BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Mai Phương
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Địa lý học (trừ Địa lý tự nhiên)
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
PGS.TS. ĐẶNG VĂN PHAN
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ - sau đại học,
Ban Chủ nhiệm khoa Địa lí và Quý Thầy cô giảng dạy các chuyên đề trong
suốt niên khoá 2006-2009 vừa qua.
Tác giả gửi lời biết ơn cảm động đến với PGS.TS. Đặng Quốc Bảo đã gửi
tặng những tài liệu hết sức quý báu.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn vô cùng sâu sắc đến Thầy hướng dẫn trực tiếp
PGS.TS. Đặng Văn Phan đã luôn theo sát và tận tình hướng dẫn tác giả trong
suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo và các đồng nghiệp Trung tâm Nghiên
cứu kinh tế miền Nam – Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và đầu tư
đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả hoàn thành luận văn.
Cũng không quên gửi lời cảm ơn đến các cơ quan, ban ngành đã cung cấp,
hỗ trợ về mặt tư liệu, số liệu; đặc biệt là Trung tâm Thông tin và dự báo KT-
XH Quốc gia tại Tp.HCM thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến với gia đình, các bạn học K17
cũng như bạn bè xa gần khác đã dành những lời động viên khích lệ, những
cảm thông, sẻ chia trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009
Tác giả
Nguyễn Thị Mai Phương
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTƯ: Ban Chấp hành Trung ương
CD (Compact Disc): Đĩa CD
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng bằng Sông Hồng
HDI (Human Development Index): Chỉ số phát triển con người
HDR (Human Development Report): Báo cáo phát triển con người
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm trong nước
GDP/người: Tổng sản phẩm trong nước bình quân trên đầu người
MDG (Millennium Development Goals): Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ
PPP (Purchasing Power Parity): Sức mua tương đương
UNDP (United Nations Development Programme): Chương trình Phát triển Liên
hiệp quốc
WB (World Bank): Ngân hàng Thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, lợi thế phát triển của thế giới không chỉ là điều kiện tự
nhiên hay nguồn lực tài chính, thay vào đó là con người và trí tuệ con người. Thực tiễn
cho thấy, từ phương diện đầu tư cho phát triển thì việc đầu tư vào yếu tố con người,
không ngừng nâng cao vốn con người được coi là đầu tư có hiệu quả nhất. Kinh
nghiệm một số quốc gia phát triển khẳng định chiến lược ưu tiên đầu tư có định hướng
cho con người thông qua việc đẩy mạnh chi tiêu một số lĩnh vực xã hội: giáo dục, y tế,
an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo… đã làm nên những bước tiến thần kỳ trong tăng
trưởng kinh tế và đổi mới xã hội.
Năm 1990, Báo cáo phát triển con người UNDP đã đưa ra một phương pháp, một
cách tiếp cận theo những tiêu chí mới trong việc đánh giá sự phát triển con người thông
qua chỉ số HDI. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta, phát triển con
người một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách của Đảng
và Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ IX, tháng 4 năm 2001, đã xác định một trong
những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là:
“Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta”. [I, tr.160]. Điều đặc
biệt là lần đầu tiên chỉ số phát triển con người HDI đã cùng những chỉ tiêu tăng GDP
trở thành mục tiêu chiến lược của cả đất nước, cả dân tộc.
Để thực hiện được mục tiêu đó, xem xét, phân tích mối tương quan giữa hai chỉ
số HDI và GDP là rất cần thiết cho việc xác định ưu tiên và tiến độ thực hiện thích hợp.
Ngoài ra, giáo dục là một trong những nhân tố quan trọng trong việc hình thành
chỉ số phát triển con người. Chỉ số phát triển giáo dục phản ánh trạng thái phát triển
giáo dục trong mối quan hệ với các khía cạnh của phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên
cứu mối tương quan giữa chỉ số giáo dục và chỉ số phát triển con người, cũng như giữa
chỉ số phát triển giáo dục và chỉ số phát triển kinh tế nhằm phản ánh giáo dục là mục
tiêu của quá trình phát triển.
Giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn nằm ở vị trí thấp nhất trong bản đồ
giáo dục cả nước. Chỉ số phát triển con người HDI của các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu
2
Long chủ yếu ở nhóm trung bình. Tăng trưởng GDP luôn cao hơn mức trung bình cả
nước. Và như vậy, tìm hiểu mối tương quan giữa chỉ số phát triển con người, chỉ số
phát triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục để tìm hiểu có sự nghịch lý hay không.
Từ đó đưa ra những kiến nghị, định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách hợp lý
nhất trong giai đoạn tới nhằm làm cho người dân đồng bằng được hưởng thụ cuộc sống
hạnh phúc và bền vững hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Tìm hiểu, củng cố những lí luận về quan niệm phát triển con người và vai trò
của chỉ số phát triển con người HDI cũng như các chỉ tiêu thành phần của chỉ số HDI.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển chỉ số phát triển con người ở vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tìm hiểu, phân tích mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát
triển kinh tế và phát triển giáo dục.
Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người
cũng như để đạt được mối tương thích cao hơn trong giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ
Cung cấp được các kiến thức nền tảng về chỉ số HDI; tạo ra được sự thống nhất
về cơ sở phương pháp luận cho việc tính chỉ số HDI áp dụng ở Việt Nam nói chung và
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng.
Tính toán, đánh giá và so sánh hiện trạng phát triển các chỉ số ở vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long với các vùng khác và cả nước.
Đánh giá mối tương quan qua lại giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển
kinh tế và phát triển giáo dục với các vấn đề đặt ra:
+ Mức độ tương thích của các chỉ số này;
+ Ý nghĩa của mỗi chỉ số vào đóng góp tăng lên của HDI;
+ Sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau theo chiều thuận hay nghịch;
+ Những nhận xét, quan điểm, kiến nghị nào được đưa ra…
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những chỉ số phát triển con người
HDI; chỉ số tăng trưởng kinh tế mà đại diện là chỉ tiêu GDP, GDP/người và chỉ số phát
triển giáo dục… trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Đề tài nghiên cứu với nguồn dữ liệu cơ bản là năm 1999 và 2004, dựa trên Báo
cáo phát triển con người Việt Nam 2001 và 2006 điều tra đến từng tỉnh thành phố của
cả nước. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng nguồn số liệu từ Niên giám thống kê hàng
năm của các tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu Long.
Dựa trên số liệu gộp với các quan sát là 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu
Long trong giai đoạn 1999-2004, đề tài áp dụng hàm Forecast để mở rộng nghiên cứu
mối tương quan giữa các chỉ số đến năm 2007.
4. Hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ thống quan điểm
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ: Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống và được
xem là đặc trưng của Địa lý học. Đó là khi xem xét các sự vật hiện tượng địa lý phải
đặt chúng trong mối quan hệ về không gian. Quan điểm này luôn chiếm được sự đồng
thuận cao bởi trong thực tế các sự vật và hiện tượng địa lý luôn luôn có sự phân hóa về
mặt không gian, làm cho chúng có sự khác biệt giữa nơi này với nơi khác. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả luôn đặt các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long trong mối quan hệ không gian của vùng và của vùng với các vùng khác trong cả
nước để so sánh và đánh giá.
- Quan điểm hệ thống: Con người và sự phát triển con người, cũng như các quá
trình vận động, phát triển kinh tế - xã hội không phải là một quá trình đơn lẻ, độc lập
mà còn gắn kết với các quá trình vận động tự nhiên, xã hội khác. Chúng là bộ phận cấu
thành của hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không
ngừng, do đó, phải xem xét trên quan điểm hệ thống.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Các sự vật hiện tượng trong quá trình vận động
và phát triển của mình không chỉ biến đổi về mặt không gian mà còn có sự thay đổi
theo thời gian. Đặc biệt là vấn đề con người luôn có sự đa dạng và biến đổi phức tạp.
Sự phát triển con người từ quan niệm, nhận thức, bản chất, thái độ đối xử... với vấn đề
4
này trong quá khứ luôn có sự ảnh hưởng nhất định đến quá trình đánh giá trong hiện tại
và tương lai. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luôn được xem xét trong mối liên hệ quá
khứ - hiện tại – tương lai để làm rõ hơn bản chất của vấn đề theo thời gian, đảm bảo
được tính logic, khoa học và chính xác.
- Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững: Quá trình phát triển của con người
luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Đồng thời con người cũng có những tác
động làm biến đổi môi trường xung quanh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
con người trong quá trình phát triển của mình cần phải quán triệt quan điểm sinh thái
và phát triển bền vững khi nghiên cứu vấn đề. Phát triển con người phải đi đôi với phát
triển kinh tế, công bằng xã hội và phát triển môi trường bền vững, mục đích cuối cùng
là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Đây là một phương pháp rất quan trọng
trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở sưu tầm nhiều nguồn tài liệu
khác nhau, chúng ta tiến hành chọn lọc và xử lý nguồn thông tin, số liệu đáng tin cậy
nhất phục vụ hiệu quả cho đề tài.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: dựa trên việc phân tích nguồn tài liệu đã
có cũng như những nhận định quan sát từ thực tế, chúng ta mới có cái nhìn toàn
diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy
đủ nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đặt ra.
- Phương pháp bản đồ - biểu đồ: Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa
lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và
toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.5,
dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối
quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ.
- Phương pháp khảo sát: là phương pháp cần thiết để tăng thêm độ tin cậy của các
nguồn tài liệu thu thập và tính khách quan cho đề tài.
- Phương pháp lượng hoá: làm tăng tính định lượng trong khi lập luận nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng địa lý, sẽ làm giảm đi sự suy đoán định tính.
5
- Phương pháp dự báo: Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính
toán từ các số liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Phương pháp chuyên gia: trong quá trình thực hiện đề tài, để đảm bảo tính
khoa học và đưa ra được những dự báo chính xác, hợp lí... cần phải tham khảo ý kiến
của các chuyên gia, những nhà nghiên cứu về con người, nguồn nhân lực, về kinh tế
học giáo dục...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa và mang tính thực tiễn, tính nhân văn cao, vì
các lý do sau:
- Giải thích một cách khoa học mức đóng góp của tăng trưởng kinh tế vào việc
tăng lên của chỉ số HDI; cũng như biểu đạt phần đóng góp của nhân tố giáo dục vào
chỉ số HDI. Sự đóng góp là hợp lý hay không;
- Nhận định được tiềm năng của giáo dục có thể tác động vào sự gia tăng của
thu nhập kinh tế;
- Tạo một cơ sở lý luận khoa học vững chắc để giải quyết các vấn đề này. Có
những biện pháp thúc đẩy, tăng cường nhằm nâng cao chỉ số HDI trong tương lai,
làm cho cuộc sống mọi người dân tốt đẹp hơn.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội; trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy…
6. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế
và phát triển giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Chương 3: Một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người
ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Kết luận
6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN
Từ bản chất sinh học của mình, con người khi được sinh ra đã luôn khiếp sợ
cái đói. Khi đã chế ngự được phần nào cái đói, con người lại luôn bị ám ảnh bởi cái
nghèo. Có thể nói nghèo đói luôn là kẻ thù rình rập con người suốt lịch sử phát triển
của mình cho đến hôm nay. Và đến tận năm 2015, người ta tính rằng dù có giảm
được một nửa số người trên thế giới sống dưới mức 1 USD/ngày thì vẫn còn khoảng
900 triệu người ở các nước đang phát triển còn phải sống trong cảnh vô cùng nghèo khó 1. Chính vì lẽ đó mà từ hàng ngàn năm nay, con người và cả xã hội luôn lấy sự
giàu có làm mục tiêu phấn đấu.
1.1.1. Quan niệm phát triển kinh tế
Trong chiến lược phát triển của mình, các chính phủ đã từng lấy việc mở rộng
năng lực sản xuất của cải vật chất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng
đầu. Tăng trưởng kinh tế không chỉ được xem là chìa khóa của sự phát triển mà còn
bị đánh đồng với tiến bộ xã hội. Nhằm lượng hóa sự phát triển này, các khái niệm
tổng sản phẩm quốc gia (GNP – Gross National Product) hoặc tổng sản phẩm
trong nước (GDP – Gross Domestic Product) trên đầu người đã ra đời vào những
năm 60 của thế kỷ 20. Trong bất cứ kế hoạch phát triển quốc gia nào, chỉ số
GDP/người cũng được tính toán kỹ càng nhất và được đưa lên hàng đầu. Trên
trường quốc tế, chỉ số trên đã sớm trở thành tiêu chí duy nhất để phân loại các quốc
gia, xếp quốc gia này vào nhóm nước đã phát triển hay xếp quốc gia kia vào nhóm
nước đang phát triển. Bất bình đẳng xã hội, sự nghèo khó cùng cực của một bộ
phận dân cư, sự xuống cấp của môi trường tự nhiên và xã hội… tất cả đều được
chấp nhận như là cái giá phải trả cho sự phát triển, nói cho chính xác hơn là trả cho
sự tăng trưởng. Tuy nhiên thực tế cho thấy tại nhiều quốc gia, GDP/người tăng
1 Báo cáo phát triển con người 2001 – Đổi mới vì sự phát triển con người. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 28.
nhưng thất nghiệp và nghèo đói cùng cực cũng tăng theo hoặc không giảm; khoa
7
học kỹ thuật phát triển giúp con người bay lên cung trăng nhưng tỷ lệ người mù
chữ, người không có nước sạch, người không được hưởng các dịch vụ y tế tối thiểu
cũng tăng; vệ tinh truyền hình biến thế giới thành “ngôi làng” nhưng phần lớn cư
dân lại đói thông tin và bị tước mất cơ hội để phát triển;… Truớc những nghịch lý
trên, quan niệm rằng cứ tăng thu nhập đầu người là có thể đem lại sự phồn vinh cho
quốc gia đã sụp đổ. Hơn nữa, một quốc gia có GDP/người cao chưa hẳn là xây dựng
được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – một ước mơ từ ngàn năm của loài
người. Người ta nhận ra rằng thật là nông cạn và phiến diện khi đo trình độ phát
triển của một xã hội mà chỉ dùng tiêu chí là GDP/người, tỷ lệ tăng GDP hàng năm
hay các chỉ tiêu về của cải tiện nghi vật chất.
Đến những năm 70, người ta chuyển sang quan niệm tăng trưởng phải có phát
triển, hiểu là tăng trưởng nguồn thu nhập kinh tế phải kéo theo những biến đổi tích
cực trong đời sống xã hội và đời sống con người, cả vật chất lẫn tinh thần. Vấn đề
tăng trưởng kinh tế được gắn với vấn đề phát triển văn hóa – xã hội, phát triển con
người. Từ đó, phát triển bền vững dần trở thành tư tưởng trung tâm trong nhận thức
về phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, tăng
nguồn vốn, đó còn là bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên của trái đất mà thế hệ
chúng ta đang “vay” của thế hệ sau, đó còn là bảo vệ sự đồng thuận của cộng đồng
trong việc định hướng và chia sẽ những giá trị xã hội, bảo vệ sự ổn định xã hội.
Việc nhân loại chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng sang mô hình phát triển bền
vững đòi hỏi trước hết phải có những nhận thức mới, sâu sắc hơn về phát triển và
sau đó hình thành những công cụ đo đạc mới, sử dụng tiêu chí mới, khắc phục được
tính phiến diện của tiêu chí tăng trưởng GDP/người.
Nhà kinh tế Theodor Schoultz (giải thưởng Nobel kinh tế 1979), người đã đưa
ra khái niệm vốn con người (Human Capital), quan niệm rằng nền kinh tế của mỗi
nước tồn tại và phát triển vừa nhờ vốn vật chất – tư bản vật chất – như tài nguyên,
đất đai, vừa nhờ vốn con người. Môn phái của Schoultz cho rằng sự đầu tư vào giáo
dục sẽ tạo ra vốn con người và loại tư bản này cũng giá trị chẳng kém tư bản vật
chất. Nhờ giáo dục mà con người thành chủ sở hữu của hai nhân tố: lao động sống
8
(chủ yếu là năng lực thể chất) và tư bản người (vốn con người) là năng lực trí tuệ
của mỗi cá nhân. Mỗi nhân tố này tạo ra phần nhất định trong thu nhập cá nhân.
Trong hai nhân tố này thì năng lực trí tuệ là quan trọng nhất. Người ta đã cố gắng
đưa ra một hàm số biểu thị sự tăng trưởng kinh tế như sau:
Q = F (K, L, H, A)
trong đó: K là vốn vật chất (Capital)
L là lực lượng lao động (Labour Force)
H là vốn con người (Human Capital)
A là nhân tố tổng hợp gồm thông tin, tri thức, vốn xã hội (mức độ
đoàn kết xã hội, tinh thần sẵn sàng hành động – những yếu tố tạo ra
sức mạnh tổng hợp trong quan hệ giữa nhà nước với công dân) và
vốn tổ chức (được đặc trưng bằng các luật lệ, quy chế hoạt động).
Đến thập kỷ 80 ra đời khái niệm nguồn lực con người (Human Resource).
Nguồn lực con người được quan niệm là tổng thể tiềm năng lao động của một đất
nước, một cộng đồng, gồm cả dân số trong và ngoài “độ tuổi lao động”. Nguồn
nhân lực cần được quản lý, chăm sóc và phát triển từ tuổi ấu thơ, tuổi vị thành niên,
tuổi lao động và cả sau tuổi lao động. Phát triển nguồn nhân lực không chỉ là phát
triển thể lực (sức người) và trí lực (vốn người) mà là sự phát triển toàn diện thể lực,
trí lực, tâm lực, thái độ sống và lao động, hiệu quả lao động. Muốn phát triển nguồn
lực con người mạnh mẽ, cần chú ý 5 yếu tố:
- Giáo dục và đào tạo
- Sức khỏe và dinh dưỡng
- Môi trường
- Việc làm
- Tự do chính trị và kinh tế
Trong 5 yếu tố này thì giáo dục và đào tạo là quan trọng nhất.
1.1.2. Quan niệm phát triển con người
Năm 1990, lần đầu tiên một cách hiểu mới về phát triển được công bố trong
báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Báo cáo phát triển
9
con người (Human Development Report-HDR). Báo cáo đã được mở đầu bằng
đoạn sau: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và
mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường thuận lợi cho phép con người được
hưởng cuộc sống lâu dài, mạnh khỏe và sáng tạo. Chân lý đơn giản này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính” 2. Lời mở đầu
này đã chính thức tuyên chiến với quan niệm lạc hậu về phát triển đã ngự trị suốt
một thời gian dài và đưa con người từ vị trí là một nhân tố sản xuất góp phần làm
tăng trưởng kinh tế, là một động lực kinh tế hướng đến vị trí con người là trung tâm
- vừa là động lực vừa là mục tiêu đích thực của phát triển.
1.1.2.1. Triết lý con người là trung tâm của UNDP
Theo UNDP, mục tiêu của phát triển không chỉ là phát triển kinh tế hoặc xã
hội mà chính là phát triển con người. Lịch sử đã ghi nhận những trường hợp có phát
triển trong kinh tế nhưng không có phát triển xã hội hoặc tưởng rằng có phát triển
xã hội nhưng con người lại bị gạt ra bên lề của sự phát triển đó.
Quan niệm phát triển con người có 5 đặc trưng cơ bản:
- Một là đặt con người ở trung tâm sự phát triển;
- Hai là con người không chỉ là phương diện mà là mục tiêu của phát triển;
- Ba là nâng cao vị thế của người dân từ chỗ chỉ là đối tượng hưởng thụ
một cách thụ động thành quả của sự phát triển trở thành thành viên tham
gia tích cực, chủ động vào các hoạt động có ý nghĩa quyết định đến cuộc
sống của mình;
- Bốn là tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân, không phân
biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch đồng thời tạo lập sự công
bằng giữa các thế hệ và tính bền vững về môi trường;
- Năm là quan điểm phát triển con người mang tính toàn diện vì một quá
trình mở rộng cơ hội lựa chọn của mọi người dân về tất cả các mặt của
2 UNDP. HDR 1990. Http://hdr.undp.org/reports:
cuộc sống từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường.
10
Tại sao mở rộng cơ hội lựa chọn lại chính là phát triển con người?
Nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger giải thích như sau: “Cái phân biệt giữa
người và động vật là ở sự kiểm soát lớn hơn của con người đối với môi trường của họ
và quyền tự do lựa chọn lớn hơn của họ, chứ không phải ở chỗ họ hạnh phúc hơn.
Việc kiểm soát môi trường của con người, trên lý thuyết, là một mục tiêu quan trọng giống như hạnh phúc” 3. Cần lưu ý là vì không có một quan niệm đồng nhất về hạnh
phúc và không thể có mối quan tâm giống nhau trong những con người khác nhau
nên việc mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người chính là tạo điều kiện để con người
vươn tới cuộc sống có ý nghĩa nhất, thú vị nhất theo nhận thức của chính mình. Tính
nhân văn của vấn đề mở rộng cơ hội lựa chọn chính là ở điểm này.
Thế nào là mở rộng cơ hội lựa chọn của mọi người?
Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn được tạo ra bởi việc
mở mang các năng lực và các hoạt động của con người. Năng lực được UNDP
quan niệm là khả năng đạt đến các mục tiêu được lựa chọn và thực hiện các chức
năng có liên quan một cách đầy đủ, hiệu quả và lâu dài. Các năng lực cần được mở
rộng bao gồm các năng lực sinh thể (trước hết là sức khỏe) và các năng lực tinh thần
(trước hết là tri thức). Sau đó là năng lực tham gia, năng lực tổ chức thực hiện và
năng lực hưởng thụ kết quả. Nhận thức như vậy giúp chúng ta thấy tầm quan trọng
của chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở gia đình và cộng đồng đối với việc mở mang,
bồi dưỡng năng lực con người.
Các hoạt động cần được mở rộng bao gồm các hoạt động lao động và nghỉ
ngơi. Như vậy mở rộng các hoạt động sẽ làm cho con người có khả năng sử dụng
tốt hơn năng lực sinh thể và tinh thần của mình cả trong công việc lẫn nghỉ ngơi
(C.Mác đã từng ví von rằng thời gian rỗi rãi chính là không gian để phát triển nhân
cách). Con người phải được sống trong môi trường tự nhiên và xã hội mà ở đó khả
năng sáng tạo, được sống khỏe mạnh, thọ lâu, được học hành, quyền tự do chính trị
3 Kinh tế học của các nước phát triển. E.Wayne Nafzinger. Nxb Thống kê. Hà Nội, 1998, trang 65.
và quyền tự do cá nhân không ngừng tăng lên.
11
Quan niệm phát triển đầy tính nhân văn về con người không chủ trương sự
phát triển mang tính bình quân, ai cũng như ai mà hướng tới việc tạo ra sự bình
đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, phân bố năng lực công bằng hơn trong các
cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, nhà quản lý xã hội cần quan tâm sâu hơn, có biện
pháp tích cực hơn đối với các nhóm người “yếu thế” và dễ bị tổn thương trong dân
cư. Đó là những người khuyết tật, người nghèo, người dân tộc ít người, cư dân vùng
sâu, vùng xa, phụ nữ… Việc đảm bảo yêu cầu được ăn, mặc, ở, trị bệnh, được cung
cấp thông tin cho các nhóm người nói trên chính là nhằm bảo đảm việc phát triển
các năng lực cơ bản cho họ, rút ngắn dần sự bất bình đẳng trong việc lựa chọn cơ
hội phát triển, phân bổ năng lực công bằng hơn trong các nhóm dân cư khác nhau.
Có thể tóm lược quan niệm của UNDP về phát triển con người như sau:
Phát triển con người là sự phát triển của con người, do con người thực
hiện và vì con người.
Phát triển con người vừa nâng cao năng lực lựa chọn của con người
vừa mở rộng cơ hội lựa chọn của con người.
Phát triển con người gắn liền với quá trình dân chủ hóa xã hội, với sự
phát triển bền vững của cộng đồng, tổ chức cho mọi công dân tích cực,
chủ động tham gia vào các quá trình xã hội, làm cho vốn xã hội, vốn tổ
chức mà mình là thành viên không ngừng phát triển.
Phát triển con người nhằm đáp ứng không ngừng các nhu cầu của con
người từ ăn, mặc, ở đến các nhu cầu được giao lưu, được tự khẳng định,
được tiến bộ, được sáng tạo.
Phát triển con người cần phải được đo đạc, được lượng hóa thông qua
những chỉ số, từ các chỉ số cơ bản về thu nhập, giáo dục, tuổi thọ đến
các chỉ số khác của đời sống văn hóa, của sự an toàn của môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội,
UNDP đã cố gắng chọn một thước đo cũng “đơn giản” như GDP nhưng khắc
phục được thiếu sót của thước đo ấy. Thước đo mới phải tính đến các khía cạnh xã
hội của đời sống con người. Ba yếu tố quan trọng sau đây đã được UNDP lấy làm
12
tiêu chí đo đạc để tham gia vào công thức tính chỉ số phát triển con người HDI. Ba
tiêu chí đó là:
- Sức khỏe
- Học vấn
- Mức sống
Năm 1990 trở thành thời điểm đánh dấu sự ra đời của một thước đo mới –
HDI. GDP đã mất địa vị độc tôn là thước đo duy nhất trình độ phát triển của quốc
gia để trở thành một tiêu chí thành phần của HDI. Cách đo đạc thành tựu trung bình
của quốc gia bằng HDI là một bước ngoặt lớn trong cách đánh giá sự phát triển
nhưng sớm được sự đồng tình rộng rãi trên thế giới. Điều đó được thể hiện qua các
con số sau đây: Năm 1999, 120 nước đã công bố Báo cáo phát triển con người. Ở
Ấn Độ, có bang còn tự đo đạc HDI. Nhiều chính phủ đã lấy HDI làm căn cứ để đề
xuất chính sách và chiến lược phát triển quốc gia.
Tuy nhiên cần lưu ý một điều là các chuyên gia UNDP vẫn khuyên các nước
trong quá trình tự tính HDI nên bổ sung hoặc thay thế các thành phần cơ bản trong
công thức tính bằng những thành phần khác phù hợp hơn với tình hình thực tế của
từng quốc gia.
Triết lý con người là trung tâm của UNDP còn được tiếp tục phát triển lên tầm
cao hơn trong Tuyên bố Thiên niên kỷ ra đời tháng 9 năm 2000 tại Hội nghị thượng
đỉnh của Liên Hiệp Quốc ở New York. Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(Millennium Development Goals – viết tắt là MDG) được 189 nguyên thủy quốc
gia (trong đó có Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức
Lương) thông qua tại hội nghị này là một kế hoạch mang tính toàn cầu được các
chính phủ cam kết thực hiện bằng nhiều hoạt động rộng lớn trong đó có hoạt động
phát triển con người. MDG xác định một hệ thống tổng hợp 8 mục tiêu ưu tiên của
các chính phủ trên lĩnh vực kinh tế - xã hội với một hệ thống các nhiệm vụ được
lượng hóa trong 18 chỉ tiêu với 48 chỉ số giám sát sự tiến bộ trong từng giai đoạn.
13
Triết lý của MDG gắn kết chặt với triết lý con người là trung tâm. Đó là nâng
cao các giá trị tự do, bình đẳng, đoàn kết, khoan dung, tôn trọng môi trường. Đó là
nâng cao quyền con người, mở rọng sự lựa chọn, phát triển kinh tế và xã hội gắn liền
với công bằng, hợp tác toàn cầu để cùng phát triển.
1.1.2.2. Quan điểm vì con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam
Triết lý phát triển con người của UNDP nhanh chóng tìm được sự cộng hưởng
ở Việt Nam là nhờ bắt gặp truyền thống “thương người như thể thương thân” của
người Việt Nam, lý tưởng giải phóng con người của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng
di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại.
Trong Di chúc viết năm 1969, Hồ Chí Minh mở đầu một cách hết sức tự nhiên
bằng câu “Đầu tiên là công việc về con người”. Vốn là một người “chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
nên Chủ tịch Việt Nam đã thể hiện tư tưởng chăm lo cho con người xuyên suốt trong
mọi hoạt động ở bất kỳ hoàn cảnh nào, thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam.
Tháng 9 năm 1945, tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch
kiến quốc, Người đã nhắc nhở: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập…
chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập
cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân đã được
ăn mặc no đủ” và chỉ đạo phải thực hiện ngay 4 mục đích”: Làm cho dân có ăn;
Làm cho dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở; Làm cho dân có học hành.
Có thể nói triết lý của UNDP những năm 90 về con người là sự thừa kế những
tư tưởng của các nhà nhân văn lớn của thế giới, trong đó có Hồ Chí Minh. Vào năm
1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng chính sách nội chính của Chính
phủ “chỉ có 3 điều mà thôi:
a. Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc, đủ ăn;
b. Mở mang giáo dục để cho ai nấy cũng biết đọc, biết viết;
c. Thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự
do” và tiếp sau đó nói rõ “chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có
14
một điều là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn
hòa bình”.
Người có nhắc nhở cán bộ phải “động viên toàn thể nhân dân hăng hái thi
hành chính sách đã định”. Những tư tưởng nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
chăm lo cho dân có cái ăn, được học hành, được hưởng quyền dân chủ, về hợp tác
cùng phát triển với các nước sau đó nửa thế kỷ lại đã được diễn đạt dưới hình thức
khác và phong phú hóa thêm trong Báo cáo MDG lần thứ nhất của khu vực châu Á
– Thái Bình Dương.
Quan điểm vì con người được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ
trong Báo cáo Chính trị trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: “Mục tiêu của
chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức
mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa sự phát triển
kinh tế với sự phát triển xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực phát triển kinh tế. Quan điểm vì
con người này đã được Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ghi rõ trong điều 2: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”.
Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ Đảng khóa VII đã đúc kết quan điểm nhân văn vì
con người của Đảng như sau: “tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con người,
chúng ta coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn, là chủ thể sáng tạo
mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; đồng thời, coi hạnh phúc con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chúng ta”
Quan điểm phát triển con người còn được tiếp tục thể hiện sâu hơn khi Hội
nghị lần thứ năm BCHTƯ khóa VIII xác định rằng “… không quan tâm giải quyết
tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể
có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”.
15
1.1.3. Quan niệm phát triển giáo dục
Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là nền tảng cơ bản để phát triển bền
vững cho một quốc gia, dân tộc. Vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia để tạo
dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị xã hội.
Ngoài chức năng bao trùm trên, giáo dục còn mang một nhiệm vụ không kém
phần quan trọng, đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển hay cụ thể hơn là hiện thực
hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong
xã hội. Bởi, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ hội, ai cũng như ai, tiếp thu những
giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo dục đã đưa lại cho họ.
Phát triển giáo dục không chỉ dừng lại phục vụ cho những cái hiện tại cần, phản
ánh những cái hiện tại đang diễn ra mà cao hơn, thiêng liêng hơn là giáo dục phải xây
dựng một nhận thức về hình ảnh của xã hội ngày mai, tạo ra một khả năng tư duy về
phương thức nhanh chóng đi tới xã hội đó.
Giáo dục đi trước thời đại không phải là giáo dục xa rời thực tế. Thực tế mà
giáo dục phải gắn chặt là thực tế động, là thực tế tiến hóa. Giáo dục mà gắn với thực
tế thấp, tức là những mặt thực tế đã bộc lộ những dấu hiệu lạc hậu thì giáo dục không
thể có tác động thúc đẩy, nếu không nói là tác động kìm hãm.
Và giáo dục không chỉ là một phúc lợi. Dĩ nhiên giáo dục có mang lại một cuộc
sống tinh thần phong phú cho đông đảo quần chúng. Song tính năng của giáo dục
không chỉ có thế mà chủ yếu là làm nền tảng, làm động lực cho sự phát triển kinh tế –
xã hội. Có thể nói không có một thành tựu nào mà không bắt nguồn từ kết quả của
giáo dục. Ngày trước khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém, tiêu biểu là hình ảnh con
trâu đi trước cái cày đi sau và một vài nghề thủ công thô sơ thì người lao động mù
chữ hay chỉ mới thoát nạn mù chữ cũng vẫn có thể điều hành sản xuất được. Nhưng
ngày nay, khi chúng ta đang ra sức công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì không
có giáo dục, nền kinh tế mới không thể tồn tại và phát triển được. Theo logic đó, ta có
thể khẳng định ngược lại: giáo dục không phục vụ, không thúc đẩy được kinh tế thì
giáo dục cũng sẽ bị đào thải. Đó là một yêu cầu khách quan, là tín hiệu của thời đại,
đó không phải là ý muốn chủ quan của bên nào hay của các nhà quản lý xã hội.
16
1.2. CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, Báo cáo phát
triển con người năm 1990 và các Báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra một loạt
chỉ số. Chỉ số tổng hợp nhất được đưa ra từ năm 1990 (và được hiệu chỉnh lại năm
1999) là Chỉ số phát triển con người (Human development index – HDI).
Chỉ số phát triển con người là chỉ số tổng hợp phản ánh sự phát triển của con
người trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua tổng sản phẩm trong nước bình
quân đầu người), tri thức (thể hiện qua chỉ số học vấn) và sức khoẻ (thể hiện qua
tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh). Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia
người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990.
Chỉ số HDI đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, được đo bằng Tuổi thọ trung
bình (đơn vị tính: năm)
2. Học vấn: được đo bằng Tỷ lệ người lớn biết chữ (đơn vị tính: %) và Tỷ lệ
nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học, đại học (đơn vị tính: %). Từ
năm 1995 trở về trước chỉ tiêu này chưa được sử dụng, thay vào đó là chỉ
tiêu Số năm học trung bình).
3. Mức sống: được đo bằng GDP thực tế bình quân đầu người (đơn vị tính:
PPP/USD).
Hình 1.1: Sơ đồ mô tả tổng quát cách xây dựng chỉ số phát triển con người
17
Chỉ số HDI là một thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh
tế thuần tuý về sự phát triển, bổ sung cho thước đo GDP, dẫu quan trọng, nhưng còn
phiến diện và sai lệch. Có thể nói, với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển
chân thực hơn tính mục tiêu của nó. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng
thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là một căn cứ để xác định và
lựa chọn các mục tiêu và chính sách phát triển.
HDI là một chỉ số còn tương đối đơn giản, không bao quát hết tính phong phú,
nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh gián tiếp, do đó chưa đầy
đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng cuộc sống của con
người như chính trị, văn hoá, môi trường hay mức độ tham gia của người dân. HDI
của một quốc gia chỉ là một chỉ số trung bình, do đó, cũng như GDP, nó có thể che
lấp các quá trình phân phối, tình trạng bất bình đẳng, hay sự khác biệt về phát triển
con người giữa các vùng và các nhóm dân cư. Nó có thể không làm nổi bật được
những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát
triển. Các khía cạnh chất lượng của các yếu tố cấu thành HDI cũng khó có thể phản
ánh đầy đủ: trình độ giáo dục thật ra không chỉ thể hiện bằng tỷ lệ biết chữ hay số
năm đi học mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng
và cơ hội lựa chọn của người học, đặc biệt với giáo dục bậc cao. Nhận xét này cũng
có thể áp dụng cho các yếu tố khác của HDI.
Tuy nhiên, cho đến nay, chỉ số phát triển con người HDI vẫn là một chỉ số tốt
nhất được dùng để đánh giá sự phát triển con người. Chỉ số này dù chỉ được biểu
diễn bởi một con số nhưng nó phản ánh tổng hợp thành tựu kinh tế - xã hội cả về số
lượng và chất lượng, là một thước đo mang tính nhân văn có ý nghĩa thời đại để
quản lý phát triển kinh tế - xã hội cộng đồng.
1.2.1. Tính các chỉ số thành phần của chỉ số HDI
Quy tắc chung để tính các chỉ số thành phần là sử dụng các giá trị tối thiểu và
tối đa (còn gọi là các giới hạn mục đích hay các giá trị trên) cho từng chỉ số và áp
dụng công thức sau:
Giá trị thực – giá trị tối thiểu
Chỉ số thành phần =
Giá trị tối đa – giá trị tối thiểu
18
Các giá trị tối đa và tối thiểu (giá trị biên) được đặt ra với từng chỉ tiêu thành
phần. Các giá trị tối đa phản ánh các mục tiêu phát triển và các giá trị tối thiểu là
những cận dưới của sự phát triển.
Bảng 1.1: Các giá trị biên để tính chỉ số HDI
Chỉ tiêu
Giá trị tối đa Giá trị tối thiểu
Tuổi thọ trung bình (năm)
85
25
Tỷ lệ người lớn biết chữ (%)
100
0
Tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục (%)
100
0
GDP thực tế bình quân đầu người (PPP USD)
40.000
100
1.2.1.1. Chỉ số tuổi thọ trung bình
Tuổi thọ trung bình của dân số là số năm trung bình mà một đứa trẻ khi sinh ra
có thể sống được nếu như trong cuộc đời của mình, đứa trẻ đó có mức độ chết
(nguy cơ chết) theo độ tuổi như mức độ chết theo tuổi (tỷ suất chết đặc trưng theo
tuổi) của thời kỳ lập bảng sống.
Bảng sống là một biểu thống kê bao gồm những chỉ tiêu mô tả một cách hoàn
thiện nhất mức độ chết của dân số. Nhờ bảng sống ta có thể mô tả “trật tự chết” của
một tập hợp dân số trong cuộc đời kể từ khi sinh ra.
Tuổi thọ trung bình của dân số là một trong những chỉ tiêu cơ bản của bảng
sống, được tính bằng cách lấy tổng số năm mà toàn bộ thế hệ sống được (tổng số
năm người sống T0) chia cho tổng số sinh ban đầu của thế hệ đó (I0).
Chỉ số tuổi thọ bình quân đo thành tựu tương đối về tuổi thọ bình quân tính từ
lúc sinh của một quốc gia hay địa phương. Công thức tính chỉ số tuổi thọ bình quân
như sau:
Tuổi thọ bình quân thực tế - 25
Chỉ số tuổi thọ trung bình =
85 - 25
1.2.1.2. Chỉ số giáo dục
Chỉ số phát triển giáo dục (kí hiệu E1) của một cộng đồng phản ánh trạng thái
phát triển giáo dục cộng đồng trong mối quan hệ với các khía cạnh của phát triển
kinh tế - xã hội.
19
Kinh tế học giáo dục xuất phát từ quan điểm “Giáo dục vừa là mục tiêu vừa là
động lực cho sự phát triển” nên coi chỉ số E1 vừa biểu thị tình trạng phúc lợi giáo
dục – một phúc lợi quan trọng mà cư dân cộng đồng được thụ hưởng vừa biểu thị
tiềm năng của giáo dục có thể tác động vào sự gia tăng của thu nhập kinh tế.
Theo cách đo hiện nay mà Chương trình của Liên hiệp quốc UNDP đề xuất và
được nhiều nước chấp nhận thì E1 của một cộng đồng được đo bằng tổng số của tỷ
lệ người lớn biết chữ (%) với quyền số 2/3 và tỷ lệ nhóm dân từ 6-23 tuổi (%) đi
học đúng độ tuổi ở các bậc tiểu học, trung học và đại học (bao gồm cả cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp đã tốt nghiệp phổ thông) với quyền số 1/3.
Chỉ số giáo dục = 2/3 chỉ số người lớn biết chữ + 1/3 chỉ số nhập học tổng hợp
Hay E1 = (a x 2/3) + (b x 1/3)
với a: tỷ lệ người lớn biết chữ được hiểu là tỷ lệ % người từ 15 đến 55 tuổi
được công nhận thoát nạn mù chữ. Nhằm có dữ liệu để phân tích tình trạng biết chữ
của người lớn, người ta cố gắng không những chỉ xác định tỷ lệ trên theo từng địa
phương (tỉnh thành, quận huyện thị, vùng thành thị, vùng nông thôn) mà còn theo
giới tính, theo dân tộc, theo từng độ tuổi (15-19, 20-24, 25-29,…), theo tôn giáo,
theo nhóm nghề… Cơ sở dữ liệu tốt nhất để đưa vào phân tích là số liệu Tổng điều
tra dân số được tiến hành 10 năm 1 lần vào ngày 1 tháng 4 năm cuối cùng mỗi thập
kỷ. Trong các năm còn lại, số liệu của điều tra mẫu suy rộng sẽ đảm bảo độ chính
xác cao hơn số liệu báo cáo về người mù chữ của các phường, xã.
b: tỷ lệ đi học của nhóm dân từ 6-23 tuổi. Trong điều kiện thực tế của
Việt Nam, do những khó khăn trong vấn đề điều tra trong phạm vi từng địa phương
nên tỷ lệ nhập học các cấp chỉ tính tỷ lệ % đi học của 3 cấp tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông trong dân cư từ 6 đến 17 tuổi, không tính tỷ lệ học đại học.
Do cách tính này nên tỷ lệ nhập học các cấp của Việt Nam tính được khá cao.
Trong đó:
Tỷ lệ người lớn biết chữ thực tế - 0
Chỉ số người lớn biết chữ =
100 - 0
20
Tỷ lệ nhập học tổng hợp thực tế - 0
Chỉ số nhập học tổng hợp =
100 - 0
Với cách tính này thì E1 có Max = 1 và Min = 0
Phân loại chỉ số phát triển giáo dục thành 3 mức sau:
E1 ≥ 0,75: mức cao
0,5< E1 < 0,75: mức trung bình
E1 < 0,5: mức thấp
1.2.1.3. Chỉ số thu nhập hay chỉ số GDP
Tổng sản phẩm trong nước - GDP là giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được tạo ra của nền kinh tế trong khoảng thời gian một năm. Thuật ngữ “hàng hóa
và dịch vụ cuối cùng” được hiểu theo nghĩa không tính giá trị hàng hóa và dịch vụ
sử dụng ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Khi so sánh các số liệu thống kê kinh tế giữa các nước, các số liệu trước hết
phải được chuyển về cùng một đơn vị tiền tệ. Để so sánh mức độ GDP thực tế tính
trên đầu người giữa các nước trước hết GDP thực tế của các nước phải được tính
theo tỷ giá trao đổi theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity – PPP).
Phương pháp chuyển đổi GDP thực tế của các nước theo tỷ giá PPP loại trừ được sự
khác biệt về mức giá giữa các nước. Qua đó cho phép so sánh các giá trị thực tế về
thu nhập giữa các nước.
GDP
us p
GDP p ERP
CPI
N
r
p
Cách tính GDP bình quân đầu người theo USD sức mua tương đương:
trong đó:
GDPusp : Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh p theo USD sức mua
tương đương.
GDPp : Tổng sản phẩm trong tỉnh của tỉnh p theo VNĐ.
Np : Tổng dân số của tỉnh p (người).
ERP : Tỷ giá giữa VNĐ và USD tính theo sức mua tương đương.
21
CPIr : Chỉ số giá tiêu dùng của vùng r.
Chỉ số thu nhập hay chỉ số GDP được tính bằng chỉ tiêu GDP thực tế bình
quân đầu người theo sức mua tương đương. Trong chỉ số HDI, thu nhập đóng vai
trò là đại diện cho mọi thước đo khác về sự phát triển con người chưa được phản
ánh trong các thước đo về tuổi thọ hay kiến thức. GDP bình quân đầu người đạt đến
một mức độ nhất định là có thể thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người. Vượt lên
trên giới hạn đó, thì tác dụng của thu nhập không tăng lên theo tỷ lệ thuận mà sẽ hạn
chế dần. Do đó, thu nhập sẽ được điều chỉnh vì để đạt được một mức độ đáng kể về
sự phát triển con người không nhất thiết cần tới một khoản thu nhập vô hạn. Do đó
từ năm 1999 khi tính chỉ số thu nhập sẽ dùng hàm logarit để điều chỉnh (từ 1990
đến 1998 sử dụng công thức chiết khấu khác).
log (GDP/ng) – log (100)
Chỉ số thu nhập đầu người =
log (40000) – log (100)
(GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương qui ra dollar Mỹ)
1.2.2. Tính chỉ số HDI
Khi tính được các chỉ số thành phần thì việc tính chỉ số HDI sẽ rất đơn giản.
Đó là giá trị trung bình chung của cả 3 chỉ số thành phần trên. Chỉ số HDI là số
trung bình cộng của các số sau: chỉ số tuổi thọ trung bình, chỉ số giáo dục và chỉ số
GDP thực tế bình quân đầu người.
HDI = 1/3 (chỉ số tuổi thọ trung bình + chỉ số giáo dục + chỉ số GDP thực tế
bình quân đầu người)
Lưu ý: Các chỉ số tuổi thọ, giáo dục, GDP và HDI đều nhận giá trị từ 0 đến 1.
Giá trị của các chỉ số này càng gần tới 1 có nghĩa là trình độ phát triển và xếp hạng
càng cao (với 1 là thứ hạng cao nhất), ngược lại, các chỉ số càng gần 0 có nghĩa là
trình độ phát triển và xếp hạng càng thấp.
22
Tuổi thọ trung bình (năm)
GDP bình quân đầu người PPP USD
Mức sống
Sức khoẻ
HDI
Giáo dục
Tỷ lệ đi học các cấp (%, với quyền số 1/3)
Tỷ lệ biết chữ của người dân từ 15 tuổi trở lên (% với quyền số 2/3)
Hình 1.2: Sơ đồ cấu trúc của chỉ số HDI
1.3. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ
Chúng ta có thể phân tích mối tương quan giữa các chỉ số dưới nhiều góc độ
khác nhau như: so sánh xếp hạng của các chỉ số; xem xét chênh lệch giá trị của các
chỉ số và so sánh với giá trị trung bình của tổng thể; tính hệ số giữa các chỉ số hay
phân tích hồi quy các chỉ số dưới dạng phương trình…
1.3.1. Chỉ số phát triển kinh tế GDP và chỉ số phát triển con người HDI
Hệ số giữa chỉ số phát triển kinh tế GDP và chỉ số phát triển con người HDI
K H
( ) phản ánh sự đóng góp của chỉ tiêu tăng trưởng – phát triển kinh tế vào phát
75,0
triển con người.
thì được xem là có đạt
K H
- Nếu một quốc gia hay địa phương nào có
mức tương thích trung bình về phát triển kinh tế - phát triển con người; phần đóng
75,0
góp của kinh tế vào phát triển con người đạt mức trung bình.
thì tương thích này là thấp, kinh tế đóng góp, tác động còn ít
K H
- Nếu
vào phát triển con người.
23
1.3.2. Chỉ số phát triển giáo dục E1 và chỉ số phát triển con người HDI
HDI biểu thị qua hệ số ( Tương quan giữa chỉ số phát triển giáo dục E1 và chỉ số phát triển con người E1 ). Giá trị của hệ số này biểu đạt phần đóng góp của nhân H
75,0
tố giáo dục vào chỉ số phát triển con người của cộng đồng.
E1
95,0
1
05,1
thì chứng tỏ giáo dục có sự đóng góp khá hợp lý vào thành quả HDI
E H
- Nếu ở một cộng đồng có chỉ số phát triển giáo dục và
1
95,0
của cộng đồng.
E H
- Nếu thì cộng đồng cần lưu ý cải thiện trạng thái phát triển giáo dục
để cư dân được nâng cao mức thụ hưởng giáo dục trong tương quan với các nhân tố
tham gia vào chỉ số phát triển con người.
1
95,0
75,0
Trên thế giới hiện nay một số nước dù có chỉ số HDI ở mức tương đối cao (H
nên
.
1 E
E H
1
05,1
8,0H
≥ 0,8) nhưng chỉ số
E H
- Nếu và thì có hiện tượng nhân tố giáo dục đã lấn phần
đóng góp của nhân tố kinh tế và nhân tố tuổi thọ vào HDI.
1.3.3. Chỉ số phát triển kinh tế GDP và chỉ số phát triển giáo dục E1
K 1E
): Hệ số giữa chỉ số phát triển kinh tế GDP và chỉ số phát triển giáo dục E1 (
phản ánh tình trạng tương thích của giáo dục so với phát triển kinh tế của cộng đồng.
Trạng thái phát triển giáo dục của một cộng đồng có tính bền vững khi chỉ số
phát triển giáo dục E1 ở mức 0,75 trở lên, đồng thời chỉ số E1và chỉ số GDP luôn
luôn phải xấp xỉ với nhau. Khi đó giáo dục và kinh tế khớp nhịp nhau trong động
thái phát triển; phát triển giáo dục không vượt quá xa hoặc không tụt hậu lại sau so
K 1E
với phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa dao động xung quanh mức “1”.
24
75,0
9,0
1,1
Kinh tế học giáo dục phân thành các chỉ báo sau:
thì động thái phát triển kinh tế và giáo dục có
1 E
K E 1
- Khi và
75,0
75,0
9,0
tính tương thích cao, sự phát triển giáo dục bền vững.
1 E
K E 1
- Khi và thì động thái phát triển kinh tế và giáo dục
75,0
5,0
75,0
có tính tương thích trung bình, sự phát triển của giáo dục có xu thế đi vào bền vững.
thì động thái phát triển kinh tế và giáo dục
1 E
K E 1
- Khi và
có tính tương thích thấp, sự phát triển giáo dục tuy có giá trị cao song chưa thật bền
75,0
45,0
5,0
7,0
E
75,0
5,0
vững.
1 E
1
K E 1
K E 1
- Khi mà hoặc mà thì động
75,0
45,0
thái phát triển kinh tế và giáo dục xuất hiện dấu hiệu bước vào sự tương thích thấp.
1 E
K E 1
- Khi hoặc thì phát triển kinh tế và giáo dục chưa có dấu
hiệu tương thích: giáo dục phát triển còn chậm, kinh tế và giáo dục có độ lệch lớn.
1.4. KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CHỈ SỐ HDI
1.4.1. Braxin: Kinh nghiệm về việc sử dụng bản đồ phát triển con người trong
xác định nguồn lực tài chính và ngân sách trong các kế hoạch phát triển
Khi Báo cáo phát triển con người 1996 mới đang trong quá trình hoàn thiện,
các chuyên gia đã thử nghiệm sử dụng dữ liệu của Báo cáo phát triển con người để
xây dựng Atlas phát triển con người. Năm 1997, loại Atlas thứ nhất với tên gọi:
Điều kiện sống ở bang Minas Gerais, được xuất bản, bao gồm một loạt các bản đồ
với các chỉ báo về trình độ phát triển con người cho các thành phố trong bang Minas
Gerais – bang lớn nhất ở Braxin (thời điểm đó có 721 thành phố với xấp xỉ 50 triệu
dân). Một năm sau, theo quy trình thử nghiệm vừa nêu, năm 1998, loạt Atlas thứ hai
được xuất bản, bao gồm tất cả các chỉ báo về phát triển con người của 4.491 thành
phố, 558 khu vực, 27 bang và 5 vùng lớn ở trên toàn lãnh thổ Braxin.
25
Các Atlas diễn giải này đều thể hiện trên đó 38 chỉ số của 5 lĩnh vực xã hội cơ
bản: 1) giáo dục (tỷ lệ biết chữ và đi học); 2) y tế (triển vọng sống); 3) nhà ở (nguồn
nước và hệ thống thoát nước); 4) thu nhập (bất bình đẳng và dân cư sống ở mức
nghèo khổ) và 5) tỷ lệ trẻ em tử vong. Các chỉ số xã hội cơ bản này đều được thể
hiện rõ ràng, dễ hiểu và dễ điều chỉnh khi cần cập nhật và phát triển.
Hiệu quả Atlas phát triển con người của Braxin còn thể hiện ở việc phổ biến
linh hoạt, được sao chép bằng các bản điện tử trên các đĩa CD, phát hành rộng rãi
trong cộng đồng. Việc quảng cáo rộng rãi trên báo chí đã gây nên nhiều tranh luận
sôi nổi về những phát hiện của Atlas phát triển con người. Đây đã từng là chủ đề
“nóng” của hơn 50 tờ báo trên khắp lãnh thổ Braxin. Sự theo dõi hàng năm về HDI
cho thấy rõ mối quan tâm về những dữ liệu như vậy đang diễn ra giữa các tờ báo
lớn và các chương trình phát sóng truyền hình.
Nhờ cung cấp những dữ liệu có khả năng diễn giải cao, chỉ số lại đơn giản nên
Atlas phát triển con người của Braxin đã thu hút được sự quan tâm lớn của chính
phủ và của rộng rãi cộng đồng. Trước hết, chính quyền liên bang đang sử dụng
Atlas để làm chỉ tiêu phấn đấu trong chi tiêu xã hội theo chương trình “Alvorada
Program” (được Bộ Trợ giúp xã hội quản lý). Chương trình này được phát triển khi
nhận được những phản ứng và chỉ trích của cộng đồng rằng chính phủ đã quá tập
trung vào phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức đến các vấn đề xã hội.
Giống như Chương trình 135 ở Việt Nam, chương trình này ủng hộ trước tiên
những đề xướng làm giảm đói nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống ở những
thành phố nghèo nhất ở Braxin.
Ngoài ra, chính phủ liên bang đã dùng HDI như một nguyên tắc chỉ đạo cho
việc chi tiêu phát triển xã hội trong ngân sách quốc gia năm 2001 (ước tính khoảng
15,2 tỷ USD). Bản đồ HDI dùng để chọn ra những thành phố nghèo nhất để trang bị
máy tính và cổng internet miễn phí, để ưu tiên chăm sóc sức khoẻ miễn phí, phân
phối bữa ăn sáng miễn phí. Ở cấp bang, Atlas phát triển con người được dùng để
giúp định hướng lại chính sách phát triển của bang. Như ở Minas Gerais, chính
quyền lập ra luật làm thay đổi tiêu chí phân bổ thu nhập thuế dịch vụ và thuế giá trị
26
gia tăng giữa các thành phố trong bang. Trên cơ sở thu thuế sẽ nổ lực đầu tư vào y
tế, giáo dục, vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo tồn thiên nhiên và các vấn đề xã hội
khác, đặc biệt có lợi cho những thành phố nghèo nhất bang. Ngoài ra, theo Luật
Trách nhiệm xã hội, bang Minas Gerais và Sao Paulo đã yêu cầu sử dụng Chỉ số
Trách nhiệm xã hội kết hợp với HDI để giúp xác định nhu cầu phát triển và đầu tư
tài chính của bang.
Một đặc điểm nữa là không giống như hầu hết các quốc gia khác, kết quả lập
Atlas phát triển con người của Braxin đã được nhiều tổ chức tư nhân sử dụng. Hãng
bảo hiểm lớn nhất đất nước Atlantica Boavista căn cứ HDI để tính toán số tiền đóng
bảo hiểm sinh mạng. Hãng sản xuất ô tô General Motors đã dùng bản đồ về thứ tự
HDI lựa chọn vị trí đặt nhà máy tại Rio Grande do Sul, một bang có HDI cao nhất
cùng với trình độ nguồn nhân lực cao…
1.4.2. Trung Quốc: đưa mục tiêu phát triển con người vào hoạch định chính sách
xây dựng “Xã hội chủ nghĩa hài hoà” và “phát triển theo tầm nhìn khoa học”
Về bản chất, xã hội hài hoà rất gần với phát triển con người của UNDP, được
Đảng Cộng sản Trung Quốc định nghĩa với những đặc điểm nổi bật là: trên cơ sở
dân chủ, coi con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, tuân thủ những nguyên tắc
của nền văn minh nhân loại và tôn trọng các quy luật tự nhiên. Xã hội hài hoà là xã
hội trong đó người dân hoàn toàn có thể phát huy năng lực và sáng tạo của mình để
cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển, mọi người đều được hưởng và chia sẻ của cải
xã hội mà công cuộc cải cách và phát triển mang lại, đồng thời thúc đẩy phát triển
mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa người dân và chính phủ. Xây dựng xã hội hài hoà
là một giải pháp để khắc phục những vấn đề bất cân bằng trong phát triển: phân bổ
nguồn lực không đồng đều, bất bình đẳng trong thu nhập, nạn tham nhũng và những
thiếu hụt trong hệ thống pháp luật, đồng thời để các hoạt động xã hội đều phải mang
lại lợi ích cho sinh kế, đời sống tinh thần và sự phát triển của người dân. Trong xã
hội hài hoà, môi trường chính trị luôn được giữ ổn định, tạo điều kiện xây dựng một
nền kinh tế phồn vinh, người dân được sống trong hoà bình và làm việc trong điều
kiện thuận lợi, phúc lợi xã hội không ngừng được cải thiện.
27
Khía cạnh quan trọng nhất của quan điểm phát triển theo tầm nhìn khoa học
chính là phát triển coi con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, và yêu cầu cơ bản
của phát triển theo tầm nhìn khoa học chính là phát triển toàn diện, cân bằng và bền
vững. Ba chiều cạnh này có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau và hợp thành
một tổng thể hữu cơ với đặc trưng cơ bản chính là nhằm đạt kết quả phát triển kinh
tế - xã hội nhanh và vững chắc.
Quan điểm phát triển theo tầm nhìn khoa học tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng
sản Trung Quốc lần thứ XVI (năm 2004) và lấy dân làm gốc, phát triển một cách
toàn diện, hài hoà và bền vững. Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm
Đào cũng nêu rõ: Trung Quốc sẽ kiên trì lấy quan điểm phát triển theo tầm nhìn
khoa học để thống lĩnh toàn cục phát triển kinh tế - xã hội, nắm lấy thời cơ chiến
lược quan trọng trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI để xây dựng một xã hội khá giả ở
mức độ cao hơn cho nhân dân Trung Quốc. Đây là ý nghĩa chỉ đạo của quan điểm
phát triển theo tầm nhìn khoa học. Quan điểm này được đưa ra trên cơ sở kế thừa
những tư tưởng quan trọng về phát triển của tập thể ba thế hệ lãnh đạo của Trung
Quốc. Ý nghĩa đầu tiên của quan điểm phát triển theo tầm nhìn khoa học là “phát
triển hạt nhân là lấy dân làm gốc”, yêu cầu cơ bản là toàn diện, hài hòa và bền vững.
Phương pháp cơ bản là phải chú ý đến “quy hoạch thống nhất”. Những trình bày
mới của Hồ Cẩm Đào về phát triển theo tầm nhìn khoa học đã thể hiện một cách tập
trung xu thế mới của sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Trung
Quốc, nắm bắt một cách chính xác yêu cầu mới và phát triển kinh tế - xã hội của
Trung Quốc khi bước vào thế kỷ mới.
Cách đo đạc phát triển con người của Trung Quốc
Ngay từ những năm 1990, các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu Trung
Quốc đã nhận thấy sự hạn chế của cách thức đo lường truyền thống. Chẳng hạn,
phương pháp đánh giá sự phát triển thông qua GDP bình quân đầu người chỉ đơn
thuần cho thấy sự tăng trưởng về vật chất mà không phản ánh được các khía cạnh
của văn hoá, xã hội và tinh thần. Dựa trên nguyên tắc cơ bản mà Đảng Cộng sản
Trung Quốc đưa ra tại Đại hội lần thứ XVI và nhằm khắc phục hạn chế của cách
28
thức đo lường trước đó, tháng 12 năm 2005, tại Hội thảo quốc tế “Xã hội khá giả và
chất lượng sống của Trung Quốc vào thế kỷ XXI”, các nhà khoa học Trung Quốc đã
công bố một hệ thống tiêu chí đánh giá, đo lường phát triển. Hệ thống này gồm 42
tiêu chí phản ánh một cách toàn diện và đồng bộ các mặt của đời sống xã hội từ tầm
vĩ mô đến vi mô, từ cá nhân đến quốc gia, từ kinh tế đến văn hoá (xem phụ lục 4).
Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng thận trọng cho rằng ở các cộng đồng khac
nhau có thể vận dụng linh hoạt hệ đo lường này thông qua việc nhấn mạnh hơn hay
mở rộng biên độ các chỉ số tuỳ thuộc đặc điểm của mỗi giai đoạn, mỗi vùng miền,
cũng như các yếu tố văn hoá truyền thống. Dựa trên hệ thống này mà các cộng
đồng, các tỉnh, thành phố sẽ biết cách tự đánh giá cũng như so sánh với các cộng
đồng khác. Mặc dù vẫn còn những tranh luận, nhưng các chuyên gia quốc tế đều
thống nhất rằng đây là một hệ thống đánh giá khá toàn diện hơn các hệ thống khác,
Hệ thống đo lường này được chia làm năm nhóm: phát triển kinh tế, điều kiện sống
cơ bản, cơ cấu xã hội, môi trường bền vững và chất lượng sống. Trong 42 tiêu chí
này vẫn có những tiêu chí truyền thống như GDP, cũng có những tiêu chí đã xuất
hiện trong các hệ thống đo lường của các quốc gia, tổ chức khác.
Như vậy, nhìn vào hệ thống đo lường này, chúng ta nhận thấy Trung Quốc đang
cố gắng tìm ra con đường đi riêng cho mình, không còn đề cao quá mức tăng trưởng
kinh tế và tiêu dùng mà kết hợp hài hoà với các khía cạnh khác của phát triển.
29
Chương 2: MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. TỔNG QUAN VÙNG ĐBSCL
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nằm ở phía Nam của cả nước. Phía Bắc và
Tây Bắc giáp nước Campuchia, giáp Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh (vùng Đông
Nam Bộ). Phía Tây và Tây Nam giáp vịnh Thái Lan. Phía Đông và Đông Nam giáp
biển Đông.
Vùng ĐBSCL có vị trí địa lý kinh tế thuận lợi trong giao lưu trong nước và
quốc tế. Đối với trong nước, điểm nhấn nổi bật là Vùng nằm liền kề với Vùng Kinh
tế trọng điểm phía Nam – là vùng kinh tế động lực lớn nhất của cả nước. Đối với
quốc tế, Vùng nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải, hàng không quốc
tế quan trọng, giữa Nam Á và Đông Á cũng như với châu Úc và các quần đảo khác
trong Thái Bình Dương, vị trí này hết sức quan trọng cho giao lưu quốc tế.
Hình 2.1:
ĐBSCL nằm trong lưu vực sông Mekong dài 4.200 km, chảy qua 6 nước là
Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, có diện tích lưu vực 795.000 km2, trong đó vùng Châu thổ 49.367 km2. ĐBSCL là phần cuối cùng
30
của Châu thổ sông Mekong, bao gồm 13 tỉnh thành là Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Tổng diện tích tự nhiên khoảng
3,96 triệu ha, chiếm 79% diện tích toàn Châu thổ và bằng 5% diện tích toàn lưu vực
sông Mekong, chiếm 12,3% diện tích tự nhiên của cả nước và có khoảng 17,5 triệu
người, chiếm 20,6% dân số của cả nước.
ĐBSCL có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Với tiềm năng nông nghiệp to lớn, trong những năm qua, ĐBSCL luôn đóng góp
50% tổng sản lượng lương thực, quyết định thực hiện thành công chiến lược an ninh
lương thực Quốc gia và chiếm chủ đạo trong xuất khẩu gạo, trung bình mỗi năm từ
3,5-4,5 triệu tấn. Giá trị sản xuất thủy sản chiếm hơn 66,0% của cả nước; chiếm hơn
71,4% diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản; 53,6% sản lượng và khoảng 60% về
giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước. ĐBSCL cũng là vùng sản xuất cây ăn trái tập
trung lớn nhất cả nước với 3/4 về diện tích và 80% về sản lượng.
Trong thời gian qua, bằng nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, kinh tế của vùng ĐBSCL ngày càng khởi sắc, quy mô kinh tế ngày càng lớn,
đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tổng sản phẩm của vùng ĐBSCL
đến năm 2005 chiếm 15,2% GDP của cả nước, đứng sau vùng Đông Nam Bộ và
vùng Đồng bằng Sông Hồng (39,3% và 22,8%).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng ĐBSCL giai đoạn sau luôn cao hơn giai
đoạn trước và hơn mức trung bình của cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân đạt 7,9%/năm giai đoạn 1996-2000 (cả nước 6,9%/năm) và đạt 10,4%/năm
giai đoạn 2001-2005 (cả nước 7,5%/năm).
Cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ
trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng gia tăng. Cơ cấu kinh tế
theo ngành đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp
và tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp. Đến năm 2005, tỷ trọng của các ngành
phi nông nghiệp chiếm khoảng 53,0% trong tổng sản phẩm vùng ĐBSCL.
31
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân các tỉnh ĐBSCL
Thời kì 1996-2000
Đơn vị: % Thời kì 2001-2005
KVI
GDP
Cả nước ĐBSCL
KVI KVII KVIII GDP 7,5 10,4 9,4 9,9 8,9 9,0 8,6 9,0 11,1 13,5 10,1 10,6 10,3 15,7 11,1
KVII KVIII 6,1 12,7 8,6 12,1 11,2 11,3 10,4 14,7 13,9 13,6 13,4 14,8 12,7 16,7 17,5
Long An Đồng Tháp An Giang Tiền Giang Vĩnh Long Bến Tre Kiên Giang Cần Thơ Hậu Giang Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau
5,8 11,3 7,3 14,4 11,6 14,6 10,2 6,6 9,0 11,6 - 13,4 10,6 14,6 14,7
10,6 12,7 14,1 14,9 11,4 10,2 10,6 8,9 11,7 16,4 - 7,8 15,6 14,2 10,5
11,0 15,8 17,0 17,7 11,8 16,7 14,6 14,1 15,5 17,3 15,9 18,0 15,0 19,2 15,0
6,9 7,9 7,6 6,9 6,9 8,1 6,6 8,3 8,0 8,5 - 7,2 9,3 10,3 8,3
4,3 5,1 5,6 3,7 2,0 4,6 4,0 8,7 6,3 1,7 - 5,6 7,7 7,9 5,8
4,0 7,0 6,0 7,4 5,2 5,1 5,6 5,7 7,8 8,1 5,6 8,2 8,2 13,9 6,4 Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê các tỉnh ĐBSCL (KVI: Nông lâm ngư nghiệp, KVII: Công nghiệp-xây dựng, KVIII: Dịch vụ)
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế các tỉnh ĐBSCL
Đơn vị: % 2005
2000 KVII KVIII KVI KVII KVIII
KVI
Cả nước ĐBSCL
Long An Đồng Tháp An Giang Tiền Giang Vĩnh Long Bến Tre Kiên Giang Cần Thơ Hậu Giang Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau
38,8 29,2 29,5 25,8 47,3 28,2 28,9 19,9 24,0 46,5 22,5 24,0 20,8 21,4 20,2
24,5 52,8 48,1 62,2 41,6 56,5 59,2 68,1 48,4 22,4 51,3 67,4 60,0 60,7 59,3
21,0 47,7 38,8 58,1 35,0 48,1 55,6 58,4 47,1 19,9 43,9 57,3 57,7 57,6 52,5
38,0 29,5 30,3 26,7 48,9 29,5 30,6 25,7 27,3 42,5 27,4 24,5 22,5 20,3 23,3
41,0 36,7 22,8 18,0 30,9 22,5 15,2 11,9 16,1 11,2 22,4 15,3 14,1 11,9 15,9 12,0 25,6 27,5 37,6 31,1 28,7 26,2 18,2 8,6 19,8 19,2 22,1 17,9 24,2 20,5 Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê các tỉnh ĐBSCL
32
Hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư nâng cấp, đáp ứng tốt hơn
cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Giao thông đường bộ và giao thông đường
thuỷ đều được chú ý phát triển; nhiều tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đã được nâng cấp, mở
rộng, xây dựng mới. Quốc lộ 1A đang được triển khai mở rộng giai đoạn 2, đang
khởi công xây dựng một số tuyến mới N1, N2 song song với trục Bắc Nam quốc lộ
1A, mở rộng tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến Nam Sông Hậu.... Các cụm, tuyến
dân cư cho đồng bào vùng ngập lũ đã được tập trung chỉ đạo, từng bước góp phần
giải quyết ổn định chỗ ở cho nhiều hộ sống trong vùng ngập sâu.
Đời sống nhân dân được cải thiện và ngày một nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
từ 27,03% năm 2001 xuống còn 5,18% năm 2005. Số hộ nông thôn được cung cấp
điện đạt 89,7%, được sử dụng nước sạch đạt trên 60%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
giảm xuống còn 22% (mục tiêu là 22-25%), tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
là 22%. Tuổi thọ trung bình toàn vùng là 72,1 năm.
Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của vùng ĐBSCL vẫn còn thấp hơn
so với mức chung của cả nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm, chưa
thật ổn định và chưa tác động mạnh mẽ đến tạo việc làm mới trong khu vực phi
nông nghiệp. Kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực nhà nước chiếm khoảng 97,0%
trong tổng sản phẩm toàn vùng nhưng chủ yếu là quy mô nhỏ, lạc hậu và tỷ trọng
giảm không đáng kể trong 10 năm qua. Kinh tế nông nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng
lớn song mức độ tác động của cơ giới hóa, công nghiệp hóa vào nông nghiệp còn ở
mức thấp; cộng thêm chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh và biến động của giá cả
nên sản xuất nông nghiệp chưa bền vững. Các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất
chưa thực sự phát triển. Hàm lượng khoa học trong các sản phẩm còn thấp, tính
cạnh tranh chưa cao, năng suất lao động thấp. Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao
động chưa phát triển mạnh, công nghiệp nông thôn hình thành tự phát và chiếm tỷ
trọng rất nhỏ bé. Tỷ lệ đô thị hoá của vùng ĐBSCL tăng chậm chỉ tăng từ 17,6%
vào năm 2000 lên 20,9% năm 2005, chậm so với tốc độ đô thị hoá của toàn quốc
(tương ứng là 24,2% và 26,9% trong cùng thời gian này). Cơ sở hạ tầng sản xuất
33
còn yếu, thêm vào đó trình độ kỹ thuật của người lao động rất thấp, là yếu tố cản trở
việc thu hút đầu tư nước ngoài vào ĐBSCL.
Chất lượng nguồn nhân lực, mặt bằng dân trí của vùng thấp hơn nhiều mức
bình quân cả nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 16,43%, thấp hơn nhiều
so với mục tiêu đề ra là 20-25% và so với cả nước là 24,8%. Giải quyết việc làm
trong 5 năm mới đạt 1,475 triệu người, thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 1,8-2 triệu
người. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,9%, cao hơn mức phấn đấu là dưới
4%. Số học sinh trung học chuyên nghiệp tính trên 1 vạn dân là 24,6. Toàn quốc có
6% dân số trong độ tuổi lao động có bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp
nhưng ĐBSCL chỉ có 3,3%. Số sinh viên trên 1 vạn dân là 51 người, chỉ đứng cao
hơn vùng Tây Bắc. Đặc biệt, tỷ lệ bỏ học ở cả 3 cấp học vẫn còn khá cao và có xu
hướng gia tăng trong những năm gần đây. Các tỉnh tỷ lệ học sinh bỏ học cao là Cà
Mau (18,67%), An Giang (14,34%), Bạc Liêu (13,23%), Hậu Giang (10,19%)...
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC CHỈ SỐ
2.2.1. Chỉ số phát triển con người vùng ĐBSCL
Chỉ số HDI của vùng ĐBSCL đã được cải thiện trong giai đoạn 1999-2004.
Chỉ số HDI đã tăng 4,93%, từ mức dưới 0,67 năm 1999 lên khoảng 0,70 vào năm
2004. Như vậy, sự phát triển con người vùng ĐBSCL đã có bước tiến đáng kể, được
Báo cáo phát triển con người Việt Nam xếp vào nhóm chỉ số phát triển con người
cao (HDI ≥ 0,7). Tuy nhiên, mức tăng HDI của vùng ĐBSCL vẫn còn thấp hơn mức
tăng trung bình của cả nước là 6,1%.
Điều đáng lưu ý là mức tăng HDI cho đến nay là kết quả của sự gia tăng chỉ ở 2
chỉ số cấu thành – GDP bình quân đầu người (tính theo USD PPP) và giáo dục. Chỉ
số tuổi thọ thay đổi rất thấp, khác hẳn với tình hình chung của cả nước là có sự gia
tăng ở tất cả các chỉ số cấu thành. Cho thấy tình trạng cải thiện sức khỏe y tế giai
đoạn 1999-2004 ở ĐBSCL chưa mang lại hiệu quả trong việc cải thiện chỉ số HDI.
34
Bảng 2.3: Đóng góp của các chỉ số thành phần vào tốc độ tăng HDI vùng ĐBSCL
1999
2004
Tốc độ tăng (%)
Đóng góp (điểm %)
ĐBSCL
ĐBSCL
ĐBSCL
ĐBSCL
ĐBSCL
Cả nước
Cả nước
Cả nước
Cả nước
Tỷ trọng đóng góp (%) Cả nước
GDP
0,45
0,467
0,52
0,556
15,56
19,06
4,31
3,49
70,71
70,63
2,40
0,97
1,49
30,30
15,87
Giáo dục
0,77
0,835
0,8
0,855
3,90
2,22
0,82
0,00
0,00
13,49
Tuổi thọ
0,79
0,765
0,79
0,782
0,00
HDI
0,669
0,689
0,702
0,731
6,10
4,93
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam, Tổng cục Thống kê
Chỉ số GDP bình quân đầu người của ĐBSCL tăng nhanh nhất, hơn 15% và
đóng góp 3,49 điểm phần trăm, hay 70,7% vào tốc độ tăng HDI. Trong khi đó, chỉ
số giáo dục tăng chậm hơn, xét theo cả giá trị tuyệt đối và tương đối. Kết quả là chỉ
số này chỉ đóng góp 1,49 điểm phần trăm, hay 30,3% vào tốc độ tăng HDI, nhỏ hơn
nhiều so với đóng góp của chỉ số GDP bình quân đầu người. Kết quả về đóng góp
của giáo dục khu vực ĐBSCL dường như không gây bất ngờ, nếu xét về thực chất
và mối quan ngại của xã hội trong những năm qua về các chương trình cải cách và
chất lượng dạy và học của ngành giáo dục – đào tạo.
Hơn nữa, ĐBSCL vẫn chưa tận dụng hết tiềm năng, nếu xét về thu nhập bình
quân đầu người. Mặc dù có mức tăng trưởng ấn tượng, chỉ số GDP bình quân đầu
người năm 2004 vẫn bị coi là dưới mức trung bình, nghĩa là thấp hơn 0,6. Do đó, tỷ
trọng đóng góp của chỉ số GDP vào chỉ số HDI chỉ tăng từ 22,4% năm 1999 lên
24,7% năm 2004, vẫn thấp hơn mức bình quân cả nước 25,5%.
Ngược lại, các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục lại có tỷ trọng tương đối cao. Tuy
có thu nhập thấp, ĐBSCL đã quyết tâm thúc đẩy và phổ cập giáo dục. Nhờ có quan
điểm này cùng việc thực hiện nhiều biện pháp chính sách của Đảng và Chính phủ,
người dân đã có thể tiếp cận giáo dục dễ dàng hơn. Tăng trưởng GDP tạo điều kiện
tăng đầu tư xã hội vào giáo dục chỉ bổ sung thêm cho thành công này. Nhìn chung,
xét theo giá trị tuyệt đối chỉ số phát triển con người ĐBSCL, giáo dục vẫn có đóng
góp đáng kể 38%. Tuy nhiên, tỷ trọng của giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI vẫn
thấp hơn mức trung bình cả nước 38,8%, cao hơn vùng Đông Nam Bộ 36,2% (do
chỉ số GDP đã lấn phần đóng góp).
35
Bảng 2.4: Tỷ trọng của các chỉ số thành phần vào chỉ số HDI vùng ĐBSCL
Đơn vị: %
1999
2004
Chỉ số HDI
Chỉ số HDI
Chỉ số GDP
Chỉ số GDP
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
23,5 21,2 18,9 19,2 18,6 20,7 22,1 27,1 22,4
Chia ra Chỉ số giáo dục 36,4 37,3 40,2 37,4 37,8 37,5 35,3 35,5 38,4
Chỉ số tuổi thọ 39,8 41,0 40,8 43,2 43,3 41,9 42,5 37,7 39,4
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
25,5 24,2 21,8 22,4 21,3 23,5 22,2 29,5 24,7
Chia ra Chỉ số giáo dục 38,8 39,2 39,3 41,4 42,1 40,6 42,8 36,2 38,0
Chỉ số tuổi thọ 35,6 36,5 38,7 36,1 36,5 36,0 34,6 34,1 37,5
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Khái quát toàn cảnh giai đoạn 1999-2004, khu vực ĐBSCL tụt 1 hạng, hiện
đứng thứ 5 trong 8 vùng cả nước về chỉ số HDI. Chỉ số thu nhập bình quân đầu
người vẫn giữ nguyên hạng 3/8. Chỉ số tuổi thọ tăng hạng đáng kể, từ vị trí thứ 6 lên
vị trí thứ 3 trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Điều đáng ngạc nhiên
là chỉ số giáo dục lại tụt xuống thấp, chỉ đứng trên vùng Tây Bắc.
Bảng 2.5: Xếp hạng các chỉ số vùng ĐBSCL so với cả nước
1999
2004
Chỉ số HDI
Chỉ số HDI
Chia ra Chỉ số giáo dục 1 7 6 5 4 8 2 3
Chỉ số tuổi thọ 1 8 5 2 3 7 3 6
Chỉ số GDP 2 8 6 6 4 5 1 3
Chỉ số GDP 2 8 5 6 4 7 1 3
ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
2 8 6 5 3 7 1 4
2 8 6 4 3 7 1 5
Chỉ số tuổi thọ 1 7 5 6 4 8 2 3
Chia ra Chỉ số giáo dục 1 8 5 1 3 6 4 7 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Trong khi đó, Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) luôn đứng đầu cả nước về chỉ
số giáo dục, đảm bảo thứ hạng của chỉ số tuổi thọ, chỉ số kinh tế trong giai đoạn vừa
36
qua. Xem xét tổng quát hai đồng bằng của cả nước cho ta thấy, ĐBSCL còn thua xa
ĐBSH về các mặt văn hóa xã hội, đặc biệt là cách biệt khá rõ về tình hình phát triển
giáo dục. Điều này có thể thấy rõ hơn qua bảng số liệu chi tiêu cho giáo dục.
Chi tiêu trung bình cho giáo dục vùng ĐBSCL khoảng 14,5 ngàn
đồng/người/tháng tương đương 174 ngàn đồng/người/năm; trong khi đó, ở ĐBSH
con số này đạt gần gấp đôi. Tỷ trọng cũng chỉ chiếm 4,33% trong tổng chi tiêu một
nhân khẩu, đứng trên vùng Tây Bắc. Điều đáng quan ngại là thu nhập bình quân đầu
người của ĐBSCL không phải là thấp, đứng thứ 3 cả nước, nhưng phần chi tiêu
dành cho giáo dục lại chiếm rất khiêm tốn.
Bảng 2.6: Chi tiêu cho giáo dục bình quân 1 tháng của một nhân khẩu
Tỷ trọng trong tổng chi tiêu (%)
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
6,32 6,61 3,56 6,09 8,37 7,63 8,02 6,41 4,33
Chi tiêu (1.000 đồng) 22,75 24,68 8,30 17,89 21,15 25,24 23,68 36,96 14,50 Nguồn: Số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2004
2.2.2. Chỉ số phát triển con người các tỉnh thành vùng ĐBSCL
Chỉ số phát triển con người của các tỉnh thành ĐBSCL là khá đều nhau. Chênh
lệch giữa tỉnh có HDI cao nhất và tỉnh thấp nhất khá nhỏ, năm 1999 là 0,047 và năm
2004 khoảng chênh lệch này là 0,041. Trong thời gian qua, Vĩnh Long vẫn là tỉnh
đứng đầu khu vực về chỉ số HDI, hiện nay là 0,721 nhưng vẫn chưa bằng mức trung
bình cả nước 0,731. Tỉnh có chỉ số HDI thấp nhất năm 1999 là Đồng Tháp 0,648;
năm 2004 là Sóc Trăng 0,680.
Đến năm 2004, 7/13 tỉnh thành có HDI xếp vào nhóm chỉ số phát triển con
người cao (HDI ≥ 0,7 theo Báo cáo phát triển con người Việt Nam). Đó là các tỉnh
Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ và Bến Tre.
Trong khi đó, năm 1999 chưa có tỉnh nào thuộc khu vực ĐBSLC được xếp vào
37
nhóm này. Cho thấy sự nỗ lực rất lớn trên mọi bình diện kinh tế - xã hội nhằm tăng
lên đáng kể chỉ số HDI.
Trong ba nhóm chỉ số thành phần thì giá trị chỉ số GDP là thấp nhất và giữa các
tỉnh thành không có sự khác biệt lớn, chưa tỉnh nào mang tính đột phá. Tuy nhiên,
năm 1999 khoảng chênh lệch giữa các tỉnh với nhau không rõ nét như năm 2004. Cao
nhất khu vực là Kiên Giang 0,47 so với tỉnh thấp nhất là Đồng Tháp 0,41 với biên độ
0,06. Trong khi đó, năm 2004 Cần Thơ có chỉ số GDP cao nhất là 0,58 so với Đồng
Tháp 0,46 thì biên độ này là 0,12, cao gấp đôi năm 1999. Đồng Tháp qua một thời kỳ
dài tăng trưởng và phấn đấu nhưng vẫn đứng cuối bảng về chỉ số thu nhập bình quân
đầu người ở khu vực ĐBSCL.
Bảng 2.7: Chỉ số HDI các tỉnh thành vùng ĐBSCL
1999
2004
Chỉ số HDI
Chỉ số HDI
Chỉ số GDP
Chỉ số GDP
Chia ra Chỉ số giáo dục
ĐBSCL
0,669 0,695 0,686 0,684 0,680 0,678 0,671 0,668 0,656 0,655 0,654 0,649 0,648
Chia ra Chỉ số giáo dục 0,77 0,80 0,79 0,79 0,77 0,78 0,76 0,75 0,75 0,74 0,75 0,75 0,78
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Chỉ số tuổi thọ 0,79 0,83 0,81 0,81 0,81 0,78 0,79 0,81 0,77 0,77 0,75 0,77 0,76
0,45 0,45 0,46 0,45 0,46 0,47 0,46 0,44 0,45 0,45 0,46 0,43 0,41
Chỉ số tuổi thọ 0,79 0,82 0,80 0,81 0,79 0,80 0,79 0,77 0,77 0,76 0,77 0,76 0,79 0,77
0,80 0,84 0,83 0,83 0,82 0,81 0,79 0,83 0,78 0,78 0,77 0,78 0,79 0,80
0,702 0,721 0,715 0,713 0,718 0,716 0,720 0,701 0,686 0,680 0,686 0,698 0,682 0,685
0,52 0,50 0,51 0,51 0,55 0,54 0,58 0,50 0,51 0,50 0,52 0,55 0,46 0,49
Nguồn: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999-2004
Chỉ số GDP của Việt Nam nói chung và của các tỉnh ĐBSCL nói riêng vẫn xếp
vào nhóm chậm phát triển (< 0,6). Do đó, về góc độ cải thiện mức sống dân cư đồng
bằng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Về mặt giá trị tuyệt đối, chỉ số thành phần giáo dục đều tăng trưởng ở 13 tỉnh
thành, song sự biến động này khá nhỏ. Năm 1999, Sóc Trăng có chỉ số giáo dục thấp
nhất là 0,74, đến năm 2004 chỉ tăng thêm 0,04 hiện đạt là 0,78 và chỉ đứng trên An
38
Giang, ngang với Trà Vinh, Bạc Liêu. Riêng tỉnh Vĩnh Long vẫn đứng đầu khu vực
về giá trị chỉ số giáo dục, hiện nay đạt 0,84 cũng đã cải thiện 0,04.
Tương tự như thế, biên độ giữa tỉnh cao và thấp nhất ĐBSCL về chỉ số tuổi thọ
cũng ở khoảng 0,06. Và điều đáng lưu ý là xảy ra tình trạng giảm giá trị tuyệt đối ở
một số tỉnh thành. Tỉnh cao nhất hiện nay là Vĩnh Long 0,82, đã giảm 0,01; thấp nhất
khu vực là Sóc Trăng và Bạc Liêu 0,76 cũng đã giảm 0,01.
39
Hình 2.2: Chỉ số phát triển con người của 64 tỉnh thành năm 2004
40
Tốc độ tăng chỉ số HDI diễn ra cũng khá đồng đều ở các tỉnh thành của
ĐBSCL. Tuy nhiên, tăng nhanh nhất là Cần Thơ 7,3% và Bạc Liêu 7,6%. Trong khi
đó, các tỉnh tăng chậm trong khu vực có Vĩnh Long, Sóc Trăng với tốc độ tăng là
3,74% và 3,82%.
Trong các chỉ số cấu thành, tốc độ tăng của chỉ số GDP là nhanh nhất, trên
10%, đặc biệt Cần Thơ và Bạc Liêu tăng hơn 25%. Chỉ số giáo dục cũng gia tăng
đáng ghi nhận, nhưng biên độ giữa các tỉnh khá lớn. Tăng cao nhất là Bến Tre
10,7%; ngược lại Đồng Tháp chỉ tăng 1,3%, các tỉnh khác thì xấp xỉ nhau 4-6%. Chỉ
số thứ 3 là tuổi thọ có biểu hiện giảm về cả tuyệt đối lẫn tương đối. Các tỉnh có chỉ
số tuổi thọ giảm là Vĩnh Long, Long An, Cà Mau, Bến Tre, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
3 tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ và Trà Vinh không thay đổi chỉ số tuổi thọ trong giai
đoạn 1999-2004. Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp có tốc độ tăng trưởng chỉ số
tuổi thọ dương, góp phần vào sự tăng lên của chỉ số HDI.
Bảng 2.8: Đóng góp của các chỉ số thành phần vào tốc độ tăng chỉ số HDI
ở các tỉnh vùng ĐBSCL giai đoạn 1999-2004
Tỷ trọng đóng góp (%)
Đóng góp (%)
Chỉ số HDI
Chỉ số GDP
Chỉ số GDP
Chỉ số GDP
Chỉ số tuổi thọ
ĐBSCL
Tốc độ tăng (%) Chia ra Chỉ số giáo dục 3,90 4,93 15,56 5,00 3,74 11,11 5,06 4,23 10,87 5,06 4,24 13,33 6,49 5,59 19,57 3,85 5,60 14,89 7,30 26,09 3,95 4,94 13,64 10,67 4,00 4,57 13,33 5,41 3,82 11,11 2,67 4,89 13,04 4,00 7,55 27,91 1,28 5,25 12,20
Chỉ Chỉ số số giáo tuổi thọ dục 0,00 70,71 30,30 -0,48 64,10 51,28 -0,49 57,47 45,98 0,00 68,97 45,98 -0,98 78,95 43,86 0,98 61,40 26,32 0,00 81,63 20,41 -2,00 60,61 80,81 0,00 66,67 33,33 -0,51 66,67 53,33 1,02 62,50 20,83 -0,51 81,63 20,41 9,80 1,54 49,02
Chỉ số giáo dục 1,49 1,92 1,94 1,95 2,45 1,47 1,49 3,99 1,52 2,04 1,02 1,54 0,51
3,49 2,40 2,43 2,92 4,41 3,44 5,96 2,99 3,05 2,54 3,06 6,16 2,57
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
0,00 -12,82 -11,49 0,00 -17,54 17,54 0,00 -40,40 0,00 -13,33 20,83 -6,80 29,41
Chỉ số tuổi thọ 0,00 -1,20 -1,23 0,00 -2,47 2,56 0,00 -4,94 0,00 -1,30 2,67 -1,30 3,95 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999-2004
41
42
Như vậy, trong các chỉ số thì GDP đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng của chỉ
số HDI. Sự đóng góp này thể hiện qua việc xem xét chênh lệch giá trị của mỗi chỉ
số đóng góp bao nhiêu phần trăm vào tốc độ tăng của HDI trong chênh lệch giá trị
của HDI (đo bằng điểm phần trăm).
So với các tỉnh ĐBSCL thì chỉ số GDP của Cần Thơ và Bạc Liêu có mức đóng
góp lớn nhất vào tốc độ tăng HDI, 5,96 và 6,16 điểm phần trăm vào 7,3% và 7,55%.
Các tỉnh khác tuy thấp hơn nhưng chỉ số GDP vẫn đóng góp cao hơn so với chỉ số
giáo dục và tuổi thọ. Duy nhất trường hợp Bến Tre là ngược lại, chỉ số GDP đóng
góp thấp hơn chỉ số giáo dục (2,99 – 3,99 điểm phần trăm).
Trong thời gian qua, Cần Thơ và Bạc Liêu đã tập trung cho phát triển kinh tế
với những dự án có vốn đầu tư nước ngoài mang đến sự tăng trưởng nhanh chóng,
làm cải thiện đáng kể chỉ số GDP. Tuy nhiên lại bỏ quên cải thiện tình trạng giáo
dục, đặc biệt là lĩnh vực y tế, chỉ số tuổi thọ thậm chí còn giảm. Xét về dài hạn, tăng
trưởng GDP sẽ tạo điều kiện tăng đầu tư xã hội vào giáo dục và y tế, do đó trong
giai đoạn tới, hai tỉnh này cũng cần tập trung thay đổi chỉ số giáo dục và chỉ số tuổi
thọ, góp phần làm tăng chỉ số HDI.
Ngược lại ở tỉnh Bến Tre, chỉ số giáo dục gia tăng đáng kể 10,7% và đóng góp
3,99 điểm phần trăm vào tốc độ tăng HDI 4,94%. Năm 1999, chỉ số giáo dục của
Bến Tre chỉ đứng trên Sóc Trăng, nhưng đến năm 2004 chỉ xếp sau Vĩnh Long
trong khu vực. Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận, bên cạnh đó tỉnh cũng chú ý
tăng trưởng kinh tế, chỉ số GDP tăng 13,64%. Tuy nhiên, chỉ số tuổi thọ lại giảm
mạnh nhất trong vùng -4,94%, cho thấy sự phát triển mất cân xứng trong nội bộ nền
kinh tế - xã hội của tỉnh, chú trọng lĩnh vực này lại bỏ quên lĩnh vực khác. Điều này
cần hết sức lưu ý trong tình hình mới nhằm cải thiện bền vững chỉ số HDI.
Có sự gia tăng ở cả 3 chỉ số là Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp, mặc dù
chỉ số GDP vẫn đóng góp đáng kể nhưng vẫn dưới mức trung bình. Chỉ số giáo dục
và tuổi thọ tăng trưởng thấp hơn song lại tương đối cao. Như vậy, xét theo giá trị
tuyệt đối, giáo dục và y tế vẫn có những đóng góp đáng kể vào chỉ số HDI.
43
Bảng 2.9: Tỷ trọng đóng góp của các chỉ số thành phần vào chỉ số HDI
các tỉnh vùng ĐBSCL
1999
2004
Chỉ số HDI
Chỉ số HDI
Chỉ số GDP
Chỉ số GDP
Chia ra Chỉ số giáo dục 38,4
Chỉ số tuổi thọ 39,4
Chia ra Chỉ số giáo dục 38,0
24,7
ĐBSCL
38,4 38,4 38,5 37,7 38,3 37,8 37,4 38,1 37,7 38,2 38,5 40,1
100,0 39,8 100,0 39,4 100,0 39,5 100,0 39,7 100,0 38,3 100,0 39,2 100,0 40,4 100,0 39,1 100,0 39,2 100,0 38,2 100,0 39,5 100,0 39,1 100,0 100,0
23,1 23,8 23,8 25,5 25,1 26,9 23,8 24,8 24,5 25,3 26,3 22,5 23,8
Chỉ số tuổi thọ 37,5 37,9 37,3 37,9 36,7 37,2 36,6 36,6 37,4 37,3 37,4 36,3 38,6 37,5
38,8 38,7 38,8 38,1 37,7 36,6 39,5 37,9 38,2 37,4 37,2 38,6 38,9
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
22,4 21,6 22,4 21,9 22,5 23,1 22,9 22,0 22,9 22,9 23,4 22,1 21,1
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999-2004
Điều này được chứng minh rõ hơn, qua việc xem xét tỷ trọng đóng góp của 3
chỉ số thành phần vào chỉ số HDI. Ta thấy toàn cảnh bức tranh của 13 tỉnh ĐBSCL
là khá đồng đều. Chỉ số tuổi thọ và chỉ số giáo dục chiếm tỷ trọng lớn hơn chỉ số
thu nhập, giữa các tỉnh xấp xỉ ngang bằng nhau từ 36-39%, chỉ số GDP dao động
trong khoảng 23-26%. Nhìn chung tỷ trọng của các chỉ số này đang có xu hướng
tiến dần đến mức hài hòa và hợp lý hơn.
44
45
2.3. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ
2.3.1. Mối tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số HDI
2.3.1.1. Theo xếp hạng
Thứ hạng chỉ số HDI vùng ĐBSCL đang đứng thứ 5 trong 8 vùng của cả
nước, tụt 1 hạng so với năm 1999, trong khi đó chỉ số GDP vẫn duy trì được vị trí
thứ 3. Ở góc độ nào đó, ta có thể nhận định rằng chỉ số GDP không góp phần làm
giảm thứ hạng chỉ số HDI vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, để có thể nhận định rõ nét hơn
chúng ta cần phải xem xét tương quan với hai chỉ số còn lại là tuổi thọ và giáo dục.
Tuy HDI ở tất cả các tỉnh thành trong giai đoạn 1999-2004 đều được cải thiện,
song mức độ tăng lại rất khác nhau, làm thay đổi thứ hạng của các tỉnh. Mức tăng
chỉ số HDI ở Cần Thơ và Bạc Liêu là đáng kể nhất, dẫn tới sự nhảy vọt trong bảng
xếp hạng là 7 và 5 bậc. Trong khi đó, các tỉnh Sóc Trăng, Bến Tre lại có sức bật
tương đối kém, nên vị trí trong bảng xếp hạng giảm tương ứng là 10 và 6 bậc; Long
An, Trà Vinh và Đồng Tháp giảm 4 bậc.
Bảng 2.10: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số HDI theo xếp hạng
Xếp hạng HDI
Xếp hạng GDP
Chênh lệch xếp hạng
+/-
+/-
Tỉnh, thành phố
2004
1999 4/8 13 16 18 20 21 24 27 36 37 38 39 40
2004 5/8 16 20 21 18 19 17 33 40 47 41 34 44 42
1999 3/8 15 11 15 11 9 11 19 15 15 11 21 25
0 -8 -8 -6 -1 -4 3 -5 -5 -10 -4 10 -9
-1 -3 -4 -3 2 2 7 -6 -4 -10 -3 5 -4
3/8 23 19 21 12 13 8 24 20 25 15 11 34 26
2004 2 -7 1 0 6 6 9 9 20 22 26 23 10 16
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
1999 1 -2 5 3 9 12 13 8 21 22 27 18 15 0 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
(Năm 1999: 61 tỉnh thành; năm 2004: 64 tỉnh thành)
46
Thứ hạng theo chỉ số GDP của các tỉnh thành ĐBSCL có sự khác biệt so với
thứ hạng theo chỉ số HDI. Nổi bật lên là có sự đảo hạng ở các tỉnh (xếp hạng chỉ số
HDI cao hoặc thấp hơn chỉ số GDP). Chênh lệch giữa xếp hạng GDP và xếp hạng
HDI của các tỉnh thành cũng khá rõ nét.
Phân bố các tỉnh thành ĐBSCL trong tương quan theo xếp hạng GDP và theo
Xếp hạng theo HDI
1
HDI CAO
GDP CAO
11
Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang, Cà Mau,
21
Kiên Giang, Cần Thơ,
Bến Tre
61
51
41
31 21
11
1
Xếp hạng theo GDP
41
Trà Vinh, Sóc Trăng,
51
An Giang, Bạc Liêu,
Đồng Tháp
61
HDI THẤP
GDP CAO
xếp hạng HDI được thể hiện trong Hình 2.5 và Hình 2.6
Hình 2.5: Tương quan theo xếp hạng HDI và GDP của 12 tỉnh thành ĐBSCL năm 1999
Trong đó, năm 1999 có 7/12 tỉnh thành có mối quan hệ thuận chiều, thứ hạng
GDP và HDI cùng cao (<31)… Năm 2004 có 6/13 tỉnh thành có mối quan hệ thuận
chiều, thứ hạng GDP và HDI cùng cao (<32) và có 1 tỉnh thứ hạng GDP và HDI
cùng thấp (Đồng Tháp).
Thuộc nhóm quan hệ ngược chiều có các tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng,
An Giang, Bạc Liêu và Hậu Giang. Bến Tre đã bị đẩy từ nhóm thuận chiều xuống
nhóm ngược chiều, khi chỉ số HDI tụt 6 hạng. Cho thấy, phân phối lợi ích từ tăng
trưởng kinh tế ở các tỉnh này còn thiếu bình đẳng, thể hiện ở thứ hạng GDP bình
47
quân đầu người cao hơn so với thứ hạng HDI thấp. Nói cách khác, thu nhập bình
quân đầu người cao của một tỉnh nào đó cũng không nhất thiết phản ánh mức độ
phát triển con người cao.
Như vậy, theo thứ hạng thì chỉ có 6/13 tỉnh thành đạt độ tương thích tốt.
Xếp hạng theo HDI
HDI CAO
1
GDP CAO
12
Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang, Cà Mau,
22
Kiên Giang, Cần Thơ
64
52
42
32 22
12
1
Xếp hạng theo GDP
42
Bến Tre,
Đồng Tháp
Trà Vinh, Sóc Trăng,
52
An Giang, Bạc Liêu,
Hậu Giang
64
HDI THẤP
HDI THẤP
GDP THẤP
GDP CAO
Ngoài ra còn có 1 tỉnh mà 2 thứ hạng đều thấp đặc biệt còn nhiều khó khăn.
Hình 2.6: Tương quan theo xếp hạng HDI và GDP của 13 tỉnh thành ĐBSCL năm 2004
Khoảng cách chênh lệch thứ hạng HDI – GDP giữa năm 1999 và 2004 đã được
thu hẹp dần. Đến nay, chênh lệch thứ hạng của tỉnh Vĩnh Long là đi ngược lại so với
các tỉnh còn lại trong khu vực ĐBSCL. Thứ hạng HDI cao hơn thứ hạng GDP và cả 2
thứ hạng này đều thuộc nhóm cao. Các tỉnh khác có điều kiện tốt về thu nhập nhưng
chưa tận dụng để thúc đẩy các thành quả về phát triển con người. Có thể quá thiên
vào tăng trưởng kinh tế và trong chừng mực nào đó, đã sao nhãng những khía cạnh
khác của sự phát triển con người. Rõ nét nhất là các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An
Giang và Bạc Liêu, xếp hạng trung bình về thu nhập bình quân đầu người, song lại
đứng phía cuối bảng về thứ hạng HDI, chênh lệch xếp hạng lên trên 20 bậc.
48
Hình 2.7: Chênh lệch xếp hạng chỉ số HDI và GDP năm 2004
Ở ĐBSCL, mặc dù nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh
tế, nhưng đó lại là thế mạnh trong sản xuất và xuất khẩu của các tỉnh này. Thất
nghiệp và thiếu việc làm ở mức vừa phải và tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì
ở mức cao trong nhiều năm. Tuy vậy, các vấn đề đảm bảo nước sạch và vệ sinh,
trình độ giáo dục và lao động có tay nghề, khả năng phòng chống thiên tai và đối
phó với những biến động của thị trường thế giới còn có rất nhiều khó khăn làm hạn
chế đến tình hình phát triển chung và tính bền vững của các thành quả xóa đói giảm
nghèo. Có nhiều nguyên nhân, kể cả những nguyên nhân về lịch sử và địa lý giải
thích tình trạng và cách thức phát triển hiện nay của các địa phương trên, song vấn
đề chính sách cũng có vai trò không nhỏ. Trong thời gian tới, những nổ lực hỗ trợ
công tác phòng chống thiên tai, tạo dựng những cơ chế phù hợp cho việc quản lý rủi
ro, cung cấp thông tin, trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương… cần được đẩy
mạnh hơn nữa.
2.3.1.2. Theo giá trị
Về giá trị chỉ số GDP: năm 2004 tỉnh duy nhất có giá trị chỉ số GDP đạt mức
trung bình của cả nước 0,556 là Cần Thơ (0,58). Nếu so với mức trung bình của vùng
ĐBSCL 0,52 thì có 5 tỉnh là Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, An Giang và Bạc Liêu.
Xét tương đối, điều này cũng có nghĩa là có khoảng 1,127 triệu người (dân số Cần
49
Thơ năm 2004) được hưởng mức GDP bình quân cả nước, chiếm 6,6% dân số toàn
vùng. Còn gần 16 triệu người của 12 tỉnh còn lại đang ở dưới mức trung bình này.
Bảng 2.11: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số HDI theo giá trị
Giá trị chỉ số HDI
Giá trị chỉ số GDP
+/-
+/-
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
2004 0,56 0,55 0,40 0,46 0,45 0,51 0,43 0,70 0,52 0,50 0,51 0,51 0,55 0,54 0,58 0,50 0,51 0,50 0,52 0,55 0,46 0,49
1999 0,47 0,46 0,32 0,37 0,37 0,42 0,40 0,61 0,45 0,45 0,46 0,45 0,46 0,47 0,46 0,44 0,45 0,45 0,46 0,43 0,41
1999 0,689 0,723 0,564 0,641 0,662 0,676 0,604 0,751 0,669 0,695 0,686 0,684 0,680 0,678 0,671 0,668 0,656 0,655 0,654 0,649 0,648
2004 0,731 0,757 0,611 0,684 0,704 0,722 0,646 0,792 0,702 0,721 0,715 0,713 0,718 0,716 0,720 0,701 0,686 0,680 0,686 0,698 0,682 0,685
0,09 0,09 0,08 0,09 0,08 0,09 0,03 0,09 0,07 0,05 0,05 0,06 0,09 0,07 0,12 0,06 0,06 0,05 0,06 0,12 0,05
0,042 0,034 0,047 0,043 0,042 0,046 0,042 0,041 0,033 0,026 0,029 0,029 0,038 0,038 0,049 0,033 0,03 0,025 0,032 0,049 0,034
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Về giá trị chỉ số HDI: năm 1999 chỉ có Vĩnh Long đạt 0,695 trên mức trung
bình cả nước 0,689. Đến năm 2004, không còn tỉnh thành nào đạt giá trị chỉ số HDI
cả nước 0,731. Nếu so sánh với mức trung bình của vùng thì số tỉnh thành đạt 0,702
có 6 tỉnh Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Kiên Giang và Cần Thơ. Các
tỉnh thành này được Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999-2004 xếp vào
nhóm phát triển cao (HDI ≥ 0,7) và có thêm tỉnh Bến Tre. Còn nếu theo phân nhóm
HDI của UNDP thì không có tỉnh thành nào ở ĐBSCL thuộc nhóm phát triển cao.
50
Xét một cách tương đối, điều đó cũng đồng nghĩa là có 8,08 triệu người được hưởng
mức phát triển con người trung bình toàn vùng, chiếm 47,3% dân số ĐBSCL. Còn
khoảng 8,99 triệu người của 7 tỉnh khác đang ở dưới mức trung bình của vùng.
Nhưng nếu xét theo chỉ số HDI cả nước thì chưa một người dân nào của ĐBSCL
Giá trị chỉ số GDP
Kiên Giang
Giá trị chỉ số HDI
H= 0,689 K = 0,467
Long An,Tiền Giang,
Cà Mau, Cần Thơ,
Bến Tre,Trà Vinh,
Vĩnh Long
Sóc Trăng, An Giang,
Bạc Liêu, Đồng Tháp
hưởng mức phát triển con người trung bình này.
Hình 2.8: Tương quan theo giá trị HDI và GDP của 12 tỉnh thành ĐBSCL năm 1999
Năm 2004: 12 tỉnh thành có mối quan hệ thuận chiều, nhưng đều là giá trị chỉ
số GDP và HDI cùng thấp (so với mức trung bình cả nước K= 0,556 và H= 0,731).
Duy nhất Cần Thơ có giá trị chỉ số GDP cao 0,58; nhưng giá trị chỉ số HDI là 0,720
thấp hơn cả nước.
Như vậy, xét theo giá trị chỉ số HDI và GDP thì trong 13 tỉnh thành chưa có
tỉnh nào đạt mối tương quan tốt. Với cách xem xét này, để đạt mức trung bình cả
nước về cả chỉ số HDI và GDP bình quân đầu người, sẽ có 1 tỉnh cần cải thiện chỉ
số tuổi thọ và chỉ số giáo dục, 12 tỉnh còn lại phải phấn đấu vươn lên ở cả hai chỉ
tiêu về HDI – phát triển con người và về GDP – phát triển kinh tế.
51
Giá trị chỉ số GDP
Cần Thơ
Vĩnh Long, Long An,
Giá trị chỉ số HDI
Tiền Giang, Cà Mau,
Kiên Giang, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng,
An Giang, Bạc Liêu,
Đồng Tháp, Hậu Giang
H= 0,731 K = 0,556
Hình 2.9: Tương quan theo giá trị HDI và GDP của 13 tỉnh thành ĐBSCL năm 2004
2.3.1.3. Theo hệ số
Tương quan theo hệ số giữa chỉ số phát triển con người và chỉ số phát triển
kinh tế lại cho chúng ta một bức tranh khác hơn nữa so với hai tương quan đã xem
xét trên đây.
Về mặt tuyệt đối, chỉ số HDI có giá trị (0,702) cao hơn chỉ số GDP (0,52). Do
đó, khi xem xét hệ số K/H của vùng ĐBSCL cho kết quả tương quan nhỏ hơn 1. Năm
1999 tỷ số này chỉ đạt 0,673 và đến năm 2004 tăng lên 0,741. Với giá trị trung bình
thế giới là 0,75 thì ĐBSCL vẫn chưa đạt được mức tương thích trung bình giữa phát
triển con người và phát triển kinh tế. Trong khi đó, hệ số tương quan giữa HDI và
GDP của cả nước đã tăng từ 0,678 lên 0,761. Như vậy, ĐBSCL vẫn đứng sau cả nước
về tương quan giữa hai chỉ số HDI và GDP. Điều này cho thấy sự đóng góp còn thấp
của phát triển kinh tế vào thành tựu phát triển con người ở khu vực ĐBSCL.
Xem xét toàn vùng thì có 5 tỉnh thành đạt K/H > 0,75 là Cà Mau, Kiên Giang,
Cần Thơ, An Giang và Bạc Liêu. Ngoài ra còn có Trà Vinh 0,743 đạt xấp xỉ mức
trung bình thế giới. Như vậy, với giá trị trung bình vùng ĐBSCL của hệ số K/H là
0,74 thì có 6 tỉnh thành đạt bằng và cao hơn. Nếu so với hệ số K/H của cả nước 0,76
thì chỉ có 3 tỉnh Cà Mau, Cần Thơ và Bạc Liêu đạt trên mức trung bình này.
52
Bảng 2.12: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số HDI theo hệ số
Hệ số K/H (GDP/HDI)
Chênh lệch
1999
2004
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
0,678 0,636 0,567 0,577 0,559 0,621 0,662 0,812 0,673 0,647 0,671 0,658 0,676 0,693 0,686 0,659 0,686 0,687 0,703 0,663 0,633
0,761 0,727 0,655 0,673 0,639 0,706 0,666 0,884 0,741 0,693 0,713 0,715 0,766 0,754 0,806 0,713 0,743 0,735 0,758 0,788 0,674 0,715
0,083 0,090 0,087 0,095 0,080 0,085 0,003 0,072 0,068 0,046 0,043 0,057 0,090 0,061 0,120 0,055 0,057 0,048 0,055 0,125 0,042
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
2.3.1.4. Nhận xét
Tóm lại, xét từ nhiều góc độ khác nhau mối tương quan giữa phát triển kinh tế
- phát triển con người của các tỉnh ĐBSCL tuy chưa hoàn toàn đầy đủ, song cũng
cho chúng ta thấy: còn ít nhất khoảng 2/3 số tỉnh thành còn ở tình trạng kém phát
triển cả về kinh tế và phát triển con người. Các tỉnh này có độ tương thích thấp, kinh
tế đóng góp, tác động còn ít vào phát triển con người.
Những phân tích trên đây cho thấy mặc dù trong năm qua, kinh tế khu vực
ĐBSCL đã liên tục đạt được tăng trưởng cao, nhưng “Tình trạng nghèo đói và cận
nghèo đói hiện nay vẫn là thách thức cấp bách nhất về phát triển con người…” Hơn
nữa, “bất cứ lợi ích nào mà người nghèo nhận được từ an sinh xã hội bị lấy lại thông
53
qua các phí và chi tiêu cho giáo dục và y tế. Chính phủ trợ cấp cho các hộ nghèo
nhất rồi lấy lại đúng khoản đó”, cho nên “an sinh xã hội cho người nghèo là con số
0, có khi là âm” (Nhà kinh tế trưởng của UNDP ở Việt Nam, Johnathan Pincus).
Giá trị chỉ số HDI tương đối cao trong khi hệ số K/H của vùng và đại đa số
các tỉnh thành thấp hơn mức trung bình chứng tỏ những cố gắng về các mặt giáo
dục, y tế đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong giá trị chỉ số HDI. Vì vậy,
bài toán đặt ra ở đây là một mặt phải tăng được sự đóng góp của chỉ số GDP nhiều
hơn nữa vào mục tiêu nâng cao chỉ số HDI. Mặt khác, cần tìm ra những khâu then
chốt để có thể phát huy được hiệu quả của những thành tựu về giáo dục và y tế vào
việc nâng cao không chỉ bản thân chỉ số HDI, mà phải nâng cao cả chỉ số GDP. Nói
một cách khác là hiệu quả đầu tư cho y tế và giáo dục cần được thể hiện rõ hơn nữa
trong việc giải quyết những mục tiêu bản chất của phát triển kinh tế.
Nhìn tổng thể, trong giai đoạn 1999-2004, chỉ số HDI ở tất cả các tỉnh đều được
cải thiện, dù với mức độ khác nhau và khoảng cách phát triển con người giữa các tỉnh
đã được thu hẹp. Có được sự cải thiện như vậy một phần quan trọng là nhờ tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và đến lượt mình, tăng trưởng lại phụ thuộc vào nổ lực của các tỉnh
trong việc tăng cường năng lực cạnh tranh của mình – ngoài các nhân tố khác. Tuy
nhiên, vẫn tồn tại bất bình đẳng trong phân phối lợi ích tăng trưởng giữa các tỉnh. Hơn
nữa, bất bình đẳng nội tỉnh về phân phối thu nhập cũng hiện hữu. Điều này đã ảnh
hưởng đến mức độ thay đổi của chỉ số HDI giữa các tỉnh trong thời gian qua.
2.3.2. Mối tương quan giữa chỉ số E1 với chỉ số HDI
2.3.2.1. Theo xếp hạng
Thứ hạng HDI vùng ĐBSCL đang đứng thứ 5 trong 8 vùng của cả nước, tụt 1
hạng so với năm 1999. Trong khi đó, chỉ số E1 từ vị trí thứ 3 giảm xuống hạng 7.
Đây là khu vực mà trong những năm qua thực trạng giáo dục ở mức báo động, các
vùng khác có sự cải thiện giáo dục đáng kể, thay đổi vị trí thứ hạng trong bản đồ
giáo dục của cả nước, nhưng với ĐBSCL thì đi ngược lại xu thế này. Phải chăng
chính điều này làm kéo giảm thứ hạng chỉ số HDI của vùng so với cả nước?
54
Bảng 2.13: Tương quan giữa chỉ số E1 với chỉ số HDI theo xếp hạng
Xếp hạng HDI
Xếp hạng E1
Chênh lệch xếp hạng
+/-
+/-
Tỉnh, thành phố
1999 4/8 13 16 18 20 21 24 27 36 37 38 39 40
2004 5/8 16 20 21 18 19 17 33 40 47 41 34 44 42
-1 -3 -4 -3 2 2 7 -6 -4 -10 -3 5 -4
1999 2004 7/8 39 42 42 45 47 51 42 53 53 56 53 51 50
3/8 10 11 11 21 15 28 32 32 40 32 32 15
-4 -29 -31 -31 -24 -32 -23 -10 -21 -13 -24 -21 -36
1999 1 3 5 7 -1 6 -4 -5 4 -3 6 7 25 0
2004 -2 -23 -22 -21 -27 -28 -34 -9 -13 -6 -15 -19 -7 -8
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Xem xét chi tiết đến từng tỉnh thành cho thấy chỉ số giáo dục tụt hạng rõ nét
hơn. Năm 2004, 13/13 tỉnh thành ĐBSCL đều tụt hạng, giảm đáng kể nhất là Long
An, Tiền Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp trên 30 bậc; Bến Tre giảm 10 bậc; Sóc
Trăng giảm 13 bậc; còn lại giảm từ 20 – 30 bậc.
Trong khi đó, chỉ số HDI tuy có chiều hướng tụt hạng (8/12 tỉnh) song biên độ
thay đổi không lớn, chỉ có Sóc Trăng giảm 10 bậc; còn 4 tỉnh tăng hạng. Do đó,
chúng ta thấy chênh lệch xếp hạng giữa chỉ số HDI và chỉ số E1 qua hai năm cũng
khác biệt rất rõ. Năm 1999 chênh lệch thứ hạng dao động dưới 10 bậc, duy nhất
Đồng Tháp chênh lệch 25 bậc. Đến năm 2004 biên độ đã nới rộng hơn, khoảng cách
chênh lệch tách xa dần, và một điều thấy rõ rằng chênh lệch thứ hạng đều là số âm,
nghĩa là thứ hạng HDI luôn cao hơn thứ hạng E1. Cần Thơ có khoảng chênh lệch
thứ hạng lớn nhất -34 bậc, thật khó lý giải đối với một thành phố được xem là phát
triển đi đầu của khu vực ĐBSCL? Phải chăng chênh lệch phát triển nội vùng còn
quá lớn, giữa thành thị và nông thôn, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã làm
55
phân tầng rõ nét? Khoảng chênh lệch dưới 10 bậc có các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng,
Đồng Tháp và Hậu Giang.
Hình 2.10: Chênh lệch xếp hạng chỉ số HDI và E1 năm 2004
Xếp hạng theo HDI
HDI CAO
HDI CAO
1
E1 THẤP
E1 CAO
11
Vĩnh Long, Long An,
Bến Tre
Tiền Giang, Cà Mau,
21
Kiên Giang, Cần Thơ
61
51
41
31 21
11
1
Xếp hạng theo E1
Trà Vinh, Sóc Trăng,
41
An Giang, Bạc Liêu
Đồng Tháp
51
HDI THẤP
HDI THẤP
61
E1 THẤP
E1 CAO
Hình 2.11: Tương quan theo xếp hạng HDI và E1 của 12 tỉnh thành ĐBSCL năm 1999
Năm 1999 mối tương quan này có đầy đủ nhóm các tỉnh thuận chiều và ngược
chiều. Trong đó, có 6/12 tỉnh thuận chiều HDI và E1 cùng cao (thứ hạng < 31), đó là
56
Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Kiên Giang và Cần Thơ. Ngược lại, Trà
Vinh, Sóc Trăng, An Giang và Bạc Liêu có thứ hạng HDI và E1 cùng thấp (> 31).
Nhóm tương quan ngược chiều có tỉnh Bến Tre thứ hạng HDI cao nhưng E1 thấp và
Đồng Tháp có thứ hạng HDI thấp nhưng E1 cao.
Bức tranh sinh động đó đã thay đổi hoàn toàn vào năm 2004, những tỉnh có
thứ hạng chỉ số E1 cao đã không còn xuất hiện. Đồng Tháp vốn xếp hạng E1 cao vào
năm 1999 nay cũng được đưa vào nhóm có HDI và E1 cùng thấp. Bến Tre có HDI
xếp hạng cao nay lại bị tụt xuống nhóm thuận chiều thấp. Như vậy, tương quan xếp
hạng giữa chỉ số phát triển con người và chỉ số giáo dục chỉ còn phân thành hai
Xếp hạng theo HDI
HDI CAO
1
E1 THẤP
Vĩnh Long, Long An,
12
Tiền Giang, Cà Mau,
Kiên Giang, Cần Thơ
22
64
52
42
32 22
12
1
Xếp hạng theo E1
Bến Tre, Trà Vinh,
42
Sóc Trăng, An Giang,
Bạc Liêu, Đồng Tháp,
52
Hậu Giang
HDI THẤP
64
E1 THẤP
nhóm E1 thấp + HDI cao hay HDI thấp.
Hình 2.12: Tương quan theo xếp hạng HDI và E1 của 13 tỉnh thành ĐBSCL năm 2004
Như vậy, xét theo mối tương quan xếp hạng thì toàn vùng ĐBSCL chưa có
tỉnh thành nào đạt được độ tương thích tốt giữa chỉ số HDI và E1. 7/13 tỉnh có mối
quan hệ thuận chiều cùng thấp, 6 tỉnh còn lại vốn tương thích tốt cùng cao (năm
1999) nay lại có tương quan ngược chiều.
57
Điều này cho thấy, giáo dục ĐBSCL trong thời gian qua chưa đóng góp hợp lý
vào sự phát triển của chỉ số phát triển con người. Ta sẽ khẳng định vấn đề này rõ
hơn qua việc xem xét mối tương quan giữa chúng với góc độ tiếp cận khác.
2.3.2.2. Theo giá trị
Bảng 2.14: Tương quan giữa chỉ số E1 với chỉ số HDI theo giá trị
Giá trị chỉ số HDI
Giá trị chỉ số E1
Tỉnh, thành phố
+/-
+/-
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
1999 0,689 0,723 0,564 0,641 0,662 0,676 0,604 0,751 0,669 0,695 0,686 0,684 0,680 0,678 0,671 0,668 0,656 0,655 0,654 0,649 0,648
2004 0,731 0,757 0,611 0,684 0,704 0,722 0,646 0,792 0,702 0,721 0,715 0,713 0,718 0,716 0,720 0,701 0,686 0,680 0,686 0,698 0,682 0,685
0,042 0,034 0,047 0,043 0,042 0,046 0,042 0,041 0,033 0,026 0,029 0,029 0,038 0,038 0,049 0,033 0,03 0,025 0,032 0,049 0,034
1999 0,84 0,81 0,68 0,72 0,75 0,76 0,64 0,80 0,77 0,80 0,79 0,79 0,77 0,78 0,76 0,75 0,75 0,74 0,75 0,75 0,78
2004 0,86 0,89 0,72 0,85 0,89 0,88 0,83 0,86 0,80 0,84 0,83 0,83 0,82 0,81 0,79 0,83 0,78 0,78 0,77 0,78 0,79 0,80
0,02 0,08 0,04 0,13 0,14 0,12 0,19 0,06 0,03 0,04 0,04 0,04 0,05 0,03 0,03 0,08 0,03 0,04 0,02 0,03 0,01
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Về giá trị chỉ số HDI: năm 1999 chỉ có Vĩnh Long đạt 0,695 trên mức trung
bình cả nước 0,689. Đến năm 2004, không còn tỉnh thành nào đạt giá trị chỉ số HDI
cả nước 0,731. Nếu so sánh với mức trung bình của vùng thì số tỉnh thành đạt ≥
0,702 có 6 tỉnh tỉnh Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Kiên Giang và Cần
Thơ. Các tỉnh thành này được Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999-2004
58
xếp vào nhóm phát triển cao (HDI ≥ 0,7) và có thêm tỉnh Bến Tre. Còn nếu theo
phân nhóm HDI của UNDP thì không có tỉnh thành nào ở ĐBSCL thuộc nhóm phát
triển cao. Xét một cách tương đối, điều đó cũng đồng nghĩa là có 8,08 triệu người
được hưởng mức phát triển con người trung bình toàn vùng, chiếm 47,3% dân số
ĐBSCL. Còn khoảng 8,99 triệu người của 7 tỉnh khác đang ở dưới mức trung bình
của vùng. Nhưng nếu xét theo chỉ số HDI cả nước thì chưa một người dân nào của
ĐBSCL hưởng mức phát triển con người trung bình này.
Về giá trị chỉ số E1: xét theo mức trung bình cả nước thì không một tỉnh thành
nào ở vùng ĐBSCL đạt 0,835 năm 1999 và đạt 0,855 năm 2004. Nhưng nếu xét
theo mức bình quân của vùng thì có 7 tỉnh thành đạt mức 0,77 năm 1999 và 0,8 năm
2004. Điều đáng lưu ý là 7 tỉnh thành này không được giữ nguyên, Bến Tre có
chuyển biến tăng, năm 2004 đạt 0,83 trên mức trung bình của vùng. Ngược lại
Đồng Tháp đến năm 2004 chỉ số giáo dục là 0,79 thấp hơn mức bình quân của
vùng. Xem xét này một lần nữa cho ta thấy Cần Thơ đều chưa đạt mức trung bình
Giá trị chỉ số E1
Giá trị chỉ số HDI
H= 0,689 E1 = 0,835
Long An,Tiền Giang,
Cà Mau, Kiên Giang, Vĩnh Long
Cần Thơ, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng,
An Giang, Bạc Liêu,
Đồng Tháp
của vùng ở cả hai năm.
Hình 2.13: Tương quan theo giá trị HDI và E1 của 12 tỉnh thành ĐBSCL năm 1999
Năm 1999: 11/12 tỉnh thành có mối quan hệ thuận chiều, nhưng đều là giá trị
chỉ số E1 và HDI cùng thấp (so với mức trung bình cả nước H= 0,689 và E1= 0,835).
59
Duy nhất Vĩnh Long có giá trị chỉ số HDI cao 0,695; nhưng giá trị chỉ số E1 là 0,8
thấp hơn cả nước. Và đây cũng là tỉnh đứng đầu khu vực về giá trị của cả hai chỉ số.
Năm 2004: Vĩnh Long cùng được xếp vào nhóm quan hệ thuận chiều thấp và
như vậy 13 tỉnh thành khu vực ĐBSCL đều có giá trị chỉ số HDI và E1 dưới mức
trung bình cả nước H= 0,731 và E1= 0,855.
Tóm lại, xét theo giá trị chỉ số HDI và E1 thì trong 13 tỉnh thành chưa có tỉnh
nào đạt mối tương quan tốt. Với cách xem xét này, để đạt mức trung bình cả nước,
cả 13 tỉnh thành cần cải thiện chỉ số phát triển con người và chỉ số phát triển giáo
dục. Và để đạt mức trung bình của vùng (H= 0,702 và E1= 0,8) thì có 5 tỉnh cần
vươn lên ở cả hai chỉ số là Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Bạc Liêu và Đồng
Tháp; 2 tỉnh cải thiện chỉ số phát triển con người là Bến Tre, Hậu Giang và phải
Giá trị chỉ số E1
Giá trị chỉ số HDI
H= 0,731 E1 = 0,855
Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang, Cà Mau,
Kiên Giang, Cần Thơ,
Bến Tre, Trà Vinh,
Sóc Trăng, An Giang,
Bạc Liêu, Đồng Tháp,
Hậu Giang
phấn đấu vươn lên ở chỉ tiêu giáo dục là Cần Thơ.
Hình 2.14: Tương quan theo giá trị HDI và E1 của 13 tỉnh thành ĐBSCL năm 2004
2.3.2.3. Theo hệ số
Giá trị của hệ số E1/H (E1/HDI) biểu đạt phần đóng góp của nhân tố giáo dục
vào chỉ số phát triển con người của cộng đồng, phản ánh giáo dục là mục tiêu của
quá trình phát triển.
60
Tương quan giữa chỉ số phát triển giáo dục E1 với chỉ số phát triển con người
HDI của vùng ĐBSCL năm 1999 là 1,15 giảm xuống còn 1,14 năm 2004. Trong khi
đó, hệ số này của cả nước giảm từ 1,21 xuống 1,17. Tuy thấp hơn mức trung bình cả
nước, nhưng hệ số E1/H của vùng vẫn còn ở mức cao.
Bảng 2.15: Tương quan giữa chỉ số E1 với chỉ số HDI theo hệ số
Hệ số E1/H (E1/HDI)
1999
2004
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
1,212 1,120 1,206 1,123 1,133 1,124 1,060 1,065 1,151 1,151 1,152 1,155 1,132 1,150 1,133 1,123 1,143 1,130 1,147 1,156 1,204
Chênh lệch -0,042 0,055 -0,027 0,119 0,131 0,095 0,225 0,021 -0,011 0,014 0,009 0,009 0,010 -0,019 -0,035 0,061 -0,006 0,017 -0,024 -0,038 -0,045
1,170 1,176 1,178 1,243 1,264 1,219 1,285 1,086 1,140 1,165 1,161 1,164 1,142 1,131 1,097 1,184 1,137 1,147 1,122 1,117 1,158 1,168
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
HDI = 0,702 < 0,8 và E1/H = 1,14 > 1,05 có hiện tượng nhân tố giáo dục đã
lấn phần đóng góp của nhân tố kinh tế và nhân tố tuổi thọ vào HDI. Chứng tỏ giáo
dục ĐBSCL không có sự đóng góp hợp lý vào thành quả HDI của cộng đồng.
Phân tích hệ số E1/H ở các tỉnh ĐBSCL đều cho thấy có giá trị lớn hơn 1,05 và
13 tỉnh thành này đều có giá trị chỉ số HDI < 0,8. Điều này cũng cho ta kết luận:
nhân tố giáo dục đã lấn phần đóng góp của nhân tố kinh tế và nhân tố tuổi thọ vào
61
HDI. Ngoài ra, hệ số E1/H lớn hơn 1 còn chứng tỏ người dân ĐBSCL có phúc lợi
giáo dục cao trong HDI.
Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng có tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ
nhóm dân số 6-23 tuổi đi học các cấp là khá cao. Với giá trị này, giáo dục đã góp
phần làm gia tăng chỉ số phát triển con người HDI. Tuy có tỷ lệ đi học các cấp giáo
dục thấp nhất cả nước 61,5% và tỷ lệ người lớn biết chữ 89,8% đứng thứ 3 trên Tây
Bắc và Tây Nguyên (năm 2004) nhưng chỉ số giáo dục ĐBSCL vẫn xếp vào hàng
cao trong khu vực, đạt từ 0,75 – 0,85. Tuy nhiên ĐBSCL có chỉ số phát triển con
người chưa cao do đó khi xem xét hệ số E1/H ta thấy rõ vấn đề này.
2.3.2.4. Nhận xét
Xem xét mối tương quan giữa chỉ số phát triển con người HDI và chỉ số giáo
dục E1 ở nhiều góc độ khác nhau cho thấy tính tương thích còn thấp và có hiện
tượng nhân tố giáo dục lấn phần đóng góp của các nhân tố khác vào chỉ số HDI. Chỉ
số E1 đạt khá cao song chỉ số HDI lại không cao tương đồng, do đó độ chênh tỷ số
này lớn hơn 1. Như vậy sâu trong nội hàm của chỉ số HDI đang có sự mất cân xứng.
Chỉ số giáo dục được xây dựng trên tỷ lệ biết chữ của người lớn (từ 15 tuổi trở
lên) và trên tỷ lệ ghi danh theo học các bậc tiểu học, trung học và đại học gộp lại.
Nhưng tỷ lệ biết chữ chiếm 2/3 hệ số, trong khi tỷ lệ ghi danh ở tiểu, trung và đại
học chỉ chiếm 1/3 hệ số. Nói cách khác, căn bản quan trọng để tính toán chỉ số giáo
dục giữa các quốc gia là tỷ lệ biết chữ.
Theo định nghĩa khái niệm “kỹ năng biết chữ của người lớn” trong cuộc khảo
sát quốc tế về tình trạng biết chữ của người trưởng thành được thực hiện từ 1994 -
1998 (IALS, International Adult Literacy Survey), có nghĩa là “sự hiểu biết và khả
năng sử dụng thông tin để có thể vận dụng một cách hiệu quả các kiến thức đòi hỏi
trong một xã hội tri thức của thế kỷ 21”.
Nói cách khác, biết chữ có nghĩa là kiến thức và kỹ năng xử lý thông tin mà
con người cần phải có khi đọc các tài liệu thường gặp hằng ngày trong công việc
làm, ở gia đình hay trong cộng đồng.
62
Khi thực hiện cuộc khảo sát này để tính tỷ lệ biết chữ của một nước, người ta
không đo lường cá nhân về kiến thức lý thuyết hay khả năng nhớ thuộc lòng các
thông tin, mà chỉ khảo sát khả năng triển khai và giải thích ý nghĩa của các tài liệu
dưới nhiều dạng khác nhau: văn xuôi, văn vần, các tài liệu hướng dẫn, các thông
báo, biểu mẫu xin việc, bảng biểu thống kê, tài liệu định lượng, các tính toán...
Căn cứ trên điểm số các thang đo lường ấy, người ta phân chia dân chúng
trong mỗi nước theo các mức biết chữ và tính tỷ lệ trong từng mức, từ 1 (thấp nhất)
đến 5 (cao nhất). Mức 3 đòi hỏi kỹ năng tương đương với tốt nghiệp trung học phổ
thông và năm đầu đại học. Mức 4 và 5 đòi hỏi kỹ năng xử lý thông tin cao hơn,
tương đương với trình độ đại học.
Như vậy, nếu tỷ lệ biết chữ ở ĐBSCL là 89,8% (2004), tức vào hàng thứ 6
trong 8 vùng cả nước, điều này cũng chưa đủ để nói lên chất lượng nền giáo dục
nếu chưa biết được tỷ lệ phần trăm số người ở mỗi mức biết chữ, trong năm mức
nói trên, ở lớp tuổi 15 - 65.
Hiện nay, dường như chưa có dữ kiện thống kê nào cho biết được các tỷ lệ này
ở ĐBSCL nói riêng cũng như của cả nước nói chung. Điều mà chúng ta mong mỏi
đạt tới không phải là tỷ lệ biết chữ 92,2% như cả nước hiện nay hay cao hơn nữa,
nếu tỷ lệ ấy gồm đa số người dân ở mức 1, nghĩa là mức biết chữ thấp nhất. Điều
mà ta mong mỏi là tỷ lệ cao ở mức biết chữ từ bậc 3 trở lên, tức là trình độ học vấn
tương đương trung học phổ thông. Đó là mức dân trí cần thiết mà các nước đang cố
gắng đạt đến trong nền kinh tế tri thức toàn cầu.
Thế nhưng nhìn lại bảng số liệu về chỉ số phát triển con người trong báo cáo,
ta thấy tỷ lệ phần trăm ghi danh theo học từ bậc tiểu học lên đến đại học ở ĐBSCL
chỉ là 61,5%, đứng thấp nhất toàn quốc. Nếu tình trạng này không được cải thiện,
nhất là ở bậc trung học phổ thông và đại học, thì trong tương lai dù tỷ lệ biết chữ có
tăng lên kéo theo sự gia tăng chỉ số giáo dục, nhưng đa số dân chúng còn ở mức độ
biết chữ thấp, điều đó cũng không thể lạc quan và cũng không nói lên được sự gia
tăng về chất lượng của nền giáo dục, hay khả năng đáp ứng của nó trong nền kinh tế
hội nhập và phát triển.
63
Nói tóm lại, tỷ lệ người lớn biết chữ cao là một điều kiện thuận lợi để đông
đảo người dân ĐBSCL tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên, đa số dân cư là nông dân và
mức độ phổ cập giáo dục mới ở mức tiểu học. Trình độ văn hóa còn thấp như vậy
hạn chế cả sự phát triển các nhu cầu về tinh thần cũng như các điều kiện thỏa mãn
chúng của họ. Ngoài ra việc không biết và không thông thạo ngoại ngữ của gần như
toàn bộ dân cư nông thôn và một bộ phận đáng kể dân thành thị đang là một trong
những trở ngại lớn nhất đối với việc đón nhận các cơ hội về thông tin và tri thức
toàn cầu đang mở rộng. Hơn nữa, do thu nhập còn thấp, nên đa số người dân chưa
có nhiều điều kiện cải thiện nhanh chóng trình độ văn hóa và chất lượng đời sống
tinh thần của mình; ưu tiên hàng đầu của họ vẫn là thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu
và đối phó với các rủi ro, hoặc là để con cái họ tiếp tục học ở cấp cao hơn.
2.3.3. Mối tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số E1
2.3.3.1. Theo xếp hạng
Trong khi thứ hạng chỉ số GDP của ĐBSCL vẫn giữ nguyên vị trí thứ 3 trong
8 vùng cả nước, thì chỉ số E1 giảm từ hạng 3 xuống hạng 7. Mặc dù thu nhập bình
quân đầu người đã tăng từ 4.200 nghìn đồng (tương đương 1.496 USD PPP) năm
1999 lên 7.093 nghìn đồng (tương đương 2.239 USD PPP) năm 2004, vẫn thấp hơn
mức trung bình cả nước 8.720 nghìn đồng (2.745 USD PPP), nhưng ĐBSCL vẫn
xếp thứ 3 (sau Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ). Phải chăng điều này cũng
không có nhiều ý nghĩa trong việc duy trì và cải thiện tình hình giáo dục ở ĐBSCL?
Đây là khu vực mà trong những năm qua thực trạng giáo dục ở mức báo động. Các
vùng khác có sự cải thiện giáo dục đáng kể, thay đổi vị trí thứ hạng trong bản đồ
giáo dục của cả nước (Bắc Trung Bộ từ hạng 5 lên hạng 1, Tây Nguyên từ hạng 8
lên hạng 6) nhưng với ĐBSCL thì đi ngược lại xu thế này.
Xem xét chi tiết đến từng tỉnh thành cho ta thấy rõ nét hơn. 13/13 tỉnh thành
ĐBSCL đều tụt hạng, giảm đáng kể nhất là Long An, Tiền Giang, Kiên Giang và
Đồng Tháp trên 30 bậc; Bến Tre giảm 10 bậc; Sóc Trăng giảm 13 bậc; còn lại giảm
từ 20 – 30 bậc.
64
Bảng 2.16: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số E1 theo xếp hạng
Xếp hạng GDP
Xếp hạng E1
Chênh lệch xếp hạng
Tỉnh, thành phố
+/-
+/-
1999
2004
1999 3/8 15 11 15 11 9 11 19 15 15 11 21 25
2004 3/8 23 19 21 12 13 8 24 20 25 15 11 34 26
0 -8 -8 -6 -1 -4 3 -5 -5 -10 -4 10 -9
7/8 39 42 42 45 47 51 42 53 53 56 53 51 50
-4 -29 -31 -31 -24 -32 -23 -10 -21 -13 -24 -21 -36
3/8 10 11 11 21 15 28 32 32 40 32 32 15
1999 0 5 0 4 -10 -6 -17 -13 -17 -25 -21 -11 10 0
2004 -4 -16 -23 -21 -33 -34 -43 -18 -33 -28 -41 -42 -17 -24
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Trong khi đó, chỉ số GDP tuy có chiều hướng tụt hạng song biên độ thay đổi
không lớn. Các tỉnh tụt hạng dưới 5 bậc có Cà Mau (1 bậc), Kiên Giang (4 bậc),
Bến Tre, Trà Vinh (5 bậc), An Giang (4 bậc). Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang,
Sóc Trăng, Đồng Tháp giảm từ 6 đến 10 bậc. Đặc biệt, đi ngược lại xu thế tụt hạng
là Cần Thơ tăng 3 bậc, Bạc Liêu tăng 10 bậc.
Qua đó, chúng ta có thể thấy khoảng cách chênh lệch xếp hạng giữa chỉ số
GDP và chỉ số E1 qua hai năm ngày càng rõ rệt. Năm 1999 chênh lệch thứ hạng dao
động nhỏ và có trường hợp thứ hạng E1 cao hơn thứ hạng GDP như ở tỉnh Vĩnh
Long, Tiền Giang, Đồng Tháp; trường hợp Long An có hai thứ hạng cùng bằng 11.
Tuy nhiên đến năm 2004 biên độ đã được mở rộng hơn và một điều thấy rõ rằng
chênh lệch thứ hạng đều là số âm, nghĩa là thứ hạng GDP luôn cao hơn thứ hạng E1.
Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp chênh lệch 16 - 18 bậc; Long An, Tiền Giang, Sóc
Trăng, Hậu Giang chênh lệch trong khoảng 20 – 30 bậc; các tỉnh còn lại trên 30 bậc,
đặc biệt trong đó Cần Thơ, An Giang và Bạc Liêu có khoảng chênh lệch thứ hạng
trên 40 bậc. Cần Thơ đứng thứ 8 cả nước về chỉ số thu nhập bình quân đầu người,
65
đứng đầu khu vực ĐBSCL nhưng chỉ số phát triển giáo dục lại ở vị trí 51/64 tỉnh
thành. Quả thật đây là một kết quả đáng để các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa
phương phải lưu tâm.
Hình 2.15: Chênh lệch xếp hạng chỉ số GDP và E1 năm 2004
Xếp hạng theo GDP
GDP CAO
GDP CAO
1
E1 THẤP
E1 CAO
11
Vĩnh Long, Long An,
Bến Tre, Trà Vinh,
Tiền Giang, Cà Mau,
Sóc Trăng, An Giang,
21
Kiên Giang, Cần Thơ,
Bạc Liêu
Đồng Tháp
61
51
41
31 21
11
1
Xếp hạng theo E1
41
51
61
Hình 2.16: Tương quan theo xếp hạng GDP và E1 của 12 tỉnh ĐBSCL năm 1999
66
Thể hiện mối tương quan giữa GDP và E1 cho thấy: Năm 1999 tất cả các tỉnh
thành đều có thứ hạng GDP cao; trong đó có 7/12 tỉnh thuận chiều GDP và E1 cùng cao
(thứ hạng < 31), đó là Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Cần
Thơ và Đồng Tháp. Còn lại 5/12 tỉnh có tương quan ngược chiều là Bến Tre, Trà Vinh,
Sóc Trăng, An Giang và Bạc Liêu có thứ hạng GDP cao (< 31) và E1 thấp (> 31).
Đến năm 2004, những tỉnh thành có thứ hạng chỉ số giáo dục cao hoàn toàn
không còn xuất hiện. Đồng Tháp vốn xếp hạng GDP và E1 cao năm 1999 nay được
đưa vào nhóm có GDP và E1 cùng thấp. 12/13 tỉnh thành còn lại có mối tương quan
ngược chiều, thứ hạng GDP cao (< 32) nhưng E1 thấp (> 32). Như vậy, Đồng Tháp
lại tiếp tục đứng cuối bảng về tương quan giữa GDP và E1 cũng như tương quan
Xếp hạng theo GDP
GDP CAO
1
E1 THẤP
Vĩnh Long, Long An,
12
Tiền Giang, Cà Mau,
Kiên Giang, Cần Thơ,
Bến Tre, Trà Vinh,
22
Sóc Trăng, An Giang,
Bạc Liêu, Hậu Giang
64
52
42
32 22
12
1
Xếp hạng theo E1
42
Đồng Tháp,
52
GDP THẤP
64
E1 THẤP
giữa HDI và E1.
Hình 2.17: Tương quan theo xếp hạng GDP và E1 của 13 tỉnh ĐBSCL năm 2004
67
Cho đến nay, xét theo mối tương quan xếp hạng thì toàn vùng ĐBSCL chưa
có tỉnh thành nào đạt được độ tương thích tốt giữa chỉ số GDP và E1. 01 tỉnh có
mối quan hệ thuận chiều nhưng cùng thấp, 12 tỉnh còn lại trong đó có 7 tỉnh vốn
tương thích tốt cùng cao (năm 1999) nay lại có tương quan ngược chiều. Điều này
cho thấy, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở ĐBSCL trong thời gian qua
chưa có sự cân xứng hợp lý.
2.3.3.2. Theo giá trị
Bảng 2.17: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số E1 theo giá trị
Giá trị chỉ số GDP
Giá trị chỉ số E1
+/-
+/-
1999
2004
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
1999 0,84 0,81 0,68 0,72 0,75 0,76 0,64 0,80 0,77 0,80 0,79 0,79 0,77 0,78 0,76 0,75 0,75 0,74 0,75 0,75 0,78
0,47 0,46 0,32 0,37 0,37 0,42 0,40 0,61 0,45 0,45 0,46 0,45 0,46 0,47 0,46 0,44 0,45 0,45 0,46 0,43 0,41
0,09 0,09 0,08 0,09 0,08 0,09 0,03 0,09 0,07 0,05 0,05 0,06 0,09 0,07 0,12 0,06 0,06 0,05 0,06 0,12 0,05
0,02 0,08 0,04 0,13 0,14 0,12 0,19 0,06 0,03 0,04 0,04 0,04 0,05 0,03 0,03 0,08 0,03 0,04 0,02 0,03 0,01
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
2004 0,86 0,56 0,89 0,55 0,72 0,40 0,85 0,46 0,89 0,45 0,88 0,51 0,83 0,43 0,86 0,70 0,80 0,52 0,84 0,50 0,83 0,51 0,83 0,51 0,82 0,55 0,81 0,54 0,79 0,58 0,83 0,50 0,78 0,51 0,78 0,50 0,77 0,52 0,78 0,55 0,79 0,46 0,80 0,49 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
Tuy về mặt xếp hạng, chỉ số phát triển kinh tế và phát triển giáo dục đều giảm
nhưng về mặt giá trị tuyệt đối hai chỉ số này đều tăng lên. Giá trị chỉ số GDP của 13
68
tỉnh thành cùng tăng nhưng với biên độ nhỏ vì vậy chỉ số này chưa được cải thiện
đáng kể. Đáng lưu ý là Cần Thơ và Bạc Liêu có chỉ số GDP thay đổi rõ rệt. Điều
này đã đưa Cần Thơ (0,58) trở thành tỉnh duy nhất vượt mức trung bình của cả nước
0,556 về chỉ số GDP. Ngoài ra còn có Cà Mau và Bạc Liêu (0,55) đạt xấp xỉ. Nếu
so với mức trung bình của vùng ĐBSCL 0,52 thì có 5 tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang,
Cần Thơ, An Giang và Bạc Liêu. Xét tương đối, điều này cũng có nghĩa là có
khoảng 1,127 triệu người (dân số Cần Thơ năm 2004) được hưởng mức GDP bình
quân cả nước, chiếm 6,6% dân số toàn vùng. Còn gần 16 triệu người của 12 tỉnh
còn lại đang ở dưới mức trung bình này.
Về giá trị chỉ số E1: xét theo mức trung bình cả nước thì không một tỉnh thành
nào ở ĐBSCL đạt 0,835 năm 1999 và đạt 0,855 năm 2004. Nhưng nếu xét theo mức
bình quân của vùng thì có 7 tỉnh thành đạt mức ≥ 0,77 năm 1999 và ≥ 0,8 năm
2004. Điều đáng lưu ý là 7 tỉnh thành này không được giữ nguyên, Bến Tre có
chuyển biến tăng, năm 2004 đạt 0,83 trên mức trung bình của vùng. Ngược lại,
Đồng Tháp đến năm 2004 chỉ số giáo dục là 0,79 thấp hơn mức bình quân của
vùng. Xem xét này một lần nữa cho ta thấy Cần Thơ đều chưa đạt mức trung bình
Giá trị chỉ số E1
Giá trị chỉ số GDP
GDP= 0,467 E1 = 0,835
Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang,Cà Mau,
Kiên Giang
Cần Thơ, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng,
An Giang, Bạc Liêu,
Đồng Tháp
vùng ĐBSCL ở cả 2 năm.
Hình 2.18: Tương quan theo giá trị GDP và E1 của 12 tỉnh thành ĐBSCL năm 1999
69
Xem xét mối tương quan năm 1999: 11/12 tỉnh thành có mối quan hệ thuận
chiều, nhưng đều là giá trị chỉ số GDP và E1 cùng thấp (so với mức trung bình cả
nước GDP= 0,467 và E1= 0,835). Duy nhất Kiên Giang có giá trị chỉ số GDP cao
0,47; nhưng giá trị chỉ số E1 lại thấp 0,78 hơn mức trung bình cả nước.
Năm 2004: bức tranh về sự tương quan giữa GDP và E1 không thay đổi. 12/13
tỉnh thành có mối quan hệ thuận chiều thấp (so với mức trung bình cả nước GDP=
0,556 và E1= 0,855). Tuy nhiên tỉnh nằm ngoài nhóm thuận chiều này không còn là
Kiên Giang mà được Cần Thơ thay thế. Chỉ số GDP năm 2004 của Cần Thơ vượt
mức trung bình cả nước là 0,58, do đó được xếp vào nhóm tương quan ngược chiều,
giá trị GDP cao nhưng giá trị E1 thấp hơn mức bình quân cả nước.
Như vậy, xét theo giá trị chỉ số E1 và GDP thì trong 13 tỉnh thành chưa có tỉnh
nào đạt mối tương quan tốt. Với cách xem xét này, để tăng giá trị chỉ số HDI ngang
bằng mức trung bình cả nước, sẽ có 1 tỉnh cần cải thiện chỉ số tuổi thọ và chỉ số
giáo dục, 12 tỉnh còn lại phải phấn đấu vươn lên ở cả hai chỉ tiêu về E1 – phát triển
Giá trị chỉ số E1
Giá trị chỉ số GDP
GDP= 0,556 E1 = 0,855
Vĩnh Long, Long An,
Tiền Giang, Cà Mau,
Cần Thơ
Kiên Giang, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng,
An Giang, Bạc Liêu,
Đồng Tháp, Hậu Giang
giáo dục và về GDP – phát triển kinh tế, thậm chí ở cả chỉ tiêu tuổi thọ.
Hình 2.19: Tương quan theo giá trị GDP và E1 của 13 tỉnh thành ĐBSCL năm 2004
70
2.3.3.3. Theo hệ số
Tương quan K/E1 (GDP/E1) phản ánh giáo dục là động lực đối với sự phát
triển kinh tế. Các địa phương vùng ĐBSCL đã đạt được sự tương thích về phát triển
kinh tế và giáo dục (E1 ≥ 0,75 và K/E1 ≥ 0,5), tuy nhiên tính tương thích này còn
thấp (K/E1 ≤ 0,75). Giáo dục phát triển nhanh hơn kinh tế, phần đóng góp của giáo
dục vào HDI có lấn các nhân tố khác như kinh tế, y tế.
Tương quan giữa chỉ số phát triển giáo dục E1 với chỉ số phát triển kinh tế
GDP năm 1999 là 0,584 tăng lên 0,650 vào năm 2004. Tuy có xu hướng dịch
chuyển tiến bộ, nhưng tỷ số này vẫn chứng tỏ mối tương thích giữa phát triển kinh
tế và giáo dục còn thấp.
Bảng 2.18: Tương quan giữa chỉ số GDP với chỉ số E1 theo hệ số
Hệ số K/E1 (GDP/E1)
Chênh lệch
1999
2004
0,559 0,568 0,471 0,514 0,493 0,553 0,625 0,763
0,650 0,618 0,556 0,541 0,506 0,580 0,518 0,814
0,091 0,050 0,085 0,027 0,012 0,027 -0,107 0,051
Cả nước ĐB Sông Hồng Tây Bắc Đông Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL
0,584 0,563 0,582 0,570 0,597 0,603 0,605 0,587 0,600 0,608 0,613 0,573 0,526
0,066 0,033 0,032 0,045 0,073 0,064 0,129 0,016 0,054 0,033 0,062 0,132 0,057
0,650 0,595 0,614 0,614 0,671 0,667 0,734 0,602 0,654 0,641 0,675 0,705 0,582 0,613
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang Nguồn: Tính toán từ số liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam
71
E1 = 0,8 > 0,75 và 0,5 < K/E1 = 0,65 < 0,75 thì tính tương thích thấp, sự phát
triển giáo dục tuy có giá trị cao song chưa thật bền vững. Một cộng đồng có trạng
thái phát triển giáo dục có tính bền vững khi có E1 ở mức 0,75 trở lên, đồng thời giá
trị của E1 và GDP luôn luôn xấp xỉ với nhau (giáo dục và kinh tế khớp nhau trong
động thái phát triển). Ở đây, phát triển giáo dục đang vượt quá xa so với phát triển
kinh tế. Chỉ số giáo dục hiện nay là 0,8 nhưng chỉ số kinh tế mới chỉ đạt 0,52; do đó
hệ số K/E1 còn rất xa mức “1”.
Hiện nay, hệ số K/E1 của Cần Thơ và Bạc Liêu là cao nhất khu vực ĐBSCL do
giá trị GDP cao nhưng giá trị E1 lại thấp. Tuy nhiên vẫn chưa đạt đến mức tương thích
trung bình 0,75 ≤ K/E1 ≤ 0,9. Và đây cũng là hai tỉnh có sự thay đổi đáng kể về chỉ số
tương quan này trong giai đoạn 1999-2004. Độ tương quan thấp nhất là Vĩnh Long và
Đồng Tháp dưới 0,6. Nhìn chung, hệ số K/E1 các tỉnh ĐBSCL đã có những chuyển
biến tăng tích cực song còn khá chậm, cải thiện không đáng kể, hiện vẫn xếp vào nhóm
có tính tương thích thấp giữa phát triển kinh tế và phát triển giáo dục.
Xét trong mặt bằng chung của cả nước, tuy chỉ số giáo dục các tỉnh ĐBSCL có
thứ hạng thấp nhưng về mặt tuyệt đối vẫn có giá trị khá cao (> 0,75). Bên cạnh đó,
chỉ số kinh tế tuy xếp hạng cao nhưng giá trị chỉ ở mức trung bình (xoay quanh 0,5).
Vì vậy, khi xem xét hệ số K/E1 ta thấy mức tương thích còn thấp, còn rất xa mức
“1”. Với cách xem xét này, chúng ta có thể thấy phát triển giáo dục đang vượt quá
xa so với phát triển kinh tế.
Cũng cần nhấn mạnh giáo dục chỉ là một khía cạnh của chính sách phát triển
kinh tế trong dài hạn. Giáo dục tuy cần nhưng không đủ cho tăng trưởng mạnh mẽ
và bền vững. Các nhà kinh tế nhận thấy rằng một trong những nhân tố quan trọng để
giải thích sự khác biệt là độ mở rộng của nền kinh tế, giúp công nghệ từ các nước
tiên tiến lan truyền đến các nước hậu tiến nhanh chóng hơn. Đó là chỗ trình độ giáo
dục của lực lượng lao động trở nên quan trọng, bởi vì mức hấp thụ và ứng dụng một
cách hiệu quả những công nghệ do ngoại thương và đầu tư nước ngoài mang đến
tùy thuộc chủ yếu vào mức cung cấp lao động trí óc trong nước.
72
Trong vòng gần hai mươi năm nay, ngoại trừ các năm cuối thập kỷ 1990, nền
kinh tế Việt Nam đã phát triển tốt nhờ vào chính sách Đổi Mới, hội nhập, và sự tích
lũy các nguồn sản xuất, nhất là vốn vật thể và vốn xã hội. Riêng về giáo dục thì tuy
nhà nước luôn coi là quốc sách hàng đầu, và đã cố gắng cải tổ, nhưng chưa có thành
quả đáng kể từ năm 1993 cho tới nay. Điều dễ nhận thấy là cải cách giáo dục, nhất
là ở bậc đại học chỉ nhằm mục đích tăng thu nhập cho giáo chức; không phải là tăng
mức lương chính thức đối với các lớp chính qui, mà là tăng số lượng sinh viên bằng
nhiều hình thức chiêu sinh khác nhau. ĐBSCL cũng không phải là ngoại lệ và đang
gặp khó khăn nhiều hơn. Tuy giáo dục không đóng vai trò chủ yếu trong việc hoàn
thành các chỉ tiêu tăng trưởng, nhưng vốn con người và cải tiến kỹ thuật sẽ là hai
nhân tố quan trọng nhất trong phát triển kinh tế dài hạn.
Giáo dục là một đề tài phức tạp và cải tổ giáo dục rất khó khăn. Tình hình giáo
dục phản ánh thực trạng phát triển kinh tế. Chính sách giáo dục không độc lập với
chính sách kinh tế. Không thể có thay đổi giáo dục hàng loạt và lập tức trong khi
chính sách kinh tế thay đổi từng phần và dần dần. Trong khi đó, nhu cầu cải cách
giáo dục cần quy mô lớn và có tính khẩn cấp. Ví như một gia đình nghèo phải để
dành phần lớn thu nhập để chi trả cho tiêu dùng hàng ngày. Tương tự, một quốc gia
nghèo như Việt Nam cũng không thể bỏ ra nhiều thu nhập hôm nay vào đầu tư giáo
dục cho sản xuất ngày mai. Đó là chưa kể tính cạnh tranh giữa đầu tư giáo dục và
đầu tư vốn con người. Với một số lượng đầu tư cố định, tăng đầu tư vào vốn vật thể
sẽ làm giảm đầu tư vào giáo dục, và ngược lại. Như vậy, giống như trường hợp vốn
vật thể, chính phủ cần có biện pháp huy động tiết kiệm của nhân dân và khuyến
khích đầu tư nước ngoài vào giáo dục. Cũng cần lưu ý là trong khi lợi ích kinh tế
của sự tăng trưởng vốn vật thể khá hiển nhiên, ngay cả trong ngắn hạn, lợi ích kinh
tế của giáo dục chỉ có thể quan sát được trong dài hạn.
2.3.3.4. Nhận xét
Những tỉnh, thành có chỉ số phát triển kinh tế và giáo dục ở mức cao cần tận
dụng lợi thế để tǎng cường các mục tiêu phát triển của các ngành học, cấp học, ưu
tiên cho việc hiện đại hoá quá trình đào tạo, ứng dụng công nghệ thông tin vào một
73
số trường trọng điểm. Những tỉnh, thành giáo dục phát triển trước kinh tế một nhịp
cần hướng kế hoạch giáo dục và đào tạo phục vụ thiết thực cho các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của địa phương. Những tỉnh, thành giáo dục phát triển chậm hơn
kinh tế cần có kế hoạch huy động có kết quả đóng góp của cộng đồng cho giáo dục,
chú ý phát triển các trung tâm học tập cộng đồng. Những tỉnh, thành giáo dục và
kinh tế còn nhiều khó khǎn cần đặt ra các mục tiêu hiện thực về mặt phát triển; lưu
ý củng cố các thành quả của xoá mù chữ và phổ cập tiểu học tái mù chữ của nhân
dân lao động, có kế hoạch phát triển trung học cơ sở, trung học phổ thông một cách
hợp lý theo hoàn cảnh của địa phương, thu hút các chương trình mục tiêu hỗ trợ cho
việc phát triển giáo dục và kinh tế.
+ Thành tựu giáo dục tổng hợp từ hai chỉ số tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ
nhóm dân số 6-23 tuổi ở ĐBSCL đạt khá cao là một kì tích trong hoàn cảnh thu
nhập còn thấp. Việc củng cố được thành tựu này, có biện pháp giữ vững và gia tăng
kết quả làm cho chúng có ý nghĩa thật sự trong đời sống kinh tế luôn luôn là vấn đề
có tính nguyên tắc trong chiến lược phát triển kinh tế giáo dục của vùng.
Tuy nhiên cần tránh hai khuynh hướng sau:
Thứ nhất cho rằng giáo dục phát triển quá cao so với kinh tế, vì vậy xem nhẹ
việc củng cố gia tăng phúc lợi này cho dân cư.
Thứ hai, cho rằng giáo dục là công cụ chiến thuật có tính vạn năng nhằm cải
thiện thứ hạng phát triển con người HDI đưa đến việc mở rộng trường lớp, huy
động số lượng người đi học một cách hình thức, xem nhẹ chất lượng.
Khuynh hướng thứ nhất chỉ nhằm vào giáo dục là nhân tố cho phát triển kinh
tế mà chưa thấy giáo dục còn là mục tiêu của chính sự phát triển kinh tế. Khuynh
hướng thứ hai lại chỉ xem giáo dục là mục tiêu hình thức của sự phát triển chưa thấy
nó còn phải là động lực của sự phát triển.
+ Duy trì và nâng cao giá trị của E1 đòi hỏi phải có sự nổ lực, song nổ lực cần
tập trung nhiều vào việc nâng cao tỷ số K/E1 tức là làm cho kinh tế và giáo dục phát
triển khớp nhịp nhau. Giáo dục tạo ra các khả năng thực hiện cho việc phát triển
kinh tế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng.
74
Một số cộng đồng nếu nâng được E1 lên mà GDP dẫm chân tại chỗ hoặc suy
thoái đi thì dấu hiệu này là tiêu cực trong động thái phát triển kinh tế xã hội tổng
thể. Một cộng đồng có nhiều người học vấn cao, văn bằng cao mà kinh tế phát triển
chậm để họ bị thất nghiệp hoặc sử dụng không hết năng lực sẽ tiềm ẩn các nhân tố
phản tác dụng cho cả giáo dục lẫn kinh tế.
Gắn quá trình đào tạo của các bậc học cao là vấn đề cấp thiết hiện nay. Đào
tạo nhân lực cần gắn với các yêu cầu của thị trường lao động.
+ Các tỉnh ĐBSCL có sự tương thích về phát triển giáo dục và kinh tế nhưng
độ tương thích này còn thấp, phát triển giáo dục tuy có giá trị cao song chưa thật
bền vững. Trong thời gian tới ĐBSCL nên đầu tư vào các lĩnh vực đào tạo nhân lực
kỹ thuật cao có tác động cho chính yêu cầu phát triển kinh tế địa phương và đất
nước. Việc nâng cao chất lượng làm thay đổi căn bản cơ cấu lực lượng lao động
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến việc
mở rộng, tiếp nhận cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn ảnh hường đến hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhìn nhận đúng bản chất của chỉ số phát triển giáo dục E1 trong quá trình phát
triển, đo lường kịp thời, chính xác cho địa phương, hoàn thiện được phép đo E1
bằng một hệ thống các chỉ số hỗ trợ và từ đó có được các kiến giải đúng đắn cho
chiến lược kinh tế giáo dục của địa phương đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của những
người có trách nhiệm về kinh tế và về giáo dục trên cả bình diện vĩ mô và vi mô.
2.3.4. Mối tương quan giữa chỉ số HDI với các chỉ số thành phần thể hiện
dưới dạng phương trình hồi quy
Mối tương quan giữa chỉ số HDI với các chỉ số thành phần được thể hiện theo
phương trình hồi quy tuyến tính có dạng tổng quát như sau:
HDI = C + a.K + b.E1 + c.T
trong đó:
- HDI: chỉ số phát triển con người, là biến phụ thuộc trong phương trình;
- K: chỉ số GDP bình quân đầu người;
- E1: chỉ số phát triển giáo dục;
75
- T: chỉ số tuổi thọ bình quân;
- C: hằng số.
- a: hệ số của K. Nếu a mang dấu (+) thể hiện chỉ số GDP bình quân đầu người
tương quan phù hợp với chỉ số HDI. Nếu a mang dấu (-) thể hiện chỉ số GDP bình
quân đầu người tương quan chưa phù hợp với chỉ số HDI.
- b: hệ số của E1. Nếu b mang dấu (+) thể hiện chỉ số phát triển giáo dục tương
quan phù hợp với chỉ số HDI. Nếu b mang dấu (-) thể hiện chỉ số phát triển giáo dục
tương quan chưa phù hợp với chỉ số HDI.
- c: hệ số của T. Nếu c mang dấu (+) thể hiện chỉ số tuổi thọ bình quân tương
quan phù hợp với chỉ số HDI. Nếu b mang dấu (-) thể hiện chỉ số tuổi thọ bình quân
tương quan chưa phù hợp với chỉ số HDI.
Để xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính của cả nước và vùng ĐBSCL,
tác giả sử dụng dữ liệu của Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 1999 -
2004 và xử lý bằng phần mềm SPSS. Kết quả được thể hiện:
Bảng 2.19: Các hệ số hồi quy của chỉ số HDI Việt Nam năm 1999
Unstandardized
Standardized
Sig. Collinearity Statistics
t
Coefficients
Coefficients
B
Std. Error
Beta
Tolerance
VIF
(Constant)
-,005
,010
-,554
,604
chi so GDP bq
,320
,010
,473
32,046
,000
,564
1,772
nam 1999
chi so phat
trien giao duc
,332
,020
,318
16,498
,000
,331
3,021
nam 1999
chi so tuoi tho
,349
,016
,364
21,886
,000
,444
2,251
bq nam 1999
Dependent Variable: chi so HDI nam 1999
Từ Bảng 2.19, phương trình hồi quy tuyến tính chỉ số HDI Việt Nam năm
1999 được viết dưới dạng sau:
HDIVN_1999 = - 0,005 + 0,320K + 0,332E1 + 0,349T (R2 điều chỉnh = 0,999)
76
Bảng 2.20: Các hệ số hồi quy của chỉ số HDI Việt Nam năm 2004
Unstandardized
Standardized
t
Sig.
Collinearity Statistics
Coefficients
Coefficients
B
Std. Error
Beta
Tolerance
VIF
(Constant)
,014
,008
1,865
,121
chi so GDP bq
,346
,006
,568 53,427
,000
,448
2,230
nam 2004
chi so phat
trien giao duc
,338
,009
,333 39,580
,000
,717
1,395
nam 2004
chi so tuoi tho
,302
,012
,276 24,223
,000
,392
2,551
bq nam 2004
Dependent Variable: chi so HDI nam 2004
Từ Bảng 2.20, phương trình hồi quy tuyến tính chỉ số HDI Việt Nam năm
2004 được viết dưới dạng sau:
HDIVN_2004 = 0,014 + 0,346K + 0,338E1 + 0,302T (R2 điều chỉnh = 1,0)
Bảng 2.21: Các hệ số hồi quy chỉ số HDI vùng ĐBSCL năm 1999
Unstandardized
Standardized
t
Sig. Collinearity Statistics
Coefficients
Coefficients
B
Std. Error
Beta
Tolerance
VIF
(Constant)
,047
,039
1,228
,254
chi so GDP bq
-,855
,082
-,682
-10,438
,000
,264
3,781
nam 1999
chi so phat
trien giao duc
-1,024
,080
-,660
-12,851
,000
,428
2,337
nam 1999
chi so tuoi tho
2,778
,123
1,769
22,670
,000
,185
5,402
bq nam 1999
Dependent Variable: chi so HDI nam 1999
Từ Bảng 2.21, phương trình hồi quy tuyến tính chỉ số HDI ĐBSCL năm 1999
được viết dưới dạng sau:
HDIĐBSCL_1999 = 0,047 - 0,855K - 1,024E1 + 2,778T (R2 điều chỉnh = 0,988)
77
Bảng 2.22: Các hệ số hồi quy chỉ số HDI vùng ĐBSCL năm 2004
Unstandardized
Standardized
Sig. Collinearity Statistics
t
Coefficients
Coefficients
B
Std. Error
Beta
Tolerance
VIF
(Constant)
-,004
,069
-,065
,950
chi so GDP bq
-,821
,184
-1,015
-4,455
,002
,117
8,537
nam 2004
chi so phat
trien giao duc
-,865
,122
-1,390
-7,083
,000
,158
6,337
nam 2004
chi so tuoi tho
2,703
,330
2,248
8,194
,000
,081
12,372
bq nam 2004
Dependent Variable: chi so HDI nam 2004
Từ Bảng 2.22, phương trình hồi quy tuyến tính chỉ số HDI ĐBSCL năm 2004
được viết dưới dạng sau:
HDIĐBSCL_2004 = - 0,004 - 0,821K - 0,865E1 + 2,703T (R2 điều chỉnh = 0,927)
Từ các phương trình hồi quy tuyến tính trên, ta rút ra các kết luận sau: - Các phương trình đều có ý nghĩa và sử dụng được, hệ số R2 điều chỉnh cao.
Các hệ số trong phương trình đều có ý nghĩa.
- Chúng ta thấy ở vùng ĐBSCL, chỉ số GDP bình quân đầu người và chỉ số
phát triển giáo dục có mối tương quan chưa phù hợp với chỉ số HDI được thể hiện ở
các hệ chỉ số a, b này đều mang dấu (-) so với chỉ số HDI. Trong khi ở cả nước, các
mối tương quan này là phù hợp, được thể hiện ở dấu (+).
- Khi xem xét các phương trình hồi quy năm 1999 và năm 2004, chúng ta thấy
có sự cải thiện trong mối tương quan giữa các chỉ số theo hướng phù hợp hơn. Điều
này được thể hiện qua độ lớn các hệ số của các chỉ số. Ở vùng ĐBSCL, hệ số của
chỉ số GDP bình quân đầu người a1999 = - 0,855 tăng lên a2004 = - 0,821; tương tự, hệ
số chỉ số phát triển giáo dục b1999 = - 1,024 tăng lên b2004 = - 0,865.
78
2.4. NHẬN ĐỊNH XU THẾ PHÁT TRIỂN CHỈ SỐ HDI VÙNG ĐBSCL
Dựa vào bộ số liệu chỉ số phát triển con người và các chỉ số thành phần của 13
tỉnh thành vùng ĐBSCL năm 1999 và 2004, cũng như căn cứ vào kết quả các
phương trình hồi quy tuyến tính trên, tác giả đã xây dựng mô hình ước tính cho năm
2007 bằng hàm Forecast cho kết quả như sau:
Bảng 2.23: Chỉ số HDI các tỉnh thành ĐBSCL năm 2007
Chỉ số giáo dục Chỉ số tuổi thọ 2007
2007
2007
ĐBSCL
Chỉ số HDI 2004 0,703 0,720 0,713 0,717 0,720 0,717 0,720 0,700 0,687 0,680 0,687 0,697 0,680 0,687
2004 0,800 0,840 0,830 0,830 0,820 0,810 0,790 0,830 0,780 0,780 0,770 0,780 0,790 0,800
2004 0,790 0,820 0,800 0,810 0,790 0,800 0,790 0,770 0,770 0,760 0,770 0,760 0,790 0,770
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
0,726 0,736 0,729 0,737 0,744 0,741 0,750 0,720 0,705 0,696 0,707 0,725 0,698 0,707
0,797 0,814 0,794 0,810 0,778 0,812 0,790 0,746 0,770 0,754 0,782 0,754 0,808 0,776
0,818 0,864 0,854 0,854 0,85 0,828 0,808 0,878 0,798 0,804 0,782 0,798 0,796 0,824
Chỉ số GDP 2004 2007 0,520 0,562 0,500 0,530 0,510 0,540 0,510 0,546 0,550 0,604 0,540 0,582 0,580 0,652 0,500 0,536 0,510 0,546 0,500 0,530 0,520 0,556 0,550 0,622 0,460 0,490 0,490 0,514 Nguồn: Tính toán của tác giả
Bên cạnh đó, tác giả cũng cố gắng tính toán chỉ số GDP từ số liệu thực tế
thống kê từ các tỉnh thành, với chỉ tiêu đầu vào là GDP thực tế bình quân đầu người
(USD PPP), theo các bước tính như sau:
Bước 1: Thống kê, thu thập chỉ tiêu GDP thực tế bình quân đầu người tính
theo VNĐ. Do chỉ tính cho 13 tỉnh thành trong nội vùng ĐBSCL nên tác giả bỏ
qua yếu tố trượt giá vùng như cách tính cho 64 tỉnh thành cả nước năm 2004 đã
được áp dụng.
79
0,760
0,750
0,740
ĐBSCL
Vĩnh Long
0,730
Long An
0,720
Tiền Giang
I
0,710
Cà Mau
Kiên Giang
0,700
Cần Thơ
D H ố s ỉ h C
0,690
Bến Tre
Trà Vinh
0,680
Sóc Trăng
0,670
An Giang
0,660
Bạc Liêu
Đồng Tháp
0,650
Hậu Giang
0,640
1999
2004
2006
2007
Năm Hình 2.20: Đồ thị thể hiện xu hướng thay đổi chỉ số HDI Bảng 2.24: GDP/ng các tỉnh thành ĐBSCL tính theo VNĐ (giá thực tế)
Đơn vị: Nghìn đồng
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
2004 7076 6459 6840 6570 8281 8014 10414 6445 5672 7007 7288 8446 5081 5990
2005 8219 7800 8240 7577 9195 9811 12577 7356 6414 7296 8504 9634 6028 6673
2007 11329 8484 12197 10381 12755 13464 18186 9359 8582 10223 11881 12816 9367 8655
2006 9506 9028 9822 8570 10288 11166 15670 8274 7294 8394 9650 10769 7264 7769 Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh ĐBSCL
80
Bước 2: Xử lý tỷ giá giữa VNĐ và USD tính theo sức mua tương đương
Qua chuỗi số liệu GDP/người theo giá thực tế VNĐ và GDP/người theo giá
thực tế USD PPP thu thập từ Niên giám thống kê Việt Nam, tác giả tính toán được
tỷ giá PPP đến năm 2005. Sau đó, tác giả chạy hàm Forecast để ước tính tỷ giá PPP
cho năm 2006 và 2007. Tỷ giá này năm 2007 là 3.451 VNĐ = 1USD.
Bảng 2.25: Tỷ giá giữa VNĐ và USD theo sức mua tương đương
2006
2005
2002 6720 2300 2,922
2003 7583 2490 3,045
2004 2007 8720 10098 11580 13435 3893 2745 3443 3071 3,288 3,363 3,451 3,177
Đơn vị 2000 Cả nước 5689 GDP/ng (tt) 1000 đ 1996 GDP/ng (tt-PPP) USD 2,850 Tỷ giá PPP
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam, tính toán của tác giả
Bước 3: Chuyển GDP/người các tỉnh ĐBSCL tính theo VNĐ thành
GDP/người tính theo USD sức mua tương đương.
Bảng 2.26: GDP/ng các tỉnh thành ĐBSCL tính theo sức mua tương đương
Đơn vị: USD PPP
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
2004 2227 2033 2153 2068 2607 2523 3278 2029 1785 2206 2294 2659 1600 1886
2005 2500 2372 2506 2304 2796 2984 3825 2237 1951 2219 2586 2930 1833 2029
2006 2841 2699 2936 2562 3075 3338 4684 2473 2180 2509 2884 3219 2171 2322
2007 3297 2469 3550 3021 3712 3919 5293 2724 2498 2975 3458 3730 2726 2519
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bước 4: Áp dụng công thức tính chỉ số GDP thực tế bình quân đầu người
cho kết quả như sau:
81
Bảng 2.27: Chỉ số GDP thực tế bình quân đầu người các tỉnh thành ĐBSCL
2004 0,518 0,503 0,512 0,506 0,544 0,539 0,582 0,502 0,481 0,516 0,523 0,548 0,463 0,490
2005 0,537 0,528 0,538 0,524 0,556 0,567 0,608 0,519 0,496 0,517 0,543 0,564 0,485 0,502
2006 0,559 0,550 0,564 0,541 0,572 0,585 0,642 0,535 0,514 0,538 0,561 0,579 0,514 0,525
2007 0,583 0,535 0,596 0,569 0,603 0,612 0,662 0,552 0,537 0,566 0,591 0,604 0,552 0,539
ĐBSCL 1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
Nguồn: Tính toán của tác giả
Xem xét độ chênh lệch giữa hai cách tính chỉ số GDP, cho thấy trong khoảng
± 5% nên có thể chấp nhận được cả hai kết quả trên. Ở đây, tác giả lựa chọn kết quả
từ việc chạy mô hình bằng hàm Forecast để tiếp tục nghiên cứu.
Bảng 2.28: Tốc độ tăng bình quân hàng năm của các chỉ số ở ĐBSCL
Chỉ số HDI
Chỉ số GDP
Chỉ số giáo dục
Chỉ số tuổi thọ
ĐBSCL
1999- 2004 0,96 0,76 0,76 0,96 1,15 1,16 1,45 0,98 0,90 0,80 1,00 1,40 0,91
1999- 2004 0,77 0,98 0,99 0,99 1,27 0,76 0,78 2,05 0,79 1,06 0,53 0,79 0,26
1999- 2004 0,15 -0,24 -0,25 0,00 -0,50 0,51 0,00 -1,01 0,00 -0,26 0,53 -0,26 0,78
1. Vĩnh Long 2. Long An 3. Tiền Giang 4. Cà Mau 5. Kiên Giang 6. Cần Thơ 7. Bến Tre 8. Trà Vinh 9. Sóc Trăng 10. An Giang 11. Bạc Liêu 12. Đồng Tháp 13. Hậu Giang
2004- 2007 2,62 1,96 1,92 2,30 3,17 2,53 3,98 2,34 2,30 1,96 2,26 4,19 2,13 1,61
2004- 2007 0,74 0,94 0,95 0,95 1,20 0,74 0,75 1,89 0,76 1,02 0,52 0,76 0,25 0,99
2004- 2007 0,15 -0,24 -0,25 0,00 -0,51 0,50 0,00 -1,05 0,00 -0,26 0,52 -0,26 0,75 0,26
1999- 2004- 2004 2007 2,93 0,99 2,13 0,74 2,09 0,74 2,53 0,92 3,64 1,10 2,82 1,10 4,75 1,37 2,59 0,94 2,53 0,87 2,13 0,78 2,48 0,96 5,05 1,32 2,33 0,87 0,97 Nguồn: Tính toán của tác giả
82
Tốc độ tăng bình quân hàng năm của các chỉ số ở ĐBSCL giai đoạn 2004-
2007 chỉ chênh lệch xấp xỉ so với giai đoạn 1999-2004. Do đó, trong khoảng thời
gian ngắn ba năm từ 2004 đến năm 2007, giá trị các chỉ số chưa có sự biến động
đáng kể để có thể thay đổi sự tương quan giữa các chỉ số.
2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong giai đoạn 1999-2004, chỉ số phát triển con người vùng ĐBSCL đã tăng
4,93% từ mức trung bình lên mức cao (> 0,7). Trong đó, chỉ số giáo dục đóng góp
30,3% và chỉ số kinh tế đóng góp 70,7% vào sự tăng lên này. Mặc dù chỉ số tuổi thọ
không góp phần làm tăng giá trị chỉ số phát triển con người, song vẫn chiếm tỷ
trọng đáng kể 37,5%. Ngược lại, chỉ số GDP đóng góp lớn vào kết quả tăng trưởng,
nhưng tỷ trọng đóng góp hiện nay của chỉ số này vào giá trị HDI chỉ ở khoảng
24,7%. Chỉ số giáo dục trong giai đoạn qua vẫn chiếm 38% trong cơ cấu giá trị của
chỉ số HDI.
Tuy nhiên, nếu nhìn cục diện, chỉ số HDI không phải là không có mặt trái. Nó
có thể che giấu những hạn chế trong phát triển kinh tế - cái đóng vai trò là cơ sở
quan trọng cho mọi quyết sách của đất nước. Tuy chỉ số kinh tế có giá trị còn thấp
nhưng giá trị chỉ số HDI vẫn xếp vào nhóm phát triển con người cao.
Cho đến nay chỉ số kinh tế vẫn đứng thứ 3 cả nước, chỉ số tuổi thọ tăng 3 bậc,
trong khi đó chỉ số giáo dục lại tụt đến 4 bậc, chính vì vậy mà chỉ số HDI đã giảm 1
bậc hiện đứng hạng 5, trên vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Mặt khác, tuy
chỉ số kinh tế có khả năng tăng nhanh nhất song chất lượng tăng trưởng còn nhiều
bất cập. Tăng trưởng chưa thực sự chuyển hóa thành những cơ hội mới về việc làm
cho đông đảo người lao động, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn; không có một
mối quan hệ tự động giữa tăng trưởng cao và mức giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị ở ĐBSCL hiện vẫn cao nhất nhì cả nước,
khoảng 4,87%.
Hay chẳng hạn, chỉ số giáo dục đạt giá trị khá cao 0,8 và vẫn tăng trong giai
đoạn vừa qua (0,03). Tỷ lệ người lớn biết chữ có giá trị không nhỏ 89,8%. Đây là
83
kết quả một thời gian dài của những nỗ lực trong công tác xóa mù chữ và phổ cập
tiểu học. Tuy nhiên, con số này cũng che giấu những hạn chế trong giáo dục. Chúng
ta có quyền tự hào về thành tựu đã đạt được trong nền giáo dục, song không nên
quên rằng, thực trạng giáo dục ĐBSCL còn có nhiều vấn đề đáng quan ngại, thậm
chí có cả những ung nhọt.
Số học sinh trung học phổ thông/1.000 dân chỉ đạt 26,31 người trong khi bình
quân chung cả nước là 34,64. Tỷ lệ đi học của thanh thiếu niên độ tuổi 6 – 24 tuổi
mới đạt 61,5% (thấp hơn mức trung bình cả nước 72,1%), điều đó có nghĩa là cứ
1000 em ở độ tuổi này mới có 615 em đi học, còn 385 em đang ở dạng thiếu niên
ngoài nhà trường. Có thể một bộ phận này học bổ túc văn hóa ở các trung tâm giáo
dục thường xuyên, một số học đại học ở các trường ngoài công lập. Tuy vậy tỷ lệ
61,5% học ở hệ chính quy là một tỷ lệ quá thấp. Tuy rằng không thể huy động ra
lớp ồ ạt cho lên lớp bừa bãi. Điều này sẽ dẫn đến hiện tượng “ngồi nhầm lớp” và
suy giảm chất lượng giáo dục. Tuy nhiên phải có biện pháp vừa tinh tế, vừa khẩn
trương cho vấn đề số lượng cần huy động được nhiều hơn số đi học tại các trường
tiểu học, trung học, cao đẳng đại học ở hai hệ chính quy và không chính quy. Phải
có các chương trình đa dạng để học sinh “được đi học”, “học được”, “được phát
triển năng lực” theo tố chất và hoàn cảnh của mỗi cá nhân.
Giáo dục đã có sự thiểu phát và giảm phát trong những năm gần đây. 77% dân
số có trình độ tiểu học trở xuống, ngược lại với ĐBSH. 45,1% người từ 15 tuổi trở
lên ở địa bàn nông thôn không hoàn thành cấp học nào; 32,87% tốt nghiệp tiểu học;
13,51% có bằng trung học cơ sở và có 5,43% có bằng tốt nghiệp phổ thông trung
học. Sinh viên đại học và sau đại học chỉ chiếm hơn 4% dân số ở độ tuổi 20 – 24.
Tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân còn rất thấp 51 người.
Điểm đáng lưu ý nữa là, trong lúc bình quân cả nước gần 1 triệu dân có 1
trường đại học thì ở ĐBSCL 3,3 triệu dân mới có 1 trường đại học. Mạng lưới
trường lớp ở khu vực vẫn còn rất thiếu và phân bố chưa hợp lý. Hiện chiếm 21%
dân số nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm 14% cả nước. Và, chi tiêu cho giáo dục lại
khiêm tốn tới mức chỉ khoảng 174.000 đồng/người/ năm.
84
Chất lượng nguồn nhân lực ĐBSCL còn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo
chiếm 83,57%, trong đó có nhiều tỉnh tỷ lệ này chiếm hơn 90%, như: Đồng Tháp,
Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng… Trong khi đó tỷ lệ chung cả nước là 74,6%. Do
đó, ĐBSCL rơi vào vùng chậm phát triển nhất về giáo dục, đứng thứ 7 trong 8 vùng
của cả nước.
Sau gần nửa thế kỷ thực hiện Kế hoạch hóa gia đình (từ năm 1961), tình hình
dân số Việt Nam nói chung và ở ĐBSCL nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích
cực: mức sinh giảm mạnh, quy mô gia đình nhỏ, mức chết trẻ em giảm nhanh... Tuy
nhiên, cũng đang nảy sinh những thách thức mới: mất cân đối giới tính trẻ em; già
hóa dân số trong tương lai gần; di dân mạnh mẽ, chất lượng dân số chưa cao... Tỷ lệ
suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi vẫn ở khoảng 22%, ngược lại các thành thị
có nhiều trẻ em thừa cân. Ngoài ra, ĐBSCL là nơi có tỷ lệ người khuyết tật khá cao
của cả nước, tử vong do tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, mại dâm, tội phạm ma túy
và người có HIV đang tăng nhanh từng ngày… Hơn nữa tỷ lệ những đối tượng này
trong độ tuổi lao động chiếm khá cao, trên 68%. Đây cũng là một trong những khó
khăn và thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng dân số ở ĐBSCL.
Do đó, mặc dù chỉ số HDI đã tăng lên đáng kể, song chất lượng phát triển con
người ĐBSCL vẫn còn không ít vấn đề và đòi hỏi nhiều nỗ lực cải thiện hơn nữa.
Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và chỉ số HDI là
không rõ ràng; thậm chí xếp hạng theo GDP bình quân đầu người của một số tỉnh
khác biệt rất lớn so với xếp hạng HDI. Độ tương thích giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển giáo dục còn rất hạn chế. Tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân
đầu người thời gian qua chưa thực sự thúc đẩy phát triển các vấn đề xã hội như giáo
dục, y tế. Tương quan giữa phát triển giáo dục và phát triển con người cũng thể hiện
sự mất cân đối, nhân tố giáo dục có phần lấn át các nhân tố thành phần khác vào chỉ
số HDI.
Trong thời gian qua, việc mở rộng cơ hội lựa chọn và khuyến khích lao động
và sự sáng tạo của người nông dân trên cơ sở các trao đổi thị trường và mở cửa đã
tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển nông nghiệp, đời sống nông
85
dân đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong thập niên tới, nông thôn vẫn là địa bàn
và lĩnh vực sinh sống của đa số dân cư và người nghèo. Tỷ lệ đô thị hoá khu vực
ĐBSCL năm 2007 chỉ đạt 21,3%, ĐBSH cũng chỉ đạt 26,2%, đều thấp hơn mức
trung bình cả nước 27,5%. Trong khi khoảng cách về mức sống giữa thành thị và
nông thôn có nguy cơ gia tăng mạnh do chênh lệch cao về tốc độ tăng trưởng kinh
tế giữa hai khu vực. Hơn nữa, người nông dân ĐBSCL vẫn phải tiếp tục đối mặt với
những rủi ro phát sinh do thiên tai và biến động bất thường của thị trường nông sản
quốc tế. Do đó, chú trọng phát triển bền vững khu vực nông thôn là hết sức quan
trọng và cần thiết nhằm cải thiện chỉ số phát triển con người.
86
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO
CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở ĐBSCL
3.1. CỦNG CỐ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Phát triển con người không chỉ là sự tăng, giảm của thu nhập quốc dân, mà còn
là tạo ra một môi trường trong đó mọi người có thể phát triển mọi khả năng của mình
và làm chủ một cuộc sống sáng tạo, hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ. Do
vậy, phát triển có ý nghĩa mở rộng những lựa chọn của con người để hướng tới cuộc
sống mà họ coi trọng.
Phát triển con người phải đi liền với việc giảm nghèo, mà giảm nghèo không chỉ
tùy thuộc vào tăng trưởng kinh tế mà còn phụ thuộc vào một nhân tố khác nữa là bất
bình đẳng trong xã hội, bởi mức độ bất bình đẳng xã hội càng cao thì nỗ lực giảm
nghèo qua tăng trưởng GDP càng khó khăn (và ngược lại). Trong bản cáo cáo 2000-
2001, World Bank (WB) có ước tính rằng tăng trưởng 1% có tác dụng giảm 1,5% tỷ lệ
dân số cực nghèo, khi hệ số Gini (đo độ bất bình đẳng về thu nhập) của quốc gia ở mức
0,6; tác dụng này được nhân đôi lên (3%) nếu hệ số Gini ở mức 0,2. Nhà kinh tế trưởng
của WB, F. Bourguignon gọi đó là “tam giác nghèo đói - tăng trưởng - bất bình
đẳng”. Chính xác hơn, ông xác lập rằng tỷ lệ cực nghèo trong dân cư biến thiên: 1) với
tỷ suất tăng trưởng thu nhập bình quân; 2) với mức độ bất bình đẳng về phân phối thu
nhập; 3) với những đổi thay trong phân phối đó, bởi nếu phân phối thu nhập thay đổi
theo hướng bất bình đẳng hơn thì nỗ lực giảm nghèo bằng cách tăng trưởng thu nhập
bình quân càng trở nên khó khăn thêm (và ngược lại).
Phát triển con người có vai trò quan trọng cả về mặt trực tiếp và gián tiếp. Vì
giáo dục, sức khỏe và chất lượng sống có giá trị nội tại, phát triển con người có tầm
quan trọng trực tiếp và trước mắt. Thêm vào đó, vì chất lượng năng lực con người được
củng cố thông qua giáo dục tốt hơn, sức khỏe tốt hơn và tương tự như thế, nên phát
triển con người cũng có tầm quan trọng gián tiếp to lớn. Sự thịnh vượng vật chất do
phát triển con người tạo ra, đến lượt nó, có thể đóng góp làm tăng hơn nữa chất lượng
cuộc sống con người. Tầm quan trọng của mối liên hệ gián tiếp này củng cố thêm sự
phù hợp của phát triển con người mà không coi nhẹ tầm quan trọng trực tiếp của nó.
87
Quan điểm phát triển con người bao gồm ý nghĩa của vốn con người mà không làm
mất đi quan niệm coi cuộc sống con người là mục đích của quá trình chứ không phải là
phương tiện của sản xuất hay hoạt động kinh tế.
Phát triển con người là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố quan
trọng nhất của lực lượng sản xuất là con người có trình độ trí tuệ và tay nghề cao. Đầu
tư phát triển nguồn lực con người là đầu tư quan trọng nhất và có hiệu quả nhất, là yếu
tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Muốn phát triển nhanh, bền vững, thực hiện đi tắt đón đầu, chúng ta không có con
đường nào khác là phải dựa vào nguồn vốn quý giá nhất là truyền thống yêu nước, trí
thông minh, tiềm năng sáng tạo của người Việt Nam.
Xây dựng cuộc sống hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh, ngay trong điều
kiện thu nhập bình quân đầu người chưa cao là cách làm hiệu quả và đảm bảo phát
triển bền vững. Nhà nước tạo cơ hội bình đẳng cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân; tạo điều kiện để mọi người dân được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, có cơ hội
học tập suốt đời để nâng cao kiến thức, tay nghề, khuyến khích làm giàu theo pháp luật.
Mọi công dân được thông tin đầy đủ về quyền, nghĩa vụ cà những lợi ích chính đáng;
được tham gia quyết định và có trách nhiệm góp phần giải quyết những vấn đề của
cộng đồng. Xây dựng mối quan hệ và nếp sống tốt đẹp, văn minh trong gia đình, cộng
đồng đời sống của nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn, các vùng khó khăn. Giữ vững và
phát huy truyền thống tiết kiệm, tương ái, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tôn
vinh và chăm sóc những người có công với nước.
Theo quan điểm kinh tế học phát triển, giáo dục phổ cập và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, được xem là hai ngành “ngoại vi” của hoạt động kinh tế, tức là khả năng
của chúng nhiều nhất cũng chỉ là tạo điều kiện cho xã hội phát triển tốt hơn; và vì
vậy, nếu như hiệu quả kinh tế của hai lĩnh vực này không đủ lớn, thì cách giải quyết
chỉ có thể là “rót” thêm vào đây một phần phúc lợi xã hội có thể. Nhưng nếu nhìn
nhận vấn đề theo quan điểm phát triển con người, thì giáo dục phổ cập và chăm sóc
88
sức khỏe cộng đồng lại không phải chỉ là hai ngành sinh lợi hay không sinh lợi,
cũng không phải chỉ là hai “vùng ngoại vi” có khả năng thúc đẩy xã hội tốt lên hay
xấu đi. Mà đây là hai lĩnh vực thể hiện sự phát triển hợp lý hay không hợp lý của
xã hội. Bởi lẽ, giáo dục phổ cập và chăm sóc sức khỏe cộng đồng chính là hai chỉ
báo nói lên năng lực sinh thể và năng lực tinh thần của dân cư. Hai lĩnh vực này
phát triển lành mạnh nghĩa là xã hội phát triển lành mạnh, chứ không phải chúng
phát triển để tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Sức khoẻ và kiến thức không chỉ là
phương tiện để mọi người đạt đến một cuộc sống hạnh phúc mà chúng chính là
thành phần cơ bản của cuộc sống hạnh phúc. Việc chăm lo cho giáo dục phổ cập và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng luôn luôn là sống còn và có ý nghĩa nhân văn ngay cả
khi những lĩnh vực này không sinh lợi về kinh tế.
3.2. TIẾP TỤC NÂNG CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÙNG ĐBSCL
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020 đã xác
định: cần nhanh chóng xây dựng vùng ĐBSCL trở thành vùng trọng điểm phát triển
kinh tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp
mặt bằng chung của cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng vững
chắc, làm chủ vùng biển; là địa bàn cầu nối để chủ động hội nhập, hợp tác kinh tế có
hiệu quả với các nước trong khu vực.
Trong thời gian tới, dự báo chỉ số phát triển con người vùng ĐBSCL tiếp tục tăng
và phấn đấu đạt bằng hay cao hơn mức trung bình của cả nước. Giai đoạn 1999-2004,
giá trị chỉ số HDI khu vực ĐBSCL có tốc độ tăng bình quân là 0,96%/năm. Đến 2010,
nếu tăng với tốc độ này thì giá trị HDI sẽ tăng thêm 0,04, tức HDI ở mức 0,742. Trong
khi đó, chỉ số HDI trung bình cả nước hiện đã đạt 0,731. Như vậy để nâng lên đáng kể
giá trị HDI, chúng ta cần xác định các biện pháp tích cực và khẩn trương nhằm nâng
giá trị HDI với mức tối thiểu 1-1,1%/năm. Đây là mức phải có nhiều nỗ lực, nhất là
trong tình trạng giáo dục ở ĐBSCL còn nhiều bất cập như hiện nay. Ngoài ra cần lưu ý
một số vấn đề sau:
89
- Chỉ số kinh tế có khả năng tăng nhanh nhất song cần chú ý đến chất lượng tăng
trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển con người,
đặc biệt là vấn đề việc làm và môi trường.
- Chỉ số giáo dục có thể tăng được với những nỗ lực lớn, song cần chú ý đến chất
lượng giáo dục đang có chiều hướng suy giảm. Đặc biệt, cần cụ thể hoá hơn vai
trò của giáo dục trong việc tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Chỉ số tuổi thọ ít nhất cần duy trì như giai đoạn 2001-2005, lưu ý một số tác
động tiêu cực tới chỉ số này là tình trạng tử vong do tai nạn giao thông (trung
bình cả nước khoảng 30 người/ngày, tức hơn 10.000 người/năm, tập trung ở độ
tuổi thanh niên và trung niên); sự gia tăng lây lan của HIV/AIDS; sự tăng lên
của tỷ lệ người mắc bệnh lao, sốt rét, tâm thần...
3.2.1. Tiếp tục đẩy nhanh phát triển kinh tế vùng ĐBSCL
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, huy động cao nhất các nguồn lực để phát triển
ĐBSCL với tốc độ tăng trưởng nhanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu tốc
độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%/năm giai đoạn 2006-2010; khoảng 11,5%/năm giai
đoạn 2011-2015 và 11%/năm giai đoạn 2016-2020. Đưa GDP/người của vùng đạt mức
trung bình của cả nước trong giai đoạn 2011-2015 và đến năm 2020 gấp 1,1 lần bình
quân chung của cả nước. Dự kiến, GDP bình quân đầu người vùng ĐBSCL đến năm
2010 đạt 1050 USD, năm 2020 khoảng 2300 – 2400 USD.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông
nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ cả trong GDP và cơ cấu lao động, bảo đảm an
ninh lương thực cho đất nước và xuất khẩu. Chú trọng phát triển toàn diện kinh tế biển
như: khai thác và nuôi trồng hải sản, dầu khí, du lịch, dịch vụ cảng biển và vận tải biển,
công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Đến năm 2010 tỷ trọng nông lâm ngư
nghiệp trong GDP của vùng còn khoảng 36%, công nghiệp xây dựng đạt 30% và khu
vực dịch vụ 34%, đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp còn 21%, công nghiệp xây dựng
tăng lên 43% và khu vực dịch vụ là 37%.
90
Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm,
giảm chênh lệch về phát triển xã hội giữa các khu vực và giữa đồng bào dân tộc Kinh
và đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 5 năm, giải quyết việc làm cho khoảng 1,8 – 2
triệu lao đông trong độ tuổi. Đến năm 2010, duy trì tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi khu vực thành thị dưới 5%, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
lên 85%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo của vùng xuống dưới 9% (theo chuẩn quốc gia giai đoạn
2006-2010).
Đẩy mạnh thu hút đầu tư trên địa bàn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước. Tổng đầu tư toàn xã hội trên địa bàn vùng chiếm khoảng 36-37% GDP trong giai
đoạn 2006-2010 và khoảng 40-42% GDP trong giai đoạn 2011-2020.
Tiếp tục đẩy nhanh đổi mới công nghệ ở các ngành và lĩnh vực. Tốc độ đổi mới
công nghệ đạt bình quân 18-20%/năm; riêng trong một số ngành và lĩnh vực quan
trọng đạt 22-25%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân giai đoạn 2006-2010 trên 16%/năm, đến
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt 350 USD, trong giai đoạn
2011-2020 kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 15%/năm, đến năm 2020 kim
ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 1250 USD.
Góp phần quan trọng vào bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và giữ vững mức
xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm.
Phấn đấu đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng ĐBSCL đến năm 2010 đạt
33%, năm 2020 khoảng 50%.
Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, đưa tỷ lệ đô thị hóa của vùng lên khoảng 25% vào
năm 2010 và 40% vào năm 2020.
Để thúc đẩy nhanh phát triển và xây dựng vùng ĐBSCL thành vùng kinh tế lớn
của cả nước, cần thực hiện bằng được các khâu đột phá sau:
+ Đầu tư xây dựng mạng lưới giao thông hiện đại bao gồm xây dựng, nâng cấp
các tuyến trục giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, đường cao tốc thành phố Hồ Chí
Minh - Cần Thơ, các tuyến N1, N2, xây dựng cảng biển quốc tế Cần Thơ, sân bay quốc
tế Trà Nóc, Dương Tơ.
91
+ Nâng cấp, hoàn thiện mạng lưới thuỷ lợi, ưu tiên các công trình thủy lợi phục
vụ nuôi trồng thủy sản, khu vực trồng cây ăn trái quy mô lớn.
+ Phát triển nhanh giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của vùng để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới.
+ Đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, nhất là trong các lĩnh vực thủy sản và nông nghiệp.
+ Nhanh chóng phát triển các trung tâm kinh tế, làm bàn đạp đưa vùng đồng bằng
sông Cửu Long hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Xây dựng thành phố Cần Thơ xứng tầm đô thị loại I, trở thành trung tâm động
lực phát triển vùng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa quy mô
dân số của thành phố lên 2 triệu dân.
Từng bước xây dựng Phú Quốc trở thành trung tâm du lịch, giao thương lớn của
vùng, cả nước và khu vực.
Nghiên cứu thành lập và phát triển khu kinh tế Định An (Trà Vinh).
Thành lập Vùng Kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL (theo Quyết định 492/QĐ-
TTg) bao gồm thành phố Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. “Vùng kinh tế
trọng điểm ĐBSCL tiếp tục là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt
và chế biến thủy sản... có vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học,
cung cấp giống, kỹ thuật…. cho cả vùng ĐBSCL...”
+ Phát triển đa dạng các phân ngành công nghiệp, không chỉ công nghiệp phục
vụ nông nghiệp, trong đó đẩy nhanh xây dựng cụm công nghiệp khí - điện - đạm Cà
Mau, trung tâm điện lực Ô Môn, nhà máy lọc dầu Cần Thơ, cơ khí đóng tàu, công
nghệ thông tin...
3.2.2. Tăng cường phát triển giáo dục
Thực sự coi phát triển giáo dục và đào tạo là khâu đột phá, là nhân tố quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững của vùng. Tập trung sức chỉ đạo để thực hiện
bằng được mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20-1-2003 của
Bộ Chính trị: đến năm 2010 giáo dục - đào tạo ở ĐBSCL bằng mức bình quân
chung của cả nước.
92
Phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề ĐBSCL phải đặt trong mối quan hệ phát
triển tổng thể và đồng bộ với phát triển kinh tế-xã hội. Coi phát triển giáo dục, đào tạo
và dạy nghề ở ĐBSCL không chỉ phục vụ cho sự nghiệp phát triển của vùng, mà còn là
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội chung của cả nước. Trung ương, địa phương và
nhân dân cùng nhau chung sức thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Mở rộng quy mô giáo dục và đào tạo ở ĐBSCL phải đi đôi với việc tăng
cường các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo. Đi đôi với phát triển
về lượng, phải đặc biệt chú trọng chất lượng tri thức và phẩm chất con người trong
quá trình đào tạo.
Phải phát huy sức mạnh tổng hợp trong đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
Ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ yếu, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động
thêm sự đóng góp của toàn dân, của các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.
Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, từng bước
phổ cập trung học cơ sở, trong đó Nhà nước đóng vai trò cơ bản, nhất là thông qua chi
tiêu cho giáo dục. Đây là giải pháp quan trọng giúp đông đảo người nghèo, trước hết là
các trẻ em nghèo, có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản cũng như giúp nâng cao năng lực
phát triển chung của xã hội
Đến năm 2010 giáo dục, đào tạo và dạy nghề ĐBSCL đạt chỉ số phát triển của
các ngành học, bậc học ngang bằng mức bình quân chung của cả nước; có 50% tỉnh đạt
phổ cập trung học phổ thông; giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học ở giáo dục phổ thông xuống
dưới mức bình quân chung cả nước; đặt trọng tâm vào việc phát triển quy mô giáo dục
nghề nghiệp, bao gồm sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề và đào tạo trung
học chuyên nghiệp, mở rộng diện dạy nghề cho nông dân; mở rộng quy mô giáo dục
đại học và sau đại học nhằm từng bước điều chỉnh cơ cấu và trình độ lực lượng lao
động, tăng số lượng sinh viên/1 vạn dân. Phấn đấu đến năm 2015, trình độ phát triển
giáo dục và đào tạo, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của ĐBSCL cao hơn chỉ số trung
bình của cả nước.
Để đạt mục tiêu trên, ĐBSCL cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
93
3.2.2.1. Tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội tham gia phát triển giáo
dục và đào tạo
Để thay đổi căn bản tập quán, nếp sống, cách nghĩ, coi giáo dục là động lực để
phát triển, việc học là trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và địa phương, cần thiết phải
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mở cuộc vận động sâu rộng nhằm
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức xã hội về việc đi học của mỗi cá nhân và
việc đảm bảo quyền học tập cho trẻ em của các bậc cha mẹ và người lớn tuổi, làm cho
mỗi gia đình, mỗi người dân, mỗi cơ quan, cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và tổ
chức quần chúng xã hội trong vùng nhận thức một cách đầy đủ về ý nghĩa quan trọng
của giáo dục và đào tạo trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao mức
sống, cải thiện điều kiện sống và bảo đảm công bằng xã hội; đồng thời nâng cao trách
nhiệm của mỗi tổ chức, đơn vị, cơ quan từ trung ương đến địa phương trong việc triển
khai nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo của đồng bằng sông Cửu Long.
3.2.2.2. Cải cách chương trình giáo dục – đào tạo và cách dạy và học
Đây là yêu cầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ
đổi mới hệ thống giáo dục – đào tạo. Chương trình phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền
tảng tri thức cho sự phát triển con người toàn diện, đồng thời, phải phù hợp với yêu cầu
mới của thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Theo nghĩa đó, chương trình cũng cần
dành một tỷ lệ thích đáng cho các môn học cung cấp lại các tri thức công cụ - tối thiểu
của thời đại. Hiện nay, việc đọc thông thạo tiếng mẹ đẻ là chưa đủ, việc phổ cập tiếng
Anh và kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và internet cho học sinh trung học là
bắt buộc. Không thể để tình trạng học sinh các tỉnh trong vùng khi vào học ở các
trường chuyên nghiệp hoặc đại học, việc học ngoại ngữ và vi tính mới bắt đầu từ đầu,
sẽ không theo kịp học sinh thành phố, làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
Đồng thời, xây dựng, ban hành các chương trình, giáo trình đào tạo với các ngành
nghề phù hợp với đặc điểm văn hóa, phong tục, tập quán của nhân dân và nhu cầu thực
tế của địa phương; nghiên cứu xây dựng các chương trình, giáo trình dạy nghề đặc thù
(tiếng Khmer) phù hợp với trình độ của học sinh dân tộc thiểu số... Xây dựng kế hoạch
năm học linh hoạt phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long
94
để bảo đảm thời gian học nghề của học sinh; tổ chức các mô hình dạy nghề đa dạng,
linh hoạt phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng trên từng địa bàn; phát triển
dạy nghề lưu động, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế
được tham gia học nghề, tự tạo việc làm...
Cách học thụ động và cách dạy theo lối “áp đặt” và với mục tiêu cung cấp khối
lượng lớn thông tin đã tỏ ra lạc hậu, thậm chí là có hại. Cách dạy và học cần chuyển
mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức cũng
như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề. Ngay trong nhà trường, các kênh
chuyển tải tri thức cũng phải được đa dạng hoá. Chương trình, cách dạy và học mới, dĩ
nhiên, đòi hỏi chất lượng mới đối với đội ngũ giáo viên. Sự hỗ trợ của Nhà nước và
quốc tế và nỗ lực của bản thân nhà truờng, giáo viên trong môi trường ngày càng nhiều
cơ hội học tập có thể lựa chọn sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ đối với việc nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên.
3.2.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Tổ chức đa dạng chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên
hiện hữu, nâng chuẩn đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tăng cường đội
ngũ giảng dạy từ các nơi khác đến với một chế độ đãi ngộ hợp lý. Đây chính là nguồn
chủ yếu cho đào tạo nghề, đào tạo cao đẳng, đại học và trình độ cao hơn.
Thực hiện đề án đào tạo giảng viên cho các trường đại học cao đẳng đến năm
2020 với ba phương án: đào tạo ở trong nước, đào tạo ở nước ngoài và kết hợp đào tạo
trong và ngoài nước. Trước mắt tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý,
cán bộ giảng dạy thông qua các chương trình đào tạo tiến sĩ cho giảng viên các trường
cao đẳng, đại học trong khu vực, nhất là những trường mới thành lập.
Tập trung giao nhiệm vụ cho một số Trường đại học và Viện nghiên cứu lớn
trong nước, đặc biệt là các đại học theo hướng nghiên cứu đảm nhiệm việc đào tạo số
tiến sĩ trong nước với sự tham gia của các giáo sư được mời từ những đại học có uy tín
trên thế giới.
Phát huy cao độ nội lực của từng tỉnh, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong
giai đoạn hội nhập. Trường đại học Cần Thơ, An Giang tiếp tục thực hiện công tác đào
95
tạo nâng chuẩn trình độ của giảng viên. Mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ sở đào tạo
trong và ngoài nước, tìm kiếm cơ hội cho giáo viên nhận học bổng tài trợ.
3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật
Mở rộng mạng lưới trường học, lớp học mầm non. Củng cố và hoàn thiện
mạng lưới các trường tiểu học, THCS và THPT (bao gồm cả trường dân tộc nội trú)
gắn liền với quy hoạch cụm dân cư; đầu tư xây dựng ở mỗi cụm dân cư có ít nhất 1
trường hoặc 1 điểm trường tiểu học và mẫu giáo, mầm non; mỗi xã có 1 trường
THCS ; mỗi huyện, thị xã có từ 2 trường THPT trở lên ; xoá phòng học 3 ca và
thanh toán phòng học tạm, tre lá; phấn đấu đến năm 2010 mỗi huyện có 1 trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia và 1 trường mầm non trọng điểm; cả vùng có từ 18%
đến 20% trường tiểu học, 12% đến 15% trường THCS và từ 10% đến 12% trường
THPT đạt chuẩn quốc gia.
Các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học phải có phòng thí nghiệm,
phòng chức năng ngoại ngữ, vi tính, tổ chức thư viện của trường theo hướng: mua lại
sách cũ, quyên góp sách cũ và sách truyện để những em học sinh có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn có thể mượn sách giáo khoa về học không phải mua, đây cũng là một cách
giảm nhẹ chi phí đi học cho những học sinh nghèo.
Phấn đấu từ nay đến năm 2010 mở rộng mạng lưới Cao đẳng Cộng đồng cho mỗi
tỉnh. Ở những nơi còn khó khăn có thể liên kết và vài tỉnh có một Cao đẳng Cộng đồng.
Đây là biện pháp đào tạo phù hợp có hiệu quả và để kịp thời tạo nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đồng thời là cơ sở cung cấp nguồn đào tạo bậc
đại học về sau.
Có thể mở thêm 1-2 trường đại học công cho các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang, Hậu Giang; đồng thời khuyến khích mở các đại học dân lập và tư thục ở
ĐBSCL phù hợp với điều kiện và yêu cầu của vùng. Chính phủ cần có sự quan tâm
đặc biệt đối với vùng ĐBSCL về quy hoạch, hỗ trợ một phần kinh phí hoặc cho vay
với mức lãi suất ưu đãi, cấp đất hoặc cho thuê dài hạn để thành lập thêm trường đại
học và cao đẳng (hiện nay số trường đại học và cao đẳng của vùng ĐBSCL chỉ mới
gần bằng 1/3 số trường đại học và cao đẳng ở vùng Đồng bằng Sông Hồng). Mặt
96
khác để có một đội ngũ nhà quản lý và giảng viên cho các trường dân lập, tư thục
cần kêu gọi, động viên, khuyến khích những Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú,
những Giáo sư, Phó giáo sư… đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn tâm huyết với nghề
nghiệp đứng ra thành lập trường.
Cho phép các trường đại học công ngay cả đại học dân lập mở thêm hệ đại học
“Ghi danh” (đại học mở) để tăng thêm nguồn nhân lực có trình độ đại học cho các
ngành kinh tế chưa đòi hỏi nguồn nhân lực cao. Mặt khác, cũng nên đổi mới quan
niệm: “Học không chỉ để tìm cơ hội có việc làm, mà còn làm tốt hơn công việc đang
làm (ngay cả làm ruộng, buôn bán, lao công...) vừa tạo việc làm cho chính mình và cho
cả cộng đồng”. Đây cũng là một yếu tố góp phần nâng cao nếp sống văn hóa văn minh
xã hội.
Đẩy nhanh hệ thống các trường dạy nghề, kể cả các trường dạy nghề chất
lượng cao. Như đã phân tích những lợi thế trên, thì đây chính là thế mạnh của
ĐBSCL. Nó không chỉ tạo nguồn lao động cung cấp ở địa phương mà còn cung cấp
cho các địa phương khác, làm giảm nhẹ số lao động thất nghiệp và xuất khẩu lao
động ra nước ngoài.
3.2.2.5. Phát triển thị trường lao động
Thiết lập mối liên hệ giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử
dụng nhân lực thông qua việc phát triển thị trường lao động và thị trường sản phẩm
khoa học, công nghệ. Sự phát triển của thị trường này sẽ cung cấp các chỉ báo cần thiết
cho việc chuyển đổi hệ thống đào tạo, từ yêu cầu cải cách nội dung và nâng cấp chất
lượng chương trình đào tạo cho đến số lượng và cơ cấu các cơ sở đào tạo.
Thành lập các trung tâm nghiên cứu, hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực trong
vùng. Các trung tâm này thực hiện nhiệm vụ xác định nhu cầu của doanh nghiệp và tìm
nguồn cung ứng nhân lực cho doanh nghiệp. Đó cũng là điều kiện để hình thành chợ
đào tạo về nhân lực trình độ cao. Trong giai đoạn từ 2010-2015, trung tâm này nên trực
thuộc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ (VCCI), trung
tâm này sẽ làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trung vùng.
97
Hình thành trung tâm nghiên cứu và dự báo nhu cầu nguồn nhân lực ĐBSCL.
Trung tâm này sẽ thực hiện các nghiên cứu và dự báo nhu cầu nhân lực trong Vùng.
Trên cơ sở đó các cơ sở đào tạo sẽ xây dựng kế hoạch đào tạo, chuẩn bị năng lực đào
tạo phù hợp với dự báo nhu cầu nhân lực trong từng giai đoạn.
Nhất thiết phải liên kết giữa các Viện - Trường - Doanh nghiệp để hình thành
mạng lưới đào tạo nhân lực. Đối với các Viện, Trường, Trung tâm đào tạo, cần phải
phối hợp chặt chẽ với các nhà tuyển dụng để tự đánh giá các chương trình đang được
đào tạo, điều chỉnh nội dung môn học đồng thời cập nhật nội dung mới đưa vào
chương trình giảng dạy. Ngược lại, các nhà tuyển dụng cần xác định trách nhiệm tham
gia trong một số khâu của quá trình đào tạo, đặt yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo về
nội dung kiến thức, kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu của cơ sở mình.
3.2.3. Thực hiện đồng bộ phát triển y tế với an sinh xã hội
Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội sẽ giúp cải thiện kỹ năng và sức khỏe cho
nguồn nhân lực, từ đó, tăng tính cạnh tranh của cả nền kinh tế. Đồng thời, an sinh xã
hội giúp cộng đồng có thể chia sẻ và quản lý được rủi ro kinh tế. Quan trọng hơn, một
hệ thống an sinh xã hội tốt có thể giúp người dân tự thoát nghèo và không bị tái nghèo.
Đòi hỏi cấp thiết trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe chưa phải là việc phát
triển các dịch vụ cao cấp, mà là những nỗ lực mở rộng diện cung cấp và nâng cao chất
lượng các dịch vụ cơ bản. Tính ưu tiên của sự lựa chọn này xuất phát từ quan điểm
phát triển vì tất cả mọi người và cũng là nhằm giảm thiểu mức độ bất bình đẳng giữa
các nhóm dân cư có thu nhập khác biệt thuộc các vùng và các tầng lớp khác nhau. Các
mục tiêu cụ thể phản ánh sự ưu tiên đó là: mở rộng cơ hội để mọi người dân tiếp cận dễ
dàng đến y tế dự phòng; bảo đảm mọi người dân được chữa các bệnh thông thường;
giảm nhanh tỷ lệ trẻ em và phụ nữ có thai bị suy dinh dưỡng; thực hiện tốt chương trình
dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Định hướng ưu tiên với các mục tiêu trên đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống y tế và
chăm sóc sức khoẻ cũng như chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, tập trung
khắc phục các nguyên nhân cản trở người dân, nhất là người nghèo và nhân dân ở
98
những vùng sâu, vùng xa, tiếp cận đến các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cơ bản.
Một số giải pháp cần được thực hiện là:
- Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, trong đó
cần ưu tiên hơn cho: những vùng tương đối bị cô lập; các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, các biện pháp phòng bệnh, nhất là một số bệnh dịch sốt xuất huyết,
lao, bướu cổ... ; củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế thôn xã; các chương trình cung
cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh, an toàn thực phẩm;
- Cho phép khu vực tư nhân tham gia rộng rãi hơn vào lĩnh vực y tế, để giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong khi vẫn đảm bảo cho người dân tiếp
cân được các dịch vụ y tế, qua việc thu phí điều trị cơ bản. Mở rộng phạm vi bảo
hiểm y tế, nhất là đối với khu vực ngoài nhà nước và người nghèo, và nâng cao
chất lượng hoạt động bảo hiểm y tế bằng các quy chế rõ ràng và một cơ chế giám
sát có hiệu quả. Ngoài ra cuối năm 2002, Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ
dự phòng y tế cho người nghèo (HCFP), hơn 11 triệu người đã nhận được lợi ích
từ HCFP nhưng mức độ áp dụng của những chương trình như vậy còn khác biệt rất
lớn theo khu vực;
- Tăng cường năng lực bộ máy y tế và chăm sóc sức khoẻ thông qua việc mở
rộng hoạt động đào tạo y tá và cán bộ bảo vệ sức khoẻ cho các vùng nông thôn,
miền núi. Cùng với hệ thống thông tin đại chúng, cán bộ y tế ở địa phương cũng là
nhân tố quan trọng trong mạng lưới thông tin tuyên truyền về việc chữa bệnh và
chăm sóc sức khoẻ;
- Với mục tiêu đạt tốc độ tăng dân số giai đoạn 2006-2010 khoảng 1,06%/năm,
giai đoạn 2011-2020 khoảng 1%/năm; và quy mô dân số của vùng là 18,2 triệu
người năm 2010 và 20 triệu người năm 2020. ĐBSCL cần tiếp tục đẩy mạnh
chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình thông qua việc mở rộng thông tin,
tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dân số, giới
tính và phát triển, và việc cung cấp đầy đủ các biện pháp và phương tiện phòng
tránh thai cho mọi người;
99
- Gắn vấn đề dân số với các chương trình và chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Xu hướng đô thị hoá và sự di chuyển dân cư, xu hướng giảm dần tỷ lệ trẻ em,
tăng dần tỷ lệ người già, xu hướng thay đổi cấu trúc gia đình,… phải được coi là
những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạch định các chính sách và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người.
3.3. CẢI THIỆN MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ
Bên cạnh việc tăng đồng thời giá trị các chỉ số phát triển con người thì việc cải
thiện mối tương quan giữa các chỉ số thành phần cũng là một yếu tố không thể thiếu
nhằm làm cho sự nghiệp phát triển con người ở vùng ĐBSCL mang tính bền vững hơn.
Chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển con người: để đạt mức tương thích
trung bình của thế giới 0,75 các tỉnh thành ĐBSCL cần nâng cao giá trị chỉ số kinh tế.
Hiện nay, hệ số K/H cũng đạt xấp xỉ mức trung bình này, giá trị chỉ số HDI vẫn phải
được cải thiện tăng lên, do đó về nguyên tắc tử số GDP phải tăng nhanh hơn mẫu số
HDI, có như vậy thì hệ số K/H mới được tăng lên phù hợp.
75,0
Chỉ số phát triển giáo dục và chỉ số phát triển con người: do hiện nay chỉ số phát
cho nên để đạt mức tương thích triển giáo dục E1 các tỉnh thành ĐBSCL đều
hợp lý 0,95 ≤ E1/H ≤ 1,05 thì mẫu số HDI phải tăng nhanh hơn tử số E1. Như vậy, hệ
số E1/H sẽ được kéo giảm xuống so với hiện nay và tiến đến mức dưới 1,05.
Chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục: để hệ số giữa chỉ số phát
triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục tiến gần đến mức “1”, ngoài việc cải thiện giá
trị hai chỉ số này, thì giá trị chỉ số GDP cần phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chỉ số
E1, do giá trị chỉ số GDP còn thấp, khoảng cách còn khá lớn so với chỉ số E1.
100
KẾT LUẬN
Chỉ số phát triển con người là một chỉ tiêu tổng hợp của ba chỉ số cấu thành.
Trong đó, chỉ số thu nhập phản ánh tình trạng phát triển kinh tế; chỉ số giáo dục
phản ánh tình trạng phát triển giáo dục thông qua tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ
nhập học các cấp; và chỉ số tuổi thọ phản ánh chất lượng cuộc sống của con người.
Chỉ số phát triển con người dù chỉ được biểu thị bằng một con số nhưng nó
phản ánh tổng hợp thành tựu kinh tế - xã hội cả về số lượng và chất lượng. Trong
những năm qua, chỉ số HDI vùng ĐBSCL có tăng nhưng các chỉ số thành phần vận
động không đều. Tuy chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng chỉ số kinh tế đã góp phần lớn
nhất làm tăng chỉ số HDI. Giá trị chỉ số kinh tế còn thấp 0,52 nhưng nhờ tuổi thọ bình
quân đạt 72,1 năm và tỷ lệ người lớn biết đọc đạt tới 89,8% nên chỉ số phát triển con
người đạt khá cao 0,702 (> 0,7).
Phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân và tăng đầu tư
cho giáo dục là hai giải pháp cơ bản làm thay đổi đáng kể chỉ số HDI. Giáo dục ở
ĐBSCL đã được cải thiện trong thời gian qua nhưng đang có dấu hiệu xuống dốc
so với các vùng khác. Giá trị chỉ số giáo dục tăng lên đạt 0,8 nhưng chỉ đứng trên
vùng Tây Bắc trong bản đồ giáo dục cả nước. Chỉ số giáo dục chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong ba chỉ số thành phần, nhưng vẫn không phản ánh được bản chất của nền
giáo dục còn nhiều yếu kém. Do đó, chỉ số giáo dục đã góp phần làm thay đổi vị
trí thứ hạng chỉ số HDI (tụt 1 hạng) của vùng ĐBSCL trong khi quy mô nền kinh
tế vẫn giữ hạng 3 cả nước.
Nhận định ngược lại vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế và vấn đề
cải thiện chỉ số tuổi thọ. Khi con người được giáo dục, nghĩa là có kiến thức, sẽ phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế; và có kiến thức mới có thể sử dụng hữu hiệu thành quả của
tăng trưởng để đầu tư cải thiện sức khoẻ và giáo dục. Và như vậy, trong tình hình hiện
nay của vùng ĐBSCL, giáo dục chính là yếu tố quyết định nhằm cải thiện chỉ số phát
triển con người khi tăng trưởng kinh tế vẫn còn khá vững chắc.
Điều đáng lưu ý là để tăng được chỉ số phát triển con người, thì cả ba chỉ số
đều phải có sự tiến bộ, mà ta biết rằng, để tuổi thọ bình quân tăng lên đôi chút thì
101
đòi hỏi tất cả mọi mặt của đời sống xã hội đều phải tốt lên, từ y tế, chăm sóc sức
khoẻ, đến thu nhập, chế độ ăn uống, thể dục thể thao… Có thể nói, những chỉ tiêu
về phát triển con người HDI của UNDP buộc chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một
cách tổng quát và thực tế hơn.
Điều cuối cùng là mặc dù đã phản ánh được nhiều khía cạnh của phát triển con
người, nhưng bản thân chỉ số HDI chưa phải là thước đo hoàn hảo. Do đó, chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu lý luận về HDI, mở rộng tiêu chí mới như một số quốc gia
đề xuất như: văn hóa, lành mạnh xã hội, môi trường sinh thái… Mới đây, trong
“Nghiên cứu chỉ số phát triển con người của Việt Nam”, tác giả Đặng Quốc Bảo
cũng đã đề xuất đưa thêm chỉ số an toàn xã hội, nhằm phản ánh khả năng phòng
ngừa tệ nạn nghiện ma tuý của cộng đồng khi tính toán chỉ số HDI… Bởi lẽ, tệ nạn
này nguy hiểm ở chỗ không chỉ tác động tiêu cực đến bản thân người nghiện mà
còn tác hại đến mọi thành viên trong gia đình đó và tác hại đến cả cộng đồng.
Bên cạnh đó, chất lượng số liệu thống kê còn chưa cao và lại thường được
chỉnh sửa về giá trị và phương pháp tính; điều này là một hạn chế nữa cho các phân
tích, đánh giá. Chẳng hạn, số liệu tỷ lệ đi học có lẽ không thực sự phản ánh đúng
thực tế, vì ở nhiều tỉnh, tỷ lệ này phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm điều tra. Một
vấn đề nữa là thống kê di cư lao động, vốn có độ tin cậy không cao. Hơn nữa, các
phân tích chủ yếu dựa trên các số liệu thống kê mô tả, những tương quan giản đơn,
cũng như chưa đưa ra được những lập luận vững chắc hơn để minh chứng. Chính vì
vậy, chuyên đề chưa thể đưa ra các kết luận dứt khoát về các mối quan hệ tương tác
trong chuyển biến tình hình phát triển con người ở ĐBSCL giai đoạn 1999-2004,
cũng như cho đến năm 2007.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo (chủ biên) (2008), Nghiên cứu chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bảo trợ xã hội – Báo cáo phát triển Việt Nam 2008 (6-7 tháng 12 năm 2007),
(Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn Các nhà Tài trợ cho
Việt Nam), Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa
đói giảm nghèo (CPRGS) – Tổ Công tác liên ngành CPRGS, Việt Nam tăng
trưởng và giảm nghèo - Báo cáo thường niên 2004-2005 (tháng 11 năm
2005), Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (18/12/2008), Dự thảo Chiến lược phát triển giáo
dục Việt Nam 2009 – 2020.
5. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 10 năm 2005), Chỉ số phát
triển con người HDI Thành phố Hồ Chí Minh 1999-2004.
6. Hướng đến tầm cao mới – Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 (14-15 tháng
12 năm 2006), (Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn Các
7. Kỷ yếu hội thảo của các tác giả Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng.
8. Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị về phương hướng,
nhà Tài trợ cho Việt Nam ), Hà Nội.
nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng
ĐBSCL thời kỳ 2001 – 2010.
9. Đặng Văn Phan, Nguyễn Kim Hồng (2008), Địa lý Kinh tế xã hội Việt Nam
thời kì hội nhập, Nxb Giáo dục.
10. Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế (về kết quả nghiên cứu của đề tài KH-CN cấp
11. Quyết định 173/2001/QĐ-TTg ngày 06/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
nhà nước KX.05.01) (2007), Tạp chí thông tin Khoa học xã hội.
phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL giai đoạn 2001 – 2005.
103
12. Quyết định 492/QĐ-TTg ngày 16/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL.
13. Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2010.
14. Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
đối với các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đến năm 2010.
16. Tổng cục Thống kê, Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006.
17. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra biến động dân số 1-4-2006.
15. Tổng cục thống kê, Dự án VIE/97/P14, Nxb Thống kê, Hà Nội 2001.
18. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo phát triển
con người VN 2001 – Đối mới và sự nghiệp phát triển con người (Sách tham
khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), Phát triển con
người từ quan niệm đến chiến lược và hành động (Sách tham khảo), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Ngô Doãn Vịnh (chủ biên) (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
21. Viện Chiến lược phát triển (tháng 11/2006), Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020, Hà Nội.
22. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư (08/2001), Cơ sở khoa học
phục vụ xây dựng đề án phát triển đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2010 đáp
ứng yêu cầu phát triển KT-XH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Hà Nội.
23. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hiệp
quốc (2006), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 – Những thay đổi và
xu hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. http://www.ihs.org.vn (Viện Nghiên cứu con người - Viện Khoa học xã hội
Việt Nam)
104
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Việt Nam và Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
1. Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói
Mặc dù tỷ lệ nghèo trên thế giới đã giảm xuống kể từ năm 1990 đến nay, song
1,2 tỷ người vẫn sống ở mức dưới 1 USD mỗi ngày. Việt Nam đã đạt được mục tiêu
giảm một nửa tỷ lệ nghèo với việc giảm tỷ lệ người dân sống dưới chuẩn nghèo
xuống còn 35% trong năm 2000. Việt Nam cam kết giảm tỷ lệ nghèo thêm 40% cho
đến năm 2010. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng, song
thách thức hiện giờ là làm sao thu hẹp khoảng cách đang gia tăng và tiếp cận được
các nhóm dân cư nghèo nhất ở từng vùng của Việt Nam.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học
Trên toàn thế giới hiện có 113 triệu trẻ em không đi học, nhưng có thể đạt
được mục tiêu này. Ví dụ, Việt Nam có nhiều khả năng hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục tiểu học cho đến năm 2015 vì tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học đúng tuổi
trong năm 1999 đã đạt mức rất cao là 95%. Tuy nhiên, những thách thức lớn hiện
nay là nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng giáo dục cơ sở theo mục tiêu quốc tế
về phổ cập giáo dục tiểu học và giảm bớt mức độ chênh lệch về khả năng và phạm
vi tiếp cận với giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ
Hai phần ba số người mù chữ trên thế giới là phụ nữ. Việt Nam đã khẳng định
cam kết thực hiện MDG này bằng cách đặt ra mục tiêu xoá bỏ khoảng cách về giới
trong giáo dục ở cấp tiểu học và trung học cơ sở vào năm 2005 và tình trạng mù chữ
ở phụ nữ dưới độ tuổi 40 cho đến năm 2010. Tuy nhiên, 70% số học sinh bỏ học ở
cấp tiểu học là trẻ em gái, nguyên nhân chính là do các em phải tham gia các hoạt
động kinh tế của gia đình, và vẫn tồn tại chênh lệch giữa các vùng miền.
4. Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em
Trên toàn thế giới có 11 triệu trẻ nhỏ tử vong mỗi năm, như vậy đã giảm so
với con số 15 triệu năm 1980. Việt Nam đã thành công trong việc giảm tỷ lệ tử
105
vong của trẻ em dưới 5 tuổi từ khoảng 58/1000 ca sinh sống trong năm 1990 xuống
còn khoảng 48/1000, nhưng để hoàn thành trọn vẹn mục tiêu giảm 2/3 tỷ lệ này cho
đến năm 2015, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và hỗ trợ nhiều hơn nữa.
5. Tăng cường sức khoẻ bà mẹ
Ở các quốc gia đang phát triển, nguy cơ tử vong của bà mẹ khi sinh con là
1/48. Tuy nhiên, hầu như tất cả các quốc gia hiện nay đều có chương trình làm mẹ
an toàn và có triển vọng đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này. Việt Nam đã giảm tỷ
lệ tử vong ở sản phụ từ 200/100.000 ca sinh sống trong năm 1990 xuống còn
100/100.000 và đặt ra mục tiêu tiếp tục giảm xuống còn 70 cho đến năm 2010,
trong đó sẽ quan tâm đặc biệt tới những vùng khó khăn.
6. Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác
HIV/AIDS đe doạ huỷ hoại những thành quả phát triển đạt được của cả một
thế hệ ở nhiều quốc gia. Kinh nghiệm ở các nước như Braxin, Sênêgan và Thái Lan
cho thấy chúng ta có thể ngăn chặn HIV ngay từ đầu. Việt Nam đã đặt ra mục tiêu
giảm tốc độ gia tăng sự lây lan của HIV/AIDS trong năm 2005 và giảm một nửa tốc
độ gia tăng cho đến năm 2010. Thách thức đặt ra là phải hành động khẩn cấp ngay
từ bây giờ theo phương thức tiếp cận đa ngành để chống lại đại dịch này. Sự quan
tâm chỉ đạo liên tục là hết sức cần thiết để ngăn chặn nguy cơ xảy ra một đại dịch.
7. Đảm bảo bền vững về môi trường
Trên thế giới có hơn một tỷ người vẫn không được tiếp cận với nước sạch,
nhưng trong thập niên 90 đã có gần một tỷ người được tiếp cận với nước sạch và
các điều kiện vệ sinh. Việt Nam đã tăng tỷ lệ người dân được tiếp cận với nước sạch
từ 48% trong năm 1990 lên tới 56% trong năm 2000 và đặt mục tiêu tiếp tục nâng
con số này lên 85% ở khu vực nông thôn vào năm 2010.
8. Xây dựng quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển
Xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững rõ ràng có liên quan tới thương
mại, giảm xoá nợ và viện trợ. Cần đưa ra các điều khoản thương mại bình đẳng cho
các quốc gia đang phát triển để tạo cơ hội việc làm và thu nhập. Về mục tiêu này,
Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức khá lớn trong việc đẩy nhanh tiến
106
trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu theo kế hoạch đề ra. Để đảm bảo
công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển quốc gia đòi hỏi phải có
những nỗ lực rất lớn.
Phụ lục 2: Mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo đến 2010 của ĐBSCL
- Mầm non: huy động 10-20% trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ...
- Giáo dục phổ thông: tỉ lệ huy động học sinh trong độ tuổi tiểu học đến trường
đạt 99%. Toàn vùng đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi...
- Giáo dục trung học: đạt chuẩn phổ cập THCS. Nâng tỉ lệ học sinh THCS đi
học trong độ tuổi đạt 87-90%, học sinh THPT lên 50%.
- Giáo dục dân tộc: mở rộng đối tượng tuyển sinh con em các dân tộc vào các
trường nội trú và trường dự bị đại học...
- Giáo dục đại học, THCN và dạy nghề: bảo đảm tăng qui mô đào tạo THCN
hằng năm trên 20%, chiếm khoảng 5% dân số trong độ tuổi 16-20. Nâng tỉ lệ bình
quân sinh viên (cao đẳng và đại học)/1 vạn dân lên khoảng 120. Phấn đấu đạt 20%
lao động qua đào tạo nghề...
- Giáo dục thường xuyên: 13 tỉnh thành phố đều có trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp huyện...
Thành lập Trường ĐH Kiên Giang, ĐH Bạc Liêu, phát triển và nâng cấp trình
độ đào tạo đại học cho Trường cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long. Thành lập
các trường cao đẳng cộng đồng: Cà Mau, Sóc Trăng, Hậu Giang, Long An, Bạc
Liêu, An Giang và Cần Thơ.
Phụ lục 3: Giải pháp nâng cao chất lượng dân số giai đoạn 2011 – 2015
Đầu tiên là giải pháp về chính sách và tổ chức quản lý. Đó là các chính sách
duy trì mức sinh hợp lý để có cơ cấu dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế – xã hội
nhanh và bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng và mở rộng
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới tính
107
khi sinh; hỗ trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng cao phúc lợi
xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư.
Giải pháp tiếp theo được đưa ra là nhóm các hoạt động truyền thông giáo dục,
chuyển đổi hành vi để tạo sự cam kết ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền, các
tổ chức xã hội về chương trình nâng cao chất lượng dân số; tăng cường tuyên truyền
tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối
tượng đặc biệt; triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự
chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo, cung cấp thiết bị cho các trung
tâm tư vấn, dịch vụ dân số cấp tỉnh, thành phố.
Nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam và trình độ dân trí cũng là hai
nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng dân số trong thời điểm hiện tại. Đây là giải
pháp yêu cầu có sự phối hợp tích cực của hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ,
trẻ em, vị thành niên, người cao tuổi và sự tham gia của ngành giáo dục.
3 giải pháp tiếp theo: Xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần; Tăng
cường các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số; đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ nâng cao chất lượng dân số.
Phụ lục 4: Hệ thống các tiêu chí đo lường xã hội khá giả ở Trung Quốc
Nhóm đo lường
Các chỉ số
1. GDP bình quân đầu người
2. Tỷ lệ người nghèo trên tổng dân số
3. Thu nhập sau thuế của hộ gia đình nông thôn
Phát triển kinh tế
4. Thu nhập sau thuế của hộ gia đình đô thị
5. Khoảng cách thu nhập giữa đô thị và nông thôn
6. Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học ở các vùng nghèo khó
7. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi ở các vùng nghèo khó
8. Tỷ lệ tử vong của các bà mẹ ở các vùng nghèo khó
9. Số lượng và mức độ lây nhiễm HIV
Điều kiện sống cơ bản
10. Tỷ lệ những người mắc bệnh lao
11. Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch
12. Tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với các công trình vệ sinh
108
13. Tỷ lệ các làng được kết nối với đường giao thông chính
14. Tỷ lệ tầng lớp trung lưu có thu nhập trung bình
15. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị
16. Tỷ lệ dân cư làm việc trong khu vực dịch vụ
17. Tỷ lệ dân cư trong những nhóm phi nông nghiệp
18. Tỷ lệ dân cư được hưởng điều kiện an ninh ở mức tối thiểu ở đô thị
Cơ cấu xã hội
19. Tỷ lệ dân cư được hưởng điều kiện an ninh ở mức tối thiểu ở nông thôn
20. Mức độ chi phí cho giáo dục trong tổng ngân sách quốc gia/tỉnh/thành
21. Tỷ lệ cân bằng giới trong trẻ sơ sinh
22. Tỷ lệ giữa học sinh nam và học sinh nữ trong việc hoàn tất giáo dục cơ sở
23. Tỷ trọng lao động nữ so với nam ở thành phố
24. Tỷ trong lao động nữ làm việc trong hệ thống công quyền ở thành thị
25. Mức độ chi phí cho việc kiểm soát môi trường trong GDP
26. Tỷ lệ che phủ rừng
27. Mảng xanh công cộng ở đô thị tính trên đầu người
Môi trường bền vững
28. Mức độ và cách thức sử dụng nguồn nước tự nhiên
29. Tỷ lệ rác thải trong sản xuất công nghiệp
30. Tuổi thọ trung bình
31. Mức dinh dưỡng tính bình quân đầu người ở nông thôn (Protein)
32. Khoảng không gian ở tính theo bình quân đầu người dân thành thị
33. Số lượng người tốt nghiệp các trương TH chuyên nghiệp tính trên 100.000 dân
34. Số lượng bác sĩ tính trên 10.000 dân
35. Số lượng giường bệnh trong các bệnh viện tính trên 10.000 dân
36. Số lượng luật sư trên 10.000 dân
Chất lượng sống
37. Tỷ lệ tội phạm
38. Tỷ lệ thất nghiệp
39. Tỷ lệ các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO) trong tổng số các tổ chức phi chính phủ (quốc tế và địa phương)
40. Mức độ chi phí và tiêu dùng sách đọc tính theo bình quân đầu người mỗi năm
41. Số lượng máy tính trong 100 gia đình ở thành phố
42. Mức độ chi phí cho du lịch tính bình quân đầu người
109
Tuổi thọ
Giáo dục
HDI
GDP (tính theo USD PPP)
Năm
Chỉ số GDP/người Chỉ số
Chỉ số Chỉ số
Xếp hạng
Báo cáo phát triển con người năm
68,5 68,6 68,9 69,2 69,8 70,1 70,2 70,5 70,6 70,9 71,6 71,9 72,5
0,73 0,73 0,73 0,74 0,75 0,75 0,75 0,76 0,76 0,76 0,78 0,78 0,792
1950 2330 2604 2935 3130 3105 3617 3916 4020 4580 5003 5896 6757
0,35 0,38 0,41 0,46 0,46 0,57 0,60 0,61 0,62 0,64 0,65 0,68 0,703
15 tuổi trở lên biết chữ (%) 79,3 80,0 80,9 81,5 82,9 82,8 83,5 84,1 85,8 90,9 90,9 90,9 90,9
Tỷ lệ người đi học (%) 55 57 58 64 69 72 73 73 64 68 69 70 69,1
111/174 108/174 108/175 106/174 98/174 99/174 87/162 96/173 104/175 94/177 85/177 81/177 81/177
0,71 0,72 0,73 0,76 0,78 0,79 0,80 0,80 0,79 0,83 0,84 0,84 0,837
0,594 0609 0,626 0,650 0,701 0,706 0,718 0,726 0,721 0,745 0,755 0,768 0,777
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Phụ lục 5: Chỉ số phát triển con người Trung Quốc thời kì 1995-2007
41
o
o
104 39' 54''
o105 34' 40''
106 29' 25''
t©y ninh
b×nh d¬ng
c a m p u c h i a
®ång nai
tp. hå chÝ minh
0,686 0,46
0,715 0,51
long an
0,79 0,81 1999
0,83 0,80 2004
0,654 0,46
0,648 0,41
0,682 0,46
0,75 0,75 1999
0,686 0,52 0,77 0,77 2004
0,684
0,78 0,76 1999
0,79 0,79 2004
0,45
0,713 0,51
an giang
o
o
®ång th¸p
tiÒn giang
0,79 0,81 1999
0,83 0,81 2004
10 16' 40''
10 16' 40''
tp. cÇn th¬
vÜnh long
0,695
0,671 0,46
0,45
0,721 0,50
0,668 0,44
0,701 0,50
0,80 0,83
0,84 0,82
bÕn tre
0,76 0,79 1999
0,720 0,58 0,79 0,79 2004
1999
2004
0,678 0,47
0,716 0,54
0,75 0,81 1999
0,83 0,77 2004
ChØ sè HDI vµ chØ sè c¸c thµnh phÇn vïng ®bscl
0,78 0,78 1999
0,81 0,80 2004
0.8
0,656 0,45
0,686 0,51
0,685 0,49
0.7
kiªn giang
0.6
trµ vinh
0,75 0,77 1999
0,78 0,78 2004
HDI_99
0,80 0,77 2004
0.5
0,655
hËu giang
GDP_Index_99
0.4
0.79
0,45
0,680 0,50
0.77
GD_Index_99
0.669
Age_Index_99
0.3
0,74 0,77
0,78 0,76
0.45
0.2
1999
2004
o
0.1
o
n¨m 1999
0.
0,698 0,55
9 22' 43"
0,649 0,43
9 22' 43"
ChØ sè hdi vµ chØ sè c¸c thµnh phÇn vïng ®bscl
0.8
0,75 0,77
0,78 0,76
0.7
1999
2004
0.6
HDI_2004
b¹c liªu
0.5
GDP_Index_04
0,680 0,46
0,718 0,55
0.8
0.4
0.79
GD_Index_04
0.702
Age_Index_04
0.3
0.52
0,77 0,81 1999
0,82 0,79 2004
0.2
0.1
n¨m 2004
0.
cµ mau
biÓn ®«ng
Chó dÉn 0,83
ChØ sè HDI ChØ sè GDP ChØ sè gi¸o dôc ChØ sè tuæi thä
o
o
o
104 39' 54''
105 34' 40''
106 29' 25''
Bar Chart of nen_TayNamBo
0,84
h×nh 2.3: b¶n ®å thÓ hiÖn chØ sè HDI c¸c tØnh, thµnh phè vïng ®ång b»ng s«ng cöu long
HDI_2004
GDP_Index_04
GD_Index_04
Age_Index_04
44
o
o
104 39' 54''
o105 34' 40''
106 29' 25''
t©y ninh
b×nh d¬ng
c a m p u c h i a
®ång nai
tp. hå chÝ minh
22,4 38,4
®ång th¸p
23,8 38,7 37,3
39,4
long an
25,3
1999
2004
23,4 38,2
22,5
37,4
38,6
37,4
38,2
21,1 40,1 39,1
38,6
1999
2004
1999
2004
23,8 38,8
21,9 38,5
tiÒn giang
37,9
39,5
an giang
o
o
1999
2004
10 16' 40''
10 16' 40''
tp. cÇn th¬
vÜnh long
bÕn tre
22,9
26,9
37,8
23,1
36,6
21,6 38,4
38,8
23,8
39,5
39,2
36,6
39,8
37,9
22,0 37,4 40,4
36,6
1999
2004
25,1
1999
2004
23,1 38,3
37,7
1999
2004
Tû träng ®ãng gãp c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè hdi vïng ®bscl
38,3
37,2
(§VT:%)
1999
2004
24,8
39.4
22,9 38,1
23,8
37,9
38,9
GDP_Index_99_%
39,1
37,4
37,5
kiªn giang
GD_Index_99_%
2004
1999
2004
hËu giang
Age_Index_99_%
24,5 38,2
22,9 37,7
trµ vinh
38.4
22.4
37,3
39,2
n¨m 1999
1999
2004
o
o
tû träng ®ãng gãp c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè HDI vïng ®bscl
sãc tr¨ng
(®vt:%)
26,3
22,1 38,5
9 22' 43"
9 22' 43"
37,2
39,5
36,3
37.5
GDP_Index_04_%
cµ mau
1999
2004
GD_Index_04_%
b¹c liªu
Age_Index_04_%
25,5
22,5 37,7
38,1
38.
24.7
36,7
39,7
n¨m 2004
1999
2004
biÓn ®«ng
Chó dÉn biÓu ®å (§VT:%) 110 55 11
Tû träng ®ãng gãp chØ sè GDP Tû träng ®ãng gãp chØ sè gi¸o dôc Tû träng ®ãng gãp chØ sè tuæi thä
o
o
o
Pie Chart of nen_TayNamBo
104 39' 54''
105 34' 40''
106 29' 25''
H×nh 2.4: b¶n ®å thÓ hiÖn tû träng ®ãng gãp cña c¸c chØ sè thµnh phÇn vµo chØ sè HDI c¸c tØnh, thµnh phè vïng ®ång b»ng s«ng cöu long
110 55 11
GDP_Index_04_%
GD_Index_04_%
Age_Index_04_%