BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Tám
HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN
Ở TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Tám
HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN
Ở TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: ĐỊA LÝ HỌC (TRỪ ĐLTN) Mã số: 60.31.95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN VĂN THÔNG
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Võ Thị Tám
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Địa lý, trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, nhiệt tình hỗ trợ và giúp tôi
định hướng luận văn hợp lý, thiết thực.
Tôi xin cảm ơn Phòng Sau đại học, thư viện nhà trường đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc của mình đến TS. Trần Văn
Thông – Giảng viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh – người
hướng dẫn khoa học đã nhiệt tình góp ý, chỉ bảo, tạo nhiều điều kiện thuận lợi giúp
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu, công
trình nghiên cứu của các cơ quan, đơn vị và các tác giả khác. Tôi xin chân thành
cảm ơn các cơ quan, đơn vị và các tác giả mà tôi đã sử dụng tư liệu trích dẫn và
tham khảo trong luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh, Cục Thống kê, Sở Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn, Sở Công Thương tỉnh Bến Tre và các phòng, ban
của các cơ quan đã rất nhiệt tình cung cấp thông tin tư liệu, tạo điều kiện thuận lợi
giúp tôi thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã
giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Võ Thị Tám
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng biểu, hình ảnh
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KINH TẾ BIỂN ......................................................................................... 8
1.1. Cơ sở lí luận về phát triển bền vững kinh tế biển .................................................... 8
1.1.1. Biển ............................................................................................................ 8
1.1.1. Kinh tế biển .............................................................................................. 10
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển ................................. 14
1.1.3. Phát triển kinh tế biển bền vững .............................................................. 16
1.2. Một vài nét về hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển trên thế giới và khu
vực .................................................................................................................... 29
Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN TỈNH
BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2001 – 2010 ...................................................... 33
2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre ............................................... 33
2.1.1. Các nguồn lực tự nhiên ............................................................................ 34
2.1.2. Các nguồn lực kinh tế - xã hội: ................................................................ 42
2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre ..................................................... 49
2.2.1. Giai đoạn trước năm 2000 ....................................................................... 49
2.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010 ............................................................................. 52
2.3. Phân tích ảnh hưởng của sự phát triển bền vững kinh tế biển đến sự phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre ......................................................................... 83
2.3.1. Lợi ích kinh tế .......................................................................................... 83
2.3.2. Lợi ích văn hóa – xã hội .......................................................................... 85
2.3.3. Bảo vệ môi trường ................................................................................... 87
2.4. Những vấn đề cần quan tâm đến phát triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh Bến Tre ........................................................................................................................... 88
2.5. Tóm tắt chương .......................................................................................................... 91
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH
TẾ BIỂN TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020 ......................................... 94
3.1. Các cơ sở đưa ra định hướng .................................................................................... 94
3.1.1. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của quốc gia và vùng .... 94
3.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre ............ 94
3.2. Các chỉ số dự báo ....................................................................................................... 96
3.2.1. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển các ngành kinh tế biển ................ 96
3.2.2. Các chỉ số dự báo phát triển nguồn nhân lực ......................................... 100
3.2.3. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của ba huyện ven biển ................................................................................................................... 101
3.2.4. Các chỉ số dự báo tình hình đầu tư ........................................................ 102
3.3. Các định hướng phát triển ....................................................................................... 103
3.3.1. Phát triển sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm .................................................................................. 103
3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao ......................................... 104
3.3.3. Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa ............................................................ 104
3.3.4. Bảo vệ môi trường biển ......................................................................... 105
3.3.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển .......................... 106
3.4. Các giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững .................................................... 106
3.4.1. Các giải pháp phát triển sản phẩm kinh tế biển ..................................... 107
3.4.2. Các giải pháp đào tạo, tuyển dụng lao động chất lượng cao ................. 111
3.4.3. Các giải pháp đầu tư đạt hiệu quả .......................................................... 112
3.4.4. Các giải pháp bảo vệ môi trường ........................................................... 114
3.4.5. Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lí kinh tế biển .... 116
3.5. Kiến nghị ................................................................................................................... 119
3.5.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Bến Tre .................................................. 119
3.5.2. Kiến nghị đối với ngành Thủy sản Bến Tre ........................................... 120
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Dân số 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2000 – 2009 .......................... 41
Bảng 2.2 : Trình độ chuyên môn kĩ thuật của dân số từ 15 tuổi trở lên ở các
huyện ven biển tỉnh Bến Tre năm 2009 .............................................. 42
Bảng 2.3 : GDP và giá trị sản xuất ngành thủy sản tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010 ... 51
Bảng 2.4 : Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2005 – 2010 .... 53
Bảng 2.5 : Giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản tỉnh Bến Tre theo giá so
sánh, 2001 – 2010 ................................................................................ 53
Bảng 2.6 : Sản lượng khai thác thủy sản phân theo huyện, 2005 – 2010 ............. 57
Bảng 2.7 : Sản lượng cá biển đánh bắt phân theo huyện năm 2010 ..................... 58
Bảng 2.8 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010 ................. 63
Bảng 2.9 : So sánh GDP kinh tế vùng ven biển với GDP toàn tỉnh,
2000 – 2010 ......................................................................................... 82
Bảng 3.1 : Dự báo một số chỉ tiêu ngành nuôi thủy sản ba huyện ven biển
tỉnh Bến Tre đến năm 2020 ................................................................ 94
Bảng 3.2 : Dự báo các chỉ tiêu phát triển công nghiệp chế biến thủy hải sản
ba huyện ven biển đến năm 2020 ........................................................ 96
Bảng 3.3 : Dự báo các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp ba huyện ven biển tỉnh
Bến Tre đến năm 2020 ........................................................................ 96
Bảng 3.4 : Dự báo dân số và lao động ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến
năm 2020 ............................................................................................. 98
Hình 2.1 : Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản của tỉnh Bến Tre,
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
2001 – 2010 ........................................................................................... 52
Hình 2.2 : Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản khai thác tỉnh Bến Tre,
2001 -2010 ............................................................................................. 56
Hình 2.3 : Biểu đồ thể hiện sản lượng tôm, cá nuôi tỉnh Bến Tre,
2005 – 2010 ........................................................................................... 65
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CMKT : Chuyên môn kĩ thuật
CV : Mã lực hay sức ngựa
EM : Chế phẩm sinh học
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GIS : Hệ thống thông tin địa lý
GlobalGAP : Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu
ICOR : Tỉ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng
IUCN : Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế
KV : Khu vực
MSC : Chứng nhận sản phẩm sinh thái của Hội đồng bảo tồn Biển quốc tế
NTS : Nuôi thủy sản
PTBV : Phát triển bền vững
TC, BTC : Thâm canh, bán thâm canh
TTBQ : Tăng trưởng bình quân
UBND : Ủy ban nhân dân
UNEP : Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, từ phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, con người từng bước chủ động, cải
tạo tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Với xu hướng dân số tăng nhanh và nhu
cầu thỏa mãn cuộc sống của con người ngày càng phong phú, đa dạng, con người đã
khai thác gần như cạn kiệt nguồn tài nguyên trên đất liền. Vì thế, con người đang
tìm cách vươn ra, khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ trong lòng biển và đại
dương. Từ đó, các hoạt động kinh tế liên quan đến việc khai thác các nguồn tài
nguyên và môi trường biển dần dần hình thành. Đó là kinh tế biển.
Kinh tế biển đã phát triển từ lâu ở các quốc gia có biển và ngày nay, nó đang
phát triển một cách vô cùng mạnh mẽ và đóng góp ngày càng quan trọng vào nền
kinh tế toàn cầu. Thế kỉ XXI được xác định là thế kỉ của biển và đại dương. Tuy
nhiên sự phát triển kinh tế biển của mỗi quốc gia không giống nhau, nó phụ thuộc
vào trình độ phát triển của các quốc gia. Và cùng với sự phát triển mạnh mẽ, những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của sự phát triển kinh tế biển ngày càng thể hiện rõ
nét.
Việt Nam cũng là một quốc gia giáp biển, có nhiều tiềm năng và lợi thế để
phát triển kinh tế biển. Kinh tế biển Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và ngày
càng có nhiều đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP của nước nhà, góp phần thay
đổi bộ mặt kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước.
Tỉnh Bến Tre là một trong 28 tỉnh, thành phố giáp biển của Việt Nam. Bến
Tre có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển như bờ biển dài 65 km với hơn 20.000 km2 vùng đặc quyền kinh tế; lãnh thổ được bao bọc bởi các sông lớn của hệ
thống sông Cửu Long; có hệ thống kênh rạch chằng chịt, nhiều bãi bồi, cồn nổi
thích hợp cho việc phát triển các ngành kinh tế biển như thủy sản, du lịch biển.
Những năm qua, kinh tế biển và vùng ven biển đã đóng góp hơn 33% vào cơ cấu
GDP kinh tế của tỉnh, tốc độ tăng trưởng đạt 11,34% (giai đoạn 2001 – 2010), tạo
nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
2
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có sự nghiên cứu, đánh giá một cách khách
quan, chi tiết các nguồn lực phát triển cũng như tìm hiểu hiện trạng, đánh giá hiệu
quả kinh tế biển của Bến Tre trong thời gian qua để làm cơ sở tin cậy cho việc đưa
ra các dự báo, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển trong những năm tới.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Hiện trạng và định hướng phát
triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh Bến Tre”. Qua đề tài, tôi mong muốn sẽ làm rõ
hơn cơ sở lí luận và thực tiễn về kinh tế biển và phát triển bền vững kinh tế biển;
đánh giá các nguồn lực; tìm hiểu hiện trạng phát triển, phân tích những tác động của
phát triển bền vững kinh tế biển với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre
và các vấn đề cần quan tâm để phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh. Bên cạnh
đó, đề ra những định hướng và giải pháp góp phần phát triển bền vững kinh tế biển
của tỉnh trong thời gian tới.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của đề tài là phân tích hiện trạng phát triển bền vững kinh tế
biển của tỉnh Bến Tre trong thời gian qua để từ đó có cơ sở xây dựng định hướng và
đề xuất các giải pháp để phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ chính của đề tài là:
- Đúc kết các cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến phát triển bền vững
kinh tế biển
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển bền vững kinh tế biển ở Bến
Tre trong giai đoạn 2001 – 2010
- Nêu ra các định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững kinh tế
biển của tỉnh Bến Tre đến năm 2020.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là ba huyện ven biển của tỉnh Bến
Tre.
3
Các tư liệu, số liệu sử dụng tham khảo nghiên cứu đề tài chủ yếu là giai đoạn
2001 – 2010, có sự bổ sung nguồn tư liệu, số liệu giai đoạn 1996 - 2000 để phân
tích, so sánh hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh và định hướng phát triển đến
năm 2020.
Đề tài tập trung tìm hiểu hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre
giai đoạn 2001 – 2010 và xây dựng các định hướng, giải pháp phát triển bền vững
kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Kinh tế biển là một bộ phận có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế của
các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đồng thời là xu hướng phát triển của
thời đại. Vì thế, ngày càng có nhiều công trình và tác giả nghiên cứu về phát triển
kinh tế biển.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển những năm gần đây rất
được chú trọng. Ở cấp quốc gia có các đề tài, công trình nghiên cứu có ý nghĩa quan
trọng như “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến
năm 2010” của Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đề tài này
đánh giá các nguồn lực và hiện trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm
1995. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra phướng hướng, giải pháp quy hoạch phát triển
cho từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế biển kết hợp với tổ chức không gian kinh tế
biển đến năm 2010 đạt hiệu quả. Thứ hai là đề tài “Cơ sở khoa học cho việc phát
triển kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một
số khu vực trọng điểm” cũng của Viện Chiến lược Phát triển, năm 2004. Qua đó, đề
tài trình bày, phân tích vai trò, vị trí, nguồn lực và thực trạng phát triển kinh tế - xã
hội dải ven biển Việt Nam; đưa ra các phương hướng và giải pháp, mô hình phát
triển điển hình cho các vùng trọng điểm của dải ven biển nước ta đến năm 2015,
tầm nhìn 2020. Thứ ba là “Hội thảo phát triển kinh tế biển ở Việt Nam” được tổ
chức năm 2000 với rất nhiều bài tham luận của các tác giả là lãnh đạo các cấp, các
ngành trong cả nước đã trình bày rất nhiều vấn đề liên quan đến nguồn lực, hiện
trạng, giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam với nhiều quan điểm và phương
4
pháp tiếp cận khác nhau. Thứ tư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam tổ chức Hội thảo “Tầm nhìn kinh tế biển
và phát triển thủy sản Việt Nam”, năm 2007. Kỉ yếu của hội thảo tập trung nhiều ý
kiến phân tích, đóng góp của các tác giả đối với vấn đề phát triển kinh tế biển, tổ
chức không gian kinh tế biển Việt Nam và tập trung phân tích các định hướng, giải
pháp phát triển Thủy sản như ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế biển Việt Nam.
Ở các địa phương có tiềm năng phát triển kinh tế biển như Đà Nẵng, Bình
Định, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Kiên Giang,…cũng đã xây
dựng các chương trình phát triển kinh tế biển phù hợp với điều kiện từng địa
phương. Đặc biệt, từ năm 2005 đến nay, việc nghiên cứu theo hướng phát triển bền
vững trở nên khá phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực, trong đó có kinh tế biển.
Theo đó, các chương trình, đề tài nghiên cứu đã chú trọng các định hướng và giải
pháp khai thác tốt tiềm năng để phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ, tái tạo
nguồn tài nguyên; phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng, phát
triển văn hóa – xã hội, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và bảo
vệ có hiệu quả môi trường sinh thái.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu cá nhân, các
luận văn, luận án nghiên cứu về phát triển kinh tế biển các tỉnh, thành phố ven biển
trong cả nước.
Đối với tỉnh Bến Tre, việc định hướng phát triển bền vững kinh tế biển đã
được quan tâm, chú trọng trong những năm gần đây. Năm 2007, tỉnh xây dựng
“Chương trình hành động số 11”, xây dựng “Đề án phát triển toàn diện ba huyện
ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020” để cụ thể hóa Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 cũng như có hướng phát triển hợp lý cho vùng ven biển tỉnh Bến Tre.
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích và có
giá trị cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài của tác giả.
Tuy nhiên, các công trình, đề án nghiên cứu về phát triển bền vững kinh tế
biển của các tỉnh, trong đó có Bến Tre còn rất ít, phần lớn thường chú trọng đến sự
5
phát triển kinh tế - xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực bảo vệ môi trường
sinh thái.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận hay các quan điểm nghiên cứu
Quan điểm hệ thống:
Trước hết, kinh tế biển là một trong các bộ phận tạo nên nền kinh tế chung
của tỉnh Bến Tre. Mặt khác, bản thân kinh tế biển cũng bao gồm nhiều ngành nghề,
nhiều lĩnh vực khác nhau hợp thành và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động lẫn nhau. Bên cạnh đó, kinh tế biển chỉ phát triển bền vững khi có sự cân đối
giữa khai thác và tái tạo nguồn tài nguyên, cân đối giữa sự phát triển kinh tế với các
lợi ích cộng đồng và bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, môi trường sống. Do
đó, khi nghiên cứu đề tài phải sử dụng quan điểm hệ thống để thấy được mối quan
hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển.
Quan điểm tổng hợp lãnh thổ:
Kinh tế biển là một hệ thống phức tạp gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực có
mối quan hệ mật thiết về mặt cấu trúc và lãnh thổ. Vì vậy, nghiên cứu hiện trạng,
định hướng phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre phải chú ý mối quan hệ
liên ngành và mối quan hệ về không gian tổ chức của các ngành kinh tế biển để đạt
được sự phát triển đồng bộ, tránh mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các ngành kinh tế
biển và giữa các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường.
Quan điểm lịch sử - viễn cảnh:
Mọi sự vật không ngừng vận động và biến đổi. Trong từng giai đoạn, có thể
nguồn lực, ngành kinh tế biển này giữ vai trò chủ đạo nhưng trong giai đoạn khác,
nguồn lực và ngành kinh tế khác đóng vai trò quyết định sự phát triển kinh tế biển
của tỉnh. Do đó, khi nghiên cứu kinh tế biển phải đặc biệt chú ý mối quan hệ thời
gian. Nghiên cứu hiện trạng, quy luật phát triển trong quá khứ để nhận định sự phát
triển ở hiện tại và dự đoán sự phát triển trong tương lai. Từ đó, tỉnh cần có những
chiến lược, chương trình phát triển ngắn hạn và dài hạn, thường xuyên cập nhật, bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển cho phù hợp.
6
Quan điểm phát triển bền vững:
Nguồn tài nguyên biển như hải sản, các tài nguyên du lịch biển, tài nguyên
rừng,..không phải là vô tận. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên
này phải bắt buộc đi đôi với bảo vệ, tái tạo nguồn tài nguyên nhằm đảm bảo cho
việc sử dụng lâu dài. Mặt khác, để phát triển bền vững kinh tế biển phải đảm bảo
được sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ
hiệu quả môi trường sinh thái.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu:
Nguồn tài liệu, số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau như sách báo, báo cáo, văn kiện, cơ sở dữ liệu của các ngành, các
cấp,…Nguồn tư liệu thu thập được là rất lớn nên khi sử dụng phải có tính chọn lọc
các tư liệu phù hợp với mục đích và nội dung nghiên cứu. Đồng thời, phải thường
xuyên cập nhật thông tin, tư liệu mới để tăng tính thực tế và hiệu quả nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, phân tích:
Các tư liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau từ tư liệu sơ cấp đến tư liệu thứ cấp, từ văn bản đến các bảng
biểu,…Do đó, để phù hợp với đề tài nghiên cứu, các tư liệu sau khi thu thập được,
nhất thiết phải qua quá trình phân tích, thống kê, xử lý lại cho phù hợp vói nội dung
và mục đích sử dụng.
Phương pháp thực địa:
Thực địa là phương pháp truyền thống và rất quan trọng trong nghiên cứu địa
lý. Quá trình nghiên cứu thực địa nhằm mục đích kiểm tra, bổ sung sự tương thích
giữa lý thuyết và thực tế từ đó giúp tác giả có cái nhìn khách quan, tin cậy hơn đối
với vấn đề nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và điều kiện cho phép,
tác giả đã tiến hành các hoạt động thực địa, thực hiện các phương pháp quan sát, mô
tả, ghi chép sự phát triển, phân bố các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển trên địa bàn
tỉnh Bến Tre.
7
Phương pháp bản đồ, biểu đồ:
Là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu địa lý học. Phương pháp này là cơ
sở thể hiện một cách trực quan, khoa học mối quan hệ về thời gian, không gian, sự
thay đổi, phát triển của các đối tượng, yếu tố trong kinh tế biển.
Phương pháp dự báo:
Phương pháp dự báo là phương pháp rất cần thiết trong việc nghiên cứu địa lí
kinh tế – xã hội. Các công thức tính toán được sử dụng kết hợp với việc phân tích
hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trong quá khứ và hiện tại để dự
báo các chỉ số phát triển kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020. Từ đó làm cơ sở cho
việc đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp cho việc phát triển bền vững
kinh tế biển của tỉnh.
Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS):
Các phần mềm và ứng dụng GIS là công cụ đắc lực cho việc số hóa bản đồ,
xây dựng các lớp dữ liệu thuộc tính và không gian, thành lập các bản đề chuyên đề
phù hợp với việc thể hiện các nguồn lực phát triển, hiện trạng phát triển các ngành
và định hướng phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trong tương lai.
6. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển bền vững kinh tế biển
Chương 2: Hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn
2001 – 2010
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh
Bến Tre đến năm 2020
Kết luận
8
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG KINH TẾ BIỂN
1.1. Cơ sở lí luận về phát triển bền vững kinh tế biển
1.1.1. Biển
Biển là bộ phận của đại dương, nằm ở gần hoặc xa đất liền, nhưng có những
đặc điểm riêng, khác với vùng nước của đại dương bao quanh như về nhiệt độ, độ
mặn, chế độ thủy văn, các vật liệu trầm tích đáy, các sinh vật,.. Ngoài ra, thuật ngữ
biển còn dùng để chỉ các hồ có diện tích rất lớn như biển Aran, biển Caxpi, biển
Chết,..[3]
Như vậy, có thể thấy biển là một bộ phận biệt lập của đại dương. Tùy theo vị
trí của biển nằm ở ven bờ hay ăn sâu vào các lục địa mà biển được phân loại thành
biển ven bờ, biển nội lục (hay còn gọi là biển kín).
Biển ven bờ là những biển nằm sát ngay bờ các lục địa. Phần lớn các biển
này đều rộng, nông, có chế độ thủy văn riêng và thường có xu hướng mở rộng ra đại
dương. Cũng có khi ở phía ngoài biển có các đảo và quần đảo ngăn cách với đại
dương. Phần lớn các biển trên thế giới thuộc loại này như biển Nhật Bản, biển
Măng-sơ, biển Đông, biển Arap, biển Ô-khốt,..
Biển nội lục hay còn gọi là biển kín là những biển nông, nằm lõm sâu vào
các lục địa, chỉ thông với đại dương bằng những eo biển hẹp như Biển Đen, biển
Bantich,..
Đặc biệt, có những biển nằm giữa đại dương, có tính chất hết sức độc đáo về
sinh vật như biển Xacgat với rừng tảo nổi ở giữa Đại Tây Dương.
Vị trí địa lý của các biển quy định tính chất thủy văn như chế độ dòng chảy,
chế độ thủy triều và các đặc tính lí hóa như độ sâu, độ mặn, độ cao sóng,… khác
nhau giữa các biển. [11]
Biển và đại dương được xem là cái nôi của nhân loại. Ngay từ buổi sơ khai,
con người đã biết sử dụng biển cho những mục đích khác nhau phục vụ cho cuộc
sống của mình. Tuy nhiên, trên thực tế cho đến nay, sự hiểu biết của con người về
biển cả còn quá ít ỏi. Theo đà phát triển, biển và đại dương ngày càng có vai trò
9
quan trọng hơn đối với sự phát triển của nhân loại và trở thành địa bàn luôn diễn ra
những tranh chấp về lợi ích rất phức tạp của các quốc gia trên thế giới.
Biển chứa trong mình nhiều tài nguyên có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trước tiên là nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong
phú, đa dạng. Theo thống kê hiện nay, trong lòng biển và đại dương thế giới hiện
nay có khoảng 18 vạn loài động vật và 2 vạn loài thực vật, trong đó đã phát hiện
hơn 400 loài cá và hơn 100 loài thủy sản khác có giá trị kinh tế. Nguồn tài nguyên
phong phú này đã góp phần đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu về thực phẩm cho con
người. [17]
Biển với không gian rộng lớn kết hợp với khoa học kĩ thuật sẽ tạo điều kiện
cho ngành nuôi trồng thủy sản phát triển. Khi đó, nó vừa mang lại nguồn lợi kinh tế
cao vừa góp phần bảo tồn nguồn lợi thủy hải sản trước nguy cơ cạn kiệt. Qua đó,
góp phần cân bằng môi trường sống, giúp con người phát triển kinh tế bền vững
hơn.
Về nguồn tài nguyên khoáng sản, trong biển có hầu như tất cả các khoáng
sản đã được phát hiện trên đất liền, trong đó nhiều loại đã được khai thác như dầu
mỏ, khí thiên nhiên, than, sắt, thiếc, zircon,…Đặc biệt, dầu khí và các loại kết cuội
sắt – mangan, các mỏ sunfit đa kim khổng lồ dưới biển được coi là các khoáng sản
quan trọng nhất ở biển. Cho đến nay, trữ lượng dầu khí đã được thăm dò dưới đáy biển khoảng 25 đến 30 tỉ tấn dầu và 14 đến 15 ngàn tỉ m3 khí thiên nhiên, chiếm
26% tổng trữ lượng dầu mỏ và 23% trữ lượng khí thiên nhiên toàn thế giới. Đây là
cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng và luyện kim, công nghiệp
cơ khí. [17]
Biển và đại dương còn là nơi chứa đựng nguồn năng lượng khổng lồ, có thể
nói là vô tận như năng lượng thủy triều, năng lượng sóng, dòng chảy, năng lượng
nhiệt biển,…đây là các nguồn năng lượng mà tương lai chúng ta đang hướng tới để
thay thế các nguồn năng lượng có giới hạn như hiện nay.
Một vai trò nữa rất quan trọng của biển đó là biển là cơ sở để phát triển
ngành giao thông vận tải biển, đặc biệt là ngành hàng hải. Nhờ có biển và đại dương
10
với các con đường trên biển mà giao thông giữa các nước trở nên dễ dàng, thuận lợi,
góp phần to lớn vào việc phát triển thương mại và giao lưu quốc tế. Bên cạnh đó là
sự phát triển của công nghiệp đóng tàu và cơ khí,..
Ngoài giao thông vận tải, không gian biển và ven biển với các cảnh quan
thiên nhiên đẹp là nguồn tài nguyên tuyệt vời để phát triển du lịch, nghĩ dưỡng và
xây dựng các công trình biển. Phần lớn các trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới hiện
nay đều nằm ở ven biển và trên các đảo như Bali (Inđônêxia), Hawaii (Hoa Kỳ),
Bondi (Ôxtrâylia), Nha Trang (Việt Nam),..
Ngoài ra, biển có ý nghĩa rất lớn về mặt an ninh quốc phòng đối với các quốc
gia có biển. Biển với tài nguyên nước mặn phong phú còn là nguyên liệu sản xuất
muối đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
Tóm lại, biển và đại dương có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế thế
giới và biển trở thành một tài sản quý giá của các quốc gia có biển.
1.1.1. Kinh tế biển
1.1.1.1. Định nghĩa kinh tế biển
Cho đến nay, việc xác định khái niệm và nội dung của kinh tế biển vẫn là vấn
đề còn để ngỏ. Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế biển, tùy theo hướng tiếp
cận của các tác giả khi nghiên cứu. Sau đây là những quan niệm về kinh tế biển:
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa hẹp: “Kinh tế biển bao gồm toàn bộ các
hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: (1) Kinh tế hàng hải (vận tải biển
và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng); (3) Khai thác dầu khí
ngoài khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;
(7) Kinh tế đảo”.
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng:
“Kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển: Kinh tế hàng
hải; Hải sản; Khai thác dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn; Kinh tế đảo và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến
khai thác biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: Đóng và sửa chữa tàu biển; Công
nghiệp chế biến dầu khí; Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; Cung cấp dịch vụ
11
biển; Thông tin liên lạc biển; Nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân
lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển”.
[18]
Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ví dụ trong thống kê hằng năm về kinh tế biển của Trung Quốc cũng bao gồm: hải
sản, khai thác dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng
tàu biển, viễn thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển,…
Như vậy, quan niệm kinh tế biển theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng đã chỉ ra cơ
cấu các ngành nghề, các hoạt động liên quan đến kinh tế biển.
Trong Đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và
các hải đảo Việt Nam đến năm 2010” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì (1995 –
1996), các tác giả cho rằng:
“Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế diễn ra trên
biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển, trong đó biển chủ yếu đóng
vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch
biển,…còn toàn bộ các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển lại nằm trên
dải đất liền ven biển. Do vậy. khi nói đến kinh tế biển không thể tách vùng biển với
vùng ven biển và ngược lại”. [16]
Khái niệm này đã chỉ ra các hoạt động kinh tế biển và không gian của kinh tế
biển gồm hai bộ phận là không gian biển và không gian dải đất liền ven biển.
Theo đó, đối với lãnh thổ Việt Nam, kinh tế vùng ven biển là các hoạt động
kinh tế ở dải ven biển, có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển
hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển – có biên giới đất liền tiếp giáp với biển, bao
gồm các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên phạm vi địa bàn
lãnh thổ này. [18]
1.1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế biển
Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế (gọi tắt là cơ cấu ngành): là một bộ phận cấu
thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của
nền kinh tế được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu
12
ngành thể hiện số lượng, tỉ trọng của các ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế và
giữa chúng có mối quan hệ tương quan, thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế.
[12]
Cơ cấu ngành kinh tế biển: ngày nay các nhà khoa học về kinh tế biển trong
nhiều đề tài khác nhau đã coi kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế chung của
các quốc gia, vùng lãnh thổ có biển. Đồng thời, bản thân kinh tế biển là một ngành
kinh tế tổng hợp gồm nhiều bộ phận cấu tạo thành và giữa các bộ phận đó có mối
quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau.
Có nhiều cách phân chia cơ cấu ngành kinh tế biển khác nhau nhưng nhìn
chung nội dung thì tương tự nhau tùy theo cách sắp xếp các nhóm ngành. Các ngành
chính của kinh tế biển bao gồm: Ngành khai thác mỏ (chủ yếu là khai thác dầu khí);
Ngành thủy sản; Ngành giao thông vận tải biển; Ngành du lịch biển – đảo; Ngành
sản xuất muối; Hoạt động kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên, tùy theo tiềm năng và thế mạnh của từng quốc gia, khu vực có
biển có thể bổ sung thêm các ngành kinh tế biển khác như ngành kinh tế đảo, ngành
kinh tế lấn biển,..
Nền kinh tế biển ngày nay chủ yếu dựa vào các hoạt động đánh bắt hải sản
(70%), hàng hải (18%), ngành khai thác dầu khí chiếm 11% giá trị Tài nguyên biển,
các hoạt động khác chiếm 1% giá trị. [1]
Cơ cấu ngành kinh tế biển thể hiện trình độ sự phân công lao động xã hội của
kinh tế biển, đồng thời thể hiện trình độ phát triển về kinh tế biển của các quốc gia,
vùng lãnh thổ có biển trên cơ sở phát triển mạnh các ngành thiên về khai thác tài
nguyên hay các ngành thiên về yếu tố khoa học, kĩ thuật. Ngày nay, trình độ phát
triển kinh tế biển thường được chú trọng đánh giá theo hướng phát triển bền vững
hay chưa bền vững.
1.1.1.3. Cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển
Theo định nghĩa về kinh tế biển, cơ cấu lãnh thổ hay không gian kinh tế biển
bao gồm hai bộ phận là không gian trên biển và lãnh thổ của dải đất liền ven biển.
Theo đó, không gian trên biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là
13
môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển,…phạm vi dải đất liền ven biển
là không gian tổ chức các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển.
Tuy nhiên, cũng có cách quan niệm khác về cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển.
Theo đó, lãnh thổ kinh tế biển tập trung chủ yếu vào các mảng không gian: (1)
không gian vùng bờ (ven biển và ven bờ); (2) không gian biển; (3) không gian đảo
và (4) không gian đại dương. Đối với kinh tế biển nói chung, cả bốn mảng không
gian này đều rất quan trọng vì nó cung cấp những tiềm năng và lợi thế khác nhau
cho phát triển kinh tế. [18]
Không gian vùng bờ với hai bộ phận là không gian vùng ven biển và không
gian vùng ven bờ có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Không gian
vùng ven biển là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động trên
biển thông qua các trung tâm kinh tế hải đảo. Không gian vùng ven bờ là mảng
không gian cực kì quan trọng để phát triển kinh tế biển đặc biệt là đối với phát triển
thủy sản bền vững. Đây là nơi cư trú tự nhiên, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của
nhiều loài thủy sinh vật (90% các loài thủy hải sản sống ở vùng thềm lục địa và biển
xa có tập tính gắn bó với vùng ven bờ). Các hệ sinh thái quan trọng (rạn san hô,
thảm cỏ biển, rừng ngập mặn,..) đều tập trung ở vùng này, cung cấp tiềm năng bảo
tồn đa dạng sinh học biển và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác, nuôi
trồng thủy hải sản.
Không gian biển rộng lớn là nơi để phát triển các hoạt động hàng hải và khai
thác mỏ (chủ yếu là dầu khí). Là không gian phát triển nghề cá, không gian bố trí
các công trình biển như giàn khoan dầu khí, các công trình biển khác để xúc tiến
nuôi trồng thủy hải sản; là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế.
Phát triển không gian biển phải gắn chặt với kinh tế hải đảo, các trung tâm kinh tế
vùng ven biển, đồng thời bảo vệ môi trường biển.
Không gian đảo là nơi quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi
thủy sản, phát triển nghề cá, nuôi trồng thủy hải sản (các đầm phá nông quanh các
đảo, quần đảo) và du lịch sinh thái biển. Để sử dụng không gian đảo hợp lý cho phát
triển kinh tế cần xác định chức năng theo thế mạnh của từng đảo để tiến hành quy
14
hoạch phát triển kinh tế hải đảo. Trên thế giới có 10 đảo được xếp hạng “đắt nhất”,
trong khi Việt Nam chưa tận dụng tốt không gian này để phát triển kinh tế.
Không gian đại dương là nơi diễn ra các hoạt động viễn dương, khai thác
đại dương,..có ý nghĩa rất quan trọng nếu không nói là quyết định trong nền kinh tế
biển của các nước trên thế giới. Ở nước ta, việc khai thác không gian đại dương còn
nhiều hạn chế.
Như vậy, mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ, tùy theo thế mạnh về tài nguyên
biển, trình độ phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật và công nghệ khác nhau sẽ có thế
các chính sách khai thác các mảng không gian biển khác nhau. Đối với các quốc gia
phát triển thì mảng không gian đảo và đại dương sẽ là phương hướng lựa chọn hàng
đầu trong tương lai. Hai mảng không gian này rất rộng lớn lại có nhiều tiềm năng
và họ có đủ tiềm lực về tài chính và khoa học công nghệ để khai thác chúng. Hơn
nữa, nó phù hợp với xu hướng phát triển bền vững. Ngược lại, các quốc gia đang
phát triển sẽ chú trọng mảng không gian vùng bờ và vùng biển hơn vì nó dễ khai
thác hơn và phụ hợp chính sách đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa của các quốc
gia này.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển
1.1.2.1. Các nhân tố tự nhiên
*Vị trí chiến lược, đặc điểm vùng biển, ven biển:
Vị trí chiến lược của các vùng biển ảnh hưởng đến các mặt kinh tế, chính trị,
an ninh quốc phòng của các quốc gia có biển. Vị trí này liên quan chặt chẽ đến các
tuyến đường hàng hải, thông thương kinh tế giữa các châu lục, khu vực, quốc gia
trên thế giới.
Vị trí vùng biển, ven biển là “mặt tiền” quan trọng để các quốc gia thông
thương, mở cửa với nước ngoài. Mặt khác, nó còn là yếu tố quan trọng trong thu hút
đầu tư vì giao thông thuận lợi và gắn liền với các đô thị lớn.
Đặc điểm vùng biển, ven biển ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển thông
qua các điều kiện thuận lợi để xây dựng các cảng biển, phát triển giao thông vận tải
biển, các nguồn tài nguyên biển như hải sản, khoáng sản,..
15
*Tài nguyên dầu khí và khoáng sản:
Tài nguyên dầu khí và các khoáng sản có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
kinh tế biển. Dầu khí là nguồn nguyên liệu quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng đến hầu
hết các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, trong đó nhiều nhất là giao thông vận tải biển,
công nghiệp ven biển. Các khoáng sản ở vùng biển và ven biển như than, sắt, titan,
cát thủy tinh,..là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành công nghiệp khai khoáng
và luyện kim, phục vụ phát triển các ngành công nghiệp vùng ven biển. Dầu khí và
khoáng sản của vùng biển, ven biển giữ vai trò là nguồn lực quan trọng để phát triển
kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
*Khả năng phát triển cảng biển và giao thông vận tải biển:
Đối với các quốc gia có biển, việc có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng
hệ thống cảng biển là một ưu thế vượt trội trong việc phát triển kinh tế biển. Hệ
thống cảng biển hoàn chỉnh, hiện đại sẽ thúc đẩy giao thông vận tải biển và dịch vụ
hàng hải phát triển. Hệ thống cảng biển giúp tăng cường khả năng trao đổi, mua bán
hàng hóa, phát triển giao thông vận tải biển đa dạng từ vận tải viễn dương, vận tải
ven biển đến vận tải pha sông biển. Mặt khác, khi cảng biển phát triển cũng kéo
theo sự phát triển ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, phát triển các
ngành công nghiệp và dịch vụ ven biển.
*Tài nguyên du lịch biển:
Các trung tâm du lịch lớn của thế giới thường phân bố ở vùng biển, ven biển
do có nguồn tài nguyên du lịch biển phong phú gắn liền với các đô thị lớn, hiện đại.
Thực tế cho thấy, nơi có nguồn tài nguyên du lịch biển phong phú, các sản phẩm du
lịch biển đa dạng, phát triển nhiều loại hình du lịch độc đáo thì du lịch biển sẽ hình
thành và phát triển mạnh. Các loại hình du lịch biển phát triển mạnh hiện nay là tắm
biển, nghỉ dưỡng – chữa bệnh, tham quan kết hợp nghiên cứu, vui chơi giải trí, hội
nghị,…
*Tài nguyên hải sản:
Tài nguyên hải sản giữ vai trò thế mạnh đặc trưng trong việc phát triển kinh
tế biển của các quốc gia. Nguồn tài nguyên hải sản rất đa dạng. Sức sản xuất của
16
biển khoảng 500 tỉ tấn/năm, sản lượng khai thác tối đa đạt 600 triệu tấn/năm. Đây là
tiềm năng lớn để phát triển ngành khai thác hải sản. Bên cạnh đó, dọc ven biển
thường có nhiều đầm, phá, vịnh,.. có khả năng nuôi trồng nhiều loại thủy hải sản.
Mặt khác, việc phát triển mạnh mẽ ngành nuôi trồng và khai thác hải sản sẽ thúc
đẩy sự phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp đóng và sửa
chữa tàu biển, các ngành nghề dịch vụ khác như dịch vụ hậu cần nghề cá, hoạt động
xuất - nhập khẩu,…
1.1.2.2. Các nhân tố kinh tế- xã hội
*Nguồn nhân lực ven biển:
Nguồn nhân lực ven biển là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế biển. Nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng sẽ cung ứng kịp thời
nguồn lao động cho các ngành kinh tế biển. Bên cạnh đó, nguồn lao động có trình
độ cao rất cần thiết trong công việc lập quy hoạch, quản lí việc khai thác, phát triển
các ngành kinh tế biển có hiệu quả và bền vững. Ngược lại, việc các đô thị lớn thu
hút quá nhiều lực lượng lao động làm cho các vùng biển và ven biển gặp nhiều
thách thức trong sự phát triển. Đó là việc thiếu nguồn lao động cả về số lượng lẫn
chất lượng dẫn đến các ngành kinh tế biển phát triển bấp bênh, thiếu đồng bộ, chưa
bền vững.
*Các chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng biển, ven biển:
Tầm nhìn, chủ trương, chiến lược, chính sách của các quốc gia sẽ mang đến
những cơ hội và thách thức cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển. Các
chính sách kinh tế biển liên quan đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế biển,
chính sách đối ngoại, tình hình đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển. Bên cạnh
đó là việc giải quyết các vấn đề về xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh
quốc phòng,..
1.1.3. Phát triển kinh tế biển bền vững
1.1.3.1. Định nghĩa phát triển bền vững
Thuật ngữ Phát triển bền vững (Sustainable Development) đầu tiên được sử
dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm 1980. Mục tiêu
17
tổng thể là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật
ngữ PTBV ở đây đề cập đến một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự
phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Vào năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Our Common
Future), Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa
về phát triển bền vững như sau: [5]
“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng làm thỏa mãn nhu cầu của chính
các thế hệ mai sau”.
Định nghĩa này được nhiều người tán đồng vì nó mang tính khái quát cao
mối quan hệ giữa các thế hệ về thỏa mãn các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh
thần, từ đó tạo ra PTBV. Suy cho cùng, bản chất của phát triển bền vững là sự tồn
tại bền vững của loài người trên Trái đất, không phân biệt quốc gia, dân tộc và trình
độ kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, định nghĩa này thiên về mục tiêu, yêu cầu của phát triển bền
vững, chưa nói đến bản chất các mối quan hệ nội tại của quá trình phát triển bền
vững. Vì thế, Tổ chức Ngân hàng Phát triển Châu Á đã đưa ra định nghĩa cụ thể
hơn:
“PTBV là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo
vệ tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng các nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng
các nhu cầu của thế hệ trong tương lai”
Định nghĩa này có cụ thể hơn nhưng vẫn chưa đề cập được bản chất của quan
hệ giữa các yếu tố của PTBV và chưa đề cập đến các nhóm nhân tố cụ thể mà quá
trình PTBV phải đáp ứng cùng một lúc.
Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về
Môi trường ở Rio de Janero năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị
Johannesburg năm 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp
lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là phát triển kinh tế, công bằng xã hội
18
và bảo vệ môi trường”. Ngoài ba mặt chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập đến
các khía cạnh khác như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc,…
Dựa trên quan điểm tiếp cận tổng hợp, tác giả Lê Văn Khoa đề xuất một
quan niệm mới về PTBV: “PTBV là một quá trình vận động của một hệ thống kinh
tế - xã hội, trong đó có sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo tồn tài nguyên, môi trường sống vì sự tồn tại ngày một tốt hơn của các
thế hệ kế tiếp”. [5]
Theo định nghĩa này, PTBV là phát triển tạo nên một nền kinh tế tăng trưởng
đều cả về lượng và chất, một xã hội ổn định, các nguồn tài nguyên sinh thái, môi
trường được bảo tồn.
Như vậy, khái niệm PTBV đã hình thành và phát triển không ngừng. Thuật
ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1980 trong “Chiến lược bảo tồn thế
giới”. Năm 1983, Liên Hợp Quốc đã thành lập Hội đồng thế giới về Môi trường và
Phát triển. Bốn năm sau, năm 1987, khái niệm PTBV chính thức được nêu ra trong
báo cáo Brundtland “Tương lai chung của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát
triển Liên hợp quốc. Tiếp theo đó, tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất diễn ra ở Rio
de Janero (Braxin) năm 1992 và Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, khái niệm
PTBV đã được cộng đồng thế giới thừa nhận và sử dụng rộng rãi. Và Chương trình
Nghị sự 21 toàn cầu – Agenda 21 - Chương trình về sự phát triển bền vững của thế
giới trong thế kỉ XXI đã ra đời sau hội nghị ở Rio de Janero năm 1992 đã trở thành
điểm nhấn cho nổ lực vì sự PTBV của nhân loại.
1.1.3.2. Đặc điểm của phát triển bền vững
Từ định nghĩa, ta có thể hiểu PTBV có những đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, PTBV là một phạm trù khoa học tổng hợp về tự nhiên, kinh tế - xã
hội.
PTBV đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội với bảo vệ tài nguyên và môi trường nhằm đảm bảo cuộc sống của con người
ở hiện tại và tương lai. Muốn PTBV thì phải có những nghiên cứu dựa trên cơ sở
khoa học nhằm tìm ra giải pháp dung hòa được mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế, lợi
19
ích xã hội và chất lượng môi trường; dung hòa giữa lợi ích hiện tại và lợi ích cho
tương tai. Nếu thiếu một trong ba nội dung trên thì sự phát triển không còn mang
tính bền vững. Vì vậy, có thể nói PTBV là một phạm trù khoa học tổng hợp.
Thứ hai, PTBV mang tính khách quan và là xu hướng tất yếu của thời đại.
Phạm trù PTBV mang tính khách quan vì nó tồn tại và biến chuyển cùng với
sự phát triển của xã hội loài người. Trước đây, các quốc gia chỉ lấy chỉ tiêu phát
triển làm thước đo sự giàu có của quốc gia mà không có hoặc rất ít quan tâm đến
công bằng xã hội và chất lượng môi trường. Chính sự khai thác quá mức nhằm đáp
ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đã làm cho nguồn tài nguyên
trên Trái Đất ngày càng suy thoái và cạn kiệt; bề mặt Trái Đất hứng chịu quá nhiều
chất thải từ sinh hoạt, sản xuất của con người nên bị ô nhiễm nghiêm trọng. Không
những thế, nhiều giá trị văn hóa, xã hội cũng bị suy thoái, xói mòn cùng với sự suy
thoái kinh tế. Ngày nay, con người đã nhận thức được rằng phải thay đổi, điều chỉnh
hành vi, thái độ của mình để giữ gìn, bảo vệ môi trường sống của chính con người.
Như vậy, xã hội càng phát triển văn minh thì nội hàm của PTBV càng được
quan tâm đầy đủ và đúng mức. Và với xu hướng dân số thế giới ngày càng tăng
nhanh trong khi nguồn tài nguyên ngày càng có nguy cơ cạn kiệt và môi trường bị ô
nhiễm ngày càng nhiều thì PTBV là xu thế bắt buộc của thế giới và các quốc gia,
các cộng đồng trong tương lai nhằm đảm bảo sự tồn tại của loài người.
Thứ ba, PTBV không loại trừ tăng trưởng kinh tế mà cần một sự phát triển
hài hòa.
Nếu một quốc gia, vùng lãnh thổ không có tăng trưởng kinh tế thì không thể
đáp ứng nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Không có tăng
trưởng kinh tế thì không có điều kiện để cải tiến, phát triển văn hóa xã hội cũng như
không có điều kiện về tài chính, kĩ thuật để cải tạo môi trường sống ngày càng tốt
đẹp. Và như thế, hệ quả là không thể đạt được sự phát triển bền vững. Điều quan
trọng ở đây là không thể loại trừ hay hạn chế tối đa tăng trưởng kinh tế mà phải giải
quyết mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và chất lượng
môi trường sống cho cân đối, hài hòa, đảm bảo sự phát triển kinh tế đi đôi với công
20
bằng, tiến bộ xã hội và nâng cao hiệu quả tái tạo, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và môi trường.
Thứ tư, PTBV là một quá trình xã hội – chính trị, một lối sống, một nguyên
tắc đạo đức mới: [4]
Thách thức lớn nhất của PTBV không phải là khoa học, công nghệ mà đòi
hỏi phải thay đổi hành vi của con người về mặt tổ chức, hoạch định chính sách và
chiến lược. Bởi vì con người là nhân tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung tâm, quan
trọng nhất quyết định sự phát triển của nhân loại. PTBV đòi hỏi một sự lãnh đạo và
thiết kế mới đối với tổ chức chính trị và xã hội, một sự thay đổi cơ bản không những
cần nhiều thông tin hơn mà có thêm nhiều hơn nữa các hoạch định và các chiến
lược. Trước hết, các nhà lãnh đạo đất nước phải thay đổi nhận thức, thái độ nhìn
nhận mang tầm vĩ mô và vi mô để có những chính sách chiến lược về phát triển
kinh tế, xã hội, môi trường phù hợp với xu hướng dân số ngày càng tăng nhanh, tài
nguyên ngày càng cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, PTBV không thể là trách nhiệm và nghĩa vụ của một vài cá
nhân, tổ chức hay quốc gia nào mà phải là sự hợp tác, đóng góp và là trách nhiệm
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia trên tinh thần “toàn cầu hóa” vì sự
phát triển của chính con người trong tương lai. Trong đó, giáo dục và truyền thông
môi trường là một công cụ cực kỳ quan trọng của PTBV. Tuy nhiên, công cụ này
chỉ thật sự sắc bén nếu những lựa chọn về giá trị được chuyển giao vào quá trình
hoạch định chính sách và ra quyết định.
1.1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của phát triển bền vững
Ba bộ phận chính của PTBV đó là lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và bảo vệ
môi trường. Mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của PTBV thể hiện ở những
tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau của các bộ phận để tạo nên sự PTBV.
Một sự phát triển đạt được mục tiêu PTBV khi và chỉ khi đạt được sự hài hòa
giữa phát triển kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sống hiệu
quả. Ba bộ phận này tạo thành một thể thống nhất, không thể tách rời; nếu thiếu một
21
trong ba bộ phận trên thì sự phát triển chưa đạt được mục tiêu PTBV, tức là chưa
đảm bảo cơ sở cho sự phát triển ổn định và lâu dài.
Ba bộ phận của PTBV luôn tác động, ảnh hưởng qua lại, chi phối lẫn nhau.
Bộ phận này có thể thúc đẩy các bộ phận khác cùng phát triển để đạt được sự PTBV
hoặc ngược lại, kìm hãm sự phát triển lẫn nhau.
Khi kinh tế phát triển bền vững sẽ tạo sự cân đối giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường hiệu quả. Kinh tế tăng trưởng góp
phần tăng thu nhập quốc dân, tăng thu nhập bình quân trên đầu người của các quốc
gia, vùng lãnh thổ. Mặt khác, sự phát triển các ngành kinh tế sẽ giúp giải quyết việc
làm cho người lao động tốt hơn, giúp nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm
nghèo hiệu quả. Bên cạnh đó, việc nâng cao mức sống của người dân giúp họ có
điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ văn hóa, xã hội đa dạng hơn như du lịch,
vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận nền giáo dục hiện đại,..
Tăng trưởng kinh tế còn tạo ra nguồn tài chính và khoa học kĩ thuật vững
mạnh để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng như điện, nước sạch, y
tế, giáo dục, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội.
Phát triển kinh tế bền vững còn cân đối được tốc độ tăng trưởng kinh tế với
sử dụng nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, tăng cường sử dụng
công nghệ sạch trong sản xuất, góp phần bảo vệ tốt tài nguyên và hạn chế ô nhiễm
môi trường.
Như vậy, phát triển kinh tế bền vững góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ tốt tài nguyên và môi trường.
Xã hội phát triển bền vững cũng sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế và bảo
vệ môi trường. Trong một xã hội phát triển, nền giáo dục – đào tạo có cơ hội phát
triển tốt nhất sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, phục vụ cho việc phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững. Một xã hội dân
chủ, tiến bộ và bình đẳng sẽ có trình độ và chất lượng cuộc sống phát triển cao, nhu
cầu của con người để đáp ứng và thỏa mãn cuộc sống cũng không ngừng được nâng
cao. Đó là điều kiện thúc đẩy, kích thích quá trình sản xuất phát triển mạnh.
22
Công tác xóa đói giảm nghèo và phúc lợi xã hội được đảm bảo tốt góp phần
giảm sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa xã hội, đồng thời giảm đáng kể sự phụ
thuộc của cộng đồng, nhất là những người nghèo khổ vào nguồn tài nguyên. Bên
cạnh đó, ý thức tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường của cộng đồng được nâng
lên vì nó gắn liền với lợi ích cộng đồng. Nhờ đó, việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
và môi trường sẽ tốt hơn.
Bảo vệ tài nguyên và môi trường bền vững sẽ mang lại nhiều tác động tích
cực cho sự phát triển bền vững kinh tế và xã hội. Phát triển bền vững về tài nguyên
và môi trường là các tài nguyên thiên nhiên đuợc sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có khả
năng tái tạo nhằm đảm bảo nguồn tài nguyên phong phú và dồi dào cho quá trình
sản xuất. Môi trường tự nhiên, xã hội không bị các hoạt động của con người làm suy
thoái, ô nhiễm, nhờ đó môi trường sống của con người được đảm bảo, góp phần
nâng cao sức khỏe, trí tuệ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Việc tăng cường công
nghệ sạch và công nghệ tiết kiệm vừa hạn chế ô nhiễm môi trường vừa tiết kiệm tài
nguyên; hạn chế tối đa chi phí để khắc phục các sự cố môi trường, giảm chi phí sản
xuất, tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất.
Tóm lại, để PTBV thì ba mặt: lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và chất lượng môi
trường sống không thể tách rời, chúng gắn bó chặt chẽ với nhau theo mối quan hệ
biện chứng. Bất cứ sự thay đổi nào của một trong ba bộ phận trên đều kéo theo sự
thay đổi của các bộ phận khác. Tuy nhiên, việc thực hiện điều tiết thành công ba lợi
ích trên đối với các quốc gia không phải là dễ dàng và đồng bộ. Ở các quốc gia,
trong quá trình phát triển chắc chắn sẽ xảy ra những mâu thuẫn, nhất là các quốc gia
đang phát triển. Do đó, tùy theo điều kiện cụ thể từng quốc gia, từng địa phương mà
có chính sách, chiến lược phù hợp để điều tiết các lợi ích trong ngưỡng giới hạn của
nó, tránh sự phá vỡ nguyên tắc của PTBV.
1.1.3.4. Các nguyên tắc phát triển bền vững
Nguyên tắc là những điều cơ bản đã được qui định để dùng làm cơ sở cho
các mối quan hệ xã hội hoặc là điều cơ bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo
hành động.
23
Trong tác phẩm “Hãy cứu lấy Trái Đất – chiến lược cho một cuộc sống bền
vững” của UNEP (1991) đã đưa ra 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững. Tuy
nhiên các nguyên tắc này thật sự khó áp dụng trong thực tế của một thề giới đầy
biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa; đòi hỏi cần thiết lập một hệ thống các
nguyên tắc khác có tính khả thi và sát thực hơn. Luc Hens (1995) đã lựa chọn trong
số các nguyên tắc của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển để xây dựng một
hệ thống 7 nguyên tắc mới của PTBV. Đó là: [5]
Nguyên tắc về sự ủy thác của nhân dân
Nguyên tắc này yêu cầu chính quyền phải hành động để ngăn ngừa thiệt hại
môi trường xảy ra ở bất cứ đâu. Nguyên tắc này cho rằng, công chúng có quyền đòi
chính quyền với tư cách là người đại diện cho họ phải có hành động ứng xử với các
sự cố môi trường.
Nguyên tắc phòng ngừa
Ở những nơi có thể xảy ra các sự cố môi trường nghiêm trọng và không đảo
ngược được thì không thể lấy lí do là chưa có những hiểu biết chắc chắn mà trì hoãn
các biện pháp ngăn ngừa sự cố môi trường. Về chính trị, nguyên tắc này rất khó áp
dụng, và trên thực tế nhiều nước đã cố tình quên. Việc chọn lựa các biện pháp
phòng ngừa nhiều khi bị gán tội là chống lại các thành tựu phát triển kinh tế đã hiện
hành trước mắt và luôn luôn được tụng xưng ca ngợi theo cách hiểu của tăng trưởng
kinh tế.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các thế hệ
Đây là nguyên tắc cốt lõi của PTBV, yêu cầu rõ ràng rằng, việc thỏa mãn nhu
cầu của thế hệ hiện nay không được làm phương hại đến các thế hệ tương lai thỏa
mãn nhu cầu của họ. Nguyên tắc này phụ thuộc vào việc phát triển tổng hợp và có
hiệu quả các nguyên tắc khác của PTBV.
Nguyên tắc bình đẳng trong nội bộ
Con người trong cùng thế hệ có quyền được hưởng lợi một cách bình đẳng
trong việc khai thác các nguồn tài nguyên và hưởng một môi trường trong lành.
Nguyên tắc này được áp dụng để xử lý mối quan hệ giữa các nhóm người trong
24
cùng một quốc gia và giữa các quốc gia. Nguyên tắc này ngày càng được sử dụng
nhiều hơn trong đối thoại quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi một quốc gia, nó cực kì
nhạy cảm với các nguồn lực kinh tế, xã hội và văn hóa.
Nguyên tắc phân quyền và ủy quyền
Các quyết định cần được soạn thảo bởi chính các cộng đồng bị tác động hoặc
bởi các tổ chức thay mặt họ và gần gũi với họ. Các quyết định cần ở mức quốc gia
hơn là quốc tế, mức địa phương hơn là mức quốc gia. Đây là nguyên tắc cơ bản
nhằm kiểm soát sự ủy quyền của các hệ thống quy hoạch ở tầm quốc tế, nhằm cổ vũ
quyền lợi của các địa phương về sở hữu tài nguyên, về nghĩa vụ đối với môi trường
và các giải pháp riêng của họ. Áp lực ngày càng lớn đòi hỏi sự ủy quyền ngày càng
tăng. Tuy nhiên, cần phải hiểu cho đúng là: địa phương chỉ là một bộ phận của các
hệ thống rộng lớn hơn chứ không phải thực thi chức năng một cách cô lập. Thường
thì các vấn đề môi trường có thể phát sinh ngoài tầm kiểm soát địa phương, ví dụ
như sự ô nhiễm “ngược dòng” của nước láng giềng hay cộng đồng lân cận. Trong
trường hợp đó, nguyên tắc ủy quyền cần được xếp xuống thấp hơn các nguyên tắc
khác.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Người gây ô nhiễm phải chịu mọi chi phí ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm,
phải nội bộ hóa tất cả các chi phí môi trường nảy sinh từ các hoạt động của họ, sao
cho các chi phí này được thể hiện đầy đủ trong giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà
họ cung ứng. Tuy nhiên, sẽ không tránh khỏi trường hợp là, nếu áp dụng nguyên tắc
này quá nghiêm khắc thì sẽ có xí nghiệp công nghiệp phải đóng cửa. Cộng đồng có
thể cân nhắc, vì trong nhiều trường hợp, các phúc lợi xã hội do có công ăn việc làm
nhiều khi còn lớn hơn các chi phí cho vấn đề sức khỏe và môi trường bị ô nhiễm.
Do đó, cơ chế áp dụng nguyên tắc này cũng cần linh hoạt và trong nhiều trường hợp
phải tạo điều kiện về thời gian để các doanh nghiệp thích ứng dần dần với các tiêu
chuẩn môi trường.
25
Nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền
Khi sử dụng hàng hóa hay dịch vụ, người sử dụng phải trả đủ giá tài nguyên
cũng như các chi phí môi trường liên quan đến việc chiết tách, chế biến và sử dụng
tài nguyên.
Dựa trên các nguyên tắc chung về PTBV của thế giới, Việt Nam cũng đã xây
dựng bộ 8 nguyên tắc PTBV của Việt Nam, phù hợp với tình hình, điều kiện của đất
nước. Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, con người là trung tâm của PTBV.
Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn sắp tới kết
hợp với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể
tách rời của quá trình phát triển.
Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu
cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Thứ năm, khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.
Thứ sáu, PTBV là sự nghiệp của các cấp chính quyền, các Bộ, các ngành và
địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư
và mọi người dân.
Thứ bảy, gắn chặt nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường với
đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội.[5]
Mặt khác, các địa phương trong cả nước cũng đã tiến hành xây dựng chiến
lược phát triển bền vững của địa phương theo từng giai đoạn phát triển cụ thể như
một hành động thiết thực góp phần cụ thể hóa chính sách của nhà nước. Như vậy,
PTBV ngày càng thâm nhập sâu rộng và phổ biến vào mọi mặt của đời sống cộng
đồng thế giới, các quốc gia, vùng lãnh thổ và từng địa phương.
26
1.1.3.5. Các tiêu chí phát triển bền vững
Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu để dựa vào đó phân biệt, đánh giá các sự vật,
hiện tượng.
Tổng quan các tài liệu nghiên cứu, có thể thấy phạm trù PTBV cho dù ở cấp
độ quốc tế, quốc gia hay địa phương đều phải đáp ứng ba tiêu chí chính đó là bền
vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Theo đó: [5]
Bền vững về kinh tế đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với
việc sử dụng các điều kiện ngoại lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công nghệ,
đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch, năng lượng sạch.
Bền vững về xã hội là xây dựng một xã hội trong đó nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và ổn định phải đi đôi với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội; giáo dục đào
tạo, y tế, bình đẳng giới, giải quyết công ăn việc làm, khai thác tiềm năng tri thức
bản địa và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng
trong xã hội.
Bền vững về tài nguyên môi trường là các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể
tái tạo được sử dụng trong khả năng chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về
số lượng và chất lượng; các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết
kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội không bị các hoạt
động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công
nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được đảm bảo,
con người được sống trong môi trường sạch sẽ,..
Ba tiêu chí bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi
trường chính là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo sự phát triển bền vững của
xã hội. Nếu thiếu một trong những điều kiện đó thì sự phát triển đứng trước nguy cơ
mất bền vững.
Trên tinh thần chung của thế giới, Việt Nam đã kí cam kết với cộng đồng
quốc tế tại các Hội nghị Thượng đỉnh về PTBV và tiến hành xây dựng các bộ tiêu
chí PTBV ở cấp quốc gia và địa phương. Trên thực tế có nhiều bộ tiêu chí về PTBV
27
ở Việt Nam được đề xuất bởi nhiều Viện nghiên cứu và các dự án khác nhau, trong
đó có bộ tiêu chí PTBV của Viện Môi trường và PTBV đề xuất năm 2003 là đơn
giản và cụ thể. Theo đó, bộ tiêu chí PTBV cấp quốc gia gồm 34 tiêu chí: 4 tiêu chí
về kinh tế, 12 tiêu chí về xã hội, 14 tiêu chí về môi trường, 4 tiêu chí về đáp ứng; bộ
tiêu chí cấp địa phương gồm 28 tiêu chí: 6 tiêu chí về kinh tế, 10 tiêu chí về xã hội,
9 tiêu chí về môi trường và 3 tiêu chí về đáp ứng nhằm đảm bảo PTBV. (Xem phần
Phụ lục 1).
Trong bộ tiêu chí PTBV cấp quốc gia và địa phương của Viện Môi trường và
PTBV đề xuất thì số lượng về các tiêu chí xã hội và môi trường tương đối nhiều,
các tiêu chí về kinh tế ít. Trong bộ tiêu chí cấp quốc gia, số lượng các tiêu chí về
môi trường là nhiều nhất (14 tiêu chí). Trong khi đó, với bộ tiêu chí cấp địa phương,
số lượng tiêu chí xã hội nhiều nhất, gần bằng số lượng tiêu chí về môi trường. Điều
này cho thấy sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các nhà lãnh đạo về vấn đề phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế. Nội dung
của các tiêu chí ngày càng cụ thể, đi sâu vào nhiều khía cạnh của đời sống và sản
xuất. Đặc biệt là các tiêu chí về đáp ứng thể hiện sự đòi hỏi về trách nhiệm và nhận
thức của quốc gia và các địa phương trong quá trình PTBV.
1.1.3.6. Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững
Phát triển kinh tế biển bền vững là sự phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh
tế biển gắn liền với phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của
dân cư vùng ven biển và bảo tồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường sinh thái vùng
biển, ven biển có hiệu quả.
Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững bao gồm các chỉ số về
kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường và thể chế.
Các chỉ số về kinh tế:
- Qui mô và tốc độ tăng GDP các ngành kinh tế biển;
- Tỉ lệ đóng góp GDP của kinh tế biển vào cơ cấu GDP kinh tế của quốc
gia, lãnh thổ;
- GDP bình quân đầu người;
28
- Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế biển theo hướng tăng tỉ trọng công
nghiệp – dịch vụ; giảm mạnh tỉ trọng nông nghiệp; giảm các ngành sử
dụng thuần nguồn tài nguyên biển;
- Đảm bảo giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế biển năm sau cao hơn
năm trước.
- Bản thân mỗi ngành kinh tế biển cũng tích cực chuyển dịch: ngành thủy
sản tăng tỉ trọng ngành nuôi trồng, giảm tỉ trọng ngành khai thác; ngành
du lịch biển tăng các sản phẩm du lịch sinh thái gắn với cộng đồng; ngành
giao thông vận tải biển tăng đội tàu thuyền vận tải biển, khối lượng hàng
hóa vận chuyển và luân chuyển; ngành sản xuất muối chuyển đổi công
nghệ, sản xuất muối sạch, tăng năng suất,..
- Tăng cường hoạt động thương mại: đảm bảo các quận, huyện ven biển
đều có trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối thủy sản,.. chuyên
kinh doanh các sản phẩm kinh tế biển của địa phương;
- Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng qua các năm;
- Tăng các sản phẩm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng;
- Tỉ lệ đầu tư phát triển kinh tế biển;
- Tăng cường và đa dạng các dịch vụ tài chính, đảm bảo mỗi địa phương
ven biển đều có ngân hàng và hệ thống tín dụng mạnh;
- Tổng thu ngân sách từ các hoạt động kinh tế biển cao hơn tổng chi cho
phát triển kinh tế - xã hội – môi trường vùng biển, ven biển.
Các chỉ tiêu về văn hóa – xã hội:
- Tỉ lệ hộ nghèo vùng ven biển;
- Diện tích nhà ở tối thiểu;
- Tỉ lệ tăng dân số; tỉ lệ dân thành thị, nông thôn;
- Tỉ lệ lao động qua đào tạo;
- Tỉ lệ lao động có việc làm;
- Tỉ lệ hộ dân sử dụng điện;
- Tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch;
29
- Số y bác sĩ, giường bệnh trên 1 vạn dân;
- Số trường học, giáo viên, học sinh các cấp;
- Tỉ lệ dân cư biết chữ trên tổng số dân;
- Mức độ hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, thông tin
liên lạc;
- Mỗi tỉnh ven biển có ít nhất một cảng biển;
- Tỉ lệ dân cư được tiếp cận thông tin qua phát thanh, truyền hình, báo
chí,…tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao,..
- Tỉ lệ đầu tư cho khoa học – công nghệ trong tổng vốn đầu tư phát triển
kinh tế -xã hội;
Các chỉ số về bảo tồn tài nguyên và môi trường:
- Diện tích và tỉ lệ che phủ rừng;
- Chất lượng nguồn nước, không khí, đất,..;
- Số lượng nhà máy xử lý rác thải, nước thải đạt tiêu chuẩn trên địa bàn
tỉnh;
- Tỉ lệ đầu tư cho bảo tồn tài nguyên, xử lý và bảo vệ môi trường.
1.2. Một vài nét về hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển trên thế giới và
khu vực
Những năm gần đây, vấn đề khai thác biển và đại dương chiếm vị trí hết sức
quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Những hoạt động kinh tế biển chủ yếu hiện
nay của thế giới là khai thác dầu mỏ và các khoáng sản, khai thác hải sản và hàng
hải. Theo thống kê, từ năm 1975, cả thế giới đã đầu tư khoảng 120 tỉ USD để khai
thác biển và đại dương, trong đó công nghiệp khai thác mỏ 60 – 70 tỉ USD, hải sản
10 tỉ USD, hàng hải 40 tỉ USD. Trung bình cứ đầu tư 1,4 tỉ USD thì trong 15 năm sẽ
thu lại lợi nhuận 6 tỉ USD. [16]
Theo báo cáo của Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, hiện
nay trên toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thủy sản, trong đó có hơn 20
quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu,
Châu Mỹ [12]. Sản lượng khai thác hải sản của thế giới đạt gần 80 triệu tấn (năm
30
2009). Trong đó, các nước có sản lượng hải sản khai thác cao nhất là Trung Quốc
(14,8 triệu tấn), Peru (7,4 triệu tấn), In-đô-nê-xi-a (5 triệu tấn), Mỹ (4,3 triệu tấn),
Nhật Bản (4,2 triệu tấn),..Nghề nuôi trồng thủy hải sản ở hầu hết các quốc gia có
biển đều tăng nhanh và trong tương lai sẽ giữ vai trò chủ đạo trong ngành hải sản.
Ngành nuôi trồng phát triển mạnh ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản, Philippin,..
Ngành khai thác dầu khí nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI đã phát triển
thành một trong những ngành mũi nhọn của kinh tế biển. Hiện nay có hơn 100 quốc
gia tham gia thăm dò và khai thác dầu khí ngoài biển. Sản lượng dầu khí khai thác
ngoài khơi chiếm 25 – 32% sản lượng dầu mỏ và khoảng 20% sản lượng khí thiên
nhiên khai thác được của toàn thế giới. Năm 2009, sản lượng dầu khí khai thác của
toàn thế giới đạt hơn 69 triệu thùng/ngày, trong đó sản lượng dầu khí khai thác từ
biển chiếm 32% sản lượng dầu khí khai thác toàn thế giới. Các nước trong khu vực
Đông Nam Á cũng phát triển mạnh ngành khai thác dầu khí ngoài khơi. Nổi bật là
các quốc gia In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Bru-nây, Thái Lan và Việt Nam.
Công nghiệp khai thác các khoáng sản khác trên thế giới cũng phát triển nhanh
và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1970, trên thế giới có 57
mỏ than ngầm dưới biển đang hoạt động. Riêng Nhật Bản, hàng năm khai thác 10
triệu tấn than dưới biển (30% sản lượng than khai thác). Các nước khác như Chile,
Úc, Thổ Nhĩ Kì, Trung Quốc,..cũng đang khai thác với qui mô khác nhau. [16]
Không gian biển ngày càng được sử dụng nhiều hơn vào mục đích giao thông
vận tải, góp phần phát triển thương mại và giao lưu quốc tế. Các đường thông
thương vòng quanh Trái Đất thông qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây
Dương đã tạo nên mối liên hệ chặt chẽ giữa các khu vực công nghiệp lớn của thế
giới. Ví dụ khu công nghiệp phía Đông Bắc Mỹ, khu công nghiệp Nhật Bản, khu
công nghiệp Tây Bắc Âu, khu công nghiệp Ucraina, khu công nghiệp trung tâm Nga
và khu công nghiệp Uran. Tuyến hang hải từ vịnh Pec-xich vòng qua đại lục Châu
Phi được gọi là “con đường dầu”, con đường vận chuyển các khoáng sản Châu Phi
và sản phẩm cây trồng nhiệt đới của thế giới.
31
Vào những năm 1990, tổng khối lượng vận chuyển bằng đường biển đạt
khoảng 14 triệu tấn/năm. Đến nay, vận tải đường biển vẫn chiếm ¾ khối lượng hàng
hóa trao đổi của thế giới vì ưu điểm vận chuyển được khối lượng hàng hóa lớn với
chi phí thấp. Khoảng ½ khối lượng hàng hóa vận chuyển trên đường biển quốc tế là
dầu mỏ và các sàn phẩm dầu thô. Trên toàn thế giới có hàng trăm tàu chở dầu có
trọng tải hơn 100.000 tấn đang hoạt động [11].
Hiện nay, nhiều nước ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Đài Loan, Singapo,..có nền kinh tế hầu như phụ thuộc vào biển. Hàng năm có
khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và tương ứng 45% khối lượng hàng hóa
xuất khẩu của Nhật Bản vận chuyển qua các tuyến đường biển trên Biển Đông.
Trung Quốc cũng coi Biển Đông là địa bàn chiến lược về thương mại quốc tế. 29
trong tổng số 39 tuyến hàng hải và khoảng 60% khối lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu của Trung Quốc hiện nay được vận chuyển qua Biển Đông. [17]
Hoạt động hàng hải và giao thông vận tải biển gắn liền với sự hình thành và
phát triển hệ thống cảng biển. Cảng biển là nơi cho tàu neo đậu, sửa chữa, tập kết,
bốc xếp hàng hóa,..Cảng biển được phân thành nhiều loại với qui mô khác nhau.
Hiện nay, thế giới khoảng 6000 – 7000 cảng biển đang hoạt động với khoảng 100
cảng có ý nghĩa quốc tế. Các cảng biển quốc tế nổi bật là cảng Rot-tec-đam (Hà
Lan), cảng Luân Đôn, (Anh), cảng Hamburg (Đức),..
Singapo là cảng biển lớn nhất Đông Nam Á, đứng thứ hai thế giới về cảng
con-tai-nơ và thứ tư thế giới về trọng tải tàu ra vào cảng. Hàng năm có khoảng 85%
số tàu biển đi qua khu vực Đông Nam Á ghé đậu ở cảng này. Có thể nói, kinh tế
Singapo hoàn toàn là nền kinh tế biển.
Ngoài các hoạt động kinh tế biển truyền thống, hiện nay trên thế giới, các hoạt
động kinh tế biển khác cũng có bước phát triển vượt bậc. Một trong những hoạt
động đó là du lịch biển. Hiện nay, phần lớn các trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới
đều nằm ở vùng ven biển và các hải đảo. Đối với các nước Đông Nam Á, du lịch
biển đang phát triển mạnh trong những năm gần đây. Điển hình là Singapo, In-đô-
nê-xi-a, Thái Lan, Phi-lip-pin, Ma-lay-xi-a,..
32
33
Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN TỈNH
BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre
Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành của Đồng bằng sông Cửu Long, được bồi
đắp bởi phù sa của 4 nhánh sông: sông Tiền Giang, sông Ba Lai, sông hàm Luông,
sông Cổ Chiên. Các sông này đã chia lãnh thổ Bến Tre thành ba cù lao lớn: cù lao
Bảo, cù lao Minh, cù lao An Hóa. Nhìn trên bản đồ, Bến Tre có dạng một tam giác
mà đỉnh nằm ở phía thượng lưu và đáy là bờ biển dài 65 km, chiều cao của tam giác
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam là 75 km. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2360,2 km2 (năm 2008), chiếm 5,8% diện tích tự nhiên đồng bằng sông Cửu Long.
Về tọa độ địa lý, Bến Tre nằm trong giới hạn từ 9048’B đến 10020’B và kinh độ từ 105057’Đ đến 106048’Đ. Vị trí này đã tạo cho tự nhiên Bến Tre mang tính
chất nhiệt đới ẩm điển hình.
Về phạm vi lãnh thổ, ba mặt của tỉnh giáp đất liền và một mặt giáp biển
Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang với sông Tiền Giang là ranh giới tự nhiên;
phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh với sông Cổ Chiên là ranh giới
tự nhiên; phía Đông giáp biển Đông. Trung tâm của tỉnh Bến Tre cách thành phố
Hồ Chí Minh 86 km về phía Bắc.
Về mặt hành chính, từ năm 2009, Bến Tre gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh:
Thành phố Bến Tre và 8 huyện: Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ cày Bắc,
Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại.
Bến Tre là một trong tám tỉnh giáp biển của vùng đồng bằng sông Cửu Long,
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển. Tỉnh có đường bờ biển dài 65 km và vùng lãnh hải hơn 20.000 km2, có nguồn tài nguyên biển khá phong phú nhất là tài
nguyên hải sản. Bên cạnh đó, kinh tế của tỉnh đang phát triển và chuyển dịch tích
cực, dân cư đông đúc, lao động dồi dào, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
thông thoáng, thu hút đầu tư ngày càng hiệu quả,…Đó là những điều kiện tạo nên
nguồn lực phát triển kinh tế biển của tỉnh.
34
Nguồn lực là một khái niệm rất rộng. Nó bao gồm toàn bộ các yếu tố bên
trong và bên ngoài lãnh thổ, tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, vùng lãnh thổ. [12]
Nguồn lực phát triển kinh tế biển bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên, dân cư nguồn lao động và các yếu tố phi vật thể khác, kể cả trong và ngoài
phạm vi lãnh thổ, được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội
vùng biển, ven biển.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định phạm vi không gian
phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre theo ranh giới hành chính ba huyện ven
biển: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, đối
với một số lĩnh vực, đề tài sẽ sử dụng số liệu và phân tích ở phạm vi rộng hơn (toàn
tỉnh), ví dụ phân tích nguồn tài nguyên hải sản.
2.1.1. Các nguồn lực tự nhiên
Các nguồn lực tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển bao gồm vị trí
địa lý vùng biển, ven biển và các tài nguyên thiên nhiên của địa phương. Các nguồn
lực này có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề phát triển kinh tế biển của tỉnh.
2.1.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm vùng biển, ven biển
Đối với việc phát triển kinh tế biển của một quốc gia hay địa phương thì vị
trí địa lý và đặc điểm vùng biển, ven biển có ý nghĩa rất lớn. Vùng biển, ven biển là
“cửa ngõ” thông thương hàng hóa của tỉnh với các địa phương khác trong vùng,
trong cả nước, đồng thời nó còn là môi trường chứa đựng nhiều tiềm năng về thủy
sản, du lịch, khoáng sản, .. để phát triển các ngành kinh tế biển.
Bến Tre là một trong 8 tỉnh giáp biển của vùng kinh tế đồng bằng sông Cửu
Long, có ba mặt giáp đất liền, một mặt giáp biển Đông, với đường bờ biển dài 65km
và một hệ thống sông rạch dày đặc. Bến Tre lại nằm giữa con đường vận tải từ trung
tâm kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh của vùng Đông Nam Bộ đến Thành phố Cần
Thơ – trung tâm kinh tế lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Với vị trí đó,
Bến Tre có nhiều lợi thế để phát triển giao thông vận tải đường thủy, đường biển,
việc vận chuyển, trao đổi nguyên liệu, hàng hóa của các huyện trong tỉnh đến các
35
địa phương khác một cách dễ dàng, thuận tiện và tiết kiệm. Bên cạnh đó, Bến Tre
còn nằm gần đường vận tải biển từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Băng Cốc,
Singapo,.. nên trong tương lai, Bến Tre có nhiều khả năng thông thương kinh tế với
các nước trong khu vực một cách chủ động.
Bến Tre có một vùng biển rộng lớn với diện tích vùng lãnh hải hơn 20.000 km2, là địa bàn tiềm năng để khai thác nguồn lợi hải sản dồi dào của biển Đông.
Qua đó, góp phần hình thành và phát triển ngành đánh bắt hải sản, nhất là hải sản xa
bờ, đem lại giá trị kinh tế cao.
Bờ biển Bến Tre bị chia cắt bởi các cửa sông của hệ thống sông Cửu Long.
Đồng thời, xu thế lấn biển đang diễn ra mạnh theo hướng Tây – Tây Nam tại các
cửa sông Ba Lai, Cổ Chiên, Cửa Đại do các tác động tổng hợp giữa các dòng hải
lưu ven bờ và phù sa sông đổ ra biển. Vì thế, ở vùng ven biển đã hình thành nhiều
bãi bồi rộng. Các bãi bồi có thành phần chủ yếu là bùn và cát, khi thủy triều rút, bãi
bồi nổi trên mặt nước, trãi rộng ra phía biển hàng nghìn mét. [8]. Ngoài ra, nhiều
cồn cũng xuất hiện vùng cửa sông ven biển do sự lắng đọng phù sa. Các cồn này
chủ yếu còn ngập nước, chỉ hiện rõ khi nước triều thấp. Các bãi bồi và cồn ven biển
là địa bàn lí tưởng nuôi các loại thủy, hải sản nước mặn như nghêu, sò, tôm,….
Dọc bờ biển Bến Tre tuy không có những bãi biển nổi tiếng như ở Bà Rịa –
Vũng Tàu hay Nha Trang nhưng cũng có một số bãi biển được khai thác phục vụ
hoạt động du lịch nghỉ ngơi, dã ngoại,..như bãi biển Cồn Hố (An Thủy – Ba Tri),
biển Thừa Đức, biển Thới Thuận (Bình Đại).
Vùng biển và ven biển Bến Tre còn cung cấp các nguồn lợi khác như năng
lượng biển, hóa chất từ nước biển, nước biển để làm muối,...
Ngoài ra, ven biển của tỉnh có nhiều giồng cát, là kết quả tác động của dòng
sông và sóng biển trong quá trình lấn biển của vùng cửa sông, thành phần chủ yếu là
cát mịn và cát pha. Các giồng cát này có độ cao từ 3 – 5m, chạy dài 5 – 7 km,
hướng song song với bờ biển, phân bố tại các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri và
Thạnh Phú. Đây là nơi địa hình cao ráo, thuận lợi cho việc cư trú tập trung của dân
cư, hình thành các làng chài ven biển. Các khu dân cư tập trung, có lịch sử lâu đời
36
này là nơi cung cấp lực lượng lao động tại chỗ chủ yếu cho việc phát triển các
ngành kinh tế biển của tỉnh.
Tóm lại, vị trí địa lý và đặc điểm vùng biển, ven biển Bến Tre có nhiều lợi
thế để phát triển mạnh ngành kinh tế hải sản, giao thông vận tải biển và du lịch biển.
2.1.1.2. Tài nguyên thủy hải sản
Do ở vùng cửa sông ven biển, bốn bề sông nước, kênh rạch chằng chịt, có vùng lãnh hải rộng hơn 20.000km2 nên tài nguyên thủy, hải sản của Bến Tre rất
phong phú từ vùng nước mặn, vùng nước lợ đến vùng nước ngọt. Công tác điều tra,
thống kê nguồn lợi thủy hải sản của tỉnh, bước đầu đã thống kê được Bến Tre có
185 loài thực vật nổi, 93 loài động vật nổi, 90 loài động vật đáy. [8]
Về tài nguyên cá: có 120 loài cá thuộc 43 họ. Căn cứ vào điều kiện sinh thái
có thể chia thành 3 nhóm: cá nước mặn, cá nước lợ, cá nước ngọt. Nhóm cá nước
mặn gồm các loài cá có giá trị kinh tế như cá bạc má, cá nục, cá mối vạch, cá chuồn
đen, cá chích tròn, cá thu vạch,…Đây là đối tượng đánh bắt chủ yếu hiện nay của
ngư dân trong tỉnh. Nhóm cá nước lợ có cá kèo, cá bống cát, cá đối,…chủ yếu sống
ở vùng cửa sông ven biển. Nhóm cá nước ngọt gồm cá mè Vinh, cá mè Dãnh, cá trê
vàng, cá rô đồng, cá sặc,..chủ yếu sống ở sông rạch, thường xâm nhập vào vùng lợ
vào mùa mưa, khi lượng nước sông đổ ra biển tương đối lớn.[6]
Tài nguyên tôm: đã phát hiện 12 loài tôm biển, trong đó có giá trị gồm tôm
thẻ, tôm sú, tôm gân, tôm đất và 8 loài tôm nước ngọt, trong đó có giá trị nhất là
tôm càng xanh. [6]
Tiềm năng khai thác hải sản của Bến Tre không chỉ nằm trong phạm vi vùng
biển của tỉnh mà gắn liền với vùng biển Nam Bộ - nơi có trữ lượng hải sản cao nhất
cả nước. Phạm vi hoạt động khai thác của ngư dân rất rộng, trải dài từ vùng biển Bà
Rịa Vũng Tàu đến vịnh Thái Lan, gắn liền với các bãi cá, bãi tôm, bãi mực với trữ
lượng lớn. Trong vùng biển Nam Bộ có 6 bãi cá, 5 bãi tôm và 3 bãi mực tốt nhất
Việt Nam với 50% sản lượng cá biển (khoảng 150 triệu tấn), 70% trữ lượng tôm
biển (42 – 49 nghìn tấn) của vùng biển Việt Nam. [16]
37
Do đặc điểm các bãi cá, bãi tôm, mực có trữ lượng lớn, phần lớn phân bố gần
bờ, lại tập trung chủ yếu ở vùng biển Nam Bộ - địa bàn khai thác chính của ngư dân
Bến Tre nên nhìn chung việc khai thác nguồn lợi hải sản trên biển của ngư dân
trong tỉnh có nhiều thuận lợi.
Về tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản: tỉnh có nhiều tiềm năng nuôi trồng
thủy hải sản với diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản ước đạt 50.000
ha. Ven biển Bến Tre có nhiều bãi bồi trãi dài ra biển hàng nghìn mét, nhiều cửa
sông kết hợp mạng lưới kênh rạch chằng chịt là điều kiện để nuôi thủy hải sản ở cả
ba môi trường nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Bên cạnh đó, vùng ven biển Bến
Tre có diện tích rừng ngập mặn khoảng 7.500 ha, là điều kiện tốt để phát triển mô
hình lâm – ngư kết hợp, tăng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản. Năm 2010,
toàn tỉnh có 3.359 ha diện tích rừng – tôm mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, tỉnh
còn có tiềm năng nuôi trồng thủy sản khá lớn từ việc chuyển đổi sản xuất, kết hợp
nuôi xen canh một vụ lúa – một vụ tôm ở vùng ven biển. Năm 2010, toàn tỉnh ước
đạt 6.600 ha mô hình xen canh lúa – tôm, quy hoạch đến năm 2020 tăng lên 8.900
ha. [9]
Bên cạnh đó, các bãi bồi ven biển Bến Tre còn có khả năng nuôi nhiều đặc
sản có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao khác như cua biển, sò huyết, nghêu,..
Hiện tại, Bến Tre có các bãi nghêu giống chất lượng cao tại Thạnh Phong (Thạnh
Phú), Bảo Thạnh (Ba Tri), Thới Thuận (Bình Đại), là nguồn tài nguyên quý để phát
triển nghề nuôi nghêu xuất khẩu. Đặc biệt từ năm 2009, sản phẩm nghêu của tỉnh
Bến Tre được chứng nhận MSC về sản phẩm được khai thác, quản lý bền vững của
Hội đồng quản lý Biển quốc tế góp phần tạo động lực và cơ hội rất lớn cho sản
phẩm nghêu xuất khẩu của Bến Tre trên thị trường.
2.1.1.3. Tài nguyên rừng
Trên khu đất ngập mặn ven biển, tỉnh Bến Tre có hệ thống sinh thái rừng
ngập mặn vùng cửa sông phong phú và quý giá. Khi xưa, diện tích rừng chiếm trên
20.000 ha. Hiện tại, do bị tàn phá trong chến tranh, khai thác rừng bừa bãi, phá rừng
nuôi tôm nên rừng ngập mặn chỉ còn 7.500 ha (2002), chủ yếu phân bố ở 3 huyện
38
ven biển: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Rừng ngập mặn Bến Tre có thành phần
loài phong phú gồm 119 loài thuộc 45 họ, trong đó, chiếm ưu thế là các loài mắm
trắng, đước, đưng, bần trắng, dừa nước,…[8]
Rừng ngập mặn của Bến Tre có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi
trường sinh thái và cuộc sống của dân cư vùng ven biển.
Trước hết, rừng ngập mặn là nơi cư ngụ, nơi sinh sống và sản xuất của người
dân vùng ven biển. Đồng thời, rừng ngập mặn còn cung cấp cho người dân địa
phương nhiều loại sản phẩm có giá trị như gỗ, củi, than, lá dừa nước (để lợp nhà);
các loại thủy, hải sảm như cá, tôm, cua, nghêu, sò huyết,…
Thứ hai, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ bờ biển. Cây rừng góp phần giảm
nhẹ hoạt động của sóng biển, gió chướng, hạn chế xói lở bờ biển. Bên cạnh đó, cây
rừng ngập mặn chủ yếu mọc trong vùng bùn lỏng mới bồi như mắm, đước, bần,…
với bộ rễ thở đặc trưng sẽ có tác dụng tích tụ phù sa, góp phần tăng diện tích bãi
bồi.
Thứ ba, rừng ngập mặn có tác dụng lọc sạch nước biển. Cây rừng thông qua
quá trình hấp thụ, chuyển hóa chất trong nước đã lọc sạch những chất gây ô nhiễm
môi trường từ phía đại dương vào đất liền hoặc trong đất liền thải ra biển, góp phần
bảo vệ môi trường sinh thái ven biển, đảm bảo phát triển bền vững ngành nuôi trồng
thủy sản và du lịch biển.
Thứ tư, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Rừng ngập mặn là nơi cư trú, sinh sản, phát triển của các loài thủy sản. Đây là “cửa
ngõ” cho các loài sinh vật biển xâm nhập sâu vào vùng nước lợ, nước ngọt: nhiều
loài thủy sản như tôm càng xanh sống ở môi trường nước ngọt, lợ nhưng sinh sản
trong rừng ngập mặn; các loài tôm biển như tôm thẻ, tôm sú sinh sản ở vùng biển
nhưng tôm con thường di cư vào rừng ngập mặn để sinh sống, kiếm ăn, đến thời kì
sinh sản, tôm lại di cư ngược ra biển. Các vùng bãi bồi là nơi cư trú của các loài
cua, sò huyết,.. Rừng ngập mặn còn là nơi cung cấp thức ăn cho các loài thủy sản.
Các cành lá cây khô trong rừng rụng xuống nước, được vi sinh vật phân hủy thành
39
mùn bả hữu cơ, kết hợp với các chất hữu cơ từ sông đưa ra và các phiêu sinh vật là
nguồn thức ăn dồi dào cho ấu trùng tôm, cá,..
Thứ năm, rừng ngập mặn còn là nơi cư trú, sinh sản của tài nguyên chim, thú
rừng, là “ngân hàng lưu trữ nguồn gien” góp phần bảo vệ đa dạng sinh học. Theo
thống kê, trong rừng ngập mặn của tỉnh có 27 loài bò sát, 8 loài lưỡng cư, 16 loài
thú, hơn 60 loài chim. Trong đó có sân chim Vàm Hồ là một trong các sân chim nổi
tiếng của đồng bằng sông Cửu Long. Đây là điều kiện để phát triển ngành du lịch
sinh thái, tham quan, nghiên cứu.
Ngoài ra, rừng ngập mặn còn có thể phát triển mô hình lâm – ngư kết hợp,
nuôi tôm, cua trong rừng ngập mặn đạt hiệu quả cao.
Rừng ngập mặn là yếu tố rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh
thái để đảm bảo cho việc phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh, nhất là ngành
nuôi trồng thủy hải sản và du lịch sinh thái rừng – biển.
2.1.1.4. Tài nguyên du lịch biển
Bến Tre là miền đất được mệnh danh “vùng văn minh sông nước”, cũng là
nơi nổi tiếng với tên gọi “quê hương Đồng Khởi”. Nơi đây hội tụ nhiều điều kiện để
phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng.
Du lịch biển là các hoạt động du lịch gắn liền với việc khai thác các nguồn
tài nguyên du lịch, môi trường vùng biển, ven biển. Bến Tre có tài nguyên du lịch
biển khá đa dạng bao gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân
văn.
Về tài nguyên du lịch tự nhiên:
Bến Tre có địa hình bằng phẳng, thấp, có xen kẻ các dạng địa hình khác nhau
như cù lao, cồn, giồng cát, bãi biển, bãi bồi ven biển,..Sự đa dạng của địa hình tạo
nên sự thích thú cho du khách. Các cù lao, cồn ven sông, ven biển là nơi thích hợp
phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch xanh. Các bãi biển thích hợp tổ chức
các hoạt động ngoài trời như dã ngoại, tắm biển, liên hoan, vui chơi giải trí,…
Rừng ngập mặn ven biển là tài nguyên du lịch có vai trò rất quan trọng trong
phát triển du lịch biển của Bến Tre, thích hợp khai thác các hoạt động du lịch tham
40
quan, học tập, nghiên cứu, vui chơi giải trí, thưởng thức các đặc sản trong rừng như
tôm, cua, cá, ong mật,.. Hiện nay, tỉnh Bến Tre đang đầu tư xây dựng điểm du lịch
sinh thái sân chim Vàm Hồ thuộc hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân (Ba Tri) và dự án
kêu gọi đầu tư xây dựng khu bảo tồn rừng ngập mặn Khâu Băng (Thạnh Phú) rộng
1000ha và khu bảo tồn sân chim Vàm Hồ (Ba Tri) rộng 67ha.
Dọc bờ biển của tỉnh không có những bãi tắm đẹp và nổi tiếng như Vũng
Tàu, Nha Trang do có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển, lượng phù sa lớn làm đục
nước biển, nhiều bãi bồi nông, thành phần chủ yếu là bùn và cát nên dọc bờ biển
Bến Tre ít thuận lợi để xây dựng các bãi tắm, khu du lịch biển đẹp, quy mô lớn. Đây
cũng là tình trạng chung của phần lớn các tỉnh ven biển vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Ngoại trừ Kiên Giang có khu vực Hà Tiên và đảo Phú Quốc có nền địa chất,
địa hình phù hợp xây dựng các bãi tắm đẹp. Tuy nhiên, Bến Tre cũng có một vài bãi
biển được khai thác phục vụ du lịch, chủ yếu là khách nội tỉnh. Các bãi biển điển
hình là bãi biển Cồn Hố (An Thủy – Ba Tri), bãi biển Thừa Đức, bãi biển Thới
Thuận (Bình Đại).
Bãi biển Cồn Hố thuộc xã An Thủy, huyện Ba Tri đang thu hút đầu tư thành
khu du lịch biển với diện tích 50 ha bằng nguồn vốn nước ngoài, tổng vốn đầu tư là
75 triệu đô la Mỹ. Bãi biển Thừa Đức thuộc xã Thừa Đức, huyện Bình Đại, cùng
với bãi biển Thới Thuận thuộc xã Thới Thuận, huyện Bình Đại được khai thác từ
lâu, chủ yếu phục vụ nhu cầu tắm biển, vui chơi giải trí của người dân địa phương,
nhất là vào các dịp lễ, Tết. Hiện nay, bãi biển Thừa Đức đang được quy hoạch, xây
dựng thành khu du lịch sinh thái biển với diện tích 6,3 ha, do công ty Cổ phần Thủy
sản Ba Lai làm chủ đầu tư, nguồn vốn 59 tỉ đồng. Bãi biển Thới Thuận thuộc xã
Thới Thuận, huyện Bình Đại đang quy hoạch phát triển bãi biển này thành khu du
lịch sinh thái biển với diện tích 60 ha.
Ngoài ra, các cồn như cồn Phụng, cồn Ốc, cồn Chài Mười, cồn Ngô Năm,..có
ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển du lịch sinh thái.
41
Về tài nguyên du lịch nhân văn:
Vùng ven biển Bến Tre có nhiều tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo, trong
đó, nổi bật là các di tích lịch sử văn hóa gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và các lễ hội văn hóa vùng biển.
Tính đến năm 2010, Bến Tre có 13 di tích lịch sử văn hóa được công nhận di
tích cấp quốc gia, trong đó, trên địa bàn ba huyện ven biển có 5 di tích là Di tích Mộ
và đền thờ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri); Di
tích Đầu cầu tiếp viện vũ khí Bắc – Nam (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú); Di
tích Ngã Ba cây Da Đôi (xã Tân Xuân – huyện Ba Tri); Di tích Đình Phú Lễ (xã
Phú Lễ - huyện Ba Tri) và Di tích mộ nhà giáo Võ Trường Toản (Xã Bảo Thạnh,
huyện Ba Tri). Đây là tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng để phát triển các loại
hình du lịch về nguồn tham quan, học tập nghiên cứu, sinh hoạt truyền thống.
Ngoài các di tích lịch sử - văn hóa, trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói chung và ba
huyện ven biển nói riêng còn có nhiều lễ hội như lễ hội Nghinh Ông, lễ cúng đình,
lễ hội Văn hóa của tỉnh Bến Tre,.. Các lễ hội này cũng được khai thác để phát triển
du lịch khá tốt.
Lễ hội lớn nhất của cư dân cùng biển tỉnh Bến Tre là lễ hội Nghinh Ông. Đây
là lễ hội cúng Cá Ông (cá Voi) đặc trưng của ngư dân vùng biển. Bến Tre có 12
lăng thờ cá Ông. Lễ cúng cá Ông lớn nhất thuộc xã vùng biển Bình Thắng, huyện
Bình Đại, được tổ chức hằng năm vào ngày 15, 16 tháng 6 âm lịch. Vào ngày lễ
Nghinh Ông, hàng trăm tàu thuyền đánh bắt cá của huyện, của tỉnh và các tỉnh bạn
như Tiền Giang, Trà Vinh thậm chí các tỉnh xa hơn nữa, trong khi hành nghề, tập
trung về cửa sông cửa Đại cùng ngư dân nơi đây tham gia lễ hội Nghinh Ông. Hoạt
động này đã thu hút hàng nghìn người trong và ngoài địa phương đến tham quan.
Lễ hội thứ hai mang ý nghĩa văn hóa - lịch sử là lễ hội Văn hóa tỉnh Bến Tre,
tổ chức vào ngày 1 tháng 7 hàng năm tại cụm đền thờ, mộ nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu tại xã An Đức, huyện Ba Tri với hàng ngàn người tham dự. Thường trong dịp
này, có những đoàn khách của tỉnh bạn, của một số ngành Trung ương về cùng
tham dự.
Ngoài ra, ở Bến Tre còn phổ biến lễ hội cúng đình. Đây là lễ hội đặc trưng và
42
lâu đời nhất của Bến Tre, được tổ chức hằng năm tại các đình làng. Vào ngày này,
ngoài phần lễ cúng Thành Hoàng, rước sắc được tổ chức long trọng, người dân và
du khách còn được tham gia phần hội với các hoạt động vui chơi, ăn uống, xem hát
bội,…
2.1.2. Các nguồn lực kinh tế - xã hội:
2.1.2.1. Nguồn nhân lực dồi dào ven biển
Bến Tre có ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Địa bàn các
huyện ven biển có dân cư tập trung khá đông đúc. Năm 2010, dân số các huyện ven
biển của Bến Tre là 447.812 người (35,6% dân số toàn tỉnh), trong đó dân thành thị
chiếm tỉ lệ thấp: 6,6% tổng dân số ba huyện. Mật độ dân số trung bình là 372 người/ km2, thấp hơn mật độ dân số trung bình của tỉnh 1,4 lần. Trong ba huyện thì Ba Tri có mật độ dân số cao nhất là 524 người/km2, kế đến là Bình Đại, Thạnh Phú có mật độ dân số thấp nhất 300 người/km2.
Bảng 2.1: Dân số 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2000 – 2009
Năm 2000 2005 2009
Số dân (người) 458.292 449.129 447.614
Tỉ lệ trong tổng số 34,8 35,5 35,6 dân của tỉnh (%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre, năm 2005, 2011 [2]
Nhìn chung, dân cư tập trung ở ba huyện ven biển ít hơn các huyện khác, chỉ
chiếm hơn 35% (2009) trong tổng số dân của tỉnh và số dân có xu hướng giảm nhẹ
qua các năm do các huyện ven biển điều kiện sống còn nhiều khó khăn, nhất là
thiếu cơ sở hạ tầng, điện, nước,.. Tuy nhiên, tỉ lệ dân số của ba huyện ven biển có
xu hướng tăng lên qua các năm từ 34,8 % (2000) lên 35,6 % (2009); tốc độ tăng dân
số trung bình là 0,29 %/năm thời kì 1999 - 2009. Tỉ lệ dân cư của ba huyện ven biển
từ 15 tuổi trở lên biết chữ là 92,3% (toàn tỉnh là 94,1%); tỉ lệ dân số tốt nghiệp phổ
thông cơ sở trung bình là 98,9% (năm 2010); tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp Trung học
phổ thông là 73,4%, cao hơn mức trung bình toàn tỉnh là 73,02%.
43
Nguồn nhân lực trên địa bàn các huyện ven biển của tỉnh khá dồi dào. Năm
2010, lao động trong độ tuổi của ba huyện ven biển là 345.923 người (hơn 77% dân
số ba huyện); lao động trong ngành nghề là 272.310 người (78,7% lao động trong
độ tuổi của ba huyện), trong đó nhiều nhất là lao động trong KV I: 60%, KV II:
25%, KV III: 15%. Tỉ lệ dân cư có trình độ chuyên môn kĩ thuật (CMKT) trung
bình là 4,5 %, trong đó nhiều nhất là Bình Đại, tỉ lệ thấp nhất là Thạnh Phú. Phần
lớn nguồn nhân lực có trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và đại học trở lên cao
hơn trình độ sơ cấp chứng tỏ các huyện bước đầu quan tâm đến việc đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn kĩ thuật của dân số từ 15 tuổi trở lên ở các
huyện ven biển tỉnh Bến Tre năm 2009
Đơn vị: %
Trình độ Không có Cao Đại học trở Huyện trình độ Sơ cấp Trung cấp đẳng lên CMKT
Toàn tỉnh 93,5 1,2 2,4 1,1 1,8
Bình Đại 94,8 1,0 1,9 1,0 1,4
Ba Tri 95,7 0,8 1,6 0,9 1,0
Thạnh Phú 96,1 0,7 1,5 0,8 0,9
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Quy hoạch đến năm 2020, toàn tỉnh có 02 trường Đại học, 02 trường dạy
nghề, 03 trường Cao đẳng, 09 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 10 Trung tâm dạy
nghề; thực hiện chương trình phổ cập nghề nghiệp và đào tạo tay nghề cho người
lao động, số lao động được đào tạo so với lao động trong độ tuổi chiếm khoảng
66,3% ; phấn đấu đạt tỷ số sinh viên cao đẳng, đại học/10.000 dân (kể cả các dạng
đào tạo không chính quy) là 287. [15]
Riêng ba huyện ven biển, dự báo đến năm 2020, dân số ba huyện ven biển là
491.245 người, tỉ lệ đô thị hóa là 27% do mở rộng các thị xã, thị trấn, thị tứ; phổ cập
trung học đạt chuẩn sau năm 2015. Số lao động được đào tạo so với số lao động
44
trong độ tuổi chiếm khoảng 53%. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng để phát
triển kinh tế biển của tỉnh. [13]
2.1.2.2. Chính sách kinh tế - xã hội
Chính sách kinh tế - xã hội đối với sự phát triển của một quốc gia hay địa
phương là yếu tố có ý nghĩa chiến lược. Nếu chính sách đúng đắn, kịp thời sẽ giúp
địa phương nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, tổng hợp các nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội có hiệu quả cao nhất. Ngược lại, nếu chính sách không hợp lý,
lỗi thời sẽ gây không ít khó khăn, làm kìm hãm sự phát triển của địa phương.
Nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện “Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020”, Tỉnh Ủy Bến Tre đã xây dựng “Chương trình hành động số 11 CTr –
TU” ngày 19/04/2007. Tiếp đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh có
Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND ban hành và phê duyệt Đề án “Phát triển toàn
diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”. Để thực hiện được mục tiêu của
đề án, tỉnh đã xây dựng 7 chương trình phát triển và dự án ưu tiên nghiên cứu đầu
tư, gồm: chương trình nước sạch; chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
và đô thị; chương trình giáo dục đào tạo nguồn nhân lực; chương trình phát triển
kinh tế thủy sản; chương trình xóa đói giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã
hội; chương trình phát triển thương mại, du lịch; chương trình xây dựng hệ thống
quốc phòng toàn dân.
Bên cạnh đó, trong các ngành liên quan trực tiếp đến kinh tế biển như Thủy
sản, Du lịch đã có quy hoạch phát triển từng ngành riêng đến năm 2020 nhằm định
hướng phát triển ngành kết hợp khai thác tính lãnh thổ tốt hơn. Tỉnh còn có chương
trình sắp xếp, bố trí dân cư các xã khó khăn ven biển do Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn soạn thảo năm 2007 nhằm góp phần phân bố dân cư vùng ven biển
hợp lý để phát triển bền vững.
UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp triển
khai thực hiện tốt các quy hoạch, chương trình, đề án đã được phê duyệt. Bên cạnh
đó, tỉnh đang cố gắng hoàn thiện các chính sách, pháp luật, khuyến khích đầu tư thu
45
hút ngày càng đông nguồn vốn, khoa học kĩ thuật, nhân lực phục vụ phát triển các
ngành kinh tế biển.
Các quy hoạch, chương trình hành động, đề án phát triển kinh tế biển từ
trung ương đến địa phương đã góp phần đáng kể trong việc định hướng, tạo “bộ
khung” cho sự phát triển kinh tế biển của tỉnh theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu
quả. Tuy nhiên, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành và sự quan tâm sâu
sát hơn nữa của lãnh đạo tỉnh để thực hiện tốt các chính sách này.
2.1.2.3. Cơ sở hạ tầng
Giao thông vận tải:
Hệ thống giao thông trong tỉnh đang được đầu tư, nâng cấp. Quốc lộ 60 nối
liền các tỉnh miền Tây đang được sửa chữa, nâng cấp; cầu Rạch Miễu nối hai bờ
Tiền Giang – Bến Tre đã khánh thành và đưa vào sử dụng từ năm 2009 đã tạo bước
đột phá mới cho Bến Tre. Cầu Hàm Luông hoàn thành và đưa vào sử dụng năm
2010 nối liền cù lao Bảo và cù lao Minh; cống đập Ba Lai nối liền Bình Đại và Ba
Tri; cầu Cổ Chiên nối Bến Tre với Trà Vinh đang xây dựng, sau khi hoàn thành sẽ
là động lực làm vực dậy mạnh mẽ kinh tế - xã hội của tỉnh, rút ngắn thời gian vận
chuyển của các phương tiện vận tải đường bộ đến Bến Tre, gắn kết kinh tế tỉnh nhà
với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Đến năm 2012, Bến Tre có ba cảng cá, 1 cảng sông gần khu công nghiệp
Giao Long và 1 cảng bốc xếp hàng hóa trên sông Hàm Luông. Tỉnh cũng đã xây
dựng và đưa vào hoạt động khu công nghiệp Giao Long (Châu Thành) và khu công
nghiệp An Hiệp (Ba Tri), thu hút nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, giúp kinh
tế Bến Tre có bước khởi sắc. Quy hoạch đến năm 2020, phát triển hệ trục giao
thông Tây Bắc - Đông Nam nối liền các cù lao bao gồm tuyến Quốc lộ 60 kết hợp
với nâng cấp các tuyến đường huyện thành đường tỉnh: đường huyện 14, Bình Đại -
Ba Tri - Thạnh Phú, Thạnh Hải - Mỹ An, Phong Nẫm - thị trấn Mỏ Cày Nam; đầu
tư nâng cấp cảng Giao Long thành cảng biển phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu hàng
hoá của tỉnh. Nâng cấp cảng cá Bình Thắng, An Thủy và hoàn chỉnh cảng An Nhơn.
[15]
46
Bưu chính viễn thông:
Thời gian qua, bưu chính viễn thông Bến Tre đã xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp
đặt thêm nhiều trạm BTS (trạm thu phát sóng di động) 2G và 3G, đầu tư và đưa vào
sử dụng nhiều dự án hiện đại về công nghệ, mở rộng về dung lượng, đảm bảo phục
vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm tới, ngành sẽ tiếp tục
đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất và công nghệ để nâng cao chất lượng phục vụ.
Điện – nước:
Hiện tại, Bến Tre có hai nhà máy cấp thoát nước tại xã Sơn Đông (Thành phố Bến Tre), xã Hữu Định (huyện Châu Thành) với công suất 32.000 m3/ngày và nhà máy cấp nước Chợ Lách có công suất 1000m3/ngày đêm. Với công suất này,
hằng năm, công ty Cấp thoát nước Bến Tre xử lý và cấp nước đủ cho nhu cầu sinh
hoạt của người dân thành phố và trung tâm các huyện. Quy hoạch đến năm 2020,
xây dựng hệ thống cấp nước thô từ Châu Thành - Chợ Lách về các huyện ven biển;
hoàn chỉnh hệ thống cấp nước. Đến năm 2020, đạt 100% hộ dân thành thị, 95% hộ
dân nông thôn được cấp nước sạch tập trung.
Những năm gần đây, ngành điện Bến Tre đã đầu tư hàng nghìn tỉ đồng để
xây dựng nhiều công trình trọng điểm như: trạm 220 KV Bến Tre – 2x125 MVA,
đường dây 220 KV Mỹ Tho – Bến Tre, đường dây 110 KV Mỏ Cày – Chợ Lách,
đường dây 110 KV Vĩnh Long – Chợ Lách,…đã phục vụ tốt hơn cho nhu cầu sinh
hoạt và sản xuất. Các công trình trạm 110 KV Bình Đại, 110 KV Thạnh Phú, đường
dây 110 KV Giồng Trôm – Bình Đại, Mỏ Cày – Thạnh Phú dự kiến đưa vào vận
hành trong các năm 2012, 2013 sẽ góp phần rất lón trong việc phát triển kinh tế - xã
hội các huyện ven biển. [20]
2.1.2.4. Khoa học công nghệ
Hoạt động khoa học công nghệ ngày càng được quan tâm, chú trọng đầu tư
vì tính chất quan trọng của nó đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, đặc biệt là bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất. Từ năm 2000 đến nay,
có nhiều đề tài và dự án được đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào sản
xuất trên nhiều lĩnh vực. Một số công trình có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế biển
47
của tỉnh như: Dự án chuyển giao công nghệ sản xuất giống tôm càng xanh cho nông
hộ (năm 2001 – 2003); Thử nghiệp chế phẩm EM trong nuôi trồng thủy sản, xử lý
chất thải chăn nuôi (năm 2002 – 2004); Phát triển thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy
sản và phát triển nông thôn xã Thạnh Trị - Bình Đại; Nghiên cứu đánh giá điều kiện
tự nhiên và một số tài nguyên phi sinh vật biển ven bờ (0 – 3m nước) tỉnh Bến Tre;
Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn trên đất giồng cát 3 xã ven biển An Thủy, Tân Thủy, An Hòa Đông
huyện ba Tri,..Gần đây nhất là Mô hình sản xuất muối bằng phương pháp trải bạt ở
huyện Bình Đại (năm 2010); đề tài Nghiên cứu thực nghiệm thuần dưỡng nghêu
cám thành nghêu giống trên ao đất ở Ba Tri (năm 2012).
2.1.2.5. Thu hút đầu tư
UBND tỉnh có nhiều chính sách ưu đãi như miễm giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễm giảm tiền thuê đất, hỗ trợ quy hoạch,...để thu hút đầu tư trên địa bàn
tỉnh với hai lĩnh vực ưu tiên là du lịch sinh thái và công nghiệp. Khả năng thu hút
đầu tư vào công nghiệp chế biến thủy hải sản trên địa bàn ba huyện ven biển là rất
lớn do có nguồn nguyên liệu tại chỗ dồi dào, đa dạng, lực lượng lao động dồi dào và
tỉnh có nhiều chính sách ưu đãi. Lĩnh vực du lịch sinh thái cũng rất có tiềm năng thu
hút đầu tư do tỉnh có tài nguyên du lịch sinh thái khá hấp dẫn; hệ thống giao thông,
cơ sở hạ tầng đã từng bước được cải thiện. Hiện nay, tại địa bàn các huyện ven biển
có 5/8 dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư về du lịch sinh thái, 3 dự án về công nghiệp và
một dự án xây dựng cảng biển. Các dự án đang thu hút đầu tư về du lịch là khu du
lịch sinh thái Vàm Hồ (xã Tân Mỹ - huyện Ba Tri); khu du lịch sinh thái Cồn Hố
(xã An Thủy- huyện Ba Tri); khu du lịch sinh thái biển Thới Thuận (xã Thới Thuận
– huyện Bình Đại); khu du lịch sinh thái biển Thừa Đức (xã Thừa Đức – huyện
Bình Đại) và khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn tại xã Thạnh Phong, Thạnh Hải –
huyện Thạnh Phú). Các dự án kêu gọi đầu tư về công nghiệp gồm: Cụm công
nghiệp thị trấn Thạnh Phú (huyện Thạnh Phú); Cụm công nghiệp thị trấn An Đức
(huyện Ba Tri), Khu tổng hợp Làng cá An Thủy (xã An Thủy – huyện Ba Tri) và
một dự án xây dựng Cảng biển Thới Thuận (xã Thới Thuận – huyện Bình Đại).
48
49
2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre
Bến Tre là tỉnh cù lao, có 65 km đường bờ biển, có nguồn lợi thủy sản, đặc
biệt là thủy sản nước mặn rất phong phú. Bên cạnh đó, tài nguyên rừng và tài
nguyên du lịch biển cũng khá đa dạng. Vì thế, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỉnh Bến Tre đã xác định kinh tế biển
là ngành kinh tế mũi nhọn. Ngành kinh tế biển thế mạnh của tỉnh là ngành kinh tế
thủy sản. Mặt khác, ngành du lịch biển, nghề muối, nông - lâm nghiệp cũng có đóng
góp lớn trong cơ cấu GDP vùng ven biển và GDP của toàn tỉnh.
2.2.1. Giai đoạn trước năm 2000
Nhìn chung, giai đoạn trước năm 2000, kinh tế biển tỉnh Bến Tre phát triển
đạt được một số thành tựu, nhất là ngành thủy sản bắt đầu khởi sắc và có bước phát
triển khá.
Sản lượng khai thác hải sản ngày càng tăng, đạt hơn 62.000 tấn (năm 2000),
khai thác thủy sản xa bờ ngày càng được khuyến khích đầu tư. Ngành nuôi trồng
hải, đặc sản bắt đầu phát triển mạnh, diện tích nuôi trồng thủy, hải sản tăng lên qua
các năm và đã áp dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật trong nuôi trồng. Công nghiệp chế
biến thủy sản được đầu tư, khuyến khích phát triển.
Nghề muối khá phát triển, giai đoạn 1996 – 2000, giá trị sản xuất trung bình
đạt hơn 65 tỉ đồng/năm, sản lượng trung bình đạt 58.400 tấn/năm. Sản lượng muối
của tỉnh tuy chưa ổn định nhưng đã đủ đáp ứng nhu cầu muối ăn cho nhân dân trong
tỉnh và cung cấp một phần cho công nghiệp.
Nông – lâm nghiệp không phải là nghề trực tiếp khai thác biển nhưng là
ngành sản xuất chính của vùng ven biển. Sản xuất nông – lâm nghiệp của tỉnh Bến
Tre đóng góp 48,5 % GDP toàn tỉnh vào năm 2000. Cơ cấu ngành nông nghiệp của
các huyện ven biển thời kì 1996 – 2000 đã dần chuyển sang hướng sản xuất hàng
hóa và đa dạng hóa sản phẩm. Sản xuất lâm nghiệp vùng ven biển phát triển khá
mạnh, phong trào trồng và chăm sóc rừng được đẩy mạnh.
50
Ngành du lịch Bến Tre có nhiều ưu thế về các sản phẩm du lịch miệt vườn
sông nước gắn với cảnh quan thiên nhiên và các vườn cây ăn trái; tham quan di tích
lịch sử - văn hóa lễ hội.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển của tỉnh giai đoạn này còn nhiều hạn
chế, các ngành kinh tế biển phát triển chưa mạnh, chưa đồng bộ và cơ cấu các
ngành kinh tế biển chuyển dịch chưa rõ ràng.
Kinh tế thủy sản là ngành phát triển mạnh nhất, tuy nhiên năng lực khai thác
hải sản chưa tương xứng với tiềm năng của vùng biển. Phần lớn các phương tiện
khai thác nhỏ, có công suất thấp; kĩ thuật khai thác chưa hợp lý, phần lớn là lưới
mùng, cào điện, lưới rê,… nên chỉ khai thác chủ yếu ở vùng ven bờ (chiếm 80%
tổng số phương tiện) do đó sản lượng khai thác và chất lượng sản phẩm chưa cao,
làm ảnh hưởng đến nguồn lợi ven bờ và khả năng tái tạo tài nguyên biển.
Ngành nuôi trồng hải sản phát triển nhưng chưa mạnh, sản phẩm nuôi trồng
chưa đa dạng, mới chỉ tập trung vào các sản phẩm là tôm và nghêu, cá để xuất khẩu.
Việc phát triển mạnh mẽ phong trào nuôi tôm các huyện ven biển chưa kết hợp với
bảo vệ môi trường làm môi trường nước bị ô nhiễm, dịch bệnh lây lan nên năng suất
và chất lượng sản phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, hình thức nuôi chủ yếu mang tính
truyền thống (quảng canh), nuôi trong rừng ngập mặn nên hiệu quả thấp và một
lượng lớn rừng ngập mặn bị tàn phá dẫn đến mất cân bằng sinh thái vùng biển.
Công nghiệp chế biến còn nhỏ, lẻ. Số lượng nhà máy, cơ sở chế biến thủy sản còn
ít, năng suất chưa cao và chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu ngành thủy sản của tỉnh.
Nghề muối của tỉnh Bến Tre thời kì này còn nhiều hạn chế. Công nghệ làm
muối mang tính truyền thống, dựa vào kinh nghiệm là chính, hoàn toàn bằng
phương pháp thủ công nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu
sản xuất công nghiệp. Sản phẩm thu hoạch chưa đa dạng, chủ yếu là muối thô,
không có sản phẩm thạch cao và nước ót. Sản lượng muối chưa ổn định và muối sản
xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu muối ăn cho nhân dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận,
thị trường tiêu thụ chưa mở rộng. Do còn nhiều hạn chế nên đời sống diêm dân
51
(người dân làm nghề muối) trong tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ chưa thoát
được .
Sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn ở trình độ thấp, năng suất và sản lượng
cây trồng chưa cao nên chưa hình thành được vùng nguyên liệu lớn, ổn định cho
công nghiệp chế biến. Sản xuất nông nghiệp một số nơi, nhất là vùng xa, vùng sâu
còn mang tính độc canh do đất canh tác không tốt, đời sống người dân gặp nhiều
khó khăn. Riêng ngành lâm nghiệp đã chú trọng công tác trồng và chăm sóc rừng
nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Thời kì 1999 – 2000, do phát triển phong trào
nuôi tôm biển xuất khẩu một cách ồ ạt, tự phát dẫn đến việc nhiều diện tích rừng
ngập mặn bị phá làm đầm nuôi tôm đã làm cho diện tích rừng tự nhiên năm 2000
giảm mạnh, chỉ còn 994 ha. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị về nhiều mặt để phát
triển kinh tế biển của tỉnh nên cần có biện pháp hiệu quả, tích cực bảo vệ nguồn tài
nguyên này.
Du lịch biển tỉnh Bến Tre giai đoạn này chưa phát triển mạnh do nhiều
nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Bến Tre có
vị trí như một “ốc đảo”, gần như bị cô lập về giao thông đường bộ với các địa
phương khác bởi các sông lớn. Hệ thống cầu nối liền hai bờ Bến Tre – Tiền Giang,
Bến Tre – Vĩnh Long chưa được xây dựng, phải dùng phương tiện phà vận chuyển.
Hệ thống đường giao thông trong tỉnh kém phát triển: các đường tỉnh lộ từ trung
tâm tỉnh đến các huyện ven biển chưa được nhựa hóa, nhiều cầu cống nhưng trọng
tải thấp, cũ kĩ, xe 50 chỗ qua lại khó khăn. Hạ tầng cơ sở tối thiểu như nhà hàng,
khách sạn đạt tiêu chuẩn rất ít, nhất là tại các điểm du lịch. Năm 2000, toàn tỉnh mới
chỉ có 4 khách sạn với 60 buồng, 124 giường, mới có 2 doanh nghiệp kinh doanh du
lịch trên toàn tỉnh.
Mặt khác, sản phẩm du lịch biển của tỉnh còn đơn điệu, chủ yếu là tham quan
ngắm cảnh. Sản phẩm du lịch còn mang tính trùng lập với các địa phương khác nhu
Tiền Giang, Vĩnh Long do có nhiều nét tương đồng nên chưa tạo được dấu ấn riêng.
Giai đoạn 1996 – 2000, do có nhiều biến động về kinh tế - xã hội như bão số
5 năm 1997 làm thiệt hại nghiêm trọng người và của; cùng năm đó, xảy ra khủng
52
hoảng kinh tế khu vực Đông Nam Á nên sản xuất xã hội toàn tỉnh giảm mạnh. Điều
này làm giảm năng lực đầu tư cũng như khả năng thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh,
nhất là đầu tư phát triển kinh tế biển.
Tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh năm 1999 mới chỉ đạt
1.148 tỉ đồng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất ít, chỉ đạt 59 triệu đồng, sau đó
tăng mạnh vào năm 2000, đạt 15 tỉ đồng. Riêng ba huyện ven biển của tỉnh, vốn đầu
tư năm 1999 là 424 tỉ đồng, chiếm 36,9 % vốn đầu tư toàn tỉnh. Song, thời kì này
chủ yếu là đầu tư phát triển nông – lâm nghiệp, thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ
bản như cầu cống, đường xá. Mặt khác, do nguồn vốn hạn chế, đầu tư còn mang
tính dàn trãi xã hội, chưa chú trọng đầu tư các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch
biển và giao thông vận tải biển nên hiệu quả đầu tư chưa cao.
Mặc dù có đường bờ biển dài 65 km và trên lãnh thổ có 4 cửa sông lớn đổ ra
biển nhưng tiềm năng và điều kiện phát triển vận tải biển của tỉnh Bến Tre rất hạn
chế. Do lãnh thổ ở phần hạ lưu của sông Cửu Long nên các cửa sông lớn có độ bồi
lắng phù sa rất lớn, địa hình bờ biển là các bãi bồi nông, rộng, trãi dài về phía biển
nên không thích hợp cho việc xây dựng cảng biển. Đây cũng là tình trạng chung của
các tỉnh ven biển vùng đồng bằng song Cửu Long, trừ Kiên Giang có bờ biển nằm
trên nền địa chất cứng hơn, có khả năng phát triển cảng biển. Giai đoạn này, việc
vận tải hàng hóa bằng đường biển của tỉnh rất hạn chế do không có cảng và đội tàu
biển, chủ yếu phát triển vận tải đường đường sông và đường bộ.
Trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 1996 – 2000 mới chỉ có các dự án xây dựng các
cảng cá, bến cá tại ba huyện ven biển để phục vụ phát triển ngành hải sản, chưa có
dự án phát triển cảng biển.
2.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010
2.2.2.1. Hiện trạng phát triển ngành thủy sản
Bến Tre có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển ngành thủy sản. Tuy nhiên,
giai đoạn 1996 – 2000, ngành thủy sản tỉnh phát triển chưa mạnh. Từ sau năm 2000,
ngành thủy sản tỉnh đã có bước phát triển mới cả về lượng và chất.
53
Giai đoạn 2001 – 2010, GDP ngành thủy sản tăng thêm 1.052,5 tỉ đồng,
trung bình tăng thêm 105,3 tỉ đồng/năm, cao hơn mức tăng trung bình thời kì 1996 –
2000 (77,8 tỉ đồng/ năm).
Bảng 2.3: GDP và giá trị sản xuất ngành thủy sản tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010
Năm
2001
2003
2005
2007
2009
2010
1. GDP toàn ngành
914
1.090,3
1.344,4
1.543,5
1.758,5
1.966,5
(Tỉ đồng)
2. Giá trị sản xuất
1.485,4
1.806,4
2.264,1
3.132,1
3.904
4.486,9
theo giá so sánh
(Tỉ đồng)
53,7
41
37,8
29,9
35,2
34
Khai thác (%)
46,3
59
62,2
70,1
64,8
66
Nuôi trồng (%)
3. Sản lượng (Tấn)
127.714
129.049
137.381
175.757
246.751
290.585
Khai thác (%)
52,1
48,7
53,9
43,3
40,5
41,6
Nuôi trồng (%)
47,9
51,3
46,1
56,7
59,5
58,4
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Do có sự phát triển khá đồng đều ở cả hai lĩnh vực khai thác và nuôi trồng
nên giá trị sản xuất thủy sản tăng cao, đảm bảo năm sau luôn cao hơn năm trước.
Năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản là 4.486,9 tỉ, gấp 3 lần so với năm 2001; bình
quân mỗi năm tăng thêm 498,5 tỉ đồng, cao gấp 2,3 lần giai đoạn 1996 – 2000 (208
tỉ đồng/năm) theo giá so sánh. Giai đoạn 1996- 2000, ngành khai thác luôn chiếm tỉ
trọng hơn 65% giá trị sản xuất ngành thủy sản. Trong khi đó, giai đoạn 2001 –
2010, ngành khai thác giảm nhanh tỉ trọng, từ 54% (năm 2001) xuống còn 35%
(2010) và kể từ năm 2002, tỉ trọng ngành khai thác thấp hơn tỉ trọng ngành nuôi
trồng, đây là điều chưa bao giờ xảy ra trước năm 2000. Điều này chứng tỏ có sự
chuyển dịch lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản của tỉnh.
Sản lượng thủy sản năm 2010 (290.585 tấn) tăng hơn 2,3 lần so với năm
2001 (127.714 tấn). Trong đó, sản lượng ngành khai thác thời kì 2001-2010 tăng
54.468 tấn, sản luợng nuôi trồng tăng 108.403 tấn. Từ năm 2007 trở đi, tỉ trọng sản
54
lượng thủy sản ngành nuôi trồng luôn cao hơn 50%, vượt qua tỉ trọng ngành khai
thác.
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản của tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010
Tấn
1 7 5 9 6 1
180000
8 1 0 7 5 1
7 0 7 6 4 1
160000
140000
120000
1 3 5 9 9
100000
9 1 1 1 7
4 6 2 9 6
9 9 0 6 6
80000
2 4 3 3 6
8 6 1 1 6
1 2 5 0 6
60000
4 1 0 1 2 1
40000
4 4 0 0 0 1
9 8 3 1 8
6 2 2 6 7
9 9 6 5 7
9 3 0 4 7
1 5 7 1 7
6 4 5 6 6
1 8 0 3 6
0 5 9 2 6
20000
0
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Khai thác
Nuôi trồng
Riêng ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú chiếm ưu thế về
kinh tế thủy sản cả lĩnh vực khai thác lẫn nuôi trồng thủy sản so với các huyện khác,
nhất là thời kì 2005 – 2010.
Năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản của ba huyện ven biển đạt 5.547 tỉ đồng
(74,2 % giá trị sản xuất thủy sản toàn tỉnh). Trong đó, ngành khai thác thủy sản mà
chủ yếu là hải sản đạt 2.187 tỉ đồng (94,4% toàn tỉnh), ngành nuôi trồng là 3.316,9
tỉ đồng (65,7% toàn tỉnh), các ngành dịch vụ thủy sản phát triển mạnh hơn so với
thời kì trước, đạt 43 tỉ đồng (40% toàn tỉnh).
Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển từ 2005 đến năm 2010, tăng thêm
69.713 tấn và luôn chiếm hơn 64% sản lượng thủy sản toàn tỉnh, cá biệt, năm 2005,
chiếm 85,7% sản lượng thủy sản toàn tỉnh. Năm 2010, sản lượng thủy sản của ba
huyện đạt 187.661 tấn. (Xem bảng 2.4)
55
Bảng 2.4: Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2005 – 2010
Đơn vị: tấn
Năm 2005 2007 2008 2009 2010
1. Sản lượng toàn tỉnh 137.381 175.757 238.407 246.751 290.585
Huyện Bình Đại 58.447 71.386 88.695 88.794 100.786
Huyện Ba Tri 44.555 44.402 47.733 56.274 66.815
Huyện Thạnh Phú 14.946 14.559 16.598 18.926 20.060
85,7 74,2 64,2 66,5 64,6
2. Tỉ lệ của ba huyện ven biển so với toàn tỉnh (%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Hiện trạng phát triển ngành khai thác thủy sản:
Giai đoạn 2001 – 2010, tỉnh Bến Tre đã định hướng tăng cường khai thác xa
bờ, ưu tiên đầu tư, đổi mới trang thiết bị - công nghệ, nâng cao năng lực khai
thác,..nên ngành khai thác thủy sản phát triển mạnh hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao
hơn giai đoạn 1996 – 2000, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng giá trị sản xuất
ngành thủy sản của tỉnh.
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản tỉnh Bến Tre theo giá so
sánh, 2001 – 2010
Ngành khai thác thủy sản Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Cơ cấu (%) 54 47 41 38 38 35 30 29 35 34
Giá trị sản xuất (triệu đồng) 797.299 768.824 740.693 793.901 856.742 912.993 935.562 1.070.161 1.373.667 1.526.584 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
56
Qua bảng 2.5 cho thấy, giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản mà chủ yếu
là hải sản giai đoạn 2001 – 2010 tăng thêm 729,3 tỉ đồng, từ 797,3 tỉ đồng (năm
2001) lên 1.526,6 tỉ đồng (năm 2010), tăng gần 2 lần giá trị. Tốc độ tăng trưởng giá
trị sản xuất ngành khai thác là 10,2 %/năm, thấp hơn tốc độ tăng trưởng thời kì 1996
– 2000 (22,8%/năm). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm bình quân hằng năm thời kì 2001
– 2010 là 155,3 tỉ đồng/năm, cao hơn giai đoạn 1996 – 2000 (134,4 tỉ đồng/năm).
Bên cạnh đó, có sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy
sản của tỉnh. Giai đoạn 1996- 2000, ngành khai thác luôn chiếm tỉ trọng hơn 65%
giá trị sản xuất ngành thủy sản. Trong khi đó, giai đoạn 2001 – 2010, ngành khai
thác giảm nhanh tỉ trọng, từ 54% (năm 2001) xuống còn 35% (2010) và kể từ năm
2002, tỉ trọng ngành khai thác thấp hơn tỉ trọng ngành nuôi trồng, đây là điều chưa
bao giờ xảy ra trước năm 2000.
Nguyên nhân là do giai đoạn trước năm 2000, ngành khai thác thủy hải sản
chiếm ưu thế hơn hẳn ngành nuôi trồng và phải tăng trưởng nhanh để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng mà ngành nuôi trồng chưa thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, giai đoạn
1996 – 2000, ngành khai thác phát triển chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên phong
phú ven bờ. Trong khi đó, giai đoạn 2001 – 2010, nguồn lợi thủy sản ven bờ giảm
nhanh, ngư dân tích cực thực hiện chủ trương khuyến khích đánh bắt xa bờ, khai
thác các hải sản có giá trị kinh tế cao đồng thời kĩ thuật, công nghệ, phương tiện
khai thác ngày càng hiện đại hóa nên tốc độ tăng trưởng thấp nhưng giá trị sản xuất
cao. Tỉ trọng ngành khai thác ngày càng giảm nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng chứng
tỏ ngành thủy sản của tỉnh đã phát triển ngày càng hợp lí, hiệu quả hơn, dần dần
giảm sự phụ thuộc vào nguồn lợi thủy hải sản ven bờ và ngành khai thác để tăng
khả năng khai thác tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản nhằm chủ động nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến.
Yếu tố quan trọng góp phần vào việc tăng trưởng ngành khai thác thủy hải
sản là số lượng và đặc điểm phương tiện đánh bắt. Số tàu thuyền đóng mới và đăng
kí khai thác trên địa bàn tỉnh Bến Tre năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2010,
toàn tỉnh có 5.785 tàu thuyền cơ giới, tăng 2.505 chiếc so với năm 2001. Tổng công
57
suất tàu thuyền không ngừng tăng lên, năm 2010 là 634.010 CV, tăng 2,2 lần so với
đầu giai đoạn (149.975 CV), công suất trung bình đạt 109,6 CV/chiếc.
Trong đó, số tàu thuyền đánh bắt xa bờ được đầu tư, phát triển, đóng mới
hàng năm nên không ngừng tăng lên để tăng thời gian khai thác trên biển, giảm chi
phí do việc ra vào nhiều lần và tăng cường khả năng khai thác tài nguyên vùng biển
khơi. Bến Tre là một trong những tỉnh có đội tàu khai thác xa bờ thuộc tốp đầu cả
nước. Năm 2010, toàn tỉnh có 1.549 chiếc (22,8% số tàu thuyền đánh bắt), tăng
1.139 chiếc so với năm 2001. Tổng công suất tàu đánh bắt xa bờ là 509.602 CV,
trung bình 329 CV/chiếc (2010). Vùng biển hoạt động nghề khai thác hải sản của
tỉnh khá rộng, trải dài từ Vũng Tàu đến vịnh Thái Lan, đặc biệt có một lượng lớn
tàu thuyền hoạt động thường xuyên ở vùng biển Nam Côn Sơn (tiếp giáp với
Malayxia, Inđônêxia, Philippin).
Riêng địa bàn ba huyện ven biển là nơi tập trung số phương tiện đánh bắt xa
bờ nhiều nhất của tỉnh. Số lượng tàu đánh bắt thủy hải sản tăng qua các năm, đặc
biệt thời kì 2005 – 2010 tăng mạnh từ 2.472 chiếc lên 4.174 chiếc. Mỗi huyện ven
biển đều tích cực đầu tư đóng mới tàu thuyền, nhất là tàu đánh bắt xa bờ, công suất
lớn, từng bước hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị phục vụ đánh bắt. Tỉ lệ tàu
thuyển đánh bắt thủy hải sản của ba huyện ven biển thời kì 2005 – 2010 luôn chiếm
hơn 72% số tàu thuyền đánh bắt toàn tỉnh, riêng tàu đánh bắt xa bờ là 1.489/1.549
chiếc của toàn tỉnh (chiếm 96%). Trong đó, từ năm 2005, huyện Ba Tri có số
phương tiện đánh bắt mà nhất là tàu đánh bắt xa bờ cao nhất tỉnh, cao hơn cả huyện
Bình Đại; huyện Thạnh Phú do còn yếu kém về cơ sở vật chất, thiếu vốn đầu tư nên
số lượng tàu thuyền đánh bắt tương đối ít.
So với giai đoạn 1996 – 2000, thời kì này phương pháp và kĩ thuật khai thác
thủy hải sản khá đa dạng và có sự thay đổi theo hướng tích cực. Theo đó, chuyển
dần từ phương pháp khai thác truyền thống sang phương pháp mới, hiện đại hơn;
hạn chế dần khai thác gần bờ, tăng cường khai thác xa bờ. Các phương pháp như
lưới kéo, lưới rê, cào điện,…dần được thay thế bằng phương pháp cào khơi, lưới
đôi, bẩy rập, lưới vây ánh sáng,.. để giảm tính lạm sát nguồn lợi thủy hải sản…Đội
58
ngũ thuyền trưởng, thuyền viên có tay nghề, có khả năng nắm bắt được các ngư
trường trọng điểm và ngư trường xa bờ. Đặc biệt, từ năm 2002 trở đi, tỉnh khuyến
khích ngư dân ra khơi theo từng đoàn để hỗ trợ nhau, đảm bảo an toàn cho người và
phương tiện, nâng cao hiệu quả khai thác đồng thời góp phần tích cực bảo vệ an
ninh biển, đảo của Tổ quốc.
Do thực hiện tốt chủ trương tăng cường đánh bắt xa bờ, đồng thời đóng mới
tàu thuyền, đổi mới công nghệ - kĩ thuật khai thác nên sản lượng khai thác của tỉnh
tăng mạnh trong thời kì 2001 – 2010.
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản khai thác tỉnh Bến Tre,
2001 -2010
Tấn
140000
1334
120000
1669
100000
1148
80000
3502 3306 1558 1283
2464
3970 3542
60000
98375
74943
40000
70733
119679
59408
80241
64082
74141
68249
59111
20000
0
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Khai thác biển
Khai thác nội địa
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Sản lượng khai thác thủy hải sản toàn tỉnh năm 2010 là 121.014 tấn, tăng 1,8
lần sản lượng năm 2001, chiếm 47,7% sản lượng thủy sản toàn tỉnh, trung bình tăng
thêm 6.052 tấn/năm. Trong đó, khai thác biển chiếm ưu thế gần như tuyệt đối so với
sản lượng khai thác nội địa vì khai thác biển là nghề truyền thống và ngư dân vùng
biển có nhiều kinh nghiệm khai thác trên biển, đồng thời nguồn lợi hải sản vùng
biển lớn gấp nhiều lần nguồn lợi thủy sản nội địa. Từ năm 2002, sản lượng khai thác
59
biển tăng liên tục, đạt 119.679 tấn (2010), chiếm 98,9% sản lượng khai thác thủy
sản toàn tỉnh.
So với các huyện khác của tỉnh Bến Tre, ba huyện ven biển chiếm ưu thế về
khai thác thủy sản, đặc biệt là khai thác hải sản do có địa bàn giáp biển, có kinh
nghiệp khai thác biển từ lâu đời và không ngừng đổi mới phương tiện, kĩ thuật khai
thác.
Giai đoạn 2001 – 2010, sản lượng khai thác thủy hải sản của ba huyện ven
biển tăng mạnh, nhất là giai đoạn 2005 – 2010. Năm 2010, đạt 115.127 tấn, tăng
83.860 tấn (tăng 2,2 lần) so với năm 2005 (67.267 tấn). Sản lượng khai thác thủy
hải sản của ba huyện ven biển trong giai đoạn 2005 – 2010 luôn chiếm trên 90% sản
lượng thủy sản khai thác toàn tỉnh, trong khi các huyện còn lại chỉ chiếm 10% sản
lượng khai thác toàn tỉnh. (Xem bảng 2.6)
Bảng 2.6: Sản lượng khai thác thủy sản phân theo huyện, 2005 – 2010
Đơn vị: tấn
Năm 2005 2007 2008 2009 2010 Huyện
Toàn tỉnh 74.039 76.226 81.389 100.044 121.014
Ba huyện 67.267 74.360 79.086 95.465 151.127 ven biển
% so với 90,9 97,6 97,1 95,4 95,1 toàn tỉnh
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Trong đó, huyện Bình Đại đạt sản lượng là 54.379 tấn (năm 2010), chiếm
44,9% toàn tỉnh; huyện Ba Tri đạt sản lượng 53.108 tấn (năm 2010), chiếm 43,9%
toàn tỉnh. Riêng huyện Thạnh Phú, khai thác thủy hải sản thời gian qua có phát triển
nhưng còn hạn chế so với hai huyện kia, sản lượng năm 2010 mới chỉ đạt 7.640 tấn.
Sản phẩm khai thác hải sản chủ yếu của tỉnh là cá biển, tôm biển, mực.
Trong đó, nhiều nhất là cá biển phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
60
Cá biển chiếm hơn 70% sản lượng thủy hải sản khai thác toàn tỉnh. Năm
2010, sản lượng cá biển tăng hơn 2 lần so với năm 2005, sản lượng bình quân là
58.955 tấn/năm, cao gấp 1,4 lần sản lượng cá biển bình quân thời kì 1996 – 2000
(40.113 tấn/năm). Trong tổng sản lượng khai thác cá biển toàn tỉnh thì ba huyện ven
biển chiếm 96%, đạt 97.543 tấn (2010), tăng 48.588 tấn so với năm 2005. Riêng các
huyện khác, từ năm 2008 đến năm 2010, sản lượng cá biển tăng lên hơn 3 lần so với
năm 2005 là do các huyện Châu Thành, Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm dù không giáp
biển nhưng từ những năm gần đây vẫn có phát triển đội tàu thuyền đánh bắt hải sản
mà nhất là tàu thuyền đánh bắt xa bờ để cùng các huyện ven biển khai thác tài
nguyên hải sản trên biển. Ngoài cá biển thì tôm biển và mực cũng là sản phẩm hải
sản khai thác chủ lực của tỉnh Bến Tre. (Xem bảng 2.7)
Bảng 2.7: Sản lượng cá biển đánh bắt phân theo huyện năm 2010
Đơn vị: Tấn
Năm 2005 2007 2008 2009 2010
Huyện
Toàn tỉnh 53.123 53.323 58.055 75.278 101.500
Ba huyện ven biển 48.955 52.419 57.030 72.802 97.543
+ Bình Đại 24.958 26.444 27.730 35.927 45.469
+ Ba Tri 22.458 24.792 27.376 33.822 47.745
+ Thạnh Phú 1.539 1.183 1.924 3.053 4.329
Các huyện khác 4.168 904 1.025 2.485 3.957
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Để nâng cao năng lực và tạo đà phát triển bền vững ngành khai thác hải sản,
tỉnh Bến Tre đã đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động các cảng cá, bến cá trên địa
bàn ba huyện ven biển. Trong đó, nổi bật nhất là cảng cá Ba Tri, cảng cá Bình Đại
và cảng cá Thạnh Phú.
Cảng cá, bến cá là những bộ phận cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần cơ bản của
hoạt động đánh bắt hải sản với những chức năng như: nơi cất bến, buôn bán và cung
61
cấp các dịch vụ, sửa chữa tàu thuyền, cung cấp ngư cụ, nhiên liệu, bảo quản sản
phẩm, đầu mối lưu thông và phân phối các sản phẩm khác. Ngoài ra, còn là nơi
quản lý tàu thuyền hoạt động khai thác, cung cấp các thông tin về ngư trường, thiên
tai, cứu nạn…
Cảng cá An Thủy – huyện Ba Tri:
Cảng cá Ba Tri là cảng cá được xây dựng đầu tiên trên địa bàn tỉnh. Cảng
nằm ở cửa sông Hàm Luông (xã An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre) do Bộ Thủy sản
cũ đầu tư xây dựng năm 2001, khánh thành năm 2002. Cảng cá này có tổng diện tích 19.495m2, hơn 12.400m2 được dùng làm đường, bãi nội bộ, phòng làm việc,
khu xử lý nước thải, hệ thống điện, nước, còn lại là diện tích cho thuê các loại hình
dịch vụ thủy sản phục vụ đánh bắt. Hai cầu của cảng có tổng chiều dài 160m: Cầu
tàu lớn sát sông Hàm Luông dài 100m dùng cho tàu có công suất lớn cập cảng; cầu
nhỏ (dọc theo rạch Bà Hiền) dành cho tàu nhỏ có công suất khoảng 60 CV neo đậu.
Với địa thế rất lí tưởng, hàng năm có hàng nghìn tàu thuyền cập bến lên hàng. Năm
2010, lượng tàu neo đậu khoảng 6000 lượt, tàu lên hàng 2.900 lượt, hàng thủy sản
qua cảng là 22.000 tấn.
Tuy nhiên, hiện tại, với chiều dài của cầu lớn, cầu này chỉ đủ cho 5 - 6 tàu
lớn cập bến để lên hàng thủy sản và nhận nhiên liệu. Vào mùa vụ (mùa Nam từ
tháng 5 đến tháng 10), lượng tàu cập cảng nhiều hơn, hai cầu tàu không đủ sức
chứa. Con rạch Bà Hiền cập sát bên trong cảng, rộng chỉ 40m, hai bên rạch đều là
bãi bồi, khiến tàu vào cảng rất khó khăn, dễ bị ùn tắc và gây ô nhiễm. Các dịch vụ
trên bờ trở nên chật chội. Hàng ngày có khoảng 500 lao động làm việc ở các cơ sở
thu mua thủy sản, cung cấp nước đá, dầu mỡ, quán ăn uống… san sát nhau. [19]
Cảng cá Bình Thắng – huyện Bình Đại:
Là cảng cá thứ hai của tỉnh, được xây dựng sau cảng cá An Thủy – huyện Ba
Tri, nhưng là cảng cá hoạt động hiệu quả nhất của tỉnh Bến Tre hiện nay. Hiện cảng
có 6 vựa cá và 2 đại lý; 7 cơ sở sơ chế; 1 kho chứa cá phân; 2 cơ sở cơ khí; 3 dịch
vụ ăn uống; 1 cửa hàng xăng dầu; 1 xưởng nước đá công suất 1.000 cây/ngày.
Ngoài ra, hàng ngày còn một số cá nhân hoạt động thu mua nhỏ lẻ cung cấp hàng
62
cho các chợ trong tỉnh, các cơ sở chế biến khô và khoảng 500 lao động phổ thông
tại địa phương hoạt động trong cảng.
Lượng tàu cá trên địa bàn huyện Bình Đại đến cuối năm 2010 là 1.208 tàu,
trong đó tàu xa bờ là 535 tàu. Trong năm, lượng tàu cập cảng 3.275 lượt, tăng 30 %
so với cùng kỳ năm 2009, trong đó lượng tàu ngoài tỉnh chiếm 5%. Giá thu mua
nguyên liệu của các vựa cá trong năm qua được nâng lên ngang bằng với các cảng
cá trong khu vực nên tất cả các tàu cá của địa phương đều tập trung về cảng. Năm
2010 là năm mang lại hiệu quả cao nhất trong 10 năm qua đối với lĩnh vực khai thác
thuỷ sản trên địa bàn huyện Bình Đại.
Sản lượng hàng thủy sản qua cảng đạt 25.716 tấn, tăng 69 % so với cùng kỳ
năm 2009. Các mặt hàng sơ chế đa dạng hơn và kỹ thuật sơ chế có bước cải tiến đáp
ứng được yêu cầu của các nhà máy chế biến xuất khẩu. Nếu như các năm trước chỉ
tập trung vào 2 mặt hàng chủ yếu là mực và cá chỉ vàng thì nay có thêm hàng cá bò,
cá đục, nhằm góp phần giảm thiểu tỷ lệ cá phân của tàu khai thác, nâng cao hiệu
quả trong sản xuất.
Năm 2010, hệ thống dịch vụ hậu cần trên cảng được đầu tư tương đối hoàn
thiện, chất lượng dịch vụ có bước nâng cao, đảm bảo các điều kiện về an toàn vệ
sinh thực phẩm. Phương thức mua bán có sự thay đổi và điều chỉnh phù hợp với
kinh tế thị trường làm cho hoạt động của Cảng ngày càng năng động và thu hút
được khách hàng trong và ngoài tỉnh đến liên kết cung ứng dịch vụ, thu mua hàng
thuỷ sản.
Tuy nhiên, với qui mô diện tích 1,75ha và hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện có
của cảng cá Bình Đại chưa tương ứng với tiềm năng khai thác thuỷ sản của địa
phương. Bên cạnh đó công suất thiết kế hiện tại của cảng là 21.600 tấn/năm so với
25.716 tấn ở năm 2010 là quá tải, gây khó khăn cho công tác sắp xếp điều tiết tàu
cặp cảng lên hàng. Lượng tàu cá trên địa bàn huyện tăng nhanh và không có nơi neo
đậu để duy tu sửa chữa hoặc chờ ra khơi, vì vậy một số tàu phải neo đậu tại cảng
làm cản trở việc sắp xếp tàu lên hàng. Dự án mở rộng cảng cá Bình Đại cũng đã
được Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn phê duyệt vào cuối năm 2010, với
63
diện tích mở rộng 3,5ha. Tổng mức vốn đầu tư của dự án là 130 tỷ đồng, trong đó
vốn ngân sách trung ương là 123,3 tỷ đồng, vốn ngân sách tỉnh là 6,7 tỷ đồng.
Trong năm 2011 ngân sách trung ương chỉ phân bổ 250 triệu đồng để khảo sát, lập
dự án chứ chưa bố trí vốn để khởi công mới.
Cảng cá An Nhơn (Thạnh Phú)
Là cảng cá thứ ba của tỉnh Bến Tre, nằm trên địa bàn xả An Nhơn, huyện
Thạnh Phú, được khởi công xây dựng năm 2007. Cảng được thiết kế có độ sâu đủ
chuẩn cho tàu 400 CV cập bến. Công trình có tổng nguồn vốn đầu tư là 40 tỷ đồng
từ nguồn ngân sách Nhà nước, do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre
làm chủ đầu tư. Toàn bộ công trình được triển khai trên diện tích 3 ha, bao gồm 2
phần với đầy đủ các dịch vụ hậu cần liên quan đến đánh bắt, chế biến thủy sản.
Trong đó, khu vực bên trong cảng bao gồm nhà phân loại, khu dịch vụ và cung cấp
xăng dầu. Khu vực ngoài cảng bao gồm nhà máy nước đá, cơ khí, sửa chữa tàu
thuyền, chế biến cá khô... Đến năm 2010, cảng cá An Nhơn vẫn chưa được xây
dựng xong nhưng với việc triển khai xây dựng cảng cá này đã góp phần tạo động
lực cho sự phát triển của ngành khai thác hải sản huyện Thạnh Phú nói riêng và tỉnh
Bến Tre nói riêng. Đến năm 2012, cảng cá đi vào hoạt động sẽ giúp phát triển bền
vững nghề khai thác, chế biến thủy sản tại huyện Thạnh Phú, góp phần hoàn thiện
hệ thống hậu cần và dịch vụ nghề cá, đáp ứng kịp thời sự phát triển ngày càng
nhanh, mạnh của ngành thủy sản tỉnh trong những năm tới.
Hiện trạng phát triển ngành nuôi trồng thủy hải sản ở tỉnh Bến Tre
So với giai đoạn 1996 – 2000 ngành nuôi trồng thủy hải sản Bến Tre chỉ mới
bước đầu phát triển và còn gặp rủi ro cao, giai đoạn 2001 – 2010, ngành đã có
những bước tiến quan trọng và bền vững.
Giá trị ngành nuôi trồng thủy hải sản của tỉnh năm 2010 là 5.053,7 tỉ đồng,
cao hơn gấp 6 lần năm 2001 (824 tỉ đồng), trung bình đạt 2.548,9 tỉ/năm. Cơ cấu giá
trị ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh cũng có sự thay đổi lớn. Giai đoạn 1996 –
2000, ngành nuôi trồng chiếm 26 – 35% giá trị sản xuất thủy sản toàn tỉnh thì giai
đoạn 2001 – 2010 tăng lên từ 47 – 68%, cá biệt năm 2007, tỉ trọng ngành nuôi trồng
64
là 72,2%. Từ năm 2002 đến năm 2010, ngành nuôi trồng đã vượt tỉ trọng ngành khai
thác.
Đối với Bến Tre, tiềm năng nuôi trồng thủy sản là rất lớn. Diện tích mặt
nước có thể nuôi trồng thủy sản là trên 50.000 ha. Thập kỉ đầu của thế kỉ XX, diện
tích nuôi trồng thủy sản không ngừng được mở rộng. Năm 2010, diện tích mặt nước
đã nuôi thủy sản là 42.490 ha.
Việc nuôi trồng thủy hải sản phát triển mạnh cả ba môi trường ngọt, lợ và
mặn. Trong đó, diện tích nuôi thủy hải sản vùng mặn, lợ là 35.000 – 37.000 ha, diện
tích nuôi thủy sản nước ngọt còn ít từ 5.000 đến 7.000 ha nhưng nhờ tăng cường áp
dụng khoa học kĩ thuật và nhiều mô hình phù hợp nên hiệu quả nuôi trồng cao. Các
loài thủy hải sản được nuôi nhiều nhất trong tỉnh là tôm (33.231 ha), cá (4.083 ha),
nghêu, sò, cua biển,…
Từ năm 2003, tỉnh Bến Tre đã xây dựng quy hoạch chi tiết nuôi thủy hải sản
ở ha huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú để xác định từng vùng nuôi
trồng phù hợp với từng loại thủy hải sản. Đây là một thuận lợi lớn để cải tiến và tổ
chức phương thức nuôi mới với các hình thức nuôi hiện đại.
Những năm 1996 – 2000, nuôi trồng thủy hải sản trong tỉnh chỉ mới bắt đầu
phát triển, chủ yếu là nuôi với hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến. Đến năm
2000, một số địa phương mới bắt đầu thử nghiệp hình thức thâm canh, bán thâm
canh nhưng hiệu quả chưa cao, nhiều rủi ro. Từ năm 2001 – 2010, hình thức nuôi
trồng thủy hải sản trong tỉnh ngày càng đa dạng, hiện đại gắn liền với các vùng quy
hoạch. Từ năm 2004, nuôi thủy hải sản theo hình thức công nghiệp, bán công
nghiệp theo hướng thâm canh phát triển mạnh với sự phát triển tương ứng về trình
độ, chuyên môn kĩ thuật, khoa học, công nghệ, vốn đầu tư, nguồn thức ăn và con
giống chất lượng cao. Đặc biệt, giai đoạn 2001 – 2010, nuôi thủy sản với hình thức
trang trại bắt đầu hình thành và phát triển mạnh đã góp phần tạo nên sự chuyển đổi
lớn trong ngành nuôi thủy sản của tỉnh, tiến dần đến việc hình thành vùng sản xuất
hàng hóa. Năm 2010, toàn tỉnh có 2.156 trang trại nuôi trồng thủy sản, chiếm 44%
số trang trại toàn tỉnh.
65
Bên cạnh đó, ngày càng xuất hiện và phổ biến nhiều mô hình nuôi hiệu quả
như nuôi xen 1 vụ tôm – 1 vụ lúa ở vùng lợ; nuôi tôm càng xanh xen canh trong
vườn dừa, ruộng lúa. Đặc biệt, năm 2007, huyện ven biển Thạnh Phú bắt đầu phát
triển mô hình sản xuất mới: 1 vụ tôm sú, 1 vụ tôm càng xanh – lúa. Các mô hình
này đánh dấu một bước tiến mới so với giai đoạn trước, dần trở thành mô hình sinh
thái bền vững, mang lại hiệu quả cao, góp phần cải thiện và ổn định chất lượng cuộc
sống của người dân.
Với việc khai thác ngày càng hiệu quả tiềm năng nên ngành nuôi trồng thủy
hải sản Bến Tre phát triển ngày càng mạnh, sản lượng nuôi trồng không ngừng tăng
lên từ 61.168 tấn (năm 2001) lên 169.571 tấn (năm 2010), trung bình đạt 96.434
tấn/năm, bình quân mỗi năm tăng thêm 12.045 tấn. Mặc dù gặp không ít bất lợi như
thời tiết xấu, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nuôi nhưng do sự cải tiến không ngừng
về công nghệ, kĩ thuật, giống, mô hình,…nên sản lượng nuôi trồng thủy hải sản giai
đoạn 2001 – 2010 tăng nhanh và ổn định hơn, sản lượng bình quân hằng năm cao
hơn 2 lần so với giai đoạn 1996 – 2000. (Xem bảng 2.8)
Bảng 2.8: Sản lượng thủy sản nuôi trồng tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010
Đơn vị: tấn
Ngành nuôi trồng
Năm Tổng sản lượng thủy sản toàn tỉnh Sản lượng % so với tổng sản lượng toàn tỉnh
2001 127.174 61.168 47,9
2002 134.200 71.119 53,0
2003 129.049 66.099 51,3
2004 132.272 60.521 45,8
2005 137.381 63.342 46,1
2006 144.963 69.264 47,8
2007 175.757 99.531 56,7
2008 238.407 157.018 65,9
2009 246.751 146.707 59,5
2010 290.585 169.571 58,4
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
66
Qua bảng 2.8 cho thấy, tỉ trọng ngành nuôi trồng thủy hải sản của Bến Tre
giai đoạn 2001 – 2010 đạt từ 45 – 66% trong cơ cấu sản lượng thủy sản của tỉnh. Từ
năm 2004 – 2010, tỉ trọng và sản lượng ngành nuôi trồng tăng liên tục, đến năm
2007 đã vượt qua tỉ trọng ngành khai thác. Năm 2010, sản lượng ngành nuôi trồng
cao hơn sản lượng ngành khai thác thủy sản 48.557 tấn.
Vì ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh phát triển ở cả ba môi trường nuôi
nuốc ngọt, mặn, lợ nên sản phẩm nuôi trồng khá đa dạng. Trong đó, tôm, cá, nghêu,
sò, cua biển chiếm ưu thế về diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng, trở thành
những sản phẩm nuôi trồng chủ lực.
Cá:
Diện tích mặt nước và sản lượng cá nuôi đều tăng qua các năm. Diện tích
mặt nước nuôi cá toàn tỉnh năm 2010 là 4.083 ha, tăng 1.210 ha so với năm 2001
(2.873 ha). Sản lượng cá nuôi tăng rất nhanh, năm 2010 tăng thêm 115.537 tấn so
với năm 2001. Diện tích nuôi cá nước ngọt chiếm ưu thế và đặc biệt tăng nhanh từ
năm 2004 – 2010 cùng với việc sử dụng công nghệ tiên tiến, nuôi công nghiệp theo
hướng thâm canh, sử dụng thức ăn công nghiệp thay cho phương pháp nuôi truyền
thống và thức ăn tự nhiên nên năng suất nuôi cao, sản lượng tăng nhanh, tăng
112.817 tấn từ năm 2004 đến năm 2010. Diện tích nuôi cá nước mặn, nước lợ còn
ít, năm 2010, toàn tỉnh có 139 ha.
Các loại cá nuôi có giá trị kinh tế cao như cá tra, cá basa, cá rô đồng, cá rô
phi,..với sản lượng tăng, chất lượng cao không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong
nước mà còn là nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu
sang nhiều thị trường nước ngoài, nhất là sản phẩm cá tra, cá basa.
Tôm:
Là đối tượng nuôi chủ lực của vùng nước lợ, nước mặn và tập trung nhiều
nhất ở các huyện ven biển. Trong đó, đối tượng nuôi chù yếu là các loại tôm có giá
trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm càng
xanh,...Diện tích nuôi và sản lượng tôm nuôi ngày càng tăng. Diện tích mặt nước
nuôi tôm năm 2010 của tỉnh là 33.231 ha, tăng thêm 14.128 ha so với năm 2001.
67
Trong đó, tôm nước mặn, nước lợ chiếm ưu thế (31.099 ha) so với tôm nước ngọt
(2.420 ha). Từ năm 2003, tỉnh đã hình thành các vùng nuôi tôm công nghiệp, bán
công nghiệp theo hướng thâm canh nên năng suất và sản lượng tăng nhanh. Sản
lượng tôm nuôi năm 2010 đạt 29.208 tấn, tăng 21.184 tấn so với năm 2001 (8.024
tấn).
Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện sản lượng tôm, cá nuôi tỉnh Bến Tre,
2005 – 2010
Tấn
140000
124850
117456
120000
110760
100000
80000
56260
60000
40000
31968
20029
29208
20000
25362
22841
23446
20338
25089
0
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tôm Cá
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]
Ngoài ra, nghêu, sò, cua biển cũng là những đối tượng nuôi thế mạnh của
tỉnh Bến Tre trong những năm gần đây. Đặc biệt, năm 2009, Bến Tre là tỉnh đầu
tiên của cả nước và khu vực Đông Nam Á được chứng nhận tiêu chuẩn MSC –
chứng nhận sản phẩm thủy sản sinh thái đạt chất lượng toàn cầu, đối với nghề sản
xuất, quản lý, khai thác nghêu. Chứng chỉ MSC được cấp bởi Hội đồng Biển Quốc
tế (Marine Stewardship Council – MSC), một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế được
thành lập nhằm khuyến khích các giải pháp khắc phục tình trạng khai thác thuỷ sản
quá mức. Đây là một điều kiện rất tốt để sản phẩm nghêu xuất khẩu của Bến Tre
vươn xa trên thị trường thế giới với nhãn hiệu sản phẩm sinh thái, tạo được chỗ
đứng bền vững đối với người tiêu dùng.
68
Chứng nhận MSC là động lực thúc đẩy nghề sản xuất, nuôi và khai thác
nghêu ở Bến Tre phát triển mạnh và bền vững. Nghề nuôi nghêu ở Bến Tre có sự
chuyển đổi mạnh mẽ từ hình thức khai thác và nuôi tự phát của người dân ở các bãi
bồi ven biển sang nuôi theo hình thức hợp tác xã để đảm bảo quy trình kĩ thuật và
quản lý môi trường. Đến năm 2010, Bến Tre có 10 hợp tác xã với 35 tổ hợp tác nuôi
nghêu tập trung chủ yếu ở ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.
Diện tích nuôi nghêu, sò năm 2010 của tỉnh Bến Tre là 4.543 ha, trong đó có 3.511
ha nuôi nghêu và 1.032 ha nuôi sò huyết, cua biển được nuôi xen với các đối tượng
khác. Sản lượng nghêu, sò năm 2010 là 15.400 tấn.
Ba huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre là những
địa bàn phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy hải sản. Giá trị sản xuất ngành nuôi
trồng thủy hải sản ba huyện ven biển năm 2010 là hơn 3.316 tỉ đồng, gấp 2 lần các
huyện còn lại trong tỉnh. Trong đó huyện Bình Đại đạt hơn 2.012 tỉ đồng, huyện
Thạnh Phú hơn 687 tỉ đồng, huyện Ba Tri gần 617 tỉ đồng.
Diện tích và sản lượng nuôi thủy hải sản của các huyện ven biển tăng mạnh,
nhất là giai đoạn 2005 – 2010. Diện tích nuôi trồng đạt từ 35.000 – 39.000 ha
(chiếm 82 – 93% diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh). Sản lượng nuôi thủy hải sản ba
huyện cũng tăng mạnh trong giai đoạn 2005 – 2010, năm 2010 (69.920 tấn) tăng
19.239 tấn so với năm 2005 (50.681 tấn). Tuy nhiên, tỉ trọng của ba huyện ven biển
trong cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi trồng toàn tỉnh giảm từ 80% (năm 2005)
xuống còn 42,8% (năm 2010) do từ năm 2005 các huyện vùng ngọt phát triển mạnh
nuôi trồng thủy sản, nhất là tăng nhanh diện tích nuôi cá và sản lượng cá nuôi.
Thế mạnh của ba huyện ven biển là nuôi các loại hải sản vùng mặn, lợ, trong
đó nhiều nhất là tôm biển. Diện tích nuôi tôm của ba huyện năm 2010 là 31.547 ha
trên tổng số 33.231 ha nuôi tôm toàn tỉnh (95%) với sản lượng 27.480 tấn (94% sản
lượng tôm toàn tỉnh); diện tích nuôi cá là 1.253 ha với sản lượng 25.440 tấn. Bình
Đại và Thạnh Phú có ưu thế về nuôi tôm biển trong khi Ba Tri có nhiều tiềm năng
về nuôi cá. Ngoài ra, đặc sản của vùng ven biển Bến Tre phải kể đến sản phẩm
nghêu thương phẩm. Ba huyện ven biển có 10 hợp tác xã nuôi và khai thác nghêu
69
với diện tích bãi nghêu đang khai thác là 9.600 ha (so với 15.000 ha tiềm năng).
Hằng năm, tổng sản lượng nghêu (nghêu giống và nghêu thịt) đạt từ 8.000 đến
27.000 tấn. Đặc biệt với chứng nhận MSC, nghề khai thác và nuôi nghêu của ba
huyện ven biển đang ngày càng phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp
phần cải thiện đáng kể đời sống của người dân vùng ven biển.
Về công tác lai tạo, sản xuất giống
Ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh Bến Tre đã có bước phát triển và chuyển
dịch mạnh mẽ trong giai đoạn 2001 – 2010 đã làm cho nhu cầu về giống thủy sản
mà nhất là giống tôm biển ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu trên, công tác lai tạo,
sản xuất giống thủy sản của tỉnh không ngừng được đầu tư. UBND tỉnh đã thành lập
Dự án xây dựng quy hoạch khu vực sản xuất tôm giống tập trung với diện tích 20 ha
tại xã Thới Thuận (Bình Đại), đầu tư về cơ sở hạ tầng, cho thuê đất với giá ưu đãi,
hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho cơ sở để đầu tư phát triển. Mặt khác, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Bến Tre thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật
nuôi, các lớp kiểm soát về dịch bệnh, môi trường, tổ chức các đợt học tập kinh
nghiệm sản xuất giống của các tỉnh có thế mạnh để nâng cao chất lượng đội ngũ kĩ
thuật sản xuất giống của tỉnh. [10]
Số trại giống và cơ sở dịch vụ không ngừng tăng lên. Năm 2010, toàn tỉnh có
53 trại sản xuất giống đang hoạt động, tăng hơn 20 trại so với năm 2003, trong đó
Bình Đại có 19 trại, Ba Tri có 17 trại, Thạnh Phú có 17 trại, và hàng trăm cơ sở dịch
vụ phục vụ nuôi trồng thủy hải sản trên địa bàn tỉnh. Các trại sản xuất giống của
tỉnh chủ yếu là sản xuất tôm giống nước lợ, cá giống.
Lượng giống sản xuất tại tỉnh tăng lên qua các năm, năm 2010 đạt 364 triệu
post (cá thể con giống bán cho người nuôi) tôm sú, 370 triệu post tôm thẻ chân
trắng. Các trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt sản xuất hơn 31 triệu post tôm
càng xanh, khoảng 29,7 triệu post cá giống các loại. Về nhuyễn thể, hiện tỉnh có các
bãi nghêu giống chất lượng cao của hơn 10 hợp tác xã thủy sản tại ba huyện ven
biển, trong đó nổi bật là hợp tác xã Rạng Đông và hợp tác xã thủy sản Đồng Tâm
(huyện Bình Đại). Nghêu giống được thuần dưỡng trực tiếp tại các bãi bồi ven biển.
70
Đặc biệt, từ năm 2010, Trung tâm Giống thủy sản Bến Tre đã tiếp nhận Dự án
chuyển giao công nghệ sản xuất nghêu giống từ Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản Bắc Trung Bộ và đã thử nghiệm sản xuất thành công nghêu giống nhân
tạo. Điều này sẽ góp phần giải quyết tốt hơn nhu cầu nghêu giống phục vụ nuôi
trồng trên địa bàn tỉnh. [14]
Nhu cầu về con giống thủy hải sản mà nhất là tôm giống ngày càng cao trong
khi con giống sản xuất tại tỉnh không đáp ứng kịp nên lượng tôm giống nhập tỉnh
cũng tăng mạnh. Năm 2010, lượng tôm giống nhập tỉnh khoảng 470 triệu post, trong
đó giống tôm thẻ chân trắng là 80 triệu post.
Công tác quản lí hoạt động của các trại sản xuất con giống trên địa bàn tỉnh
được tổ chức thực hiện khác chặt chẽ từ khâu giám sát, lấy mẫu xét nghiệm các
bệnh nguy hiểm đến khâu kiểm dịch được thực hiên tốt, tạo được uy tín trong người
nuôi. Đến nay, thị trường tiêu thụ tôm giống của tỉnh được mở rộng ra các tỉnh
thuộc đồng bắng sông Cửu Long như Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng,...
Tuy nhiên, hiện nay, công tác lai tạo, sản xuất giống thủy hải sản của tỉnh
vẫn còn một số hạn chế nhất định. Số trại sản xuất giống có quy mô lớn, được trang
bị kĩ thuật hiện đại chưa nhiều, chủ yếu là các trại nhỏ lẻ, xây dựng từ lâu nên khó
thực hiện đổi mới công nghệ sản xuất. Lượng tôm giống sản xuất tại tỉnh mới chỉ
đáp ứng một phần nhỏ, khoảng 20% nhu cầu trong tỉnh.
Mặt khác, đối với tôm sú, tôm bố mẹ được khai thác từ tự nhiên, phần lớn
không qua kiểm dịch. Tôm thẻ chân trắng có nguồn tôm bố mẹ phải nhập khẩu từ
nước ngoài nên khó kiểm soát chất lượng, phần lớn phải nhập nauplius về ương
thuần thành tôm post nên nguồn cung không chủ động.
Ngoài ra, nước biển sạch phục vụ cho nha cầu ươm tôm giống phần lớn được
các trại mua từ các ghe chở nước nên chi phí sản xuất cao và không chủ động trong
sản xuất.
71
Hiện trạng phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm
thủy hải
Trong những năm qua, ngành thủy sản tỉnh Bến Tre mà nhất là ngành nuôi
trồng thủy hải sản không ngừng phát triển, cung cấp nguồn nguyên liệu hải sản
sạch, dồi dào cho công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, nhiều vùng nuôi, đối tượng
nuôi được chứng nhận danh giá như GlobalGAP cho cá tra, chứng nhận quản lý bền
vững MSC cho sản phẩm nghêu Bến Tre đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển của công nghiệp chế biến.
Đến năm 2010, toàn tỉnh có 5 nhà máy chế biến thủy hải sản với tổng công
suất thiết kế là 50.000 tấn/năm. Sản lượng thủy sản chế biến tăng mạnh, năm 2010
đạt 26.095 tấn, tăng gần 8 lần so với năm 2001 (3.298 tấn), sản lượng thủy sản chế
biến trung bình hằng năm đạt 16.400 tấn/năm, cao hơn rất nhiều so với giai đoạn
1996 – 2000 (trung bình đạt 1.786 tấn/năm).
Sản phẩm thủy sản chế biến ngoài mặt hàng truyền thống là tôm và nghêu
đông lạnh, giai đoạn này, tỉnh phát triển thêm sản phẩm cá đông lạnh (cá tra, cá
basa,..) và một số loại hải sản khác. Sản xuất nước mắm trên địa bàn tỉnh cũng khá
phát triển, trung bình đạt 3.789 lít/năm, chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh.
Sản lượng thủy hải sản chế biến xuất khẩu tăng rất mạnh, năm 2010 là
21.500 tấn, gấp hơn 10 lần so với năm 2001 (1.983 tấn), trung bình đạt 12.077
tấn/năm, chiếm 76,3% hàng thủy sản chế biến của tỉnh và cao gấp 5,7 lần giai đoạn
1996 – 2000 (trung bình 1.286 tấn/năm).
Thủy sản xuất khẩu của tỉnh tăng mạnh nhất là giai đoạn 2004 – 2008 do thời
gian này, ngành nuôi trồng thủy hải sản phát triển rất mạnh, công nghệ chế biến
được cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đồng thời tìm kiếm được nhiều thị
trường xuất khẩu giàu tiềm năng như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,.. Đặc biệt,
từ năm 2005, sản lượng cá đông lạnh xuất khẩu tăng mạnh đã góp phần tăng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh.
Tuy nhiên, công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên địa bàn
tỉnh Bến Tre vẫn còn nhiều hạn chế. Số lượng nhà máy, cơ sở chế biến thủy hải sản
72
trong tỉnh còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất nguyên liệu. Đến nay,
Bến Tre là một trong số các tỉnh có công nghiệp chế biến thủy sản còn yếu trong
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân là do kết cấu hạ tầng chưa hoàn
thiện, giao thông cách trở, thu hút đầu tư khó khăn, công nghệ chế biến chậm đổi
mới nên chất lượng sản phẩm chưa cao, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
Một số mặt hàng xuất khẩu thủy sản gặp khó khăn do rào cản về thương
mại như quy định kí quỹ bảo lãnh nhập khẩu và áp dụng thuế suất cao đối với sản
phẩm tôm nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ, quy định tên gọi sản phẩm,
truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kiểm soát dư lượng kháng sinh trên sản phẩm thủy
sản nhập khẩu của các nước Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Âu,...
Bên cạnh đó, việc xúc tiến xây dựng thương hiệu cho hàng thủy sản xuất
khẩu của Bến Tre chưa được chú trọng. Đến nay, tỉnh chỉ mới xây dựng được
thương hiệu Faquimex đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Công ty Cổ phần
Xuất nhập khẩu Lâm thủy sản Bến Tre. Điều này phần nào đã làm giảm sức cạnh
tranh của sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Bến Tre trên thị trường.
Ngoài ra, giá cả bấp bênh, chi phí sản xuất cao làm cho hoạt động khai thác
và nuôi trồng thủy hải sản chưa phát triển ổn định, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Tóm lại, ngành kinh tế thủy sản Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 đã có những
bước phát triển đột phá so với giai đoạn trước năm 2000. Giá trị sản xuất và sản
lượng thủy sản tăng nhanh, đứng hàng thứ tư cả nước về sản lượng thủy sản; cơ cấu
ngành chuyển dịch mạnh mẽ. Ngành nuôi trồng hải sản vùng biển, ven biển phát
triển mạnh, dần khẳng định vị trí chủ đạo của mình trong cơ cấu ngành thủy sản.
Giá trị sản xuất, sản lượng nuôi trồng thủy hải sản của tỉnh tăng nhanh và dần dần
vượt qua tỉ trọng ngành khai thác. Hình thức nuôi trồng ngày càng đa dạng, hiện đại
gắn với quy hoạch, quản lý vùng nuôi khá chặt chẽ, theo đó tăng cường nuôi thủy
hải sản bằng hình thức công nghiệp theo hướng thâm canh, bán thâm canh. Nhiều
sản phẩm nuôi được chứng nhận danh giá như GlobalGAP đối với cá tra, chứng
nhận quản lý bền vững quốc tế MSC cho nghêu Bến Tre,...Ngành khai thác thủy hải
73
sản không ngừng tăng giá trị sản xuất và sản lượng, đặc biệt, ngành tích cực thực
hiện hiện đại hóa trang thiết bị, phương tiện, tăng cường đánh bắt xa bờ, đổi mới
phương pháp, công nghệ khai thác để vừa bảo vệ nguồn lợi ven bờ vừa góp phần
giữ gìn an ninh vùng biển đảo Tổ quốc. Năng lực ngành công nghiệp chế biến thủy
hải sản được nâng lên, góp phần đa dạng sản phẩm, nâng cao chất lượng, tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, giai đoạn 2001 – 2010, ngành thủy sản Bến Tre phát triển chưa
thật sự bền vững. Ngành nuôi trồng nhiều nơi còn mang tính tự phát, theo phong
trào, không tuân thủ chặt chẽ lịch thời vụ, nhất là việc nuôi tôm biển ở ba huyện ven
biển trong thời gian qua đã làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, dịch bệnh dễ
bùng phát gây thiệt hại nặng nề mang tính dây chuyền cho người nuôi. Nghề khai
thác chậm đổi mới công nghệ; tàu đánh bắt xa bờ phần lớn có công suất nhỏ, chưa
có tàu hậu cần ra khơi cùng tàu đánh bắt; số thuyền trưởng và thuyền viên qua đào
tạo rất ít; sự hiểu biết về luật biển, an toàn trong đánh bắt khơi của một bộ phận lớn
ngư dân còn hạn chế; hệ thống hậu cần còn yếu, hoạt động của cảng cá thường
trong tình trạng quá tải. Bên cạnh đó, sức ép đối với nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ
còn rất lớn. Công nghiệp chế biến chưa tương xứng với sản xuất nguyên liệu, chậm
đổi mới công nghệ nên năng suất và chất lượng chưa cao. Sản phẩm thủy sản xuất
khẩu còn gặp nhiều trở ngại do hàng rào nhập khẩu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm,
thương hiệu, hàm lượng hóa chất trong sản phẩm,...
2.2.2.2. Hiện trạng phát triển nghề muối
Nghề muối là nghề sản xuất truyền thống của các xã vùng ven biển tỉnh Bến
Tre, đã hình thành và phát triển từ năm 1950. Trải qua nhiều thế hệ, người dân vẫn
kiên trì bám nghề, sống bằng nghề.
Giai đoạn 2001 – 2010, do gặp nhiều khó khăn nên nghề sản xuất muối của
tỉnh phát triển chưa ổn định. Tổng diện tích muối toàn tỉnh đến năm 2010 là 1.652
ha; sản lượng muối là 81.000 tấn; năng suất đạt 49 tấn/ha. Sản lượng muối giai đoạn
2001 – 2010 trung bình đạt 45.400 tấn/năm, thấp hơn sản lượng muối trung bình
hằng năm giai đoạn 1996 – 2000.
74
Từ năm 2001 đến năm 2005, do thời tiết nhiều vụ không thuận lợi, muối sản
xuất bằng phương pháp truyền thống có chất lượng thấp, khó tiêu thụ, số cơ sở sản
xuất muối giảm nên sản lượng muối giảm mạnh từ 60.000 tấn (năm 2001) xuống
còn 29.000 tấn (năm 2005), giảm hơn 2,1 lần. Từ năm 2008 trở đi, thời tiết thuận lợi
hơn, giá cả tăng lên, khuyến khích người dân phát triển lại nghề.
Đặc biệt, năm 2010, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bến tre đã
xây dựng và triển khai đề án Sản xuất muối sạch bằng phương pháp trải bạt nhằm
hỗ trợ và phát triển ngành nghề nông thôn, đồng thời tạo ra vùng muối sạch, đạt tiêu
chuẩn về kích cỡ, hàm lượng NaCl, độ kết tinh, màu sắc, độ ẩm,...Các hộ diêm dân
xã Thạnh Phước huyện Bình Đại còn được đi tập huấn, tham quan thực tế quy trình
sản xuất muối sạch ở huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả, vụ muối
năm 2010, năng suất, sản lượng muối của các hộ diêm dân huyện Bình Đại tăng
cao, góp phần tăng sản lượng muối toàn tỉnh. Năm 2010, sản lượng muối tỉnh Bến
Tre đạt 81.000 tấn, tăng 3,5 lần so với năm 2007, đảm bảo nguồn cung cấp muối
cho tiêu thụ nôi địa và hướng đến xuất khẩu trong những năm tới.
Nghề sản xuất muối của tỉnh Bến Tre phát triển mạnh nhất ở hai xã Bảo
Thuận huyện Ba Tri và xã Thạnh Phước huyện Bình Đại.
Nghề muối của diêm dân xã Bảo Thuận huyện Ba Tri được hình thành từ lâu.
Trên địa bàn xã có trên 1.080 hộ sản xuất muối với hơn 6.822 người. Diện tích sản
xuất muối là 738 ha. Sản lượng muối năm 2009 đạt 36.000 tấn, năng suất 48 tấn/ha.
Xã Thạnh Phước huyện Bình Đại có nghề muối hình thành từ năm 1950. Xã
có 260 hộ diêm dân với trên 400 ha đất sản xuất muối. Các hộ diêm dân trước đây
sản xuất muối bằng phương pháp truyền thống nên năng suất thấp, khoảng 30 – 35
tấn/ha. Từ năm 2010, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai dự án sản
xuất muối sạch trên địa bàn xã nên năng suất và chất lượng vụ muối 2010 được
nâng lên. Năng suất cao hơn 1,4 đến 1,5 lần so với sản xuất truyền thống; chất
lượng muối trắng, hạt trắng bóng, không lẫn tạp chất, dễ tiêu thụ.
Tuy nhiên, so với giai đoạn 1996 – 2000 thì giai đoạn này nghề sản xuất
muối của tỉnh Bến Tre chưa có nhiều bước đột phá. Nghề muối còn phụ thuộc nhiều
75
vào điều kiện tự nhiên, sản xuất bằng phương pháp truyền thống là chủ yếu nên
năng suất thấp, chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, tỉnh chưa có kho muối dự trữ nên
lượng muối không tiêu thụ được hằng năm rất lớn mà không có điều kiện bảo quản
tốt. Năm 2010 lượng muối tồn là 38.300 tấn. Trong khi muối sạch không đủ tiêu thụ
thì muối sản xuất truyền thống lại không tiêu thụ được nên người dân chưa ổn định
sản xuất, đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
2.2.2.3. Tình hình sản xuất nông – lâm nghiệp vùng ven biển
Đến nay, sản xuất nông – lâm nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của các
huyện vùng ven biển tỉnh Bến Tre và đã có những đóng góp đáng kể vào giá trị sản
xuất của tỉnh. Năm 2010, ba huyện ven biển đóng góp 1.227 tỉ đồng, chiếm 30% giá
trị sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh.
Đối với ba huyện ven biển, ngành trồng trọt vẫn chiếm ưu thế so với ngành
chăn nuôi. Năm 2010, giá trị ngành trồng trọt là 871 tỉ đồng, gấp hơn 3 lần giá trị
ngành chăn nuôi (249,6 tỉ đồng); sản lượng lương thực có hạt là 271.116 tấn (73,2
% toàn tỉnh), tăng 14 % so với giai đoạn 1996 – 2000; sản lượng lương thực bình
quân đầu người là 544,5 kg/người, cao hơn năm 2000 (419kg/người), trong đó
huyện Ba Tri đứng đầu tỉnh với 1.032 kg/người.
Ngành sản xuất nông nghiệp của ba huyện ven biển đang tiếp tục chuyển
dịch mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo
đó, các huyện đã tăng cường công tác cải tạo vườn tạp, giảm diện tích cây trồng có
năng suất, hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, đặc
biệt là cây công nghiệp và cây ăn quả. Diện tích cây công nghiệp trung bình đạt
2.967 ha/năm, tăng lên so với thời kì 1996 – 2000 (2.410 ha/năm). Các loại cây ăn
quả không phải là thế mạnh của vùng nước lợ, nước mặn ven biển nhưng trong thời
gian qua diện tích và sản lượng cây ăn quả cũng tăng lên, đã hình thành một số vùng
chuyên canh cây ăn quả của ba huyện. Diện tích cây ăn quả bình quân là 3.033
ha/năm, sản lượng năm 2010 đạt 25.635 tấn. Các đặc sản của ba huyện có Dưa hấu
Cửa Đại, mãng cầu Thới Thuận (huyện Bình Đại), xoài, chuối, nhãn tiêu xuồng cơm
vàng, các loại hải sản có nghêu, tôm, cua, sò huyết, mực,...Ngoài ra còn có đặc sản
76
con rươi và con đuôn chà là ở rừng ngập mặn. Ngành chăn nuôi đang tăng dần tỉ
trọng trong ngành nông nghiệp. Số lượng bò, dê, gia cầm tăng lên. Đặc biệt từ năm
2005, huyện Thạnh Phú bắt đầu phát triển đàn cừu đã góp phần làm đa dạng cơ cấu
vật nuôi của tỉnh. Số lượng đàn lợn giảm so với thời kì trước do ảnh hưởng của các
đợt dịch heo tai xanh liên tiếp và một phần do chi phí sản xuất cao, người nuôi
không có lãi.
Đối với ngành lâm nghiệp tỉnh Bến Tre, diện tích rừng hiện nay chủ yếu là
rừng ngập mặn dọc các cửa sông ven biển và dải rừng lá ven sông rạch ở vùng nước
lợ. Giá trị ngành sản xuất lâm nghiệp giai đoạn này cao hơn so với giai đoạn 1996 –
2000 nhưng giá trị đóng góp vào GDP toàn tỉnh chưa cao và có xu hướng giảm
mạnh từ 54,6 tỉ (năm 2001) xuống còn 26 tỉ (năm 2010). Trong đó, giá trị ngành
trồng và chăm sóc rừng vẫn rất hạn chế, chiếm từ 6 đến 10% giá trị sản xuất toàn
ngành, giá trị sản xuất từ khai thác gỗ và lâm sản vẫn chiếm ưu thế, chiếm từ 86 đến
94 %. Diện tích rừng trồng mới hằng năm đạt từ 10 đến 192 ha mỗi năm, trung bình
đạt 68,9 ha/năm. Diện tích rừng bị thiệt hại giảm mạnh từ 25 ha (năm 2001) xuống
còn 0,6 ha (năm 2010) do thời gian qua công tác quản lý, bảo vệ rừng được thực
hiện tốt.
Nhìn chung, giai đoạn 2001 – 2010, ngành lâm nghiệp đóng góp vào GDP
của tỉnh chưa cao và chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ, diện tích rừng trồng mới
chưa nhiều. Thêm vào đó, tình trạng đào đắp, lấn đất rừng trái phép để nuôi tôm còn
diễn ra hằng năm. Thêm vào đó, những năm gần đây, Sá Sùng (còn gọi là Sâm Đất,
Chạc Khoai) được tìm thấy ở vùng rừng ngập mặn tỉnh Bến Tre, năm 2005 – 2006,
nhu cầu tiêu thụ loại này từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh nêm người dân khai
thác rầm rộ làm thiệt hại rừng, gây khó khăn cho công tác quản lý, bảo vệ nguồn tài
nguyên rất có giá trị này.
2.2.2.4. Hiện trạng phát triển các ngành kinh tế biển khác
Ngành du lịch biển
Ngành du lịch tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 có bước phát triển mạnh
hơn giai đoạn trước nhờ hệ thống giao thông được xây dựng, nâng cấp như xây
77
dựng cầu Rạch Miễu nối Bến Tre với Tiền Giang, cầu Hàm Luông nối liền cù lao
Bảo với cù lao Minh, nâng cấp các bến phà Cổ Chiên, Đình Khao, quốc lộ 60, quốc
lộ 57, các đường tỉnh lộ,...đã dần phá thế ốc đảo của Bến Tre. Nhờ đó, kinh tế của
tỉnh phát triển mạnh hơn, thu hút đầu tư tốt hơn nên hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ
du lịch ngày càng hoàn thiện, sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, tiềm năng du
lịch được khai thác ngày càng hiệu quả hơn.
Số khách du lịch đến Bến Tre năm 2010 là 693.660 lượt khách, tăng hơn 2,7
lần so với lượng khách du lịch của tỉnh năm 2001 (250.060 lượt khách). Trong đó,
lượng khách quốc tế là 118.024 lượt (17% lượng khách du lịch của tỉnh), khách nội
địa là 575.636 lượt người (83% lượng khách du lịch của tỉnh).
Khách du lịch đến Bến Tre để thưởng thức các sản phẩm du lịch hấp dẫn như
du lịch sông nước miệt vườn, tìm hiểu đời sống văn hóa, sinh hoạt, phong tục tập
quán, các làng nghề truyền thống, các công trình kiến trúc, di tích lịch sử - văn
hóa,...Du lịch tỉnh Bến Tre phát triển mạnh ở các địa bàn có tiềm năng du lịch hấp
dẫn, có nhiều sản phẩm du lịch độc đáo và nhất là có hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch
tốt. Các địa phương phát triển mạnh du lịch trong tỉnh là huyện Chợ Lách, huyện
Châu Thành, thành phố Bến Tre,..
Hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật phục vụ du lịch của tỉnh đã bước
đầu được cải thiện. Đến năm 2009, Bến Tre có 40 điểm tham quan du lịch sinh thái.
Số cơ sở lưu trú tăng từ 4 cơ sở (năm 2000) tăng lên 21 cơ sở (năm 2005) và đặc
biệt từ năm 2005 - 2010, hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ nên các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh mạnh dạn đầu tư phát triển hạ tầng du
lịch, nâng số cơ sở lưu trú lên 558 cơ sở vào năm 2010 với 5.632 phòng, 7.783
giường. Năm 2009, Bến Tre đã xây dựng và đưa vào hoạt động khu du lịch nghỉ
dưỡng cao cấp – Forever Green Resort – khu Resort đầu tiên của tỉnh. Giai đoạn
2005 – 2010 thực sự là một bước phát triển vượt bậc của du lịch tỉnh Bến Tre.
Riêng du lịch biển của tỉnh giai đoạn 2001 – 2010 cũng khá phát triển.
Doanh thu du lịch biển tăng trưởng bình quân là 15,32 %. Các sản phẩn du lịch biển
chủ yếu là tham quan ngắm biển, tắm biển, vui chơi giải trí, dã ngoại, thưởng thức
78
các đặc sản biển; tham quan, nghiên cứu hệ sinh thái đặc sắc sân chim, khu bảo tồn
tự nhiên, rừng ngập mặn ven biển; tham quan, nghiên cứu các di tích lịch sử văn
hóa và tham gia các lễ hội đặc trưng, độc đáo của ngư dân vùng biển.
Các cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch biển được cải thiện đáng kể. Hệ thống
đường giao thông đến các huyện ven biển gồm các đường tỉnh lộ 883, 885, 887,
quốc lộ 57 nối từ quốc lộ 60 đi các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, các bến
phà, cầu cống được nâng cấp, sửa chữa để đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của du
khách. Hệ thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư, xây dựng mới trên địa bàn các
huyện ven biển. Đến năm 2010, trên địa bàn ba huyện ven biển có 6 khách sạn –
nhà nghỉ lớn là khách sạn 33, Mỹ Tiên, Hùng Vương (huyện Bình Đại), nhà nghỉ
Hùng Vương, nhà nghỉ Đông Phương (huyện Ba Tri) và nhà nghỉ Hồng Nhung
(huyện Thạnh Phú). Các nhà hàng lớn có nhà hàng Thùy Dung, Hồng Phước, Biển
Đông, Đức Hòa, Bình Thới, Hùng Vương (huyện Bình Đại), nhà hàng Quế Chi
(huyện Ba Tri). Ngoài ra còn rất nhiều các cơ sở phục vụ nghỉ ngơi, ăn uống với
quy mô nhỏ tại các điểm du lịch biển góp phần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
du khách.
Giai đoạn 2001 – 2010, một số bãi biển của tỉnh tiếp tục được khai thác phục
vụ du lịch khá tốt như biển Thừa Đức, bãi biển Thới Thuận (huyện Bình Đại), bãi
biển Cồn Hố (huyện Ba Tri). Năm 2007, trong Quy hoạch tổng thể phát triển Du
lịch tỉnh Bến Tre đến năm 2020, một số điểm du lịch được quy hoạch chi tiết, làm
cơ sở kêu gọi đầu tư, xây dựng thành các khu du lịch biển, khu du lịch sinh thái với
sản phẩm đa dạng, cơ sở hạ tầng khá tốt và đội ngũ lao động có trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ ngày càng cao. Đến năm 2010, khu du lịch Thừa Đức, khu du lịch
biển Thới Thuận, khu Du lịch Cồn Hố, khu du lịch sinh thái Vàm Hồ đã hoàn thành
cơ bản cơ sở hạ tầng và một số hạng mục đã đưa vào hoạt động để phục vụ du
khách, đặc biệt vào các dịp lễ, Tết.
Bên cạnh các bãi biển có tiềm năng phát triển du lịch, trên địa bàn các huyện
ven biển còn có nhiều tài nguyên du lịch nhân văn mà nổi bật là các di tích lịch sử
văn hóa cấp quốc gia được khai thác phục vụ du lịch khá tốt như Di tích mộ và đền
79
thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri); Di tích Cây Da Đôi - nơi
thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bến Tre (xã Tân Xuân, huyện Ba Tri); Di tích
Đầu cầu tiếp viện Vũ khí Bắc – Nam – Đường Hồ Chí Minh trên biển (xã Thạnh
Phong, huyện Thạnh Phú),...hàng năm cũng thu hút hàng nghìn lượt khách đến tham
quan, nghiên cứu, học tập.
Các lễ hội đặc trưng vùng ven biển mà nhất là lễ hội Nghinh Ông được tổ
chức hàng năm ở các làng ven biển. Đây là lễ hội quan trọng nhất của ngư dân để tỏ
lòng thành kính biết ơn đối với cá Ông – loài cá bảo hộ của ngư dân vùng biển tránh
khỏi những rủi ro trên biển khơi đồng thời cầu mong một mùa đánh bắt mới được
bội thu. Trong đó, lễ hội lớn nhất được tổ chức ở xã Bình Thắng – huyện Bình Đại
thu hút phần lớn các tàu thuyền đánh bắt của ba huyện trong tỉnh và tàu thuyền đánh
bắt của các địa phương khác cùng tham gia. Đồng thời, với phần lễ và phần hội rất
đặc sắc, hàng năm lễ hội Nghinh Ông đã thu hút đông đảo du khách nhiều nơi về
tham dự với bà con ngư dân.
Ngoài ra, các loại hình tham quan du lịch biển khác như tham quan nghiên
cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn, khu bảo tồn tự nhiên ven biển Thạnh Phú, sân chim
Vàm Hồ (huyện Ba Tri); tham quan các cồn nổi trên sông như cồn Chài Mười, cồn
Ngô Năm, cồn Đậm,...cũng thu hút một lượng lớn khách du lịch yêu thích thiên
nhiên đến với vùng biển Bến Tre.
Nhìn chung, giai đoạn 2001 – 2010, du lịch biển của tỉnh có bước phát triển
hơn giai đoạn trước về nhiều mặt. Tuy nhiên, du lịch biển vẫn chưa thật sự trở thành
thế mạnh du lịch của Bến Tre. So với các địa phương khác trong khu vực như Tiền
Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, An Giang,... thì du lịch biển tỉnh Bến Tre còn nhiều
hạn chế do nhiều nguyên nhân. Điều kiện tự nhiên vùng biển của tỉnh không thích
hợp xây dựng các bãi tắm hiện đại, quy mô lớn. Cơ sở hạ tầng như cơ sở lưu trú, cơ
sở phục vụ ăn uống, vui chơi giải trí tại các điểm du lịch biển còn thiếu, nhất là các
khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn để phục vụ khách có nhu cầu cao. Đội ngũ cán
bộ, công nhân viên chức hoạt động trorng ngành du lịch có trình độ chưa cao. Các
điểm du lịch biển đa số có quy mô nhỏ, rời rạc, thiếu liên kết. Các sản phẩm du lịch
80
còn mang tính trùng lặp với các địa phương khác, tỉnh khác trong khu vực nên chưa
hấp dẫn, chưa tạo được dấu ấn riêng. Ngoài ra, công tác quảng bá du lịch biển của
tỉnh chưa được chú trọng đầu tư, công tác quản lý còn nhiều bất cập. Vì thế, phần
lớn khách du lịch đến vùng biển của tỉnh là khách nội địa, chưa thu hút khách quốc
tế.
Ngành giao thông vận tải biển:
Bến Tre là tỉnh giáp biển, có đường bờ biển dài 65 km nhưng cũng như thời
giai đoạn 1996 – 2000, giai đoạn 2001 - 2010, giao thông vận tải biển của tỉnh vẫn
chưa có điều kiện để phát triển. Đến nay, Bến Tre vẫn chưa có cảng biển và đội tàu
biển.
Hiện nay, tại các huyện ven biển mới chỉ có một số cơ sở sửa chữa tàu
thuyền, chủ yếu là các tàu đánh bắt hải sản. Ngoài ra còn có một số cơ sở đóng tàu
thuyền với công suất nhỏ, trong đó, nổi tiếng nhất là các thợ ở xã Thới Thuận
huyện Bình Đại.
Tuy nhiên, trong danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư trong và ngoài
nước vào địa bàn tỉnh Bến tre đến năm 2020, tỉnh đã có dự án kêu gọi đầu tư, xây
dựng cảng biển và nhà máy sửa chữa, tháo ráp tàu thuyền tại xã Thới Thuận, Bình
Thắng huyện Bình Đại với vốn đầu tư dự kiến 10 triệu đô la Mỹ. Đây sẽ là cảng
biển đầu tiên của tỉnh. Khi cảng biển này được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng
sẽ tạo nên bước đột phá mới cho kinh tế biển tỉnh Bến Tre trong tương lai.
Tình hình đầu tư, phát triển kinh tế biển
Xác định được tầm quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh nên thời gian qua, tỉnh Bến tre đã có nhiều chính sách, chương trình,
đề án đầu tư vào địa bàn các huyện ven biển và các ngành kinh tế biển chủ lực của
tỉnh.
Trước hết là việc đầu tư xây dựng cơ bản gồm hệ thống cầu cống, đường
giao thông trên địa bàn các huyện ven biển. Trong giai đoạn 2001 – 2010, tỉnh Bến
Tre đã đầu tư bằng vốn chính sách và thu hút đầu tư trong và ngoài nước để xây cầu
Rạch Miễu nối hai bờ Tiền Giang và Bến Tre (từ năm 2004 đến năm 2009); nâng
81
cấp phà Cổ Chiên, phà Đình Khao; xây dựng và khánh thành cầu Hàm Luông nối
liền cù lao Bảo và cù lao Minh; nâng cấp, hoàn thiện các đường tỉnh lộ 883, 885,
887, quốc lộ 57 nối từ quốc lộ 60 đến các xã ven biển của ba huyện Bình Đại, Ba
Tri và Thạnh Phú đã góp phần phá vỡ thế bị cô lập về giao thông của Bến Tre, mở
ra triển vọng mới cho kinh tế biển của tỉnh phát triển mạnh trong tương lai.
Từ năm 2001 – 2010, tỉnh đã đầu tư, phát triển lưới điện hạ thế đến các đia
bàn vùng sâu, vùng xa thuộc ba huyện ven biển. Đến năm 2010, tỉ lệ hộ sử dụng
điện trên địa bàn tỉnh đạt 96,8%. Lĩnh vực công nghiệp cũng được chú trọng đầu tư
với việc xây dựng cụm công nghiệp Ba Tri và cụm công nghiệp Thạnh Phú, hoàn
chỉnh cơ sở hạ tầng vào năm 2010, phát triển ngành nghề sau năm 2011, tổng vốn
đầu tư là 37.367 tỉ đồng.
Kinh tế thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng nhất trong cơ cấu
kinh tế biển của tỉnh nên tỉnh có nhiều chính sách, dự án thu hút đầu tư trên cả ba
lịnh vực khai thác hải sản, nuôi trồng thủy hải sản và công nghiệp chế biến thủy hải
sản. Từ năm 2000, Trung Ương và địa phương có chính sách khuyến khích ngư dân
tăng cường khai thác hải sản xa bờ như chính sách hỗ trợ cho các hộ ngư dân vay
ngân hàng với lãi suất thấp đóng mới và hiện đại hóa phương tiện khai thác. Bên
cạnh đó, ba cảng cá ở ba huyện ven biển là cảng cá Ba Tri, cảng cá Bình Đại và
cảng cá Thạnh Phú lần lượt được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhằm phát
triển hậu cần nghề cá. Tỉnh cũng đã xây dựng và đưa vào sử dụng Khu neo đậu,
tránh, trú bão huyện Bình Đại và đang xây dựng Khu neo đậu tránh, trú bão huyện
Ba Tri để tăng cường công tác đảm bảo an toàn cho ngư dân vào mùa bão.
Từ năm 2005, Bến Tre đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đê biển Bình Đại,
kênh xả phèn, thao chua rửa mặn, đắp đập ngăn mặn (cống đập Ba Lai), hoàn chỉnh
hệ thống cống, kênh phục vụ tưới tiêu và nuôi trồng thủy sản. Thời gian qua, tỉnh đã
đầu tư xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp 400 ha tại xã Thạnh Phước huyện Bình
Đại, đang thu hút vốn cho dự án xây dựng Trại sản xuất tôm giống tập trung tại
huyện Bình Đại với diện tích 10 ha.
82
Bên cạnh đó, tỉnh đã có nhiều ưu đãi, tạo thuận lợi để thu hút đầu tư, phát
triển công nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh và khuyến khích các nhà máy
hiện có đổi mới, nâng cấp công nghệ, thiết vị hiện đại để nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu. Năm 2004, nhà máy chế biến
thủy sản Ba Lai được khánh thành từ nguồn vốn đầu tư của Công ty Cổ phần Xuất
nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre. Hiện nay, tỉnh đang có dự án đầu tư chế biến thủy
sản của công ty Huy Hoàng và dự án chế biến nông thủy sản của Công ty TNHH
Thế giới Việt với nguồn vốn hơn 12 triệu đô la Mỹ. Tỉnh đang kêu gọi vốn cho dự
án nhà máy chế biến thủy sản thuộc Khu công nghiệp Giao Long huyện Châu
Thành có năng lực 10.000 tấn/năm, vốn dự kiến là 10 triệu đô la Mỹ cũng như dự
án xây dựng tổng hợp làng cá An Thủy huyện Ba Tri với vốn dự kiến 20 triệu đô la
Mỹ.
Ngoài thủy sản, nghề muối của diêm dân các xả ven biển cũng dược chú
trọng đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư vốn, khoa học công nghệ, từng bước
giúp diêm dân tiếp cận phương pháp sản xuất muối tiên tiến cho năng suất và chất
lượng cao.
Về du lịch biển, từ năm 2001 – 2010, tỉnh đã xây dựng quy hoạch chi tiết
làm cơ sở thu hút đầu tư các dự án phát triển du lịch biển, du lịch sinh thái trên địa
bàn ba huyện ven biển. Các dự án gồm Khu du lịch biển Thừa Đức, Khu du lịch
sinh thái biển Thới Thuận, Khu du lịch biển Cồn Hố, Khu du lịch sinh thái Vàm Hồ,
khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn – đường Hồ Chí Minh trên biển với tổng vốn
hơn 145 triệu đô la Mỹ.
Nhìn chung, ngân sách chi cho đầu tư và phát triển các huyện ven biển, các
ngành kinh tế biển không ngừng tăng lên. Đặc biệt, tỉnh đã có nhiều chính sách ưu
đãi để thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư phát triển hạ tầng, kĩ thuật, kinh tế
- xã hội ba huyện ven biển với các ngành thủy sản, du lịch, công nghiệp chế biến,
làm tiền đề phát triển mạnh kinh tế biển của tỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, nguồn
vốn đầu tư còn rất hạn chế so tiềm năng, hệ thống cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư
83
quản lý còn nhiều bất cập nên chưa thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư đến với các
huyện ven biển.
2.3. Phân tích ảnh hưởng của sự phát triển bền vững kinh tế biển đến sự phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre
Bến Tre là tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế biển khá mạnh nhất là kinh tế
thủy sản. Trong thời gian qua, kinh tế biển của tỉnh thật sự đã có bước phát triển đột
phá. Tuy chưa thật sự là phát triển bền vững một cách hoàn hảo, song, sự phát triển
kinh tế biển của tỉnh đã có những tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh trên cả ba lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường.
2.3.1. Lợi ích kinh tế
Trong những năm qua, cùng với xu hướng đổi mới và phát triển kinh tế tỉnh
Bến Tre, mảng kinh tế biển của tỉnh nói chung và kinh tế vùng ven biển nói riêng
cũng có bước phát triển rõ rệt và ngày càng đóng góp đáng kể vào GDP kinh tế của
tỉnh.
Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng GDP vùng ven biển để phân tích sự
đóng góp kinh tế biển vào GDP kinh tế chung của tỉnh. GDP vùng ven biển được
tính là GDP của các ngành kinh tế diễn ra trên địa bàn các huyện ven biển của tỉnh
Bến Tre gồm: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.
Quy mô GDP và tỉ trọng GDP vùng ven biển không ngừng tăng lên. Năm
2010, GDP kinh tế vùng ven biển đạt 3.474,6 tỉ đồng (theo giá năm 1994), tăng 2,9
lần so với năm 2000 (1.186,8 tỉ đồng). Kinh tế vùng ven biển đóng góp tỉ trọng
ngày càng cao vào cơ cấu GDP của tỉnh, từ 29,1% năm 2000 tăng lên 35,4% năm
2010. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của kinh tế vùng ven biển thời kì 2001 –
2010 đạt 11,34%/ năm, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh
thời kì này là 9,2%/năm.
Tốc độ tăng trưởng GDP cao góp phần tăng mức GDP bình quân đầu người
của tỉnh từ 4,15 triệu đồng/người (năm 2000) lên mức 17,36 triệu đồng/người (năm
2010). Trong khi đó, GDP bình quân đầu người vùng ven biển tăng tương ứng từ
84
3,47 triệu đồng/ người lên 17,07 triệu đồng/người. Điều này cho thấy đời sống nhân
dân đã được cải thiện.
Bảng 2.9: So sánh GDP kinh tế vùng ven biển với GDP toàn tỉnh,
2000 – 2010
Năm 2000 Năm 2010
4.074,6 9.825,8
Chỉ tiêu GDP toàn tỉnh (tỉ đồng) (theo giá năm 1994) GDP/người (triệu đồng/người) Cơ cấu GDP (%)
+Nông – lâm – ngư nghiệp +Công nghiệp – xây dựng +Dịch vụ 4,15 66,3 13,5 20,2 17,36 44,1 20,4 35,5
1.186,8 3.474,6
GDP vùng ven biển (tỉ đồng) (Theo giá năm 1994) % so với toàn tỉnh Cơ cấu GDP (%)
+ Nông – lâm – ngư nghiệp + Công nghiệp – xây dựng + Dịch vụ 29,1 71,2 9,5 19,3 35,4 55,9 15,4 28,7
Nguồn: Xử lý số liệu từ [2],[13],[21]
Cơ cấu kinh tế vùng ven biển đang chuyển dịch nhanh và đúng hướng. Trong
10 năm từ 2001 đến 2010, cơ cấu kinh tế các huyện chuyển dịch theo hướng tăng tỉ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, tỉ trọng KV I
giảm mạnh từ 71,2% xuống còn 55,9%; KV II tăng từ 9,5% lên 15,4% và tăng
mạnh nhất là KV III từ 19,3% lên 28,7%.
Trong nội bộ từng ngành cũng có sự chuyển dịch rõ nét. Cơ cấu sản xuất
ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ,
tăng dần tỉ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm thế mạnh
của địa phương, chủ yếu là hàng nông – thủy sản; giá trị tăng thêm của ngành công
nghiệp – xây dựng bình quân đạt 16,76%. Cơ cấu các ngành dịch vụ chuyển dịch
theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu phục vụ đời
sống con người. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ bình quân là 14,22%/năm. Cơ
85
cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp chuyển dịch theo hướng khai thác tốt tiềm năng
và lợi thế của từng vùng sinh thái. Giá trị tăng thêm của các ngành này là
6,92%/năm.
Giai đoạn 2001 – 2010, GDP kinh tế vùng ven biển có sự tăng trưởng và
chuyển dịch mạnh mẽ đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch của cơ
cấu các ngành kinh tế trong tỉnh. Theo đó, tỉ trọng KV I của tỉnh giảm mạnh từ
66,3% xuống còn 44,1%; KV II tăng từ 13,5% lên 20,4% và tăng mạnh nhất là KV
III từ 20,2% lên 35,5%. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế tỉnh nhà, đồng
thời cho thấy tầm quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế chung
toàn tỉnh.
2.3.2. Lợi ích văn hóa – xã hội
Kinh tế biển phát triển đã góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển, từ đó
đóng góp vào ngân sách địa phương ngày càng lớn và thu hút đầu tư ngày càng
nhiều để làm nền tảng cho sự phát triển văn hóa – xã hội địa phương. Trong đó, nổi
bậc là công tác xóa đói giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục; giải quyết việc làm;
nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân.
Trong thời gian qua, công tác xóa đói giảm nghèo và chăm sóc cuộc sống
cho người nghèo được thực hiện tốt trên địa bàn các huyện ven biển. Chương trình
hỗ trợ cho người nghèo vay vốn sản xuất, mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn
giảm học phí, trao tặng học bổng khuyến học để tạo điều kiện cho các gia đình khó
khăn cho con em đến trường; lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo. Đặc biệt,
trong thời gian qua, công tác vận động cộng đồng cùng tham gia xóa đói giảm
nghèo được thực hiện tốt. Các hộ có điều kiện kinh tế khá giả tự nguyện đóng góp
vào quỹ giúp các hộ nghèo có vốn sản xuất, hay hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm, kĩ
thuật sản xuất để cùng nhau thoát nghèo. Qua 10 năm thực hiện, tỉ lệ hộ nghèo của
ba huyện ven biển giảm mạnh, huyện Bình Đại giảm còn 12,38%, huyện Ba Tri
giảm còn 11,32%, huyện Thạnh Phú giảm còn 15,45%, góp phần giảm tỉ lệ hộ
nghèo toàn tỉnh xuống mức 9% (năm 2010).
86
Công tác đào tạo nghề trên địa bàn ven biển được cải thiện nhờ sự hỗ trợ
nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương giúp các lao động có cơ hội tìm việc làm
tốt hơn. Tỉ lệ lao động qua đào tạo của ba huyện tăng lên 34,1% (năm 2010), giải
quyết việc làm cho khoảng 22 nghìn lao động, tăng gấp đôi năm 2007. Qua đó, tỉ lệ
lao động qua đào tạo của tỉnh được nâng lên 40% và trên 300.000 lao động được
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người dân trên đại bàn
tỉnh.
Công tác đầu tư, phát triển kinh tế biển thời gian qua được chú trọng. Kết cấu
hạ tầng được cải thiện như đầu tư xây dựng các hệ thống đường giao thông, nâng
cấp các tỉnh 883, 886, đường Cồn Rừng, Thạnh Phú, bến phà Tam Hiệp, đê biển Ba
Tri,... và nhiều công trình thủy lợi, nước sạch được đầu tư đã phát huy khá tốt chức
năng ngăn mặn, trữ ngọt. Các cảng cá Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú được xây
dựng và đưa vào hoạt động. Bên cạnh đó, một số dự án chỉnh trang đô thị được tiến
hành đã góp phần thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội các huyện ven biển và của tỉnh
Bến Tre.
Giáo dục đào tạo trên địa bàn ba huyện ven biển được cải thiện về quy mô và
chất lượng do kinh tế phát triển, gia đình và xã hội có nhiều điều kiện để chăm lo
việc học cho con em, tỉ lệ bỏ học của học sinh giảm do không còn gánh nặng mưu
sinh như trước. Công tác phổ cập giáo dục được quan tâm, ba huyện đã hoàn thành
xóa mù chữ năm 1996, hoàn thành phổ cập Tiểu học năm 1997, cuối năm 2007
hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở, góp phần hoàn thành chỉ tiêu 8/8 huyện thị đạt
chuẩn Trung học cơ sở theo nghị quyết của tỉnh. Mạng lưới trường lớp được điều
chỉnh, sắp xếp và phát triển rộng khắp góp phần xóa phòng học ba ca, xóa một phần
phòng học tạm mượn và cải thiện đáng kể hệ thống cơ sở giáo dục trên phạm vi
toàn tỉnh.
Khi điều kiện kinh tế được cải thiện, điều kiện sống của dân cư vùng ven
biển nói riêng và của tỉnh Bến Tre nói chung được nâng lên thì nhu cầu về chăm sóc
sức khỏe được quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu đó, mạng lưới cơ sở y tế được củng
cố; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cùng việc đào tạo, nâng cao
87
tay nghề đội ngũ y bác sĩ được chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng khám và
chữa bệnh cho nhân dân. Đến năm 2010, ba huyện ven biển có 98,4% xã, phường
đạt chuẩn quốc gia về y tế (Bình Đại và Thạnh Phú đạt 100%, Ba Tri đạt 95,43%),
nâng tổng số xã phường đạt chuẩn quốc gia về y tế của tỉnh lên mức 91,46% với
150 xã phường.
Thu nhập của người dân tăng lên đáng kể trong thời gian qua nên nhu cầu
hưởng thụ các giá trị văn hóa tăng lên. Hệ thống thông tin, hoạt động thể dục thể
thao phát triển rộng khắp, hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Đến năm 2010,
100% xã phường của ba huyện ven biển đã phủ sóng phát thanh và truyền hình,
hoàn thành chỉ tiêu 100% xã phường trên địa bàn tỉnh Bến Tre được xem truyền
hình và nghe đài. Bên cạnh đó, nhu cầu về tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng cũng
tăng lên góp phần khai thác có hiệu quả các tiềm năng du lịch địa phương và cả
nước.
Ngoài ra, trình độ dân trí tăng lên đáng kể nên phong trào xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư phát triển rộng khắp. Đến năm 2007, ba huyện vùng biển có
17 xã văn hóa, 104.113 gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa. Qua đó, góp phần giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
2.3.3. Bảo vệ môi trường
Việc phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010
đã có những tác động rất lớn đến công tác bảo vệ môi trường trong tỉnh nhất là môi
trường vùng biển, ven biển. Trong đó, quan trọng nhất là việc giảm thiểu được
những tác động tiêu cực đến môi trường thông qua những chính sách, chương trình
phát triển bền vững kinh tế biển.
Từ năm 2003, tỉnh Bến Tre đã có quy hoạch nuôi trồng thủy, hải sản gắn với
từng vùng nuôi, từng đối tượng cụ thể đi đôi với việc kiểm tra xử lý chất thải ở các
đơn vị nuôi trồng đã giúp môi trường vùng biển, ven biển được kiểm soát tốt hơn.
Hàm lượng chất độc hại trong nước từ kênh nội đồng cho đến vùng ven biển được
Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh điều tra, báo cáo hằng năm.
88
Tỉnh chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải, rác thải tại các
nhà máy chế biến thủy hải sản, các cảng cá, chợ, khu du lịch trên địa bàn các huyện
ven biển và toàn tỉnh. Các cơ sở chế biến thủy hải sản, công nghiệp, khu du lịch
trên địa bàn tỉnh khi xây dựng và hoạt động phải có đánh giá tác động môi trường
hoặc cam kết bảo vệ môi trường. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thực hiện kiểm
tra hàng quý, hàng tháng để có biện pháp quản lý hiệu quả. Qua đó, góp phần nâng
cao ý thức của người dân, các cơ sở kinh doanh, sản xuất trên địa bàn tỉnh về công
tác bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững.
Công tác trồng và chăm sóc rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển được thực
hiện tốt bên cạnh việc phát triển kinh tế biển đã góp phần bảo vệ môi trường sinh
thái vùng ven biển. Rừng ngập mặn có tác dụng chống xói lở bờ biển, cố định và
tăng diện tích bãi bồi, lọc sạch nước biển, hạn chế những tác nhân gây ô nhiễm môi
trường nước biển nên đã góp phần rất lớn vào việc giữ cân bằng và bảo vệ môi
trường sinh thái. Ngoài ra, rừng ngập mặn còn là nơi trú ngụ, sinh sản của các loài
động thực vật, hải sản. Qua đó, nguồn gen được lưu trữ, góp phần bảo vệ đa dạng
sinh học.
2.4. Những vấn đề cần quan tâm đến phát triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh
Bến Tre
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, sự phát triển kinh
tế biển của tỉnh Bến Tre cũng còn những vấn đề cần được quan tâm, giải quyết
nhằm đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai.
GDP kinh tế biển ngày càng tăng và có đóng góp ngày càng đáng kể trong cơ
cấu GDP của tỉnh nhưng tỉ trọng còn thấp (35,4% năm 2010). Như vậy, sự đóng góp
GDP của kinh tế biển chưa tương xứng với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Tăng trưởng kinh tế biển chủ yếu theo chiều rộng, thiếu chiều sâu. Kinh tế
biển phần lớn khai thác nguồn tài nguyên nông – lâm – ngư nghiệp; công nghiệp và
dịch vụ chưa phát triển mạnh. Công nghiệp – tiểu thủ công các huyện ven biển có
quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao, khả năng chế biến hàng nông
thủy sản của các huyện còn thấp, sản phẩm chưa có hàm lượng công nghệ cao. Các
89
ngành dịch vụ phát triển còn chậm, nhỏ lẻ, phân tán, các loại hình dịch vụ cao cấp
như tài chính tín dụng, vốn, tư vấn, khoa học công nghệ chưa phát triển mạnh.
Cơ cấu kinh tế các huyện ven biển thời kì 2001 – 2010 có sự chuyển biến
đúng hướng tuy nhiên sự chuyển dịch còn chậm. Giá trị sản xuất và giá trị tăng
thêm của ngành công nghiệp, dịch vụ chưa cao trong khi sản xuất nông – lâm – ngư
nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thị trường, giá cả bấp bênh nên
tính rủi ro của kinh tế cao, chưa phát triển bền vững. Điều này ảnh hưởng đến thu
nhập bình quân đầu người của vùng ven biển và toàn tỉnh chậm được nâng cao; sự
chênh lệch thu nhập/người giữa ba khu vực tăng lên, cản trở sự phát triển bền vững.
Các ngành kinh tế biển của tỉnh phát triển chưa đồng bộ và bền vững. Kinh tế
thủy sản có vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế biển của tỉnh nhưng ngành
thủy sản thời gian qua chưa phát triển ổn định. Lĩnh vực khai thác thủy hải sản
chậm đổi mới công nghệ, phương tiện, sức ép đối với nguồn lợi ven bờ còn rất lớn;
lĩnh vực nuôi trồng chưa bền vững do những năm gần đây phát triển một cách tự
phát, không theo quy hoạch, không tuân thủ lịch thời vụ làm dịch bệnh dễ phát tsinh
và lay lan, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi; công nghiệp chế biến thủy hải
sản chưa tương xứng với nguồn nguyên liệu. Trong khi đó, nghề muối còn nhiều
bấp bênh do công nghệ sản xuất muối lạc hậu, chất lượng thấp, khó tiêu thụ, giá cả
không cao. Tiềm năng ngành du lịch biển chưa được đầu tư khai thác hiệu quả.
Ngành giao thông vận tải biển của tỉnh chưa phát triển, chưa xây dựng cảng biển
trên địa bàn tỉnh nên khả năng phát triển kinh tế biển bị hạn chế.
Các cơ chế, chính sách của Trung Ương và của tỉnh về phát triển kinh tế biển
chưa được triển khai hiệu quả và đầy đủ, chưa tạo được môi trường đầu tư hấp dẫn
vào các huyện ven biển.
Tình hình đầu tư, phát triển kinh tế biển bị hạn chế do thiếu vốn, khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực có trình độ cao, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, giao
thông cách trở.
Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế
biển chưa nhiều. Tỉnh chưa có dự báo chính xác về nguồn lợi, diễn biến môi trường
90
và thiên tai trên biển. Từ đó, kinh tế biển phát triển nhưng còn chậm, hiệu quả chưa
cao, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu.
Sự phát triển văn hóa – xã hội bên cạnh sự phát triển kinh tế vùng ven biển
cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Công tác giáo dục - đào tạo của tỉnh còn yếu,
chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn. Công tác đào tạo nghề còn yếu về số
lượng và chất lượng, thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn sâu. Vì thế
chưa đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển nói riêng
và kinh tế tỉnh Bến Tre nói chung.
Công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân chưa vững chắc,
nhất là bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa của các huyện ven biển. Mức thu nhập
của dân cư gia tăng là một trở ngại rất lớn cho việc phát triển bền vững. Các cơ hội
tìm kiếm và cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống của
người dân chưa ổn định và chưa có giải pháp lâu dài.
Trình độ dân trí của ngư dân vùng biển chưa cao, ảnh hưởng đến khả năng
tiếp thu khoa học – công nghệ bị hạn chế. Ý thức sản xuất cộng đồng chưa cao. Ngư
dân còn sử dụng nhiều các công cụ, kĩ thuật khai thác có tính lạm sát cao ảnh hưởng
đến khả năng tái tạo nguồn lợi thủy hải sản và môi trường sinh thái.
Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn các huyện ven biển còn diễn biến phức
tạp. Phạm pháp hình sự, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội còn nhiều đã ảnh hưởng
không tốt đến việc ổn định xã hội để phát triển kinh tế.
Quan điểm phát triển bền vững trong chỉ đạo phát triển kinh tế biển của tỉnh
chưa thể hiện rõ ràng, còn thiên về tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, vấn đề bảo
vệ môi trường chưa được quan tâm. Các cơ quan chức năng còn thiếu các kế hoạch,
biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi trường vùng biển, ven biển. Trong khi đó, môi
trường sinh thái vùng biển, ven biển ngày càng bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân,
ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học gây khó khăn cho công tác
nuôi trồng, khai thác hải sản và mục tiêu phát triển bền vững.
91
Ngoài ra, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp với việc gia tăng những sự cố
bất thường như xâm nhập mặn ngày càng sâu vào nội đồng, triều cường, mưa
bão,...đã gây không ít khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất của người dân.
2.5. Tóm tắt chương
1. Bến Tre có nguồn lực khá đa dạng và thuận lợi cho phát triển kinh tế biển
của tỉnh, bao gồm các nguồn lực về tự nhiên và các nguồn lực kinh tế - xã hội. Các
nguồn lực tự nhiên quan trọng gồm vị trí địa lý và đặc điểm vùng biển; tài nguyên
thủy sản phong phú, tiềm năng mặt nước nuôi thủy sản hơn 50.000 ha; tài nguyên
rừng ngập mặn ven biển có ý nghĩa lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái; các
tài nguyên du lịch biển khá đa dạng gồm các bãi biển, lễ hội, di tích lịch sử văn
hóa,..Đây là tiền đề quan trọng để phát triển các ngành kinh tế biển. Các nguồn lực
kinh tế - xã hội bao gồm nguồn nhân lực dồi dào; chính sách kinh tế -xã hội hiết
thực; cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện,...là những điều kiện rất quan trọng
cho việc phát triển mạnh, hợp lý kinh tế biển.
2. Kinh tế biển của tỉnh có bước phát triển liên tục giữa hai giai đoạn trước
và sau năm 2000. Theo đó, giai đoạn 1996 - 2000, kinh tế biển của tỉnh mới bắt đầu
khởi sắc, các ngành kinh tế biển chưa phát triển đồng bộ và chưa lồng ghép phát
triển kinh tế với phát triển bền vững. Thủy sản là ngành phát triển mạnh nhất; các
ngành du lịch biển, nghề muối còn nhiều hạn chế; giao thông vận tải biển chưa có
điều kiện phát triển. Các ngành kinh biển mà nhất là ngành thủy sản chủ yếu dựa
vào khai thác nguồn tài nguyên sẵn có, chưa chú trọng đầu tư, ứng dụng khoa học kĩ
thuật trong sản xuất.
3. Giai đoạn 2001 – 2010, kinh tế biển của tỉnh có bước phát triển mới, mang
tính bền vững hơn. Các ngành thủy sản, diêm nghiệp, du lịch biển đều phát triển
mạnh hơn trước. Sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế biển rõ nét hơn theo
hướng tăng tỉ trọng nuôi thủy sản so với khai thác, ngành khai thác được khuyến
khích đầu tư khai thác xa bờ và tập trung các loại hải sản có giá trị kinh tế cao, hạn
chế khai thác gần bờ để bảo vệ nguồn lợi, năng lực công nghiệp chế biến từng bước
được nâng cao. Nghề muối bắt đầu áp dụng kĩ thuật hiện đại trong sản xuất. Du lịch
92
biển có bước khởi sắc do thu hút đầu tư và khai thác tài nguyên tốt hơn. Công tác
bảo vệ môi trường được chú trọng hơn. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
biển giai đoạn 2001 – 2010 nhìn chung còn chậm.
4. Sự phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trogn giai đoạn 2001
– 2010 đã có tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của tỉnh. Điều này thể hiện qua
quy mô và tỉ trọng kinh tế biển ngày càng tăng trong cơ cấu GDP tỉnh, cơ cấu ngành
kinh tế thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng cuộc sống của người dân vùng ven
biển dần được nâng cao, công tác môi trường được thực hiện tốt hơn.
5. Tuy nhiên, để kinh tế biển tỉnh Bến Tre thực sự phát triển bền vững vẫn
còn nhiều vấn đề cấp thiết cần được quan tâm giải quyết. Chiến lược phát triển kinh
tế biển của tỉnh trong giai đoạn qua phần lớn chú trọng phát triển kinh tế - xã hội,
chưa chú trọng đúng mức đến việc bảo vệ môi trường. Kinh tế biển phát triển chưa
tương xứng với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Kinh tế biển chủ yếu phát
triển theo chiều rộng, chưa phát triển chiều sâu, các ngành kinh tế biển phát triển
chưa đồng bộ, chưa chuyển dịch mạnh mẽ. Bên cạnh đó, cần quan tâm giải quyết
việc thiếu vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao. Các vấn đề văn
hóa – xã hội, môi trường vùng ven biển chưa thật sự bền vững, nhất là tỉ lệ hộ
nghèo, chất lượng môi trường sống châm được cải thiện.
93
94
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KINH TẾ BIỂN TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020
3.1. Các cơ sở đưa ra định hướng
3.1.1. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của quốc gia và vùng
Hội nghị lần IV Ban chấp hành Trung Ương Đảng Khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 09 –NQ/TW ngày 09/02/2007 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”. Quan điểm của chiến lược là xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia
mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế biển hiện đại, thực sự làm động lực thúc đẩy
kinh tế cả nước phát triển với tốc độ nhanh. Qua đó, tạo ra sự kết hợp kinh tế ven
biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để phát triển
nhanh, ổn định và bền vững. Đồng thời, chiến lược cũng nêu rõ quan điểm mở cửa,
tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách
toàn diện, trở thành động lực lôi kéo, thúc đẩy các vùng khác phát triển. [18]
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là cơ sở nền tảng để tỉnh Bến Tre
xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020 và Đề án
phát triển kinh tế biển của tỉnh.
“Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu
Long đến năm 2020” nêu rõ mục tiêu là xây dựng, phát triển vùng đồng bằng sông
Cửu Long trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa và thủy sản
của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững; phát triển mạnh kinh tế
biển và phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước;
là địa bàn cầu nối để chủ động hội nhập, giao thương, hợp tác kinh tế với các nước
trong khu vực, bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, quốc phòng. Bến Tre là một
tỉnh có thế mạnh phát triển kinh tế biển của đồng sông Cửu Long nên quy hoạch
kinh tế xã hội của vùng đã tác động đến việc quy hoạch kinh tế xã hội của tỉnh,
trong đó chú trọng phát triển bền vững kinh tế biển. [23]
3.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre
“Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IX (nhiệm kì 2010 –
2015)” xác định 6 lĩnh vực trọng tâm cần tập trung trong thời gian tới. Trong đó,
95
lĩnh vực quan trọng nhất là phát triển kinh tế biển, khai thác có hiệu quả tiềm năng
nguồn lợi biển nhằm tạo nội lực để đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế khác. [19]
Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4, khóa X) về
“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Chương
trình hành động số 11-CTr/TU, ngày 19/4/2007; Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị
quyết số 01/2009/NQ-HĐND ban hành Đề án “Phát triển toàn diện 3 huyện ven
biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định phê
duyệt Đề án “Phát triển toàn diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre”, kèm theo đó là 7
chương trình phát triển và dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư để cụ thể hóa, thực hiện.
“Đề án phát triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”
là đề án được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá nguồn tài nguyên để phát
triển kinh tế biển của tỉnh, làm cơ sở cho việc đưa ra các dự báo, định hướng phát
triển một cách khoa học, hợp lý. Mục tiêu của đề án là đầu tư, khai thác có hiệu quả
các tiềm năng kinh tế biển, chủ yếu là kinh tế thủy sản, kết hợp phát triển lâm
nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản gắn phát triển nuôi
trồng với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt; tăng nhanh các ngành dịch vụ du
lịch; kết hợp phát triển bền vững kinh tế biển với đảm bảo anh ninh quốc phòng
vùng biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển thực sự trở thành kinh tế mũi nhọn
của tỉnh. Giá trị tăng thêm chiếm ít nhất 30% trong GDP của tỉnh. [13]
Quan điểm của đề án:
- Phát triển vùng kinh tế biển trở thành một trong các vùng động lực phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn tỉnh.
- Khai thác tổng hợp các nguồn lực của vùng kinh tế biển, kết hợp hài hòa ba
khu vực kinh tế, kết hợp hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và củng cố an
ninh quốc phòng, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển kinh tế - xã hội, chuyển
dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
96
- Đến năm 2010 các chỉ tiêu về kinh tế, đến năm 2015 các chỉ tiêu về kết cấu
hạ tầng và văn hóa xã hội ngang bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung của toàn
tỉnh.
- Góp phần thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2006 – 2010 và đến năm 2020, phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với
bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo và
môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học, đảm bảo tài nguyên, môi trường
sống và phát triển cho các thế hệ tương lai, đặc biệt trong bối cảnh thay đổi khí hậu
và biển dâng có tác động trực tiếp đến vùng kinh tế biển.
3.2. Các chỉ số dự báo
3.2.1. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển các ngành kinh tế biển
Ngành thủy sản
Với đà phát triển như hiện nay, ngành nuôi trồng và khai thác thủy hải sản
của tỉnh sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tới. Trong đó, tập trung chủ
yếu ở ba huyện ven biển; nuôi thủy sản sẽ phát triển mạnh và giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế thủy sản của tỉnh
Lĩnh vực nuôi trồng:
Dự báo tổng diện tích nuôi thủy sản của tỉnh sẽ tăng lên 40.000 ha vào năm
2020, với tốc độ tăng trưởng 0,69 %/năm. Các đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh là
tôm, cá, nhuyễn thể. Trong đó, diện tích nuôi cá và nhuyễn thể tăng nhanh với tốc
độ trung bình hơn 2 %/năm, nhất là diện tích nuôi cá da trơn và nghêu đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu do hai sản phẩm xuất khẩu này của tỉnh đã nhận được chứng nhận về
chất lượng là GlobalGAP và MSC. Trong khi đó, tôm vẫn là đối tượng được nuôi
nhiều nhất do giá trị kinh tế cao, thị trường xuất khẩu lớn, tuy nhiên tốc độ tăng diện
tích nuôi tôm chậm để đảm bảo vùng quy hoạch. Hình thức nuôi thâm canh và bán
thâm canh phát triển mạnh, ước đạt hơn 6.800 ha đến năm 2020. Do tăng diện tích
nuôi và tăng cường các phương pháp nuôi hiện đại nên tổng sản lượng thủy sản nuôi
của tỉnh sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2011 – 2020, tốc độ tăng trung bình là 4,05
%/năm, đạt 104.000 tấn (năm 2020), tăng gấp đôi sản lượng năm 2010. Trong đó,
97
sản lượng nhuyễn thể dự kiến tăng nhanh nhất (trung bình 7,42 %/năm), kế đó là
tôm (4,03 %/năm). Giá trị sản xuất ngành nuôi thủy sản tăng nhanh, hơn 4,2 %/năm.
Nhu cầu lao động nuôi thủy sản đến năm 2020 tăng lên khoảng 35.470 người.
Bảng 3.1: Dự báo một số chỉ tiêu ngành nuôi thủy sản ba huyện ven biển
tỉnh Bến Tre đến năm 2020
Hiện Dự báo TTBQ (%) trạng STT Danh mục Đơn vị
2010 2015 2020 2011-2020
Tổng diện tích Ha 37.343 39.000 40.000 0,69 1. NTS
- 1.253 1.549 1.549 2,14 Nuôi cá
- 31.547 32.201 32.901 0,42 Nuôi tôm
- 4.543 5.250 5.550 2,02 Nhuyễn thể
- 5.167 6.340 6.840 2,84 Tôm, cá TC, BTC
Tổng sản lượng Tấn 69.920 96.030 104.000 4,05 2. NTS
- 25.440 29.360 29.570 1,51 Cá
- 27.480 36.580 40.810 4,03 Tôm
- 15.400 28.000 31.530 7,42 Nhuyễn thể
- 1.600 2.090 2.090 2,7 Thủy sản khác
Giá trị sản xuất 3. Tỉ đồng 5.089,3 6.778 7.735,4 4,27 (giá hiện hành)
Gí trị sản xuất 4. - 2.603,8 3.626,5 4.144,5 4,75 (giá so sánh 1994)
5. Lao động Người 32.570 34.090 35.470 0,86
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre [9]
98
Tổng lượng thức ăn công nghiệp cho tôm, cá theo quy hoạch khoảng 174.000
tấn vào năm 2020. Trong đó, cá tra nuôi có nhu cầu thức ăn lớn nhất, khoảng 67.000
đến 85.000 tấn; tôm sú thâm canh, bán thâm canh khoảng 30.000 đến 35.000 tấn;
tôm thẻ chân trắng cũng có nhu cầu thức ăn khá lớn, dao động từ 26.000 đến 30.000
tấn.
Tổng nhu cầu con giống đáp ứng nuôi thủy sản của ba huyện ven biển tỉnh
Bến Tre đến năm 2020 gần 8,2 tỉ con giống. Để đáp ứng nhu cầu con giống ngày
càng tăng, số trại sản xuất giống thủy sản dự báo đến năm 2020 là 176 trại. Sản
lượng giống dự kiến đạt khoảng 4,3 tỉ con giống, có khả năng đáp ứng khoảng 52%
nhu cầu con giống thủy sản trên địa bàn tỉnh. [9]
Về lĩnh vực đánh bắt thủy sản:
Số lượng tàu thuyền và tổng công suất khai thác giảm do giảm các tàu có
công suất nhỏ để để tăng cường cải hoán, nâng cấp, đóng mới các tàu có công suất
lớn (> 90CV). Từ cơ sở số liệu dự báo của “Đề án phát triển kinh tế biển ba huyện
ven biển đến năm 2020” và thực trạng phát triển ngành khai thác hải sản đến năm
2010, có thể dự báo tổng số tàu thuyền dự kiến giảm nhẹ còn khoảng 3.982 chiếc
vào năm 2020, công suất bình quân là 168 CV/chiếc. Dự báo đến năm 2020, sản
lượng hải sản khai thác đạt gần 121.135 tấn, trong đó cá 102.633 tấn, tôm hơn
18.502 tấn. Số lao động phục vụ trong ngành khai thác thủy hải sản khoảng 16.450
người vào năm 2020. [13 ]
Lĩnh vực chế biến thủy hải sản
Công nghiệp chế biến thủy hải sản của ba huyện sẽ tăng lên rõ rệt sau năm
2010 nhờ tỉnh có chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư và tiềm năng nguồn nguyên liệu
lớn. Nếu được đầu tư và khai thác đúng hướng, ngành công nghiệp chế biến thủy
sản sẽ mang lại giá trị sản xuất khá lớn và không ngừng tăng lên, dự kiến đạt 1.466
tỉ đồng (năm 2015) và tăng lên 3.270 tỉ đồng (năm 2020). Sản lượng thủy sản chế
biến sẽ tăng liên tục đạt 64.200 tấn vào năm 2020. Đặc biệt sản lượng thức ăn thủy
sản sản xuất trên địa bàn tỉnh sẽ tăng mạnh, đạt 32.500 tấn năm 2015 và tăng lên
80.000 tấn (năm 2020) do các cụm công nghiệp đã quy hoạch trên địa bàn ba huyện
99
sẽ bắt đầu hoàn thiện kết cấu hạ tầng và phát triển ngành nghề sau năm 2012, bên
cạnh đó, tiếp tục triển khai các quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp mới.
(Xem bảng 3.2)
Bảng 3.2: Dự báo các chỉ tiêu phát triển công nghiệp chế biến thủy hải sản ba
huyện ven biển đến năm 2020
Danh mục Đơn vị tính Năm 2015 2020
Giá trị sản xuất Tỉ đồng 1.466 3.270
Chế biến thủy sản đông lạnh Tấn 11.500 30.500
Chế biến thủy sản khô - 17.870 33.700
Chế biến nước mắm 1.000 lít 3.380 7.500
Sản phẩm từ thủy sản khác (bột cá) Tấn 18.000 32.000
Sản xuất thức ăn thủy sản - 32.500 80.000
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]
Nghề muối
Dựa vào tình hình phát triển nghề muối giai đoạn 2001 – 2010, nhất là sự
chuyển biến lớn về năng suất, sản lượng muối năm 2010, kết hợp với dự báo của đề
án phát triển kinh tế biển của tỉnh, nếu giữ nguyên tốc độ tăng trưởng bình quân như
đề án thì các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp đến năm 2020 sẽ tăng lên như (bảng
3.3). Theo đó, năng suất muối sẽ tăng trung bình 2,26 %/năm góp phần tăng nhanh
sản lượng muối của tỉnh lên khoảng 106.554 tấn (năm 2020), trong khi diện tích
muối tăng chậm.
Bảng 3.3: Dự báo các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp ba huyện ven biển
tỉnh Bến Tre đến năm 2020
Hiện trạng Dự báo TTBQ (%) Danh mục Đơn vị tính Năm 2010 Năm 2020 2011 - 2020
Diện tích Ha 1.652 1.738 0,51
Năng suất Tấn/ha 49 61,3 2,26
Sản lượng Tấn 81.000 106.554 2,78
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]
100
Ngành lâm nghiệp
Thực trạng phát triển ngành lâm nghiệp trong thời gian qua là cơ sở để dự
báo một số chỉ tiêu phát triển ngành lâm nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020. Theo
đó, diện tích đất lâm nghiệp đến năm 2020 giữ vững 7.833 ha như năm 2010; tỉ lệ
diện tích đất có rừng là 62,6%. Tổng vốn đầu tư cho phát triển lâm nghiệp trên địa
bàn ba huyện ven biển dự kiến là hơn 29 tỉ đồng, phân kì như sau: giai đoạn 2008 –
2010 là 5,1tỉ đồng; giai đoạn 2011 – 2015 là 10,85 tỉ đồng, giai đoạn 2016 – 2020 là
13,1tỉ đồng.
Ngành du lịch biển
Dự kiến khách du lịch đến vùng biển của tỉnh đến năm 2020 là 290.428 lượt
người. Trong đó, khách quốc tế là 17.264 lượt người (5,9 %), khách nội địa là
273.164 lượt người (94,1%). Tốc độ tăng trưởng khách du lịch biển bình quân là
9,58 %/năm trong thời kì 2011 – 2020.
Doanh thu du lịch biển thời kì 2011 – 2020 dự kiến cũng tăng mạnh với tốc
độ tăng trưởng bình quân là 15,9 %/năm, đạt 80,37 tỉ đồng (năm 2020).
Đến năm 2010, tỉnh có 4 khu du lịch biển đang xây dựng và bước đầu đưa
vào khai thác. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có 7 khu du lịch biển được đầu tư xây
dựng. Theo đó, tỉnh đã định hướng xây dựng thêm khu du lịch Cồn Nhàn, khu du
lịch Cồn Chài Mười và khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn gắn với di tích lịch sử
“Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Số lượng cơ sở lưu trú cũng sẽ tăng nhanh để đáp
ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các hoạt động du lịch.
Với tình hình phát triển mạnh mẽ của hoạt động du lịch trên địa bàn ba
huyện ven biển đến năm 2020 dự kiến ngành du lịch biển của tỉnh Bến Tre cần
khoảng 1.989 lao động, tăng gần 4,5 lần so với năm 2010. Trong đó, lao động qua
đào tạo là 90% (1.790 người), riêng lao động có trình độ đại học và cao đẳng là 497
người.
3.2.2. Các chỉ số dự báo phát triển nguồn nhân lực
Dân số ba huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú sẽ có khuynh hướng tăng
chậm trong tương lai do chính sách kiển soát dân số, kế hoạch hóa gia đình nhưng
101
sẽ tái bố trí, chuyển dịch nhanh cơ cấu do sự phát triển của các đô thị, các cụm công
nghiệp, cơ sở hạ tầng, giao thông.
Dự kiến giai đoạn 2011 – 2020, dân số vùng ven biển sẽ tăng với tốc độ bình
quân 0,93 %/năm, đạt 491.245 người vào năm 2020. Tỉ lệ lao động ngành nghề và
lao động trong độ tuổi ba huyện ven biển sẽ tăng lên. Theo đó, lao động trong độ
tuổi sẽ tăng lên 387.806 người (năm 2020), lao động trong các ngành nghề khoảng
301.545 người. Đặc biệt lao động trong KV II và KV III sẽ tăng mạnh phù hợp với
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa mạnh mẽ trên địa bàn, chiếm khoảng 45%
tổng lao động ngành nghề của các huyện. (Xem bảng 3.4)
Bảng 3.4: Dự báo dân số và lao động ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre
đến năm 2020
Đơn vị tính: người
Hiện trạng Dự báo TTBQ (%) Chỉ tiêu 2010 2020 20110 - 2020
1. Dân số
Dân số trung bình 447.812 491.245 0,93
2. Lao động
Lao động trong độ tuổi 345.923 387.806 0,89
Lao động ngành nghề 272.310 301.545 1,025
163.604 165.826 0,135 KV I
68.213 83.846 2,085 KV II
40.493 51.873 2,51 KV III
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]
3.2.3. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của ba huyện ven
biển
GDP tăng bình giai đoạn 2011 – 2020 ba huyện ven biển dự báo tăng bình
quân là 12,1 %/năm.
102
GDP bình quân đầu người đạt 2.600 USD vào năm 2020 (bằng 93% toàn
tỉnh).
Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của ba huyện ven biển: KV I tăng
trưởng với tốc độ bình quân là 7,5 %/năm; KV II là 18,6 %/năm; KV III là 14,7
%/năm.
Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn ba huyện ven biển đóng góp vào kim
ngạch xuất khẩu chung của tỉnh là 178 triệu USD vào năm 2020 (bằng 19% toàn
tỉnh) do công nghiệp vẫn còn yếu so với mặt bằng chung toàn tỉnh.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng bình quân 7,5%/năm.
Chỉ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio - tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc
độ tăng trưởng) giai đoạn 2011 – 2020 là 2,72%.
Cơ cấu kinh tế năm 2010 là KV I: 55,9 – KV II: 15,4 – KV III: 28,7 đến năm
2020 lần lượt là 37% - 29% - 34%.
Về xã hội, phổ cập bậc Trung học đạt chuẩn sau năm 2015. Số lao động được
đào tạo so với số lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 53%. Số lao động thành thị
trong độ tuổi bị thất nghiệp được khống chế ở mức dưới 1%.
Tỉ lệ hộ sử dụng điện của ba huyện đạt trên 95%, tỉ lệ hộ dân được cung cấp
nước sạch tập trung đạt 91% vào năm 2020.
Cần 4 bác sĩ và 11,18 giường bệnh cho 1 vạn dân.
Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới dưới 5%.
3.2.4. Các chỉ số dự báo tình hình đầu tư
Nhu cầu đầu tư để phát triển bền vững kinh tế, nhất là kinh tế biển đi đôi với
phát triển bền vững xã hội và môi trường trên địa bàn ba huyện ven biển tỉnh Bến
Tre trong thời gian tới là rất lớn. Theo đó, trước hết là đầu tư phát triển, hoàn chỉnh
hệ thống cơ sở, hạ tầng, kĩ thuật; kế đến là đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật phát triển
các ngành kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự báo nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế biển tỉnh
Bến Tre trong giai đoạn 2007 – 2020 là khoảng 103.485 tỉ đồng, trong đó phần đầu
tư trong khu vực tư từ 61 – 73% trong giai đoạn 2011 – 2020.
103
3.3. Các định hướng phát triển
Trước những tiềm năng, lợi thế và thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh
Bến Tre trong thời gian qua, rất cần những định hướng hợp lý, cụ thể để khai thác
một cách hợp lý nguồn tài nguyên nhằm phát triển kinh tế biển bền vững.
3.3.1. Phát triển sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa và nâng
cao chất lượng sản phẩm
Sản phẩm kinh tế biển thế mạnh của tỉnh là sản phẩm thủy hải sản. Bên
cạnh đó, các sản phẩm của ngành diêm nghiệp, sản phẩm du lịch biển và các nông –
lâm sản cũng có nhiều tiềm năng phát triển.
Để phát triển bền vững kinh tế biển, định hướng đầu tiên là phát triển các
sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm
nhằm giảm đến mức thấp nhất sự lãng phí tài nguyên, tăng cường hàm lượng công
nghệ cho sản phẩm để nâng cao chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường nhằm mang lại lợi nhuận kinh tế cao mà vẫn bảo vệ tốt nguồn tài nguyên và
môi trường. Theo đó, cần:
Đa dạng hóa sản phẩm kinh tế biển bao gồm sản phẩm vật chất và các sản
phẩm văn hóa, tinh thần trên cơ sở đa dạng hóa ngành nghề, lĩnh vực kinh tế biển,
phát triển thêm các sản phẩm mới bên cạnh các sản phẩm truyền thống.
Đầu tư và thu hút đầu tư hình thành các vùng sản xuất hàng hóa về nông -
lâm – thủy sản gắn với nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, dây chuyền của
công nghiệp chế biến để chủ động nguồn nguyên liệu, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm. Đối với các ngành dịch vụ, nhất là ngành du lịch biển, định hướng
phát triển sản phẩm gắn với sinh thái và dịch vụ chất lượng cao.
Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm kinh tế biển phù hợp với xu hướng kinh tế
thị trường; ưu tiên phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế cao trong nuôi trồng,
khai thác thủy hải sản, các dịch vụ du lịch cao cấp,…
Tăng cường hàm lượng khoa học, công nghệ trong các sản phẩm kinh tế
biển.
104
Có chiến lược phát triển sản phẩm kinh tế biển hợp lý. Tùy theo điều kiện
từng thời kì mà xác định sản phẩm kinh tế biển nào là thế mạnh để tập trung đầu tư
phát triển, tạo nên bước đột phá, từ đó tạo đà phát triển cho các sản phát kinh tế biển
khác.
Chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là các nông – lâm – thủy sản
có lợi thế xuất khẩu, phấn đấu đạt và phát huy các chứng nhận về chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế như GlabalGAp, MSC,.. để tạo thương hiệu, tăng khả
năng cạnh tranh bền vững trên thị trường.
Phát triển các sản phẩm kinh tế biển trên cơ sở khai thác tốt đi đôi với bảo
vệ, tái tạo nguồn tài nguyên, tránh lạm dụng nguồn tài nguyên hay cố ý vi phạm các
nguyên tắc bảo vệ môi trường nhằm đảo bảo một sự phát triển lâu dài, hài hòa và
bền vững cho hiện tại và tương lai.
3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao
Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn
theo Quyết định số 1959/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ để nâng cao trình độ
dân trí và chuyên môn cho các lao động phổ thông ở nông thôn tham gia làm việc
trong các ngành kinh tế biển.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có điều kiện tiếp cận và sử dụng
công nghệ, kĩ thuật sản xuất hiện đại để nâng cao chất lượng lao động.
Có kế hoạch thực hiện tốt công tác hướng nghiệp tại các trường phổ thông.
Tích cực đa dạng hóa hình thức đào tạo.
Từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý để tham gia thực hiện
quy hoạch, điều hành, quản lý phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả, chất lượng.
Có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, đào tạo chuyên gia trong các lĩnh
vực kinh tế biển để làm cơ sở thu hút đầu tư và phát triển kinh tế biển bền vững.
3.3.3. Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế biển theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Cần tăng cường đầu tư phát triển hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng, vật chất kĩ thuật
các ngành kinh tế biển như hệ thống đường giao thông; cơ sở hạ tầng ngành nuôi
105
trồng, khai thác thủy sản; cơ sở hạ tầng ngành du lịch; ngành muối, lâm nghiệp,..
Chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học,
đổi mới công nghệ và hiện đại hóa trong hoạt động sản xuất để tăng hiệu quả.
Phân bố đầu tư hợp lý giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển theo từng
giai đoạn phát triển và có kế hoạch phân bổ đầu tư hợp lý trong từng ngành.
Thực hiện xã hội hóa đầu tư, kêu gọi, thu hút các nguồn đầu tư ngoài ngân
sách để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao và đa dạng.
Chú trọng đầu tư các dự án, công trình bảo vệ và nâng cao chất lượng môi
trường.
Tăng cường đầu tư liên ngành, liên vùng để tạo nên sức mạnh tổng hợp, hỗ
trợ lẫn nhau tạo mối quan hệ liên kết giúp khai thác và bảo vệ có hiệu quả nguồn tài
nguyên biển, tiến tới phát triển bền vững.
Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư để cung cấp thông tin, tạo điều kiện,
môi trường thuận lợi, thu hút đầu tư mạnh mẽ và có hiệu quả vào các ngành, lĩnh
vực kinh tế biển trên địa bàn tỉnh.
3.3.4. Bảo vệ môi trường biển
Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái vùng biển, ven biển
trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo chất lượng
môi trường sinh thái, môi trường sống và trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày
càng sâu sắc.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường và thường xuyên cập nhật thông tin để
xây dựng các phương án quản lý, bảo vệ môi trường hiệu quả.
Nâng cao các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, hạn
chế các tác động tiêu cực đến môi trường một cách có hiệu quả.
Có cơ chế đủ mạnh để quản lý và bảo vệ môi trường. Tăng cường nâng cao
trình độ và đào tạo mới đội ngũ cán bộ quản lý môi trường có trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ cao kết hợp với tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào việc xử lý
ô nhiễm, quản lý và bảo vệ môi trường.
106
Tăng cường nâng cao ý thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng vào việc
quản lý và bảo vệ môi trường để tạo nên sức mạnh chung, chia sẻ trách nhiệm và lợi
ích, tạo hiệu quả toàn diện trong bảo vệ môi trường.
3.3.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển
Để duy trì sự phát triển kinh tế biển bền vững, yếu tố đóng vai trò quan trọng
nhất là phải có chương trình, cơ chế quản lý các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển
một cách chặt chẽ, hợp lý, đồng bộ, có chất lượng và hiệu quả.
Việc quản lý phát triển mảng kinh tế biển của tỉnh trong thời gian qua còn
nhiều hạn chế nên trong thời gian tới cần có định hướng và các biện pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển.
Tăng cường nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các ngành kinh tế
biển kết hợp với xây dựng kế hoạch thu hút nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao bổ sung trong tương lai.
Quản lý phát triển kinh tế biển trên nguyên tắc hài hòa giữa phát triển kinh tế
với nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên
cũng như bảo vệ tốt môi trường sinh thái biển, ven biển; đảm bảo sự phát triển hài
hòa giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển.
Có quy hoạch ngắn hạn và dài hạn để phát triển kinh tế biển theo từng giai
đoạn cụ thể. Tăng cường công tác kiểm tra, rà soát để điều chỉnh và bổ sung quy
hoạch phát triển kinh tế biển một cách hợp lý.
Có cơ chế quản lý đủ mạnh để quản lý hiệu quả việc khai thác với bảo vệ, tái
tạo nguồn tài nguyên biển và bảo vệ môi trường sinh thái.
Có sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong phát triển kinh tế biển để tạo được
sự phát triển đồng bộ, thống nhất.
Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý, phát triển kinh
tế biển.
3.4. Các giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững
Để phát triển kinh tế biển thật sự bền vững, bên cạnh những định hướng cụ
thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, phải xây dựng các giải pháp cụ thể, thiết thực để
107
làm cơ sở triển khai các định hướng đạt hiệu quả. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu,
các giải pháp phát triển kinh tế biển bển vững đối với tỉnh Bến Tre trong thời gian
tới bao gồm các giải pháp: phát triển sản phẩm kinh tế biển; đào tạo, tuyển dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao; đầu tư có hiệu quả, bảo vệ môi trường và quản lý
kinh tế biển có chất lượng, hiệu quả.
3.4.1. Các giải pháp phát triển sản phẩm kinh tế biển
Đa dạng hóa sản phẩm kinh tế biển bằng cách tập trung phát triển thêm các
sản phẩm mới có nhiều tiềm năng bên cạnh các sản phẩm truyền thống của các
ngành thủy sản, du lịch, muối, lâm nghiệp,..Cần tăng cường nghiên cứu, lựa chọn
nuôi các loại thủy hải sản, đặc sản mới có giá trị kinh tế cao và đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng, tăng cường đánh bắt hải sản ngoài khơi; phát triển các dịch vụ du lịch vui
chơi giải trí, thể thao biển, các dịch vụ lưu trú, ăn uống cao cấp; phát triển các sản
phẩm muối sạch, thu hồi sản phẩm nước ót, thạch cao sau thu hoạch; phát triển các
đặc sản rừng ngập mặn,…Trong tương lai, tiến tới phát triển các dịch vụ giao thông
vận tải biển, cảng biển,..
Để hình thành vùng sản xuất hàng hóa nông – lâm – sản của vùng kinh tế
biển cần tiến hành lựa chọn sản phẩm ưu thế, có khả năng sản xuất theo hình thức
chuyên môn hóa như thủy sản nuôi trồng: tôm, cá da trơn, nghêu; muối;...Đẩy mạnh
các mô hình sản xuất tiên tiến: sản xuất công nghiệp, thâm canh, bán thâm canh đối
với sản phẩm ngành nuôi thủy sản nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào, chất
lượng đồng bộ, thuận lợi cho chế biến xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cần gắn liền sản xuất hàng hóa với nâng cao năng lực của
công nghiệp chế biến cho tương xứng với nguồn nguyên liệu sản xuất của vùng sản
xuất hàng hóa bằng cách đầu tư xây dựng thêm các nàh máy chế biến, đổi mới dây
chuyển, công nghệ hiện đại để tránh lãng phí nguyên liệu, đa dạng hóa, nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Đối với sản phẩm các ngành dịch vụ, nhất là du lịch biển cần xác định sản
phẩm đặc thù của từng địa phương; tăng cường phát triển sản phẩm du lịch sinh thái
gắn với biển, rừng; phát triển dịch vụ du lịch chất lượng cao,…
108
Tăng cường yếu tố khoa học công nghệ trong sản xuất theo hướng tăng
cường ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến làm tốt
công tác xử lý chất thải để nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, giảm
chi phí và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái.
Mặt khác, để nâng cao chất lượng sản phẩm cần tăng cường sử dụng công
nghệ vi sinh, thân thiện môi trường trong việc nuôi thủy sản; kiểm soát tốt dư lượng
kháng sinh, chất bảo quản trong sản phẩm thủy sản chế biến. Nhân rộng mô hình
sản xuất các sản phẩm được chứng nhận chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để xây
dựng thương hiệu bền vững.
Trong từng giai đoạn phát triển, lựa chọn sản phẩm kinh tế biển nào giữ vai
trò chủ đạo để trung đầu tư, phát triển mạnh, làm tiền đề thúc đầy các sản phẩm
khác cùng phát triển, tránh đầu tư dàn trãi, kém chất lượng.
Làm tốt công tác bảo vệ môi trường và tài nguyên để đảm bảo điều kiện
khai thác tốt các sản phẩm của ngành thủy sản, du lịch biển, nghề muối,…
Ngoài ra, đối với từng sản phẩm kinh tế biển cụ thể, cần có các giải pháp
phát triển riêng, theo đặc thù sản phẩm.
Đối với sản phẩm thủy hải sản:
Tạo bước tăng trưởng nhanh và bền vững trong lĩnh vực nuôi thủy hải sản,
khai thác tốt tiềm năng diện tích mặt nước để đưa vào nuôi trồng. Đa dạng hóa đối
tượng nuôi nhằm tạo ra nguồn sản phẩm phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị
trường. Ưu tiên phát triển các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm
thẻ chân trắng ở vùng mặn, lợ; nuôi nghêu, sò ở các bãi bồi ven biển và các đầm lầy
mặn; phát triển nuôi các đối tượng cua, cá kèo, cá song, cá măng ở các vuông hoặc
nuôi bè ven biển; nuôi cá rô phi dòng gift, cá tai tượng, cá mè, cá chép, cá đồng, đặc
biệt cá da trơn và tôm càng xanh…ở các vùng ngọt hóa.
Tăng cường nuôi thâm canh, bán thâm canh, nuôi công nghiệp, phát triển
mạnh trang trại thủy sản gắn liền với việc áp dụng các quy trình kĩ thuật tiên tiến
trong nuôi các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, hướng đến xuất khẩu như tôm
sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra,…để tạo ra sản phẩm theo hướng chuyên môn hóa với
109
số lượng lớn, chất lượng tốt và đồng đều, năng suất cao, đáp ứng nhu cầu cung cấp
nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Bên cạnh đó, xây dựng các mô hình nuôi bền
vững, nuôi xen nhiều đối tượng trên cùng một diện tích như mô hình tôm - lúa, tôm
- rừng, mô hình nuôi xen cua – tôm, phát triển nuôi đặc sản trên vùng bãi triều
không có đê, cống,..để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính bền vững hiệu quả nuôi
thủy hải sản.
Đẩy mạnh công tác ứng dụng, chuyển giao kĩ thuật nuôi tiên tiến cho người
nuôi, tăng cường sừ dụng chế phẩm sinh học, an toàn thân thiện với môi trường
trong nuôi thủy hải sản để giảm lượng hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm nuôi,
góp phần bảo vệ môi trường nuôi, giúp phát triển bền vững ngành nuôi trồng đồng
thời không gây những tác hại tiêu cực cho môi trường sinh thái.
Phát huy, nhân rộng mô hình nuôi cá da trơn đạt chứng nhận GlobalGAP
và nghêu đạt chứng nhận MSC để tạo nguồn sản phẩm xuất khẩu đạt chất lượng,
xây dựng uy tín, thương hiệu bền vững trên thị trường xuất khẩu thế giới.
Nâng cao chất lượng đội tàu khai thác xa bờ để tăng cường năng lực khai
thác xa bờ, hướng đến các ngư trường biển khơi nhất là ngư trường cá nổi đại
dương để đa dạng hóa sản phẩm đánh bắt, đồng thời khai thác các loài có giá trị
kinh tế cao như cá ngừ đại dương, cá thu,..
Tăng cường gắn kết hoạt động khai thác xa bờ với phát triển hệ thống hậu
cần theo hướng hiện đại hóa nhằm đảm bảo việc khai thác hải sản theo hướng
chuyên môn hóa, vận chuyển, mua bán, bảo quản sản phẩm tốt hơn, nâng cao chất
lượng sản phẩm hải sản khai thác.
Gắn liền hoạt động khai thác và nuôi trồng với nâng cao năng lực công
nghệ chế biến nhằm giảm thất thoát sau thu hoạch, đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm thủy hải sản, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường, giúp người tiêu dùng được tiếp cận sản phẩm thủy hải sản sạch, an toàn,
chất lượng.
110
Đối với ngành diêm nghiệp:
Đảm bảo khu vực sản xuất muối liền canh, đồng bộ, mở rộng diện tích tối
đa ở những nơi có thể phát triển nghề muối để thuận lợi cho việc bố trí sản xuất,
tăng năng suất và chất lượng sàn phẩm.
Đẩy mạnh thâm canh, cải tiến kĩ thuật, chuyển giao công nghệ, chuyển dần
sang sản xuất muối sạch để nâng cao năng suất và chất lượng hạt muối, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu muối sạch cho tiêu dùng và cung ứng cho ngành công nghiệp.
Đa dạng hóa sản phẩm sau thu hoạch, thu hồi các sản phẩm nước ót, thạch
cao bên cạnh muối nguyên liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Đối với ngành nông - lâm nghiệp:
Phát triển mạnh công tác trồng và chăm sóc rừng để tăng nguồn thu lâm
sản, nhất là các sản phẩm có giá trị cao.
Phát triển sản phẩm lâm nghiệp đa dạng kết hợp với bảo vệ môi trường
sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, làm cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm kinh
tế biển khác như sản phẩm du lịch sinh thái, thủy hải sản,…nhằm nâng cao giá trị và
hiệu quả sản xuất.
Ngành nông nghiệp vùng ven biển cần chú trọng phát triển sản xuất hàng
hóa, tăng cường chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Đối với ngành du lịch biển:
Tăng cường đa dạng hóa sản phẩm du lịch và các loại hình kinh doanh du
lịch để khai thác tốt tiềm năng du lịch biển, hướng đến phát triển bền vững du lịch
biển trong tương lai. Phát triển mạnh các sản phẩm du lịch sinh thái, văn hóa, lịch
sử kết hợp với bảo vệ môi trường và tăng cường lợi ích về kinh tế, văn hóa, xã hội
cho địa bàn ven biển.
Phát triển tổng hợp sản phẩm du lịch biển – rừng gắn liền với tài nguyên du
lịch biển và rừng ngập mặn. Phát triển sản phẩm du lịch tại các trọng điểm khu di
tích lịch sử văn hóa như mộ và đền thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu, khu Lạc Địa – Phú
Lễ,..xây dựng các loại hình nghệ thuật như câu lạc bộ thơ, ca nhạc tài tử, khôi phục
nghề việt thư pháp trên đồ lưu niệm, bốc thuốc chữa bệnh, văn hóa ẩm thực truyền
111
thống, các hoạt động vui chơi giải trí mang đậm bản sắc xứ dừa và biển.
Phát triển các đồ lưu niệm đa dạng, độc đáo mang đậm dấu ấn địa phương,
nhất là sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa, các đặc sản vùng biển, các sản
phẩm làng nghề như báng tráng Mỹ Lồng – báng phồng Sơn Đốc, kẹo dừa, rượu
dừa, rượu Phú Lễ,…
3.4.2. Các giải pháp đào tạo, tuyển dụng lao động chất lượng cao
Để tạo được nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh
tế, tỉnh Bến Tre cần phải có chiến lược và định hướng và giải pháp phù hợp từ việc
rà soát lại lực lượng lao động phục vụ các ngành kinh tế biển, từ đó có kế hoạch đào
tạo, sử dụng, điều chỉnh nguồn nhân lực một cách hợp lý, khoa học.
Tăng cường đẩy mạnh công tác hướng nghiệp tại các trường phổ thông để
góp phần định hướng việc lựa chọn ngành nghề của học sinh phù hợp với nhu cầu
xã hội và thực tiễn, tiềm năng phát triển kinh tế địa phương, nhất là lĩnh vực kinh tế
biển như nuôi trồng thủy sản, du lịch, nông – lâm, cơ khí, quản trị kinh tế,…
Thành lập thêm các trường trung cấp, cao đẳng đào tạo đa ngành nghề,
hướng tới mở các khoa đào tạo liên quan đến kinh tế biển tại trường Đại học Bến
Tre với mục tiêu phát triển thành những khoa đào tạo chủ lực của trường.
Khuyến khích tư nhân tham gia liên kết đào tạo hoặc hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng cao nhất là lĩnh vực du lịch, nuôi trồng thủy hải sản; tăng
cường kí kết thỏa thuận sử dụng lao động qua đào tạo tại địa phương với các đơn vị,
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Có chính sách hỗ trợ đào tạo chuyên gia trong các ngành nghề kinh tế biển
để hỗ trợ địa phương trong công tác quản lý, quy hoạch và thu hút đầu tư. Tăng
cường chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, nhất là cán bộ khoa học về nuôi trồng
thủy hải sản, chế biến thủy sản, du lịch, cơ khí, tàu biển, ,…
Tăng cường nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp đào tạo
nghề cho bộ phận lao động phổ thông đang làm việc trong các ngành kinh tế biển để
góp phần nâng cao tay nghề, kĩ thuật sản xuất, đủ khả năng tiếp thu và sử dụng
công nghệ mới trong sản xuất.
112
Từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kĩ
thuật và công nhân lành nghề phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển trong
từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kì hội nhập.
Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực bổ sung, thực hiện luân chuyển, bố trí
lại đội ngũ cán bộ quản lí, các bộ khoa học kĩ thuật một cách hợp lý, khoa học giữa
các ngành kinh tế biển để tạo nên sự phát triển đồng bộ và bền vững các ngành
nghề.
3.4.3. Các giải pháp đầu tư đạt hiệu quả
Tăng cường cơ chế bắt buộc các ngành, các doanh nghiệp tham gia đầu tư
hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội bên cạnh việc đầu tư phát triển ngành.
Tăng cường thu hút đầu tư ngoài ngân sách bằng các chính sách ưu đãi về
vay vốn lãi suất thấp, ưu tiên giá thuê đất, miễm giảm thuế doanh nghiệp,.. để tạo
môi trường đầu tư thuận lợi nhằm tăng nhanh nguồn vốn đầu, khoa học kĩ thuật vào
phát triển các ngành kinh tế biển, giảm áp lực cho ngân sách địa phương.
Đầu tư, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp
chế biến. Tăng cường đầu tư vốn cho việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao
khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất hàng hóa gắn với việc đầu tư nâng cao
công suất, đổi mới công nghệ chế biến để tăng cường năng lực của công nghiệp chế
biến cho tương xứng với tiềm năng sản xuất nguyên liệu.
Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng lực lượng lao động,
tăng khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ, kĩ thuật hiện đại trong sản xuất. Đặc
biệt chú trọng đầu tư về vốn, có chính sách ưu đãi để đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ cho công tác quy hoạch, quản lý các ngành kinh tế biển và lực
lượng cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cao trực tiếp
tham gia quá trình sản xuất.
Quy hoạch, phân bố hợp lý nguồn vốn đầu tư giữa các ngành, lĩnh vực kinh
tế biển để tạo nên sự phát triển hài hòa. Bên cạnh đó, cần xây dựng kế hoạch đầu tư
theo hướng có chọn lọc, ưu tiên phát triển ngành chủ lực, nhiều lợi thế để phát triển
mạnh, trở thành ngành động lực, từng bước vực dậy các ngành giàu tiềm năng.
113
Đầu tư đổi mới từng ngành, từng lĩnh vực cho phù hợp chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế biển của tỉnh trong từng giai đoạn.
Đối với ngành thủy sản cần khuyến khích đầu tư nâng cao chất lượng đội tàu
đánh bắt bằng các giải pháp cho vay lãi suất thấp để đóng mới và hiện đại hóa trang
thiết bị tàu đánh bắt có công suất lớn (từ 90 CV trở lên) để tăng cường khả năng
khai thác hải sản ngoài khơi, hạn chế khai thác vùng ven bờ. Phát triển hậu cần song
song với phát triển hoạt động đánh bắt nhất là mô hình tàu hậu cần ra khơi cùng tàu
cá để tăng cường khả năng cung ứng dịch vụ, thu mua, bảo quản, chế biến sản phẩm
khai thác. Hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ nuôi thủy hải sản,
nhất là mô hình nuôi công nghiệp theo hướng thâm canh, bán thâm canh. Đầu tư và
tăng cường thu hút đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến thủy hải sản và tích cực
đổi mới quy trình kĩ thuật, dây chuyển sản xuất theo hướng hiện đại hóa để đa dạng
sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cung ứng tốt nhu cầu tiêu thụ.
Ngành du lịch cần được ưu tiên đầu tư và thu hút đầu tư trong, ngoài tỉnh,
đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác có hiệu quả tiềm năng theo hướng đa dạng
hóa sản phẩm và loại hình du lịch; tăng cường đầu tư hoàn thiện hệ thống lưu trú,
dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, các cửa hàng lưu niệm với các đặc sản mang dấu
ấn riêng của địa phương tại các điểm, khu du lịch biển.
Đối với ngành muối cần tăng cường đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ
tầng vùng muối; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất muối
sạch; từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề muối thay cho hình thức thủ
công truyền thống.
Đối với ngành lâm nghiệp cần tăng cường nguồn vốn đầu tư có hiệu quả việc
chăm sóc, trồng và khai thác rừng trên địa bàn tỉnh.
Có kế hoạch quy hoạch, đầu tư xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp
cơ khí, đóng và sửa chữa tàu thuyền trong thời gian tới, phấn đấu đến năm 2020,
tỉnh có ít nhất một cảng biển đi vào hoạt động để làm cơ sở phát triển ngành giao
thông vận tải biển, khai thác tốt hơn tiềm năng kinh tế biển của địa phương.
114
Tăng cường đầu tư liên ngành, liên vùng để cùng đầu tư và sử dụng chung
kết cấu hạ tầng như điện, nước, đường giao thông,.. để giảm chi phí vừa hoàn thiện
được cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, việc đầu tư phát triển ngành này có khi là cơ sở để
phát triển ngành khác, ví dụ trồng và chăm sóc rừng giúp phát triển các loại hình du
lịch sinh thái gắn với biển, rừng. Các địa phương có cùng điều kiện tương đồng cần
hợp tác chặt chẽ để phát triển các ngành kinh tế biển. Ví dụ có thể mở rộng vùng
quản lý, khai thác nghêu theo tiêu chuẩn MSC sang các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh,
Thành phố Hồ Chí Minh,..; xây dựng thương hiệu cá tra đồng bằng sông Cửu Long
hay du lịch sinh thái miệt vườn vùng Tây Nam Bộ,…
Sở Kế hoạch đầu tư cần tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư nhằm đa
dạng hóa các hình thức và thu hút đầu tư mạnh mẽ vào các ngành, các lĩnh vực kinh
tế biển của tỉnh. Theo đó, cần đăng tải đầy đủ thông tin, rõ ràng, chính xác; quảng
bá thông tin rộng rãi và kêu gọi thu hút đầu tư một cách có hiệu quả từ các doanh
nghiệp trong và ngoài địa phương.
Phát triển mạnh thị trường tài chính, đẩy nhanh xã hội hóa trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, văn hóa - thể thao; khuyến khích các hình thức đầu tư xây dựng và
vận hành, chuyển giao các kết cấu hạ tầng.
Tăng cường các biện pháp kiểm tra tiến độ thực hiện các công trình, dự án
đầu tư trọng điểm có quy mô lớn và tổ chức đánh giá hiệu quả đầu tư trên địa bàn
tỉnh theo định kì để kịp thời điều chỉnh, rút kinh nghiệm, xử lý sai phạm.
Ngoài ra, cần đầu tư phát triển mạnh mẽ, toàn diện ba huyện ven biển. Đầu
tư hoàn chỉnh hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước,..xây dựng các
chương trình, dự án cải tạo và bảo vệ môi trường có hiệu quả bên cạnh các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội.
3.4.4. Các giải pháp bảo vệ môi trường
Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường.
Lồng ghép các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội với các chương trình,
biện pháp bảo vệ môi trường.
115
Đầu tư khôi phục 5.100 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng khu vực bãi
triều, cửa sông ven biển nhằm tạo sự cân bằng sinh thái, lọc sạch nước biển, hạn chế
các yếu tố gây ô nhiễm môi trường.
Quy hoạch vùng nuôi thủy sản, vùng phát triển du lịch, phát triển công
nghiệp thích hợp. Bắt buộc các cơ sở kinh doanh trên địa bàn có đánh giá tác động
môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác
thả đúng tiêu chuẩn.
Kiểm soát dịch bệnh tại vùng nuôi trồng thủy sản một cách kịp thời và hiệu
quả để tránh dịch bệnh lây lan làm ô nhiễm môi trường nước các vùng khác.
Điều tra, xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường biển, ven biển. Kiểm tra,
đánh giá tác động môi trường theo định kì để cập nhật thông tin, nắm rõ hiện trạng,
diện biến môi trường để có kế hoạch đối phó kịp thời.
Xây dựng các phương án sẵn sàng đối phó với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, thiên tai, mưa bão,..Đầu tư xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, khí tượng, xây
dựng khu tránh trú bão cho tàu thuyền tại các vùng biển và tăng cường xây dựng hệ
thống tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc xử lý, bảo vệ môi trường của các đơn vị
sản xuất. Xây dựng cơ sở pháp lý đủ mạnh để xử lý các vi phạm, tăng hiệu quả bảo
vệ và quản lý môi trường như quy định mức xử phạt hành chính nặng đối với các cơ
sở vi phạm luật bảo vệ môi trường, đồng thời bắt buộc khắc phục sự cố vi phạm.
Tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân, kêu gọi cộng đồng cùng tham
gia bảo vệ môi trường.
Đào tạo và nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường. Bên cạnh đó, cần tăng cường yếu tố khoa học, công nghệ trong
bảo vệ và quản lý môi trường.
Quản lý tốt việc khai thác đi đôi với việc bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên
phát triển kinh tế biển như tài nguyên thủy sản, tài nguyên du lịch,..
116
3.4.5. Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lí kinh tế biển
Đẩy mạnh điều tra cơ bản, xác định trữ lượng, khả năng cho phép khai thác
của tài nguyên hải sản, tài nguyên rừng, tài nguyên du lịch,..xây dựng các hệ thống
dự báo biến đổi dòng chảy, xâm nhập mặn, diễn biến môi trường,… để làm cơ sở dự
báo, quy hoạch, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế biển.
Hoàn thiện hệ thống chính sách, bộ máy và cơ chế đủ mạnh để quản lý kinh
tế biển từ cấp tỉnh cho đến cấp huyện, xã. Thay đổi tư duy quản lý, có tầm nhìn và
chiến lược phát triển kinh tế biển lâu dài trên cơ sở nhìn nhận các ngành, lĩnh vực
kinh tế biển có mối quan hệ mật thiết, dây chuyền với nhau và phát triển theo xu
hướng của khu vực và thế giới.
Tăng cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nâng cao trình độ đội ngũ quản lý,
tích cực đầu tư đào tạo nguồn cán bộ bổ sung có chất lượng cao, chuyên môn tốt.
Sắp xếp, luân chuyển đội ngũ cán bộ một cách hợp lý giữa các ngành, các lĩnh vực,
trẻ hóa đội ngũ quản lý.
Quản lý tốt việc khai thác nguồn lợi hải sản kết hợp với bảo vệ, tái tạo nguồn
lợi trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản. Quản lý đội tàu thuyền đánh bắt, phương tiện
kĩ thuật đánh bắt đạt tiêu chuẩn, quy định loài thủy hải sản nào được phép khai thác,
loài nào hạn chế hoặc không được khai thác để bảo tồn, hạn chế tối đa và cấm khai
thác đối với các phương tiện dùng biện pháp đánh bắt mang tính hủy diệt nguồn lợi
và ô nhiễm môi trường như cào điện, dùng xung điện, muối xianua,…Quản lý và
cấp giấy phép hoạt động đối với tàu thuyền đủ tiêu chuẩn theo hướng tăng cường
tàu có công công suất lớn, khai thác ngoài khơi, hạn chế tàu đánh bắt nhỏ có công
suất dưới 20 CV để bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven bờ.
Tăng cường thành lập các đội tàu đánh bắt xa bờ để tăng năng lực khai thác,
đảm bảo an toàn trên biển.
Quản lý tốt cơ sở hạ tầng, xử lý môi trường các vùng nuôi trồng thủy hải sản
và tại các cảng cá, chợ thủy sản, nhà máy chế biến thủy hải sản, để đảm bảo việc
phát triển theo đúng quy hoạch và tuân thủ tốt các yêu cầu sản xuất kết hợp bảo vệ
môi trường, làm cơ sở cho việc phát triển bền vững.
117
Phát triển và hiện đại hóa dịch vụ hậu cần, nhất là hình thức tàu hậu cần ra
khơi cùng tàu cá, tăng cường năng lực của các nhà máy, cơ sở chế biến thủy sản để
sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí nguồn nguyên liệu sản xuất. Quản lý chặc chẽ quy
trình nuôi trồng và chế biến các sản phẩm thủy hải sản để đảm bảo chất lượng, đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm soát dư lượng hóa chất trong sản phẩm, đảm
bảo nguồn gốc sản phẩm rõ ràng góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng cường quản lý tài nguyên du lịch biển, tránh khai thác lạm dụng nguồn
tài nguyên biển gây tác động xấu đến môi trường và cạn kiệt tài nguyên, không thể
phục hồi. Phát triển mạnh các loại hình du lịch sinh thái trên cơ sở đảm bảo cân
bằng sinh thái và bảo vệ môi trường tốt nhất.
Xây dựng và quản lý các chương trình, dự án đảm bảo an toàn cho hoạt động
kinh tế biển tại địa bàn như xây dựng hệ thống hệ thống dự báo thiên tai, diễn biến
môi trường, đảm bảo tốt công tác cứu nạn, cứu hộ trên biển.
Có sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong quản lý, phát triển kinh tế biển
như tăng cường các hoạt động khai thác trên biển với đảm bảo an ninh, chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc; đảm bảo tốt việc bảo vệ, tái tạo tài nguyên rừng; quản lý tốt
chất lượng môi trường để phát triển mạnh du lịch sinh thái và nuôi trồng thủy
sản,…Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các địa phương có biển trong vùng
đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ trong việc phát triển tuyến, tour du
lịch liên vùng, phân chia ngư trường khai thác,…
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên
tiến trong việc quản lý các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển, đảm bảo việc phát triển
kinh tế phải đi đôi với lợi ích xã hội và biện pháp hiệu quả bảo vệ môi trường sinh
thái. Ví dụ, ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên
tài nguyên biển.
118
119
3.5. Kiến nghị
3.5.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Bến Tre
- Thành lập cơ quan quản lý, phát triển kinh tế biển trực thuộc UBND tỉnh Bến
Tre. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý; hoàn thiện hệ thống chính
sách, cơ chế pháp lý về khai thác, bảo vệ tài nguyên môi trường biển.
- Thực hiện điều tra, thống kê, đánh giá tài nguyên biển của tỉnh một cách đầy
đủ và chi tiết làm cơ sở cho quy hoạch phát triển kinh tế biển về cơ cấu các
ngành kinh tế biển, không gian kinh tế biển phù hợp trong từng giai đoạn
phát triển.
- Chỉ đạo triển khai, giám sát và báo cáo dịnh kì việc thực hiện “Đề án phát
triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020” để có sự bổ
sung, điều chỉnh các chỉ tiêu của đề án kịp thời.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trường Đại học, cao đẳng, trung tâm dạy
nghề trên địa bàn tỉnh; đa dạng hóa hình thức đào tạo từ cơ bản đến chuyên
sâu, đào tạo từ xa, tại chức. Tăng cường các chính sách ưu đãi về tài chính,
phúc lợi để thu hút nhân tài, lao động có chất lượng cao từ các trường đại
học, các địa phương về phục vụ phát triển kinh tế biển tỉnh nhà.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi, xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ về quy hoạch, giải tỏa, xây dựng hạ tầng
cơ bản,..để thu hút mạnh mẽ phát triển kinh tế biển từ các nhà đầu tư trong và
ngoài tỉnh, đầu tư nước ngoài,..
- Chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện bố trí lại dân cư và lao động
vùng ven biển cho hợp lý.
- Tăng cường phát triển bền vững kinh tế biển bằng cách kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi
trường vùng biển, ven biển. Theo đó, UBND tỉnh cần có cơ chế quy định rõ
quyền lợi và trách nhiệm của các đơn vị tham gia các hoạt động kinh tế biển
phải gắn với trách nhiệm đầu tư phát triển văn hóa, xã hội và cải thiện môi
trường vùng nơi sản xuất.
120
- UBND cần tăng cường các biện pháp duy trì cho người dân vay vốn với lãi
suất thấp, điều tiết giá cả thị trường trên địa bàn tỉnh một cách hợp lý để đảm
bảo quyền lợi người sản xuất và người tiêu dùng trong các sản phẩm, dịch vụ
kinh tế biển của tỉnh.
- Tăng cường xúc tiến, đầu tư, quảng bá, mở rộng thị trường cho các sản phẩm
kinh tế biển của tỉnh.
- Đua vấn đề bảo vệ, cải tạo môi trường và tài nguyên biển vào quy hoạch kinh
tế xã hội và các quy hoạch phát triển kinh tế biển của tỉnh một cách chi tiết,
cụ thể nhất.
- Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, hiện đại hóa trong việc quản lý,
các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển nhất là quản lý, bảo vệ môi trường và tài
nguyên biển.
3.5.2. Kiến nghị đối với ngành Thủy sản Bến Tre
- Ngành thủy sản cần tiếp tục khuyến khích và ưu tiên đầu tư phát triển ngành
khai thác thủy sản theo hướng tăng cường khai thác xa bờ. Theo đó, cần duy
trì việc hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp để đóng mới và trang bị hiện đại tàu có
công suất lớn, ưu tiên tàu có công suất lớn hơn 300 CV; khoanh nợ cho ngư
dân làm ăn thua lỗ, bị thiệt hại do thiên tai,..
- Tăng cường công tác quản lý hoạt động khai thác như hạn chế hoặc không
cấp phép, cho tàu thuyền nhỏ có công suất nhỏ hơn 20CV để hạn chế khai
thác gần bờ. Ban hành văn bản cấm hoặc hạn chế khai thác đối với một số
khu vực, một số loài thủy sản có nguy cơ bị cạn kiệt. Quản lý giấy phép,
phương tiện kĩ thuật đánhh bắt chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các kĩ thuật
khai thác có tính lạm sát nguồn lợi như dung mìn, xung điện, muối xianua,
mắc lưới nhỏ hơn kích thước quy định,…
- Ngành Thủy sản cần tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ chuyển đổi
ngành nghề cho ngư dân đánh bắt gần bờ.
- Khuyến khích ngư dân thành lập các đội tàu khai thác trên biển để tăng
cường hỗ trợ và đảm bảo an toàn.
121
- Nghiên cứu thành lập mô hình đội tàu hậu cần ra khơi cùng tàu cá để nâng
cao hiệu quả khai thác và bảo quản sản phẩm.
- Đối với lĩnh vực nuôi trồng, cần tăng cường quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng
cho nuôi trồng. Phổ biến rộng rãi các quy hoạch nuôi thủy sản trên các
phương tiện truyền thông, báo đài để người dân có điều kiện tiệp cận, tránh
phát triển nuôi trồng tràn lan, không thuộc vùng quy hoạch vì thiếu kiến
thức.
- Kiểm tra, giám sát việc nuôi thủy sản theo đúng vùng quy hoạch, ban hành
lịch thời vụ cho từng đối tượng nuôi để có biện pháp chủ động ngăn ngừa
dịch bệnh lây lan và đảm bảo kiểm soát được chất lượng môi trường vùng
nuôi.
- Chú trọng việc nghiên cứu, phát triển các dối tượng thủy sản nuôi mới có giá
trị kinh tế cao và có lợi thế xuất khẩu.
- Ban hành quy định kiểm soát dư lượng hóa chất trong sản phẩm thủy sản
nuôi trồng để đảm bảo uy tín và chất lượng sản phẩm.
- Đầu tư, nhân rộng các mô hình nuôi cá da trơn đạt tiêu chuẩn GlobalGAP và
nghêu đạt chứng nhận MSC về chất lượng sản phẩm.
- Tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá, mở rộng thị trường cho sản phẩm
thủy sản tình Bến Tre.
122
KẾT LUẬN
1. Luận văn với đề tài: “Hiện trạng và định hướng phát triển bền vững kinh tế
biển ở tỉnh Bến Tre” đã hoàn thành với 117 trang nội dung, 16 bảng biểu và hình
ảnh. Các số liệu và hình ảnh đều trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và góp phần thể
hiện nội dung luận văn.
2. Tác giả đã đúc kết và xây dựng cơ sở lý luận về kinh tế biển và phát triển
kinh tế biển bền vững. Trong đó, tác giả chú trọng tìm hiểu định nghĩa, cơ cấu
ngành, cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển; mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của
phát triển bền vững, các nguyên tắc, tiêu chí phát triển bền vững và các chỉ số đo
lường phát triển kinh tế biển bền vững. Hệ thống cơ sở lý luận là cơ sở cho việc tiến
hành nghiên cứu các nội dung về phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre.
3. Bến Tre là một trong 28 tỉnh, thành giáp biển của Việt Nam, có tiềm năng
phát triển kinh tế biển khá đa dạng, có sự kết hợp các nguồn lực tự nhiên và nguồn
lực kinh tế - xã hội. Các nguồn lực tự nhiên là tiền đề quan trọng cho việc phát triển
kinh tế biển, bao gồm các nguồn lực quan trọng như vị trí bờ biển với 65 km đường bờ biển, hơn 20.000 km2 vùng lãnh hải; nguồn tài nguyên thủy sản phong phú và
dồi dào từ các ngư trường và vùng biển Nam Bộ; tài nguyên rừng có vai trò quan
trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái và tạo cảnh quan; tài nguyên du lịch biển
khá đa dạng. Bên cạnh đó, các nguồn lực kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định sự
phát triển kinh tế biển của tỉnh, bao gồm nguồn nhân lực ven biển dồi dào; hệ thống
chính sách, chủ trương phát triển kinh tế biển của tỉnh ngày càng hiệu quả, thiết
thực; cơ sở hạ tầng kĩ thuật ngày càng hoàn thiện, khả năng thu hút đầu tư ngày
càng cải thiện,…
4. Kinh tế biển tỉnh Bến Tre phát triển liên tục qua các giai đoạn 1996 – 2000
và 2001 – 2010. Giai đoạn 1996 – 2000 là giai đoạn kinh tế biển tỉnh Bến Tre bắt
đầu có sự khởi sắc. Giai đoạn 2001 – 2010, kinh tế biển của tỉnh phát triển mạnh,
chuyển dịch rõ rệt theo hướng hiện đại và bền vững. Đồng thời, sự phát triển mạnh
mẽ của kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 đã tác động rất lớn đến tình
123
hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn ba huyện ven biển nói riêng và toàn tỉnh
nói chung.
5. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010
chưa thật sự bền vững, vẫn còn nhiều hạn chế cần được quan tâm giải quyết kịp thời
và hiệu quả để đạt được sự phát triển bền vững thật sự. Các tồn tại chủ yếu gồm cơ
cấu kinh tế biển phát triển chưa đồng bộ; tài nguyên biển chưa được sử dụng một
cách hiệu quả, nhất là tài nguyên du lịch biển. Bên cạnh đó, các hiệu quả về văn hóa
– xã hội vùng ven biển chưa bền vững, nhất là tỉ lệ hộ nghèo giảm nhưng khả năng
tái nghèo cao; chất lượng môi trường vùng biển, ven biển chưa được cải thiện
nhiều.
6. Dựa vào hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre giai đoạn 1996 –
2000 và giai đoạn 2001 – 2010 cùng với các chủ trương, chính sách phát triển kinh
tế biển của tỉnh, tác giả đã đưa ra một số chỉ số dự báo phát triển kinh tế biển của
tỉnh đến năm 2020. Đồng thời đề xuất các định hướng và giải pháp phát triển bền
vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre. Theo đó, tác giả tập trung vào các lĩnh vực như phát
triển sản phẩm kinh tế biển; đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực hiệu quả; tăng
cường đầu tư về vốn, khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế biển; chú trọng bảo
vệ môi trường và nâng cao năng lực, chất lượng quản lý kinh tế biển.
124
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bá, Vũ Chí Hiếu, Võ Đình Long (2006), Tài nguyên môi trường và….
phát triển bền vững, Nxb Khoa học và Kĩ thuật, Hà Nội.
2. Cục Thống kê Bến Tre (2001, 2005, 2011), Niên giám Thống kê năm 2000,
2004, 2010, Bến Tre.
3. Nguyễn Dược, Trung Hải (2006), Sổ tay thuật ngữ địa lý, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
4. Nguyễn Đình Hòe (2007), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
5. Lê Văn Khoa, Đoàn Văn Tiến, Nguyễn Song Tùng, Nguyễn Quốc Việt (2010),
Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Lê Xinh Nhân (2010), Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản
Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Địa lý học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Tp.HCM.
7. Đặng Văn Phan (20067), Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam, Trường
Đại học Dân lập Cửu Long (lưu hành nội bộ).
8. Nguyễn Thanh Phương, Châu Quang Hiền, Tăng Văn Dom, Cao Minh Sơn
(2002), Địa lý tỉnh Bến Tre – tập 1, lưu hành trong tỉnh.
9. Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre (2010), Quy hoạch nuôi
thủy sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2020, Bến Tre.
10. Đỗ Văn Thông (2012), “Thủy sản Bến Tre – xứng đáng với quê hương đồng
khởi”, Tạp chí Thương mại Thủy sản, số (149).
11. Nguyễn Thụy Ngọc Trang (2011), Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát
triển kinh tế biển tỉnh Ninh Thuận, Luận văn Thạc sĩ Địa lý học, Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
12. Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2006), Địa lý kinh tế xã hội
đại cương, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
13. UBND tỉnh Bến Tre (2007), Đề án phát triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh
Bến Tre đến năm 2020, Bến Tre.
125
14. UBND tỉnh Bến Tre (2011), Báo cáo tổng kết và phương hướng phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Bến Tre từ năm 2003 đến 2010, Bến Tre.
15. UBND tỉnh Bến Tre, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre
đến năm 2020, Bến Tre.
16. Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
17. Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng kết
khoa học công nghệ đề tài: Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế - xã hội
dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực trọng
điểm, Hà Nội.
18. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2007), Báo cáo hội
thảo Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam, Hà Nội.
19. www.bentre.gov.vn : Trang thông tin điện tử UBND tỉnh Bến Tre
20. www.congthuongbentre.gov.vn : Trang thông tin điện tử Sở Công thương tỉnh
Các trang website:
21. www.vietnamtourism.gov.vn : Trang thông tin điện tử Tổng cục Du lịch
Bến Tre
22. www.cpv.org.vn : Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
Việt Nam
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kiến nghị về các tiêu chí PTBV cấp quốc gia và địa phương
Tiêu chế PTBV cấp địa phương Tiêu chí PTBV cấp quốc gia
MỤC TIÊU KINH TẾ
1. GDP/người 1. Thu nhập bình quân/người, ước tính
bằng tiền tệ
2. Tốc độ tăng , giảm GDP/người 2. Biến động thu nhập bình quân/người,
ước tính so với năm trước (%)
3.Cơ cấu GDP theo nông nghiệp, công 3. Ước tính cơ cấu thu nhập theo nông
nghiệp, dịch vụ nghiệp, công nghiệp, dịch vụ (%)
4. Nợ của quốc gia tính bằng tiền tệ và 4. Tổng số nợ của dân, tính bằng số
% GDP tiền/hộ
5.Diện tích đất nông nghiệp/người, tăng,
giảm/năm (%)
6. Bình quân thu nhập do nghề phi nông
nghiệp, tính bằng tiền/hộ/năm
TIÊU CHÍ XÃ HỘI
1. Tổng số dân (người) 1.Tổng số dân, tổng số hộ
2. Tốc độ tăng dân số (%/năm) 2. Tốc độ tăng dân số (% năm)
3. Chỉ số phát triển con người (HDI)
4. Tỉ lệ hộ nghèo trong tổng số dân 3. Tỉ lệ hộ nghèo trong tổng số dân
5. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm 4. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm
6. % dân di cư trong nước/năm 5. % dân di cư đến và đi/năm
7. Số năm đi học trung bình của người 6. Số học sinh, sinh viên (mẫu giáo, Tiểu
lớn học, THCS, THPT, đại học)
8. Số bác sĩ, y sĩ/10.000 dân 7. % hộ được sử dụng dịch vụ y tế
9. % dân được sử dụng nước sạch 8. % hệ được dử dụng nước sạch
10. % dân được sử dụng điện 9. % hộ được sử dụng điện
11. Số điện thoại/10.000 dân 10. % hộ có điện thoại
12. Tỉ lệ dân đô thị/tổng số dân (%)
TIÊU CHÍ MÔI TRƯỜNG
1.Diện tích nhà ở/người 1.Diện tích nhà ở/người
2. Diện tích thổ cư/người 2. Diện tích thổ cư/người
3. Chất lượng môi trường không khí 3. Chất lượng môi trường không khí đô
đô thị và KCN so với TCVN (nhìn thị (xấu, trung bình, tốt)
chung tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)
4. Chất lượng môi trường không khí 4. Chất lượng môi trường không khí
nông thôn so với TCVN (nhìn chung nông thôn (xấu, trung bình, tốt)
tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)
5. Chất lượng môi trường nước sông, 5. Chất lượng môi trường nước (xấu,
hồ tự nhiên so với TCVN (nhìn chung trung bình, tốt)
tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)
6. Tỉ lệ rác thải rắn được thu gom, xử 6. 6. Tỉ lệ rác thải rắn được thu gom, xử
lý lý
7.Diện tích đất nông nghiệp/người
tăng, giảm/năm (%)
8.Độ che phủ rừng, tăng, giảm/năm 7. Độ che phủ rừng, tăng, giảm/năm (%)
(%)
9. Diện tích gieo trồng được tưới
10.Sản lượng thủy sản tấn/người/năm: 8. Sản lượng thủy sản tấn/người/năm:
tăng, giảm/năm (%) tăng, giảm/năm (%)
11. Tỉ lệ diện tích các khu bảo tồn
thiên nhiên/tổng diện tích lãnh thổ (%)
12. Tổng lượng xả thải các khí nhà
kính/năm (tấn)
13. Tổng lượng sử dụng các khí làm
thủng tầng Ozon/năm (tấn)
14. Tổng thiệt hại do thiên tai và sự cố 9. Tổng thiệt hại do thiên tai và sự cố
môi trường/năm bằng tiền tệ, thiệt hại môi trường/năm
về nhân mạng/năm
TIÊU CHÍ VỀ ĐÁP ỨNG
1. Có chính sách/ chiến lược/kế hoạch
quốc gia về PTBV
2. Ngân sách Nhà nước chi cho
nghiên cứu, triển khai về PTBV
3. Số cán bộ trong biên chế nhà nước
về bảo vệ môi trường
4. Số hiệp định thỏa thuận đa phương
và song phương mà Việt Nam tham
gia
1. Nâng cao nhận thức về PTBV qua
truyền thông, giáo dục và đào tạo (làm
tốt, trung bình, kém, không có)
2. Phong trào bảo vệ môi trường, PTBV
có kết quả thiết thực (làm tốt, trung bình,
kém, không có)
3. Quy ước bảo vệ môi trường của
xã/làng (làm tốt, trung bình, kém, không
có)
Nguồn: Viện Môi trường và Phát triển bền vững, năm 2003 [5]
Phụ lục 2: Các di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia của tỉnh Bến Tre
Tên di tích Địa điểm Thời gian công nhận
Xã An Đức, huyện Ba Tri 27/04/1990 1. Di tích Mộ và đền thờ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu
2. Di tích nghệ thuật đình Phú Lễ Xã Phú Lễ, huyện Ba Tri 07/01/1993
07/01/1993 3. Di tích nghệ thuật đình Bình Hòa Xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm
07/10/1993 Xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam 4. Di tích Đồng Khởi – nơi nổ ra phong trào Đồng Khởi đầu tiên ở Bến Tre
5. Di tích chùa Tuyên Linh 20/07/1994 Xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam
23/12/1995 6. Di tích Căn cứ Khu Ủy Sài Gòn – Gia Định Xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc
23/12/1995 7. Di tích Đầu cầu tiếp viện vũ khí Bắc - Nam Xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú
8. Di tích Ngã Ba cây Da Đôi Xã Tân Xuân – huyện Ba Tri 07/05/1997
07/05/1997 9. Di tích mộ và đền thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng Xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm
10. Di tích nhà ông Mười Trác 07/05/1997 Xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm
Xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri 24/01/1998 11. Di tích mộ nhà giáo Võ Trường Toản
19/01/2001 12. Di tích cuộc thảm sát năm 1947 ở Cầu Hòa Xã Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm
13. Di tích đình Tân Thạch 28/12/2001 Xã Tân Thạch, huyện Châu Thành
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre [19]
Phụ lục 3: Các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư tại địa bàn ba huyện ven biển, còn
hiệu lực đến năm 2020
Tên dự án Địa điểm Mục đích Diện tích Vốn đầu tư
LĨNH VỰC DU LỊCH
6 ha 1. Khu Du lịch sinh thái Vàm Hồ xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri 20 triệu USD
Khu du lịch sinh thái, vui chơi gải trí kết hợp tham quan khu bảo tồn chim Vàm Hồ
50 ha Khu du lịch biển 2. Khu Du lịch sinh thái Cồn Hố 75 triệu USD
60 ha 3. Khu Du lịch sinh thái biển Thới Thuận 10 triệu USD Khu du lịch sinh thái biển
6,3 ha 4. Khu Du lịch sinh thái biển Thừa Đức 10 triệu USD Khu du lịch sinh thái biển
300 ha 5. Khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn 30 triệu USD
Xã An Thủy, huyện Ba Tri Xã Thới Thuận, huyện Bình Đại Xã Thừa Đức, huyện Bình Đại Xã Thạnh Hải, Thạnh Phong huyện Thạnh Phú Thành lập khu du lịch sinh thái – lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển.
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP – XÂY DỰNG
10 ha 1. Cụm công nghiệp thị trấn Thạnh Phú 37.186 tỉ đồng Thị trấn Thạnh Phú, huyện Thạnh Phú
20,6 ha 2. Cụm công nghệp thị trấn An Đức Thị trấn An Đức, huyện Ba Tri
200 ha 3. Thành lập làng cá An Thủy xã An Thủy, huyện Ba Tri 50 triệu USD
Sản xuất tiểu thủ công nghệp, may mặc, chế biến thủy sản Chế biến thủy sản, may mặc, tiểu thủ công, công nghệp phụ trợ,.. Khu dân cư đô thị, khu chế biến và phục vụ hậu cần ngành thủy sản.
10 triệu USD 4. Dự án xây dựng cảng biển Thới Thuận Xây dựng cảng biển, nhà máy sửa chữa tàu thuyền,..
Xã Thới Thuận, xã Bình Thắng huyện Bình Đại
Nguồn: Tổng cục Du lịch, UBND tỉnh Bến Tre [22] [19]
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre [19]
Phụ lục 4: