BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------

QUÁCH THỊ SÁNG

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------

QUÁCH THỊ SÁNG

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành

: Địa lí kinh tế

Mã số

: 60.31.95

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐÀM NGUYỄN THÙY DƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

-i-

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Đàm Nguyễn Thùy Dương, người hướng dẫn khoa học-đã tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Địa lí trường Đại học sư phạm tp Hồ Chí Minh đã trang bị kiến thức và góp nhiều ý kiến quý báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin được cảm ơn BGH trường Đại học sư phạm tp Hồ Chí Minh và các phòng ban KHCN&SĐH của trường đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn Sở NN&PTNT, Trung tâm Khuyến Nông-Khuyến Ngư Kiên Giang và các ban ngành của tỉnh Kiên Giang, đã nhiệt tình giúp đỡ về thông tin, tư liệu và đóng góp ý kiến cho việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn BGH trường THPT An Minh đã giúp đở, tạo điều kiện cho tôi

trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, động viên khích lệ và tạo kiện thuận lợi cho tôi trong quá suốt quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 10 năm 2011

Tác giả luận văn

-ii-

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................... i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................................... v

DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................................. vii

DANH MỤC CÁC HÌNH .................................................................................................... ix

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. - 1 -

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................... - 1 -

2. Mục tiêu và nhiệm vụ ....................................................................................... - 2 -

2.1. Mục tiêu: .............................................................................................................. - 2 -

2.2. Nhiệm vụ: ............................................................................................................ - 2 -

2.3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. - 2 -

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ............................................................................... - 3 -

4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu ..................................................... - 4 -

4.1. Hệ quan điểm nghiên cứu: ................................................................................... - 4 -

4.2. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... - 5 -

5. Những đóng góp mới của đề tài: ...................................................................... - 5 -

6. Cấu trúc đề tài ................................................................................................... - 6 -

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP .............................................................................................................................................. - 7 -

1. Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ................................ - 7 -

1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế .................................................... - 7 -

1.1.1 Cơ cấu kinh tế ................................................................................................. - 7 -

1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ......................................................................... - 11 -

1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp- chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp .......... - 14 -

1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp ........................................................................ - 14 -

1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: .................................................. - 16 -

-iii-

1.3. Sự cần thiết và yêu cầu khách quan của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ........................................................................................ - 18 -

1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ...... - 19 -

1.5. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................................................... - 20 -

1.5.1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước - 20 -

1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................................... - 25 -

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP TỈNH KIÊN GIANG .............................................................................................................................. - 27 -

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang. .................................................................................................................. - 27 -

2.2.1. Nguồn lực tự nhiên ......................................................................................... - 27 -

2.2.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................... - 27 -

2.2.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... - 30 -

2.2.2. Nguồn lực kinh tế- xã hội ............................................................................... - 38 -

2.2.2.1. Dân số, nguồn lao động ........................................................................... - 38 -

2.2.2.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật .................................................... - 42 -

2.2.2.3. Thị trường ................................................................................................. - 47 -

2.2.2.4. Đường lối chính sách và các yếu tố khác ............................................... - 48 -

2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang ........ - 48 -

2.2.1. Tổng quan về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung ............................... - 48 -

2.2.2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp .................................................. - 53 -

2.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành ....................................................................... - 55 -

2.2.2.2 . Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp ............................................................. - 66 -

2.2.2.3 . Chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản ....................................................... - 68 -

2.2.2.4. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ ..................................... - 74 -

2.2.2.5: Hiệu quả kinh tế một số mô hình ............................................................ - 78 -

-iv-

2.3. Nhận xét chung về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kiên Giang. - 82 -

2.3.1. Kết quả đạt được ............................................................................................. - 82 -

2.3.2. Những mặt tồn tại ........................................................................................... - 83 -

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH KIÊN GIANG ................................................................................................................... - 85 -

3.1. Cơ sở định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kiên Giang đến năm 2020 ............................................................................................................................. - 85 -

3.1.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam đến năm 2020- 85 -

3.1.2. Quan điểm và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh đến năm 2020. .................................................................................................................................... - 87 -

3.1.2.1. Quan điểm phát triển ................................................................................ - 87 -

3.1.2.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển nông nghiệp ..................................... - 87 -

3.1.2.3. Mục tiêu phát triển nông nghiệp.............................................................. - 89 -

3.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 ............................................................................................................................. - 90 -

3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ......................................................... - 90 -

3.2.2. Chuyển dịch theo lãnh thổ .............................................................................. - 95 -

3.2.3 Chuyển dịch theo thành phần kinh tế ............................................................ - 97 -

3.3. Hệ thống các giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang hiệu quả hơn trong thời gian tới. .............................................................. - 97 -

3.3.1. Tổ chức, phân bố sản xuất theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến .................... - 97 -

3.3.2. Chú trọng đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản............................. - 99 -

3.3.3.Thực hiện phù hợp một số chính sách liên quan trực tiếp đến CDCCKT nông nghiệp trong thời gian tới ...................................................................................................... - 99 -

3.3.4. Đầu từ cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. ........................................... - 102 -

3.3.5. Công tác quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và hoạt động sản xuất kinh doanh ....................................................................................................................... - 103 -

3.3.6. Công tác xúc tiến thương mại và hợp tác quốc tế. ..................................... - 103 -

-v-

3.3.7. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ đạo điều hành. .......... - 104 -

3.3.8. Đề xuất giải pháp phát triển ổn định mô hình tôm - lúa ........................... - 104 -

3.3.9. Hỗ trợ nông dân tự ra quyết định phù hợp về CDCCKT và phát huy tính năng động sáng tạo, tích cực của nông dân. ............................................................................ - 105 -

KẾT LUẬN .................................................................................................................... - 106 -

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... - 108 -

-vi-

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

******

Bảo vệ thực vật BVTV

Cơ cấu kinh tế CCKT

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Chuyển dịch cơ cấu kinh tế CCKTNN CDCCKT

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa CNH - HĐH

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Công nghiệp-bán công nghiệp CN-BCN

Diện tích sản xuất DTSX

Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL

Đơn vị tính ĐVT

Đông xuân Canh tác nông nghiệp tốt Tổng sản phẩm quốc nội Gía trị sản lượng Hè thu Khoa học kỹ thuật Kế hoạch Nhà xuất bản Phát triển nông thôn Quảng canh-quảng canh cải tiến Quốc lộ Sản xuất nông nghiệp Thu đông Thành phố Hồ Chí Minh ĐX GAP GDP GTSL HT KHKT KH NXB PTNT QC+QCCT QL SXNN TĐ Tp. HCM

Thủy sản Vườn Quốc gia U Minh Thượng Xây dựng cơ bản Xã hội chủ nghĩa TS VQGUMT XDCB XHCN

-vii-

DANH MỤC BẢNG BIỂU ******

Bảng 2.1. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA KIÊN GIANG TỪ 2000 ĐẾN 2010 ................................................................................................................................... - 31 -

Bảng: 2.2 MỘT SỐ SÔNG VÀ KÊNH GẠCH CHÍNH CỦA TỈNH KIÊN GIANG - 36 -

BẢNG 2.3: DÂN SỐ VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ KIÊN GIANG NĂM 2009 ................ - 39 -

BẢNG 2.4. CƠ CẤU LAO ĐỘNG KIÊN GIANG TỪ 2001 – 2009 .......................... - 41 -

BẢNG 2.5. CƠ CẤU ( GDP) THEO NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH KIÊN GIANG TỪ 2000 - 2009 ................................................................................................................................. - 49 -

BẢNG 2.6: CƠ CẤU (GDP) CỦA TỈNH PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2004 - 2010 .......................................................................................................... - 51 -

BẢNG 2.7.CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM, THỦY SẢN KIÊN GIANG- 54 -

BẢNG 2.8. CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP CÁC NĂM 2000 - 2009 (Theo giá thực tế ) ................................................................................................... - 55 -

Bảng 2.10. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VÀ CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH TRỒNG TRỌT TỪ 2005-2010( theo giá thực tế) ......................................................................... - 58 -

BẢNG 2.12: DIỆN TÍCH-NĂNG SUẤT LÚA( 2000-2010) ....................................... - 59 -

BẢNG 2.13. CƠ CẤU DIỆN TÍCH GIEO TRỒNG LÚA TỪ 2000-2009 ................. - 60 -

Bảng 2.14: Diện tích gieo trồng cây hàng năm, lâu năm của tỉnh Kiên Giang. ........... - 61 -

BẢNG 2.15: SẢN LƯỢNG (TẤN) CÂY HOA MÀU LƯƠNG THỰC ................... - 62 -

BẢNG 2.16 : SẢN LƯỢNG MỘT SỐ CÂY CÔNG NGHIỆP CHỦ YẾU TỪ 2006 - 2009 - 63 -

BẢNG 2.17: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VÀ CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH CHĂN NUÔI TỪ 2004 - 2010 .................................................................................................... - 64 -

BẢNG 2.18: GIA SÚC, GIA CẦM VÀ SẢN PHẨM CHĂN NUÔI CỦA TỈNH ..... - 65 -

BẢNG 2.19. TRỒNG RỪNG VÀ KHAI THÁC LÂM SẢN ...................................... - 67 -

BẢNG 2.20. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH LÂM NGHIỆP ( theo giá so sánh ) ... - 68 -

-

BẢNG 2.21: CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH THỦY SẢN( theo giá hiện hành) 69 -

-viii-

BẢNG 2.22: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN KIÊN GIANG 2000-2010 ......................... - 70 -

BẢNG 2.23: XUẤT KHẨU NÔNG SẢN, THỦY SẢN KIÊN GIANG, 2000 – 2007 (000 SD) ............................................................................................................................................ - 72 -

BẢNG 2.24. CHI PHÍ SẢN XUẤT CHO MỘT VỤ NUÔI TÔM ( TÍNH CHO 1 HA), MẬT ĐỘ NUÔI 5CON/M3t ...................................................................................................... - 78 -

BẢNG.2.25. CHI PHÍ SẢN XUẤT VỤ CANH TÁC LÚA ( tính cho 01 ha) ............ - 79 -

-ix-

DANH MỤC CÁC HÌNH

*****

Hình 2.1. LƯỢC ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH KIÊN GIANG ........................................ - 29 -

HÌNH 2.2. LƯỢC ĐỒ ĐẤT TỈNH KIÊN GIANG ....................................................... - 34 -

Hình 2.3: Biểu đồ cơ cấu lao động Kiên Giang 2001-2009 ........................................... - 41 -

-

Hình 2.4 : BIỂU ĐỒ CƠ CẤU (GDP) THEO NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH 2001-2010 50 -

Hình 2.5.Biểu đồ cơ cấu (GDP) phân theo thành phần kinh tế 2004-2010 .................. - 52 -

Hình 2.6: Biểu đồ gía trị sản xuất ngành nông nghiệp .................................................. - 57 -

Hình 2.7: Cơ cấu diện tích lúa theo mùa vụ 2000-2009................................................. - 60 -

Hình 2.8: Diện tích cây công nghiệp tỉnh Kiên Giang ................................................... - 62 -

Hình 2.9: Biểu đồ cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản 2000-20009 ......................... - 70 -

Hình 2.10: Sản lượng thủy sản Kiên Giang 2001-2010 ................................................. - 72 -

Hình 2.11: Biểu đồ xuất khẩu nông sản, thủy sản Kiên Giang 2000-2007 .................. - 73 -

- 1 -

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và là một bộ

phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nhất là đối với nước ta. Tuy

nhiên, nước ta là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, vẫn còn trên 70% dân số

sống ở nông thôn và có đến 52,5% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế còn thuần

nông, năng suất khai thác từ ruộng đất và năng suất lao động còn thấp. Mặc dù nước ta có

những lợi thế, tiềm năng về khí hậu, đất đai, nguồn nước, dân cư, lao động…, nhưng nước

ta chưa khai thác sử dụng nguồn tài nguyên này một cách hợp lí và có hiệu quả. Vì vậy, vai

trò nông nghiệp chưa được phát huy.

Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững,

việc xác định và hoàn thiện một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lí phù hợp với xu hướng

phát triển chung của nền kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan mà còn có ý nghĩa

chiến lược trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước tình hình thế giới

và khu vực đang tiếp tục biến động nhanh về nhiều mặt, cạnh tranh về giá cả và chất lượng

hàng hóa đang là vấn đề cực kì quan trong có tính quyết định đến sự phát triển toàn bộ nền

kinh tế nông nghiệp của từng quốc gia.

Đối với nước ta và các nước trong khu vực có nhiều nét tương đồng nhất là thị

trường hàng nông sản có tác động trực tiếp đến hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất

nông nghiệp, do thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp và của nông dân. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

là một trong những vấn đề có ý nghỉa cấp thiết trong quá trình giải quyết những tồn tại,

thách thức đang đặt ra cho nền nông nghiệp Việt Nam trong thời kì đổi mới, thực hiện quá

trình CNH-HĐH đất nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hướng tới nâng cao hiệu quả

kinh tế, ổn định đời sống nhân dân gắn liền với đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và mọi

gia đình, là một nhu cầu bức xúc đối với kinh tế nông nghiệp trong thời điểm hiện nay của

cả nước chung và của Kiên Giang nói riêng.

Trong các tỉnh ĐBSCL, Kiên Giang được xem là tỉnh có lợi thế về sản xuất lương

thực, thực phẩm, trong thời gian qua cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng,

nhưng tốc độ chuyển dịch chậm, mức sống của người dân nông thôn trong Tỉnh chưa cao

nhất là chỉ tiêu về giáo dục, y tế chậm hơn nhiều so với các tỉnh trong vùng và cả nước. Do

đó vấn đề nhanh chóng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong địa bàn tỉnh

là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vấn đề nghiên

- 2 -

cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không mới, nhưng để nghiên cứu sâu vấn đề

này ở địa phương (tỉnh nhà) thì chưa được quan tâm sâu sắc.

Với thực tiễn nêu trên, mà chúng tôi chọn đề tài “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp tỉnh Kiên Giang ” để nghiên cứu nhằm tìm ra đâu là nguyên nhân dẫn đến cơ cấu

kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, hiệu quả chuyển dịch chưa cao để từ đó đề ra những

giải pháp thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh chuyển dịch nhanh và hiệu quả hơn

trong thời gian tới, hơn thế nữa chúng tôi mong muốn đề tài góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp

phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ

2.1. Mục tiêu:

Nghiên cứu thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên

Giang, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hợp lí nhất nhằm thúc đẩy quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững.

2.2. Nhiệm vụ:

- Đúc kết các cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng, từ đó áp dụng nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang.

- Phân tích các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang .

- Nghiên cứu thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh

trong giai đoạn 2000 – 2010.

- Trên cơ sở tìm ra những kết quả và những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp.

- Đưa ra định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến năm

2020.

2.3. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung nghiên cứu:

Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

theo nghĩa rộng ( nông nghiệp - lâm nghiệp – ngư nghiệp) - Về không gian: Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Kiên Giang là 6.222 km2, bao gồm 1 thị xã

Hà Tiên, TP Rạch Giá, và 13 huyện, trong đó có 11 huyện thuộc đất liền ( Kiên Lương, Hòn

Đất, Châu Thành, tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, Giang

Thành, U Minh Thượng) và 2 huyện đảo (Phú Quốc, Kiên Hải).

- 3 -

- Về thời gian: Phần thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được đề cập từ năm

2000 đến 2009 và đưa ra định hướng đến năm 2020 .

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Từ Đại Hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12/ 1986) đến nay,đã có một số công trình

nghiên cứu khoa học và sách xuất bản có nội dung liên quan đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp

nông thôn như:

Trương Thị Minh Sâm (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng nông

thôn ngoại thành TP Hồ Chí Minh; Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng

phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH-HĐH từ thế kỉ XX đến

thế kỉ XXI trong “ Thời đại kinh tế tri thức ”; TS. Nguyễn Thị Bích Hương (2004) chuyển

đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngoài ra còn khá nhiều tổng luận phân tích,khảo luận, bài viết tại các hội thảo khoa

học có liên quan đến các khía cạnh khác nhau đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nhìn chung các nghiên cứu này tập trung phản ánh các nội dung sau:

- Làm rõ những vấn đề lí luận về cơ cấu kinh tế nông nghiêp; tính tất yếu khách quan

của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, vai trò và nội dung của

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình chuyển từ nền nông nghiệp sản xuất

nhỏ, tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa sản xuất lớn.

- Trình bày về các nhân tố chủ quan và khách quan tác đông trực tiếp và gián tiếp đến

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò

và xu hướng tác động của khoa học và công nghệ cũng như quá trình toàn cầu hóa và khu

vực hóa.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nội dung quan trong hàng đầu trong quá trình CNH-

HĐH đất nước trước mắt và lâu dài. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trong phạm vi cả

nước nói chung của tỉnh Kiên Giang nói riêng trong thời gian qua đã đạt được một số kết

quả nhất định; Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được quan tâm nhiều hơn

ở các tỉnh ĐBSCL, nhằm gia tăng hiệu quả sản xuất xóa bỏ tính chất thuần nông tiến lên

phát triển những mô hình sản xuất đa dạng nhằm sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên

nhiên, nguồn lao động,thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và nâng cao đời sống nhân

dân.

“Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp- nông thôn vùng ĐBSCL” do trung tâm nghiên

cứu kinh tế miền nam thực hiện năm 2000. Tác giả Nguyễn Thị Minh Châu (2004) với bài

viết “ Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ĐBSCL” những năm đầu thế

- 4 -

kỉ XXI đã đi sâu phân tích các yếu tố tác động đến phát triển về chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp- nông thôn và những vấn đề cấp bách đang đặt ra.

4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu

4.1. Hệ quan điểm nghiên cứu:

Quan điểm hệ thống

Địa lí kinh tế học nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất trong một hệ thống các

mối quan hệ tác động qua lại với nhau; tác động giữa các nhân tố của một hệ thống và giữa

các hệ thống với nhau để đánh giá chính xác vấn đề cần ngiên cứu.

Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Mọi sự vật và hiện tượng địa lí đều tồn tại và phát triển trong một không gian lãnh

thổ nhất định. Khoa học địa lí tìm ra sự phân hóa của các sự vật hiện tượng và dự kiến sự

phân bố của chúng trong không gian.

Cơ cấu lãnh thổ Kiên Giang coi như một thể tổng hợp tương đối hoàn chĩnh, trong đó có các

yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động chi phối lẫn nhau; giải

quyết mối quan hệ giữa sự phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu với việc nâng cao chất lượng

cuộc sống và bảo vệ môi trường… Do vậy, cần phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển

dịch kinh tế trên địa bàn tỉnh.Từ đó đưa ra những định hướng phát triển có tính tổng hợp

nhằm khai thác tốt nhất những tìm năng.

Quan điểm lịch sử viễn cảnh

Cơ cấu kinh tế, quá trình chuyển dịch kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kì nhằm

đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kì đó.Việc vận dụng quan điểm lịch sử vào việc nghiên

cứu đề tài để thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế qua từng giai đoạn phát triển

của lịch sử địa phương trong quá khứ, hiện tại, từ đó đánh giá chính xác các triển vọng phát

triển của các ngành kinh tế trên địa bàn trong tương lai.

Quan điểm sinh thái và phát triển nông nghiệp bền vững

Tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp phải được xem xét theo không gian và

thời gian. Tức là phải xem xét các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của phát triển nông

nghiệp đến các thành phần cấu thành của hệ sinh thái nông nghiệp cũng như các sinh thái

khác theo mức độ không gian, hệ sinh thái luôn biến đổi theo thời gian. Do vậy khi nói đến

hệ thống nông nghiệp bền vững cũng phải nói đến những biến đổi có thể xảy ra trong hệ

sinh thái nông nghiệp, từ đó các hoạt động con người phải được điều chỉnh thích hợp theo

thời gian, đảm bảo tính bền vững lâu dài của nó. Khi chuyển dich

- 5 -

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin làm phương pháp nghiên cứu

chung kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu riêng phối hợp với từng nội dung tính

chất, đặc điểm yêu cầu phân tích từng phần của luân văn. Đồng thời bám sát đường lối đổi

mới của Đảng - Nhà nước.Trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp. Ngoài ra sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:

-Phương pháp thống kê miêu tả, so sánh, đối chiếu và qui nạp được sử dụng có thể

đưa ra một cái nhìn tổng quát, sát thực và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác

động, các kết quả và hiệu quả kinh tế xã hội do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp mang lại.

- Phương pháp phân tích hệ thống

Thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kiên Giang được nhận biết thông qua phân tích các

mối quan hệ về không gian, thời gian về các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế .

- Phương pháp thu thập tài liệu

Để phân tích đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành, theo

lãnh thổ để rút ra bản chấn của hiện tượng kinh tế, hiện tượng địa lí để giải quyết vấn đề

chúng ta tiến hành thu thập số liệu, tư liệu từ các báo cáo của ác bộ ngành và từ các công

trình nghiên cứu khoa học có liên quan đã công bố.

- Phương pháp bản đồ, biểu đồ

Dùng để mô tả hiện trang kinh tế sự phân bố các hiện tượng địa lí kinh tế các mối quan hệ

lãnh thổ, trong không gian, những dự kiến phát triển kinh tế.

- Phương pháp thực địa

Khảo sát một số huyện trong tỉnh để kiểm định các thông tin từ số liệu thu thập được, đồng

thời nhằm phát hiện những điểm mới so với số liệu ban đầu.

5. Những đóng góp mới của đề tài:

- Dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình đã nghiên cứu và công bố của

một số tác giả nói trên nhằm làm rõ những vấn đề lí luận, thực tiển chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp và vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Kiên Giang.

- Phân tích các nhân tố tự nhiên, kinh tế xã hội đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp của tỉnh và thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhìn dưới

góc độ địa lí kinh tế xã hội.

- Đưa ra định hướng, đề xuất giải pháp thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp của

tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh trong

thời gian tới.

- 6 -

6. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội

dung luận văn gồm có ba chương:

Chương 1: Cơ Sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Chương 2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Kiên Giang.

Chương 3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang

- 7 -

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

1. Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

1.1.1 Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu là tập hợp những quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố

cấu thành nên hệ thống trong một thời gian nhất định. Như mọi sự vật, hiện tượng, cơ cấu

của hệ thống chuyển đổi và biến động không ngừng, nó có thể phát triển một cách tuần tự

hoặc không tuần tự. Sự thay đổi của cơ cấu sẽ làm cho tính chất, trình độ của hệ thống thay

đổi theo. Theo lí thuyết hệ thống, cơ cấu được hiểu là một thực thể gồm nhiều phần tử khác

nhau: có cấu trúc và được cấu trúc theo những kiểu nhất định. Một hệ thống sẽ bao gồm

những thành tố (phần tử) là những hệ thống con, mỗi hệ thống con này lại là tập hợp của

những hệ thống nhỏ hơn. Mỗi hệ thống đều tồn tại và phát triển trong mối quan hệ mật thiết

với các hệ thống khác cùng cấp, đồng thời với các phần tử trong mỗi hệ thống cùng tồn tại

và phát triển cùng nhau tạo nên sự phát triển chung cho cả hệ thống.

Theo quan điểm duy vật biện chứng và lí thuyết hệ thống, ta có thể hiểu:

“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố kinh tế có mối liên hệ và tác động qua lại lẫn

nhau cả về số lượng và chất lượng của nền kinh tế quốc dân với sự vận động không ngừng

nhằm vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ

cấu xã hội và chế độ xã hội”

Như vậy cơ cấu kinh tế hay hệ thống kinh tế là tổng thể hợp thành bởi nhiều phần tử,

thành phần của nền kinh tế. Nó biểu thị nội dung, cách thức cấu trúc của các phần tử mà

giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng

trong những không gian và điều kiện lịch sử kinh tế xã hội, chúng vận động hướng vào

những mục tiêu nhất định.

Đặc trưng của cơ cấu kinh tế

+ Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn phản ánh và chịu sự tác động của qui

luật khách quan.

Thông qua nhận thức của các qui luật khách quan, có thể phân tích, đánh giá xu

hướng phát triển khác nhau hoặc những mâu thuẫn của cơ cấu kinh tế,…Từ đó tìm ra

phương án thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương trong

quá trình phát triển nền kinh tế. Với một lãnh thổ (vùng, tỉnh,…hay quốc gia) hay một

ngành, cơ cấu kinh tế được nhận thức và phản ánh qua các chiến lược phát triển kinh tế xã

- 8 -

hội, định hướng phát triển hoặc trong các công trình dự án, kế hoạch phát triển của nhà

nước, địa phương hoặc nền kinh tế nào đó, …

+ Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử

Nền kinh tế chỉ phát triển được khi đã xác định được mối quan hệ cân đối giữa các

bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội trong những điều

kiện lịch sử cụ thể. Coq cấu kinh tế luôn gắn liền với sự biến đổi không ngừng của từng yếu

tố, các phần tử trong nền kinh tế. Chính vì vậy mà cơ cấu kinh tế không phải là bất biến mà

nó có thể thay đổi. Nó chỉ phù hợp ở giai đoạn lịch sử này mà không phù hợp với những

giai đoạn lịch sử khác.

+ Cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lí, hoàn thiện và đạt hiệu

quả cao hơn.

Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng

cao hơn, phạm vi hoạt động ngày càng đưoực mở rộng. Khoa học kĩ thuật của xã hội ngày

càng tiến bộ làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của lực lượng sản xuất có sự biến đổi về

chất, điều đó sẽ tạo điều kiện cho việc hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lí ở từng thời

kì lịch sử xã hội cụ thể. Cơ cấu kinh tế hợp lí phải là cơ cấu phù hợp với điều kiện thực tế

của lãnh thổ và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường cao nhất, tạo nên sự phát triển

bền vững cho nền kinh tế.

+ Cơ cấu kinh tế luôn vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự hợp

tác phân công lao động trong nươc svaf quốc tế

Sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật đã đặt các quốc gia trên thế giới vào

tình thế: muốn phát triển cần phải mở rộng mối quan hệ kinh tế xã hội với nhiều nước trên

thế giới. Cơ cấu kinh tế luôn chịu sự ảnh hưởng, tác động của khoa học kĩ thuật nên sự vận

động tất yếu của nó là mở rộng sự hợp tác và phân công lao động diễn ta không chỉ ở phạm

vi mỗi ngành mỗi vùng mỗi quốc gia mà phải mở rộng ra các nước trong khu vực và trên

thế giới. Mỗi quốc gia phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lí dựa trên những lợi thế có sẵn

của mình, phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế. Tóm lại, cơ cấu kinh tế là thuộc

tính có ý nghĩa quyết định của nền kinh tế, nó phản ánh tính chất và trình độ phát triển của

nền kinh tế, nó phản ánh số lượng và chất lượng của các phân tử hợp thành trong mối quan

hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hệ thống kinh tế vận động và phát triển không ngừng.

Hiện nay, việc lựa chọn và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí là một yêu cầu có ý nghĩa

rất quan trọng và cần thiết để đảm bảo sự thành công của các mục tiêu chiến lược của Việt

Nam trong giai đoạn tới. Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiện thành công quá trình

- 9 -

CNH – HĐH của nước ta trong điều kiện nền kinh tế đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới

cả chiều sâu lẫn chiều rộng.

Nội dung của cơ cấu kinh tế

Về cơ bản, cơ cấu kinh tế bao gồm:

- Cơ cấu kinh tế ngành( xét dưới góc độ phân công lao động xã hội theo ngành).

- Cơ cấu kinh tế lãnh thổ(xét dưới góc độ phân công lao động xã hội theo vùng lãnh thổ).

Cơ cấu thành phần kinh tế(xét dưới góc độ phân công theo quan hệ sở hữu).

Ngoài ra, cơ cấu kinh tế có thể được xét dưới những góc độ khác nhau, nhưng nội

dung trên đây là cách tiếp cận được chấp nhận phổ biến nhất.

a. Cơ cấu ngành của nền kinh tế(Cơ cấu kinh tế ngành)

Cơ cấu ngành của nền kinh tế là biểu hiện quan trọng nhất và đặc trưng nhất của cơ

cấu kinh tế. Nó là tổ hợp các ngành, các tương quan tỉ lệ biểu hiện mối quan hệ giữa các

ngành, nhóm ngành tạo nên nền kinh tế quốc dân. Đây là kết quả của sự phân công lao động

theo ngành, phản ánh trình độ phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của nền kinh

tế. Cơ cấu ngành của nền kinh tế thường được xét dưới các góc độ sau:

- Cơ cấu theo ba nhóm ngành lớn: Mỗi nhóm ngành bao gồm nhiều ngành có dặc tính

kinh tế và kỹ thuật giống nhau. Nhóm ngành nông - lâm - thủy sản gồm các ngành trồng

trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản; nhóm ngành công nghiệp – xây dựng gồm các

ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp kỹ thuật, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và

xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu, ngành xây dựng; nhóm ngành dịch vụ gồm thương mại , du

lịch, giao thông vận tải, tài chính – ngân hàng, bưu điện và các ngành dịch vụ khác.

- Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức và công nghệ sản xuất: nông

nghiệp và phi ngông nghiệp.

Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và

thủy sản.

Nhóm ngành phi nông nghiệp gồm: các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

Các ngành nông nghiệp thường có phương thức sản xuất đơn giản và công nghệ tạo

ra sản phẩm không cao, còn các ngành phi nông nghiệp thì ngược lại. Do đó, trong một nền

kinh tế, nhóm ngành phi ngông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn và ngày càng phát triển thì nền

kinh tế đó càng phát triển ở trình độ cao, thường phổ biến nhất ở các nước phát triển. Còn

các nước đang phát triển trên thế giới, ngành nông nghiệp thường chiếm tỉ lệ lớn biểu hiện ở

những nước này công nghiệp sản xuất không cao.

- Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng, gồm: ngành sản

xuất vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ. Giữa 2 nhóm ngành này có mối

- 10 -

quan hệ khăng khít với nhau theo một tương quan nhất định dựa trên khả năng đóng góp

vào sự tăng trưởng của nền kinh tế của mỗi nhóm ngành. Các ngành dịch vụ phải tăng

nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. Khi phân tích cơ cấu kinh tế nhằm phát huy một

cách toàn diện giữa 2 nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ làm cho nền kinh

tế có sức mạnh tổng hợp, có sự cân đối giữa đầu vào( sản xuất) và đầu ra( tiêu thụ) thì cần

phải nghiên cứu kỹ lưỡng cơ cấu giữa 2 nhóm ngành này.

Cơ cấu giữa các nhóm ngành kinh tế phản ánh tương quan tỉ lệ, vai trò, vị trí của mỗi

nhóm ngành và liên hệ giữa chúng trong nền kinh tế. Nó phản ánh trình độ phân công lao

động xã hội theo ngành ở cấp cao nhất, trình độ phát của sức sản xuất. Hiện nay, sự thay đổi

mạnh mẽ, nhanh chóng cơ cấu kinh tế ngành là yêu cầu đặc trưng của các nước đang phát

triển, nhất là những quốc gia đang thực hiện quá trình CNH-HĐH. Khi phân tích cơ cấu

ngành kinh tế của nền kinh tế thường đứng trên các góc độ định lượng và định tính. Về mặt

định lượng, cơ cấu nghành kinh tế bao gồm số lượng ngành kinh tế và tỉ trọng của từng

ngành trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân. Về mặt định tính, cơ cấu kinh tế ngành thể

hiện mối quan hệ giữa các ngành về vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân.

Việc xác định cơ cấu kinh tế ngành như thế nào là hợp lí nhằm khai thác có hiệu quả

những lợi thế của đất nước, của địa phương, tăng khả năng đóng góp cao nhất của từng

ngành kinh tế trong việc tăng số lượng và chất lượng sản phẩm, đảm bảo sự tăng trưởng và

phát triển bền vững của nền kinh tế trong hiện tại và tương lai.

b. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ (cơ cấu lãnh thổ)

Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ (cơ cấu lãnh thổ) là biểu hiện vật chất cụ thể của việc

phân công lao động và chuyên môn hóa hóa sản xuất theo lãnh thổ trong quá trình phát triển

của nền kinh tế.

Sự hình thành và phát triển kinh tế theo lãnh thổ dựa vào nhiều yếu tố, trong đó

ngành gắn liền với sự hình thành, phân bố dân cư và lao động; dựa vào lợi thế về tài nguyên

thiên nhiên, về những yếu tố nhân văn, cơ sở vật chất kĩ thuật – cơ sở hạ tầng,…thường

được ưu tiên phát triển trước.

Việc xác định cơ cấu lãnh thổ hợp lí nhằm xóa bỏ sự phát triển manh mún, nhỏ lẻ

không đồng đều của nền kinh tế trên các lãnh thổ, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành

kinh tế lãnh thổ, sử dụng một cách có hiệu quả tiềm năng của mỗi lãnh thổ, đảm bảo sự phát

triển bền vững và ổn định về kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên. Sự phát triển kinh tế

theo lãnh thổ sẽ thúc đẩy các vùng kinh tế phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng công

nghiệp hóa, mỗi vùng với thế mạnh riêng của mình sẽ trở thành những hạt nhân thúc đẩy sự

phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội đất nước.

- 11 -

Khi phân tích cơ cấu kinh tế lãnh thổ, người ta thường xem xét nó dưới các góc độ:

- Các vùng kinh tế: người ta thường phải chia lãnh thổ của quốc gia thành những

vùng kinh tế có qui mô lớn (dựa vào những tiêu chí nhất định để xác định) để hoạch định

chiến lược và chính sách phát triển phù hợp. Chúng có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nên

khung sườn để các tỉnh trong vùng hoạch định phương hướng phát triển riêng cho mình.

- Khu vực thành thị - nông thôn: đặc trưng cơ cấu ngành và tổ chức sản xuất của 2

lãnh thổ này khác nhau tạo nên sự phát triển hài hòa, hợp lí giữa khu vực thành thị và nông

thôn về kinh tế sẽ đem lại những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương nói riêng và đất nước nói chung.

- Ngoài ra, còn những cơ cấu lãnh thổ khác như: giữa lãnh thổ phát triển và lãnh thổ

châm phát triển, giữa lãnh thổ động lực và các lãnh thổ còn lại,…Những lãnh thổ này cần

được phân tích và xem xét nhằm tìm ra những cách thức phát triển cho mỗi lãnh thổ, tạo nên

sự phát triển hài hòa giữa các lãnh thổ.

c. Cơ cấu thành phần kinh tế

Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất là căn cứ hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Khi

đó, cơ cấu kinh tế là tập hợp của các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập

thể, kinh tế tư nhân,…Một nền kinh tế có thành phần kinh tế hợp lí là phải dựa trên cơ sở hệ

thống, tổ chức với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,

thúc đẩy phân công lao động xã hội lên các quân hệ sản xuất làm biến đổi các hiện tượng và

quá trình phát triển kinh tế của từng lãnh thổ và cả nước.

Giữa cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế luôn có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể chuyển dịch đúng,

hợp lí trên một phạm vi không gian lãnh thổ nhất định, hoặc việc phân bố không gian lãnh

thổ một cách hợp lí có ý nghĩa thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế.

1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Quan niệm bản chất và đặc trưng

Các yếu tố tạo nên cơ cấu kinh tế thường thay đổi theo thời gian nên cơ cấu kinh tế

cũng sẽ thay đổi theo từng thời kì khác nhau của quá trình phát triển. Quá trinh thay đổi cơ

cấu kinh tế này gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hay nói cách khác, “ sự thay đổi cơ cấu

kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được

gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế”.

Theo quan điểm kinh tế hệ thống nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp và

năng động gồm nhiều yếu tố có bản chất khác nhau, hoạt động theo qui luật khác nhau, tác

động qua lại với nhau, cùng vận động và phát triển để hình thành một cơ cấu kinh tế nhất

- 12 -

định cho từng giai đoạn. Vì vậy, cơ cấu kinh tế mang tính khách quan bởi nó phản ánh sự

vận động của các qui luật phát triển khách quan. Các yếu tố chủ quan sẽ có vai trò trong

việc xác định cơ cấu là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những qui luật đó để phân

tích, đánh giá những xu thế phát triển khác nhau, từ đó tìm ra những phương hướng phản

ánh thay đổi cơ cấu có hiệu quả nhất cho điều kiện cụ thể của từng lãnh thổ ( địa phương,

quốc gia,…)

Cơ cấu của mỗi nền kinh tế có sự khác nhau qua từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử,

chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Dù trong thời gian nào,

dưới hình thái xã hội nào thì nền kinh tế cũng chỉ được giữa những bộ phận của quá trình tái

sản xuất xã hội xác lập được những điều kiện kinh tế xã hội quy định. Sự tất yếu phân công

lao động theo những tỉ lệ nhất định không thể bị triệt tiêu bởi một hình thái nhất định nào đó

của xã hội, chỉ có hình thái biểu hiện của nó có thể thay đổi ( Các Mác). Do đó, trong quá

trình đổi mới nền kinh tế nếu không có sự chuyển biến đáng kể tỉ lệ giữa các khu vực kinh

tế theo cơ cấu tiến bộ, hợp lý sẽ không có sự phát triển ổn định và lâu dài cho nền kinh tế

đó.

Như vậy, trong mỗi giai đoạn phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất

sẽ xuất hiện khả năng hình thành một cơ cấu kinh tế phù hợp ứng với giai đoạn đó. Nếu sự

phát triển kinh tế không tương ứng với điều kiện hiện có và những qui luật khách quan của

quá trình phát triển sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển. Còn nếu cơ cấu kinh tế phù

hợp với điều kiện hiện có của lảnh thổ và qui luật khách quan thì nền kinh tế sẽ phát triển

thuận lợi. Vì thế, việc xác định được một cơ cấu kinh tế đúng đắn trong thời điểm hiện tại

và mô hình cơ cấu kinh tế trong tương lai – sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - sẽ tạo nên tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao và bền vững cho quá trình phát triển kinh tế cho đất nước hoặc các

vùng lãnh thổ khác nhau.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn phải dựa trên cơ cấu kinh tế hiện tại đang có của

lãnh thổ bằng cách cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu, không phù hợp với điều kiện hiện có để xây

dựng một cơ cấu kinh tế tiên tiến, hiện đại và phù hợp hơn.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình có chủ đích nhằm thúc đẩy sự

phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định. Đây là một quá trình nhằm tích lũy về lượng

để dẩn đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu chuyển dịch theo những yêu cầu và phương hướng tiến bộ hơn và có tính qui luật

trong điều kiện cụ thể:

- Tỉ trọng ngành công nghiệp- dịch vụ tăng, tỉ trọng nông nghiệp giảm trong nền kinh

tế. Những ngành có sử dụng công nghệ cao, năng xuất lao động lớn sẽ tăng còn

- 13 -

những ngành ít sử dụng công nghệ hiện đại, năng suất thấp sẽ có xu hướng ngày càng

giảm đi.

- Cơ cấu thành phần kinh tế cũng có diễn biến đồng thời, tỉ trọng trong bộ phận kinh tế

tư nhân ngày càng tăng, tỉ trọng kinh tế nhà nước giảm tương đối, song vai trò chủ

đạo và then chốt của nó có thể thay đổi. Các hình thức kinh tế hổn hợp có thể phát

triển(cổ phần, liên doanh)…

- Cơ cấu kinh tế có thể thay đổi từ đơn giản đến phức tạp nhằm đem lại những lợi ích

lớn hơn cho nhu cầu của con người ở mỗi thời kỳ khác nhau.

Cơ cấu kinh tế có những biến đổi, nhưng mức độ tính phức tạp bởi sự phát triển không

nhịp nhàng giữa các ngành, các lãnh thổ và thành phần kinh tế chịu sự chi phối của nhiều

yếu tố khác nhau. Dù có sự biến đổi nhưng nếu cơ cấu kinh tế còn thích ứng với điều kiện

(tự nhiên, kinh tế - xã hội) của lãnh thổ, chưa gây trở ngại cho sự phát triển của từng thành

tố và cả hệ thống nền kinh tế thì chưa cần phải xác định lại cơ cấu kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ diễn ra khi:

- Có sự thay đổi về điều kiện phát triển ( Vốn, kĩ thuật, thị trường, nguyên liệu, lao

động,…)

- Có những khả năng và biện pháp mới làm thay đổi phương thức khai thác các điều

kiện hiện tại.

- Sự phát triển mối quan hệ giữa các bộ phận của cơ cấu kinh tế có những trở ngại dẫn

đến cản trở lẩn nhau và làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế.

Thực tế trên thế giới, những quốc gia muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu có thể khai

thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực, các lợi thế cũng như đảm bảo nền kinh tế phát triển

với nhịp độ cao và ổn định, thỏa mản được các nhu cầu của đời sống sản xuất và sinh hoạt

của xã hội thì phải xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý, các ngành kinh tế quốc dân phải

được trang bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến…. Quá trình này gắn bó mật

thiết với quá trình công nghiệp hóa. Hay nói cách khác, muốn có sự chuyển dịch cơ cấu

kinh tế thì phải tiến hành công nghiệp hóa, quá trình công nghiệp hóa càng được đẩy mạnh

thì cơ cấu kinh tế càng chuyển dịch mạnh mẽ tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, giúp khai

thác hợp lý và tối ưu các nguồn lực của lãnh thổ.

Hiện nay trên thế giới đang diển ra 2 xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

- Chuyển từ kinh tế sản xuất vận chất sang khu vực dịch vụ ( ở các nước phát triển),

- Chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất: Tăng tỉ

trọng công nghiệp – xây dựng, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Thường diển ra phổ biến ở

các nước đang phát triển. Ở một số nước đang phát triển, do ảnh hưởng của xu hương

- 14 -

quốc tế hóa nền kinh tế và ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại nên

đã thực hiện cùng một lúc 2 bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

- chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất và quan

hệ sản xuất, phải đảm bảo kết quả trước mắt và lâu dài, giữa hiệu quả cục bộ và hiệu

quả toàn bộ, đem lại lợi ích cho nhiều người và cho xã hội, đảm bảo tăng cường tính

tự chủ của nền kinh tế và an ninh quốc gia.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng về qui mô,

chất lượng, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững dựa trên cơ sở sử dụng có

hiệu quả các lợi thế so sánh , hội nhập nền kinh tế thế giới, những tiến bộ khoa học

kỹ thuật…

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể diển ra một cách tuẩn tự hoặc có thể diển ra một

cách đột biến hay nhảy vọt.

1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp- chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất vận chất ra đời sớm nhất trong hệ thống các ngành

kinh tế quốc dân của xã hội. Đây là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu

kinh tế và có ý nghĩa mang tính quyết định sự ổn định sự phát triển kinh tế xã hội của

mỗi quốc gia.

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế bao gồm các quan hệ tương tác giữa các

yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp trong khoảng

thời gian và điều kiện cụ thể nhất định ( tự nhiên, khoa học tự nhiên, trình độ phân công lao

động, kỹ thuật và trình độ tổ chức, quản lý,…) nó được biểu hiện bằng sự tương quan về số

lượng và chất lượng của mối quan hệ trên.

Cơ cấu nông nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: cơ cấu ngành, cơ cấu lao động,

cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ….Các bộ phận này có mối quan hệ tương tác

lẩn nhau. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các mối quan hệ hữu cơ giữa

các bộ phận trong nông nghiệp sẽ thay đổi dẫn đến tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự

phân công lao động xã hội và hình thành các tổ chức sản xuất mới.

Theo Lê Đình Thắng 1998 “ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một tổng thể

các mối quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn, nó có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với

nhau theo những tỹ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất, các bộ

- 15 -

phận kinh tế tác động qua lại lẩn nhau trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp

với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao”.

Đặc trưng của cơ cấu nông nghiệp

Cơ cấu nông nghiệp luôn biến động theo thời gian và không gian cho phù hợp với

những điều kiện cụ thể và những yêu cầu trong từng thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, do

nông nghiệp có những đặc thù riêng nên nó cũng tạo nên cơ cấu nông nghiệp có những

đặc trưng riêng:

- Mang tính khách quan và được hình thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và

phân công lao động xã hội.

- Mang tính lịch sử - xã hội, do đó cơ cấu nông nghiệp không bất biến mà luôn biến

đổi để phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội, với sự phát triển của khoa học kỹ

thuật, với những yêu cầu nhất định của xã hội…

- Cơ cấu nông nghiệp là một hệ thống mở có mối quan hệ tác động qua lại với hệ

thống khác và mối quan hệ càng được mở rộng trong quá trình phân công và hợp tác

lao động.

Các khía cạnh biểu hiện của cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một phạm trù kinh tế nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của

nhiều lĩnh vực khác nhau trong ngành kinh tế nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp bao gồm chủ

yếu: cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo lãnh thổ và thành phần kinh tế.

Cơ cấu nông nghiệp theo ngành

Đây là nội dung quan trọng nhất của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nó phản ảnh số

lượng, vị trí, tỉ trọng các bộ phận cấu thành nên ngành kinh tế nông nghiệp.

Theo nghĩa hẹp, nông nghiệp chỉ bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông

nghiệp, còn theo nghĩa rộng còn bao gồm lâm- thủy sản nữa. Trong đó, nông nghiệp bao

gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp; lâm nghiệp bao gồm trồng, khai thác

rừng và dịch vụ lâm nghiệp, thủy sản bao gồm đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và dịch vụ thủy

sản.

Cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ

Đây là cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỉ trọng của các đơn vị lãnh

thổ nông nghiệp trong nền kinh tế nông nghiệp, đồng thời có thể phản ánh tiềm năng kinh tế

xã hội và khả năng khai thác các tiềm năng đó cho những mục tiêu phát triển nông nghiệp

nhất định của các lãnh thổ.

Cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ được hình thành dựa vào sự bố trí không gian sản

xuất nông nghiệp trên các vùng lãnh thổ và gắn bó chặt chẽ với cơ cấu kinh tế nông nghiệp

- 16 -

theo ngành trong một thể thống nhất, nó biểu hiện sự phân công lao động trong nông nghiệp

trên lãnh thổ nhất định. Căn cứ để xây dựng nên những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp khác

nhau chính là sự khác biệt giữa các lãnh thổ về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và

điều kiện kinh tế xã hội ( dân cư, lao động, nhu cầu thị trường, cơ sở vật chất kĩ thuật…)

Các đơn vị lãnh thổ nông nghiệp này tuy có sự khác biệt với nhau song giữa chúng lại tồn

tại mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau – đó là cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế

Đây là cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỷ trọng của các thành phần

kinh tế tạo thành nền kinh tế nông nghiệp. Nó được hình thành dựa trên cơ sở là chế độ sở

hữu tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế nhà nước ( trung ương, địa phương), kinh tế ngoài nhà

nước ( kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, cá thể…) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài.

1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình thay đổi các yếu tố và mối quan

hệ giữa các yếu tố, cấu trúc lên cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp là chuyển dịch cả về số lượng, cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành

phần kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp,…

- Chuyển dịch cơ cấu ngành: là sự thay đổi tỉ trọng giữa các ngành, nhóm ngành trong cơ

cấu kinh tế nông nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung hiện

nay là chuyển từ nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, manh mún, năng suất thấp sang một nền

nông nghiệp hàng hóa, thâm canh, đa dạng hóa sản phẩm và đặc biệt là tạo ra nhiều sản

phẩm có giá trị xuất khẩu cao.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo lãnh thổ, biểu hiện ở chỗ hình thành nên

những vùng sản xuất mang tính chuyên môn hóa có sự ổn định về sản xuất, quy mô và đảm

bảo chất lượng sản phẩm đồng thời đảm bảo những yêu cầu về mặt tạo ra việc làm, nâng thu

nhập cho người lao động, khai thác và sử dụng hợp lí và hiệu quả các tài nguyên và điều

kiện cho sự phát triển nông nghiệp của lãnh thổ.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế diễn ra do sự tác động

của các nhân tố kinh tế xã hội khác nhau trong đóchủ yếu là do định hướng về mặt công tác

xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp cũng giống như các thành

phần kinh tế tham gia vào các hoạt động kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân: kinh tế tư

nhân, kinh tế nước ngoài,…

Hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các quốc gia đang phát triển

trên thế giới và khu vực( bao gồm cả Việt Nam), thường lấy quá trình CNH – HĐH làm

- 17 -

trung tâm, tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các quốc gia này như

sau:

- Tăng giá trị hàng hóa nhưng vẫn phải bảo đảm an ninh lương thực cho quốc gia, tạo nên sự

ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nền nông nghiệp đó phải là nền nông nghiệp đa

dạng hóa cây trồng vật nuôi, tập trung sản xuất hàng hóa để tạo ra thu nhập cao, tạo ra sự

thay đổi về tỉ trọng giữa các ngành nông nghiệp: các cây hàng hóa, chăn nuôi, thủy sản sẽ

tăng dần tỉ trọng; còn cây lương thực sẽ giảm tỉ trọng nhưng vẫn phải đảm bảo đáp ứng đủ

nhu cầu cho nhân dân trong nướ( an ninh lương thực) và cho chăn nuôi phát triển.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra theo hướng chuyên môn hóa và đa dạng

hóa:

Đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp nhằm tạo nên tính mềm dẻo cho nông nghiệp. Có

thể tạo sự đa dạng hóa của cả nước qua sự chuyên môn hóa vùng. Tuy nhiên, chuyen môn

hóa vùng chỉ có thể đạt được khi có sự tổ chức chặt chẽ trong các ngành chuyên môn hóa

của vùng nhưng nó lại không thể tiến hành được ở tất cả các vùng sinh thái khác nhau.

Do vậy, trong một vùng cần phải đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp để phát triển nền

sản xuất hàng hóa từ tình trạng tự cung, tự cấp. Quá trình này có thể trãi qua 3 giai đoạn:

- Sản xuất tự cấp, độc canh một hay vài loại cây lương thực phục vụ cho nhu cầu tại chỗ.

- Chuyển sang canh tác đa dạng và đa canh: ngoài cây lương thực kết hợp trồng thêm

những loại cây trồng có giá trị hàng hóa: rau, quả, cây nông nghiệp, chăn nuôi,…

- Chuyển sang chuyên hóa một sản phẩm nông nghiệp chính, đầu tư giống, kỹ thuật

nhằm tăng năng suất, lấy mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận kinh tế.

Đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp khác nhau là đa dạng hóa ngang.

Đa dạng hóa dọc của một ngành là việc phát triển nó gắn liền với công nghiệp chế biến và

lưu thông để nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm.

Đa dạng hóa cấp vùng có thể coi là một trung gian để tiến tới chuyên môn hóa cấp vùng dựa

trên sự phát triển của công nghệ và tổ chức sản xuất, thị trường theo kiểu hệ thống nông –

công nghiệp( hay vùng chuyên môn hóa công nghiệp nhỏ).

- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo xu hướng, chức năng thương mại

của nông nghiệp. Thực tế ta thấy: ngoài chức năng kinh tế nông nghiệp còn đảm nhận thêm

một chức năng quan trọng – đảm bảo an ninh lương thực, duy trì văn hóa, cảnh quang môi

trường,…nhiều nước trên thế giới( các nước phát triển) do quá chú ý đến phương diện kinh

tế của nông nghiệp mà đã phải trả giá cho việc khai thác quá mức dẫn đến sự suy thoái khó

phục hồi của các tiềm năng phát triển nông nghiệp( đất đai, nguồn nước, sinh vật,…). Do

vậy các nước đang phát triển như chúng ta đi sau phải hết sức thận trọng trong việc phát

- 18 -

triển nông nghiệp, tránh sai lầm bằng cách phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp cần phải chú ý tới sự cân bằng giữa các vai trò kinh tế và phi kinh tế của nhà

nước, nhằm tạo nên sự phát triển lâu dài cho nền kinh tế này.

1.3. Sự cần thiết và yêu cầu khách quan của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

trong nền kinh tế quốc dân

Chuyển dịch CCKT nông nghiệp được coi như một bộ phận cấu thành trong chiến

lược kinh tế - xã hội quốc gia, bởi lẽ, để triển khai công cuộc CNH, HĐH đất nước, trước

hết phải thực hiện CNH, HĐH nền nông nghiệp (Thông báo Hội nghị Trung ương lần thứ

10 khóa VIII) mà trong đó, nội dung cốt lõi của bước đi ban đầu là chuyển dịch CCKT

nông nghiệp và xây dựng nông thôn kiểu mới.

Chuyển dịch CCKT nông nghiệp sở dĩ đang là một đòi bức xúc bởi việc thực hiện

CNH, HĐH nước ta đang xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp với gần 80% dân cư lao

động nông nghiệp là lực lượng sản xuất vốn dĩ lạc hậu. Đặc trưng này cũng phản ánh tính

khó khăn phức tạp của quá trình chuyển đổi đó, vì đây cũng xem như xác lập lại trật tự kinh

tế mới trong nông nghiệp. Mặt khác, chuyển dịch CCKT nông nghiệp và xây dựng nông

thôn mới là một tiến trình đồng bộ bao gồm: Chuyển dịch CCKT ngành nông nghiệp, cơ

cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế trong nông nghiệp, đồng thời với việc hình

thành các loại hình kinh tế mới ở nông thôn theo cơ chế kinh tế thị trường.

Quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình

CNH, HĐH đất nước, vì nó là nhân tố tạo thế ổn định cho quá trình đó. Chuyển dịch CCKT

nông nghiệp cũng là quá trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo và đi xa hơn nữa, đây

là giải pháp tốt ưu làm giảm sự cách biệt về đời sống kinh tế, văn hóa, dân trí giữa thành thị

và nông thôn để tiến tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh.

Chuyển dịch CCKT là một bộ phận hữu cơ của quá trình chuyển dịch CCKT quốc

dân theo hướng CNH, HĐH của đất nước. Do đó, khi nghiên cứu vấn đề chuyển dịch CCKT

nông nghiệp cũng có ý nghĩa là quá trình này cần sự hỗ trợ đầy hiệu lực của cơ chế vận

hành thích ứng ở tầm vĩ mô và vi mô.

Quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp, ngoài việc lựa chọn các bước đi và

phương pháp thích hợp có nguyên tắc, cũng cần có những bước đi và phương pháp đặc thù

gắn với đặc điểm kinh tế theo vùng và lãnh thổ.

Mặt khác, việc chuyển dịch CCKT nông nghiệp sẽ khó thực hiện, nếu thiếu những

tiền đề và hỗ trợ thiết yếu như:

- Điện khí hóa nông thôn cần đi trước một bước tạo nền cho quá trình chuyển dịch.

- 19 -

- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, mở rộng hệ thống giao thông, chủ lực là

hệ thống giao thông đường bộ, tiếp ứng cho việc chuyển dịch CCKT ngành, vùng và bố trí

lại dân cư.

- Tạo nguồn hỗ trợ đầu tư để khai thác mọi nguồn lực và phát triển các thế mạnh

kinh tế nông nghiệp của vùng và lãnh thổ.

- Đào tạo nhân lực cho nông thôn, tạo nhân tố trung tâm, quyết định thành công của

quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp.

Trong những năm qua, nhờ đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ đáng

kể, đời sống nhân dân được ổn định và từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều

vấn đề về sản xuất và đời sống đang đặt ra gay gắt như: nghèo đói, thiếu việc làm, du canh

du cư, di dân tự do, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng

trong nước, môi trường bị suy thoái… Chuyển dịch CCKT nông nghiệp đảm bảo cho quá

trình phát triển ổn định , bền vững là vấn đề lớn và phức tạp, cần phải giải quyết nhiều vấn

đề cả lý luận và thực tiễn. Đây là một quá trình thống nhất giữa các khâu từ sản xuất nông,

lâm, ngư nghiệp đến chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm; cũng là quá trình giảm tỉ

trọng nông nghiệp tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ tại nông thôn. Từ đó nông thôn

nước ta sẽ chuyển từ một nông thôn với nền kinh tế nông nghiệp sang nền văn minh công

nghiệp. Muốn vậy, cần phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, chuyển dịch CCKT nông

nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Sản

xuất nông, lâm, ngư nghiệp phải từng bước hiện đại hóa, cơ cấu hóa, phát triển giao thông,

thông tin và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học. Chuyển dịch CCKT nông

nghiệp, cần phát triển công nghiệp, bao gồm công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản,

phát triển các ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ.

1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể bao gồm các mối quan hệ tương tác giữa

các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc các lĩnh vực nông, lâm, ngư

nghiệp trong khoảng thời gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Nó được biểu hiện bằng

sự tương quan về số lượng và chất lượng của các mối quan hệ nói trên. Cơ cấu này phụ

thuộc vào nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp có thể phân thành các nhân tố như sau:

a) Nhóm nhân tố tự nhiên: trước hết là điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu có ý nghĩa

to lớn đối với sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Là ngành sản xuất mà đối tượng của nó là thế

giới sinh vật, nó phát triển theo quy luật tự nhiên và gắn với điều kiện tự nhiên rất chặt chẽ.

Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, con người có thể lợi dụng những yếu tố đầu vào để tạo ra

những sản phẩm chất lượng cao có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước

- 20 -

b) Nhóm nhân tố về kinh tế và tổ chức: trong đó vấn đề thị trường và các nguồn lực

có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có ảnh

hưởng lớn đến việc xây dựng và chuyển dịch CCKT nói chung và kinh tế nông nghiệp nói

riêng. Chính sách phát triển kinh tế hàng hóa và chính sách khuyến khích xuất khẩu đã tạo

điều kiện để phát triển nền nông nghiệp đa canh, hình thành các vùng sản xuất chuyên môn

hóa với quy mô ngày càng lớn.

c) Nhóm nhân tố về kỹ thuật: tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và chuyển dịch

CCKT nông nghiệp. Nó mở ra những triển vọng to lớn trong việc áp dụng công nghệ mới

vào canh tác, chế biến và bảo quản nông sản nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản

phẩm để có thể hòa nhập vào thị trường thế giới.

Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm cơ cấu kinh

tế ngành, cơ cấu thành phần, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu kỹ thuật. Giữa chúng có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau.

Ở nước ta, trong một thời gian dài, do nhận thức không đúng, coi thiên nhiên là vô

tận, vì thế ít quan tâm bảo vệ môi trường tự nhiên. Gần đây, chúng ta nhận thức được sự hủy

hoại môi trường tự nhiên đã ở mức nghiêm trọng. trong đó những người hoạt động trong

lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp có vai trò hết sức quan trọng.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, mỗi nhân tố điều

có vai trò, vị trí và tác động nhất định tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông

thôn. Có những nhân tố tác động tích cực, có những nhân tố tác động tiêu cực, có nhân tố

vào thời điểm này, vùng này được coi là năng động, nhưng vào thời điểm khác, vùng khác

lại được coi là trì trệ đối với sự chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Như vậy, chúng ta có thể

tìm ra được các lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, để từ đó đề xuất được

phương pháp chuyển dịch CCKT nông nghiệp hợp lý, hài hòa, thích hợp nhất với mỗi vùng

kinh tế.

1.5. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam

1.5.1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước

• Kinh nghiệm của Nhật Bản

Ngay từ những năm 50, trong chính sách khôi phục kinh tế, chính phủ Nhật

Bản đã coi trọng sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, sớm tìm

được hướng đi và bước đi thích hợp cho nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói

riêng, nhất là chính sách chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Đến nay, Nhật Bản đã có

một nền nông nghiệp đa dạng, hiện đại, có một cơ cấu hợp lý, có thể rút ra một số

- 21 -

kinh nghiệm sau:

- Nhật Bản đã tiến hành cải cách ruộng đất, tự do hóa nông thôn, xem trọng hình

thức nông trại gia đình, phát triển kinh tế trang trại gia đình gắn liền hợp tác xã, xây dựng

các xí nghiệp công nghiệp dịch vụ nông nghiệp nông thôn và đưa công nghiệp về tận nông

trại, đảm bảo mục tiêu “an toàn lương thực”, đồng thời phát triển nông nghiệp toàn diện, mở

rộng sản xuất các cây trồng khác và phát triển chăn nuôi thông qua phát triển các vùng nông

nghiệp đặc thù. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Nhật bản áp dụng chính sách an

toàn lương thực thông qua việc cải tạo đất đai, định cư cho nông dân, thiết lập chế độ sở hữu

nhỏ, xóa bỏ quyền chiếm dụng ruộng đất bất hợp pháp tạo điều kiện thuận lợi để nông dân

yên tâm sản xuất. Chính sách và các luật lệ về nông nghiệp đều lấy trang trại làm đối tượng,

đều tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại tiến hành tập trung hóa và hiệp tác hóa sản

xuất với quy mô và hình thức thích hợp.

- Chiến lược sản xuất sản phẩm nông nghiệp và sự tăng cường quản lý vĩ mô

bằng các chính sách nông nghiệp của chính phủ Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới

thứ hai, Nhật Bản bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển nông nghiệp, mục tiêu

được quan tâm hàng đầu là an toàn lương thực trên cơ sở phát triển chăn nuôi và các

loại cây trồng khác. Nhờ có chính sách khuyến nông phù hợp nên sau mười năm,

sản lượng nông nghiệp đạt được mức cao nhất của những năm trước chiến tranh.

Chiến lược nông nghiệp chuyển sang sản xuất những loại đặc sản nông nghiệp có

giá trị thương phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng. Từ sau năm 1975 khi

nông nghiệp phát triển có phần không tương xứng với nhu cầu xã hội, Nhật Bản

thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện trên cơ sở bảo đảm an toàn

lương thực, thực hiện trợ giá nông sản, hoàn thiện cơ cấu nông nghiệp, đẩy mạnh xây dựng

các công trình phúc lợi ở nông thôn. Kết quả đến thập kỷ 80, đã đảm bảo nhu cầu tiêu dùng

lương thực và thực phẩm.

- Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Nhật bản coi nó là yếu tố quyết định

trong việc đi sâu vào chuyên môn hóa và mở rộng qui mô kinh doanh, hình thành

các trang trại trồng trọt, chăn nuôi. Hiện đại hóa nông nghiệp được thực hiện thông

qua sự phối hợp chặt chẽ giữa nông dân và Nhà nước phù hợp với từng loại đất, cây

trồng, quy mô trang trại và truyền thống thâm canh của Nhật Bản. Đặc biệt hệ thống

thủy lợi đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh kết hợp với cải tạo đồng ruộng,

đảm bảo diện tích đất được tưới. Nhật Bản chủ yếu là sử dụng hệ thống máy móc

nhỏ thích hợp với nông trại và các thửa ruộng đồng lúa quy mô nhỏ. Về công nghệ

sinh học, Nhà nước rất quan tâm cho việc lai tạo giống mới, cây trồng và vật nuôi,

- 22 -

các công nghệ “GEN” chăn nuôi được hiện đại hóa, sử dụng công nghệ tổng hợp.

• Kinh nghiệm của Trung quốc

Nằm trong khu vực và liền kề với biên giới nước ta nên Trung Quốc có nhiều điểm

tương đồng về tự nhiên - kinh tế - xã hội như nước ta, nhưng họ đã lựa chọn được bước đi

và giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp phù hợp và đã thu được kết quả vượt bậc. Khi

mới giành được độc lập, Trung Quốc cũng là một nước có xuất phát điểm thấp, từ một nền

nông nghiệp lạc hậu, dân số đông nhất thế giới, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu

người thấp hơn Việt Nam. Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc khá giống

Việt Nam với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ít quan tâm đến nông nghiệp. Vì vậy

suốt những năm 60, 70 đời sống nhân dân sa sút nghiêm trọng, tình hình chính trị xã hội bất

ổn định, nạn đói xảy ra nhiều nơi. Đến năm 1978, lương thực bình quân của nông dân giảm

59%, bông vải sợi giảm 5,7%, cá ăn giảm 15%, còn thịt được coi là hàng xa xỉ không mấy

ai dám ăn. Cuối những năm 1978, Đảng cộng sản Trung Quốc bước đầu thực hiện thành

công về hoạch định chính sách và chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp bằng nghị quyết

hội nghị trung ương III khóa XI tháng 12/1978. Một trong những quyết sách đó là

khoán hộ trong sản xuất nông nghiệp.

- Khoán hộ là một cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất nông nghiệp kiểu mới

nhằm giải phóng các yếu tố sản xuất, khuyến khích lợi ích vật chất của nông dân, đổi mới

hoạt động kinh doanh của các công xã nhân dân và xí nghiệp quốc doanh nông nghiệp ở

nông thôn. Chủ trương khoán hộ đã được nông dân thực hiện ở quy mô làng xã, đến năm

1978 được mở rộng quy mô tỉnh là Tứ Xuyên và An Huy. Trước thực tế đó, Đảng cộng sản

Trung Quốc đã có nhiều chủ trương phát triển nông nghiệp theo hướng khoán hộ như nghị

quyết hội nghị Trung ương III, IV và văn kiện số 75 của Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI. Đến tháng 9/1982 trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản

Trung Quốc mới công nhận cơ chế khoán hộ trong nông nghiệp. Theo đó các văn bản pháp

quy của Nhà nước hướng dẫn thực

hiện chủ trương khoán hộ mới được ban hành và từng bước hoàn thiện từ năm 1983

đến nay. Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ và đi vào sản xuất hàng hóa

mang tính chuyên sâu với quy mô ngày càng lớn. Đến năm 1985, Trung Quốc đã có

25 triệu hộ chuyên, chiếm 14% gia đình nông thôn Trung Quốc nhưng đã sản xuất

ra 50% tổng sản phẩm nông sản hàng hóa. Khoán hộ đã tạo động lực cho sự phát triển nông

nghiệp nông thôn Trung Quốc bằng việc khai thác tiềm năng lao động, đất đai, tiền vốn và

khoa học công nghệ mới ở cả trong nước và quốc tế.

Cơ chế khoán hộ đã góp phần đưa nền nông nghiệp Trung Quốc thoát khỏi trì

- 23 -

trệ, sa sút kéo dài hơn 30 năm kể từ khi giành được độc lập, đã hoàn sinh cho cuộc

sống của nông dân và góp phần tích lũy phát triển nông nghiệp nông thôn cả nước

và là cơ sở kinh tế - xã hội để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng

công nghiệp hóa.

- Xây dựng mô hình “Xí nghiệp Hương Trấn”, cùng với việc triển khai chính sách

khoán hộ trong nông nghiệp, Đảng cộng sản Trung Quốc còn đề ra chủ trương ứng dụng mô

hình “xí nghiệp Hương Trấn” trên tất cả các hương xã và thị trấn. Hương trấn được coi là

quốc sách để xây dựng cơ cấu kinh tế Trung Quốc trong

thời kỳ cải cách nền kinh tế bởi nó vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy quá

trình phân công lại lao động ở nông thôn theo quan điểm “ly nông bất ly hương”.

Theo phương châm “coi xí nghiệp cốt cán ở thôn xã làm chỗ dựa, lấy xí nghiệp liên hộ

cá thể làm trọng điểm”, nên cuối những năm 80 các xí nghiệp cá thể phát triển nhanh chóng.

Năm 1984 cả nước có 4,2 triệu xí nghiệp hộ và liên hộ. Đến năm 1993 cả nước đã có 21

triệu xí nghiệp hoạt động thu hút 105 triệu lao động nông thôn và mang lại kết quả rất khả

quan:

+ Giá trị sản lượng công nghiệp do xí nghiệp Hương Trấn làm ra bằng 1/3 giá trị

công nghiệp cả nước.

+ Thành công trong xây dựng và phát triển Hương Trấn đã góp phần làm thay đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân rõ rệt.

• Kinh nghiệm của Thái lan

Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực với nước ta, có diện tích canh tác 19,16

triệu ha, gấp 2,68 lần nước ta. Trong khi dân số chỉ có 58.416.000 người nên bình quân diện tích đất canh tác gấp 4 lần nước ta (3.756m2/người) thuộc diện cao nhất các nước trong khu

vực. Hiện nay, Thái Lan đã trở thành một nước phát triển trong khu vực có thu nhập bình

quân 3.150USD/người/năm, mặc dù hơn 30 năm trước Thái Lan cũng chỉ là một nước nông

nghiệp lạc hậu yếu kém.

Thời kỳ đầu bước vào phát triển kinh tế, Thái Lan đã lựa chọn mô hình công

nghiệp hóa đô thị và tập trung xây dựng một số ngành công nghiệp trọng yếu như

động lực, hóa dầu, sản xuất tư liệu sản xuất.v.v… bằng nguồn vốn và công nghệ

nước ngoài. Hướng đi này đã vấp phải nhiều trở lực, trong đó lớn nhất là nội lực của

nền kinh tế không thể tiêu hóa được chính sách tập trung phát triển công nghiệp

nặng trong khi nông nghiệp què quặt, phân tán kém phát triển. Kết quả là nền kinh

tế không những không phát triển mà còn xuống cấp trì trệ. Theo thống kê Thái Lan

1970, nông dân ở 12.562 xã thuộc 38/73 tỉnh xếp vào loại nghèo cần phải quan tâm

- 24 -

đặc biệt. Để giải quyết tình trạng nghèo khó của nông dân, Chính phủ Thái Lan đã

chấp nhận những biện pháp đặc biệt để giải quyết tình hình tụt hậu của nông nghiệp

trong kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1977 - 1981). Đồng thời Chính phủ còn khuyến

khích chiến lược phát triển cả công nghiệp nông thôn để thực hiện chủ trương đa

dạng hóa nền kinh tế hướng vào sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu. Do thay đổi

chính sách phát triển kinh tế nên các tiềm năng trong nông nghiệp bắt đầu phát huy

tác dụng và đạt được kết quả đáng kể sau một thời gian. Vào những năm 80, Thái

lan đã là một nước xuất khẩu gạo, sắn, cao su thuộc hàng đầu thế giới và thứ 3 về

xuất khẩu đường. Cơ cấu kinh tế đã chuyển biến rõ rệt là GDP ngành nông nghiệp

từ 28,9% giảm xuống còn 14,7%, trong khi ngành công nghiệp chế biến đã tăng từ

14% lên 25,6%, thể hiện rõ ý đồ tập trung phát triển đa dạng hóa sản phẩm nông -

lâm - ngư nghiệp cho xuất khẩu của Chính phủ. Trên thực tế, các vùng chuyên canh

lớn hình thành, các khu công nghiệp chế biến có trang thiết bị hiện đại của Nhật,

Mỹ được xây dựng để thu hút chế biến nông sản. Như vậy vừa khuyến khích nông

dân, vừa chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, lại vừa tạo ra sản phẩm hàng

hóa có sức cạnh tranh, hấp dẫn khách hàng. Nông sản hàng hóa xuất khẩu của Thái

Lan rất được thị trường thế giới ưa chuộng. Trong đó đáng chú ý nhất là mặt hàng rau quả.

Năm 1993, kim ngạch xuất khẩu rau quả gần bằng gạo. Việc chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp Thái Lan thời gian qua đều hướng vào xuất khẩu.

Có được thành công trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản phải kể đến sự

đóng góp vô cùng to lớn của công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm mà Thái Lan

đã đầu tư ứng dụng trước một bước so với các nước trong khu vực. Vì thế các sản

phẩm của họ có sức cạnh tranh cao lại khá ổn định như chất lượng gạo xuất khẩu

năm 1990 tốt hơn năm 1986, làm cho giá tiêu thụ tăng từ 220 USD/tấn lên 300

USD/tấn nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Thái Lan không chỉ đầu

tư công nghệ chế biến mà còn quan tâm đến phát triển đồng bộ các ngành công

nghiệp cơ khí, điện, giao thông, công nghệ sinh học và thị trường phục vụ phát triển

nông nghiệp. Bằng các chính sách khuyến khích hợp lý nên tốc độ cơ giới hóa nông

nghiệp Thái Lan phát triển khá nhanh. Năm 1976, diện tích làm đất bằng máy chỉ có

37,7% nhưng đến năm 1993 đã tăng lên 90% với đất lúa, 95% với đất ngô, 100%

với đất mía. Như vậy có thể nói trình độ cơ giới hóa nông nghiệp của Thái Lan là

cao nhất trong Đông Nam Á. Ưu tiên chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp Thái

Lan trong những năm qua đều hướng vào xuất khẩu, vì thế các vùng trọng điểm

nông nghiệp đã tạo ra một khối lượng nông sản xuất khẩu khá lớn. Tỷ trọng hàng

- 25 -

hóa nông sản xuất khẩu của các trang trại này là lúa gạo sản xuất ra 50 triệu tấn/năm,

trong đó xuất khẩu 7 triệu tấn/năm; ngô sản xuất ra 7 triệu tấn/ năm, trong đó xuất

khẩu 5 triệu tấn/năm, mía đường sản xuất ra 25 triệu tấn/năm, trong đó xuất khẩu 4

triệu tấn/năm

Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng những biện pháp quản lý vĩ mô thông qua

các công cụ kinh tế vĩ mô nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Mặc dù

Chính phủ đã có chủ trương thực hiện cơ chế thị trường với mọi sản phẩm hàng hóa

nhưng vẫn quan tâm đến sự ổn định giá vật tư nông nghiệp và lương thực, thể hiện

là việc thành lập Ủy ban nhà nước về giá gạo và được vay vốn ưu đãi để mua lúa

gạo giá cao hơn thị trường để dự trữ hoặc nông dân được vay vốn đầu tư sản xuất

với lãi suất thấp khi giá thóc rẻ, cho đến khi giá thóc đắt họ sẽ bán thóc để hoàn vốn

vay.

1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thông qua cac bài học kinh nghiệm về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

ở một số quốc gia, ta có thể thấy rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt

Nam cần chú ý:

- Để phát triển kinh tế mỗi quốc gia phải dựa vào tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế dân

tộc, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có để phát triển. Hầu như các quốc

gia đều có chủ trương bắt đầu từ sản xuất nông nghiệp, lấy tăng trưởng nông nghiệp làm cơ

sở để ổn định đời sống xã hội, tạo nguồn tích lũy ban đầu cho CNH – HĐH. Để làm được

điều đó, cơ cấu ngành nông nghiệp phải chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa, phá bỏ độc

canh, phát triển nông nghiệp toàn diện, đưa chăn nuôi, thủy sản thành ngành sản xuất chính.

Chính sách đa dạng hóa nông nghiệp gắn liền với việc phát triển thị trường trong nước và

nước ngoài, lấy nông nghiệp làm điểm tựa đã làm thu nhập của nông dân tăng lên,…

- Nhà nước thực hiện các chính sách kích thích bằng lợi ích kinh tế đối với nông dân thông

qua việc tài trợ đầu vào, chính sách trợ giá nông sản, chính sách thuế tín dụng ưu đãi đối với

mặt hàng nông sản mới để giảm rũi ro khi tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng nong nghiệp, nông thôn để chuyển từ chỗ chỉ nhằm phát triển

một vài sản phẩm năng suất thấp sang phục vụ các loại cây trồng mới, các ngành sản xuất

mới và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.

- Tập trung triển khai các công trình nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa

học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, vào công nghiệp chế biến và dịch vụ

nông thôn nhằm khuyến phát triển nhanh các loại sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao.

- Việc đưa công nghiệp vào nông thôn trong quá trình CNH –HĐH đã giúp các nước và

- 26 -

lãnh thổ giải quyết được việc làm cho phần lớn lực lượng dư thừa ở nông thôn. Đây chính là

biện pháp nhằm chuyển đổi nền nông nghiệp thuần nông sang đa canh, đa ngành, phát triển

kinh doanh tổng hợp nông – công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn.

Kết luận chương 1

Nền kinh tế Thế giới đang có những chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của

quá trình toàn cầu hóa. Tất cả các quốc gia, dù có nền kinh tế phát triển hay đang

phát triển vận hành theo cơ chế thị trường đều phải có quá trình điều chỉnh để phù

hợp với qui luật phát triển. Kinh tế Việt Nam đã và đang có quá trình chuyển đổi

tích cực để có thể tận dụng được những lợi thế và hạn chế những nguy cơ mà quá

trình toàn cầu hóa đem lại. Trong quá trình chuyển đổi để hòa nhập chúng ta đã đạt

được những thành tựu lớn. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần phải xem xét, tháo

gỡ, đặc biệt là trong sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Từ việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, các mô hình lý thuyết về chuyển đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, có thể thấy rằng:

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tất yếu khách quan, là quá trình vận

động và phát triển của kinh tế nông nghiệp theo những xu hướng mang tính quy luật chung

và phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể của từng nước, từng vùng theo những giai đoạn cụ thể

nhất định.

- Để có được cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp cần đặt sự chuyển dịch cơ

cấu trong mối quan hệ của nó với cơ cấu kinh tế chung của cả nước, có sự định

hướng đúng về sự phát triển của từng ngành. Phải hiểu rõ các điều kiện phát triển cụ

thể, các nhân tố tác động đến từng ngành, mối quan hệ hữu cơ giữa các ngành trong

nông nghiệp.

- Cần xác định sự phát triển của từng ngành trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế

so sánh để kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp trong kinh tế nông

nghiệp.

- Phải có hệ thống các giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế và chuyển dịch theo

các định hướng đã xác định, trong đó chú trọng tới việc giải quyết các vấn đề về sở hữu; xác

lập các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp; xây dựng các chính sách theo hướng khuyến

khích sản xuất nông nghiệp, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ khoa học

và công nghệ vào sản xuất.

- 27 -

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên

Giang.

2.2.1. Nguồn lực tự nhiên

2.2.1.1. Vị trí địa lý

Kiên Giang là một tỉnh ở biên giới phía Tây Nam của Việt Nam. Phần đất liền của tỉnh có toạ độ địa lý : điểm cực bắc ở vĩ độ10032’30" vĩ độ Bắc tại xã Tân Khánh Hòa, huyện Kiên Lương; điểm cực nam ở vĩ độ 9023’55" tại xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận; điểm cực tây ở kinh độ ở 104040' Đ tại xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên; điểm cực đông ở kinh độ 105032' Đông tại xã Hòa Lợi, huyện Giồng Riềng.

+ Phía Đông và Đông Nam giáp các tỉnh An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ.

+ Phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau.

+ Phía Tây giáp vịnh Thái Lan.

+ Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới đất liền dài 56,8 km. Vùng biển của tỉnh Kiên Giang giới hạn từ vĩ độ 100 B đến 100 27’B và từ kinh độ1030 50' đến 104050' Tổng diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang là 6.269 km2, trong đó đất liền là 5.638 km2

và hải đảo 631 km2 (đảo lớn nhất là Phú Quốc 567 km2).

Kiên Giang có bờ biển dài 200 km với 63.290 km2 ngư trường, tập trung khoảng 105 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 43 đảo có dân cư sinh sống. Tỉnh Kiên Giang có 05 quần đảo:

An Thới, Thổ Chu, Nam Du, Bà Lụa và Hải Tặc với hơn 100 đảo lớn nhỏ.

Kiên Giang có diện tích lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Đơn vị hành chính của

tỉnh bao gồm: thành phố Rạch Giá, thị xã Hà Tiên và 13 huyện: Kiên Lương, Giang Thành,

Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, U Minh

Thượng, Vĩnh Thuận, Kiên Hải và Phú Quốc. Thành phố Rạch Giá là trung tâm kinh tế, văn

hóa, chính trị của tỉnh.

Kiên Giang tuy cách xa các trung tâm kinh tế của cả nước song có các điểm thuận lợi

sau: là nơi có khoảng cách tới các nước ASEAN tương đối ngắn, các nước này đang có nhịp

độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới; có khả năng phát triển các cửa khẩu với

Campuchia, tạo mối quan hệ với Thái Lan thông qua mạng lưới đường bộ: là cửa ngõ ra

biển của một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đến một số nước trên thế giới.

- 28 -

Vị trí địa lý của tỉnh Kiên Giang rất thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế mở cửa,

hướng ngoại, đồng thời là cửa ngõ phía Tây của các tỉnh miền Tây Nam bộ thông ra các

nước khác trong khu vực.

Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng sản xuất lương thực, thực phẩm lớn

nhất cả nước, có trình độ và kinh nghiệm sản xuất, tạo ra những cơ hội lớn cho tỉnh học hỏi

kinh nghiệm, đồng thời tạo ra những động lực phát triển nông nghiệp hàng hóa trong thế

cạnh tranh với các tỉnh thành khác trong vùng.

Với vị trí địa lí này, Kiên Giang có nhiều điều kiện trao đổi giao lưu hàng hóa, công

nghệ, lao động kỉ thuật với các tỉnh thành khác trong vùng cũng như cả nước và quốc tế. Kiên Giang có vùng biển lớn với ngư trường rộng 63.000 km2 với hơn 105 hòn đảo lớn

nhỏ thuộc 5 quần đảo là: hải tặc, Bà Lụa, An Thới, nam du, Thổ Chu. Đảo lớn nhất là đảo Phú Quốc(cũng là đảo lớ nhất ở Việt Nam với diện tích 537 km2) đảo xa nhất là đảo Thổ Chu (cách Rạch giá 110 hải lí).

Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành thủy sản. Dân số của đồng bằng sông Cửu

Long đông, nhu cầu thực phẩm- nhất là nguồn thủy hải sản rất lớn sẽ thúc đẩy nông nghiệp

của Kiên Giang giảm dần các hoạt động trồng trọt truyền thống chuyển sang phát triển

ngành thủy sản tạo ra các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu nhân dân trong vùng và xuất khẩu.

- 29 -

Nguồn: Sở tài nguyên môi trường

Hình 2.1. LƯỢC ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH KIÊN GIANG

- 30 -

2.2.1.2. Điều kiện tự nhiên

* Địa hình

Địa hình là nhân tố qui định đặc điểm của đất đai, là một trong những nhân tố quan trọng

quyết định cơ cấu cây trồng trên một lãnh thổ.

Địa hình phần đất liền Kiên Giang tương đối bằng phẳng có hướng thấp dần từ hướng

Đông Bắc (độ cao trung bình từ 0,8 – 1,2m) xuống Tây Nam (độ cao trung bình từ 0,2 đến

0,4m). Riêng bán đảo Cà Mau độ cao trung bình từ 0,2 – 0,4m, một số nơi có độ cao từ 0m.

Đặc điểm địa hình này cùng với chế độ thủy triều biển Tây chi phối rất lớn khả năng tiêu

thoát úng về mùa mưa đồng thời bị ảnh hưởng lớn của mặn nhất là vào tháng cuối mùa khô,

gây trở ngại nhiều tới sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh.

So với các khu vực khác trong đồng bằng sông Cửu Long, địa hình tỉnh Kiên Giang khá

đa dạng. Kiên Giang là một tỉnh có cả đồng bằng, rừng, núi, biển và hải đảo; điều kiện về tài

nguyên, đất đai, khí hậu tạo cho Kiên Giang có nhiều lợi thế về phát triển nông nghiệp, đánh

bắt, nuôi trồng chế biến thủy hải sản.Ở phần đất liền, địa hình tương đối bằng phẳng, thấp

dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Vùng hải đảo Phú Quốc và Kiên Hải có nhiều núi đá, địa

hình khá phức tạp. Vùng đồng bằng có độ cao từ 0,2 – 1,2 m cùng với chế độ thuỷ triều biển

tây chi phối rất lớn khả năng tiêu thoát úng về mùa mưa đồng thời lại bị ảnh hưởng lớn của

nước mặn, nhất là vào các tháng cuối mùa khô, gây trở ngại cho sản xuất và đời sống

Địa hình núi đá vôi ở ven biển Hà Tiên đã hình thành nhiều hang động đẹp như Thạch

Động, Đá Dựng, hang Tiền, Chùa Hang…Đặc biệt, núi đá vôi ở các đảo gần bờ tạo nên cho

hà Tiên những thắng cảnh nổi tiếng như Hòn Phụ Tử, Hòn Nghệ…

Ven biển Hà Tiên cũng có những bãi tắm đẹp như Bãi Dương, Mũi Nai… Do có nhiều

đảo bao quanh và nhiều dãy núi nhô ra tạo thành những bức bình phong chắn gió, biển ở

đây rất yên ả.

Vùng biển gần bờ của tỉnh Kiên Giang có quần đảo Hải Tặc(Hà Tiên) cách mũi nai

11km; quần đảo Bình Trị (bà Lụa) cách bờ biển Hòn Chông 14 km và các hòn đảo khác

cách bờ biển từ 5-20 km. Đặc biệt có nhiều hòn đảo có dân cư sinh sống bằng nghề đánh bắt

cá, tôm, mực và trồng trọt, buôn bán…khá sung túc.

Vùng biển Kiên Giang còn bao gồm một hệ thống các đảo và quần đảo phía Tây Nam

như phú Quốc, Nam du, Thổ Chu, địa hình tương đối phức tạp do có nhiều đồi núi. Đây sẽ

là cơ sở hậu cần cho các đảo và quần đảo ngoài khơi, triển vọng phát triển khai thác, nuôi

trồng thủy hải sản .

Sự phong phú về địa hình sẽ giúp cho tỉnh phát triển nền nông nghiệp đa dạng, thuận lợi

cho chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp của địa phương

- 31 -

* Đất

Tỉnh Kiên Giang có nguồn tài nguyên đất khá đa dạng, dựa vào tính chất lí, hóa khác

nhau có thể được chia thành 4 vùng chính là:

♦ Vùng đất phù sa ngọt còn gọi là phù sa ven sông với diện tích khoảng 70 198 ha. Loại

đất này được phân bố thuộc Tây sông Hậu (Tân Hiệp, Giồng Riềng, Châu Thành, Gò Quao).

Đất có độ pH 6-7, tầng canh tác từ 20-30cm, đất thịt nặng , độ màu mở khá, đạm tổng số

mức trung bình, lân tổng số ít. Đây là điều kiện tốt để trồng lúa cao sản, trồng hoa màu của

tỉnh.

♦ Vùng đất phèn không nhiễm mặn, diện tích khoảng 159 483 ha. Loại này ở địa hình

lòng chảo trũng, dấu tích của biển củ. Đất phèn của tỉnh tập trung nhiều ở hai huyện Hòn

Đất, Hà Tiên và một phần của các huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận. Đất có độ pH

thấp (3,5-4,5). Tầng canh tác mỏng, nitơ tổng số tuy nhiều nhưng đạm dinh dưỡng cho cây

ít, giàu chất hữu cơ, nghèo canxi, lân, kali, đất này thích hợp trồng tràm, nếu dùng biện pháp

đào mương lên lếp thì có thể trồng khóm, đào lộn hột, xoài. Nếu có nước thường xuyên rữa

phèn thì có thể trồng cây lúa thần nông. Công tác thủy lợi nơi đây rất quan trọng.

♦ Vùng đất phèn nhiễm mặn, đất mặn diện tích khoảng 192 832 ha. Đất này ở vùng

trũng bị ảnh hưởng của thủy triều tập trung ở phía nam sông cái lớn thuộc cá huyện bán đảo

Cà Mau ( An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận) và vùng ven biển Hòn Đất, Hà Tiên. Đất bị

nhiễm mặn trực tiếp do nước biển tràn vào theo sông ngòi, kênh rạch khi thủy triều lên. Đất

trồng được một vụ lúa nếu đắp đê ngăn mặn, rửa mặn có thể thâm canh, tăng vụ, tăng năng

suất lúa.

♦ Đất đồi núi, tập trung ở các đảo Phú Quốc và Kiên Hải, vùng đồi núi Hà Tiên và Hòn

Đất, diện tích khoảng 65 000 ha, chủ yếu đất cát pha, dễ bị rửa trôi, nghèo dinh dưỡng. Đây

là đất lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn trái (dừa, tiêu, điều, cà phê,…) ven chân đồi núi

có thể trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày.

Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh năm 2010 là 634.853 ha, trong đó diện tích đất đang và

chưa khai thác là :

Bảng 2.1. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA KIÊN GIANG TỪ

2000 ĐẾN 2010

Năm 2000 2005 2010

Tổng diện tích tự nhiên 626.904 634.833 634.853

Đất nông nghiệp: 525.415 576.337 576.592

-Đất sx nông nghiệp 393.840 436.873 456.713

- Đất lâm nghiệp 122.772 106.085 91.435

- 32 -

- Đất nuôi trồng TS 8.801 31.915 28.386

Đất phi nông nghiệp 54.488 48.985 52.850

- Đất ở 10.089 11.079 12.139

-Đất chuyên dùng 34.289 20.689 23.765

Đất chưa sử dụng 47.000 9.512 5.412

Nguồn niên giám thống kê Kiên Giang

Sự đa dạng về loại đất tạo điều kiện thuận lợi để Kiên Giang phát trển cơ cấu cây trồng

đa dạng, phong phú, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái, phù

hợp với nhu cầu thị trường. Đồng thời việc chuyển đổi này sẽ tăng thêm hiệu quả kinh tế sử

dụng đất cho địa phương.

Đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn năm 2010 là 71,94% diện tích đất tự nhiên

toàn tỉnh có xu hướng ngày càng tăng, năm 2000 cả tỉnh có 393.840 ha, năm 2005 là

436.873 ha, năm 2010 là 456.713 ha, như vậy so với năm 2005 thì năm 2010 diện tích đất

nông nghiệp tăng thêm 255 ha. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của cơ chế quản lí sử

dụng đất đai đã tạo động lực cho người nông dân tích cực khai hoang, tăng vụ, mở rộng diện

tích, đưa đất đai vào hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Đất lâm nghiệp có xu hướng giảm: diện tích năm 2005 so với 2000 giảm 31.337 ha,

năm 2010 so năm 2005 giảm 14.651 ha, diện tích đất lâm nghiệp liên tục giảm do khai thác

rừng lấy đất làm nông nghiệp, do quá trình đô thị hóa, cháy rừng…làm ảnh hưởng đến tính

bền vững môi trường.

Ngoài ra tỉnh còn có trên 9.427 nghìn ha đất hoang hoá và sản xuất chưa ổn định với hơn

25 nghìn ha vườn tạp. Đây là một tiềm năng lớn cần được khai thác và sử dụng triệt để góp

phần phát triển kinh tế Kiên Giang.

Như vậy, quy mô và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp là cơ sở cho quá trình chuyển dịch

phù hợp với xu hướng chung CNH-HĐH : tỷ trọng đất nông nghiệp tăng do tỷ trọng đất lâm

nghiệp giảm, đất chưa sử dụng giảm. Tuy nhiên vấn đề đặt ra: đất nông nghiệp tăng, điều

này đảm bảo an ninh lương thực, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nhưng việc

chuyển mục đích sử dụng đất từ đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp, đất thổ cư hay đất

chuyên dùng trong quá trình đô thị hóa cũng có nghĩa là thay đổi hướng tác động của con

người lên đất đai thay đổi giá trị sử dụng và giá trị đất đai, bởi vậy cần tiến hành một cách

thận trọng, không ngừng thay đổi hướng sản xuất: Đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, tăng hệ

số sử dụng đất, phát triển ngành nghề nông thôn tạo việc làm; thay thế cây trồng, vật nuôi

- 33 -

năng suất thấp, chất lượng kém bằng cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, có khả năng

cạnh tranh tạo hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập, cải tạo đời sống nông dân nông thôn.

Bền vững môi trường : bảo vệ được đất đai, ngăn chặn sự thoái hóa đất, bảo vệ nguồn

nước…

- 34 -

Nguồn: Sở tài nguyên môi trường

HÌNH 2.2. LƯỢC ĐỒ ĐẤT TỈNH KIÊN GIANG

- 35 -

* Khí hậu

Cũng như toàn thể vùng đồng bằng sông Cửu long, tỉnh kiên Giang có khí hậu nhiệt đới

gió mùa từ tháng 5 đến tháng 11 có hướng gió thịnh hành là hướng Tây-Nam, mang theo

nhiều hơi nước và gây mưa, tốc độ gió trung bình 3-4,8m/s. Từ tháng 12 đến tháng 4 có gió

Đông-Bắc, tốc độ gió trung bình 3m/giây. Ngoài chế độ gió theo mùa, Kiên Giang còn có

gió thổi theo ngày và đêm, đó là gió đất và gió biển, tốc độ trung bình 2,5-3m/s, nóng ẩm quanh năm; nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 27 – 27,50C. Mặt khác, Kiên Giang là một tỉnh nằm sát biển nên khí hậu còn mang tính chất hải dương, đặc trưng cơ bản của khí hậu ở

đây là nền nhiệt cao và ổn định quanh năm, trái lại, chế độ mưa có sự phân mùa rõ rệt:

lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600 – 2.000 mm ở đất liền và 2.400 – 2.800 mm

ở vùng đảo Phú Quốc. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 tháng nhiều nhất là tháng

8; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau tháng ít mưa nhất là tháng 2. Kiên Giang

không chịu ảnh hưởng trực tiếp cuả bão, nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng

đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa.

Khí hậu ở đây rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng, vật

nuôi.

Khí hậu tỉnh Kiên Giang có tiềm năng nhiệt - ẩm lớn. Tổng số giờ nắng 2.358,0giờ/năm.

Tổng lượng bức xạ 150 kcal/ năm. Độ ẩm tương đối bình quân trong năm thường đạt 80-

83%, sự chênh lệch độ ẩm giữa các tháng trong năm trên 10%. Thời kỳ ẩm nhất trong năm

rơi vào tháng 7-8 (mùa mưa), độ ẩm cao nhất 86%, thời kỳ độ ẩm thấp nhất rơi vào tháng 2-

3 độ ẩm thấp nhất 76%.

Nhìn chung, điều kiện khí hậu ở Kiên Giang có nhiều thuận lợi: ít thiên tai, không rét,

không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào thuận lợi cho cây trồng vật

nuôi sinh trưởng; có thể đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, tăng hệ số

sử dụng đất tạo ra nhiều sản phẩm nhiệt đới có giá trị kinh tế cao.

Tuy nhiên, khí hậu cũng tạo ra một số bất lợi cho nông nghiệp, vào mùa khô thiếu nước

tưới tiêu, xâm nhập mặn làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.

* Thủy Văn

Kiên Giang là một Tỉnh ở cuối nguồn nước ngọt của nhánh sông Hậu nhưng lại ở đầu

nguồn nước mặn của vịnh Thái Lan. Chế độ thủy văn của Kiên Giang bị chi phối bởi 3 yếu

tố: thủy triều vịnh Thái Lan, chế độ thủy văn của sông Hậu và mưa tại chỗ. Các yếu tố này

tác động từng thời kỳ, từng vùng khác nhau làm cho chế độ thủy văn Kiên Giang diễn biến

phong phú và đa dạng.

-Sông ngòi:

- 36 -

Tỉnh Kiên Giang nói riêng cũng như toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, từ lâu

đã nổi tiếng là một vùng “ văn minh sông nước”. Chế độ nước sông ngòi khá điều hoà,

thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Kiên giang có ba sông lớn là sông Cái lớn, Sông

Giang Thành và một số sông rạch nhỏ.

Bảng: 2.2 MỘT SỐ SÔNG VÀ KÊNH GẠCH CHÍNH CỦA TỈNH KIÊN GIANG

STT TÊN SÔNG CHIỀU DÀI(KM) CỬA SÔNG

1 Cái Lớn 75 Vịnh Rạch Gía

2 Cái Bé 50 Vịnh Rạch Gía

3 Giang Thành 23 Hà Tiên

4 Trẹm 20 Biển

Nguồn: Địa lí địa phương Kiên Giang

Sông Cái lớn là con sông lớn nhất của tỉnh, còn có tên gọi là sông Kiên, bắt nguồn từ

xã Long Bình, huyện Long Mỹ(Cần Thơ) chạy ngoằn ngoèo trên phần đất Kiên Giang. Sông

Cái Lớn đổ ra vịnh Rạch Giá với chiều rộng mặt sông tăng dần từ 500m đến 800m, có nơi

trên 1000m. Sông Cái Lớn có nhiều phụ lưu như rạch Cái Tư, Cái Nhàu, cái Nhum, Nước

Trong, ngang Dừa, Hốc Hảo, Xẻo Cạn…

Sông Cái Bé là sông lớn thứ hai của tỉnh Kiên Giang, chảy qua hai tỉnh cần Thơ và

Kiên Giang. Chiều rộng mặt sông 200 – 400m. sông chảy khá ngoằn ngoèo, phần hạ lưu gần

như song song với sông Cái Lớn, cửa sông cũng đổ ra vịn Rạch Giá. Các rạch phụ lưu như

Thác Lác, Cái Chanh, Đường xuồng, Tổng Quản… và các kênh đổ vào sông cái Lớn có

kênh thốt Nốt, Ô Môn, châm bầu… mang nước ngọt từ sông hậu đổ về sông cái bé rồi từ

sông này về các cánh đồng, mang lại sự trù phú cho các huyện Giồng Riềng, Gò Quao của

Kiên Giang.

Sông Giang Thành phát nguyên từ cao nguyên Sài Mạt ở Campuchia, diện tích lưu vực 670km2. Chiều rộng mặt sông 100 – 200m. Sông đổ vào Đông Hồ tại Hà Tiên. Sông có nhiều nhánh như Rạch cái Đồi, Trà Phô, cái tắc, Rạch Cát,…Sông Giang Thành nối liền

kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến đường thuỷ quan trọng từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Tuyến này có

vai trò quan trọng trong việc thau chua, rửa phèn, thoát lũ cho vùng tứ giác long xuyên.

Cùng với các sông rạch tự nhiên, kênh đào là yếu tố quan trọng của hệ thống thuỷ

văn tỉnh Kiên Giang. Trên địa bàn của tỉnh đã hình thành một hệ thống kênh đào khá phong

phú, tạo thành một mạng lưới liên hoàn điều phối cho nhau. Sau đây là một số đặc trưng của

các kênh trục chính:

- 37 -

Kênh Vĩnh Tế cùng với sông Giang Thành tạo thành một hệ thống liên hoàn nối từ

sông hậu ra vịnh Thái lan. Kênh này nằm ở phía bắc tỉnh Kiên Giang, chạy dọc theo biên

giới Việt nam – campuchia(cách biên giới khoảng 100m). Kênh vĩnh tế dài 67km, phần

thuộc Kiên Giang dài khoảng 30 km. dọc theo kênh này có nhiều công trình hiện đại như

đập Trà Sư, đập Tha La, cầu cạn Xuân Tô, các kênh thoát lũ T3,T4,T5,…

Kênh Rạch Giá – long Xuyên nối từ Sông hậu(thông qua rạch long Xuyên) tới kênh

Rạch Giá – Hà Tiên. Phần thuộc Kiên Giang dài khoảng 50km.

Kênh Rạch Giá- Hà Tiên nối từ Rạch Giá đến Hà Tiên, nằm hoàn toàn trên lãnh thổ

của Kiên Giang, dài 80km. Đối với nông nghiệp, đây là tuyến đường thuỷ quan trọng. kênh

Rạch Giá-Hà Tiên nối với các kênh trục tạo ra khả năng phối hợp các tuyến vận chuyển

hàng hóa nông nghiệp trong toàn tỉnh Kiên Giang cũng như với ngoài vùng.

Nước ngầm: Nước ngầm là nguồn cung cấp bổ sung rất quan trọng ở Kiên Giang,

nhất là vào mùa khô. Theo kết quả khoan thăm dò của các cơ quan nghiên cứu thì khu vực

có nguồn nước ngầm trữ lượng lớn và chất lượng khá tốt là các huyện An biên, Vĩnh Thuận,

Gò Quao, một phần ở các huyện An Minh, Giồng Riềng, Tân Hiệp,…Còn lại các khu vực

khác nước ngầm bị nhiễm phèn, mặn nên chất lượng thấp. Vào mùa khô diện tích đất bị

nhiễm phèn, xâm nhập mặn các huyện ven biển như các huyện An Minh, An Biên, Hòn Đất,

Hà Tiên khá cao gây khó khăn cho việc sản xuất nông nghiệp, cần có những biện pháp thau

chua, rửa mặn, xây dựng các kênh thủy lợi…đảm bảo nguồn nước góp phần thâm canh tăng

vụ, phục vụ sản xuất nông nghiệp vào mùa khô.

* Sinh vật

Nhìn chung, Kiên Giang có tài nguyên sinh vật khá phong phú. Trên địa bàn của tỉnh

có diện tích rừng ngập mặn khá lớn U Minh Thượng. Đây là địa bàn còn bảo tồn khá nhiều

loài sinh vật tự nhiên, trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt nam và

thế giới. Đáng lưu ý nhất là các loài chim như cò mỏ thìa, giang sen,…Vì vậy, vườn quốc

gia U Minh Thượng có vai trò rất lớn trong việc điều hòa khí hậu, nguồn nước cho hoạt

động nông nghiệp. Rất đáng tiếc là do cháy rừng năm 2002, rừng U Minh Thượng bị tàn

phá nghiêm trọng. Hiện nay, tỉnh đang nỗ lực đầu tư trồng lại rừng ở đây. Sau hơn 7 năm kể

từ khi xảy ra vụ cháy, đến nay ở những địa điểm còn lớp than bùn bên dưới (chưa cháy hết

lớp than bùn), rừng tràm đã hồi phục hoàn toàn tự nhiên. So với trước khi xảy ra cháy rừng,

hiện mức độ hồi phục trên 90%. Toàn bộ sinh cảnh VQGUMT hồi phục gần như hoàn toàn,

chỉ có độ tuổi cây tràm là còn thấp do mới hồi phục. Hiện nay tính đa dạng sinh học của

- 38 -

VQGUMT rất tốt. Các loài chim nước và nhiều loài động vật khác phát triển ổn định, số

lượng cá thể tăng nhanh”.

Ở Kiên Giang có đảo Phú Quốc với diện tích 576 km2 là đảo lớn nhất nước ta, rừng ở

đây chiếm 86% diện tích, phần lớn là rừng nguyên sinh với 360 loài thực vật, trong đó có

nhiều loài gỗ quý. Trong rừng có nhiều loài động vật tự nhiên như khỉ, nai, chồn, thỏ, heo

rừng…Sự phong phú đa dạng của tài nguyên sinh vật ở Phú Quốc tạo khả năng to lớn để

phát triển lâm nghiệp

Ngoài ra, suốt dọc bờ biển Kiên Giang đều có rừng ngập mặn, nhất là ven bờ các

vịnh Hòn Heo, Khoe Lá, Thuận Yên…rừng đước phát triển khá tốt. Tuy rừng ngập mặn ven

biển ở đây có diện tích nhỏ nhưng có vai trò cực kỳ quan trọng: bảo vệ bờ biển, lấn biển,

chắn gió, chắn sóng, là môi trường sống của các loài thuỷ sản…

Về động vật, tỉnh Kiên Giang rất phong phú về thuỷ sản nước mặn và nước ngọt. Thuỷ sản

nước mặn tập trung ở vùng biển Kiên Giang. Đây là một trong các ngư trường lớn nhất của

cả nước. Ngoài cá ,tôm, cua , mực ,sò huyết …, ở đây còn có con càng tôm và con càng

cuốc là hai loài bò sát rất quý hiếm. Thuỷ sản nước ngọt ở các sông rạch và các vùng đất

ngập nước.

Tài nguyên sinh vật nói chung và thủy sản nói riêng là những lợi thế to lớn cho nông nghiệp

của tỉnh, đặc biệt đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp của tỉnh theo

hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng thủy sản tạo ra sản phẩm có giá trị

hàng hóa lớn phục vụ nhu cầu ngày càng cao của địa phương, của vùng và cho xuất khẩu.

2.2.2. Nguồn lực kinh tế- xã hội

2.2.2.1. Dân số, nguồn lao động

* Dân số

Tính đến thời điểm 1/4/2009 1.688.288 người, đứng thứ 7 ở khu vực ĐBSCL và

đứng thứ 24 trong toàn quốc. Sau 10 năm, dân số Kiên Giang tăng thêm 185.510 người. Tỷ

lệ tăng bình quân hàng năm trong thời kỳ giữa 2 cuộc TĐT (1999 – 2009) là 1,29%/năm,

giảm mạnh so với thời kỳ 10 năm 1989 – 1999 (giai đoạn này có tỷ lệ tăng bình quân

2,25%/năm. Nếu như năm 1989 gia tăng dân số tự nhiên rất cao (2,5%) đến năm 2009 chỉ

còn 1,3%. Đây là quá trình nỗ lực của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình của tỉnh.

Nhìn chung, số dân tăng mỗi năm trong thời kì 1989 – 1999 là 32,2 nghìn người,

thời kì 1999 – 2009 là gần 30 nghìn người. Dân số đông nguồn lao động bổ sung dồi dào,

nhất là cho quá trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa qui mô lớn. Nhưng đồng thởi cũng gây

nhiều áp lực cho phát triển kinh tế xã hội và tài nguyên môi trường. Trong thời gian gần

đây, tốc độ gia tăng dân số Kiên Giang có xu hướng giảm rõ rệt.

- 39 -

* Mật độ dân số

Mật độ dân số trung bình 266 người/ km2 ( năm 2009 ).Trong đó nam 852.073 người

chiếm 50,47%, nữ 836,155 người chiếm 49,53%. Dân số phân bố không đều trên 4 vùng

kinh tế. Đông nhất là vùng Tây sông Hậu có 638.569 người (tỉ lệ 37,94%), ít nhất là vùng

hải đảo có 111.446 người, chiếm tỉ lệ chỉ 6,62%.

BẢNG 2.3: DÂN SỐ VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ KIÊN GIANG NĂM 2009

Stt Tỉnh, Thành phố, Huyện Dân số (Người) Mật độ dân số (Người/km2)

1.688 288 266 1 Toàn tỉnh

224 197 2163 2 Thành phố Rạch Giá

3 Thị xã Hà Tiên 44.400 449

4 Huyện Kiên Lương 78 165 165

5 Huyện Hòn Đất 161.797 159

6 Huyện Tân Hiệp 142 148 339

7 Huyện Châu Thành 148 732 521

8 Huyện Giồng Riềng 212 716 333

9 Huyện Gò Quao 136 915 312

10 Huyện An Biên 122 058 305

11 Huyện An Minh 115 634 196

12 Huyện Vĩnh Thuận 89 814 228

13 Huyện Phú Quốc 90 670 154

14 Huyện Kiên Hải 21.272 813

15 Huyện U Minh Thượng 67 698 156

16 Giang Thành 27 012 66

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Đơn vị hành chính có mật độ dân số cao nhất là thành phố Rạch Gía (2163 người/ km2 ), Thị xã Hà Tiên, Châu Thành, Kiên Hải, Tân Hiệp, dân cư sinh sống dọc theo các

tuyến trục ven sông, kênh rạch, ven lộ,...phần lớn gắn với chức năng phi nông nghiệp. Để

đảm bảo nguồn lương thực thực phẩm, hướng tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa phải mở

rộng xen canh góp phần đa dạng hóa cây trồng vật nuôi làm tăng hiệu quả sản xuất nông

nghiệp, cũng như làm tăng vai trò sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ CNH-HĐH. Còn các

- 40 -

huyện có mật độ dân số thấp như ở các huyện Giang Thành ( 66 người/ km2); Phú Quốc (154 người/km2 ), U Minh Thượng, An Minh, do phần lớn gắn với hoạt động nông nghiệp mang tính phân tán trong không gian. Những nơi này mật độ dân số thấp hơn mật độ dân số

trung bình của tỉnh làm hạn chế khai thác phát huy lợi thế tài nguyên phát triển kinh tế. Do

đó cần xác định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp cho phù hợp.

Cơ cấu dân thành thị-nông thôn có chuyển biến nhưng chậm, số dân ở thành thị là

452.574 người, chiếm 26,9%; khu vực nông thôn có 1.230.575 người, chiếm 73,1%. So với

10 năm trước, tỷ lệ dân thành thị đã tăng thêm 5,8% (từ 21,1% năm 1999 lên 26,9% năm

2009). Ở thành thị, tỉ lệ tăng dân số bình quân hàng năm đạt tới 3,25%/năm. Nguyên nhân

dân số thành thị tăng nhanh do quá trình đô thị hóa và việc điều chỉnh địa giới hành chính

tại một số địa phương. Dân số nông thôn còn chiếm tỷ lệ lớn, việc tạo ra công ăn việc làm,

nâng cao đời sống cho đại bộ phận người dân nông thôn là bài toán khó cho cơ quan ban

ngành địa phương.

- 41 -

* Nguồn lao động

Theo số liệu thống kê năm 2009, dân số trong độ tuổi lao động của Kiên Giang có

1.070,603 người, chiếm khoảng 63,59 % so với dân số toàn tỉnh, số người trong độ tuổi lao

động tăng hàng năm, có nguồn lao động dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản

xuất nhất là đối với những nghành nghề cần nhiều lao động.

BẢNG 2.4. CƠ CẤU LAO ĐỘNG KIÊN GIANG TỪ 2001 – 2009

Đơn vị %

Nông, lâm, thủy sản Công nghiệp -xây dựng Dịch vụ Năm

76,11 6,87 17,02 2001

73,64 7,47 18,89 2003

68,23 9,38 22,39 2005

57,58 11,47 31,25 2008

56,38 12,18 31,44 2009

Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Hình 2.3: Biểu đồ cơ cấu lao động Kiên Giang 2001-2009

Cơ cấu lao động theo ngành chuyển dịch theo hướng tăng tỉ lệ lao động khu vực dịch

vụ, giảm lao động khu vực nông-lâm-thủy sản nhưng chuyển dịch còn chậm chạp. Năm

2009 còn 56,38 % lực lượng lao động làm trong lĩnh vực nông-lâm-thủy sản . Đây là điều

kiện và là yêu cầu bắt buộc tỉnh phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp để thỏa mãn

việc làm cho lao động nông nghiệp:Thu nhập chính của lao động chủ yếu là từ cây lúa nên

thường không ổn định do biến động thị trường và ảnh hưởng thiên tai.tình trạng thiếu việc

làm, lao động nhàn rỗi do nông nghiệp có tính mùa vụ, mặt khác tỷ lệ lao động gia tăng

hàng năm tạo sức ép không nhỏ cho nền kinh tế-xã hội, vì vậy, cần đẩy mạnh thâm canh

tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, đa

- 42 -

dạng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho

ngành công nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất nông

nghiệp, cải thiện đời sống cho người nông dân.

Chất lượng nguồn lao động, mặt bằng dân trí trong tỉnh thấp hơn so với cả nước và

ĐBSCL, trình độ người lao động thấp điều này gây khó khăn trong quá trình vận dụng khoa

học kỷ thuật, khả năng tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công

nghệ vào các lĩnh vực sản xuất nói chung hay việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

nói riêng. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nói chung nhanh chóng hiệu quả, thì chất lượng lao động là điều kiện vô cùng quan

trọng. Việc nâng cao chất lượng lao động giúp cho người lao động dễ dàng chuyển hướng

sản xuất nông nghiệp, ứng dụng trình độ khoa học kĩ thuật để sản xuất nông nghiệp với qui

mô lớn, chất lượng và năng suất lao động cao, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trên một

đơn vị diện tích, khắc phục những yếu kém do tính chất thuần nông mang lại, cải thiện đời

sống nhân dân.

Đứng trước vấn đề trên, việc nâng cao chất lượng lao động của tỉnh, công tác giáo

dục, nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân lực được các cấp chính quyền quan tâm nhiều hơn, sẽ

thuận lợi cho quá trình CDCCKT nông nghiệp tỉnh diễn biến nhanh chóng hơn.

2.2.2.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật

* Mạng lưới giao thôngvận tải

Kiên Giang có mạng lưới giao thông vận tải tương đối phát triển. Tỉnh có các tuyến

đường bộ, đường thủy và đường hàng không nối liền các tỉnh trong cả nước và một số nước

khu vực Đông Nam Á, với cảng biển, cảng sông, sân bay. Kiên Giang cách thành phố Hồ

Chí Minh 250 km, cách thành phố Cần Thơ 115 km, có các tuyến thủy và đường bộ Quốc lộ

80, QL 61, QL 63, nối liền với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt

tuyến đường Xuyên Á từ Cămpuchia sẽ đi qua tỉnh Kiên Giang.…thuận lợi cho hoạt động

buôn bán, trao đổi hàng hóa và giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội trong nội tỉnh

cũng như các thành phố khác và với nước ngoài. Đồng thời sự phát triển và hoàn thiện của

mạng lưới vận tải sẽ góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hóa, tạo điều kiện cho việc

vận chuyển vật tư cũng như sản phẩm nông nghiệp một cách thuận lợi.

Giao thông vận tải đường thuỷ: Nằm trên tuyến đường thuỷ quốc gia(Hà Tiên- Rạch

Sỏi – Lộ tẻ), tỉnh Kiên Giang đã hình thành mạng lưới giao thông thuỷ trên các tuyến kênh

trục rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá trong vùng.

- 43 -

Tỉnh Kiên Giang có các cảng khá lớn như Rạch Giá, Rạch Sỏi, Hòn Chông, An Thới,

Phú Quốc,…đáp ứng yêu cầu bốc dỡ hàng hoá vận chuyển nội địa. Trong tương lai, khi

cảng Hòn Chông đựơc nâng cấp thành cảng quốc tế thì vai trò của giao thông đường thuỷ ở

tỉnh Kiên Giang sẽ được nâng lên rõ rệt.

Vận tải thuỷ Kiên Giang không chỉ phát triển trong nội vùng, liên vùng mà còn vươn

ra cả nước và quốc tế, làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngoài vai trò quan trọng với

hệ thống nền kinh tế quốc dân, đường biển là con đường quan trọng đưa hàng hóa nông

nghiệp không chỉ của tỉnh mà còn của cả đồng bằng sông Cửu Long…trao đổi với các tỉnh

phía Bắc và xuất khẩu, kích thích nông nghiệp của tỉnh phát triển hướng vào xuất khẩu, sản

xuất với qui mô lớn, gắn với công nghiệp.

Đường thuỷ ở tỉnh Kiên giang có mật độ khá cao nhưng việc khai thác chủ yếu vẫn

nằm trong tình trạng tự nhiên. Vào mùa lũ, hầu như toàn bộ các tuyến đường bộ bị ngập nên

giao thông chủ yếu theo đường thuỷ, nhưng do nước lớn, nhiều đoạn chảy xiết nên việc đi

lại rất khó khăn. Nhiều năm qua việc nạo vét không kịp thời làm bồi lắng gia tăng. Mặt

khác, lòng sông, kênh bị lấn chiếm nặng nề làm hạn chế vai trò của đường thuỷ.

Giao thông vận tải đường bộ:Trong hệ thống giao thông đường bộ tỉnh Kiên Giang

có tổng chiều dài 7.475km; trong đó, quốc lộ dài 125km, tỉnh lộ dài 106km, còn lại là đường

liên huyện,liên xã. Ngoài quốc lộ 80 là xương sống của tỉnh có chất lượng tương đối tốt, là

trục giao thông nối liền Kiên Giang với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đến cửa khẩu

Xà Xía sang Cam-Pu-Chia, Kiên Giang còn có quốc lộ 61 nối liền với Cần Thơ, Hậu Giang

và quốc lộ 63 nối liền với Cà Mau, ngoài quốc lộ chính tỉnh còn có nhiều tỉnh lộ nối liền

giao thông đến trung tâm xã, các ấp thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân và phát triển

kinh tế xã hội của địa phương. Mạng lưới giao thông đường bộ trong thời gian qua được

quan tâm đầu tư, nâng cấp ngày càng được cải thiện, nhất là mạng lưới giao thông nông

thôn từng bước hoàn thiện hơn. Tình trạng cầu tạm, cầu hẹp được nâng cấp và ngày càng

giảm dần, thay vào đó là cầu bê tông, nhựa hóa đường bộ, nhiều bến xe, bến phà được được

cải tạo kịp thời, đến năm 2010 có 80% đường liên xã, trục xã được nhựa hóa hoặc bê tông

hóa. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống giao thông đường bộ hiện nay của tỉnh tạo điều

kiện trao đổi hàng hóa nông nghiệp giữa các địa phương, đảm bảo vận vận chuyển sản phẩm

nông nghiệp từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ.

Giao thông vận tải hàng không:

Có thể nói rằng Kiên Giang là tỉnh có mạng có hoạt động giao thông vận tải hàng

không đáng kể nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Trên địa bàn tỉnh có 2 sân bay đang hoạt

- 44 -

động là sân bay Rạch Giá và Sân bay Phú Quốc với tuyến bay TP.Hồ Chí Minh – Rạch Giá

– Phú Quốc hoạt động 4 chuyến/tuần.

Cơ sở hạ tầng những năm gần đây phát triển khá, với nhiều loại hình giao thông

đường thủy, đường bộ, đường hàng không tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đẩy

mạnh giao lưu, trao đổi hàng hóa trong nội tỉnh cũng như các tỉnh khác và với nước ngoài.

Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, sự phát triển giao thông vận tải góp phần thúc đẩy nền

nông nghiệp hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình vận chuyển vật tư, phân phón

cũng như sản phẩm nông nghiệp đến nơi tiêu thụ.

Là một tỉnh nằm trong đồng bằng sông Cửu Long, mạng lưới sông ngòi dày đặc, lưu

lượng nước lớn, song lại chịu sự xâm nhập sâu của thủy triều và có một mùa lũ và một mùa

cạn rõ rệt nên hệ thống thủy lợi có vai trò đặc biệt quan trong trong việc tưới, tiêu; thau

chua, rửa mặn, phòng chống bão, lụt cho các vùng ven sông, ven biển. Hiện nay hệ thống

thủy lợi khá hoàn chỉnh, đứng về góc độ phục vụ nông nghiệp có 3 mục đích: chống lũ,

thoát nước, và tưới tiêu, trong đó tới 90% diện tích được tưới chủ động. Tỉnh kiên Giang có

diện tích phèn, mặn khá lớn. Đồng thời, do chế độ mưa theo mùa nên khả năng cung cấp

nước sinh hoạt nói chung và cho nông nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn. Vào mùa khô,

hầu hết các địa bàn trong tỉnh phải sử dụng nước ngầm từ các giếng khoan. Đặc biệt vùng

và vùng ven biển Hà Tiên – Kiên Lương rất thiếu nước.

Những năm gần đây, với dự án kiểm soát lũ và dẫn nước ngọt từ sông Hậu về biển

Tây đã góp phần ngọt hoá nhiều vùng phèn mặn trước đây. Bên cạnh đó, các dự án cung cấp

nước đô thị và nông thôn đang được triển khai như dự án cấp nước thị xã Hà Tiên 10.000m3/ngày, dự án cấp nước cho trung tâm huyện Hòn Đất 1.000m3/ngày…sẽ có tác động tích cực đến hoạt động nông nghiệp trên địa bàn.

- 45 -

Hệ thống thông tin liên lạc

Thông tin liên lạc luôn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, đặt biệt

trong nền kinh tế thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, thông tin liên lạc giúp người

nông dân kịp thời nắm bắt các thông tin liên quan đến sản xuất như kỹ thuật, kinh nghiệm,

thị trường, giá cả…

Hệ thống thông tin liên lạc ở tỉnh Kiên Giang đã được đầu tư phát triển khá nhanh

chóng. Năm 2009, toàn tỉnh Kiên Giang có 87 bưu cục đủ điều khả năng chuyển thư, điện

tín, báo chí, bưu phẩm, bưu kiện thông suốt trong và ngoài nước. Tỉnh đã đầu tư xây dựng

mạng lưới điện thoại vơi hệ thống tổng đài điện tử tự động, có 510 kênh, dung lượng tổng

đài 50.500 số. Số máy điện thoại trung bình trên 100 dân liên tục tăng. Ngoài ra các hình

thức thông tin liên lạc khác cũng phát triển: báo chí, truyền hình, internet…tất cả các

phường xã trên địa bàn đều có điện thoại, mạng internet về nông thôn.

Nhìn chung hệ thống thông tin liên lạc của tỉnh đã đáp ứng được yêu cầu kinh tế - xã

hội nói chung cũng như đối với nông nghiệp nói riêng. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp, thông tin liên lạc là điều kiện quan trọng giúp người nông dân nắm bắt

những thông tin về thị trường, đường lối chính sách cho nông nghiệp, nông thôn,…để chủ

động điều chỉnh hướng và quy mô sản xuất cho phù hợp. Người nông dân không chỉ học tập

mà còn có thể trao đổi kinh nghiệm sản xuất, nhất là những kĩ thuật sản xuất mới, giống, cây

trồng vật nuôi mới…thông qua mạng lưới thông tin liên lạc.

Hệ thống cung cấp điện

Điện là cơ sở năng lượng để thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Điện

góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa và cơ cấu ngành nông nghiệp từ nền nông

nghiệp qui mô nhỏ, manh mún, thủ công, tự túc trở thành nền nông nghiệp với qui mô lớn,

hiện đại, sản phẩm đa dạng, có thể sản xuất đến khâu cuối cùng để tạo ra sản phẩm cạnh

tranh trên thị trường.

Hệ thống cung cấp điện ở Kiên Giang cũng được đầu tư phát triển khá mạnh. Năm

2009, mạng lưới điện đã được đưa về tất cả các trung tâm huyện trong tỉnh, trên 90% các xã,

ấp có điện. Đến năm 2009, mạng lưới điện đã được đưa về các xã trong tỉnh, tỉ lệ đạt

93,7%.Trong đó, 96/96 xã trên đất liền và 9/15 xã đảo đã có điện.

- 46 -

Cơ sở vật chất kỹ thuật

Những năm gần đây, công nghiệp chế biến của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc,

tận dụng tốt nguồn nguyên liệu tại chỗ, tạo thêm giá trị gia tăng, giải quyết việc làm cho

người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Toàn tỉnh hiện có hơn 8.800 cơ sở chế biến

nông-lâm-thủy sản lớn nhỏ, thu hút gần 40 nghìn lao động. Giá trị ngành công nghiệp này

giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình quân 11,73%, chiếm tỷ trọng 22-26% trong giá trị sản

xuất công nghiệp của tỉnh. Ðể tạo được bước phát triển đó, tỉnh Kiên Giang luôn tạo điều

kiện về mọi mặt, trong đó đẩy mạnh công tác kêu gọi đầu tư. Trong năm năm, toàn tỉnh đã

có 26 dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông-thủy sản, với tổng vốn đầu

tư hơn 437 tỷ đồng. Nhiều nhà máy chế biến có công suất lớn đã được đầu tư xây dựng đáp

ứng cơ bản về nhu cầu giải quyết đầu ra cho các mặt hàng nông sản thiết yếu của tỉnh. Chỉ

tính riêng lĩnh vực chế biến thủy, hải sản, Kiên Giang đã có hơn bốn nghìn cơ sở lớn nhỏ,

nằm rải rác khắp các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Tỉnh đã dần hình thành được khu

công nghiệp chế biến tập trung tại cảng cá Tắc Cậu - cảng cá có quy mô lớn nhất nước. Chỉ

mới hoàn thành giai đoạn I, nhưng hiện tại khu vực cảng cá Tắc Cậu đã có hàng chục doanh

nghiệp đầu tư xây dựng nhà, xưởng, cơ sở sản xuất, chế biến hàng đông lạnh xuất khẩu. Các

doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư công nghệ hiện đại, dây chuyền nướng, xé mực tẩm gia

vị, dây chuyền chế biến các mặt hàng cao cấp ăn liền xuất khẩu, xây dựng nhà máy chế biến

đồ hộp... nâng cao trình độ và năng lực chế biến hải sản, giảm dần tỷ trọng sản phẩm chế

biến thô, đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là thị trường nước ngoài. Hiện với 22 nhà máy

đông lạnh công suất gần 119 nghìn tấn; hai nhà máy chế biến bột cá công suất 41 nghìn tấn;

một nhà máy cá hộp công suất 11 triệu lon/năm; 155 cơ sở chế biến nước mắm... hằng năm

Kiên Giang sản xuất được gần 32 nghìn tấn sản phẩm tươi, khoảng 20 nghìn tấn khô, bốn

nghìn tấn cá hộp, 20 nghìn tấn bột cá, 42 triệu lít nước mắm…Ngoài ra, tỉnh còn có 720 cơ

sở xay xát, một nhà máy chế biến đường, một nhà máy chế biến khóm với hai dây chuyền

sản xuất; mỗi năm sản xuất được 1,9 triệu tấn gạo; 13-15 nghìn tấn đường, 5 nghìn tấn nước

khóm cô đặc, hai nghìn tấn khóm hộp; đáp ứng 70% sản lượng hàng nông sản của người

dân.

Đầu tư nâng cấp các cơ sở giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, đồng thời đẩy mạnh

xã hội hóa công tác giống. Chỉ đạo chặt chẽ lịch thời vụ trồng lúa, nuôi tôm và cơ cấu giống

từng mùa vụ, từng vùng; hướng dẫn nông ngư dân sử dụng giống kỹ thuật, giống chất lượng

trong sản xuất và áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật-công nghệ để tăng năng suất, chất

lượng, hạ giá thành, bảo đảm chất lượng.

- 47 -

2.2.2.3. Thị trường

Nền nông nghiệp của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, hiện nay đều hướng vào

nền nông nghiệp hàng hóa, do đó yếu tố thị trường đóng vai trò cực kì quan trọng. Thị

trường tiêu thụ của tỉnh bao gồm thị trường trong nước và thị trường ngoài nước.

Thị trường trong nước: bao gồm thị trường của tỉnh, thị trường đồng bằng sông Cửu

Long và cả nước. Thị trường này được tạo nên bởi nhu cầu tiêu dùng của số lượng dân cư

đông và nhu cầu của các cơ sở công nghiệp chế biến cả trong và ngoài tỉnh.

Những sản phẩm nông nghiệp của tỉnh được tiêu thụ ở thị trường trong nước và đồng

bằng sông Cửu Long hiện nay là : gạo, thủy sản, thịt lợn, thịt gia cầm, tiêu, …những nông

sản tiềm năng khác như: hoa quả, gạo, thủy sản, rau sạch…Điều đó đòi hỏi nông nghiệp

phải tích cực thay đổi cơ cấu nghành nông nghiệp: Cần chuyển những sản phẩm yếu thế của

tỉnh (diện tích canh tác bị thu hẹp, nguồn thức ăn hạn chế, hiệu quả kinh tế thấp), để chuyển

sang những sản phẩm mà nhu cầu thị trường lớn, hiệu quả kinh tế cao hơn.

Thị trường trong nước nhiều tiềm năng bởi tỉnh có tỉ lệ dân đô thị ngày càng tăng,

ngoài nhu cầu lớn về lương thực-thực phẩm thì nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao qua chế

biến những sản phẩm mà đô thị cần như hoa, rau sạch, thịt gia súc, gia cầm, sữa,

trứng…ngày một nhiều. Điều đó đòi hỏi tỉnh phải chuyển đổi hướng sản xuất nông nghiệp.

Thị trường ngoài nước: Xu hướng toàn cầu hóa đã làm thị trường nông sản của tỉnh có sự

thay đổi, phạm vi thị trường ngày càng mở rộng ra toàn thế giới, thị trường ngoài nước ngày

càng tỏ ra quan trọng đối với kinh tế nói chung và nông nghiệp Kiên Giang nói riêng. Thị

trường càng mở rộng tạo ra những cơ hội cho tỉnh mở rộng qui mô sản xuất, tạo ra nhiều sản

phẩm mới gắn với công nghiệp chế biến để xuất khẩu.

Đối với thị trường ngoài nước, mặt hàng nông sản thường không ổn định để được thị

trường chấp nhận phải chú ý cải tiến kĩ thuật canh tác, giống, cây trồng, vật nuôi, hướng vào

thị hiếu người tiêu dùng và sử dụng công nghệ mới trong chế biến.

Tuy nhiên, từ đầu năm 2010, thuỷ sản chính cũng là ngành chịu tác động lớn nhất đối

với các quy định của WTO, đặc biệt là đối với cá da trơn.

Mới đây, 60 lô hàng hải sản tương đương khoảng 200 tấn của 5 doanh nghiệp xuất

khẩu tại tỉnh Kiên Giang vừa được cấp chứng nhận đủ điều kiện đưa vào thị trường châu Âu

(EU). Đây là những lô hàng đầu tiên của địa phương xuất vào thị trường này. Hiện nay các

doanh nghiệp của tỉnh Kiên Giang đã xuất khẩu thủy sản đến 36 thị trường (tăng 5 thị

trường so với cùng kỳ).

Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Kiên Giang thời gian tới vẫn tập trung vào các thị

trường truyền thống như Đông Nam Á, Mỹ, EU, Nhật, Nga, Đài Loan,... Hiện đang xúc tiến

- 48 -

mở rộng thêm một số thị trường như Trung Quốc, các nước Đông Âu, Châu Phi,... và tăng

kim ngạch đối với thị trường có kim ngạch thấp như New Zealand, Canada,...

2.2.2.4. Đường lối chính sách và các yếu tố khác

Từ năm 1987, Kiên Giang đã thực hiện hàng loạt các chủ trương nhằm đẩy mạnh

khai hoang phục hóa, đẩy mạnh phong trào thâm canh tăng vụ, giao quyền sử dụng đất ổn

định và lâu dài cho nông dân, đẩy mạnh chương trình khuyến nông, chính sách tín dụng cho

vay, chủ trương tự do thương mại và phát triển thành phần kinh tế, chính sách hỗ trợ nhằm

giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. “Ngoài phần hỗ trợ lãi suất cho

doanh nghiệp thu mua, có thể xem xét hỗ trợ cho nông dân tự phơi sấy, bảo quản lúa được

vay vốn với lãi suất hỗ trợ”, mua máy nông nghiệp, thủy sản được hỗ trợ lãi suất,…Các

chính sách trên tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển với tốc độ nhanh từng

bước CNH-HĐH nông thôn. Gần đây nổi bật với những chính sách hỗ trợ đầu tư cho việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian qua và những dự án trong thời gian

tới: Ngành nông nghiệp xác định và tổ chức thực hiện 7 chương trình trọng điểm với 10 dự

án ưu tiên, gồm: Chương trình phát triển các vùng nguyên liệu tập trung gắn với chế biến,

xuất khẩu (lúa chất lượng cao, mía, khóm, tôm…); Chương trình phát triển kinh tế biển đảo;

Chương trình xây dựng nông thôn mới; Chương trình giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản;

Chương trình cấp nước sinh hoạt và VSMT nông thôn; Chương trình phát triển chế biến

nông -lâm-thủy sản; Chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ nông

nghiệp, nông thôn. Triển khai Dự án vùng nuôi trồng tôm-lúa bền vững U Minh Thượng;

Dự án hệ thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, thủy sản, lâm

nghiệp khu vực Hòn Đất, Kiên Lương, Giang Thành; Dự án hệ thống thủy lợi ngọt hóa vùng

U Minh Thượng; Dự án củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển tỉnh Kiên Giang; Dự án Cảng

cá Tắc Cậu giai đoạn 2; Dự án Trung tâm sản xuất giống thủy sản Phú Quốc; Dự án khu

vườn tổng hợp nuôi trồng thủy sản trên biển Phú Quốc; Dự án cấp nước và xây dựng các hồ

chứa nước trên các đảo; Dự án sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản; Dự án tăng cường năng

lực chuyển giao tiến bộ kỹ thuật phát triển nông nghiệp, nông thôn.

2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang

2.2.1. Tổng quan về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung

Kiên Giang là tỉnh nằm ở cực Tây Nam của đất nước, nằm cách xa các khu vực kinh tế

năng động, các thành phố lớn, phần lớn dân cư hoạt động trong ngành nông nghiệp.

- 49 -

Bước sang một giai đoạn mới nên nền kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do sự

thay đổi cơ chế quản lí trong bối cảnh tiếp cận với nền kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng

đến tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh. Tuy nhiên những năm gần đây tỉnh có bước chuyển

mình, từng bước đưa nền kinh tế của tỉnh đi vào thế ổn định và phát triển.

Do tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định (bình quân hàng năm đạt 11,5%),

GDP bình quân đầu người đạt 25,26 triệu đồng ( tương đương 1.320 USD) gấp 2 lần so với

năm 2000 ( 592 USD ).

* Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

BẢNG 2.5. CƠ CẤU ( GDP) THEO NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH KIÊN GIANG

TỪ 2000 - 2009

( theo giá thực tế)

Tổng GDP Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Năm Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng %

100 6.393 39,65 6.212 38,53 3.518 21,82 2001 16.123

100 10.806 41,14 9.614 36,60 5.846 22,26 2004 26.266

100 17.791 39,30 16.652 36,79 10.824 23,91 2007 45.267

100 33.459 38,19 31.132 35,54 23.015 26,27 2010 87.607

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Từ bảng số liệu trên, ta thấy cả 3 ngành kinh tế cơ bản của tỉnh đều tăng trưởng. Cơ

cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng

dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự chuyển dịch này diễn ra còn chậm và không

ổn định.

100%

22.26

21.82

23.91

26.27

80%

60%

36.6

38.53

36.79

35.54

40%

41.14

20%

39.3

39.65

38.19

0%

2004

2007

2010

2001

Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ

- 50 -

Hình 2.4 : BIỂU ĐỒ CƠ CẤU (GDP) THEO NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH 2001-

2010

Nông- lâm-thủy sản tăng trưởng khá và ổn định nhờ vào việc đầu tư giống, kĩ thuật

canh tác, xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái ở địa phương,

và nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Gía trị GDP nông nghiệp tỉnh tăng từ 6.393 tỷ

đồng(2001) lên 33.459 tỷ đồng(2010). Tuy nhiên, đây là ngành có tốc độ tăng thấp, nên tỉ

trọng giảm (năm 2001)chiếm 40% giảm xuống 38% (năm 2010), đồng thời chiếm tỉ lệ khá

cao trong GDP toàn tỉnh, với cơ cấu kinh tế này, Kiên Giang thực sự là tỉnh nông nghiệp.

Riêng tỉ trọng ngành công nghiệp tăng không ổn định, có xu hướng giảm do nhiều

yếu tố tác động(vốn, thị trường,…), tuy nhiên, giá trị GDP tuyệt đối vẫn tăng. Cơ cấu công

nghiệp- xây dựng tăng trưởng bình quân 13,1% năm. Xúc tiến quy hoạch và chuẩn bị đầu tư

một số khu, cụm công nghiệp quy mô lớn nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xét về

chất lượng, hiệu quả và các sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao còn chiếm tỷ trọng

thấp, chưa tạo ra sự đột phá. Kiên Giang cần chú ý phát triển đẩy mạnh những ngành công

nghiệp mà tỉnh có nhiều tiềm năng để đưa tỷ trọng của ngành này tăng lên.

Ngành dịch vụ có xu hướng tăng nhanh, từ 22% năm 2001 lên 26% năm 2010.

Trong nền kinh tế hàng hóa, vai trò của dịch vụ ngày càng tăng, giai đoạn 2000-2010 tăng

thêm 4-5% trong cơ cấu GDP của tỉnh. Tuy nhiên những ngành dịch vụ như thương mại, du

lịch, tài chính đang thiếu điều kiện để phát triển như vốn, trang thiết bị, tổ chức kinh doanh,

cơ chế chính sách…Hoạt động dịch vụ nhờ chính sách đổi mới tự do hóa thương mại và

phát triển các thành phần kinh tế nên có xu hướng tăng nhưng tốc độ còn chậm, đồng thời

- 51 -

đóng góp của ngành này vào GDP còn rất nhỏ bé. Để đảm bảo cho sự phát triển vững chắc

nền kinh tế bên cạnh đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo chiều sâu.

Các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực có thế mạnh được tăng cường đầu tư khai

thác, phát huy tốt hơn. Trong đó ngành nông-lâm-thủy sản giữ vai trò quyết định đối với tốc

độ tăng trưởng của tỉnh. Các chỉ tiêu về sản lượng, khai thác và nuôi trồng thủy sản, kim

ngạch xuất khẩu đều đạt và vượt chỉ tiêu.

Chuyển dịch CCKTNN tuy còn chậm, song đã đúng hướng, có nhiều mô hình sản

xuất có hiệu quả, khai thác được lợi thế của cây, con trong vùng. Kết cấu cơ sở hạ tầng

được tăng cường, làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch này còn thiếu sự gắn kết

giữa việc tăng năng suất, mở rộng diện tích tăng, điều này ảnh hưởng đến tính bền vững

trong nông nghiệp.

* Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế

Cơ cấu thành phần kinh tế đang chuyển dịch theo đúng quy luật khách quan với sự

phát triển mạnh của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước tuy giảm dần

về tỉ trọng song vẫn giữ vai trò chủ đạo. Khu vực kinh tế nhà nước nắm vững những ngành

chủ chốt trong các khu vực kinh tế: chế biến lương thực-thực phẩm, chế biến tiêu dùng, cơ

khí đóng tàu, vật liệu xây dựng…

Với chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong nền kinh tế của tỉnh đã và

đang có sự tham gia của thành phần kinh tế nước ngoài và chiếm tỷ trọng ngày càng cao

trong cơ cấu GDP của tỉnh.

Trong thời kì 2001 – 2009, nguồn vốn huy động toàn xã hội đạt khoảng 20 nghìn tỉ

đồng, chiếm 34% tổng GDP của tỉnh. Nguồn vốn kinh doanh ngày càng đóng vai trò quan

trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của tỉnh. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có xu

hướng giảm 6,3%(2004) xuống còn 2,6%(2010) mặc dù tỷ trọng giảm nhưng sự đóng góp

giá trị tuyệt đối cầng tăng.

BẢNG 2.6: CƠ CẤU (GDP) CỦA TỈNH PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ

GIAI ĐOẠN 2004 – 2010 (Theo giá thực tế)

2004

2006

2008

2010

Năm

Tỷ đồng

%

Tỷ đồng

%

Tỷ đồng

%

Tỷ đồng

%

Tổng số

13.191,764

100

18.856,711

100

31.370,740

100

44.103,684

100

KT nhà nước

3.186,215

24,15

4.380,065

23,23

5.580,020

17,79

7.604,839

17,24

KTngoài nhà

9.175,658

69,55

13.469,275

71,43

24.658,579

78,60

35.358,305

80,17

nước

- 52 -

KT có vốn

đầu tư nước

829.891

6,30

1.007,371

5,34

1.132,141

3,61

1.140,540

2,59

ngoài

Nguồn niên giám thống kê Kiên Giang

Hình 2.5.Biểu đồ cơ cấu (GDP) phân theo thành phần kinh tế 2004-2010

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ: có xu hướng giảm sự chênh lệch giữa các

vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hóa nông thôn, chủ trương phát triển nhanh vùng ven biển và

đảo.

Khu vực thành thị ngày càng được mở rộng qui mô, phát triển các ngành công nghiệp

và dịch vụ( bao hàm thành phố, thị xã, thị trấn)

Khu vực nông thôn tập trung sản xuất theo hướng hàng hóa, tăng tỷ trọng khu vực

phi nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình đóng vai trò chủ yếu ở nông thôn, các hợp tác xã đảm

đương chức năng dịch vụ được hình thành, các mô hình sản xuất có hiệu quả được xuất hiện

ở nhiều nơi. Vẫn có sự chênh lệch về nhiều mặt kinh tế xã hội ở khu vực này

Khu vực ven biển phía Tây Nam được tập trung thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư cả

trong và ngoài nước cho phát triển công nghiệp – dịch vụ - thủy sản, dịch vụ - thương mại,

vận tải.

Khu vực đảo gồm hai huyện đảo Phú Quốc và Kiên Hải, đây là địa bàn chiến lược,

có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng. Khả năng định hướng phát triển khu vực đảo

trồng các cây công nghiệp(Hồ tiêu, dừa), đánh bắt hải sản, phát triển công nghiệp chế biến

hải sản( làm nước mắm), sửa chữa tàu thuyền, sản xuất sành sứ,…

Sự tích cực tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Kiên Giang, bước đầu

củng cố và phát triển cơ sở vật chất hạ tầng; cải thiện được đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân: bình quân thu nhập tăng, mức tiếp cận với đài phát thanh truyền hình của

- 53 -

người dân đạt 24/24h, tỷ lệ dân thành thị tăng, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh ngày càng giảm từ

14,0%(2005) xuống còn 4,5%(2010).

Như vậy trong thời kì 2000 – 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn cao, cơ

cấu kinh tế chung của tỉnh chuyển dịch theo chiều hướng tích cực cả về phương diện ngành,

thành phần kinh tế và lãnh thổ; trong đó tăng vai trò khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài, khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm, tỷ trọng nông nghiệp giảm khá, nhiều

mặt kinh tế xã hội của tỉnh có nhiều thay đổi, song vẫn có sự chênh lệch giữa thành thị và

nông thôn. Cần có một cơ cấu kinh tế hợp lí giải quyết những vấn đề này.

2.2.2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Là tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển về nông, lâm, ngư nghiệp nhưng tỉnh Kiên

Giang chỉ chọn cây lúa và con tôm để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành. Với sản xuất cây lúa là chủ lực nên giá tiêu thụ nông sản đặc biệt là lúa gạo

có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống người nông dân và tốc độ phát triển kinh tế toàn

tỉnh. Trước tình hình kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động về nhiều mặt đã ảnh

hưởng xấu đến giá xuất khẩu một số nông sản. Để tồn tại và phát triển nền kinh tế nông

nghiệp tỉnh phải có hướng chuyển dịch tích cực, thích ứng nhanh với sự cạnh tranh gay gắt.

Bên cạnh đó tỉnh có nhiều nhân tố điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội như đã phân tích ở

trên khá thuận lợi cho việc chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Có thể nói:

chuyển dịch CCKT ngành trước hết ưu tiên cho mục tiêu an ninh lương thực và tăng nguồn

nông sản cho chế biến xuất khẩu. Mặt khác nền nông nghiệp tỉnh đang có một vai trò quan

trọng trong việc ổn định kinh tế, đời sống nhân dân và hậu thuẩn cho quá trình CNH-HĐH.

Nhìn lại trong thời gian qua chuyển dịch CCKT nông lâm ngư nghiệp có chuyển biến tích

cực, tuy rằng sự chuyển dịch này vẩn còn chậm so với yêu cầu. Vì vậy, tỉnh đã có chủ

trương tăng cường chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế về

chăn nuôi và thủy sản, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển với tốc độ cao, cải thiện chất

lượng tăng trưởng.

* Sự chuyển dịch trong cơ cấu giá trị sản xuất của toàn ngành:

Cũng giống như tình hình chung cả nước, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông

nghiệp tỉnh được thay đổi trong sự chuyển dịch giá trị sản xuất và cơ cấu tổng sản phẩm

GDP của toàn ngành theo hướng tích cực, thể hiện ở việc giảm dần tỷ trọng của lĩnh vực

nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành thủy sản trong cơ cấu giá trị sản xuất cũng như

trong cơ cấu GDP. Tuy nhiên sự chuyển biến này còn chậm và chưa thật sự ổn định.

- 54 -

BẢNG 2.7. CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM, THỦY SẢN

KIÊN GIANG (Theo gía hiện hành)

ĐVT: triệu đồng

Chỉ tiêu 2000 2006 2009

Tổng số 6.097.119 % 15.437.378 % 28.267.026 %

-Nông nghiệp 4.280.530 70,2 9.264.489 60,0 18.195.389 64,36

-Lâm nghiệp 130.254 2.1 129.561 0,8 197.728 0,70

-Thủy sản 1.686.335 27,7 6.043.328 39,2 9.873.909 34,93

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Gía trị sản lượng của của ngảnh nông lâm ngư nghiệp trong gần 10 năm qua đã tăng

( từ 6.097.119 triệu đồng lên 28.267.026 triệu đồng) tăng 3,6 lần. Tuy nhiên, ngành thủy sản

có tốc độ tăng nhanh hơn ( tăng 5,9 lần ), ngành nông nghiệp tăng 13.784.605 triệu đồng (

tăng 4,2 lần ).

Xét về cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm nhưng không đáng

kể ( giảm 72 % năm 2000 xuống còn 64% năm 2009, trong khi ngành lâm nghiệp giảm

,không ổn định, qua đó ta thấy rằng ngành nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu

ngành nông, lâm,thủy sản.

Trong ba ngành, ngành thủy sản với chu kỳ kinh tế ngắn, tổ chức sản xuất khép kín,

thị trường phát triển thuận lợi. Trong gần 10 năm qua, tỷ trọng GDP thủy sản tăng từ 27%

năm 2000 lên 35,% năm 2009, điều này cho thấy ngành thủy sản đang phát huy được thế

mạnh của mình, khai thác tiềm năng cả về nuôi trồng cũng như đánh bắt để sản xuất ra sản

phẩm ngày càng tăng đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.

Ngành lâm nghiệp có chu kỳ kinh tế rất dài, địa bàn sản xuất trải rộng, thị trường

hạn chến nên tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua rất thấp. Mặc dù, rừng có nhiều chức

năng rất quan trọng đối với môi trường và xã hội, không thể tính toán đơn thuần về mặt tăng

trưởng kinh tế được. Điều này cho thấy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong

thời gian qua còn chậm, sản xuất nông nghiệp thuần vẫn còn phổ biến.

Giai đoạn 2006-2010

- Tổng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản năm 2010 đạt 13.159,5 tỷ đồng (giá cố

định 1994), tăng 7,3% so với năm 2009, trong đó: Nông nghiệp 7.920,5 tỷ đồng, tăng 6,4%;

Thủy sản 5.079,3 tỷ đồng, tăng 9%; Lâm nghiệp 159,7 tỷ đồng, tăng 1,9%.

- 55 -

Cơ cấu kinh tế ngành: tỷ trọng GTSX nông nghiệp chiếm 60,19%, thủy sản chiếm

38,6%; trong nông nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi chiếm 9,67%, dịch vụ chiếm 4,5%; trong thủy

sản, tỷ trọng thủy sản nuôi trồng chiếm 56,4%.

Tăng trưởng nông lâm thủy sản đã góp phần đưa tổng sản phẩm xã hội của tỉnh tăng

12,1% và chiếm tỷ trọng 42,6%.

- Với kết quả đạt được năm 2010, giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng giá trị sản xuất

toàn ngành bình quân hàng năm 7,3% (kế hoạch 9,5%), trong đó nông nghiệp tăng 5,5% (

KH 4,5%), lâm nghiệp tăng 5,6% (KH 13,5%), Thủy sản tăng 10,7% ( KH 16,8%). Tuy

chưa đạt kế hoạch đề ra song trong bối cảnh thường bị thiên tai dịch bệnh, giá cả biến động

bất lợi và bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ( năm 2008-2009), mức tăng

trưởng nêu trên đạt khá, cao hơn bình mức tăng bình quân chung cả nước ( 4,93%).

Cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch tích cực, đúng hướng: Tỷ trọng giá trị sản xuất

nông nghiệp giảm từ 65,5% ( năm 2005) xuống 60,2%, thủy sản tăng từ 33,2% lên 38,6%.

2.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành

Trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi đều có vai trò quan trọng

đối với tỉnh và với cả đồng bằng sông Cửu long. Chúng có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau

cả về kinh tế cũng như về mặt sinh học trong hệ thống nông nghiệp bền vững. Chính sách

phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh đưa chăn nuôi

thành một ngành chính, nâng cao tỉ trọng ngành chăn nuôi.

BẢNG 2.8. CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP CÁC NĂM 2000

- 2009 (Theo giá thực tế )

TT Năm 2000 2005 2009

Giá trị Giá trị sản Giá trị sản % % % Ngành sản xuất xuất xuất

Tổng số 4.410.784 100 9.085.907 100 18.227.667 100

1 Trồng trọt 3.623.101 82,14 7.738.187 85,17 15.191.152 83,37

2 Chăn nuôi 398.308 9,03 800.075 8,80 2.125.318 11,68

3 Dịch vụ 389.375 8,83 547.645 6,03 911.197 4,95

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

- 56 -

Trong nội bộ ngành nông nhiệp, cơ cấu trồng trọt chăn nuôi có sự chuyển biến tích

cực : giai đoạn 2005-2009 giảm tỉ trọng ngành trồng trọt tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi. Tuy

nhiên quá trình này diễn ra chậm, tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt trong tổng giá trị sản

xuất nông nghiệp giảm từ 85% năm 2005 xuống còn 83% năm 2009. Trồng trọt vẫn là

ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, là ngành đóng vai trò quan trọng phục vụ nhu cầu

lương thực, thực phẩm, và cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và xuất

khẩu.

Chăn nuôi, sau rất nhiều cố gắng, gần đây tỷ trọng tăng 9% năm 2000 lên 12% năm

2009, tuy nhiên, tỷ trọng thay đổi rất chậm, mặc dù ngành trồng trọt có nhiều lợi thế hơn,

nhưng chưa thể hỗ trợ hoàn toàn thức ăn cho chăn nuôi, công nghiệp chế biến thức ăn cũng

chậm phát triển, chăn nuôi mang tính tận dụng nguồn thức ăn là chính. Ngành chăn nuôi

chiếm 11,68% cơ cấu GDP nông nghiệp chưa đủ để trở thành ngành chính.

Khu vực dịch vụ tăng trưởng rất chậm, chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và

đời sống nông thôn và chưa trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho cư dân nông thôn.

Dịch vụ nông nghiệp là lĩnh vực mới xuất hiện khi kinh tế Việt Nam phát triển nền kinh tế

thị trường, nó hỗ trợ cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở nông thôn, nhưng vai

trò của ngành chưa được phát huy do nông dân cả nước nói chung và Kiên Giang nói riêng

chưa thích ứng với cơ chế thị trường vốn phức tạp, đồng thời xuất phát điểm của ngành dịch

vụ nông nghiệp thấp nên mặc dù là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng còn thấp

và thay đổi thất thường.

Như vậy trong cơ cấu ngành nông nghiệp, mặc dù vẫn có sự mất cân đối lớn giữa

trồng trọt và chăn nuôi, xong đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng

trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Từng bước đưa chăn nuôi thành ngành xản xuất

chính, cân đối với trồng trọt đồng thời phát triển ngành trồng trọt theo hướng thâm canh, sử

dụng giống cây trồng theo hướng thâm canh, sử dụng các loại giống cây trồng có năng xuất

cao, chất lượng tốt thay đổi cơ cấu mùa vụ,…nhằm đảm bảo an ninh lương thực, tạo ra

nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

160

140

120

100

80

60

40

20

0

2007

2001

2003

2005

2009

Tổng số

Trồng trọt

- 57 -

Hình 2.6: Biểu đồ gía trị sản xuất ngành nông nghiệp

* Chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt

Ngành trồng trọt là ngành chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh chiếm 83,37 %

giá trị sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng chính của tỉnh là lúa, rau màu, cây công

nghiệp và cây ăn trái. Trong nội bộ ngành trồng trọt cũng có sự biến động về giá trị sản

xuất, diện tích gieo trồng.

Tổng diện tích đất nông nghiệp trong 10 năm qua tăng từ 570.531 ha năm 2000 lên

654.129 ha năm 2009. Trong đó diện tích trồng cây hàng năm tăng 548.726ha lên 631.830

ha. Việc diện tích trồng cây hàng năm ( chủ yếu cây lương thực tăng nhanh do ngoài việc

nông dân ứng dụng khoa học kỹ thuật, giống mới vào sản xuất còn do quá trình mở rộng

diện tích làm cho giá trị sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu lương

thực trong nước và xuất khẩu.

Diện tích cây công nghiệp lâu năm chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đang có xu hướng giảm.

Nguyên nhân diện tích trồng cây lâu năm không ổn định là do thị trường tiêu thụ sản phẩm

không ổn định. Việc phát triển diện tích một số cây công nghiệp ồ ạt, không tính đến nhu

cầu thị trường nên đã dẫn đến cung vượt cầu làm giá sản phẩm giảm nhanh chóng,.

Về cơ cấu diện tích đất dành cho các loại cây trồng cho thấy xu hướng tăng tỷ trọng diện

tích đất dành cho cây công nghiệp hàng năm từ 96% năm 2000 lên 97% năm 2009, trong

khi tỷ trọng diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm có xu hướng giảm từ 3,8 %năm 2000

xuống 3,4% năm 2009.

- 58 -

Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt: Diễn ra khá chậm do những hạn chế của sản xuất

hàng hóa như thị trường tiêu thụ hay khâu chế biến nhưng nhìn chung có sự chuyển dịch

tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, giảm tỉ trọng cây lương thực( Lúa) tăng tỉ trọng các

loại cây trồng có lợi thế như rau, đậu, cây ăn quả …tuy tốc độ tăng không cao do đặc trưng

của tỉnh là đồng bằng dân đông nên tỉ trọng cây hằng năm lớn. Cây lương thực chiếm tỉ

trọng lớn nhưng đang có xu hướng giảm dần từ 93%( 2005) xuống còn 87%(2010), rau đậu

có xu hướng tăng 1,5% (2005) lên 2,3% (2010)…cây lâu năm có tỉ trọng nhỏ đang có xu

hướng tăng dần lên như cây ăn quả từ 4,5%(2005) lên 7,8%(2010)

Bảng 2.10. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VÀ CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH

TRỒNG TRỌT TỪ 2005-2010( theo giá thực tế)

ĐVT:%

Hạng mục 2005 2008 2010

GTSX (%) GTSX (%) GTSX (%)

7.738.187 100 14.780.408 100 17.794490 100 Tổng số

13.511.598 91,4 15.529.707 87,3 Lương thực 7.206.906 93,1

106.110 1,4 233.673 1,6 407.089 2,3 Rau đậu

118.195 1,5 272.307 1,8 469.033 2,6 Cây CN

4,0 762.830 5,2 1.388.661 7,8 Cây ăn quả 306.976

Nguồn :Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Cây lương thực có tốc độ tăng nhanh đạt 10.5%/năm trong giai đoạn 2004 – 2010,

các giai đoạn tiếp theo tốc độ tăng trung bình luôn giảm. Nhóm cây ăn quả là nhóm cây có

tốc độ tăng cao trong ngành trồng trọt đạt 7.6%/năm.

Rau đậu và các cây ngắn ngày khác là nhóm cây có giá trị thương phẩm cao, có thể

xen với cây lương thực được phát triển mạnh ở những khu vực ven đô thị, những khu vực

dân cư đông. Giai đoạn 2006 – 2008 tốc độ tăng giá trị sản xuất rau đậu cao nhất là

9.2%/năm. Nhưng tốc độ gần đây lại giảm, điều này liên quan đến việc thu hẹp diện tích

trồng và sự biến động sự phức tạp của thị trường.

- 59 -

* Đối với nhóm cây lương thực: Lúa, ngô, khoai

Cây lúa: Đóng vai trò quan trọng nhất nhưng là loại cây có giá trị thương phẩm thấp được

trồng để phục vụ nhu cầu cho nhân dân của tỉnh và xuất khẩu.

Tăng(+) giảm(-)

BẢNG 2.12: DIỆN TÍCH-NĂNG SUẤT LÚA( 2000-2010)

Cây

Năm

2000

2005

2008

2010

trồng

2010/2000

2000=100%

Lúa

Diện tích(Ha)

540.923

595.797

609.203

638.939

+98.016

118,1

42,22

49,42

55,60

54,72

+12,5

129,6

Năng

suất(T/ha)

Sản lượng(Tấn) 2.284.288

2.944.315

3.387.148

3.497.053 +1.662.756 153,1

Nguồn Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

Trong vòng 10 năm từ năm 2000 đến nay, diện tích gieo trồng lúa tăng 98.016 ha,

sản lượng lúa tiếp tục tăng 1.662.756. Diện tích gieo trồng lúa năm 2000: 540.923ha tăng

năm 2010: 638.939 ha. Sản lượng lúa tăng nhanh năm 2000: 2.284.288 tấn đến năm 2010:

3.497.053 tấn.

Trong những năm qua, diện tích, năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng lên, nhờ

chính sách ưu đãi cho nông nghiệp, áp dụng giống mới, phát triển thủy lợi, cơ cấu mùa vụ

thay đổi, vụ đông xuân được mở rộng, vụ hè thu được trồng đại trà, vụ mùa giảm, vụ thu

đông tăng lên, dẫn đến bình quân lúa/người tăng 1,5 lần. Tuy nhiên sản lượng tăng trong

thời gian qua do mở rộng diện tích đất nông nghiệp, diện tích canh tác vụ 3.

Với sự đa dạng về giống và kĩ thuật canh tác, hiện nay lúa được trồng nhiều vụ trong

năm, nhưng có ba vụ chính là vụ đông xuân, vụ hè thu và vụ mùa. Trong đó diện tích lúa

đông xuân, hè thu tăng, diện tích, năng xuất lúa mùa thấp hơn do sự tác động của sâu bệnh,

thiên tai. Đây là thời gian nóng ẩm nhiều tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển, khả năng lây

lan trên diện tích rộng

Kiên Giang không ngừng nổ lực tìm kiếm những giống lúa có năng suất cao. Diện

tích sản xuất lúa của Kiên Giang đến năm 2010, diện tích đạt 638.939 ha, sản lượng đạt trên

3 triệu tấn, tuy nhiên việc đầu tư nâng cao chất lượng lúa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu được

Tỉnh và Sở Nông nghiệp & PTNT quan tâm chỉ đạo. Với diện tích lớn như trên nhu cầu

giống xác nhận rất lớn 32.000 tấn trong khi mỗi năm Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư,

- 60 -

Trung tâm Giống Nông Lâm Ngư nghiệp chỉ thực hiện được 1.500 h/vụ, với sản lượng ước

6.500 tấn chỉ đáp ứng được 20,4% diện tích sản xuất.

* Cơ cấu mùa vụ:

- Vụ Đông Xuân từ tháng 11 - 3 dl

- Vụ Hè Thu từ tháng 4 - 9 dl

- Vụ mùa từ tháng 7 - 01 dl năm sau

BẢNG 2.13. CƠ CẤU DIỆN TÍCH GIEO TRỒNG LÚA TỪ 2000-2009

Năm 2000 Năm 2005 Năm 2009

Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu

( ha ) (%) ( ha ) (%) ( ha ) (%)

232.587 42,99 250.768 42,08 277.845 44,65 Lúa ĐX

266.859 49,33 245.885 41,26 273.957 44,03 Lúa HT

41.477 7,66 45.185 7,58 62.236 10,00 Lúa mùa

4.602 0,02 41.461 9,08 5.285 1,05 Thu Đông

100 595.797 100 622182 100 Tổng DT 540.923

gieo trồng

* Từ năm 2004-2005 dt lúa Hè thu không kể Xuân hè và Thu đông

Hình 2.7: Cơ cấu diện tích lúa theo mùa vụ 2000-2009

Trong cơ cấu sản xuất cây lương của tỉnh còn có cây lương thực khác như ngô, khoai

lang, khoai mì. Trong đó, khoai lang và khoai mì chiếm diện tích và sản lượng lớn nhất, cây

bắp có diện tích và sản lượng rất nhỏ.

Trước đây nông dân lo giải quyết cái ăn, diện tích lương thực tăng mạnh, 10 năm trở lại

đây, các cây màu có giá trị kinh tế được chú ý, diện tích khoai lang, khoai mì tăng dần.

- 61 -

Riêng cây ngô là nguồn nguyên liệu cho thức ăn gia súc, nhưng chưa được quan tâm nhiều,

do ngành chăn nuôi theo mô hình kinh tế hộ, nhu cầu thức ăn tự nhiên phụ phẩm từ lúa gạo

là chính, nên diện tích có giảm.

Bảng 2.14: Diện tích gieo trồng cây hàng năm, lâu năm của tỉnh Kiên Giang.

(Đơn vị: Ha)

Năm 2000

Năm 2006

Năm 2010

A- Cây hàng năm

548.726

604.689

618.505

540.923

595.061

1- Cây lúa

638.939

2- Bắp

45

19

48

3- Khoai mì

700

1.134

778

4- Khoai lang

900

430

1.543

5- Rau đậu các loại

1.303

2.792

4.195

6- Mía

4.605

4.503

3.031

7- cói

250

4503

5512

B- Cây lâu năm

18.674

24.053

22.713

1- Hồ tiêu

762

571

604

2- Dừa

8.240

7.092

6.716

3- Khóm

9.708

7.451

6.980

4- Xoài

518

3.750

3.750

Nguồn: Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang

- 62 -

BẢNG 2.15: SẢN LƯỢNG (TẤN) CÂY HOA MÀU LƯƠNG THỰC

Cây trồng

Năm

2007

2008

2010

Ngô

Sản lượng (tấn)

16

86

239

Khoai lang

Sản lượng(tấn)

14 350

13 360

28.872

Khoai mì

Sản lượng(tấn)

11 283

19 375

15.374

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

* Nhóm cây thực phẩm(Rau đậu)

Ngoài lúa và hoa màu lương thực, tỉnh còn trồng các loại rau đậu. Nhiều loại rau, màu

thực phẩm, chủ yếu là rau ăn lá, được trồng xen canh, luân canh mang lại hiệu quả kinh tế

khá cao, diện tích gieo trồng 4.159 ha, sản lượng 91.286 tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

trong tỉnh, tuy nhiên, rau đậu sản xuất trong tỉnh vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của

nhân dân địa phương; hệ số sử dụng đất được cải thiện khá hơn trước, phần nào đã phục vụ

cho dân cư khu vực thành phố và các huyện, mặc dù diện tích rau quả tăng rõ rệt đặc biệt

những vùng gần đô thị nhưng tỷ lệ này còn thấp. Tiềm năng diện tích rau đậu còn rất lớn vì

mới chiếm 0,67% diện tích cây trồng hàng năm (năm 2010), hiện nay chủng loại rau còn

nghèo nàn, năng suất rau còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng do

chưa được tỉnh chú ý đầu tư tiến bộ về giống và kỹ thuật canh tác để có năng suất, chất

lượng rau sạch.

10000

9019

8954

8849

8813

8572

8000

5725

5253

6000

4855

4621

4497

4000

2000

0

2000

2006

2008

2009

2010

Cây công nghiệp hàng năm Cây công nghiệp lâu năm

* Cây công nghiệp và cây hàng năm khác

Hình 2.8: Diện tích cây công nghiệp tỉnh Kiên Giang

- 63 -

Nhóm cây công nghiệp hàng năm thay thế nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho công

nghiệp chế biến như mía, đậu tương, lạc…trong một vài trường hợp còn được đầu tư trợ cấp

trực tiếp. Tuy nhiên chính sách hỗ trợ trong một số trường hợp tạo nên sự phát triển không

bền vững, kém hiệu quả. Điển hình cho trường hợp này là cây mía, Riêng mía được trồng

với diện tích lớn hơn các cây công nghiệp khác, vùng nguyên liệu không được hỗ trợ thích

đáng, điều này dẫn đến diện tích trồng giảm từ 0,83% năm 2000 xuống còn 0,49% năm

2010. Năng suất mía cây và trữ lượng đường trong cây bình quân thấp. Vùng nguyên liệu

không đủ sức cung ứng đều đặn cho các nhà máy, giá cả tăng cao, khả năng cạnh tranh kém.

Trong số các cây này, cây cói là loại cây trồng làm nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ

nghệ phục vụ trong tỉnh và xuất khẩu, hiện nay được trồng nhiều ở vùng đất nhiễm mặn ven

biển, nhằm cải tạo đất, mặc khác cung cấp cói nguyên liệu cho các làng nghề sản xuất hàng

thủ công.

BẢNG 2.16 : SẢN LƯỢNG MỘT SỐ CÂY CÔNG NGHIỆP CHỦ YẾU TỪ 2006 -

2009

2006 2007 2008 2009

Cói(lác) 4500 4500 14500 23242

Mía 198433 176696 211209 230749

Khóm 90586 95874 88667 80230

Dừa 33043 31688 31428 30332

Hồ tiêu 1050 1359 1416 1219

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

* Nhóm cây lâu năm

Cây ăn quả nhiều năm gần đây cũng được chú trọng nhờ giá trị của nó trong đời sống

ngày càng tăng. Các cây ăn quả có giá trị được trồng chủ yếu là: chuối, cam, quýt, nhãn,

xoài,…Giá trị sản xuất của loại cây trồng này chưa cao. Nguyên nhân do các loại cây này

chỉ mới được trồng qui mô nhỏ, phân tán, chỉ mang tính tận dụng là chính, có tính hàng hóa

song lại chịu sự chi phối rất lớn của thị trường( giá cả, thị hiếu người tiêu dùng…)

Diện tích cây công nghiệp lâu năm có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn được xác định là

những cây chủ lực được ưu tiên phát triển, năng suất không ngừng tăng lên như: dừa, khóm,

hồ tiêu.

Vùng hồ tiêu tập trung nhiều ở Phú Quốc, TX Hà Tiên, Kiên Lương, Kiên Hải, Gò

Quao, đến năm 2008 diện tích trồng hồ tiêu: 598ha.

Vùng trồng dừa tập trung hầu hết ở các huyện, đến năm 2008 tổng sản lượng 31.428 tấn.

- 64 -

Vùng trồng khóm nhiều ở Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành, Gò Quao, An Minh, Vĩnh

Thuận, U Minh Thượng. Năm 2009 Tổng cộng: diện tích trồng 6.815 ha, sản lượng 80.230

tấn.

Như vậy cơ cấu ngành trồng trọt đã có sự chuyển dịch cơ cấu tích cực theo hướng tập

trung vào những loại cây trồng có giá trị hàng hóa cao, nhu cầu của thị trường lớn; tận dụng

tối đa những lợi thế tự nhiên, kinh tế xã hội cho trồng trọt và tận dụng tính đa dạng sản

phẩm của ngành trồng trọt phục vụ cho điều kiện sản xuất và sinh hoạt của người dân địa

phương.

* Chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi

Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, chăn nuôi là một ngành sản xuất quan trọng, đáp

ứng nhu cầu thực phẩm cho dân số đông tại tỉnh và đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu.

Tuy nhiên cũng giống như tình trạng chung của cả nước và đồng bằng sông Cửu Long qui

mô ngành chăn nuôi của tỉnh còn nhỏ, tập trung vào khu vực kinh tế hộ gia đình. Vai trò

chính của ngành chăn nuôi là cung cấp thịt, trứng và sức kéo.

Cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi của tỉnh bước đầu có những chuyển dịch đáng

mừng.

Đàn gia súc chiếm tỷ trọng cao trong ngành chăn nuôi năm 2004 chiếm 80,1% đến 2010

tỷ trọng giảm còn 52,8%, riêng đàn gia cầm vẫn ổn định và tăng so với cùng kỳ. Tình hình

kiểm soát dịch bệnh cho gia súc, gia cầm vẫn đang được kiểm soát. Nhà nước đang có chủ

trương hạn chế nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi để đảm bảo giá cả có lợi cho người chăn

nuôi nhưng thực tế đàn gia súc vẫn đang giảm mạnh. Xét về lợi thế thì trâu và bò ở tỉnh

không bằng Campuchia và các tỉnh Miền Trung và Đông Nam Bộ, vì vậy khó có thể cạnh

tranh; còn đàn heo, do ảnh hưởng của dịch tai xanh làm thiệt hại khá lớn đến tổng đàn, hơn

nữa phần lớn hộ chăn nuôi vẫn còn với qui mô nhỏ lẻ, tuy giá heo hơi ở mức cao nhưng

giống và thức ăn cũng đang ở mức cao cho nên chưa kích thích nông dân mở rộng qui mô

chăn nuôi vì vậy đàn heo vẫn còn giảm nhiều.

BẢNG 2.17: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VÀ CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH

CHĂN NUÔI TỪ 2004 - 2010

Đơn vị: triệu đồng

Năm Tổng số Gia súc Gia cầm Chăn nuôi khác

GTSX % GTSX % GTSX % GTSX %

581.655 100 466.063 80.1 30.793 5.3 84.799 14.6 2004

842.736 100 497.629 59.0 151.966 18.0 193.141 22.9 2006

- 65 -

2.141,750 100 1.309,797 61.2 423.967 19.8 407.986 19.0 2008

2.480,876 100 1.311,017 52.8 679.230 27.4 490.629 19.8 2010

Với số dân hơn 1 triệu người và mức sống không ngừng cải thiện trong những năm qua,

Nguồn: Niên giám Thống Kê tỉnh Kiên Giang

ngành chăn nuôi phát triển chậm nhưng ổn định, những năm gần đây phát triển thêm đàn bò,

dê bước đầu đạt hiệu quả khá. Do tập quán, và mức thu nhập còn thấp, tỷ trọng thịt lợn năm

2008 chiếm 89,9% trong tổng số 32.953 tấn heo hơi được tiêu thụ cả năm . Tiêu thụ thịt gia

cầm tăng .

BẢNG 2.18: GIA SÚC, GIA CẦM VÀ SẢN PHẨM CHĂN NUÔI CỦA TỈNH

Đơn vị 2006 2007 2008

Con 8.382 8.536 9.717 1. Đàn trâu

13.976 18.001 16.982 2. Đàn bò “

350.759 357.613 321.723 3. Đàn heo “

1000 con 1.319 1.154 1.734 4. Đàn gà

1000 con 2.562 3.135 3.449 5. Đàn vịt

5. Sản phẩm chủ yếu

33.354 36.380 32.953 - Thịt heo hơi Tấn

“ 286 371 352 - Thịt trâu, bò hơi

“ 10.192 11.580 6.302 - Thịt gia cầm hơi

Triệu quả 100 115 13 - Trứng gà

“ 172 205 137 - Trúng vịt

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

Năm 2010, đàn heo toàn tỉnh có 329.520 con, tăng 4,9% so với cùng kỳ; đàn trâu 10.085

con, tăng 11,57%; đàn bò 15.333 con, giảm 11,05%; đàn gia cầm 4,5 triệu con, tăng 14,3%.

Trong chăn nuôi, tập trung nuôi vỗ béo bò thịt, nuôi heo sinh sản, heo thịt nạc cao, nuôi

gà vịt theo hướng an toàn sinh học. Ngoài ra, cũng nuôi thử một số con đặc sản khác như:

thỏ, nhím, heo rừng

Nhìn chung, tăng trưởng chăn nuôi vẫn chạy theo số lượng, trong suốt 10 năm qua, kỹ

thuật lạc hậu, đầu tư thấp, nét tiến bộ trong chăn nuôi là hơn 60% số hộ sản xuất lợn chuyển

sang giống lai hoặc giống ngoại, quy mô đàn lợn của mỗi hộ tăng tuy còn rất chậm, đàn gia

súc, gia cầm khác trong tỉnh cũng có chung tình trạng như đàn lợn, mặc dù có bước tăng

- 66 -

trưởng khá nhưng chỉ ở số đầu con, hiệu suất chăn nuôi, chất lượng thấp, thêm vào đó dịch

bệnh kéo dài, cộng nghệ giết mỗ lạc hậu không đảm bảo vệ sinh….làm cho ngành chăn nuôi

của tỉnh khả năng cạnh tranh thấp, giá thành cao, rũi ro lớn.

* Dịch vụ nông nghiệp là ngành mới vai trò của nó còn yếu, mới hỗ trợ các khâu giống, kỹ

thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi, trao đổi sản phẩm cho nông nghiệp. Khi cả trồng trọt và

chăn nuôi phát triển theo hướng hàng hóa hiện đại thì dịch vụ nông nghiệp sẽ tăng tỷ trọng.

2.2.2.2 . Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp

Kiên giang có điều kiện khá thuận lợi phát triển ngành lâm nghiệp. Tỉnh có vườn quốc

gia Phú Quốc và vườn quốc gia U Minh Thượng, ngoài ra còn có khu bảo tồn thiên nhiên

Hòn Chông, hệ sinh thái rừng ngập mặn tập trung ở U Minh Thượng và ven biển thuộc Kiên

Lương-Hà Tiên, rừng nhiệt đới…

Ngành lâm nghiệp tỷ trọng nhỏ bé trong cơ cấu nông lâm thủy sản và có xu hướng tiếp

tục giảm. Đến đầu năm 2010, Kiên Giang có 91.435 ha đất rừng, chiếm gần 20% diện tích

đất tự nhiên toàn tỉnh. Bên cạnh hệ thống rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn ven biển; hệ

thống rừng trồng, rừng tái sinh và rừng phòng hộ chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, do quản lí và

khai thác chưa hợp lý nên xảy ra tình trạng khai thác thiếu kế hoạch và bị cháy rừng, diện

tích rừng có xu hướng giảm.

- 67 -

BẢNG 2.19. TRỒNG RỪNG VÀ KHAI THÁC LÂM SẢN

ĐVT 2005 2006 2007 2008 2009

A. Trồng và nuôi

Ha 2.590 2.350 1.390 470 730 rừng

Ha 2.440 650 390 1.100 1.500 - Trồng rừng tập trung

- Trồng cây phân tán

M3 9.218 12.956 17.600 4.450 3.333 B. Khai thác lâm sản

“ 19.640 38.968 40.050 47.000 8.560 - Gỗ Bạch Đàn

Ster 146.500 148.565 90.928 80.500 75.100 - Gỗ Tràm

- Củi

- Ha 6.477 6.500 6.395 14.000 C. Hoạt động khác

- Quản lý bảo vệ rừng

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang

Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp những năm gần đây giảm do liên tiếp từ đầu mùa khô

năm 2004 đến nay, Kiên Giang đã xảy ra 18 vụ cháy rừng, tập trung chủ yếu ở vùng tứ giác

Long Xuyên, làm thiệt hại gần 200 ha rừng tràm và rừng tái sinh, hơn 300 ha đồng cỏ bị

thiêu trụi. Chủ trương giao đất giao rừng và phong trào trồng cây rừng trong những năm qua

đạt được một số kết quả.

Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng ở Kiên Giang được triển khai thực hiện từ năm 1999

đến nay. Mục tiêu chính của dự án là trồng rừng gắn với bảo vệ rừng hiện có, bảo tồn đa

dạng sinh học, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương và góp phần xóa đói

giảm nghèo. Trong 12 năm qua, Kiên Giang đã điều chỉnh diện tích đất phát triển lâm

nghiệp đến cuối năm 2010, diện tích rừng toàn tỉnh 91.435 ha; trong đó rừng đặc dụng

39.727 ha, rừng phòng hộ 28.890 ha, rừng sản xuất 22.818 ha, tỷ lệ che phủ rừng 15,61%.

Năm 2010, trồng mới rừng tập trung 481 ha, khoanh nuôi rừng tái sinh 1.500 ha, chăm sóc

rừng trồng 541 ha, khoán bảo vệ rừng 13.886 ha, và trồng cây phân tán 1225 cây. Do có sự

điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng, diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp giảm từ 111.817 ha (

năm 2005) xuống còn 85.778 ha vào năm 2005. Qúa trình thực hiện quy hoạch, đã chuyển

gần 20.000 ha rừng sản xuất ( bạch đàn, tràm ) sang sản xuất nông nghiệp và đất chuyên

dùng, tập trung ở 2 huyện Hòn Đất và Kiên Lương.

Tuy tiến độ trồng rừng giai đoạn 2000 – 2005 phát triển nhanh nhưng diện tích rừng và

độ che phủ trên địa bàn có chiều hướng sụt giảm, không đạt 20% chỉ tiêu độ che phủ đến

- 68 -

năm 2010. Vấn đề trồng lại rừng, phủ xanh diện tích đất trống là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm của tỉnh.

BẢNG 2.20. GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH LÂM NGHIỆP ( theo giá so sánh )

ĐVT: Triệu đồng

2004 2005 2006 2008 2010

Tổng số 80.29 117.731 123.027 134.593 128.828

110.45 29.604 22.419 13.979 11.789 1.Trồng và nuôi

rừng.

65,98 76.779 83.787 84.229 79.515 2.Khai thác lâm

sản

327.98 11.348 16.821 36.385 37.524 3.Lâm nghiệp

khác

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

2.2.2.3 . Chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản

Sau cây lúa, thủy sản là ngành thứ hai đã được tỉnh tập trung chỉ đạo phát triển. Do

tỉnh có tiềm năng lớn cho phát triển thủy sản. Ngư trường Kiên Giang rộng quanh năm ấm

áp, có trên 150 loại tảo, phù du sinh vật phát triển mạnh là nguồn thức ăn phong phú cho

tôm cá. Biển ít sóng gió, độ mặn vừa phải (từ 1-3‰), giàu oxi…Vùng biển Kiên Giang có

100 hòn đảo làm nơi cư trú tốt cho trên 2000 loại thủy hải sản.

Bên cạnh việc phát triển đánh bắt, khai thác thủy sản tự nhiên thì 10 năm trở lại đây

ngành có những chuyển biến nổi bật, ngày càng phát triển với các hoạt động nuôi trồng thủy

sản, đa dạng giống loài được chọn lọc kết hợp nhiều mô hình sản xuất đa dạng mang lại cho

người dân nhiều lợi nhuận so với độc canh cây lúa trước đây. Tổng diện tích mặt nước nuôi

trồng thủy sản năm 2008 đạt mức cao nhất trong những năm gần đây là 134,6 nghìn ha.

Trong đó, diện tích nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ là 106,7 nghìn ha, diện tích nuôi thủy

sản nước ngọt 27,9 nghìn ha.

Hàng năm, diện tích nuôi tôm tăng bình quân 40,3%, nuôi cá tăng 13,67%. Sản lượng

cá nuôi tăng hàng năm 11,04%. Năm 2010, sản lượng đánh bắt thủy sản đạt 473.360 tấn, sản

lượng nuôi trồng thủy sản đạt 97.673 tấn

Do vậy, việc chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội

mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái rất lớn.

Về cơ cấu sản xuất: Nếu xét về giá trị sản xuất, ta thấy ngành thủy sản phát triển với tốc độ

nhanh từ năm 2000 đến năm 2010 đã tăng lên 5,6 lần từ 1.686.335 triệu đồng lên 9.873909

triệu đồng năm 2009( theo giá hiện hành). Trong 10 năm qua, cơ cấu giá trị sản xuất ngành

- 69 -

thủy sản chuyển dịch mạnh theo hướng nâng cao tỷ trọng thủy sản nuôi trồng cụ thể là

ngành nuôi trồng tăng khoảng 1,6 lần từ 243.619 triệu đồng lên 4.087.557 triệu đồng. Năm

2000, giá trị thủy sản nuôi trồng chiếm 14%, đến năm 2009 đạt 41%. Gía trị khai thác thủy

sản năm 2000 chiếm 85% cơ cấu của toàn ngành, sau đó giảm dần đến năm 2009 còn 58%.

Hoạt động dịch vụ thủy sản chưa có chuyển biến nhiều. Như vậy, tình hình chuyển dịch cơ

cấu thủy sản diễn ra theo xu hướng tích cực phù hợp với xu hướng chung của thủy sản cả

nước:

Ngành khai thác liên tục giảm, ngành nuôi trồng ngày một phát triển thay thế vai trò

của ngành khai thác đang là xu hướng tích cực bởi người dân chủ động hơn, tập trung

những thủy sản có giá trị kinh tế cao và khắc phục hạn chế do phụ thuộc vào điều kiện tự

nhiên.

BẢNG 2.21: CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NGÀNH THỦY SẢN

(theo giá hiện hành)

ĐVT: %

Chia ra Năm Tổng số Nuôi trồng TS Khai thác TS Dịch vụ TS

100,00 14,45 85,55 - 2000

100,00 31,41 68,59 - 2003

100,00 36,23 63,77 - 2005

100,00 48,41 51,59 - 2007

100,00 41,40 58,60 - 2009

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

- 70 -

Hình 2.9: Biểu đồ cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản 2000-20009

* Ngành khai thác thủy sản: Xét về cơ cấu, khai thác thủy sản không ngừng giảm xuống,

tuy nhiên sản lượng khai thác không ngừng tăng lên. Sản lượng khai thác năm 2010 là:

375.687 tấn. Trong đó khai thác biển chiếm đa số (98%), khai thác nội địa không đáng

kể(2%). Sản lượng khai thác tăng là nhờ trữ lượng hải sản vùng biển Kiên Giang lớn, nhất là

cá biển (chiếm 68,6% sản lượng khai thác biển), đầu tư kĩ thuật khai thácvà bảo quản trong

quá trình đánh bắt giảm khai thác gần bờ tăng cường đánh bắt xa bờ nhằm nâng cao sản

lượng khai thác và góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng biển Việt Nam; xây dựng các

tổ đội đánh bắt xa bờ…

BẢNG 2.22: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN KIÊN GIANG 2000-2010

Đơn vị: tấn

2001 2006 2008 2010

256.218 311.618 318.255 375.687 Khai thác

1. Khai thác biển 253.206 308.003 314.602 368.118

2. Khai thác nội địa 3.012 3.615 3.653 7569

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

Phần lớn hải sản được ăn tươi, làm khô hoặc mắm tiêu thụ trên thị trường nội địa và

18.979 66.159 110.230 97.673 Nuôi trồng thủy sản

sản phẩm đông lạnh xuất khẩu. Các sản phẩm hải sản chế biến nổi tiếng của tỉnh là tôm thẻ,

mực, vi cá, đồi mồi, sò huyết, nước mắm, mắm tôm…Đặt biệt, nước mắm Phú Quốc đã nổi

tiếng từ lâu trên thị trường trong nước và quốc tế.

- 71 -

* Ngành nuôi trồng thủy sản:

Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản thay đổi đạt 120.527 ha(2010) tăng 89.206 ha

so năm 2000. Phát triển các vùng nuôi mới, tập trung chuyển diện tích trồng lúa năng suất

thấp sang nuôi trồng thủy sản: tận dụng diện tích mặt nước và khai thác một cách có hiệu

quả để nuôi thủy sản( tôm, cá…), ngoài ra một diện tích không nhỏ các vùng trũng chuyển

sang nuôi trồng thủy sản với các mô hình( lúa-cá, lúa-tôm, thủy sản-cây ăn quả…) chuyển

vùng đấtven biển sang nuôi tôm, cua.

Sản lượng nuôi trồng tăng khá từ 9.830tấn(2000) lên 97.673ta61n (2010). Đây là ngành biết

tận dụng một cách có hiệu quả các nguồn lợi thế, lựa chọn giống thủy sản phù hợp với điều

kiện sinh thái và có giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ…

Cơ cấu sản phẩm thủy sản cũng đang có sự chuyển biến theo hướng đa dạng hóa, đáp

ứng nhu cầu của thị trường, ngoài con cá thì con tôm được chú trọng phát triển, diện tích

nuôi ngày càng tăng nhanh với nhiều mô hình sản xuất đa dạng. Năm 2009 có 85.000ha

nuôi tôm, mô hình nuôi tôm lúa, nuôi quãng canh + quãng canh cải tiến., và mô hình luân

canh cá tôm trên ruộng lúa tập trung nhiều ở các huyện An Minh, Kiên Lương , Mô hình

nuôi thủy sản nước ngọt như cá rô đồng, cá sặc rằn, lươn, tôm càng xanh, cá thác lát, cá

bống tượng, rắn ri voi, nuôi cá chình suối. việc nuôi tôm luân canh với lúa mang lại hiệu

quả rõ nét. Bên cạnh đó tỉnh còn đầu tư mở rộng nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả

kinh tế cao như nuôi sò huyết, hến. Thủy sản nước mặn lợ ven biển thì tập trung vào nuôi

tôm sú thâm canh, bán thâm canh, mô hình quản lý cộng đồng, nuôi sò huyết trong ao, nuôi

cá lồng bè trên biển, nghêu, cua… . Hầu hết các mô hình đều đạt hiệu quả cao.

Tỉnh Kiên Giang có nhiều điều kiện phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt. Toàn

tỉnh có gần 14 nghìn ao đìa, 19 nghìn ha sông ngòi kênh rạch, 21 nghìn ha rừng tràm có thể

nuôi và đánh bắt cá tôm…có giá trị nhất là cá lóc, trê, sặt, rô đồng, bóng tượng, bóng

kèo…Các loại tôm có giá trị như tôm càng xanh, tôm đất…

- 72 -

Hình 2.10: Sản lượng thủy sản Kiên Giang 2001-2010

Thủy sản phát triển, đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu. Năm 2000 giá trị

xuất khẩu thủy sản đạt 35.568 000 USD đến năm 2009 đạt 94.774 USD.

Theo số liệu Cục Thống kê và Sở Công thương, xuất khẩu nông thủy sản năm 2010 của tỉnh

đạt 421 triệu USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo với số lượng trên 782.720 tấn, giá trị

306 triệu USD; hàng thủy sản chủ yếu là mực, tôm, cá đông lạnh với số lượng 21.500 tấn,

tương đương năm 2009 nhưng do sản phẩm tôm đông lạnh tăng nên giá trị tăng và đạt 115

triệu USD, chiếm tỷ trọng 27,3%.

BẢNG 2.23: XUẤT KHẨU NÔNG SẢN, THỦY SẢN KIÊN GIANG, 2000 – 2007 (000

SD)

Tổng Số Nông sản Thuỷ Sản Năm

68.380 32.812 35.568 2000

107.707 52.559 55.148 2001

109.321 59.321 50.000 2002

130.218 63.833 65.000 2003

158.004 78.790 73.121 2004

215.606 128.314 80.363 2005

240.680 153.596 81.042 2006

239.047 149.424 85.933 2007

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

- 73 -

Xuất khẩu nông sản, thủy sản Kiên Giang, 2000-2007

300

250

200

Tổng số

Nông sản

150

Thủy sản

100

50

0

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Hình 2.11: Biểu đồ xuất khẩu nông sản, thủy sản Kiên Giang 2000-2007

Tỷ trọng của thủy sản trong cơ cấu xuất khẩu không ngừng tăng lên. Tỷ trọng thủy

sản nuôi trồng tăng từ 52,3% lên 56,4%. Điều này chứng tỏ hiệu quả của việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng phát triển thủy sản trong những năm gần đây.

Ngành thủy sản đã tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho bà con nông dân lao động

phục vụ cho việc nuôi và chế biến thủy sản.

Chính quyền địa phương đã có những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích chuyển

đổi các diện tích đất trũng sản xuất lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản hoặc phát

triển các mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp VAC đạt hiệu quả kinh tế khá cao như cho

vay vốn, miễn giảm tiền thuê đất, đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, các chính

sách khuyến khích đầu tư phát triển hệ thống nhà máy chế biến thủy sản, xây dựng, mở rộng

các cảng cá, khu dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt, thu mua thủy hải sản, hỗ trợ

ngư dân đóng tàu đánh bắt xa bờ. tập trung tăng thêm vốn đầu tư hoàn thiện hệ thống thủy

lợi, ưu tiên cho những vùng đất mới khai hoang, thủy lợi cho vùng tôm- lúa, tôm công

nghiệp.

Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang thủy sản và chăn nuôi trong thời gian qua

đã kéo theo sự chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế. Tỷ lệ lao động trong ngành nông,

- 74 -

lâm nghiệp giảm từ 90% năm 2000 xuống 80% năm 2009, lao động thủy sản tăng từ 6%

năm 2000 lên 19% năm 2009

Bên cạnh những thành tựu to lớn, sự phát triển của ngành thủy sản trong thời gian

qua cũng biểu hiện một số yếu kém, việc qui hoạch phát triển bền vững thủy sản các vùng

sinh thái như vùng rừng ngập mặn, các đầu tư kém hiệu quả cho chương trình đánh bắt xa

bờ, các vấn đề về kỹ thuật xử lí nước thải, cung cấp con giống, ngăn chặn dịch bệnh.

2.2.2.4. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ

Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông ngiệp Kiên Giang trở thành nền nông

ngiệp sản xuất hàng hóa,có năng suất và chất lượng, tính cạnh tranh cao. Ngoài việc đẩy

mạnh phát triển thủy sản, chăn nuôi, cây lúa và các cây công nghiệp khác phù hợp với từng

vùng sinh thái nhằm phát huy tối đa hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích kết hợp với

mô hình đa canh và mô hình kinh tế tồng hợp.

Sự thay đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm thủy sản theo vùng kinh tế :Mổi vùng lãnh thổ

đều có thế mạnh riêng, và những hạn chế cần khắc phục, để phát huy tối đa hiệu quả kinh tế

vùng sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế chung của tỉnh. Dựa vào điều kiện tự nhiên, trình

độ phát triển kinh tế cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, có thể phân

ra các vùng như sau: Vùng Tứ giác Long Xuyên tập trung phát triển nông-lâm nghiệp, công

nghiệp-xây dựng- du lịch. Vùng Tây Sông Hậu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, từng bước hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao. Vùng U Minh Thượng tăng

cường đầu tư xây dựng mô hình tôm lúa và nuôi trồng thủy sản. Vùng biển đảo, tập trung

phát triển du lịch sinh thái, tăng cường khai thác thủy sản xa bờ và kết hợp với nuôi trồng

thủy sản ven đảo.

Vùng I: Vùng Tây sông Hậu

Vùng Tây sông Hậu có diện tích tự nhiên khoảng 144.900ha gồm các đơn vị hành

chánh: huyện Giồng Riềng, Gò Quao, Tân Hiệp, Châu Thành và thị xã Rạch Giá.

Vùng Tây sông Hậu dọc theo kinh Cái Sắn và phía Tây sông Hậu. Có hướng dốc dần

từ Đông Bắc sang Tây Nam, độ cao biến đổi từ 0,2 đến 0,8m, nơi cao nhất là vùng phía

Đông Tân Hiệp có độ cao từ 0,7-0,9m, nơi thấp nhất là ven sông Cái Lớn và Cái Bé có độ

cao từ 0,2-0,4m.

Là một vùng đất đai tương đối tốt, chủ yếu là nhóm phù sa và đất phèn nhẹ chiếm

50%, hệ thống kênh mương nhiều nguồn nước ngọt quanh năm, với lượng bồi đắp phù sa

hàng năm lớn do sông Hậu cung cấp, điều kiện thủy lợi thuận tiện, tưới tiêu có thể chủ động

được,, do đó vùng này là vùng trọng điểm sản xuất lương thực của tỉnh, có sản lượng lúa ,

- 75 -

năng suất cao nhất trong tỉnh ( Giồng Riềng, Tân Hiệp, Gò Quao, năm 2008 có diện tích sản

xuất lúa 92.987ha,( chiếm 15,3%?), sản lượng 1.382.715 tấn chiếm 49% sản lượng lúa toàn

tỉnh).

Huyện Tân Hiệp điển hình cho vùng tây sông hậu Với dân số 153.518 người, 30.101

hộ, diện tích đất tự nhiên 41.933 ha (trong đó 36.186 ha đất ruộng sản xuất lúa cao sản 2

vụ/năm, 1732,86 ha đất vườn), huyện Tân Hiệp luôn là điểm sáng nổi lên về phát triển nông

nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa.

Trong 5 năm qua, bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 13,80% (riêng năm 2007

đạt 15,81%); tăng trưởng kinh tế nông nghiệp đạt trên 15%; thu nhập bình quân đầu người

đạt gần 16 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo còn 6,74%; năng suất lúa bình quân cả năm trên

14 tấn/ha (2 vụ trên năm, cao nhất ĐBSCL), lãi sản xuất đạt trên 55%, giá trị thu nhập đất

ruộng đạt trên 70 triệu đồng/ha/năm (nếu tính giá lúa 5.000đ/kg); lương thực bình quân đầu

người trong khu vực hợp tác xã nông nghiệp 3.627 kg, ngoài khu vực hợp tác xã 3.020 kg;

tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 510 ngàn tấn (chiếm trên 1/6 tổng sản lượng lương

thực của Kiên Giang).

Tân Hiệp đã tập trung huy động bằng nhiều nguồn vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng xây

dựng kết cấu hạ tầng xã hội nông thôn: giao thông (có 80% đường giao thông đi lại quanh

năm bằng xe 2 bánh, 70% là đường bêtông), 96% hộ điện sinh hoạt và sản xuất, 10 máy

điện thoại/100 hộ dân, là huyện có hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh, huyện có số máy gặt đập

liên hợp nhiều nhất, luôn đi đầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp…

Đó là những điều kiện đưa năng suất kinh tế nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Là huyện có số

lượng đàn heo lớn nhất tỉnh 40.080 con năm 2008 chiếm 12% tổng số đàn heo của tỉnh.

Riêng khu vực đất phèn, nhiễm mặn vào mùa khô ven sông Cái Lớn và sông Cái Bé

thuộc huyện Gò Quao ngoài một phần trồng lúa, còn đa số là trồng mía, khóm, có diện tích,

sản lượng cây dừa và cây khóm chiếm tỷ lệ cao nhất trong tỉnh, huyện Giồng Riềng ngoài

cây lúa còn trồng hoa màu khác như: khoai lang ( diện tích 281ha), bí đỏ, dưa hấu (170ha),

đặc biệt dưa trồng gần như quanh năm. Hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn

định với 66.194 con heo, 451 con bò, trên 1,2 triệu gà, vịt.

Trong quá trình chuyển đổi vật nuôi, cây trồng tăng hiệu quả kinh tế, hướng tới mục

tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường, huyện Giồng Riềng được tỉnh hỗ trợ kinh phí quy hoạch

13 ha phát triển nuôi tôm càng xanh, bước đầu cho hiệu quả rất cao và huyện đang có chủ

trương nhân rộng mô hình này. Diện tích quy hoạch nuôi tôm càng xanh chủ yếu tập trung

tại các xã Hòa Lợi, Hòa An và Hòa thuận. Do có nguồn nước ngọt từ sông Hậu đổ về, từ rất

sớm bà con nông dân ở Giồng Riềng đã tận dụng diện tích mặt nước dọc các bờ kênh để

- 76 -

nuôi cá bống tượng đem lại hiệu quả kinh tế cao. xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh

tổng hợp với tổng diện tích 5.850 ha; mô hình trồng rau màu trên đất liếp kết hợp nuôi cá

cho thu nhập bình quân 120 triệu đồng/ha; mô hình xen canh 1 vụ lúa với 2 vụ màu đem lại

thu nhập 77,7 triệu đồng/ha. Ngoài ra, nông dân trên địa bàn huyện còn có nhiều mô hình

sản xuất kết hợp làm dịch vụ khác đem lại hiệu quả cao như: làm dịch vụ máy cày, máy xới,

máy suốt, lò sấy, máy gặt đập liên hợp, kinh doanh vật tư nông nghiệp...

Vùng II: Vùng Tứ Giác Long Xuyên

Vùng Tứ Giác Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 244.230ha bao gồm các đơn

vị hành chánh: Thị xã Hà Tiên, các huyện Hòn Đất, Kiên Lương và một phần của huyện

Tân Hiệp, Châu Thành. Vùng Tứ Giác Long Xuyên tiếp giáp với biên giới Campuchia và

vịnh Thái Lan.

Địa hình có hướng dốc từ Tây Bắc sang Đông Nam, cao độ biến đổi từ 0,2-1,2m, nơi cao

nhất là dãi đất tiếp giáp Campuchia có độ cao 0,8-1,2m, nơi thấp nhất là vùng từ phía Tây

Rạch Giá-Hà Tiên có độ cao biến đổi từ 0,2-0,7m.

Là một vùng có lượng mưa hàng năm từ 1.800-2000mm, điều kiện thổ nhưỡng khắc nghiệt

nên vùng này có quá trình diễn biến thoái hoá đất xảy ra mạnh, sản xuất nông-lâm-ngư đòi

hỏi phải đầu tư lớn. Là vùng duy nhất trong Tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào, đặc biệt là

đá vôi.

Hệ thống thủy lợi được đầu tư xây dựng, giải pháp kỹ thuật trị phèn phát huy tối đa tác dụng

ngày đêm đẩy dòng nước phèn đỏ ngầu đặc quánh lùi xa đồng ruộng ở Tứ giác Long Xuyên.

Năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng lên.

Vùng có thế mạnh vế chăn nuôi: huyện Kiên Lương có số lượng đàn gia súc ( trâu chiếm

31,4%, bò chiếm 34,5% ) lớn nhất tỉnh.

Là vùng có diện tích rừng lớn nhất tỉnh chiếm 30% diện tích trồng rừng ( chủ yếu là rừng

tràm) trong đó rừng sản xuất ( 61%), rừng phòng hộ ( 37,8%). Gần đây nông dân ở các

huyện vùng này có xu hướng chuyển một phần đất rừng sang nuôi tôm và trồng lúa. Nguyên

nhân dẫn đến việc người dân phá rừng trồng lúa là do lợi nhuận thu được từ rừng sản xuất

ngày càng giảm, trung bình mỗi ha tràm đến tuổi khai thác hiện chỉ bán được từ 30 đến 40

triệu đồng, giảm khoảng 30 triệu đồng so với cách đây vài năm. Mặt khác, việc tiêu thụ cây

tràm rất khó khăn, hiện có hàng trăm ha rừng đến tuổi khai thác nhưng không bán được.

Trong khi đó, những người trồng lúa ở đây thì liên tiếp trúng mùa và tiêu thụ dễ dàng với

giá ngày càng cao, do vậy nhiều hộ trồng rừng không ngần ngại phá bỏ rừng tràm để lấy đất

trồng lúa. Được biết, 2 huyện Hòn Đất, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên hiện có trên 35.000

- 77 -

ha rừng phòng hộ và rừng sản suất, trong đó có gần 10 ngàn ha rừng sản suất sắp đến thời

kỳ khai thác, đây là một thảm xanh quí giá trên vùng tứ giác Long Xuyên.

Vùng III. Vùng U Minh Thượng

Diện tích tự nhiên khoảng 174.600ha, gồm các huyện An Biên, An Minh và Vĩnh

Thuận, U Minh Thượng và một phần Gò Quao- Vĩnh Tuy, Thúy Liễu

Địa hình nghiêng dần về phía Tây, độ cao biến đổi từ 0,1-1,1m, nơi cao nhất gần

trung tâm vườn quốc gia U Minh thượng, nơi thấp nhất là vùng ven sông Cái Lớn có độ cao

từ 0,1-0,4m.

Điều kiện thổ nhưỡng có nhiều hạn chế, 30% thuộc nhóm đất phù sa nhiễm mặn,

56% thuộc nhóm đất phèn.

Hiện ở đây chỉ canh tác lúa một vụ ở những khu vực ở những khu vực đã thau chua

rửa mặn như: ven sông Cái Lớn và bắc Vĩnh Thuận. Còn khu vực đất than bùn chỉ cải tạo

trồng tràm. Tiềm năng thế mạnh chính của huyện U Minh Thượng là Nông - Lâm - Ngư

nghiệp, tài nguyên về quỹ đất, rừng; trong đó ngư nghiệp (nuôi cá đồng) có nhiều tiềm

năng, nhưng chưa khai thác hết. Công nghiệp dịch vụ thương mại hầu như không có. Có thể

nói, đây là huyện nghèo nhất của tỉnh. Cây lúa và là sản phẩm nông nghiệp chủ lực của

vùng. Tính đến tháng 09-2008, U Minh Thượng đưa giống lúa chất lượng cao vào sản xuất,

năng suất đạt khoảng 5,2 tấn/ha, sản lượng 55.617 tấn; nâng tổng sản lượng lương thực toàn

huyện lên 164.725 tấn, đạt 131% so với nghị quyết cả năm, . Sắp tới chính quyền địa

phương và ngành chuyên môn sẽ hướng dẫn nhân dân điều chỉnh sản xuất giống lúa cho phù

hợp từng vùng, nhất là đưa vào những giống lúa đạt năng suất chất lượng cao, kháng sâu

bệnh.

Lâm nghiệp: là vùng có diện tích rừng chiếm 24% diện tích rừng toàn tỉnh. Khó khăn lớn

nhất của vùng hiện nay là: đất đai bị nhiễm phèn mặn nặng ảnh hưởng lớn đến sản xuất và

đời sống; chuyển dịch cơ cấu sản xuất còn chậm, chất lượng hàng hoá nông sản thấp, chưa

đủ sức cạnh tranh với thị trường. Theo kế hoạch, vùng U Minh Thượng sẽ được chia thành

6 tiểu vùng chính:

- Tiểu vùng 1: Du lịch sinh thái rừng gắn kết với phát triển khai thác du lịch vườn

quốc gia U Minh Thượng (có các dịch vụ du lịch kèm theo).

- Tiểu vùng 2: Trồng tràm và nuôi ong lấy mật. Thương hiệu mật ong vùng U Minh

Thượng đã nổi tiếng từ lâu, nhưng chưa được đầu tư khai thác đúng mức, sản phẩm chưa có

chỗ đứng trên thị trường, cộng với nguồn cá đồng tự nhiên thơm ngon, sẽ hấp dẫn khách du

lịch.

- 78 -

- Tiểu vùng 3: Nghề nuôi cá đồng và các loại động vật hoang dã cần được phục hồi

và phát triển, đáp ứng nhu cầu, nhất là áp dụng nuôi với công nghệ hiện đại từ giống, thức

ăn, thuốc, chăm sóc gắn với chế biến đặc sản “mắm cá đồng” thương hiệu nổi tiếng của

rừng U Minh.

- Tiểu vùng 4: Tận dụng thảm thực vật phong phú để chăn nuôi gia súc (trâu, bò thịt)

từ nhỏ tới vừa để bổ sung nguồn thực phẩm tại chỗ và có thể cung ứng ra bên ngoài địa

phương.

- Tiểu vùng 5: Trồng thêm các loại rau xanh, rau sạch, vừa nâng cao thu nhập cho

người nông dân, vừa cung cấp rau xanh sạch cho 4 trung tâm du lịch lớn của tỉnh: Hà Tiên -

Kiên Lương - Phú Quốc - Rạch Giá.

- Tiểu vùng 6: Vùng trồng mía khóm gắn với chuyển đổi cây trồng phù hợp trên địa

bàn, cùng với việc phát triển hệ thống thủy lợi, giao thông và kết cấu hạ tầng.

Vùng IV. Vùng hải đảo

Diện tích tự nhiên khoảng 63.174ha, bao gồm 2 huyện Kiên Hải, Phú Quốc và một số

đảo thuộc huyện Kiên Lương và thị xã Hà Tiên.

Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp, một số đảo lớn có xen kẻ các đồng bằng nhỏ hẹp có

phân bậc. Độ dốc trung bình từ 15-200 có nơi trên 200, nơi cao nhất là 600m, thấp nhất là

20m.

Hàng năm có lượng mưa từ 2.400-3000mm tập trung vào mùa mưa trên 90%, do đó

mùa khô thường thiếu nước.Vùng hải đảo có tiềm năng kinh tế của tài nguyên biển, có điều

kiện phát triển các ngành khai thác, nuôi trồng hải sản, du lịch và dịch vụ. Ở đây chủ yếu là

thổ cư có trồng cây ăn quả, đặc sản hồ tiêu và rừng.ả

2.2.2.5: Hiệu quả kinh tế một số mô hình

A--Hiệu quả của mô hình: Vụ nuôi tôm:

BẢNG 2.24. CHI PHÍ SẢN XUẤT CHO MỘT VỤ NUÔI TÔM ( TÍNH CHO 1 HA), MẬT ĐỘ NUÔI 5CON/M3t

tStt Hạng mục Đvt Số lượng Đơn giá (đồng) Thành tiền (đồng)

Sên vét, dọn rạ

1 2 Vôi các loại Saponine 3 Phân DAP 4 ngày kg kg kg 12 1.200 100 30 100.000 1.500 8.000 9.500 1.200.000 1.800.000 800.000 285.000

- 79 -

2.500.000

Tôm giống Thức ăn

con kg kg lít ngày lít 50.000 600 36 7 120 100 50 21.000 90.000 80.000 50.000 13.000

5 6 7 Chế phẩm sinh học 8 Hóa chất (Iodine) 9 Vitamine, khoáng 10 Công chăm sóc 11 Dầu bơm tát Cộng 12.600.000 3.240.000 560.000 1.500.000 6.000.000 1.300.000 31.785.000

Nguồn: Trạm Khuyến Nông An Biên

Vụ canh tác lúa:

BẢNG.2.25. CHI PHÍ SẢN XUẤT VỤ CANH TÁC LÚA ( tính cho 01 ha)

Stt Hạng mục Đvt Số lượng Đơn giá (đồng) Thành tiền (đồng)

Làm đất, sửa mặt bằng Dầu bơm tát, rửa mặn Lúa giống Phân bón (DAP + Urea) Công cấy dặm Thuốc BVTV Thu hoạch, phơi sấy

ngày lít kg kg ngày công 6 50 120 180 6 10 100.000 13.000 8.000 8500 70.000 250.000

1 2 3 4 5 6 7 11 Chi khác Cộng 600.000 1.650.00 960.000 1.350.000 420.000 500.000 2.500.000 500.000 8.480.000

Nguồn: Trạm Khuyến Nông An Biên

ĐÁNH GIÁ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH:

- Qua canh tác vụ lúa trên nền đất nuôi tôm, môi trường ruộng nuôi được cải tạo theo

chiều hướng tốt hơn. Cụ thể là cây lúa có thể hấp thu những chất mùn bã hữu cơ, thức ăn dư

thừa, chất thải do vụ nuôi tôm để lại. từ đó giúp giảm đáng kể chi phí đầu tư phân bón, giảm

giá thành sản xuất lúa.

- Hệ sinh thái ruộng nuôi được cân bằng và phân bố hài hòa giữa động vật và thực

vật.

- Mô hình sản xuất luân canh tôm – lúa, góp phần cách ly hạn chế được sự phát triển

của mầm bênh trên tôm, giảm thiểu sự lưu chuyển mầm bệnh hữu hiệu hơn nhiều so với

nuôi tôm liên tục.

- Nguồn dinh dưỡng từ vụ canh tác lúa để lại, giúp cho hệ động thực vật phát triển

làm nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng trong vụ nuôi tôm, giúp tôm phát triển nhanh, giảm

chi phí thức ăn nuôi tôm, đồng thời hạn chế sự suy thoái đất.

- 80 -

- Việc hạn chế sử dụng thuốc, hóa chất trong vụ nuôi tôm và thuốc BVTV trong vụ canh tác

lúa góp phần tạo ra sản phẩm an toàn, đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu.

- Quy trình kỹ thuật đơn giản, dễ áp dụng và nhân rộng mô hình.

* Kết quả chung:

Diện tích, năng suất, sản lượng tôm ( mô hình tôm lúa)

Trên cơ sở quy hoạch, bố trí sản xuất hằng năm của Sở Nông nghiệp và PTNT Kiên

Giang chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất cụ thể cho từng địa bàn.

Qua 9 năm thực hiện mô hình luân canh 1 vụ tôm 1 vụ lúa, đến nay đã có những chuyển

biến tích cực về diện tích và năng suất sản lượng tôm.

Diện tích sản xuất luân canh tôm – lúa luân có sự biến động hàng năm, từ 5.285 ha (năm

2001) đã tăng lên đến 45.770 ha (năm 2005) và 66.410 ha ( năm 2008) đến năm 2009 diện

tích nuôi tôm – lúa là 62.498 ha và năm 2010 là 70.000 ha, và định hướng quy hoạch trong

thời gian tới ổn định ở mức 60.000 – 65.000 ha.

Diện tích mô hình tôm - lúa luân chiếm tỷ lệ cao trong tổng diện tích nuôi tôm sú

của Tỉnh, từ 19,7% ( năm 2001) tăng lên 61,2% (năm 2005) và 81,7% (năm 2008) đến năn

2009 giảm còn 80,7%. Ở những thời điểm diện tích nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa tăng

lên, chủ yếu là từ diện tích đất trồng lúa hai vụ năng suất thấp và một phần từ diện tích đất

hoang. Những lý do chính mà nông dân chuyển từ độc canh cây lúa sang sản xuất tôm – lúa

là: (1) lợi nhuận cao (2) giá tôm thương phẩm cao, (3) làm theo những nông dân khác, (4)

nước nhiễm mặn không thể canh tác lúa vào mùa khô...Bên cạnh đó, việc chuyển đổi từ

nuôi chuyên tôm sang hình thức nuôi tôm - lúa thường xuất phát từ những lý do sau: (1)

dịch bệnh xảy ra trên tôm ngày càng cao, (2) nuôi tôm thất, (3) giá tôm thương phẩm thấp,

(4) giá lúa cao và vấn đề an toàn lương thực... Năm 2007, 2008 dịch bệnh liên tục xảy ra là

thiệt hại gần 50.000 ha nuôi tôm, riêng năm 2008 diện tích tôm thiệt hại ở vùng U Minh

Thượng là 42.629 ha.

Ngoài ra, việc chuyển đổi từ hệ thống canh tác tôm – lúa sang hình thức nuôi

chuyên tôm thường do các nguyên nhân chính như: Đất nhiễm mặn nên canh tác lúa gặp rủi

ro, một phần do lợi nhuận và giá tôm thương phẩm cao. Năm 2008, mặn gây ngộ độc hàng

chục ngàn ha lúa ở vùng U minh Thượng và gây chết 5.000 ha lúa.

Diện tích nuôi tôm sú – lúa từ năm 2006 đến nay tăng về tổng thể toàn Tỉnh, nhưng

chủ yếu tập trung ở vùng U Minh Thượng, các vùng khác có xu hướng giảm dần do điều

kiện môi trường và tính hiệu quả của mô hình ( Bảng 2)

Như vậy, các huyện vùng Tứ Giác Long Xuyên ( Kiên Lương , Hòn Đất ) diện tích nuôi

tôm sú – lúa giảm dần từ năm 2006 đến nay. Nguyên nhân chủ yếu là nguồn nước mặn

- 81 -

không ổn định và không đáp ứng được cho vụ nuôi tôm, năng suất tôm nuôi thấp, hiệu quả

kinh tế không cao, nên phần lớn bà con nông dân chuyển sang canh tác lúa đơn thuần ( Hòn

Đất)

Diện tích canh tác tôm – lúa tăng từ năm 2006 và ổn định hiện nay là các huyện vùng U

Minh Thượng ( An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận và U Minh Thượng ). Do tính đặc thù của

vùng canh tác lúa tập trung vào mùa mưa, màu khô nước mặn – nuôi tôm.

Nhìn chung, diện tích mô hình nuôi tôm – lúa của Tỉnh hiện nay đang thay đổi và dần ổn

định với vùng có điều kiện thích hợp ( vùng U Minh Thượng ) và phù hợp với định hướng

quy hoạch của nghành nông nghiệp.

Năng suất tôm bình quân trong mô hình canh tác tôm lúa toàn Tỉnh từ năm 2006 đến

nay, cũng từng bước được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Từ 0,183 tấn/ha (2006) đã

tăng lên được 0,290 tấn/ha (2009)

Năng suất tôm được cải thiện là do: (1) Kinh nghiệm nuôi của nông dân, (2) áp dụng

một phần tiến bộ kỹ thuật, (3) mật độ thả nuôi tăng cao, (4) vốn đầu tư tăng... Tuy nhiên với

năng suất trên, chưa đạt hệu quả cao so với tiềm năng hiện có nên kéo theo là hiệu quả kinh

tế chưa cao trên cùng đơn vị diện tích canh tác, yếu tố rủi ro ngày càng xuất hiện với tần

xuất cao hơn. Tỷ lệ thiệt hại cả về con tôm lẫn cây lúa ngày càng cao; điển hình như những

năm 2008, 2009 như đã nêu trên và thiệt hại trên tôm năm 2010.

Thực trạng năng suất tôm chưa cao và yếu tố rủi ro cao chủ yếu là do một số các nguyên

nhân sau đây.

- Đa số bà con nông dân chưa áp dụng hoặc áp dụng chưa tốt quy trình kỹ thuật, tiến bộ

kỹ thuật trong nuôi tôm, mà chủ yếu làm theo kinh nghiệm tự học hỏi lẫn nhay, thiếu tính

chọn lọc thông tin.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng ở từng nông hộ chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật như: Thiếu ao

lắng, ao chứa, hệ thống bờ bao chưa chắc chắn, mương bao chưa đạt tỷ lệ... Dẫn đến thất

thoát nước, mực nước trên ruộng nuôi tôm không giữ được theo yêu cầu nên mệt độ thả

thấp, môi trường nước biến động gây ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi, thiệt hại và tiềm ẩn

nhiều rủi ro.

- Chủ yếu làm theo kinh nghiệm, nên không bám sát lịch thời vụ của nghành nông

nghiệp và của địa phương... Dẫn đến việc cải tạo và xuống giống không đồng bộ, tạo đều

kiện cho dịch bệnh lây lan, tăng chi phí sản xuất.

- Thiếu vốn sản xuất nên chưa mạnh dạn đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật dẫn đến việc

thả nối, thả gối theo kiểu có vốn tới đâu mua tôm giống thả tới đó...

- 82 -

- Chưa quan tâm tốt đến vấn đề cải tạo và xử lý môi trường nuôi, tôm giống thả nuôi

chưa quan tâm đến việc xét nghiệm một số bệnh nguy hiểm.

Về năng suất lúa trong mô hình canh tác tôm – lúa ở tương đối ổ định. Năng suất lúa

trong mô hình tôm lúa ở Kiên Giang năm 2005 là 4,5 – 5,11 tấn/ha ( Nguyễn Bảo Vệ và ctv,

2005). So sánh với năng suất lúa trong mô hình canh tác tôm lúa ở tỉnh Cà Mau, bình quân

năm 2001 – 2005 đạt dưới 3 tấn/ha, cao nhất là năm 2005 đạt 3,570 tấn/ha và năm 2008 đạt

3,5 – 4 tấn/ha ( BC Nguyễn Trần Thức – Trung tâm KNKN Cà Mau 2009).

Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình hình tình hình diện tích lúa trong mô hình

canh tác tôm - lúa thiệt hại không nhỏ ( năm 2008 và một phần của năm 2009) do đất nhiễm

mặn vào đầu vụ lúa, nhiễm mặn và thếu nước ngọt vào thời điểm cuối vụ canh tác lúa. Làm

ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng lúa. Nguyên nhân chủ yếu là do những yế tố

chính sau:

- Khi lúa bị nhiễm sâu bệnh, nông dân còn lúng túng chưa có biện pháp phóng trừ hữu

hiệu ( do trong ruộng lúa còn nuôi xen tôm).

- Tranh thủ thời vụ thủ thời vụ để thả 2 vụ tôm, sau khi thu hoạch tôm tranh thủ xuống

giống lúa kịp thời vụ dựa vào cảm tính sau 1 – 2 cơn mưa; nên khâu rửa mặn chưa triệt để

dẫn đến lúa thường chết sau khi sạ khoảng 7 – 10 ngày.

- Đa phần nông dân áp dụng phương pháp thả nối, thu tỉa trong thời gian dài, làm ảnh

hưởng đến thời vụ gieo sạ vụ lúa, lúa bị thiếu nước ngọt vào cuối vụ dẫn đến thiệt hại.

- Sản xuất vụ lúa trên đất tôm hoàn toàn lệ thuộc vào thời tiết; trong những năm gần

đây, thời tiết biến đổi bất thường gây thiệt hại làm ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất lúa.

2.3. Nhận xét chung về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kiên Giang

2.3.1. Kết quả đạt được

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông-lâm-thủy sản từ 46,6%

xuống còn 42,7%, tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ từ 28% lên 33,4%.

Thu nhập bình quân đầu người đạt 25,762 triệu đồng (tương đương 1.320 USD) gấp hơn 2

lần so với đầu nhiệm kỳ.

Các lĩnh vực kinh tế có tiềm năng thế mạnh được tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy

tốt hơn; trong đó, khu vực nông-lâm-thủy sản tăng trưởng khá (bình quân 7,2%), giữ vai trò

quyết định tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Công nghiệp xây dựng tăng 13,1%, dịch vụ tăng 17,4%. Một số chi tiêu chủ yếu về lương

thực, khai thác nuôi trồng thủy sản, kim ngạch xuất khẩu đều thực hiện vượt mục tiêu nghị

quyết Đại hội đề ra.

- 83 -

Tuy diện tích bị thu hẹp nhưng năng suất cây trồng chủ yếu vẫn tăng, cây lúa năm

2001 năng suất bình quân là 3,18 tấn/ha đến năm 2005 là 3,53ha tấn/ha, tăng 11%; diện tích

lúa 2 vụ năm 2001 là 32.931ha đến năm 2005 là 36.175ha tăng 9,85%; nhiều loại rau, màu

được trồng xen canh, luân canh mang lại hiệu quả kinh tế khá cao; hệ số sử dụng đất được

cải thiện khá hơn trước (năm 2001 là 1,22 đến năm 2005 là 1,36); chất lượng giống cây

trồng từng bước được đầu tư giống mới cho năng suất và giá trị kinh tế khá cao. Về chăn

nuôi, đàn heo tăng khá, năm 2001 tổng đàn heo là 187 ngàn con đến năm 2005 là 246 ngàn

con tăng 31,55%; đàn gia cầm do dịch cúm gia cầm bùng phát nên có chiều hướng giảm

mạnh; những năm gần đây phát triển thêm đàn bò, dê bước đầu đạt hiệu quả khá.

Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp tuy chậm

nhưng đúng hướng và đem lại hiệu quả khá. Chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi theo

hướng tích cực. Năm 2001, trồng trọt chiếm 79,76%, chăn nuôi chiếm 12,49%; đến năm

2005 trồng trọt chiếm 76,89% và chăn nuôi tăng lên 16,83%. Giá trị sản xuất bình quân trên

một ha đất nông nghiệp tăng dần qua các năm (năm 2001 đạt 7 triệu đồng/ha đến năm 2005

tăng lên 11,3 triệu đồng/ha), từ đó thu nhập của người nông dân ngày càng được cải thiện,

tỷ lệ hộ nghèo năm 2001 trên 10% đến năm 2009 còn 5,81%(theo tiêu chí cũ).

2.3.2. Những mặt tồn tại

Từ thực tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian qua tuy đã đạt

được một bước chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp rất quan trọng, mặc dù sản lượng nông

nghiệp về giá trị và hiện vật đều tăng, nhưng tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP của

nền kinh tế có xu hướng giảm. Các chỉ số cơ cấu lớn này cho biết xu hướng chuyển dịch

tích cực theo hướng CNH-HĐH.

Nhưng tìm một cơ cấu hợp lý trong nội bộ trong ngành nông nghiệp ( theo nghĩa

rộng bao gồm nông- lâm- ngư nghiệp) là phải làm sao để kết quả tổng hợp trên 1ha diện tích

và trên 1 lao động không ngừng tăng lên, tuy nhiên trong thời gian qua chỉ tiêu này không

có sự chuyển biến lớn do nông nghiệp thuần, giá trị kinh tế thấp vẫn chiếm tỷ trọng lớn và

lao động chiếm trên dưới 80%, điều này cho thấy nông nghiệp vẫn giữ vị trí độc tôn, lâm-

ngư chưa vươn lên ngang tầm với những lợi thế hiện có.

Tỷ trọng lâm nghiệp giảm, chất lượng rừng kém cho thấy hậu quả khai thác tài nguyên

lâm nghiệp đã đến mức cạn kiệt, gây ra nhiều hậu quả: mất cân bằng sinh thái.

Tỷ trọng ngư ngiệp tuy có tăng, nhưng chưa khai thác hết tiềm năng, điều kiện khai

thác còn lạc hậu ảnh hưởng đến môi trường, mức độ rủi ro lớn.

Kết quả chuyển dịch cơ cấu SXNN 10 năm qua còn chậm, chưa tương xứng với tiềm

năng đất đai, lao động và nguồn lực đầu tư. Trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi đó

- 84 -

các loại cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả và những loại cây có giá trị kinh tế và

giá trị xuất khẩu chưa được phát triển mạnh. Trong khi chăn nuôi tuy có nhiều tiềm năng

nhưng chưa được chú trọng phát triển. Tác động của việc chuyển đổi cơ cấu giống cây

trồng, vật nuôi chưa nhiều; đa số cây trồng, vật nuôi năng suất thấp hơn nhiều so với năng

suất bình quân chung của khu vực ĐBSCL và cả nước, hiệu quả chăn nuôi còn thấp, chất

lượng con giống chưa cao. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp 5 năm

qua không đạt so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nhìn chung, SXNN chủ yếu diễn ra ở kinh tế

hộ, quy mô nhỏ, phân tán, phần lớn sản xuất theo kiểu tự phát, tự sản tự tiêu, chưa bám theo

mục tiêu sản xuất hàng hóa và nhu cầu thị trường. Công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhất là

công nghiệp chế biến hàng nông sản chưa phát triển, nông sản làm ra chủ yếu bán dưới dạng

thô và sơ chế nên giá trị sản phẩm thấp, kém sức cạnh tranh, không đáp ứng nhu cầu thị

trường nên gây khó khăn cho phát triển sản xuất hàng hóa lớn cũng như tạo thêm việc làm ở

nông thôn. Giá trị sản xuất bình quân trên một đơn vị diện tích đất trồng trọt đạt thấp - năm

2005 đạt 11,3 triệu đồng/ha, trong khi giá trị sản xuất bình quân của cả nước năm 2004 là 21

triệu đồng/ha (chỉ bằng 53,81% mức bình quân cả nước).

Hầu hết các hộ trồng lúa vẫn còn bị bó chặt trong vòng tiểu nông, lấy công làm lời

trên mãnh ruộng manh mún trồng lúa, nuôi lợn không tính lãi, hệ thống mổi nhà 1-2 con lợn

trên 90% hộ chăn nuôi của tỉnh, thức ăn tự túc, chuồng trại cạnh nhà, chăn nuôi bỏ ống dành

tiền cách biệt hẳn với hệ thống nuôi trang trại qui mô lớn dùng giống ngoại, điều chỉnh nhiệt

độ, thức ăn công nghiệp, dịch vụ thú y…, không cân nhắc thị trường.

Những hạn chế, yếu kém nói trên có nhiều nguyên nhân, song cần lưu ý một số

nguyên nhân sau: Quá trình chuyển dịch nhất là ở vùng ngọt hóa chưa gắn kết chặt chẽ giữa

việc định hướng quy hoạch với tổ chức thực hiện quy hoạch và bố trí sản xuất theo quy

hoạch. Sản xuất còn nảy sinh nhiều yếu tố tự phát, nhiều vùng bị xâm mặn, diện tích canh

tác nông nghiệp ngày càng thu hẹp (năm 2005 diện tích gieo trồng chỉ đạt 109.640

ha/145.000ha, tăng 75,61% kế hoạch) làm cho sản xuất kém hiệu quả, thiếu ổn định và bền

vững. Hệ thống thủy lợi đầu tư thiếu đồng bộ và chưa khép kín, việc cấp thoát nước chủ yếu

là dựa vào nguồn nước tự nhiên.

Tóm lại, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghỉa rộng trong

thời gian qua là rất chậm chạp và chưa tương xứng với yêu cầu, tiềm năng tài nguyên, sinh

thái của tỉnh.

- 85 -

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỈNH KIÊN GIANG

3.1. Cơ sở định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Kiên Giang đến năm

2020

3.1.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam đến năm

2020

Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam đến năm 2020

Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 20/6/2005

đưa ra quan điểm qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông lâm thủy sản cả nước đến năm

2010 và tầm nhìn 2020:

- Chuyển dịch cơ cấu nông lâm thủy sản nhằm nâng cao giá trị thu nhập trên 1 ha đất

canh tác, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, ngư dân và người làm nghề

rừng.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản phải trên cơ sở nhu cầu cầu thị

trường, phát huy lợi thế và điều kiện tài nguyên của từng vùng, áp dụng tiến bộ KHKT

nhằm đạt năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, tăng khả năng cạnh tranh nông lâm thủy

sản, hàng hóa Việt Nam.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản phải gắn kết chặt chẽ với công nghệ

bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản phải gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động

trong nông nghiệp và nông thôn, điều chỉnh dân cư, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

sản xuất hàng hóa với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản phải đồng bộ với cơ chế sản xuất

huy động được mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế kết hợp với sự hỗ trợ của nhà

nước để nhằm đảm bảo sản xuất có hiệu quả bền vững và an toàn môi trường sinh thái.

Mục tiêu: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản ở nước ta nhằm

xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa cao, đa dạng sản phẩm và bền vững dựa trên cơ sở

phát huy các lợi thế so sánh, áp dụng KHCN, làm ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng

nhu cầu đa dạng hóa trong nước và tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường quốc tế,

năng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn từ đó nâng cao thu nhập và cải

thiện đời sống của nhân dân, ngư dân và những người làm nghề rừng. Mục tiêu cụ thể:

-Tốc độ phát triển giá trị sản xuất nông lâm thủy sản đạt 4%/năm

-Cơ cấu kinh tế ngông nghiệp đạt: trồng trọt: 50%; chăn nuôi 30%; dịch vụ việc làm 15%

- 86 -

-Tỷ lệ che phủ rừng đạt 50%

-Kinh ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 17,5 – 18 tỉ USD trong đó nông lâm sản đạt

9,5 – 10 tỉ USD; thủy sản đạt 8 tỉ USD

-Tăng giá trị sản lượng trên một đơn vị canh tác đạt bình quân 50 triệu đồng đưa thu nhập

bình quân trên người ở nông thôn đạt 1000USD/năm.

Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản ở Việt Nam đến năm

2020

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm thủy sản theo hướng công nghiệp hóa – hiện

đại hóa: giảm tỉ trọng trồng trọt, tăng tỉ trọng chăn nuôi và thủy sản; các loại cây con phù

hợp với điều kiện sinh thái và phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước; gắn

sản xuất nông nghiệp với công nghiệp và công nghiệp chế biến nhằm tạo ra những sản phẩm

nông lâm thủy sản hàng hóa chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu thị trường trong và ngoài

nước nâng cao thu nhập cải thiện đời sống nhân dân.

Trồng trọt cây lương thực ổn định sản lượng khoản 40 triệu tấn, lúa 40 triệu tấn,

đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đủ đáp ứng cho con người nguyên liệu cho thức ăn

gia súc và xuất khẩu 35 – 40 triệu tấn gạo/năm. Mở rộng diện tích cây ngô, sắn, đáp ứng

nhu cầu nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi

Cây công nghiệp dài ngày: lựa chọn cây trồng phù hợp điều kiện sinh thái của mỗi

địa phương xác định diện tích ổn định nhằm tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến và hàng hóa xuất khẩu

Cây công nghiệp ngắn ngày: Phát triển cây lạc ở duyên hải Bắc trung bộ, đông nam

bộ, trung du miền núi phía bắc, cây mía duyên hải nam trung bộ, đông nam bộ, đồng bằng

sông Cửu Long, cây bông trồng ở Tây Nguyên…

Cây ăn quả: Năm 2020 diện tích đạt 1.3 triệu ha, chú ý tăng những cây ăn qủa có lợi

thế( nhãn, vải, chuối ,dứa)

Rau các loại: Đầu tư phát triển các vùng sản xuất rau tập trung theo công nghệ sạch,

rau chất lượng cao an toàn vệ sinh thực phẩm

Chăn nuôi: phát triển các loại gia súc gia cầm theo hướng sản xuất hàng hóa, hình

thành các vùng công nghiệp tập trung hình thức trang trại, nuoi công nghiệp gắn với công

nghiệp chế biến và xử lí chất thải. Chú ý những vật nuôi có điều kiện phát triển và nhu cầu

thị trường lớn.

Lợn: Phát triển đàn lợn phù hợp với tiêu dùng và khả năng đầu tư của từng địa

phương

- 87 -

Bò: Chăn nuôi bò thịt và bò sửa. Bò thịt phát triển những giống có năng suất cao, thịt

ngon đáp ứng nhu cầu thị trường dự kiến đến năm 2020 sẽ tăng đàn bò 6.5 -6.7 triệu con,

đàn trâu từ 2.8 – 3 triệu con; nâng cao chất lượng đàn bò sửa hiện có.

Gia cầm: Phát triển đàn gia cầm đáp ứng nhu cầu thịt, trứng ở trong nước và xuất

khẩu. Cải tiến phương pháp chăn nuôi, tăng cường công tác thú y …

Thủy sản: Tăng cường nuôi trồng thủy sản nước lợ nuôi biển, đồng thời phát triển

nuoi trồng thủy sản nước ngọt trong các ao hồ, sông. Sản phẩm nuôi trồng chủ yếu cá tra, cá

ba sa cá rô phi, tôm, cá biển, nhuyển thể(nước mặn, nước lợ). Tùy điều kiện sinh thái từng

vùng, từng địa phương và nhu cầu của thị trường mà xác định đối tượng thủy sản nuôi chủ

lực, xây dựng các vùng nuôi công nghiệp tập trung đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Với khai thác hải sản, ổn định đồng bằng ven bờ, thay đổi cơ cấu nghề nghiệp khai

thác ven bờ; tăng tỷ trọng khai thác xa bờ.

3.1.2. Quan điểm và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh đến năm

2020.

3.1.2.1. Quan điểm phát triển

Với mục tiêu chung là ổn định và phát triển kinh tế, tạo mọi điều kiện đẩy nhanh tốc

độ tăng trưởng, không ngừng nâng cao mức sống của người dân, đặc biệt nâng cao, cải thiện

đời sống của người dân nông thôn, do đó việc quy hoạch phát triển kinh tế nói chung, phát

triển nền nông nghiệp hàng hóa nói riêng của tỉnh phải có những quan điểm mục tiêu

chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp là đảm bảo xây dựng một nền nông nghiệp mạnh, phát triển

bền vững, có những ngành sản xuất hàng hóa lớn có sức cạnh tranh trong vùng lân cận,

phạm vi cả nước và quốc tế:

3.1.2.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải đi vào thực hiện phân bổ và sử dụng tốt

nhất các nguồn lực hiện có (đất đai, lao động, vốn, công nghệ..), không những tạo ra những

sản phẩm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn đúng lúc, đáp ứng nhu cầu thị

trường, tiêu thụ với giá cả có lợi tăng thu nhập cho người nông dân.

Tăng nhanh tốc độ và hiệu quả của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển

đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng nhằm khai thác tối đa tiềm năng thế mạnh về đất

đai, biển và đảo, với quan điểm sử dụng đạt hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích của

các ngành nông –lâm-thủy sản và hướng đến bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng bền

vững, đảm bảo an ninh lương thực, tạo thêm việc làm, giải quyết vấn đề lao động. Do đó

việc bố trí cây trồng trên từng đơn vị diện tích ở từng huyện từng địa phương cụ thể phải

tính đến yếu tố năng suất, chỉ giữ loại cây trồng, con nuôi cho năng suất, hiệu quả cao, nếu

- 88 -

không phải chuyển sang cây trồng, con nuôi khác. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh nông

nghiệp là việc làm thường xuyên một mặt phải xác định những lợi thế về đất đai, khí hậu,

lao động để lựa chọn cây trồng gì, nuôi con gì, mặt khác sản phẩm làm ra phải đáp ứng

được nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường.

- Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải nằm trong định hướng quy hoạch

tổng thể chung gắn với phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, tránh tình trạng

chuyển dịch cơ cấu cây trồng ồ ạt và đến khi không có “ đầu ra” sản phẩm thì đồng loạt chặt

bỏ gây thiệt hại và lãng phí đầu tư.

- Sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên cho ứng dụng kịp thời tiến bộ khoa học

kỹ thuật vào sản xuất, đảm bảo phát triển bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp đặc biệt chú ý đến tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhất là công tác giống,

đồng thời đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản đa dạng hóa nông sản, mặt khác chú ý tới

môi trường để vừa tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm vừa đảm bảo phát triển

bền vững.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nền kinh tế: Các nguồn lực về tài chính, lao

động và sức sáng tạo của các thành phần kinh tế là rất lớn, giúp cho quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra nhanh chóng.

Mục tiêu phát triển kinh tế

Mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 là: xây dựng tỉnh thành

trung tâm công nghiệp thương mại, dịch vụ, du lịch, thủy sản miền Nam; duy trì tốc độ phát

triển kinh tế nhanh, bền vững và hiệu quả hơn so với thời kì trước, nâng cao sức cạnh tranh

của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển khoa học công nghệ và có

bước đi phù hợp trong việc kết hợp giữa cơ khí hóa, hiện đại hóa với ứng dụng công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học, nâng cao chất lượng đào tạo, nguồn nhân lực. Cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, phát triển văn hóa xã hội đồng bộ với phát triển kinh

tế, tạo thêm việc làm, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo.

Mục tiêu phát triển kinh tế kế hoạch 2010-2015: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình

quân đạt 13%/ năm trở lên, và 14% thời kỳ 2016-2020. Đến 2015, cơ cấu kinh tế: nông,

lâm, thủy sản chiếm 30%, công nghiệp- xây dựng 32%, dịch vụ 38%. Đến năm 2020, tỷ

trọng của các ngành nông-lâm-thủy sản chiếm 20%; công nghiệp- xây dựng 37%; dịch vụ

43%

- GDP bình quân đầu người 2.500 USD ( theo giá hiện hành ) vào năm 2015. Năm

2020 GDP bình quân đầu người đạt 4.500 - 4.600 USD/ người; sản lượng lương thực đạt

3.550 triệu tấn, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản 684.000 tấn( trong đó nuôi tôm

- 89 -

55.000 tấn), kim ngạch xuất khẩu 900 triệu USD; 100% xã trong đất liền có đường từ huyện

về trung tâm xã và 60% trở lên đường liên ấp được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; 90% số hộ

sử dụng điện; 96% số hộ sử dụng nước hợp vệ sinh; 25% số xã đạt các tiêu chí xã nông

thôn mới, các xã còn lại đạt 50% trở lên các tiêu chí xã nông thôn mới. Thu ngân sách gấp

hai lần trở lên so với năm 2010.

Dân số trung bình tăng 1,14%. Huy động học sinh từ 6-14 tuổi đến trường đạt 96%/

năm trở lên. Giải quyết việc làm từ 32.000-35.000 lao động/ năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng

năm từ 1,5-1,8%.

Đến năm 2015, tỷ lệ rừng che phủ nâng lên 14%. Hầu hết các khu công nghiệp, khu

đô thị xây dựng mới phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn quy định.

95% chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại, chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn.

90% chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh và phòng ngừa dịch bệnh.

3.1.2.3. Mục tiêu phát triển nông nghiệp

* Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm là: Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sản xuất hàng hóa lớn, tập trung, có năng suất, chất lượng,

hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ

sản phẩm. Phát triển nông nghiệp gắn liền với xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.

* Mục tiêu cụ thể

Giai đoạn 2011-2015, ngành nông nghiệp tập trung vào các mục tiêu cụ thể

sau: Phát huy lợi thế, tiềm năng đẩy mạnh phát triển sản xuất, thúc đẩy kinh tế ngành tăng

trưởng cao, bền vững; chuyển dịch cơ cấu tích cực, đúng hướng.

-Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của

các sản phẩm nông lâm thủy sản.

-Phát triển hệ thống hạ tầng đáp ứng kịp yêu cầu sản xuất, đời sống nhân dân; ứng

phó có hiệu quả biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh.

-Xây dựng, phát triển nông thôn mới.

-Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý và tổ chức chỉ đạo điều hành, bảo

đảm hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch.

Phát triển ngành trồng trọt với cây lúa là cây trồng chủ lực theo hướng chất lượng,

hình thành vùng lúa tập trung, sản lượng lúa năm 2015 đạt 3,5 triệu tấn; năm 2020 đạt 3,7

triệu tấn. Quy hoạch ổn định vùng trồng mía, khóm, tiêu, rau sạch, hoa, cây cảnh…phát

triển ngành chăn nuôi đại gia súc, nuôi heo,gia cầm trở thành ngành sản xuất hàng hóa lớn,

- 90 -

mở rộng chăn nuôi công nghiệp tập trung. Đẩy mạnh trồng, bảo vệ rừng phát huy các giá trị

và chức năng của hệ sinh thái rừng, duy trì đa dạng sinh học, trong đó tập trung cho rừng

quốc gia Phú Quốc và U Minh Thượng. Tổng diện tích đất nông nghiệp đến 2015-2020 ổn

định 85.778ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 13,5-14%. Tích cực huy động các nguồn lực và sự hỗ

trợ của nhà nước đầu tư xây dựng nông thôn mới trước mắt triển khai thực hiện 6 tiêu chí:

giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, hệ thống chính trị và nâng cao mức sống của nhân dân.

Tập trung đầu tư cho công trình đánh bắt xa bờ, tổ chức sắp xếp lại cơ cấu ngành

nghề. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh các cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá. Phát triển

nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa, phát triển bền vững. Mở rộng diện tích nuôi

tôm theo hướng thâm canh, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi tôm kết hợp với

trồng lúa. Phát triển các hình thức nuôi cá đồng, nghêu, sò, cua, hến biển, cá lồng bè, cá tra,

cá cảnh biển. Giai đoạn 2015-2020, tổng sản lượng khai thác thủy sản đạt 390.000-420.000

tấn, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt từ 140.800ha, trong đó nuôi tôm 88.500ha.

3.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đến năm

2020

Định hướng khai thác tiềm năng lợi thế: Trong thời gian qua tỉnh đã đạt được nhiều

thành tích trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp còn chậm so với phát triển của thị trường và sự mong đợi của nhân dân, sự chuyển

dịch còn nặng về số lượng, chưa chú trọng đến khoa học công nghệ, nên chất lượng, hiệu

quả năng suất khả năng cạnh tranh thấp, khâu tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, trở

thành một mối lo thường xuyên của nông dân.

Trên cơ sở phát huy tiềm năng lợi thế đất đai, trình độ sản xuất của người dân kết

hợp với thông tin dự báo kịp thời về nhu cầu của thị trường, nhanh chóng đánh giá tiềm lực

cạnh tranh của các mặt hàng nông sản từ đó xác định các loại cây trồng, vật nuôi có điều

kiện phát triển và phù hợp với nhu cầu của thị trường, thích hợp với từng vùng sinh thái để

phát triển trong thời gian tới nhằm đáp ứng mục tiêu chung trong chuyển dịch CCKT nông

nghiệp. Việc đẩy mạnh chuyển dịch CCKT nông nghiệp cũng chính là đạt mục tiêu giá trị

bình quân sản xuất trên 1ha đất canh tác đạt trên 60-65 triệu đồng năm 2015. Nói chung,

hiệu quả chuyển dịch CCKT nông nghiệp là góp phần tăng khả năng tích lủy cho nông dân,

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo an toàn an ninh lương thực thực phẩm.

3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành

Tỷ trọng nông-lâm-thủy sản trong cơ cấu GDP sẽ giảm mạnh trong thời gian năm

2004 đến năm 2020 từ 41,14% xuống còn 20%, nhưng nông- lâm- thủy sản vẫn phải kiên

định vai trò quan trọng mang tính quyết định sự ổn định phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

- 91 -

Trong cơ cấu GDP ngành nông- lâm -thủy sản sẽ thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng những

lĩnh vực nông nghiệp hiệu quả thấp, tăng tỷ trọng những lĩnh vực có lợi thế về tài nguyên,

dân cư-lao động, thị trường tiêu thụ; nông, lâm giảm từ 67%(2004) xuống còn 41%(2020)

và thủy sản tăng mạnh từ 33%(2004) lên 59%(2020), thủy sản tăng mạnh cả về tỷ trọng lẫn

giá trị tuyệt đối để khẳng định vai trò của thủy sản trong việc cung cấp nguồn thực phẩm

cho nhu cầu ngày càng lớn cho nhân dân và tạo ra nguồn hàng lớn có giá trị xuất khẩu cao.

Dự kiến tốc độ phát triển nông nghiệp đạt 6%/năm, trong đó chăn nuôi tăng 7%/năm, cơ cấu

nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng mạnh tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng

ngành trồng trọt.

* Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt

Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt thay đổi trên cơ sở tận dụng các lợi thế của

tỉnh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư lao động nhằm tăng giá trị hàng

hóa, đảm bảo an ninh lương thực, bảo vệ môi trường…

Cây lương thực phát triển theo hướng:

Cây lúa: năm 2020, dừng ở mức bảo đảm an ninh lương thực, có thể sản xuất các sản

phẩm lúa đặc sản và cung cấp các giống lúa cho các vùng lân cận, giảm diện tích sản xuất

lúa xuống 45.520 ha ( còn khoảng 579.105 ha ) để chuyển sang trồng các loại cây màu và

nuôi trồng thủy sản, sản lượng 3,7 triệu tấn. Có thể mạnh dạn chuyển một phần đất trồng

lúa năng suất thấp, kém hiệu quả sang trồng các loại cây màu có hiệu quả kinh tế cao và có

thị trường tiêu thụ thuận lợi như: khoai lang, khoai mì…, chuyển một số diện tích bị phèn

nặng sang trồng tràm.

Tăng diện tích trồng cây chất bột có củ thêm 391 ha (so năm 2010) để đạt diện tích 2.712ha

(năm 2020) như khoai lang (2.341 ha ), khoai mì (371 ha ); các loại cây màu như rau các

loại ( 5.911ha), đậu các loại( 240 ha ).

- Nâng tỷ lệ sử dụng giống xác nhận 70% (2020) phục vụ cho xuất khẩu nâng cao

chất lượng gạo, tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả trong sản xuất lúa.

- Nâng cao năng lực chọn tạo, phục tráng giống để bảo tồn và chọn tạo giống mới có

đặc tính tốt gắn với xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý.

- Khuyến khích mọi thành phần tham gia sản xuất lúa giống.

- Dự kiến năm 2020, diện tích 5.000 ha/vụ, sản lượng 22.500 tấn, đáp ứng được 50%

diện tích sản xuất.

Hệ thống nhân giống cấp xác nhận nông hộ: (nhân giống cộng đồng).

- 92 -

- Đối tượng là các nông hộ, hộ nông dân liên kết thành tổ, nhóm nông hộ sản xuất

giống nhằm phục vụ nhu cầu tự để giống cho sản xuất các hộ ở vùng sâu, vùng xa chưa có

điều kiện tiếp cận giống mới đạt tiêu chuẩn chất lượng để sản xuất.

- Đối với hệ thống nhân giống nông hộ sẽ được hỗ trợ 40% giá giống, còn sản xuất

tập trung 30% giá.

+ Quy hoạch lại cơ cấu giống, trong mỗi vùng chỉ chọn giới hạn một số loại giống

lúa có chất lượng và giá trị cao, có thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thuận lợi.

Vùng lúa xuất khẩu tập trung các loại giống chủ lực như: Nhóm giống cho chất lượng gạo

đặc sản OM 5954; nhóm giống hạt dài đạt tiêu chuẩn xuất khẩu OM 5451,OM 5472, OM

6974….và các loại giống khác thích hợp với từng tiểu vùng, phát triển trồng các loại lúa đặc

sản, lúa thơm, nếp…để đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất.

- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hiệu quả,(năm 2020) thu nhập 50 triệu

đồng/ha/năm.

- Tập trung chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi năng suất chất lượng cao đáp ứng

yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế.

- Liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

- Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cho quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn có hiệu quả hơn.

Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ theo vùng

◊ Vùng tứ giác Long Xuyên: Do chủ yếu là đất cát, đất phù sa bị nhiễm mặn, phèn nhẹ:

trồng lúa 2 vụ đông xuân-hè thu kết hợp mô hình tôm –lúa; khu vực đất cao trồng cây công

nghiệp( khóm, mía)

◊ Vùng Tây sông Hậu: Bồn trũng, ngập lũ, đất phù sa do Sông Hậu bồi đắp, nước ngọt

quanh năm: đất có thể khai thác trồng 3 vụ lúa/năm: lúa mùa, lúa Đông Xuân, lúa Hè Thu

kết hợp trồng cây hoa màu( rau, đậu, cây ăn quả ), xen canh nuôi tôm-cá nước ngọt; một

phần đất nhiễm mặn vào mùa khô, ngoài 2 vụ lúa có thể trồng khóm, mía, đất nhiễm mặn

trồng tràm, bạch đàn, tràm gió.

◊ Vùng U Minh Thượng: Địa hình bồn trũng, cao trung bình 0,2-0,4m so mực nước biển và

khu vực đầm lầy nội địa U Minh Thượng , có thể cải tạo đất trồng 2 vụ lúa so với 1 vụ

trước đây, kết hợp nuôi tôm theo hình thức QC+QCCT, CN-BCN; tiếp tục đầu tư phát triển,

bảo vệ rừng tràm, cũng như bảo vệ tính đa dạng các loài động vật dưới tán tràm như: chim,

cá, rắn, các loài bò sát khác…

◊ Vùng đảo và hải đảo: Ngoài diện tích rừng nguyên sinh ở đảo Phú Quốc được bảo vệ,

quản lý, nhân dân tiếp tục trồng rừng đảm bảo môi trường sinh thái; tiếp tục phát huy thế

- 93 -

mạnh về khí hậu, đất duy trì phát triển diện tích tiêu, điều…,đánh bắt, nuôi trồng thủy sản (

nuôi trai lấy ngọc, giữ vững thương hiệu nước mắm.)

◊ Sản lượng lương thực đạt 3,2 triệu tấn/ năm, tập trung thực hiện các giải pháp thúc đẩy áp

dụng khoa học công nghệ vào sản xuất lúa hàng hóa theo hướng nâng cao chất lượng, giảm

giá thành, tăng nhanh hiệu quả sản xuất và kinh doanh lúa gạo.

- Vận động nông dân triển khai thực hiện mô hình sản xuất đa canh các loại cây màu, thực

hiện xen canh lúa-màu, hoặc lúa tôm…là các mô hình sản xuất đã thu được hiệu quả kinh tế

cao.

◊ Mô hình thâm canh lúa theo hướng 3 giảm-3 tăng; mô hình liên kết trong sản xuất lúa, mô

hình sản xuất lúa trên diện tích nuôi tôm sú (lúa-tôm), mô hình về trồng rau an toàn, trồng

rau trong nhà lưới, sử dụng màng phủ nông nghiệp trong sản xuất rau xanh; mô hình trồng

nấm rơm, nấm mỡ, nấm bào ngư và bước đầu trồng thử nấm linh chi; mô hình thâm canh cây

ăn trái bằng kỹ thuật mới,… nhằm tăng hiệu quả và tăng chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ

sinh an toàn thực phẩm.; mô hình sản xuất lúa vụ Hè Thu theo hướng GAP, hạn chế tối đa

việc sử dụng thuốc BVTV, sản xuất lúa theo hướng GAP(canh tác nông nghiệp tốt) giảm

chi phí, giảm giá thành hạn chế ô nhiễm môi trường, nâng cao thu nhập cho bà con nông

dân.

- Ổn định diện tích đất lâm nghiệp 110.800 ha, đẩy mạnh trồng cây phân tán đạt độ

che phủ 20% diện tích đất tự nhiên.

Cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi:

Phát triển chăn nuôi, đây là ngành có lợi thế của tỉnh. mục tiêu phát triển ngành

chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp quy mô vừa và lớn có năng

suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; bảo đảm vệ sinh an toàn thú y, môi trường và

an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời đưa tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp từ

9% năm 2006 lên 15% vào năm 2010 và trên 30% vào năm 2020. Giai đoạn 2011-2020: đàn

heo đạt 800 triệu con, sản lượng thịt đạt 90 ngàn tấn, phương thức nuôi tập trung, công

nghiệp đạt 50% so với tổng đàn; đàn gia cầm đạt 8 triệu con (4 triệu con gà, 4 triệu con vịt)

sản lượng thịt đạt 20 ngàn tấn; sản lượng trứng 400 triệu quả, tỷ trọng chăn nuôi tập trung,

công nghiệp đạt 30% với gà và 70% với vịt; giá trị sản xuất chăn nuôi đến 2020 đạt 4.048 tỷ

đồng (giá hiện hành).

Do đó, cần tập trung phát triển đàn bò và lợn, chú ý phát triển bò lai hướng thịt, lợn

lai hướng nạc để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước với chất lượng cao. Hướng

dẫn cho dân tổ chức nuôi tập trung ở các trang trại và cần hướng dẫn cho nông dân tuyển

chọn nguồn thức ăn, chuồng trại, thú y. Ngoài ra cần quan tâm đến chăn nuôi gia cầm, nhất

- 94 -

là gà, vịt. Quan tâm đến việc chọn giống tốt, hình thức chăn nuôi phù hợp (gia đình, trang trại),

thức ăn và công tác thú y.

* Cơ cấu giá trị thủy sản

+ Tăng diện tích nuôi trồng thủy sản đạt từ 140.800ha, trong đó nuôi tôm 88.500ha. Mở

rộng diện tích nuôi tôm theo hướng thâm canh, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp,

nuôi tôm kết hợp với trồng lúa. Phát triển các hình thức nuôi cá đồng, nghêu, sò, cua, hến

biển, cá lồng bè, cá tra, cá cảnh biển. Diện tích nuôi cá 32.342 ha ( nuôi ao 6.840 ha, nuôi

đồng ruộng 25.502 ha )

- Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa các thủy sản nước mặn, lợ, ngọt.

Năm 2015 diện tích nuôi trồng đạt 188.200 ha, sản lượng 132.975 tấn, trong đó nuôi tôm

150.000 ha, sản lượng 89.000 tấn.

- Dựa vào điều kiện tự nhiên và đặc điểm của từng vùng sinh thái, tỉnh đã đưa ra định hướng

xây dựng 4 vùng sinh thái nuôi trồng thuỷ sản.

+ Vùng U Minh Thượng với điều kiện tự nhiên độc đáo, có thể phát triển nuôi trồng thuỷ

sản đa dạng về chủng loại: nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Mô hình xen canh tôm lúa hiện

đạt diện tích 65.000ha, cho sản lượng bình quân 20.000 tấn/năm. Mô hình nuôi sò huyết bãi

bồi ven biển đạt diện tích 3.500ha, sản lượng bình quân 6.000 tấn. Mô hình nuôi cua biển

(chuyên canh và kết hợp thả nuôi trong ruộng tôm) đạt diện tích 2.000ha.

+ Vùng Tứ giác Long Xuyên có thế mạnh về nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng, diện tích

thả nuôi hiện đạt 1.500ha, cho sản lượng hàng năm khoảng 10.000 tấn.

+ Vùng Tây Sông Hậu có thế mạnh phát triển nuôi các loài thuỷ sản nuớc ngọt với đối

tượng nuôi đa dạng như: cá tra, cá lóc, rô đồng, tôm càng xanh...

+ Vùng biển và hải đảo đặc biệt thích hợp với mô hình nuôi lồng bè, hiện tập trung phần lớn

tại hai huyện đảo Kiên Hải, Phú Quốc và một số xã đảo thuộc huyện Kiên Lương và thị xã

Hà Tiên.

- Xây dựng được vùng nuôi thuỷ sản tập trung gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm.

- Tổ chức tốt hệ thống thu mua nguyên liệu bằng cách chủ động, tích cực thành lập các mô

hình liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người sản xuất

bằng nhiều hình thức và bước đi phù hợp. Không mua các loại sản phẩm thuỷ sản có chứa

dư lượng hoá chất vượt mức cho phép và chứa tạp chất để giữ uy tín cho ngành thuỷ sản

Kiên Giang nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

- 95 -

- Các doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu thuỷ sản cần gắn bó trực tiếp với người sản xuất để

có thể mua tận gốc, bán tận ngọn. Mặt khác, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm thêm

thị trường, giảm áp lực ép giá đối với người sản xuất. Để chấm dứt tình trạng các phương

tiện khai thác bán nguyên liệu ra ngoài tỉnh.

- Trong thời gian tới cần tập trung đầu tư sản xuất giống các loài thuỷ sản nuôi chủ lực của

tỉnh, đáp ứng nhu cầu con giống tại chỗ. Tỉnh sẽ hoàn chỉnh các vùng quy hoạch nuôi tập

trung cho tôm thâm canh, bán thâm canh, tôm càng xanh... Quan trọng nhất là phải làm thế

nào đó để gắn người sản xuất với doanh nghiệp, gắn nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản với chế

biến và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

* Sản xuất lâm nghiệp

Triển khai kế hoạch trồng rừng tập trung ở các dự án lâm nghiệp, đặc biệt là rừng phòng

hộ ven biển gắn với dự án củng cố, nâng cấp đê biển; trồng cây phân tán và khuyến khích trồng

rừng trong nhân dân. Năm 2015, trồng mới rừng tập trung 350 ha, chăm sóc rừng trồng 723 ha,

khoanh nuôi tái sinh 2.500ha, giao khoán bảo vệ rừng 14.000ha,. Triển khai đề án cho thuê môi

trường rừng Quần đảo Nam An Thới và đề án liên kết với nhà đầu tư trong quản lý bảo vệ rừng

kết hợp với du lịch sinh thái.

Tăng cường công tác bảo vệ rừng. Trước mắt, hoàn thành công tác đóng cột móc ranh giới ở ác

ban quản lý rừng, từng bước lập đai rừng ranh giới với đất của hộ dân ở các dự án rừng Phú

Quốc, rừng vùng đồi núi.

* Dịch vụ nông nghiệp

Cần được đẩy mạnh, tăng tỷ trọng dịch vụ từ 6,3%(2005)lên 9,5%(2020) góp phần đẩy

nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, tăng diện tích tưới tiêu nước, cày bừa máy, đẩy mạnh các

loại hình dịch vụ nông nghiệp về giống, vật tư, thức ăn chăn nuôi, thú y, chuyển giao khoa

học công nghệ, tiêu thụ sản phẩm.

3.2.2. Chuyển dịch theo lãnh thổ

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông –lâm-thủy sản luôn hướng vào hai mục

tiêu: sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước nhằm thỏa mãn nhu cầu CNH(nguyên liệu) và

đô thị hóa(tiêu dùng lương thực, thực phẩm) và phục vụ xuất khẩu nhằm tích lũy và thu hút

vốn đầu tư nước ngoài.

Quy hoạch phát triển các loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu

Năm 2020, Tổ chức công bố quy hoạch phát triển nông nghiệp-nông thôn; quy

hoạch hệ thống sản xuất giống thủy sản mặn, ngọt, lợ; quy hoạch nuôi trồng thủy sản ven

biển, ven đảo; quy hoạch cấp nước và VSMTNT và một số quy hoạch lĩnh vực, sản phẩm

- 96 -

chủ yếu. Bổ sung, điều chỉnh và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án: lúa xuất khẩu,

vùng nguyên liệu mía, khóm gắn với chế biến, tiêu thụ; vùng nuôi tôm công nghiệp và nuôi

trồng tôm-lúa; đề án phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, tập trung và hoàn thiện

hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm gắn với chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Trình phê duyệt và xúc tiến đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất giống thủy sản tập trung ở Phú

Quốc và một số cơ sở giống trong đất liền.

Sản xuất tôm càng xanh: Nuôi tôm càng xanh luân canh với vụ lúa đông xuân là mô

hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phá thế độc canh cây lúa, tăng lợi nhuận trên cùng đơn vị

diện tích, hiện nay với nhu cầu lớn của thị trường trong và ngoài nước thì tôm càng xanh sẽ

có cơ hội thuận lợi để phát triển với quy mô lớn trong thời gian tới. Trong định hướng phát

triển nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh đến năm 2020, Kiên Giang sẽ xây dựng 5 vùng nuôi

thủy sản, trong đó quy hoạch vùng nuôi tôm càng xanh tại hai huyện Giồng Riềng và Gò

Quao, do địa hình ở những nơi đây trũng và chịu ảnh hưởng lớn bởi lượng nước lũ đổ về

hằng năm nên ngập sâu từ tháng 7 đến tháng 11, với hệ thống thủy lợi cơ bản hoàn chỉnh,

địa bàn có nhiều kênh rạch chằng chịt, có dòng Cái Lớn, Cái Bé bao quanh tạo điều kiện

thuận lợi cho nông dân phát triển mô hình nuôi thủy sản. Nếu sản xuất vụ lúa hè thu thì

hiệu quả không cao. Nhưng yếu tố lý hóa vùng này lại rất phù hợp loài thủy sản này, vì vậy

quy hoạch vùng này thành vùng nuôi tôm càng xanh là hợp lý nhất. Từ hiệu quả bước đầu,

huyện Giồng Riềng và Gò Quao đã xây dựng đề án phát triển nuôi tôm càng xanh tập trung

giai đoạn từ nay đến năm 2020. Theo đó, Giồng Riềng sẽ phát triển diện tích lên đến 630 ha,

Gò Quao thì khiêm tốn hơn với khoảng 80 ha. Tuy nhiên, để mô hình sản xuất này vừa

mang lại hiệu quả kinh tế cao vừa căn cơ, bền vững, trước mắt hai địa phương này cần tháo

gỡ các khó khăn. Trong đó cốt lõi vẫn là việc đầu tư kiến thiết cơ sở hạ tầng vùng quy

hoạch, kiên cố hóa hệ thống bờ bao và thủy lợi nội đồng phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất.

Mặt khác ngoài việc tìm hợp đồng bao tiêu sản phẩm, người nuôi tôm cũng rất cần được

tiếp cận nhanh các nguồn vốn vay ưu đãi vì nuôi tôm đòi hỏi vốn đầu tư rất cao. Theo đó,

tỉnh sẽ gấp rút hoàn chỉnh các quy hoạch, dự án; đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi,

vùng sản xuất giống thủy sản tập trung; tổ chức tập huấn kỹ thuật có trọng tâm, trọng điểm,

tiếp tục xây dựng các điểm trình diễn giới thiệu quy trình, kỹ thuật tiên tiến; phối hợp ngành

ngân hàng giải quyết cơ chế, chính sách cho nông dân vay vốn; nâng cao công tác tiếp thị

sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ...

Quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến Nông - Lâm - Thủy sản và ngành nghề

nông thôn.

- 97 -

+ Đối với công nghiệp chế biến, phải chú trọng vừa nâng cấp mở rộng một số cơ sở

hiện đại, với công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng thị trường đối với

các sản phẩm từ nông - lâm - thủy sản. Các cơ sở chế biến sản phẩm gắn liền với vùng

nguyên liệu, công nghệ phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán của ngưởi dân.

+ Ngành nghề nông thôn: khai thác mọi nguồn lực để phát triển ngành nghề nông

thôn, nhằm tạo nhiều sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của thị trường, giải quyết việc làm

cho người lao động. Trước hết là phát triển mạnh các ngành nghề có nhiều tiềm năng lợi thế

nhằm thu hút nhanh và nhiều lao động, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân.

Các nhóm nghề nông thôn có lợi thế phát triển:

- Chế biến nông sản ( chế biến bảo quản lương thực, tiêu, …). Đầu tư xây dựng hệ

thống công nghiệp chế biến nông sản ở nông thôn với nhiều mức chế biến từ nông đến sâu,

nhằm tận dụng nguyên liệu nông - lâm - thủy sản, phụ phẩm, phế phẩm, thu hút lao động

nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm đồng thời giải quyết được bộ

phận lao động nhàn rỗi ở nông thôn.

- Chế biến gỗ lâm sản và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nông thôn, sản

xuất hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ (mây, tre, nứa, sò, …). Đồng thời khôi phục các làng

nghề truyền thống và phát triển nhanh các ngành nghề mới theo xu hướng phát huy thế mạnh

của tỉnh, tạo sản phẩm có nội dung văn hóa cao, gắn với hoạt động kinh doanh du lịch sinh

thái, du lịch văn hóa… ở các khu du lịch, làng nghề truyền thống.

3.2.3 Chuyển dịch theo thành phần kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh cần gắn cần gắn với việc tăng vai trò của

các thành phần kinh tế. Khuyến khích mạnh mẽ kinh tế hộ và kinh tế trang trại, coi hộ gia

đình là một đơn vị kinh tế tự chủ trong tất cả các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Kinh tế

trang trại được khuyến khích phát triển nhằm tăng cường vai trò của nhóm hộ nông dân

trong khuôn khổ của những thay đổi về tính chất hợp tác xã nông nghiệp cho phù hợp với

tình hình mới của nền kinh tế thị trường.

Khu vực kinh tế nhà nước cần tập trung vào sản xuất và cung ứng các loại giống

cây trồng, vật nuôi, thủy sản; nghiên cứu và ứng dụng, đổi mới kĩ thuật, công nghệ sản

xuất, canh tác nông nghiệp.

3.3. Hệ thống các giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh

Kiên Giang hiệu quả hơn trong thời gian tới.

3.3.1. Tổ chức, phân bố sản xuất theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện,

hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến:

- 98 -

Cùng với mục tiêu CDCCKT nông nghiệp của cả nước hướng đến đảm bảo an ninh

lương thực, thực hiện nền nông nghiệp phát triển đa dạng và bền vững, phát huy lợi thế so

sánh của tỉnh, Kiên Giang cần đổi mới công tác quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng

xây dựng các vùng sản xuất nông- công nghiệp sản xuất hàng hóa, gắn quy hoạch sản xuất

với công nghiệp chế biến và phân phối lưu thông; đa dạng hóa cây con và sản xuất kinh

doanh tổng hợp cùng với việc xây dựng các vùng chuyên canh lớn nhanh chóng thích nghi

với thị trường trong nước và quốc tế.

Việc quy hoạch phải phù hợp với mục tiêu và nội dung của quá trình công nghiệp

hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, tập trung cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Công tác quy hoạch cần phải được đặt biệt quan tâm và được đặt trong tổng thể quy hoạch

và định hướng phát triển chung của tỉnh, của cả nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc

tế; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và thị trường; đồng thời phải căn cứ vào

lợi thế kinh tế và lợi thế cạnh tranh của tỉnh.

Do đó,việc quy hoạch phát triển nông nghiệp trước hết phải dựa vào nhu cầu của thị

trường, lợi thế kinh tế và hiệu quả của thời điểm đó mang lại cho nông dân. Chính vì thế mà

việc quy hoạch phát triển nông nghiệp trong thời gian tới cũng cần đổi mới theo hướng quy

hoạch “mềm” thay đổi theo không gian và thời gian; có nghĩa là trên cơ sở quy hoạch mà

lập kế hoạch sản xuất 5 năm, từng năm, từng vụ chuyển biến nhanh chóng theo nhu cầu của

thị trường. Trong vùng quy hoạch cây trồng nông dân có thể thực hiện các mô hình luân

canh ( thí dụ với lúa như: mô hình lúa-bắp, lúa-màu), hay các mô hình sản xuất kinh doanh

tổng hợp, gắn với chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ.

Trong quy hoạch phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tránh tư tưởng

cứng nhắc là phải cứ chuyển dịch cây lúa sang cây trồng khác mới đạt yêu cầu của sự

chuyển dịch, mà phải trên cơ sở cây nào đang có nhu cầu của thị trường và có hiệu quả cao

cho người nông dân thì khuyến khích trồng cây ấy, tức là “quy hoạch phát triển và chuyển

dịch theo cái mà thị trường cần”, nhất là phần lớn cây trồng của tỉnh là cây ngắn ngày. Do

vậy công tác thông tin và dự báo thị trường là rất cần thiết. Đồng thời, cần phải quản lý, cập

nhật thông tin và phải kịp thời điều chỉnh quy hoạch gắn với kế hoạch sản xuất một cách

nhạy bén với chuyển biến của thị trường trong nước và quốc tế.

Trên cơ sở tiềm năng thuận lợi của vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế

xã hội, cùng với lợi thế so sánh về sử dụng tài nguyên trong khu vực, trong thời gian tới tỉnh

đã tập trung vào việc quy hoạch lại các vùng sản xuất đã nêu trên.

- 99 -

3.3.2. Chú trọng đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản

Phát triển mạnh việc chế biến nông sản gắn với việc các vùng nguyên liệu, nhà sản

xuất sẽ yên tâm hơn về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất do có thể lựa chọn nguyên liệu sản

xuất. Ở địa phương với giá hạ, chất lượng cao, nhu vậy một mặt vừa khai thác được lợi thế

so sánh trên trong sản xuất hàng nông sản thô/sơ chế, vừa đảm bảo lợi ích cho người nông

dân. Chính vì những lợi ích đó mà phát triển mạnh chế biến nông sản phải được quan tâm,

tuy nhiên cần chú ý một số điều sau:

+ Tiếp cận ngay với chế biến nông sản tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có sức cạnh tranh,

đạt tiêu chuẩn yêu cầu vệ sinh và an toàn thực phẩm.

+ Trong khi sức ép lao động còn rất lớn ở nông thôn vì thế công nghiệp chế biến nông sản

nên ưu tiên công nghệ sử dụng nhiều lao động.

+ Cần có cơ chế liên kết về lợi ích giữa nhà máy chế biến với nông dân sản xuất nguyên

liệu.

Ngành công nghiệp chế biến thủy sản ở Kiên Giang được xem là ngành kinh tế mũi

nhọn hiện nay và sắp tới, để đáp ứng nhu cầu chế biến đến 2015-2020 cần nâng cấp và xây

dựng hoàn chỉnh khu công nghiệp chế biến tập trung tại cảng cá Tắc Cậu - cảng cá có quy

mô lớn nhất nước. Sẽ hoàn thành giai đoạn II. Bên cạnh đó yêu cầu đầu tư mới nhà máy

đóng hộp cá, nhà máy chế biến bột cá...từ các phụ phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản.

Phát triển chế biến nông sản: công nghiệp chế biến rau quả là ngành có triển vọng

phát triển nhanh để đẩy mạnh việc CDCCKT nông nghiệp ( tỉnh có 720 cơ sở xay xát, một

nhà máy chế biến đường, một nhà máy chế biến khóm với hai dây chuyền sản xuất; mỗi

năm sản xuất được 1,9 triệu tấn gạo; 13-15 nghìn tấn đường, 5 nghìn tấn nước khóm cô đặc,

hai nghìn tấn khóm hộp; đáp ứng 70% sản lượng hàng nông sản của người dân ). Bên cạnh

đó phát triển ngành chế biến thịt, sữa nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và phục vụ xuất

khẩu.

3.3.3.Thực hiện phù hợp một số chính sách liên quan trực tiếp đến CDCCKT nông

nghiệp trong thời gian tới

♦ Chính sách đất đai: chính sách đất đai: đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt có vai trò quan

trọng trong sản xuất nông nghiệp, yêu cầu đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn lực đất đai

một cách hiệu quả nhất, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của vùng cụ thể bố trí cơ cấu

cây trồng đạt hiệu quả tối đa trên một đơn vị diện tích. Để đạt được điều đó cần:

+ Tiến hành rà soát diện tích nông nghiệp ( diện tích đang sử dụng không hiệu quả

hoặc hiệu quả thấp để có phương hướng chuyển đổi cây trồng kịp thời. Trước mắt là rà soát

những diện tích đất trồng lúa cho năng suất bấp bênh ở một số địa phương trong tỉnh đồng

- 100 -

thời có kế hoạch chuyển sang các loại cây trồng con nuôi; đối với diện tích cây công nghiệp

đã được quy hoạch , tỉnh cần đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng đã quy hoạch.

+ Đất nông nghiệp hiện nay quá manh mún điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến bố

trí quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hóa gây lãng phí trong tổ chức sản xuất của hộ gia

đình. Vì vậy, cần tiến hành công tác đổi điền dồn thửa một cách toàn diện, đồng thời triển

khai dự án đến người dân hiểu rõ hơn lợi ích của việc dồn đổi ruộng đất.

♦ Chính sách khoa học công nghệ: khoa học công nghệ có vai trò quan trọng, được coi là

khâu đột phá để thúc đẩy phát triển, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng

hàng hóa, vì vậy tỉnh cần quan tâm:

- Đầu tư thỏa đáng cho nghiên cứu khoa học công nghệ, đầu tư đồng bộ cho các cơ

sở nghiên cứu, tuyển chọn và lai tạo giống cây con cho phù hợp từng vùng sinh thái nhằm

cung cấp cho nông dân giống cây con có chất lượng để sản xuất ra những sản phẩm chất

lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.

- Đầu tư nghiên cứu công tác chuyển giao công nghệ sau thu hoạch với các cấp độ

quy mô khác nhau cho người dân trong vùng sản xuất hàng hóa tập trung, nhằm giảm thiểu

rủi ro nông sản bị hư hỏng , nâng cao chất lượng nông sản,

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư để đưa tiến

bộ khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất như: tập huấn, chuyển giao kỹ thuật sản xuất các

loại cây con phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuyên truyền phổ biến kỹ

thuật canh tác mới như sử dụng phân bón sinh học, cách bón hợp lý cho cây trồng, tập huấn

cho người dân về các phương thức quản lý dịch hại tổng hợp IPM, GAP…

- Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp quy mô diện rộng trên vùng lúa chất lượng

cao xuất khẩu.

- Củng cố mạng lưới khuyến nông trong huyện, tổ kỹ thuật đến với người dân đảm

bảo cho chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thực hiện tiến độ nhanh và

kết quả tốt.

- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ vào quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ tiên tiến trong quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là yêu cầu nâng cao giá trị sản lượng và ưu thế

cạnh tranh trên thị trường cần tập trung giải quyết một số vấn đề.

- Tuyển chọn giống cây trồng vật nuôi tốt từ nguồn Gen sẵn có của nước ta,

nghiên cứu cải tạo để có những giống tốt. Đồng thời nhập những giống cây trồng,

vật nuôi tốt của khu vực và của các nước tiên tiến để tạo ra bộ giống phù hợp với

- 101 -

điều kiện khí hậu thời tiết, thổ nhưỡng của địa phương.

- Tập trung nghiên cứu sử dụng ưu thế lai của giống để nông nghiệp được áp dụng

phần lớn các giống đã có ưu thế lai. Hướng chủ yếu tập trung vào các giống lúa, ngô, rau,

quả, lợn, gà, cá nuôi, tôm. Đây là hướng đột phá để nâng cao năng suất và chất lượng nông

sản phù hợp với yêu cầu thị trường ngày càng cao trong nước và trên thế giới. Cụ thể như

sau:

- Nghiên cứu ứng dụng TBKT về giống trong sản xuất, chú trọng giống có phẩm chất

và năng suất cao, tập trung giống lúa, tôm, mía, thủy sản nuôi lồng bè trên biển; riêng với

giống lúa, cần chú trọng thêm các giống có năng suất, chống chịu tốt hạn mặn cho vùng U

Minh Thượng, vùng nhiễm mặn ven biển, vùng nuôi trồng tôm lúa, vùng đất mới khai

hoang để nâng độ đồng đều về năng suất giữa các vùng. Tổng kết các mô hình trồng lúa lai

và thử nghiệm đưa các giống lúa lai chịu mặn vào sản xuất đại trà vùng nuôi trồng tôm-lúa.

- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến khoa học kỹ thuật, gắn

với việc xây dựng và nhân các mô hình ứng dụng khoa học-công nghệ hiệu quả trong sản

xuất. Trước mắt, ứng dụng rộng rãi quy trình 3 giảm-3 tăng, quy trình quản lý dịch hại tổng

hợp trong canh tác lúa; quy trình nuôi trồng tôm-lúa bền vững; quy trình thâm canh tôm

nuôi công nghiệp; quy trình luân canh, nuôi trồng xen rau màu, thủy sản hoặc áp dụng đồng

bộ các giải pháp, TBKT trong từng lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản;

- Ứng dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm sạch đối với nông thủy sản phục

vụ chế biến xuất khẩu và có nhu cầu tiêu dùng lớn trên thị trường. Xây dựng mô hình sản

xuất theo tiêu chuẩn GAP các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản để nhân

rộng những năm tiếp sau.

- Tăng cường huấn luyện, phổ cập kỹ thuật cho nông ngư dân, giúp người dân tiếp

nhận và áp dụng TBKT mới trong sản xuất hiệu quả.

Dự kiến bố trí vốn ngân sách đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển

giao KH-CN năm 2015-2020 tăng gấp 4 lần so với năm 2010.

♦ Thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản xuất; xây dựng, phát

triển nông thôn.

- Khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trang

bị máy móc, thiết bị đẩy mạnh cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa sản xuất. Tổ chức thực

hiện Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích hỗ

trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa bờ; chính

sách của tỉnh về khuyến khích phát triển giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản trên địa bàn tỉnh

- 102 -

Kiên Giang đến năm 2015 ….Thực hiện kịp thời chính sách hỗ trợ thiệt hại sản xuất do

thiên tai, dịch bệnh.

- Hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển nhanh kinh tế hợp tác và hợp tác xã, nhất là trong

lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản, nâng tỷ lệ hộ dân tham gia các tổ chức kinh tế hợp

tác lên 40%.

- Phối hợp thực hiện Chương trình 134, 135; triển khai chương trình “mỗi làng mỗi

nghề” kết hợp “bảo tồn và phát triển làng nghề”, tạo việc làm mới, nâng cao chất lượng sản

phẩm làng nghề.

♦ Chính sách đào tạo: Nguồn nhân lực phục vụ CNH-HĐH công tác đào tạo có ý nghĩa

quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp

nói riêng. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa nông nghiệp nhằm thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần chú ý hai vấn đề:

- Tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để nhanh chóng chuyển giao và áp dụng

những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.

- Tăng cường trang thiết bị cho người dân: thời gian qua cho thấy rằng người sản xuất nông

nghiệp trong cơ chế thị trường cần được trang bị kiến thức, người dân được đào tạo sẽ nắm

bắt thông tin thị trường, xử lý thông tin khi đưa ra quyết định đầu tư, chọn giống cây con

cho phù hợp, biết cách phòng trừ dịch hại,…biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật giảm thiểu rủi ro,

sản phẩm làm ra không lo không bán được sản phẩm từ đó thu nhập của bản thân và gia

đình được nâng lên.

Thực hiện chính sách nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nhằm

phát huy và sử dụng nguồn lao động dồi dào, chất lượng cao của tỉnh bằng con đường CNH-

HĐH. Cần tăng ngân sách cho đầu tư và mở rộng nghề, tích cực huy động vốn đầu tư ngoài

ngân sách, lập quỹ tín dụng đào tạo nguồn lao động nông nghiệp, củng cố và tập trung đầu

tư nâng cấp hệ thống các trường dạy nghề; truyền đạt kĩ thuật nông nghiệp cho các đối

tượng lao động trẻ, phù hợp với thực tế sản xuất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học,

phổ biến tri thức khoa học kĩ thuật đến người lao động.

3.3.4. Đầu từ cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

- Xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển thủy lợi nhỏ ở từng địa phương . Sở

Nông nghiệp&PTNT cùng các địa phương tham mưu UBND tỉnh có chính sách hỗ trợ đầu

tư theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

- Tiếp tục đầu tư phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu vừa phục vụ sản xuất,

vừa đảm bảo an sinh xã hội, kết hợp đầu tư thực hiện các dự án cấp nước nông thôn, các dự

án di dân vùng kinh tế mới, các dự án chương trình 134, 135 ... Nâng cấp hệ thống đê biển

- 103 -

đảm bảo phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Nâng cấp và xây dựng hồ chứa nước trên các đảo phục vụ sản xuất, đời sống dân sinh.

- Phát triển hạ tầng cơ sở thủy sản, nhất là các cơ sở sản xuất giống, hệ thống cảng

cá, bến cá và khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu thuyền, kết hợp quy hoạch xây dựng các cơ

sở chế biến thủy sản.

Năm 2015, kế hoạch vốn đầu tư bằng các nguồn vốn 305.000 triệu đồng, dự kiến bố

trí đầu tư cho: thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản 218.800 triệu

đồng; cơ sở hạ tầng nghể cá 11.000 triệu đồng; chương trình giống cây trồng, vật nuôi, thủy

sản và các dự án bảo tồn biển, di dãn dân và bố trí dân cư 11.200 triệu đồng; phát triển lâm

nghiệp và PCCC rừng 14.000 triệu đồng; nâng cấp hệ thống đê biển 20.000 triệu đồng; cấp

nước nông thôn 15.000 triệu đồng và nâng cấp hồ chứa nước trên đảo 15.000 triệu đồng.

Phân cấp cho các huyện quản lý thực hiện nguồn vốn thủy lợi phí 128,7 tỷ đồng.

3.3.5. Công tác quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và hoạt động sản xuất

kinh doanh

- Tiếp tục thực hiện chương trình kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm, chương trình

giám sát dư lượng các chất độc hại trong nông thủy sản. Tăng cường công tác kiểm tra an

toàn vệ sinh tàu cá, các cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến nông thủy sản và các bến, cảng cá.

Tổ chức cấp chứng nhận hàng thủy sản khai thác xuất khẩu vào thị trường Châu Âu. Thực

hiện kiểm soát vệ sinh an toàn trong vùng thu hoạch nhuyển thể 02 mảnh vỏ.

- Hướng dẫn đăng ký nguồn gốc xuất xứ; tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm tiến tới xây

dựng thương hiệu một số nông thủy sản đặc thù của địa phương.

-Tổ chức đăng ký, đăng kiểm tàu cá, cấp giấy phép khai thác thủy sản, cấp giấy

chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, kinh doanh giống, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi,

thuốc thú y…

- Duy trì thanh tra định kỳ và kiểm tra thường xuyên, đột xuất các cơ sở sản xuất,

kinh doanh giống, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thủy sản.

3.3.6. Công tác xúc tiến thương mại và hợp tác quốc tế.

- Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích thương mại tư nhân cùng HTX tạo thành

mạng lưới tiêu thụ sản phẩm chủ yếu và là đối tác ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trong

việc tiêu thụ nông, thủy sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng trên địa

bàn nông thôn.

- Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường giúp doanh nghiệp, người dân

định hướng đầu tư phát triển sản xuất, tiêu thụ nông thủy sản.

- 104 -

- Thực hiện các chương trình, dự án hợp tác liên kết vùng kinh tế trọng điểm

ĐBSCL. Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hợp tác với các tỉnh thành khu vực và

cả nước. Thực hiện thỏa thuận hợp tác với các tỉnh giáp biên giới Campuchia về sản xuất

nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Xúc tiến chương trình hợp tác với Hàn Quốc về chế biến,

tiêu thụ thủy sản, trước mắt là chế biến tiêu thụ cá nóc; hợp tác với Campuchia và một số

nước khu vực về đánh bắt thủy sản vùng biển giáp ranh; với Campuchia về đầu tư sản xuất,

chế biến mía đường, chế biến lâm sản.

3.3.7. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ đạo điều hành.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ toàn ngành đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm

vụ được giao. Hoàn thành bố trí cán bộ kỹ thuật cho Tổ KT-KT các xã nông nghiệp.

- Thực hiện cải cách thủ tục hành chính: công khai hóa các thủ tục hành chính trên

các kênh thông tin đại chúng, cổng điện tử của Sở...và thực hiện cơ chế “một cửa” tại Sở

Nông nghiệp và PTNT. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quản lý, chỉ đạo điều hành và áp

dụng tiêu chuẩn ISO trong quản lý nhà nước ở Sở.

- Triển khai quán triệt các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật trong

ngành đã được ban hành, đồng thời tiến hành rà soát các văn bản không còn phù hợp hoặc

kiến nghị sửa đổi.

- Tăng cường năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, chủ động tích cực phòng

chống thiên tai, dịch bệnh bảo vệ sản xuất, đời sống nhân dân.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan,

đơn vị trực thuộc Sở và thanh tra kiểm tra các lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Các lĩnh vực

trọng tâm là: quản lý tài chính, quản lý đầu tư xây dựng các dự án, sản xuất kinh doanh

giống, vật tư nông nghiệp, thức ăn và thuốc thú y; quản lý bảo vệ rừng; hoạt động khai thác

bảo vệ nguồn lợi thủy sản; quản lý chất lượng vệ sinh an toàn nông thủy sản.

- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ chính trị

cho cán bộ công chức trong ngành.

- Nghiên cứu thực hiện phân cấp quản lý giữa Sở Nông nghiệp & PTNT với UBND

các huyện, thị, thành phố trong một số lĩnh vực.

3.3.8. Đề xuất giải pháp phát triển ổn định mô hình tôm - lúa

- Tăng quy mô và số hộ tham gia trình diễn trong mỗi nhóm (cụm) nhằm phát triển

tốt những ưu điểm của quản lý cộng đồng, làm tiền đề cho việc hình thành các tổ hợp tác

sản xuất luân canh tôm – lúa trong thời gian tới để mô hình phát triển ổn định và bền vững.

- 105 -

- Các huyện được quy hoạch nuôi tôm – lúa cần căn cứ theo lịch thời vụ của Sở Nông

nghiệp & PTNT để xây dựng lịch thời vụ cho từng tiểu vùng, mỗi tiểu vùng cần bố trí

xuống giống dứt điểm trong khoảng thời gian ngấn nhất để thuận lợi trong công tác quản lý.

- Quy hoạch chi tiết, cụ thể vùng nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa, khống chế triệt

để hiện tượng diện tích nuôi da beo, từng bước xây dựng các tổ hợp tác, hợp tác xã nuôi

tôm sú luân canh với trồng lúa.

- Xây dựng quy trình canh tác tôm – lúa chuẩn và đồng bộ cho từng vùng sinh thái.

- Có chính sách hỗ trợ vốn cho hộ nông dân sản xuất, giúp nông dân xây dựng lại hệ

thống mương bao, bờ bao, mặt bằng ruộng, ao lắng, ao ương phù hợp kiên cố để sản xuất

lâu dài ổn định.

- Tăng cường chuyển giao kỹ thuật, từng bước nâng cao và ổn định năng suất vụ tôm

để nông dân chuyên tâm sản xuất vụ lúa thắng lợi.

- Hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất tôm – lúa luân canh, quản lý

chặt nguồn tôm giống, đặc biệt trong thời gian canh tác lúa.

- Nghiên cứu, sản xuất các giống lúa thích hợp cho canh tác trên nền đất nuôi tôm.

- Định hướng giúp nông dân sử dụng các chế phẩm sinh học trong vụ nuôi tôm, nâng

cao mật độ nuôi tôm, nâng cao mức độ đầu tư thức ăn trong nuôi tôm, góp phần giảm chi

phí trong vụ canh tác lúa tiếp theo và hạn chế thiệt hại đến môi trường.

3.3.9. Hỗ trợ nông dân tự ra quyết định phù hợp về CDCCKT và phát huy tính năng

động sáng tạo, tích cực của nông dân.

Nông dân có vai trò quan trọng trong quá trình CDCCKT nông nghiệp, căn cứ vào

tình hình thực tế, đặc điểm từng nơi, từng vùng trong tỉnh có sự khác nhau về điều kiện tự

nhiên, trình độ canh tác, cơ sở hạ tầng…nhằm giúp đở nông dân phát huy tối đa tiềm năng

lợi thế của mình cần sự giúp đở nông dân sáng tạo ra con đường kinh tế phù hợp với từng

địa phương.

- 106 -

KẾT LUẬN

1.Thực tiễn CDCCKT nông nghiệp trên thế giới, ở Việt Nam đều cho thấy đó là xu hướng

tất yếu, nhằm ổn định đời sống xã hội, tạo nguồn tích lũy ban đầu cho CNH-HĐH.

2.Kiên Giang là một tỉnh nông nghiệp, ngành nông-lâm-thủy sản chiếm tỷ trọng lớn, có trên

60% dân số sống ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu nông-lâm-thủy sản không chỉ có ý nghĩa

bản thân ngành mà còn ý nghĩa to lớn đối với sự chuyển dịch toàn bộ nền kinh tế của tỉnh,

với quá trình thực hiện CNH-HĐH.

3.Nhìn lại trong thời gian qua, cơ cấu kinh tế nông nghiệp có những chuyển biến tích cực

theo hướng tăng ngành chăn nuôi từ 9,0% năm 2000 lên 11,7% năm 2009, ngành trồng trọt

chiếm tỷ trọng cao, tốc độ chậm, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính,

phát triển những loại cây con có giá tri kinh tế cao, phù hợp với điều kiện địa phương, gắn

sản xuất nông-lâm-thủy sản với chăn nuôi và công nghiệp chế biến.

4.Chuyển đổi nền kinh tế từ một nền nông nghiệp có thu nhập thấp, nhiều rũi ro hướng tới

nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa có thu nhập cao hơn, phát triển ổn định bền vững hơn.

5.Kiên giang đã phát huy được những lợi thế so sánh của tỉnh nhà, phát huy tính tích cực,

tinh thần sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao

đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.

Tuy nhiên cơ cấu kinh tế nông-lâm-thủy sản chuyển dịch chậm so với tiềm năng thế mạnh

của tỉnh, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, sản xuất thủy sản chuyển dịch chậm, cơ cấu

các sản phẩm chưa theo sát yêu cầu của thị trường; trong trồng trọt lúa vẫn là cây trồng

chính; diện tích rau màu, cây ăn quả, cây có giá trị kinh tế cao tăng chậm. Qui mô sản xuất

trồng trọt nhỏ, manh mún, phân tán, thiếu tính bền vững. Trình độ sản xuất vẫn lạc hậu;

năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao; sản phẩm chủ yếu

tiêu thụ tại địa phương. Sản xuất chăn nuôi chủ yếu vẫn là chăn nuôi hộ gia đình, chỉ có một

số ít chăn nuôi qui mô lớn.

Nuôi trồng chủ yếu vẫn là phương thức QC và QCCT; diện tích nuôi tôm canh tác thấp, thị

trường đầu ra không ổn định.

Lực lượng lao động dồi dào nhưng trình độ dân trí thấp, trình độ tay nghề chưa cao, khả

năng tiếp cận thị trường còn nhiều hạn chế; chưa phát huy sức mạnh kinh tế tập thể, sự liên

kết giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, giữa 4 nhà( nhà nông, nhà khoa học,

nhà doanh nghiệp, nhà nước)

6. Mục tiêu phát triển nông-lâm-thủy sản của tỉnh theo hướng phát triển nông nghiệp sinh

thái, công nghệ cao, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa

- 107 -

hướng vào xã hội, gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp,

nông thôn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Huy Bá (2006), Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững, Nxb Khoa học và

kỹ thuật, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Bộ Nông Nghiệp Và PTNT(8/2004): Báo cáo tồng kết tình hình chuyển dịch cơ

cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn sau 20 năm đổi mới, Hà Nội.

3. Cục Thống Kê Tỉnh Kiên Giang(2000) , Niên giám thống kê Kiên Giang năm

2000..

4. Cục Thống kê Kiên Giang (2009), Niên giám thống kê Kiên Giang năm 2009.

5. Địa lí địa phương Kiên Giang, Nxb Giáo Dục.

6. Phạm Xuân Hậu (1997), Địa Lý kinh tế - xã hội Việt Nam, Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

7. PGS.TS.Đinh Phi Hổ, Kinh tế học nông nghiệp bền vững, Nxb Phương đông

8. PGS.TS. Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế nông nghiệp: Lý thuyết và Thực tiễn, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

9. PGS .TS Lê Mạnh Hùng (1998), thực trạng chuyển dịch công nghiệp hóa – hiện

đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê.

10. Nguyễn Thị Bích Hương (2004) chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt nam trong

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Chính Trị Quốc Gia

11. Đặng Văn Phan (2008), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam thời kì hội nhâp, Trường

Đại học Cửu Long.

12. Đặng Văn Phan (2008), Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, Nxb Giáo dục, TP

HCM.

13. Trương Thị Minh Sâm(2002),Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng nông

thôn ngoại thành TP Hồ Chí Minh. Nxb Khoa Học Xã Hội

14. Đặng Kim Sơn – Hoàng Thu Hòa (2002), một số vấn đề phát triển nông nghiệp và

nông thôn, Nxb Thống kê

15. Lê Quốc Sử (2001), chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông

nghiệp Việt Nam theo hướng CNH-HĐH từ thế kỉ XX đến thế kỉ XXI trong “Thời đại

kinh tế tri thức”

16. Sở Nông Nghiệp Và PTNT Tỉnh Kiên Giang: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

kế hoạch năm 2010, 5 năm 2006-2010

17. Sở Nông Nghiệp Và PTNT Tỉnh Kiên Giang: Báo cáo kế hoạch phát triển nông-

lâm- thủy sản 2010-2015

18. Sở Tài Nguyên Môi Trường Kiên Giang: Biến động quỹ đất nông nghiệp tỉnh Kiên

Giang.

19. TS. Lê Hưng Quốc, một số vấn đề Khuyến Nông khi hội nhập, Nxb Nông nghiệp.

20. Bùi Tất Thắng, (1997), Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

kinh tế trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng, Chuyển dịch cơ cấu công nông nghiệp

đồng bằng sông Hồng – Thực trạng và triển vọng, Nxb Thống kê.

22. Bùi Tất Thắng(2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội – Hà Nội.

23. Nguyễn Minh Tuệ, nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông, Địa lí kinh tế xã hội đại cương,

Nxb Đại học sư phạm, 2005

24. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức(2002), Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam, Nxb

Giáo Dục.

25. Trung Tâm Khuyến Nông- Khuyến Ngư Kiên Giang: Báo cáo tổng họp điều tra

cơ cấu giống 2007-2008

26. Trung Tâm Khuyến Nông- Khuyến Ngư Kiên Giang: Báo cáo (Kết quả điều tra

dự toán giá thành sản xuất lúa năm 2009)

27. Phạm Thị Xuân Thọ (2007), Giáo trình địa lí đô thị, Nxb Đại học Sư phạm thành

phố Hồ Chí Minh.

28. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.

29. Lê Thông, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ(2004), địa lí kinh tế-xã hội Việt

Nam, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.

30. Nguyễn Minh Tuệ( Chủ biên), địa lí các vùng kinh tế Việt Nam, Nxb Giáo Dục

Việt Nam, 2009

31. Đào thế tuấn(1997), kinh tế hộ nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia

32. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang: chương trình hành động UBND tỉnh thực hiện

chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2010-2020

33. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2010), Dự án quy hoạch sử dụng đất nông lâm

nghiệp.

34. Văn kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2001

35. Văn kiện Địa Hội Đại Biểu Đảng Bộ tỉnh lần thứ IX, 2010

PHỤ LỤC 1

Diễn biến khí hậu thời tiết trong năm tỉnh Kiên Giang.( năm 2008)

Nhiệt độ Số giờ nắng Lượng mưa Độ ẩm tương

(giờ) (mm) đối (%) trung bình (oC)

2.358,0 2.714,2 27,4 Cả năm

25,7 203,7 29,8 81 Tháng 1

25,9 265,1 79 Tháng 2

27,6 234,7 104,5 80 Tháng 3

28,8 254,9 81,8 79 Tháng 4

28,5 189,7 298,3 84 Tháng 5

28,7 206,2 286,2 83 Tháng 6

27,5 100,5 411,4 86 Tháng 7

27,5 147,4 504,6 87 Tháng 8

27,9 154,1 277,4 85 Tháng 9

27,2 181,4 583,4 51 Tháng 10

26,7 208,5 98,1 77 Tháng 11

26,7 211,8 38,7 78 Tháng 12

PHỤ LỤC 2

Bảng 5. Cơ cấu dân số tỉnh Kiên Giang năm 2009.

Tổng số (người) 1.688.228

- Nam 852.073

- Nữ 836.155

1- Thành thị 453.940

- Nữ 227.606

2- Nông thôn 1.234.288

- Nữ 608.549

Cơ cấu (%)

Tổng số: 100

- Nam 50,47

- Nữ 49,53

1- Thành thị 25,98

- Nữ 13,46

2- Nông thôn 74,02

- Nữ 37,26

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

PHỤ LỤC 3

Diện tích các loại cây trồng

ĐVT: nghìn ha

Cây hàng năm Cây lâu năm

Trong đó Trong đó

Cây Cây Cây CN Năm Tổng số Tổng số Tổng số Cây ăn lương công lâu quả thực nghiệp năm

2000 570.531 548.726 540.967 4.855 21.805 10.279 11.526

2001 579.812 559.248 550.681 4.875 20.564 10.035 10.529

2002 610.069 587.437 576.217 5.379 22.632 8.968 13.664

2003 593.102 571.805 563.176 4.910 21.297 10.429 10.868

2004 603.330 579.433 570.343 3.865 23.897 9.422 14.475

2005 625.040 603.438 595.797 4.309 23.602 8.969 14.633

2006 628.742 604.689 595.080 5.253 24.053 8.572 15.841

2007 616.263 591.908 582.893 4.243 24.355 9.169 15.186

2008 614.412 618.699 609.222 4.815 22.713 9.019 13.694

2009 654.129 631.830 622.239 4.497 22.299 8.849 13.450

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

PHỤ LỤC 4

Đàn gia súc, gia cầm của Tỉnh năm 2008

Đơn vị 2006 2007 2008

Con 8.382 8.536 9.717 1. Đàn trâu

Trong đó cày kéo 5.280 5.038 5.172 “

13.976 18.001 16.982 2. Đàn bò “

Trong đó cày kéo 1.693 1.314 1.034 “

350.759 357.613 321.723 3. Đàn heo “

Trong đó heo nái 38.615 39.498 39.189 “

1000 con 1.319 1.154 1.734 4. Đàn gà

1000 con 2.562 3.135 3.449 5. Đàn vịt

5. Sản phẩm chủ

yếu

- Thịt heo hơi Tấn 33.354 36.380 32.953

- Thịt trâu, bò hơi “ 286 371 352

- Thịt gia cầm hơi “ 10.192 11.580 6.302

- Trứng gà Triệu quả 100 115 13

- Trúng vịt “ 172 205 137

Nguồn: sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

PHỤ LỤC 5

Cơ cấu đất nông nghiệp giai đoạn 2000-2009

2001 2005 2007 2009

DT % DT % DT % DT %

Đất NN (ha) 622.401 100 709.331 100 722.482 100 770.705 100

1-tr. cây hàng 559.248 89,90 603.438 85,07 591.908 81,92 631.830 81,98

năm(ha)

2- tr. cây lâu 20.564 3.30 23.602 3,33 2,89 24.355 3,37 22.299

năm(ha)

3.DT nuôi trồng 42.589 6,84 82.291 11,60 106.219 14,71 116.576 15,13

thủy sản(ha)

Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang

PHỤ LỤC 6

Chi phí sản xuất trên 1 ha lúa vụ Hè Thu 2008

Ruộng 3 giảm-3 tăng Ruộng nông dân Đơn Đơn Stt Hạng mục Số Số vị giá Thành tiền Thành tiền lượng lượng

I Tổng chi 10.449.800 12.626.400

1 Giống Kg 8.800 120 1.056.000 1.531.200 174

2 Phân bón Kg 566 4.143.000 5.481.000 435

3 Thuốc BVTV + 5.250.800 5.614.200

Công thu hoạch

II Tổng thu Đồng 19.000.000 17.700.000

Sản lượng Kg 5.000 3.800 19.000.000 3.540 17.700.000

III Lợi nhuận Đồng 8.500.200 5.073.600

IV Giá thành Đồng 2.750 3.566

V Lợi nhuận Đồng 2.250 1.434

Nguồn: Trung tâm Khuyến Nông –Khuyến Ngư Kiên Giang

PHỤ LỤC 7

Diện tích rừng phân theo các huyện, thị năm 2008

Rừng sản Rừng phòng Rừng đặc Tổng diện tích xuất hộ dụng

97.126 25.222 32.382 39.522 Tổng số

21 - 21 - TP Rạch Giá

977 - 977 - TX Hà Tiên

8.190 3.501 3.248 1.441 Kiên Lương

19.926 11.894 8.032 - Hòn Đất

- - - - Tân Hiệp

- - - - Châu Thành

2.862 2.862 - - Giồng Riềng

- - - - Gò Quao

990 - 990 - An Biên

10.944 5.664 5.280 - An Minh

130 130 - - Vĩnh Thuận

40.073 - 10.037 30.036 Phú Quốc

1.883 - 1.883 - Kiên Hải

11.130 1171 1.914 8.045 U Minh

Thượng

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

PHỤ LỤC 8

Chi phí sản xuất trên 1 ha lúa vụ Đông Xuân 2007 - 2008.

(Cục Trồng trọt 2008)

(Đơn vị ha)

Ruộng 3 giảm 3 tăng Ruộng nông dân Đơn Đơn Stt Hạng mục Số Số vị giá Thành tiền Thành tiền lượng lượng

- - - 8.296.500 - 9.819.800 I Tổng chi

Kg 6.500 120 780.000 174 1.131.000 1 Giống

600 3.070.000 552 4.084.800 2 Phân bón

4.446.500 4.604.000 3 Thuốc BVTV +

Công thu hoạch.

22.770.000 21.344.000 II Tổng thu

Sản lượng Kg 4.600 4.950 22.770.000 4.640 21.344.000

14.473.500 11.524.200 III Lợi nhuận

1.676 2.116 IV Giá thành 1 kg Đồng

lúa.

2.924 2.484 V Lợi nhuận Đồng

PHỤ LỤC 9

Đàn heo của tỉnh Kiên Giang qua các năm

(Đơn vị: con)

2006 2007 2008

Tổng số 357.613 321.723 350.759

TP Rạch Giá 17.107 15.580 13.050

TX Hà Tiên 5.072 4.520 5.269

Kiên Lương 9.365 22.370 22.615

Hòn Đất 28.179 30.476 26.441

Tân Hiệp 64.039 58.680 40.080

Châu Thành 29.821 31.076 28.279

Giồng Riềng 74.701 66.121 61.394

Gò Quao 40.281 35.551 32.713

An Biên 28.714 29.339 25.740

An Minh 15.970 18.560 18.760

Vĩnh Thuận 31.250 20.101 19.070

Phú Quốc 5.284 5.772 9.632

Kiên Hải 976 1.111 1.059

U Minh Thượng 18.356 17.621

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

PHỤ LỤC 10

Đàn bò của tỉnh qua các năm

(Đơn vị: con)

2006 2007 2008

Tổng số 13.976 18.001 16.982

TP Rạch Giá 538 780 620

TX Hà Tiên 1.319 1.436 1.274

Kiên Lương 3.569 5.636 5.866

Hòn Đất 1.866 2.376 1.878

Tân Hiệp 532 562 485

Châu Thành 327 483 323

Giồng Riềng 837 920 651

Gò Quao 913 1.681 887

An Biên 598 386 241

An Minh 114 85 47

Vĩnh Thuận 152 190 132

Phú Quốc 3.189 3.092 4.461

Kiên Hải 2 - -

U Minh Thượng - 374 117

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang

PHỤ LỤC 11

Bảng Đàn trâu của tỉnh Kiên Giang qua các năm

(Đơn vị: con)

2006 2007 2008

Tổng số 8.382 8.536 9.717

TP Rạch Giá 58 65 43

TX Hà Tiên 541 578 598

Kiên Lương 2.566 2.709 3.055

Hòn Đất 373 398 432

Tân Hiệp 533 584 549

Châu Thành 608 525 699

Giồng Riềng 1.654 1.604 1.820

Gò Quao 1.066 1.110 1.561

An Biên 278 121 122

An Minh 6 - -

Vĩnh Thuận 699 499 428

Phú Quốc - - -

Kiên Hải - - -

U Minh Thượng - 343 410

Nguồn: Sở nông nghiệp & PTNT Kiên Giang

PHỤ LỤC 12

♦Hiệu quả kinh tế, năng suất bình quân từ vụ lúa:

Tổng chi Năng suất Tổng thu Lãi Ghi chú Stt Huyện TB(đ/ha) TB (tấn/ha) TB (đ/ha) TB(đ/ha)

1 An Biên 9.254.000 26.400.000 17.146.000 Đã thu hoạch 4,8

2 An Minh 7.880.000 31.350.000 23.470.000 Đã thu hoạch 5,5

3 UMT 6.800.000 24.750.000 17.950.000 Đã thu hoạch 4,5

4 Vĩnh Thuận 7.214.000 33.750.000 26.536.000 NS ước đạt 4,5

5 Hòn Đất 10.500.000 27.500.000 17.000.000 NS ước đạt 5,0

Bình quân/ mô 8.329.000 4,86 28.750.000 20.421.000 hình

♦Hiệu quả kinh tế từ canh tác luân canh tôm – lúa:

Tổng chi TB Tổng thu TB Tổng lãi TB Stt Huyện (đ/ha) (đ/ha) (đ/ha)

1 An Biên 22.614.000 58.161.000 35.547.000

2 An Minh 16.510.000 51.207.000 42.155.000

3 UMT 20.300.000 54.936.000 34.616.000

4 Vĩnh Thuận 14.304.000 49.825.000 35.521.000

5 Kiên Lương 12.405.000 29.117.000 16.195.000

6 Hòn Đất 18.238.000 41.522.000 23.283.000

Bình quân/ mô hình 17.395.000 47.461.000 31.219.000

Nguồn: Trung tâm Khuyến Nông –Khuyến Ngư Kiên Giang

PHỤ LỤC 13

DIỆN TÍCH , SẢN LƯỢNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN KIÊN GIANG

Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Stt Chỉ tiêu

I Diện tích trồng

1

2 Ha Tấn Ha Tấn 82.219 48.231 66.807 18.121 95.482 66.159 71.691 22.847 101.367 95.854 78.620 28.560 107.553 110.229 81.255 28.600 112.395 115.678 85.000 33.000

3 sò Ha Tấn 7.559 8.754 10.840 14.687 13.008 27.337 16.781 28.522 17.250 29.500

4 Ha Tấn 1.800 3.650 3.000 5.192 3.200 5.500

5

6

7 Lồng Tấn Ha Tấn Ha Tấn 325 365 6.500 22.140 780 700 546 693 5.200 22.790 146 1.577 575 725 5.500 24.000 200 2.000

Nuôi thủy sản. Diện tích Sản lượng Nuôi tôm Diện tích Sản lượng Nuôi cá ao, ruộng,… Diện tích Sản lượng Nuôi huyết. Diện tích Sản lượng Nuôi cá lồng bè. Diện tích Sản lượng Nuôi hến Diện tích Sản lượng Nuôi cua Diện tích Sản lượng Nuôi nghêu, sò,… Diện tích Sản lượng Ha Tấn 659 13.102 700 7.625 725 8.000

Nguồn: Sở Nông nghiệp& Phát triển Nông thôn Kiên Giang.