (2011), “Kỷ yếu hội thảo
khoa học chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang và Thiền phái Trúc Lâm trong quá
trình phát triển Phật giáo Việt Nam”, Nxb Thông Tấn, Hà Nội.
51. Sở văn hóa thông tin Bảo Tàng Bắc Giang (2000), “Báo cáo khảo sát di tích
đền thờ Vua Trần Minh Tông, thôn Tiên La, xã Đức Giang, huyện Yên Dũng,
tỉnh Bắc Giang”, lưu tại Ban quản lý di tích bảo tàng tỉnh Bắc giang.
52. Sở văn hóa thông tin Bảo Tàng Bắc Giang (2002), “Báo cáo điều tra về
Nam Dương và di tích chùa Am Vãi xã Nam Dương-Lục Ngạn”, lưu tại
ban quản lý di tích Bảo Tàng tỉnh Bắc Giang.
53. Sở văn hóa thông tin Bắc Giang và Trung tâm Unesco (2006), “Địa chí
Bắc Giang, lịch sử và văn hóa”. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
54. Sở văn hóa thông tin và du lịch Bắc Giang, ban quản lý di tích (2010),
“Báo cáo khảo sát chùa Dừa và xã Huyền Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc
Giang”, lưu tại ban quản lý di tích huyện Lục Nam.
55. Sở văn hóa thông tin và du lịch Bắc Giang, Ban quản lý di tích (2010),
“Lý lịch di tích chùa Hồ Bấc xã Nghĩa Phương huyện Lục Nam tỉnh Bắc
Giang”, lưu tại ban quản lý di tích huyện Lục Nam.
56. Tạp chí khoa học và công nghệ, kỳ 2 tháng 1/2014, tr. 97.
57. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long (2010), “Chùa Việt
Nam”, Nxb Thế giới, tr 160.
58. Tạp chí khoa học và công nghệ, kỳ 2 tháng 1/2014, tr. 97.
59. Tống Trung Tín (2008), “Các di tích tiêu biểu của Phật Hoàng Trần Nhân
Tông”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 6.
60. Trần Ngọc Thêm (2000), “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Trịnh Cao Tưởng (1989), “ Kiến trúc đình Làng”, Nxb Viện khảo cổ học, Hà Nội.
62. Tỉnh ủy HĐN-UB nhân dân tỉnh Hải Dương (2008), “Địa chí Hải Dương”tập
95
I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Tỉnh ủy HĐN-UB nhân dân tỉnh Hải Dương (2008), “Địa chí Hải Dương”tập
II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Tỉnh ủy HĐN-UB nhân dân tỉnh Hải Dương (2008), “Địa chí Hải Dương”tập
III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1971), “Đại Nam nhất thống chí”, tập
IV, Nxb Khoa học xã hội, tr. 77.
66. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, Sở Nghiên cứu khoa học và môi trường,
Sở Văn hóa thông tin (1998), “Lý lịch di tích lịch sử văn hóa chùa Hồ Bấ,
xã Nghĩa Phương huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang”, Lưu tại Ban quản lý di
tích huyện Lục Nam.
67. Ủy Ban nhân dân huyện Lục Nam (2007), “Miền quê huyền thoại”, Nhà
xuất bản Hà Nội.
68. Ủy Ban nhân dân huyện Lục Nam ( 2004), “Tiềm năng du lịch văn hóa
huyện Lục Nam”, Nhà xuất bản Hà Nội.
69. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2001), “Địa chí Bắc Giang Từ Điển”,
Nxb Sở Văn hóa thông tin Bắc Giang.
70. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2003), “Địa chí Bắc Giang di sản Hán
Nôm”, Nxb Sở Văn hóa thông tin Bắc Giang và Trung tâm Unesco thông
tin tư liệu Lịch Sử và Văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
71. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2006), “Địa chí Bắc Giang Lịch Sử và
Văn hóa”, Nxb Sở Văn hóa thông tin Bắc Giang và Trung tâm Unesco
thông tin tư liệu Lịch Sử và Văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
72. Trần Quốc Vượng (1996), “Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt
Nam”, NXB Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
73. Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Sở văn hóa
thông tin Bảo tàng Bắc Giang (2013), “Báo cáo kết quả thăm dò khai quật
Khảo cổ học dịa điểm chùa Hồ Bấc năm 2012 xã Nghĩa Phương, Lục
Nam, Bắc Giang, Lưu tại bảo tàng tỉnh Bắc Giang”.
74. Viện văn học Việt Nam (1989), “Thơ văn Lý - Trần” tập 2, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr. 652.
96
75. WWW//dulich.alotin.vn/
TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ
Nghề
STT Họ và tên Tuổi Địa chỉ
nghiệp
72 Nguyễn Tuấn Anh 34 Cán bộ Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Giang
73 Nguyễn văn Luyện 33 Cán bộ Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Giang
74 Nguyễn Thùy Linh 33 Cán bộ Ban Quản lý di tích tỉnh Bắc Giang
80 Làm Xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam, 75 Cụ Trần Văn Minh ruộng tỉnh Bắc Giang
75 Làm Xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam, 76 Cụ Trần Thị Nhớn ruộng tỉnh Bắc Giang
77 Nguyễn Thị Thủy 36 Cán bộ Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
97
78 Nguyễn Văn Phong 47 Cán bộ Phó giám đốc Bảo tàng Bắc Giang
PHỤ LỤC
Một số hình ảnh về di tích ở Tây Yên Tử
1. Chùa Vĩnh Nghiêm ( Xã Trí Yên huyện Yên Dũng)
Cảnh quan chùa Vĩnh Nghiêm
Hiện vật - mảnh vỡ gốm thời Trần và hố đào khảo cổ học
tại chùa Vĩnh Nghiêm năm 2016
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm trong kệ
Một trang mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
(Nguồn ảnh: tác giả chụp khi đi điền dã)
98
2. Chùa Cao (xã Khám Lạng, huyện Lục Nam)
Chân đá tảng tại chùa Cao
Hố khai quật Khảo cổ học tại chùa Cao
(Nguồn ảnh: Tác giả chụp khi điền dã)
99
3. Chùa Côn Sơn ( Xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh)
Cổng chùa Côn Sơn
(Nguồn ảnh: tác giả chụp khi đi điền dã)
4. Chùa Thanh Mai (xã Hoàng Hoa Thám, huyện Chí Linh)
Bia đá tại chùa Thanh Mai
(Nguồn ảnh: https://vi.wikipedia.org)
100
5. Chùa Bình Long (xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam)
Mặt trước chùa Bình Long
Ban Thượng Điện
ở chùa Bình Long
Tượng Tam Tòa Thánh Mẫu- chùa Bình Long
(Nguồn ảnh: Tác giả chụp khi điền dã)
101
6. Chùa Đồng Vành (chùa Ngọ- Xã Lục Sơn, huyện Lục Nam)
Cảnh quan chùa Đồng Vành
(Nguồn: Tác giả chụp khi di điền dã)
102
7. Chùa Am Vãi (Trũ, huyện Lục Nam)
Dấu chân Phật trên núi Am Vãi
Giếng Tiên
Trước mặt chùa Am Vãi
(Nguồn ảnh: tác giả chụp khi đi điền dã)
103
8. Tây Yên Tử
Con đường lên đỉnh Yên Tử đi từ phía Tây Yên Tử
Từ trên núi Phật Sơn nhìn về Tây Yên Tử
(Nguồn ảnh: Tác giả chụp khi điền dã)
104