ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MOUA XIONG VAYER
BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC MÔNG
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MOUA XIONG VAYER
BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC MÔNG
Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Ngành: Địa lí học
Mã ngành: 8.31.05.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. DƯƠNG QUỲNH PHƯƠNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì
một công trình nào khác. Các bảng biểu, số liệu được tính toán dựa trên nguồn
số liệu của các Cơ quan thống kê quốc gia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Các nguồn tài liệu tham khảo được trích dẫn đầy đủ và trung thực.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
MOUA XIONG VAYER
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, tôi đã nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn
sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn
PGS.TS. Dương Quỳnh Phương.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư
Phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy, cô giáo trong Khoa Địa lí, phòng
Đào tạo đã giúp đỡ, dạy bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Qua đây tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các cô chú, anh chị em tại
quê hương Lào thân yêu đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu thực hiện đề tài này tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên
và tạo điều kiện giúp đỡ tôi để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Người thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
MOUA XIONG VAYER
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục các từ viết tắt ..................................................................................... iv
Danh mục các bảng .............................................................................................. v
Danh mục các hình ............................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
7. Dự kiến đóng góp luận văn .............................................................................. 6
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC ................................................................................................. 8
1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 8
1.1.1. Các khái niệm ............................................................................................ 8
1.1.2. Tập quán sản xuất, tập quán sinh hoạt ..................................................... 15
1.1.4. Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần ........................................................ 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 22
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng các dân tộc ở
CHDCND Lào ................................................................................................... 22
1.2.2. Khái quát chung về bản sắc văn hóa của các dân tộc nước CHDCND Lào .. 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 27
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TỘC NGƯỜI VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA
DÂN TỘC MÔNG Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ... 28
2.1. Khái quát về nước CHDCND Lào ............................................................. 28
2.1.1. Vị trí địa lí ................................................................................................ 28
2.1.2. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 28
2.1.3. Điệu kiện kinh tế xã hội ........................................................................... 32
2.2. Dân số tộc người nước ở CHDCND Lào ................................................... 32
2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Mông của CHDCND Lào ................................... 38
2.3.1. Lịch sử hình thành dân tộc Mông ở nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào .............................................................................................................. 38
2.3.2. Văn hóa truyền thống của dân tộc Mông ở nước CHDC ND Lào .......... 40
2.3.3. Đời sống xã hội ........................................................................................ 44
2.3.4. Lễ tết ........................................................................................................ 49
2.3.5. Thờ cúng .................................................................................................. 50
2.3.6. Văn hóa trong hoạt động sản xuất của người Mông ............................... 51
2.4. Một số thay đổi về bản sắc văn hóa dân tộc Mông trong giai đoạn hiện nay ... 55
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 58
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC MÔNG Ở NƯỚC CHDCND LÀO ................ 59
3.1 Quan điểm và định hướng về việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc
của nước Lào ..................................................................................................... 59
3.1.1. Quan điểm ................................................................................................ 59
3.1.2. Định hướng phát triển .............................................................................. 59
3.2. Một số giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
dân tộc Mông của nước Lào .............................................................................. 62
3.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng cho việc giữ gìn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ...................................................................... 62
3.2.2. Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi văn hóa dân tộc, đồng thời nâng cao
ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở Lào ....... 65
3.2.3. Đầu tư xây dựng các làng văn hóa dân tộc và mô hình phát triển văn
hóa ở ở vùng có người Mông cư trú .................................................................. 67
3.2.4. Khảo sát sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá toàn diện các giá trị văn hóa
truyền thống, khôi phục các lễ hội dân gian ...................................................... 69
3.2.5. Xây dựng môi trường văn hóa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ văn hóa ........ 70
3.2.6. Quảng bá văn hóa bản địa của dân tộc với các nước trong xu thế hội nhập .. 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 74
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 77
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Cụm từ đầy đủ
CHDCND : Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
CHXHCN : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
NDCM : Nhân dân cách mạng
Nxb : Nhà xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Dân số chia theo các nhóm dân tộc của nước Lào năm 2012 ........... 33
Bảng 2.2. Dân số và mật độ dân số nước Lào theo các đơn vị hành chính,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
giai đoạn 2005 - 2015 ...................................................................... 35
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Bản đồ hành chính nước Lào ............................................................. 29
Hình 2.2. Cơ cấu các nhóm dân tộc của nước Lào ............................................ 34
Hình 2.3. Bản đồ phân bố dân cư nước Lào năm 2015 ..................................... 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.4. Phân bố nhóm ngôn ngữ Mông - Miên ............................................. 38
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước vừa có những
thuận lợi, vừa có những khó khăn, đặc biệt là sự ảnh hưởng của của văn hoá
nước ngoài đã làm cho văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một, do vậy
việc phát huy những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hóa của dân tộc ở nước Lào
lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong cộng đồng các bộ tộc Lào, dân tộc Mông là một dân tộc thiểu số
có bản sắc văn hóa dân tộc rất độc đáo. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như
hiện nay, để phát triển “hòa nhập” mà không bị hòa tan, mất bản sắc, thì việc
bảo tồn văn hóa dân tộc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu
dài. Có như thế những giá trị văn hóa sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy.
Để xác định được đúng những biện pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa
và truyền thống dân tộc, khiến những giá trị này trở thành động lực để phát
triển đất nước thì việc phân tích, đánh giá những giá trị về văn hóa truyền
thống, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, đồng thời nhìn nhận
những nét thay đổi trong văn hóa truyền thống là rất cần thiết.
Xuất phát từ những lí do có tính cấp thiết trên, bản thân tôi là người dân
tộc Mông của nước Lào, tôi đã lựa chọn hướng nghiên cứu đề tài:
“Bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào”. Đề tài được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS
Dương Quỳnh Phương tại Khoa Địa lí, ĐHSP Thái Nguyên, Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Đã có một số cuộc thảo luận sôi nổi cả trên bình diện lý thuyết và thực
tế trong nhiều thập kỷ qua. Nhận xét về bản sắc tộc người, trường phái Bản
1
thể luận (Primodialism) cho rằng tộc người là một cộng đồng văn hóa có bản
sắc riêng, cùng chia sẻ những đặc điểm chung như tên gọi, ngôn ngữ, lãnh
thổ, những đặc điểm về tinh thần, lối sống cũng như một số hình thái đặc biệt
về tổ chức lãnh thổ-xã hội hay một định hướng để tạo nên những nét đặc trưng.
Trái ngược với bản thế luận, các nhà nghiên cứu theo thuyết Tình thế
luận (Circumstantialism) lại cho rằng dù các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa
được hình thành từ một cộng đồng có chung tổ tiên đi chăng nữa thì nó vẫn có
tính chất tình thế và điều này thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Vấn đề
không phải là những chỉ dấu riêng của bản sắc văn hóa mà là mối quan hệ và
tương tác giữa các cộng đồng văn hóa.
2.2. Ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Gần đây, các tác giả người Lào cũng đã soạn thảo và xuất bản một số
công trình nghiên cứu dân số và văn hóa tộc người. Trong công trình này,
chúng tôi đã sử dụng một số tư liệu từ một số ấn phẩm dưới đây:
- Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng NDCM Lào (2011).
- Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng NDCM Lào (2016).
- “Số liệu điều tra dân số và nhà ở của Lào”, Tổng cục thống kê quốc
gia Lào (2015).
Nghiên cứu sâu về văn hóa của các bộ tộc Lào, có các công trình nghiên
cứu tiêu biểu như:
- Maha Xila. Phông xavadan “Dã sử Lào”.
- Ma Nhu Li Ngầu Xạ Vắt “văn hóa xã hội Lào”.
- Kham Bang chăn Na Vong “Hịt xíp xỏng khong xíp xi” (phong tục
tập quán)
- Hùm Phăn Lắt Ta Nạ “Văn hóa Lào”.
2
- Chăn Phon Vong Xạ “Những giá trị văn hóa nghệ thuật của chùa
Xiêng Thong ở Luổng Phạ Bang”.
- Humphanh Rattanavong “Lễ hội lảy phay và lễ hội xuồng hưa Lào”.
- Dr. Suneth Phothisane “Tiến trình Phật giáo ở Lào”.
- Ma ha khămphan Vilachit “Đạo phật ở Lào”.
Những công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một vài khía cạnh về
văn hóa, dân số và các dân tộc của nước Lào.
Về các luận văn thạc sĩ địa lí học, có luận văn của Somphou
keobouakham (Bảo vệ năm 2016) đã phân tích đặc điểm dân số, dân tộc của
nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển dân số phù hợp với phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
các bộ tộc Lào nói chung trong đó có dân tộc Mông.
Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào nghiên cứu dưới góc độ Địa lí học
về bản sắc văn hóa dân tộc Mông của nước Lào.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về bản sắc văn
hóa dân tộc Mông của nước CHDCND Lào, đề xuất một số giải pháp nhằm
phát giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc của Lào trong thời kì hội
nhập và phát triển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về bản sắc văn hóa
dân tộc.
- Phân tích đặc điểm bản sắc văn hóa dân tộc Mông của nước
CHDCND Lào.
3
- Nghiên cứu định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông của nước CHDCND Lào.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu các khía cạnh về văn hóa truyền thống của dân
tộc Mông (tập quán sản xuất, tập quán sinh hoạt, văn hóa vật chất/ tinh thần...).
- Về không gian: nước CHDCND Lào
- Đối tượng nghiên cứu: Dân tộc Mông.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm hệ thống
Trong đề tài này việc nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc Mông của
nước CHDCND Lào liên quan đến vấn đề quan trọng nhất là các phong tục tập
quán sản xuất, sinh hoạt, đồng thời vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa và cấu trúc
cộng đồng của các đồng bào dân tộc của nước CHDCND Lào và chịu tác động
của các nhân tố tự nhiên - KTXH, chính sách dân số, lịch sử khai thác lãnh thổ.
5.2. Quan điểm tổng hợp
Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc Mông của nước CHDCND Lào cần
phải dựa trên cơ sở xem xét tác động tổng hợp của các nhân tố tự nhiên, kinh tế
xã hội, chính sách về dân tộc, bên cạnh đó cần đề cập đến mối quan hệ tương
tác giữa cộng đồng dân tộc Mông với các yếu tố tự nhiên.
5.3. Quan điểm lịch sử
Trong quá trình nghiên cứu khi xem xét hay đánh giá cần đứng trên quan
điểm lịch sử. Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc cũng vậy đều diễn ra trong những
điều kiện địa lý nhất định và trong thời gian nhất định vai trò của các yếu tố tự
nhiên, với lịch sử phát triển của dân tộc. Việc quán triệt quan điểm lịch sử yêu
4
cầu không chỉ nghiên cứu các nhân tố trình tự liên tục về không gian mà còn
vạch ra xu hướng phát triển dân số trong lịch sử.
5.4. Quan điểm phát triển bền vững
Trong quá trình phát triển, cộng đồng các dân tộc phải dựa vào các yếu
tố tự nhiên để sinh sống, nhất là dân tộc Mông - một dân tộc có sinh kế chủ yếu
dựa vào tự nhiên. Khi giải quyết các vấn đề về dân tộc đều phải dựa trên quan
điểm phát triển bền vững, trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu thập, phân tích các nguồn thông tin tư liệu
Đề tài cần được thực hiện trên nhiều nguồn tài liệu, số liệu khác nhau,
đặc biệt từ nguồn tài liệu truy cập trên mạng internet và nguồn tài liệu xuất bản
đang phổ biến được bán rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đó
là một quá trình chuyển đổi kinh nghiệm, đòi hỏi tính kế thừa và sự tích lũy.
Phương pháp thu thập là vô cùng cần thiết để đánh giá vấn đề. Từ nguồn
thông tin thứ cấp từ các cơ quan nhà nước, các tài liệu và báo cáo của cơ quan
chức năng, các công trình nghiên cứu đã công bố, các số liệu mới cập nhật. Từ
đó có thể đánh giá đúng bản sắc văn hoa dân tộc Mông, nhận định, dự báo cho
sự bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa tốt dẹp trong giai đoạn mới.
6.2. Phương pháp thống kê, so sánh dân tộc học
Đây là phương pháp có hiệu quả quan trọng và cần thiết đối với việc xử
lí các tài liệu, số liệu đã thu thập được. Các tài liệu được tổng hợp lại, phân
tích, so sánh, đối chiếu để biến chúng thành số liệu đã được thống kê thành một
hệ thống tài liệu sử lí đúng đắn mang tính công trình nghiên cứu khoa học về về
các giá trị văn hóa của các bộ tộc Lào nói chung và dân tộc Mông nói riêng.
5
6.3. Phương pháp đồ họa
Sử dụng đồ họa là phương pháp quan trọng, truyền thống và đặc trưng
của địa lí và là phương pháp không thể thay thế được trong nghiên cứu địa lí
lãnh thổ. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng kiến thức bản đồ, ứng
dụng công nghệ GIS và Mapinfor thành lập bản đồ về hành chính, bản đồ
nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Phương pháp trên được thực hiện
trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Các kết quả nghiên cứu lại được thể hiện
thông qua các biểu đồ, bản đồ với ý nghĩa là những thông tin mới và phản ánh
đúng đắn các kết quả đã nghiên cứu được. Biểu đồ sử dụng để thể hiện quy mô,
cơ cấu, quá trình, động lực theo cả hai chiều không gian và thời gian, dễ hiểu,
hấp dẫn hơn.
6.4. Phương pháp bản đồ, GIS
Trong nghiên cứu các vấn đề địa lí học, việc sử dụng phương pháp bản
đồ và GÍ Đây là rất quan trọng quan trọng. Cụ thể sẽ xây dựng một số biểu đồ,
bản đồ phân bố dân cư, dân tộc dựa trên các dữ liệu đã được thu thập và xử lý.
Tác giả sử dụng phương pháp này để vẽ bản đồ về các dân tộc nước Lào và bản
đồ phân bố dân tộc Mông của nước Lào.
6.5. Phương pháp dự báo
Đây là phần không thể thiếu khi nghiên cứu vấn đề liên quan đến đặc
điểm Dân tộc trong chiến lược phát triển, mục tiêu, định hướng và giải pháp
phát triển trong tương lai.
7. Dự kiến đóng góp luận văn
- Kế thừa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về bản sắc văn hóa
dân tộc
- Phân tích được bản sắc văn hóa dân tộc Mông của nước CHDCND Lào.
6
- Đề xuất được một số giải gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc
trong xu thế hội nhập và phát triển.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về bản sắc văn hóa dân tộc
Chương 2: Đặc điểm tộc người và bản sắc văn hóa của dân tộc Mông
của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chương 3: Một số giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mông ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Văn hóa
Nội hàm khái niệm văn hoá có nguồn gốc từ tiếng Latinh Colère -
Cultura nghĩa là “trồng trọt” nó bao hàm hai nghĩa là "trồng trọt ngoài đồng"
và "trồng trọt tinh thần". Đến đây chúng ta nhớ lại lời dạy của Bác Hồ về cụm
từ "trồng người" cũng được hiểu là để trở thành con người văn hóa thì phải
được trồng, tức là được nuôi dưỡng, rèn rũa chứ tự nhiên đâu có được [15].
Là một khái niệm đa chiều, ở các góc độ chuyên môn riêng, ở mỗi mục
đích nhận thức khác nhau có những quan niệm hay diễn giải / định nghĩa khác
nhau về văn hóa nhưng vẫn xoay quanh một số khuynh hướng nhất định. Hiện
nay, có hai xu hướng định nghĩa về văn hóa. Thứ nhất các thành tố của văn
hóa; thứ hai là loại định nghĩa nêu đặc trưng của văn hóa. Các khuynh hướng
ấy có thể khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm, đó là sản phẩm tương
tác xã hội với tự nhiên tùy theo trình độ phát triển của một cộng đồng trong
phạm vi một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ.
Cũng dễ hiểu vì sao UNESCO thống kê được hơn 400 định nghĩa về văn
hóa. Chốt lại UNESCO cho rằng “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem
lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng
ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
8
thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn chỉnh đặt ra để
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa
mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.
Trong ấn phẩm của mình GS Trần Ngọc Thêm cho rằng “Văn hóa là một
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [28].
1.1.1.2. Bản sắc văn hóa
GS.TS Phạm Hồng Quang cũng cho rằng "Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ
thống giá trị bền vững, mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá trị tinh
hoa của dân tộc, được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ sung hoàn thiện những giá trị mới, đồng
thời là gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời, để những giá trị bền vững luôn
sống động với thực tiễn xã hội" [19].
Tác giả Hồ Bá Thâm định nghĩa: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một kiểu
tổng hợp, kết hợp những phẩm chất, những giá trị văn hóa nội sinh và ngoại
sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có những nét ưu trội
hơn một số dân tộc khác, mang tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu tranh
và xây dựng của dân tộc đó” [27].
Bản sắc dân tộc được hình thành trong tiến trình lịch sử nhân loại, do sự
đóng góp của nhiều thế hệ, vì vậy mà một cá nhân không thể đại diện cho một
dân tộc, một truyền thống không thể đại diện cho mọi truyền thống và để giữ
gìn được bản sắc dân tộc, chúng ta cần phải ủng hộ, tôn vinh những giá trị tích
cực, tiến bộ, chống lại những các thói xấu, bảo thủ, không phù hợp với hoàn
cảnh thực tiễn.
9
1.1.1.3. Văn hóa truyền thống
Thuật ngữ văn hóa truyền thống, trước hết dược nhận thức rõ bản thể
khái niệm truyền thống cần tìm hiểu về “truyền thống”. Truyền thống tồn tại
thông qua hoạt động, sản xuất, lối sống, sự tìm tòi và xác định những giá trị và
quá trình vận dụng chúng vào trong đời sống xã hội, các lĩnh vực sinh hoạt
hàng ngày. Truyền thống mang dấu ấn của thời đại và thường xuyên phát triển
theo các lớp bảo tồn theo chế độ xã hội, cuộc sống con người.
Trên cơ sở nghiên cứu nội hàm các thuật ngữ “văn hóa” và “truyền
thống”, “văn hóa truyền thống” chúng ta nên hiểu đó là những nhân tố nền
tảng được thử thách qua thời gian, trong những không gian khác nhau, nó trải qua
sự chắt lọc qua thử thách thời gian, để rồi còn lại những giá trị hợp lí tiếp tục
được nuôi dưỡng và tuyên truyền qua thế hệ. Do đó, cái cốt yếu đó không bao giờ
thay đổi trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù vậy, trong quan điểm phát triển không
“nhất thành bất biến”, văn hóa luôn vận động, đổi mới và sáng tạo [29][28].
1.1.1.4. Tiếp biến văn hoá, giao lưu văn hoá
Giao lưu văn hoá là khái niệm được các nhà Nhân học phương Tây đưa
ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm nhấn mạnh hiện tượng xảy ra khi
những nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp
xúc với nhau. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn
hóa ở các cộng đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố
"ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn.
Tiếp biến văn hoá là khái niệm có nội hàm rộng, tuỳ theo góc nhìn của
vấn đề. Theo nghĩa đen, tiếp biến văn hoá được diễn giải là quá trình tiếp nhận
và biến đổi cá giá trị văn hoá giữa các dân tộc, giữa các quốc gia dân tộc. Dưới
góc độ tâm lý học dân tộc, tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa của dân
tộc này bởi một dân tộc khác. Trong quá trình tiếp nhận đó, có thể có hiện
10
tượng biến đổi phần nào những sắc thái ban đầu để hình thành nên một diện
mạo mới.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, chúng tôi nhấn mạnh góc độ địa lý
dân tộc học. Tiếp biến văn hóa chính là nội hàm của sự tương tác văn hóa giữa
các dân tộc này bởi một dân tộc khác trong phạm vi không gian lãnh thổ nhất
định thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong quá trình tiếp nhận đó, tuỳ
theo mức độ tương tác mạnh hay yếu dẫn tới, trước hết là sự thay đổi về văn
hoá vật chất sau đó là văn hoá tinh thần (vật thể / phi vật thể), sau đó là sự hình
thành một diện mạo mới cả về văn hoá tinh thần cũng như vật chất.
Xu hướng chung của tiếp biến văn hoá là sự gắn liền với lịch sử tồn tại
và phát triển các tộc người của các quốc gia - dân tộc trên thế giới, tiếp biến
văn hóa được nhìn nhận là “dòng chảy tự nhiên”, bất chấp các rào cản về kinh
tế, xã hội và ngôn ngữ. Tiếp biến có nghĩa là sự tiếp tục, tiếp nhận trong xu
hướng biến đổi không ngừng. Hay nói một cách khác là bản thân văn hóa cũng
luôn có nhu cầu, giao lưu, trao đổi, hội nhập và xu hướng tự làm mới mình,
nhưng không bao giờ được đánh mất bản sắc riêng, nhất là trong thời đại mà
quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng. Ở đó có sự kết hợp giữa các
yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong
phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Với một quốc gia - dân tộc, giao lưu và tiếp biến
văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa từ / nước ngoài thông qua các kênh truyền
thông, ngoại giao kinh tế, ngoại giao nhân dân, các hoạt động du lịch, trao đổi
văn hoá thể thao.
Trong lĩnh vực văn hóa chỉ có khái niệm "tiếp biến văn hóa" chứ không
có khái niệm "hội nhập văn hóa"; thuật ngữ hội nhập chỉ sử dụng cho các lĩnh
vực ngoài văn hóa, chẳng hạn như kinh tế... Thực ra, trong điều kiện toàn cầu
hoá, với một thế giới phẳng, quan niệm này có phần không phù hợp. Bởi vì,
trình độ phát triển nhất định, kinh tế chính là văn hoá, hội nhập kinh tế cũng
11
đồng nghĩa hội nhập văn hoá, một trong 3 trụ cột hội nhập của ASEAN là văn
hoá là một ví dụ điển hình. Đại đa số ý kiến cho trong tiếp biến văn khoá không
được thái quá để rơi vào hoà tan văn hoá, đánh mất bản thể, không tạo nên sự
sác biệt văn hoá, cuối cùng là nguy có tiêu vong nền văn hoá tính đa dạng trong
sự thống nhất. Từ đó rút ra hệ luận quan trọng trong tiếp biến văn hoá thời đại
chúng ta là sự thống nhất trong đa dạng văn hoá giữa các dânh tộc, các quốc gia
và toàn cầu.
Về nội dung tiếp biến văn hoá, cũng có một số ý kiến khác biệt, tuy
nhiên, ý kiến chung cho rằng không giống với sự tiếp thu các tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, văn hóa bao giờ cũng có cách tiếp biến riêng của nó,
vừa nghiêm ngặt vừa cởi mở, vừa tự nhiên nhưng lại vừa có tính áp đặt. Quá
trình tiếp biến văn hóa thường đi theo đường vòng và diễn ra chậm hơn. Tuy
nhiên, dù bằng con đường nào thì quá trình tiếp biến và phát triển văn hoá của
các dân tộc cũng đều chịu sự tác động ở mức độ khác nhau của các nhân tố nội
sinh và ngoại sinh. Nhân tố nội sinh ở đây là yếu tố văn hoá truyền thống, là
những khuynh hướng, những nhu cầu đổi mới văn hoá bản thân mỗi dân tộc
gắn với nhu cầu và quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Còn các nhân tố ngoại
sinh đóng vai trò quan trọng trong quá trình kích thích, vay mượn, đồng hoá
văn hoá và từ đó dẫn tới sự thâm nhập và xuất hiện cái mới trong văn hoá dân
tộc. Quá trình này luôn đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng
giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh".
Hệ quả của tiếp biến văn hóa được coi là một hình thức biến đổi nhiều
lợi ích tiềm năng mà giao lưu văn hóa đem lại, thành những lợi ích thực tế - là
hiện tượng tiếp nhận có chọn lựa một số yếu tố văn hóa ngoại lai và biến đổi
chúng cho phù hợp với văn hóa bản địa, và sau một thời gian sử dụng và biến
đổi tiếp thì chúng trở thành những yếu tố văn hóa bản địa ngoại sinh. Đến lúc
đó, người dân ở nơi xuất xứ của những yếu tố văn hóa đó cũng không còn nhận
ra chúng vốn là của mình. Như vậy, những yếu tố ngoại sinh trong một nền văn
12
hóa là yếu tố tuy có gốc tích từ bên ngoài nhưng đã qua công đoạn tiếp biến
văn hóa và do đó không còn thuộc về nền văn hóa bên ngoài - nền văn hóa
đang cộng sinh với nền văn hóa bản địa, mà đã trở thành một bộ phận của nền
văn hóa bản địa, góp phần làm giàu cho vốn văn hoá. Vì vậy, người bản địa sử
dụng những yếu tố văn hóa bản địa ngoại sinh cũng thuần thục, tinh tế như các
yếu tố văn hóa nội sinh, có thể phối kết hòa quyện chúng với nhau một cách tự
nhiên. Quá trình giao lưu văn hóa chỉ là điều kiện cần, phải có thêm quá trình
tiếp biến văn hóa mới là điều kiện đủ để làm phong phú thêm, mạnh thêm nền
văn hóa bản địa, nâng nó lên tầm cao phát triển chung của văn hóa thế giới. Có
thể nói, giao lưu văn hoá và sự tiếp biến văn hoá vừa là kết quả của sự trao đổi,
vừa là chính bản thân sự trao đổi, vừa là một động lực thúc đẩy phát triển của
lịch sử.
Lợi ích căn bản và lâu dài mà tiếp biến văn hóa đem lại là thúc đẩy sự
phát triển của mỗi nền văn hóa. Lịch sử cho thấy, không một nền văn hóa nào
có thể phát triển nhanh hoặc vượt bậc mà không có sự giao lưu với nền văn hóa
khác. Giao lưu văn hóa làm cho những cộng đồng, những quốc gia dân tộc
đóng kín trở thành những hệ thống mở, đã mở rồi, lại ngày càng mở hơn.
Trong quá trình giao lưu văn hoá, bất kể văn hoá của cộng đồng người đang ở
nấc thang nào của sự phát triển thì một số yếu tố văn hoá của cộng người này
có thể lan truyền đến cộng đồng người kia. Các yếu tố văn hoá này có khi là cá
biệt, rời rạc, nhưng có khi lại kết thành hệ thống chặt chẽ; có khi kết dính với
những yếu tố văn hoá truyền thống, nhưng có khi lại làm thay đổi mạnh mẽ các
yếu tố văn hoá cũ.
Như vậy tiếp biến văn hóa là một nhu cầu bắt buộc cho sự tồn tại và phát
triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia dân tộc. Qua giao lưu tiếp xúc với các
nền văn hóa bên ngoài, các chủ thể văn hóa bản địa thu nhận được nhiều thông
tin mới, xử lý những thông tin này giúp họ có được những hiểu biết hoặc tri
thức mới, từ đó ở họ nẩy sinh những nhu cầu mới. Tuy nhiên, trong quá trình
13
giao lưu, tiếp biến văn hoá, các dân tộc cần phải giữ được những bản sắc văn
hoá riêng của dân tộc mình.
Trong cấu trúc của bản sắc văn hóa dân tộc, những yếu tố khu vực và
quốc tế không phải chỉ kết hợp với yếu tố nội tại bằng phép cộng giản đơn
những đặc trưng văn hóa ẩn chứa trong mỗi nền văn hóa, mà phải được cư dân
bản địa sàng lọc, tiếp thu, biến đổi một cách sáng tạo cho phù hợp với truyền
thống văn hóa của mình. Chỉ khi nào những yếu tố ngoại lai được bản địa hóa
và nhân tố bên ngoài kết hợp hài hòa với nhân tố bên trong, tạo thành những
đặc tính bền vững, ổn định ở một không gian văn hóa mới, thì lúc đó bản sắc
văn hóa dân tộc được phát triển và mang theo những nhân tố mới. Sáng tạo và
cái mới là đặc trưng không thể thiếu của bản sắc văn hóa dân tộc, đó là nguồn
sống, động lực, thời cơ cho văn hóa phát triển.
Tìm hiểu những xu thế lớn của sự tiếp biến, giao lưu văn hóa, các nhà
nghiên cứu cũng phải luôn nhấn mạnh đến vấn đề bản sắc văn hóa. Trong đó
nổi lên hai khuynh hướng: thứ nhất, tách rời giữa bản sắc văn hóa với tiếp xúc
và giao lưu văn hóa, chỉ tìm hiểu bản sắc hoặc chỉ chú trọng trình bày quá trình
tiếp xúc giao lưu; thứ hai, đặt bản sắc văn hóa dân tộc trong tiếp xúc giao lưu
văn hóa...Thực tiễn nghiên cứu lịch sử văn hóa cho thấy, quá trình tiếp xúc, đối
thoại, tiếp biến văn hóa phải có một khâu trung gian để biến đổi, hay nói rõ
hơn, quá trình tiếp biến văn hóa chính là quá trình tiếp xúc - nhân tố trung gian
- biến đổi... Đối thoại giữa các nền văn hóa chính là tiến trình diễn ra theo
chuỗi logic: tiếp xúc - tương tác (khâu trung gian) dẫn đến biến đổi các giá trị
văn hóa.
Tiếp biến và giao lưu văn hóa luôn diễn ra đan xen và chồng lớp, quan hệ
tương tác, mật thiết với nhau nhưng bao giờ cũng có dòng chảy chính và xu thế
chủ đạo. Xu thế hội nhập - tiếp biến văn hóa có thể diễn ra một cách chủ động,
14
tự nguyện nhưng cũng có thể là xu thế bị động, cưỡng chế, tiếp thu thiếu chọn
lọc của một hay nhiều dòng văn hóa.
1.1.2. Tập quán sản xuất, tập quán sinh hoạt
1.1.2.1. Tập quán sản xuất
Đặc trưng trong tập quán sản xuất của mỗi tộc người có sự khác nhau.
Từ thời xa xưa, cuộc sông tự cung tự cấp thi mỗi dân tộc có những hoạt động
kinh tế khác nhau, trong đó điển hình là nghề nông trồng lúa nước, đốt nương
làm rẫy, chăn nuôi, nghề thủ công. Hoạt động sản xuất nào là chủ đạo phụ
thuộc trước hết vào điều kiện tự nhiên mà tộc người đó phụ thuộc.
Trong tập quán sản xuất luôn có thuộc tính sự phân vai lao động tương
đối mà ta gọi là phân công lao động giản đơn, rõ ràng giữa nam và nữ trong gia
đình. Nam giới thường làm các hoạt động như săn bắn, đan lát, làm nhà cửa,
còn phụ nữ thường cấy hái, dệt vải, và có một số hoạt động chung cả nam và nữ
cùng làm như phát nương, làm rẫy, lấy củi. Trong xã hội truyền thống, nam
giới được xem như lao động chính trong gia đình và chính điều này cũng quyết
định vị thế và tiếng nói của nam giới trong gia đình và trong cộng đồng. Ngày
nay, công cuộc đổi mới đã và đang tác dộng mạnh tới tập quán sản xuất, sinh
hoạt và ứng xử xã hội tuy nhiên người ta vẫn thấy những nét đặc trưng vốn có
của tộc người được truyền lại từ ngàn đời nay.
Trong tập quán sản xuất, có một đặc trưng cơ bản trong mỗi tộc người,
thể hiện cho đến ngày nay đó là nghề thủ công truyền thống. Mỗi cộng đồng
người đều có những nghề thủ công đặc trưng về loại hình hoặc kỹ thuật trong
quá trình tạo ra sản phẩm cũng như sản phẩm của nghề. Nghề thủ công là một
hoạt động kinh tế quan trọng cho sự phát triển của cộng đồng, vừa sử dụng lao
động tại chỗ lại là hàng hóa trao đổi và giao lưu kinh tế, văn hóa với xã hội bên
ngoài. Việc tìm hiểu về nghề thủ công truyền thống cho thấy các đặc trưng
trong cách thức sản xuất của từng tộc người.
15
1.1.2.2. Tập quán sinh hoạt
Là phạm trù thuộc về bản sắc văn hóa, các nghiên cứu của các nhà dân
tộc học cho thấy sự phong phú đa dạng ở các khía cạnh: ẩm thực, trang phục,
phương tiện giao thông, nhà ở truyền thống (ăn, mặc, ở, đi lại). Đây là những
thành tố văn hóa cơ bản, gắn bó trực tiếp với sinh hoạt thường ngày của cộng
đồng. Trong đó [5][32]:
- Ẩm thực: Hiện nay, khi tập quán sản xuất thay đổi, nguồn cung thực
phẩm truyền thống cũng giảm dần đi, cùng với sự du nhập của lối sống, văn
hóa ẩm thực mới đã dẫn đến những thay đổi đáng kể. Nhưng dù xuất hiện các
món ăn ảnh hưởng bởi các nền văn hóa bên ngoài, thì mỗi dân tộc cũng cố gắng
giữ gìn ẩm thực cổ truyền với những món ăn truyền thống, mang đậm nét văn
hóa của dân tộc, trong các dân tộc cũng xuất hiện các món ăn mới du nhập từ
bên ngoài, nhưng có một nguyên tắc xuyên suốt là không làm mất đi các giá trị
truyền thống lâu đời của đồng bào từng dân tộc, từng địa phương.
Đến đây chúng ta càng thấy phải diễn giải một cách khoa học về nội hàm
ẩm thực như là phạm trù chế biến món ăn, nguyên lí pha trộn, gia vị, tập quán
ăn uống được tiếp nhận cả từng dân tộc. Ở thành thị người ta ăn các món ăn đặc
sản, đắt tiền tại các nhà hàng khách sạn sang trọng. Ở nông thôn, cách nấu ăn,
tập quán ăn uống, dùng tay hay dùng công cụ hỗ trợ như thìa, dĩa bát, thì cũng
có dân tộc ăn bốc bằng tay.
- Trang phục: Hầu hết các dân tộc đều có những bộ trang phục riêng
mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Chức năng cơ bản trước nhất
của nó là bảo vệ con người. Đồng thời, trang phục bị chi phối bởi các nhân tố
chính, là khí hậu tự nhiên và phương thức sản xuất. Điều dẫn tới sự khác biệt
về hình thức, kiểu cách, màu sắc, các bộ phận của trang phục, trang sức kèm
theo. Là một trong những giá trị cột lõi trong nghiên cứu bản sắc văn hóa dân
tộc, vấn đề trang phục là cả một chuyện dài từ kiểu cách đến màu sắc và ăn
mặc thường nhật cũng như các dịp lễ hội như tết nhất, cưới xin, đám tang, hội
16
hè và đi du lịch... Tất cả đều cần được nghiên cứu chi tiết tùy theo đặc điểm tộc
người. Ngày nay cuộc sống hiện đại bắt đầu tác động tới cách ăn mặc của các
dân tộc. Con em các dân tộc đi học ở các trường ở thành thị cũng ăn mặc hiện
đại, nhưng về quê họ lại thích ăn mặc kiểu truyền thông.. Sự tiếp biến văn hóa
giữa truyền thống và hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc. Khách du lịch
nước ngoài ở lại qua đêm tại các cơ sở homstay đâu có biết rằng nhà cửa nội
thất cả cách ứng xử và ăn uống đều được đầu từ lớn để gây thiện cảm với đồng
bào dân tộc, xóa đi mặc cảm lạc hậu, bảo thủ.
- Khi nghiên cứu văn hóa ở của đồng bào các dân tộc các nhà dân tộc học
khám phá một nét chung, ở không chỉ gắn bó với sản xuất vật chất mà quan
trọng hơn cả đó là phạm trù văn hóa, mang tính tâm linh sâu sắc. Xưa kia, con
người cổ đại phải sông trong các hang đá, dưới các lùm cây, sau này tiên bộ
hơn sống trong các nhà đào hầm làm nhà dưới lòng đất, hoặc là lán trại trên
thảo nguyên lợp bằng da thú. Sự tiến hóa của nhà mở diễn ra lâu dài và gian
khổ, để cuối cùng có bước ngoặt quan trọng là làm được nhà bằng các vật liệu
có sẵn trong tự nhiên như gỗ rùng lá cây, đá, cát sỏi... Sự tiến bộ này được coi
là sự tiến bộ văn hóa ở giúp con người trở nên văn minh hơn, ít bệnh tật hơn và
do đó, dân số bắt đầu tăng lên và sức mạnh cộng đồng mỗi ngày một gấp bội.
Là phạm trù bản sắc văn hóa, nhà ở của đồng bào Mông được thể hiện
qua các bước chọn đất để dựng nhà, chọn gỗ rừng, tre nứa lá, chọn đất đá để
chỉnh tường hoặc xếp lại để che chắn quanh nhà và quanh vườn, một mặt để
che chắn gió mưa, chống thú dữ, và quan trọng hơn là nơi thể hiện văn hóa tâm
linh trong các sự kiện quan trọng như đám cưới, đám tang, lễ tết, đón khách
đến thăm nhà... Mỗi tộc người lại có những cách bố trí nội thất riêng, chẳng hạn
như cột nhà để thờ ma, cửa ra vào riêng cho chủ nhà và khách, có phân biệt
nam nữ; giữa nhà phải có bếp củi để nấu ăn và sưởi ấm... Người Mông rất giỏi
chọn đất để dựng nhà nên không mấy khi bị tai họa do đá lở và lũ quét. Chỉ có
17
điều, do cánh sống du canh du cư, người Mông thường làm tạm bợ, để vài ba
năm sau lại chuyển cư đi nới khác có điều kiện sản xuất và sinh sống tốt hơn,
mà đi đâu là đi cả bản, để lại một khoảng trống, sau một thời gian khi đất rừng
được khôi phục, bà con lại có thể kéo nhau trở lại. Người Mông cũng biết đó là
khó khăn cho nên mới có câu truyền miệng "ba lần chạy bằng một lần cháy".
Suốt đời di chuyển, suốt đời nghèo. Vậy nên nhà nước luôn tìm cách để khuyến
khích đồng bào hạ sơn, định canh định cư.
- Đi lại: Việc đi lại tưởng chừng chỉ là sự di động của con người từ điểm
A đến điểm B, thực ra, xét trên góc độ văn hóa, đây lại là phạm trù văn hóa vừa
có tính vật thể và phi vật thể. Từ góc độ vật thể, con người di động nhờ các
phương tiên cổ truyền như khiêng cáng, sử dụng xe ngựa, lừa, xe trâu, bò, thậm
chí ở Bắc cực, người ta đi lại bằng các xe trượt tuyết dùng sức kéo của đàn chó.
Văn hóa đi lại thể hệ sự phụ thuộc vào đặc điểm môi trường thiên nhiên địa
hình núi, sông, hồ, biển và đại dương. Hơn ai hết, người Mông trong quá trình
thiên di về phía nam, tới miền Hoa Nam Trung Quốc, Bắc Lào và Bắc Việt
Nam, đã sử dụng nhiều hình thức di chuyển khác nhau, trong đó có những
phương tiện di chuyển truyền thống như đi bộ, trèo đèo vượt suối, lênh đênh
trên các dòng sông, hồ và biển. Cũng nên nhấn mạnh, chính cuộc sống di
chuyển trên các bình độ cao, gọi là rẻo rao, người Mông rất giỏi leo trèo, chinh
phục các vùng sơn cước bằng việc cắt ngang địa hình dù hiểm trở đến mấy, làm
nên những kì tích tới mức các tộc người khác khó mà sánh được.
Trong xã hội mà chúng ta đang sống có những thay đổi sâu sắc trên mọi
phương diện như nhà ở, giao thông, các phương tiện đi lại, các phương tiện
truyền thông và thông tin đại chúng. Lối sống thành thị lan tỏa mạnh mẽ về
nông thôn trong quá trình đô thị hóa nông thôn, khiến chúng ta không thể tưởng
tượng được sự khác biệt đến không ngờ có được như ngày nay, vậy mà ngày
xưa, hoặc cách đây không lâu, người dân phải chấp nhận chung sống trong
18
nghèo nàn, lạc hậu. Nói tóm lại, quá trình đổi mới, cách tân đã xâm nhập mọi
khía cạnh văn hóa đi lại, và xa hơn nữa, cả cách ứng xử trong cộng đòng giữ
người với người, giữa người với môi trường vật chất và tinh thần chung quanh.
Như vậy, những thành tố văn hóa này là biểu hiện trực tiếp cho cách thức
ứng xử của cộng đồng với môi trường sống; mang tính đặc thù theo địa vực,
kinh tế, xã hội, một khi các phương tiện truyền thống đặc trưng vẫn được giữ
gìn, thì cách sống và lao động, cách ở ăn ở, ứng xử thường nhật vẫn mang theo
bản sắc văn hóa dưới dạng hành vi và tiềm thức; không tạo ra rào cản cũng như
thường xuyên có sự tương tác giữa cộng đồng với xã hội bên ngoài. Các đặc
trưng về văn hóa ăn, mặc, di chuyển của cộng đồng dân tộc tạo nên sự khác
biệt, giúp phân biệt hành vi ứng xử với nhau và với môi trường sống chung
quanh con người. Đây là yếu tố cơ bản khi đánh giá bản sắc văn hóa của một
dân tộc.
1.1.4. Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần
Theo định nghĩa của UNESCO, ngoài các yếu tố văn hóa vật thể như đã dề
cập ở trên, còn có cả các mặt của đời sống xã hội như làng bản và mối quan hệ
trong làng bản, quan hệ xã hội, gia đình và mối quan hệ trong gia đình, dòng họ.
Trong khi đó, theo UNESCO di sản văn hóa là phạm trù hết sức phong
phú từ ca múa nhạc đến văn chương truyền miệng, huyền thoại, ngôn ngữ, lễ
nghi, phong tục tập quán huyền thoại, y dược cổ truyền, đến việc nấu ăn và các
món ăn thường nhật trong dịp lễ hội, kể cả bí quyết công nghệ truyền thống.
Như vậy, văn hóa phi vật thể, hay nói khác đi là văn hóa tinh thần, có
tính biểu tượng và “không sờ thấy được” nhưng lại là phương thức tồn tại và
phát triển của con người.
Những thành tố này là nền tảng tinh thần xã hội. Các thành tố trong văn
hóa tinh thần cần được nghiên cứu khi tìm hiểu về bản sắc văn hóa các dân tộc
là [29]:
19
- Ngôn ngữ: Mang tính đặc thù của tộc người, chịu sự chi phối của lối
sống của cộng đồng dân cư, để diễn đạt các ý muốn của bản thân. Trong phát
ngôn, họ không bao giờ quên đi vai vế trong gia đình, dòng tộc của mình.
Dường như sử dụng ngôn ngữ, tiếng nói dân tộc mình để cùng trao đổi, cùng
bàn luận, các thành viên của mỗi bộ tộc cảm nhận được sự gần gũi, gắn bó chặt
chẽ hơn.
Ngôn ngữ vẫn có những mối liên hệ gần gũi với các ngôn ngữ thuộc
cùng nhóm ngôn ngữ với nhau. Ngôn ngữ được coi là phạm trù quan trọng nhất
để định dạng một tộc người, để phân biệt tộc người này với tộc người khác. Do
đó, các nhà dân tộc học coi ngôn ngữ là chỉ tiêu phân biệt tộc người trong một
cộng đồng, một quốc gia.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, các dân tộc thiểu số thường vay
mượn các ngôn ngữ phổ thông trong giao tiếp thường nhật. Trong một quốc gia
dân tộc người ta thường sử dụng một ngôn ngữ chính thức, gọi là tiếng quốc
gia, hay tiếng phổ thông. Cũng có quốc gia dùng cả hai ngôn ngữ, gọi là hệ song
ngữ. Nhưng trong cộng đồng tộc người của riêng họ lại chỉ dùng tiếng mẹ đẻ.
Những người di cửa nước ngoài, định cư tại nước nào đó, thì đều bắt
buộc phải biết và giao lưu bằng tiếng nước đó, nhưng ở nhà họ luôn dạy con cái
mình bằng tiếng mẹ đẻ để không quên quê hương đất nước. Gần đây xuất hiện
khái niệm công dân toàn cầu, thì bắt buộc phải dùng tiếng Anh hoặc tiếng
Pháp, Tây Ban Nha, tiếng Đức.. Sự xuất hiện quốc tế ngữ làm phương tiện giao
lưu toàn cầu, nhưng cũng không thể thay thế được tiếng Anh, hơn nữa đây là
ngôn ngữ tin học được sử dụng rộng rãi trong cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Các khái niệm nền tảng của cuộc cách mạng này là Trí tuệ nhân tạo /
Internet kết nối vạn vật / Dữ liệu lớn (AI / IoT / BigData) với nơi định cư mới,
chẳng hạn ở Việt Nam học giỏi tiếng Việt, nhưng tiếng Anh cũng rất phổ biến
mỗi khi có khách du lịch nước ngoài đến thăm hoặc ở lại qua đêm tại các cơ sở
du lịch homstay.
20
- Phong tục, tập quán: Mỗi cộng đồng có một hệ giá trị - chuẩn mực
riêng, là định chế chi phối hành vi, các nguyên tức và chuẩn mức giao tiếp
trong một cộng đồng đó theo một trật tự nhất định. Bên cạnh các phong tục, tập
quán liên quan đến sản xuất, nhà cửa, các phong tục - tập quán thường thấy tại
các dân tộc là phong tục trong giao tiếp, ứng xử; phong tục vòng đời (sinh đẻ
và kết hôn, tang ma, nuôi dạy con cháu…). Thành tố văn hóa tộc người này
được coi là bắt buộc đối với việc định danh, gắn kết cộng đồng. Ví dụ như về
tập quán lễ tang, tang cổ truyền của các dân tộc là một trong những nghi lễ đặc
sắc thể hiện những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh quan của tộc người. Những
quan niệm đó đã góp phần tạo nên “mối cộng cảm” và tạo ra cốt cách dân gian
và chủ nghĩa nhân văn trong tâm hồn con người. Chính vì vậy, tang lễ đã mang
nhiều giá trị của di sản văn hóa dân tộc [3]. Hơn nữa, đám tang còn mang
những ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện sự gắn kết cộng đồng thông qua các
quan niệm về tâm linh, người sống, mối quan hệ với thế giới bên kia sau khi
chết, trở thành chất keo gắn gia đình, dòng học và bản làng. Ví dụ như về hôn
nhân, dù hiện nay vẫn có dân tộc có tập tục thách cưới, dù ngày nay dường như
chỉ mang tính hình thức, tượng trưng, lễ vật thách cưới không yêu cầu cao,
không còn khắt khe như trước kia nữa; hay sự thay đổi trong tuổi tác và thế hệ
trong việc mặc trang phục ngày cưới. Vẫn biết theo độ tuổi và theo thời gian,
những người trẻ tuổi chủ yếu mặc váy cưới hiện đại, nhưng trang phục truyền
thống lai được những người nhiều tuổi hơn trân trọng.
Tôn giáo, tín ngưỡng là những thành tố văn hóa nặng về yếu tố tâm linh
và những kiêng kị của từng cộng đồng. Trong các hoạt động chung, những yếu
tố văn hóa này thường được cộng đồng lưu giữ, thực hành với những niềm tin
được xây dựng qua nhiều thế hệ, được cộng đồng tổ chức tại những không gian
linh thiêng (có hoặc không được phép sự hiện diện của tất cả những thành viên
của cộng đồng) cũng như hạn chế sự xuất hiện của người bên ngoài [32].
Những sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh vẫn còn rất phổ biến trong cộng đồng và
21
vẫn giữ được nguyên những nét hồn nhiên mộc mạc thể hiện qua hai loại hình
nổi bật là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thần, thánh.
- Lễ hội: Là hoạt động phổ biến, đa dạng trong các cộng đồng tộc người.
Hoạt động này được cả cộng đồng cùng thực hiện. Phần lễ được tiến hành theo
nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng, Phần hội vừa mang tính truyền thống, vừa có
các loại hình cải tiến cho p;hù hợp với cuộc sống hiện đại. Như vậy phần lễ
trong mang nặng yếu tố tâm linh và gần như là thế giới riêng của cộng đồng
bản địa. Ngược lại, phần hội lại được tổ chức mang tính quảng bá, với sự tham
gia của nhiều bộ phận người dân bên trong và bên ngoài cộng đồng.
Có thể nói, thông qua tôn giao, tín ngưỡng, lễ hội dân gian có thể nhận
diện bản sắc văn hóa từng tộc người cấu thành bộ tộc và nhờ dó phân biệt bản
sắc văn hóa riêng của các khu địa dân tộc học trên lãnh thổ Lào. Hiện nay, do
tác động của các yêu tố KHKT khiến người lao động ngày càng chủ động trong
sản xuất, giảm dần sự phụ thuộc vào thiên thiên đã ảnh hưởng ít nhiều đến tín
ngưỡng ủa các dân tộc. Một số tín ngưỡng đã mất dần, đồng thời, xuất hiện
thêm một số tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội mới do ảnh hưởng mối quan hệ giữ các
tộc người và cả nước nói chung. Những thành tố cơ bản nói trên là cơ sở để
định dạng bản sắc văn hóa của một dân tộc trong cộng đồng tộc người trong
một quốc gia. Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bản sắc
văn hóa dân tộc cần được bảo vệ và phát huy nhưng yếu tố tích cực, vừa hạn
chế các mặt bảo thủ, lạc hậu để nhanh chóng định hình nền văn hóa mới phù
hợp với thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng các dân tộc ở
CHDCND Lào
Ủy ban Dân tộc quốc gia Lào khẳng định dân tộc Lào là cộng đồng
người có một ngôn ngữ, có nguồn gốc lịch sử hình thành, có chung một nền
22
văn hóa - xã hội, có chung một nguồn gốc với 4 đặc điểm: (1) Có truyền thống
đoàn kết; (2) Không có lãnh thổ riêng, sống xen kẽ với nhau, và xu hướng xen
kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng; (3) Có sự chênh lệch về nhiều mặt kinh tế
và trình độ văn hóa; (4) Đa dạng trong kết cấu tộc người, có quan hệ nguồn gốc
với dân tộc ở các nước láng giềng [35].
Trải qua hàng chục vạn năm, những con người cổ sinh sống trên lãnh thổ
Lào đã từng bước vừa cải tạo mình, vừa cải tạo và chinh phục thiên nhiên để
sinh tồn và phát triển. Họ đã để lại đến nay những di tích văn hóa vật chất
chứng tỏ sự diễn tiến từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới đến thời đại
đồng thau và thời đại sắt. Trong những di tích văn hóa đó, những di tích văn
hóa thuộc thời đại đồng thau, tiêu biểu cho thời đại đồ sắt văn hóa Cự Thạch
dẫn tới sự ra đời các hình thái Mường cổ một cách phổ biến vào những thế kỷ
sau Công nguyên. Có thể thấy lịch sử Lào qua các thời kỳ sau đây: Nước Lào
thời kỳ các Mường cổ; Thời kỳ thống nhất đầu tiên của Vương quốc Lào Lạn
Xạng; Thời kỳ nhân dân Vương quốc Lào Lạn Xạng kháng chiến chống xâm
lược; Vương quốc Lào Lạn Xạng bước vào thời kỳ suy yếu và đất nước bị chia
cắt trong thế kỷ XVIII; Thực dân Pháp và phát xít Nhật thống trị đất Lào. Công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đồng thời thiết lập chế
dộm dan chủ nhân dân tại một số vùng tự do; Cuối cùng là sự phát triển của chế
độ mới XHCXN trên đất Lao đương đại [42].
Kết quả nghiên cứu của các nhà dân tộc học, 49 bộ tộc hiện diện đất Lào
gồm ba khối lớn - Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Xủng, cùng sinh sống.
Nếu chia theo nhóm ngôn ngữ, các dân tộc của Lào xếp theo 4 nhóm
ngôn ngữ: Nhóm Lào Lùm - Tày có 8 bộ tộc (bao gồm: Tộc người Lào, Tộc
người Tay, Tộc người Phu Tay, Tộc người Lự, Tộc người Duôn, Tộc người
Dăng, Tộc người Xẹc, Tộc người Thay Nửa), dân số 3.646.833, chiếm 55% dân
23
số cả nước. Khối này sinh hoạt ở đồng bằng và các sông, suối, sinh sống bằng
làm ruộng là chủ yếu, phần lớn theo đạo Phật.
Nhóm người Lào Thơng (Mon - khơme), có 32 bộ tộc, (bao gồm: Tộc
người Khơ Mụ, Tộc người Bay rạ, Tộc người Xing Mun, Tộc người phọng,
Tộc người Thèn, Tộc người Ơ Đu, Tộc người Bít, Tộc người La Mét, Tộc
người Xảm Tào, Tộc người Kạ Tang, Tộc người Mạ Kong, Tộc người Ta Ri,
Tộc người Do ru, Tộc người Ta Liêng, Tộc người Ta Ôi, Tộc người Dẹ, Tộc
người Brâu, Tộc người Kạ Tu, Tộc người Ha rắc, Tộc người Ôi, Tộc người Kạ
Riêng, Tộc người Chẹng, Tộc người Kạ Đang, Tộc người Xuồi, Tộc người Nha
hớn, Tộc người Lạ Vi, Tộc người Pa Kộ, Tộc người Khơ Me, Tộc người Tụm,
Tộc người Nguổn, Tộc người Moi, Tộc người Kri), tổng dân số 1.269.276
người, , chiếm 27% của dân số cả nước. Các bộ tộc khối này phần lớn dựa vào
vùng đồng bằng và miền núi, sinh sống lẫn lộn với các bộ tộc khác, làm nương
là chủ yếu và một số bộ tộc sinh sống ở đồng bằng làm ruộng thành nghề.
Nhóm Mông - Ưu Miên có 2 bộ tộc (gồm: Tộc người Mông, Tộc người
Iu Miên), chiếm 6,89% của dân số cả nước, phần lớn sinh Thượng Lào, một số
sinh sống ở Trung Lào sinh kế chủ yếu là làm nương và chăn nuôi.
Khối tiếng nói Trung - Ti Bệt có 7 bộ tộc (bao gồm: A Kha, Sing Si li, La
Hủ, Xi La, Hà Nhì, Lô lô, Hõ), tổng dân số 159.298 người, chiếm 11,1% của
dân số cả nước, sinh sống ở miền Bắc Lào, sinh ké chủ yếu là trồng lúa tẻ, ngô
trên các nương rãy và chăn nuôi gia súc gia cầm. Trong các bộ tộc này có
những tộc người bản địa như người Môn, người Khơme từng có mặt sơm trên
đất Lào xưa. Họ đã từng xây dựng quốc gia Môn - Khơme với nền văn hóa rực
rỡ như nền văn hóa Cự Thạch với người La Vạ ở Lào. Tiếp đó là sự di cư từ
bên ngoài của các cư dân Lào Thái, Lào Sủng và một số người từ bán đảo Tiểu
Ám chủ yếu từ Ấn Độ [42]...
24
Lịch sử hình thành cộng đồng các dân tộc Lào cho thấy, các bộ tộc trong
xã hội Lào trong quá trình dựng nước và giữ nước đã cùng nhau đoàn kết xây
dựng quốc gia ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên,, trong cơ cấu tộc người trong
xã hội Lào, vai trò của tộc người chủ thể (người Lào) thường không lớn về số
lượng nhưng chênh lệch về trình độ phát triển. Đây cũng là đặc điểm chung của
Cộng đồng ASEAN, đòi hỏi nhiều cố gắng để ráu ngắn khoảng cách phát triển
giữa các quốc gia thành viên.
Về nguồn gốc, chủng tộc cũng như về mặt thể chế xã hội vốn không
đồng nhất lại đa dạng và phức tạp. Đây là cơ sở căn bản của một nền văn hóa
chính trị đa tâm lý, đa tính cách, nhiều khát vọng và ước mơ, nhiều xu hướng tư
tưởng, nhiều mô hình tổ chức - thực hành và cũng nhiều tài năng do nhiều tố
chất tộc người hội tụ.
1.2.2. Khái quát chung về bản sắc văn hóa của các dân tộc nước CHDCND Lào
Các dân tộc Lào có truyền thống văn hóa lâu đời với các đặc trung cơ
bản. Đó là tình đoàn kết, lòng yêu nước, ý thức tự tôn, lối sống hòa đồng và
lòng khoan dung. Nền văn hóa của đất nước triệu voi cùng với cuộc đấu tranh
dựng nước và giữ nước oanh liệt là những nét văn hóa, hoa chăm pa, ở nhà sản,
ăn cơm nếp, thổi kèn và múa lăm vông. Chính những điều này góp phần hình
thành nên bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống Lào.
Văn hóa truyền thống Lào đã được nhân dân các bộ tộc Lào tạo lập ngay
từ thời xa xưa, đồng thời tiếp biến với văn hóa Môn - Kh'me. Vương quốc Lạn
Xạng của người Lào đã tiếp nhận và biến đổi một số yêu trên bán đảo Trung
Ấn gồm hai nền văn hóa đồ sợ từ Ấn Độ và Trung Hoa.
Nhờ những nghiên cứu văn hóa tộc người trong khu vực Đông Nam Á
bán đảo mà chúng ta phát hiện ra cơ tầng Đông Nam Á trong văn hóa Lào và
quá trình tích hợp văn hóa tộc người nhất là cư dân Môn - Khóm và Lào - Thái
những nhân tố cơ bản để hình thành nhà nước Lạn Xạng trong sự tiếp xúc với
25
văn hóa Ấn Độ tạo thành một nền văn hóa quốc gia dân tộc có cấu trúc gồm hai
dòng: "Văn hóa bác học chịu ảnh hưởng của từ chương học Ấn Độ trên biểu
tầng qua ngươi Môn, người Khóm và văn hóa dân gian là dòng đã bảo lưu
được những yếu tố bản địa dưới cơ tầng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng
để tạo nên sắc thái riêng biệt của nền văn hóa Lào khác với người đồng tộc của
họ ở Thái Lan" [10]. Đặc điểm được coi là sự khác biệt trong bản sức văn hóa
với nhiều sắc thái phong phú và đa dạng này trong nền văn hóa Lào
Mỗi tộc người của Lào cũng có những nét riêng trong tập quán sinh hoạt
tùy thuộc vào môi trường, phong tục tập quán và nguồn gốc xuất xứ. Như đã
nói, các tộc ở Lào phân bô 3 địa khu tộc người : các tộc người Lào cư trú ở các
vùng thấp là người Lao Lùm;các tộc người Lào cư trú ở các vùng giữa là người
Lào Thơng, cư trú ở các vùng rẻo cao là Lào Sủng.
Trong các quan hệ tộc người ở Lào có một số đặc trung theo gia đình,
làng bản. Theo đó, gia đình được coi là tế bào xã hội cơ bản, đồng thời là nơi
lưu trữ các đặc trung văn hóa tộc người rất bền vững làm cơ sở để tạo lập nên
bản sắc chung của từng bộ tộc ở Lào. Và đặc thù hơn với người Mông ở Lào là
Do không có tập quán sông theo các gia đình lớn với nhiều thế hệ, thì với người
Mông, bản là cơ sở thấp nhất trong tổ chức xã hội của dan tộc này. Bản hình
thành từ 4 - 5 hộ gia đình, cũng có khi tới hàng trăm hộ tùy theo môi trường tự
nhiên lịch sử cho phép. Và do đó, văn hóa gia đình hòa quyện với văn hóa bản,
tạo nên bản sắc văn hóa khu địa tộc người. Đến đay có thể hiểu được, ở Lào,
người ta nhói đến Lào Sủng nhiều hơn là dân tộc Mông, trong khi chúng ta lại
quan tam đến nét riêng biệt của dân tộc này từ góc độ bản sắc văn hóa dan trộc
Mông hơn là bản sắc văn hóa của người Lào Sủng.
26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, bản sắc văn hóa của một quốc gia
dân tộc nói chung và một dân tộc thành phần nói riêng đang đứng trước nhiều
cơ hội phát triển và cũng nhiều thách thức do bị mai một trước làn sóng hoàn
tan, dễ dẫn tới khủng hoảng. Thực tế đó đang đến với CHDCND Lào, một
quốc gia với nhiều bộ tộc đang nỗ lực vươn lên thoát nghèo nàn lạc hậu để hòa
chung trong một cộng đồng các quốc gia ASEAN vì hòa bình và thịnh vượng.
Theo tinh thần đó chúng tôi cho là cần thiết phải tìm hiểu những vấn đề lí luận
và thực tiễn của quá trình hình thành, phát triển cộng đồng các bộ tộc cùng
những đặc điểm văn hóa của các tộc người hợp thành theo các vùng miền : tiêu
biểu cho vùng thấp là người Lào Lùm, cho vùng giữa là người Lào Thơng, với
vùng cao là người Lào Sủng. Bên cạnh những dân tộc bản địa thì cũng có một
số tộc người di cư từ bên ngoài, điển hình là người Mông chiếm tới 1/3 dân số
Lào hiên nay . Dân tộc này có vai trò quan trọng trong sự tạo lập bản sắc văn
hóa công đồng các bộ tộc Lào. Và do đó, việc nghiên cứu bản sắc văn hóa dân
tộc Mông sẽ có ý nghĩa lớn trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã
hội của đất nước Lào nói chung và cho dân tộc Mông nói riêng.
27
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TỘC NGƯỜI VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC
MÔNG Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. Khái quát về nước CHDCND Lào
2.1.1. Vị trí địa lí
CHDCND Lào thuộc bán đảo Đông Dương, có diện tích 236.800 km2.
Đây là địa bàn quan trọng về địa chính trị do tiếp giáp với Trung Quốc ở phía
Bắc, Phía đông và là Việt Nam, phía nam là Campuchia, còn phía tây là
Mianma và Thái Lan trên tổng chiều dài đường biên giới là 4820 km. Chiều dài
từ Bắc xuống Nam khoảng hơn 1.700 km, chỗ rộng nhất 500 km, chỗ hẹp nhất
140 km. Như vậy, nước Lào nằm ở trung tâm Đông Nam Á, giữa nhiều nước
và không có biển.
Lào là nước không có biển nhưng đổi lại chiếm vị trị chiến lược do
nguồn nước sông Mê Kông tàng trữ lớn về thủy điện, cá nước ngọt. Quan trọng
hơn cả là trong điều kiện khủng hoảng môi trường bắt đầu từ mất khả năng
kiểm soát trong việc sử dụng nguồn nước sông Mê Công có thể dẫn tới thảm
hỏa môi trường và khủng hoảng chính trị khu vực khó lường.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Bốn vùng tự nhiên chủ yếu của Lào là: Đông - Bắc, Tây - Bắc, Trung
Lào và Nam Lào. Mỗi vùng có điều kiện địa lý, đất đai, khí hậu, thời tiết, v.v...
khác nhau. (i) Vùng Đông Bắc, bao gồm các tỉnh Phông Xa Lỳ, Luông Pha
Băng, Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, diện tích tự nhiên khoảng 66.960 km2, trong
đó núi chiếm hơn 90%. Trong năm có hơn bốn tháng mùa mưa, bốn tháng mùa
khô, có 2 - 3 tháng khô hạn. Đất đai phần lớn là đất núi màu nâu. Vùng Tây
Bắc, gồm các tỉnh: Luông Nặm Tha, Uđôm Xay, Bò Kẹo, Xay Nha Bu Ly.
Diện tích tự nhiên 47. 280 km2 , trong đó địa hình núi chiếm 90%.
28
Hình 2.1. Bản đồ hành chính nước Lào
29
Có hơn bốn tháng mùa mưa, bốn tháng mùa khô, có 2 - 3 tháng khô hạn.
Ba loại đất chính : đất núi / đất xám / đát xám bạc màu trên phù sa cổ.
(ii)Vùng Trung Lào, tổng diện tích tự nhiên 78.775 km2, bao gồm 5 tỉnh,
trong đó co Thành phố Viêng Chăn Có bốn tháng mùa mưa, hơn tháng mùa
khô, có 3 - 4 tháng khô hạn. Đất đai gồm: Đất phù sa, đất xám bạc màu trên
phù sa cổ.
(iii) Vùng Nam Lào, gồm các tỉnh: Xa La Văn, Sê Kông. Chăm Pa Xắc
và Át Ta Pư. Diện tích tự nhiên 47.000 km2, trong đó núi chiếm 70%.
Có bốn tháng mùa mưa, bốn tháng mùa khô, khoảng 3 - 4 tháng có khí
hậu chuyển. Các loại đất đỏ bazan và đất núi màu nâu vàng.
Nhìn từ trên cao, Lào được trông xem như một thung lũng lớn, được hợp
thành bởi nhiều thung lũng nhỏ, vừa nằm kế tiếp nhau ở các phù lưu và dọc
theo sông Mê Kông. Địa hình của Lào đa dạng và hiểm trở do nhiều sông và
núi cao ngăn cách. Miền Bắc có nhiều núi đồi trùng điệp. Bình độ núi tương
đối cao, có nhiều suối chảy dọc thung lũng, núi cao nhất ở tỉnh Xiêng Khoảng
là Phu Bía cao 2.820m. Miền Nam Lào tiếp giáp Campuchia với diện tích
82.180 km2; cảnh quan điển hình là rừng nhiệt đới Tây Trường Sơn, địa hình
tương đối thấp, ít núi, có nhiều đồng bằng và thung lũng rộng.
Sự phân hóa khí hậu trên lãnh thổ Lào khá điển hình từ Bắc xuống Nam
và từ Đông sang Tây. Miền Bắc là vùng núi cao, khí hậu có tính chất nửa nhiệt
đới và khô. Nếu phía Đông của Nam Lào có khí hậu nhiệt đới gió mùa khô ẩm
thi ở phía Tây dọc sông Mê Kông khí hậu ẩm ướt hơn. Khí hậu phân mùa rõ
rệt: Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng IV kéo dài đến cuối tháng X. Mùa khô bắt
đầu từ tháng XI đến cuối tháng III đầu tháng IV. Sự luân chuyển các mùa tạo
nên nhịp điệu nước lên xuống theo mùa của sông Mê Kông.
Lào có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhờ có khí hậu nhiệt
đới nóng và ẩm, đất đai phần lớn là đất đồi núi, rừng tự nhiên phát triển mạnh.
30
Trong rừng có nhiều loại gỗ và lâm, thổ sản quý hiếm. Hệ sinh vật gắn
bó với rừng cũng rất phong phú, đặc biệt là voi. Lào là đất nước Triệu voi và
hoa Chăm Pa. Nước Lào không có biển nhưng có nhiều sông suối, đặc biệt là
lưu vực sông Mê Kông với chiều dài 1835 km, là nguồn nước, thủy điện nguồn
các và du lịch sinh thái trên sông. Nhân dân các bộ tộc Lào không chỉ làm nghề
trồng trọt nương rẫy mà còn có nghề chài lưới, có khả năng thích ứng nhanh
với sự biến đổi của tự nhiên.
Điều kiện địa lý, khí hậu và nguồn tài nguyên thiên nhiên của Lào đã ảnh
hưởng sâu sắc đến quá sự hình thành và phát triển văn hóa của các bộ tộc Lào.
Sự phát triển từ sớm của cây lúa, lúa nương, lúa nước chứng minh trình độ hiểu
biết của con người Lào từ xa xưa về nghề nông, nghề rừng, nghề thủ công mỹ
nghệ. Chính vì vậy, dù xét từ góc độ nào thì người Lào cũng được quy vào cư
dân nông nghiệp. Mặc dù từ vài thập kỷ trở đây, các bộ tộc Lào có sự tiếp biến
với văn hóa bên ngoài, bước đù chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố văn hóa
ngoại lai, song nhưng giá trị cốt lõi của Lào vẫn được gìn giữ khá tốt. Chi phối
lịch sử hiện đại là ba hằng số văn hóa: kinh tế nông nghiệp/cư dân nông
nghiệp/xã hội nông nghiệp. Chỉ số quan trọng nhất của Lào là tài nguyên con
người. Để khám phá các giá trị văn hóa của tài nguyên con người cần phải
nghiên cứu các đặc điểm Điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng của nó đến lớn đến
sự hình thành và phát triển xã hội Lào. Những tác động của phương thức sống
của cư dân nông thôn, nông nghiệp (không thuần tuý là lúa nước) đối với văn
hóa là đoàn kết, cộng đồng, hiền hòa và bao dung (chín bỏ làm mười), nhưng ít
cạnh tranh, giao lưu và phát triển. Lào là quốc gia có dân số nhỏ, diện tích bình
quân đầu người lại lớn do dân số ít, đại bộ phận sống vào thiên nhiên, bằng
lòng với cuộc sống có tính tự nhiên vốn có, ít có nhu cầu cạnh tranh phát triển.
Lào là quốc gia không có biển, địa hình phần lớn là đồi núi cao. Điều này
hạn đến điều kiện và khả năng giao lưu và tiếp biến văn hóa và kinh tế với thế
giới bên ngoài.
31
Có sự khác biệt về độ cao địa hình và khi hậu cũng như điều kiện môi
trường sinh thái trong phân bố mạng lưới dân cư. Tuy nhiên giữa các tộc người
rẻo cao trên đát lào cũng tương tự như ở Việt Nam, người Mông có mối liên hệ
không gian khá đọc đáo và bền chặt khó có thể nói đó là hệ thống thông tin
ngầm định đã hình thành qua lịch sử tộc người này qua hàng nghìn năm trôi dạt
từ phương bắc xuống phương nam, rồi một bộ phận định cư tại Thượng Lào,
Bắc Việt Nam, và cứ thế đi tiếp, bây giờ một bộ phân tiên phong đã di tới Hạ
Lào và Tây Nguyên Việt Nam.
2.1.3. Điệu kiện kinh tế xã hội
CHDCND Lào hiện là một trong những nước nghèo. Trong những năm
gần đây, tăng trưởng GDP khác, đạt khoảng 8%, các năm 2007 - 2018. Kinh tế
vĩ mô Lào tiếp tục giữ được sự ổn định đạt 6,5% năm 2018. Qui mô GDP bình
quân đầu người tăng dần, đạt tới 2599 USD /người trong năm 2018. Môi
trường chính trị ổn định, Kinh tế vĩ mô dảm bảo,... Đây là tiên đề quan trọng
tạo nề tảng cho sự hình thành những nét văn hóa mới với một bộ phận dân cư
và nhà doanh nghiệp.
Như vậy, nghiên cứu lịch sử kinh tế xã hội Lào cho thấy, từ thời xa xưa
đến nay nông nghiệp núi lạc hậu, mạnh mún, tự cung tự cấp nay đa cho những
tín hiệu mới cho sự tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, an ninh xã hội đảm bảo
và cuối cùng là tiên đề quan trọng cho phát triển văn hóa.
2.2. Dân số tộc người nước ở CHDCND Lào
CHDCND Lào có quy mô dân số nhỏ nhưng nhưng tăng khá nhanh, năm
1970, dân số Lào là 3.000.000 người, thì đến năm 2009, dân số là 6.127.910
32
người, năm 2015 dân số tăng lên là 6.492.400 người, đến nay, quy mô dân số
đã tăng lên đến 7.029.558 người, tương đương gần 0,1% dân số thế giới.
Sau khoảng 28 - 30 năm nưa Lào mới bước vào giai đoạn dân số vàng.
Đây là cơ hội để Lào gia tăng số dân nhằm mục địch tăng nguồn lao động đồng
thời tăng sức khỏe cho thị trường tiêu dùng trong nước - một yếu tố quan trọng
là cột trụ cho nền kinh tế nội địa.
Tập trung dân cư đông nhất là ở thành phố Viêng Chăn với 209 người/km2.
Nhiều địa phương khác thường là mật độ dân số khoảng 11 - 12 người/km2 .
Mặc dù quy mô dân số không lớn, song Lào là quốc gia đa tộc người với 49
bộ tộc, thuộc ba khối lớn - Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Xủng, cùng sinh sống.
Theo ngôn ngữ, các bộ tộc người Lào có 4 khối chính : (i) Lào Lùm -
Tày; (ii) Lào Thơng (Mon - Kh'Me); (iii) Hơ Mông - Iu Miên; (iv) Trung - Ti
Bệt. Khoảng 0,2% dân số thuộc nhóm ngôn ngữ khác.
Bảng 2.1. Dân số chia theo các nhóm dân tộc của nước Lào năm 2012
Nhóm dân tộc Tổng dân số Nữ (người)
Lào - Tày 3.646.838 1.830.803
Môn - Khơ Me 1.269.276 639.650
Trung Quốc -Tây Tạng 479.395 237.831
Mông - Iu Miên 159.298 79.465
Các dân tộc khác 67375 33702
Nguồn: Tổng cục thống kê
33
Hình 2.2. Cơ cấu các nhóm dân tộc của nước Lào
Trong đó:
(1) 8 bộ tộc, chiếm 55% tổng dân số Lào, nói tiếng dân tộc Lao Lum -
Tày cư trú ở đồng bằng và các sông, suối, sinh kế chủ yếu là làm ruộng, phần
lớn theo đạo Phật.
(2) 32 bộ tộc, chiếm 27% của dân số nói tiếng Lào Thơng hệ Môn -
KhơMe, cư trú xen kẽ với các bộ tộc khác ở vùng đồng bằng và miền núi thấp,
thạo nghề làm ruộng và chăn nuôi.
(3) 2 bộ tộc, chiếm 6,89% của dân số, thuộc khối tiếng nói Mông - Ưu
Miên, cư tru phần lớn Thượng Lào một số sinh sống ở miền Trung Lào, sinh kế
chủ yếu canh tác nương rãy và chăn nuôi gia súc.
(4) 7 bộ tộc, chiếm 11,1% của dân số cả nước thuộc khối tiếng nói Trung
- Tây Tạng (Ti-bet), cư trú chủ yếu ở miền Bắc Lào, sinh sống bằng làm nương
trồng lúa tẻ, ngô và chăn nuôi.
Ngoài ra, còn nhóm tộc người khác chiếm 0,2% dân số với khoảng 12
nghìn người, từ các nước châu Á, đông nhất trong số đó là người Việt ở châu
Á, trong đó đông nhất là người Việt Nam.
34
Bảng 2.2. Dân số và mật độ dân số nước Lào theo các đơn vị hành chính,
giai đoạn 2005 - 2015
Năm 2005
Năm 2015
TT
Tỉnh
D.S
D.S
Mật độ (ng/km2)
Mật độ (ng/km2)
(người)
D.T Km2
(người)
D.T Km2
1 Thủ đô
698.318 3.920
178,1
820.900 3,920
209
2
Phông sa ly
165.947 16.270
10,2
178.000 16,270
11
3 Luong năm tha
145.310 9.325
15,6
175.700 9,325
19
4 U dôm xay
265.179 15.370
17,3
307.600 15,370
20
5 Bo kẹo
145.263 6.196
23,4
179.300 6,196
29
6 Luong pha bang
407.093 16.875
24,1
431.900 16,875
26
7 Hủa phăn
280.938 16.500
17,0
289.400 16,500
18
8 Xaya bu ly
338.669 16.389
20,7
381.300 16,389
23
9 Xiêng khoảng
229.596 15.880
14,5
244.700 15,880
17
10 Viêng Chăn
388.895 18.726
21,0
419.100 18,726
27
11 BoLy khăm xay
225.301 14.863
15,2
273.700 14,863
18
12 Khăm muon
337.390 16.315
20,7
393.100 16,315
24
13 Sa văn na khét
825.902 21.774
37,9
967.700 21,774
45
14 Sa la văn
324.327 10.691
30,3
397.00 10,691
37
15 Xê kong
84.995 7.665
11,1
113.200 7,665
15
16 Chăm pha sắc
607.370 15.415
39,4
694.000 15,415
45
17 At ta phư
112.120 10.320
10,9
139.600 10,320
14
18 Xay sôm buon
39.423 4.506
8,7
85.200 4,506
10
Cả nước
5.621.982 236.800
23,7
6.492.400 236.800
27
Nguồn: Tổng cục thông kê nước CHDCND Lào
35
Hình 2.3. Bản đồ phân bố dân cư nước Lào năm 2015
36
Người Lào gốc Việt sống chủ yếu ở Thủ đô Viêng Chăn, các thành phố,
các trung tâm kinh tế mới.
Lịch sử nhập cư của người Việt sang đất Lào gồm ba giai đoạn. Trước
Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là những người trốn chạy khỏi sự đàn áp của
chế độ thực dân Pháp và phong kiến Việt Nam. Thời kì kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ, một bộ phận người Việt tiếp tục sang Lào để làm ăn và
tránh các cuộc ném bom của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Thời kì gần đây, một bộ phận người Việt sang Lào làm ăn phát triển kinh
tế văn hóa giúp Lào, rồi xin ở lại định cư lâu dài.
Do nặng lòng với quê hương đất nước, người Việt đến đâu cũng nhớ về
quê hương bằng việc xây dựng chùa chiền thờ Phật theo môn phái Đại thừa.
Hiện nay trên đất Lào có 11 ngôi chùa Việt, chủ yếu ở Viêng Chăn và một số
địa phương khác. Văn hóa các bộ tộc Lào sẵn sàng tiếp nhận sự hiện diện yếu
tố Phật giáo đại thừa và văn hóa truyền thống từ Việt Nam.
Có thể nói, văn hóa truyền thống của người Lào là sự kết hợp giữa tính
hiền hòa của cư dân lúa nước với tính phóng khoáng như cư dân cao nguyên, từ
đây hình thành nên những nét văn hóa mang tính chan hòa của người Lào
truyền thống. Cho đến nay, xã hội Lào cơ bản vẫn mang những đặc tính truyền
thống, gắn liền với những yếu tố huyết thống, bộ tộc, bộ lạc. Xã hội công dân
hay xã hội dân sự mới ở giai đoạn ban đầu chưa hình thành và phát triển đầy
đủ. Tất nhiên đây là rào cản lớn cho việc dân chủ hóa về chính trị, hình thành
công dân, pháp luật, hay nói cách khác, những đặc điểm tộc người, cơ cấu và tổ
chức xã hội, nhất là các cơ sở về tính cách con người, lối sống cộng đồng của
37
các bộ tộc Lào đã hình thành nên các giá trị truyền thống văn hóa Lào đặc sắc
cho đến tận ngày nay.
2.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Mông của CHDCND Lào
2.3.1. Lịch sử hình thành dân tộc Mông ở nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào
Các nhà khoa học xã hội ước tính rằng có khoảng sáu đến bảy triệu người
Mông trên thế giới. Cho đến gần đây, gần như tất cả người Mông sống ở vùng
núi phía nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan và miền Bắc Việt Nam.
Hình 2.4. Phân bố nhóm ngôn ngữ Mông – Miền (đỏ cam: nhóm Mông,
xanh: nhóm Miền). Nguồn: [42]
38
Về tộc danh của dân tộc này có nhiều cách nhìn, cách lí giải khác nhau.
Những tài liệu từ thế kỷ thứ VII- trước công nguyên trong biên niên sử Trung
Quốc đã xuất hiện từ "Tam miêu" để chỉ một quốc gia đó có một bộ lạc hợp
nhất lại. Kinh thư của Khổng Tử có chép rằng: ở vùng Hồ Động Đình thiên
niên kỷ thứ II - trước công nguyên đã có những bộ hợp nhất mang tên "Tam
miêu". Gọi là Tam miêu là do người ta căn cứ vào 3 màu sắc trang phục của
người Mông lúc đó (Hồng miêu, Bạch miêu, Thanh miêu). Sách chiến quốc ghi
"Nước Tam miêu xưa ở phía tả có Hồ Động Đình, phía hữu có Hồ Bành Lãi,
phía Nam là núi Màn Sơn, phía Bắc là núi Hoành Sơn. Vì chính trị không tốt
nên Vua Vũ đuổi" [26].
Khoa học về nhân chủng đã khẳng định việc hình thành nhân chủng diễn
ra trong một thời gian dài từ thời đá cũ hậu kỳ và đã mới. Các nhà khảo cổ học
sau khi nghiên cứu hiện vật Nam kinh - Động Đình đã đi đến kết luận các bộ
lạc Mông đã xuất hiện ở đây vào thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên. Bản
thân người Mông ở Đông Nam Á đều coi tỉnh Quý Châu là nơi chôn rau cắt rốn
của tổ tiên mình.
Dân tộc Mông sống trên sống trên những ngọn núi cao, nơi khí hậu mát
mẻ về mùa nóng, giá rét về mùa khô, nguồn nước tuy không sẵn nhưng có đất
đai rộng lớn để khai phá. Họ sống tập trung ở các dãy núi phía Bắc Lào thuộc
các tỉnh Xiêng-khoảng, Luổng-phạ-bang, Xăm-nửa và Bắc Viêng-chăn.Trong
điều kiện địa lý tự nhiên toàn núi non hiểm trở, đất canh tác dốc, giao thông đi
lại khó khăn và khí hậu khắc nghiệt, đồng bào Mông vẫn coi nông nghiệp
nương rẫy là nền tảng kinh tế vô cùng quan trọng để đảm bảo nguồn cung cấp
lương thực, vừa đáp ứng các nhu cầu về thực phẩm. Công cụ sản xuất chủ yếu
trên nương của đồng bào Mông là cái lưỡi cày, con dao phát, chiếc cuốc xới,
con trâu, con bò. Phương tiện vận chuyển hàng hóa chủ yếu là con ngựa và cái
39
gùi. Các giống cây, giống con được đồng bào Mông lựa chọn kỹ lưỡng để bảo
tồn giống từ năm này qua năm khác, bảo đảm tự cung tự cấp tại chỗ và luôn đạt
chuẩn giống tốt. Mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nhưng với bản lĩnh
kiên cường, bất khuất, tự lực cánh sinh, lao động siêng năng, có kế hoạch, có
kỹ thuật và cần cù, sáng tạo, đồng bào Mông đã tạo dựng được cuộc sống tự lập
và bảo đảm được nhu cầu kinh tế tối thiểu để tồn tại. Hơn nữa, do tập tục canh
tác nương rẫy khiến cạn kiệt đất nhanh chóng, các làng người Mông phải liên
tục di chuyển. Trước đây, cây trồng chính của họ là ngô và thuốc phiện, họ sử
dụng làm thuốc và nghi lễ tâm linh hoặc bán cho thương nhân địa phương,
nhưng hiện nay cây trồng cũng có sự thay đổi. Những năm gần đây, người
Mông đã có sự di cư từ Bắc đến Nam Lào.
Hiện nay, người dân tộc Mông hiện chiếm khoảng gần một phần tư dân số
của nước Lào. Tỉnh có nhiều người dân tộc Mông nhất là tỉnh Xiêng Khoảng
111.034 người, trong đó nữ là 54954 người.
2.3.2. Văn hóa truyền thống của dân tộc Mông ở nước CHDC ND Lào
2.3.2.1. Ẩm thực
Dân tộc Mông, cùng quá trình di cư lâu đời, đã hình thành nên món ăn
riêng của họ, vì vậy, ẩm thực được các nhà nghiên cứu gọi chung là văn hoá
Mông là văn hoá núi. Bên cạnh những đặc điểm chung như thích ăn cơm nếp,
gia vị cay như như các bộc tộc Lào khác, dân tộc Mông cũng có những nét
riêng. Người Mông thích ăn cơm nếp, nhiều rau và ít thịt. Người Mông ăn ngày
ba bữa, bữa chính là bữa chiều sau khi đi nương rãy rã về, bữa sáng và bữa trưa
được mang theo để ăn trong lúc nghỉ tay. Công việc nương ruộng vất vả, tốn
nhiều ca lo, người Mông ăn uống đạm bạc, nhưng cơ chất chắc chắn, có sức
bền cao, nhất là khi leo núi, vượt đèo, không quản nặng nhọc, thậm chí để tra
lời câu hỏi bạn có thấy khổ không, người Mông thường cười và đáp lại khổ là
gì, thường thôi (!).
40
2.3.2.2. Trang phục truyền thống
Trong sự đa dạng và phong phú trang phục truyền thống của phụ nữ Lào
nổi lên giá trị văn hóa của váy phụ nữ Mông với nhiều nét tinh tế, nhiều nếp
gấp, rộng, khi xòe ra như cánh hoa mai rừng. Cạp váy được khâu chẽn lại vừa
với vòng bụng thon thả với hai dây buộc thanh thoát. Nền váy may bằng những
sợi chỉ to nhiều mầu. Phần cầu kì nhất của váy được thêu hoa văn rất tinh tế và
kì công. Thêu và may váy là cả cuộc đời của người phụ nữ Mông bắt đầu từ 6,7
tuổi đến khi lấy chồng, rồi có con, họ lạo trao truyền kinh nghiệm vốn quí đó
cho thế hệ sau.
Mầu trang phục khác nhau giữa các địa phương dẫn tới sự phân biệt
tương đối dễ dàng giữa các tộc người Mông Trắng, Mông Hoa Xanh, Mông
Hoa Đỏ và Mông Đen. Khác biệt về màu sắc phần nào phản ảnh tạp quán thích
ứng văn hóa với môi trường tự nhiên lịch sử. Điều đáng nói ở đây là trang phục
không đơn giản chỉ là cái mặc thường nhật hoặc trong dịp lễ hội, trên hết đó là
tài mản văn hóa được lưu truyền qua nhiều thế hệ mà ngày nay, mỗi lền đế
tham quan đất Lào, khách du lịch cần nhớ rằng đấy là biểu tượng bản sắc dân
tộc Mông bền chắc và cao quí.
2.3.2.3. Kiến trúc, nhà ở truyền thống
Kiến trúc nhà ở của người Mông chịu ảnh hưởng của địa hình cư trú,
trước hết là độ dốc địa hình cao và chia cắt sâu và phức tạp nhất là ở vùng núi
đá. Nhưng trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng nhà cửa của người Mông
cũng có sự biến đổi. Trước đây để làm được một ngôi nhà người Mông tốn
nhiều công sức, thường phải lên rừng ngả gỗ về làm nhà có khi vài năm mới
gom đủ số gỗ để làm một ngôi nhà. Bây giờ vật liệu làm nhà của người Mông
cũng đa dạng hơn, có nhiều vật liệu làm sẵn bán. Trước kia mái nhà của người
Mông được lợp bằng cỏ gianh còn bây giờ có nơi mái nhà được lợp bằng tấm
lợp bro ximăng đỡ mất công hơn và bền hơn.
41
2.3.2.4. Cộng cụ, phương tiện, đồ dùng truyền thống trong sản xuất và đời sống
Tính chất sản xuất tự cung tự cấp đã ảnh hưởng tới truyền thống và tập
quán sản xuất, phụ thuộc vào địa hình, khí hậu, thủy văn, môi trường sinh thái
khí hậu. Sinh kế chủ yếu của người là nghề nông trồng lúa nước, đốt nương làm
rẫy, chăn nuôi trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có như
các nguồn đá xây dựng, gỗ rừng,tre, nứa lá, một phần nhỏ đánh bắt các tại các
hồ nước tự nhiên, sông suối, khe, suối. Điều dễ hiểu là nền sản xuất tự nhiên đủ
đáp ứng nhu cầu nhu yếu phẩm đời sống của bản làng với số lượng dân cư
không đông, công cụ sản xuất đơn giản, thị trường trao đổi hàng hóa hạn hẹp,
chủ yếu là những hàng hóa và dịch vụ sơ đẳng, truyền thống, không cần tới các
giá trị giá tăng cao, xa xỉ và đắt đỏ, chủ yếu là lấy từ môi trường núi, sông, suối
chung quan nơi cư trú.
Người Mông quan niệm "vạn vật hữu linh", thường tin vào các thế lực
siêu nhiên chi phối đời sống, sản xuất của họ. Cho nên mỗi lần khai thác, sử
dụng một loại sản phẩm tự nhiên nào họ cũng thấy hình ảnh thành linh, và do vậy
họ rất cẩn trọng khi chặt từng cây gỗ, săn bắn một con thú. Họ luôn nghĩ lấy cái gì
từ tự nhiên thì phải trả lại cái đó. Cho nên mỗi khi chặt một cây rừng thì họ trồng
một cây mới để bù bào chỗ đã lấy đi. Mỗi khi săn bắn họ cũng hết sức cẩn trọng
chỉ bắt thú dữ, bảo vệ các các loài thú có ích, thân thiện với môi trường.
Trong tập quán sản xuất cổ truyền của người Mông, có sự phân công lao
động tương đối rõ ràng giữa nam và nữ trong gia đình. Nam thường làm các
hoạt động như săn bắn, đan lát, làm nhà cửa, còn phụ nữ thường cấy hái, dệt
vải, và có một số hoạt động chung cả nam và nữ cùng làm như phát nương, làm
rẫy, lấy củi.
Trong một gia đình người Mông cũng có sự phân công lao động giữa các
thế hệ. Các bé gái sớm biết giúp việc gia đình, được mẹ dạy giỗ cẩn thận, đặc
biệt là trong lanh, dệt vải, chuẩn bị của hồi môn khi đến tuổi lập gia đình. Tính
42
khép kín của nền kinh tế tự cấp tự túc bắt đầu từ kinh tế hộ gia đình. Do vậy
mọi nhu cầu cơ bản đã được đáp ứng. Nhu cầu trao đổi thị trường không đáng
kể. và nếu có thì cũng chỉ với qui mô nhỏ, chất lượng thấp. Đây là khó khăn lớn
khi đất nước Lào cần nhanh chóng thoát nghèo thì phải phát triển kinh tế hàng
hóa, trao đổi liên vùng và quốc tế.
Trong một số điều tra và nghiên cứu mới về kinh tế hộ gia đinh của dân
tộc Mông vùng cao người ta nhận ra rằng, chợ vùng cao của người Mông vùng
Đông Nam Á, trong đó có người Mông vùng cao Lào, lại là mô hình kinh tế
văn hóa có bản sắc đặc biệt, có sức thu hút khách du lịch. Do vậy, nếu biết tổ
chức, thi chợ Mông từ tự cấp tự túc sẽ có cơ hội chuyển sang chợ hàng hóa thị
trường có sức cạnh tranh tốt.
Các nhà nghiên cứu cảnh báo sự cần thiết phải hỗ trợ đồng bào Mông
phát huy kinh nghiệm bản địa, gia nhập nhanh vào thị trường địa phương và
khu vực, thì mới là động lực kích cầu trước các nguồn cung từ bên ngoại xâm
nhập vào các bản làng vùng cao.
Cùng với đó, nghề dệt cũng là nét văn hóa truyền thống độc đáo bởi bàn
tay tài tình của người phụ nữ. Trước kia phụ nữ Mông rất giỏi trồng, làm sợi và
dệt vải lanh. Thật sự vất vả và cầu kì tới mức người phụ nữ Mông cặm cụi suốt
đời để có được cây lanh dệt vải để làm ra trang phục thường ngày và các lễ hội.
Do đó phụ nữ Mông được đánh giá cao về sự khéo tay, vẻ đẹp và đức hạnh qua
thêu dệt hoa văn trên vải lanh. Và đây cũng là tiêu chí để con trai chọn con gái
Mông làm vợ. Hiểu được điều nay, người mẹ Mông chuẩn bị kĩ lưỡng cho con
gái minh kĩ năng dệt hoa văn, chuẩn bị của hồi môn và quà tặng cho gia đình
nhà chồng. Ngay từ khi bé gái 6, 7 tuổi đà được mẹ rèn rũa và chuẩn bị công
việc này, đến khi lấy chồng phải có 8 - 12 chiếc váy làm của hồi môn được gia
đình nhà chồng kiểm tra công khai trong đám cưới đón dâu.
43
Về mặt sinh hoạt vật chất người Mông quan niệm đơn giản, không cầu
kỳ, không quá lụy vật chất. Quẩy tấu là phương tiện duy nhất để gùi của cải,
châu báu… của gia đình. Đây là chiếc giúp phổ biến ở các dân tộc miền núi
vùng cao, rất tiện lợi cho việc mang vác trên các địa hình dốc. Ngoài ra họ còn
biết đan rổ, rá, thúng, nong, nia để đựng lương thực thực phẩm.
Trong gia định người Mông quan trọng nhất là chiếc cối xay do họ tự
làm lấy để xay ngố, giã gạo. Người Mông rất ưa dùng chảo hơn là xong nồi vì
rất phù hợp với các bếp lò tập trung nhiệt cao và lan tỏa nhiệt là ấm và khô
trong căn nhà của học. Không chỉ thế, người Mông quen dùng đồ gỗ như muôi,
thìa, chậu bằng gỗ, đọc đáo nhất là chậu gỗ ngâm chân sau mỗi ngày lên nương
rẫy vất vả.
Hiện nay, cùng với sự phát triển khoa học kĩ thuật, đã dẫn đến sự biến
đổi trong sản xuất của người Mông, đó là việc thay đổi cơ cấu mùa vụ (tăng
cường thâm canh), áp dụng máy móc nông nghiệp vào sản xuất, thay đổi một
số kỹ thuật canh tác và một số giống cây trồng vật nuôi theo hướng tăng các
giống cây trồng, vật nuôi lai tạo cho năng suất cao. Người Mông đã biết sử
dụng cày 51, dùng bừa răng sắt. Các máy móc nông nghiệp đã bắt đầu được
người Mông sử dụng, nhất là máy tuốt lúa đạp chân, sát ngô, khoai, sắn, máy
bơm nước mini, máy điện chạy bằng nguồn nước sông suối địa phương. Theo
đánh giá chung, tại nhiều địa phương, đời sống và khung cảnh nông thôn núi
cao đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng khá giả hơn về vật chất và
tinh thần.
2.3.3. Đời sống xã hội
2.3.3.1. Các quan hệ trong gia đình và dòng họ
Do vai trò lao động nặng nhọc chủ yếu thuộc về người đàn ông, cho nên
quan hệ gia đình phụ quyền vần là phổ biến trong các công đồng người Mông.
Ngày nay cũng có những tín hiệu tiên bộ trong các gia đình phụ quyền do hiểu
44
biết của vợ con đều là những người được đi học, ít nhất cũng hết tiểu học hoặc
trung học cơ sở. Người già rất được tôn trọng trong các bản Mông. Chẳng vậy
mà người mông răn dạy con cái bằng những châm ngôn đầy tính nhân văn:
"hông nghe lời người già ba lần sẽ khó, nghe lời người già tốt hơn nghe lời
thầy bói”.
Mỗi bản Mông thường có một vài dòng họ chung sống cạnh nhau. Vai
trò quan trọng là người trưởng họ do có uy tín, am hiểu phong tục tập quán và
luật tục cũng như luật lệ làng bản. Mỗi lần có phát sinh vấn đề gì, các gia đình
đều đến tham vấn trưởng họ, nhất là trong vấn đề ma chay, cưới xin. Trong một
dòng họ bao giờ cũng có một người trưởng họ, là người đứng đầu dòng họ, có
uy tín trong cộng đồng và am hiểu phong tục tập quán cũng như luật tục, được
dân làng thường đến hỏi ý kiến trưởng họ, nhất là trong việc tang ma, cưới xin,
làm nhà, lập thổ...
Rất lí thú là tục thờ cúng ma của người Mông có tính liên quốc gia. Với
người Mông không có ma riêng cho người Mông. Từ đó cũng nảy sinh tình
cảm của người Mông với thế giới tâm linh. Riêng việc cưới được bản Mông coi
là việc chung, mỗi người trong bản đều góp phần vật chất theo thông lệ tùy
theo sức của mình. Cách xưng hô rất tự nhiên và đơn giản nhưng định danh lại
rất cụ thể. Thanh niên nam nữ chưa có gia đình thì gọi là “ai bào” định danh là
chưa vợ, chưa chồng. Người có gia đình thì ngâm định băng "bạc e" như thằng
cu / cái đĩ. Những ai chưa có con thì được gọi là phò pàu / mẹ pàu, tức là bố có
“phò pàu-mẹ pàu” (bố không, mẹ không).
2.3.3.2. Làng bản và mối quan hệ trong làng bản, quan hệ xã hội
Bản của người Mông là đơn vị cư trú nhỏ nhất của cộng đồng người
Mông, mỗi bản có từ vài nóc nhà trở lên, nhiều có thể lên đen 40-50 nóc.
Người Mông gọi bản của mình là “Zog” mỗi Zog có một người đứng ra để tổ
45
chức các việc chung riêng trong cộng đồng gọi là tsử zog. Tsử zog là người có
tiếng nói nhất trong bản được già bản và được nhân dân tín nhiệm. Người
Mông sống rất mộc mạc, chân chất và đánh giá cao tình cảm cộng đồng, Sống
trong môi trường thiên nhiên vùng cao khắc nghiệt, nào là giá rét về mùa đông,
lulụt, sạt lở về mùa hè, dịch bệnh thương bùng phát, các bàn hẻo lãnh vùng cao
vùng sâu không có điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế cấp cứu. Trong bối cảnh đó
để sinh tồn người Mông rất trọng tình cảm cộng đồng, dựa vào nhau mà sống.
Cho nên chúng ta thương biết đến các châm ngôn phổ biến của người Mông“gỗ
một cây rào dậu không kín”, “con cá nhỏ bằng ngón tay út cũng chia đôi”.
Nhận thức được điều này, chính quyền nhân dan các địa phương triển khai rộng
rãi phong trào xây dựng nông thon mới với nhiều tioeeu chí quan trọng như xây
dựng làng bản sạch đẹp, thắm tình nghĩa anh em không chỉ người Mông trong
bản mà cả với các dân tộc anh em cư trú trên cùng địa bàn hoặc những vùng núi
láng giềng gần gũi trong khoảng đủ tương tác trong lúc cần thiết. Một nếp sống
văn hóa rất cảm động là trong nhà có người chết, người nhà bắn ba phát sáng
lên trời, ngay sau đó anh em bà con trong bản xa gần đã có mặt để hỗ trợ, ai
vào việc đó, nhịp nhàng trong yên lặng nhưng sâu thẳm trong trái tim của họ là
những việc cần làm cho đời và cho mình, khơi dậy trong tâm thức đầy sức sống
của người Mông.
2.3.3.3. Phong tục - tập quán trong sinh hoạt, cưới xin, ma chay
- Phong tục trong giao tiếp, ứng xử:
Người Mông luôn đề cao các giá trị tình cảm. Họ luôn cân nhắc tránh
xung đột và các hành động có khả năng gây ra khó chịu về tình cảm. Lời chào
truyền thống của người Lào được gọi là ‘wai”. Điều này liên quan đến việc khi
chào, người chào đặt hai lòng bàn tay với nhau ở ngực mức độ như thể cầu
nguyện và nghiêng đầu của bạn. Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với người
46
được chào hỏi. Người Mông rất nhẫn nhịn: “chín lần nhịn sẽ được thỏi vàng”,
rất kị cách xử thế “ăn cho thỏa đói, nói cho thỏa giận”.
- Phong tục cưới xin:
Chế độ một vợ một chồng của người Mông, cũng giống như các dân tộc
khác hôn nhân cũng tiến hành thành ba giai đoạn chính: Dạm ngõ, lễ ăn hỏi, và
lễ cưới. Cùng với sự phát triển hội nhập, tục cưới xin của dân tộc Mông luôn có
nét riêng biệt tạo nên nét đẹp về văn hóa dân tộc Mông. Đó là tục nam n ữ yêu
nhau, hẹn nhau nhưng ngầm hiểu để chàng trai đến nhà bắt cóc con con gái làm
vợ. Sau vài ngày nếu người con gái đồng ý thì bố mệ làm lễ ăn hỏi dạm ngõ và
xin cưới. Nếu cô gái không đồng ý làm dâu thì trở lại nhà bố mẹ mà không hề
hán gì.
Lễ cưới mới là nét đẹp văn hóa Mông với các bộ quần áo cô dâu màu sắc
sặc sỡ, kèm theo của hồi môn như hòm, chăn màn, quần áo; Tiệc cưới diễn ra
vui vẻ, ca hát và uống rượu và ca hát ngày đêm.
Cũng có một tập tục hiện hữu của người Mông là tục ở rể. Sau cưới,
chàng rể phải sang nhà cô dâu làm lụng vai ba năm, khi có con mới được quay
về nhà bố mẹ đẻ của mình.
Ngày nay đám cưới Mông cũng hiện đại hơn. Có nhà quay video. Hát
karoke khiêu vũ khá hiện đại. Tiệc cưới diễn ra trong các rạp màu mè lòe loẹt,
cỗ bàn bên cạnh món truyền thống như mèn mén, súp hỗn hợp các loại thịt trâu,
bò lợn, dê... Gần đây nhiều địa phương đã tổ chức các dịch vụ đám cưới khá tiện
ích và hiện đại với việc thuê trọn gói ăn uống, đưa đón dâu, dịch vụ văn nghệ.
- Phong tục Ma chay
Trong tâm linh của người Mông luôn tâm niệm sống làm người, chết
làm ma.
47
Cuộc sống con người ngắn ngủi, do vậy phải sống thân thiện, quí gia
trọng trể, chân thành và cởi mở. Khắc với người Mông bên Trung Hoa, học
được giao dục bằng hệ tư tưởng tam giáo : Không tử, Lão tử, Tôn tử bằng các
công thức chặt chẽ như trung hiếu tiết nghĩa. Người phụ nữ tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử... Quá trinh thiên di về phía nam, người Mông
đã tiếp biến văn hóa với cư dân vùng đất mới đến. Tuy có một số biến đỏi cho
phù hợp với nơi ở mới, nhưng nhìn chung người Mông vẫn duy trì phong tục
ma chay rất độ đáo.
Phong tục phổ biến của người Mông là giữ xác chết vài ngày, tối đa 5
ngày chứ không chôn ngay. Với những người chết bất đắc kì tử xa nhà xa bản,
thì xác chết được đặt ngoài trời. Tuy nhiên đồng bào tâm niệm rằng nếu xác
chết mà cho vào quan tài luôn thì dòng họ ấy sẽ có nhiều người chết theo dòng
họ không lớn mạnh được và sẽ tàn lụi. Người Mông chỉ đào huyệt và ghép
quan tài ngoài rừng rồi mới vào quan. Họ hàng xa gần và bà con trong bản đến
viếng đều mang theo gạo hoặc ngô, rượu trắng... Họ tiễn đưa người chết bằng
đổ rượu lên mặt người chết và tung 2 thẻ tren âm dương cầu mong người chết
chấp nhận và cứ thế lặp lại cho đến khi nhận tín hiệu đồng ý từ người chết.
Nghi thức đám ma cũng rất phức tạp, gồm ba nghi lễ : Lễ Ngựa / Lễ mổ
trâu / Lễ đua ma ra đồng. Lễ Ngựa được bắt đầu bằng treo xác người chết giữa
nhà trên hai thanh gỗ pơ mu và những giây rợ chắc chắn, buộc một con gà cùng
một con giao hàm ý cho người chết mang theo.
Lễ mổ trâu là lễ thứ hai, tùy theo các hộ giàu nghèo, nhưng dù sao họ cố
gắng mổ trâu lợn hàm ý giao cho người chết và làm cỗ cho những người đến dự
đám tang ăn uống. Lưa đưa ma ra đồng được thày Mo sắp đặt. Người chết được
chôn cất sang săm khi mặt trời chưa mọc hoạch chiều muộn khi mặt trời đã lạn.
Người chết được giao nhận một số đồ dạc tùy thân cộng với các xâu tiền vàng
hàm ý làm của mang theo về bên kia thế giới. Tùy theo chết già hay chết trẻ mà
người chết được đua qua cột chính hay cột phụ để ra cửa chính hay cửa phụ.
48
Mọi việc đều do thầy mo điều khiển. Sau hạ huyệt mọi người ra về không theo
đường cũ lúc đưa ma đi. Sau 12 ngày thầy Mo làm lễ để mới người chết về
tham nhà lần cuối cùng, và không được quay về nữa để quấy n hiếu gia đình.
Người chết vĩnh viễn ra đi, mọi người không nhắc đến họ nữa vì người Mông
cho rằng họ đã cũng tổ tiên, hàm ý cũng đã có linh hồn người đã khuất. Khi có
lễ hội lớn hoặc gia đình có người hay đau ốm thi mời thầy mo đến cúng cầu
may và gọi hồn người chết về thăm nhà.
2.3.4. Lễ tết
Là sự kiện văn hóa lớn của các dân tộc phương Đông như Trung Hoa,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, lễ tết được tổ chức trong dịp chuyển tiết trời
từ mùa đông giá lạnh sang mùa xuân ấm áp. Người dân phương Đông đón mùa
xuân bằng sự kiện lễ hội để tiễn năm cũ xui xẻo sang năm mới với nhiều kì
vọng tốt đẹp. Người Trung Quốc thường trang trí nhà cửa bằng đèn lồng, đốt
pháo hoa, múa sư tử. Cúng Tết được tiến hành với các thủ tục linh thiêng như
làm mâm cỗ tết thịnh soạn, hương khói thơm lừng. Chủ nhà làm lễ khấn vái
mời thần linh thổ địa tổ tiên về chứng giám, thụ hưởng những gì con cháu kính
phúng. Người già bận quần áo đẹp. Trẻ con được bố mẹ may quần áo mới.
Ngày ba mươi tháng chạp là lễ tất niên. Đêm ba mươi là lễ cúng đón giao thừa,
Sang mùng một được gọi là Nguyên đán... Không khí từng gia đình vui vẻ, rộn
ràng. Mùng hai mọi người về thăm quê ngoại. Mùng Ba tết là làm lễ hóa vàng
để tiễn thần linh, tổ tiên về cõi vĩnh hằng. Sau đó người nông dân ra đồng sản
xuất, công chức về cơ quan làm việc. Suốt tháng Giêng nhiều người đi du lịch,
vãng cảnh thiên nhiên, chùa chiền, miếu mạo...
Tóm lại lễ Tết phương Đông là đỉnh cao của sinh hoạt văn hóa.
Là thành phần văn hóa phương Đông, cũng như các dân tộc Lào khác,
người Mông coi lễ Tết là sự kiện lớn nhất trong năm âm lịch, chỉ có điều người
Mông đón tế sớm hơn một tháng âm lịch, tức là ngay 30 tháng mười một, diễn
49
ra đến hết mùng 5 tháng Chạp. Nét nổi bật là trang phục tết của phụ nữ
Môngvới nhiều màu sắc sỡ của các bộ váy truyền thống, xập xòa trong nắng
xuân. Trang phục tết của đàn ông Mông đơn giản hơn, quần đen, ống xòe, thắt
lưng viền hoa và bộ cũng bạc lang lanh. Nhạc cụ tiêu truyền thống của người
Mông là khèn Mông được cất lên từ khắp các bản Mông trên các triền núi cao.
Trên mảnh đất rộng và bằng phẳng các bản Mông tổ chức các trò chơi truyền từ
các đời, đó là ném pao, đánh quay, cầu lông, bắn nỏ, đánh tu lu, kéo co, đánh
gậy, ném còn... Mỗi lần diễn ra trò chơi như vậy tiếng khèn réo rắt cùng tiêng
lãnh canh của vòng bạc, lắc bạc lại vang lên. Tết cũng là nơi trai gái gặp gỡ
giao duyên để trở thành đôi lứa nên vợ nên chồng. Giống như ở Việt Nam ngày
tết của người Mông diễn ra với nhiều sắc thái độc đáo như lễ hội chợ tình Khau
Vai, Bắc Hà (Hà Giang), Mộc Châu (Sơn La), Sa Pa (Lào Cai). Trong phong
trào xây dựng nông thôn mới các bản Mông coi lễ Tế là sự kiện văn hóa đoàn
kết các dân tộc, chung tay xây dựng đất nước nhanh chóng thoát nghèo, để tiến
lên một nước Lào văn minh hiện đại.
2.3.5. Thờ cúng
Thờ cúng là một hình thức sinh hoạt tâm linh của người Mông, đặc biệt
là cúng các loại ma nhà. "Ma nhà" (xưv cangz) là vị thần linh quan trọng nhất,
cai quản của cải, tiền bạc, phù hộ gia đình, giữ gìn tại gia các hồn người "Ma
cột chính" (cundêx đangz). Đây tục thờ "ma lợn" - tượng trưng cho sự hưng
thịnh, liên quan đến sức khoẻ và vận mệnh của mỗi người trong gia đình. Mọi
người luôn phải kiêng tránh, giữ gìn cột chính, người lạ không được dựa vào
cột, không được treo bất kỳ thứ gì, không gõ đập vào cột v.v.. "Ma cửa" (khaor
trôngx plangl) là vị thần linh chuyên việc canh giữ cửa, ngăn ngừa các ma ác
vào nhà, bảo vệ gia súc, của cải, linh hồn, giữ gìn không cho các hồn người bỏ
đi. Khi nào gia súc, gia cầm mắc bệnh là vì do "ma cửa" bị ngã. "Ma buồng"
liên quan đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, phát triển đàn gia súc. "Ma bếp lò"
liên quan đến việc sinh nở. "Ma bếp lửa" là vị thần tiêu diệt các ma ác...
50
Ngoài ra trong cộng đồng người Mông còn tồn tại tín điều Sa man, một
hình thức tôn giáo khá đặc biệt vì hành đạo của giáo phái này là những người
chuyên hành nghề chuyên nghiệp, thường gọi là thầy sa man. Thầy sa man là
người được xem có khả năng phù phép, lên đồng trực tiếp giao tiếp với thần
linh. Họ biết bói toán thần bí, nghi lễ tôn giao, và xa hơn, người ta tin răng thầy
sa-man biết giúp người mất của tìm lại tài sản của mình.
2.3.6. Văn hóa trong hoạt động sản xuất của người Mông
Người Mông ở Lào luôn lấy nông nghiệp trồng trọt là chủ yếu, có sự bổ
trợ của chăn nuôi, thủ công nghiệp gia đình và hái lượm. Mặc dù thời tiết, chế
độ thuỷ văn và địa hình núi, đặc biệt là núi đá khó khăn, người Mông sớm biết
đến những kỹ thuật canh nông ở trình độ khá cao. Trong canh tác, người Mông
tuân thủ các quy trình chung như mọi cư dân nông nghiệp khác, nghĩa là cũng
bắt đầu từ việc chọn đất, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.
Người Mông có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Về cây
trồng, người Mông đã lựa chọn cho mình nhiều giống cây trồng khác nhau, phù
hợp với điều kiện môi trường sinh thái. Dưới ruộng họ trồng lúa, trên nương họ
trồng ngô và lúa nương. Ngoài ra, còn trồng xen kẽ các loại bầu bí và cây gia
vị. Nhìn chung, các loại cây trồng của người Mông thể hiện sự đa dạng sinh
học cao; đây cũng là đặc điểm chung của cư dân nông nghiệp vùng cao.
Ngoài các cây lương thực, thực phẩm chính trên, người Mông còn trồng
thêm các loại: khoai sọ trồng tháng Giêng theo ngô; bí đỏ trồng theo ngô; ớt,
dưa chuột trồng theo ngô. Người Mông có kinh nghiệm dự đoán thời tiết sản
xuất. Ví dụ, khi thấy trong tháng Giêng, Hai có mưa (lòi nà theo giầu) thì trồng
ngô; khi cây bưởi (pạ), cây mơ tông (một loại cây trong rừng), hoa gạo (pàn
thềnh) bắt đầu nở hoa, con chim kỉ giàng kêu thì trồng ngô; khi thấy hoa sắn
(vắn tông) thì bắt đầu trồng lúa.
51
Trong canh tác nương rẫy, người Mông có kinh nghiệm chọn nương khá
độc đáo. Kinh nghiệm dân gian của họ là: nương phải dại nắng, không quá dốc;
đất làm nương thường là nơi có nhiều cây mọc tốt như nứa, vầu, giang,.. ; đất
đen, tơi xốp thì hợp với trồng ngô. Nếu là đất có pha cát thì trồng khoai; đất
màu vàng thì khai phá làm ruộng. Theo kinh nghiệm lâu đời của người Mông,
đất thịt là để trồng cây lương thực; Khi đã chọn được khu đất để phát nương,
đồng bào đánh dấu tại bốn góc nương, đặt tại mỗi góc một cây “neo” bằng cách
chặt một cây để cao khoảng 1,5 m, chẻ đôi chỗ chặt đó kẹp vào đó một mảnh
nứa hoặc giang mới đẻ làm dấu, người khác nhìn thấy ám chỉ đó thì biết mảnh
đất đã có chủ.
Việc phát nương rẫy được tiến hành vào mùa khô. Nhân lực phát nương
gồm toàn bộ các thành viên trong gia đình. Đàn ông đảm nhận công việc nặng
nhọc như ngả cây to, phụ nữ trẻ em, người già chặt cành, gom lại thành từng
đống. Sau khi phát nương xong, người ta phơi nắng khoảng 2 hoặc 3 tuần (tuỳ
theo thời tiết), khi các cây bị phát đã khô rồi mới đốt. Để tránh cháy rừng, trước
khi đốt, người Mông thường làm đường cản lửa bằng cách tạo ra các khoảng
trống quanh nương rộng khoảng 2 m. Đốt nương vào lúc chiều tối, đốt lửa từ
chân nương đốt lên.
Người Mông có nhiều kinh nghiệm làm đất và gieo trồng. Nếu là đám
nương phát năm đầu tiên, thì không cày mà đốt xong chỉ cần cuốc hố là gieo
trồng. Với những đám nương canh tác từ năm thứ hai trở đi, thì phải dùng cày
bừa để làm đất, biến thành nương cày. Đối với nương có độ dốc thoải cao, họ
dùng trâu hoặc bò để cày vỡ đất, nhưng không tạo thành luống mà tạo hết
đường cày này tới đường cày khác theo độ dốc từ dưới chân nương lên; đất cày
xong dọn sạch các gốc cây cũ, gốc cây cỏ, sau đó có thể cuốc hố tra hạt. Đối
với các nương đá không thể cày dược, họ dùng cuốc, dao … để xới đất, dọn
sạch cỏ cây trong các hốc đá để tra hạt.
52
Người Mông rất chú trọng việc chọn giống cây trồng. Theo kinh nghiệm
lâu đời, lúa, ngô hay các loại cây khác cũng vậy, nếu mảnh nương hoặc khu
vườn nào cây tươi tốt cho hạt to, sai hạt sẽ được khoanh lại để làm giống. Thời
gian chọn giống lúa nương hoặc lúa ruộng thường chọn vào vụ gặt, giống lúa
tốt là hạt chắc, mẩy, khi gặt bó thành từng cụm phơi khô để riêng một nơi trên
gác hoặc treo trên xà nhà. Đối với giống ngô, họ chọn loại bắp to, hạt đều khi
thu hoạch để cả lớp vỏ ngoài phơi khô rồi buộc túm các bắp lại với nhau thành
từng bó nhỏ treo trên gác bếp để tránh mọt. Với các giống đậu thì chọn quả to
hạt chắc, phơi khô sau đó tách lấy hạt, cũng có gia đình không tách mà để cả
quả rồi lấy ống nứa hoặc ống tre cho hạt giống vào khi gần đầy thì phủ tro bếp
lên trên, miệng ống được đậy kín bằng lá chuối khô. Đến vụ gieo trồng, người ta
lấy hạt giống mang đi tuốt hoặc dùng chân vò từng hạt, làm sạch, loại bỏ các hạt
lép. Đối với ngô, khi tách khỏi bắp đem ngâm nước khoảng một hai ngày cho hạt
no nước, nở rồi mang gieo; nhờ vậy ngô nhanh mọc và tốt. Đối với các loại hạt
cải, rau dền... thường trộn lẫn vào đất hoặc phân bón rồi vãi đều trên nương.
Trong việc gieo trồng, người Mông chủ nhà gieo hạt trồng đầu tiên, sau đó
mới đến các thành viên khác. Khi gia đình chưa gieo trồng thì chưa được phép bán
giống và đổi giống cho người khác.
Gieo hạt trên nương là công việc của nhiều thành viên trong gia đình.
Đàn ông thường là người cuốc hốc, đàn bà tra hạt, bỏ phân còn con cái họ
hoặc những người nhỏ tuổi sức yếu hơn thì đi sau gạt đất phủ kín các hốc mới
gieo hạt. Các loại hạt trồng xen canh được trộn lẫn vào phân từ trước. Để
chuẩn bị gieo hạt trên nương họ chuẩn bị phân bón khá chu đáo, trước ngày
gieo hạt phân đã được chuyển ra nương, khi bón phân vào hốc ngô họ dùng
gùi vận chuyển, dùng tay bốc và cho vào mỗi hốc một vốc.Việc gieo trồng các
loại cây lương thực, thực phẩm của người Mông cũng khá đơn giản. Đối với
các nương đất bằng và khô, họ cày vỡ làm đất nhỏ và gieo hạt ngô đậu vào
tháng 1 đầu tháng 2 âm lịch. Theo tập quán của người Mông, những mảnh
53
nương mới khai phá thì trồng ngô nếp bằng cách dùng cuốc tạo thành các hốc
nhỏ, mỗi hốc tra từ 3 - 4 hạt giống. Khoảng cách giữa các hốc khoảng 50 - 60
cm. Việc gieo trồng thường hoàn thành trong một hoặc hai ngày, không kéo
dài quá lâu với mỗi mảnh nương nhằm đảm bảo cho ngô trổ bông và chín
đồng loạt.
Từ lâu sắn và khoai đã trở thành cây trồng quen thuộc với người Mông.
Mùa trồng sắn bắt đầu từ trung tuần tháng 2 đến hết tháng 3. Cách trồng cũng
bổ thành hố nhỏ, khoảng cách 80 - 100 cm, mỗi hốc đặt một hom (là một đoạn
thân cây sắn) dài khoảng 20 - 25 cm.
Thu hoạch và cất giữ là khâu cuối cùng của chu kỳ làm nương, diễn ra từ
tháng 6, tháng 7 đến tháng 10 (Âm lịch). Trước tiên, người ta thu hoạch các
loại đậu, bí, tiếp đến mới thu hoạch ngô vào đầu mùa khô vì vào lúc này ngô ít
bị mọt ăn trong thời gian bảo quản. Khi thu hoạch, đồng bào thường dàn hàng
ngang tiến từ chân nương ngô lên đỉnh nương, dùng tay để bẻ từng bắp cho vào
sọt gùi về nhà bóc bớt vỏ rồi xếp trên sàn nhà. Ngô được phân thành loại tốt để
sử dụng cho người ăn hoặc gia súc ăn; loại nào xấu thì sử dụng trước.
Văn hóa trong khai thác nguồn lợi tự nhiên:
Hái lượm: Công việc hái lượm rau rừng diễn ra quanh năm, chủ yếu do
phụ nữ và trẻ em đảm nhận. Các loại rau chủ yếu: râu đắng gai, rau dớn, cây
đắng, hoa chuối rừng. Các loại củ: củ nâu, củ mài, củ sắn thường được người
Mông tìm kiếm vào những ngày giáp hạt. Các loại mămg: mămg mai, mămg
vầu, mămg trúc, măng giang dùng để ăn tươi hoặc chế biến thành măng khô,
hoặc ngâm chua ăn dần. Các loại mộc nhĩ, nấm, nấm hương có giá trị kinh tế
cao, thường thu hoạch vào tháng 5, tháng 6. Đồng bào thường dùng nấm, mộc
nhĩ để xào hoặc nấu canh, hoặc đem ra chợ bán.
Về săn bắt, trước kia người Mông có 2 hình thức săn bắt : tập thể và săn
bắt cá nhân. Săn bắt tập thể thường săn các loại thú lớn như lợn rừng, gấu, nai,
54
hươu... với số lượng người tham gia không hạn chế, nhiều khi cả làng cùng
tham gia. Họ phân công nhau mỗi người một việc: đuổi thú, đón lõng... với tính
cộng đồng rất cao. Thịt thú bắt được chia đều cho mọi người; riêng người bắn
thú thì được chia phẩn thủ con thú. Hiện nay, hình thực này đã giảm hẳn do
rừng bị tàn phá nặng nề.
Săn cá nhân thường được tiến hành vào lúc chiều tối hoặc sáng sớm khi
chim thú ăn no hoặc bắt đầu đi kiếm ăn. Thường chỉ là những chim thú nhỏ,
như gà rừng, chồn, hoẵng, thỏ, nhím, sóc... Hiện nay, hình thức này vẫn còn
nhưng không thường xuyên bởi cấm rừng và số lượng thú cũng không còn
nhiều như trước nữa.
2.4. Một số thay đổi về bản sắc văn hóa dân tộc Mông trong giai đoạn hiện nay
Trong những năm gần đây Nhà nước CHDCND Lào đã có những đề án
cụ thế nhằm bảo tồn, giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
và đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đã tác động sâu sắc đến ý thức giữ
gìn bản sắc văn hóa các dân tộc trong tỉnh, từng bước năng chặn tình trạng xem
thường những giá trị của các di sản văn hóa và hủy hoại nó.
Người Mông đã ý thức được sự mai một bản sắc văn hóa của dân tộc sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn vong của dân tộc và phát huy trong điều kiện hiện
nay. Tuy nhiên, từ mong muốn đó đến thực tiễn đòi hỏi cc bộ tộc Lào phải đối
diện giữa truyền thống và đổi mới, dám tiếp nhận và đổi mới - tiếp biến văn
hóa là cả những thử thách gian nan vất vả, trải qua đấu tranh giữa cái mới với
cái cũ. Hơn thế, trong điều kiện toàn cầu hóa, các tộc người nói chung và người
Mông nói riêng còn phải đối mặt với làn sóng văn hóa từ bên ngoài xâm nhập
trên nhiều khía cạnh của cuộc sống, chỉ riêng quyết tâm giữ gìn cũng không đủ,
mà người Mông phải dũng cảm tiếp thu cái mới, quyết tâm phá bỏ cái cũ, đôi
khi trái ngược ngay với truyền thống của mình.
55
Trước hết là gìn giữ nét đẹp của ngôi nhà truyền thống mát vào mùa hè,
ấm áp vào mùa đông. Xung quang nhà được xếp đá là hàng. Đây là nét riêng
chỉ có trong kiến trúc nhà ở của người Mông. Tuy nhiên, những nếp nhà truyền
thống đó có xu hướng cải tiến bằng thay thế bằng gạch, ngói, xi măng vừa tiện
lợi, đỡ tốn công, tốn của. Nhưng chính trong ngôi nhà đố đã xuất hiện đồ dùng
sinh hoạt hiện đại, đã làm cho ngôi nhà đó không còn giữ nguyên được nét
truyền thống vốn có của nó. Điều đó chứng tỏ nhu cầu và điều kiện sinh hoạt
cao hơn, hiện đại hơn.
Cùng với đó, một nét đặc trưng văn hóa của người Mông phải kể đến
phong tục tập quán, lễ hội, trong tang ma, hôn nhân của người Mông. Đồng bào
Mông coi đám tang là một lễ hội quan trọng bởi người Mông quan niệm:
“sống gửi thác về”. Chết mới thực sự là được sống một kiếp khác. Họ rất
coi trọng tang ma, tổ chức đám ma rất chu đáo, rất trọng thể. Họ quan niệm
đám tang không phải là một cái gì đó quá đau đớn. Trong đám tang của người
Mông nếu tính theo đơn vị thời gian thì thường tổ chức các nghi lễ trong hai
đến ba đêm. Hay trong hôn nhân (lễ cưới) của người Mông, đây là ngày hội cho
hai họ và cả bản. Như đã nói, dân tộc Mông được mệnh danh là một dân tộc
thích văn nghệ, đàn hát và âm nhạc. Chỉ cần có đám cưới có ông chủ quản (chủ
hôn) mời khách lên mâm rượu và mời hát, thế là đã mở đầu một cuộc hát say
sưa, càng về khuya càng đậm đà và thường những cuộc vui như thế kéo dài tới
vài ba đêm và người Mông rất thích hát, hầu như ai cũng biết hát. Điều này sẽ
mâu thuẫn với Quy chế nếp sống văn minh và hưởng úng phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống ở khu dân cư” thì đám tang xử lý gọn gang,
văn minh. Xét về phương diện kinh tế thì đồng bào đỡ tốn kém rất nhiều,
nhưng xét về góc độ văn hóa đám tang của người Mông có tính giáo dục cao,
giáo dục con người phải yêu lao động, yêu cuộc sống và sống phải đạo với ông
bà cha mẹ… sẽ mai một dần.
56
Một ưu điểm của người Mông nổi tiếng khéo tay hay làm. Việc thêu
thùa, đan lát nhữn bộ trang phục, trang trí y phục ngày thường và y phục lễ hội,
nhất là trang phục nữ giới là ta có thể nhận ra người Mông (trắng, hoa đen…)
trong vô vàn con người khác tộc đang ở chợ, ở lễ hội. Hay những nghề thủ
công như đan lát, làm đồ da, làm giấy bán, rèn mộc… Họ đã rèn nông cụ,
khoan nòng súng và làm những thùng gỗ đựng nước rất tốt. Nghề làm đồ trang
sức khá phát triển. Vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn đều được làm rất đẹp.
Phụ nữ Mông rất thạo việc dệt vải, thêu may, sử dụng sap ong trong sảnh xuất
vải thổ cẩm. Sự khéo tay, thẩm mĩ và tính độc đáo của các sản phẩm thủ cvông
của người Mông cần được chính quyền nhà nước các cấp cũng như mỗi người
dân phải nhậy cảm, nắm bắt xu hướng phát triển mới, để biến thành các giá trị
hàng hóa trao đổi, tăng thu nhập và sản phẩm bản quyền tác giả của đồng bào
dân tộc Mông. Trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi Lào phải nhanh chóng thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, thì mỗi dân tộc đề phải chắt chiu tùng chút một để biến
các giá trị văn hóa thành nguồn lực tăng trưởng kinh tế.
57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Những nội dung nói trên của chương 2 tại Luận văn cho thấy, trong tư
cách là thành viên quan trọng của người Lào Sủng trong cộng đồng các bộ tộc
của nước CHDCND, bản sắc văn hóa dân tộc Mông, từ nguồn gốc bên ngoài đã
tiếp biến và hội nhập với các dân tộc anh em trên đất Lào qua nhiều thế kỉ kể từ
khi định cư trên đất Lào ngày nay. Mặc dù trình độ phát triển chưa cao, song
dân tộc Mông ở nước CHDCND Lào đã được đánh giá là phong phú, đa dạng,
chứa đựng nhiều biểu cảm tâm lý, tình cảm dân tộc, góp phần làm cho nền văn
hóa Lào phong phú đa dạng. Trên khía cạnh khác của vấn đề, người Mông của
Lào cũng không tránh khỏi những nhược điểm do ang tính khép kín, ít trao đổi,
lạc hậu, khó bắt kịp với nhịp điệu đổi mới của đất nước. Đời sống văn hóa vật
chất và tinh thần của dân tộc Mông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tính môi
trường tự nhiên và lịch sử. Tuy nhiên, nhìn về tương lai, dân tộc Mông cư trú ở
vùng núi cao, do tầm quan trọng chiến lược đối với đât nước, sẽ đứng trước
nhiều cơ hội phát triển do có đường lối đoàn kết, bình đẳng và cùng phát triển
của Đảng NDCM Lào và Chính phủ Lào, cùng với việc giũ gìn và phát huy đi
đôi với khắc phục những tập quán lạc hậu, những mặc cảm tựu ti và khép kín.
58
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC MÔNG Ở NƯỚC CHDCND LÀO
3.1 Quan điểm và định hướng về việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc
của nước Lào
3.1.1. Quan điểm
Thoát khỏi giai đoạn kém phát triển đến năm 2020 là mục tiêu và khát
vọng của Đảng NDCM Lào và toàn thể các bộ tộc Lào. CHDCND Lào luôn
xác định: văn hóa các dân tộc là nền tảng quan trọng của sự phát triển đất nước.
Một trong những nhiệm vụ chiến lược là đồng thời với phát triển kinh tế xã hội
không được đánh mất bản sắc dân tộc. Trái lại chính bản sắc văn hóa tốt đẹp
được coi là động lực phát triển bền vũng. Vấn đề ở đây là phải coi trọng các
giải pháp giữ vùng truyền thống đại đoàn kết, mỗi dân tộc trong bộ tộc Lào
cùng sánh vai nhau cùng phát triển. Có nhiều hình thức và biện pháp triển khai
định hướng chiến lược này là phát triển và khai thác có hiệu quả mạng lưới
thông tin truyền thông trên cơ sở mở rộng mạng lưới internet 3G và 4G,
tiến tới 5G. Thông qua đó để mọi người dân, đặc biệt là giới trẻ nhận thức
được vai trò và các giá trị cốt lõi của lịch sử và nền văn hóa đa sắc tộc trở
thành các yếu tố tăng trưởng và phát triển đất nước. Thực tế cho thấy đồng
bào các bộ tộc Lào rất hưởng ứng các chủ trương chính sách này và họ đã
có nhiều hoạt động sáng tạo để biến các giá trị văn hóa lịch sử trở thành
nhân tố phát triển bền vũng.
3.1.2. Định hướng phát triển
Để đưa đất nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2020, trước hết là để thoát khỏi tình trạng kém phát triển thì phải bắt đầu
59
từ đâu, hay nói cách khác đột phát triển từ đâu. Đó là giải pháp đột phá từ tài
nguyên con người Lào.
Lào có nguồn nhân lực ở tuổi lao động cũng khá lớn, lại đang tăng mạnh
và nhanh hơn mức tăng của mức tăng chung của cả nước.
Căn cứ tháp dân số của Lào, giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" sẽ diễn ra
sau hai chục năm nữa, và như vật ở giai đoạn tiền dân số vàng, Lào vẫn cần gia
tăng dân số mạnh hơn để một mặt tăng thêm nguồn lao động, mặt khác tăng
“cầu” tiêu dùng của thị trường nội địa, mà đây lại là yếu tố quan trọng nhất đối
với các nước có số dân quá thấp, không đủ để tạo lập một thị trường trong nước
đủ để tự chăm lo cho mình trước khi tiếp nhận các nguồn đầu tư từ nước ngoài.
Vấn đề này liên quan trực tiếp tới dân số các tộc ít người nói chung và vùng
cao nói riêng như đối với dân tộc Mông vùng cao trước thực tế là Lào là một
quốc gia thống nhất gồm 49 tộc người, nhưng gần 40% là các dân tộc thiểu số
vùng cao trong khi địa bàn cư trú của họ có tiềm năng về kinh tế nhưng chưa
được khai thác tốt.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Kai Son Phom Vi Han về vấn đề dân tộc
và đoàn kết các dân tộc, những năm qua, Đảng và Nhà nước Lào đã ban hành
nhiều nghị quyết, chỉ thị, nghị định, quyết định cùng với nhiều văn bản qui
phạm pháp luật để cả nước từ trung ương xuống địa phương và cơ sở quan triệt
các quan điểm, mục tiêu chiến lược của trong vấn đề dân tộc của Đảng NDCM
Lào là các dân tộc hưởng quyền và lợi ích bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển
vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước Lào, đất nước yên bình, an
ninh, chủ quyền được giữ vững, không để cho các thế lực chia rẽ khối đại đoàn
kết các bộ tộc Lào.
Từ cách đặt vấn đề nói trên, Chính phủ Lào đã cụ thể hoá hành động cụ
thể đồng thời đề ra các biện pháp cụ thể để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
miền núi và miền xuôi, mà về thực chất là nâng cao trình độ phát triển về kết
60
cấu hạ tàng kinh tế-xã hội, mức sống và môi trường sinh thái được cải thiện
một cách rõ nét. Đến nay đã xây đường, trạm y tế, trường tiểu học, trường phổ
thông nội trú được hình thành ở cấp tỉnh, huyện tới cụm xã. Hệ thống trạm y tế
được xây dựng tới tận cơ sở. Thực hiện tốt chiến lược đưa đòng bào vùng cao,
ở đây là các bộ tộc Lao sủng, tiến kịp miền xuôi Chính phủ Lao cần tiếp tục
quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
Lào tại các địa bàn chiến lược, đặc biệt là tại các địa bản nhạy cảm về an ninh,
quốc phòng và nhiều vấn đề khác có liên quan đến các thế lực bên ngoài, vấn
đề xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức quan trọng, trong đó ưu tiên số một là phát
triển mạng lưới giao thông vận tải đến các trong tâm xã, phát triển mạng lưới
thủy lợi để cấp nước sinh hoạt và sản xuất, từng bước xây dựng mạng lưới điện
tiêu dùng và sản xuất để nâng cao trình độ văn minh của vùng cao, mở rộng
mạng lưới viễn thông để điều hành các hoạt động của hệ thống chính trị thông
suốt từ trung ương đến các tỉnh và tới tận cơ sở làng bản vùng cao, vùng xã của
dân tộc Mông cũng như các dân tộc khác cư trú vùng cao, gọi chung là địa bàn
cư trú của các bộ tộc Lào Sủng.
Tăng cường hoạt động khuyến lâm, khuyến nông, bằng việc đưa cán bộ
khuyến nông xuống, tăng cường các hoạt động đưa các thành tự mới về giống
cây trồng, vật nuôi xuống các thôn bản, giúp cho bà con các dân tộc biết cách
áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, triển khai các dự án xóa nghèo
bền vũng, trước hết là kiên quyết xóa đói cho các dân tộc vùng cao, tiến tới xóa
nghèo bền vũng bằng việc giao đất, giao rừng, cấp đủ đất để đồng bào có chỗ ở
ổn đinh, sau đó đảm bảo đủ đất canh tác, đất tái định cư cho các địa bàn gặp
khó khăn. Hết sức chú ý công tác phòng chống thiên tai như lũ quét, sạt lở đất,
phòng chống dịch bệnh vật nuôi cũng như đầu tư cho phát triển mạng lưới
trường dân tộc nội trú. Nên nhớ rằng phát triển giáo dục mới là yếu tố then
chốt, bởi vì yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển đất nước là yếu tố con
người, nhằm rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc..
61
Mở rộng dạy nghề, dạy văn hoá, tạo điều kiện cho đồng bào tiếp thu
kiến thức mới để đồng bào tự lực vươn lên xây dựng một cung cách làm ăn
khoa học, một lối sống mới năng động, nhạy bén của những người sản xuất
hàng hoá trong cơ chế thị trường.
3.2. Một số giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
dân tộc Mông của nước Lào
3.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng cho việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Chính phủ CHDCND Lào cần khẩn trương triển khai các biện pháp xóa
đói giảm nghèo bền vững song song với triển khai các dự án phát triển kinh tế
trọng điểm trên cả nước.
Chính phủ Lào cần có chú ý đầu tư phát triển kinh tế xã hội tại các vùng
sâu, vùng xa, trong đó có đồng bào Mông. Theo đó, cần có kế hoạch, đề án đẩy
mạnh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế hàng hoá trong
vùng, bằng các giải pháp cải tạo các diện tích đất xấu nương đá dốc hiện đang
trồng ngô năng suất thấp trong vùng đồng bào Mông sang trồng các loại cây có
giá trị kinh tế cao hơn như cây, trồng cỏ làm thức ăn gia súc, trồng cây ăn quả,
cây dược liệu, cây đậu tương... tuỳ theo khả năng phù hợp với đặc điểm sinh
thái của từng vùng. Ưu tiên cây lương thực, đồng thời phát triển chăn nuôi gia
súc, tạo ra sản phẩm hàng hoá tăng thu nhập bằng tiền của đồng bào từ sản
phẩm có thế mạnh lâu đời như chăn nuôi bò, dê, nuôi ong lấy mật, phát triển
trồng cỏ làm thức ăn cho gia súc, phát triển sản xuất.
Tiếp tục thực hiện chính sách giao đất giao rừng để nhân dân khoanh
nuôi bảo vệ rừng, bố trí tuyển dụng đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở. Khuyến
khích thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật về cơ sở củng cố mạng lưới khuyến
nông tập trung làm tốt công tác hướng dẫn cho đồng bào quen dần với các hoạt
động khuyến nông đổi mới. Những vấn đề bức xúc để thúc đẩy các hoạt động
62
trồng trọt lương thực, các cây công nghiệp và chăn nuôi cũng như bảo vệ và
phát triển nghề rừng cần đầu tư cho cho tưới tiêu, khai hoang phục hoá, giải
quyết đất sản xuất cho nhân dân, nhiệm vụ trọng tâm trong vấn đề nhà ở của
các hộ nghèo là giúp đỡ các hộ xoá bỏ nhà tạm, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
phúc lợi công cộng, chú trọng việc đầu tư trực tiếp cho hộ nghèo theo chương
trình "mái nhà bể nước, con bò, điện sáng" cho hộ đồng bào được trực tiếp thụ
hưởng ổn định cuộc sống.
Tập trung mọi nỗ lực của các cấp các ngành đẩy mạnh phong trào thi đua
giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo, ủng hộ giúp đỡ hộ nghèo, người nghèo một
cách thiết thực, phấn đấu xóa nhà nhà tạm, xóa nghèo kinh niên, giúp đỡ các hộ
trung bình mới thoát nghèo, ổn định cư trú của đồng bào dân tộc Mông. Kết
cấu hạ tầng nông thôn miền núi cần đi trước một bước tho hướng ưu tiên: Giao
thông, nước sạch, điện thắp sáng và việc hình thành các chợ, tạo thị trường kích
thích sản xuất hàng hoá, hạn chế tình trạng di cư tự do xuống phía Nam Lào
như hiện nay.
Chỉ có thể kích hoạt thị trường địa bàn cư trú của dân tộc Mông, trên cơ
sở đó, một mặt phá thế tự cung tự cấp lâu đời, bằng việc đẩy mạnh hoạt động
thương mại, dịch vụ, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nhiều sản phẩm truyền
thống của người Mông có giá trị kinh tế cao, nhưng lại làm thủ công dẫn đến
không có nơi tiêu thụ, hoặc tiêu thụ thì chỉ ở dạng trao đổi nguyên liệu, giá
thành sản phẩm thấp.
Như vậy, để đẩy mạnh mạnh xóa đói giảm nghèo ở vùng người Mông
cần phải làm tốt một số việc sau: Điều tra cơ bản tình hình đất nông nghiệp,
lâm nghiệp, làm sao lãnh đạo xã phải nắm chắc quĩ đất của từng hộ gia đình,
của chung toàn bản, toàn xã. Đây là khâu yếu của đội ngũ cán bộ cơ sở. Có
nắm vững quĩ đất phân tích các điều kiện tự nhiên và tổng kết kinh nghiệm sản
xuất thì mới xác định được thế mạnh, từ đó mới hình thành được cơ cấu kinh tế
63
của từng vùng. Cần có chính sách khuyến khích các sản phẩm truyền thống,
nghề truyền thống của người Mông. Những vùng người Mông có một số giống
quý: Gà đen, thịt vừa thơm vừa bổ, giá trị kinh tế cao, lợn vừa nạc vừa thơm.
Nghề rèn và thêu dệt của người Mông có nhiều sản phẩm truyền thống đạt chất
lượng cao, cần đầu tư để các sản phẩm truyền thống này phát triển rộng khắp,
trở thành hàng hóa chủ lực của người Mông. Tỉnh, huyện nên duy trì các chính
sách ưu đãi như: Hỗ trợ giống, cây, con. Tiếp cận vốn vay thuận lợi, trợ giá thu
mua, tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia kinh doanh
trên cơ sở sử dụng các nguồn tài nguyên và lao động tại chỗ không chỉ vì mục
đích tự cung tự cấp mà quan trọng hơn cả là hướng tới traqo đổi và tích tục tiền
mặt để tiếp nhận các dịch vụ mới, đồng thời khuyến khích đồng bào mở rộng
diện tích gieo trồng và chăn nuôi gia súc. Hơn nữa, cần nâng cao dân trí, đời
sống cho đồng bào dân tộc Mông. Bởi vì, không thể nào chiến thắng được
nghèo nàn, lạc hậu nếu không phát triển giáo dục. Để khắc phục được nhược
điểm đó thì chúng ta cần phải: Mở rộng trường nội trú huyện, bán trú dân nuôi.
Ngoài việc học văn hóa còn phải thực hiện bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở, mở
các lớp bồi dưỡng về kĩ thuật nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, phát triển đội ngũ
cán bộ kỹ thuật là người Mông. Sau trung học cơ sở một số học sinh chuyển
sang trung tâm xúc tiến việc làm của huyện để dạy nghề để nhanh chóng tạo ra
đội ngũ các bộ kỹ thuật. Xã hội hóa triệt để công tác xóa mù chữ cho đồng bào
dân tộc Mông, khuyến khích những người đi học. Cần phải phát huy và mở các
thêm nhiều mô hình bán trú dân nuôi, để thu hút học sinh tới trường. Nên giao
khoán chỉ tiêu cho các bản, các dòng họ để tạo nên sự thi đua giữa dòng họ này
với dòng họ khác. Có chính sách giảm lao động công ích cho những người đi học,
đồng thời mỗi họ nên thành một quỹ riêng để thưởng cho những người đi học
Chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên là người dân tộc Mông. Mở
rộng việc dạy chữ Mông để nhằm tăng thêm tư duy ngôn ngữ, giúp cho người
Mông có điều kiện để vừa khai thác các giá trị vưn hóa tốt dẹp để xây dựng
64
nông thôn mới, đồng thời tiếp biến chủ động và sáng tạo các gia trị văn hóa
mới phương tiện để.
Sống trong điều kiện vệ sinh môi trường khó khăn, nhiều rủi ro do nhiều
bệnh tật có nguồn gốc môi trường nước, đất, không khí, thực phẩm, đồng bào
Mông luôn phải đối mặt với nhiều bệnh tật. Qua khảo sát thì vùng người Mông
thường xuất hiện các loại bệnh như: Nhiễm trùng, giun sán, đau mắt hột, lao
phổi, biếu cổ... Để phòng tránh các dịch bệnh trên thì phải mở rộng mạng lưới
cơ sở cả về số lượng và chất lượng, mỗi xã phải có một y tá, Bác sĩ và phải có
chế độ thỏa đáng cho các bác sĩ ở nhưng vùng sâu, vùng xa. Bằng nhiều hình
thức phong phú, màn chống muỗi, vệ sinh nguồn nước, xóa các thủ tục lạc hậu
cúng bái để chữa bệnh, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, sức khỏe cộng đồng sẽ
được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng sống của người lao động, và nói
riêng của các bộ tộc Lào. Trong triển khai các chính sách xã hội tại các địa bàn
dân tộc Mông phải đồng bộ trên ba mặt (i) Xây dựng cơ sở y tế khang trang,
xanh, sạch, đẹp; (ii) Có đội ngũ thầy thuốc y bác sĩ, điều dưỡng viên cơ sở có
năng lực điều trị và y tế dự phòng (iii) Thể chế phải là ưu tiên hàng đầu thông
qua chính sách bảo hiểm y tế, chính sách với cán bộ y tế cơ sở.
3.2.2. Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi văn hóa dân tộc, đồng thời nâng cao
ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở Lào
Dân tộc Mông có nhiều phong tục tốt đẹp. Những phong tục tập quán ấy
trở thành lệ làng, nhân dân Lào gọi là “hít bản không mường”, được các thành
viên trong bản mường thừa nhận và tự giác thực hiện. Trong bối cảnh giao thoa
và hội nhập hiện nay, nước Lào phổ biến rộng rãi hơn về văn hóa của đất nước
để biến những yếu tố đó thành lợi thế để phát triển kinh tế.
Con đường chủ yếu là thông qua tuyên truyền, vận động, giáo dục,
thuyết phục, qua các buổi sinh hoạt, lễ hội. Do đó trước mắt ngành văn hóa
thông tin huyện cần tập trung chỉ đạo thường xuyên, liên tục mở các đợt tuyên
65
truyền, vận động bằng mọi hình thức nhằm nâng cao nhận thức nhận thức xã
hội về tầm quan trọng cũng như ý nghĩa các giá trị tinh hoa cốt lõi của các
truyền thông tốt đẹp đồng thời cũng phân biệt được đâu là những nhược điểm
của các tập tục lạc hậu để không nhầm lẫn giữa tốt đẹp với lạc hậu. Đây cũng là
nhược điểm trong công tác tuyên truyền triển khai các hình thức hoạt động văn
hóa đôi khi quá đà mà trở thành phản cảm khiến bức tranh văn hóa trở nên
phức tạp và gây cản trở cho các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và an ninh
quốc phòng.
Trong tổ chức thực hiện phong trào xây dựng đời sống mới ở nông thôn
và văn minh ở đô thị cần chú ý tới hai đối tượng hết sức quan trọng, đó là các
già làng, trưởng bản và tầng lớp trẻ.
(i) Trong vận động quần chúng "khéo" thì đây là những nhân tố hết sức
quan trọng việc già làng trưởng bản có hai thế mạnh : kinh nghiệm sản xuất và
tổ chức đời sống làng bản/có uy tín, tiếng nói của họ được mọi người nghe
theo, làm theo, tôn trọng pháp luật và luật tục làng bản đã qui định. Quan điểm
chung là già làng, trưởng bản là vốn qúi, là lớp người không thay thế trong
công cuộc xây dựng nông thôn mới;
(ii) Lớp trẻ bao gồm thanh thiếu niên và lực lượng tiếp thu cái mới nhanh
nhậy hơn cả. Lớp người này nhạy cảm với cái mới, nhất là với các trang mạng
trên internet. Được dạy dỗ và tạo điều kiện tiếp cận cái mới, họ sẽ có đóng góp
lớn cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng lang bản văn hóa mới, đô thi
văn minh.
Trong công tác vận động quần chúng dân tộc Mông phải nhớ là “khéo”
để đồng bào vượt qua mặc cảm tự ti, biết khai thác các giá trị tốt đẹp nhưng
phải nhận ra những tập tục lạc hậu, cổ hủ để từng bước hội nhập hòa đồng với
các dân tộc anh em trong cùng địa bàn, cùng bộ tộc, và xa hơn nữa với các
nước thành viên Cộng đồng ASEAN.
66
Cần triển khai sâu rộng phong trào toàn dân đoàn kết XDĐSVH với xây
dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, bản
văn hóa với nội dung bảo tồn, giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của
các dân tộc. Sử dụng và phát huy triệt để thế mạnh của các phương tiện thông
tin đại chúng (các đài phát thanh - truyền hình, các loại báo chí, xuất bản
phẩm...) hệ thống các thiết chế thông tin, văn hóa.
3.2.3. Đầu tư xây dựng các làng văn hóa dân tộc và mô hình phát triển văn
hóa ở ở vùng có người Mông cư trú
Trong chuyến công tác tại Mô hình Làng văn hóa - Du lịch các dân tộc
Việt Nam, đồng chí Vông chăn Phomsavăt khẳng định sự cần thiết phải nghiên
cứu và vận dụng kinh nghiệm Việt Nam vào điều kiện các vùng dân tộc của
Lào. Điều đó có ý nghĩa to lớn nhằm củng cố tình hữu nghị đặc biệt hai nước
Việt Lào trong công cuộc phát triển bền vững đất nước.
Hiện nay, tại làng bản Mông hỗn hợp Lào - Thái - Việt đang triển khai
xây dựng các mô hình lảng bản dân tộc nông thôn mới văn minh, đậm bản sắc
dân tộc như: bản Phanhoth, huyện Khamkeut, tỉnh Bolikhamxay của Lào đã
được khởi công xây dựng trên diện tích 197 ha. Dự án được thực hiện theo thỏa
thuận giữa ba nước Lào, Việt Nam và Thái Lan. Đối tác tham gia DA này là
tám tỉnh biên giới cùng sử dụng đường số 8B (gồm Bolikhamxay và
Khammouan của Lào; Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình của Việt Nam; Nong
Khai, Sakon Nakhon và Nakhon Pathom của Thái Lan). Mỗi tỉnh sẽ được dành
riêng từ 1-2ha đất để xây dựng các căn nhà truyền thống, câu lạc bộ, công viên,
phòng triển lãm... Các căn nhà truyền thống trong Làng Văn hóa sẽ mô phỏng
các mô hình kiến trúc đặc trưng của mỗi nước, tượng trưng cho các kiểu kiến
trúc, lối sống lâu dời trở thành tạp tục bền chắc của bộ tộc cư trú trong vùng.
Trong thời gian tới, nước CHDCND Lào sẽ tiếp tục triển kai mạnh mẽ
xây dựng nông thôn mới dưới hình thức các làng văn hóa, văn minh, tạo nên
67
bức tranh chung cho nông thôn các vùng miền, cũng có nghĩa là với các bộ tộc
Lào lum/ Lào thơng / Lào sủng...
Đặc biệt, đối với dân tộc Mông - một bộ phận quan trọng của Lao Sủng,
cần tập trung bồi dưỡng và đào tạo cán bộ là con em dân tộc Mông đặc biệt là
trình độ song ngữ cho người Mông. Song ngữ là phương tiện nâng cao dân trí,
đồng thời cũng là sản phẩm của trình độ dân trí. Nhưng ở vùng người Mông
trình độ song ngữ của người dân còn chậm phát triển. Bên cạnh tình trạng mù
chữ, tình trạng mù tiếng phổ thông (tiếng Việt) vẫn là hiện tượng phổ biến.
Trình độ song ngữ thấp đã hạn chế hạn chế việc tiếp thu các yếu tố văn hoá
hiện đại. Và quan trọng nhát là xây dựng môi trường song ngữ là tại các trường
học phổ thông ở các xã, bản.
Vì vậy, phải phát triển hệ thống các trường phổ thông, nâng cao khả
năng song ngữ: tiếng Mông và tiếng phổ thông trong nhân dân. Trong đó, biện
pháp hàng đầu là củng cố phát triển hệ thống giáo dục phổ thông, mở rộng khả
năng giao tiếp văn hoá (cả giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp) qua phương
tiện thông tin và các loại hình văn hoá nghệ thuật. Mặt khác, cán bộ người dân
tộc khác ở nơi khác đến công tác ở vùng dân tộc Mông cũng cần học tiếng
Mông. Có như vậy mới thâm nhập được vào quần chúng, mới thông cảm với
khó khăn của dân trong việc tiếp thu một ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ.
Lãnh đạo dân phải biết nguyện vọng của dân, những tính toán suy nghĩ của
dân. Do vậy, việc biết tiếng dân tộc đối với cán bộ, cấp huyện, cấp xã nói
chung và cán bộ văn hoá nói riêng là điều hết sức cần thiết. Biện pháp lâu dài
và cơ bản là phổ cập tiếng phổ thông ở vùng người Mông đông thời với việc
phst tiển văn hóa và chữ viết riêng cho dân tộc này.
Tri thức dân gian / bản địa của người Mông còn là thước đo trình độ dân
trí, một khía cạnh nền tảng trong xã hội truyền thống với nền kinh tế nông
68
nghiệp nương rẫy, người Mông đã sáng tạo những tri thức đáng tự hào về kỹ
thuật thâm canh trên đất dốc, về nghề rèn, nghề dệt, về kỹ thuật làm ruộng bậc
thang, kỹ thuật trồng ngô dưới hốc đá... Nhưng khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
từ kinh tế nông nghiệp tự nhiên sang sản xuất hàng hóa trồng trọ và vật nuôi
phù hợp với thị trường thì những tri thức mới cần được trang bị. Nhưng những
tri thức này đòi hỏi phải được học tập, phải được truyền bá. Vì vậy, nâng cao
trình độ dân trí người Mông phải chú trọng vấn đề phổ cập những tri thức mới
về văn hoá, khoa học công nghệ, kinh tế thị trường cho đồng bào.
3.2.4. Khảo sát sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá toàn diện các giá trị văn hóa
truyền thống, khôi phục các lễ hội dân gian
Bản sắc văn hoa của mỗi dân tộc trong cộng đồng các bộ tộc Lào đều
mang khác biệt tạo nên tính đặc thù. Chính vì vậy cần vào cuộc của các nhà
nghiên cứu là người dân tộc Mông để khẩn chương tiến hành công việc, nếu
chậm chễ thì có nguy cơ một số lễ hội bị mất đi vì giờ đây chỉ còn có người cao
tuổi mới biết.
Kết quả khảo sát cho thấy nhiều điều đáng lo ngại vì thanh niên Mông
bây giờ không biết các nghi lễ, không thuộc dân ca, thậm trí nhiều nam thanh
niên không biết thổi kèn, nữ thanh niên không biết hát giao duyên, không biết
dệt vải. Đây là một vấn đề rất đáng lo ngại. Bởi vì loại hình văn hóa truyền
thống này hiện giờ vẫn đang chi phối mạnh mẽ tới cuộc sống lao quanh năm,
bó gọn ở vùng núi cao, và khi đó khơi dậy những rung cảm bị kìm nén, tạo nên
sự cân bằng tâm lý, tái tạo khả năng hoạt động của con người. Thì những cái đó
giờ đây dường như phai nhạt dần trong tâm thức của người Mông. Muốn vậy,
phải tiếp tục khai thác, kế thừa các hình thức sinh hoạt như: các lễ hội, hình
thức sinh hoạt văn hóa chợ, hình ảnh chồng say rượu mỗi khi đi chợ về, người
vợ dắt ngựa, che ô cho chồng... Đồng thời, tổ chức biểu diễn liên hoan, hội diễn
69
văn hóa, văn nghệ ở thôn bản, xã, huyện với sự đa dạng các loại hình văn hóa -
văn nghệ truyền thống.
3.2.5. Xây dựng môi trường văn hóa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ văn hóa
Môi trường văn hóa có vai trò quan trọng như là yếu tố chi phối là giao
lưu, trao truyền và tiếp biến văn hóa giữa cá nhân, giữa các cá nhân với cộng
đồng tộc người. Do đó, cần xây dựng các cộng đồng này thành một môi trường
văn hóa lành mạnh, bố mẹ, ông bà tích cực chăm sóc con cháu, vợ chồng sống
với nhau hòa thuận, tình nghĩa, con cái vâng lời cha mẹ, bố mẹ tôn trọng con
cái, từ mua sắm đến cưới xin đều hỏi ý kiến con cái. Đó là truyền thống giáo
dục con cái bằng tình cảm yêu thương, không đánh đập con cái. Song trong
truyền thống giáo dục của gia đình người Mông đôi khi mang tính bản năng,
thụ động, đồng thời bố mẹ cũng có ít thời gian quan tâm đến việc học hành,
giao tiếp, định hướng phát triển nhân cách và trí tuệ của con cái. Trong nếp
sống, gia đình cần xây dựng thói quen chi tiêu kế hoạch, giảm bớt các chi phí
tốn kém cho các nghi lễ, dẫn đến xóa bỏ lễ thách cưới bằng trâu, bò và bạc nén
quá nặng nề, xóa bỏ tục lệ lạc hậu. Do đó, cần xây dựng bản người Mông có
nếp sống văn hóa là việc làm khó khăn phức tạp nhưng rất quan trọng. Vì vậy
cần phải tiến hành theo phương châm kiên trì, thận trọng, chắc, thường xuyên
và liên tục.
Dòng họ là cộng đồng bền vững, chi phối mạnh mẽ tình cảm của người
Mông. Phát huy tình cảm gắn bó anh em trong cùng dòng họ, sử dụng cộng
đồng này có tác dụng giáo dục con cái, duy trì lễ hội của dòng họ. Đồng thời
cũng tránh những tình cảm quá khích, cục bộ dòng họ, bao che những việc làm
sai của người thân.
Phải từng bước đưa dần các chuẩn mực hóa các luật tục, đồng thời tuyên
truyền phổ biến phát luật tới cộng đồng dân cư không chỉ theo lãnh thổ vùng
70
mà tới từng tộc người, thông qua hệ thống các cơ sở giáo dục, các bộ quản lí
văn hóa, và thông qua các hệ thông thông tin đại chúng.
3.2.6. Quảng bá văn hóa bản địa của dân tộc với các nước trong xu thế hội nhập
Theo một quan điểm mới về sức mạnh, một quốc gia có hai sức mạnh cột
lõi là sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Sức mạnh cứng thể hiện sức mạnh
quân sự quốc phòng mà nền tảng của nó là vũ khí, các phương tiện dể tiếnhành
chiến tranh hoặc chiến tranh tự vệ một cách vũng chắc. Sức mạnh "mềm" là sức
mạnh tinh thần dân tộc, sức mạnh của nền văn hóa truyền thống của lòng yêu
nước, đoàn kết dân tộc, và kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm cũng như
kinh nghiệm ứng phó, cải tạo và sử dụng tài nguyên và môi trường. Trong một
thế giới đơn cực các nước lớn thường dùng sức mạnh mềm để chính phục, xâm
lược, đe dọa dùng vũ lực, trong khi họ dùng sức mạnh mềm để thực hiện chính
sach dụ dỗ, ràng buộc để các nước yếu thế hơn phụ thuộc vào các nước lớn.
Thời kì hội nhập diễn ra trên qui mô khu vực và toàn càu, các dân tộc vừa phải
đấu tranh vừa phải hợp tác vì hiểu rằng một khi hội nhập với thế giới trở thành
xu thế bao trùm, thì cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại
giao văn hóa ngày nay đã “trở thành một trong ba trụ cột của ngoại giao toàn
diện, vừa là nền tảng, vừa là biện pháp và mục tiêu của chính sách đối ngoại Lào.
Đương nhiên quan điểm của chúng ta là” ngoại giai văn hóa là trụ cột tinh thần,
ngoại gia kinh tế là nền tảng cho xây dựng cơ sở vật chất trên nền chung của ngọa
gia chính trị là định hướng có tính chiến lược quan trọng nhất.
Ngày nay giao lưu văn hóa đã trở thành nhịp cầu nối liền giữa các quốc
gia, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh về sắc tộc, tôn giáo; đồng thời xây dựng tình
đoàn kết vì hòa bình và phát triển bền vững. Nhận thức sâu sắc điều đó, chúng
ta chủ động triển khai hoạt động ngoại giao nhân dân về chính trị đối ngoại và
văn hóa du lịch trong lĩnh vực văn hóa. Điều quan trọng là phải nhận thức đúng
và biết cách phát huy các mạnh, các lợi thế do Lào có môi trường chính trị ổn
71
định, có dòng sông Me Công dẹp và hấp dân, nhiều lê hội truyền thống, và hơn
hết là tính thân thiện chân chất, cởi mở của người Lào trong ứng xử với khách
và bạn bè quốc tế. Đó chính là lực hút sự quan tâm của nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, các khu di tích đã được UNESCO công nhận
là di sản Thế giới như thành phố Luong Pha Bang; Vắt Phu tỉnh Chăm Pa Sắc ;
Tháp Luong Vieng Chăn. Trong các tìa sản văn hóa phi vật thể, không thể
không khai thác các hình thức văn hóa, nghệ thuật truyền thống như múa Lăm
vông, múa Đọc Chăm Pha.. có hát, hát đọc Chăm Pha, hát Sạ La Văn, khăp
Sầm nưa, Lăm Phu thay, Lăm phơn, Lăm long, Lăm Tắt, Lăm tăng bai…trong
quá trình hội nhập quốc tế, văn hóa đóng vai trò là kênh truyền tải "về hình ảnh
một dân tộc văn hiến, yêu chuộng hòa bình, một đất nước Lào đổi mới, năng
động và không ngừng phát triển".
Hiểu rõ vai trò của văn hóa đối ngoại, Lào đã tăng cường mở rộng các
hoạt động ngoại giao văn hóa tại các địa bàn, trọng tâm là các nước láng giềng
như tăng cường hợp tác với Đại sứ quán các nước tại Lào như Đại sứ quán các
nước ASEAN, đặc biệt là các nước láng giềng gần gũi như Thái Lan, Trung
Quốc, Việt Nam, Campuchia trong việc mở rộng các hoạt động hợp tác phát
triển ngoại giao nhân dân trong lĩnh vực văn hoá, du lịch... với mục đích phát
triển các giá trị văn hoa thành các gia trị kinh tế, để tùng bước nâng cao thu n
hập của người dân, qua đó thay đổi bộ mặt văn hóa đất nước.
Với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quản quản lí nhà nước các cấp, nhất
là ngành ngoại giao và kinh tế văn hóa đối ngoại tiến hành tu bổ các di sản văn
hóa vạt thể như chùa chiền, cảnh đẹp thiên nhiên, đồng thời phát triển giao
thông, bưu chính viễn thông, các cơ sở dịch vụ để thu hút khách du lịch trong
nước và quốc tế. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đối ngoại nói chung cũng như thu
hút đầu tư, viện trợ với các hình thức thông tin, tuyên truyền phong phú, đa
dạng như: Thông qua các đoàn khách quốc tế, các nhà đầu tư đến làm việc tại
72
Lào; các đoàn cán bộ của tỉnh đi công tác, học tập, nghiên cứu, giao lưu tại
nước ngoài thông qua quà tặng, lời mời và các chuyến đi du lịch quảng bá đất
nước. Mặt khác cần cung cấp thông tin hoạt động đối ngoại bằng nhiều hình
thức, nhát là qua kênh ngoại giao để quảng bá rộng rãi các giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể độc đáo và hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý đầu tư phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội đất nước Lào trong các dịp lễ hội truyền thống. Hoạt
động xúc tiến tiến du lịch cần tập trung triển khai bằng nhiều hình thức như
tăng cường các tin, bài trên các trang thông tin điện tử trong và ngoài tỉnh, phát
hành các ấn phẩm, tờ rơi, tờ gấp, băng đĩa hình, tham gia các hội chợ, hội
thảo... Qua đó giới thiệu, quảng bá những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng các
dân tộc của địa phương, các làn điệu dân ca, dân vũ, những danh lam thắng
cảnh đẹp theo các vùng miền.
73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chiến lược giảm nghèo nhanh và bền vững, cùng với tăng cường
đầu tư phát triển kinh tế, nhà nước Lào cần bảo tồn và phát triển các giá trị văn
hóa làng bản của người Lào tại các vùng, đặc biệt tại các làng bản vùng núi cao
địa bàn cư trú của dân tộc Mông, tăng cường giao lưu văn hóa với các dân tộc
anh em, với các nước láng giềng và quốc tế. Quan trọng hơn cả là xây dựng các
điều kiện sống tốt hơn để đồng bào Mông có điều kiện phát huy các giá trị văn
hóa truyền thông tốt đẹp, đồng thời xóa bỏ các tập tục văn hóa cũ lạc hậu để
cùng các dân tộc anh em cư trú ở vùng giữa, vùng thấp chung tay xây dựng một
nước Lào văn minh hiện đại.
74
KẾT LUẬN
Quan tìm hiểu và nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở nước
cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, tôi rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
1. CHDCND Lào là quốc gia có qui mô dân số nhỏ nhưng lại là quốc gia
da bộ tộc. Bên cạnh tính thống nhất văn hóa quốc gia dân tộc, mỗi tộc người
đều có sắc thái văn hóa theo đặc điểm địa hình: vùng thấp / vùng giữa / vùng
cao, tương tứng với nó là người Lào Lùm / Lào Thơng / Lào Sủng. Trong sự hộ
nhập vào nền văn hóa chung của đất nước, mỗi dân tộc đề có những nét văn
hóa riêng, rát đặc thù làm nên sức mạnh đoàn kết trong công cuộc giữ nước và
xây dựng đất nước.
2. Là hệ quả của quá trình di cư từ bên ngoài đến định cư tại vùng núi
cao của Lào, dân tộc Mông vừa mang theo minh nhũng giá trị văn hóa lâu đời,
vừa tiếp biến vóa văn hóa bản địa mà tạo nên văn hóa Lào Sủng, cũng tức là
vao hóa người Lào vùng núi cao (Lào Sủng). Bản sắc văn hóa người Mông ở
Lào rất độc đáo, khiến bức tranh văn hoa các bộ tộc Lào trở nên phong phú và
da dạng về văn hóa vật thể và phi vật thể. Bên cạnh những mặt tích cực, văn
hóa của dân tộc Mông vốn sống khép kín, cần được quan tâm phát huy triển các
giá trị tốt đẹp, cải tạo các tập tục lạc hậu, để cùng các bộ tộc anh em xây dưng
đất nước Lào giàu mạnh.
3. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở CHDCND
Lào cần phải triển khai nhiều giải pháp tích cực mà luận văn đã đề cập tới.
Đồng thời phải nhận thức rằng việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc Mông nói riêng, các dân tộc của nước CHDCND Lào
nói chung phải là một quá trình đồng thời với việc phát triển kinh tế, xã hội, ổn
định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là sự nghiệp
đòi hỏi sự tham gia đông đảo, rộng khắp, sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp
chính quyền nhân dân.
75
4. Để thực hiện tốt quá trình này, Đảng NDCM Lào, Nhà nước CHDCND
Lào, Chính quyền địa phương cần phải có những chính sách kinh tế, chính trị,
xã hội đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng nhằm hướng dẫn,
động viên nhân dân, khơi dậy trong nhân dân lòng tự hào dân tộc để họ tự giác
bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ đó, có
thể đổi mới cách nhận thức, cũng như nâng cao ý thức về vấn đề kế thừa, phát
huy những nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình, cũng như các dân tộc khác.
Tiến tới xây dựng phát triển một nền văn hóa Lào tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững./.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt
1. ALoun Bounmixay (2013), Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống
Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
2. Nguyễn Ngọc Anh (1994), "Dân tộc học với vấn đề nương rẫy", Tạp chí dân
tộc học (số 1), trang 43 - 44.
3. Nguyễn Từ Chi, 1996, Góp phần tìm hiểu văn hóa tộc người, NXB VHTT,
Hà Nội.
4. Lê Sĩ Giáo (1989), “Canh tác nương rẫy, chăn nuôi truyền thống và vấn đề
xây dựng kinh tế hộ gia đình ở miền núi phía Bắc hiện nay”, Tạp chí Dân
tộc, (số 4).
5. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng (1998),
Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục.
6. Lê Mậu Hãn (2011), Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, t.3.
7. Diệp Đình Hoa (1998), Dân tộc Mông và thế giới thực vật, Nxb văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Hương, “Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp
chí văn hóa Nghệ An, tại địa chỉ: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-
goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/mot-so-van-de-ly-luan-ve-ban-
sac-van-hoa-dan-toc, ngày cập nhật 4/ 6/2011.
9. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vương, Lịch sử Việt Nam. H. 1991.
10. Lịch sử Lào (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
11. Luận văn “Đời sống văn hoá của dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hoá học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77
12. Trường Lưu - Hùng Đình Quý (1996),Văn hóa dân tộc Mông, Viện văn hóa,
Sở văn hóa thông tin Hà Giang.
13. Trường Lưu, Huỳnh Đình Quý (1994), Văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang,
Nxb Văn hóa thông tin Hà Giang.
14. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3.
16. Hoàng Khắc Nam, “Quan hệ giữa đẩy mạnh hội nhập quốc tế và bảo tồn bản
sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 60-70.
17. Nguyễn Thị Ngân (2000), Công cụ sản xuất nông nghiệp của các dân tộc
nhóm ngôn ngữ H’Mông, Dao, Công trình nghiên cứu khoa học cấp Viện,
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
18. Hoàng Thị Kim Oanh, Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày ở
Tuyên Quang hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
19. Phạm Hồng Quang (2002), Giáo dục bản sắc văn hóa cho sinh viên sư
phạm, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
20. Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người H’Mông ở Việt
Nam truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin.
21. Hùng Đình Quý (chủ biên) (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà
Giang, Nxb Sở văn hóa thông tin tỉnh Hà Giang, Hà Giang.
22. Somphou Keobouakham, Đặc điểm dân số, dân tộc nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Địa lí học, Trường Đại
học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
23. Trần Hữu Sơn, Văn hóa H’Mông, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội.
24. Xuân Sơn - Phạm Giang (2019), “Lào đặt mục tiêu tăng trưởng 6,7% trong
năm 2019”, Báo Nhân dân điện tử, tại địa chỉ:
http://nhandan.com.vn/thegioi/item/38890302-lao-dat-muc-tieu-tang-truong-
6-7-trong-nam-2019.html, ngày cập nhật 13/01/2019.
78
25. Lâm Tâm (1961), “Lịch sử di cư và tên gọi của người Mèo”, Nghiên cứu
lịch sử, tr.71.
26. Lâm Tâm (1961), “Lịch sử di cư và tên gọi của người Mèo”, Nghiên cứu
lịch sử, tr.71.
27. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
28. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
29. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và biến đổi,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Hà Thu Thủy, Dương Quỳnh Phương, Vũ Như Vân (2012), Các dân tộc
Mông, Dao: góc nhìn đa chiểu từ Địa lí học - Dân tộc học - Lịch sử - Sinh
Thái nhân văn miền núi phía Bắc, Nxb Văn hóa thông tin.
31. Nguyễn Việt Tiến (2014), Một số vấn đề địa lí kinh tế - xã hội và nhân văn,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
32. Trung tâm từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, 2013.
33. Ủy ban quốc gia về về thập kỉ phát triển văn hóa thế giới (1992), Thập kỉ
phát triển văn hóa thế giới, Nxb KHXH, Hà Nội.
II. Tài liệu Tiếng Lào
34. Bộ Quy hoạch và đầu tư, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (2013-
2014), Thủ đô, Viêng Chăn 2013.
35. Bun My ThệpSiMương, tác phẩm tập I, (2006), Sự hình thành của các dân
tộc Lào, Nxb Quốc gia Lào.
36. Cay Xỏn PhômVi Hản (1980), Hai mươi năm lăm chiến đấu và thắng lợi
của Đảng NDCM Lào, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.
37. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội lần thứ VI,
Viêng Chăn.
38. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII,
Viêng Chăn
79
39. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Nội dung Văn kiện các Đại Hội
lần thứ IX của Đảng NDCM Lào, thủ đô Viêng Chăn.
40. Ma Ha Kham Phoun PHI LA VONG (2009), văn hóa và phong tục Lào
41. Tổng cục thống kê đất nước Lào (2015), Số liệu điều tra dân số và nhà ở
của Lào.
42. Trung tâm mặt trận Lào Xây dựng đất nước Lào (2008), Các dân tộc trong
CHDCND Lào.
80
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
CÁC CUỘC DI CƯ CỦA NGƯỜI MÔNG (MÈO)
Jean Michaud
Department of South East Asian Studies
University of Hull, United Kingdom
Ngô Bắc dịch
Từ miền nam Trung Hoa xuyên qua núi non Việt Nam, Lào, và sau cùng
theo hướng nam xuống mãi tận lưu vực sông Chao Phraya của Thái Lan, các
nhóm du canh (swiddeners) người Hmong được thấy di cư hồi cuối thế kỷ thứ
19, đầu thế kỷ thứ 20. Vào lúc nào, và dưới những tình huống nào mà các thành
phần đông đảo của phân chủng của sắc dân Miao (người Mèo) này từ Quí Châu
và các vùng ngoại vi của Quý Châu, đã di chuyển các khu định cư của họ xuống
phần phía nam của Khối Núi Trọng Tâm Đông Nam Á (Massif of Southeast Asia)
lục địa? Họ là ai? Lịch sử của họ ra sao trước khi có các cuộc di cư này? Bài viết
này sử dụng bằng chứng ban đầu để soi sáng vào các nguyên do chính của hành
trình tiến vào các rặng núi của Bán Đảo Đông Dương.
Trong nhiều thế kỷ, ngay cả nhiều nghìn năm trong một số trường hợp
nào đó, nhiều cuộc di cư của con người đã xảy ra tại Bán Đảo. Đa số các nhóm
dân Mon và Miến Điện đã dần dần định cư tại Miến Điện, y như người Thái tại
Thái Lan, người Lào tại nước Lào, và người Kinh ở Việt Nam. Khi định cư như
thế, các nhóm dân hùng mạnh hơn này đã đẩy các kẻ định cư thời cổ như các kẻ
còn sót lại của dân bản xứ đầu tiên, hay người Proto hoặc Deutero-Malays sau
này, hầu hết trong họ là thành viên của ngữ tộc Austro-Asiatic, đi xa hơn hay
lên cao hơn tại Khối Núi Trọng Tâm Đông Nam Á lục địa. Tại điểm này, điều
hữu ích để ghi nhớ rằng tất cả các kẻ định cư vùng cao nguyên ban sơ này, một
cách chính xác, bởi sự đến nơi sớm hơn của họ, đã tạo thành các xã hội hoàn
toàn klhác biệt với người Hmong, nhóm dân mà chúng ta sẽ thảo luận nơi đây.
Trong hơn thế kỷ cho đến nay, và kể từ khi có sự thiết lập của các biên
giới quốc gia hiện đại tại Bán Đảo, chỉ có các cuộc di cư tí hon, hầu như rải rác
từ miền nam Trung Hoa là còn tiếp tục diễn ra. Các xã hội vi mô của các kẻ du
canh, đi theo phần lớn các con đường trên đỉnh núi cao, đã đến Việt Nam, Lào,
Thái Lan và Miến Điện để thiết lập các khu định cư ít nhiều có tính cách
thường trực hơn tại các phần đất cao hơn của Khối Núi Trọng Tâm, cách xa các
xã hội bình nguyên mà họ hầu như không có chung các đặc tính văn hóa.
Các xã hội này, phải nhìn nhận, cũng có các sự khác biệt văn hóa lớn lao
giữa chúng với nhau, đặc biệt trong lãnh vực ngữ học, tôn giáo, và tổ chức xã
hội. Trong số này, Hmong có lẽ là các di dân cận đại nhất tại Bán Đảo. Thực
sư, họ đã đến trong hai thế kỷ vừa qua, xuyên qua nhiều cuộc di cư diễn ra vì
một số các lý do. Như một thí dụ về sự liên hệ lịch sử liên tục giữa các người
dân từ cả hai bên của biên giới phân cách Trung Hoa với các lân bang phía nam
của nó - cả trước khi phe Cộng Sản chiếm lĩnh vùng đất từ 1945, trong suốt các
thập niên của nhà nước xã hội chủ nghĩa, và vẫn còn kể từ khi có sự mềm mỏng
hơn của nó trong các năm gần đây - tôi muốn trình bày một sự tái duyệt các
nguyên do và các hình thức đã được áp dụng bởi chu kỳ di cư đặc biệt này.
1. NGƯỜI MÈO TẠI TRUNG HOA
Chúng ta biết xuyên qua các chỉ dẫn về ngữ học rằng lịch sử cổ thời của
dân Hmong có liên hệ mật thiết với lịch sử của sắc dân Mèo (Miao) hiện nay tại
vùng tây nam Trung Hoa, mặc dù nó hoàn toàn là một câu chuyện khác để giả
định rằng lịch sử xưa hơn của người Hmong cũng có liên hệ với lịch sử của
người “Mèo” trong lịch sử như họ xuất hiện trong các văn bản Trung Hoa cổ
thời. Danh xưng “Miao” (Mèo) trong Hán tự trong một thời gian lâu dài mang
ý nghĩa rộng rãi về chủng tộc và để chỉ nhiều nhóm phi-Hán. Các nhóm này
bao gồm các dân tộc ít người khác được xem là các nhóm bên lề đối với Kẻ
Văn Minh, tức người Hán. Các tác giả Moréchand (1968: 69) và Lombard
Salmon (1972: 111) đã ghi nhận nhiều danh xưng liên hệ. Các văn bản Trung
Hoa thường phân biệt giữa shu Miao [thục Miêu?], hay người Mèo đã thuần
hóa (cooked Miao), với sheng Miao [sinh Miêu?], hay người Mèo còn sống
sượng, thô lỗ (raw Miao), giữa người Mèo đã bị khuất phục và người Mèo độc
lập (cùng nơi dẫn trên: trang 117).
Khi thảo luận về các sự tiếp xúc đầu tiên với người Tây Phương (đặc biệt
kể từ thế kỷ thứ 15) và sản phẩm theo sau của các báo cáo và nhận xét khác
nhau bằng các ngôn ngữ Tây Phương về các dân tộc ít người trên cao nguyên
trong vùng, không có các kết luận xác quyết nào có thể được đưa ra để chứng
thực căn cước thực của nhóm được gọi là người Mèo (Miao) bởi các văn gia
Tây Phương sớm nhất. Để đạt được các kết luận như thế, chúng ta sẽ cần có
nhiều chỉ dẫn về ngữ học hơn, hay, ít nhất, các phác họa đáng tin cậy. Công
việc như thế sẽ đòi hỏi sự cộng tác của các sử gia và các nhà dân tộc học và vẫn
còn phải chờ đợi để được thực hiện. Tuy nhiên, ngày nay không có sự ngờ vực
rằng từ ngữ Miao (Mèo) như nó được dùng tại Trung Hoa và bên ngoài để chỉ
một tập hợp cá biệt mặc dù đông đảo các nhóm dân tộc, tất cả đều cùng một
ngữ tộc mà từ đó người Hmong của Bán Đảo Đông Dương bắt nguồn và có liên
hệ mật thiết. Kể từ 1953, từ ngữ ‘Miao” trong Hán tự áp dụng cho toàn thể dân
số từ nhóm dân tộc Mèo (Miao zu: Miêu tộc) it người. Theo các nhà ngữ học
Trung Hoa, nhóm này bao gồm bốn phân nhóm liên hệ về mặt ngữ học và văn
hóa - mặc dù các ngôn ngữ của họ không được thông hiểu một cách hỗ tương -
được gọi là người Hmong, Hmu, Qoxiong, và Hmau (ghi nhớ rằng các sự ký
âm từ tiêng Hán biến đổi từ tác giả này sang tác giả kia).
Về nguồn gốc địa dư chính xác của người Mèo, vẫn còn nhiều sự ức
đoán hơn là quả quyết. Nhiều văn bản tiếng Hán từ thời triều đại truyền thuyết
thứ nhất, nhà Hạ (Xia) (2207-1766 Trước Công Nguyên) và triều đại lịch sử
nhà Chu (1121-256 Trước Công Nguyên) đề cập đến các cuộc xung đột vũ
trang với một số người “Mèo” tại nhiều phân vực chính yếu ở Quý Châu ngày
nay (Savina 1924: 115-170). Tác giả Lin (1940) có nói đến cùng hiện tượng
trong triều đại nhà Hán đầu tiên (đặc biệt 140-87 Trước Công Nguyên) và trong
thời Ngũ Triều Đại (Five Dynasties) (907-960 Sau Công Nguyên). Trong nhiều
thế kỷ, văn tự biểu ý trong tiếng Hán cho từ ngữ ‘Miao’ biến mất khỏi các văn
bản lịch sử. Nó dường như chỉ được phục hồi dưới triều đại nhà Tống (960-
1279 Sau Công Nguyên), và chính trong thời nhà Minh, sau khi nhà Nguyên đã
thành công trong việc chiếm lĩnh Khối Núi Trọng Tâm, từ ngữ này [Miao] đã
được đề cập một cách thông thường (Lombard-Salmon 1972: 111; Jenks 1985:
39). Tuy nhiên, trong các bản văn đó, vẫn còn sự hỗn độn về căn cước chính
xác của các người mà từ ngữ Miao chỉ định, và chúng ta phải vẫn cẩn thận về
giá trị lịch sử của các sự liên kết ban đầu này.
Giữa các thế kỷ thứ 17 và 18, Trung Hoa đã trải qua một sự gia tăng dân
số quan trọng từ một trăm triệu lên hơn ba trăm triệu người. Với sự trợ lực của
ngô (bắp) nhập cảng từ Mỹ Châu bởi người Tây Ban Nha, vốn không đòi hỏi
đất đai phì nhiêu hay sự dẫn nước tưới tiêu, đa số dân Hán tại các bình nguyên
đã có thể đối phó với áp lực dân số bằng việc trèo lên cao hơn tại các rặng núi
và cao nguyên kém mầu mỡ hơn của Khối Núi Trọng Tâm và định cư ở các nơi
mà trước đó, chỉ có người Dân Miền Núi (Montagnard) sinh sống (Cooper
1976: 30-31). Cùng với việc đánh thuế quá đáng, “cuộc xâm lăng” này đã cấu
thành một trong các nguyên do quan trọng của sự xung đột, với các dân tộc ít
người trên cao nguyên cố gắng giữ lại sự tiếp cận với đất đai chống lại chính
quyền tập trung hóa của người Hán và các nhà cai trị cấp miền. Một số dân tộc
ít người đáp ứng bằng cách chỉ việc di cư lên cao hơn ở các rặng núi của Quý
Châu, Tứ Xuyên, và Vân Nam. Các kẻ khác cầm vũ khí chống lại. Một số nhỏ
rời bỏ Đế Quốc Trung Hoa để tìm nơi ẩn náu tại các rặng núi trống trải, xa hơn
về phía Nam nơi mà sau này được sáp nhập vào nhiều Quốc Gia hiện thời của
Bán Đảo. Trong các chiến dịch quan trọng của các cuộc nổi dậy vào các năm
1698, 1732, 1794 và 1855, người Mèo phân tán theo mọi chiều hướng, phát
khởi các cuộc chuyển động di dân của thời kỳ hiện đại (Wiens 1954: 90) 3.
Điều chắn chắn rằng một số người Mèo đã hoàn toàn bị đồng hóa vào
khối đa số người Hán. Trong số các kẻ vẫn còn độc lập, một mức độ nào đó
của sự hán hóa xảy ra tùy vào cường độ của các sự tiếp xúc và mức độ của sự
đề kháng văn hóa. Tác giả Geđes bình luận:
Các nhóm người Mèo tại Trung Hoa ngày nay có thể hiện mức độ tiệm
tiến của các sự tương đồng với người Trung Hoa về mặt kinh tế, và ở một mức
độ thấp hơn, trong thói tục văn hóa. Nhưng ngay cả trong các trường hợp có
sự tương đồng nhiều nhất, vẫn có cảm thức mạnh mẽ về căn cước cách biệt
được tăng cường đặc biệt bởi không có sự kết hôn hợp chủng. (1976: 11).
Trong các thế kỷ đó của sự tiếp xúc với người Hán, điều có vẻ xác thực
rằng ít nhất một số nhóm người Mèo đã thực hành việc canh tác tại một chỗ
nhất định (Handricourt 1974). Trong thế kỷ thứ 17, các nhà quan sát tại Trung
Hoa báo cáo có trông thấy một số khu định cư thường trực, ngay cả các thành
phố, được cư trú bởi những kẻ có thể đã bị đồng hóa với người Mèo. Có các
câu chuyện về các ông hoàng địa phương, sự kháng cự về mặt lãnh thổ đối với
người Hán, và các sự khác biệt về văn hóa với khối người đa số ở vùng đất
thấp. Tuy nhiên, có thể một lần nữa rằng từ ngữ ’Miao’ đã được dùng trong ý
nghĩa di truyền trước đây và để chỉ một số các dân tộc ít người phi Hán của
miền Nam. Các nhóm phi-Hán khác vẫn còn hiện hữu tại Miền Nam Trung
Hoa vốn đã định cư ở đó trong nhiều thế kỷ, rõ rệt nhất là tại Vân Nam (tham
khảo Chiao & Tapp 1989: Phần 4). Một số trong các nhóm này thể hiện một số
nét tương đồng nổi bật với các phân nhóm Miao nhưng một cuộc khảo sát
nghiêm chỉnh các nghi lễ tôn giáo và các đặc điểm ngữ học của chúng, thí dụ,
mau chóng phát lộ căn cước phi-Mèo.
2. CÁC SỰ PHẢN KHÁNG VÀ CÁC CUỘC NỔI DẬY TẠI MIỀN NAM
TRUNG HOA
Qua nhiều thế kỷ, người Hán, Mông Cổ, và Mãn Châu đã phái các chiến
đoàn đến các cao nguyên biên cương phía nam. Các cuộc viễn chinh này
thường được gửi đi để bình định, cưỡng bách sự lệ thuộc, tống tiền hay thu
thuế, hoặc chỉ để trấn áp các sắc dân ngoan cố. Sự kháng cự địa phương
thường xảy ra và các cuộc phản kháng thì nhiều.
Một trong các cuộc nổi đậy được ghi chép đầu tiên của thế kỷ thứ 19 xảy
ra vào năm 1818 khi người Hồi Giáo chống đối mãnh liệt các đội quân của Bắc
Kinh tại miền Nam. Tuy nhiên, phải đợi đến sau năm 1850 và Cuộc Nổi Dậy
Thái Bình Thiên Quốc (1850-1872), được ủng hộ bởi một ý thức hệ cứu thế
phần nào vay mượn từ Cơ Đốc giáo, các binh sĩ của đế triều mới thực sự bị
đánh bại và hầu hết các thành phố lớn tại miền Nam đều bị khuất phục bởi quân
nổi dậy. Năm 1854, trong cùng thời kỳ của sự xáo trộn chính trị và xã hội dữ
dội, một cuộc nổi loạn quan trọng khác đã bùng nổ, bị gọi tên sai là của người
Mèo và tập trung tại vùng đông nam Quý Châu (Jenks 1994). Quân nổi loạn,
cố thủ tại vùng núi non “của họ”, tấn công quân Mãn Châu đồn trú, các quan
lại, các thương nhân và các địa chủ Trung Hoa, và tự liên minh với Các Hội
Kín (Secret Societies), đặc biệt với tổ chức của Bạch Liên [Giáo] (White
Lotus). Khi đó, Cuộc Nổi Dậy của người theo Hồi Giáo (1855-1873) khởi sự
như một cuộc tranh chấp về các đặc nhượng khai thác hầm mỏ giữa người Hoa
theo đạo Hồi và người Hán Hoa tại Vân Nam. Nó đã diễn gần như đồng thời
với các cuộc nổi dậy khác đã bùng nổ khi thẩm quyền trung ương của [Triều
Đình] Mãn Châu suy sụp, thí dụ, phong trào Thái Bình Thiên Quốc, và các
cuộc nổi dậy của người Mèo. (Maxwell Hill 1983: 125).
Cuộc khởi dậy của người theo đạo Hồi (được gọi là Panthai hay Hui) tại
tây nam đã khoác các tầm mức quan trọng đến độ trong vòng vài năm, nó dẫn
dắt quân nổi dậy tuyên cáo một Lãnh Địa Hồi Giáo (Sultanate) độc lập tại Đại
Lý (Vân Nam). Quân nổi đậy được cung cấp vũ khí bởi người Anh xuyên
qua Miến Điện, trong khi viên khâm sai triều đình tại Vân Nam và Quý
Châu nhận được khí giới của mình từ người Pháp xuyên qua Thượng Hải
và, sau này, Hải Phòng.
Vì thế chúng ta có thể nhìn thấy rằng trong loạt các yếu tố góp phần vào
sự đối đầu giữa Nhà Nước Hán [chỉ Trung Hoa, mặc dù khi đó người Mãn
Châu thống trị Trung Hoa, chú của người dịch] với các dân tộc ít người tại
Khối Núi Trọng Tâm vào cuối thế kỷ thứ 19, đã có sự hiện diện của các nước
thực dân Âu Châu tại phía Nam của Khối Núi Trọng Tâm. Từ đầu thập niên
1860, người Pháp và người Anh đang tranh đua để tìm và sở đắc một lối tiến
vào miền Nam Trung Hoa cùng các thị trường và các tài nguyên béo bở của
nó. Trong cùng thời kỳ đó, các hiệp ước cho phép các nhà truyền giáo đạo
Thiên Chúa tiến vào nội địa Trung Hoa, và bảo đảm sự an toàn cho cả các nhà
truyền giáo lẫn các kẻ cải đạo (từ 1723 đến 1844 các hoạt động của Thiên Chúa
Giáo là phi pháp). Tuy nhiên, triều đình Mãn Châu chỉ chấp nhận tối thiểu sự
xâm nhập tôn giáo và thương mại này từ phía nam bởi các ngoại bang và lấy
làm bực tức nặng nề rằng các dân tộc ít người trên lãnh thổ của chính nó được
móc nối bằng cách này hay cách kia với biến chuyển đó. Về mặt chiến lược,
Bắc Kinh không có lựa chọn nào khác ngoài việc gia tăng sự hiện diện hành
chính và quân sự của nó tại vùng biên cương phía nam: một sự đụng độ không
thể tránh khỏi. Sau vài thập niên giao tranh, các tổn thất tổng quát về vật chất
và nhân mạng thật khổng lồ.
Biến động này ảnh hưởng đến toàn thể Miền Nam Trung Hoa. Với một
số nạn chết đói và bệnh dịch truyền nhiễm trong vùng trong phần lớn hậu bán
thế kỷ thứ 19, nó đã góp phần đáng kể trong việc đẩy một số Dân Miền Núi
(Montagnard) thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau đi tìm kiếm các cơ hội tốt đẹp
hơn, xa hơn về phía nam vào Bán Đảo Đông Dương. Trong số các kẻ di chuyển
có các thành viên của dân tộc ít người Mien, Lahu, Akha, và người Trung Hoa
theo Hồi Giáo từ Vân Nam, và một số đông người Hmong, một phân chủng của
sắc dân Mèo (De Beauclair 1960).
3. NGƯỜI HMONG TẠI ĐÔNG NAM Á BÁN ĐẢO
“Sự di chuyển đã dẫn người Mèo vượt quá các biên giới của Trung Hoa
là một bước tiếp nối của một tiến trình xảy ra trong phạm vi Trung Họa
(Geddes 1976: 25-26). Các đợt liên tiếp góp phần vào việc đặt định các con số
gia tăng người Mèo/Hmong tại nhiều tỉnh miền nam Trung Hoa cũng như tại
các phần dân cư thưa thớt của Khối Núi Trọng Tâm Đông Nam Á được chia sẻ
ngày nay bởi Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Nếu chúng ta tin tưởng các con số được cung ứng về dân số người Mèo
tại Trung Hoa và người Hmong tại Đông Dương, chúng ta phải kết luận rằng
chỉ có một phần nhỏ của nhóm nguyên thủy đã muốn hay có thể đi xuống phía
nam. Tác giả Jean Mottin nhận xét rằng ‘Trong sắc dân Mèo nói chung, chúng
ta nhận thấy chỉ có độc người Hmong tại các nước khác [ngoài Trung Hoa]’
[tiêng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] (‘Parmi les Miao en
général, ce sont seulement les Hmong que nous trouvons dans les autres pays
[que la Chine]’) (1980: 37). Tác giả Mottin ước lượng rằng 85% người Mèo đã
không rời khỏi Trung Hoa. Hậu thuẫn cho nhận xét này là mật độ giảm dần
của người Mèo/Hmong khi người ta rời khỏi Quý Châu và di chuyện xuống
miền trung Thái Lan xuyên qua miền bắc Việt Nam và Lào (Michaud & Culas
1997: Bảng 1 và Bảng 2).
Đợt đến đầu tiên của người Hmong tại Đông Dương đôi khi được nói có
niên đại trở lùi bốn thế kỷ (thí dụ, trong sách của Bigot 1938 hay Geddes 1976:
27), đặc biệt tại Bắc Kỳ (Tonkin) trong những trường hợp cổ xưa nhất. Nhưng
không có các nhân chứng hay tài liệu viết nào từ miền bắc Đông Dương xác
nhận sự hiện diện của họ trước cuối thế kỷ thứ 18. Trong thực tế, đã có sự
nhầm lẫn kéo dài bởi từ ngữ Mán-Mèo [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của
người dịch] được dùng tại Miền Bắc Bắc Kỳ. Danh từ Mán thường để chỉ riêng
nhóm sắc tộc Yao (Dao) tại khu vực đó trong khi danh từ Mèo chỉ áp dụng cho
người Hmong, hai nhóm khác biệt mặc dù có liên hệ về mặt ngữ học. Tác giả
Bonifacy (1904a: 825; 1904b: 4) ghi nhận một cách xác đáng rằng một số
nhóm người Yao đã sẵn định cư tại thung lũng thượng lưu sông Lô (Rivière
Claire) ở Miền Bắc Bắc Kỳ hồi đầu thế kỷ thứ 18.
Chính trong nửa sau của thế kỷ thứ 19 mà các số lượng đông đảo các
người định cư Hmong di cư từ Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam, đã xâm
nhập vào Bán Đảo và tiến xa xuống phía nam đến tận vĩ tuyến thứ 17 gần vùng
Tak tại Thái Lan, một cách đại cương, đi theo một tuyến đường có hướng Đông
Bắc/Tây Nam từ Bắc Kỳ. Linh Mục Savina, thuộc Hội Các Phái Bộ Truyền
Giáo…[?] hải ngoại của Paris, một trong các học giả đầu tiên về người Hmong,
lưu ý rằng hồi đầu thế kỷ thứ 20, vào lúc ông đang nghiên cứu về người Hmong
tại Bắc Kỳ, ‘Người Mèo [Hmong] tại Bắc Kỳ đều có nguồn gốc từ Vân Nam, và
những người ở Lào đều có nguồn gốc từ Bắc Kỳ. Các kẻ sau cùng này luôn
luôn giữ bước tiến của họ về phía nam, và ngày nay họ đã vươn tới tận vĩ tuyến
thứ 20, trên rặng núi [Trương Sơn của] An Nam’: ‘Les Miao [Hmong] du
Tonkin sont tous originaires du Yun-Nam, et ceux du Laos sont originaires du
Tonkin. Ces derniers pousuivent toujours leur marche vers du sud, et ils ont
atteint aujourd’hui le 20e parallèle , sur la chaine annamitique. (1924: VIII)
[tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch]. Ngoài trừ khi chạy trốn ồ ạt
khỏi các nguy hiểm cá biệt tại Trung Hoa, các sự di cư này mang hình thức các
gia đình tiên phong họp nhau lại để cùng khai quang rừng và trồng lúa khô, ngô
và thường cả thuốc phiện. Khi các vấn đề nghi lễ tôn giáo và xã hội xuất hiện,
hay khi đất đai không có năng lực chống đỡ các vụ thu hoạch tốt nữa, thường
chỉ sau ít năm, nhóm địa phương giải tán và các gia đình cá thể đi tìm các gia
đình khác đi theo họ và khai quang các mảnh rừng mới, còn trống.
Các tài liệu phương Tây khả tín đầu tiên xác nhận một sự hiện diện của
người Hmong tại Bán Đảo Đông Dương là từ 1860 khi nhiều nghìn người
‘linh’ Hei Miao: Hắc Miêu: mèo Đen (Black Miao) được nhìn thấy tiến vào
Bắc Việt Nam từ Vân Nam. Người An Nam Mít nhớ lại và kể cho tác giả
Bonifacy (1904b: 8) về sự bạo động của các cuộc đụng độ với các người định
cư lâu hơn tại thung lũng thượng lưu sông Lô. Sau đó tại Lào, các cư dân tỉnh
Xieng Khouang nhìn thấy các người Hoa theo đạo Hồi Giáo - thuộc các cánh
Quân Cờ Đen, Cờ Vàng, Cờ Trắng và Cờ Đỏ - đánh nhau trên đường xuyên
qua các rặng núi để trốn chạy quân Hán từ phương bắc. Cùng với các binh sĩ
nổi loạn này là nhiều nhóm sắc tộc Miên Núi khác nhau, kể cả một số người
Hmong. Trong số người Hmong, nhiều kẻ đã lựa chọn để định cư tại cao
nguyên phì nhiêu này và vào đầu thế kỷ thứ 20, các con số kiểm kê dân số của
Pháp cho thấy có nhiều nghìn người trong họ sinh sống quanh Xieng Khouang.
Tác giả Yang (1975: 7) đã ước lượng rằng các người Hmong đầu tiên đã
di chuyển vào Lào trong khoảng 1810-20. Tuy nhiên, ông đã sử dụng các tin
tức truyền khẩu thu thập được trong thập niên 1970 tại các làng Hmong và các
sự ước đoán này thay đổi đáng kể tùy thuộc vào các người cung cấp tin tức.
Người Hmong không quan tâm đến các sự ước đoán thời gian chính xác. Một
sự biến đổi như thế có thể được nhận thấy trong một báo cáo từ dòng tộc
Lyfoung tại Lào. Cha của lãnh tụ Hmong nổi tiếng ở Lào, Touby Lyfoung,
được nói đã đến Nong Het (tỉnh Xiêng Khouang) năm 1875 khi ông đoàn tụ với
người cô là kẻ đã từng sinh sống ở đó ‘trong nhiều năm’. Một kẻ cung cấp tin
tức khác là lãnh tụ theo truyền thống người Thái Trắng (White Tai) tại Bắc Kỳ,
ông Đèo Văn Trí, kẻ đã tuyên bố trong năm 1903 rằng ông có chứng kiến sự
thông hành của người Hmong xuyên qua lãnh địa của ông trên đường sang Lào:
Đến năm 1848, khi tôi 15 tuổi, tôi nhớ có nhìn thấy xứ sở của mình bị
tràn ngập bởi người Mèo (tức Quân Cờ Trắng) đên từ Tứ Xuyên (Trung Hoa).
Họ làm xáo trộn sư, bình yên của xứ sở, nhưng người cha đáng kính của tôi,
ông Đèo văn Sinh hay Cầm Sinh đã chấm dứt tình trạng đó bằng việc thỏa
thuận với họ và cho phép họ quyền tự do để tự định cư tại nơi mà họ muốn ở
trên các cao nguyên trong vùng [của Sip Song Chau Tai (?)’: Vers 1848, alors
que j’avais 15 ans, je me rappelle avoir vu mon pays envahi par les Mèos (dits
Pavillions Blancs) venant du Setchuen (Chine). Ils troublèrent la tranquilité du
pays; mais mon honorable père Đèo Văn Sinh ou Cầm Sinh finit par s’entendre
avec eux et leur donner la liberté de s’établir òu ils le voulaient sur les hauts
plateaux de la region [of Sip Song Chau Tai [?]]. (Raquez & Cam 1904:
257)[tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch].
Tại Xiêm La, sự hiện diện của các khu định cư Hmong đã không được
ghi thành văn kiện trước các năm cuối cùng của thế kỷ thứ 19. Một nhà địa dư
học Anh Quốc có viết rằng ông đã nhìn thấy trong năm 1880 tại tỉnh Nan
Province: Có hàng nghìn người xuất cảnh từ Sip Sawng Panna [Vân Nam,
Trung Hoa] và Khamus từ Luang Prabang, và một dân số gia tăng trong người
Mèo và Yao (McCarthy 1895: 71). Một nguồn tin khác nêu ý kiến rằng sự đến
nơi của người Hmong tại Miền Bắc Xiêm La có niên đại từ 1885 (Geddes
1976: 29). Sau đó sự phân tán của họ tại vùng đó được xác nhận tại các miền
Phitsanulok và Lomsak bởi tác giả Robbins (1928), kẻ đã nhìn thấy hai khu
định cư như thế ở các ngọn núi đó trong Tháng Một 1928. Trong năm 1829, các
khu định cư người Hmong cũng được nhìn thấy ở vùng Tak, 300 cây số tây bắc
Bangkok (Credner 1935: 289, trong Crooker 1986). Trong năm 1992, cá nhân
tôi có thu thập tin tức từ nhiều người già lão Hmong tại một khu định cư ở khu
vực Chiang Dao (tỉnh Chiang Mai) là các kẻ đã tuyên bố rằng cha của họ đã
sẵn ở trong vùng 85 năm về trước, đánh dấu sự đến nơi của họ lùi lại mãi đến
năm 1908.
Tác giả Jacques Lemoine (1972: 18) đã vạch ra rằng có một sư tương
đồng ngữ học rất gần nhau giữa hai thổ ngữ Hmong được nói tại Thái Lan
(Hmong Trắng và Lục) - địa điểm xa nhất từ nguồn gốc nguyên thủy trong
cuộc di cư của người Hmong ở Quý Châu - với tiếng Tch’ouan Ts’ien Tien,
một thổ ngữ Trung Hoa miền nam. Gần đây hơn, tác giả Ratliff (1992) ghi lại
chi tiết các sự tương đồng giữa ngôn ngữ Hmong và các ngôn ngữ Trung Hoa
hiện đại và cổ thời tại Vân Nam. Chính nhờ đó, trong khi khảo sát sự lan tỏa về
mặt địa dư của các ngôn ngữ Hmong trong vùng, điều có thể nhìn thấy rằng
giữa miền nguồn gốc người Mèo/Hmong tại Quý Châu và nơi vươn đến cuối
cùng tại Miền Trung Thái Lan, các con đường di cư đi ngang qua Miền Đông
Vân Nam, Bắc Việt Nam, Bắc Lào, và sau đó, cao nguyên Thái Lan. 4
4. CÁC ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY KHÁC ĐỂ DI CƯ
Chúng ta nhìn thấy rằng các nguyên nhân chính trị đã là một chất xúc tác
chính yếu cho sự di cư xuống phương nam. Các thế kỷ thứ 19 và 20 là một thời
khoảng xáo trộn tại Trung Hoa và Đông Nam Á. Tuy nhiên, khi ghi nhận rằng
“… nếu một lãnh thổ mới xuất hiện trước mặt [người Mèo], sự di cư của họ
được xúc tiến tùy theo các tiềm năng của nó” (Geddes 1976: 29), Geddes nhấn
mạnh rằng các yếu tố lôi kéo cũng là một động lực chính yếu cho người Hmong
tiến vào Bán Đảo. Về mặt này, trường hợp người Hmong tại Thái Lan được soi
sáng đặc biệt. Nhóm này đến từ Lào nơi được tin rằng không mối nguy hiểm cụ
thể nào đe dọa họ, ít nhất không lớn đủ để giải thích việc họ di chuyển cho đến
nay vào lãnh thổ Xiêm La. Các nguyên nhân tổng quát cho sự di cư cá biệt này
là đất đai nhiều hứa hẹn và thưa dân sắp sửa được tìm thấy trong sự truy lùng
các khu đất hoang mới để làm rẫy (swiddens).
Điêu xem ra cũng quan hệ để đề cập một yếu tố khác đã góp phần vào sự
di cư của người Hmong, mặc dù yếu tố này hiếm khi được nói đến trong các
cuộc nghiên cứu lịch sử về các dân tộc ít người trong vùng. Yếu tố này liên hệ
trực tiếp đến việc trồng và bán thuốc phiện, một hoạt động đã đòi hỏi một phần
đáng kể năng lực của nhóm và sự sản xuất nặng về nhân lực cho mãi đến thời
gần đây. Chúng ta hãy khảo sát trước tiên các căn nguyên của vấn đề. Bởi có
sự tiếp thị các khối lượng to lớn về thuốc phiện tại Trung Hoa, trước tiên bởi
người Bồ Đào Nha trong thế kỷ thứ 18 và sau đó bởi người Anh và người Pháp
là các nước sẵn lòng nâng cao các lợi nhuận để hỗ trợ nỗ lực thực dân ở địa
phương, một mức độ cao của sự tiêu thụ thuốc phiện đã được vươn tới tại
Trung Hoa trong thế kỷ thứ 19 (15 triệu người Trung Hoa nghiện thuốc phiện
trong năm 1870 theo tác giả McCoy 1989: 63). Chiều hướng này được khích lệ
một cách đáng kể và được duy trì một cách khéo léo bởi người Anh là các kẻ có
thể trồng các cây nha phiến tại Bengal và sau đó đem phân phối xuyên qua
mạng lưới của Công Ty Đông Ấn Độ đã được phát triển khắp Á Châu trong các
thế kỷ thứ 18 và 19 (McCoy 1989: 60). Ngay từ đầu thế kỷ thứ 18, các nhà
lãnh đạo Trung Hoa đã lo âu về ngành mậu dịch gia tăng này và sự mất mát
khổng lồ về lợi tức mà sự nhập cảng riêng hàng nghìn tấn thuốc phiện nguyên
liệu bao hàm. Dần dà, do bởi phần vốn liếng đặt cọc cao đến thế, các đối thủ
chính đã tiến đến việc đụng độ trong diễn biến được gọi là Các Cuộc Chiến
Tranh Nha Phiến (1838-1842 và 1856-1858). Theo sau Hiệp Ước Nam Kinh
năm 1842, Trung Hoa bị buộc phải cho phép các người Âu Châu và Mỹ được
thiết lập các cơ sở mậu dịch tại một số vị trí trên bờ biển Trung Hoa và buôn
bán gần như tự do với thị trường Trung Hoa khổng lồ. Giải pháp còn lại để
người Trung Hoa cạnh tranh được với các kẻ xâm nhập khi đó là thúc đẩy và
hỗ trợ sự sản xuất thuốc phiện trong phạm vi lãnh thổ của chính họ, điều mà
các nhà chức trách trung ương đã mau chóng tìm cách thực hiện. Các dân số
sinh sống tại các khu vực thích hợp cho sự sản xuất này, căn bản là các vùng
núi và cao nguyên ở phía nam, khi đó bị áp lực để trồng các cây nha phiến và
sản xuất nguyên liêu thuốc phiện sẽ được bán cho các nhân viên chính phủ, để
được điều chế và đem bán trên thị trường trong nước. Một cách mỉa mai, nhiều
người trong số các nhà sản xuất này cũng bị thúc đẩy vào cùng hoạt động bởi
người Pháp và người Anh, các kẻ đã có thể vươn tới các phần phía nam của
Khối Núi Trọng Tâm xuyên qua các thung lũng dẫn lên hướng bắc từ Miến
Điện và Đông Dương thuộc Pháp. Các dân tộc ít người vùng cao nguyên tại
miền nam Trung Hoa khi đó bị kẹt trong cuộc cạnh tranh dữ dội của các thế lực
nằm bên ngoài kinh nghiệm, sự hiểu biết chính trị và các khả năng quân sự của
họ. Tại địa phương, hiểu được tiềm năng béo bở của ngành buôn bán mới này
và nhận thấy được sự cạnh tranh giữa Trung Hoa và các nước Âu Châu, người
Hmong có gắng thu lợi nhiều nhất và mau chóng bước xuống con đường dẫn
đến chiến tranh kinh tế với chinh quyền Trung Hoa. Các cuộc phản kháng và
nổi dậy bạo động làm rung chuyển miền nam của xứ sở trong hậu bán thế kỷ thứ
19 và các làn sóng di cư tiếp nối khi đó có thể được nối kết, ít nhất phần nào, vào
ý chí mạnh mẽ để giữ sự kiểm soát trên việc sản xuất và rao bán thuốc phiện.
Hơn nữa, các cuộc nghiên cứu lịch sử và dân tộc học gần đây đã soi sáng
rằng một yếu tố quan trọng trong quyết định di cư và sự lựa chọn vùng đất để
tiên phong là mối quan hệ đặc biệt giữa người Hmong và nhóm dân lữ hành
người Hoa theo đạo Hồi Giáo, nhóm dân Haw (Hui: Hồi). Nguyên thủy từ Vân
Nam, dân Haw trong thời gian dài là các nhà cung cấp duy nhất muối và kim
loại cho người Hmong cũng như một số tiêu thụ phẩm. Các món hàng này
được trao đổi để lấy các cây thuốc và dược liệu Trung Hoa. Mối quan hệ
truyền thống này tiến tới việc bao gồm sản phẩm sinh lợi nhất, thuốc phiện,
chính vì thế, đã có thể tìm thấy một đường lối dễ dàng bên ngoài các làng xã.
Mậu dịch lưu động, là điều rất ít được biết đến, đi theo các tuyến đường cổ điển
trong nhiều thế kỷ đã nối liền các thành phố thuộc vùng sâu xa của Trung Hoa
như Côn Minh, Đại Lý, Jinghong, và Thành Đô, với các trạm mậu dịch đường
biển và các thủ đô như Moulmein, Ayutthaya và Bangkok, cũng như Vinh và
Hà Nội tại bắc phần Việt Nam. Ba mươi năm trước tại Lào, cũng như tại Việt
Nam, người Hmong lớn tuổi vẫn còn nhớ về các cuộc du hành của họ với nhóm
dân lữ hành Haw vào cuối thế kỷ thứ 19, khá thường xuyên với tư cách các
người chăm sóc cho các con ngựa và con lừa chất đầy vải vóc, muối và thuốc
phiện. Một số người cho hay rằng họ đã thám hiểm các vùng đất trống và phì
nhiêu mới như cao nguyên Trấn Ninh tại Lào và vùng núi phía bắc tỉnh Nan ở
Thái Lan. Chính vì thế đã có các khả tính cung cấp cho các kẻ muốn di
chuyển, và sự di cư của người Hmong về hướng tây nam không phải đã được
thực hiện một cách mù quáng. Một sự kết hợp của đất rừng khả ứng và phì
nhiêu với một sự gần gửi với một lộ trình lữ hành của người Hay thì thích hợp
một cách toàn hảo cho cả việc chạy thoát khỏi cơn phẫn nộ của người Hán hay
chỉ để tìm kiếm sự may mắn ở nơi xa xôi hơn.
5. SỰ QUAN TÂM CỦA GIỚI HỌC GIẢ VỀ NGƯỜI MÈO/HMONG (CHO
TỚI THẬP NIÊN 1970)
Chỉ có các nhà truyền đạo Thiên Chúa và ít nhà thám hiểm Anh và Pháp,
khi tìm kiếm các đường lối để xâm nhập vào nội địa Trung Hoa, là đã có thể
đến thăm viếng người Mèo/Hmong tại Trung Hoa. Tại Đông Nam Á đại lục,
ngay từ cuối thế kỷ thứ 19, người Hmong đã là đề tài của sự chú ý rõ rệt từ các
binh sĩ, các nhà truyền giáo, các nhà hành chính, các nhà thám hiểm, và sau
này, các nhà nghiên cứu gốc Âu Châu. Sự chú ý rõ rệt này về phía người Tây
Phương đối với các xã hội Người Miền Núi trong vùng, phù hợp với các bước
tiến đầu tiên của nhân chủng học và dân tộc học như các ngành học thuật khoa
học và nhất thiết đã phục vụ cho mối bận tâm với sự hấp dẫn hương xa.
Các quyển sách, các bài viết, và các bút ký viết về Dân Miền Núi thì nhiều
từ thời ban sơ của thế kỷ thứ 20. Các nhà quan sát Tây Phương khi đó nhận ra
được nét đặc thù về ngôn ngữ và văn hóa mong manh của các dân tộc ít người
này được gắn vào các không gian xã hội rộng lớn hơn, chẳng hạn như tại Việt
Nam và Trung Hoa. Trong trường hợp người Mèo/Hmong, các cuộc nghiên
cứu đầu tiên về các phong tục và ngôn ngữ đã được ấn hành trong các thập niên
1870 (Edkins 1870), 1880 (Broumton 1881) và 1890 (Lefèvre-Pontalis 1892).
Đây là những bước tiền đầu tiên của khoa dân tộc học tổng quát và sự thu thập
có hệ thống các dữ liệu về văn hóa Hmong, trong khi sự nghiên cứu và phân
tích sự tổ chức xã hội, tôn giáo và huyền thoại học đã phải chờ đợi mãi đến
thập niên 1960 trước khi khởi sự bùng nổ thực sự.
Sau Thế Chiến Thứ Nhì sự quan tâm quốc tế về người Hmong ở Đông
Nam Á đã bắt đầu phát khởi, và sự nghiên cứu tại hiện trường đã được thực
hiện trên một quy mô ngày càng lớn rộng, chính yếu tại Lào và Thái Lan và,
trong các tình huống khác lạ, tại miền bắc Việt Nam cho đến năm 1954. Bắc
Kỳ, dưới ảnh hưởng của Việt Minh, tách rời khỏi Đông Dương thuộc Pháp và
tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một nước độc lập hồi năm 1945,
đóng cửa với phần lớn các nhà quan sát sau hội nghị Geneva năm 1954. Trung
Hoa, sau sự xuất hiện của chế độ Cộng Sản năm 1949, đã phản ứng tương tự
đối với Tây Phương. Mặt khác, Thái Lan chào đón rõ ràng “sự trợ giúp” của
Thế Giới Thứ Nhất và các nhà nghiên cứu của nó. Trong thời kỳ này, Lào vẫn
còn bị giằng co giữa các lý tưởng của chế độ quân chủ và chủ nghĩa cộng sản
trong nhiều năm, và phần lớn lãnh thổ của nó đã không an toàn cho các học giả
Tây Phương. Với Các Cuộc Chiến Tranh Đông Dương, giữa các năm 1946 và
1975, và cuộc xung đột Trung Hoa - Việt Nam năm 1979, điều trở nên rõ ràng
rằng các diễn biến quốc tế đã tác động đến các trú dân rừng rú tại các núi non
của họ, buộc họ phải chọn phe và, tùy thuộc vào kẻ chiến thắng cuộc đấu tranh
dân tộc, phải chịu đựng các hậu quả nếu họ lựa chọn sai.
Trong thập niên 1960, nhiều nhà nghiên cứuTây phương nhận thấy mình
quan tâm đến việc tìm hiểu đặc biệt các dân tộc ít người trên cao nguyên.
Nhiều định chế Tây Phương đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu này sự yểm
trợ tài chính đáng kể mặc dù phải nói, không phải lúc nào cũng với các ý định
thuần khiết nhất (xem Wakin 1992). Chính vào thời cuối của thập niên 1960,
các tác giả Lebar, Hickey và Musgrave, với sự trợ giúp của Hanks and Smalley
trong số các tổ chức, đã công bố công trình đồ sộ nhan đề Ethnic Groups of
Mainland of Southeast Asia (1964) được ấn hành bởi American Human
Relations Area Files và Peter Kunstadter, được trợ giúp nổi bật nhất bởi
Moerman, Mandorff, Hickey, Geddes và Barney, đã biên tập bộ hai quyển
không kém phần đồ sộ, nhan đề Southeast Asian Tribes, Minorities and
Nations (1967) được ấn hành bởi Princeton University Press. Ngoài các nhà
nghiên cứu này vốn quan tâm đến toàn vùng như một tổng thể, có thể bổ túc
các học giả khác điều tra một cách cá biệt vào một miền đặc biệt, như
Moréchand (1968), Lemoine (1972), Yang (1975), Bertrais (1977) và Mottin
(1978) tại Đông Dương thuộc Pháp trước đây, hay Keen (1966), Binney (1968),
Walker (1970) và Dessaint (1971) tại Thái Lan.
Sau nhiều năm tự cô lập và từ chối không cho các học giả ngoại quốc
quyền để đi đến núi đồi của họ - trong khi Thái Lan vẫn mở rộng cửa gần như
không có hạn chế nào cả - Việt Nam và Lào hiện giờ đang tiến vào thời đại hậu
xã hội chủ nghĩa và tỏ ra sẵn lòng hơn để khởi sự cuộc nghiên cứu hợp tác với
người ngoại quốc về Người Dân Miền Núi. Cơ hội này phải được nắm lấy. Nó
có nghĩa một cơ may độc nhất sau rốt, để điều tra tại hiện trường lịch sử dân tộc
của người Hmong và của mọi xã hội Dân Miền Núi tại phần đất này của Khối
Núi Trọng Tâm. Với nhịp hiện tại của sự canh tân hóa và hòa nhập văn hóa
của người dân cao nguyên theo các đường nét của dân đồng bằng, với tiến trình
định cư hóa cưỡng bách xảy ra trong các thập kỷ qua, công tác này trở nên
khẩn cấp nếu chúng ta muốn thu thập những gì còn lại trong truyền thống của
các người di dân muộn màng, sống sót dai dẳng và cùng lúc, dễ bị xâm hại một
cách cực đoan, từ biên cương Trung Hoa.
SƠ ĐỒ HƯỚNG DI CƯ CỦA NGƯỜI MÔNG
PHỤ LỤC 2
HÌNH ẢNH VỀ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN TỘC MÔNG Ở LÀO
Nguồn ảnh: Tác giả chụp