BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Văn Thắng

PHÁT TRIỂN KINH TẾ

HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE:

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Văn Thắng

PHÁT TRIỂN KINH TẾ

HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE:

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành

: Địa lí học

Mã số

: 60 31 05 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. MAI HÀ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ giáo viên

hướng dẫn là TS. Mai Hà Phương. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là

trung thực. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh

giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.

Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ

quan tổ chức khác, và cũng được thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.

Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội

đồng chấm luận văn, cũng như kết quả luận văn của mình.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Văn Thắng

1

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và nghiên cứu, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng

dẫn khoa học - TS. Mai Hà Phương đã tận tình chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho

tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Địa lí, Trường ĐHSP TP.

Hồ Chí Minh đã giảng dạy, đào tạo, cung cấp kiến thức và những tài liệu quý giá. Tôi cũng

xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại học và các phòng ban khác đã tạo điều kiện

thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và thầy cô đồng nghiệp

trong trường THPT Nguyễn Đình Chiểu nơi tôi công tác đã ủng hộ và tạo điều kiện thuận

lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cô, chú lãnh đạo và cán bộ, nhân viên các

Phòng, Ban ngành của UBND huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đã nhiệt tình cung cấp tài

liệu liên quan đến đề tài và giúp đỡ tôi trong quá trình thực địa, điều tra phục vụ đề tài.

Cuối cùng, xin cám ơn bạn bè và người thân đã nhiệt tình ủng hộ, động viên, khích

lệ, chia sẻ những khó khăn và là nguồn động lực cần thiết để tôi hoàn thành đề tài luận văn

này.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Văn Thắng

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6

2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 6

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7

4. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 7

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7

6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................... 10

7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ13

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế ........................................................................... 13

1.1.1. Các khái niệm ........................................................................................................ 13

1.1.2. Các nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển kinh tế .................................................. 17

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế ................................................................. 21

1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế ....................................................................... 25

1.2.1. Phát triển kinh tế ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long ........................................... 25

1.2.2. Phát triển kinh tế ở tỉnh Bến Tre ........................................................................... 27

CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE ........................................................... 33

2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế .............................................................................. 33

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ............................................................................ 33

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ....................................................... 33

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................................... 41

2.1.4. Đánh giá chung về các nguồn lực phát triển kinh tế ............................................. 52

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 - 2011 .................................................................................................................................... 54

2.2.1. Khái quát chung .................................................................................................... 54

2.2.2. Phát triển kinh tế theo ngành ................................................................................. 57

2.2.3. Phát triển kinh tế theo lãnh thổ.............................................................................. 93

2.2.4. Đánh giá chung ...................................................................................................... 95

3

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020 .............................. 99

3.1. Định hướng phát triển ............................................................................................... 99

3.1.1. Cơ sở đề xuất định hướng ..................................................................................... 99

3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế ............................................................................. 103

3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế ......................................................... 120

3.2.1. Huy động và khai thác nguồn vốn ....................................................................... 120

3.2.2. Đào tạo phát huy nguồn nhân lực ........................................................................ 121

3.2.3. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ ................................................................ 122

3.2.4. Chiến lược về thị trường ..................................................................................... 123

3.2.5. Đổi mới cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý ...................................... 124

3.2.6. Bảo vệ và cải thiện môi trường ........................................................................... 124

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................. 128

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 130

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 132

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

GTSX Giá trị sản xuất

KCN Khu công nghiệp

KT – XH Kinh tế - Xã hội

TTCN Tiểu thủ công nghiệp

TP Thành phố

5

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Địa lý kinh tế là một ngành khoa học xã hội, nghiên cứu các hệ thống lãnh thổ kinh

tế xã hội nhằm rút ra những đặc điểm và quy luật hình thành và hoạt động của chúng để vận

dụng vào tổ chức không gian (lãnh thổ) tối ưu các hoạt động kinh tế xã hội trong thực tiễn.

Nghiên cứu địa lý kinh tế có những đóng góp rất quan trọng về mặt lý luận, phương pháp,

cũng như thực tiễn tổ chức không gian kinh tế - xã hội.

Ở nước ta, huyện là đơn vị hành chính trực tiếp quản lý cấp xã/phường, thị trấn và

tiếp cận với cấp tỉnh. Huyện vẫn được coi là đơn vị cơ bản để phát triển kinh tế. Phát triển

kinh tế huyện có mối quan hệ chặt chẽ và là một mắt xích trong sự phát triển kinh của tỉnh,

vùng và quốc gia. Nghiên cứu phát triển kinh tế cấp huyện là một trong những vấn đề rất

được quan tâm. Đến tháng 11/2012, trên cả nước ta có 700 đơn vị hành chính cấp huyện.

Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có những đặc điểm và sắc thái riêng, tạo nên sự đa dạng

cho nền kinh tế của đất nước.

Châu Thành là một huyện nằm ở phần phía Bắc tỉnh Bến Tre và được xem là huyện

cửa ngỏ của tỉnh Bến Tre. Châu Thành đang trong quá trình công nghiệp nông nghiệp và

nông thôn, nền kinh tế có sự phát triển đa dạng, tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự

chuyển dịch phù hợp với xu hướng chung. Trong bối cảnh chung của đất nước hiện nay,

Châu Thành đang đứng trước những vận hội lớn, nhưng cũng có nhiều thách thức không

nhỏ. Do đó việc đánh giá đầy đủ tiềm năng và thực trạng kinh tế của huyện là một vấn đề

cấp thiết để từ đó xác định các mục tiêu, phương hướng phát triển trong giai đoạn mới,

nhằm cân đối, hài hòa các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Đây là điều kiện

để nền kinh tế huyện hòa nhập vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Bến Tre nói riêng và

cả nước nói chung. Vì thế, tác giả đã chọn đề tài “Phát triển kinh tế huyện Châu Thành,

tỉnh Bến Tre: Hiện trạng và giải pháp” để thực hiện luận văn Thạc sĩ, với mong muốn góp

phần vào sự phát triển kinh tế của địa phương.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế, đề tài tập trung đánh giá

những thuận lợi cũng như khó khăn của các nguồn lực và phân tích thực trạng phát triển

kinh tế của huyện Châu Thành giai đoạn 2001-2011. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng và

6

đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế huyện Châu Thành đến năm

2020.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu

sau:

- Tổng quan cơ sở lý luận về phát triển kinh tế để vận dụng vào địa bàn cấp huyện.

- Đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của huyện Châu Thành.

- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành giai đoạn 2001-2011.

- Đề xuất định hướng và đưa ra các giải pháp cho phát triển kinh tế của huyện Châu

Thành đến năm 2020.

4. Giới hạn nghiên cứu

- Về không gian:

Toàn bộ lãnh thổ huyện Châu Thành, trong một số trường hợp có so sánh với các

huyện lân cận trong tỉnh Bến Tre.

- Về thời gian:

+ Phân tích thực trạng phát triển kinh tế của huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre giai

đoạn 2001 - 2011.

+ Đề xuất định hướng và đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế của huyện đến năm

2020.

- Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các nguồn lực phát triển kinh tế và

thực trạng phát triển kinh tế theo ngành và lãnh thổ ở huyện Châu Thành.

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

5.1.1. Quan điểm hệ thống

Đây là quan điểm quan trọng trong nghiên cứu địa lý học. Đối tượng nghiên cứu

được coi là một hệ thống, gồm nhiều phân hệ có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.

Một phân hệ thay đổi sẽ ảnh hưởng đến vận động của toàn hệ thống. Huyện Châu Thành

được coi là một hệ thống được đặt trong hệ thống lớn hơn là tỉnh Bến Tre và huyện Châu

Thành như một hệ thống bao gồm các phân hệ cấp thấp hơn: các xã, thị trấn, ấp. Do đó, cần

phải tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa các hệ thống và trong cùng một hệ thống. Ngoài ra,

7

khi nghiên cứu các nguồn lực tự nhiên: khí hậu, tài nguyên đất, địa hình, tài nguyên nước là

các hợp phần của hệ thống địa lý tự nhiên huyện Châu Thành. Các nguồn lực KT - XH là

những hợp phần trong hệ thống địa lý KT - XH của huyện. Trong mỗi địa hệ và giữa các địa

hệ với nhau đều có những mối quan hệ tương tác.

5.1.2. Quan điểm tổng hợp - lãnh thổ

Quan điểm này đặc trưng cho nghiên cứu địa lý. Các hiện tượng địa lý KT – XH rất

phong phú và đa dạng. Chúng có quá trình hình thành, phát triển trong mối liên hệ nhiều

chiều giữa bản thân các hiện tượng đó với nhau và giữa chúng với các hiện tượng khác. Áp

dụng quan điểm này cho phép nghiên cứu các vấn đề kinh tế huyện một cách toàn diện và

chặt chẽ. Ngoài ra, trong nghiên cứu một đối tượng địa lý cụ thể cần phải gắn với lãnh thổ,

nghĩa là phải phân tích tổng hợp các nhân tố tự nhiên và KT - XH ảnh hưởng tới đối tượng

nghiên cứu đó.

Nghiên cứu kinh tế huyện Châu Thành cần đặt nó trong mối quan hệ với các hệ

thống tự nhiên và xem xét sự phân hóa của nó trong không gian của huyện.

5.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh:

Khi nghiên cứu các đối tượng địa lý nhất thiết phải đặt đối tượng nghiên cứu trong

tiến trình lịch sử. Khi xem xét một hiện tượng địa lý KT – XH phải nghiên cứu quá khứ để

lý giải ở mức độ nhất định cho hiện tại và dự báo phát triển trong tương lai. Nghiên cứu

phát triển kinh tế huyện Châu Thành trong giai đoạn 2001 – 2011 cho phép chúng ta hiểu

biết đầy đủ và sâu sắc tình hình phát triển kinh tế từ năm 2001 đến 2011, đồng thời dự báo

và định hướng sự phát triển trong tương lai. Trong phát triển kinh tế, hoạt động sản xuất là

một quá trình lâu dài, vận động theo thời gian, theo sự biến đổi của các nhân tố KT – XH.

Hiện trạng nền kinh tế là kết quả của xu hướng sản xuất trong những giai đoạn trước đó. Do

đó, đặc điểm và xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại là cơ sở để đề xuất những giải

pháp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

5.1.4. Quan điểm kinh tế:

Quan điểm này được thể hiện qua một số chỉ tiêu kinh tế cụ thể được sử dụng để

đánh giá như: tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh tế,... Trong nghiên cứu phát triển kinh tế

huyện Châu Thành áp dụng quan điểm này để có thể thấy rõ hơn các chỉ tiêu về kinh tế cụ

thể.

5.1.5. Quan điểm phát triển bền vững:

8

Ngày nay, phát triển KT –XH phải xuất phát và dựa trên quan điểm phát triển bền

vững. Phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ, sử dụng hợp lý tài nguyên, chống ô nhiễm

môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội. Phát triển kinh tế phục vụ nhu cầu hiện tại

không được không được làm ảnh hưởng đến lợi ích phát triển của thế hệ tương lai. Kết hợp

hài hòa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống

dân cư. Do đó, quán triệt quan điểm phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự bền vững

về cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Đối với huyện Châu Thành nghiên cứu phát

triển kinh tế phải đặt trong mối quan hệ giữa ba bộ phận cấu thành phát triển bền vững.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thống kê kinh tế

Phương pháp này nhằm tổng hợp, đối chiếu các số liệu đã thu nhập. Những con số

thống kê không những chỉ thể hiện mặt lượng mà chúng còn có mối liên hệ mật thiết với

mặt chất của hiện tượng kinh tế - xã hội. Thông qua việc phân tích các số liệu thống kê và

những mối liên hệ giữa chúng, ta có thể thấy được bản chất, đặc điểm của các hiện tượng

và quy luật kinh tế - xã hội. Thông qua phương pháp thống kê, ta có thể phản ánh những

mặt khác nhau, tốc độ phát triển theo thời gian và không gian của hoạt động sản xuất.

5.2.2. Phương pháp thu thập, phân tích, so sánh và tổng hợp tài liệu

Khi nghiên cứu địa lý, nhất là địa lý KT - XH thì vấn đề quan trọng là thu

thập và xử lý tài liệu. Phương pháp này cho phép người nghiên cứu thu thập, tổng hợp, phân

tích có lựa chọn các loại tài liệu, số liệu đã xuất bản của các cơ quan, ban ngành của huyện

Châu Thành, của tỉnh Bến Tre và trên mạng internet. Các tài liệu, số liệu được tổng hợp từ

nhiều nguồn khác nhau, được phân tích và xử lí cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu, đồng

thời có sự so sánh, đối chiếu giữa các tài liệu, đặc biệt là giữa các số liệu có sự so sánh giữa

các mốc thời gian và giữa các đơn vị lãnh thổ.

5.2.3. Phương pháp thực địa

Phương pháp thực địa với việc quan sát, điều tra, nghiên cứu thực tế đối tượng giúp

người nghiên cứu kiểm chứng tính xác thực của nguồn tài liệu thu thập được và hiểu rõ hơn

về đối tượng nghiên cứu đó. Vì vậy để đảm bảo tính khoa học và thực tiễn của đề tài, tác giả

trực tiếp tiến hành quan sát, nghiên cứu, chụp ảnh và sưu tầm tài liệu tại một số địa điểm ở

huyện.

5.2.4. Phương pháp bản đồ và sử dụng công nghệ GIS

9

Phương pháp bản đồ là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu địa lý học. Từ kết quả

thu được, thành lập bản đồ mô tả hiện trạng kinh tế, sự phân bố các hiện tượng địa lý kinh

tế, các mối quan hệ lãnh thổ trong không gian, mối quan hệ giữa chúng và những định

hướng phát triển kinh tế. Do đó bản đồ thể hiện rõ nhất kết quả tổng hợp của đề tài. Sử dụng

công nghệ GIS để xây dựng các bản đồ một cách chính xác, khoa học và đáp ứng yêu cầu

của đề tài.

6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu vấn đề phát triển KT – XH là một nội dung quan trọng trong địa

lý học. Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề

này, nhiều giáo trình, tạp chí được xuất bản ít nhiều có đề cập đến tình hình phát triển KT -

XH. Đối với kinh tế học C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những đóng góp to lớn, sự ra đời của

học thuyết “giá trị thặng dư” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhận thức, quan điểm về

phát triển kinh tế, học thuyết kinh tế của C.Mác đã đưa ra 4 yếu tố nguồn lực quyết định sự

phát triển kinh tế. Nhiều học giả Phương Tây cũng đã cống hiến cho nhân loại nhiều học

thuyết về phát triển kinh tế có giá trị như W.Rostow (người Mỹ) với lí luận về các giai đoạn

phát triển kinh tế, lí luận về cơ cấu kinh tế (kết cấu kinh tế) của Lewis, Feller, Ranis.

Ở Việt Nam, từ khi bắt đầu đổi mới, Đại hội Đảng VI (1986) đã đưa ra quan điểm là

phải tập trung ưu tiên phát triển kinh tế. Đã có nhiều nghiên cứu chuyên ngành, nhiều nhà

khoa học đã viết về phát triển KT - XH. Đó là Viện nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương,

Viện Kinh tế Việt Nam,... Các tạp chí nghiên cứu sâu sắc về KT - XH: Tạp chí nghiên cứu

kinh tế, Thời báo kinh tế Việt Nam; nhiều giáo trình viết về kinh tế phát triển của Trường

Đại học Kinh tế quốc dân (Hà Nội), trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,... Phát

triển KT - XH trên quan điểm địa lý học cũng được đề cập nghiên cứu, có thể kể đến các

giáo trình: Địa lý kinh tế - xã hội đại cương do Nguyễn Minh Tuệ chủ biên; Địa lý kinh tế -

xã hội Việt Nam (phần đại cương) do GS Nguyễn Viết Thịnh và GS.TS Đỗ Thị Minh Đức

biên soạn, Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam do GS. Lê Thông chủ biên,….

Nghiên cứu KT - XH của một vùng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó

có tỉnh Bến Tre đã có các công trình tiêu biểu là:

“Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến

năm 2020”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006.

10

“Quy hoạch thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2012 – 2020 và định

hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu nước biển dâng”, Bộ Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn, năm 2006.

“Quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn

đến năm 2050”, Bộ Bộ xây dựng, năm 2005.

Các công trình nghiên cứu và tài liệu trên đây đã đề cập tới vấn đề phát triển kinh tế

vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó tập trung đánh giá nguồn lực phát triển kinh tế

của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, phân tích thực trạng phát triển kinh tế của vùng. Từ

đó, đưa ra những định hướng phát triển theo ngành, theo lãnh thổ trong giai đoạn tiếp theo.

Nghiên cứu về kinh tế tỉnh Bến Tre cho đến nay đã có 1 số công trình được công bố

như sau:

“Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020” Ủy ban nhân

dân tỉnh Bến Tre, năm 2008.

“Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020” Sở Công thương

tỉnh Bến Tre, năm 2011.

“Phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn tỉnh Bến Tre trong thời kỳ Công nghiệp

hóa - Hiện đại hóa: Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ Địa lý chuyên ngành Địa

lý học của Phạm Văn Đông (Trường Đại học sư phạm TP. HCM, 2011).

“Phát triển cây ăn trái tỉnh Bến Tre: Tiềm năng và định hướng”, Luận văn Thạc sĩ

Địa lí học của Nguyễn Thị Cẩm Thúy (Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, 2011).

“Tiềm năng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Bến Tre”, Luận văn thạc sĩ Địa lý

học của Trần Thị Thạy (Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, 2011).

Các công trình này tập trung phân tích các điều kiện cho phát triển kinh tế và tình

hình phát triển kinh tế theo ngành và lãnh thổ toàn tỉnh.

Nghiên cứu về phát triển kinh tế cấp huyện là đề tài chưa được nhiều học viên cao

học, chuyên ngành Địa lí học, trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh lựa chọn. Các đề

tài về cấp huyện chủ yếu:

“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Lâm Hà (tỉnh Lâm Đồng): Thực

trạng và định hướng”, Luận văn Thạc sĩ Địa lí học của Nguyễn Chí Tuấn (Trường Đại học

Sư phạm TP.HCM, 2012).

“Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh”, Luận văn

Thạc sĩ chuyên ngành Địa lí học của Nguyễn Thành Lập (Trường Đại học

11

Sư phạm TP.HCM, 2011).

Về huyện Châu Thành, từ khi đổi mới đến nay đã có một số báo cáo, nhiều tạp chí,

nhiều chương trình, mục tin trên mạng internet nói về tình hình phát triển kinh tế của huyện.

Những thông tin về tình hình phát triển kinh tế huyện Châu Thành giai đoạn 2001 – 2011 và

đến 2020 được đề cập trong một số tài liệu có độ tin cậy cao, như: Quy hoạch tổng thể KT -

XH huyện Châu Thành (tỉnh Bến Tre) đến năm 2020, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ

tỉnh Bến Tre, huyện Châu Thành, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KT - XH

hàng năm, từng giai đoạn và các mục tiêu giải pháp, kế hoạch năm sau. Ngoài ra, có thể tìm

thấy thông tin giá trị từ một số nghiên cứu: Địa lý địa phương tỉnh Bến Tre, và một số sách,

báo, tạp chí viết về tỉnh Bến Tre. Trong đó, tài liệu có giá trị phải kể tới: Báo cáo tổng hợp

của Chi cục thống kê huyện Châu Thành, Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre; Văn kiện Đại

hội đại biểu Đảng bộ huyện Châu Thành lần X; Kế hoạch phát triển KT - XH huyện Châu

Thành giai đoạn 2011 - 2015 của UBND huyện Châu Thành, Huyện uỷ Châu Thành và một

số tài liệu khác.

Nhìn chung, các tài liệu, báo cáo trên đã tổng quan cơ sở lí luận về phát triển các

ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đánh giá các nguồn lực phát triển các ngành kinh

tế cấp huyện, phân tích hiện trạng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện.

Trên cơ sở đó đưa ra định hướng, giải pháp cho phát triển ổn định và bền vững kinh tế của

huyện. Đây là những tài liệu tham khảo bổ ích để tác giả vận dụng cho nghiên cứu kinh tế

của huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của

đề tài được cấu trúc thành 3 chương như sau:

- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế.

- Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành giai đoạn

2001 - 2011.

- Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế huyện Châu Thành đến

năm 2020

12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế

1.1.1. Các khái niệm

1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời

gian nhất định (thường là một năm). Khi sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước

tăng lên bằng bất kỳ cách nào thì đó được coi là tăng trưởng kinh tế.

Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia

tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và

phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua

các chỉ tiêu GDP, GNI và được tính cho toàn nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu

người.

Bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày

nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tính bền vững hay việc bảo đảm chất

lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là

sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu

người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là

khoa học công nghệ và nguồn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.

Trong quá trình phát triển, mỗi quốc gia không theo đuổi những giá trị giống nhau.

Có những nước coi trọng sự tăng trưởng về số lượng, về thu nhập và tổng sản phẩm hơn là

những thay đổi về chất lượng, về cơ cấu kinh tế xã hội và về chất lượng cuộc sống, đó là

quan điểm tăng trưởng thuần túy.

Những con số thể hiện sự tăng trưởng không phản ánh sự vận động đi lên của xã hội,

không cho phép biết được tình hình phân phối thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế xã hội, tính

năng động của công nghiệp và tình hình phúc lợi xã hội. Hay nói cách khác khái niệm tăng

trưởng kinh tế thuần túy chỉ chú trọng đến số lượng. Vì vậy, để đánh giá sự phát triển kinh

tế mang tính tổng hợp hơn, toàn diện và theo chiều sâu hơn, người ta đưa ra khái niệm “Phát

triển”.

1.1.1.2. Phát triển kinh tế

13

“Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát

triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất; nó là sự kết hợp

một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia”.

[ 10]

Theo cách hiểu như vậy, nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo 3 tiêu

chí:

Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình

quân trên một đầu người. Đây là tiêu chí thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh

tế (tăng trưởng kinh tế), là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và

thực hiện những mục tiêu khác của phát triển.

Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu chí phản ánh sự

biến đổi về chất của nền kinh tế một quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, đó là quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Để phân biệt các giai đoạn phát

triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường

dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được. Quá trình thay đổi cơ

cấu ngành kinh tế là theo hướng tiến bộ, bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao chất

lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh

tế tạo cơ sở cho việc đạt được tiến bộ xã hội một cách sâu rộng. Đó cũng là quá trình gia

tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là năng lực khoa học công nghệ và chất

lượng nguồn nhân lực của đất nước.

Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội từ kết quả của sự tăng

trưởng kinh tế.

Như vậy, mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải

là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng,

sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình

độ dân trí giáo dục của người dân… Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã

hội của quá trình phát triển.

1.1.1.3. Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

 Cơ cấu kinh tế:

Hiện nay trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ

cấu kinh tế. Phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C. Mác cho rằng: “Cơ cấu kinh

tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định

14

của lực lượng sản xuất vật chất”. “Do tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một

cách mạnh mẽ làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế của xã hội”. “Cơ cấu là một sự phân chia

về chất và một tỉ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội”. [10]

Cơ cấu kinh tế được hiểu là mối quan hệ giữa các bộ phận trong toàn bộ nền kinh tế,

thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các bộ

phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện KT – XH nhất

định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Cơ cấu kinh tế thể hiện mặt

chất kinh tế trong quá trình phát triển.

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có mối quan hệ hữu

cơ tương đối hợp thành và mỗi thành phần có vị trí, tỷ trọng tương ứng.

Như vậy, cơ cấu kinh tế được hiểu là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ

chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian nhất định,

được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp

với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.

Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam (1995): “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành,

lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành”. [15]

Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về cơ cấu kinh tế nhưng nhìn chung đều

thể hiện rõ các mặt chủ yếu sau:

- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.

- Số lượng và tỉ trọng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân.

- Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành.

Cơ cấu nền kinh tế bao gồm ba bộ phận cơ bản hợp thành: Cơ cấu ngành kinh tế, cơ

cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ.

 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình phát triển của các bộ phận kinh tế, dẫn đến sự

tăng trưởng khác nhau giữa chúng và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so

với một thời điểm trước đó.

Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ

cấu kinh tế không phải là cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hay sự thay đổi

về quan hệ tỉ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Nguyên nhân do sự xuất

hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu

kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái

15

khác cho phù hợp với môi trường phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn đề

chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi cả

về chất và lượng trong nội bộ cơ cấu kinh tế.

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên nền tảng cơ sở một cơ cấu hiện có, do

đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu hoặc chưa

phù hợp để xây dựng cơ cấu kinh tế mới hiện đại và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế mới.

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự thay đổi cơ cấu trên ba mặt: cơ cấu

ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Nhằm mục đích hướng đến sự

phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu KT – XH đã xác định cho từng thời kì

phát triển.

1.1.1.4. Nguồn lực

Nguồn lực là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Nó bao gồm toàn bộ những yếu tố

trong và ngoài nước đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình thúc đẩy, phát triển KT – XH của

một quốc gia.

“Nguồn lực phát triển KT – XH là tổng thể vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên

nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực con người cũng như các yếu tố phi vật thể

kể cả ở trong và ngoài nước có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển KT –

XH”. [15]

Hiện nay, nguồn lực trở thành thuật ngữ sử dụng phổ biến trong các văn kiện của

Đảng và Nhà nước cũng như trong các công trình, tài liệu nghiên cứu, các phương tiện

thông tin và cả trong đời sống hàng ngày. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực

nhưng cơ bản chúng đều thống nhất ở những điểm sau:

- Nguồn lực là tiền đề không thể thay thế được để phát triển KT – XH của mỗi quốc

gia.

- Nguồn lực có vai trò thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển kinh tế.

- Nguồn lực tạo điều kiện đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế với việc hình thành các

ngành chuyên môn hóa trên cơ sở khai thác các lợi thế so sánh thông qua sản phẩm hàng

hóa được sản xuất hàng loạt, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Nhìn chung mỗi vùng lãnh thổ có thế mạnh riêng về nguồn lực. Nhờ quá trình phân

công lao động xã hội theo lãnh thổ mà mỗi vùng lãnh thổ đó sẽ có những hàng hóa tiêu biểu,

góp phần hội nhập vào thị trường trong, ngoài nước và phát triển bền vững.

Từ các nội dung trên cho thấy nguồn lực có những đặc điểm sau:

16

Một là, nguồn lực tạo ra một nền kinh tế không phải chỉ bao gồm các yếu tố sản xuất

vật chất mà còn có các yếu tố chính trị - xã hội. Trong nền kinh tế hiện đại, các yếu tố chính

trị - xã hội có vị trí hết sức quan trọng.

Hai là, cơ cấu của nguồn lực không cố định mà có sự biến động (về thành phần, vai

trò và vị trí của từng yếu tố) cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và sự phát triển

của xã hội loài người.

1.1.2. Các nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển kinh tế

Hiện nay, có rất nhiều nguồn lực tham gia vào quá trình tăng trưởng và phát triển

kinh tế của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Do vậy, khi nghiên cứu, người ta thường phân

chia nguồn lực thành các nhóm để phân tích, đánh giá các đặc điểm, tính chất của chúng để

từ đó có giải pháp thích hợp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực đó vào quá trình phát

triển kinh tế. Sự phân loại các nguồn lực phát triển cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Dựa vào tính chất của nguồn lực, người ta chia nguồn lực phát triển thành hai nhóm:

nguồn lực sản xuất vật chất và nguồn lực chính trị - xã hội.

1.1.2.1. Nhóm nguồn lực sản xuất vật chất:

Nhóm này bao gồm: nguồn lực tự nhiên (vị trí địa lý, điều kiện và tài nguyên thiên

nhiên), nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn lực tài chính (vốn). Đây là

các nguồn lực trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra các sản phẩm hàng hóa và

dịch vụ. Nhưng mức độ tham gia của các nguồn lực phụ thuộc trước hết vào trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất; tính chất của từng loại sản phẩm và hiệu quả sử dụng các

nguồn lực phát triển. Ngoài ra mức độ tham gia của các nguồn lực vào quá trình sản xuất

còn phụ thuộc vào cơ chế quản lý và hệ thống chính sách của nhà nước.

 Nguồn lực tự nhiên:

- Vị trí địa lý:

Nguồn lực này tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn trong việc trao đổi, tiếp cận hay

cùng phát triển giữa các vùng trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Trong xu

thế hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, vị trí địa lí là nguồn lực góp phần định hướng phát

triển có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế, xây dựng mối quan hệ song phương hay

đa phương của mỗi quốc gia.

- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:

Đây là nguồn lực gồm các yếu tố (hay thành phần) của tự nhiên mà con người có thể

khai thác sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Số lượng và quy

17

mô tài nguyên thiên nhiên phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của sức sản xuất. Sức

sản xuất ngày càng phát triển thì phạm vi tài nguyên ngày càng được mở rộng.

Tài nguyên thiên nhiên bao gồm địa hình, khí hậu, nguồn nước, đất, sinh vật và

khoáng sản. Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, là nguồn lực cơ bản và tiền đề cho

quá trình sản xuất, tạo ra của cải phục vụ đời sống con người. Tuy nhiên, tài nguyên thiên

nhiên là điều kiện cần nhưng chưa đủ và chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết

khai thác và sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả. Mặt khác để khai thác có hiệu quả thì

việc đánh giá tài nguyên thiên nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đó bao gồm đánh

giá về mặt số lượng, chất lượng, công nghệ, kĩ thuật khai thác và tính hiệu quả kinh tế. Tài

nguyên thiên nhiên không phải là vô tận. Vì thế bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm cần phải

khai thác một cách có hiệu quả trên cơ sở bảo vệ, tái tạo tài nguyên thiên nhiên tiến tới phát

triển bền vững.

 Nguồn nhân lực:

Nguồn lao động là nguồn lực quan trọng có ý nghĩa đặc biệt và đóng vai trò quyết

định đối với việc phát triển kinh tế. Nguồn lao động không chỉ tạo nên của cải vật chất nuôi

sống con người mà còn sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá trình sản

xuất.

Vai trò của nguồn lao động đối với việc phát triển kinh tế và phân bố sản xuất thể

hiện ở hai khía cạnh sau:

- Nguồn lao động là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng có hiệu quả và phát triển

các nguồn lực khác trong quá trình phát triển kinh tế. Đây là yếu tố đầu vào không thể thiếu

được của bất kỳ hoạt động kinh tế nào, là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm, tạo

ra sự tăng trưởng cho các ngành kinh tế. Quy mô, kết cấu, trình độ và sự phân bố là điều

kiện hình và phát triển các ngành kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, nguồn lao động có chất

lượng cao là điều kiện phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ cao vào các ngành sản

xuất và đời sống. Sự phân bố nguồn lao động tác động đến sự phân bố các ngành kinh tế

nhất là các ngành đòi hỏi nhiều lao động.

- Nguồn lao động là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ xã hội tham gia tạo cầu

cho nền kinh tế. Quy mô, cơ cấu tiêu dùng của nguồn lực này ảnh hưởng lớn đến quy mô,

cơ cấu sản xuất các ngành kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 Khoa học và công nghệ:

18

Khoa học và công nghệ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, điều này

thể hiện qua các nội dung sau:

- Khoa học và công nghệ làm mở rộng khả năng sản xuất của nền kinh tế: mở rộng

khả năng phát hiện, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm

thay đổi chất lượng nguồn lao động theo hướng tiến bộ và mở rộng việc huy động vốn phục

vụ cho việc phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ tác động đến việc khai thác các

nguồn lực khác và tạo điều kiện chuyển chiến lược phát triển kinh tế theo chiều rộng sang

chiều sâu, nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.

- Khoa học và công nghệ thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế. Sự phát triển mạnh của khoa học và công nghệ dẫn đến phân công lao động trở nên sâu

sắc, làm xuất hiện nhiều ngành (lĩnh vực) kinh tế mới có hàm lượng chất xám cao và tạo

nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thúc đẩy quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong các ngành kinh tế).

- Khoa học và công nghệ góp phần tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát

triển kinh tế thị trường. Việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra hàng loạt sản

phẩm mới với chất lượng cao, giá thành hạ, đủ sức đứng vững trên thị trường. Một nước

mạnh về tiềm lực khoa học và công nghệ sẽ có nhiều lợi thế trong việc chiếm lĩnh thị phần

thế giới.

 Nguồn vốn:

Trong một quá trình sản xuất, vốn là yếu tố đầu vào nhưng lại là kết quả đầu ra của

các quá trình sản xuất trước đó. Nguồn vốn là nguồn lực tạo điều kiện quyết định để mở

rộng và tăng cường đầu tư cho các ngành kinh tế, nâng cao trình độ kĩ thuật, công nghệ theo

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự gia tăng nhanh các nguồn vốn, việc phân bố và

sự dụng chúng một cách có hiệu quả sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng cường xuất khẩu và tích lũy vốn cho nền kinh tế.

Vốn đầu tư thường được huy động từ hai nguồn trong nước và ngoài nước. Nguồn

vốn đầu tư trong nước có ý nghĩa quyết định bao gồm: vốn từ ngân sách nhà nước, từ các

doanh nghiệp và từ trong dân. Nguồn vốn đầu tư ngoài nước có vai trò rất quan trọng đối

với các nước đang phát triển khi bước vào thời kì công nghiệp hóa, đặc biệt là trong xu thế

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

1.1.2.2. Nhóm nguồn lực chính trị - xã hội:

Nhóm này bao gồm rất nhiều yếu tố có tác động tích cực đến tăng trưởng và phát

19

triển kinh tế nếu như được khai thác một cách hợp lí, có hiệu quả.

Có thể nêu một số yếu tố cơ bản như sau:

 Thể chế chính trị:

Đây là nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng và phát triển

kinh tế. Những lợi thế về thể chế chính trị có khả năng thu hút mọi nguồn lực cả trong lẫn

ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát triển KT – XH. Sự ổn định về chính trị là môi trường

hấp dẫn các đầu tư. Ngược lại, thể chế chính trị không ổn định, sẽ kéo theo suy thoái kinh tế

và tệ nạn xã hội gia tăng. Như vậy, thể chế chính trị có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng,

phát triển KT – XH và biểu hiện sự tập trung của kinh tế.

 Cơ chế, đường lối chính sách:

Đây là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển kinh tế. Cơ chế quản lý và

đường lối chính sách phù hợp, mang tính đột phá sẽ huy động t các nguồn lực. Nếu chính

sách thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn thì cũng không thể huy động, khai thác, sử dụng có

hiệu quả các nguồn lực trong nước và nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra

cơ chế quản lý và chính sách không hợp lý sẽ dẫn đến khai thác, sử dụng lãng phí các nguồn

lực và hiệu quả kém, kinh tế suy thoái, thậm chí dẫn đến khủng hoảng.

 Đặc điểm tôn giáo, truyền thống, dân tộc, tính cộng đồng:

Đây là các nguồn lực mang tính nhân văn, là sức mạnh tinh thần. Nó khuyến khích

mọi thành viên xã hội tự rèn luyện, nâng cao năng lực và ý chí để hoàn thành tốt nhiệm vụ,

góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tính

cộng đồng cao sẽ tạo ra sức mạnh tập thể lớn hơn, góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu

quả KT – XH.

 Kinh nghiệm về tổ chức và quản lí sản xuất:

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, việc vận dụng các kiến thức

khoa học, nắm bắt nhu cầu thị trường và kinh nghiệm quản lý vào quá trình tổ chức sản xuất

sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao và sản phẩm hàng hóa có chất lượng nhằm thỏa mãn nhu cầu

của thị trường. Do vậy, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh không chỉ là yếu tố sản

xuất đơn thuần, mà còn là nguồn lực rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển

kinh tế.

Ngoài ra, tiếp cận theo phạm vi lãnh thổ quốc gia, chia các nguồn lực phát triển thành

hai nhóm là: nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn lực nước ngoài có ý nghĩa rất quan

20

trọng đối với mọi quốc gia. Nhưng nguồn lực nước ngoài chỉ bao gồm có nhóm nguồn lực

sản xuất vật chất và kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất từ bên ngoài tác động vào.

Các nguồn lực trong nước bao gồm nhóm nguồn lực sản xuất vật chất và nhóm nguồn lực

chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn lực trong nước nhiều hay ít, mạnh hay yếu phụ

thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định của mỗi quốc gia. Như vậy, thể chế chính

trị, cơ chế, đường lối chính sách, đặc điểm dân tộc, tôn giáo, truyền thống, tính cộng đồng là

các yếu tố nguồn lực phát triển riêng có của mỗi quốc gia, dân tộc, chứ không thể trao đổi,

mua bán hay áp đặt dưới bất kỳ hình thức nào.

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế

1.1.3.1. Các tiêu chí chung:

- Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross Output):

Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trong phạm vi lãnh thổ của

một quốc gia trong một thời kì nhất định. Tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai

cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn

bộ nền kinh tế. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC -

Intermediational Cost) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA - value

added).

- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product):

Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế

trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kì nhất định (thường là một

năm). Đại lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau:

Về phương diện sản xuất: GDP là tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực

sản xuất và dịch vụ trong nước sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian.

Về phương diện tiêu dùng: GDP được xác định là tổng giá trị của tiêu dùng cuối

cùng của các hộ gia đình (C); Các khoản chi tiêu của chính phủ (G); Tổng đầu tư tích lũy tài

sản (I); Giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim ngạch nhập khẩu (X - M).

Về phương diện thu nhập: GDP được xác định trên cơ sở các khoản hình thành thu

nhập và phân phối thu nhập lần đầu, gồm: thu nhập của người có sức lao động dưới hình

thức tiền công và tiền lương (W); thu nhập của người có đất cho thuê (R); thu nhập của

người có tiền cho vay (In); thu nhập của người có vốn (Pr); khấu hao vốn cố định (Dp) và

thuế kinh doanh (Tl).

- Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross National Income):

21

Là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một

nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản thu

nhập do đầu tư ở nước ngoài gửi về và trừ đi phần giá trị sản phẩm mà nền kinh tế quốc gia

phải trả cho người nước ngoài dưới dạng lợi nhuận họ đã đầu tư vào nền kinh tế.

- Thu nhập quốc dân (NI - National Income):

Là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời

gian nhất định. Thu nhập quốc dân chính là tổng thu nhập quốc dân sau khi đã trừ đi khấu

hao vốn cố định của nền kinh tế. Thu nhập quốc dân phản ánh phần của cải thực sự mới đư

ợc tạo ra hàng năm.

- Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI - National Disposable Income):

Là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong

một thời kì nhất định. Thực tế thu nhập quốc dân sử dụng là thu nhập quốc dân sau khi đã

điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển nhượng hiện hành giữa các đơn vị thường trú và

không thường trú.

- Thu nhập bình quân đầu người:

Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc nội và tổng thu nhập

quốc dân còn được sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân đầu người của mỗi quốc

gia. Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi của dân số. Quy mô

và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh và là

tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng

cao của chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và so sánh mức sống dân

cư với nhau.

- Cơ cấu kinh tế:

+ Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế:

Cơ cầu ngành kinh tế (gọi tắt là cơ cấu ngành) là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của

nền kinh tế được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu ngành

thể hiện số lượng, tỉ trọng của các ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế. Cơ cấu ngành phản

ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế nói chung và trình độ phát triển sức

sản xuất nói riêng. Chỉ số về tỉ trọng giữa các ngành (lĩnh vực) cấu thành nền kinh tế cũng

thể hiện trình độ phát triển hàng hóa.

Có rất nhiều ngành là các bộ phận tạo thành nền kinh tế. Về cơ bản, nền kinh tế được

cấu trúc gồm 3 nhóm ngành (hay khu vực) sau đây:

22

- Khu vực 1: gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.

- Khu vực 2: gồm có công nghiệp và xây dựng.

- Khu vực 3: dịch vụ.

Tóm lại, cơ cấu ngành chính là tương quan về tỉ trọng giữa 3 khu vực tạo nên nền

kinh tế của một quốc gia.

+ Cơ cấu thành phần kinh tế:

Là tương quan theo tỉ lệ giữa các thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh

vực hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Trong đó chế độ sở hữu là nền tảng để hình

thành cơ cấu thành phần kinh tế. Để có một cơ cấu hợp lí cần phải dựa trên cơ sở hệ thống

tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu để cấu trúc sao cho cơ cấu ấy có khả năng thúc đẩy sức

sản xuất và phân công lao động xã hội hợp lý.

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay tồn tại 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước;

kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

+ Cơ cấu lãnh thổ:

Cơ cấu lãnh thổ là tương quan tỉ lệ giữa các vùng trong phạm vi quốc gia được sắp

xếp một cách tự phát hay tự giác, có chủ định.

Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành có mối quan hệ qua lại với nhau. Cơ cấu lãnh thổ

được hình thành và gắn liền với cơ cấu ngành và cùng thể hiện trong mỗi vùng kinh tế.

Trong cơ cấu lãnh thổ có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trên một không gian cụ thể. Xu thế

phát triển của cơ cấu lãnh thổ thường là tổng hợp, đa dạng với sự ưu tiên của một vài ngành

có ưu thế, liên quan đến phân bố dân cư, phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng. Trong cơ

cấu ngành cũng có bóng dáng của cơ cấu lãnh thổ. Tiêu chuẩn đánh giá cơ cấu lãnh thổ là

hiệu quả về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Là sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với

môi trường phát triển. Về thực chất, đó là sự điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt biểu hiện (ngành,

lãnh thổ và thành phần kinh tế) nhằm hướng sự phát triển của cả nền kinh tế vào các chiến

lược KT - XH đã được đề ra cho từng thời kì cụ thể. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp cho

nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, vững chắc và có khả năng hội nhập với khu vực và

thế giới.

- Cơ cấu theo lao động:

23

Sự phân chia lao động theo ngành phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia. Ở

các nước đang phát triển, lao động chủ yếu hoạt động trong khu vực 1; khu vực 2, 3 còn

thấp. Các nước phát triển thì ngược lại, lao động chủ yếu trong khu vực 3, khu vực 1 chiếm

tỉ trọng thấp.

- Năng suất lao động:

Năng suất lao động cấp quốc gia được đánh giá bằng GDP trên tổng số lao động

đang làm việc trong khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) và GDP theo từng

nhóm ngành trên tổng số lao động đang làm việc theo từng nhóm ngành tương ứng.

1.1.3.2. Các tiêu chí riêng cho cấp huyện:

- Giá trị sản xuất:

Là kết quả hoạt động của các ngành sản xuất tạo ra các sản phẩm vật chất trong một

thời gian nhất định. Giá trị sản xuất theo ngành kinh tế bao gồm: GTSX theo các nhóm

ngành nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; GTSX của các ngành

phân theo thành phần kinh tế ; GTSX của các ngành phân theo vùng lãnh thổ. GTSX theo

các nhóm ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của một nền

kinh tế.

- Tốc độ tăng trưởng GTSX:

Là chỉ tiêu đo lường, thể hiện mặt định lượng tăng trưởng kinh tế của lãnh thổ ở quy

mô cấp huyện. Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất được tính theo giá so sánh một

năm cố định gọi là năm gốc (ví dụ: ở nước ta thường lấy giá so sánh năm 1994).

- Cơ cấu GTSX và sự chuyển dịch cơ cấu GTSX theo ngành kinh tế:

Để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhỏ (cấp huyện) người ta sử

dụng chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản xuất thay cho cơ cấu kinh tế. Cơ cấu giá trị sản xuất cho biết

quy mô, tỉ trọng các ngành, lãnh thổ trong giá trị sản xuất của toàn huyện. Qua đó xác định

được vai trò và trình độ phát triển KT – XH của huyện. Sự chuyển dịch cơ cấu giá trị sản

xuất cho thấy sự điều chỉnh, chuyển biến của nền kinh tế huyện theo chiều hướng nào, phù

hợp hay không phù hợp.

- Năng suất lao động:

Năng suất lao động cấp huyện được đo bằng GTSX trên tổng số lao động đang làm

việc và GTSX của từng nhóm ngành trên tổng số lao động làm việc theo từng nhóm ngành.

Mức tăng năng suất lao động phản ánh rõ nét hiệu quả sản xuất của từng ngành và thu nhập

của người lao động.

24

1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế

1.2.1. Phát triển kinh tế ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long

1.2.1.1. Khái quát: ĐBSCL bao gồm 13 tỉnh/thành phố, có tổng diện tích 40.518 km2, chiếm 12,2% diện

tích cả nước. Dân số năm 2011 là 17.330 nghìn người, chiếm 20% dân số cả nước.

ĐBSCL nằm về phía Nam nước ta, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp

Campuchia, Tây Nam giáp biển Tây trong vịnh Thái Lan, phía Đông Bắc giáp TP. Hồ Chí

Minh và Tây Ninh. Như vậy, ĐBSCL có 2 mặt giáp biển, một mặt giáp biên giới, còn lại là

tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đây là phần đất cuối cùng của châu thổ Mê

Kông, có tài nguyên đất phù sa rộng lớn, màu mỡ, nguồn nước ngọt phong phú, vùng cửa

biển, đất ngập nước và rừng ngập mặn cùng với các đảo ven bờ có vai trò rất quan trọng cho

phát triển nông nghiệp và thủy sản.

ĐBSCL nằm trong hành lang kinh tế ven biển trong Tiểu vùng sông Mê Kông. Do

đó, vùng có điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế truyền thống như nông

nghiệp và thủy sản, đồng thời triển khai kế hoạch phát triển du lịch, kinh tế biển - đảo, đẩy

mạnh hợp tác kinh tế với TP. Hồ Chí Minh, các nước khu vực vùng vịnh Thái Lan và các

nước trong khu vực tiểu vùng sông Mê Kông. Từ nhiều năm nay, ĐBSCL đã đóng vai trò

quyết định trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia và góp phần quan

trọng vào thị trường lương thực toàn cầu. Trong vùng đã hình thành và phát triển được một

số cụm ngành quan trọng liên kết nông – công nghiệp và thương mại như lúa gạo, tôm, cá,

trái cây rau quả góp phần tăng giá trị xuất khẩu của vùng.

Về quy mô kinh tế, năm 2011 tổng sản phẩm trong nước (theo giá thực tế) của vùng

ĐBSCL là 367.932,9 tỷ đồng, chiếm khoảng 18,5% GDP cả nước. Trong giai đoạn 2001 –

2011, tăng trưởng kinh tế ở mức cao, trung bình 11,7%/năm. Trong đó, của khu vực 1 chiếm

6,3%, khu vực 2 chiếm 17,5 % và khu vực 3 là 14,8 %. GDP bình quân đầu người khá cao

và tăng mạnh qua các năm, từ 3,7 triệu đồng – năm 2001 lên 5,4 triệu đồng – năm 2005 và

đạt 10,3 triệu đồng - năm 2011.

Cơ cấu kinh tế của vùng mang tính thuần nông, năm 2010 (theo giá hiện hành): khu

vực 1 chiếm 40,6%, khu vực 2 chiếm 25,0% và khu vực 3 là 34,4%. Trong giai đoạn 2001 –

2011, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch tích cực: tỉ trọng của khu vực 1 đã giảm 13,4%, khu

vực 2 tăng 7,4% và khu vực 3 tăng 6,2%. Tuy nhiên, khu vực 1 vẫn còn chiếm trên 40%

trong GDP và khu vực 2 còn thấp.

25

1.2.1.2. Các ngành kinh tế:

- Nông – lâm – thủy sản:

Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng chiếm 33,3% giá trị sản xuất nông nghiệp của

cả nước và chiếm 40,6% GDP vùng (2011). Tăng trưởng nông nghiệp (tính theo giá trị sản

xuất) vào khoảng 3,3% trong giai đoạn 2001 – 2011. Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng

năm 2011 đạt 59.439,6 tỉ đồng, tăng 1,5 lần so với năm 2001 (theo giá so sánh năm 1994).

Cây lương thực giữ vai trò đặc biệt quan trọng, chiếm 49,6% sản lượng lương thực cả nước.

Trong đó, cây lúa đóng góp 99,1% trong sản lượng lương thực của vùng và 54,7% của cả

nước. Trên 80% lượng gạo

xuất khẩu của cả nước là của vùng ĐBSCL.

Về lâm nghiệp, năm 2011 vùng này cũng chiếm 14,8% giá trị sản xuất lâm nghiệp

của cả nước.

Thủy sản là thế mạnh của vùng. Năm 2011, sản lượng thủy sản của vùng đạt

3.167.481 tấn, chiếm 58,3% sản lượng và 67,2% giá trị sản xuất thủy sản của

cả nước.

Hiện nay, các nông sản thế mạnh của vùng là: lúa gạo, thủy sản, trái cây và rau quả.

Trong vùng đã hình thành một số sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao như: lúa gạo, cá tra,

tôm.

- Công nghiệp:

ĐBSCL là vùng trọng điểm về sản xuất lương thực, thực phẩm của cả nước. Do đó,

vùng có nhiều thuận lợi để phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông sản và

thủy sản.

Giá trị sản xuất công nghiệp của vùng năm 2010 đạt 301.806,37 tỉ đồng (giá thực tế),

chiếm khoảng 10% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Trong giai đoạn 2001-2011,

tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm của vùng đạt 15,8% cao hơn mức trung bình của

cả nước (15%).

Về cơ cấu, phần lớn công nghiệp của vùng là công nghiệp chế biến nông sản, với giá

trị sản xuất 274.495,99 tỉ đồng (năm 2011) chiếm 90,9% tổng giá trị sản xuất công nghiệp

toàn vùng. Trong khi đó công nghiệp khai thác chỉ chiếm 0,5%, công nghiệp sản xuất và

phân phối điện, khí đốt và nước là 8,2% và xử lý nước thải - rác thải 0,4%. Các ngành công

nghiệp thế mạnh là xay xát lương thực, chế biến thủy sản xuất khẩu, chế biến rau quả và các

sản phẩm công nghiệp nông thôn.

26

Toàn vùng hiện có 88 khu công nghiệp tập trung, chiếm 29,7% số khu công nghiệp

của cả nước. Đây là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của vùng, góp phần thu hút đầu

tư, đẩy nhanh công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm cho người

dân ở địa phương.

- Dịch vụ:

Ngành dịch vụ đóng góp ngày càng quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của

vùng. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt 6,2% trong giai đoạn

2001 - 2011. Năm 2011, ngành dịch vụ chiếm tới 34,4% GDP của toàn vùng.

Hiện nay, mạng lưới giao thông trong vùng khá hoàn chỉnh và đồng bộ với nhiều trục

và hướng khác nhau, tạo sự kết nối giữa các địa phương và liên vùng. Năm 2011, vùng

chiếm 26,2% (561,1 triệu lượt người) số lượt hành khách vận chuyển, 11,7% (86,9 triệu

tấn) khối lượng hàng hóa vận chuyển, 22,3% (16.065,3 triệu lượt người.km) số lượt hành

khách luân chuyển và 10,2% (7269,6 triệu tấn.km) khối lượng hàng hóa luân chuyển của cả

nước.

Thương mại của vùng ngày càng phát triển. Năm 2011, tổng mức bán lẻ hàng hóa và

doanh thu dịch vụ tiêu dùng (giá thực tế) chiếm 17,6% (352591,0 tỉ đồng) cả nước. Tốc độ

tăng bình quân trong giai đoạn 2001 – 2011 là 21%, gần bằng mức tăng của cả nước (22%).

Toàn vùng ĐBSCL đạt kim ngạch xuất khẩu năm 2011 là 8,01 tỉ USD, tăng 16,5% so với

năm 2010. Kim ngạch nhập khẩu đạt 3,12 tỉ USD, tăng 24,8% so với năm 2010. Các mặt

hàng xuất khẩu chủ yếu là gạo, thủy sản, rau quả, hàng may mặc và nhập khẩu chủ yếu là

nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh. Các tỉnh, thành phố có kim

ngạch xuất khẩu cao là Long An, Cần Thơ, Cà Mau, An Giang, Tiền Giang và Đồng Tháp.

Du lịch vùng ĐBSCL trong những năm gần đây phát triển nhanh và đóng vai trò

quan trọng trong phát triển kinh tế của vùng. Năm 2011 các tỉnh, thành phố trong vùng đã

đón hơn 17,4 triệu lượt khách, trong đó có 1,4 triệu lượt khách quốc tế, tăng 11,48% so với

năm 2010. Doanh thu toàn ngành đạt trên 3.500 tỉ đồng, tăng 23,68% so với năm 2010. Các

điểm điểm du lịch của vùng phát triển nhanh về số lượng, chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt

hơn nhu cầu tham quan nghỉ dưỡng của du khách.

1.2.2. Phát triển kinh tế ở tỉnh Bến Tre

1.2.2.1. Khái quát

Tỉnh Bến Tre nằm ở phần phía Đông của vùng ĐBSCL, có diện tích tự nhiên là 2357,7 km2, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh

27

Trà Vinh, phía Đông giáp biển Đông. Lãnh thổ tỉnh Bến Tre được tạo thành bởi 3 cù lao

lớn: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Với địa hình tương đối bằng phẳng, tài

nguyên đất phong phú, khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, mạng lưới sông ngòi dày

đặc, nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng, phong phú và tài nguyên du lịch khá đặc trưng,…

Bến Tre có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế nhất là lĩnh vực nông nghiệp, phát triển giao

thông, thủy lợi và du lịch.

Với dân số đông - 1.257.782 người, mật độ dân số khá cao - 533 người/km2 (2011) là

nguồn cung lao động dồi dào cho các ngành kinh tế địa phương.

Hiện nay, nền kinh tế của Bến Tre đang phát triển nhanh và đạt được nhiều thành

tựu. Tổng sản phẩm nội tỉnh liên tục tăng. Năm 2011, GDP của tỉnh là 29.783,7 tỉ đồng (giá

thực tế), tăng gấp 5 lần so với năm 2001. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 22,27%/năm trong

giai đoạn 2006 – 2011, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng ĐBSCL và cả nước.

Về cơ cấu kinh tế, năm 2011 ngành nông – lâm – thủy sản chiếm 50,76%, công

nghiệp - xây dựng chiếm 16,57% và dịch vụ chiếm 32,68%. Như vậy, ngành nông – lâm –

thủy sản trong cơ cấu GDP của tỉnh vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn so với vùng ĐBSCL và cả

nước, còn công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp hơn. Trong giai đoạn 2001

– 2011, tỉ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng 3,73% và dịch vụ tăng 12,17%, còn tỉ

trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp giảm 15,89%. Sự chuyển dịch này là kết quả thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

Thu nhập bình quân đầu người tăng liên tục qua các năm, đến năm 2011 GDP/người

đạt 23,6 triệu đồng/người (giá thực tế) tăng 5,2 lần so với năm 2001 (4,5 triệu đồng/người)

và cao hơn nhiều so với bình quân chung của vùng ĐBSCL.

1.2.2.2. Các ngành kinh tế:

- Nông – lâm – thủy sản:

Bến Tre có đất phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi dày đặc và tiếp giáp biển, thuận

lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Đến năm 2011, giá trị sản xuất của khu vực 1 đạt

15116,7 tỉ đồng (giá thực tế), chiếm 50,76% giá trị sản xuất của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng

trung bình của khu vực 1 khá cao với mức 21,33%/năm trong giai đoạn 2006 – 2011 và

đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa.

Trong cơ cấu giá trị sản xuất nông – lâm – thủy sản, ngành nông nghiệp chiếm

66,2%, ngành thủy sản chiếm 33,3% còn ngành lâm nghiệp chỉ chiếm 0,5%. Trên địa bàn

tỉnh đang tồn tại nhiều hình thức sản xuất nông – lâm – thủy sản khác nhau, trong đó hình

28

thức kinh tế trang trại và hợp tác xã thủy sản, tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp hoạt động có

hiệu quả nhất và đã tác động tích cực đến sự phát triển chung của nông nghiệp. Hiện nay

Bến Tre có 82 trang trại, 101 hợp tác xã và 10 tổ hợp tác.

- Công nghiệp:

Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp tỉnh Bến Tre có những bước phát

triển mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát triển KT – XH của tỉnh. Giá

trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng nhanh, năm 2011 đạt 4.934,5 tỉ đồng (giá thực tế) tăng

gấp 6,5 lần so với năm 2001. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2006

– 2011 là 22,37%/năm cao hơn vùng ĐBSCL và cả nước.

Về cơ cấu ngành công nghiệp, năm 2011, nhóm ngành chế biến chiếm tỉ trọng lớn

nhất, với 89,38% và có xu hướng ngày càng tăng, nhóm ngành khai thác chiếm tỉ trọng

không đáng kể, với 4,91% và có xu hướng giảm, còn nhóm ngành sản xuất và phân phối

điện, khí đốt và nước chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ, với 5,71%.

Về cơ cấu công nghiệp phân theo thành phần kinh tế: thành phần kinh tế ngoài Nhà

nước chiếm tỉ trọng cao nhất và có xu hướng tăng (năm 2006: 54,50%; năm 2011: 60,73%),

thành phần kinh tế Nhà nước chiếm tỉ trọng thấp nhất và có xu hướng giảm (năm 2006:

40,74%; năm 2011: 11,38%), còn khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh

(năm 2006: 4,77%; năm 2011: 27,89%).

Một số ngành công nghiệp trọng điểm của tỉnh hiện nay là: chế biến thủy sản, chế

biến dừa, chế biến thức ăn chăn nuôi, hóa chất, cơ khí, điện tử, thiết bị điện, vật liệu xây

dựng, khai thác cát, may mặc – da giầy,…

Hiện nay ở Bến Tre đã bắt đầu hình thành các khu vực tập trung công nghiệp và làng

nghề TTCN. Đến năm 2011 toàn tỉnh có 2 khu công nghiệp đang hoạt động (Giao Long, An

Hiệp). Theo Quy hoạch thì đến năm 2020 Bến Tre có thêm 5 khu công nghiệp nữa (Phú

Nhuận, Phước Long, Thanh Tân, An Nhơn, Thành Thới). Đồng thời, đến năm 2020, trên

địa bàn tỉnh sẽ có 14 cụm công nghiệp vừa và nhỏ cùng 18 làng nghề TTCN. Hầu hết các

KCN, cụm công nghiệp thường phân bố gần các trục đường giao thông, bến cảng, nguồn

nguyên liệu, phân bố đều các huyện, thành phố trong tỉnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi để

Bến Tre thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường mối liên kết giữa các

tỉnh/thành phố trong vùng ĐBSCL và vùng Đông Nam Bộ.

- Dịch vụ:

29

Dịch vụ là ngành kinh tế chiếm tỉ trọng cao trong GDP và đóng góp ngày càng quan

trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế chung của tỉnh Bến Tre. Trong giai đoạn

2001-2011, tỉ trọng của ngành đã tăng từ 20,51% lên 32,68%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và

doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2011 đạt 18603,1 tỉ đồng, tăng 5,8 lần so với năm 2001.

Hoạt động ngoại thương tăng trưởng khá nhanh, năm 2011 giá trị hàng hóa xuất khẩu đạt

367,874 triệu USD, tăng 3,8 lần so với năm 2006. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu hàng

công nghiệp nhẹ, TTCN và nông nghiệp như: chỉ xơ dừa, hàng dệt may, gạo, cơm dừa nạo

sấy, hàng thủy sản… Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Các quốc gia, vùng

lãnh thổ chiếm tỉ trọng cao trong xuất khẩu là: Nhật, Trung Quốc, Mỹ, Ai Cập, Hàn Quốc,

Đức. Giá trị hàng hóa nhập khẩu cũng liên tục tăng, năm 2011 đạt 120,139 triệu USD, tăng

5,3 lần so với năm 2006. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là vải, phụ liệu dệt may, máy móc

thiết bị, giấy các loại. Thị trường nhập khẩu chủ yếu là Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Hung-

ga-ri, Đài Loan.

Hoạt động du lịch trong thời quan có nhiều chuyển biến tích cực và dần khẳng định

vị thế của mình trong ngành du lịch của vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. Số

lượng khách du lịch tăng nhanh, năm 2011 đạt 743.401 lượt người, tăng 1,5 lần so với năm

2007 (481.128 lượt người). Doanh thu du lịch lữ hành năm 2011 đạt 31,2 tỉ đồng, tăng 3,7

lần so với năm 2007 (8,3 tỉ đồng). Hiện nay, hoạt động du lịch của tỉnh chủ yếu tập trung ở

huyện Châu Thành với các hoạt động du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn, nghỉ dưỡng và

một số điểm du lịch về di tích lịch sử, lễ hội, ẩm thực ở các huyện trong tỉnh như: Khu lăng

mộ Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri), Khu Di tích lịch sử Đồng Khởi (Mỏ Cày Nam), Đền thờ

Nữ tướng Nguyễn Thị Định (Giồng Trôm), Tượng đài Đồng Khởi (TP. Bến Tre), đầu cầu

tiếp nhận vũ khí Bắc Nam (Thạnh Phú), đình Bình Hòa (huyện Giồng Trôm), đình Phú Lễ

(huyện Ba Tri), nhà cổ ở xã Đại Điền (huyện Thạnh Phú), …

Hệ thống giao thông vận tải đang từng bước phát triển, các tuyến đường quốc lộ đi

qua tỉnh, các tuyến đường tỉnh, huyện được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới để đáp ứng

nhu cầu đi lại của nhân dân và phát triển kinh tế địa phương. Khối lượng vận chuyển, luân

chuyển hàng hóa và hành khách ngày càng tăng cao. Năm 2011, khối lượng hành khách vận

chuyển đạt 39.898 nghìn người, tăng 1,6 lần, khối lượng luân chuyển khách đạt 1.188.600

nghìn người.km, tăng 1,4 lần so với năm 2006 và khối lượng hàng hóa vận chuyển 4710

nghìn tấn, tăng 1,7 lần, khối lượng luân chuyển 473.329 nghìn tấn.km, tăng 1,8 lần so với

năm 2006.

30

Ngành bưu chính viễn thông phát triển nhanh và ổn định, đáp ứng nhu cầu thông tin

liên lạc của người dân trong đời sống và sản xuất. Số thuê bao điện thoại năm 2011 là

1.186.098 thuê bao, tăng 8,6 lần so với năm 2006. Mạng lưới dịch vụ bưu điện được đầu tư

và không ngừng phát triển, hiện nay toàn tỉnh có 65 bưu điện phân bố rộng khắp ở các địa

phương trong tỉnh.

Tiểu kết chương 1

Nghiên cứu phát triển kinh tế là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia và

vùng lãnh thổ, nhất là các nước đang phát triển. Ở nước ta, huyện vẫn được coi là đơn vị cơ

bản để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế huyện có mối quan hệ chặt chẽ và là một mắt

xích trong sự phát triển kinh của tỉnh, vùng và quốc gia.

Có rất nhiều tiêu chí để đánh giá phát triển kinh tế, tuy nhiên các chỉ tiêu quan trọng

cho cấp huyện là: GTSX, tốc độ tăng trưởng của GTSX, cơ cấu GTSX và sự chuyển dịch cơ

cấu GTSX theo ngành.

Từ thực tiễn phát triển kinh tế của vùng ĐBSCL và tỉnh Bến Tre, cho thấy muốn tăng

trưởng và phát triển kinh tế cần phải huy động, khai thác tổng hợp các nguồn lực. Trong đó

nguồn lực vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, vốn, khoa học kĩ thuật có vai

trò quan trọng hàng đầu. Đẩy nhanh tăng trưởng và phát triển kinh tế phải gắn với quá trình

CNH – HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng khu vực 2, khu vực

3; khai thác mọi nguồn lực vào quá trình sản xuất và phát huy sự tham gia của các thành

phần kinh tế. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh cần có cơ chế, chính sách phù hợp,

chú trọng đào tạo, thu hút nguồn nhân lực, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,… và phải

chú ý giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội

và bảo vệ môi trường.

31

32

CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH

TẾ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ

Châu Thành là một trong 9 đơn vị hành chính cấp huyện, thành phố của tỉnh Bến Tre, có diện tích tự nhiên 230,38 km2 (chiếm 9,9% diện tích toàn tỉnh), dân số năm 2011 là 159.588 người (chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh) và mật độ dân số 692 người/km2.

Huyện Châu Thành nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bến Tre, có giới hạn tọa độ địa lí 10014’23’’ - 10020’18’’ vĩ độ Bắc và 106008’69’’ - 106027’15’’ kinh độ Đông, phía Bắc và Tây

Bắc giáp tỉnh Tiền Giang qua ranh giới tự nhiên là sông Tiền, phía Nam giáp huyện Mỏ Cày

Bắc qua ranh giới tự nhiên là sông Hàm Luông, phía Đông và Đông Nam giáp huyện Bình

Đại, TP. Bến Tre và huyện Giồng Trôm, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Tiền Giang và

huyện Chợ Lách qua ranh giới tự nhiên là sông Tiền.

Huyện Châu Thành có 1 thị trấn và 22 xã. Thị trấn Châu Thành là trung tâm hành

chính của huyện, cách TP. Bến Tre 10 km. Từ huyện Châu Thành có thể giao lưu thuận lợi

với nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh bằng đường bộ thông qua quốc lộ 60, tỉnh lộ 883,

tỉnh lộ 884 và đường thủy với các sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Ba Lai và kênh Giao

Hòa.

Với vị trí nằm sát TP. Bến Tre và đối diện TP. Mỹ Tho qua sông Tiền, đồng thời với

các trục giao thông quan trọng trên, Châu Thành được xem là huyện ven của khu đô thị TP.

Bến Tre, là cửa ngõ của tỉnh Bến Tre để giao lưu với các địa phương khác trong Vùng kinh

tế trọng điểm ĐBSCL và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hiện nay, cầu Rạch Miễu đã

và đang phát huy vai trò cửa ngõ của huyện Châu Thành.

Ngoài ra, với vị trí là đỉnh của tam giác châu sông Tiền, có đất đai màu mỡ và nguồn

nước ngọt hầu như quanh năm, Châu Thành còn là huyện trọng điểm phát triển kinh tế vườn

của tỉnh, đồng thời phát triển mạnh du lịch sinh thái, gắn với các trung tâm dịch vụ - thương

mại, các khu, cụm công nghiệp quy mô lớn. Hơn thế nữa, Châu Thành còn là một trong

những huyện có nhiều đóng góp vào quá trình CNH - HĐH và đảm bảo tốc độ tăng trưởng

nhanh của KT - XH tỉnh Bến Tre.

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

33

2.1.2.1. Địa hình:

Lãnh thổ huyện Châu Thành được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm

tích biển và phù sa của sông Cửu Long. Địa hình tương đối bằng phẳng, chênh lệch cao

trình giữa vùng thấp nhất với vùng cao nhất chỉ khoảng 50 cm - 60 cm. Độ cao địa hình biến

động phổ biến trong khoảng 0,8 m - 1,5 m, trong đó vùng ven sông Tiền có độ cao 1,0 m -

1,2 m và có xu hướng cao dần về phía Đông; vùng ven sông Hàm Luông có độ cao từ 1,3 m

- 1,5 m; vùng đồng bằng giữa 2 sông cao 0,8 m - 1,3 m. Về cơ bản có thể phân biệt thành

các khu vực địa hình sau:

- Vùng thấp có độ cao dưới 1,0 m bị ngập nước khi triều lên, bao gồm một số diện

tích đất ruộng ở lòng chảo xa sông. Do bị ngập nước khi triều lên nên vùng này được bồi tụ

phù sa từ các dòng sông lớn hàng năm, đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác lúa, rau màu

và một số loại cây công nghiệp và cây ăn quả.

- Vùng cao có độ cao 1,0 m - 2,0 m, bị ngập nước trong các đợt triều cường tháng 9 -

10 âm lịch, được lên liếp lập vườn (chống ngập). Đây là vùng ít chịu ảnh hưởng của triều

cường, thuận lợi cho phát triển các vườn cây như: vườn dừa, vườn trái cây.

Như vậy, địa hình bằng phẳng là điều kiện thuận lợi để Châu Thành phát triển kinh

tế, nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra, kết hợp với mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày

đặc tạo cảnh quan sông nước đặc trưng có giá trị phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh

thái sông nước - miệt vườn.

Tuy nhiên, ở vùng địa hình thấp thường xuyên bị ngập nước khi triều cường nên đất

bị glây hóa mạnh, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng cây trồng và thủy sản.

2.1.2.2. Đất

Huyện Châu Thành có 3 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn và nhóm

đất tác nhân.

STT

Tên đất

Kí hiệu

Diện tích (ha)

Tỉ lệ (%)

Bảng 2.1. Diện tích các loại đất trên địa bàn huyện Châu Thành năm 2011

Đất phù sa: 1 - Đất phù sa glây yếu Pg 448,7 1,96

Đất phèn:

2 - Đất phèn hoạt động nông 1.117 4,89 Sj1

- Đất phèn hoạt động sâu 640 2,80 Sj2

3 Đất tác nhân:

34

- Đất lên liếp Vp (S) 17.046,86 73,79

- Sông rạch 3785 15,56

Tổng diện tích toàn huyện 23037,56 100

Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Châu Thành

- Nhóm đất phù sa, chỉ có 1 loại là Đất phù sa glây yếu, chiếm 1,96% diện tích, phân

bố ở các xã: Giao Long, Giao Hòa, An Phước, An Hóa. Loại đất này có khả năng thoát nước

trên bề mặt kém, mực nước ngầm nông, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến nặng, tỉ lệ

sét vật lí thường từ 45% - 60% nên khả năng giữ nước và phân tốt. Đất có khả năng giữ ẩm

về mùa khô nhưng thoát nước kém vào mùa mưa. Tầng đất dưới thường xuyên tiếp xúc với

mực nước ngầm hoặc ngập nước liên tục do trồng lúa nước và chịu điều kiện yếm khí nên

hình thành tầng sét glây. Độ pH biến động trong khoảng từ 4,5 - 5,0. Hàm lượng mùn và

nitơ tổng số khá. Kết cấu đất thích hợp cho việc trồng lúa nước. Do loại đất này nằm khá xa

ở phía trong bờ đê, không được bồi phù sa từ lâu, hay bồi không đáng kể, lại do trồng lúa

nước lâu đời nên đất có những biến đổi về chất. Tầng glây có độ sâu lớn từ 60 - 80cm, thuận

lợi cho việc trồng lúa vì đất có khả năng giữ ẩm tốt. Đây là loại đất đến nay vẫn cho hai vụ

lúa chính ổn định với năng suất khá.

- Nhóm đất phèn chiếm 7,69% diện tích, là nhóm đất có diện tích lớn thứ hai sau

nhóm đất tác nhân (đất phèn lên liếp và sông rạch). Đất phèn ở đây thuộc phụ nhóm đất

phèn hoạt động (SJ) đã được hình thành tầng Jarosite (tầng phèn) tầng đất có chứa các ổ

phèn màu vàng hoặc vàng rơm, bao gồm 2 loại:

+ Đất phèn hoạt động nông: phấn bố chủ yếu tại các xã Quới Sơn, Giao Long, Phú

An Hòa.

+ Đất phèn hoạt động sâu: phân bố tại các xã Hữu Định, Tam Phước, An Hòa, An

Hiệp.

2-, Fe2+, Fe3+, Al3+) và rất chua. Các độc tố trong đất phèn rất biến động và thay đổi theo mùa

Nhóm đất phèn thường có lượng hữu cơ khá cao, chứa nhiều độc tố (SO3, SO4

khá rõ rệt. Mùa khô, nhiệt độ cao, không mưa, mực thủy cấp hạ thấp, đất bị khô hạn, làm

cho quá trình oxy hóa diễn ra mạnh và độc tố trong đất tăng nhanh. Mùa mưa, nước mưa và

nước lũ về rửa trôi các độc tố trong đất và chảy xuống hệ thống kinh rạch làm cho độc tố

trong đất giảm đi. Tuy nhiên, độc tố trong hệ thống kênh rạch trong vùng lại cao lên, nhất là

sau mùa mưa từ 20 đến 30 ngày. Diện tích đất phèn hoạt động sâu ít hơn đất phèn hoạt động

nông.

35

Hiện nay đất phèn tầng sâu hầu hết đã được đưa vào khai thác sử dụng. Đất phèn

tầng nông đang được khai thác trồng lúa và hoa màu, diện tích hoang hóa còn rất ít do công

tác thủy lợi trong huyện (khả năng dẫn ngọt và tiêu thủy) được chú trọng đầu tư.

- Nhóm đất tác nhân, bao gồm 2 loại:

+ Đất lập liếp: chiếm 73,79% diện tích, hầu hết là các loại đất phù sa được lên liếp,

phân bố trên khắp địa bàn huyện. Đào mương lên liếp để trồng cây lâu năm là hình thức phổ

biến ở huyện Châu Thành nói riêng, tỉnh Bến Tre và vùng ĐBSCL nói chung. Tuy nhiên,

kiểu lên liếp tùy thuộc vào từng loại đất và mô hình canh tác. Phần lớn đất đai có thành

phần cơ giới nặng, mùn và đạm từ khá đến giàu, lân và kali trung bình, độ phì từ khá đến

cao, sau khi lên liếp thích nghi cho phát triển kinh tế vườn và các loại rau màu.

+ Sông rạch: chiếm 16,56% diện tích, có vai trò quan trọng trong quá trình bồi lắng

phù sa. Đây là nơi đón nhận, dự trữ và cung cấp phù sa cho bờ (liếp) vườn. Với hệ thống

sông, rạch chằng chịt đã góp phần cung cấp nguồn phù sa màu mỡ cho vùng đất nông

nghiệp của Huyện.

Trong tổng quỹ đất, nhóm đất nông nghiệp có 16.046 ha, chiếm 69,65% diện tích tự

nhiên và phần lớn diện tích đất dành cho trồng trọt. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp

chiếm 15.978 ha, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 50 ha và đất nông nghiệp khác -18 ha. Bình quân đất nông nghiệp/người nông thôn là 971 m2, trong đó có 120 m2 đất cây hàng năm và 850 m2 đất cây lâu năm, thuộc vào loại rất thấp. Đây là nguyên nhân gây khó

khăn cho thực hiện các vùng chuyên canh với quy mô lớn cũng như áp dụng hình thức cơ

giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Hiện nay, quỹ đất đều được đưa vào khai thác sử dụng, đất chưa sử dụng xem như

sắp hết. Nhóm đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên nhưng

chỉ số đất nông nghiệp trên đầu người thuộc vào loại thấp do mật độ dân số cao.

2.1.2.3. Khí hậu:

Nằm trong vùng ĐBSCL, huyện Châu Thành chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới

ẩm gió mùa. Khí hậu phân hóa thành hai mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Mùa mưa có nền nhiệt

thấp, mưa nhiều, độ ẩm cao, trùng với gió mùa Tây Nam hoạt động từ tháng V đến tháng

XI. Mùa khô có khí hậu nóng (nhiệt độ cao nhất vào tháng II, III) trùng với gió Đông Bắc,

kéo dài từ tháng XII đến tháng IV năm sau.

- Nhiệt độ:

36

Châu Thành có nền nhiệt cao và ổn định quanh năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm 27,10C, tháng cao nhất có nhiệt độ trung bình 28,70C (tháng V) và thấp nhất là 24,10C (tháng XI). Biên độ nhiệt thấp, chênh lệch nhiệt độ tối đa giữa các tháng vào khoảng 3,30C. Nền nhiệt dồi dào, tổng nhiệt độ trung bình năm tới 9.000 - 9.5000C, bức xạ Mặt Trời khá cao từ 120 - 130 Kcal/cm2/năm. Trong năm thường có 8 - 9 tháng có nhiệt độ trung bình trên 270C (trong đó có 2 tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất trên 300C) và chỉ có 3 tháng nhiệt độ trung bình dưới 240C (không có tháng nào nhiệt độ trung bình dưới 200C). Đây là

điều kiện thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, đặc trưng ở huyện là kinh tế

vườn.

- Chế độ mưa:

Huyện có lượng mưa thuộc vào loại trung bình thấp của vùng ĐBSCL, với lượng

mưa trung bình năm 1.400 - 1.600 mm. Do vậy khả năng xuất hiện hạn đầu vụ và giữa vụ hè

thu là thường xuyên.

Lượng mưa phân bố không đều theo mùa và các tháng trong năm, tập trung chủ yếu

vào mùa mưa (từ tháng V đến tháng XI) chiếm khoảng 92% lượng mưa cả năm. Mưa nhiều

nhất vào các tháng VII, VIII, IX, X và lượng mưa dao động từ 218 mm đến 311 mm. Mưa

lớn kéo dài nhiều giờ nếu kết hợp với thủy triều lên sẽ gây ngập một số vùng thấp hoặc

những khu vực không có đê bao. Tuy nhiên do nước dâng gây ngập theo thủy triều và trong

thời gian ngắn (3 - 4 giờ) nên ít ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi. Mùa khô kéo dài từ

tháng XII đến tháng tháng IV năm sau, lượng mưa rất thấp, trung bình khoảng 20 mm,

chiếm khoảng 8% tổng lượng mưa cả năm, trong năm thường có 1 - 2 tháng không có mưa.

Do đó vào mùa khô, mưa ít kết hợp với gió từ biển thổi vào đất liền làm cho nước biển xâm

nhập sâu vào trong đất liền gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nhất là vùng đất

phèn và vùng trồng hoa màu, cây công nghiệp hàng năm, cây ăn trái. Lượng mưa trung bình

giữa các năm không đều nhau, có năm lượng mưa tới 2.005 mm (2010), năm lượng mưa

thấp nhất chỉ khoảng 1.317 mm (2009). Ngoài ra lượng mưa trung bình những tháng cao

nhất và thấp nhất giữa các năm cũng thay đổi.

- Nắng:

Số giờ nắng trung bình khoảng 2.500 – 2.700 giờ/năm. Nền nhiệt cao, thời gian chiếu

sáng dài và khá đồng đều giữa các tháng. Trong đó mùa khô số giờ nắng trung bình 6 – 7

giờ/ngày, mùa mưa số giờ nắng ít hơn 5 – 6 giờ/ngày. Số giờ nắng trung bình trong một

tháng khoảng 24 ngày. Đây là điều kiện thuận lợi để canh tác nhiều vụ cây trồng trong năm.

37

- Chế độ ẩm:

Độ bốc hơi ở Châu Thành thuộc loại cao của vùng ĐBSCL, trong các tháng mùa

mưa, độ bốc hơi trung bình khoảng 4,2 - 4,6 mm/ngày; các tháng mùa khô khoảng 4,3 - 6,4

mm/ngày. Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình hàng năm khoảng 79,12%. Những

tháng có độ ẩm trung bình cao nhất trong năm là tháng VIII, IX, X (86%), tháng có độ ẩm

trung bình thấp nhất trong năm là tháng II, III, IV (76%). Độ ẩm cao, nguồn nước phong

phú nên rất thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện.

- Chế độ gió:

Châu Thành chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Trong mùa mưa, từ tháng V đến

tháng XI, gió Tây - Tây Nam hoạt động mạnh, đến mùa khô hướng gió chuyển từ Bắc đến

Đông Bắc, đến cuối mùa khô có hướng Đông đến Đông Nam với tốc độ bình quân 2,0 – 4,7

m/s, có thời điểm gió mạnh nhất đạt 10 – 12 m/s. Trong mùa khô có gió chướng là gió Đông

- Đông Bắc xảy ra từ tháng X đến tháng IV năm sau, thường gây tác hại như nước dâng

triều, xâm nhập mặn.

- Bão, lũ lụt:

Huyện Châu Thành cũng như các địa phương khác ở vùng ĐBSCL đều nằm ngoài

khu vực chịu ảnh hưởng chính của bão nhưng có những năm vào các tháng IX, X, XI cũng

chịu ảnh hưởng nhẹ của các cơn bão cuối mùa. Tuy nhiên, những năm gần đây cũng đã ghi

nhận được một số cơn lốc có tốc độ gió lớn tại một số khu vực trong huyện, có ảnh hưởng

nhất định đến đời sống và sản xuất trên địa bàn.

2.1.2.4. Thủy văn

 Nước mặt:

Châu Thành có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, phân bố rộng khắp trên toàn

huyện. Do vị trí nằm ở giữa các sông chính của tỉnh Bến Tre nên huyện Châu Thành chịu

ảnh hưởng bởi 3 sông lớn là sông Hàm Luông, sông Tiền và sông Ba Lai với chế độ bán

nhật triều.

- Sông Tiền (chiếm 10,5% lưu lượng sông Mê Kông) và sông Hàm Luông (chiếm

14% lưu lượng sông Mê Kông) chịu sự chi phối mạnh bởi lũ thượng nguồn sông Mê Kông và thủy triều biển Đông. Lưu lượng nước vào mùa mưa là 3.360 m3/s và mùa khô giảm mạnh còn 829 m3/s. Đây vừa là trục tiêu chính của toàn bộ khu vực vào mùa lũ nhưng cũng

đồng thời là trục xâm nhập mặn vào khu vực.

38

- Sông Ba Lai (dưới 1% lưu lượng): vốn là một phân lưu trực tiếp của sông Tiền,

nhưng dòng chày từ sông Tiền đến địa phận xã An Hóa bị phù sa bồi đắp nên ngày càng

nông và hẹp. Hiện nay, nguồn nước của sông Ba Lai chủ yếu từ sông Tiền sang, qua kênh

An Hóa, bắt đầu từ vị trí ngã tư kênh An Hóa tại xã An Hóa, sông chảy về hướng Đông

Nam đổ ra biển Đông tại cửa Ba Lai, nằm giữa hai huyện Bình Đại và Ba Tri.

Do địa hình có nhiều sông rạch chằng chịt, mật độ dày, tạo nhiều thuận lợi cho việc

cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt và tưới tiêu trong nông nghiệp, nhưng cũng gây nhiều

khó khăn trong việc vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân trong huyện.

Phần phía Tây của huyện có đầy đủ các yếu tố thuận lợi về thủy văn, không bị ảnh

hưởng của lũ, không nhiễm mặn và biên độ triều thích hợp cho việc tưới tiêu tự chảy. Khu

vực phía Đông của huyện bị ảnh hưởng mặn 1 - 3 tháng vào mùa khô, đặc biệt là xâm nhập

mặn từ sông Hàm Luông, là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, nhất là

canh tác lúa và cây ăn trái, gây khó khăn cho huyện trong vấn đề cấp nước sinh hoạt. Diện

tích ngập úng khoảng 150 ha (vùng

Thành Triệu).

Nhìn chung nguồn nước mặt có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu cấp nước phục vụ cho

sản xuất và sinh hoạt của dân cư trên địa bàn huyện. Đây cũng là yếu tố tích cực bù vào hạn

chế về lượng mưa thấp và khu vực phía Đông còn bị

nhiễm mặn.

 Nước ngầm:

Huyện Châu Thành có 2 tầng nước ngầm:

- Nước ngầm tầng nông ở 2 vỉa 30 – 50 m và 60 – 90 m bị nhiễm phèn trung bình và

độ cứng cao, trữ ngọt ở tầng này tương đối phong phú.

- Nước ngầm tầng sâu ở 2 vỉa 290 – 350 m và 410 – 440 m, có lưu lượng khá phong

phú, chạy dọc theo quốc lộ 60 dài 1.850 m, nhiễm phèn nhẹ, độ cứng thấp và đảm bảo tiêu chuẩn vi sinh, có khả năng khai thác và xử lý 10.000 – 11.000 m3/ngày đáp ứng cho nhu cầu

hệ thống cấp nước của TP. Bến Tre và cho huyện Châu Thành trong tương lai.

Nhìn chung nước sông tự nhiên và nước ngầm đều thuận lợi cho sản xuất và sinh

hoạt của nhân dân trong huyện.

2.1.2.5. Khoáng sản

Châu Thành hầu như không có các loại khoáng sản có giá trị cao, nhất là trữ lượng

khoáng sản công nghiệp. Tuy nhiên cũng có một số loại có tính chất vật liệu như cát san lấp,

39

hiện đang được khai thác tại các xã Phú Túc, Phú Đức và xã Tân Phú. Ngoài ra còn có sét

gạch ngói tại xã Hữu Định, Tiên Thủy và đang được khai thác để sản xuất khoảng 3 triệu

viên gạch/năm.

2.1.2.6. Tài nguyên sinh vật

Về tài nguyên sinh vật, đáng chú ý nhất là tài nguyên thủy sinh vùng nước ngọt và

ngọt pha lợ trên các lưu vực sông Tiền, sông Hàm Luông và sông Ba Lai tương đối đa dạng.

Đây là điều kiện quan trọng để phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản ven sông (lồng bè) ở

huyện.

2.1.2.7. Tài nguyên du lịch

Do nằm nơi cửa ngỏ, giữa 2 con sông lớn là sông Tiền và sông Hàm Luông nên trên

địa bàn huyện Châu Thành có nhiều cảnh quan thiên nhiên đa dạng với những hàng dừa và

vườn cây trái xanh quanh năm. Có nhiều xã nằm ven bờ sông Tiền (Tân Phú, Phú Túc, Phú

Đức, An Khánh, Tân Thạch, Quới Sơn) ven sông Ba Lai (Phú An Hòa, An Phước, An Hóa),

ven sông Hàm Luông (Tân Phú) và các cồn nổi giữa sông Tiền (Cồn Phụng, Cồn Qui, Cồn

Tiên) được các sông, rạch nhỏ kết nối và thông với nhau tạo nên cảnh quan rất nên thơ, hữu

tình. Đây là tiềm năng và lợi thế lớn để phát triển du lịch sinh thái sông nước - miệt vườn.

Ngoài tiềm năng du lịch sinh thái, Châu Thành còn là một vùng đất giàu truyền thống

văn hóa, cách mạng. Các giá trị truyền thống được lưu lại thông qua các hệ thống di tích

lịch sử, văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật như: Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tân

Thạch (xã Tân Thạch); Khu lưu niệm liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần

Văn Ơn (xã Phước Thạnh); kiến trúc nghệ thuật của khu du lịch Cồn Phụng, còn gọi là khu

Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam (xã Tân Thạch). Bên cạnh các loại hình kiến trúc trên, còn có

hệ thống kiến trúc của các cơ sở tín ngưỡng, thờ tự của các tôn giáo như: chùa cổ Hội Tôn

(xã Quới Sơn), kiến trúc tòa thánh cao đài Tiên Thiên (xã Tiên Thủy). Ngoài ra còn có hệ

thống bia, tượng đài như: tượng đài Chiến thắng Lộ Thơ (xã Thành Triệu), bia Câm Thù (xã

Phú Túc), tượng đài Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Ơn (xã Phước Thạnh). Về di tích thắng cảnh

thì Châu Thành chưa có thắng cảnh nào nổi tiếng, song cũng có những địa danh, những

cảnh đẹp thiên nhiên là những di sản văn hóa miệt vườn trên cù lao của huyện được nhiều

du khách biết đến là hệ thống các cồn nổi trên sông như cảnh quan thiên nhiên Cồn Phụng,

cồn Qui, cồn Tiên trên sông Tiền.

Ngoài hệ thống di tích, Châu Thành còn có nền văn hóa phi vật thể khá đa dạng, đó

là các lễ hội, các trò chơi dân, văn hóa nghệ thuật cải lương, văn hóa ẩm thực,… Các lễ hội,

40

trò chơi dân gian thường gắn với các sự kiện lịch sử, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, diễn

ra tại các đình, khu di tích,… Bên cạnh đó loại hình văn hóa nghệ thuật đờn ca tài tử là nét

đặc trưng của vùng đất này trong phát triển du lịch. Ẩm thực rất phong phú, đa dạng với

nhiều món ăn được khai thác từ nguyên liệu địa phương, đặc biệt các món ăn từ sản phẩm

cây dừa.

Như vậy, hệ thống di tích khá phong phú, đa dạng về loại hình, chứa đựng nhiều giá

trị văn hóa vật thể, phi vật thể và cũng phản ánh truyền thống văn hóa phong tục tập quán,

tôn giáo tín ngưỡng và những nét đặc trưng của vùng đất Châu Thành. Đồng thời đây cũng

là tiềm năng và lợi thế lớn trong việc xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng

của địa phương.

Châu Thành hiện có 2 làng nghề đã được công nhận là làng nghề truyền thống, gồm:

làng dệt chiếu Thuận Điền (An Hiệp), làng nghề thủ công mỹ nghệ từ dừa Cồn Phụng (Tân

Thạch). Ngoài ra còn nhiều làng nghề và cơ sở TTCN sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản

phẩm từ dừa khác. Các làng nghề, cơ sở sản xuất không chỉ tạo thêm việc làm, tăng thu

nhập cho người dân địa phương mà còn góp phần bảo tồn truyền thống văn hóa xưa của

người dân Bến Tre và có giá trị phát triển du lịch.

Với tiềm năng và thế mạnh về tự nhiên cho phát triển du lịch kết hợp với giá trị văn

hóa truyền thống của địa phương, có thể thấy Châu Thành có triển vọng phát triển các loại

hình du lịch văn hóa, kết hợp du lịch cộng đồng, sinh thái, nghỉ dưỡng.

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động

 Dân cư:

Châu Thành là huyện có quy mô dân số lớn so với các huyện, thành phố khác trong

tỉnh Bến Tre. Năm 2011 dân số toàn huyện là 159.588 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh,

đứng thứ 3 trong tổng số 9 huyện, thành phố của tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, do huyện thực

hiện tốt các chính sách về dân số nên tỉ lệ gia tăng tự nhiên đang giảm dần từ 0,76% (2001)

xuống còn 0,62% (2011), thấp hơn mức trung bình của toàn tỉnh và của cả nước, dẫn đến

dân số có xu hướng giảm trong những năm gần đây.

Bảng 2.2. Dân số và tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 Dân số trung bình (người) 165.606 Tỉ lệ gia tăng tự nhiên (%) 0,76

41

166.687 167.904 169.387 170.622 171.458 172.528 175.203 176.134 176.960 159.588 0,70 0,79 0,61 0,66 0,70 0,65 0,76 0,56 0,43 0,62

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Châu Thành

Cùng với giảm gia tăng dân số tự nhiên, gia tăng dân số cơ học ở huyện cũng giảm

nhưng không giảm mạnh so với trước đây. Nguyên nhân do quá trình cơ giới hóa trong

nông nghiệp đã giải phóng một phần lực lượng lao động trong nông nghiệp. Bên cạnh đó

diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, hình thức canh tác và cây trồng ở địa phương

có nhu cầu sử dụng ít lao động nên làm tăng thời gian nhàn rỗi. Vì vậy mà hàng năm có

nhiều người dân đi sinh sống và làm ăn ở nơi khác (năm 2011 huyện có 1.861 người đi nơi

khác). Phần lớn dân số lên các thành phố lớn (Hồ Chí Minh, Cần Thơ) tìm việc làm, học

tập, lí do gia đình, kết hôn,… Ngoài ra, hàng năm huyện có khoảng 20 - 50 người đi lao

động ở nước ngoài. Tuy nhiên trong những năm gần đây, việc hình thành và phát triển các

khu công nghiệp đã góp phần thu hút lao động từ các địa phương khác đến (năm 2011

huyện có 2.294 người từ nơi khác đến) làm cho tỉ lệ gia tăng cơ học giảm chậm so với trước

đây.

Dân số thành thị có xu hướng tăng nhưng không nhiều do quá trình đô thị hóa diễn ra

còn chậm. Năm 2001, dân số thành thị thị chiếm 1,67% đến năm 2011 tỉ lệ này là 2,24%.

Đây là tỉ lệ thấp nhất trong các huyện của tỉnh Bến Tre.

Cơ cấu giới tỉnh của huyện, có tỉ lệ nam thấp hơn nữ tỉ lệ nữ. Năm 2011, tỉ lệ nam

chiếm 48,4% còn tỉ lệ nữ là 51,6%. Cơ cấu giới tính đang có những biến đổi tích cực với xu

hướng cân bằng tỉ lệ nam nữ trong cơ cấu dân số.

Bảng 2.3. Cơ cấu dân số phân theo giới tính và phân theo thành thị,

nông thôn huyện Châu Thành giai đoạn 2001 – 2011

Đơn vị tính: %

Năm Phân theo thành thị nông thôn Thành thị (%) Nông thôn (%)

2001 Tổng số (%) 100 Phân theo giới tính Nữ (%) 51,41 Nam (%) 48,59 1,67 98,33

42

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 48,60 48,58 48,83 51,11 48,93 48,92 48,85 48,85 48,85 48,40 51,40 51,42 51,17 48,89 51,07 51,08 51,15 51,15 51,15 51,60 98,31 98,27 98,26 98,23 98,21 98,17 98,15 98,09 97,84 97,76

1,69 1,73 1,74 1,77 1,79 1,83 1,85 1,91 2,16 2,24 Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Châu Thành

Năm 2011, mật độ dân số trung bình của huyện là 698 người/km2, đứng 3 trong tỉnh và cao hơn mật độ dân số trung bình của tỉnh 533 người/km2. Dân số phân bố phân không

đồng đều giữa các đơn vị hành chính trong huyện. Xã có mật độ dân số cao nhất là xã Tân Thạch với 1.270 người/km2 và xã có mật độ dân số thấp nhất là xã Phú Đức 504 người/km2.

Dân số huyện có cơ cấu trẻ, năm 2001 dân số trong độ tuổi từ 15 đến 29 tuổi chiếm

31,7%, đến năm 2011 chiếm 29,3%, đặc biệt là số trẻ em dưới 14 tuổi giảm rất nhanh từ

24,5% năm 2001 xuống 14,9% năm 2011. Trong khi đó dân số nữ từ 56 tuổi và nam từ 61

tuổi trở lên tăng từ 11,4% năm 2001 lên 14,1% năm 2011. Hiện tượng trên cho thấy dân số

huyện Châu Thành đang có xu hướng già đi.

Tuổi thọ trung bình của người dân Châu Thành đã tăng nhanh từ 62,4 tuổi năm 2001

lên 74,4 tuổi năm 2011.

 Nguồn lao động:

Tính đến cuối năm 2011, tổng số lao động trong độ tuổi của huyện là 108.790 người

chiếm 68,99% dân số. Trong đó lao động trong khu vực 1 chiếm 55,7%, khu vực 2 chiếm

20,4% và khu vực 3 chiếm 23,9%. Tỉ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn cao

nhưng trên thực tế có một bộ phận đi làm lao động giản đơn ở nơi khác. Nhờ vậy, tình trạng

thất nghiệp trên địa bàn huyện giảm đáng kể trong các năm qua, từ 5,45% năm 2001 xuống

còn 1,9% năm 2011.

Lao động của huyện có truyền thống cần cù, sáng tạo, có kinh nghiệm trong một số

ngành nghề truyền thống như: kinh tế vườn, TTCN từ sản phẩm dừa, nuôi trồng thủy sản

nước ngọt,… Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao nhưng so với yêu cầu hiện nay,

lực lượng lao động có trình độ kĩ thuật cao vẫn còn ít. Tỉ lệ lao động được đào tạo chiếm

39,02% (2011) tổng số lao động của huyện.Trong đó lao động dưới 3 tháng chiếm 5,47%,

43

lao động có bằng nghề dài hạn 6,25%, sơ cấp nghề 6,96%, trung cấp nghề 16,26%, trung

cấp chuyên nghiệp 22,99%, cao đẳng nghề 8,10%, cao đẳng chuyên nghiệp 20,82%, đại học

13,08%, thạc sĩ và tiến sĩ 0,07%. Phần lớn số lao động chưa qua đào tạo là lao động nông

nghiệp, năng suất lao động không cao. Do đó trong những năm gần đây, huyện luôn chú

trọng việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng lao động qua đào tạo. Trong giai

đoạn 2001 - 2011, trên toàn huyện đã mở được 5.821 lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho 24.065

lượt người, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 29,47%, giải quyết việc làm thêm cho

hơn 30.540 lao động, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 91,1%. Trình độ

lao động ngày càng được nâng cao để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của huyện.

2.1.3.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật

 Cơ sở hạ tầng:

- Giao thông:

Đến nay hệ thống giao thông huyện đã cơ bản hoàn thành, phân bố khá dày đặc và

nối liền huyện lỵ tới tất cả các xã. Chất lượng các công trình giao thông được nâng cao, góp

phần cải thiện bộ mặt giao thông nông thôn của huyện, đồng thời phục vụ tốt cho nhu cầu

sản xuất và đi lại của nhân dân, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển

kinh tế địa phương.

+ Hệ thống đường bộ:

Hệ thống giao thông đường bộ của huyện Châu Thành bao gồm: quốc lộ, đường

tỉnh, đường huyện, đường liên xã và thôn ấp. Toàn huyện có 658,87 km đường các loại, đạt mật độ khá cao - 2,89 km/km2. Phần lớn mặt đường đều hẹp nên không thuận lợi cho hoạt

động vận tải. Một số tuyến giao thông quan trọng là quốc lộ 60 (12,7 km), ĐT 883 và ĐT

884 (29,6 km) cùng 4 tuyến ĐH 187, ĐH 188, ĐH 173, ĐH 175 (dài tổng cộng 64,8 km).

Ngoài ra bến xe trung tâm đặt tại xã Tân Thạch. Giao thông công cộng với hệ thống

xe buýt đi qua huyện Châu Thành với các khu vực lân cận gồm các tuyến: bến phà Hàm

Luông – bến xe khách Tiền Giang, Bến xe Bến Tre – Bình Đại.

Toàn huyện có tổng cộng 455 chiếc cầu với tổng chiều dài 3.522 m (trong đó cầu

trên đường thôn ấp chiếm hơn 71,5% tổng số). Ngoại trừ các cầu trên quốc lộ 60 và 2 tuyến

đường tỉnh ĐT 883 và ĐT 884, còn lại các cầu đều có tải trọng thấp, chỉ đảm bảo nhu cầu đi

lại trước mắt của nhân dân, về lâu dài cần phải được cải tạo nâng cấp hoặc xây mới để đáp

ứng nhu cầu phát triển kinh tế của huyện.

44

Về chất lượng giao thông, hiện có trên 90% chiều dài đường được trải nhựa hoặc bê

tông, còn lại được trải sỏi đỏ hoặc đắp đất. Quốc lộ 60, hệ thống đường tỉnh và đường huyện

đã trải nhựa 100% đáp ứng tốt nhu cầu giao thông. Hệ thống đường nội thị tại thị trấn về cơ

bản đã hình thành chủ yếu dựa trên quốc lộ 60 đi ngang qua thị trấn và một số tuyến ngang

nối liền quốc lộ 60 cũ và mới.

Về phân bố các trục giao thông quan trọng:

Các trục Bắc – Nam: quốc lộ 60 được xem là trục trung tâm theo hướng Bắc - Nam

của huyện. Trục Phú Túc - Thành Triệu - An Hiệp mật độ giao thông vận tải chưa cao do

mặt đường hẹp và chưa thông tuyến hết với các tuyến đường trục Đông - Tây. Trục Giao

Hòa - An Hóa đã định tuyến và thông tuyến hoàn toàn với TP.

Bến Tre.

Các trục Đông – Tây: đáng lưu ý là 2 trục Đông - Tây quan trọng lại phân bố so le ở

hai cực của huyện và không xuyên suốt chiều ngang huyện. Đường tỉnh ĐT 883 chủ yếu

phát triển giao thông về phía Đông, trục nối tiếp tại Ngã Tư Huyện về phía Tây (ĐH 175)

thông tuyến về phía Tân Phú. Trục giao thông quan trọng về phía Tây là ĐT 884 lại phân bố

ở phía Nam huyện, trong khi đó trục trung tâm (ĐH 173) hiện giao thông đã phát triển

mạnh.

Nhìn chung, hệ thống giao thông đường bộ của huyện khá đa dạng về loại hình, phân

bổ tương đối rộng khắp cả huyện. Quốc lộ 60 chạy qua trung tâm của huyện và 2 tuyến

đường ĐT 883, ĐT 884 được nối từ quốc lộ 60 và phân theo hai hướng Đông – Tây liên kết

với các đường nhánh, tạo nên mạng lưới giao thông kết nối từ bên ngoài vào huyện và giữa

huyện với các xã trong huyện khá dễ dàng. Trong những năm qua bằng nhiều nguồn vốn,

huyện đã tập trung nâng cấp sửa chữa nên hệ thống giao thông đường bộ đã đảm bảo được

phần nào nhiệm vụ vận chuyển, đi lại và phát triển kinh tế của huyện. Tuy nhiên, mạng lưới

giao thông huyện còn nhiều hạn chế như: mặt đường hẹp, trọng tải cầu đường còn thấp, đầu

tư nâng cấp xây dựng chưa đồng bộ,… do đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vận tải và

phát triển đồng bộ kinh tế giữa các vùng trong huyện.

- Giao thông đường thủy:

Giao thông đường thủy ở huyện Châu Thành rất phát triển do có mạng lưới sông

ngòi, kênh rạch dày đặc. Người dân thường sử dụng phương tiện vận tải thủy nhỏ để vận

chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống. Ngoài ra, hàng hóa từ huyện

45

được vận chuyển sang các huyện, thành phố trong tỉnh hoặc đi tỉnh, thành phố khác trong

vùng và ngược lại bằng phương tiện vận tải thủy rất thuận tiện.

Mạng lưới giao thông đường thủy của huyện có tổng chiều dài 181,12 km, bao gồm:

2 tuyến do Trung ương quản lý (dài 50,22 km); 2 tuyến do tỉnh quản lý (dài 34,95 km) và

khoảng 96 km do huyện quản lý. Trong đó:

+ Sông Tiền dài 37,12 km, sông Hàm Luông dài 12,60 km do Trung ương quản lý

với khả năng lưu thông tàu 3.000 tấn.

+ Kênh Giao Hòa - Chẹt Sậy dài 5,13 km do địa phương quản lý với khả năng lưu

thông tàu 600 tấn.

+ Sông Ba Lai dài 29,05 km, rạch Vàm Hồ dài 5,7 km và một số kênh rạch khác với

khả năng lưu thông tàu dưới 100 tấn.

Trên địa bàn huyện cũng đã hình thành các bến đò khách tại Tân Thạch, Tiên Thủy,

Tân Phú, An Hóa, Quới Thành, Phú Đức, Phú Túc, Quới Sơn, Giao Long. Ngoài ra, dọc

sông Tiền và sông Hàm Luông còn có nhiều điểm đổ ghe tàu du lịch, đồng thời cảng Giao

Long đã được hoàn thành. Tuy nhiên, ở huyện vẫn chưa có bến hàng hóa chuyên dụng.

Nhìn chung so với các huyện khác, giao thông thủy huyện Châu Thành có tiềm năng

rất lớn và khá phát triển cả về vận tải hàng hóa lẫn hành khách, đặc biệt các tuyến giao

thông trên sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Ba Lai, kênh Giao Hòa - Chẹt Sậy và hệ thống

các kênh rạch cấp 2. Tuy nhiên, các tuyến giao thông thủy của huyện chỉ được khai thác sử

dụng dưới dạng tự nhiên, chưa được quy hoạch, khai thông luồng lạch nhằm khai thác một

cách tốt nhất khả năng của giao thông vận tải thủy. Ngoài ra, còn xem nhẹ việc lĩnh vực

quản lý luồng lạch trong phạm vi làng xã, chưa có quy định về phạm vi chủ quản khai thác,

trách nhiệm quyền lợi khi sử dụng sông ngòi kênh rạch cho mục đích KT - XH nói chung,

đặc biệt cho vận tải vùng nông thôn. Chủ phương tiện tự chọn luồng chạy tàu, nơi neo đậu

tàu ghe, nơi lên xuống hang hóa và hành khách. Tất cả các hoạt động này mang tính tự phát,

thiếu sự quản lý tập trung.

- Mạng lưới điện:

Châu Thành nằm trong vùng thuận lợi về cung cấp điện từ lưới điện quốc gia, với hệ

thống truyền tải và phân phối được quy hoạch và đầu tư đồng bộ, đảm bảo cung cấp thuận

lợi và đủ cho nhu cầu phát triển của các cơ sở, điểm, khu cụm công nghiệp. Đến nay, toàn

bộ 22 xã và 1 thị trấn đều có mạng lưới điện trung thế. Số hộ sử dụng điện chiếm 99,71%.

46

Huyện được cấp điện từ hệ thống nguồn và lưới điện quốc gia qua đường dây 110/22

KV Mỹ Tho 2 - Bến Tre - Châu Thành và trạm biến điện Bến Tre 110/22 KV Châu Thành

trên quốc lộ 60, gần ranh giới giữa TP. Bến Tre và huyện

Châu Thành.

Trạm biến áp 110 KV Châu Thành hiện nay cung cấp điện khá thuận lợi cho huyện

Châu Thành. Về đường dây trung thế, toàn huyện có 159,9 km với cấp điện áp 15 KV và 22

KV và toàn bộ là đường dây nổi. Huyện đang quản lý 293 trạm biến áp phân phối với tổng

dung lượng 16.813 KVA.

Đường dây hạ thế có tổng chiều dài 529,6 km, chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt trong

phạm vi nội thị và ở các khu, cụm và cơ sở sản xuất công nghiệp, TTCN. Trong những năm

qua hệ thống lưới điện hạ thế đã được chú trọng đầu tư, cải tạo, nâng cấp góp phần giảm tổn

thất điện năng, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Tuy nhiên,

hiện nay tình trạng kĩ thuật của các đường dây hạ thế vẫn rất kém nên trong những năm tới

cần được nâng cấp và hiện đại hóa hơn nữa để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh

tế của địa phương.

- Thông tin liên lạc:

Hệ thống bưu chính viễn thông của Châu Thành đã được trang bị hiện đại và chất

lượng đồng bộ, đảm bảo liên lạc được với tất cả các tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế.

Nhìn chung, mạng lưới bưu chính hiện nay phát triển rộng khắp trong toàn huyện đã đáp

ứng được các dịch vụ bưu chính cơ bản.

Về bưu chính - phát hành báo chí, đến cuối năm 2011 trên địa bàn huyện có 1 bưu

cục cấp 1 tại thị trấn Châu Thành, 6 bưu cục cấp 2 tại các xã: An Hòa, Tân Thạch, Phú Túc,

An Hiệp, Tiên Thủy, Tân Phú và 17 bưu điện văn hóa xã cùng một số đại lý bưu điện, các

điểm kinh doanh điện thoại công cộng và kinh doanh internet. Các dịch vụ bưu chính và

phát hành báo chí rất đa dạng, đáp ứng được hầu hết yêu cầu của khách hàng như bưu phẩm,

bưu kiện, phát hành báo chí các loại, chuyển phát nhanh, chuyển tiền, tiết kiệm bưu điện,…

Về viễn thông, phát triển nhanh với các công nghệ hiện đại đáp ứng việc thông tin

liên lạc được đảm bảo thông suốt kịp thời chính xác, chất lượng cao và góp phần tích cực

trong điều hành sản xuất, kinh doanh cũng như nhu cầu trao đổi thông tin của người dân.

Trong huyện có đầy đủ các mạng điện thoại trong nước. Đến cuối năm 2011, toàn huyện có

11 trạm thu phát sóng, đảm bảo thông tin thông suốt trên địa bàn. Tổng số máy hiện có là

72.406 máy, mật độ sử dụng điện thoại đạt 46,09 máy/100 dân, có 3.257 thuê bao internet

47

và 6 đại lý internet. Truyền hình cáp cũng được các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ triển

khai đầu tư lắp đặt thiết bị.

Nhìn chung mạng lưới bưu chính viễn thông, thông tin trong huyện đã đáp ứng được

yêu cầu thông tin phục vụ sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của người dân. Mạng thông tin

phục vụ công tác quản lý ngày càng hiện đại đã đáp ứng được đầy đủ và kịp thời công tác

thông tin phục vụ yêu cầu chỉ đạo, điều hành quản lý của các cấp lãnh đạo.

 Cơ sở vật chất kĩ thuật:

- Hệ thống thủy lợi:

Một số công trình thủy lợi trên địa bàn huyện đã được đầu tư để giải quyết tưới tiêu

cho các tiểu vùng, từng bước mở rộng và cải tạo hệ thống nội đồng, bước đầu đã hình thành

hệ thống ngăn mặn trữ ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích thâm canh

tăng vụ, cải tạo vườn tạp, tăng năng suất cây trồng, cung cấp nước sinh hoạt nông thôn, kết

hợp giao thông nông thôn, cải tạo cảnh quan và làm sạch môi trường. Do đặc điểm là huyện

vùng thấp, sông rạch nhiều, do vậy hệ thống công trình thủy lợi, đặc biệt là công trình cống,

đê bao đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn.

Hệ thống công trình thủy lợi cơ bản đã xây dựng hoàn chỉnh, khép kín bao gồm:

+ Cống ngăn ngập mặn theo kênh An Hóa kết hợp hệ thống trữ ngọt và nội đồng

phục vụ cho 700 ha đất nông nghiệp.

+ Cống ngăn mặn và điều tiết nước cặp theo ĐT 883, kết hợp nạo vét hệ thống thủy

lợi nội đồng Quới Sơn phục vụ cho 400 ha đất nông nghiệp.

+ Hệ thống thủy lợi nội đồng Thành Triệu kết hợp nạo vét 6 kênh cặp ĐT 884 phục

vụ cho 450 ha đất lúa và cây ăn trái.

+ Đê bao cồn Bổn Thôn (Phú Túc), cồn Lát, cồn Dơi Lớn, cồn Dơi Nhỏ (Phú Đức),

cồn Tiên Lợi (Tiên Long) và cồn Khánh Hội (Tiên Thủy).

Nhìn chung, các công trình thủy lợi được xây dựng đã phát huy hiệu quả, đảm bảo

100% diện tích cây trồng có nước tưới đẩy đủ và không bị ảnh hưởng bởi nhiễm mặn, góp

phần nâng cao năng suất lúa, ổn định lương thực. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng ảnh

hưởng của biến đổi khí hậu (triều cường cao, mặn xâm nhập sâu) trong tương lai cần phải

cần phải cải tạo, nâng cấp và xây dựng thêm các công trình thủy lợi.

2.1.3.3. Vốn đầu tư

Tổng số vốn đầu tư trên địa bàn huyện có tốc độ tăng cao về quy mô, từ 104 tỷ đồng

năm 2001 lên 1108 tỉ đồng năm 2011, đạt tốc độ tăng bình quân 38,7%/năm và đang có xu

48

hướng tăng nhanh do quá trình hình thành cơ sở hạ tầng của khu công nghiệp Giao Long

(giai đoạn 2), khu công nghiệp An Hiệp và các công trình đón đầu phát triển kinh tế khu vực

cầu Rạch Miễu.

Nguồn vốn của huyện chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng

nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực hạ

tầng công nghiệp, chú trọng đầu tư hạ tầng giao thông, điện, nước, cảng

phục vụ cho sản xuất ở các khu, cụm công nghiệp. Việc tập trung đầu tư có trọng điểm, theo

chiều sâu đã từng bước phát huy được thế mạnh phát triển kinh tế

của huyện.

Biểu đồ 2.1. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành)

2.1.3.4. Thị trường

Trong những năm Đổi mới, thị trường trong nước về các loại sản phẩm hàng hóa nói

chung ngày càng sôi động, khối lượng hàng hóa tiêu thụ ngày càng lớn và đòi hỏi về chất

lượng ngày càng cao. Đối với huyện Châu Thành, điều đó không phải là ngoại lệ. Các loại

sản phẩm hàng hóa của địa phương ngoài việc chủ yếu được tiêu thụ ngay trên địa bàn, còn

tiêu thụ ở các huyện khác (TP. Bến Tre, Giồng Trôm, Bình Đại) trong tỉnh Bến Tre, và

nhiều địa phương khác trên cả nước (Tiền Giang, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,

Đồng Nai).

Hiện nay một số sản phẩm nông nghiệp (các mặt hàng sản xuất từ dừa và phụ phẩm

của trái dừa, trái cây các loại, thủy sản chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ, chiếu cói…) đang

tích cực xâm nhập và tìm kiếm thị trường quốc tế thông qua tìm hiểu các thông tin, công tác

tiếp thị, xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ, triễn lãm, trưng bày và giới thiệu sản

phẩm,... Ứng dụng tiến bộ kĩ thuật làm tăng năng suất chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh

49

tranh của sản phẩm trên thị trường. Thị trường xuất khẩu truyền thống của huyện là: khối

liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan.

2.1.3.5. Đường lối, chính sách

Đường lối, chính sách có vai trò định hướng và tạo điểm tựa cho sự phát triển kinh tế

của huyện. Trong những năm gần đây tỉnh Bến Tre, huyện Châu Thành

50

51

đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp

– TTCN trên địa bàn, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư vào các

khu công nghiệp, cụm TTCN, làng nghề. Trong đó, chính sách miễn – giảm tiền sử dụng

đất, trả chậm nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất, được miễn giảm tiền thuê đất, áp dụng

cơ chế một cửa, được vay ưu đãi,… đã có những tác động tích cực đối với tình hình đầu tư

trên địa bàn huyện Châu Thành. Ngoài ra huyện cũng có chủ trương và các giải pháp cụ thể

về khuyến khích sản xuất, áp dụng cơ chế cạnh tranh thị trường lành mạnh, nhất là trong

lĩnh vực kinh doanh nông sản.

Về phát triển hạ tầng kinh tế, huyện Châu Thành áp dụng các chính sách của Chính

Phủ và tỉnh Bến Tre trong việc thúc đẩy phát triển các ngành mũi nhọn là TTCN, thương

mại, du lịch sinh thái, đặc biệt là phát triển giao thông nông thôn, cung cấp điện, nước, xử lý

rác. Ngoài ra còn thực hiện các chính sách tạo việc làm cho người lao động, hỗ trợ đào tạo

nghề, hỗ trợ các doanh nghiệp về chính sách cho người lao động (hợp đồng, an toàn, vệ

sinh).

Việc áp dụng các chính sách đã tạo nên bước phát triển mới trong lĩnh vực sản xuất,

phát triển các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa đạt tiêu chuẩn, phát triển các ngành công

nghiệp - tiểu thủ công truyền thống, thương mại và du lịch sinh thái. Tuy nhiên, các cụm

công nghiệp – TTCN, làng nghề, hoạt động mang tính chất làng nghề (đan lát, chỉ - thảm sơ

dừa, đồ mỹ nghệ từ thân và gáo dừa…) chưa tập trung cao. Vì vậy, các chính sách có tác

động rất ít đến hoạt động sản xuất. Ngoài ra việc triển khai các chính sách còn chậm, chưa

đồng đều giữa nông thôn và đô thị, chưa thu hút được nhiều đầu tư ngoài huyện và tỉnh.

2.1.4. Đánh giá chung về các nguồn lực phát triển kinh tế

2.1.4.1. Thuận lợi

Châu Thành có vị trí địa lí là đầu mối giao thông quan trọng đối với các huyện trong

tỉnh Bến Tre và giữa Bến Tre với các tỉnh lân cận.

Huyện có quốc lộ 60 cùng với hệ thống đường tỉnh, huyện và các tuyến liên xã, tạo

thuận lợi cho giao lưu hàng hóa trên địa bàn và với bên ngoài, đồng thời phát huy thế mạnh

về giao thông đường thủy với các tỉnh trong vùng ĐBSCL và vai trò là cửa ngõ để đến TP.

Mỹ Tho (Tiền Giang). Ngoài ra, do huyện nằm trên trục hành lang kinh tế ven biển ĐBSCL

(theo quốc lộ 60) nên rất thuận lợi cho phát triển kinh tế địa phương.

Do tiếp giáp với 2 sông lớn và có hệ thống sông ngòi phân bố rộng khắp nên nguồn

nước ngọt ở Châu Thành rất dồi dào. Hệ thống đê bao cục bộ ở các cồn và khu vực ven sông

52

được đầu tư xây dựng khá bài bản đã tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với các loại

cây trồng đặc sản có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là ở khu vực phía Tây quốc lộ 60.

Địa hình bằng phẳng và cao hơn so với các địa phương khác trong tỉnh là điều kiện

thuận lợi cho hình thành và phát triển các vùng sản xuất chuyên canh cũng như xây dựng

các khu, cụm công nghiệp và khu thương mại, dịch vụ du lịch lớn trên địa bàn huyện.

Khí hậu mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa với hai mùa mưa và khô rõ rệt, biên độ

nhiệt giữa các tháng trong năm không lớn,…. thuận lợi cho giới sinh vật sinh trưởng và phát

triển quanh năm. Do đó, huyện Châu Thành có điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp

với cơ cấu cây trồng, vật nuôi vùng nhiệt đới

đa dạng.

Mạng lưới sông ngòi kết hợp với cảnh quan thiên nhiên đẹp, nhiều di tích văn hóa

lịch sử, làng nghề, hệ thống cồn Phụng, cồn Qui,… thuận lợi cho phát triển du lịch văn hóa,

du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và du lịch về nguồn.

Quỹ đất nông nghiệp khá dồi dào, có khả năng bố trí mặt bằng sản xuất để hình thành

các vùng chuyên canh trái cây lớn, kết nối với các vùng chuyên canh ở huyện Chợ Lách, áp

dụng thành tựu công nghệ mới trong nông nghiệp, thủy sản, phát triển nền nông nghiệp

hàng hóa theo hướng kinh tế vườn tạo ra sản phẩm nông nghiệp với số lượng lớn, tập trung

và chất lượng cao có khả năng thâm nhập thị trường các thành phố lớn. Các cồn bãi và hệ

canh tác ven sông Tiền, sông Hàm Luông có khả năng kết hợp phát triển du lịch.

Cơ cấu dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, sáng tạo,… cũng là

động lực quan trọng để phát triển kinh tế địa phương.

Với những nguồn lực trên, huyện Châu Thành đang được đầu tư để trở thành trung

tâm công nghiệp của tỉnh. Các chủ trương, chính sách và thể chế, đang tiếp tục được hoàn

thiện sẽ tạo môi trường thuận lợi cho thu hút đầu tư và lao động có trình độ cao để phát triển

kinh tế địa phương.

2.1.4.2. Khó khăn

Địa hình bị chia cắt dày bởi hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt gây khó khăn

cho phát triển hệ thống giao thông nông thôn, dẫn đến sự phân hóa trong phát triển kinh tế

giữa các vùng trong huyện.

Toàn bộ quỹ đất hầu như đã được sử dụng nên diện tích đất có khả năng khai thác để

phát triển, xây dựng đô thị cũng như mở rộng phát triển các ngành kinh tế bị hạn chế. Đất

nông nghiệp đứng trước tình trạng bị suy thoái nghiêm trọng do hệ thống đê bao và canh tác

53

nhiều vụ.

Khí hậu nóng ẩm tạo điều kiện thuận lợi cho sâu, bệnh hại cây trồng, vật nuôi sinh

trưởng nhanh và phát triển tạo thành dịch lớn. Hiện nay, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu

dẫn đến nhiều thiên tai, thời thiết bất thường, mưa, bão, lũ với cường độ gia tăng, vào mùa

khô xâm nhập mặn ngày càng sâu gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nhất là diện

tích cây ăn trái.

Hệ thống đê ven sông và hệ thống công trình thủy lợi ngọt hóa chưa hoàn chỉnh nên

sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn phải chịu ảnh hưởng của nước mặn xâm nhập trong

mùa nắng làm giảm sút năng suất cây trồng.

Trình độ khoa học công nghệ cũng như trang thiết bị, kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và trình

độ chuyên môn còn hạn chế so với mặt bằng chung của vùng ĐBSCL và cả nước. Tỉ lệ lao

động đã qua đào tạo thấp, gây khó khăn cho việc tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới vào

sản xuất, làm hạn chế tốc độ phát triển kinh tế của địa phương.

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre giai đoạn

2001 - 2011

2.2.1. Khái quát chung

Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh

tế của huyện đã có những chuyển biến tích cực, giá trị sản xuất của các ngành đều tăng, cơ

cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống đại bộ

phận dân cư từng bước được cải thiện.

- Quy mô GTSX, tốc độ tăng trưởng kinh tế và vị trí của huyện Châu Thành trong

tỉnh Bến Tre:

Trong giai đoạn 2001 - 2011, GTSX trên địa bàn (theo giá thực tế) liên tục tăng, từ

1.384 tỉ đồng năm 2001 lên 4.792 tỷ đồng năm 2011 (tăng gấp 3,4 lần), đạt tốc độ tăng

trưởng 13,2%/năm. Năm 2011, huyện đóng góp 21,2% trong cơ cấu giá trị sản xuất của toàn

tỉnh (bảng 2.5).

Bảng 2.4. GTSX và GTSX/người của huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 – 2011

Năm GTSX GTSX so với tỉnh GTSX/người

(tỷ đồng) Bến Tre (%) (triệu đồng/người)

2001 1.384 8,3 13,6

54

2002 1.545 9,2 14,2

2003 1.698 10,1 15,3

2004 1.868 11,0 16,7

2005 2.058 12,0 17,8

2006 2.272 13,2 18,1

2007 2.511 14,5 16,3

2008 2.780 15,8 16,9

2009 3.198 18,1 17,5

2010 3.780 21,3 18,6

2011 4.729 29,6 21,2

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Các chỉ số trên cho thấy nền kinh tế huyện Châu Thành phát triển khá nhanh và liên

tục qua các năm. GTSX bình quân đầu người tăng nhanh, từ 8,3 triệu đồng năm 2001 lên

29,6 triệu đồng năm 2011 (tăng gấp 3,5 lần). Tốc độ tăng nhanh hơn trong các năm 2008-

2011 và cao hơn mức trung bình của toàn tỉnh.

- Cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành:

Bảng 2.5. GTSX và cơ cấu GTSX huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

2001 2006 2011 Hạng mục Tỷ đồng Tỉ lệ % Tỷ đồng Tỉ lệ % Tỷ đồng Tỉ lệ %

Tổng số 1.384 100 2.272 100 4.729 100

Nông – lâm – thủy sản 699 50,5 917 40,4 1.209 25,6

Công nghiệp - xây dựng 344 24,9 713 31,4 2.193 46,4

Dịch vụ 341 24,6 642 28,2 1.327 28,0

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Cơ cấu kinh tế của huyện trong giai đoạn 2001 – 2011 có sự chuyển dịch tích cực

theo hướng tăng tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng

ngành nông nghiệp và mức độ chuyển dịch diễn ra rất nhanh (bảng 2.6).

55

100%

24,6

26,4

26,8

27,0

27,4

27,9

28,0

28,2

28,5

28,6

28,9

80%

24,9

25,8

60%

27,1

28,5

29,9

31,4

32,8

34,3

37,7

43,0

46,4

40%

50,5

47,8

45,9

44,1

42,2

20%

40,4

38,6

36,8

33,8

30,2

25,6

0%

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Nông - lâm - ngư nghiệp Công nghiệp - xây dựng Dịch vụ

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu GTSX huyện Châu Thành giai đoạn 2001- 2011

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

- Năng suất lao động:

Năng suất lao động trong nền kinh tế của huyện tăng nhanh qua các năm. Năm 2011

bình quân một lao động làm ra 43,4 triệu đồng. Ngành công nghiệp - xây dựng có mức năng

suất cao nhất với 98,8 triệu đồng, gấp 2,2 lần mức trung bình của nền kinh tế , gấp 4,9 lần

năng suất chung trong ngành nông nghiệp (19,9 triệu đồng) và gấp 1,9 lần của ngành dịch

vụ (51,0 triệu đồng).

- Cơ cấu lao động:

Năm 2011 tổng số lao động ở độ tuổi của huyện là 108.790 người, chiếm 68,99% dân

số. Trong đó lao động nông - lâm - ngư nghiệp là 60.618 người chiếm 55,7%, lao động

trong ngành công nghiệp - xây dựng là 22.178 người, chiếm 20,4% và lao động trong ngành

dịch vụ là 25.994 người, chiếm 23,9%. (bảng 2.7)

Những năm gần đây cơ cấu lao động của huyện có sự biến đổi theo hướng tích cực,

thể hiện sự chuyển dịch lao động trong cơ cấu kinh tế, tăng chuyển đổi sản xuất thuần nông

trong nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp. Tuy nhiên quá trình này diễn ra còn

chậm. Lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động dẫn đến tình

trạng lãng phí lao động do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ.

Bảng 2.6. Cơ cấu lao động huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

2001 2006 2011 Hạng mục Người Tỉ lệ Người Tỉ lệ Người Tỉ lệ

56

(%) (%) (%)

Tổng số lao động 98.584 100 102.841 100 108.790 100

- Nông - lâm - thủy sản 67.872 68,8 60.779 59,1 60.618 55,7

- Công nghiệp - xây dựng 12.224 12,4 18.922 18,4 22.178 20,4

- Dịch vụ 18.488 18,8 23.140 22,5 25.994 23,9

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

2.2.2. Phát triển kinh tế theo ngành

2.2.2.1. Ngành nông - lâm - thủy sản:

 Khái quát chung:

Trong giai đoạn 2001 - 2011, ngành nông - lâm - thủy sản chuyển dịch theo hướng

giảm tỷ trọng trong GTSX của toàn nền kinh tế huyện, từ 50,5% năm 2001 xuống còn

40,4% năm 2006 và 25,6% năm 2011. Sự thay đổi trên phù hợp với xu thế chung về chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ CNH - HĐH. Tuy nhiên, tỉ trọng của ngành nông

- lâm - thủy sản vẫn còn cao so với mặt bằng chung của vùng ĐBSCL và cả nước.

GTSX toàn ngành (theo giá thực tế) giai đoạn 2001 - 2011 liên tục tăng. Trong cơ

cấu GTSX có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành thủy sản, giảm tỉ trọng ngành

nông nghiệp. Ngành lâm nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ít biến động. (bảng 2.8)

Năm 2011, GTSX ngành nông - lâm - thủy sản của huyện Châu Thành chỉ chiếm

8,1% của ngành nông - lâm - thủy sản tỉnh Bến Tre nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng trong

sự phát triển nông nghiệp của tỉnh. Trong đó, mô hình phát triển nông nghiệp kinh tế vườn

của huyện, kết hợp chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy sản đang được mở rộng trong tỉnh

do phù hợp điều kiện sinh thái và mang lại giá trị kinh tế cao.

Bảng 2.7. GTSX, cơ cấu GTSX ngành nông - lâm - thủy sản huyện Châu Thành giai

đoạn 2001 - 2011

Hạng mục

2001

2003

2005

2007 Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tổng số 699,0 100 779,0 100 868,0 100 968,0 100 Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản 1,3 0,2 1,5 0,2 2,6 0,3 1,4 0,1 685,9 98,1 754,4 96,8 773,2 89,1 847,5 87,6 11,9 1,7 23,1 3,0 92,2 10,6 119,1 12,3

57

2009

2011 Tỷ đồng % Tỷ đồng % 1.081,0 100 1.209,0 100 890,1 82,3 904,0 74,8 0,6 0,06 0,5 0,04

190,3 17,64 304,5 25,16 Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Cơ cấu GTSX ngành nông - lâm - thủy sản có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỉ

trọng ngành nông nghiệp giảm nhưng còn cao (74,8% ) và vẫn đang giữ vai trò chủ đạo

trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của huyện. Ngành thủy sản tỷ trọng tăng dần và có

vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Tỷ trọng ngành lâm nghiệp rất thấp (0,04%)

và đang có xu hướng giảm. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông - lâm -

thủy sản là phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế chung của tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, quá

trình diễn ra còn chậm nên đang là lực cản lớn đối với mô hình tăng trưởng kinh tế nhanh và

đẩy mạnh CNH ở huyện Châu Thành hiện nay.

Về hình thức tổ chức sản xuất thì kinh tế hộ gia đình đang trở thành lực lượng sản

xuất chủ yếu ở huyện. Địa phương rất khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ nông dân

vay vốn đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất, hỗ trợ công tác khuyến nông và chuyển giao kĩ

thuật giúp phát triển sản xuất. Năm 2011, tổng số hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn toàn

huyện là 28.309 hộ chiếm 67,5% trong tổng số hộ ở nông thôn. Về cơ cấu hộ nông - lâm -

thủy sản cũng chuyển dịch theo xu hướng giảm hộ nông nghiệp và tăng nhanh hộ thủy sản.

Quy mô sản xuất kinh tế hộ ngày càng mở rộng về diện tích, số lượng lao động và giá trị sản

lượng hàng hóa. Hiện nay, kinh tế hộ phát triển đã dần làm hình thành loại hình kinh tế

trang trại với quy mô, trình độ khác nhau, tính tập trung và chuyên môn hóa khá cao, kết

hợp với kinh doanh tổng hợp, tính chất sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa ngày

càng rõ nét, có sử dụng lao động làm thuê và thu nhập cao hơn nhiều so với kinh tế hộ gia

đình. Các trang trại được hình thành là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sản xuất, chăn nuôi

hàng hoá, qua đó giúp các địa phương quy hoạch, hình thành vùng chuyên canh cây trồng,

vật nuôi. Theo thống kê năm 2001, huyện có 169 trang trại đến năm 2010 là 408 trang trại

nhưng đến năm 2011, theo tiêu chí trong Thông tư số 27/2011/TT - BNNPTNT ngày

13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn thì toàn huyện chỉ có 2 trang trại đạt

tiêu chuẩn.

Bên cạnh đó, mô hình hợp tác xã kiểu mới cũng giữ vai trò nòng cốt và hiện nay phát

triển với nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là trong nông

nghiệp, nông thôn. Hợp tác xã đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người dân, hộ sản xuất

58

kinh doanh, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Theo số

liệu thống kê năm 2011, toàn huyện có 5 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 3,8% tổng số hợp

tác xã của tỉnh Bến Tre.

 Các ngành nông - lâm - thủy sản:

- Nông nghiệp:

Ngành nông nghiệp huyện Châu Thành đang chịu tác động rõ nét của nền kinh tế thị

trường và quá trình CNH, với biểu hiện chính là sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Sự thay đổi này là tiền đề tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành nông

nghiệp. Trong giai đoạn 2001 - 2011, tỉ trọng ngành trồng trọt giảm từ 88,6% (2001) xuống

còn 74,6% (2011) và vẫn chiếm tỉ trọng rất cao so với ngành chăn nuôi và dịch vụ nông

nghiệp. Ngành chăn nuôi có tỉ trọng thấp nhưng có xu hướng tăng nhanh từ 7,8% (2001) lên

18,2% (2011), còn dịch vụ nông nghiệp chiếm tỉ trọng rất thấp (7,2%). Sự chuyển dịch này

là phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền nông nghiệp hàng hóa với giá trị kinh tế

cao. Tuy nhiên, sự chuyển dịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của huyện.

Biểu đồ 2.3. Cơ cấu GTSX nông nghiệp huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành)

Trong giai đoạn 2001 - 2011, tốc độ tăng trưởng GTSX nông nghiệp còn chậm, bình

quân khoảng 6,5%/năm. Trong đó, tốc độ tăng trưởng ngành trồng trọt 7,4%/năm, ngành

chăn nuôi 10,7%/năm và ngành dịch vụ nông nghiệp13,2%/năm.

+ Ngành trồng trọt:

Ngành trồng trọt giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và nền

kinh tế của huyện Châu Thành nói chung. Tỉ trọng ngành trồng trọt tuy đang giảm nhưng

vẫn chiếm tới 74,6% (2011) trong cơ cấu GTSX nông nghiệp. Năm 2011, tổng diện tích

59

canh tác của huyện là 19.645 ha, trong đó cây lâu năm là 14.984 ha, chiếm 76,3% tổng diện

tích trồng trọt.

 Cây lương thực có hạt:

Trước đây, cây lương thực có hạt được trồng với diện tích khá lớn nhưng gần

đây do điều kiện tự nhiên và KT – XH của huyện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế vườn.

Việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất này làm cho diện tích cây lương thực không ngừng

giảm và đang có nhiều thay đổi theo hướng đa dạng hơn, nâng cao năng suất cây trồng, tăng

sức chống chịu và thích nghi với sự thay đổi của điều kiện sinh thái ở địa phương. Hiện nay,

nhóm cây lương thực có hạt chỉ chiếm tỉ trọng thấp về diện tích và GTSX của toàn ngành

trồng trọt (năm 2011 chiếm 21,7% diện tích và 21,6% GTSX). So với năm 2001, diện tích

gieo trồng cây lương thực có hạt năm 2011 đã giảm 2.740 ha. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh đầu

tư phát triển hệ thống kênh mương, cống đập ngăn mặn để chủ động trong tưới tiêu, thay đổi

cơ cấu mùa vụ hợp lý, sử dụng thiết bị máy móc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong sản

xuất và sử dụng các giống mới năng suất cao, kháng sâu, dịch bệnh,… vào sản xuất nên sản

lượng lương thực có hạt năm 2011 vẫn đạt 20.799 tấn, giảm 10.957 tấn so với năm 2001.

Sản lượng lương thực có hạt giảm trong khi số dân tăng nên bình quân đầu người

cũng giảm, từ 191 kg/người năm 2001 xuống còn 132,2 kg/người năm 2011, thấp hơn mức

bình quân của tỉnh (291 kg/người). Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản vẫn đáp ứng được nhu

cầu lương thực của người dân địa phương và góp phần đảm bảo an ninh lương thực của tỉnh

Bến Tre. Trên cơ sở đó đã tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu cây trồng và khai thác thế

mạnh của huyện về cây công nghiệp, cây ăn trái, phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ.

Cây lúa:

Do chuyển đổi sang mô hình kinh tế vườn nên cây lúa chiếm vị trí khiêm tốn trong

ngành trồng trọt của huyện, với 11% quỹ đất canh tác, nhưng trong cơ cấu diện tích và sản

lượng cây lương thực có hạt thì cây lúa vẫn giữ vai trò quan trọng. Năm 2011 diện tích cây

lúa chiếm 95,1% và sản lượng lúa chiếm 96,4% so với diện tích và sản lượng cây lương

thực. Diện tích gieo trồng lúa đã giảm, từ 6.988 ha năm 2001 xuống còn 4.058 ha năm

2011.

Diện tích canh tác lúa chủ yếu tại khu vực xa sông phía Đông, phần lớn trên nền đất

phèn, địa hình thấp, bị xâm nhập mặn và điều kiện tiêu nước còn khó khăn

chưa thích nghi với kinh tế vườn.

Hiện nay lúa được trồng tập trung ở các xã: An Phước, Quới Sơn, Hữu Định,

An Hiệp, Tường Đa và Sơn Hòa. Trong đó xã Hữu Định có diện tích và sản lượng lúa cao

nhất, chiếm 10,6% diện tích và 11,8% sản lượng. Những xã có năng suất lúa cao như Quới

Sơn, Hữu Định, Sơn Hòa đạt khoảng 60 tạ/ha. Cơ cấu diện tích trồng lúa giữa các vụ mùa

60

không có sự chênh lệch lớn. Hầu hết diện tích đất canh tác lúa đều được khai thác 3 vụ mùa,

trong đó diện tích trồng lúa vụ Đông - Xuân và vụ Mùa có xu hướng tăng nhẹ, nhưng không

đáng kể.

Bảng 2.8.Diện tích, sản lượng, năng suất lúa huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Cả năm (ha) 6.988 6.234 5.552 5.010 4.510 4.058

Vụ Đông - Xuân 33,6 33,9 34,4 34,2 34,3 33,5 Diện Cơ

tích cấu Vụ Hè – Thu 33,2 31,2 33,2 30,7 31,1 30,8

(%) Vụ Mùa 32,9 34,4 33,2 35,1 34,6 35,7

Cả năm (tấn) 31.537 28.235 26.890 22.253 22.012 20.051

Vụ Đông - Xuân 34,7 38,3 39,3 46,6 41,4 39,3 Sản Cơ

lượng cấu Vụ Hè – Thu 32,2 30,1 25,5 28,9 26,2 26,7

(%) Vụ Mùa 33,1 31,6 35,2 28,5 32,4 34,0

Cả năm (tạ/ha) 45,13 45,29 48,44 44,42 48,80 49,41

Vụ Đông - Xuân 46,61 51,08 55,26 55,46 58.87 58,01 Năng Trong suất Vụ Hè – Thu 43,70 41,04 39,53 41,69 41.06 42,91 đó Vụ Mùa 45,03 43,60 49,68 36,06 45,77 46,95

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Sản lượng lúa của huyện Châu Thành ngày càng giảm, năm 2001 là 31.537 tấn nhưng đến

năm 2011 chỉ còn 20.051 tấn, giảm 11.486 tấn. Nguyên nhân do diện tích trồng lúa giảm.

Năng suất lúa ngày càng cao, năm 2001 đạt 45,13 tạ/ha đến năm 2011 tăng lên 49,41 tạ/ha,

trong đó vụ Đông - Xuân có năng suất cao nhất 58,01 tạ/ha, vụ Mùa 46,95 tạ/ha và thấp nhất

là vụ Hè - Thu 42,91 tạ/ha (2011).

Về cơ cấu giống, có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích gieo trồng các

giống lúa mới, giống lúa lai có năng suất cao, phẩm chất gạo tốt, thời gian sinh trưởng ngắn

và có khả năng chống chịu với sâu bệnh tốt để đưa vào trồng trên địa bàn huyện. Năm 2011,

diện tích trồng các loại giống lúa mới và giống lúa lai vụ Đông - Xuân là 1.094 ha , vụ Hè -

Thu 952,5 ha và vụ Mùa 1.154 ha. Các giống lúa được sử dụng phổ biến hiện nay là OM

6162, OM 4900, OM 6932, OM 8108, MTL 547, OM 5464, OM 5472, AS 996 (đối với

vùng sản xuất 3 vụ lúa) và OMCS 8108, OM 8232, OM 8923, MTL 547, OM 9921 (đối với

61

vùng sản xuất khó khăn), OM 1348, OM 2496, OM 1352 (vùng lúa 2 vụ hoặc bị ngập trong

vụ Đông - Xuân).

Hiện nay, các khâu làm đất, tưới tiêu và suốt hạt đã sử dụng máy móc hầu như 100%;

khâu chăm sóc cũng dần áp dụng các hình thức tiến bộ. Ngoài ra, hiện nay huyện cũng đang

bước đầu thử nghiệm xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi

cho việc sử dụng giống lúa đồng nhất cũng như quá trình cơ giới hóa trong sản xuất.

Cây ngô:

Trước đây, cây ngô giữ vai trò quan trọng đảm bảo nhu cầu lương thực cho người

dân, thì hiện nay chủ yếu được chế biến thành thức ăn gia súc. Diện tích trồng ngô chỉ đứng

sau diện tích lúa và được trồng trên các vùng ven sông, vùng đất cát, trồng xen canh trên đất

lúa và trở thành cây trồng chính sau cây lúa. Diện tích trồng ngô năm 2011 là 210 ha, tăng

190,1 ha so với năm 2001 (19,9 ha). Sản lượng ngô đạt 748 tấn, tăng 529,1 tấn so với năm

2001 (218,9 tấn). Hiện nay, các giống ngô lai cho năng suất cao đang được đưa vào trồng ở

nhiều xã, năng suất bình quân tăng từ 31,5 tạ/ha (2001) lên 35,62 tạ/ha (2011). Cây ngô

được tập trung trồng ở các xã: Giao Hòa, An Hóa,…

Bảng 2.9. Diện tích, sản lượng và năng suất ngô huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Diện tích (ha) 19,9 9,8 15,0 66,0 89,0 210,0

Sản lượng (tấn) 62,7 31,5 49,0 209,0 292,0 748,0

Năng suất (tạ/ha) 31,50 32,14 32,67 31,67 32,81 35,62

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

 Các loại cây chất bột:

Các loại cây chất bột (khoai lang, khoai mỳ, khoai mỡ) chủ yếu được trồng xen canh

với cây ngô và trong các vườn cây. Tuy năng suất cao - 98,7 tạ/ha (2011) nhưng được xếp

vào nhóm cây lương thực phụ và chủ yếu làm thức ăn cho gia súc. Hiện nay, an ninh lương

thực đã được đảm bảo nên diện tích các loại cây này ngày càng giảm, đến năm 2011 chỉ còn

khoảng 23 ha với sản lượng 227 tấn. Trong những năm gần đây, diện tích các cây chất bột

đang được thay thế bằng các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao hơn (rau đậu).

 Cây rau đậu các loại:

62

Cây rau đậu các loại của huyện tương đối đa dạng và phát triển nhanh cả về diện tích

và sản lượng. Hiện nay, phân bố chủ yếu tại khu vực thổ canh và luân canh với lúa và chiếm

9,2% trong tổng GTSX ngành trồng trọt. Sản xuất mang tính chất hàng hóa rõ rệt và ngày

càng chú trọng vào nhu cầu của thị trường. Năm 2011, tổng diện tích gieo trồng cây rau đậu

các loại là 390,0 ha (tăng 217,68 ha so với năm 2001) sản lượng đạt 4.737 tấn (tăng 2.292

tấn so với năm 2001). Trong đó, rau các loại chiếm tới 99,1% về diện tích và 99,2% về sản

lượng. Hiện nay các loại cây rau đậu được trồng nhiều ở các xã: An Phước, Quới Sơn, Hữu

Định, An Hiệp, Tường Đa và Sơn Hòa.

Bảng 2.10. Diện tích, sản lượng và năng suất cây rau đậu các loại

giai đoạn 2001 - 2011

Hạng mục 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Tổng DT gieo trồng (ha) 172 189 197 457 421 390

Tổng sản lượng (tấn) 2.445 3.026 2.848 5.251 6.141 4.737

Diện tích (ha) 160 175 179 443 412 386 Rau

các Sản lượng (tấn) 2.336 2.870 2.724 5.193 6.018 4.698

loại Năng suất (tạ/ha) 164 152,18 117,22 146,07 121,71 146

Diện tích (ha) 14 18 14 9 4 12 Đậu

các Sản lượng 156 124 58 123 39 109

loại Năng suất 90,83 111,43 68,89 41,43 136,67 97,5

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

 Cây công nghiệp hàng năm:

Cây công nghiệp hàng năm chủ yếu được trồng ở huyện là cây mía. Trước đây mía

được xem như cây trồng trung gian trong quá trình chuyển đổi từ đất ruộng lên đất liếp.

Hiện nay, phần lớn diện tích đất ruộng đã chuyển sang đất vườn và sự biến động về giá cả

mà cây mía có sự thay đổi theo hướng giảm nhanh về diện tích. Năm 2011, diện tích chỉ còn

4,0 ha, giảm 87,0 ha so với năm 2001 (91,0 ha). Các giống mía cũ có năng suất thấp được

thay thế bằng các giống mía mới cho năng suất cao như: K88-92, K93-219, K88-200, K95-

84, Suphanburi 7, LK92-11, KU00-1-58,… Cây mía được trồng tập trung ở các xã: An

Hiệp, Tường Đa, Quới Sơn, Tân Phú,… Hiện nay, sự thay đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng

ngành trồng trọt thì cây mía sẽ tiếp tục giảm diện tích.

Bảng 2.11. Diện tích, sản lượng và năng suất cây mía huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 – 2011

63

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Diện tích (ha) 91,0 13,4 14,9 14,1 13,0 4,0

Sản lượng (tấn) 6767,4 839,8 830,0 782,6 836,0 200,0

Năng suất (tạ/ha) 743,6 626,7 557,0 555,0 643,1 500,0

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Ngoài ra, huyện Châu Thành còn trồng lạc nhưng với diện tích rất nhỏ - 1,0 ha

(2009), chủ yếu trồng ở các giồng cát.

 Cây công nghiệp lâu năm:

Châu Thành là huyện có thế mạnh về phát triển cây công nghiệp lâu năm. Phần lớn

diện tích đất canh tác được sử dụng trồng các loại cây này. Cây công nghiệp lâu năm chiếm

vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành trồng trọt, với diện tích 14.984 ha, chiếm 76,3% diện

tích và chiếm 68,7% GTSX ngành trồng trọt. Hiện nay, các cây công nghiệp lâu năm chủ

yếu được trồng là dừa, cây ăn trái,… phát triển gắn với mô hình kinh tế vườn.

Cây dừa:

Cây dừa giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp của

huyện và chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế vườn (65,0%), bao gồm dừa trồng

chuyên canh tại xã Tiên Thủy, các xã phía Đông Nam của huyện và dừa trồng xen canh với

vai trò là loại cây trồng tán trên trong hệ thống canh tác tổng hợp kinh tế vườn.

Bảng 2.12. Diện tích cây công nghiệp lâu năm huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Đơn vị: ha

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Tổng diện tích hiện có 13.833 14.148 14.173 14.613 14.785 14.984

Tổng diện tích trồng mới 2.333 843 792 590 584 290

Tổng diện tích cho sản phẩm 11.092 11.850 11.880 12.127 12.359 12.330

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Trong giai đoạn 2001 – 2011, diện tích vườn dừa tăng liên tục do việc chuyển đổi đất

ruộng trồng cây lương thực, hoa màu sang đất vườn trồng dừa. Năm 2011 diện tích dừa toàn

huyện là 6.352 ha, trong đó diện tích cho trái là 5.050 ha, đạt sản lượng đạt 49.220 tấn và

năng suất khá cao - 97,47 tạ/ha.

64

Bảng 2.13. Diện tích, sản lượng và năng suất dừa huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 – 2011

Năm Đơn vị 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Diện tích hiện có 4.764 4.608 4.960 5.155 5.453 6.352 Ha

Diện tích trồng mới 462 24 176 104 174 200 Ha

Diện tích cho sản phẩm 4.198 4.162 4.678 4.756 4.870 5.050 Ha

Sản lượng thu hoạch Tấn 29.256 28.654 35.279 38.913 49.429 49.220

Năng suất Tạ/ha 69,69 68,85 75,41 81,82 101,50 97,47

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Trong những năm gần đây (2005 - 2011) diện tích dừa có xu hướng tăng mạnh trở lại

do sản phẩm dừa đang có nhu cầu cao trên thị trường, cây dừa thích nghi với tình hình xâm

nhập lợ nhẹ, ít hao tốn công lao động và vật tư chăm sóc. Ngoài ra, các loại hình trồng xen

canh dừa đang có nhiều triển vọng phát triển, đặc biệt là cây ca cao (hiện đang có 2.264 ha

dưới tán dừa), cây có múi, măng cụt,…

Cây ăn trái:

Huyện Châu Thành có nhiều tiềm năng về tự nhiên để phát triển các loại cây ăn trái

với các loại chính như: cam, quýt, chuối, xoài, nhãn, chôm chôm, bưởi, sầu riêng, măng

cụt,… Cây ăn trái được xem là một trong các loại cây canh tác chủ lực trên địa bàn, phân bố

chủ yếu thành các khu vực tập trung.

Khu vực ven sông Tiền và sông Hàm Luông từ xã Phú Đức đến xã Tân Phú, Tiên

Thủy. Ở đây hình thành các vườn cây đặc sản hỗn hợp với nhiều loại cây trái khác nhau,

được trồng chủ yếu trên nền đất liếp phù sa bồi và nước ngọt. Các loại cây ăn trái chủ yếu là

nhãn, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt và các loại cây có múi.

Khu vực ven sông Tiền từ xã Phú Túc đến xã Giao Hòa chủ yếu là nhãn được trồng

trên diện tích rộng lớn và các loại cây có múi được trồng dưới hình thức xen canh dưới tán

cây dừa.

Khu vực xa sông nằm sâu ở phía trong thì chủ yếu là nhãn và các loại cây có múi

hoặc vườn tạp với nhiều loại cây trái khác nhau dưới tán cây dừa.

65

Bảng 2.14. Diện tích, năng suất và sản lượng cây ăn trái

huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

Năm Đơn vị 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Tổng diện tích 9.069 9.539 9.210 9.458 9.181 8.956 Ha

Diện tích trồng 1.871 819 616 486 404 90 Ha

mới

Diện tích cho Ha 6.894 7.688 7.202 7.371 7.345 7.360

sản phẩm

Sản lượng thu tấn 89.002 94.347 106.857 102.598 94.275 89.028

hoạch

Năng suất tạ/ha 129,1 122,7 148,3 139,1 128,4 121,0

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Ở huyện Châu Thành đã hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái theo từng vùng

lãnh thổ nhất định nhưng thiếu sự ổn định về diện tích và năng suất. Năm 2011, tổng diện

tích cây ăn trái là 8.956 ha, giảm 113 ha so với năm 2001 (9.069 ha), chiếm 45,6% diện tích

ngành trồng trọt. Cây ăn trái là cây trồng thế mạnh của huyện và có đầu ra tương đối ổn

định, đem lại nguồn thu nhập chính của phần lớn người dân trong huyện. Trong đó, cam

quýt, bưởi và nhãn là 3 loại cây ăn trái có diện tích và sản lượng đứng đầu so với các huyện

khác trong tỉnh. Do sự quan tâm đầu tư của huyện và tỉnh, cùng sự đầu tư chăm sóc của

người dân nên năng suất và chất lượng ngày càng tăng, đáp ứng nhu cầu cao của thị trường

trong và ngoài nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây sự thay đổi thời tiết bất thường và

nhiều loại sâu bệnh mới xuất hiện làm cho diện tích và năng suất có giảm so với các năm

trước.

Trong giai đoạn 2001 - 2011, cây ăn trái ở huyện Châu Thành có đặc điểm là cơ cấu

diện tích các loại cây trồng có sự biến động rất lớn theo điều kiện thị trường và tình hình

dịch bệnh.

Diện tích và sản lượng cam, quýt cam, quýt tăng nhanh liên tục. Năm 2001 có diện

tích 211 ha, sản lượng 1.692 tấn đến năm 2011 tăng lên đến 1.023 ha, sản lượng đạt 7.912

tấn. Hiện nay, cây cam, quýt đứng đầu trong các huyện về diện tích và sản lượng cam, quýt

và chiếm 32,6% diện tích, 34,5% sản lượng cam, quýt cua tỉnh. Các loại cây này chủ yếu

được trồng xen với cây dừa nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cam, quýt được trồng nhiều

nhất là ở các xã Tiên Long, Tam Phước, Tường Đa, Phú Đức, Thành Triệu.

66

Huyện Châu Thành có diện tích và sản lượng bưởi cao nhất so với các huyện khác

(chiếm 29,2% diện tích và 28,3% sản lượng bưởi của tỉnh). Hiện nay, cây bưởi đang phát

triển nhanh cả về quy mô và diện tích. Việc áp dụng các tiêu chuẩn an toàn (VietGAP_thực

hành sản xuất nông nghiệp tốt) vào trong sản xuất bưởi, góp phần đẩy mạnh sản lượng bưởi

xuất khẩu sang các nước trên thế giới. Năm 2001 có diện tích là 15 ha, đạt sản lượng 64 tấn

nhưng đến năm 2011 là 1.208 ha, sản lượng 10.205 tấn. Các xã trồng bưởi nhiều Tân Phú,

Tiên Thuỷ, Tiên Long, Phú Đức, Phú Túc, Quới Sơn, Thành Triệu và một phần xã Tam

Phước và xã Hữu Định.

Cây nhãn là cây ăn trái có diện tích và sản lượng giảm liên tục, năm 2001 diện tích

5.012 ha, sản lượng 50.778 tấn đến năm 2011 chỉ còn 2.284 ha, 19.737 tấn. Nguyên nhân do

yếu tố tố thị trường, giá cả trái nhãn thấp không mang lại hiệu quả kinh tế nên chuyển đổi

sang các loại cây ăn trái khác. Tuy nhiên, diện tích và sản lượng nhãn của huyện vẫn lớn

nhất so với các huyện khác (chiếm 42,6% diện tích, 39,1% sản lượng nhãn của tỉnh). Hiện

nay chủ yếu trồng ở các xã Quới Sơn, Phước Thạnh, Tân Thạch, Phú Đức.

Chôm chôm cũng là loại cây ăn trái thế mạnh của huyện với diện tích, sản lượng

đứng thứ hai sau huyện Chợ Lách và chiếm 37,6% diện tích, 37,9% sản lượng chôm chôm

của tỉnh. Diện tích giảm nhưng không đáng kể và tương đối ổn định, năm 2001 có 2.161 ha,

đạt sản lượng 21.567 tấn đến năm 2011 còn 1.885 ha, sản lượng 31.937. Trong những năm

gần đây, do diện tích chuyển đổi giống chôm chôm cũ sang giống mới với quy mô lớn và

mang lại hiệu quả kinh tế cao nên diện tích cây này giảm chậm. Các xã trồng nhiều chôm

chôm là Tiên Long, Tiên Thủy, Tân Phú.

Sầu riêng có diện tích, sản lượng đứng thứ 2 sau huyện Chợ Lách và chiếm 39,5%

diện tích, 40,0% sản lượng của tỉnh. Diện tích tăng rất nhanh từ 247 ha (2001) lên 730 ha

(2011) và sản lượng đạt 7.684 tấn (2011). Sầu riêng được trồng chủ yếu ở các xã phía Tây

của huyện (Tân Phú, Tiên Thủy, Tiên Long), khu vực ít chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn.

Măng cụt là một trong bốn cây trồng chủ lực (bưởi da xanh, sầu riêng, cam xoàn)

được chọn trong phát triển thế mạnh cây ăn trái ở tỉnh Bến Tre. Măng cụt được trồng xen

chủ yếu trong vườn dừa và vườn cây ăn trái khác. Hiện nay, diện tích và sản lượng có xu

hướng phát triển nhanh và đứng thứ hai trong tỉnh, diện tích tăng từ 113 ha (2001) lên ha

(2011), sản lượng tăng từ 99 tấn (2001) lên 2.517 tấn (2011). Năm 2011 cây măng cụt

chiếm 24,9% diện tích, 19,2% sản lượng của tỉnh. Cây măng cụt trồng chủ yếu ở các xã Phú

Đức, Thành Triệu, Tiên Thủy.

67

Ca cao là cây trồng tiềm năng và phát triển nhanh trong những năm gần đây ở huyện

với hình thức chủ yếu trồng xen trong vườn dừa, vừa tận dụng được diện tích đất trống và

nâng cao giá trị thu nhập trên vườn dừa. Diện tích tăng nhanh từ 25 ha (2001) tăng 2.600 ha

(2011). Sản lượng đạt 14.256 tấn (2011). Hiện nay, cây cao cao trồng nhiều nhất ở các xã

Phú An Hòa, An Khánh, Quới Sơn, Phú Túc, Tường Đa.

Sự biến động lớn về cơ cấu cây trồng đã tác động làm gia tăng hao phí thay mới loại

cây trồng và kiết thiết cơ bản vườn cây, đồng thời gây khó cho việc tạo được sự ổn định về

số lượng và chất lượng sản phẩm trái cây hàng hóa ở huyện Châu Thành.

Hiện nay, một số sản phẩm như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, bưởi đã hình thành

được danh tiếng và thương hiệu trên thị trường và được tiêu thụ ngày càng nhiều. Ngoài ra,

trên địa bàn ven sông từ xã Tiên Thủy đến xã Tân Phú, xã Quới Sơn đã hình thành và phát

triển ngày càng mạnh loại hình kết hợp kinh tế vườn và khai thác du lịch xanh, du lịch sinh

thái, các khu nghỉ dưỡng giải trí…và đang trở thành một trong những thế mạnh đặc trưng

của kinh tế vườn của huyện.

Nhìn chung ngành trồng trọt giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu sử dụng đất (chiếm tỷ

trọng 72% diện tích đất tự nhiên, 99,9% diện tích nhóm đất nông nghiệp), trong đó cây lâu

năm chiếm ưu thế gần như tuyệt đối, hình thành vùng kinh tế vườn hàng đầu của tỉnh Bến

Tre. Tuy hầu hết diện tích canh tác đã được sử dụng nhưng nhờ vào quá trình chuyển dịch

cơ cấu và tăng năng suất cây trồng, ngành trồng trọt vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng khá

cao. Ngoài ra việc hình thành các trang trại, hợp tác xã cũng góp phần quan trọng trong việc

thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, kết nối thị

trường tiêu thụ, giải quyết đầu ra cho sản phẩm, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, ứng

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm ngành

trồng trọt. Số lượng các trang trại trồng trọt đều tăng, trong đó tăng nhanh nhất là trang trại

trồng cây lâu năm. Trong tổng số trang trại năm 2010 thì có 3 trang trại trồng cây hàng năm,

247 trang trại trồng cây lâu năm, 7 trang trại sản xuất giống, hoa kiểng. Năm 2011 do áp

dụng tiêu chí mới về trang trại, huyện chỉ có 1 trang trại trồng cây lâu năm là đạt tiêu chuẩn.

+ Ngành chăn nuôi:

Sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế làm cho quỹ đất sản xuất nông nghiệp bị thu

hẹp, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ thực phẩm gia tăng. Mức thu thập bình quân đầu người

ngày càng tăng là cơ sở quan trọng làm tăng nhu cầu về các sản phẩm chăn nuôi. Việc phát

triển ngành chăn nuôi sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và góp phần tăng thu

68

nhập cho người chăn nuôi. Bên cạnh đó, sản xuất lương thực đạt sản lượng cao, nhất là

lương thực dành cho chăn nuôi đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển công nghiệp chế biến

thức ăn gia súc, gia cầm và đưa chăn nuôi trở thành ngành phát triển nhanh và ổn định. Tuy

nhiên trong những năm gần đây ngành chăn nuôi gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của

dịch bệnh làm cho số lượng một số vật nuôi giảm và ảnh hưởng đến thu nhập của người

chăn nuôi. Mặc dù vậy, ngành chăn nuôi cũng đạt được những kết quả đáng kể, trong giai

đoạn 2001 - 2006 tuy đạt được tốc độ tăng trưởng rất nhanh (10,7%/năm) nhưng trong giai

đoạn 2007 - 2011 tốc độ tăng trưởng có khuynh hướng chậm lại (4,1%/năm). Ngành chăn

nuôi vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp (18,2%), là biểu hiện đặc

trưng của vùng kinh tế vườn và chưa tương xứng với mục tiêu hiện đại hóa sản xuất nông

nghiệp. GTSX ngành chăn nuôi năm 2011 đạt 185,1 tỉ đồng, tăng 3,6 lần so với năm 2001

(50,8 tỉ đồng).

Bảng. 2.15. Tình hình phát triển chăn nuôi huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Hạng mục Đơn vị 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Số lượng con 16.051 19.708 24.508 24.659 23.023 23.144 Đàn

heo Sản lượng tấn 1.416,4 2.489 5.034,9 5.303,1 5.010 4.623

Số lượng 517 641 310 409 488 556 con Đàn

gia Sản lượng 392 751 540,8 603,2 697 976 tấn

cầm Số lượng trứng ng. quả 6.110 8.847 4.135 3.489 5.757 9.056

Số lượng 945 2.166 4.844 6.154 5.766 3.232 con Đàn

bò 15,8 16 154,5 257,1 333 557 Sản lượng tấn

35 10 12 5 9 6 Số lượng con Đàn

trâu 8 9,3 1,2 3,3 1,6 0,7 Sản lượng tấn

1.110 4.072 8.810 8.360 5.599 4.418 Số lượng con Đàn

dê 23,1 82,5 147 167,4 178 152 Sản lượng tấn

1.269 3.748 4.650 4.982 6.854 7.430 Số lượng tổ Đàn

ong 18,3 20,6 56,2 28 64,1 78,4 Sản lượng tấn

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Các tiến bộ khoa học kĩ thuật và hình thức tổ chức chăn nuôi mới được áp dụng rộng

rãi nhằm nâng cao chất lượng giống gia súc, gia cầm. Hiện nay, các giống gia súc, gia cầm

69

có chất lượng cao được đưa vào chăn nuôi như bò lai Sind, bò Bradman, gà Đông Tảo, gà

nòi lai, lợn siêu nạc, vịt Bắc Kinh,… Ngành chăn nuôi phát triển gắn liền với sự chuyển đổi

mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại. Hiện nay huyện đã hình thành nhiều

khu vực chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp và công nghiệp với khối lượng sản

phẩm hàng hóa lớn. Việc phát triển các hình thức chăn nuôi tập trung ngoài việc tạo ra khối

lượng sản phẩm hàng hóa lớn, năng suất, hiệu quả chăn nuôi cao, kiểm soát dịch bệnh mà

còn tận dụng, khai thác tiềm năng quỹ đất nhất là ở vườn dừa, vườn trái cây. Ngoài ra còn

tạo việc làm, tăng thu nhập và phát triển kinh tế địa phương.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành đang chuyển dịch theo hướng phát

triển những lĩnh vực nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, phù hợp với lợi thế của địa phương.

Trên cơ sở đó, ngành chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô lớn và

khai thác tối đa lợi thế kinh tế vườn. Các sản phẩm chính theo thứ tự là heo, gia cầm và đại

gia súc.

 Đàn heo:

Hiện nay, heo là nguồn thịt chủ yếu phục vụ cho người dân. Vì vậy chăn nuôi heo đã

trở thành nghề truyền thống của bộ phận người dân và cũng là ngành chăn nuôi chính của

huyện. Đàn heo có sự tăng trưởng rất mạnh trong giai đoạn 2001- 2005 (13,8%/năm) do thị

trường tiêu thụ thuận lợi. Giai đoạn 2006 - 2011 có khuynh hướng tăng chậm lại

(3,2%/năm) do dịch bệnh và giá cả không ổn định . Tổng đàn lợn năm 2011 là 23.114 con,

tăng gấp 1,4 lần so với năm 2001, sản lượng thịt heo hơi xuất chuồng là 4.623 tấn, tăng 3,2

lần so với năm 2001.

Chất lượng con giống và điều kiện chăn nuôi đã được cải thiện rõ rệt, nhiều loại

giống heo mới (heo nái ngoại, heo hướng nạc) có chất lượng thịt tốt, thời gian tăng trọng

nhanh (3 - 3,5 tháng/tạ) đang được đưa vào nuôi rộng rãi. Thức ăn chính là thức ăn công

nghiệp và hình thức chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng tập trung với quy mô lớn

(50 - 300 con) còn hạn chế. Hình thức chăn nuôi ở hộ gia đình, mang tính tự phát với số

lượng nhỏ (5 - 20 con) là chủ yếu, gây khó khăn cho phòng chống dịch bệnh và ô nhiễm

môi trường sông rạch, khu dân cư. Tuy nhiên, những năm gần đây việc tuyên truyền và áp

dụng mô hình xây dựng biogas trong chăn nuôi heo cũng hạn chế dịch bệnh và ô nhiễm môi

trường. Chất lượng đàn lợn đã được chuyển đổi nhưng vẫn ở mức thấp. Những xã có số

lượng đàn lợn lớn là: Tiên Thủy, Tân Phú, Tiên Long, Tường Đa, An Hóa, Hữu Định,…

70

 Đàn gia cầm:

Chăn nuôi gia cầm là nghề sản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng

thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong ngành chăn nuôi của huyện. Đây là vật nuôi có khả năng

sinh sản nhanh nhất, vòng đời ngắn, vốn đầu tư ít và quy mô chăn nuôi linh hoạt. Vì vậy

trong những năm gần đây với lợi thế về vườn cây, gia cầm là đối tượng vật nuôi phù hợp.

Trên địa bàn huyện, chăn nuôi gia cầm quy mô hộ dưới hình thức nhỏ lẻ, thả rông trong

vườn với số lượng từ 20 - 50 con vẫn tiếp tục được duy trì phát triển và đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, xuất hiện một số hộ chăn nuôi tập trung quy mô lớn với hình thức bán công

nghiệp với số lượng từ 200 - 500 con, vừa thả trong vườn, vừa nhốt và sử dụng thức ăn công

nghiệp. Các giống gia cầm nuôi chủ yếu vẫn là các giống địa phương (89%) năng suất thấp,

các giống cao sản nhập nội năng suất cao vẫn còn ít (11%). Xu hướng phát triển trong thời

gian tới là tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng sản xuất hàng hóa,

đưa nhiều giống mới có chất lượng tốt.

Trong giai đoạn 2001 - 2011, đàn gia cầm tăng trưởng nhanh liên tục trong các năm

2001 - 2003, sau đó giảm nhanh do tác động của tình hình dịch cúm gia cầm và mấy năm

gần đây mới phục hồi trở lại. Năm 2001 tổng đàn gia cầm của huyện đạt 517.000 con (đàn

gà 406.000 con, chiếm 78,5% tổng số đàn gia cầm) đến năm 2011 tăng lên 556.000 con

(đàn gà 507.000 con, chiếm 91,2% tổng đàn gia cầm). Về cơ cấu đàn gia cầm, đàn gà phát

triển mạnh, chiếm tỉ trọng cao và có xu hướng tăng trong cơ cấu đàn gia cầm của huyện do

đặc thù kinh tế vườn. Sản lượng thịt gia cầm hơi giết bán tăng từ 392 tấn (2001) tăng lên

976 tấn (2011), sản lượng trứng tăng từ 6,1 triệu quả (2001) tăng lên 7,5 triệu quả (2011).

Chăn nuôi gia cầm phân bố ở hầu hết các xã trong huyện và tập trung nhiều nhất ở các xã có

thế mạnh về kinh tế vườn.

 Đàn bò:

Bò là vật nuôi dễ chăm sóc, ít bị dịch bệnh và thức ăn chủ yếu cho đàn bò ở huyện là

cỏ, rơm (phụ phẩm của cây lúa). Số lượng đàn bò tăng khá nhanh trong giai đoạn 2001 -

2007 do diện diện tích trồng cây lương thực và đồng cỏ lớn nhưng sau đó số lượng đàn bò

có xu hướng giảm (phát triển mô hình kinh tế vườn và quá trình xen canh cây trồng khác

trong vườn cây) do nguồn thức ăn tự nhiên giảm. Năm 2001 số lượng đàn bò của huyện là

945 con, đến năm 2007 tăng lên 6.154 con (tăng 6,5 lần) nhưng đến năm 2011 chỉ còn 3.232

con và chiếm 2,0% đàn bò của tỉnh. Quy mô chăn nuôi giảm nhưng chất lượng đàn bò

không ngừng nâng cao, số lượng đàn bò phục vụ cày kéo và bò sữa giảm và chuyển sang bò

71

thịt và huyện thực hiện tốt chương trình Sind hóa đàn bò làm cho số lượng đàn bò lai Sind

liên tục tăng từ 82 con (2003) tăng lên 4.083 con (2011), chiếm 66,3% tổng đàn bò của

huyện. Người nuôi chú ý nhiều hơn đến việc áp dụng những tiến bộ kĩ thuật vào chăn nuôi,

đặc biệt hệ thống chuồng trại, phòng ngừa dịch bệnh và nguồn thức ăn phong phú hơn như

thức ăn công nghiệp và trồng các loại cỏ có dinh dưỡng cao làm thức ăn. Trong những năm

gần đây, ngoài chăn nuôi bò truyền thống, Huyện đang mở rộng phát triển mô hình nuôi vỗ

béo bò thịt. Đây là mô hình mới, đòi hỏi kĩ thuật và công chăm sóc nhiều (chọn con giống,

vệ sinh chuồng trại, thức ăn vỗ béo) nhưng hiệu quả kinh tế rất cao (mỗi ngày bò tăng từ

500 - 700g). Ngày nay, chăn nuôi bò kết hợp với kinh tế vườn đang mang nhiều lợi ích và

hiệu quả cho người dân địa phương. Bò nuôi tập trung nhiều nhất ở các xã An Phước, Quới

Sơn, Hữu Định, An Hiệp, Tường Đa,...

 Đàn trâu:

Trong giai đoạn 2001 - 2011 đàn trâu của huyện giảm khá nhanh, nguyên nhân do

nhu cầu sức kéo giảm, điều kiện sinh sống ngày càng thu hẹp, khả năng sinh sản kém và

hiệu quả kinh tế thấp. Năm 2001 số lượng trâu là 35 con đến năm 2011 chỉ còn 6 con, chiếm

tỷ trọng rất thấp trong tổng số đàn trâu của tỉnh (0,3%). Hiện nay trâu được nuôi chủ yếu

theo hướng trâu thịt và chỉ còn nuôi ở các xã Hữu Định và Quới Sơn. Sản lượng thịt trâu rất

thấp 0,7 tấn.

- Đàn dê:

Dê là con vật dễ nuôi, tốn ít công chăm sóc, lại thu hồi vốn nhanh. Nuôi dê sẽ góp

phần tạo việc làm và tăng tỉ lệ công việc cho lao động nông thôn. Với điều kiện tự nhiên ở

huyện Châu Thành việc kết hợp phát triển kinh tế vườn và nuôi dê sẽ tạo sự đa dạng hóa

trong sản xuất nông nghiệp và mang lại hiệu quả kinh tế cao do nguồn thức ăn của dê chủ

yếu là các loại cây bụi, cỏ trồng, cỏ mọc tự nhiên và các loại lá cây ở trong vườn. Chăn nuôi

dê góp phần tăng nguồn thu nhập, nâng cao đời sống và phát triển kinh tế địa phương. Số

lượng đàn dê có sự biến động trong thời gian qua, số lượng đàn dê tăng nhanh trong giai

đoạn 2001 - 2006 và giảm nhẹ trong giai đoạn 2007 - 2011. Nguyên nhân do hiện nay

nguồn thức ăn tự nhiên giảm và sự tác động của thị trường (giá cả). Tổng đàn dê của huyện

năm 2011 là 4.418 con, chiếm 12,7% tổng đàn dê của tỉnh. Dê được nuôi tập trung chủ yếu

ở các xã Hữu Định, Phú Đức, Quới Thành. Cơ cấu đàn dê chủ yếu là dê nuôi lấy thịt, dê lấy

sữa không đáng kể. Hình thức nuôi mang tính chất nhỏ lẻ, hộ gia đình và chủ yếu dựa vào

diện tích đất trống trong vườn làm chuồng và trồng các loại cây làm thức ăn cho dê. Tuy

72

nhiên trong những năm gần đây, số lượng đàn dê giảm nhưng chất lượng không ngừng tăng

lên do chuyển đổi sang các giống dê có mình to, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh.

 Chăn nuôi khác:

Nuôi ong:

Nghề nuôi ông lấy mật đang được xem là một trong những nghề cho giá trị kinh tế

cao. Với lợi thế về phát triển kinh tế vườn nên huyện có nhiều vườn dừa, vườn cây ăn trái là

điều kiện thuận lợi cho đàn ong sinh sống và phát triển. Nghề nuôi ông có vốn đầu tư không

lớn (350 ngàn đồng/thùng), chi phí ít vì tận dụng được nguồn thức ăn từ thiên nhiên, không

mất nhiều thời gian và công chăm sóc như các vật nuôi khác. Năm 2011 đạt 7.430 tổ ong,

tăng 5,8 lần so với năm 2001, sản lượng mật ong đạt 78,4 tấn, tăng 4,3 lần so với năm 2001.

Những năm gần đây, do nhà vườn biết sửa lứa cho trái vụ nghịch, nên mùa lấy mật được

kéo dài. Đàn ong được nuôi nhiều nhất tập trung tại các xã có nhiều vườn cây ăn trái như:

Phú Túc, Tân Phú, Phước Thạnh, Giao Hòa,...

Loại hình nuôi con đặc sản:

Nhằm đa dạng hóa trong sản xuất nông nghiệp, huyện Châu Thành đang hình thành

các mô hình nuôi con đặc sản, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mô hình chăn nuôi này chủ

yếu dựa trên việc khai thác khoảng trống trong các vườn dừa, vườn cây trái để xây dựng

chuồng trại hoặc tạo nguồn thức ăn cho các vật nuôi và hiện nay đang mang lại giá trị gia

tăng cho các vườn cây. Các mô hình hiện nay như nuôi rắn mối, rắn, cá sấu, chim cút, thỏ,

chim trĩ,...

Ngoài hình thức kinh tế hộ gia đình thì mô hình các trang trại, hợp tác xã cũng đóng

góp quan trọng vào sự phát triển ngành chăn nuôi ở huyện Châu Thành. Trong tổng số trang

trại năm 2010 thì có 3 trang trại chăn nuôi bò, 104 trang trại chăn nuôi heo, 6 trang trại chăn

nuôi dê, 7 trang trại chăn nuôi gia cầm. Đến năm 2011 do áp dụng tiêu chí mới về trang trại,

huyện chỉ có 1 trang trại nuôi heo là đạt tiêu chuẩn.

Nhìn chung, ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện Châu Thành tuy vẫn còn chiếm tỷ

trọng thấp trong cơ cấu nông nghiệp và chưa tương xứng với mục tiêu hiện đại hóa nông

nghiệp nhưng tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2001 - 2011 cao và có nhiều tiềm năng tiếp

tục phát triển nhanh, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế Huyện.

+ Dịch vụ nông nghiệp:

Trong xu thế chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lĩnh vực dịch vụ

nông nghiệp ở huyện Châu Thành trong giai đoạn 2001-2011 phát triển khá nhanh, với tốc

73

độ tăng trưởng bình quân 15,3%/năm. GTSX năm 2011 đạt 73,2 tỷ đồng, tăng 3,1 lần so với

năm 2001. Tuy nhiên, tỷ trọng của dịch vụ nông nghiệp trong cơ cấu GTSX nông nghiệp

còn rất thấp, năm 2011 mới chĩ chiếm 7,2%. Hiện nay, các dịch vụ nông nghiệp ở huyện

phát triển đa dạng với nhiều loại hình như: cung cấp giống cây trồng, vật nuôi, phân bón,

thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc, vật tư nông nghiệp và dịch vụ cho vay vốn hỗ

trợ sản xuất. Các dịch vụ này đã đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất,

chất lượng và giá trị kinh tế của cây trồng, vật nuôi. Trong những năm gần đây, huyện trở

thành địa điểm cung cấp số lượng lớn các loại cây giống (cây ăn trái, dừa), vật nuôi (heo,

gà) cho các huyện trong và ngoài tỉnh. Hiện nay, các điểm dịch vụ nông nghiệp đã được mở

rộng đến tận các ấp, xã trên cơ sở kinh doanh của các hộ cá thể và hoạt động của các trang

trại, hợp tác xã nông nghiệp.

- Thủy sản:

Huyện Châu Thành có phần lớn lãnh thổ được bao quanh bởi các sông lớn, ở phía

trong có các sông nhỏ, kênh, rạch dày đặc, đan xen và thông với sông lớn tạo lợi thế lớn để

phát triển thủy sản. Ngành thủy sản huyện Châu Thành phát triển chủ yếu trong lĩnh vực

nuôi trồng và một phần trong khai thác thủy sản trên các kênh, rạch. Huyện không tiếp giáp

biển nhưng khai thác biển cũng đóng góp đáng kể vào ngành thủy sản do có nhiều tàu

thuyền đăng ký tại địa bàn.

74

Biểu đồ 2.4. Sản lượng và GTSX ngành thủy sản huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Nhìn chung, trong giai đoạn 2001 – 2011 ngành thủy sản phát triển nhanh, GTSX

năm 2011 đạt 304,5 tỷ đồng, tăng 25,5 lần (11,9 tỷ đồng) so với năm 2001 (292,6 tỷ đồng).

Tuy nhiên, ngành thủy sản còn chiếm tỷ trọng thấp 15,86% (2011) trong cơ cấu kinh tế khu

vực 1.

+ Nuôi trồng thủy sản:

Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh trong giai đoạn 2001 - 2011 (9%/năm) và

đạt 1.132 ha năm 2011, tăng 1,6 lần so với năm 2001, chiếm 2,6% tổng diện tích nuôi trồng

thủy sản của tỉnh. Về cơ cấu nuôi, năm 2011 diện tích nuôi cá 782 ha (chiếm 18,4% diện

tích nuôi cá toàn tỉnh) và diện tích nuôi tôm 345 ha, (chiếm 1,0% diện tích nuôi tôm của

toàn tỉnh) và 59 bè cá.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng từ 313 tấn năm 2001 lên 36.663 tấn năm 2011,

đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cao - 24,3%/năm, nhờ quá trình gia tăng tỉ trọng loại hình

nuôi thâm canh, bán thâm canh tại khu vực bãi bồi và nuôi bè. Trong đó, sản lượng cá nuôi

chiếm tỷ trọng cao (99,4%) trong cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi trồng của huyện.

Nuôi thủy sản chuyên khoảng 130 ha mặt nước và đang có khuynh hướng chuyển dần

sang dạng nuôi thâm canh, bán thâm canh. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá tra (nuôi thâm

canh, bán thâm canh tại khu vực bãi bồi ven sông Tiền) và tôm càng xanh. Đối với dạng

nuôi ao hầm thổ cư, ngoài cá tra còn có các đối tượng cá trê, cá lóc, cá rô đồng, cá rô phi, cá

sặc rằn,…

Bảng 2.16. Sản lượng thủy sản nuôi trồng huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Sản lượng Cá 300 1.012 4.639 12.090 22.431 36.468

nuôi trồng Tôm 13 213 241 182 231 123

(tấn) Khác 0 30 8 9 11 72

Tổng 313 1.255 4.888 12.272 22.673 36.663

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Nuôi thủy sản xen trong mươn vườn chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ cấu nuôi trồng,

đạt 1.017 ha năm 2011. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá rô phi, cá chép, cá tai tượng (nuôi

chuyên hoặc nuôi ghép), tôm càng xanh,…

75

Nuôi cá bè chủ yếu phát triển trên sông Tiền với 59 bè có quy mô nhỏ, nuôi cá tra và

các loại cá trắng đặc sản, quy mô bè nhỏ (10 - 15 tấn).

+ Đánh bắt thủy sản gồm 2 loại hình:

 Đánh bắt trên địa bàn chủ yếu là sử dụng các phương tiện đánh bắt loại nhỏ (dưới

20 mã lực) và các phương tiện đăng đáy trên sông Tiền, sông Hàm Luông, các kênh rạch

nhằm khai thác thủy sản nội địa phục vụ cho nhu cầu thực phẩm của địa phương, năng suất

và sản lượng khai thác thấp 229 tấn (2011).

 Đánh bắt biển có đăng ký tàu thuyền trên địa bàn, bao gồm 18 tàu (2011) đang hoạt

động (trên tổng số 202 tàu đăng ký), trong đó có 4 tàu đánh bắt xa bờ. Tổng công suất của

9.580 mã lực. Sản lượng cá biển khai thác cao 964 tấn và chiếm tỷ trọng lớn (80,8%) trong

cơ cấu sản lượng thủy sản khai thác.

Tổng sản lượng thủy sản khai thác tăng khá nhanh trong giai đoạn 2001 - 2011, từ

557 tấn (2001) tăng lên 1.193 tấn (2011), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 13,9%/năm.

Bảng 2.17. Sản lượng thủy sản khai thác huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Sản lượng khai Biển 360 290 4164 915 896 964

thác (tấn) Nội địa 197 232 259 108 223 229

Tổng 557 522 4423 1023 1119 1193

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Nhìn chung, huyện Châu Thành có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh

nghề nuôi trồng thủy sản khá đa dạng trên nhiều loại hình thủy vực (nuôi ao hồ thâm canh,

nuôi xem trong mương vườn, nuôi bè) và có tiềm năng phát triển thêm các tàu đánh bắt biển

có đăng ký trên địa bàn, nâng cao tỷ trọng ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế khu vực 1.

Ngoài ra, hiện nay mô hình trang trại nuôi trồng thủy sản ở huyện đã đi tiên phong trong

việc chuyển đổi cơ cấu giống thủy sản nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng

cao sản lượng và chất lượng sản phẩm. Đến năm 2010 huyện có đến 11 trang trại nuôi trồng

thủy sản.

Tuy nhiên nghề nuôi trồng thủy sản hiện còn một số hạn chế cần khắc phục như: hệ

thống cấp và tiêu nước nuôi thủy sản thâm canh lẫn mương vườn chưa ổn định, ứng dụng

công nghệ kĩ thuật nuôi trồng chưa ổn định, vốn đầu tư cho phát triển thủy sản còn ít, năng

suất đánh bắt đang có xu hướng tăng chậm.

76

- Lâm nghiệp:

Lớp phủ thực vật trên địa bàn huyện Châu Thành gồm: rừng bần ở dọc các cồn và bãi

bồi, các cây phân tán được trồng trong các vườn tạp, dọc đường giao thông chính, lộ đê,

chung quanh nhà ở, khu vực đô thị, các công trình công cộng,… nhằm bảo vệ cồn bãi, tạo

bóng mát, cải tạo cảnh quan môi trường.

Cây trồng phân tán đem lại nguồn lợi lâm sản (gỗ, củi) chủ yếu cho ngành lâm

nghiệp. Do quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng giao thông, cây phân tán chủ yếu được

trồng nhiều dọc các đường giao thông, khu vực đô thị, các công trình công cộng. Số lượng

cây trồng phân tán tăng nhưng đa số đều mới trồng nên sản lượng khai thác giảm. Ngoài ra,

quá trình sạt lở ở khu vực ven sông (sông Hàm Luông, sông Tiền), kênh (Giao Hòa - An

Hóa) diễn ra mạnh ở nhiều nơi, do đó cây phân tán, cây bần còn được chú trọng trồng nhiều

ở khu vực ven đê, bãi bồi ven sông.

Bảng 2.18. Sản xuất lâm nghiệp huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

Hạng mục Đơn vị 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Cây trồng phân tán 1.000 cây 174,1 190,2 150,3 39,5 7,7 10,5

Gỗ khai thác (rừng trồng) 1.753 1.812 1.961 306 60 51 m3

Củi Ste 1.999 2.075 2.236 1.552 154 132

Tre 1.000 cây 104,9 114,3 40,0 60,4 3,1 1,8

Lá dừa nước 1.000 tàu 2.599 2.556 2.594 604 153 149

Măng tươi Tấn 69,1 62,4 58,0 61,6 8,4 6,8

Nguồn: Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành

Sản lượng khai thác các sản phẩm ngành lâm nghiệp liên tục tăng (trừ tre và măng

tươi). GTSX của ngành lâm nghiệp tăng trong giai đoạn 2001 - 2005 và có khuynh hướng

giảm mạnh trong giai đoạn 2006 - 2011 (giảm 28,2%/năm). Năm 2001, GTSX lâm nghiệp

2,3 tỷ đồng và năm 2011 GTSX lâm nghiệp chỉ còn 0,5 tỷ đồng. Trong cơ cấu GTSX, gỗ và

củi chiếm tỷ trọng lớn 96% nhưng đang có xu hướng giảm.

2.2.2.2. Ngành công nghiệp

 Khái quát:

Ngành công nghiệp huyện Châu Thành đã được hình thành và phát triển tại các đô thị

và ở một số tụ điểm dân cư lớn từ lâu đời, nhưng qui mô còn nhỏ và máy móc thiết bị còn

yếu kém. Riêng tại các xã vùng sâu, vùng xa sản xuất công nghiệp chưa phát triển, vẫn còn

sản xuất mang tính thuần nông. Trong những năm gần đây ngành công nghiệp huyện phát

77

triển nhanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH - HĐH.

Trong giai đoạn 2001 - 2011, GTSX công nghiệp tăng nhanh, từ 344 tỷ đồng năm

2001 lên 2.193 tỷ đồng năm 2011(gấp 6,4 lần), đạt tốc độ tăng trưởng bình quan

14,5%/năm. Trong cơ cấu GTSX của huyện, ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất,

với 46,4% (2011). Trong ngành công nghiệp, GTSX của các đơn vị quốc doanh đã giảm từ

74,0% (2001) xuống còn 39,6% (2011).

Biểu đồ 2.5. GTSX công nghiệp huyện Châu Thành giai đoạn 2001 - 2011

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Trong giai đoạn 2001 - 2006, GTSX công nghiệp huyện tăng trưởng chậm, chỉ đạt

trung bình 7,6%/năm. Đây cũng là tình hình chung của ngành công nghiệp tỉnh, nguyên

nhân do phương tiện giao thông đến tỉnh chưa thuận lợi (qua phà Rạch Miễu), cơ sở hạ tầng

cho công nghiệp ở huyện chưa phát triển nên chủ yếu các cơ sở sản xuất công nghiệp có quy

mô nhỏ và mang tính chất cá thể kinh doanh. Trong giai đoạn 2007 - 2011, GTSX công

nghiệp tăng trưởng rất nhanh, trung bình 22,5%/năm, do các khu công nghiệp, cụm công

nghiệp được hình thành và phát triển, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thu hút mạnh

được nhiều nguồn vốn trong và ngoài tỉnh. Các cơ sở sản xuất công nghiệp có quy mô sản

xuất ngày càng lớn, áp dụng máy móc thiết bị, kĩ thuật hiện đại trong sản xuất và phân bố

chủ yếu ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất với quy mô

nhỏ lẻ, bán thủ công, bán cơ giới, sản xuất theo kinh nghiệm hoặc được truyền nghề tại chỗ

78

của thành phần kinh tế tư nhân, cá thể vẫn còn chiếm số lượng lớn và phân bố chủ yếu ở các

điểm dân cư trong xã, dọc theo các trục lộ.

Trong giai đoạn 2001 - 2011 ngành công nghiệp của huyện phát triển nhanh, nhất là

ngành chế biến thực phẩm. Đặc biệt, trong các năm 2007 - 2011, các cơ sở chế biến thủy

sản có quy mô lớn được thành lập và đưa vào hoạt động đã làm thay đổi hẳn bộ mặt công

nghiệp của huyện. Năm 2011, toàn huyện có 1.241 cơ sở công nghiệp - TTCN, sử dụng

12.745 lao động, trong đó có 16 cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài, sử dụng khoảng 1.400

lao động.

Về cơ cấu, ngành công nghiệp chế biến luôn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GTSX

công nghiệp. Đến năm 2011, ngành công nghiệp chế biến chiếm 95,12%, ngành công

nghiệp khai thác chiếm 1,02% và ngành sản xuất - phân phối điện và khí đốt chiếm 3,86%

GTSX toành ngành công nghiệp.

Bảng 2.19. Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp huyện Châu Thành

theo ngành, giai đoạn 2001 - 2011

Đơn vị: %

Ngành công nghiệp 2001 2011

Tổng số 100,0 100,0

Công nghiệp khai thác 0,52 1,02

Công nghiệp chế biến 93,47 95,12

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 6,01 3,86

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

Sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã tạo điều kiện xuất hiện nhiều

ngành sản xuất mới, làm cho cơ cấu ngành công nghiệp ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, công

nghiệp của huyện vẫn tập trung vào một số ngành công nghiệp trọng điểm là những ngành

mà địa phương có nhiều lợi thế.

Trong ngành công nghiệp chế biến thì một số ngành chủ lực hiện nay là: Sản xuất

thực phẩm và đồ uống (chiếm 80,17% GTSX công nghiệp); Các ngành TTCN từ phụ phẩm

trái dừa và thủ công mỹ nghệ truyền thống (chiếm 10,08% GTSX công nghiệp); Sản xuất

sản phẩm dệt, trang phục, sản xuất sản phẩm da, sản xuất máy móc thiết bị, thiết bị điện, sản

xuất giường, tủ, bàn, ghế,… (chiếm tỷ trọng nhỏ 9,75%).

 Các ngành công nghiệp chủ yếu:

- Ngành xay xát gạo:

79

Ngành xay xát gạo có quy mô tương đối nhỏ do huyện không phải là vùng trọng

điểm về sản xuất lúa gạo, chủ yếu là các cơ sở xay xát nhỏ nằm rải rác, nhằm phục vụ cho

nhu cầu tại chỗ của nhân dân các xã. Một số ít nhà máy xay xát gạo có công suất 20 - 30

tấn/ngày, tập trung ở các khu vực còn diện tích trồng lúa lớn. Hầu hết máy móc thiết bị đều

được chế tạo tại Việt Nam và đã cũ kỹ, lạc hậu.

Sản lượng gạo xay xát ngày càng giảm, từ 16.956 tấn (2001) xuống còn 7.972 tấn

(2011).

- Ngành chế biến đường:

Ngành chế biến đường ở huyện Châu Thành phát triển so với các huyện khác và hiện

có một nhà máy đường đang hoạt động ở khu công nghiệp An Hiệp với quy mô công suất

1.000 - 1.500 tấn mía/ngày. Do diện tích trồng mía trong huyện và tỉnh giảm nhanh, giá

nguyên liệu mía và giá đường có nhiều biến động,… làm cho hoạt động sản xuất của nhà

máy kém hiệu quả.

Sản lượng đường trong giai đoạn 2001 - 2011 tăng, từ 16.135 tấn (2001) tăng lên

32.130 tấn (2011).

- Ngành chế biến nước mắm:

Ngành chế biến nước mắm giảm sản lượng, từ 190.330 lít (2001) còn 184.019 lít

(2006), nhưng đến năm 2011 do nguồn nguyên liệu không ổn định, thiếu vốn đầu tư sản

xuất, thị trường tiêu thụ giảm nên sản lượng chỉ còn 120.390 lít (2011). Các cơ sở chế biến

chủ yếu theo phương pháp truyền thống, máy móc thiết bị lạc hậu và chủ yếu phân bố ở các

xã ven sông do thuận lợi trong vận chuyển nguồn nguyên liệu.

- Ngành nước đá:

Sản xuất nước đá phát triển tương đối ổn định nhằm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng

trong huyện. Sản lượng nước đá tăng đều qua các năm, từ 4.924 tấn (2001) tăng lên 6.518

tấn (2011). Trong những năm gần đây, nhiều cơ sở chế biến thủy sản hình thành, các dịch

vụ ăn uống, nhà hàng phát triển, nhu cầu nước đá tăng cao làm cho số lượng cơ sở sản xuất

nước đá cũng tăng.

- Ngành chế biến thủy sản đông lạnh:

Ngành này phát triển rất nhanh, sản lượng thủy sản đông lạnh tăng từ 2.527 tấn

(2001) tăng lên 47.532 tấn (2011). Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2001 –

2011 là 35,2%/năm. Ngành chế biến thủy sản đã có nhiều biến đổi đáng kể về qui mô và

trình độ khoa học công nghệ và mở rộng thị trường. Các cơ sở chế biến thủy sản liên tục mở

80

rộng qui mô và thay đổi công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu để phù hợp

với yêu cầu thị trường. Trong những năm gần đây sự ra đời của các cơ sở chế biến thủy sản

với dây chuyền sản xuất hiện đại, công suất lớn (trên 9.000 tấn/năm) góp phần quan trọng

trong giải quyết nguồn nguyên liệu và công ăn việc làm tại địa phương, kim ngạch xuất

khẩu cũng không ngừng tăng. Hiện nay, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lĩnh vực

chế biến thuỷ sản xuất khẩu bị khó khăn về thị trường, giá trị xuất khẩu thuỷ sản giảm.

Trên địa bàn huyện hiện nay có một số cơ sở chế biến lớn đang hoạt động gồm: Công

ty TNHH Thế giới Việt, Chi nhánh Cty cổ phần Thực phẩm Kiên Giang, Công ty cổ phần

Thủy sản Hải Hương, Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam (Chi nhánh Bến Tre), Công

ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Bến Tre. Ngoài ra còn một số doanh nghiệp tư nhân

có quy mô nhỏ khác. Bên cạnh đó còn có các cơ sở thủy sản đang xây dựng như Công ty cổ

phần Chế biến Thủy sản Huy Thuận,…

Nguồn nguyên liệu cung cấp cho các cơ sở chế biến phần lớn từ các huyện khác (Ba

Tri, Bình Đại, Thạnh Phú) trong tỉnh. Ngoài ra, các cơ sở chế biến thủy sản phân bố chủ yếu

ở khu công nghiệp Giao Long và khu công nghiệp An Hiệp.

Các cơ sở chế biến ở huyện Châu Thành ngoài việc sản xuất một số mặt hàng truyền

thống chủ yếu là tôm biển, tôm càng,… đến nay các nhà máy đã đảm bảo được thị trường,

đa dạng hóa sản phẩm, sản xuất thêm một số mặt hàng mới như: tôm sú, cá tra, nghêu, mực

và một số mặt hàng thủy đặc sản khác. Phấn lớn các cơ sở đã tích cực đầu tư nâng cấp và

thay thế công nghệ hiện đại đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang Mỹ, Nhật, Nga, EU và một số

nước trong khu vực Bắc Mỹ, Đông Âu. Còn một số cơ sở còn đang gặp khó khăn về vốn, cơ

sở vật chất và công nghệ chưa hiện đại nhưng cũng đang tích cực khắc phục để đảm bảo sản

xuất theo tiêu chuẩn ngành thủy sản.

Ngoài ra, ngành chế biến thực phẩm và đồ uống còn sản xuất nhiều loại sản phẩm

khác như: nước chấm, xay bột, hủ tiếu, bún, bánh mì, rượu, nước khoáng, nước ngọt, bánh

kẹo,… Các cơ sở tuy nhỏ lẻ và manh mún nhưng cũng góp phần đáng kể vào việc làm tăng

giá trị sản xuất và sử dụng nhiều lao động tại địa phương.

- Ngành sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản:

Sản xuất gỗ và lâm sản gặp nhiều khó khăn và sản lượng có xu hướng giảm dần do

thiếu nguồn nguyên liệu gỗ. Hiện nay, nguồn gỗ ở huyện được khai thác chủ yếu từ cây dừa,

cây bạch đàn, cây ăn trái lâu năm,… Các cơ sở cưa xẻ gỗ có quy mô nhỏ, sử dụng lao động

trong gia đình là chính, thiết bị máy móc lạc hậu (máy cưa được trang bị đều cũ). Sản lượng

81

gỗ tăng nhẹ từ 309m3 năm 2001lên 401m3 năm 2006 nhưng sau đó giảm xuống còn 390m3

năm 2011. Các cơ sở sản xuất chủ yếu tập trung ven sông do đặc thù của vùng sông nước để

dễ vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm. Trên địa bàn huyện đến nay chỉ còn 21 sở sản xuất

gỗ và lâm sản.

- Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế:

Trong giai đoạn 2001 - 2005 ngành này phát triển yếu, khó cạnh tranh trên thị trường

do mẫu mã chưa đa dạng, lại sản xuất bằng công cụ thủ công. Nhưng sang giai đoạn 2006 -

2011, do các cơ sở tích cực đầu tư máy móc thiết bị và mẫu mã sản phẩm cũng như nhu cầu

của người dân về các sản phẩm này tăng cao nên sản lượng tăng nhanh. Năm 2001 đạt 134

bộ, đến năm 2006 là 182 bộ và năm 2011 đạt 409 bộ. Các cơ sở có quy mô nhỏ, sử dụng lao

động ít (khoảng 3 lao động), tốn nhiều thời gian để tạo ra 1 sản phẩm, làm theo kinh nghiệm

là chủ yếu. Tuy nhiên, gần đây do trang bị thêm máy móc nên năng suất và sản lượng tăng

lên đáng kể. Các cơ sở tập trung ở khu vực đông dân và dọc theo trục lộ của huyện.

- Sản xuất sản phẩm bằng kim loại (trừ máy móc thiết bị):

Sản xuất các sản phẩm bằng kim loại ở huyện chỉ phát triển ở lĩnh vực sản xuất cửa

sắt, lan can, cầu thang, sườn nhà,… ngoài ra còn sửa chữa nhỏ các máy nông ngư. Do quá

trình đô thị hóa, phát triển sản xuất các công trình xây dựng ngày càng nhiều nên nhu cầu

sản phẩm bằng kim loại tăng cao. Các cơ sở có quy mô nhỏ, đa số dưới dạng cá thể và được

phân bố rải rác khắp các xã, tập trung ở khu vực thị trấn, thị tứ. Do trang bị máy móc,

phương tiện sản xuất cũ, các sản phẩm được gia công, chế tạo hoặc sửa chữa có chất lượng

chưa cao.

- Ngành may mặc:

Trước đây, đa số là may đo, phát triển khắp nơi trong huyện. Ngoài ra cũng có một

vài cơ sở gia công may mặc nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay số lượng cơ sở may

gia công tăng nhanh, nhiều cơ sở may mặc được thành lập đã thúc đẩy ngành may mặc của

huyện phát triển với tốc độ nhanh. Năm 2011 sản lượng đạt 200 nghìn sản phẩm. Ngành

may mặc đã góp phần giải quyết việc làm cho người dân địa phương. Các cơ sở đa số tập

trung ở các khu vực đông dân cư và các khu công nghiệp: Giao Long (Công ty TNHH May

Alliance One, Công ty TNHH Min Wie Việt Nam, Công ty Cổ phần May Premier Pearl).

- Các ngành tiểu thủ công nghiệp và làng nghề:

Châu Thành là huyện có các ngành nghề TTCN khá phát triển của tỉnh Bến Tre.

Những năm gần đây, việc phát triển các ngành TTCN gặp không ít khó khăn nhưng được sự

82

quan tâm của của các cấp chính quyền địa phương với chính sách hỗ trợ cho khôi phục và

phát triển các ngành nghề TTCN nông thôn làm cho loại hình này phát triển và mở rộng quy

mô. Hiện nay, các ngành nghề TTCN có vai trò khá quan trọng trong ngành công nghiệp

của huyện. Tính đến hết năm 2011, toàn huyện có 2 làng nghề được công nhận là: làng

nghề truyền thống dệt chiếu Thuận Điền (An Hiệp) và làng nghề thủ công mỹ nghệ từ dừa

Cồn Phụng (Tân Thạch). Ngoài ra còn có nhiều cơ sở sản xuất TTCN và các làng nghề

khác.

Dệt chiếu: Ngành dệt chiếu ở huyện phát triển gắn liền với làng nghề dệt chiếu

Thuận Điền (xã An Hiệp). Ngành này xuất hiện khá sớm, diễn ra quanh năm tại nhiều ấp

trong xã và hiện nay, ngành này từng bước đã được khôi phục lại và sản xuất theo quy mô

kinh tế hộ gia đình, giải quyết nhiều việc làm cho lao động nông nhàn ở địa phương, nhất là lao động nữ. Sản lượng có xu hướng tăng nhanh nhưng không ổn định, từ 1.640 ngàn m2 năm 2001 lên 2.907 ngàn m2 năm 2011, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 13,1%/năm.

Bảng 2.20. Một số sản phẩm chính của ngành công nghiệp huyện Châu Thành giai

đoạn 2001 - 2011

Ngành Đơn vị 2001 2006 2011

Sản xuất thực phẩm và đồ uống:

tấn 16.956 13.397 7.972 - Xay xát gạo

lít 190.330 184.019 120.390 - Nước mắm

tấn 452 1.352 2.113 - Bánh kẹo

tấn 1.109 1.530 1.480 - Dầu dừa thô

tấn 4.924 5.729 6.518 - Nước đá

tấn 16.135 22.730 32.130 - Đường kết tinh

tấn 879 2.873 3.901 - Tôm đông

tấn 2.527 16.251 47.532 - Thủy sản đông

Sản xuất gỗ và lâm sản:

m3 309 401 390 - Cưa xẻ gỗ

134 182 517 - Giường, tủ, bàn, ghế bộ

Công nghiệp phục vụ:

5 8 32 - Đóng tàu chiếc

15 18 59 - Sửa chữa ghe tàu chiếc

83

Công nghiệp khác:

- Thảm xơ dừa 1000 m2 98,4 23,8 40,8

- Chỉ xơ dừa 210 5.225 9.065

- Chiếu 2.645 tấn 1000 m2 1.640 2.907

- Than thiêu kết 137 tấn 84 231

Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Châu Thành

Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa là một trong những nghề nổi tiếng và có

nhiều lợi thế ở huyện Châu Thành. Những năm gần đây, xu hướng trang trí bằng các mặt

hàng thủ công mỹ nghệ dừa tăng, nên ngành này có điều kiện phát triển và mở rộng quy mô

sản xuất. Hiện nay, trên toàn huyện có 33 cơ sở sản xuất, tập trung nhiều nhất ở làng nghề

thủ công mỹ nghệ từ dừa Cồn Phụng (Tân Thạch). Ngành này đã giải quyết việc làm cho

trên 320 lao động tại địa phương, GTSX đạt 16,5 tỷ đồng năm 2011. Bên cạnh tiêu thụ ở thị

trường trong nước, sản phẩm còn được xuất khẩu ra nước ngoài.

Chỉ xơ dừa: huyện Châu Thành là một trong những địa phương của tỉnh có ngành sản

xuất chỉ xơ dừa phát triển và đặc thù sản phẩm này chỉ dành cho xuất khẩu sang các nước

như Hàn Quốc, Ấn Độ,… Hiện nay, sản lượng tăng nhưng không ổn định, từ 210 tấn năm

2001 lên 9.065 tấn năm 2011. Các cơ sở sản xuất chủ yếu dưới hình thức cá thể kinh doanh,

số lượng lao động thường dưới 10 người và đều tập trung ở khu vực ven sông như xã An

Hiệp, Sơn Hòa, Mỹ Thành.

Thảm xơ dừa: ngành này phát triển không ổn định và sản lượng giảm, từ 98.400m2 năm 2001 xuống còn 40.800 m2 năm 2011. Các cơ sở sản xuất gắn liền với vùng sản suất

chỉ xơ dừa và sản phẩm dành cho xuất khẩu.

Ngoài ra còn một số mặt hàng từ phụ phẩm trái dừa như: dây thừng, than thiêu kết,

vỏ dừa cắt lát,… Tuy có khả năng xuất khẩu nhưng số lượng nhỏ và không ổn định.

 Một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở huyện Châu Thành

- Khu công nghiệp:

Châu Thành có vị trí thuận lợi về giao thông đường thủy, đường bộ và có nguồn nhân

lực dồi dào nên được tỉnh chọn làm địa bàn trọng điểm để phát triển công nghiệp. Vì vậy,

lĩnh vực công nghiệp – TTCN có bước chuyển biến mạnh, thể hiện rõ nét sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Trong đó, sự ra đời của các khu, cụm công nghiệp giữ

vai trò quan trọng sự phát triển công nghiệp. Tính đến 12/2011 huyện Châu Thành có 2

KCN là Giao Long, An Hiệp và một số cụm công nghiệp với quy mô nhỏ như: An Hóa, Tân

84

Thạch, thị trấn Châu Thành. Theo quy hoạch phát triển khu, cụm công nghiệp, đến năm

2020 huyện có thêm 1 khu công nghiệp mới (KCN Giao Hòa), 2 dự án mở rộng khu công

nghiệp (KCN Giao Long II, KCN An Hiệp II) và 1 cụm công nghiệp (An Hóa).

Khu công nghiệp Giao Long: là khu công nghiệp đầu tiên được hình thành ở ở huyện

cũng như ở tỉnh Bến Tre, thuộc địa bàn xã An Phước, nơi có vị trí thuận lợi giao thông cả về

đường thủy và đường bộ. KCN này có diện tích tự nhiên là 98 ha, diện tích đất công nghiệp

có khả năng cho thuê 69,52 ha. Tổng mức đầu tư cơ sở hạ tầng là 237 tỷ đồng. Hiện nay, tỉ

lệ lấp đầy của KCN đã gần hết với diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 66,3 ha, chiếm

95,4% diện tích có khả năng cho thuê. Trong giai đoạn 2, KCN được mở rộng với diện tích

đất tự nhiên là 68,04 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có khả năng cho thuê 47,43 ha.

Tổng mức vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là 437 tỷ đồng.

Hiện nay, KCN Giao Long đã thu hút được 20 dự án (có 13 dự án FDI) với tổng vốn

đầu tư đăng ký là 4.463 tỷ đồng (vốn FDI là triệu 179,5 triệu USD), trong đó có 12 dự án đã

đi vào hoạt động và 02 dự án đang triển khai xây dựng. Tổng số vốn đầu tư đã thực hiện đạt

2.242 tỷ đồng (trong đó vốn FDI là 93,53 triệu USD).

Bảng 2.21. Kết quả sản xuất kinh doanh tại khu công nghiệp Giao Long

và khu công nghiệp An Hiệp năm 2011

Chỉ tiêu Đơn vị Khu công nghiệp Khu công nghiệp

Giao Long An Hiệp

Doanh thu tỷ đồng 3.220 1.950

Xuất khẩu triệu USD 147,7 17,8

Nhập khẩu triệu USD 40,4 0,9

Lao động người 12.446 1.475

Nguồn: Ban quản lý khu công nghiệp tỉnh Bến Tre

Khu công nghiệp An Hiệp: được hình thành từ cụm công nghiệp An Hiệp trước đây,

thuộc địa bàn xã An Hiệp, thuận lợi về giao thông đường thủy và đường bộ. KCN có tổng diện

tích 72 ha, diện tích khu công nghiệp là 65,01 ha và khu dân cư 6,99 ha. Trong đó, diện tích

đất công nghiệp có khả năng cho thuê 48,37 ha. Tổng mức đầu tư cơ sở hạ tầng: 265 tỷ

đồng. Đến năm 2011, diện tích đất công nghiệp đã

cho thuê là 38,2 ha, chiếm 79,0% diện tích đất công nghiệp có khả năng cho thuê.

Hiện nay, KCN An Hiệp có 8 dự án đăng ký (có 03 dự án FDI), với tổng vốn đầu tư

đăng ký là 2.160 tỷ đồng (trong đó vốn FDI là 69,5 triệu USD), trong đó 5 dự án đã đi vào

85

hoạt động và 3 dự án đang triển khai xây dựng. Tổng vốn đầu đã thực hiện là 1.382 tỷ đồng

(trong đó vốn FDI là 46,57 triệu USD).

- Cụm công nghiệp:

Cụm công nghiệp An Hóa: thuộc địa phận xã An Hóa. Tổng diện tích quy hoạch là

35 ha (diện tích quy hoạch dự kiến là 20 ha, diện tích quy hoạch mở rộng là 15 ha) và tổng

vốn đầu tư là 140 tỷ đồng. Cụm công nghiệp An Hóa được hình thành dựa trên sự phát triển

tự phát các cơ sở sản xuất công nghiệp trước đây ở địa phương. Do đó, kết cấu hạ tầng ở

đây chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Hiện nay, cụm công nghiệp này đã được quy hoạch

chi tiết hoàn chỉnh và đang thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh để thu hút nhiều

doanh nghiệp sản xuất. Dựa trên các cơ sở sản xuất hiện có và nguồn lực địa phương thì

trong định hướng quy hoạch các ngành nghề hoạt động trong cụm công nghiệp An Hóa

là: công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật liệu xây

dựng, bao bì, công nghiệp dệt - may, giầy - da.

Nhìn chung, các khu, cụm công nghiệp ở huyện đều có vị trí địa lý thuận lợi: giáp

các tỉnh lộ 883, 884 là những tuyến đường giao thông chính trong huyện kết nối với quốc lộ

60 đi các tỉnh; Gần cảng sông lớn của tỉnh và khu vực lân cận, (cách cảng Giao Long từ 1

đến 5 km); Nằm gần kề trung tâm huyện (cách TP. Bến Tre và TP. Mỹ Tho khoảng 5 - 10

km);…. Đó là điều kiện để đảm bảo cung ứng tốt nguồn nguyên liệu và lao động cho các

các cơ sở sản xuất.

2.2.2.3. Ngành dịch vụ

 Khái quát:

Dịch vụ là nhóm ngành quan trọng thứ 2 trong cơ cấu kinh tế huyện và đóng góp ngày càng

lớn vào sự ổn định và phát triển kinh tế địa phương. Trong giai đoạn 2001-2011, tỉ trọng của

ngành dịch vụ tăng từ 24,6% (2001) lên 28,0% (2011). GTSX ngành dịch vụ cũng tăng từ

341,0 tỷ đồng năm 2001 lên 1.327,0 tỷ đồng năm 2011 (tăng 3,9 lần). Các ngành dịch vụ ở

huyện khá đa dạng, trong đó quan trọng trong nhất là: vận tải, thương mại, du lịch. Ngành

dịch vụ phát triển đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn huyện trong giai

đoạn hiện nay, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội

của huyện với các địa phương khác trong tỉnh, cả nước và quốc tế.

86

Biểu đồ 2.6. GTSX ngành dịch vụ huyện Châu Thành giai đoạn 2001- 2011

Nguồn: Chi cục thống kê huyện Châu Thành

 Các ngành dịch vụ chủ yếu:

- Vận tải:

Theo thống kê, năm 2011 huyện có 115 xe vận tải hàng hóa với năng lực tổng cộng

khoảng 1.025 tấn, chủ yếu thuộc các cơ sở công nghiệp, kinh doanh vận tải, hàng hóa và vật

liệu xây dựng. Xe khách chỉ có 19 xe, với 448 ghế, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.

Ngoài ra còn có một số xe chuyên dụng, xe cơ giới khác. Về phương tiện vận tải đường

thủy, huyện có 1 bến phà tại xã Tân Phú đi huyện Chợ Lách, 4 bến đò dọc ngang tại các xã

và 8 bến đò du lịch dọc ven sông Tiền. Khối lượng vận tải có bước tăng trưởng khá nhanh

cả về vận tải hàng hóa và vận tải hành khách (bảng 2.21).

Vận chuyển hàng hóa và luân chuyển hàng hóa có tốc độ tăng trưởng nhanh. Trong

giai đoạn 2001-2011, khối lượng vận chuyển và luân chuyển hàng hóa tăng tương ứng gấp

22,9 lần và 21,7 lần. Còn khối lượng vận chuyển và luân chuyển hành khách cũng tăng

tương ứng 2 lần và 2,7 lần. Trong giai đoạn 2001 - 2009 vận tải đường thủy chiếm ưu thế

(trên 50%) cả về hàng hóa và hành khách, nhưng sang các năm 2010 - 2011 thì vận tải

đường bộ lại chiếm ưu thế (trên 60%) do công trình cầu Rạch Miễu đã hoàn thành, việc vận

chuyển bằng đường bộ nhanh và giảm chi phí nhiều hơn so với bằng đường thủy.

Bảng 2.22. Khối lượng vận tải hàng hóa và hành khách huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 - 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

98,2 133 648 1.163 1.678 Vận chuyển hàng hóa (nghìn tấn): 73,4

87

- Đường bộ 15,9 21,3 28,8 195 465 1.007

- Đường thủy 57,5 76,9 104,2 454 698 671

L.uân chuyển hàng hóa (nghìn

3.215 4.977 6.741 29.008 51.274 73.540 tấn.km):

1.325 2.051 2.774 - Đường bộ 13.054 28.201 47.801

1.890 2.926 3.967 - Đường thủy 15.954 23.073 25.739

Vận chuyển hành khách (nghìn

593 701 810 955 1.100 1.245 người):

244 289 334 - Đường bộ 430 605 809

349 412 476 - Đường thủy 525 495 436

Luân chuyển hành khách (nghìn

10.292 14.160 18.030 21.437 24.844 28.251 người.km):

- Đường bộ 9.427 12.971 16.523 19.294 23.602 27.686

- Đường thủy 865 1.189 1.506 2.144 1.242 565

Nguồn: Phòng kinh tế và hạ tầng huyện Châu Thành

GTSX ngành vận tải tăng từ 7,9 tỷ đồng (2001) lên 33,8 tỷ đồng (2011). Trong

những năm gần đây GTSX ngành vận tải tăng nhanh do mở thêm các tuyến giao thông và

kinh tế công nghiệp phát triển nhanh.

Nhìn chung, khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hóa và hành khách tăng lên

trong những năm qua đã phản ánh năng lực vận tải của ngành đã được nhiều tiến bộ, đóng

góp quan trọng vào sự phát triển KT - XH của toàn huyện. Hiện nay, việc nâng cấp, hiện đại

hóa các phương tiện, mạng lưới giao thông nông thôn là nhiệm vụ quan trọng để tạo bước

đột phá cho nền kinh tế huyện.

- Thương mại:

Hệ thống thương mại của Châu Thành chủ yếu bao gồm các chợ, các hợp tác xã, các

doanh nghiệp tư nhân, các hộ cá thể,… Tính đến cuối năm 2011, toàn huyện có 22 chợ,

trong đó 14 chợ được đầu tư cải tạo, nâng cấp. Hiện nay trên địa bàn huyện còn một số xã

chưa có chợ như Phú An Hòa, Phước Thạnh và Mỹ Thành do các xã này dân cư không tập

trung, điều kiện mua bán ở các xã lân cận thuận lợi và gần xã.

Ngoại trừ các chợ Tiên Thủy, Tân Thạch có quy mô lớn, còn các chợ còn lại có diện

tích không đồng đều, bố trí chưa thật sự hợp lý. Cơ sở hạ tầng một số chợ đã được xây dựng

88

cải tạo, nâng cấp, nhưng một số chợ còn trong tình trạng xuống cấp, công trình xử lý nước

thải và vệ sinh môi trường chưa được xây dựng,... Khó khăn hiện nay là huy động vốn đầu

tư xây dựng chợ, nhất là những chợ có quy mô mua bán nhỏ.

Các cơ cở thương mại - dịch vụ ngoài quốc doanh ở huyện phát triển khá nhanh về số

lượng và qui mô, ngày càng thể hiện ưu thế trên thị trường, nhất là khâu tổ chức bán lẻ.

Trong 5 năm gần đây, một số điểm thu mua trái cây mang hình thức vựa đã hình thành, tạo

nên một môi trường cạnh tranh có lợi cho nhà vườn.

Đến cuối tháng 12 năm 2011, trên địa bàn huyện có khoảng 82 doanh nghiệp tư

nhân, 5.290 hộ kinh doanh cá thể, với tổng số vốn đăng ký kinh doanh trên 198 tỷ đồng,

hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại dịch vụ có đăng ký kinh doanh thuộc các

ngành nghề: mua bán, gia công vàng bạc, cầm đồ, mua bán hàng điện tử - kim khí điện máy,

vật liệu xây dựng, hàng bách hóa tiêu dùng, xe máy, ăn uống,… Các cơ sở đa số tập trung

tại các nhà lồng chợ, dãy phố chợ, khu tập trung dân cư đông và hai bên các tuyến đường

giao thông chính hoặc ở trung tâm xã. Ngoài ra còn có hàng ngàn điểm mua bán nhỏ không

thuộc diện đăng ký, hoạt động trong các thôn xóm, khu phố.

Nhìn chung, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thương mại huyện Châu Thành trong

những năm vừa quan đã được củng cố và tăng cường thêm một bước. Ở khắp các trung tâm

xã, các cửa hàng, cửa hiệu, điểm bán đã được từng bước cải tạo, mở rộng và phát triển, hình

thành các dãy phố, khu vực kinh doanh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đáp ứng tốt

nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

Các mặt hàng xuất khẩu huyện là các mặt hàng gồm: trái cây các loại, các mặt hàng

sản xuất từ dừa và phụ phẩm của trái dừa, thủy sản chế biến, bánh kẹo, hạt điều, hàng thêu

may, hàng thủ công mỹ nghệ, chiếu cói,…phục vụ xuất khẩu.

Các mặt hàng nhập khẩu là: lúa gạo, hàng thực phẩm công nghiệp, đồ dùng công

nghiệp, vật tư thiết bị, vật liệu xây dựng, nhiên liệu, phân bón, thuốc trừ sâu,… Phục vụ nhu

cầu sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện. Ngoài ra để phục vụ sản xuất công

nghiệp trên địa bàn, huyện phải mua vào rất nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất như mía

cây, thủy sản các loại, nguyên liệu ngành may mặc, nguyên liệu sản xuất hàng thủ công

nghệ (lục bình khô, cói,…). Nguồn cung ứng nguyên liệu được mua từ nhiều địa phương

trong và ngoài tỉnh.

Bảng 2.23. Doanh số mua bán huyện Châu Thành năm 2001, 2011

Đơn vị: tỷ đồng

89

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

1.552 1.875 2.846 3.410 3.974 4.538 Doanh số mua:

- Mua của địa phương 1.191 2.152 2.579 3.119 3.567 986

- Mua của nơi khác 684 695 831 855 971 566

1.706 2.412 3.123 3.741 4.359 4.977 Doanh số bán:

633 895 778 931 1.085 1.239 - Bán tại địa phương

1.073 1.517 2.345 2.810 3.274 3.738 - Bán cho nơi khác

Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch huyện Châu Thành

Nhìn chung, doanh số mua và bán của ngành thương mại đều tăng từ năm 2001 đến

năm 2011. Trong cơ cấu mua, doanh số mua của địa phương tăng từ 63,5% (2001) lên

78,6% (2011), cho thấy sản lượng hàng hóa tăng rất nhanh. Còn trong cơ cấu bán ngoài địa

phương tăng từ 62,9% (2001) lên 75,1% (2011) cho thấy vai trò kinh tế đối ngoại và trung

chuyển hàng hóa của huyện ngày càng tăng nhanh.

GTSX của toàn ngành thương mại tăng từ 185 (30,6) tỷ đồng năm 2001 lên 606 tỷ

đồng năm 2011, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12,3%/năm.

Về xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu các mặt

hàng như: thủy sản chế biến các loại, hàng thủ công mỹ nghệ, chỉ xơ dừa, than thiêu kết,

hàng may mặc, nhãn sấy, trái cây đóng thùng,… Trong giai đoạn 2001 - 2011 các mặt hàng

xuất khẩu đều tăng (bảng 2.14) làm cho tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của huyện cũng

tăng từ 13,96 triệu USD năm 2001 lên 132,1 triệu USD năm 2011. Các thị trường xuất

khẩu truyền thống là EU, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc.

Bảng 2.24. Các mặt hàng xuất khẩu chínhcủa huyện Châu Thành

Giai đoạn 2001- 2011

Năm Đơn vị 2006 2011 2001

Tôm đông tấn 2.033 3.121 583,1

Thủy sản đông 7.838 28.519 2.619

Thảm xơ dừa tấn 1000 m2 40,5 61,5 126,5

Chỉ xơ dừa 2,5 10,8 0,2 1000 tấn

Than thiêu kết 65,2 138,6 14,0 tấn

Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch huyện Châu Thành

Mặc dù giá trị xuất khẩu tăng nhưng khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao, thị

trường chưa ổn định, nhất là sản phẩm thủy sản và trái cây, chưa xây dựng được chiến lược

90

sản phẩm, chiến lược thị trường và hàng hóa chưa có thương hiệu mạnh. Về nhập khẩu,

chủ yếu nhập các mặt hàng phục vụ cho ngành thủy sản và hàng tiêu dùng.

- Du lịch:

Châu Thành là huyện cửa ngõ của tỉnh Bến Tre, có nền kinh tế năng động nên hoạt

động du lịch cũng khá phát triển, với nhiều điểm du lịch hấp dẫn như: Các điểm tuyến du

lịch cồn Phụng, cồn Quy, cồn Tiên, tuyến du lịch các xã ven sông Tiền và sông Hàm Luông;

Các di tích văn hóa như đình Tân Thạch xây dựng cách đây 160 năm (cấp quốc gia), đình

Tiên Thủy, chùa Tôn Cổ hơn 265 năm, chùa Phật Tiên đài Tiên Thủy, đình Khánh Hội Tiên

Thủy,…

Hiện nay, ở huyện đã phát triển nhiều điểm du lịch hấp dẫn du khách như Tân Thạch

có 12 điểm, Quới Sơn 3 điểm, An Khánh 5 điểm, Tân Phú 5 điểm,…Các điểm du lịch đã

thu hút hàng trăm ngàn lượt du khách trong nước và quốc tế đến tham quan hàng năm.

Trên địa bàn huyện hiện có 27 cơ sở lưu trú, trong đó có 4 khách sạn với tổng số 72

phòng (410 giường) và 23 nhà nghỉ với 225 phòng. Các cơ sở lưu trú đều thuộc các doanh

nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Toàn huyện có 11 nhà hàng với 300 chổ

ngồi, 20 đầu xe du lịch với 300 ghế. Ngoài ra còn có các cơ sở lưu trú và điểm ăn uống nhỏ

vừa phục vụ nhu cầu người dân địa phương và khách du lịch nhỏ lẻ. Phần lớn các cơ sở lưu

trú tập trung ở gần các điểm du lịch, dọc theo trục đường chính, trung tâm của xã, thị trấn

tạo sự thuận lợi cho khách tham quan đến với các điểm du lịch.

Bảng 2.25. Số lượng khách du lịch và doanh thu ngành du lịch

huyện Châu Thành, giai đoạn 2001 - 2011

Năm Đơn vị 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Khách nội địa nghìn lượt 21,2 74,8 180,4 134.7 185,0 204,5

Khách quốc tế nghìn lượt 31,8 81.2 147,6 250,3 285,0 285,7

Tổng lượt khách nghìn lượt 53,0 156,0 328,0 385,0 470,0 490,3

Tổng doanh thu tỷ đồng 2,9 6,2 12,0 16,3 20,5 21,84

Nguồn: Phòng văn hóa thông tin huyện Châu Thành

Trong những năm qua, hoạt động du lịch của huyện chủ yếu được tổ chức theo

hướng khai thác du lịch sinh thái, nhưng còn mang tính chất tự phát, chưa có cơ quan

chuyên ngành quản lý, chưa sắp xếp hợp lý việc kinh doanh giữa các điểm, còn nhiều hạn

chế về phong cách phục vụ, mô hình hoạt động còn trùng lặp, công tác bảo vệ môi trường

chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác, do các sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa đặc

91

sắc và không đặc thù nên dễ gây nhàm chán cho du khách. Hoạt động du lịch phần lớn là kết

hợp với các tuyến du lịch của tỉnh Tiền Giang để khai thác các điểm du lịch, vì vậy du

khách đến tham quan chỉ trong thời

gian ngắn (1 ngày), nên hạn chế đến doanh thu du lịch.

Hoạt động du lịch trong thời gian qua có sự phát triển, lượng khách du lịch đến

huyện tăng lên khá nhanh, từ 2,9 nghìn lượt khách năm 2001 lên 21,84 nghìn lượt khách

năm 2011. Trong đó, khách quốc tế thường chiếm tỷ cao hơn hẳn so với khách nội địa (năm

2011 đạt 58,3%). Số lượng khách nghỉ lại các nhà trọ rất thấp, chỉ khoảng 4.360 lượt khách,

chủ yếu vào mùa lễ hội trái cây. Khách nội địa chủ yếu đến từ các tỉnh, thành phố khu vực

Đông Nam Bộ như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,… để tham quan các di tích lịch sử, một

số vườn trái cây. Khách quốc tế đến ngày càng tăng, chủ yếu từ các nước Pháp, Úc, Nhật,

Trung Quốc,… để tham gia các hoạt động du lịch sinh thái miệt vườn là chính.

Doanh thu du lịch ngày càng tăng, từ 2,9 tỷ đồng năm 2001 lên 21,84 tỷ đồng năm

2011. Trong đó, khách sạn chiếm 13,1%, ăn uống chiếm đến 85,3%, mua bán hàng hóa, vận

chuyển và các dịch vụ khác chiếm 1,6%.

- Ngành bưu chính, viễn thông:

Huyện có cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc tốt, không ngừng được hiện đại hóa. Trong

những năm qua, ngành bưu chính viễn thông phát triển nhanh, ổn định, phục vụ tốt cho nhu

cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của dân cư.

Số lượng điện thoại cố định, di động và thuê bao internet đều tăng mạnh. Năm 2011,

số điện thoại cố định, di động và thuê bao internet tăng lần lượt gấp 4,9 lần, 219,2 lần và

43,5 lần so với năm 2001. Số lượng tăng nhanh nhất là từ năm 2010 do có nhiều hãng viễn

thông tham gia cung cấp dịch vụ cho người dân.

Bảng 2.26. Số lượng thuê bao điện thoại huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 – 2011

Năm 2001 2003 2005 2007 2009 2011

Điện thoại cố định 2891 4100 5682 7371 7971 14094

Điện thoại di động 356 356 630 829 993 78027

Thuê bao internet 81 81 81 320 1039 3527

Nguồn: Phòng Văn hóa thông tin huyện Châu Thành

Nhìn chung, dịch vụ bưu chính, viễn thông trong huyện phát triển nhanh, theo kịp với

những tiến bộ về công nghệ của cả nước nhưng do trình độ phát triển kinh tế chưa cao nên

nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong huyện vẫn còn hạn chế, thị trường dịch vụ thông tin vẫn

92

còn ở dạng tiềm năng.

2.2.3. Phát triển kinh tế theo lãnh thổ

Với những thuận lợi về vị trí địa lý, vị thế về phát triển kinh tế so với các huyện

trong tình, nguồn lực địa phương,… Châu Thành đã trở thành một huyện năng động và phát

triển nhanh của tỉnh Bến Tre với các vai trò:

Là trung tâm công nghiệp, TTCN khu vực với việc hình thành các khu công nghiệp,

cụm công nghiệp TTCN.

Là trung tâm thương mại - dịch vụ - du lịch phía Bắc của tỉnh: xây dựng hoàn chỉnh

đô thị thị trấn Châu Thành, chợ vựa nông sản đầu mối Tân Thạch, khu du lịch sinh thái Cồn

Phụng, điểm du lịch cồn Quy, tuyến du lịch 10 xã ven sông Tiền và sông Hàm Luông…

Là trung tâm kinh tế vườn chất lượng được xác nhận: hình thành các vùng cây ăn trái

đặc sản có thương hiệu gắn với các vựa trái cây, siêu thị.

Dựa trên ảnh hưởng của vị trí địa lý, sự khác biệt về đặc điểm tự nhiên (địa hình, tài

nguyên thiên nhiên…), điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng phát triển kinh tế,… trên địa

bàn huyện Châu Thành đã hình thành 2 tiểu vùng phát triển kinh tế: Tiểu vùng kinh tế phía

Đông và tiểu vùng kinh tế phía Tây.

2.2.3.1. Tiểu vùng kinh tế phía Đông:

Tiểu vùng kinh tế phía Đông có diện tích 10.310 ha, chiếm 44,9% diện tích toàn

huyện, bao gồm 12 xã, thị trấn: Tân Thạch, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, An Hóa, An

Phước, Phú An Hòa, Phước Thạnh, Hữu Định, Tam Phước, An Khánh và thị trấn Châu

Thành. Dân số của vùng là 107.100 người, chiếm 67,1% dân số toàn huyện. Trong đó, dân

số đô thị là 55.100 người, chiếm 51,4% dân số vùng.

Tiểu vùng có trung tâm là thị trấn Châu Thành với các đô thị vệ tinh Tân Thạch An

Hóa, thị tứ Quới Sơn, đô thị công nghiệp Giao Long. Các đô thị gắn liền với trục kinh tế

động lực ĐT 883. Vùng có sự liên kết trực tiếp về phát triển kinh tế, không gian, giao thông

với TP. Bến Tre, huyện Bình Đại, Giồng Trôm và TP. Mỹ Tho (Tiền Giang).

Tiểu vùng kinh tế phía Đông được coi là tiểu vùng kinh tế động lực của huyện. Vùng

là cửa ngõ vào tỉnh Bến Tre (khu vực cầu Rạch Miễu), phía Bắc giáp sông Tiền, là hành

lang kinh tế động lực của vùng, là tuyến giao thông thủy cấp quốc gia và quốc tế. Phía Nam

giáp TP. Bến Tre, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… của tỉnh Bến Tre. Phía

Đông giáp huyện Giồng Trôm, Bình Đại là các vùng phát triển cây ăn trái lớn, thủy sản của

tỉnh. Vùng có tiềm năng lớn về du lịch do có hệ thống sông Tiền, cồn Phụng, cồn Quy, hệ

93

thống kênh rạch tự nhiên gắn với các vườn cây ăn trái. Tiềm năng quỹ đất lớn, thích hợp

cho việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn trái và đặc biệt cho phát triển công nghiệp.

Trong nông nghiệp, năm 2011 tiểu vùng chiếm 36,1% GTSX ngành nông - lâm - ngư

nghiệp của huyện (436,4 tỷ đồng). Tiểu vùng được coi là vựa lương thực của huyện, chiếm

79,6% sản lượng lương thực toàn huyện. Ngoài ra, vùng còn có thế mạnh về cây ăn trái,

chiếm 37,9% diện tích trồng cây ăn trái của toàn huyện. Ngành thủy sản cũng phát triển

mạnh chiếm tới 47,3% diện tích và 50,6% sản lượng thủy sản của huyện với hình thức chủ

yếu là nuôi cá lồng bè dọc ven sông Tiền ngày càng mở rộng và phát triển nhanh.

Đây là tiểu vùng kinh tế trọng điểm phát triển kinh tế công nghiệp - thương mại và

dịch vụ, đặc biệt là sự phát triển các khu công nghiệp tập trung và cảng Giao Long, chợ đấu

mối nông sản tại xã Tân Thạch. Năm 2011, GTSX công nghiệp của vùng là 1.581 tỷ đồng,

chiếm 72,1% GTSX công nghiệp của toàn huyện. Trong cơ cấu công nghiệp, tiểu vùng

chiếm ưu thế tuyệt đối với đầy đủ các loại hình sản xuất công nghiệp, TTCN và làng nghề.

Tiểu vùng hiện có 1 khu công nghiệp (Giao Long), 1 cụm công nghiệp (An Hóa), 1 làng

nghề và các cơ sở sản xuất công nghiệp ở khu vực thị trấn, dọc hai bên quốc lộ 60.

Trong phát triển du lịch, trong tiểu vùng đã từng bước kết hợp thế mạnh kinh tế vườn

và du lịch trên sông, phát triển du lịch tại Cồn Phụng, Cồn Quy và các xã ven sông Tiền

theo hướng khai thác vùng sông nước tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng). Theo thống kê, năm

2011 tiểu vùng chiếm khoảng 64,5% số lượng khách du lịch và 69,8% doanh thu du lịch của

huyện.

2.2.3.2. Tiểu vùng kinh tế phía Tây:

Tiểu vùng có diện tích 12.680 ha, chiếm 55,1% diện tích toàn huyện, bao gồm 11 xã:

Tân Phú, Tiên Long, Tiên Thủy, Quới Thành, Phú Đức, Phú Túc, Thành Triệu, An Hiệp,

Tường Đa, Sơn Hòa, Mỹ Thành. Trung tâm của tiểu vùng là Tiên Thủy (đô thị loại 5) và các

đô thị vệ tinh Tân Phú (đô thị loại 5), thị tứ Thành Triệu, Phú Túc, thị tứ công nghiệp An

Hiệp. Dân số của tiểu vùng là 52.488 người, chiếm 32,9% dân số toàn huyện (trong đó, dân

số đô thị là 12.100 người).

Tiểu vùng có tiềm năng về phát triển du lịch do hệ thống cảnh quan sông Tiền, sông

Hàm Luông, khu du lịch Cồn Tiên, hệ thống kênh rạch tự nhiên gắn với các vườn cây ăn

trái. Tiềm năng quỹ đất lớn, thích hợp cho việc phát triển các vùng chuyên canh cây công

nghiệp và cây ăn trái. Ngoài ra tiểu vùng có thuận lợi về nguồn nước để phục vụ tưới tiêu,

cung cấp nước sinh hoạt.

94

Tiểu vùng này được coi là vùng trọng điểm về phát triển kinh tế vườn kết hợp với du

lịch sinh thái, nghĩ dưỡng. Nằm về phía Tây của huyện Châu Thành, giữa hai nhánh sông

Tiền và sông Hàm Luông. Phía Bắc giáp huyện Cai Lậy (Tiền Giang), phía Nam giáp huyện

Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, một phần phía Đông giáp TP. Bến Tre. Tiểu vùng này kết nối chủ

yếu với các huyện tiếp giáp bằng các bến cảng, đò ngang,… và kết nối với TP. Bến Tre qua

tuyến ĐT 884 tại khu công nghiệp An Hiệp.

Tiểu vùng tập trung phát triển về nông - lâm - thủy sản và kinh tế vườn là thế mạnh

của vùng. Năm 2011, GTSX nông - lâm - thủy sản chiếm 63,9% (772,6 tỷ đồng). Trong đó,

tiểu vùng có diện tích cây ăn trái chiếm 62,1% của toàn huyện. Ngành thủy sản cũng phát

triển mạnh chiếm tới 52,7% diện tích và 49,4% sản lượng thủy sản của huyện. Hình thức

nuôi cá lồng bè dọc ven sông Tiền, sông Hàm Luông và trong các mương vườn phát triển

mạnh.

Công nghiệp và TTCN phát triển theo hướng chế biến nông sản do vùng có nguồn

nguyên liệu lớn. Năm 2011, GTSX công nghiệp của tiểu vùng chiếm 27,9% (612 tỷ đồng)

GTSX công nghiệp của toàn huyện. Trong tiểu vùng hiện có khu công nghiệp An Hiệp mới

được thành lập, đang thu hút nhiều nhà đầu tư với lĩnh vực chế biến nông sản là chủ yếu và

đang đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của vùng nói riêng và huyện nói chung.

Hoạt động du lịch phát triển trên cơ sở tiềm năng của tiểu vùng với nhiều điểm du

lịch sinh thái, nghỉ dưỡng được hình thành. Năm 2011 tiểu vùng chỉ chiếm khoảng 35,5% số

lượng khách du lịch và 30,2% doanh thu du lịch của huyện. Trong tương lai ngành du lịch

tiểu vùng phát triển nhanh do các điểm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp đã hoàn thành

và đưa vào sử dụng (vườn sinh thái Hàm Luông, khu du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp Forever

Green Resort,…).

2.2.4. Đánh giá chung

2.2.4.1. Thành tựu:

Trong giai đoạn 2001 - 2011 kinh tế huyện tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng

cao và ổn định. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá, đời sống nhân dân được cải thiện

đáng kể.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh và đúng hướng: tăng dần tỷ trọng công nghiệp và

dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Trong đó, nét nổi bật của chuyển dịch cơ cấu kinh

tế thời gian qua là kinh tế vườn đã phát huy lợi thế, công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản

và các ngành dịch vụ được chú trọng đầu tư và tỉ trọng tăng dần trong cơ cấu kinh tế.

95

Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng tích cực cùng với sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế. Lao động nông nghiệp giảm dần để chuyển sang các ngành công nghiệp - xây

dựng và dịch vụ. Nguồn lao động của huyện cũng đang phát triển theo hướng tăng dần về

chất, giảm bớt lao động nông nhàn ở nông thôn.

Cơ cấu nội bộ ngành nông - lâm - ngư nghiệp chuyển dịch theo hướng khai thác tốt

hơn tiềm năng và lợi thế của từng vùng sinh thái với hai thế mạnh là kinh tế vườn và nuôi

trồng thủy sản. Kinh tế vườn tạo sản phẩm đáp ứng ngày càng cao cho thị trường và nguyên

liệu cho chế biến, tăng giá trị xuất khẩu của tỉnh.

Cơ cấu sản xuất ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị

trường tiêu thụ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm thế

mạnh của huyện và các huyện trong tỉnh là nông sản và thủy sản.

Cơ cấu ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu

cầu ngày càng đa dạng về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân như dịch vụ

thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông,…

2.2.4.2. Hạn chế:

Ngoài những thành tựu nêu trên, trong những năm qua,sự phát triển kinh tế của

huyện chưa đảm bảo bền vững và còn tồn tại một số hạn chế chủ yếu sau:

- Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, chủ

yếu khai thác tài nguyên nông - lâm - ngư nghiệp, còn phụ thuộc nhiều vào quy mô mở

thêm diện tích, năng suất tăng chậm, hiệu quả của các sản phẩm còn thấp do biện pháp bảo

quản sau thu hoạch.

- Các cơ sở sản xuất công nghiệp có năng suất, chất lượng và hiệu quả chưa cao, sức

cạnh tranh thấp, quy mô nhỏ. Cơ sở chế biến nông sản còn ít và sản phẩm chế biến chủ yếu

là sơ chế, hàm lượng công nghệ thấp, hiệu quả không cao.

- Nhìn chung các ngành dịch vụ có quy mô nhỏ và phân tán, tỷ trọng các ngành dịch

vụ cao cấp và các loại hình thương mại trung chuyển chưa cao.

- Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng nhưng vẫn còn chậm, GTSX công

nghiệp còn nhỏ và tăng trưởng chậm. Trong khi đó, sản xuất khu vực nông - lâm - thủy sản

tăng trưởng nhanh nhưng còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên chưa mang tính

bền vững. Mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp

thương mại dịch vụ còn thấp.

96

- Quan điểm phát triển bền vững trong phát triển kinh tế chưa được thể hiện rõ, chủ

yếu tập trung cho tăng trưởng kinh tế nhanh mà chưa quan tâm đến tính bền vững khi khai

thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Tiểu kết chương 2

Châu Thành có đầy đủ nguồn lực về vị trí địa lý kinh tế, điều kiện tự nhiên và KT –

XH cho sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2011 huyện đã đạt nhiều kết quả trong

tăng trưởng và phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nhiều

ngành tăng tỷ trọng với GTSX cao, đời sống người dân từng bước được cải thiện.

Tuy nhiên, kinh tế huyện còn nhiều hạn chế, yếu kém và nhiều thách thức lớn. Kinh

tế phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh nhưng xuất

phát điểm của nền kinh tế còn thấp, quy mô nhỏ bé. Các ngành kinh tế có sự chuyển dịch

theo hướng tích cực nhưng nông nghiệp vẫn giữ vai trò chính.

Về sự phân hóa theo lãnh thổ, kinh tế huyện cơ bản phân thành 2 vùng là vùng phía

Tây và vùng phía Đông, nhưng phát triển không đồng đều. Vùng phía Đông chiếm phần lớn

tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, trong khi đó vùng phía Tây có ưu thế về nông

nghiệp nên chiếm tỷ trọng lớn nhất.

Hiện nay, vấn đề đặt ra trong công cuộc CNH – HĐH và hội nhập quốc tế là huyện

Châu Thành phải đề ra những định hướng và giải pháp phù hợp để phát triển nhanh và

vững chắc.

97

98

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH

TẾ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020

3.1. Định hướng phát triển

3.1.1. Cơ sở đề xuất định hướng

3.1.1.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre đến năm

2020.

Dựa trên cơ sở hiện trạng phát triển, điểm xuất phát của tỉnh Bến Tre và mục tiêu

phát triển KT - XH của cả nước cũng như của vùng ĐBSCL, tỉnh Bến Tre đã đề ra chiến

lược phát triển KT – XH đến năm 2020 như sau:

Tập trung phát huy nội lực và thu hút đầu tư nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao

so với bình quân của vùng và của cả nước, đồng thời phải gắn với phát triển bền vững, đặc

biệt là phát huy tác dụng các kết cấu hạ tầng kinh tế, thể chế, nguồn nhân lực, khả năng tiếp

thu công nghệ cao và chú trọng hạn chế các vấn đề về suy thoái tài nguyên môi trường.

Giai đoạn 2016 - 2020 bắt đầu nâng cao tỷ trọng kinh tế tri thức trong cơ cấu GDP

trên cơ sở phát huy nguồn nhân lực, chọn lọc và ưu tiên phát triển các ngành có hàm lượng

tri thức và công nghệ cao, hoàn thiện kết cấu hạ tầng xã hội, đồng thời tích cực bảo vệ tài

nguyên môi trường. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này có thể giảm do tập

trung giải quyết các vấn đề về phát triển bền vững và một phần do xuất phát điểm sau 2016

đã khá cao. Tuy nhiên, nếu điều kiện hội nhập, điều kiện kinh tế thế giới và khu vực thuận

lợi có thể tranh thủ cơ hội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng dựa trên nền kinh tế tri thức.

3.1.1.2. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện Châu Thành đến

năm 2020.

Phương hướng chủ yếu phát triển KT - XH huyện Châu Thành đến năm 2020 là:

- Huy động cao nhất các nguồn lực, trước hết là nội lực trong tỉnh, huyện và các

huyện lân cận, nguồn lực của các thành phần kinh tế, đặc biệt là quan tâm xây dựng và phát

huy nhân tố con người để khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của huyện cửa ngõ của

Tỉnh.

- Tập trung đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng môi trường đầu tư và nền tảng hạ tầng

công nghiệp từ đó thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh, kể cả nước ngoài, vào các KCN Giao

Long, KCN An Hiệp, cụm công nghiệp An Hóa, tạo ra các điểm sản xuất và xuất nhập khẩu

99

hàng hóa lớn của tỉnh và huyện, với tốc độ phát triển cao, hiệu quả, bền vững, làm mũi đột

phá cho nền kinh tế huyện Châu Thành.

- Hoàn chỉnh các đô thị Châu Thành, Tiên Thủy và xây dựng một số trung tâm xã lớn

như An Hóa, Tân Thạch, Tân Phú thành đô thị loại 5, hình thành khu đô thị công nghiệp,

thương mại dịch vụ bên cạnh các KCN. Mở rộng diện tích Thị trấn Châu Thành chủ yếu

theo hướng Bắc, tập trung đầu tư xây dựng để đạt đô thị loại 4 sau năm 2020.

- Phát triển khu vực nông thôn theo hướng nông nghiệp sinh thái đa dạng trên nền

trái cây đặc sản, rau màu thực phẩm và chăn nuôi gắn liền với bảo quản, sơ chế, chế biến.

- Phát triển KT - XH gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái.

3.1.1.3. Kết quả đánh giá tiềm năng và phân tích thực trạng phát triển kinh tế huyện

Châu Thành giai đoạn 2001-2011.

 Các lợi thế cạnh tranh:

Huyện Châu Thành ở vị trí cửa ngõ giao lưu của tỉnh Bến Tre với nhiều trục giao

thông thủy bộ quan trọng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò dẫn đầu giao lưu

kinh tế với các tỉnh vùng ĐBSCL và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ngoài ra, huyện

nằm trên trục hành lang kinh tế ven biển ĐBSCL (theo quốc lộ 60) và có vị trí tiếp giáp với

2 TP. Bến Tre và TP. Mỹ Tho (Tiền Giang) là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, cảnh quan thiên nhiên thuận lợi cho phát

triển du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng, về nguồn. Huyện đang có nhiều dự án

đầu tư về du lịch, công nghiệp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Vùng có tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, TTCN và dịch vụ.

Nền kinh tế hiện nay chủ yếu là kinh tế vườn, công nghiệp chế biến, TTCN và dịch vụ du

lịch. Về kinh tế vườn khá vững chắc, năng động và hiệu quả. Những cơ sở thương mại quan

trọng như chợ Tân Thạch, Tiên Thủy, An Hóa và những cơ sở công nghiệp hiện đại về đông

lạnh thủy sản, những cơ sở làng nghề có tiếng như An Hiệp, Cồn Phụng đóng góp quan

trọng trong phát triển kinh tế huyện. Hệ thống giao thông đang được nâng cấp, mở rộng, xây

dựng mới đã tạo cơ hội phát triển đô thị, công nghiệp và thương mại dịch vụ.

Về hạ tầng kĩ thuật, huyện có các tuyến giao thông quan trọng nối liền với các huyện

thị của tỉnh và tỉnh Tiền Giang, có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại, phân bố rộng khắp.

Hình thành trục kinh tế nông nghiệp - thủy sản - công nghiệp - thương mại - dịch vụ quan

trọng từ Châu Thành đến TP. Bến Tre, Giồng Trôm, Ba Tri, đóng góp tích cực vào sự phát

triển chung của tỉnh Bến Tre.

100

Mặt khác, các di tích văn hóa lịch sử, vườn cây ăn trái, cảnh quan sông nước, các cồn

sông (cồn Phụng, cồn Quy) và hệ thống nhà hàng, khách sạn đang được tập trung đầu tư và

huyện đang trở thành một trong những điểm, tuyến du lịch quan trọng nhất và làm đầu cầu

cho hoạt động du lịch của tỉnh Bến Tre.

Trong giai đoạn 2001 - 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu

người tăng nhanh và cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng hiện đại hóa và ngày

càng bền vững hơn. Đây là tiền đề tạo đòn bẩy để kinh tế huyện phát triển nhanh trong giai

đoạn kế tiếp.

 Các khó khăn, hạn chế:

Trong 10 năm qua tốc độ phát triển kinh tế của huyện tương đối cao nhưng trình độ

kinh tế còn thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và ngành nông nghiệp phát triển

chưa ổn định, còn chịu nhiều ảnh hưởng của thị trường, dịch bệnh, chưa bền vững do hạn

chế về công nghệ và trình độ chuyên môn của lao động, nạn xâm nhập mặn chưa được giải

quyết triệt để,… Trong công nghiệp và TTCN, các ngành có hàm lượng công nghệ từ trung

bình đến cao còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. KCN Giao Long đã được lấp đầy diện tích sử dụng

và đang mở rộng (Giao Long II) và KCN An Hiệp đang thu hút đầu tư vào sản xuất nhưng

còn chậm, làm ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH ở địa

phương.

Ngành thương mại, dịch vụ tuy phát triển khá với nhiều hoạt động sản xuất kinh

doanh đa dạng, năng động nhưng chưa phát huy hết các lợi thế vì điều kiện giao thông và

dân cư còn hạn chế nên khả năng phát triển và thu hút đầu tư thấp.

Khu vực nông nghiệp phát triển với tốc độ chậm dần do chịu tác động của thị trường

và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp tuy có phát triển nhanh nhưng còn yếu, công nghệ sản

xuất thấp, khả năng thu hút đầu tư kém, sản phẩm xuất khẩu trong nông nghiệp phần lớn ở

dạng thô. Các ngành thương mại, dịch vụ tuy có đầu tư phát triển nhưng chưa hình thành

được các cơ sở lớn.

Cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật được đầu tư xây dựng nhưng chưa đạt yêu cầu về số

lượng và chất lượng. Cơ sở thu mua, bảo quản sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế, ngành

công nghiệp phụ trợ và các cơ sở dịch vụ, phục vụ du lịch tuy có phát triển nhưng chưa

được đầu tư đồng bộ và còn yếu. Vấn đề môi trường tuy được quan tâm nhưng thực hiện

còn chậm và thiếu kiên quyết.

101

Môi trường đầu tư được cải thiện thông qua nhiều cơ chế, chính sách được ban hành

theo hướng nhiều ưu đãi, thủ tục đơn giản,… nhưng chưa đủ sức hấp dẫn để phát huy nội

lực trong dân, thu hút mạnh các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh. Thu

hút đầu tư đang có sự cạnh tranh lớn với đô thị và các tỉnh lân cận.

Nguồn nhân lực dồi dào về số lượng, tỷ lệ qua đào tạo khá nhưng trình độ chuyên

môn kỹ thuật còn tương đối thấp, chưa được đào tạo theo định hướng và nhu cầu của các

ngành, một phần lực lượng được đào tạo bị thu hút đi nơi khác do chưa có nơi sử dụng.

Chưa có chính sách thu hút người có trình độ cao về địa phương.

 Các cơ hội:

Với vị trí địa lý kinh tế, tiềm năng về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân

lực,… Châu Thành có một số cơ hội nhất định để phát triển KT – XH trong thời gian tới:

Huyện nằm ở vị trí đầu mối giao thông, trục hành lang kinh tế quốc gia và nằm trên

tuyến giao thông chính của tỉnh, là cửa ngỏ ra vùng ĐBSCL, vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam, có tài nguyên đất phong phú và đa dạng. Đây là điều kiện thuận lợi để huyện phát

triển đồng bộ các khu vực kinh tế, xây dựng các khu, cụm công nghiệp theo hướng sản xuất

hướng về xuất khẩu và phục vụ toàn tỉnh, các khu thương mại, dịch vụ lớn.

Phát triển mạnh nền kinh tế nông, ngư nghiệp, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế. Quỹ

đất nông nghiệp của huyện khá dồi dào có khả năng bố trí mặt bằng sản xuất, hình thành các

vùng chuyên canh trái cây lớn nối kết với vùng chuyên canh Chợ Lách, áp dụng nhanh công

nghệ mới trong nông nghiệp, thủy sản, phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế vườn tạo

hàng hóa với số lượng lớn, tập trung và chất lượng cao, có khả năng thâm nhập thị trường

các đô thị lớn. Các cồn bãi và hệ canh tác ven sông Tiền, sông Hàm Luông có khả năng kết

hợp du lịch sinh thái và có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư phát triển du lịch sinh thái nghĩ

dưỡng.

Có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế

biến thủy sản. Hiện nay Châu Thành đang được đầu tư phát triển để trở thành trung tâm

công nghiệp của tỉnh. Các chủ trương, chính sách, ngân sách đang được thực hiện để tạo

một môi trường thuận lợi thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh cả trong và ngoài tỉnh, thu hút

dân cư, nguồn lao động có trình độ cao đến lập nghiệp.

Dân số đông, cơ cấu dân số trẻ, năng động, hiếu học nhưng trình độ chuyên môn còn

thấp, nếu có chính sách phù hợp sẽ là nguồn nhân lực nòng cốt cho công cuộc phát triển

kinh tế huyện và tỉnh Bến Tre.

102

 Thách thức:

Địa hình nhiều sông rạch, sự biến đổi khí hậu dẫn đến thời tiết bất thường, mưa bão,

lốc xoáy, xâm nhập mặn sâu.

Châu Thành chịu nhiều áp lực cạnh tranh lợi thế phát triển với các huyện khác trong

tỉnh. Nhiều sản phẩm nông, thủy sản sẽ bị cạnh tranh thu mua gây khó khăn cho công

nghiệp địa phương. Trong khi đó sản phẩm công nghiệp chưa đủ khả

năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

Nguồn nhân lực được đào tạo của huyện có khả năng sẽ dịch chuyển sang địa

phương khác, đây là một thách thức đối với huyện. Nếu không có chính sách thu hút lao

động hợp lý, huyện sẽ khó cơ hội giữ nguồn lao động tại chổ và tiếp nhận nguồn lao động

lao động có chất lượng cao từ nơi khác đến.

Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác nhiều tài nguyên đất đai, tăng vốn đầu

tư để khai thác các sản phẩm tươi sống, hàm lượng công nghệ và giá trị thấp, dẫn đến suy

thoái tài nguyên đất, ô nhiễm môi trường, kém ổn định về thị trường. Phát triển công nghiệp

sử dụng công nghệ và trang thiết bị lạc hậu khiến gia tăng gia phát thải gây ô nhiễm môi

trường.

3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế

3.1.2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển

 Quan điểm phát triển:

Trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế và vị trí của huyện trong tỉnh Bến Tre, quan

điểm phát triển kinh tế huyện đến năm 2020 như sau:

Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH huyện Châu Thành đến năm 2020 phải đặt

trong chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh Bến Tre, quy hoạch vùng ĐBSCL.

Phát huy nội lực và sử dụng tốt mọi nguồn lực, tập trung khai thác có hiệu quả các

tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển KT - XH nhanh, hiệu quả và bền vững, gắn

với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; tiếp tục thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, tăng dần tỷ trọng

công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh

tranh của nền kinh tế.

Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, nền công nghiệp

công nghệ cao; tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển nông nghiệp tạo ra các

sản phẩm mũi nhọn có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài

103

nước, tiến tới hình thành các vùng nông nghiệp công nghệ cao.

Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển y tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, từng

bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, giảm dần tỷ lệ hộ nghèo, tập trung đào

tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa

phát triển KT - XH với bảo vệ an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn định an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội.

Phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái, có giải pháp chủ động ứng

phó với quá trình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tầm nhìn dài hạn; trong đó, tập

trung phát triển các nguồn lực, bố trí dân cư đô thị và nông thôn phù hợp với quy hoạch

chung, phân bố không gian phát triển KT - XH và xây dựng kết cấu hạ tầng.

 Mục tiêu quát triển:

Huyện Châu Thành tập trung vào các mục tiêu chiến lược sau đây:

Phát triển nhanh nền kinh tế, đưa GDP đầu người lên mức thu nhập trung bình (theo

tiêu chuẩn Ngân hàng thế giới).

Xác định hướng phát triển đột phá của huyện trong giai đoạn sắp tới là công nghiệp

gắn với sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng nâng cao chất lượng, đồng thời đẩy

nhanh các ngành thương mại dịch vụ và du lịch. Đầu tư hoàn chỉnh các khu, cụm công

nghiệp chiến lược, nâng cao chất lượng nông sản nhằm chuyển dịch nhanh và củng cố cơ

cấu kinh tế vững chắc.

Phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu dựa trên sự phân hóa lãnh thổ về điều

kiện tự nhiên, KT – XH; Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật như giao thông,

điện, nước, bưu chính viễn thông; Tiếp tục nâng cao chất lượng lao động. Tăng cường đào

tạo lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ.

Các mục tiêu trên được thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản sau đây:

- Đạt tốc độ tăng trưởng GDP 12% trong giai đoạn 2011 - 2015 và 14% trong giai

đoạn 2016 - 2020.

- GDP bình quân đầu người đạt 1.820 - 1.930 USD vào năm 2015 và khoảng 3.467 -

3.838 USD vào năm 2020 (đạt mức thu nhập trung bình theo tiêu chuẩn Ngân hàng thế

giới).

- Khu vực nông - lâm - ngư nghiệp: sẽ đẩy mạnh sản xuất theo hướng nâng cao chất

lượng, ứng dụng sâu rộng công nghệ cao và phát triển mô hình kinh tế trang trại, hợp tác xã

104

kiểu mới, tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,7%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và

4,7%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020 do diện tích canh tác thu hẹp.

- Khu vực công nghiệp - TTCN: sẽ tăng trưởng đột phá với tốc độ bình quân

22,4%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và 18,2%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020 do mở

rộng KCN Giao Long (Giao Long II) và KCN An Hiệp trong giai đoạn 2011 - 2015 và

thành lập KCN An Hóa trong giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, phát triển chủ yếu các ngành

công nghiệp thực phẩm và đồ uống hướng đến thị trường ngoài tỉnh và xuất khẩu, phát triển

nhanh các ngành công nghiệp cơ khí điện - điện tử, công nghiệp chế biến hoàn chỉnh sản

phẩm nông – thủy sản có hiệu quả cao, công nghiệp và TTCN phục vụ cho tiêu dùng của

người dân và du khách, sử dụng nhiều lao động.

- Khu vực 3 sẽ tăng trưởng nhanh, bình quân tăng 14%/năm trong giai đoạn 2011 -

2015 và 18%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020, chủ yếu do mở rộng các hoạt động thương

mại, du lịch và đầu tư mở rộng mạng lưới chợ, trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại,

đẩy nhanh xây dựng trung tâm du lịch cồn Phụng, cồn Quy, cồn Tiên và ven sông Tiền,

sông Hàm Luông.

- Cơ cấu kinh tế đến năm 2015 là khu vực 1 - 19,5%, khu vực - 2 49,3% và khu vực 3

- 31,2%; năm 2020 là khu vực 1 - 10,0%, khu vực 2 - 55,0% và khu vực 3 - 35,0%.

- Số lao động được đào tạo so với lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 47%, trong

đó công nhân có bằng cấp, chứng chỉ 26%, trung học chuyên nghiệp 18%, cao đẳng 5%, đại

học và trên đại học 2,7%.

3.1.2.2. Định hướng phát triển kinh tế theo ngành

 Nông nghiệp - lâm - thủy sản:

- Nông nghiệp:

Trong định hướng phát triển đến năm 2020, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ

cấu GDP giảm dần nhưng nông nghiệp vẫn có vị trí đáng kể và ngày càng ổn định theo

hướng hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa có quy mô lớn, chất lượng cao

trên cơ sở sản xuất với công nghệ, kĩ thuật cao.

Phương hướng phát triển nông nghiệp chủ yếu bao gồm các nội dung sau:

Trọng tâm của phát triển tổng hợp kinh tế vườn là theo chiều sâu (hình thành các

vùng sản xuất hàng hóa, chú trọng hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, tăng hàm lượng

khoa học - công nghệ trong sản xuất, chú trọng đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ…) và

chiều rộng (đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các loại hình vườn chuyên,

105

vườn hỗn hợp trên các vùng lãnh thổ thích nghi, kết hợp khai thác nuôi trồng thủy sản, chăn

nuôi, du lịch sinh thái miệt vườn,…).

Giảm diện tích đất trồng lúa, đến năm 2020 đất lúa chỉ còn khoảng 700 ha; Phát triển

có mức độ diện tích rau màu chuyên canh và luân canh trên cơ sở đáp ứng nhu cầu trong

huyện và vùng lân cận. Sản xuất dựa trên chất lượng an toàn và sạch, chú trọng phát triển

trồng cỏ phục vụ chăn nuôi đại gia súc; Phát triển mạnh đàn heo, bò, đàn gia cầm, chú trọng

phát triển các loại hình chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp kết hợp chặt chẽ với vệ

sinh phòng dịch và cải thiện chất lượng sản phẩm, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành

chiếm tỷ trọng tương đương ngành trồng trọt.

Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp và nghiên cứu phát

triển một số loại hình sản xuất hoa kiểng phục vụ cho phát triển đô thị hóa; Tận dụng thế

mạnh của trung tâm giống nông nghiệp tỉnh nhằm phát triển các loại hình kinh doanh giống

cây trồng và dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp.

+ Trồng trọt:

Căn cứ vào tình hình và xu hướng phát triển chung, ngành trồng trọt có tốc độ tăng

trưởng ổn định vào khoảng 4,7%/năm trong giai đoạn 2011 - 2020 nhờ vào quá trình khai

thác tổng hợp kinh tế vườn theo chiều sâu và đa dạng hóa các loại cây trồng trong vườn,

phát triển mạnh các loại hình dịch vụ trong ngành trồng trọt.

Diện tích lúa dự kiến chỉ còn khoảng 2.500 ha vào năm 2015 và 700 ha vào 2020

phân bố chủ yếu tại xã Hữu Định do diện tích chuyển sang đất chuyên dùng, kinh tế vườn,

rau màu. Sản lượng 12.860 tấn năm 2015 và 3.730 tấn năm 2020.

Diện tích trồng rau màu được chú trọng mở rộng trên cơ sở chuyển đổi đất lúa hoặc

trên các khu vực đất canh tác ven các trục lộ, xen trong vườn dưới dạng chuyên canh và

luân canh với lúa. Sản xuất theo hướng phát triển loại hình rau an toàn, rau sạch nhằm phục

vụ nhu cầu thực phẩm đô thị. Diện tích rau màu khoảng 490 ha năm 2015 và 510 ha năm

2020, sản lượng tương ứng là 7.150 tấn năm 2015 và 7.640 tấn năm 2020.

Diện tích dừa tăng nhẹ theo sự chuyển dịch dần sang cây trồng lâu năm ở huyện,

phần lớn cây dừa sẽ trở thành cây nền cho quá trình phát triển trồng xen cây ăn trái và ca

cao dưới tán dừa. Diện tích khoảng 6.720 ha năm 2015 và 6.480 ha năm 2020, sản lượng

vào khoảng 67.870 tấn năm 2015 và 66.100 tấn năm 2020.

106

Cây cao cao dự kiến sẽ dự kiến sẽ phát triển ổn định dưới tán dừa và một số vườn

cây ăn trá, diện tích trong khoảng 3.500 ha năm 2015 và 3.800 ha năm 2020, sản lượng ước

25.500 – 28.100 tấn năm 2020.

Diện tích cây ăn trái dự kiến tăng nhanh đạt 9.610 ha năm 2015, sau đó giảm nhẹ,

đạt 8.000 ha năm 2020 (kể cả xen canh trong vườn dừa), trong đó chủ lực là cây có múi,

nhãn, xoài. Đặc biệt đối với các loại cây đặc sản sầu riêng, chôm chôm và măng cụt từng

bước hình thành vùng chuyên sản xuất 3 loại đặc sản này tại khu vực ven sông phía Tây

huyện. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, thâm canh rải vụ nhằm nâng cao giá trị

sản phẩm với chất lượng xác nhận đồng nhất, tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của thị trường ở

quy mô trung bình và khá, xây dựng phát triển một số chủng loại trái cây hình thành thương

hiệu đặc trưng cho huyện và tỉnh.

Dựa trên cơ sở phát triển kinh tế vườn, huyện cần tập trung khai thác tổng hợp các

tiềm năng: sản xuất và kinh doanh cây giống, hoa kiểng, nuôi gà thả vườn, nuôi thủy sản

trong mương vườn, nuôi ong ở vườn trái cây, phát triển ca cao,…đặc biệt phát triển mạnh

loại hình du lịch sinh thái trên dãy đất cao ven sông Tiền và sông Hàm Luông, chủ yếu tại

Tân Thạch, Tân Phú, Phú Đức, Tiên Long, Tiên Thủy. Năng suất bình quân cây ăn trái là

14, 8 tấn/ha năm 2015 và 15,5 tấn/ha năm 2020, sản lượng dự kiến 133.100 tấn năm 2015

và 127.200 tấn năm 2020.

Ngoài ra, cần ổn định và phát triển các loại hình sản xuất giống cây đặc trưng như:

giống các loại cây ăn trái với chất lượng được xác nhận, nhất là sản xuất giống cây ăn trái

tại Tân Phú (liên kết với các xã tiếp giáp ở huyện Chợ Lách) và một số giống lúa, các loại

rau,… Đồng thời, từng bước nghiên cứu khả năng phát triển một số hoa kiểng phục vụ cho

các đô thị TP. Mỹ Tho, TP. Bến Tre, trong đó chú trọng kiểng là thế mạnh ở huyện như

kiểng lá, kiểng cổ, kiểng thế.

GTSX của ngành trồng trọt ước đạt 1.079 tỷ đồng năm 2015 và 1.726 tỷ đồng năm

2020, tăng bình quân 4,8%/năm. Trong đó, tỷ trọng lương thực chiếm tỷ trọng dưới 1%, dừa

4%, trái cây ổn định với tỷ trọng 61%, các sản phẩm khác dự kiến đạt 35% năm 2020 nhờ

vào sự phát triển của hoa kiểng, giống, ca cao, cỏ nuôi gia súc, và các loại hình dịch vụ kỹ

thuật nông nghiệp.

Cơ cấu ngành trồng trọt trong giá trị sản xuất nông nghiệp có sự chuyển đổi, tỷ trọng

giá trị ngành chiếm khoảng 84% năm 2015 và 81% năm 2020, tạo dần thế cân đối giữa

ngành trồng trọt và chăn nuôi.

107

+ Chăn nuôi:

Ngành chăn nuôi dự kiến phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân

9,8%/năm nhằm góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng của khu vực 1 ở mức độ trung bình khá

trong suốt thời kỳ 2011 - 2020 và từng bước tạo thế cân bằng với trồng trọt trong cơ cấu

kinh tế nông nghiệp.

GTSX ngành chăn nuôi dự kiến đạt 415 tỷ đồng năm 2015 và 809 tỷ đồng năm 2020,

tốc độ tăng trưởng bình quân 9,9%/năm, chiếm 19% tổng GTSX ngành nông nghiệp.

Ngành chăn nuôi đặt trọng tâm vào việc cải thiện quy mô và hiệu quả nuôi, nâng cao

chất lượng, chú trọng vệ sinh phòng dịch.

Đàn heo được xem là vật nuôi chủ yếu tại huyện, tổng đàn dự kiến 26.800 con năm

2015 và 31.900 con năm 2020, sản lượng ước đạt 5.300 tấn năm 2015 và 6.360 tấn năm

2020. Mô hình chăn nuôi nhỏ (nông hộ) được thay thế dần sang mô hình dạng công nghiệp -

bán công nghiệp và trang trại liên hợp (chăn nuôi - thức ăn gia súc - trồng trọt), trang trại

nuôi công nghiệp với quy mô lớn (trên 100 con)

nhằm đảm bảo vệ sinh phòng dịch và chất lượng sản phẩm an toàn.

Đàn bò định hướng phát triển trở lại với số lượng 4.190 con năm 2015 và 5.900 con

năm 2020. Sau năm 2015 sẽ tiến hành thử nghiệm nuôi bò công nghiệp với thịt chất lượng

cao và nhân rộng mô hình này vào năm 2020. Sản lượng thịt 722 tấn năm 2015 và 1.017 tấn

năm 2020.

Đàn gia cầm bắt đầu gia tăng và ổn định sau năm 2015, đối tượng nuôi chính là gà

thả vườn và gà nuôi tập trung theo quy mô nuôi bán công nghiệp, công nghiệp với quy trình

vệ sinh phòng dịch chặt chẽ, vịt sẽ giảm mạnh do quá trình phát triển kinh tế vườn. Tổng

đàn gia cầm dự kiến 823 ngàn con năm 2015 và 1.152 ngàn con năm 2020, sản lượng dự

kiến 1.400 tấn thịt, 12,5 triệu quả trứng năm 2015 và 2.040 tấn thịt và 17,7 triệu quả trứng

năm 2020. Dự kiến đàn dê, cút, ong mật sẽ phát triển khá do nhu cầu thị trường tiêu thụ

ngày càng gia tăng tại khu vực nội thị, sản lượng thịt dự kiến 200 tấn thịt, 100 tấn mật năm

2015 và 236 tấn thịt, 118 tấn mật

năm 2020.

- Thủy sản:

Huyện Châu Thành chịu tác động của triều cường và thời gian nhiễm lợ ngắn, đây là

điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt với nhiều loại hình đa

dạng. Toàn huyện có khoảng 1.100 ha mặt nước trong mương vườn có thể nuôi xen, khoảng

108

300 ha mặt nước khu vực khu vực bãi bồi ven sông có thể nuôi tập trung, trên 100 ha ao

hầm thổ cư và nuôi bè ngoài sông Tiền. Ngoài ra, đội ghe tàu đánh bắt đăng ký trên địa bàn

huyện và các nhà máy chế biến thủy sản nên giá trị ngành thủy sản huyện được tăng thêm

phần đánh bắt biển. Đối với đánh bắt nội địa, với mục tiêu duy trì và cải thiện nguồn lợi

thủy sản tự nhiên hướng tới phát triển bền vững nên khả năng khai thác nội địa sẽ rất ít.

Ngành thủy sản dự kiến tăng trưởng nhanh so với các ngành khác trong khu vực 1,

tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 14%/năm, chiếm tỷ trọng khoảng 16% vào năm 2020.

GTSX ngành thủy sản ước đạt 542 tỷ đồng năm 2015 và 878 tỷ đồng năm 2020. Trong đó

ngành nuôi trồng chiếm tỷ trọng 84%, đánh bắt khoảng 3%, còn lại các loại hình dịch vụ

thủy sản. Tốc độ phát triển bình quân khoảng 13%/năm.

Phương hướng chung phát triển ngành thủy sản đến năm 2020 như sau:

- Đối với nuôi trồng thủy sản thủy sản chuyên canh: quy hoạch vùng nuôi cá da trơn

khu vực bãi bồi ven sông, cồn nổi và đất ven sông lớn, mở rộng hình thức nuôi thâm canh,

bán thâm canh. Mở rộng diện tích nuôi ao hầm trong khu vực thổ cư, phát triển mô hình

nuôi tập trung quy mô trung bình, quy hoạch khu vực nuôi bè trên sông Tiền. Đồng thời,

đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường nước trên sông ngày càng tăng để xác định vùng quy

hoạch và hướng phát triển mang tính bền vững.

- Đối với nuôi trồng thủy sản xen canh: quy hoạch vùng có khả năng thích ứng nuôi

trồng thủy sản trong mương vườn dựa trên cơ sở về diện tích vườn, loại cây trồng, nguồn

nước cung cấp cho nuôi trồng…

- Đối với ngành đánh bắt: đánh bắt biển phát triển ở triển ở mức độ vừa phải trên cơ

sở đảm bảo hiệu quả khai thác, giảm dần quy mô đánh bắt nội địa nhằm khôi phục và bảo vệ

nguồn lợi thủy sản sông rạch.

Để phát triển ổn định và bền vững ngành thủy sản cần phải chú trọng cơ sở hạ tầng

như khuyến khích hình thành các cơ sở hoặc các hộ dân sản xuất các loại giống cá, tôm

cung cấp cho địa phương; xây dựng, cải tạo ao nuôi chuyên canh, xen canh trong mương

vườn, đóng mới và cải tạo các bè cá; cải tạo và đóng mới các phương tiện đánh bắt với công

suất lớn.

+ Nuôi trồng:

Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, đạt khoảng 1.300 ha năm 2015 và 1.500 ha

năm 2020. Trong đó, diện tích nuôi chuyên canh tăng nhanh đến 340 ha năm 2015 và 420

ha năm 2020 và phần lớn diện tích là nuôi ở khu vực bãi bồi, tốc độ tăng trưởng 23%/năm.

Trong đó, dự báo diện tích nuôi thâm canh khoảng 260 ha năm 2015 và 300 ha năm 2020.

109

Đối tượng cá nuôi chính là cá tra (nuôi thâm canh) và nhóm cá đen (bán thâm canh), có thể

kết hợp nuôi ghép với các loài cá khác. Đối tượng tôm nuôi là tôm càng xanh do phù hợp

với điều kiện môi trường sinh thái của vùng. Đẩy mạnh phát triển mô hình nuôi bán thâm

canh, thâm canh dựa trên cơ sở chủ động về giống, thức ăn, kiểm soát dịch bệnh, môi

trường nước. Dự kiến diện tích nuôi xen canh trong khu vực kinh tế vườn khoảng 960 ha

năm 2015 và 1.080 ha năm 2020.

Trong cơ cấu đối tượng nuôi, các nhóm cá phổ thông sẽ giảm dần tỷ trọng và tăng tỷ

trọng các loại cá có giá trị thương phẩm và giá trị chế biến cao như cá rô phi. Ngoài ra chú

trọng phát triển các loại cá đặc sản (cá rô đồng, cá sặt rằn) và tôm càng xanh.

Về nuôi cá bè trên sông Tiền: đối tượng nuôi chính vẫn là cá tra, tuy nhiên trên cơ sở

nhu cầu thị trường, giá trị thu nhập cần phát triển ở mức độ vừa phải và kết hợp nuôi ghép

với các loại cá trắng với quy mô bè cỡ nhỏ đến trung bình.

Sản lượng nuôi trồng ước đạt khoảng 44.100 tấn năm 2015 và 52.200 tấn năm 2020.

+ Đánh bắt:

Số lượng tàu đánh bắt biển dự kiến ổn định trong khoảng 80 chiếc năm 2020; tổng

công suất các phương tiện đánh bắt khoảng 42.000 mã lực năm 2020. Sản lượng đánh bắt ổn

định ở mức 2.200 tấn năm 2020 và sản lượng đánh bắt nội địa giảm dần.

- Lâm nghiệp:

Mục tiêu chủ yếu của ngành là phòng hộ môi trường cồn bãi và bờ sông, tạo cảnh

quan cho các công trình công cộng, khu vực xây dựng và tận dụng quỹ đất trong khu vực

kinh tế vườn.

Phương hướng chung của ngành lâm nghiệp là:

- Chú trọng bảo vệ các loại cây trồng phòng hộ ven sông, rạch, cồn để bảo vệ bãi bồi,

phòng chống xói lở. Duy trì diện tích cây trồng phòng hộ phù hợp với diện tích nuôi trồng

thủy sản cồn bãi để bảo vệ có hiệu quả môi trường ven sông.

- Tập trung trồng mới cây phân tán trên các trục giao thông nông thôn, các bờ bao, bờ

đê.

- Vận động phong trào trồng cây tại khu vực đô thị, các công trình xây dựng công

cộng và kết hợp trồng các loại cây kiểng lá ở phần diện tích đất trống xung quanh nhà.

- Tận dụng diện tích đất trống trong vườn để trồng các loại cây phân tán.

Số lượng cây phân tán trồng mới hàng năm vào khoảng 60 ngàn cây năm 2015 và 120 ngàn cây năm 2020. Sản lượng khai thác khoảng 130 m3 gỗ, 820 ste củi năm 2015 và 382,0 m3 gỗ và 1.630 ste củi năm 2020. Diện tích cây dừa nước có khuynh hướng giảm nhẹ

110

do quá trình hoàn chỉnh các công trình đê bao. Trữ lượng khai thác khoảng 890 ngàn tàu lá

năm 2015 và 520 tàu ngàn năm 2020. GTSX ngành lâm nghiệp đạt 2,1 tỷ đồng năm 2015 và

2,8 tỷ đồng năm 2020 và phần lớn từ khai thác lâm sản.

 Công nghiệp:

Về định hướng chung, huyện xác định ngành công nghiệp - TTCN sẽ là đầu tàu thúc

đẩy phát triển kinh tế và đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH. Do đó, ngành công nghiệp sẽ

được tập trung đầu tư nhằm tạo mũi đột phá trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.

GTSX ngành công nghiệp dự kiến đạt 7.675 tỷ đồng năm 2015 và 23.025 tỷ đồng

năm 2020. Tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20,5%/năm. Trong cơ cấu công nghiệp

năm 2015 ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm 70% GTSX công nghiệp; ngành cơ

khí, điện, điện tử, ngành dệt may, giày da và ngành hóa chất, nhựa chiếm 21% và các ngành

khác chiếm 9%. Đến 2020 ngành ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm 59,5%

GTSX công nghiệp; ngành cơ khí, điện, điện tử, ngành dệt may, giày da và ngành hóa chất,

nhựa chiếm 38,5% và các ngành khác chiếm 2%. Số cơ sở sản xuất năm 2015 là 1.613 cơ sở

và 2.097 cơ sở năm 2020. Tổng số lao động dự báo là 18.300 năm 2015 và 25.600 năm

2020.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2020 là tôm đông, thủy sản chế biến, thức ăn

nuôi tôm, đường kết tinh, bánh kẹo, nước trái cây giải khát, sơ chế, bảo quản trái cây, cơm

dừa nạo sấy, quần áo may sẵn xuất khẩu, giày da xuất khẩu, ván ép, sản phẩm cơ khí, điện,

điện tử các loại, hàng thủ công mỹ nghệ…

Định hướng phát triển các khu, công nghiệp:

- Đẩy nhanh tốc độ xây dựng KCN Giao Long II với quy mô diện tích 68,04 ha nằm

trên địa bàn xã An Phước. Định hướng phát triển là KCN tập trung đa ngành, ít ô nhiễm môi

trường và có hàm lượng công nghệ cao. Dự kiến phát triển các nhóm ngành công nghiệp

sau: nhóm ngành công nghiệp chế biến, nhóm ngành công nghiệp dệt may sạch và nhóm

ngành công nghiệp công nghệ .

- Xây dựng KCN An Hiệp mở rộng (II) nằm tại địa bàn xã An Hiệp, diện tích 137,82

ha. Định hướng phát triển là KCN tập trung, ưu tiên các ngành chế biến hàng nông, thủy sản

với sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị cao, công nghệ sạch với các ngành như chế

biến nông thủy hải sản, thức ăn phục vụ chăn nuôi, thực phẩm tinh, đồ ăn sẵn các loại. Về

đặc điểm vẫn kế thừa các nhóm ngành công nghiệp của khu công nghiệp hiện hữu như

111

nhóm ngành công nghiệp ít ô nhiễm nằm ở phía Bắc, nhóm ngành công nghiệp nhiều nước

thải nằm ở phía Nam giáp sông Hàm Luông.

- Xây dựng KCN Giao Hòa tại xã Giao Hòa, có diện tích 248,51 ha. Định hướng phát

triển là KCN tập trung đa ngành với những ngành công nghiệp sạch, ít ô nhiễm môi trường

và có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp điện, điện tử, công nghệ cao, công nghiệp

chế biến nông thủy sản, công nghiệp dệt may, may mặc xuất khẩu, giày da, công nghiệp sản

xuất hàng tiêu dùng, cơ khí, vật liệu xây dựng và các ngành công nghiệp không gây ô nhiễm

khác.

- Xây dựng cụm công nghiệp An Hóa hoàn chỉnh tại xã An Hóa, với diện tích 30 ha.

Các ngành nghề hoạt động trong cụm công nghiệp An Hóa là: công nghiệp chế biến nông,

lâm, thủy sản thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, bao bì, công nghiệp dệt -

may, giầy - da.

- Xây dựng cụm công nghiệp Tiên Thủy với diện tích 20 ha, bố trí các ngành chế

biến trái cây, kho tồn trữ, các nhà máy sơ chế ca cao,…

- Xây dựng cụm công nghiệp thị trấn Châu Thành dựa trên cơ sở các cơ sở công

nghiệp có sẵn với các ngành phát triển như công nghiệp sơ chế biến nông, lâm, thủy sản,

công nghiệp công nghiệp dệt - may, công nghiệp phụ trợ,…

- Trên cơ sở xây dựng, mở rộng các khu, cụm công nghiệp mới, cần đẩy mạnh việc

xúc tiến kêu đầu tư vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp để nâng cao chất lượng hoạt

động và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

- Quy hoạch phát triển các làng nghề sản xuất theo các sản phẩm từ thân cây dừa, gáo

dừa, đạn lục bình,...

Định hướng đến năm 2015 huyện tập trung phát triển công nghiệp chế biến làm trung

tâm cho phát triển công nghiệp - TTCN, đẩy mạnh đầu tư theo chiều sâu tương ứng với

trình độ lao động để tiến nhanh lên công nghiệp hóa.

Định hướng chung về phát triển công nghiệp với các ngành mũi nhọn là chế biến với

chất lượng cao nông sản, súc sản, thủy sản hướng đến xuất khẩu; cơ khí chế tạo và sửa chữa

máy móc thiết bị để phục vụ cho các ngành khác và phục vụ người dân; may mặc, giày da,

lắp ráp điện - điện tử - khí gia công hướng về xuất khẩu và đặc biệt là các ngành thủ công

truyền thống về đan lát và mỹ nghệ. Để thực hiện mục tiêu trên, mỗi ngành cần phải thực

hiện các định hướng sau:

112

- Ngành công nghiệp xay xát sẽ tiếp tục duy trì phục vụ cho tiêu dùng nhưng cần

nhanh chóng đầu tư cải tiến công nghệ và thay thế trang thiết bị để nâng chất lượng thành

phẩm.

- Phát triển ngành sơ chế và chế biến trái cây với các loại trái cây thế mạnh có sản

lượng lớn ở huyện và các huyện lân cận như: cam, xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, bưởi,

ca cao,... Kêu gọi đầu tư chế biến các sản phẩm nước quả cô đặc, trái cây đóng hộp, nước

quả, trái cây chiên sấy,…

- Đẩy nhanh cải tiến thiết bị hiện đại đồng bộ và tổ chức, quản lý tốt nhà máy nhà

máy đường Bến Tre, nhất là giải quyết tốt nguồn nguyên liệu, nâng chất lượng, bên cạnh đó

sản xuất những sản phẩm phụ như cồn thực phẩm, rượu, kẹo, bánh…

- Phát triển ngành chế biến thực phẩm sử dụng nguồn nguyên liệu tại chổ và các

huyện lân cận theo hướng sử dụng công nghiệp công nghệ hiện đại tạo ra sản phẩm chất

lượng cao có khả năng tiêu thụ mạnh và xuất khẩu, xây dựng thêm nhà máy chế biến tôm

cá, súc sản, rau đậu, thức ăn chăn nuôi thủy và thức ăn gia súc tại các khu công nghiệp.

- Ngành cơ khí sẽ phát triển theo hướng chế tạo và sửa chữa máy móc thiết bị phục

vụ cho các ngành khác và phục vụ dân dụng như: cửa sắt, lan can, cầu thang, bàn ghế, xi mạ

nhằm thay thế nguồn gỗ ngày càng khan hiếm.

- Công nghiệp điện, điện tử là ngành mới phát triển ở huyện và là một trong những

ngành có tiềm năng thu hút đầu tư, sẽ tập trung phát triển tại khu công nghiệp Giao Long và

hiện đang tiếp tục kêu gọi đầu tư các nhà máy sản xuất các đồ điện gia dụng, nhà máy sản

xuất dây điện,…cũng như các nhà máy lắp ráp các sản phẩm điện tử.

- Công nghiệp nhựa sẽ đặt trọng tâm xây dựng nhà máy bao bì phục vụ tồn trữ, sơ

chế và chế biến nông thủy sản cho toàn tỉnh. Ngoài ra sản xuất các sản phẩm tấm lót, túi

bao, đệm sinh học phục vụ cho nhu cầu trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao hiện nay.

- Công nghiệp hóa chất dự báo phát triển nhanh với các sản phẩm phân bón, chế

phẩm từ mụn xơ dừa, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y,… có khả năng cung cấp cho tỉnh

và xuất khẩu các sản phẩm công nghệ sạch từ mụn xơ dừa.

- Ngành lâm sản và đồ mộc gia dụng cần đầu tư mở rộng sản xuất những mặt hàng

ghế, tủ, giường và các sản phẩm trong gia đình khác nhằm phục vụ nhu cầu huyện và các

huyện lân cận. Tiếp tục duy trì phát triển nghề đóng và sửa chữa ghe thuyền, trong tương lai

cần đa dạng hóa các sản phẩm nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững ngành này.

113

- Phát triển các ngành may mặc, thêu, giày da xuất khẩu,…trong các khu, cụm công

nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu và giải quyết lao động từ chuyển dịch từ nông nghiệp

sang.

- Phát triển thêm các mặt hàng thuộc ngành thủ công mỹ nghệ như chiếu, chỉ xơ dừa,

thảm xơ dừa, mỹ nghệ từ dừa,…tại các cụm công nghiệp hoặc làng nghề, phục vụ du khách

và đáp ứng yêu cầu của tỉnh và xuất khẩu.

Trên cơ sở hình thành các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và hệ thống giao thông

hoàn chỉnh, đồng bộ đã tạo khả năng thu hút các ngành mới ở huyện như vật liệu xây dựng,

sắt thép, nhựa, một số ngành hóa chất cơ bản,…

 Ngành dịch vụ:

Phát triển nhanh các ngành dịch vụ để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa dịch

vụ trở thành ngành kinh tế quan trọng. Phấn đấu đến năm 2015 GTSX ngành dịch vụ 1.725

tỷ đồng và 5.170 tỷ đồng năm 2020. Tốc độ tăng trưởng bình quan 16%/năm. Trong đó,

định hướng phát triển các ngành dịch vụ như sau:

- Vận tải:

Với sự phát triển của hệ thống giao thông đường bộ và bến bãi, ngành vận tải của

huyện có nhiều thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ phát triển.

Định hướng phát triển là khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư

phương tiện và khai thác, đặc biệt là các hợp tác xã, trong đó chú trọng phát triển vận tải

công cộng trên tuyến quốc lộ 60, các tuyến tỉnh lộ và các tuyến liên huyện. Đây là trọng tâm

phát triển của ngành vận tải.

Sản lượng vận tải sẽ tăng lên 1.846 nghìn tấn hàng hóa, 2.020 nghìn người năm 2015

và 2.585 nghìn tấn hàng hóa, 3.370 nghìn người năm 2020.

GTSX ngành vận tải tăng khoảng 67 tỷ đồng năm 2015 và 134 tỷ đồng năm 2020,

đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9,5%/năm. Về cơ cấu, hoạt động vận tải đường bộ chiếm

trên 80% do hệ thống giao thông vận tải đường bộ hiện đại hóa.

Để đáp ứng mục tiêu phát triển trên, ngành vận tải đầu tư phát triển theo hướng sau:

+ Xây dựng mạng lưới giao thông huyện gắn kết mạng lưới giao thông tỉnh và quốc

gia, đảm bảo tính liên thông và thuận lợi giữa hệ thống giao thông đối nội với hệ thống giao

thông đối ngoại, tạo điều kiện để huyện Châu Thành tiếp cận nhanh với thị trường trong

tỉnh, khu vực và quốc gia.

+ Từng bước hiện đại hóa mạng lưới giao thông, đảm bảo năng lực vận tải và lưu

thông trên toàn hệ thống.

114

+ Phát triển các trục giao thông đường huyện theo các hướng Bắc - Nam và Đông -

Tây, tăng cường sự liên kết giữa các xã trong huyện, là cơ sở để phát triển hệ thống giao

thông nông thôn.

+ Trên cơ sở nạo vét các tuyến đường thủy hiện có và các công trình thủy lợi cấp

vùng (trục Ba Lai, hệ thống đê bao sông Tiền, sông Hàm Luông,…), kết hợp đồng bộ với

phát triển giao thông đường bộ.

+ Xây dựng, nâng cấp hệ thống giao thông đô thị tại các xã, thị trấn và các đầu mối

giao thông đảm sự giao lưu thông suốt.

- Thương mại:

Phát triển hệ thống thương mại của huyện bao gồm: các chợ, trung tâm thương mại,

phố thương mại, siêu thị, các cửa hàng và các cơ sở dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế,

đảm bảo chức năng tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư sản xuất, vật tư xây dựng và hàng

tiêu dùng cho huyện và các vùng lân cận.

Định hướng các mặt hàng thu mua quan trọng của huyện sẽ là sản phẩm nông, công

nghiệp như dừa, trái cây, hạt ca cao, thịt gia súc, gia cầm, trứng, cá, thủy hải sản, bánh kẹo,

đường,… các sản phẩm này vừa có giá trị đáp ứng tiêu dùng cho dân vừa có khả năng xuất

sang các huyện khác.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của huyện là các sản phẩm từ trái cây tươi và chế

biến, cơm dừa nạo sấy, chỉ xơ dừa, thảm xơ dừa, thủy sản chế biến và đông lạnh, trang

phục, hàng thủ công mỹ nghệ. Kim ngạch xuất khẩu có khả năng tăng bình quân 22%/năm.

Về cơ sở vật chất, mạng lưới chợ sẽ được hình thành và phát triển đồng bộ từ trung

tâm huyện đến các xã. Ưu tiên xây dựng trung tâm thương mại tại thị trấn Châu Thành và

Tiên Thủy, xây dựng 1 siêu thị loại trung bình tại khu dân cư - khu công nghiệp Giao Long,

nâng cấp và xây dựng mới 6 chợ truyền thống.

Bảng 3.1. Quy hoạch xây mới, nâng cấp chợ ở huyện Châu Thành

giai đoạn 2011 - 2020

Diện Vốn đầu tư tối Phân Xây Nâng tích thiểu dự kiến STT Tên Chợ Địa chỉ mới hạng cấp (m2) (triệu đồng)

1 Qưới Thành Xã Quới Thành 3 3.000 1.500 x

2 Hữu Định Xã Hữu Định 3 3.000 3.000 x

3 Tường Đa Xã Tường Đa 3 3.000 1.500 x

4 An Hiệp Xã An Hiệp 3 3.000 1.500 x

115

5 Lộc Sơn Xã Phú An Hòa 3 3.000 1.500 x

6 Tân Huề Đông Xã Tân Thạch 3 3.000 4.000 x

Nguồn: Quy hoạch phát triển thuơng mại tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011- 2020

Xây dựng mới chợ buôn bán trái cây tại xã Tân Phú. Đầu tư xây dựng mới các xã

chưa có chợ như An Phú Hòa, Phước Thạnh với quy mô phù hợp với nhu cầu mua bán và

phát triển của nhân dân trong xã. Tổng số chợ truyền thống được nâng cấp và xây dựng mới

là 20 chợ.

GTSX ngành thương mại dự kiến tăng 1.212 tỷ đồng năm 2015 và 2.280 tỷ đồng

năm 2020. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 356 tỷ đồng năm 2015 và 886 tỷ đồng năm

2020, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 20,5%/năm.

- Du lịch:

Ngành du lịch huyện đặt trọng tâm vào việc xây dựng các điểm, khu du lịch, nhằm

thu hút, nối tuyến, kết tuyến với các hoạt động lữ hành, thu hút khách du lịch vào các khu

du lịch cồn sông và các vườn cây ăn trái. Định hướng phát triển ngành du lịch huyện là đa

dạng hóa các loại hình du lịch, phát triển mạnh du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, đạt

hiệu quả KT - XH cao gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Quy hoạch không gian phát

triển, đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng chính sách kêu gọi đầu tư từ ngoài tỉnh, đầu tư trực

tiếp của nước ngoài và khuyến khích phát triển du lịch tư nhân và hỗ trợ một phần việc đào

tạo, tuyên truyền, quảng bá.

Trong định hướng phát triển, sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư các tuyến

điểm du lịch, hệ thống lưu trú, cơ sở phục vụ ăn uống, giải trí đạt tiêu chuẩn. Trong đó đẩy

mạnh đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu du lịch cồn Phụng, cồn Quy, song song với xây dựng

các công trình dịch vụ phục vụ nhằm thu hút khách du lịch. Phát triển các sản phẩm du lịch

tại các vùng trọng điểm như An Khánh, Tân Thạch, Tân Phú, Phú Túc, Quới Sơn, các điểm

di tích, văn hóa lịch sử, các làng nghề, văn hóa nghệ thuật đờn ca tài tử, văn hóa ẩm thực,

các sản phẩm truyền thống, các điểm vui chơi giải trí mang bản sắc xứ dừa và vùng sông

nước, đồng thời phát triển đa dạng các loại hình lưu trú, nghĩ dưỡng, giải trí tại các điểm du

lịch.

Trong khi đó, huyện sẽ kết hợp với các công ty dịch, lữ hành trong tỉnh để phát triển

các tour du lịch liên huyện, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động du

lịch, đẩy mạnh xã hội hóa du lịch, tạo điều kiện để người dân tiếp cận và mở rộng giao lưu

với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra cần liên kết hợp tác với các doanh

116

nghiệp ngoài tỉnh, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Tiền Giang nhằm kết tuyến, nối

tuyến lữ hành và thu hút đầu tư vào các khu du lịch trọng điểm.

Trong giai đoạn 2011- 2020 ngành du lịch tập trung vào các vấn đề sau:

+ Tôn tạo, tu bổ và bảo tồn các điểm di tích lịch sử, các điểm du lịch hiện có, đào tạo

các đội văn nghệ truyền thống.

+ Mở thêm các tuyến, điểm mới, nâng cấp và đổi mới các sản phẩm du lịch hiện có

để tạo sức hấp dẫn.

+ Khuyến khích nhân dân đầu tư các điểm du lịch sinh thái, điểm vui chơi giải trí

tổng hợp.

+ Liên kết với tỉnh và TP. Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển các điểm du lịch vệ tinh.

+ Phát huy các sự kiện lịch sử và đặc sản huyện và tỉnh thành lễ hội du lịch trong

ngày tết mùng 5 tháng 5, lễ hội đạo Cao Đài, festival dừa Bến Tre,…

+ Tăng cường kêu gọi thu hút đầu tư các doanh nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam để hình thành các tổ hợp khu du lịch kiêm chức năng nghĩ dưỡng và giải trí cao

cấp tại các xã ven sông Tiền và sông Hàm Luông.

Ngoài ra, khuyến khích đầu tư nâng cấp các nhà nghỉ hiện có và mở mới các khách

sạn có quy mô và tiêu chuẩn từ 1 - 2 sao trở lên, nhà hàng có khả năng phục vụ cùng lúc 200

khách trở lên, đầu tư phương tiện vận tải khách các loại có khả năng đáp ứng yêu cầu của

từng đoàn khách với số lượng khác nhau, các cửa hàng du lịch bán hàng lưu niệm và đặc

sản của huyện và tỉnh, kết hợp với các chợ trái cây Tân Thạch, chợ đầu mối nông sản Tân

Phú.

Triển khai đề án phát triển du lịch các xã ven sông Tiền gồm các xã Quới Sơn, Tân

Thạch, An Khánh, Tân Phú, Phú Túc, Phú Đức, Tiên Long, Tiên Thủy; xây dựng hệ thống

giao thông bến bãi phục vụ phát triển du lịch tuyến Tân Thạch - An Khánh - Phú Túc, tuyến

Tân Phú - Tiên Long - Tiên Thủy, tuyến Tân Thạch - Quới Sơn,… phát triển các loại hình

du lịch trên sông và trong vườn cây ăn trái, đáp ứng nhu cầu nghỉ tại chổ, cụm biệt thự tại

các điểm du lịch, đa dạng các loại hình ăn uống, tham quan, mua sắm, vui chơi giải trí theo

hướng du lịch vườn, khai thác tối đa lợi thế của nhà vườn, đình chùa, đờn ca tài tử,…

Khuyến khích các cơ sở tư nhân đẩy nhanh công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ nhân

viên lành nghề, có tác phong và cung cách phục vụ tốt du khách, tạo sản phẩm du lịch.

Định hướng đến năm 2020, toàn huyện có 5 khách sạn hoặc cụm biệt thự đạt chuẩn 3

sao trở lên, 25 nhà nghỉ cho khách nghỉ qua đêm, 6 nhà hàng có sức chứa 2.000 chổ ngồi, 15

117

cửa hàng ăn uống có quy mô 550 chổ ngồi và 50 phương tiện vận chuyển có khả năng đưa

đón cùng lúc khoảng 750 du khách. Ngoài ra, trong xu thế kêu gọi đầu tư phát triển du lịch,

huyện có khả năng kêu gọi đầu tư các phức hợp khu dân cư và nghĩ dưỡng sinh thái tại các

xã ven sông Tiền từ An Khánh đến Tân Phú, Tiên Thủy; khu du lịch tập trung với nhiều

loại hình (công viên, trung tâm giải trí…) tại khu vực ngoại vi TP. Bến Tre.

Số lượng khách du lịch tham quan dự kiến tăng 720 nghìn lượt người 1.116 nghìn

lượt người. Trong đó, khách du lịch quốc tế chiếm 60% năm 2015 và 70% năm 2020.

Doanh thu tăng lên 65,5 tỷ đồng năm 2015 và 144 tỷ đồng năm 2020.

- Ngành bưu chính viễn thông:

Hiện đại hóa, đa dạng hóa các loại hình phục vụ, mở rộng mạng lưới, đẩy nhanh phát

triển các dịch vụ bưu chính viễn thông về xã, vùng sâu.

Dự kiến đến năm 2015 số lượng thuê bao internet đạt 5.272 thuê bao và năm 2020

đạt 6.326 thuê bao. Số thuê bao điện thoại cố định đạt 16.300 thuê bao năm 2015 và 18.500

năm 2020.

3.1.2.3. Định hướng phát triển kinh tế theo lãnh thổ

Dựa trên phương diện phát triển KT - XH tổng hợp, tiếp tục phát triển kinh tế huyện

Châu Thành theo 2 tiểu vùng như sau:

 Tiểu vùng I (tiểu vùng phía Tây):

Đây là tiểu vùng trọng tâm phát triển kinh tế vườn, trình độ thâm canh cao, đất đai có

độ phì cao, phát triển chủ yếu là nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, dân cư phân tán.

Dân số của tiểu vùng chiếm 30% dân số toàn huyện vào năm 2015 và 25% năm

2020. Quy hoạch phát triển du lịch dựa trên thế mạnh hệ thống cảnh quan sông, hệ thống

kênh rạch tự nhiên gắn với các vườn cây ăn trái. Đẩy mạnh phát triển các vùng chuyên canh

cây công nghiệp và cây ăn trái.

Tập trung phát triển kinh tế vườn là thế mạnh của tiểu vùng. Công nghiệp và TTCN

tiếp tục phát triển theo hướng chế biến nông sản do tiểu vùng có nguồn nguyên liệu lớn.

Thực hiện đề án mở rộng KCN An Hiệp hiện hữu và kêu gọi đầu tư với lĩnh vực chế biến

nông sản là chủ yếu.

GTSX của tiểu vùng chiếm khoảng 40% vào năm 2015 và 32% năm 2020. Trong đó,

GTSX ngành nông - lâm - thủy sản chiếm 70,5% vào năm 2015 và 82% vào năm 2020.

Ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp hơn so với tiểu vùng phía Đông.

Tiểu vùng phía Tây chia làm 2 tiểu vùng nhỏ:

118

- Tiểu vùng I.1:

Lãnh thổ bao gồm khu vực đê sông Tiền và đê sông Hàm Luông. Định hướng đẩy

mạnh phát triển mạnh kinh tế vườn và với nhiều loại hình đa dạng, ngành công nghiệp –

TTCN phát triển theo hướng sơ chế nông sản.

- Tiểu vùng I.2:

Khu vực đồng bằng giữa 2 sông, tiểu vùng sẽ phát triển mạnh kinh tế vườn, công

nghiệp phát triển theo hướng chế biến nông sản và khu công nghiệp An Hiệp đóng vai trò

quan trọng trong tiêu thụ nguồn nguyên liệu lớn của toàn vùng. Ngoài ra, phát triển các chợ

vựa trung chuyển nông sản và phục vụ du lịch.

 Tiểu vùng II (tiểu vùng phía Đông):

Tiểu vùng kinh tế phía Đông định hướng vẫn là vùng kinh tế động lực của huyện.

Đẩy mạnh khai thác tiềm năng lớn của vùng về du lịch, phát triển cây công nghiệp, cây ăn

trái và đặc biệt cho phát triển công nghiệp. Trong giai đoạn 2011 - 2020 tiểu vùng định

hướng phát triển các ngành, lĩnh vực như sau:

- Dân số của tiểu vùng đến năm 2015 là chiếm 70% dân số toàn huyện và đến năm

2020 là 75%. Trong đó, dân số đô thị chiếm 70% dân số tiểu vùng.

- Tiểu vùng phát triển dựa trên trục kinh tế Tân Thạch - Ngã Tư Huyện - TP. Bến Tre

và trục Ngã Tư Huyện - An Hóa.

- Tiểu vùng phát triển mạnh kinh tế công nghiệp - thương mại và dịch vụ, đặc biệt là

thực hiện mở rộng khu công nghiệp Giao Long (Giao Long II) và cảng Giao Long, xây

dựng chợ đấu mối nông sản tại xã Tân Thạch trở thành chợ đầu mối lớn nhất huyện. Trong

cơ cấu công nghiệp, tiểu vùng sẽ phát triển đầy đủ các loại hình sản xuất công nghiệp.

Ngoài ra tiểu vùng sẽ phát triển mạnh về du lịch, trong đó kết hợp thế mạnh kinh tế vườn và

du lịch trên sông, phát triển du lịch tại các cồn và các xã ven sông Tiền theo hướng khai

thác vùng sông nước tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng).

GTSX của tiểu vùng chiếm khoảng 60% vào năm 2015 và 68% năm 2020. Trong đó,

GTSX ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng 74,7% và 64,6% năm 2015 và 82% và

60% năm 2020.

Tiểu vùng phía Đông được chia làm 2 tiểu vùng:

- Tiểu vùng II.1:

Khu vực ven sông Tiền, phát triển kinh tế vườn, công nghiệp, thương mại – dịch vụ

tăng trưởng khá nhanh tại các thị tứ (An Hóa, Tân Thạch, thị trấn Châu Thành), tiểu vùng

119

đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Các loại hình dân cư

phát triển theo hướng đa dạng và kết cấu hạ tầng KT - XH tương đối phát triển.

- Tiểu vùng II.2:

Khu vực đồng bằng xa sông Tiền, phát triển chủ yếu nông nghiệp với thế mạnh là

hoa màu, chăn nuôi nhằm cung cấp cho huyện và vùng lân cận, cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng phát triển cây trồng, vật nuôi nhằm đáp ứng với nhu cầu tiêu dùng người dân.

Phát triển mạnh các sản phẩm nông nghiệp sạch, sinh thái và công nghiệp sơ chế sau thu

hoạch với các cơ sở đóng gói sản phẩm và các dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao.

3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế

3.2.1. Huy động và khai thác nguồn vốn

3.2.1.1. Nhu cầu nguồn vốn đầu tư:

Căn cứ vào mục tiêu phát triển KT - XH trong giai đoạn 2011 - 2020, nhu cầu nguồn

vốn đầu tư khoảng 39.823 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2011 - 2015 là 16.23 tỷ đồng và giai

đoạn 2016 - 2020 là 23.200 tỷ đồng.

Dự kiến Trung ương và tỉnh Bến Tre sẽ đầu tư khoảng 12% nhu cầu vốn và tập trung

chủ yếu vào các công trình giao thông cấp quốc gia và cấp tỉnh, KCN Giao Long (mở rộng),

mặt bằng các KCN An Hiệp, An Hóa, cụm công nghiệp Giao Hòa, Tiên Thủy,… hệ thống

cống đập, đê, điện nước, bưu chính viễn thông,…

Ngoài ra, trong phát triển cơ sở hạ tầng huyện tranh thủ nguồn vốn viện trợ (ODA)

tập trung vào các lĩnh vực: phát triển mạng lưới giao thông nông thôn, đầu tư và nâng cấp

hệ thống cấp thoát nước,…

Nguồn vốn đầu tư huyện chiếm 2,3% tổng nhu cầu với các công trình như hệ thống

điện nông thôn, cấp thoát nước, các chợ xã,…

Nhân dân và các doanh nghiệp trong và ngoài huyện chiếm 18% nhu cầu vốn chủ

yếu đầu tư sản xuất kinh doanh.

3.2.1.2. Giải pháp về nguồn vốn:

Thực hiện nhanh và dứt điểm các công trình thuộc hệ thống hạ tầng kỹ thuật theo

đúng quy hoạch được duyệt. Tỉnh viện trợ vốn vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn

như: hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước, cơ sở hạ tầng công nghiệp,…Tạo thuận

lợi cho huyện trong việc thu hút đầu tư và liên doanh liên kết với trong nước.

120

Tổ chức hội thảo, hội nghị giới thiệu các chương trình xây dựng khu, cụm công

nghiệp, các khu thương mại, du lịch, các chính sách đãi ngộ đầu tư, đãi ngộ nhân tài, chủ

trương và biện pháp liên kết nhằm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch trong và ngoài

nước vào huyện Châu Thành.

Thực hiện phương thức đấu thầu đất để xây dựng các hạ tầng khu, cụm công nghiệp,

chợ, siêu thị,… Sử dụng có hiệu quả các quỹ: Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp

vừa và nhỏ, Quỹ đầu tư phát triển đô thị,… trong việc phát triển kinh tế và xây dựng giao

thông nông thôn.

Tạo môi trường thông thoáng sẽ tác động tích cực trong thu hút nguồn vốn đầu tư từ

dân, các doanh nghiệp, ngân hàng vào các ngành sản xuất.

Quy hoạch quỹ đất sạch, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục đầu tư, vận dụng linh hoạt

các chính sách cho nhà đầu tư hạ tầng và sản xuất.

3.2.2. Đào tạo phát huy nguồn nhân lực

Phát triển giáo dục đào tạo là giải pháp cơ bản để phát triển con người. Trong những

năm trước mắt cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: nâng cao hiệu quả và tính thiết thực

của giáo dục. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa trong giáo dục. Thực hiện công bằng xã hội

trong giáo dục, hỗ trợ người nghèo.

Nâng cao chất lượng, trình độ nguồn lao động gắn với nhu cầu thực tế của địa

phương, từng ngành, lĩnh vực trong từng giai đoạn cụ thể, phấn đấu đạt chỉ tiêu đến năm

2020 có 90% lao động nông nghiệp được qua đào tạo các khóa khuyến nông ngư và 35 - 45

% lao động được qua các lớp đào tạo ngắn hạn về kỹ năng nông ngư nghiệp. Lao động công

nghiệp đạt 100% lao động đã qua đào tạo khi vào làm việc trong các cơ sở, xí nghiệp công

nghiệp, lao động trình độ kỹ thuật cao không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, để giải quyết việc

làm ổn định cho người lao động cần đẩy mạnh công tác dạy nghề, hỗ trợ dạy nghề phải gắn

với thực tiễn nhu cầu của các ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, cho vay vốn tạo việc làm, tăng

cường xuất khẩu lao động,…

Mở rộng các hình thức đào tạo, dạy nghề, liên kết đào tạo với các trường cao đẳng,

trường dạy nghề trong tỉnh. Xây dựng thêm 1 trường dạy nghề ở vùng phía Tây nhằm tạo sự

cân đối trong việc dạy nghề cho lao động ở đây. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến

thức về khuyến nông, khuyến ngư, hướng nghiệp cho người lao động.

Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, nghệ nhân mở các lớp đào tạo nghề, tuyển dụng

lao động tại địa phương.

121

Để phát triển thị trường lao động cần thực hiện các giải pháp sau: Điều tiết và nâng

cao chất lượng cung lao động. Từng bước sửa đổi, bổ sung, ban hành chính sách, cơ chế

đồng bộ nhằm phát triển kinh tế tạo việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nghề, cơ cấu lao động. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với thị trường

lao động.

3.2.3. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ

Đây là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt

động KT - XH. Vì vậy cần đẩy nhanh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công

nghệ trong mọi lĩnh vực từ sản xuất, dịch vụ đến quản lý.

Các giải pháp phát triển khoa học công nghệ cần được thực hiện tổng thể từ việc

nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ, phát triển thị trường công

nghệ, chú trọng hợp tác quốc tế, cùng với các giải pháp về vốn đầu tư, về nguồn nhân lực

tạo ra các nhóm giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực vào

thực hiện phát triển kinh tế huyện.

Trong nông nghiệp: ứng dụng công nghệ sinh học vào quá trình chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, lai tạo giống, chăm sóc, bảo quản, sử dụng các chế phẩm vi sinh, phân

bón vi sinh. Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hoàn thiện quy trình, mô

hình thâm canh, xen canh hợp lý theo hướng tiết kiệm, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất,

tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích (nuôi tôm càng xanh, xen canh thâm canh trong

vườn dừa, cải tạo giống tạp, các mô hình phát triển sản xuất,… Xây dựng và phát triển mô

hình gắn kết nghiên cứu - ứng dụng, chuyển giao với sản xuất và thị trường quy mô lớn

(chuổi giá trị), mô hình nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp đô thị, để hình thành các

vùng sản xuất rau, quả tập trung, an toàn chất lượng cao gắn với xuất khẩu các loại cây ăn

trái đặc sản, cây có múi, sầu riêng, măng cụt,…Sử dụng các công nghệ tiên tiến trong chế

biến, bảo quản nông sản và chế biến thực phẩm.

Trong công nghiệp: Cải tạo những khâu cơ bản trong công nghệ và kỹ thuật sản xuất,

loại bỏ những phần đã lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên vật liệu và gây ô nhiễm môi trường.

Hỗ trợ các xí nghiệp, làng nghề lựa chọn, ứng dụng, chuyển giao công nghệ thích hợp, đổi

mới thiết bị công nghệ nâng cao chất lượng và cạnh tranh sản phẩm nhất là các sản phẩm

chế biến thủy sản, sản phẩm từ dừa. Hỗ trợ phát triển khu vực TTCN, các làng nghề, phát

huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, bao bì nhãn hiệu, tiết kiệm nhiên liệu giảm

giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng giá trị gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Hỗ

122

trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực quản lý điều hành, quản trị chất lượng,

xây dựng phát triển thương hiệu.

Tăng cường hợp tác trong nước và nước ngoài về nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ, nghiên cứu có cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ

chức cá nhân đầu tư nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản

xuất phù hợp.

3.2.4. Chiến lược về thị trường

Thị trường có ý nghĩa quyết định trong quy mô, cơ cấu sản xuất và khả năng mở rộng

các mặt hàng, sản phẩm khác nhau. Vì vậy để thúc đẩy sản xuất, việc mở rộng và tìm kiếm

thị trường cần hướng tới cả thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Trong thời gian tới,

các giải pháp về thị trường cần tập trung vào các vấn đề sau:

Tập trung xây dựng và phát triển các chợ vựa, chợ đầu mối tại các vùng nguyên liệu

trên cơ sở liên kết với các thương lái, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp xuất khẩu và

có tác dụng địa điểm khảo sát giá cả, thông tin và giao dịch các loại nông sản phẩm, đặc biệt

là các loại trái cây đặc sản trên địa bàn huyện.

Tổ chức thu thập trao đổi các thông tin nghiên cứu thị trường để có thể đáp ứng được

những yêu cầu mới của thị trường và phổ biến cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, các

hợp tác xã. Về thị trường xuất khẩu các doanh nghiệp cần thường xuyên nghiên cứu nhu cầu

và thị hiếu của khách hàng ở các nước khác nhau và cải tiến cho phù hợp, chú trọng các

phương tiện thông tin (internet) nhằm tìm kiếm mở rộng thị trường. Chú trọng việc xây

dựng và bảo vệ thương hiệu, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị để các doanh nghiệp ngày càng có

chổ đứng trên thị trường.

Chú trọng thúc đẩy tiêu thụ nông sản phẩm thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp

đầu tư, kinh doanh nông sản phẩm, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư đối với các doanh

nghiệp, trang trại lớn có khả năng tổ chức tiêu thụ, chế biến hoặc có khả năng xúc tiến các

đầu mối tiêu thụ.

Khuyến khích người nuôi trồng tham gia và hoạt động có hiệu quả ở các hiệp hội.

Hình thành câu lạc bộ nhà vườn, câu lạc bộ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản (bao gồm nông

hộ, trang trại, thương lái, doanh nghiêp) nhằm phối hợp trong việc thông tin thị trường.

Đa dạng hóa kênh tiêu thụ thông qua các thương lái, chợ vựa, chợ đầu mối và xây

dựng chính sách nhằm điều tiết quy mô các kênh thương mại này phù hợp với phát triển

thương mại trong từng giai đoạn. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại cho các sản

123

phẩm thông qua các hình thức quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ trong nước và nước

ngoài. Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý thị trường nhằm đảm bảo thực hiện đúng các

quy định của pháp luật về các hoạt động mua bán trên thị trường.

3.2.5. Đổi mới cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý

Xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp, đẩy nhanh cải cách hành chính,

đổi mới lề lối làm việc. Rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng

trong việc giải quyết công việc của người dân, tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên

quan trong công việc, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện quy trình

giải quyết thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước.

Xây dựng môi trường tự do, thông thoáng để phát triển, nhất là trong nông nghiệp,

các cơ quan quản lý phải giữ vai trò hướng dẫn, đưa những ứng dụng khoa học công nghệ

mới nhất trong lĩnh vực nông nghiệp cho người nông dân và đặc biệt nghiên cứu kỹ thị

trường để người dân tập trung phát triển những cây, những con có giá trị gấp nhiều lần.

Đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ quản lý cho lý cho cán bộ nhất là cán bộ quản lý về

kinh tế, lực lượng chuyên ngành, lực lượng khoa học kỹ thuật. Nâng chất cán bộ, đưa tin

học vào quản lý hành chính song song với cải cách hành chính.

Ngoài ra, thực hiện có hiệu quả chính sách dân số, nâng cao dân trí và chất lượng lao

động. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế,

bao gồm:

- Chính sách về quản lí và sử dụng đất đai: chính sách ruộng đất, giao đất, chuyển

nhượng quyền sử dụng đất.

- Chính sách ưu tiên trong đầu tư: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản: điện, giao

thông, bưu điện, thủy lợi, nước sinh hoạt.

- Chính sách ưu đãi cho các lĩnh vực chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản

xuất, khuyến nông, khuyến ngư.

- Chính sách khuyến khích mô hình sản xuất tiên tiến đạt hiệu quả và bền vững: Mô

hình kinh tế trang trại, mô hình hợp tác xã kiểu mới.

3.2.6. Bảo vệ và cải thiện môi trường

Nâng cao nhận thức về bảo bệ môi trường. Kiểm tra, xử phạt các hành vi đổ rác, xả

nước thải chưa qua xử lý của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ… vào sông, rạch, kênh,

124

mương. Bên cạnh đó quy hoạch xây dựng bãi rác tập trung, xây dựng và ứng dụng quy trình

xử lý chất thải (rác thải, nước thải) an toàn, hợp vệ sinh.

Đối với vùng nông thôn cần hướng dẫn người dân thực hiện quy trình phân loại và

xử lý rác thải sinh hoạt tại hộ gia đình, tư vấn, hỗ trợ người dân xây dựng hầm biogas trong

việc xử lý nguồn chất thải từ chăn nuôi với quy mô lớn và áp dụng các mô hình chăn nuôi

kết hợp trồng trọt để hạn chế ô nhiễm môi trường. Ở các đô thị, hướng dẫn người dân phân

loại rác thải, sử dụng sản phẩm ít phát thải gây ô nhiễm môi trường,…

Xây dựng các công trình xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn trong các khu, cụm công

nghiệp nhất là những nơi có nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất thải ra chất thải gây ô nhiễm môi

trường. Đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư sản xuất và loại bỏ những dự án

có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Khắc phục nạn ô nhiễm tại các làng nghề, các cơ

sở TTCN. Trong nông nghiệp, tư vấn, tập huấn cho người dân ứng dụng công nghệ sạch

trong trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn được xác nhận, hạn chế sử

dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp.

Cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh

có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Phát huy vai trò giám sát của người dân, phương

tiện báo chí trong bảo vệ môi trường.

Nghiêm cấm việc khai thác thủy sản bằng phương tiện hủy diệt, tăng cường công tác

khuyến ngư bảo đảm môi trường nuôi trồng thủy sản. Kiểm tra và xử lý nghiêm các trường

hợp khai thác cát trái phép làm thay đổi dòng chảy gây sạt lỡ. Tăng cường trồng cây xanh

che phủ trên các tuyến lộ, ven đê, khu công nghiệp,…

Triển khai và thực hiện nghiêm Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp quy có

liên quan đến việc bảo vệ môi trường trên toàn huyện. Các đơn vị chức năng phải thực hiện

tốt nhiệm vụ được phân công trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Tiểu kết chương 3

Căn cứ vào quy hoạch phát triển KT - XH của tỉnh Bến Tre, mục tiêu phát triển kinh

tế huyện Châu Thành với tốc độ nhanh, vững chắc và bền vững theo hướng CNH - HĐH.

Trên quan điểm địa lý kinh tế, tác giả đã đề xuất các định hướng phát triển kinh tế chung và

định hướng cụ thể cho từng ngành kinh tế nhằm tạo cơ sở quan trọng trong việc định hướng

phát triển kinh tế trong giai đoạn sắp tới và đạt được các mục tiêu đã đề ra.

125

Để thực hiện được những mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế đến năm 2020,

huyện cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó các giải pháp quan trọng

tạo đòn bẩy trong phát triển kinh tế gồm: đẩy mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư, phát triển

nguồn nhân lực, mở rộng thị trường hàng hóa cho các sản phẩm đặc biệt là các sản phẩm mà

huyện có thế mạnh, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ. Thực hiện các giải pháp trên

cần tính đến những lợi thế, những khó khăn, hạn chế của huyện, cũng như của tỉnh Bến Tre,

những cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế mạng lại.

126

127

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Nghiên cứu phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ là một đối tượng nghiên cứu

quan trọng trong địa lý học. Qua đó có thể đánh giá được các nguồn lực phát triển và hiện

trạng phát triển, đồng thời đề ra các chiến lược, định hướng và giải pháp phát triển trong

tương lai của lãnh thổ đó. Qua nghiên cứu phát triển kinh tế huyện Châu Thành trong giai

đoạn 2001 - 2011 đã rút ra một số kết luận sau:

Hiện nay, việc đặt vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế địa phương cấp huyện là rất

cần thiết. Bởi cấp huyện có vị trí chiến lược trong hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính

lãnh thổ quốc gia. Thực trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành cũng đặt ra nhiều vấn đề

về khai thác các nguồn lực tự nhiên, KT - XH trong phát triển kinh tế.

Huyện Châu Thành có vị trí quan trọng đối với tỉnh Bến Tre và là địa phương có điều

kiện tự nhiên khá thuận lợi, tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào, chính sách phát

triển kinh tế hợp lý, lại được sự quan tâm đầu tư của Tỉnh, Trung ương và viện trợ của nước

ngoài,… Đó là nguồn lực quan trọng thúc đẩy KT - XH địa phương ngày càng phát triển.

Huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực

theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành

nông nghiệp trong cơ cấu GDP, các ngành kinh tế có bước phát triển tiến bộ. Tuy nhiên, bên

cạnh đó còn nhiều vấn đề đáng quan tâm và cần phải giải quyết trong đó nổi lên hơn cả là

phát triển kinh tế theo chiều sâu, vấn đề tổ chức lãnh thổ kinh tế và phát triển kinh tế giữa

các vùng trong huyện.

Nội dung luận văn đã đạt được các mục đích và yêu cầu đề ra là: nghiên cứu tiếp thu

những lí luận cơ bản về phát triển kinh tế dưới góc độ địa lý học; phân tích các nguồn lực

chủ yếu và thực trạng phát triển kinh tế huyện Châu Thành trong giai đoạn 2001 – 2011, từ

đó đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm phát triển bền vững nền kinh tế địa phương

đến năm 2020.

Kết quả nghiên cứu có những đóng góp nhất định đối với việc thực hiện phát triển

kinh tế của huyện ngày một giàu đẹp và vững mạnh, xứng đáng với thế và lực của một

huyện cửa ngõ của tỉnh Bến Tre. Đồng thời có thể được sử dụng để được nghiên cứu biên

soạn, giảng dạy và học tập một số bài học về địa lý địa phương huyện Châu Thành dành cho

học sinh các cấp.

128

2. Kiến nghị

Để thực hiện được các định hướng phát triển kinh tế ma 2ta1c giả luận văn đề xuất,

kiến nghị UBND tỉnh và các Sở ban ngành quan tâm đầu tư cho những dự án ưu tiên của

huyện, nhất là trong lĩnh vực xây dựng các khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khu

trung tâm thương mại, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng văn hóa xã hội nhằm tạo một bước chuyển

lớn cho huyện tiến nhanh và vững chắc trong sự nghiệp CNH - HĐH. Đặc biệt kiến nghị

triển khai xây dựng nhanh chóng KCN Giao Long II, cụm công nghiệp An Hóa và xúc tiến

kêu gọi đầu tư vào các khu vực này.

Kiến nghị Huyện xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển theo mô hình

kinh tế mới, đó là phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất lao động, hạn chế tăng

trưởng dựa vào các đặc điểm địa lý hay dân cư. Phát triển tập trung vào các lĩnh vực có liên

quan đến thu hút đầu tư, phát triển kỹ năng lao động, KCN,… và xây dựng mô hình phát

triển theo vùng lãnh thổ như: vùng phát triển công nghiệp, vùng phát triển du lịch, vùng

phát triển cây ăn trái, vùng phát triển cây dừa,…dựa trên năng suất, chất lượng cao, phát

triển những sản phẩm mà huyện có ưu thế tương đối so với các huyện khác trong và ngoài

tỉnh.

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Văn Ân (chủ biên, 2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ

nhanh, bền vững chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

2. Trần Văn Chử (2003), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Chi cục phát triển nông thôn Bến Tre, Báo cáo Quy hoạch bố trí dân cư tỉnh Bến Tre giai

đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020.

4. Cục thống kê tỉnh Bến Tre (2011), Niên giám thống kê năm 2011, Bến Tre.

5. Võ Hùng Dũng (2012), Kinh tế ĐBSCL – Số liệu kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long 2001

- 2011, Nxb Đại học Cần Thơ.

6. Ngô Đình Gia (1995), Kinh tế phát triển (Những vấn đề lí luận), Trường ĐH Kinh tế

quốc dân, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

7. Huyện Ủy Châu Thành (2010), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Châu Thành lần

thứ X.

8. Nguyễn Thành Lập (2011), Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Duyên Hải,

tỉnh Trà Vinh, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Địa lí học, Trường Đại học Sư phạm

TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh.

9. Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường

ĐH Kinh tế quốc dân, Nxb Đại học kinh tế quốc dân.

10. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành, Báo cáo tình hình thực

hiện chỉ tiêu năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012.

11. Nguyễn Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lao động xã hội,

Hà Nội.

12. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ (2008), Địa lý kinh tế - xã

hội Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008.

13. Nguyễn Chí Tuấn (2012), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Lâm Hà (tỉnh

Lâm Đồng): Thực trạng và định hướng, Luận văn Thạc sĩ Địa lí học, Trường Đại học

Sư phạm TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh.

14. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2007), Địa lý kinh tế -

xã hội đại cương, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

15. UBND huyện Châu Thành (2010), Báo cáo tình hình phát triển KT – XH giai đoạn

2000 – 2005 và kế hoạch phát triển KT – XH giai đoạn 2006 – 2010.

130

16. UBND huyện Châu Thành (2010), Báo cáo tình hình phát triển KT – XH giai đoạn

2006 – 2010 và kế hoạch phát triển KT – XH giai đoạn 2011 – 2015.

17. UBND huyện Châu Thành (2011), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KT

– XH năm 2011 và kế hoạch, dự toán ngân sách năm 2012.

18. UBND huyện Châu Thành (2011), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KT

– XH năm 2011 và kế hoạch, dự toán ngân sách năm 2012.

19. UBND huyện Châu Thành, Dự thảo báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội huyện Châu Thành giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

20. UBND huyện Châu Thành, Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đai huyện Châu Thành

đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015.

21. UBND huyện Châu Thành, Báo cáo Quy hoạch giao thông huyện Châu Thành đến

năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

22. UBND tỉnh Bến Tre, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre đến

năm 2020.

23. Quyết định phê duyệt của TTg chính phủ, (số 939/QĐ-TTg ngày 19/7/2012),“Quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm

2020”.

24. Quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Bến Tre, (số 974/QĐ-UBND ngày

27/4/2011),“Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020”.

25. Quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Bến Tre, (số 1858/QĐ-UBND ngày

27/9/2012),“Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011 – 2020 và

tầm nhìn đến năm 2015”.

26. Quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Bến Tre, (số 1146/QĐ-UBND ngày

19/6/2012),“Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến

năm 2020”.

131

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Danh mục các chợ huyện Châu Thành đến năm 2011

Số TT Tên chợ Phân loại Xã, thị trấn

1 TÂN THẠCH 2 xã Tân Thạch

2 TIÊN THỦY 2 xã Tiên Thủy

3 ẤP 4 3 xã Quới Sơn

4 THÀNH TRIỆU 3 xã Thành Triệu

5 CÁI NỨA 3 xã Sơn Hoà

6 TƯỜNG ĐA 3 xã Tường Đa

7 PHƯỚC TƯỜNG 3 xã Tường Đa

8 AN HIỆP 3 xã An Hiệp

9 PHÚ ĐỨC 3 xã Phú Đức

10 QUỚI THÀNH 3 xã Quới Thành

11 TÂN PHÚ 3 xã Tân Phú

12 PHƯỚC HẬU 3 xã Tam Phước

13 PHÚ MỸ 3 xã Phú Túc

14 PHÚ TÚC 3 xã Phú Túc

15 QUỚI SƠN 3 xã Quới Sơn

16 AN HOÁ 3 xã An Hoá

17 CÂY DA 3 Xã An Hiệp

18 GIAO LONG 3 xã Giao Long

19 TIÊN LONG 3 xã Tiên Long

20 NGÃ TƯ 3 xã Tân Phú

21 TÂN HUỀ ĐÔNG 3 xã Tân Thạch

22 HỮU ĐỊNH Diện tích 3.460 m2 3.200 m2 2.200 m2 3.239 m2 1.527 m2 3.320 m2 2.025 m2 1.430 m2 900 m2 2.974 m2 2.000 m2 1.950 m2 100 m2 1.350 m2 445 m2 2.576 m2 700 m2 600 m2 500 m2 1.000 m2 800 m2 1.200 m2 3 xã Hữu Định

Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Châu Thành

132

Phụ lục 2. Số lượng thuê bao điện thoại và internet huyện Châu Thành

giai đoạn 2001 – 2011

Năm

ĐT cố định 5761 5677 Vietel ĐT di động 68966 76546 TB internet 86 136 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 ĐT cố định 2891 3288 4100 4826 5682 6624 7371 7651 7971 8230 8417 VNPT ĐT di động 356 356 356 369 630 742 829 868 993 1219 1481 TB internet 81 81 81 81 81 81 320 932 1039 2157 3391

Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Châu Thành

133

Phụ lục 3. Danh sách các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch

trên địa bàn huyện Châu Thành năm 2011

Tên đơn vị Địa chỉ Diện tích Các dịch vụ kinh doanh

STT I. Doanh nghiệp kinh doanh du lịch DNTT Thảo Nhi 8.200m2 1 Ấp 1, Tân Thạch Khách sạn, ăn uống, hướng dẫn khách balô bằng xe gắn máy

20.000m2 Ăn uống, lưu trú, lữ 2 Ấp 10, Tân Thạch hành, xe đạp, tham quan

Công ty TNHH Du lịch – dịch vụ - thương mại Cồn Phụng DNTN Quê Dừa 1.500m2 3 Ấp 3, Tân Thạch

3.000m2 Công ty TNHH 1 thành viên Du lịch Miền Tây 4 Ấp 6A, An Khánh Vận chuyển khách, du lịch sinh thái, bán hàng đặc sản Lữ hành quốc tế, vận chuyển đưa rước khách tham quan trên sông

Nhà nghỉ trên sông 5 Ấp 2, Quới Sơn

6 4.000m2 Dịch vụ ăn uống Công ty TNHH 1 thành viên Kim Thanh - MeKong DNTT Nhà hàng sông nước Miền Tây

Ấp 3, Tân Thạch II. Điểm du lịch

1 Quới An 2.000m2 Ấp 3, Quới Sơn Bán hàng thủ công mỹ nghệ, trái cây, mật ong, xem nuôi ong, …

2 Cồn Quy 2.000m2 Ăn uống, homestay

3 Quê Dừa

4 Năm Thành xe đạp

5 Hồng Vân Ấp 2, Quới Sơn Quới Sơn Ấp 1, Tân Thạch Ấp 1, Tân Thạch

6 Tân Phú 5.000m2 Ấp 1, Tân Thạch 7.000m2 Ăn uống, hàng thêu tay, 1.500m2 Thủ công mỹ nghệ, kẹo dừa thủ công, mật ong Ăn uống, thủ công mỹ nghệ, homestay, tát mương, thuê đò máy

7 Hảo Ái 10.000m2 Ăn uống

8 Quê Dừa 1.000m2 Lò kẹo, xe ngựa

9 Hương Dừa

10 Phong Phú 2 uống, homestay

11 Bến Trúc 300m2 Lò kẹo, xe ngựa 3.000m2 Trái cây, mật ong, ăn 1.000m2 Trái cây, mật ong, đờn ca tài tử, đò chèo Ấp 2, Tân Thạch Ấp 2, Tân Thạch Ấp 9, Tân Thạch Ấp 2, Tân Thạch Ấp 3, Tân Thạch

134

2.800m2 Ăn uống 12 Tân Cồn Qui

13 Nhà hàng Hồng Vân 3.000m2 Ăn uống

14 Hồng Vân 2 3.000m2 Mật ong, trái cây

15 Diễm Phượng 1.000m2 Ăn uống

16 Vườn dâu

17 Du lịch An Khánh

18 1.000m2 Ăn uống, homestay… 1.000m2 Trái cây, mật ong, đờn ca tài tử 1.000m2 Ăn uống, bến đưa rước Điểm du lịch An Khánh khach1

19 Lê Bình Kha Trong nhà Trái cây, mật ong

20 Du lịch xanh PT 2.000m2 Homestay, đạp xe đạp

21 Nguyễn Thị Hòa trái cây

22 Tư Hóa trái cây

23 Nguyễn Văn Thông trái cây

24 Thúy 3.000m2 Phục vụ ăn uống, vườn 6.000m2 Phục vụ ăn uống, vườn 3.000m2 Phục vụ ăn uống, vườn 2.000m2 Phục vụ ăn uống, vườn trái cây

25 Du lịch Hàm Luông 20.000m2 Tham quan, ăn uống, lưu trú Ấp 3, Tân Thạch Ấp 3 (cồn Qui), Tân Thạch Ấp 3, Tân Thạch Ấp 10, Tân Thạch Ấp 5, An Khánh Ấp 5, An Khánh Ấp 6, An Khánh Ấp 5, An Khánh Ấp Phú Thành, An Khánh Ấp Tân Qui, Tân Phú Ấp Tân Qui, Tân Phú Ấp Tân Qui, Tân Phú Ấp Tân Qui, Tân Phú Ấp Hàm Luông, Tân Phú

Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Châu Thành

135

Phụ lục 4. DANH MỤC TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN MỜI GỌI ĐẦU TƯ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH

GIAI ĐOẠN 2013 - 2015

Stt Tên gọi Quy mô Thông tin tóm tắt Địa điểm Vốn đầu tư dự kiến Hình thức đầu tư

A Lĩnh vực xây dựng và kinh doanh hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp

1 1.423 tỷ đồng 100% vốn trong hoặc ngoài nước Xây dựng và kinh doanh hạ tầng Khu công nghiệp Giao Hòa 248,51ha (đã có quy hoạch chi tiết 1/2000) Xã Giao Hòa, huyện Châu Thành

Khu công nghiệp Giao Hòa được Chính phủ phê duyệt đưa vào Danh mục các KCN quốc gia giai đoạn 2011-2020, thuộc xã Giao Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Vị trí có một mặt tiếp giáp sông Tiền; KCN Giao Hòa đã được công bố quy hoạch chi tiết 1/2000 với diện tích 248,5ha. Tỉnh mời gọi Nhà đầu tư có tiềm lực và kinh nghiệm xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN Giao Hòa. Nhà đầu tư sẽ được hỗ trợ với mức tối đa bằng ba mươi phần trăm (30%) chi phí giải tỏa đền bù khu công nghiệp, khu tái định cư và nhà ở công nhân theo dự án đầu tư.

5 780 tỷ đồng

100% vốn trong hoặc ngoài nước Xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp An Hiệp mở rộng Xã An Hiệp, huyện Châu Thành 137,82ha (đã có quy hoạch chi tiết 1/2000)

Khu CN An Hiệp II được Chính phủ phê duyệt đưa vào Danh mục các KCN quốc gia giai đoạn 2011-2015 nằm tại địa bàn xã An Hiệp, huyện Châu Thành; vị trí có một mặt tiếp giáp sông Hàm Luông. KCN đã được công bố quy hoạch chi tiết 1/2000 với tổng diện tích 137,82ha. Đầu tư vào hạ tầng An Hiệp II sẽ được Tỉnh hỗ trợ với mức tối đa bằng ba mươi phần trăm (30%) chi phí giải tỏa đền bù cho khu công nghiệp, khu tái định cư và nhà ở công nhân theo dự án đầu tư.

-KCN An Hiệp mở rộng: mặt bằng được giao khi nhà đầu 6 Các dự án sản 100% vốn KCN

136

trong hoặc ngoài nước

Giao Long II và An Hiệp

xuất, chế biến nông, hàng hải sản; công nghiệp phụ trợ, sản phẩm công nghệ cao trong Khu công nghiệp Giao Long II và An Hiệp mở rộng tư có dự án được cấp phép. Các dự án đề xuất phù hợp với quy hoạch của khu, ưu tiên các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, gia trị cao, công nghệ sạch; sản phẩm mới. Mỗi ha đầu tư tối thiểu 40 tỉ VND/ha (đối với chế biến hàng nông, thủy sản, vốn đầu tư tối thiểu là 20 tỉ VND/ha). -KCN Giao Long II: Diện tích 68ha, trong đó khoảng 48 đất công nghiệp cho thuê, thuộc địa bàn xã An Phước, huyện Châu Thành, ngay phía sau khu Giao Long I, thuận lợi về giao thông, cách khu cảng Giao Long khoảng 02 km. KCN này đã hoàn thành khâu thu hồi đất và đang giải phóng mặt bằng, xây dựng đường nội bộ và có thể giao đất trong năm 2013.

7 127 tỷ đồng 37,3 ha

100% vốn trong hoặc ngoài nước Trung tâm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Xã Tam Phước, huyện Châu Thành Gồm 2 khu: Khu thứ nhất tại Trung tâm Giống Nông nghiệp - ấp Phước Thạnh xã Tam Phước huyện Châu Thành với diện tích khoảng 5,3 ha; Khu thứ hai cách Trung tâm Giống Nông nghiệp 600m về phía Tây Nam, tại ấp Phước Hậu xã Tam Phước, huyện Châu Thành. Hình thức đầu tư: hợp tác giữa Trung tâm Giống và nhà đầu tư để phát triển dự án.

B Lĩnh vực du lịch

92ha 17 Tùy năng lực nhà đầu tư 100% vốn trong hoặc ngoài nước - Làng nghề thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu dừa, giới thiệu văn hóa cộng đồng nông thôn, khu vui chơi-giải trí - Hiện trạng: đất nông nghiệp, do dân sử dụng. Hạ tầng cơ sở: chưa hoàn chỉnh. Giao thông thủy: thuận tiện Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng Cồn Phụng, Cồn Qui Xã Tân Thạch, huyện Châu Thành

137

23 53ha 1.200 tỷ đồng 100% vốn trong nước

lịch Khu du thái và sinh nghỉ dưỡng kết hợp khu dân cư Vị trí: giáp sông Hàm Luông, có chiều dài 1km; cách đường sông Nguyễn Văn Trứ 85m về phía Bắc; cách đường vào cầu Hàm Luông 680m về phía Nam. Đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng kết hợp khu dân cư. Phát triển dịch vụ, thương mại du lịch về hướng sông Hàm Luông. Xã Bình Phú, TP. Bến Tre

Nguồn: Sở Công thương tỉnh Bến Tre

138

Phụ lục 5. Một số hình ảnh về hoạt động kinh tế huyện Châu Thành

Nhà máy đường Bến Tre May mặc ở KCN Giao Long

Chế biến thủy sản ở KCN An Hiệp Sản xuất chỉ xơ dừa

Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa Sản xuất dây điện tại KCN Giao Long

139

Vườn bưởi - Quới Sơn

Trồng xen cao cao trong vườn

Nuôi cá lồng bè trên sông - Tân Thạch Nuôi heo ở huyện Châu Thành

Nuôi ông mật ở vườn trái cây Mô hình trồng dừa ở Châu Thành

140

Khách sạn nổi trên sông – Cồn Qui Khu di tích Đạo Dừa – Cồn Phụng

Đình Tiên Thủy – Xã Tiên Thủy Hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa

Forever Green Resort – Tân Phú Du lịch sinh thái trên sông

141