BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Tám

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN

Ở TỈNH BẾN TRE

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Tám

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN

Ở TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành: ĐỊA LÝ HỌC (TRỪ ĐLTN) Mã số: 60.31.95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. TRẦN VĂN THÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Võ Thị Tám

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Địa lý, trường Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, nhiệt tình hỗ trợ và giúp tôi

định hướng luận văn hợp lý, thiết thực.

Tôi xin cảm ơn Phòng Sau đại học, thư viện nhà trường đã tạo mọi điều kiện

thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc của mình đến TS. Trần Văn

Thông – Giảng viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh – người

hướng dẫn khoa học đã nhiệt tình góp ý, chỉ bảo, tạo nhiều điều kiện thuận lợi giúp

tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu, công

trình nghiên cứu của các cơ quan, đơn vị và các tác giả khác. Tôi xin chân thành

cảm ơn các cơ quan, đơn vị và các tác giả mà tôi đã sử dụng tư liệu trích dẫn và

tham khảo trong luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh, Cục Thống kê, Sở Nông

nghiệp & Phát triển nông thôn, Sở Công Thương tỉnh Bến Tre và các phòng, ban

của các cơ quan đã rất nhiệt tình cung cấp thông tin tư liệu, tạo điều kiện thuận lợi

giúp tôi thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã

giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Võ Thị Tám

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các bảng biểu, hình ảnh

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

KINH TẾ BIỂN ......................................................................................... 8

1.1. Cơ sở lí luận về phát triển bền vững kinh tế biển .................................................... 8

1.1.1. Biển ............................................................................................................ 8

1.1.1. Kinh tế biển .............................................................................................. 10

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển ................................. 14

1.1.3. Phát triển kinh tế biển bền vững .............................................................. 16

1.2. Một vài nét về hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển trên thế giới và khu

vực .................................................................................................................... 29

Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN TỈNH

BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2001 – 2010 ...................................................... 33

2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre ............................................... 33

2.1.1. Các nguồn lực tự nhiên ............................................................................ 34

2.1.2. Các nguồn lực kinh tế - xã hội: ................................................................ 42

2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre ..................................................... 49

2.2.1. Giai đoạn trước năm 2000 ....................................................................... 49

2.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010 ............................................................................. 52

2.3. Phân tích ảnh hưởng của sự phát triển bền vững kinh tế biển đến sự phát triển

kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre ......................................................................... 83

2.3.1. Lợi ích kinh tế .......................................................................................... 83

2.3.2. Lợi ích văn hóa – xã hội .......................................................................... 85

2.3.3. Bảo vệ môi trường ................................................................................... 87

2.4. Những vấn đề cần quan tâm đến phát triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh Bến Tre ........................................................................................................................... 88

2.5. Tóm tắt chương .......................................................................................................... 91

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH

TẾ BIỂN TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020 ......................................... 94

3.1. Các cơ sở đưa ra định hướng .................................................................................... 94

3.1.1. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của quốc gia và vùng .... 94

3.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre ............ 94

3.2. Các chỉ số dự báo ....................................................................................................... 96

3.2.1. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển các ngành kinh tế biển ................ 96

3.2.2. Các chỉ số dự báo phát triển nguồn nhân lực ......................................... 100

3.2.3. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của ba huyện ven biển ................................................................................................................... 101

3.2.4. Các chỉ số dự báo tình hình đầu tư ........................................................ 102

3.3. Các định hướng phát triển ....................................................................................... 103

3.3.1. Phát triển sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm .................................................................................. 103

3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao ......................................... 104

3.3.3. Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa ............................................................ 104

3.3.4. Bảo vệ môi trường biển ......................................................................... 105

3.3.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển .......................... 106

3.4. Các giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững .................................................... 106

3.4.1. Các giải pháp phát triển sản phẩm kinh tế biển ..................................... 107

3.4.2. Các giải pháp đào tạo, tuyển dụng lao động chất lượng cao ................. 111

3.4.3. Các giải pháp đầu tư đạt hiệu quả .......................................................... 112

3.4.4. Các giải pháp bảo vệ môi trường ........................................................... 114

3.4.5. Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lí kinh tế biển .... 116

3.5. Kiến nghị ................................................................................................................... 119

3.5.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Bến Tre .................................................. 119

3.5.2. Kiến nghị đối với ngành Thủy sản Bến Tre ........................................... 120

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 : Dân số 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2000 – 2009 .......................... 41

Bảng 2.2 : Trình độ chuyên môn kĩ thuật của dân số từ 15 tuổi trở lên ở các

huyện ven biển tỉnh Bến Tre năm 2009 .............................................. 42

Bảng 2.3 : GDP và giá trị sản xuất ngành thủy sản tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010 ... 51

Bảng 2.4 : Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2005 – 2010 .... 53

Bảng 2.5 : Giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản tỉnh Bến Tre theo giá so

sánh, 2001 – 2010 ................................................................................ 53

Bảng 2.6 : Sản lượng khai thác thủy sản phân theo huyện, 2005 – 2010 ............. 57

Bảng 2.7 : Sản lượng cá biển đánh bắt phân theo huyện năm 2010 ..................... 58

Bảng 2.8 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010 ................. 63

Bảng 2.9 : So sánh GDP kinh tế vùng ven biển với GDP toàn tỉnh,

2000 – 2010 ......................................................................................... 82

Bảng 3.1 : Dự báo một số chỉ tiêu ngành nuôi thủy sản ba huyện ven biển

tỉnh Bến Tre đến năm 2020 ................................................................ 94

Bảng 3.2 : Dự báo các chỉ tiêu phát triển công nghiệp chế biến thủy hải sản

ba huyện ven biển đến năm 2020 ........................................................ 96

Bảng 3.3 : Dự báo các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp ba huyện ven biển tỉnh

Bến Tre đến năm 2020 ........................................................................ 96

Bảng 3.4 : Dự báo dân số và lao động ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến

năm 2020 ............................................................................................. 98

Hình 2.1 : Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản của tỉnh Bến Tre,

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

2001 – 2010 ........................................................................................... 52

Hình 2.2 : Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản khai thác tỉnh Bến Tre,

2001 -2010 ............................................................................................. 56

Hình 2.3 : Biểu đồ thể hiện sản lượng tôm, cá nuôi tỉnh Bến Tre,

2005 – 2010 ........................................................................................... 65

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CMKT : Chuyên môn kĩ thuật

CV : Mã lực hay sức ngựa

EM : Chế phẩm sinh học

GDP : Tổng sản phẩm quốc nội

GIS : Hệ thống thông tin địa lý

GlobalGAP : Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu

ICOR : Tỉ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng

IUCN : Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế

KV : Khu vực

MSC : Chứng nhận sản phẩm sinh thái của Hội đồng bảo tồn Biển quốc tế

NTS : Nuôi thủy sản

PTBV : Phát triển bền vững

TC, BTC : Thâm canh, bán thâm canh

TTBQ : Tăng trưởng bình quân

UBND : Ủy ban nhân dân

UNEP : Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã có những bước phát triển

mạnh mẽ, từ phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, con người từng bước chủ động, cải

tạo tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Với xu hướng dân số tăng nhanh và nhu

cầu thỏa mãn cuộc sống của con người ngày càng phong phú, đa dạng, con người đã

khai thác gần như cạn kiệt nguồn tài nguyên trên đất liền. Vì thế, con người đang

tìm cách vươn ra, khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ trong lòng biển và đại

dương. Từ đó, các hoạt động kinh tế liên quan đến việc khai thác các nguồn tài

nguyên và môi trường biển dần dần hình thành. Đó là kinh tế biển.

Kinh tế biển đã phát triển từ lâu ở các quốc gia có biển và ngày nay, nó đang

phát triển một cách vô cùng mạnh mẽ và đóng góp ngày càng quan trọng vào nền

kinh tế toàn cầu. Thế kỉ XXI được xác định là thế kỉ của biển và đại dương. Tuy

nhiên sự phát triển kinh tế biển của mỗi quốc gia không giống nhau, nó phụ thuộc

vào trình độ phát triển của các quốc gia. Và cùng với sự phát triển mạnh mẽ, những

ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của sự phát triển kinh tế biển ngày càng thể hiện rõ

nét.

Việt Nam cũng là một quốc gia giáp biển, có nhiều tiềm năng và lợi thế để

phát triển kinh tế biển. Kinh tế biển Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và ngày

càng có nhiều đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP của nước nhà, góp phần thay

đổi bộ mặt kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước.

Tỉnh Bến Tre là một trong 28 tỉnh, thành phố giáp biển của Việt Nam. Bến

Tre có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển như bờ biển dài 65 km với hơn 20.000 km2 vùng đặc quyền kinh tế; lãnh thổ được bao bọc bởi các sông lớn của hệ

thống sông Cửu Long; có hệ thống kênh rạch chằng chịt, nhiều bãi bồi, cồn nổi

thích hợp cho việc phát triển các ngành kinh tế biển như thủy sản, du lịch biển.

Những năm qua, kinh tế biển và vùng ven biển đã đóng góp hơn 33% vào cơ cấu

GDP kinh tế của tỉnh, tốc độ tăng trưởng đạt 11,34% (giai đoạn 2001 – 2010), tạo

nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

2

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có sự nghiên cứu, đánh giá một cách khách

quan, chi tiết các nguồn lực phát triển cũng như tìm hiểu hiện trạng, đánh giá hiệu

quả kinh tế biển của Bến Tre trong thời gian qua để làm cơ sở tin cậy cho việc đưa

ra các dự báo, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển trong những năm tới.

Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Hiện trạng và định hướng phát

triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh Bến Tre”. Qua đề tài, tôi mong muốn sẽ làm rõ

hơn cơ sở lí luận và thực tiễn về kinh tế biển và phát triển bền vững kinh tế biển;

đánh giá các nguồn lực; tìm hiểu hiện trạng phát triển, phân tích những tác động của

phát triển bền vững kinh tế biển với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre

và các vấn đề cần quan tâm để phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh. Bên cạnh

đó, đề ra những định hướng và giải pháp góp phần phát triển bền vững kinh tế biển

của tỉnh trong thời gian tới.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của đề tài là phân tích hiện trạng phát triển bền vững kinh tế

biển của tỉnh Bến Tre trong thời gian qua để từ đó có cơ sở xây dựng định hướng và

đề xuất các giải pháp để phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Các nhiệm vụ chính của đề tài là:

- Đúc kết các cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến phát triển bền vững

kinh tế biển

- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển bền vững kinh tế biển ở Bến

Tre trong giai đoạn 2001 – 2010

- Nêu ra các định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững kinh tế

biển của tỉnh Bến Tre đến năm 2020.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là ba huyện ven biển của tỉnh Bến

Tre.

3

Các tư liệu, số liệu sử dụng tham khảo nghiên cứu đề tài chủ yếu là giai đoạn

2001 – 2010, có sự bổ sung nguồn tư liệu, số liệu giai đoạn 1996 - 2000 để phân

tích, so sánh hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh và định hướng phát triển đến

năm 2020.

Đề tài tập trung tìm hiểu hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre

giai đoạn 2001 – 2010 và xây dựng các định hướng, giải pháp phát triển bền vững

kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020.

4. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Kinh tế biển là một bộ phận có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế của

các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đồng thời là xu hướng phát triển của

thời đại. Vì thế, ngày càng có nhiều công trình và tác giả nghiên cứu về phát triển

kinh tế biển.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển những năm gần đây rất

được chú trọng. Ở cấp quốc gia có các đề tài, công trình nghiên cứu có ý nghĩa quan

trọng như “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến

năm 2010” của Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đề tài này

đánh giá các nguồn lực và hiện trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm

1995. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra phướng hướng, giải pháp quy hoạch phát triển

cho từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế biển kết hợp với tổ chức không gian kinh tế

biển đến năm 2010 đạt hiệu quả. Thứ hai là đề tài “Cơ sở khoa học cho việc phát

triển kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một

số khu vực trọng điểm” cũng của Viện Chiến lược Phát triển, năm 2004. Qua đó, đề

tài trình bày, phân tích vai trò, vị trí, nguồn lực và thực trạng phát triển kinh tế - xã

hội dải ven biển Việt Nam; đưa ra các phương hướng và giải pháp, mô hình phát

triển điển hình cho các vùng trọng điểm của dải ven biển nước ta đến năm 2015,

tầm nhìn 2020. Thứ ba là “Hội thảo phát triển kinh tế biển ở Việt Nam” được tổ

chức năm 2000 với rất nhiều bài tham luận của các tác giả là lãnh đạo các cấp, các

ngành trong cả nước đã trình bày rất nhiều vấn đề liên quan đến nguồn lực, hiện

trạng, giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam với nhiều quan điểm và phương

4

pháp tiếp cận khác nhau. Thứ tư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Nông

nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam tổ chức Hội thảo “Tầm nhìn kinh tế biển

và phát triển thủy sản Việt Nam”, năm 2007. Kỉ yếu của hội thảo tập trung nhiều ý

kiến phân tích, đóng góp của các tác giả đối với vấn đề phát triển kinh tế biển, tổ

chức không gian kinh tế biển Việt Nam và tập trung phân tích các định hướng, giải

pháp phát triển Thủy sản như ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế biển Việt Nam.

Ở các địa phương có tiềm năng phát triển kinh tế biển như Đà Nẵng, Bình

Định, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Kiên Giang,…cũng đã xây

dựng các chương trình phát triển kinh tế biển phù hợp với điều kiện từng địa

phương. Đặc biệt, từ năm 2005 đến nay, việc nghiên cứu theo hướng phát triển bền

vững trở nên khá phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực, trong đó có kinh tế biển.

Theo đó, các chương trình, đề tài nghiên cứu đã chú trọng các định hướng và giải

pháp khai thác tốt tiềm năng để phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ, tái tạo

nguồn tài nguyên; phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng, phát

triển văn hóa – xã hội, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và bảo

vệ có hiệu quả môi trường sinh thái.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu cá nhân, các

luận văn, luận án nghiên cứu về phát triển kinh tế biển các tỉnh, thành phố ven biển

trong cả nước.

Đối với tỉnh Bến Tre, việc định hướng phát triển bền vững kinh tế biển đã

được quan tâm, chú trọng trong những năm gần đây. Năm 2007, tỉnh xây dựng

“Chương trình hành động số 11”, xây dựng “Đề án phát triển toàn diện ba huyện

ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020” để cụ thể hóa Chiến lược biển Việt Nam đến

năm 2020 cũng như có hướng phát triển hợp lý cho vùng ven biển tỉnh Bến Tre.

Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích và có

giá trị cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài của tác giả.

Tuy nhiên, các công trình, đề án nghiên cứu về phát triển bền vững kinh tế

biển của các tỉnh, trong đó có Bến Tre còn rất ít, phần lớn thường chú trọng đến sự

5

phát triển kinh tế - xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực bảo vệ môi trường

sinh thái.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận hay các quan điểm nghiên cứu

Quan điểm hệ thống:

Trước hết, kinh tế biển là một trong các bộ phận tạo nên nền kinh tế chung

của tỉnh Bến Tre. Mặt khác, bản thân kinh tế biển cũng bao gồm nhiều ngành nghề,

nhiều lĩnh vực khác nhau hợp thành và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác

động lẫn nhau. Bên cạnh đó, kinh tế biển chỉ phát triển bền vững khi có sự cân đối

giữa khai thác và tái tạo nguồn tài nguyên, cân đối giữa sự phát triển kinh tế với các

lợi ích cộng đồng và bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, môi trường sống. Do

đó, khi nghiên cứu đề tài phải sử dụng quan điểm hệ thống để thấy được mối quan

hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển.

Quan điểm tổng hợp lãnh thổ:

Kinh tế biển là một hệ thống phức tạp gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực có

mối quan hệ mật thiết về mặt cấu trúc và lãnh thổ. Vì vậy, nghiên cứu hiện trạng,

định hướng phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre phải chú ý mối quan hệ

liên ngành và mối quan hệ về không gian tổ chức của các ngành kinh tế biển để đạt

được sự phát triển đồng bộ, tránh mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các ngành kinh tế

biển và giữa các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường.

Quan điểm lịch sử - viễn cảnh:

Mọi sự vật không ngừng vận động và biến đổi. Trong từng giai đoạn, có thể

nguồn lực, ngành kinh tế biển này giữ vai trò chủ đạo nhưng trong giai đoạn khác,

nguồn lực và ngành kinh tế khác đóng vai trò quyết định sự phát triển kinh tế biển

của tỉnh. Do đó, khi nghiên cứu kinh tế biển phải đặc biệt chú ý mối quan hệ thời

gian. Nghiên cứu hiện trạng, quy luật phát triển trong quá khứ để nhận định sự phát

triển ở hiện tại và dự đoán sự phát triển trong tương lai. Từ đó, tỉnh cần có những

chiến lược, chương trình phát triển ngắn hạn và dài hạn, thường xuyên cập nhật, bổ

sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển cho phù hợp.

6

Quan điểm phát triển bền vững:

Nguồn tài nguyên biển như hải sản, các tài nguyên du lịch biển, tài nguyên

rừng,..không phải là vô tận. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên

này phải bắt buộc đi đôi với bảo vệ, tái tạo nguồn tài nguyên nhằm đảm bảo cho

việc sử dụng lâu dài. Mặt khác, để phát triển bền vững kinh tế biển phải đảm bảo

được sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ

hiệu quả môi trường sinh thái.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập tài liệu:

Nguồn tài liệu, số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ nhiều nguồn

khác nhau như sách báo, báo cáo, văn kiện, cơ sở dữ liệu của các ngành, các

cấp,…Nguồn tư liệu thu thập được là rất lớn nên khi sử dụng phải có tính chọn lọc

các tư liệu phù hợp với mục đích và nội dung nghiên cứu. Đồng thời, phải thường

xuyên cập nhật thông tin, tư liệu mới để tăng tính thực tế và hiệu quả nghiên cứu.

Phương pháp thống kê, phân tích:

Các tư liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu tồn tại dưới nhiều hình

thức khác nhau từ tư liệu sơ cấp đến tư liệu thứ cấp, từ văn bản đến các bảng

biểu,…Do đó, để phù hợp với đề tài nghiên cứu, các tư liệu sau khi thu thập được,

nhất thiết phải qua quá trình phân tích, thống kê, xử lý lại cho phù hợp vói nội dung

và mục đích sử dụng.

Phương pháp thực địa:

Thực địa là phương pháp truyền thống và rất quan trọng trong nghiên cứu địa

lý. Quá trình nghiên cứu thực địa nhằm mục đích kiểm tra, bổ sung sự tương thích

giữa lý thuyết và thực tế từ đó giúp tác giả có cái nhìn khách quan, tin cậy hơn đối

với vấn đề nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và điều kiện cho phép,

tác giả đã tiến hành các hoạt động thực địa, thực hiện các phương pháp quan sát, mô

tả, ghi chép sự phát triển, phân bố các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển trên địa bàn

tỉnh Bến Tre.

7

Phương pháp bản đồ, biểu đồ:

Là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu địa lý học. Phương pháp này là cơ

sở thể hiện một cách trực quan, khoa học mối quan hệ về thời gian, không gian, sự

thay đổi, phát triển của các đối tượng, yếu tố trong kinh tế biển.

Phương pháp dự báo:

Phương pháp dự báo là phương pháp rất cần thiết trong việc nghiên cứu địa lí

kinh tế – xã hội. Các công thức tính toán được sử dụng kết hợp với việc phân tích

hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trong quá khứ và hiện tại để dự

báo các chỉ số phát triển kinh tế biển của tỉnh đến năm 2020. Từ đó làm cơ sở cho

việc đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp cho việc phát triển bền vững

kinh tế biển của tỉnh.

Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS):

Các phần mềm và ứng dụng GIS là công cụ đắc lực cho việc số hóa bản đồ,

xây dựng các lớp dữ liệu thuộc tính và không gian, thành lập các bản đề chuyên đề

phù hợp với việc thể hiện các nguồn lực phát triển, hiện trạng phát triển các ngành

và định hướng phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trong tương lai.

6. Cấu trúc luận văn

Mở đầu

Nội dung

Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển bền vững kinh tế biển

Chương 2: Hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn

2001 – 2010

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh

Bến Tre đến năm 2020

Kết luận

8

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN

VỮNG KINH TẾ BIỂN

1.1. Cơ sở lí luận về phát triển bền vững kinh tế biển

1.1.1. Biển

Biển là bộ phận của đại dương, nằm ở gần hoặc xa đất liền, nhưng có những

đặc điểm riêng, khác với vùng nước của đại dương bao quanh như về nhiệt độ, độ

mặn, chế độ thủy văn, các vật liệu trầm tích đáy, các sinh vật,.. Ngoài ra, thuật ngữ

biển còn dùng để chỉ các hồ có diện tích rất lớn như biển Aran, biển Caxpi, biển

Chết,..[3]

Như vậy, có thể thấy biển là một bộ phận biệt lập của đại dương. Tùy theo vị

trí của biển nằm ở ven bờ hay ăn sâu vào các lục địa mà biển được phân loại thành

biển ven bờ, biển nội lục (hay còn gọi là biển kín).

Biển ven bờ là những biển nằm sát ngay bờ các lục địa. Phần lớn các biển

này đều rộng, nông, có chế độ thủy văn riêng và thường có xu hướng mở rộng ra đại

dương. Cũng có khi ở phía ngoài biển có các đảo và quần đảo ngăn cách với đại

dương. Phần lớn các biển trên thế giới thuộc loại này như biển Nhật Bản, biển

Măng-sơ, biển Đông, biển Arap, biển Ô-khốt,..

Biển nội lục hay còn gọi là biển kín là những biển nông, nằm lõm sâu vào

các lục địa, chỉ thông với đại dương bằng những eo biển hẹp như Biển Đen, biển

Bantich,..

Đặc biệt, có những biển nằm giữa đại dương, có tính chất hết sức độc đáo về

sinh vật như biển Xacgat với rừng tảo nổi ở giữa Đại Tây Dương.

Vị trí địa lý của các biển quy định tính chất thủy văn như chế độ dòng chảy,

chế độ thủy triều và các đặc tính lí hóa như độ sâu, độ mặn, độ cao sóng,… khác

nhau giữa các biển. [11]

Biển và đại dương được xem là cái nôi của nhân loại. Ngay từ buổi sơ khai,

con người đã biết sử dụng biển cho những mục đích khác nhau phục vụ cho cuộc

sống của mình. Tuy nhiên, trên thực tế cho đến nay, sự hiểu biết của con người về

biển cả còn quá ít ỏi. Theo đà phát triển, biển và đại dương ngày càng có vai trò

9

quan trọng hơn đối với sự phát triển của nhân loại và trở thành địa bàn luôn diễn ra

những tranh chấp về lợi ích rất phức tạp của các quốc gia trên thế giới.

Biển chứa trong mình nhiều tài nguyên có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội. Trước tiên là nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong

phú, đa dạng. Theo thống kê hiện nay, trong lòng biển và đại dương thế giới hiện

nay có khoảng 18 vạn loài động vật và 2 vạn loài thực vật, trong đó đã phát hiện

hơn 400 loài cá và hơn 100 loài thủy sản khác có giá trị kinh tế. Nguồn tài nguyên

phong phú này đã góp phần đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu về thực phẩm cho con

người. [17]

Biển với không gian rộng lớn kết hợp với khoa học kĩ thuật sẽ tạo điều kiện

cho ngành nuôi trồng thủy sản phát triển. Khi đó, nó vừa mang lại nguồn lợi kinh tế

cao vừa góp phần bảo tồn nguồn lợi thủy hải sản trước nguy cơ cạn kiệt. Qua đó,

góp phần cân bằng môi trường sống, giúp con người phát triển kinh tế bền vững

hơn.

Về nguồn tài nguyên khoáng sản, trong biển có hầu như tất cả các khoáng

sản đã được phát hiện trên đất liền, trong đó nhiều loại đã được khai thác như dầu

mỏ, khí thiên nhiên, than, sắt, thiếc, zircon,…Đặc biệt, dầu khí và các loại kết cuội

sắt – mangan, các mỏ sunfit đa kim khổng lồ dưới biển được coi là các khoáng sản

quan trọng nhất ở biển. Cho đến nay, trữ lượng dầu khí đã được thăm dò dưới đáy biển khoảng 25 đến 30 tỉ tấn dầu và 14 đến 15 ngàn tỉ m3 khí thiên nhiên, chiếm

26% tổng trữ lượng dầu mỏ và 23% trữ lượng khí thiên nhiên toàn thế giới. Đây là

cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng và luyện kim, công nghiệp

cơ khí. [17]

Biển và đại dương còn là nơi chứa đựng nguồn năng lượng khổng lồ, có thể

nói là vô tận như năng lượng thủy triều, năng lượng sóng, dòng chảy, năng lượng

nhiệt biển,…đây là các nguồn năng lượng mà tương lai chúng ta đang hướng tới để

thay thế các nguồn năng lượng có giới hạn như hiện nay.

Một vai trò nữa rất quan trọng của biển đó là biển là cơ sở để phát triển

ngành giao thông vận tải biển, đặc biệt là ngành hàng hải. Nhờ có biển và đại dương

10

với các con đường trên biển mà giao thông giữa các nước trở nên dễ dàng, thuận lợi,

góp phần to lớn vào việc phát triển thương mại và giao lưu quốc tế. Bên cạnh đó là

sự phát triển của công nghiệp đóng tàu và cơ khí,..

Ngoài giao thông vận tải, không gian biển và ven biển với các cảnh quan

thiên nhiên đẹp là nguồn tài nguyên tuyệt vời để phát triển du lịch, nghĩ dưỡng và

xây dựng các công trình biển. Phần lớn các trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới hiện

nay đều nằm ở ven biển và trên các đảo như Bali (Inđônêxia), Hawaii (Hoa Kỳ),

Bondi (Ôxtrâylia), Nha Trang (Việt Nam),..

Ngoài ra, biển có ý nghĩa rất lớn về mặt an ninh quốc phòng đối với các quốc

gia có biển. Biển với tài nguyên nước mặn phong phú còn là nguyên liệu sản xuất

muối đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.

Tóm lại, biển và đại dương có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế thế

giới và biển trở thành một tài sản quý giá của các quốc gia có biển.

1.1.1. Kinh tế biển

1.1.1.1. Định nghĩa kinh tế biển

Cho đến nay, việc xác định khái niệm và nội dung của kinh tế biển vẫn là vấn

đề còn để ngỏ. Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế biển, tùy theo hướng tiếp

cận của các tác giả khi nghiên cứu. Sau đây là những quan niệm về kinh tế biển:

Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa hẹp: “Kinh tế biển bao gồm toàn bộ các

hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: (1) Kinh tế hàng hải (vận tải biển

và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng); (3) Khai thác dầu khí

ngoài khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;

(7) Kinh tế đảo”.

Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng:

“Kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển: Kinh tế hàng

hải; Hải sản; Khai thác dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm

kiếm, cứu hộ, cứu nạn; Kinh tế đảo và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến

khai thác biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: Đóng và sửa chữa tàu biển; Công

nghiệp chế biến dầu khí; Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; Cung cấp dịch vụ

11

biển; Thông tin liên lạc biển; Nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân

lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển”.

[18]

Quan niệm kinh tế biển theo nghĩa rộng cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ví dụ trong thống kê hằng năm về kinh tế biển của Trung Quốc cũng bao gồm: hải

sản, khai thác dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng

tàu biển, viễn thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển,…

Như vậy, quan niệm kinh tế biển theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng đã chỉ ra cơ

cấu các ngành nghề, các hoạt động liên quan đến kinh tế biển.

Trong Đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và

các hải đảo Việt Nam đến năm 2010” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì (1995 –

1996), các tác giả cho rằng:

“Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế diễn ra trên

biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển, trong đó biển chủ yếu đóng

vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch

biển,…còn toàn bộ các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển lại nằm trên

dải đất liền ven biển. Do vậy. khi nói đến kinh tế biển không thể tách vùng biển với

vùng ven biển và ngược lại”. [16]

Khái niệm này đã chỉ ra các hoạt động kinh tế biển và không gian của kinh tế

biển gồm hai bộ phận là không gian biển và không gian dải đất liền ven biển.

Theo đó, đối với lãnh thổ Việt Nam, kinh tế vùng ven biển là các hoạt động

kinh tế ở dải ven biển, có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển

hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển – có biên giới đất liền tiếp giáp với biển, bao

gồm các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên phạm vi địa bàn

lãnh thổ này. [18]

1.1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế biển

Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế (gọi tắt là cơ cấu ngành): là một bộ phận cấu

thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của

nền kinh tế được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu

12

ngành thể hiện số lượng, tỉ trọng của các ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế và

giữa chúng có mối quan hệ tương quan, thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế.

[12]

Cơ cấu ngành kinh tế biển: ngày nay các nhà khoa học về kinh tế biển trong

nhiều đề tài khác nhau đã coi kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế chung của

các quốc gia, vùng lãnh thổ có biển. Đồng thời, bản thân kinh tế biển là một ngành

kinh tế tổng hợp gồm nhiều bộ phận cấu tạo thành và giữa các bộ phận đó có mối

quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau.

Có nhiều cách phân chia cơ cấu ngành kinh tế biển khác nhau nhưng nhìn

chung nội dung thì tương tự nhau tùy theo cách sắp xếp các nhóm ngành. Các ngành

chính của kinh tế biển bao gồm: Ngành khai thác mỏ (chủ yếu là khai thác dầu khí);

Ngành thủy sản; Ngành giao thông vận tải biển; Ngành du lịch biển – đảo; Ngành

sản xuất muối; Hoạt động kinh tế đối ngoại.

Tuy nhiên, tùy theo tiềm năng và thế mạnh của từng quốc gia, khu vực có

biển có thể bổ sung thêm các ngành kinh tế biển khác như ngành kinh tế đảo, ngành

kinh tế lấn biển,..

Nền kinh tế biển ngày nay chủ yếu dựa vào các hoạt động đánh bắt hải sản

(70%), hàng hải (18%), ngành khai thác dầu khí chiếm 11% giá trị Tài nguyên biển,

các hoạt động khác chiếm 1% giá trị. [1]

Cơ cấu ngành kinh tế biển thể hiện trình độ sự phân công lao động xã hội của

kinh tế biển, đồng thời thể hiện trình độ phát triển về kinh tế biển của các quốc gia,

vùng lãnh thổ có biển trên cơ sở phát triển mạnh các ngành thiên về khai thác tài

nguyên hay các ngành thiên về yếu tố khoa học, kĩ thuật. Ngày nay, trình độ phát

triển kinh tế biển thường được chú trọng đánh giá theo hướng phát triển bền vững

hay chưa bền vững.

1.1.1.3. Cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển

Theo định nghĩa về kinh tế biển, cơ cấu lãnh thổ hay không gian kinh tế biển

bao gồm hai bộ phận là không gian trên biển và lãnh thổ của dải đất liền ven biển.

Theo đó, không gian trên biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là

13

môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển,…phạm vi dải đất liền ven biển

là không gian tổ chức các hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển.

Tuy nhiên, cũng có cách quan niệm khác về cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển.

Theo đó, lãnh thổ kinh tế biển tập trung chủ yếu vào các mảng không gian: (1)

không gian vùng bờ (ven biển và ven bờ); (2) không gian biển; (3) không gian đảo

và (4) không gian đại dương. Đối với kinh tế biển nói chung, cả bốn mảng không

gian này đều rất quan trọng vì nó cung cấp những tiềm năng và lợi thế khác nhau

cho phát triển kinh tế. [18]

Không gian vùng bờ với hai bộ phận là không gian vùng ven biển và không

gian vùng ven bờ có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Không gian

vùng ven biển là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động trên

biển thông qua các trung tâm kinh tế hải đảo. Không gian vùng ven bờ là mảng

không gian cực kì quan trọng để phát triển kinh tế biển đặc biệt là đối với phát triển

thủy sản bền vững. Đây là nơi cư trú tự nhiên, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của

nhiều loài thủy sinh vật (90% các loài thủy hải sản sống ở vùng thềm lục địa và biển

xa có tập tính gắn bó với vùng ven bờ). Các hệ sinh thái quan trọng (rạn san hô,

thảm cỏ biển, rừng ngập mặn,..) đều tập trung ở vùng này, cung cấp tiềm năng bảo

tồn đa dạng sinh học biển và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác, nuôi

trồng thủy hải sản.

Không gian biển rộng lớn là nơi để phát triển các hoạt động hàng hải và khai

thác mỏ (chủ yếu là dầu khí). Là không gian phát triển nghề cá, không gian bố trí

các công trình biển như giàn khoan dầu khí, các công trình biển khác để xúc tiến

nuôi trồng thủy hải sản; là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế.

Phát triển không gian biển phải gắn chặt với kinh tế hải đảo, các trung tâm kinh tế

vùng ven biển, đồng thời bảo vệ môi trường biển.

Không gian đảo là nơi quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi

thủy sản, phát triển nghề cá, nuôi trồng thủy hải sản (các đầm phá nông quanh các

đảo, quần đảo) và du lịch sinh thái biển. Để sử dụng không gian đảo hợp lý cho phát

triển kinh tế cần xác định chức năng theo thế mạnh của từng đảo để tiến hành quy

14

hoạch phát triển kinh tế hải đảo. Trên thế giới có 10 đảo được xếp hạng “đắt nhất”,

trong khi Việt Nam chưa tận dụng tốt không gian này để phát triển kinh tế.

Không gian đại dương là nơi diễn ra các hoạt động viễn dương, khai thác

đại dương,..có ý nghĩa rất quan trọng nếu không nói là quyết định trong nền kinh tế

biển của các nước trên thế giới. Ở nước ta, việc khai thác không gian đại dương còn

nhiều hạn chế.

Như vậy, mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ, tùy theo thế mạnh về tài nguyên

biển, trình độ phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật và công nghệ khác nhau sẽ có thế

các chính sách khai thác các mảng không gian biển khác nhau. Đối với các quốc gia

phát triển thì mảng không gian đảo và đại dương sẽ là phương hướng lựa chọn hàng

đầu trong tương lai. Hai mảng không gian này rất rộng lớn lại có nhiều tiềm năng

và họ có đủ tiềm lực về tài chính và khoa học công nghệ để khai thác chúng. Hơn

nữa, nó phù hợp với xu hướng phát triển bền vững. Ngược lại, các quốc gia đang

phát triển sẽ chú trọng mảng không gian vùng bờ và vùng biển hơn vì nó dễ khai

thác hơn và phụ hợp chính sách đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa của các quốc

gia này.

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển

1.1.2.1. Các nhân tố tự nhiên

*Vị trí chiến lược, đặc điểm vùng biển, ven biển:

Vị trí chiến lược của các vùng biển ảnh hưởng đến các mặt kinh tế, chính trị,

an ninh quốc phòng của các quốc gia có biển. Vị trí này liên quan chặt chẽ đến các

tuyến đường hàng hải, thông thương kinh tế giữa các châu lục, khu vực, quốc gia

trên thế giới.

Vị trí vùng biển, ven biển là “mặt tiền” quan trọng để các quốc gia thông

thương, mở cửa với nước ngoài. Mặt khác, nó còn là yếu tố quan trọng trong thu hút

đầu tư vì giao thông thuận lợi và gắn liền với các đô thị lớn.

Đặc điểm vùng biển, ven biển ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển thông

qua các điều kiện thuận lợi để xây dựng các cảng biển, phát triển giao thông vận tải

biển, các nguồn tài nguyên biển như hải sản, khoáng sản,..

15

*Tài nguyên dầu khí và khoáng sản:

Tài nguyên dầu khí và các khoáng sản có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển

kinh tế biển. Dầu khí là nguồn nguyên liệu quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng đến hầu

hết các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, trong đó nhiều nhất là giao thông vận tải biển,

công nghiệp ven biển. Các khoáng sản ở vùng biển và ven biển như than, sắt, titan,

cát thủy tinh,..là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành công nghiệp khai khoáng

và luyện kim, phục vụ phát triển các ngành công nghiệp vùng ven biển. Dầu khí và

khoáng sản của vùng biển, ven biển giữ vai trò là nguồn lực quan trọng để phát triển

kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

*Khả năng phát triển cảng biển và giao thông vận tải biển:

Đối với các quốc gia có biển, việc có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng

hệ thống cảng biển là một ưu thế vượt trội trong việc phát triển kinh tế biển. Hệ

thống cảng biển hoàn chỉnh, hiện đại sẽ thúc đẩy giao thông vận tải biển và dịch vụ

hàng hải phát triển. Hệ thống cảng biển giúp tăng cường khả năng trao đổi, mua bán

hàng hóa, phát triển giao thông vận tải biển đa dạng từ vận tải viễn dương, vận tải

ven biển đến vận tải pha sông biển. Mặt khác, khi cảng biển phát triển cũng kéo

theo sự phát triển ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, phát triển các

ngành công nghiệp và dịch vụ ven biển.

*Tài nguyên du lịch biển:

Các trung tâm du lịch lớn của thế giới thường phân bố ở vùng biển, ven biển

do có nguồn tài nguyên du lịch biển phong phú gắn liền với các đô thị lớn, hiện đại.

Thực tế cho thấy, nơi có nguồn tài nguyên du lịch biển phong phú, các sản phẩm du

lịch biển đa dạng, phát triển nhiều loại hình du lịch độc đáo thì du lịch biển sẽ hình

thành và phát triển mạnh. Các loại hình du lịch biển phát triển mạnh hiện nay là tắm

biển, nghỉ dưỡng – chữa bệnh, tham quan kết hợp nghiên cứu, vui chơi giải trí, hội

nghị,…

*Tài nguyên hải sản:

Tài nguyên hải sản giữ vai trò thế mạnh đặc trưng trong việc phát triển kinh

tế biển của các quốc gia. Nguồn tài nguyên hải sản rất đa dạng. Sức sản xuất của

16

biển khoảng 500 tỉ tấn/năm, sản lượng khai thác tối đa đạt 600 triệu tấn/năm. Đây là

tiềm năng lớn để phát triển ngành khai thác hải sản. Bên cạnh đó, dọc ven biển

thường có nhiều đầm, phá, vịnh,.. có khả năng nuôi trồng nhiều loại thủy hải sản.

Mặt khác, việc phát triển mạnh mẽ ngành nuôi trồng và khai thác hải sản sẽ thúc

đẩy sự phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp đóng và sửa

chữa tàu biển, các ngành nghề dịch vụ khác như dịch vụ hậu cần nghề cá, hoạt động

xuất - nhập khẩu,…

1.1.2.2. Các nhân tố kinh tế- xã hội

*Nguồn nhân lực ven biển:

Nguồn nhân lực ven biển là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến sự

phát triển kinh tế biển. Nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng sẽ cung ứng kịp thời

nguồn lao động cho các ngành kinh tế biển. Bên cạnh đó, nguồn lao động có trình

độ cao rất cần thiết trong công việc lập quy hoạch, quản lí việc khai thác, phát triển

các ngành kinh tế biển có hiệu quả và bền vững. Ngược lại, việc các đô thị lớn thu

hút quá nhiều lực lượng lao động làm cho các vùng biển và ven biển gặp nhiều

thách thức trong sự phát triển. Đó là việc thiếu nguồn lao động cả về số lượng lẫn

chất lượng dẫn đến các ngành kinh tế biển phát triển bấp bênh, thiếu đồng bộ, chưa

bền vững.

*Các chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng biển, ven biển:

Tầm nhìn, chủ trương, chiến lược, chính sách của các quốc gia sẽ mang đến

những cơ hội và thách thức cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển. Các

chính sách kinh tế biển liên quan đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế biển,

chính sách đối ngoại, tình hình đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển. Bên cạnh

đó là việc giải quyết các vấn đề về xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh

quốc phòng,..

1.1.3. Phát triển kinh tế biển bền vững

1.1.3.1. Định nghĩa phát triển bền vững

Thuật ngữ Phát triển bền vững (Sustainable Development) đầu tiên được sử

dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm 1980. Mục tiêu

17

tổng thể là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật

ngữ PTBV ở đây đề cập đến một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự

phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.

Vào năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Our Common

Future), Ủy ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa

về phát triển bền vững như sau: [5]

“Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế

hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng làm thỏa mãn nhu cầu của chính

các thế hệ mai sau”.

Định nghĩa này được nhiều người tán đồng vì nó mang tính khái quát cao

mối quan hệ giữa các thế hệ về thỏa mãn các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh

thần, từ đó tạo ra PTBV. Suy cho cùng, bản chất của phát triển bền vững là sự tồn

tại bền vững của loài người trên Trái đất, không phân biệt quốc gia, dân tộc và trình

độ kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, định nghĩa này thiên về mục tiêu, yêu cầu của phát triển bền

vững, chưa nói đến bản chất các mối quan hệ nội tại của quá trình phát triển bền

vững. Vì thế, Tổ chức Ngân hàng Phát triển Châu Á đã đưa ra định nghĩa cụ thể

hơn:

“PTBV là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo

vệ tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng các nhu

cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng

các nhu cầu của thế hệ trong tương lai”

Định nghĩa này có cụ thể hơn nhưng vẫn chưa đề cập được bản chất của quan

hệ giữa các yếu tố của PTBV và chưa đề cập đến các nhóm nhân tố cụ thể mà quá

trình PTBV phải đáp ứng cùng một lúc.

Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về

Môi trường ở Rio de Janero năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị

Johannesburg năm 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp

lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là phát triển kinh tế, công bằng xã hội

18

và bảo vệ môi trường”. Ngoài ba mặt chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập đến

các khía cạnh khác như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc,…

Dựa trên quan điểm tiếp cận tổng hợp, tác giả Lê Văn Khoa đề xuất một

quan niệm mới về PTBV: “PTBV là một quá trình vận động của một hệ thống kinh

tế - xã hội, trong đó có sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã

hội và bảo tồn tài nguyên, môi trường sống vì sự tồn tại ngày một tốt hơn của các

thế hệ kế tiếp”. [5]

Theo định nghĩa này, PTBV là phát triển tạo nên một nền kinh tế tăng trưởng

đều cả về lượng và chất, một xã hội ổn định, các nguồn tài nguyên sinh thái, môi

trường được bảo tồn.

Như vậy, khái niệm PTBV đã hình thành và phát triển không ngừng. Thuật

ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1980 trong “Chiến lược bảo tồn thế

giới”. Năm 1983, Liên Hợp Quốc đã thành lập Hội đồng thế giới về Môi trường và

Phát triển. Bốn năm sau, năm 1987, khái niệm PTBV chính thức được nêu ra trong

báo cáo Brundtland “Tương lai chung của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát

triển Liên hợp quốc. Tiếp theo đó, tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất diễn ra ở Rio

de Janero (Braxin) năm 1992 và Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, khái niệm

PTBV đã được cộng đồng thế giới thừa nhận và sử dụng rộng rãi. Và Chương trình

Nghị sự 21 toàn cầu – Agenda 21 - Chương trình về sự phát triển bền vững của thế

giới trong thế kỉ XXI đã ra đời sau hội nghị ở Rio de Janero năm 1992 đã trở thành

điểm nhấn cho nổ lực vì sự PTBV của nhân loại.

1.1.3.2. Đặc điểm của phát triển bền vững

Từ định nghĩa, ta có thể hiểu PTBV có những đặc điểm chính như sau:

Thứ nhất, PTBV là một phạm trù khoa học tổng hợp về tự nhiên, kinh tế - xã

hội.

PTBV đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển kinh tế, văn hóa

xã hội với bảo vệ tài nguyên và môi trường nhằm đảm bảo cuộc sống của con người

ở hiện tại và tương lai. Muốn PTBV thì phải có những nghiên cứu dựa trên cơ sở

khoa học nhằm tìm ra giải pháp dung hòa được mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế, lợi

19

ích xã hội và chất lượng môi trường; dung hòa giữa lợi ích hiện tại và lợi ích cho

tương tai. Nếu thiếu một trong ba nội dung trên thì sự phát triển không còn mang

tính bền vững. Vì vậy, có thể nói PTBV là một phạm trù khoa học tổng hợp.

Thứ hai, PTBV mang tính khách quan và là xu hướng tất yếu của thời đại.

Phạm trù PTBV mang tính khách quan vì nó tồn tại và biến chuyển cùng với

sự phát triển của xã hội loài người. Trước đây, các quốc gia chỉ lấy chỉ tiêu phát

triển làm thước đo sự giàu có của quốc gia mà không có hoặc rất ít quan tâm đến

công bằng xã hội và chất lượng môi trường. Chính sự khai thác quá mức nhằm đáp

ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đã làm cho nguồn tài nguyên

trên Trái Đất ngày càng suy thoái và cạn kiệt; bề mặt Trái Đất hứng chịu quá nhiều

chất thải từ sinh hoạt, sản xuất của con người nên bị ô nhiễm nghiêm trọng. Không

những thế, nhiều giá trị văn hóa, xã hội cũng bị suy thoái, xói mòn cùng với sự suy

thoái kinh tế. Ngày nay, con người đã nhận thức được rằng phải thay đổi, điều chỉnh

hành vi, thái độ của mình để giữ gìn, bảo vệ môi trường sống của chính con người.

Như vậy, xã hội càng phát triển văn minh thì nội hàm của PTBV càng được

quan tâm đầy đủ và đúng mức. Và với xu hướng dân số thế giới ngày càng tăng

nhanh trong khi nguồn tài nguyên ngày càng có nguy cơ cạn kiệt và môi trường bị ô

nhiễm ngày càng nhiều thì PTBV là xu thế bắt buộc của thế giới và các quốc gia,

các cộng đồng trong tương lai nhằm đảm bảo sự tồn tại của loài người.

Thứ ba, PTBV không loại trừ tăng trưởng kinh tế mà cần một sự phát triển

hài hòa.

Nếu một quốc gia, vùng lãnh thổ không có tăng trưởng kinh tế thì không thể

đáp ứng nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Không có tăng

trưởng kinh tế thì không có điều kiện để cải tiến, phát triển văn hóa xã hội cũng như

không có điều kiện về tài chính, kĩ thuật để cải tạo môi trường sống ngày càng tốt

đẹp. Và như thế, hệ quả là không thể đạt được sự phát triển bền vững. Điều quan

trọng ở đây là không thể loại trừ hay hạn chế tối đa tăng trưởng kinh tế mà phải giải

quyết mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và chất lượng

môi trường sống cho cân đối, hài hòa, đảm bảo sự phát triển kinh tế đi đôi với công

20

bằng, tiến bộ xã hội và nâng cao hiệu quả tái tạo, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên

nhiên và môi trường.

Thứ tư, PTBV là một quá trình xã hội – chính trị, một lối sống, một nguyên

tắc đạo đức mới: [4]

Thách thức lớn nhất của PTBV không phải là khoa học, công nghệ mà đòi

hỏi phải thay đổi hành vi của con người về mặt tổ chức, hoạch định chính sách và

chiến lược. Bởi vì con người là nhân tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung tâm, quan

trọng nhất quyết định sự phát triển của nhân loại. PTBV đòi hỏi một sự lãnh đạo và

thiết kế mới đối với tổ chức chính trị và xã hội, một sự thay đổi cơ bản không những

cần nhiều thông tin hơn mà có thêm nhiều hơn nữa các hoạch định và các chiến

lược. Trước hết, các nhà lãnh đạo đất nước phải thay đổi nhận thức, thái độ nhìn

nhận mang tầm vĩ mô và vi mô để có những chính sách chiến lược về phát triển

kinh tế, xã hội, môi trường phù hợp với xu hướng dân số ngày càng tăng nhanh, tài

nguyên ngày càng cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, PTBV không thể là trách nhiệm và nghĩa vụ của một vài cá

nhân, tổ chức hay quốc gia nào mà phải là sự hợp tác, đóng góp và là trách nhiệm

của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia trên tinh thần “toàn cầu hóa” vì sự

phát triển của chính con người trong tương lai. Trong đó, giáo dục và truyền thông

môi trường là một công cụ cực kỳ quan trọng của PTBV. Tuy nhiên, công cụ này

chỉ thật sự sắc bén nếu những lựa chọn về giá trị được chuyển giao vào quá trình

hoạch định chính sách và ra quyết định.

1.1.3.3. Mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của phát triển bền vững

Ba bộ phận chính của PTBV đó là lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và bảo vệ

môi trường. Mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của PTBV thể hiện ở những

tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau của các bộ phận để tạo nên sự PTBV.

Một sự phát triển đạt được mục tiêu PTBV khi và chỉ khi đạt được sự hài hòa

giữa phát triển kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sống hiệu

quả. Ba bộ phận này tạo thành một thể thống nhất, không thể tách rời; nếu thiếu một

21

trong ba bộ phận trên thì sự phát triển chưa đạt được mục tiêu PTBV, tức là chưa

đảm bảo cơ sở cho sự phát triển ổn định và lâu dài.

Ba bộ phận của PTBV luôn tác động, ảnh hưởng qua lại, chi phối lẫn nhau.

Bộ phận này có thể thúc đẩy các bộ phận khác cùng phát triển để đạt được sự PTBV

hoặc ngược lại, kìm hãm sự phát triển lẫn nhau.

Khi kinh tế phát triển bền vững sẽ tạo sự cân đối giữa tăng trưởng kinh tế với

phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường hiệu quả. Kinh tế tăng trưởng góp

phần tăng thu nhập quốc dân, tăng thu nhập bình quân trên đầu người của các quốc

gia, vùng lãnh thổ. Mặt khác, sự phát triển các ngành kinh tế sẽ giúp giải quyết việc

làm cho người lao động tốt hơn, giúp nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm

nghèo hiệu quả. Bên cạnh đó, việc nâng cao mức sống của người dân giúp họ có

điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ văn hóa, xã hội đa dạng hơn như du lịch,

vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận nền giáo dục hiện đại,..

Tăng trưởng kinh tế còn tạo ra nguồn tài chính và khoa học kĩ thuật vững

mạnh để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng như điện, nước sạch, y

tế, giáo dục, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội.

Phát triển kinh tế bền vững còn cân đối được tốc độ tăng trưởng kinh tế với

sử dụng nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, tăng cường sử dụng

công nghệ sạch trong sản xuất, góp phần bảo vệ tốt tài nguyên và hạn chế ô nhiễm

môi trường.

Như vậy, phát triển kinh tế bền vững góp phần nâng cao chất lượng cuộc

sống, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ tốt tài nguyên và môi trường.

Xã hội phát triển bền vững cũng sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế và bảo

vệ môi trường. Trong một xã hội phát triển, nền giáo dục – đào tạo có cơ hội phát

triển tốt nhất sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao, phục vụ cho việc phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững. Một xã hội dân

chủ, tiến bộ và bình đẳng sẽ có trình độ và chất lượng cuộc sống phát triển cao, nhu

cầu của con người để đáp ứng và thỏa mãn cuộc sống cũng không ngừng được nâng

cao. Đó là điều kiện thúc đẩy, kích thích quá trình sản xuất phát triển mạnh.

22

Công tác xóa đói giảm nghèo và phúc lợi xã hội được đảm bảo tốt góp phần

giảm sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa xã hội, đồng thời giảm đáng kể sự phụ

thuộc của cộng đồng, nhất là những người nghèo khổ vào nguồn tài nguyên. Bên

cạnh đó, ý thức tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường của cộng đồng được nâng

lên vì nó gắn liền với lợi ích cộng đồng. Nhờ đó, việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

và môi trường sẽ tốt hơn.

Bảo vệ tài nguyên và môi trường bền vững sẽ mang lại nhiều tác động tích

cực cho sự phát triển bền vững kinh tế và xã hội. Phát triển bền vững về tài nguyên

và môi trường là các tài nguyên thiên nhiên đuợc sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có khả

năng tái tạo nhằm đảm bảo nguồn tài nguyên phong phú và dồi dào cho quá trình

sản xuất. Môi trường tự nhiên, xã hội không bị các hoạt động của con người làm suy

thoái, ô nhiễm, nhờ đó môi trường sống của con người được đảm bảo, góp phần

nâng cao sức khỏe, trí tuệ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Việc tăng cường công

nghệ sạch và công nghệ tiết kiệm vừa hạn chế ô nhiễm môi trường vừa tiết kiệm tài

nguyên; hạn chế tối đa chi phí để khắc phục các sự cố môi trường, giảm chi phí sản

xuất, tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất.

Tóm lại, để PTBV thì ba mặt: lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và chất lượng môi

trường sống không thể tách rời, chúng gắn bó chặt chẽ với nhau theo mối quan hệ

biện chứng. Bất cứ sự thay đổi nào của một trong ba bộ phận trên đều kéo theo sự

thay đổi của các bộ phận khác. Tuy nhiên, việc thực hiện điều tiết thành công ba lợi

ích trên đối với các quốc gia không phải là dễ dàng và đồng bộ. Ở các quốc gia,

trong quá trình phát triển chắc chắn sẽ xảy ra những mâu thuẫn, nhất là các quốc gia

đang phát triển. Do đó, tùy theo điều kiện cụ thể từng quốc gia, từng địa phương mà

có chính sách, chiến lược phù hợp để điều tiết các lợi ích trong ngưỡng giới hạn của

nó, tránh sự phá vỡ nguyên tắc của PTBV.

1.1.3.4. Các nguyên tắc phát triển bền vững

Nguyên tắc là những điều cơ bản đã được qui định để dùng làm cơ sở cho

các mối quan hệ xã hội hoặc là điều cơ bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo

hành động.

23

Trong tác phẩm “Hãy cứu lấy Trái Đất – chiến lược cho một cuộc sống bền

vững” của UNEP (1991) đã đưa ra 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững. Tuy

nhiên các nguyên tắc này thật sự khó áp dụng trong thực tế của một thề giới đầy

biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa; đòi hỏi cần thiết lập một hệ thống các

nguyên tắc khác có tính khả thi và sát thực hơn. Luc Hens (1995) đã lựa chọn trong

số các nguyên tắc của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển để xây dựng một

hệ thống 7 nguyên tắc mới của PTBV. Đó là: [5]

Nguyên tắc về sự ủy thác của nhân dân

Nguyên tắc này yêu cầu chính quyền phải hành động để ngăn ngừa thiệt hại

môi trường xảy ra ở bất cứ đâu. Nguyên tắc này cho rằng, công chúng có quyền đòi

chính quyền với tư cách là người đại diện cho họ phải có hành động ứng xử với các

sự cố môi trường.

Nguyên tắc phòng ngừa

Ở những nơi có thể xảy ra các sự cố môi trường nghiêm trọng và không đảo

ngược được thì không thể lấy lí do là chưa có những hiểu biết chắc chắn mà trì hoãn

các biện pháp ngăn ngừa sự cố môi trường. Về chính trị, nguyên tắc này rất khó áp

dụng, và trên thực tế nhiều nước đã cố tình quên. Việc chọn lựa các biện pháp

phòng ngừa nhiều khi bị gán tội là chống lại các thành tựu phát triển kinh tế đã hiện

hành trước mắt và luôn luôn được tụng xưng ca ngợi theo cách hiểu của tăng trưởng

kinh tế.

Nguyên tắc bình đẳng giữa các thế hệ

Đây là nguyên tắc cốt lõi của PTBV, yêu cầu rõ ràng rằng, việc thỏa mãn nhu

cầu của thế hệ hiện nay không được làm phương hại đến các thế hệ tương lai thỏa

mãn nhu cầu của họ. Nguyên tắc này phụ thuộc vào việc phát triển tổng hợp và có

hiệu quả các nguyên tắc khác của PTBV.

Nguyên tắc bình đẳng trong nội bộ

Con người trong cùng thế hệ có quyền được hưởng lợi một cách bình đẳng

trong việc khai thác các nguồn tài nguyên và hưởng một môi trường trong lành.

Nguyên tắc này được áp dụng để xử lý mối quan hệ giữa các nhóm người trong

24

cùng một quốc gia và giữa các quốc gia. Nguyên tắc này ngày càng được sử dụng

nhiều hơn trong đối thoại quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi một quốc gia, nó cực kì

nhạy cảm với các nguồn lực kinh tế, xã hội và văn hóa.

Nguyên tắc phân quyền và ủy quyền

Các quyết định cần được soạn thảo bởi chính các cộng đồng bị tác động hoặc

bởi các tổ chức thay mặt họ và gần gũi với họ. Các quyết định cần ở mức quốc gia

hơn là quốc tế, mức địa phương hơn là mức quốc gia. Đây là nguyên tắc cơ bản

nhằm kiểm soát sự ủy quyền của các hệ thống quy hoạch ở tầm quốc tế, nhằm cổ vũ

quyền lợi của các địa phương về sở hữu tài nguyên, về nghĩa vụ đối với môi trường

và các giải pháp riêng của họ. Áp lực ngày càng lớn đòi hỏi sự ủy quyền ngày càng

tăng. Tuy nhiên, cần phải hiểu cho đúng là: địa phương chỉ là một bộ phận của các

hệ thống rộng lớn hơn chứ không phải thực thi chức năng một cách cô lập. Thường

thì các vấn đề môi trường có thể phát sinh ngoài tầm kiểm soát địa phương, ví dụ

như sự ô nhiễm “ngược dòng” của nước láng giềng hay cộng đồng lân cận. Trong

trường hợp đó, nguyên tắc ủy quyền cần được xếp xuống thấp hơn các nguyên tắc

khác.

Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền

Người gây ô nhiễm phải chịu mọi chi phí ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm,

phải nội bộ hóa tất cả các chi phí môi trường nảy sinh từ các hoạt động của họ, sao

cho các chi phí này được thể hiện đầy đủ trong giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà

họ cung ứng. Tuy nhiên, sẽ không tránh khỏi trường hợp là, nếu áp dụng nguyên tắc

này quá nghiêm khắc thì sẽ có xí nghiệp công nghiệp phải đóng cửa. Cộng đồng có

thể cân nhắc, vì trong nhiều trường hợp, các phúc lợi xã hội do có công ăn việc làm

nhiều khi còn lớn hơn các chi phí cho vấn đề sức khỏe và môi trường bị ô nhiễm.

Do đó, cơ chế áp dụng nguyên tắc này cũng cần linh hoạt và trong nhiều trường hợp

phải tạo điều kiện về thời gian để các doanh nghiệp thích ứng dần dần với các tiêu

chuẩn môi trường.

25

Nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền

Khi sử dụng hàng hóa hay dịch vụ, người sử dụng phải trả đủ giá tài nguyên

cũng như các chi phí môi trường liên quan đến việc chiết tách, chế biến và sử dụng

tài nguyên.

Dựa trên các nguyên tắc chung về PTBV của thế giới, Việt Nam cũng đã xây

dựng bộ 8 nguyên tắc PTBV của Việt Nam, phù hợp với tình hình, điều kiện của đất

nước. Các nguyên tắc đó là:

Thứ nhất, con người là trung tâm của PTBV.

Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn sắp tới kết

hợp với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể

tách rời của quá trình phát triển.

Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu

cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.

Thứ năm, khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.

Thứ sáu, PTBV là sự nghiệp của các cấp chính quyền, các Bộ, các ngành và

địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư

và mọi người dân.

Thứ bảy, gắn chặt nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế.

Thứ tám, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường với

đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội.[5]

Mặt khác, các địa phương trong cả nước cũng đã tiến hành xây dựng chiến

lược phát triển bền vững của địa phương theo từng giai đoạn phát triển cụ thể như

một hành động thiết thực góp phần cụ thể hóa chính sách của nhà nước. Như vậy,

PTBV ngày càng thâm nhập sâu rộng và phổ biến vào mọi mặt của đời sống cộng

đồng thế giới, các quốc gia, vùng lãnh thổ và từng địa phương.

26

1.1.3.5. Các tiêu chí phát triển bền vững

Tiêu chí là tính chất, dấu hiệu để dựa vào đó phân biệt, đánh giá các sự vật,

hiện tượng.

Tổng quan các tài liệu nghiên cứu, có thể thấy phạm trù PTBV cho dù ở cấp

độ quốc tế, quốc gia hay địa phương đều phải đáp ứng ba tiêu chí chính đó là bền

vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Theo đó: [5]

Bền vững về kinh tế đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng

trưởng kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với

việc sử dụng các điều kiện ngoại lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công nghệ,

đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch, năng lượng sạch.

Bền vững về xã hội là xây dựng một xã hội trong đó nền kinh tế tăng trưởng

nhanh và ổn định phải đi đôi với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội; giáo dục đào

tạo, y tế, bình đẳng giới, giải quyết công ăn việc làm, khai thác tiềm năng tri thức

bản địa và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng

trong xã hội.

Bền vững về tài nguyên môi trường là các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể

tái tạo được sử dụng trong khả năng chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về

số lượng và chất lượng; các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết

kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội không bị các hoạt

động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công

nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được đảm bảo,

con người được sống trong môi trường sạch sẽ,..

Ba tiêu chí bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi

trường chính là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo sự phát triển bền vững của

xã hội. Nếu thiếu một trong những điều kiện đó thì sự phát triển đứng trước nguy cơ

mất bền vững.

Trên tinh thần chung của thế giới, Việt Nam đã kí cam kết với cộng đồng

quốc tế tại các Hội nghị Thượng đỉnh về PTBV và tiến hành xây dựng các bộ tiêu

chí PTBV ở cấp quốc gia và địa phương. Trên thực tế có nhiều bộ tiêu chí về PTBV

27

ở Việt Nam được đề xuất bởi nhiều Viện nghiên cứu và các dự án khác nhau, trong

đó có bộ tiêu chí PTBV của Viện Môi trường và PTBV đề xuất năm 2003 là đơn

giản và cụ thể. Theo đó, bộ tiêu chí PTBV cấp quốc gia gồm 34 tiêu chí: 4 tiêu chí

về kinh tế, 12 tiêu chí về xã hội, 14 tiêu chí về môi trường, 4 tiêu chí về đáp ứng; bộ

tiêu chí cấp địa phương gồm 28 tiêu chí: 6 tiêu chí về kinh tế, 10 tiêu chí về xã hội,

9 tiêu chí về môi trường và 3 tiêu chí về đáp ứng nhằm đảm bảo PTBV. (Xem phần

Phụ lục 1).

Trong bộ tiêu chí PTBV cấp quốc gia và địa phương của Viện Môi trường và

PTBV đề xuất thì số lượng về các tiêu chí xã hội và môi trường tương đối nhiều,

các tiêu chí về kinh tế ít. Trong bộ tiêu chí cấp quốc gia, số lượng các tiêu chí về

môi trường là nhiều nhất (14 tiêu chí). Trong khi đó, với bộ tiêu chí cấp địa phương,

số lượng tiêu chí xã hội nhiều nhất, gần bằng số lượng tiêu chí về môi trường. Điều

này cho thấy sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các nhà lãnh đạo về vấn đề phát

triển xã hội và bảo vệ môi trường bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế. Nội dung

của các tiêu chí ngày càng cụ thể, đi sâu vào nhiều khía cạnh của đời sống và sản

xuất. Đặc biệt là các tiêu chí về đáp ứng thể hiện sự đòi hỏi về trách nhiệm và nhận

thức của quốc gia và các địa phương trong quá trình PTBV.

1.1.3.6. Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững

Phát triển kinh tế biển bền vững là sự phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh

tế biển gắn liền với phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của

dân cư vùng ven biển và bảo tồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường sinh thái vùng

biển, ven biển có hiệu quả.

Các chỉ số đo lường phát triển kinh tế biển bền vững bao gồm các chỉ số về

kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường và thể chế.

Các chỉ số về kinh tế:

- Qui mô và tốc độ tăng GDP các ngành kinh tế biển;

- Tỉ lệ đóng góp GDP của kinh tế biển vào cơ cấu GDP kinh tế của quốc

gia, lãnh thổ;

- GDP bình quân đầu người;

28

- Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế biển theo hướng tăng tỉ trọng công

nghiệp – dịch vụ; giảm mạnh tỉ trọng nông nghiệp; giảm các ngành sử

dụng thuần nguồn tài nguyên biển;

- Đảm bảo giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế biển năm sau cao hơn

năm trước.

- Bản thân mỗi ngành kinh tế biển cũng tích cực chuyển dịch: ngành thủy

sản tăng tỉ trọng ngành nuôi trồng, giảm tỉ trọng ngành khai thác; ngành

du lịch biển tăng các sản phẩm du lịch sinh thái gắn với cộng đồng; ngành

giao thông vận tải biển tăng đội tàu thuyền vận tải biển, khối lượng hàng

hóa vận chuyển và luân chuyển; ngành sản xuất muối chuyển đổi công

nghệ, sản xuất muối sạch, tăng năng suất,..

- Tăng cường hoạt động thương mại: đảm bảo các quận, huyện ven biển

đều có trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối thủy sản,.. chuyên

kinh doanh các sản phẩm kinh tế biển của địa phương;

- Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng qua các năm;

- Tăng các sản phẩm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng;

- Tỉ lệ đầu tư phát triển kinh tế biển;

- Tăng cường và đa dạng các dịch vụ tài chính, đảm bảo mỗi địa phương

ven biển đều có ngân hàng và hệ thống tín dụng mạnh;

- Tổng thu ngân sách từ các hoạt động kinh tế biển cao hơn tổng chi cho

phát triển kinh tế - xã hội – môi trường vùng biển, ven biển.

Các chỉ tiêu về văn hóa – xã hội:

- Tỉ lệ hộ nghèo vùng ven biển;

- Diện tích nhà ở tối thiểu;

- Tỉ lệ tăng dân số; tỉ lệ dân thành thị, nông thôn;

- Tỉ lệ lao động qua đào tạo;

- Tỉ lệ lao động có việc làm;

- Tỉ lệ hộ dân sử dụng điện;

- Tỉ lệ hộ dân sử dụng nước sạch;

29

- Số y bác sĩ, giường bệnh trên 1 vạn dân;

- Số trường học, giáo viên, học sinh các cấp;

- Tỉ lệ dân cư biết chữ trên tổng số dân;

- Mức độ hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, thông tin

liên lạc;

- Mỗi tỉnh ven biển có ít nhất một cảng biển;

- Tỉ lệ dân cư được tiếp cận thông tin qua phát thanh, truyền hình, báo

chí,…tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao,..

- Tỉ lệ đầu tư cho khoa học – công nghệ trong tổng vốn đầu tư phát triển

kinh tế -xã hội;

Các chỉ số về bảo tồn tài nguyên và môi trường:

- Diện tích và tỉ lệ che phủ rừng;

- Chất lượng nguồn nước, không khí, đất,..;

- Số lượng nhà máy xử lý rác thải, nước thải đạt tiêu chuẩn trên địa bàn

tỉnh;

- Tỉ lệ đầu tư cho bảo tồn tài nguyên, xử lý và bảo vệ môi trường.

1.2. Một vài nét về hiện trạng phát triển bền vững kinh tế biển trên thế giới và

khu vực

Những năm gần đây, vấn đề khai thác biển và đại dương chiếm vị trí hết sức

quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Những hoạt động kinh tế biển chủ yếu hiện

nay của thế giới là khai thác dầu mỏ và các khoáng sản, khai thác hải sản và hàng

hải. Theo thống kê, từ năm 1975, cả thế giới đã đầu tư khoảng 120 tỉ USD để khai

thác biển và đại dương, trong đó công nghiệp khai thác mỏ 60 – 70 tỉ USD, hải sản

10 tỉ USD, hàng hải 40 tỉ USD. Trung bình cứ đầu tư 1,4 tỉ USD thì trong 15 năm sẽ

thu lại lợi nhuận 6 tỉ USD. [16]

Theo báo cáo của Tổ chức lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, hiện

nay trên toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thủy sản, trong đó có hơn 20

quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu,

Châu Mỹ [12]. Sản lượng khai thác hải sản của thế giới đạt gần 80 triệu tấn (năm

30

2009). Trong đó, các nước có sản lượng hải sản khai thác cao nhất là Trung Quốc

(14,8 triệu tấn), Peru (7,4 triệu tấn), In-đô-nê-xi-a (5 triệu tấn), Mỹ (4,3 triệu tấn),

Nhật Bản (4,2 triệu tấn),..Nghề nuôi trồng thủy hải sản ở hầu hết các quốc gia có

biển đều tăng nhanh và trong tương lai sẽ giữ vai trò chủ đạo trong ngành hải sản.

Ngành nuôi trồng phát triển mạnh ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ,

Nhật Bản, Philippin,..

Ngành khai thác dầu khí nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI đã phát triển

thành một trong những ngành mũi nhọn của kinh tế biển. Hiện nay có hơn 100 quốc

gia tham gia thăm dò và khai thác dầu khí ngoài biển. Sản lượng dầu khí khai thác

ngoài khơi chiếm 25 – 32% sản lượng dầu mỏ và khoảng 20% sản lượng khí thiên

nhiên khai thác được của toàn thế giới. Năm 2009, sản lượng dầu khí khai thác của

toàn thế giới đạt hơn 69 triệu thùng/ngày, trong đó sản lượng dầu khí khai thác từ

biển chiếm 32% sản lượng dầu khí khai thác toàn thế giới. Các nước trong khu vực

Đông Nam Á cũng phát triển mạnh ngành khai thác dầu khí ngoài khơi. Nổi bật là

các quốc gia In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Bru-nây, Thái Lan và Việt Nam.

Công nghiệp khai thác các khoáng sản khác trên thế giới cũng phát triển nhanh

và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1970, trên thế giới có 57

mỏ than ngầm dưới biển đang hoạt động. Riêng Nhật Bản, hàng năm khai thác 10

triệu tấn than dưới biển (30% sản lượng than khai thác). Các nước khác như Chile,

Úc, Thổ Nhĩ Kì, Trung Quốc,..cũng đang khai thác với qui mô khác nhau. [16]

Không gian biển ngày càng được sử dụng nhiều hơn vào mục đích giao thông

vận tải, góp phần phát triển thương mại và giao lưu quốc tế. Các đường thông

thương vòng quanh Trái Đất thông qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây

Dương đã tạo nên mối liên hệ chặt chẽ giữa các khu vực công nghiệp lớn của thế

giới. Ví dụ khu công nghiệp phía Đông Bắc Mỹ, khu công nghiệp Nhật Bản, khu

công nghiệp Tây Bắc Âu, khu công nghiệp Ucraina, khu công nghiệp trung tâm Nga

và khu công nghiệp Uran. Tuyến hang hải từ vịnh Pec-xich vòng qua đại lục Châu

Phi được gọi là “con đường dầu”, con đường vận chuyển các khoáng sản Châu Phi

và sản phẩm cây trồng nhiệt đới của thế giới.

31

Vào những năm 1990, tổng khối lượng vận chuyển bằng đường biển đạt

khoảng 14 triệu tấn/năm. Đến nay, vận tải đường biển vẫn chiếm ¾ khối lượng hàng

hóa trao đổi của thế giới vì ưu điểm vận chuyển được khối lượng hàng hóa lớn với

chi phí thấp. Khoảng ½ khối lượng hàng hóa vận chuyển trên đường biển quốc tế là

dầu mỏ và các sàn phẩm dầu thô. Trên toàn thế giới có hàng trăm tàu chở dầu có

trọng tải hơn 100.000 tấn đang hoạt động [11].

Hiện nay, nhiều nước ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung

Quốc, Đài Loan, Singapo,..có nền kinh tế hầu như phụ thuộc vào biển. Hàng năm có

khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và tương ứng 45% khối lượng hàng hóa

xuất khẩu của Nhật Bản vận chuyển qua các tuyến đường biển trên Biển Đông.

Trung Quốc cũng coi Biển Đông là địa bàn chiến lược về thương mại quốc tế. 29

trong tổng số 39 tuyến hàng hải và khoảng 60% khối lượng hàng hóa xuất nhập

khẩu của Trung Quốc hiện nay được vận chuyển qua Biển Đông. [17]

Hoạt động hàng hải và giao thông vận tải biển gắn liền với sự hình thành và

phát triển hệ thống cảng biển. Cảng biển là nơi cho tàu neo đậu, sửa chữa, tập kết,

bốc xếp hàng hóa,..Cảng biển được phân thành nhiều loại với qui mô khác nhau.

Hiện nay, thế giới khoảng 6000 – 7000 cảng biển đang hoạt động với khoảng 100

cảng có ý nghĩa quốc tế. Các cảng biển quốc tế nổi bật là cảng Rot-tec-đam (Hà

Lan), cảng Luân Đôn, (Anh), cảng Hamburg (Đức),..

Singapo là cảng biển lớn nhất Đông Nam Á, đứng thứ hai thế giới về cảng

con-tai-nơ và thứ tư thế giới về trọng tải tàu ra vào cảng. Hàng năm có khoảng 85%

số tàu biển đi qua khu vực Đông Nam Á ghé đậu ở cảng này. Có thể nói, kinh tế

Singapo hoàn toàn là nền kinh tế biển.

Ngoài các hoạt động kinh tế biển truyền thống, hiện nay trên thế giới, các hoạt

động kinh tế biển khác cũng có bước phát triển vượt bậc. Một trong những hoạt

động đó là du lịch biển. Hiện nay, phần lớn các trung tâm du lịch nổi tiếng thế giới

đều nằm ở vùng ven biển và các hải đảo. Đối với các nước Đông Nam Á, du lịch

biển đang phát triển mạnh trong những năm gần đây. Điển hình là Singapo, In-đô-

nê-xi-a, Thái Lan, Phi-lip-pin, Ma-lay-xi-a,..

32

33

Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN TỈNH

BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2001 – 2010

2.1. Các nguồn lực phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre

Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành của Đồng bằng sông Cửu Long, được bồi

đắp bởi phù sa của 4 nhánh sông: sông Tiền Giang, sông Ba Lai, sông hàm Luông,

sông Cổ Chiên. Các sông này đã chia lãnh thổ Bến Tre thành ba cù lao lớn: cù lao

Bảo, cù lao Minh, cù lao An Hóa. Nhìn trên bản đồ, Bến Tre có dạng một tam giác

mà đỉnh nằm ở phía thượng lưu và đáy là bờ biển dài 65 km, chiều cao của tam giác

theo hướng Tây Bắc – Đông Nam là 75 km. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2360,2 km2 (năm 2008), chiếm 5,8% diện tích tự nhiên đồng bằng sông Cửu Long.

Về tọa độ địa lý, Bến Tre nằm trong giới hạn từ 9048’B đến 10020’B và kinh độ từ 105057’Đ đến 106048’Đ. Vị trí này đã tạo cho tự nhiên Bến Tre mang tính

chất nhiệt đới ẩm điển hình.

Về phạm vi lãnh thổ, ba mặt của tỉnh giáp đất liền và một mặt giáp biển

Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang với sông Tiền Giang là ranh giới tự nhiên;

phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh với sông Cổ Chiên là ranh giới

tự nhiên; phía Đông giáp biển Đông. Trung tâm của tỉnh Bến Tre cách thành phố

Hồ Chí Minh 86 km về phía Bắc.

Về mặt hành chính, từ năm 2009, Bến Tre gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh:

Thành phố Bến Tre và 8 huyện: Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ cày Bắc,

Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại.

Bến Tre là một trong tám tỉnh giáp biển của vùng đồng bằng sông Cửu Long,

có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển. Tỉnh có đường bờ biển dài 65 km và vùng lãnh hải hơn 20.000 km2, có nguồn tài nguyên biển khá phong phú nhất là tài

nguyên hải sản. Bên cạnh đó, kinh tế của tỉnh đang phát triển và chuyển dịch tích

cực, dân cư đông đúc, lao động dồi dào, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội

thông thoáng, thu hút đầu tư ngày càng hiệu quả,…Đó là những điều kiện tạo nên

nguồn lực phát triển kinh tế biển của tỉnh.

34

Nguồn lực là một khái niệm rất rộng. Nó bao gồm toàn bộ các yếu tố bên

trong và bên ngoài lãnh thổ, tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của

quốc gia, vùng lãnh thổ. [12]

Nguồn lực phát triển kinh tế biển bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên thiên

nhiên, dân cư nguồn lao động và các yếu tố phi vật thể khác, kể cả trong và ngoài

phạm vi lãnh thổ, được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội

vùng biển, ven biển.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định phạm vi không gian

phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre theo ranh giới hành chính ba huyện ven

biển: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, đối

với một số lĩnh vực, đề tài sẽ sử dụng số liệu và phân tích ở phạm vi rộng hơn (toàn

tỉnh), ví dụ phân tích nguồn tài nguyên hải sản.

2.1.1. Các nguồn lực tự nhiên

Các nguồn lực tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển bao gồm vị trí

địa lý vùng biển, ven biển và các tài nguyên thiên nhiên của địa phương. Các nguồn

lực này có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề phát triển kinh tế biển của tỉnh.

2.1.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm vùng biển, ven biển

Đối với việc phát triển kinh tế biển của một quốc gia hay địa phương thì vị

trí địa lý và đặc điểm vùng biển, ven biển có ý nghĩa rất lớn. Vùng biển, ven biển là

“cửa ngõ” thông thương hàng hóa của tỉnh với các địa phương khác trong vùng,

trong cả nước, đồng thời nó còn là môi trường chứa đựng nhiều tiềm năng về thủy

sản, du lịch, khoáng sản, .. để phát triển các ngành kinh tế biển.

Bến Tre là một trong 8 tỉnh giáp biển của vùng kinh tế đồng bằng sông Cửu

Long, có ba mặt giáp đất liền, một mặt giáp biển Đông, với đường bờ biển dài 65km

và một hệ thống sông rạch dày đặc. Bến Tre lại nằm giữa con đường vận tải từ trung

tâm kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh của vùng Đông Nam Bộ đến Thành phố Cần

Thơ – trung tâm kinh tế lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Với vị trí đó,

Bến Tre có nhiều lợi thế để phát triển giao thông vận tải đường thủy, đường biển,

việc vận chuyển, trao đổi nguyên liệu, hàng hóa của các huyện trong tỉnh đến các

35

địa phương khác một cách dễ dàng, thuận tiện và tiết kiệm. Bên cạnh đó, Bến Tre

còn nằm gần đường vận tải biển từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Băng Cốc,

Singapo,.. nên trong tương lai, Bến Tre có nhiều khả năng thông thương kinh tế với

các nước trong khu vực một cách chủ động.

Bến Tre có một vùng biển rộng lớn với diện tích vùng lãnh hải hơn 20.000 km2, là địa bàn tiềm năng để khai thác nguồn lợi hải sản dồi dào của biển Đông.

Qua đó, góp phần hình thành và phát triển ngành đánh bắt hải sản, nhất là hải sản xa

bờ, đem lại giá trị kinh tế cao.

Bờ biển Bến Tre bị chia cắt bởi các cửa sông của hệ thống sông Cửu Long.

Đồng thời, xu thế lấn biển đang diễn ra mạnh theo hướng Tây – Tây Nam tại các

cửa sông Ba Lai, Cổ Chiên, Cửa Đại do các tác động tổng hợp giữa các dòng hải

lưu ven bờ và phù sa sông đổ ra biển. Vì thế, ở vùng ven biển đã hình thành nhiều

bãi bồi rộng. Các bãi bồi có thành phần chủ yếu là bùn và cát, khi thủy triều rút, bãi

bồi nổi trên mặt nước, trãi rộng ra phía biển hàng nghìn mét. [8]. Ngoài ra, nhiều

cồn cũng xuất hiện vùng cửa sông ven biển do sự lắng đọng phù sa. Các cồn này

chủ yếu còn ngập nước, chỉ hiện rõ khi nước triều thấp. Các bãi bồi và cồn ven biển

là địa bàn lí tưởng nuôi các loại thủy, hải sản nước mặn như nghêu, sò, tôm,….

Dọc bờ biển Bến Tre tuy không có những bãi biển nổi tiếng như ở Bà Rịa –

Vũng Tàu hay Nha Trang nhưng cũng có một số bãi biển được khai thác phục vụ

hoạt động du lịch nghỉ ngơi, dã ngoại,..như bãi biển Cồn Hố (An Thủy – Ba Tri),

biển Thừa Đức, biển Thới Thuận (Bình Đại).

Vùng biển và ven biển Bến Tre còn cung cấp các nguồn lợi khác như năng

lượng biển, hóa chất từ nước biển, nước biển để làm muối,...

Ngoài ra, ven biển của tỉnh có nhiều giồng cát, là kết quả tác động của dòng

sông và sóng biển trong quá trình lấn biển của vùng cửa sông, thành phần chủ yếu là

cát mịn và cát pha. Các giồng cát này có độ cao từ 3 – 5m, chạy dài 5 – 7 km,

hướng song song với bờ biển, phân bố tại các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri và

Thạnh Phú. Đây là nơi địa hình cao ráo, thuận lợi cho việc cư trú tập trung của dân

cư, hình thành các làng chài ven biển. Các khu dân cư tập trung, có lịch sử lâu đời

36

này là nơi cung cấp lực lượng lao động tại chỗ chủ yếu cho việc phát triển các

ngành kinh tế biển của tỉnh.

Tóm lại, vị trí địa lý và đặc điểm vùng biển, ven biển Bến Tre có nhiều lợi

thế để phát triển mạnh ngành kinh tế hải sản, giao thông vận tải biển và du lịch biển.

2.1.1.2. Tài nguyên thủy hải sản

Do ở vùng cửa sông ven biển, bốn bề sông nước, kênh rạch chằng chịt, có vùng lãnh hải rộng hơn 20.000km2 nên tài nguyên thủy, hải sản của Bến Tre rất

phong phú từ vùng nước mặn, vùng nước lợ đến vùng nước ngọt. Công tác điều tra,

thống kê nguồn lợi thủy hải sản của tỉnh, bước đầu đã thống kê được Bến Tre có

185 loài thực vật nổi, 93 loài động vật nổi, 90 loài động vật đáy. [8]

Về tài nguyên cá: có 120 loài cá thuộc 43 họ. Căn cứ vào điều kiện sinh thái

có thể chia thành 3 nhóm: cá nước mặn, cá nước lợ, cá nước ngọt. Nhóm cá nước

mặn gồm các loài cá có giá trị kinh tế như cá bạc má, cá nục, cá mối vạch, cá chuồn

đen, cá chích tròn, cá thu vạch,…Đây là đối tượng đánh bắt chủ yếu hiện nay của

ngư dân trong tỉnh. Nhóm cá nước lợ có cá kèo, cá bống cát, cá đối,…chủ yếu sống

ở vùng cửa sông ven biển. Nhóm cá nước ngọt gồm cá mè Vinh, cá mè Dãnh, cá trê

vàng, cá rô đồng, cá sặc,..chủ yếu sống ở sông rạch, thường xâm nhập vào vùng lợ

vào mùa mưa, khi lượng nước sông đổ ra biển tương đối lớn.[6]

Tài nguyên tôm: đã phát hiện 12 loài tôm biển, trong đó có giá trị gồm tôm

thẻ, tôm sú, tôm gân, tôm đất và 8 loài tôm nước ngọt, trong đó có giá trị nhất là

tôm càng xanh. [6]

Tiềm năng khai thác hải sản của Bến Tre không chỉ nằm trong phạm vi vùng

biển của tỉnh mà gắn liền với vùng biển Nam Bộ - nơi có trữ lượng hải sản cao nhất

cả nước. Phạm vi hoạt động khai thác của ngư dân rất rộng, trải dài từ vùng biển Bà

Rịa Vũng Tàu đến vịnh Thái Lan, gắn liền với các bãi cá, bãi tôm, bãi mực với trữ

lượng lớn. Trong vùng biển Nam Bộ có 6 bãi cá, 5 bãi tôm và 3 bãi mực tốt nhất

Việt Nam với 50% sản lượng cá biển (khoảng 150 triệu tấn), 70% trữ lượng tôm

biển (42 – 49 nghìn tấn) của vùng biển Việt Nam. [16]

37

Do đặc điểm các bãi cá, bãi tôm, mực có trữ lượng lớn, phần lớn phân bố gần

bờ, lại tập trung chủ yếu ở vùng biển Nam Bộ - địa bàn khai thác chính của ngư dân

Bến Tre nên nhìn chung việc khai thác nguồn lợi hải sản trên biển của ngư dân

trong tỉnh có nhiều thuận lợi.

Về tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản: tỉnh có nhiều tiềm năng nuôi trồng

thủy hải sản với diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản ước đạt 50.000

ha. Ven biển Bến Tre có nhiều bãi bồi trãi dài ra biển hàng nghìn mét, nhiều cửa

sông kết hợp mạng lưới kênh rạch chằng chịt là điều kiện để nuôi thủy hải sản ở cả

ba môi trường nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Bên cạnh đó, vùng ven biển Bến

Tre có diện tích rừng ngập mặn khoảng 7.500 ha, là điều kiện tốt để phát triển mô

hình lâm – ngư kết hợp, tăng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản. Năm 2010,

toàn tỉnh có 3.359 ha diện tích rừng – tôm mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, tỉnh

còn có tiềm năng nuôi trồng thủy sản khá lớn từ việc chuyển đổi sản xuất, kết hợp

nuôi xen canh một vụ lúa – một vụ tôm ở vùng ven biển. Năm 2010, toàn tỉnh ước

đạt 6.600 ha mô hình xen canh lúa – tôm, quy hoạch đến năm 2020 tăng lên 8.900

ha. [9]

Bên cạnh đó, các bãi bồi ven biển Bến Tre còn có khả năng nuôi nhiều đặc

sản có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao khác như cua biển, sò huyết, nghêu,..

Hiện tại, Bến Tre có các bãi nghêu giống chất lượng cao tại Thạnh Phong (Thạnh

Phú), Bảo Thạnh (Ba Tri), Thới Thuận (Bình Đại), là nguồn tài nguyên quý để phát

triển nghề nuôi nghêu xuất khẩu. Đặc biệt từ năm 2009, sản phẩm nghêu của tỉnh

Bến Tre được chứng nhận MSC về sản phẩm được khai thác, quản lý bền vững của

Hội đồng quản lý Biển quốc tế góp phần tạo động lực và cơ hội rất lớn cho sản

phẩm nghêu xuất khẩu của Bến Tre trên thị trường.

2.1.1.3. Tài nguyên rừng

Trên khu đất ngập mặn ven biển, tỉnh Bến Tre có hệ thống sinh thái rừng

ngập mặn vùng cửa sông phong phú và quý giá. Khi xưa, diện tích rừng chiếm trên

20.000 ha. Hiện tại, do bị tàn phá trong chến tranh, khai thác rừng bừa bãi, phá rừng

nuôi tôm nên rừng ngập mặn chỉ còn 7.500 ha (2002), chủ yếu phân bố ở 3 huyện

38

ven biển: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Rừng ngập mặn Bến Tre có thành phần

loài phong phú gồm 119 loài thuộc 45 họ, trong đó, chiếm ưu thế là các loài mắm

trắng, đước, đưng, bần trắng, dừa nước,…[8]

Rừng ngập mặn của Bến Tre có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi

trường sinh thái và cuộc sống của dân cư vùng ven biển.

Trước hết, rừng ngập mặn là nơi cư ngụ, nơi sinh sống và sản xuất của người

dân vùng ven biển. Đồng thời, rừng ngập mặn còn cung cấp cho người dân địa

phương nhiều loại sản phẩm có giá trị như gỗ, củi, than, lá dừa nước (để lợp nhà);

các loại thủy, hải sảm như cá, tôm, cua, nghêu, sò huyết,…

Thứ hai, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ bờ biển. Cây rừng góp phần giảm

nhẹ hoạt động của sóng biển, gió chướng, hạn chế xói lở bờ biển. Bên cạnh đó, cây

rừng ngập mặn chủ yếu mọc trong vùng bùn lỏng mới bồi như mắm, đước, bần,…

với bộ rễ thở đặc trưng sẽ có tác dụng tích tụ phù sa, góp phần tăng diện tích bãi

bồi.

Thứ ba, rừng ngập mặn có tác dụng lọc sạch nước biển. Cây rừng thông qua

quá trình hấp thụ, chuyển hóa chất trong nước đã lọc sạch những chất gây ô nhiễm

môi trường từ phía đại dương vào đất liền hoặc trong đất liền thải ra biển, góp phần

bảo vệ môi trường sinh thái ven biển, đảm bảo phát triển bền vững ngành nuôi trồng

thủy sản và du lịch biển.

Thứ tư, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Rừng ngập mặn là nơi cư trú, sinh sản, phát triển của các loài thủy sản. Đây là “cửa

ngõ” cho các loài sinh vật biển xâm nhập sâu vào vùng nước lợ, nước ngọt: nhiều

loài thủy sản như tôm càng xanh sống ở môi trường nước ngọt, lợ nhưng sinh sản

trong rừng ngập mặn; các loài tôm biển như tôm thẻ, tôm sú sinh sản ở vùng biển

nhưng tôm con thường di cư vào rừng ngập mặn để sinh sống, kiếm ăn, đến thời kì

sinh sản, tôm lại di cư ngược ra biển. Các vùng bãi bồi là nơi cư trú của các loài

cua, sò huyết,.. Rừng ngập mặn còn là nơi cung cấp thức ăn cho các loài thủy sản.

Các cành lá cây khô trong rừng rụng xuống nước, được vi sinh vật phân hủy thành

39

mùn bả hữu cơ, kết hợp với các chất hữu cơ từ sông đưa ra và các phiêu sinh vật là

nguồn thức ăn dồi dào cho ấu trùng tôm, cá,..

Thứ năm, rừng ngập mặn còn là nơi cư trú, sinh sản của tài nguyên chim, thú

rừng, là “ngân hàng lưu trữ nguồn gien” góp phần bảo vệ đa dạng sinh học. Theo

thống kê, trong rừng ngập mặn của tỉnh có 27 loài bò sát, 8 loài lưỡng cư, 16 loài

thú, hơn 60 loài chim. Trong đó có sân chim Vàm Hồ là một trong các sân chim nổi

tiếng của đồng bằng sông Cửu Long. Đây là điều kiện để phát triển ngành du lịch

sinh thái, tham quan, nghiên cứu.

Ngoài ra, rừng ngập mặn còn có thể phát triển mô hình lâm – ngư kết hợp,

nuôi tôm, cua trong rừng ngập mặn đạt hiệu quả cao.

Rừng ngập mặn là yếu tố rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh

thái để đảm bảo cho việc phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh, nhất là ngành

nuôi trồng thủy hải sản và du lịch sinh thái rừng – biển.

2.1.1.4. Tài nguyên du lịch biển

Bến Tre là miền đất được mệnh danh “vùng văn minh sông nước”, cũng là

nơi nổi tiếng với tên gọi “quê hương Đồng Khởi”. Nơi đây hội tụ nhiều điều kiện để

phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng.

Du lịch biển là các hoạt động du lịch gắn liền với việc khai thác các nguồn

tài nguyên du lịch, môi trường vùng biển, ven biển. Bến Tre có tài nguyên du lịch

biển khá đa dạng bao gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân

văn.

Về tài nguyên du lịch tự nhiên:

Bến Tre có địa hình bằng phẳng, thấp, có xen kẻ các dạng địa hình khác nhau

như cù lao, cồn, giồng cát, bãi biển, bãi bồi ven biển,..Sự đa dạng của địa hình tạo

nên sự thích thú cho du khách. Các cù lao, cồn ven sông, ven biển là nơi thích hợp

phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch xanh. Các bãi biển thích hợp tổ chức

các hoạt động ngoài trời như dã ngoại, tắm biển, liên hoan, vui chơi giải trí,…

Rừng ngập mặn ven biển là tài nguyên du lịch có vai trò rất quan trọng trong

phát triển du lịch biển của Bến Tre, thích hợp khai thác các hoạt động du lịch tham

40

quan, học tập, nghiên cứu, vui chơi giải trí, thưởng thức các đặc sản trong rừng như

tôm, cua, cá, ong mật,.. Hiện nay, tỉnh Bến Tre đang đầu tư xây dựng điểm du lịch

sinh thái sân chim Vàm Hồ thuộc hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân (Ba Tri) và dự án

kêu gọi đầu tư xây dựng khu bảo tồn rừng ngập mặn Khâu Băng (Thạnh Phú) rộng

1000ha và khu bảo tồn sân chim Vàm Hồ (Ba Tri) rộng 67ha.

Dọc bờ biển của tỉnh không có những bãi tắm đẹp và nổi tiếng như Vũng

Tàu, Nha Trang do có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển, lượng phù sa lớn làm đục

nước biển, nhiều bãi bồi nông, thành phần chủ yếu là bùn và cát nên dọc bờ biển

Bến Tre ít thuận lợi để xây dựng các bãi tắm, khu du lịch biển đẹp, quy mô lớn. Đây

cũng là tình trạng chung của phần lớn các tỉnh ven biển vùng đồng bằng sông Cửu

Long. Ngoại trừ Kiên Giang có khu vực Hà Tiên và đảo Phú Quốc có nền địa chất,

địa hình phù hợp xây dựng các bãi tắm đẹp. Tuy nhiên, Bến Tre cũng có một vài bãi

biển được khai thác phục vụ du lịch, chủ yếu là khách nội tỉnh. Các bãi biển điển

hình là bãi biển Cồn Hố (An Thủy – Ba Tri), bãi biển Thừa Đức, bãi biển Thới

Thuận (Bình Đại).

Bãi biển Cồn Hố thuộc xã An Thủy, huyện Ba Tri đang thu hút đầu tư thành

khu du lịch biển với diện tích 50 ha bằng nguồn vốn nước ngoài, tổng vốn đầu tư là

75 triệu đô la Mỹ. Bãi biển Thừa Đức thuộc xã Thừa Đức, huyện Bình Đại, cùng

với bãi biển Thới Thuận thuộc xã Thới Thuận, huyện Bình Đại được khai thác từ

lâu, chủ yếu phục vụ nhu cầu tắm biển, vui chơi giải trí của người dân địa phương,

nhất là vào các dịp lễ, Tết. Hiện nay, bãi biển Thừa Đức đang được quy hoạch, xây

dựng thành khu du lịch sinh thái biển với diện tích 6,3 ha, do công ty Cổ phần Thủy

sản Ba Lai làm chủ đầu tư, nguồn vốn 59 tỉ đồng. Bãi biển Thới Thuận thuộc xã

Thới Thuận, huyện Bình Đại đang quy hoạch phát triển bãi biển này thành khu du

lịch sinh thái biển với diện tích 60 ha.

Ngoài ra, các cồn như cồn Phụng, cồn Ốc, cồn Chài Mười, cồn Ngô Năm,..có

ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển du lịch sinh thái.

41

Về tài nguyên du lịch nhân văn:

Vùng ven biển Bến Tre có nhiều tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo, trong

đó, nổi bật là các di tích lịch sử văn hóa gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước và các lễ hội văn hóa vùng biển.

Tính đến năm 2010, Bến Tre có 13 di tích lịch sử văn hóa được công nhận di

tích cấp quốc gia, trong đó, trên địa bàn ba huyện ven biển có 5 di tích là Di tích Mộ

và đền thờ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri); Di

tích Đầu cầu tiếp viện vũ khí Bắc – Nam (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú); Di

tích Ngã Ba cây Da Đôi (xã Tân Xuân – huyện Ba Tri); Di tích Đình Phú Lễ (xã

Phú Lễ - huyện Ba Tri) và Di tích mộ nhà giáo Võ Trường Toản (Xã Bảo Thạnh,

huyện Ba Tri). Đây là tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng để phát triển các loại

hình du lịch về nguồn tham quan, học tập nghiên cứu, sinh hoạt truyền thống.

Ngoài các di tích lịch sử - văn hóa, trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói chung và ba

huyện ven biển nói riêng còn có nhiều lễ hội như lễ hội Nghinh Ông, lễ cúng đình,

lễ hội Văn hóa của tỉnh Bến Tre,.. Các lễ hội này cũng được khai thác để phát triển

du lịch khá tốt.

Lễ hội lớn nhất của cư dân cùng biển tỉnh Bến Tre là lễ hội Nghinh Ông. Đây

là lễ hội cúng Cá Ông (cá Voi) đặc trưng của ngư dân vùng biển. Bến Tre có 12

lăng thờ cá Ông. Lễ cúng cá Ông lớn nhất thuộc xã vùng biển Bình Thắng, huyện

Bình Đại, được tổ chức hằng năm vào ngày 15, 16 tháng 6 âm lịch. Vào ngày lễ

Nghinh Ông, hàng trăm tàu thuyền đánh bắt cá của huyện, của tỉnh và các tỉnh bạn

như Tiền Giang, Trà Vinh thậm chí các tỉnh xa hơn nữa, trong khi hành nghề, tập

trung về cửa sông cửa Đại cùng ngư dân nơi đây tham gia lễ hội Nghinh Ông. Hoạt

động này đã thu hút hàng nghìn người trong và ngoài địa phương đến tham quan.

Lễ hội thứ hai mang ý nghĩa văn hóa - lịch sử là lễ hội Văn hóa tỉnh Bến Tre,

tổ chức vào ngày 1 tháng 7 hàng năm tại cụm đền thờ, mộ nhà thơ Nguyễn Đình

Chiểu tại xã An Đức, huyện Ba Tri với hàng ngàn người tham dự. Thường trong dịp

này, có những đoàn khách của tỉnh bạn, của một số ngành Trung ương về cùng

tham dự.

Ngoài ra, ở Bến Tre còn phổ biến lễ hội cúng đình. Đây là lễ hội đặc trưng và

42

lâu đời nhất của Bến Tre, được tổ chức hằng năm tại các đình làng. Vào ngày này,

ngoài phần lễ cúng Thành Hoàng, rước sắc được tổ chức long trọng, người dân và

du khách còn được tham gia phần hội với các hoạt động vui chơi, ăn uống, xem hát

bội,…

2.1.2. Các nguồn lực kinh tế - xã hội:

2.1.2.1. Nguồn nhân lực dồi dào ven biển

Bến Tre có ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Địa bàn các

huyện ven biển có dân cư tập trung khá đông đúc. Năm 2010, dân số các huyện ven

biển của Bến Tre là 447.812 người (35,6% dân số toàn tỉnh), trong đó dân thành thị

chiếm tỉ lệ thấp: 6,6% tổng dân số ba huyện. Mật độ dân số trung bình là 372 người/ km2, thấp hơn mật độ dân số trung bình của tỉnh 1,4 lần. Trong ba huyện thì Ba Tri có mật độ dân số cao nhất là 524 người/km2, kế đến là Bình Đại, Thạnh Phú có mật độ dân số thấp nhất 300 người/km2.

Bảng 2.1: Dân số 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2000 – 2009

Năm 2000 2005 2009

Số dân (người) 458.292 449.129 447.614

Tỉ lệ trong tổng số 34,8 35,5 35,6 dân của tỉnh (%)

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre, năm 2005, 2011 [2]

Nhìn chung, dân cư tập trung ở ba huyện ven biển ít hơn các huyện khác, chỉ

chiếm hơn 35% (2009) trong tổng số dân của tỉnh và số dân có xu hướng giảm nhẹ

qua các năm do các huyện ven biển điều kiện sống còn nhiều khó khăn, nhất là

thiếu cơ sở hạ tầng, điện, nước,.. Tuy nhiên, tỉ lệ dân số của ba huyện ven biển có

xu hướng tăng lên qua các năm từ 34,8 % (2000) lên 35,6 % (2009); tốc độ tăng dân

số trung bình là 0,29 %/năm thời kì 1999 - 2009. Tỉ lệ dân cư của ba huyện ven biển

từ 15 tuổi trở lên biết chữ là 92,3% (toàn tỉnh là 94,1%); tỉ lệ dân số tốt nghiệp phổ

thông cơ sở trung bình là 98,9% (năm 2010); tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp Trung học

phổ thông là 73,4%, cao hơn mức trung bình toàn tỉnh là 73,02%.

43

Nguồn nhân lực trên địa bàn các huyện ven biển của tỉnh khá dồi dào. Năm

2010, lao động trong độ tuổi của ba huyện ven biển là 345.923 người (hơn 77% dân

số ba huyện); lao động trong ngành nghề là 272.310 người (78,7% lao động trong

độ tuổi của ba huyện), trong đó nhiều nhất là lao động trong KV I: 60%, KV II:

25%, KV III: 15%. Tỉ lệ dân cư có trình độ chuyên môn kĩ thuật (CMKT) trung

bình là 4,5 %, trong đó nhiều nhất là Bình Đại, tỉ lệ thấp nhất là Thạnh Phú. Phần

lớn nguồn nhân lực có trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và đại học trở lên cao

hơn trình độ sơ cấp chứng tỏ các huyện bước đầu quan tâm đến việc đào tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao.

Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn kĩ thuật của dân số từ 15 tuổi trở lên ở các

huyện ven biển tỉnh Bến Tre năm 2009

Đơn vị: %

Trình độ Không có Cao Đại học trở Huyện trình độ Sơ cấp Trung cấp đẳng lên CMKT

Toàn tỉnh 93,5 1,2 2,4 1,1 1,8

Bình Đại 94,8 1,0 1,9 1,0 1,4

Ba Tri 95,7 0,8 1,6 0,9 1,0

Thạnh Phú 96,1 0,7 1,5 0,8 0,9

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Quy hoạch đến năm 2020, toàn tỉnh có 02 trường Đại học, 02 trường dạy

nghề, 03 trường Cao đẳng, 09 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 10 Trung tâm dạy

nghề; thực hiện chương trình phổ cập nghề nghiệp và đào tạo tay nghề cho người

lao động, số lao động được đào tạo so với lao động trong độ tuổi chiếm khoảng

66,3% ; phấn đấu đạt tỷ số sinh viên cao đẳng, đại học/10.000 dân (kể cả các dạng

đào tạo không chính quy) là 287. [15]

Riêng ba huyện ven biển, dự báo đến năm 2020, dân số ba huyện ven biển là

491.245 người, tỉ lệ đô thị hóa là 27% do mở rộng các thị xã, thị trấn, thị tứ; phổ cập

trung học đạt chuẩn sau năm 2015. Số lao động được đào tạo so với số lao động

44

trong độ tuổi chiếm khoảng 53%. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng để phát

triển kinh tế biển của tỉnh. [13]

2.1.2.2. Chính sách kinh tế - xã hội

Chính sách kinh tế - xã hội đối với sự phát triển của một quốc gia hay địa

phương là yếu tố có ý nghĩa chiến lược. Nếu chính sách đúng đắn, kịp thời sẽ giúp

địa phương nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, tổng hợp các nguồn lực để phát

triển kinh tế - xã hội có hiệu quả cao nhất. Ngược lại, nếu chính sách không hợp lý,

lỗi thời sẽ gây không ít khó khăn, làm kìm hãm sự phát triển của địa phương.

Nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện “Chiến lược biển Việt Nam đến

năm 2020”, Tỉnh Ủy Bến Tre đã xây dựng “Chương trình hành động số 11 CTr –

TU” ngày 19/04/2007. Tiếp đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh có

Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND ban hành và phê duyệt Đề án “Phát triển toàn

diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”. Để thực hiện được mục tiêu của

đề án, tỉnh đã xây dựng 7 chương trình phát triển và dự án ưu tiên nghiên cứu đầu

tư, gồm: chương trình nước sạch; chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn

và đô thị; chương trình giáo dục đào tạo nguồn nhân lực; chương trình phát triển

kinh tế thủy sản; chương trình xóa đói giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã

hội; chương trình phát triển thương mại, du lịch; chương trình xây dựng hệ thống

quốc phòng toàn dân.

Bên cạnh đó, trong các ngành liên quan trực tiếp đến kinh tế biển như Thủy

sản, Du lịch đã có quy hoạch phát triển từng ngành riêng đến năm 2020 nhằm định

hướng phát triển ngành kết hợp khai thác tính lãnh thổ tốt hơn. Tỉnh còn có chương

trình sắp xếp, bố trí dân cư các xã khó khăn ven biển do Sở Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn soạn thảo năm 2007 nhằm góp phần phân bố dân cư vùng ven biển

hợp lý để phát triển bền vững.

UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp triển

khai thực hiện tốt các quy hoạch, chương trình, đề án đã được phê duyệt. Bên cạnh

đó, tỉnh đang cố gắng hoàn thiện các chính sách, pháp luật, khuyến khích đầu tư thu

45

hút ngày càng đông nguồn vốn, khoa học kĩ thuật, nhân lực phục vụ phát triển các

ngành kinh tế biển.

Các quy hoạch, chương trình hành động, đề án phát triển kinh tế biển từ

trung ương đến địa phương đã góp phần đáng kể trong việc định hướng, tạo “bộ

khung” cho sự phát triển kinh tế biển của tỉnh theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu

quả. Tuy nhiên, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành và sự quan tâm sâu

sát hơn nữa của lãnh đạo tỉnh để thực hiện tốt các chính sách này.

2.1.2.3. Cơ sở hạ tầng

Giao thông vận tải:

Hệ thống giao thông trong tỉnh đang được đầu tư, nâng cấp. Quốc lộ 60 nối

liền các tỉnh miền Tây đang được sửa chữa, nâng cấp; cầu Rạch Miễu nối hai bờ

Tiền Giang – Bến Tre đã khánh thành và đưa vào sử dụng từ năm 2009 đã tạo bước

đột phá mới cho Bến Tre. Cầu Hàm Luông hoàn thành và đưa vào sử dụng năm

2010 nối liền cù lao Bảo và cù lao Minh; cống đập Ba Lai nối liền Bình Đại và Ba

Tri; cầu Cổ Chiên nối Bến Tre với Trà Vinh đang xây dựng, sau khi hoàn thành sẽ

là động lực làm vực dậy mạnh mẽ kinh tế - xã hội của tỉnh, rút ngắn thời gian vận

chuyển của các phương tiện vận tải đường bộ đến Bến Tre, gắn kết kinh tế tỉnh nhà

với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Đến năm 2012, Bến Tre có ba cảng cá, 1 cảng sông gần khu công nghiệp

Giao Long và 1 cảng bốc xếp hàng hóa trên sông Hàm Luông. Tỉnh cũng đã xây

dựng và đưa vào hoạt động khu công nghiệp Giao Long (Châu Thành) và khu công

nghiệp An Hiệp (Ba Tri), thu hút nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, giúp kinh

tế Bến Tre có bước khởi sắc. Quy hoạch đến năm 2020, phát triển hệ trục giao

thông Tây Bắc - Đông Nam nối liền các cù lao bao gồm tuyến Quốc lộ 60 kết hợp

với nâng cấp các tuyến đường huyện thành đường tỉnh: đường huyện 14, Bình Đại -

Ba Tri - Thạnh Phú, Thạnh Hải - Mỹ An, Phong Nẫm - thị trấn Mỏ Cày Nam; đầu

tư nâng cấp cảng Giao Long thành cảng biển phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu hàng

hoá của tỉnh. Nâng cấp cảng cá Bình Thắng, An Thủy và hoàn chỉnh cảng An Nhơn.

[15]

46

Bưu chính viễn thông:

Thời gian qua, bưu chính viễn thông Bến Tre đã xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp

đặt thêm nhiều trạm BTS (trạm thu phát sóng di động) 2G và 3G, đầu tư và đưa vào

sử dụng nhiều dự án hiện đại về công nghệ, mở rộng về dung lượng, đảm bảo phục

vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm tới, ngành sẽ tiếp tục

đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất và công nghệ để nâng cao chất lượng phục vụ.

Điện – nước:

Hiện tại, Bến Tre có hai nhà máy cấp thoát nước tại xã Sơn Đông (Thành phố Bến Tre), xã Hữu Định (huyện Châu Thành) với công suất 32.000 m3/ngày và nhà máy cấp nước Chợ Lách có công suất 1000m3/ngày đêm. Với công suất này,

hằng năm, công ty Cấp thoát nước Bến Tre xử lý và cấp nước đủ cho nhu cầu sinh

hoạt của người dân thành phố và trung tâm các huyện. Quy hoạch đến năm 2020,

xây dựng hệ thống cấp nước thô từ Châu Thành - Chợ Lách về các huyện ven biển;

hoàn chỉnh hệ thống cấp nước. Đến năm 2020, đạt 100% hộ dân thành thị, 95% hộ

dân nông thôn được cấp nước sạch tập trung.

Những năm gần đây, ngành điện Bến Tre đã đầu tư hàng nghìn tỉ đồng để

xây dựng nhiều công trình trọng điểm như: trạm 220 KV Bến Tre – 2x125 MVA,

đường dây 220 KV Mỹ Tho – Bến Tre, đường dây 110 KV Mỏ Cày – Chợ Lách,

đường dây 110 KV Vĩnh Long – Chợ Lách,…đã phục vụ tốt hơn cho nhu cầu sinh

hoạt và sản xuất. Các công trình trạm 110 KV Bình Đại, 110 KV Thạnh Phú, đường

dây 110 KV Giồng Trôm – Bình Đại, Mỏ Cày – Thạnh Phú dự kiến đưa vào vận

hành trong các năm 2012, 2013 sẽ góp phần rất lón trong việc phát triển kinh tế - xã

hội các huyện ven biển. [20]

2.1.2.4. Khoa học công nghệ

Hoạt động khoa học công nghệ ngày càng được quan tâm, chú trọng đầu tư

vì tính chất quan trọng của nó đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản

phẩm, đặc biệt là bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất. Từ năm 2000 đến nay,

có nhiều đề tài và dự án được đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào sản

xuất trên nhiều lĩnh vực. Một số công trình có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế biển

47

của tỉnh như: Dự án chuyển giao công nghệ sản xuất giống tôm càng xanh cho nông

hộ (năm 2001 – 2003); Thử nghiệp chế phẩm EM trong nuôi trồng thủy sản, xử lý

chất thải chăn nuôi (năm 2002 – 2004); Phát triển thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy

sản và phát triển nông thôn xã Thạnh Trị - Bình Đại; Nghiên cứu đánh giá điều kiện

tự nhiên và một số tài nguyên phi sinh vật biển ven bờ (0 – 3m nước) tỉnh Bến Tre;

Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

nông thôn trên đất giồng cát 3 xã ven biển An Thủy, Tân Thủy, An Hòa Đông

huyện ba Tri,..Gần đây nhất là Mô hình sản xuất muối bằng phương pháp trải bạt ở

huyện Bình Đại (năm 2010); đề tài Nghiên cứu thực nghiệm thuần dưỡng nghêu

cám thành nghêu giống trên ao đất ở Ba Tri (năm 2012).

2.1.2.5. Thu hút đầu tư

UBND tỉnh có nhiều chính sách ưu đãi như miễm giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp, miễm giảm tiền thuê đất, hỗ trợ quy hoạch,...để thu hút đầu tư trên địa bàn

tỉnh với hai lĩnh vực ưu tiên là du lịch sinh thái và công nghiệp. Khả năng thu hút

đầu tư vào công nghiệp chế biến thủy hải sản trên địa bàn ba huyện ven biển là rất

lớn do có nguồn nguyên liệu tại chỗ dồi dào, đa dạng, lực lượng lao động dồi dào và

tỉnh có nhiều chính sách ưu đãi. Lĩnh vực du lịch sinh thái cũng rất có tiềm năng thu

hút đầu tư do tỉnh có tài nguyên du lịch sinh thái khá hấp dẫn; hệ thống giao thông,

cơ sở hạ tầng đã từng bước được cải thiện. Hiện nay, tại địa bàn các huyện ven biển

có 5/8 dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư về du lịch sinh thái, 3 dự án về công nghiệp và

một dự án xây dựng cảng biển. Các dự án đang thu hút đầu tư về du lịch là khu du

lịch sinh thái Vàm Hồ (xã Tân Mỹ - huyện Ba Tri); khu du lịch sinh thái Cồn Hố

(xã An Thủy- huyện Ba Tri); khu du lịch sinh thái biển Thới Thuận (xã Thới Thuận

– huyện Bình Đại); khu du lịch sinh thái biển Thừa Đức (xã Thừa Đức – huyện

Bình Đại) và khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn tại xã Thạnh Phong, Thạnh Hải –

huyện Thạnh Phú). Các dự án kêu gọi đầu tư về công nghiệp gồm: Cụm công

nghiệp thị trấn Thạnh Phú (huyện Thạnh Phú); Cụm công nghiệp thị trấn An Đức

(huyện Ba Tri), Khu tổng hợp Làng cá An Thủy (xã An Thủy – huyện Ba Tri) và

một dự án xây dựng Cảng biển Thới Thuận (xã Thới Thuận – huyện Bình Đại).

48

49

2.2. Hiện trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre

Bến Tre là tỉnh cù lao, có 65 km đường bờ biển, có nguồn lợi thủy sản, đặc

biệt là thủy sản nước mặn rất phong phú. Bên cạnh đó, tài nguyên rừng và tài

nguyên du lịch biển cũng khá đa dạng. Vì thế, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỉnh Bến Tre đã xác định kinh tế biển

là ngành kinh tế mũi nhọn. Ngành kinh tế biển thế mạnh của tỉnh là ngành kinh tế

thủy sản. Mặt khác, ngành du lịch biển, nghề muối, nông - lâm nghiệp cũng có đóng

góp lớn trong cơ cấu GDP vùng ven biển và GDP của toàn tỉnh.

2.2.1. Giai đoạn trước năm 2000

Nhìn chung, giai đoạn trước năm 2000, kinh tế biển tỉnh Bến Tre phát triển

đạt được một số thành tựu, nhất là ngành thủy sản bắt đầu khởi sắc và có bước phát

triển khá.

Sản lượng khai thác hải sản ngày càng tăng, đạt hơn 62.000 tấn (năm 2000),

khai thác thủy sản xa bờ ngày càng được khuyến khích đầu tư. Ngành nuôi trồng

hải, đặc sản bắt đầu phát triển mạnh, diện tích nuôi trồng thủy, hải sản tăng lên qua

các năm và đã áp dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật trong nuôi trồng. Công nghiệp chế

biến thủy sản được đầu tư, khuyến khích phát triển.

Nghề muối khá phát triển, giai đoạn 1996 – 2000, giá trị sản xuất trung bình

đạt hơn 65 tỉ đồng/năm, sản lượng trung bình đạt 58.400 tấn/năm. Sản lượng muối

của tỉnh tuy chưa ổn định nhưng đã đủ đáp ứng nhu cầu muối ăn cho nhân dân trong

tỉnh và cung cấp một phần cho công nghiệp.

Nông – lâm nghiệp không phải là nghề trực tiếp khai thác biển nhưng là

ngành sản xuất chính của vùng ven biển. Sản xuất nông – lâm nghiệp của tỉnh Bến

Tre đóng góp 48,5 % GDP toàn tỉnh vào năm 2000. Cơ cấu ngành nông nghiệp của

các huyện ven biển thời kì 1996 – 2000 đã dần chuyển sang hướng sản xuất hàng

hóa và đa dạng hóa sản phẩm. Sản xuất lâm nghiệp vùng ven biển phát triển khá

mạnh, phong trào trồng và chăm sóc rừng được đẩy mạnh.

50

Ngành du lịch Bến Tre có nhiều ưu thế về các sản phẩm du lịch miệt vườn

sông nước gắn với cảnh quan thiên nhiên và các vườn cây ăn trái; tham quan di tích

lịch sử - văn hóa lễ hội.

Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển của tỉnh giai đoạn này còn nhiều hạn

chế, các ngành kinh tế biển phát triển chưa mạnh, chưa đồng bộ và cơ cấu các

ngành kinh tế biển chuyển dịch chưa rõ ràng.

Kinh tế thủy sản là ngành phát triển mạnh nhất, tuy nhiên năng lực khai thác

hải sản chưa tương xứng với tiềm năng của vùng biển. Phần lớn các phương tiện

khai thác nhỏ, có công suất thấp; kĩ thuật khai thác chưa hợp lý, phần lớn là lưới

mùng, cào điện, lưới rê,… nên chỉ khai thác chủ yếu ở vùng ven bờ (chiếm 80%

tổng số phương tiện) do đó sản lượng khai thác và chất lượng sản phẩm chưa cao,

làm ảnh hưởng đến nguồn lợi ven bờ và khả năng tái tạo tài nguyên biển.

Ngành nuôi trồng hải sản phát triển nhưng chưa mạnh, sản phẩm nuôi trồng

chưa đa dạng, mới chỉ tập trung vào các sản phẩm là tôm và nghêu, cá để xuất khẩu.

Việc phát triển mạnh mẽ phong trào nuôi tôm các huyện ven biển chưa kết hợp với

bảo vệ môi trường làm môi trường nước bị ô nhiễm, dịch bệnh lây lan nên năng suất

và chất lượng sản phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, hình thức nuôi chủ yếu mang tính

truyền thống (quảng canh), nuôi trong rừng ngập mặn nên hiệu quả thấp và một

lượng lớn rừng ngập mặn bị tàn phá dẫn đến mất cân bằng sinh thái vùng biển.

Công nghiệp chế biến còn nhỏ, lẻ. Số lượng nhà máy, cơ sở chế biến thủy sản còn

ít, năng suất chưa cao và chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu ngành thủy sản của tỉnh.

Nghề muối của tỉnh Bến Tre thời kì này còn nhiều hạn chế. Công nghệ làm

muối mang tính truyền thống, dựa vào kinh nghiệm là chính, hoàn toàn bằng

phương pháp thủ công nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu

sản xuất công nghiệp. Sản phẩm thu hoạch chưa đa dạng, chủ yếu là muối thô,

không có sản phẩm thạch cao và nước ót. Sản lượng muối chưa ổn định và muối sản

xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu muối ăn cho nhân dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận,

thị trường tiêu thụ chưa mở rộng. Do còn nhiều hạn chế nên đời sống diêm dân

51

(người dân làm nghề muối) trong tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ chưa thoát

được .

Sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn ở trình độ thấp, năng suất và sản lượng

cây trồng chưa cao nên chưa hình thành được vùng nguyên liệu lớn, ổn định cho

công nghiệp chế biến. Sản xuất nông nghiệp một số nơi, nhất là vùng xa, vùng sâu

còn mang tính độc canh do đất canh tác không tốt, đời sống người dân gặp nhiều

khó khăn. Riêng ngành lâm nghiệp đã chú trọng công tác trồng và chăm sóc rừng

nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Thời kì 1999 – 2000, do phát triển phong trào

nuôi tôm biển xuất khẩu một cách ồ ạt, tự phát dẫn đến việc nhiều diện tích rừng

ngập mặn bị phá làm đầm nuôi tôm đã làm cho diện tích rừng tự nhiên năm 2000

giảm mạnh, chỉ còn 994 ha. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị về nhiều mặt để phát

triển kinh tế biển của tỉnh nên cần có biện pháp hiệu quả, tích cực bảo vệ nguồn tài

nguyên này.

Du lịch biển tỉnh Bến Tre giai đoạn này chưa phát triển mạnh do nhiều

nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Bến Tre có

vị trí như một “ốc đảo”, gần như bị cô lập về giao thông đường bộ với các địa

phương khác bởi các sông lớn. Hệ thống cầu nối liền hai bờ Bến Tre – Tiền Giang,

Bến Tre – Vĩnh Long chưa được xây dựng, phải dùng phương tiện phà vận chuyển.

Hệ thống đường giao thông trong tỉnh kém phát triển: các đường tỉnh lộ từ trung

tâm tỉnh đến các huyện ven biển chưa được nhựa hóa, nhiều cầu cống nhưng trọng

tải thấp, cũ kĩ, xe 50 chỗ qua lại khó khăn. Hạ tầng cơ sở tối thiểu như nhà hàng,

khách sạn đạt tiêu chuẩn rất ít, nhất là tại các điểm du lịch. Năm 2000, toàn tỉnh mới

chỉ có 4 khách sạn với 60 buồng, 124 giường, mới có 2 doanh nghiệp kinh doanh du

lịch trên toàn tỉnh.

Mặt khác, sản phẩm du lịch biển của tỉnh còn đơn điệu, chủ yếu là tham quan

ngắm cảnh. Sản phẩm du lịch còn mang tính trùng lập với các địa phương khác nhu

Tiền Giang, Vĩnh Long do có nhiều nét tương đồng nên chưa tạo được dấu ấn riêng.

Giai đoạn 1996 – 2000, do có nhiều biến động về kinh tế - xã hội như bão số

5 năm 1997 làm thiệt hại nghiêm trọng người và của; cùng năm đó, xảy ra khủng

52

hoảng kinh tế khu vực Đông Nam Á nên sản xuất xã hội toàn tỉnh giảm mạnh. Điều

này làm giảm năng lực đầu tư cũng như khả năng thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh,

nhất là đầu tư phát triển kinh tế biển.

Tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh năm 1999 mới chỉ đạt

1.148 tỉ đồng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất ít, chỉ đạt 59 triệu đồng, sau đó

tăng mạnh vào năm 2000, đạt 15 tỉ đồng. Riêng ba huyện ven biển của tỉnh, vốn đầu

tư năm 1999 là 424 tỉ đồng, chiếm 36,9 % vốn đầu tư toàn tỉnh. Song, thời kì này

chủ yếu là đầu tư phát triển nông – lâm nghiệp, thủy sản, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ

bản như cầu cống, đường xá. Mặt khác, do nguồn vốn hạn chế, đầu tư còn mang

tính dàn trãi xã hội, chưa chú trọng đầu tư các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch

biển và giao thông vận tải biển nên hiệu quả đầu tư chưa cao.

Mặc dù có đường bờ biển dài 65 km và trên lãnh thổ có 4 cửa sông lớn đổ ra

biển nhưng tiềm năng và điều kiện phát triển vận tải biển của tỉnh Bến Tre rất hạn

chế. Do lãnh thổ ở phần hạ lưu của sông Cửu Long nên các cửa sông lớn có độ bồi

lắng phù sa rất lớn, địa hình bờ biển là các bãi bồi nông, rộng, trãi dài về phía biển

nên không thích hợp cho việc xây dựng cảng biển. Đây cũng là tình trạng chung của

các tỉnh ven biển vùng đồng bằng song Cửu Long, trừ Kiên Giang có bờ biển nằm

trên nền địa chất cứng hơn, có khả năng phát triển cảng biển. Giai đoạn này, việc

vận tải hàng hóa bằng đường biển của tỉnh rất hạn chế do không có cảng và đội tàu

biển, chủ yếu phát triển vận tải đường đường sông và đường bộ.

Trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 1996 – 2000 mới chỉ có các dự án xây dựng các

cảng cá, bến cá tại ba huyện ven biển để phục vụ phát triển ngành hải sản, chưa có

dự án phát triển cảng biển.

2.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010

2.2.2.1. Hiện trạng phát triển ngành thủy sản

Bến Tre có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển ngành thủy sản. Tuy nhiên,

giai đoạn 1996 – 2000, ngành thủy sản tỉnh phát triển chưa mạnh. Từ sau năm 2000,

ngành thủy sản tỉnh đã có bước phát triển mới cả về lượng và chất.

53

Giai đoạn 2001 – 2010, GDP ngành thủy sản tăng thêm 1.052,5 tỉ đồng,

trung bình tăng thêm 105,3 tỉ đồng/năm, cao hơn mức tăng trung bình thời kì 1996 –

2000 (77,8 tỉ đồng/ năm).

Bảng 2.3: GDP và giá trị sản xuất ngành thủy sản tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010

Năm

2001

2003

2005

2007

2009

2010

1. GDP toàn ngành

914

1.090,3

1.344,4

1.543,5

1.758,5

1.966,5

(Tỉ đồng)

2. Giá trị sản xuất

1.485,4

1.806,4

2.264,1

3.132,1

3.904

4.486,9

theo giá so sánh

(Tỉ đồng)

53,7

41

37,8

29,9

35,2

34

Khai thác (%)

46,3

59

62,2

70,1

64,8

66

Nuôi trồng (%)

3. Sản lượng (Tấn)

127.714

129.049

137.381

175.757

246.751

290.585

Khai thác (%)

52,1

48,7

53,9

43,3

40,5

41,6

Nuôi trồng (%)

47,9

51,3

46,1

56,7

59,5

58,4

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Do có sự phát triển khá đồng đều ở cả hai lĩnh vực khai thác và nuôi trồng

nên giá trị sản xuất thủy sản tăng cao, đảm bảo năm sau luôn cao hơn năm trước.

Năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản là 4.486,9 tỉ, gấp 3 lần so với năm 2001; bình

quân mỗi năm tăng thêm 498,5 tỉ đồng, cao gấp 2,3 lần giai đoạn 1996 – 2000 (208

tỉ đồng/năm) theo giá so sánh. Giai đoạn 1996- 2000, ngành khai thác luôn chiếm tỉ

trọng hơn 65% giá trị sản xuất ngành thủy sản. Trong khi đó, giai đoạn 2001 –

2010, ngành khai thác giảm nhanh tỉ trọng, từ 54% (năm 2001) xuống còn 35%

(2010) và kể từ năm 2002, tỉ trọng ngành khai thác thấp hơn tỉ trọng ngành nuôi

trồng, đây là điều chưa bao giờ xảy ra trước năm 2000. Điều này chứng tỏ có sự

chuyển dịch lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản của tỉnh.

Sản lượng thủy sản năm 2010 (290.585 tấn) tăng hơn 2,3 lần so với năm

2001 (127.714 tấn). Trong đó, sản lượng ngành khai thác thời kì 2001-2010 tăng

54.468 tấn, sản luợng nuôi trồng tăng 108.403 tấn. Từ năm 2007 trở đi, tỉ trọng sản

54

lượng thủy sản ngành nuôi trồng luôn cao hơn 50%, vượt qua tỉ trọng ngành khai

thác.

Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản của tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010

Tấn

1 7 5 9 6 1

180000

8 1 0 7 5 1

7 0 7 6 4 1

160000

140000

120000

1 3 5 9 9

100000

9 1 1 1 7

4 6 2 9 6

9 9 0 6 6

80000

2 4 3 3 6

8 6 1 1 6

1 2 5 0 6

60000

4 1 0 1 2 1

40000

4 4 0 0 0 1

9 8 3 1 8

6 2 2 6 7

9 9 6 5 7

9 3 0 4 7

1 5 7 1 7

6 4 5 6 6

1 8 0 3 6

0 5 9 2 6

20000

0

Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Khai thác

Nuôi trồng

Riêng ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú chiếm ưu thế về

kinh tế thủy sản cả lĩnh vực khai thác lẫn nuôi trồng thủy sản so với các huyện khác,

nhất là thời kì 2005 – 2010.

Năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản của ba huyện ven biển đạt 5.547 tỉ đồng

(74,2 % giá trị sản xuất thủy sản toàn tỉnh). Trong đó, ngành khai thác thủy sản mà

chủ yếu là hải sản đạt 2.187 tỉ đồng (94,4% toàn tỉnh), ngành nuôi trồng là 3.316,9

tỉ đồng (65,7% toàn tỉnh), các ngành dịch vụ thủy sản phát triển mạnh hơn so với

thời kì trước, đạt 43 tỉ đồng (40% toàn tỉnh).

Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển từ 2005 đến năm 2010, tăng thêm

69.713 tấn và luôn chiếm hơn 64% sản lượng thủy sản toàn tỉnh, cá biệt, năm 2005,

chiếm 85,7% sản lượng thủy sản toàn tỉnh. Năm 2010, sản lượng thủy sản của ba

huyện đạt 187.661 tấn. (Xem bảng 2.4)

55

Bảng 2.4: Sản lượng thủy sản ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre, 2005 – 2010

Đơn vị: tấn

Năm 2005 2007 2008 2009 2010

1. Sản lượng toàn tỉnh 137.381 175.757 238.407 246.751 290.585

Huyện Bình Đại 58.447 71.386 88.695 88.794 100.786

Huyện Ba Tri 44.555 44.402 47.733 56.274 66.815

Huyện Thạnh Phú 14.946 14.559 16.598 18.926 20.060

85,7 74,2 64,2 66,5 64,6

2. Tỉ lệ của ba huyện ven biển so với toàn tỉnh (%)

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Hiện trạng phát triển ngành khai thác thủy sản:

Giai đoạn 2001 – 2010, tỉnh Bến Tre đã định hướng tăng cường khai thác xa

bờ, ưu tiên đầu tư, đổi mới trang thiết bị - công nghệ, nâng cao năng lực khai

thác,..nên ngành khai thác thủy sản phát triển mạnh hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao

hơn giai đoạn 1996 – 2000, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng giá trị sản xuất

ngành thủy sản của tỉnh.

Bảng 2.5: Giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản tỉnh Bến Tre theo giá so

sánh, 2001 – 2010

Ngành khai thác thủy sản Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Cơ cấu (%) 54 47 41 38 38 35 30 29 35 34

Giá trị sản xuất (triệu đồng) 797.299 768.824 740.693 793.901 856.742 912.993 935.562 1.070.161 1.373.667 1.526.584 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

56

Qua bảng 2.5 cho thấy, giá trị sản xuất ngành khai thác thủy sản mà chủ yếu

là hải sản giai đoạn 2001 – 2010 tăng thêm 729,3 tỉ đồng, từ 797,3 tỉ đồng (năm

2001) lên 1.526,6 tỉ đồng (năm 2010), tăng gần 2 lần giá trị. Tốc độ tăng trưởng giá

trị sản xuất ngành khai thác là 10,2 %/năm, thấp hơn tốc độ tăng trưởng thời kì 1996

– 2000 (22,8%/năm). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm bình quân hằng năm thời kì 2001

– 2010 là 155,3 tỉ đồng/năm, cao hơn giai đoạn 1996 – 2000 (134,4 tỉ đồng/năm).

Bên cạnh đó, có sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy

sản của tỉnh. Giai đoạn 1996- 2000, ngành khai thác luôn chiếm tỉ trọng hơn 65%

giá trị sản xuất ngành thủy sản. Trong khi đó, giai đoạn 2001 – 2010, ngành khai

thác giảm nhanh tỉ trọng, từ 54% (năm 2001) xuống còn 35% (2010) và kể từ năm

2002, tỉ trọng ngành khai thác thấp hơn tỉ trọng ngành nuôi trồng, đây là điều chưa

bao giờ xảy ra trước năm 2000.

Nguyên nhân là do giai đoạn trước năm 2000, ngành khai thác thủy hải sản

chiếm ưu thế hơn hẳn ngành nuôi trồng và phải tăng trưởng nhanh để đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng mà ngành nuôi trồng chưa thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, giai đoạn

1996 – 2000, ngành khai thác phát triển chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên phong

phú ven bờ. Trong khi đó, giai đoạn 2001 – 2010, nguồn lợi thủy sản ven bờ giảm

nhanh, ngư dân tích cực thực hiện chủ trương khuyến khích đánh bắt xa bờ, khai

thác các hải sản có giá trị kinh tế cao đồng thời kĩ thuật, công nghệ, phương tiện

khai thác ngày càng hiện đại hóa nên tốc độ tăng trưởng thấp nhưng giá trị sản xuất

cao. Tỉ trọng ngành khai thác ngày càng giảm nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng chứng

tỏ ngành thủy sản của tỉnh đã phát triển ngày càng hợp lí, hiệu quả hơn, dần dần

giảm sự phụ thuộc vào nguồn lợi thủy hải sản ven bờ và ngành khai thác để tăng

khả năng khai thác tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản nhằm chủ động nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến.

Yếu tố quan trọng góp phần vào việc tăng trưởng ngành khai thác thủy hải

sản là số lượng và đặc điểm phương tiện đánh bắt. Số tàu thuyền đóng mới và đăng

kí khai thác trên địa bàn tỉnh Bến Tre năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2010,

toàn tỉnh có 5.785 tàu thuyền cơ giới, tăng 2.505 chiếc so với năm 2001. Tổng công

57

suất tàu thuyền không ngừng tăng lên, năm 2010 là 634.010 CV, tăng 2,2 lần so với

đầu giai đoạn (149.975 CV), công suất trung bình đạt 109,6 CV/chiếc.

Trong đó, số tàu thuyền đánh bắt xa bờ được đầu tư, phát triển, đóng mới

hàng năm nên không ngừng tăng lên để tăng thời gian khai thác trên biển, giảm chi

phí do việc ra vào nhiều lần và tăng cường khả năng khai thác tài nguyên vùng biển

khơi. Bến Tre là một trong những tỉnh có đội tàu khai thác xa bờ thuộc tốp đầu cả

nước. Năm 2010, toàn tỉnh có 1.549 chiếc (22,8% số tàu thuyền đánh bắt), tăng

1.139 chiếc so với năm 2001. Tổng công suất tàu đánh bắt xa bờ là 509.602 CV,

trung bình 329 CV/chiếc (2010). Vùng biển hoạt động nghề khai thác hải sản của

tỉnh khá rộng, trải dài từ Vũng Tàu đến vịnh Thái Lan, đặc biệt có một lượng lớn

tàu thuyền hoạt động thường xuyên ở vùng biển Nam Côn Sơn (tiếp giáp với

Malayxia, Inđônêxia, Philippin).

Riêng địa bàn ba huyện ven biển là nơi tập trung số phương tiện đánh bắt xa

bờ nhiều nhất của tỉnh. Số lượng tàu đánh bắt thủy hải sản tăng qua các năm, đặc

biệt thời kì 2005 – 2010 tăng mạnh từ 2.472 chiếc lên 4.174 chiếc. Mỗi huyện ven

biển đều tích cực đầu tư đóng mới tàu thuyền, nhất là tàu đánh bắt xa bờ, công suất

lớn, từng bước hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị phục vụ đánh bắt. Tỉ lệ tàu

thuyển đánh bắt thủy hải sản của ba huyện ven biển thời kì 2005 – 2010 luôn chiếm

hơn 72% số tàu thuyền đánh bắt toàn tỉnh, riêng tàu đánh bắt xa bờ là 1.489/1.549

chiếc của toàn tỉnh (chiếm 96%). Trong đó, từ năm 2005, huyện Ba Tri có số

phương tiện đánh bắt mà nhất là tàu đánh bắt xa bờ cao nhất tỉnh, cao hơn cả huyện

Bình Đại; huyện Thạnh Phú do còn yếu kém về cơ sở vật chất, thiếu vốn đầu tư nên

số lượng tàu thuyền đánh bắt tương đối ít.

So với giai đoạn 1996 – 2000, thời kì này phương pháp và kĩ thuật khai thác

thủy hải sản khá đa dạng và có sự thay đổi theo hướng tích cực. Theo đó, chuyển

dần từ phương pháp khai thác truyền thống sang phương pháp mới, hiện đại hơn;

hạn chế dần khai thác gần bờ, tăng cường khai thác xa bờ. Các phương pháp như

lưới kéo, lưới rê, cào điện,…dần được thay thế bằng phương pháp cào khơi, lưới

đôi, bẩy rập, lưới vây ánh sáng,.. để giảm tính lạm sát nguồn lợi thủy hải sản…Đội

58

ngũ thuyền trưởng, thuyền viên có tay nghề, có khả năng nắm bắt được các ngư

trường trọng điểm và ngư trường xa bờ. Đặc biệt, từ năm 2002 trở đi, tỉnh khuyến

khích ngư dân ra khơi theo từng đoàn để hỗ trợ nhau, đảm bảo an toàn cho người và

phương tiện, nâng cao hiệu quả khai thác đồng thời góp phần tích cực bảo vệ an

ninh biển, đảo của Tổ quốc.

Do thực hiện tốt chủ trương tăng cường đánh bắt xa bờ, đồng thời đóng mới

tàu thuyền, đổi mới công nghệ - kĩ thuật khai thác nên sản lượng khai thác của tỉnh

tăng mạnh trong thời kì 2001 – 2010.

Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện sản luợng thuỷ sản khai thác tỉnh Bến Tre,

2001 -2010

Tấn

140000

1334

120000

1669

100000

1148

80000

3502 3306 1558 1283

2464

3970 3542

60000

98375

74943

40000

70733

119679

59408

80241

64082

74141

68249

59111

20000

0

Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Khai thác biển

Khai thác nội địa

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Sản lượng khai thác thủy hải sản toàn tỉnh năm 2010 là 121.014 tấn, tăng 1,8

lần sản lượng năm 2001, chiếm 47,7% sản lượng thủy sản toàn tỉnh, trung bình tăng

thêm 6.052 tấn/năm. Trong đó, khai thác biển chiếm ưu thế gần như tuyệt đối so với

sản lượng khai thác nội địa vì khai thác biển là nghề truyền thống và ngư dân vùng

biển có nhiều kinh nghiệm khai thác trên biển, đồng thời nguồn lợi hải sản vùng

biển lớn gấp nhiều lần nguồn lợi thủy sản nội địa. Từ năm 2002, sản lượng khai thác

59

biển tăng liên tục, đạt 119.679 tấn (2010), chiếm 98,9% sản lượng khai thác thủy

sản toàn tỉnh.

So với các huyện khác của tỉnh Bến Tre, ba huyện ven biển chiếm ưu thế về

khai thác thủy sản, đặc biệt là khai thác hải sản do có địa bàn giáp biển, có kinh

nghiệp khai thác biển từ lâu đời và không ngừng đổi mới phương tiện, kĩ thuật khai

thác.

Giai đoạn 2001 – 2010, sản lượng khai thác thủy hải sản của ba huyện ven

biển tăng mạnh, nhất là giai đoạn 2005 – 2010. Năm 2010, đạt 115.127 tấn, tăng

83.860 tấn (tăng 2,2 lần) so với năm 2005 (67.267 tấn). Sản lượng khai thác thủy

hải sản của ba huyện ven biển trong giai đoạn 2005 – 2010 luôn chiếm trên 90% sản

lượng thủy sản khai thác toàn tỉnh, trong khi các huyện còn lại chỉ chiếm 10% sản

lượng khai thác toàn tỉnh. (Xem bảng 2.6)

Bảng 2.6: Sản lượng khai thác thủy sản phân theo huyện, 2005 – 2010

Đơn vị: tấn

Năm 2005 2007 2008 2009 2010 Huyện

Toàn tỉnh 74.039 76.226 81.389 100.044 121.014

Ba huyện 67.267 74.360 79.086 95.465 151.127 ven biển

% so với 90,9 97,6 97,1 95,4 95,1 toàn tỉnh

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Trong đó, huyện Bình Đại đạt sản lượng là 54.379 tấn (năm 2010), chiếm

44,9% toàn tỉnh; huyện Ba Tri đạt sản lượng 53.108 tấn (năm 2010), chiếm 43,9%

toàn tỉnh. Riêng huyện Thạnh Phú, khai thác thủy hải sản thời gian qua có phát triển

nhưng còn hạn chế so với hai huyện kia, sản lượng năm 2010 mới chỉ đạt 7.640 tấn.

Sản phẩm khai thác hải sản chủ yếu của tỉnh là cá biển, tôm biển, mực.

Trong đó, nhiều nhất là cá biển phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.

60

Cá biển chiếm hơn 70% sản lượng thủy hải sản khai thác toàn tỉnh. Năm

2010, sản lượng cá biển tăng hơn 2 lần so với năm 2005, sản lượng bình quân là

58.955 tấn/năm, cao gấp 1,4 lần sản lượng cá biển bình quân thời kì 1996 – 2000

(40.113 tấn/năm). Trong tổng sản lượng khai thác cá biển toàn tỉnh thì ba huyện ven

biển chiếm 96%, đạt 97.543 tấn (2010), tăng 48.588 tấn so với năm 2005. Riêng các

huyện khác, từ năm 2008 đến năm 2010, sản lượng cá biển tăng lên hơn 3 lần so với

năm 2005 là do các huyện Châu Thành, Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm dù không giáp

biển nhưng từ những năm gần đây vẫn có phát triển đội tàu thuyền đánh bắt hải sản

mà nhất là tàu thuyền đánh bắt xa bờ để cùng các huyện ven biển khai thác tài

nguyên hải sản trên biển. Ngoài cá biển thì tôm biển và mực cũng là sản phẩm hải

sản khai thác chủ lực của tỉnh Bến Tre. (Xem bảng 2.7)

Bảng 2.7: Sản lượng cá biển đánh bắt phân theo huyện năm 2010

Đơn vị: Tấn

Năm 2005 2007 2008 2009 2010

Huyện

Toàn tỉnh 53.123 53.323 58.055 75.278 101.500

Ba huyện ven biển 48.955 52.419 57.030 72.802 97.543

+ Bình Đại 24.958 26.444 27.730 35.927 45.469

+ Ba Tri 22.458 24.792 27.376 33.822 47.745

+ Thạnh Phú 1.539 1.183 1.924 3.053 4.329

Các huyện khác 4.168 904 1.025 2.485 3.957

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Để nâng cao năng lực và tạo đà phát triển bền vững ngành khai thác hải sản,

tỉnh Bến Tre đã đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động các cảng cá, bến cá trên địa

bàn ba huyện ven biển. Trong đó, nổi bật nhất là cảng cá Ba Tri, cảng cá Bình Đại

và cảng cá Thạnh Phú.

Cảng cá, bến cá là những bộ phận cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần cơ bản của

hoạt động đánh bắt hải sản với những chức năng như: nơi cất bến, buôn bán và cung

61

cấp các dịch vụ, sửa chữa tàu thuyền, cung cấp ngư cụ, nhiên liệu, bảo quản sản

phẩm, đầu mối lưu thông và phân phối các sản phẩm khác. Ngoài ra, còn là nơi

quản lý tàu thuyền hoạt động khai thác, cung cấp các thông tin về ngư trường, thiên

tai, cứu nạn…

 Cảng cá An Thủy – huyện Ba Tri:

Cảng cá Ba Tri là cảng cá được xây dựng đầu tiên trên địa bàn tỉnh. Cảng

nằm ở cửa sông Hàm Luông (xã An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre) do Bộ Thủy sản

cũ đầu tư xây dựng năm 2001, khánh thành năm 2002. Cảng cá này có tổng diện tích 19.495m2, hơn 12.400m2 được dùng làm đường, bãi nội bộ, phòng làm việc,

khu xử lý nước thải, hệ thống điện, nước, còn lại là diện tích cho thuê các loại hình

dịch vụ thủy sản phục vụ đánh bắt. Hai cầu của cảng có tổng chiều dài 160m: Cầu

tàu lớn sát sông Hàm Luông dài 100m dùng cho tàu có công suất lớn cập cảng; cầu

nhỏ (dọc theo rạch Bà Hiền) dành cho tàu nhỏ có công suất khoảng 60 CV neo đậu.

Với địa thế rất lí tưởng, hàng năm có hàng nghìn tàu thuyền cập bến lên hàng. Năm

2010, lượng tàu neo đậu khoảng 6000 lượt, tàu lên hàng 2.900 lượt, hàng thủy sản

qua cảng là 22.000 tấn.

Tuy nhiên, hiện tại, với chiều dài của cầu lớn, cầu này chỉ đủ cho 5 - 6 tàu

lớn cập bến để lên hàng thủy sản và nhận nhiên liệu. Vào mùa vụ (mùa Nam từ

tháng 5 đến tháng 10), lượng tàu cập cảng nhiều hơn, hai cầu tàu không đủ sức

chứa. Con rạch Bà Hiền cập sát bên trong cảng, rộng chỉ 40m, hai bên rạch đều là

bãi bồi, khiến tàu vào cảng rất khó khăn, dễ bị ùn tắc và gây ô nhiễm. Các dịch vụ

trên bờ trở nên chật chội. Hàng ngày có khoảng 500 lao động làm việc ở các cơ sở

thu mua thủy sản, cung cấp nước đá, dầu mỡ, quán ăn uống… san sát nhau. [19]

 Cảng cá Bình Thắng – huyện Bình Đại:

Là cảng cá thứ hai của tỉnh, được xây dựng sau cảng cá An Thủy – huyện Ba

Tri, nhưng là cảng cá hoạt động hiệu quả nhất của tỉnh Bến Tre hiện nay. Hiện cảng

có 6 vựa cá và 2 đại lý; 7 cơ sở sơ chế; 1 kho chứa cá phân; 2 cơ sở cơ khí; 3 dịch

vụ ăn uống; 1 cửa hàng xăng dầu; 1 xưởng nước đá công suất 1.000 cây/ngày.

Ngoài ra, hàng ngày còn một số cá nhân hoạt động thu mua nhỏ lẻ cung cấp hàng

62

cho các chợ trong tỉnh, các cơ sở chế biến khô và khoảng 500 lao động phổ thông

tại địa phương hoạt động trong cảng.

Lượng tàu cá trên địa bàn huyện Bình Đại đến cuối năm 2010 là 1.208 tàu,

trong đó tàu xa bờ là 535 tàu. Trong năm, lượng tàu cập cảng 3.275 lượt, tăng 30 %

so với cùng kỳ năm 2009, trong đó lượng tàu ngoài tỉnh chiếm 5%. Giá thu mua

nguyên liệu của các vựa cá trong năm qua được nâng lên ngang bằng với các cảng

cá trong khu vực nên tất cả các tàu cá của địa phương đều tập trung về cảng. Năm

2010 là năm mang lại hiệu quả cao nhất trong 10 năm qua đối với lĩnh vực khai thác

thuỷ sản trên địa bàn huyện Bình Đại.

Sản lượng hàng thủy sản qua cảng đạt 25.716 tấn, tăng 69 % so với cùng kỳ

năm 2009. Các mặt hàng sơ chế đa dạng hơn và kỹ thuật sơ chế có bước cải tiến đáp

ứng được yêu cầu của các nhà máy chế biến xuất khẩu. Nếu như các năm trước chỉ

tập trung vào 2 mặt hàng chủ yếu là mực và cá chỉ vàng thì nay có thêm hàng cá bò,

cá đục, nhằm góp phần giảm thiểu tỷ lệ cá phân của tàu khai thác, nâng cao hiệu

quả trong sản xuất.

Năm 2010, hệ thống dịch vụ hậu cần trên cảng được đầu tư tương đối hoàn

thiện, chất lượng dịch vụ có bước nâng cao, đảm bảo các điều kiện về an toàn vệ

sinh thực phẩm. Phương thức mua bán có sự thay đổi và điều chỉnh phù hợp với

kinh tế thị trường làm cho hoạt động của Cảng ngày càng năng động và thu hút

được khách hàng trong và ngoài tỉnh đến liên kết cung ứng dịch vụ, thu mua hàng

thuỷ sản.

Tuy nhiên, với qui mô diện tích 1,75ha và hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện có

của cảng cá Bình Đại chưa tương ứng với tiềm năng khai thác thuỷ sản của địa

phương. Bên cạnh đó công suất thiết kế hiện tại của cảng là 21.600 tấn/năm so với

25.716 tấn ở năm 2010 là quá tải, gây khó khăn cho công tác sắp xếp điều tiết tàu

cặp cảng lên hàng. Lượng tàu cá trên địa bàn huyện tăng nhanh và không có nơi neo

đậu để duy tu sửa chữa hoặc chờ ra khơi, vì vậy một số tàu phải neo đậu tại cảng

làm cản trở việc sắp xếp tàu lên hàng. Dự án mở rộng cảng cá Bình Đại cũng đã

được Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn phê duyệt vào cuối năm 2010, với

63

diện tích mở rộng 3,5ha. Tổng mức vốn đầu tư của dự án là 130 tỷ đồng, trong đó

vốn ngân sách trung ương là 123,3 tỷ đồng, vốn ngân sách tỉnh là 6,7 tỷ đồng.

Trong năm 2011 ngân sách trung ương chỉ phân bổ 250 triệu đồng để khảo sát, lập

dự án chứ chưa bố trí vốn để khởi công mới.

 Cảng cá An Nhơn (Thạnh Phú)

Là cảng cá thứ ba của tỉnh Bến Tre, nằm trên địa bàn xả An Nhơn, huyện

Thạnh Phú, được khởi công xây dựng năm 2007. Cảng được thiết kế có độ sâu đủ

chuẩn cho tàu 400 CV cập bến. Công trình có tổng nguồn vốn đầu tư là 40 tỷ đồng

từ nguồn ngân sách Nhà nước, do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre

làm chủ đầu tư. Toàn bộ công trình được triển khai trên diện tích 3 ha, bao gồm 2

phần với đầy đủ các dịch vụ hậu cần liên quan đến đánh bắt, chế biến thủy sản.

Trong đó, khu vực bên trong cảng bao gồm nhà phân loại, khu dịch vụ và cung cấp

xăng dầu. Khu vực ngoài cảng bao gồm nhà máy nước đá, cơ khí, sửa chữa tàu

thuyền, chế biến cá khô... Đến năm 2010, cảng cá An Nhơn vẫn chưa được xây

dựng xong nhưng với việc triển khai xây dựng cảng cá này đã góp phần tạo động

lực cho sự phát triển của ngành khai thác hải sản huyện Thạnh Phú nói riêng và tỉnh

Bến Tre nói riêng. Đến năm 2012, cảng cá đi vào hoạt động sẽ giúp phát triển bền

vững nghề khai thác, chế biến thủy sản tại huyện Thạnh Phú, góp phần hoàn thiện

hệ thống hậu cần và dịch vụ nghề cá, đáp ứng kịp thời sự phát triển ngày càng

nhanh, mạnh của ngành thủy sản tỉnh trong những năm tới.

 Hiện trạng phát triển ngành nuôi trồng thủy hải sản ở tỉnh Bến Tre

So với giai đoạn 1996 – 2000 ngành nuôi trồng thủy hải sản Bến Tre chỉ mới

bước đầu phát triển và còn gặp rủi ro cao, giai đoạn 2001 – 2010, ngành đã có

những bước tiến quan trọng và bền vững.

Giá trị ngành nuôi trồng thủy hải sản của tỉnh năm 2010 là 5.053,7 tỉ đồng,

cao hơn gấp 6 lần năm 2001 (824 tỉ đồng), trung bình đạt 2.548,9 tỉ/năm. Cơ cấu giá

trị ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh cũng có sự thay đổi lớn. Giai đoạn 1996 –

2000, ngành nuôi trồng chiếm 26 – 35% giá trị sản xuất thủy sản toàn tỉnh thì giai

đoạn 2001 – 2010 tăng lên từ 47 – 68%, cá biệt năm 2007, tỉ trọng ngành nuôi trồng

64

là 72,2%. Từ năm 2002 đến năm 2010, ngành nuôi trồng đã vượt tỉ trọng ngành khai

thác.

Đối với Bến Tre, tiềm năng nuôi trồng thủy sản là rất lớn. Diện tích mặt

nước có thể nuôi trồng thủy sản là trên 50.000 ha. Thập kỉ đầu của thế kỉ XX, diện

tích nuôi trồng thủy sản không ngừng được mở rộng. Năm 2010, diện tích mặt nước

đã nuôi thủy sản là 42.490 ha.

Việc nuôi trồng thủy hải sản phát triển mạnh cả ba môi trường ngọt, lợ và

mặn. Trong đó, diện tích nuôi thủy hải sản vùng mặn, lợ là 35.000 – 37.000 ha, diện

tích nuôi thủy sản nước ngọt còn ít từ 5.000 đến 7.000 ha nhưng nhờ tăng cường áp

dụng khoa học kĩ thuật và nhiều mô hình phù hợp nên hiệu quả nuôi trồng cao. Các

loài thủy hải sản được nuôi nhiều nhất trong tỉnh là tôm (33.231 ha), cá (4.083 ha),

nghêu, sò, cua biển,…

Từ năm 2003, tỉnh Bến Tre đã xây dựng quy hoạch chi tiết nuôi thủy hải sản

ở ha huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú để xác định từng vùng nuôi

trồng phù hợp với từng loại thủy hải sản. Đây là một thuận lợi lớn để cải tiến và tổ

chức phương thức nuôi mới với các hình thức nuôi hiện đại.

Những năm 1996 – 2000, nuôi trồng thủy hải sản trong tỉnh chỉ mới bắt đầu

phát triển, chủ yếu là nuôi với hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến. Đến năm

2000, một số địa phương mới bắt đầu thử nghiệp hình thức thâm canh, bán thâm

canh nhưng hiệu quả chưa cao, nhiều rủi ro. Từ năm 2001 – 2010, hình thức nuôi

trồng thủy hải sản trong tỉnh ngày càng đa dạng, hiện đại gắn liền với các vùng quy

hoạch. Từ năm 2004, nuôi thủy hải sản theo hình thức công nghiệp, bán công

nghiệp theo hướng thâm canh phát triển mạnh với sự phát triển tương ứng về trình

độ, chuyên môn kĩ thuật, khoa học, công nghệ, vốn đầu tư, nguồn thức ăn và con

giống chất lượng cao. Đặc biệt, giai đoạn 2001 – 2010, nuôi thủy sản với hình thức

trang trại bắt đầu hình thành và phát triển mạnh đã góp phần tạo nên sự chuyển đổi

lớn trong ngành nuôi thủy sản của tỉnh, tiến dần đến việc hình thành vùng sản xuất

hàng hóa. Năm 2010, toàn tỉnh có 2.156 trang trại nuôi trồng thủy sản, chiếm 44%

số trang trại toàn tỉnh.

65

Bên cạnh đó, ngày càng xuất hiện và phổ biến nhiều mô hình nuôi hiệu quả

như nuôi xen 1 vụ tôm – 1 vụ lúa ở vùng lợ; nuôi tôm càng xanh xen canh trong

vườn dừa, ruộng lúa. Đặc biệt, năm 2007, huyện ven biển Thạnh Phú bắt đầu phát

triển mô hình sản xuất mới: 1 vụ tôm sú, 1 vụ tôm càng xanh – lúa. Các mô hình

này đánh dấu một bước tiến mới so với giai đoạn trước, dần trở thành mô hình sinh

thái bền vững, mang lại hiệu quả cao, góp phần cải thiện và ổn định chất lượng cuộc

sống của người dân.

Với việc khai thác ngày càng hiệu quả tiềm năng nên ngành nuôi trồng thủy

hải sản Bến Tre phát triển ngày càng mạnh, sản lượng nuôi trồng không ngừng tăng

lên từ 61.168 tấn (năm 2001) lên 169.571 tấn (năm 2010), trung bình đạt 96.434

tấn/năm, bình quân mỗi năm tăng thêm 12.045 tấn. Mặc dù gặp không ít bất lợi như

thời tiết xấu, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nuôi nhưng do sự cải tiến không ngừng

về công nghệ, kĩ thuật, giống, mô hình,…nên sản lượng nuôi trồng thủy hải sản giai

đoạn 2001 – 2010 tăng nhanh và ổn định hơn, sản lượng bình quân hằng năm cao

hơn 2 lần so với giai đoạn 1996 – 2000. (Xem bảng 2.8)

Bảng 2.8: Sản lượng thủy sản nuôi trồng tỉnh Bến Tre, 2001 – 2010

Đơn vị: tấn

Ngành nuôi trồng

Năm Tổng sản lượng thủy sản toàn tỉnh Sản lượng % so với tổng sản lượng toàn tỉnh

2001 127.174 61.168 47,9

2002 134.200 71.119 53,0

2003 129.049 66.099 51,3

2004 132.272 60.521 45,8

2005 137.381 63.342 46,1

2006 144.963 69.264 47,8

2007 175.757 99.531 56,7

2008 238.407 157.018 65,9

2009 246.751 146.707 59,5

2010 290.585 169.571 58,4

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

66

Qua bảng 2.8 cho thấy, tỉ trọng ngành nuôi trồng thủy hải sản của Bến Tre

giai đoạn 2001 – 2010 đạt từ 45 – 66% trong cơ cấu sản lượng thủy sản của tỉnh. Từ

năm 2004 – 2010, tỉ trọng và sản lượng ngành nuôi trồng tăng liên tục, đến năm

2007 đã vượt qua tỉ trọng ngành khai thác. Năm 2010, sản lượng ngành nuôi trồng

cao hơn sản lượng ngành khai thác thủy sản 48.557 tấn.

Vì ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh phát triển ở cả ba môi trường nuôi

nuốc ngọt, mặn, lợ nên sản phẩm nuôi trồng khá đa dạng. Trong đó, tôm, cá, nghêu,

sò, cua biển chiếm ưu thế về diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng, trở thành

những sản phẩm nuôi trồng chủ lực.

Cá:

Diện tích mặt nước và sản lượng cá nuôi đều tăng qua các năm. Diện tích

mặt nước nuôi cá toàn tỉnh năm 2010 là 4.083 ha, tăng 1.210 ha so với năm 2001

(2.873 ha). Sản lượng cá nuôi tăng rất nhanh, năm 2010 tăng thêm 115.537 tấn so

với năm 2001. Diện tích nuôi cá nước ngọt chiếm ưu thế và đặc biệt tăng nhanh từ

năm 2004 – 2010 cùng với việc sử dụng công nghệ tiên tiến, nuôi công nghiệp theo

hướng thâm canh, sử dụng thức ăn công nghiệp thay cho phương pháp nuôi truyền

thống và thức ăn tự nhiên nên năng suất nuôi cao, sản lượng tăng nhanh, tăng

112.817 tấn từ năm 2004 đến năm 2010. Diện tích nuôi cá nước mặn, nước lợ còn

ít, năm 2010, toàn tỉnh có 139 ha.

Các loại cá nuôi có giá trị kinh tế cao như cá tra, cá basa, cá rô đồng, cá rô

phi,..với sản lượng tăng, chất lượng cao không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong

nước mà còn là nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu

sang nhiều thị trường nước ngoài, nhất là sản phẩm cá tra, cá basa.

Tôm:

Là đối tượng nuôi chủ lực của vùng nước lợ, nước mặn và tập trung nhiều

nhất ở các huyện ven biển. Trong đó, đối tượng nuôi chù yếu là các loại tôm có giá

trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm càng

xanh,...Diện tích nuôi và sản lượng tôm nuôi ngày càng tăng. Diện tích mặt nước

nuôi tôm năm 2010 của tỉnh là 33.231 ha, tăng thêm 14.128 ha so với năm 2001.

67

Trong đó, tôm nước mặn, nước lợ chiếm ưu thế (31.099 ha) so với tôm nước ngọt

(2.420 ha). Từ năm 2003, tỉnh đã hình thành các vùng nuôi tôm công nghiệp, bán

công nghiệp theo hướng thâm canh nên năng suất và sản lượng tăng nhanh. Sản

lượng tôm nuôi năm 2010 đạt 29.208 tấn, tăng 21.184 tấn so với năm 2001 (8.024

tấn).

Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện sản lượng tôm, cá nuôi tỉnh Bến Tre,

2005 – 2010

Tấn

140000

124850

117456

120000

110760

100000

80000

56260

60000

40000

31968

20029

29208

20000

25362

22841

23446

20338

25089

0

Năm

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Tôm Cá

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre năm 2011 [2]

Ngoài ra, nghêu, sò, cua biển cũng là những đối tượng nuôi thế mạnh của

tỉnh Bến Tre trong những năm gần đây. Đặc biệt, năm 2009, Bến Tre là tỉnh đầu

tiên của cả nước và khu vực Đông Nam Á được chứng nhận tiêu chuẩn MSC –

chứng nhận sản phẩm thủy sản sinh thái đạt chất lượng toàn cầu, đối với nghề sản

xuất, quản lý, khai thác nghêu. Chứng chỉ MSC được cấp bởi Hội đồng Biển Quốc

tế (Marine Stewardship Council – MSC), một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế được

thành lập nhằm khuyến khích các giải pháp khắc phục tình trạng khai thác thuỷ sản

quá mức. Đây là một điều kiện rất tốt để sản phẩm nghêu xuất khẩu của Bến Tre

vươn xa trên thị trường thế giới với nhãn hiệu sản phẩm sinh thái, tạo được chỗ

đứng bền vững đối với người tiêu dùng.

68

Chứng nhận MSC là động lực thúc đẩy nghề sản xuất, nuôi và khai thác

nghêu ở Bến Tre phát triển mạnh và bền vững. Nghề nuôi nghêu ở Bến Tre có sự

chuyển đổi mạnh mẽ từ hình thức khai thác và nuôi tự phát của người dân ở các bãi

bồi ven biển sang nuôi theo hình thức hợp tác xã để đảm bảo quy trình kĩ thuật và

quản lý môi trường. Đến năm 2010, Bến Tre có 10 hợp tác xã với 35 tổ hợp tác nuôi

nghêu tập trung chủ yếu ở ba huyện ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.

Diện tích nuôi nghêu, sò năm 2010 của tỉnh Bến Tre là 4.543 ha, trong đó có 3.511

ha nuôi nghêu và 1.032 ha nuôi sò huyết, cua biển được nuôi xen với các đối tượng

khác. Sản lượng nghêu, sò năm 2010 là 15.400 tấn.

Ba huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre là những

địa bàn phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy hải sản. Giá trị sản xuất ngành nuôi

trồng thủy hải sản ba huyện ven biển năm 2010 là hơn 3.316 tỉ đồng, gấp 2 lần các

huyện còn lại trong tỉnh. Trong đó huyện Bình Đại đạt hơn 2.012 tỉ đồng, huyện

Thạnh Phú hơn 687 tỉ đồng, huyện Ba Tri gần 617 tỉ đồng.

Diện tích và sản lượng nuôi thủy hải sản của các huyện ven biển tăng mạnh,

nhất là giai đoạn 2005 – 2010. Diện tích nuôi trồng đạt từ 35.000 – 39.000 ha

(chiếm 82 – 93% diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh). Sản lượng nuôi thủy hải sản ba

huyện cũng tăng mạnh trong giai đoạn 2005 – 2010, năm 2010 (69.920 tấn) tăng

19.239 tấn so với năm 2005 (50.681 tấn). Tuy nhiên, tỉ trọng của ba huyện ven biển

trong cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi trồng toàn tỉnh giảm từ 80% (năm 2005)

xuống còn 42,8% (năm 2010) do từ năm 2005 các huyện vùng ngọt phát triển mạnh

nuôi trồng thủy sản, nhất là tăng nhanh diện tích nuôi cá và sản lượng cá nuôi.

Thế mạnh của ba huyện ven biển là nuôi các loại hải sản vùng mặn, lợ, trong

đó nhiều nhất là tôm biển. Diện tích nuôi tôm của ba huyện năm 2010 là 31.547 ha

trên tổng số 33.231 ha nuôi tôm toàn tỉnh (95%) với sản lượng 27.480 tấn (94% sản

lượng tôm toàn tỉnh); diện tích nuôi cá là 1.253 ha với sản lượng 25.440 tấn. Bình

Đại và Thạnh Phú có ưu thế về nuôi tôm biển trong khi Ba Tri có nhiều tiềm năng

về nuôi cá. Ngoài ra, đặc sản của vùng ven biển Bến Tre phải kể đến sản phẩm

nghêu thương phẩm. Ba huyện ven biển có 10 hợp tác xã nuôi và khai thác nghêu

69

với diện tích bãi nghêu đang khai thác là 9.600 ha (so với 15.000 ha tiềm năng).

Hằng năm, tổng sản lượng nghêu (nghêu giống và nghêu thịt) đạt từ 8.000 đến

27.000 tấn. Đặc biệt với chứng nhận MSC, nghề khai thác và nuôi nghêu của ba

huyện ven biển đang ngày càng phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp

phần cải thiện đáng kể đời sống của người dân vùng ven biển.

 Về công tác lai tạo, sản xuất giống

Ngành nuôi trồng thủy hải sản tỉnh Bến Tre đã có bước phát triển và chuyển

dịch mạnh mẽ trong giai đoạn 2001 – 2010 đã làm cho nhu cầu về giống thủy sản

mà nhất là giống tôm biển ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu trên, công tác lai tạo,

sản xuất giống thủy sản của tỉnh không ngừng được đầu tư. UBND tỉnh đã thành lập

Dự án xây dựng quy hoạch khu vực sản xuất tôm giống tập trung với diện tích 20 ha

tại xã Thới Thuận (Bình Đại), đầu tư về cơ sở hạ tầng, cho thuê đất với giá ưu đãi,

hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho cơ sở để đầu tư phát triển. Mặt khác, Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn Bến Tre thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật

nuôi, các lớp kiểm soát về dịch bệnh, môi trường, tổ chức các đợt học tập kinh

nghiệm sản xuất giống của các tỉnh có thế mạnh để nâng cao chất lượng đội ngũ kĩ

thuật sản xuất giống của tỉnh. [10]

Số trại giống và cơ sở dịch vụ không ngừng tăng lên. Năm 2010, toàn tỉnh có

53 trại sản xuất giống đang hoạt động, tăng hơn 20 trại so với năm 2003, trong đó

Bình Đại có 19 trại, Ba Tri có 17 trại, Thạnh Phú có 17 trại, và hàng trăm cơ sở dịch

vụ phục vụ nuôi trồng thủy hải sản trên địa bàn tỉnh. Các trại sản xuất giống của

tỉnh chủ yếu là sản xuất tôm giống nước lợ, cá giống.

Lượng giống sản xuất tại tỉnh tăng lên qua các năm, năm 2010 đạt 364 triệu

post (cá thể con giống bán cho người nuôi) tôm sú, 370 triệu post tôm thẻ chân

trắng. Các trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt sản xuất hơn 31 triệu post tôm

càng xanh, khoảng 29,7 triệu post cá giống các loại. Về nhuyễn thể, hiện tỉnh có các

bãi nghêu giống chất lượng cao của hơn 10 hợp tác xã thủy sản tại ba huyện ven

biển, trong đó nổi bật là hợp tác xã Rạng Đông và hợp tác xã thủy sản Đồng Tâm

(huyện Bình Đại). Nghêu giống được thuần dưỡng trực tiếp tại các bãi bồi ven biển.

70

Đặc biệt, từ năm 2010, Trung tâm Giống thủy sản Bến Tre đã tiếp nhận Dự án

chuyển giao công nghệ sản xuất nghêu giống từ Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng

Thủy sản Bắc Trung Bộ và đã thử nghiệm sản xuất thành công nghêu giống nhân

tạo. Điều này sẽ góp phần giải quyết tốt hơn nhu cầu nghêu giống phục vụ nuôi

trồng trên địa bàn tỉnh. [14]

Nhu cầu về con giống thủy hải sản mà nhất là tôm giống ngày càng cao trong

khi con giống sản xuất tại tỉnh không đáp ứng kịp nên lượng tôm giống nhập tỉnh

cũng tăng mạnh. Năm 2010, lượng tôm giống nhập tỉnh khoảng 470 triệu post, trong

đó giống tôm thẻ chân trắng là 80 triệu post.

Công tác quản lí hoạt động của các trại sản xuất con giống trên địa bàn tỉnh

được tổ chức thực hiện khác chặt chẽ từ khâu giám sát, lấy mẫu xét nghiệm các

bệnh nguy hiểm đến khâu kiểm dịch được thực hiên tốt, tạo được uy tín trong người

nuôi. Đến nay, thị trường tiêu thụ tôm giống của tỉnh được mở rộng ra các tỉnh

thuộc đồng bắng sông Cửu Long như Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng,...

Tuy nhiên, hiện nay, công tác lai tạo, sản xuất giống thủy hải sản của tỉnh

vẫn còn một số hạn chế nhất định. Số trại sản xuất giống có quy mô lớn, được trang

bị kĩ thuật hiện đại chưa nhiều, chủ yếu là các trại nhỏ lẻ, xây dựng từ lâu nên khó

thực hiện đổi mới công nghệ sản xuất. Lượng tôm giống sản xuất tại tỉnh mới chỉ

đáp ứng một phần nhỏ, khoảng 20% nhu cầu trong tỉnh.

Mặt khác, đối với tôm sú, tôm bố mẹ được khai thác từ tự nhiên, phần lớn

không qua kiểm dịch. Tôm thẻ chân trắng có nguồn tôm bố mẹ phải nhập khẩu từ

nước ngoài nên khó kiểm soát chất lượng, phần lớn phải nhập nauplius về ương

thuần thành tôm post nên nguồn cung không chủ động.

Ngoài ra, nước biển sạch phục vụ cho nha cầu ươm tôm giống phần lớn được

các trại mua từ các ghe chở nước nên chi phí sản xuất cao và không chủ động trong

sản xuất.

71

 Hiện trạng phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm

thủy hải

Trong những năm qua, ngành thủy sản tỉnh Bến Tre mà nhất là ngành nuôi

trồng thủy hải sản không ngừng phát triển, cung cấp nguồn nguyên liệu hải sản

sạch, dồi dào cho công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, nhiều vùng nuôi, đối tượng

nuôi được chứng nhận danh giá như GlobalGAP cho cá tra, chứng nhận quản lý bền

vững MSC cho sản phẩm nghêu Bến Tre đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát

triển của công nghiệp chế biến.

Đến năm 2010, toàn tỉnh có 5 nhà máy chế biến thủy hải sản với tổng công

suất thiết kế là 50.000 tấn/năm. Sản lượng thủy sản chế biến tăng mạnh, năm 2010

đạt 26.095 tấn, tăng gần 8 lần so với năm 2001 (3.298 tấn), sản lượng thủy sản chế

biến trung bình hằng năm đạt 16.400 tấn/năm, cao hơn rất nhiều so với giai đoạn

1996 – 2000 (trung bình đạt 1.786 tấn/năm).

Sản phẩm thủy sản chế biến ngoài mặt hàng truyền thống là tôm và nghêu

đông lạnh, giai đoạn này, tỉnh phát triển thêm sản phẩm cá đông lạnh (cá tra, cá

basa,..) và một số loại hải sản khác. Sản xuất nước mắm trên địa bàn tỉnh cũng khá

phát triển, trung bình đạt 3.789 lít/năm, chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh.

Sản lượng thủy hải sản chế biến xuất khẩu tăng rất mạnh, năm 2010 là

21.500 tấn, gấp hơn 10 lần so với năm 2001 (1.983 tấn), trung bình đạt 12.077

tấn/năm, chiếm 76,3% hàng thủy sản chế biến của tỉnh và cao gấp 5,7 lần giai đoạn

1996 – 2000 (trung bình 1.286 tấn/năm).

Thủy sản xuất khẩu của tỉnh tăng mạnh nhất là giai đoạn 2004 – 2008 do thời

gian này, ngành nuôi trồng thủy hải sản phát triển rất mạnh, công nghệ chế biến

được cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đồng thời tìm kiếm được nhiều thị

trường xuất khẩu giàu tiềm năng như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,.. Đặc biệt,

từ năm 2005, sản lượng cá đông lạnh xuất khẩu tăng mạnh đã góp phần tăng kim

ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh.

Tuy nhiên, công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên địa bàn

tỉnh Bến Tre vẫn còn nhiều hạn chế. Số lượng nhà máy, cơ sở chế biến thủy hải sản

72

trong tỉnh còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất nguyên liệu. Đến nay,

Bến Tre là một trong số các tỉnh có công nghiệp chế biến thủy sản còn yếu trong

khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân là do kết cấu hạ tầng chưa hoàn

thiện, giao thông cách trở, thu hút đầu tư khó khăn, công nghệ chế biến chậm đổi

mới nên chất lượng sản phẩm chưa cao, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.

Một số mặt hàng xuất khẩu thủy sản gặp khó khăn do rào cản về thương

mại như quy định kí quỹ bảo lãnh nhập khẩu và áp dụng thuế suất cao đối với sản

phẩm tôm nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ, quy định tên gọi sản phẩm,

truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kiểm soát dư lượng kháng sinh trên sản phẩm thủy

sản nhập khẩu của các nước Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Tây Âu,...

Bên cạnh đó, việc xúc tiến xây dựng thương hiệu cho hàng thủy sản xuất

khẩu của Bến Tre chưa được chú trọng. Đến nay, tỉnh chỉ mới xây dựng được

thương hiệu Faquimex đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Công ty Cổ phần

Xuất nhập khẩu Lâm thủy sản Bến Tre. Điều này phần nào đã làm giảm sức cạnh

tranh của sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Bến Tre trên thị trường.

Ngoài ra, giá cả bấp bênh, chi phí sản xuất cao làm cho hoạt động khai thác

và nuôi trồng thủy hải sản chưa phát triển ổn định, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.

Tóm lại, ngành kinh tế thủy sản Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 đã có những

bước phát triển đột phá so với giai đoạn trước năm 2000. Giá trị sản xuất và sản

lượng thủy sản tăng nhanh, đứng hàng thứ tư cả nước về sản lượng thủy sản; cơ cấu

ngành chuyển dịch mạnh mẽ. Ngành nuôi trồng hải sản vùng biển, ven biển phát

triển mạnh, dần khẳng định vị trí chủ đạo của mình trong cơ cấu ngành thủy sản.

Giá trị sản xuất, sản lượng nuôi trồng thủy hải sản của tỉnh tăng nhanh và dần dần

vượt qua tỉ trọng ngành khai thác. Hình thức nuôi trồng ngày càng đa dạng, hiện đại

gắn với quy hoạch, quản lý vùng nuôi khá chặt chẽ, theo đó tăng cường nuôi thủy

hải sản bằng hình thức công nghiệp theo hướng thâm canh, bán thâm canh. Nhiều

sản phẩm nuôi được chứng nhận danh giá như GlobalGAP đối với cá tra, chứng

nhận quản lý bền vững quốc tế MSC cho nghêu Bến Tre,...Ngành khai thác thủy hải

73

sản không ngừng tăng giá trị sản xuất và sản lượng, đặc biệt, ngành tích cực thực

hiện hiện đại hóa trang thiết bị, phương tiện, tăng cường đánh bắt xa bờ, đổi mới

phương pháp, công nghệ khai thác để vừa bảo vệ nguồn lợi ven bờ vừa góp phần

giữ gìn an ninh vùng biển đảo Tổ quốc. Năng lực ngành công nghiệp chế biến thủy

hải sản được nâng lên, góp phần đa dạng sản phẩm, nâng cao chất lượng, tăng khả

năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.

Tuy nhiên, giai đoạn 2001 – 2010, ngành thủy sản Bến Tre phát triển chưa

thật sự bền vững. Ngành nuôi trồng nhiều nơi còn mang tính tự phát, theo phong

trào, không tuân thủ chặt chẽ lịch thời vụ, nhất là việc nuôi tôm biển ở ba huyện ven

biển trong thời gian qua đã làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, dịch bệnh dễ

bùng phát gây thiệt hại nặng nề mang tính dây chuyền cho người nuôi. Nghề khai

thác chậm đổi mới công nghệ; tàu đánh bắt xa bờ phần lớn có công suất nhỏ, chưa

có tàu hậu cần ra khơi cùng tàu đánh bắt; số thuyền trưởng và thuyền viên qua đào

tạo rất ít; sự hiểu biết về luật biển, an toàn trong đánh bắt khơi của một bộ phận lớn

ngư dân còn hạn chế; hệ thống hậu cần còn yếu, hoạt động của cảng cá thường

trong tình trạng quá tải. Bên cạnh đó, sức ép đối với nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ

còn rất lớn. Công nghiệp chế biến chưa tương xứng với sản xuất nguyên liệu, chậm

đổi mới công nghệ nên năng suất và chất lượng chưa cao. Sản phẩm thủy sản xuất

khẩu còn gặp nhiều trở ngại do hàng rào nhập khẩu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm,

thương hiệu, hàm lượng hóa chất trong sản phẩm,...

2.2.2.2. Hiện trạng phát triển nghề muối

Nghề muối là nghề sản xuất truyền thống của các xã vùng ven biển tỉnh Bến

Tre, đã hình thành và phát triển từ năm 1950. Trải qua nhiều thế hệ, người dân vẫn

kiên trì bám nghề, sống bằng nghề.

Giai đoạn 2001 – 2010, do gặp nhiều khó khăn nên nghề sản xuất muối của

tỉnh phát triển chưa ổn định. Tổng diện tích muối toàn tỉnh đến năm 2010 là 1.652

ha; sản lượng muối là 81.000 tấn; năng suất đạt 49 tấn/ha. Sản lượng muối giai đoạn

2001 – 2010 trung bình đạt 45.400 tấn/năm, thấp hơn sản lượng muối trung bình

hằng năm giai đoạn 1996 – 2000.

74

Từ năm 2001 đến năm 2005, do thời tiết nhiều vụ không thuận lợi, muối sản

xuất bằng phương pháp truyền thống có chất lượng thấp, khó tiêu thụ, số cơ sở sản

xuất muối giảm nên sản lượng muối giảm mạnh từ 60.000 tấn (năm 2001) xuống

còn 29.000 tấn (năm 2005), giảm hơn 2,1 lần. Từ năm 2008 trở đi, thời tiết thuận lợi

hơn, giá cả tăng lên, khuyến khích người dân phát triển lại nghề.

Đặc biệt, năm 2010, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bến tre đã

xây dựng và triển khai đề án Sản xuất muối sạch bằng phương pháp trải bạt nhằm

hỗ trợ và phát triển ngành nghề nông thôn, đồng thời tạo ra vùng muối sạch, đạt tiêu

chuẩn về kích cỡ, hàm lượng NaCl, độ kết tinh, màu sắc, độ ẩm,...Các hộ diêm dân

xã Thạnh Phước huyện Bình Đại còn được đi tập huấn, tham quan thực tế quy trình

sản xuất muối sạch ở huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả, vụ muối

năm 2010, năng suất, sản lượng muối của các hộ diêm dân huyện Bình Đại tăng

cao, góp phần tăng sản lượng muối toàn tỉnh. Năm 2010, sản lượng muối tỉnh Bến

Tre đạt 81.000 tấn, tăng 3,5 lần so với năm 2007, đảm bảo nguồn cung cấp muối

cho tiêu thụ nôi địa và hướng đến xuất khẩu trong những năm tới.

Nghề sản xuất muối của tỉnh Bến Tre phát triển mạnh nhất ở hai xã Bảo

Thuận huyện Ba Tri và xã Thạnh Phước huyện Bình Đại.

Nghề muối của diêm dân xã Bảo Thuận huyện Ba Tri được hình thành từ lâu.

Trên địa bàn xã có trên 1.080 hộ sản xuất muối với hơn 6.822 người. Diện tích sản

xuất muối là 738 ha. Sản lượng muối năm 2009 đạt 36.000 tấn, năng suất 48 tấn/ha.

Xã Thạnh Phước huyện Bình Đại có nghề muối hình thành từ năm 1950. Xã

có 260 hộ diêm dân với trên 400 ha đất sản xuất muối. Các hộ diêm dân trước đây

sản xuất muối bằng phương pháp truyền thống nên năng suất thấp, khoảng 30 – 35

tấn/ha. Từ năm 2010, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai dự án sản

xuất muối sạch trên địa bàn xã nên năng suất và chất lượng vụ muối 2010 được

nâng lên. Năng suất cao hơn 1,4 đến 1,5 lần so với sản xuất truyền thống; chất

lượng muối trắng, hạt trắng bóng, không lẫn tạp chất, dễ tiêu thụ.

Tuy nhiên, so với giai đoạn 1996 – 2000 thì giai đoạn này nghề sản xuất

muối của tỉnh Bến Tre chưa có nhiều bước đột phá. Nghề muối còn phụ thuộc nhiều

75

vào điều kiện tự nhiên, sản xuất bằng phương pháp truyền thống là chủ yếu nên

năng suất thấp, chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, tỉnh chưa có kho muối dự trữ nên

lượng muối không tiêu thụ được hằng năm rất lớn mà không có điều kiện bảo quản

tốt. Năm 2010 lượng muối tồn là 38.300 tấn. Trong khi muối sạch không đủ tiêu thụ

thì muối sản xuất truyền thống lại không tiêu thụ được nên người dân chưa ổn định

sản xuất, đời sống còn gặp nhiều khó khăn.

2.2.2.3. Tình hình sản xuất nông – lâm nghiệp vùng ven biển

Đến nay, sản xuất nông – lâm nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của các

huyện vùng ven biển tỉnh Bến Tre và đã có những đóng góp đáng kể vào giá trị sản

xuất của tỉnh. Năm 2010, ba huyện ven biển đóng góp 1.227 tỉ đồng, chiếm 30% giá

trị sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh.

Đối với ba huyện ven biển, ngành trồng trọt vẫn chiếm ưu thế so với ngành

chăn nuôi. Năm 2010, giá trị ngành trồng trọt là 871 tỉ đồng, gấp hơn 3 lần giá trị

ngành chăn nuôi (249,6 tỉ đồng); sản lượng lương thực có hạt là 271.116 tấn (73,2

% toàn tỉnh), tăng 14 % so với giai đoạn 1996 – 2000; sản lượng lương thực bình

quân đầu người là 544,5 kg/người, cao hơn năm 2000 (419kg/người), trong đó

huyện Ba Tri đứng đầu tỉnh với 1.032 kg/người.

Ngành sản xuất nông nghiệp của ba huyện ven biển đang tiếp tục chuyển

dịch mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo

đó, các huyện đã tăng cường công tác cải tạo vườn tạp, giảm diện tích cây trồng có

năng suất, hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, đặc

biệt là cây công nghiệp và cây ăn quả. Diện tích cây công nghiệp trung bình đạt

2.967 ha/năm, tăng lên so với thời kì 1996 – 2000 (2.410 ha/năm). Các loại cây ăn

quả không phải là thế mạnh của vùng nước lợ, nước mặn ven biển nhưng trong thời

gian qua diện tích và sản lượng cây ăn quả cũng tăng lên, đã hình thành một số vùng

chuyên canh cây ăn quả của ba huyện. Diện tích cây ăn quả bình quân là 3.033

ha/năm, sản lượng năm 2010 đạt 25.635 tấn. Các đặc sản của ba huyện có Dưa hấu

Cửa Đại, mãng cầu Thới Thuận (huyện Bình Đại), xoài, chuối, nhãn tiêu xuồng cơm

vàng, các loại hải sản có nghêu, tôm, cua, sò huyết, mực,...Ngoài ra còn có đặc sản

76

con rươi và con đuôn chà là ở rừng ngập mặn. Ngành chăn nuôi đang tăng dần tỉ

trọng trong ngành nông nghiệp. Số lượng bò, dê, gia cầm tăng lên. Đặc biệt từ năm

2005, huyện Thạnh Phú bắt đầu phát triển đàn cừu đã góp phần làm đa dạng cơ cấu

vật nuôi của tỉnh. Số lượng đàn lợn giảm so với thời kì trước do ảnh hưởng của các

đợt dịch heo tai xanh liên tiếp và một phần do chi phí sản xuất cao, người nuôi

không có lãi.

Đối với ngành lâm nghiệp tỉnh Bến Tre, diện tích rừng hiện nay chủ yếu là

rừng ngập mặn dọc các cửa sông ven biển và dải rừng lá ven sông rạch ở vùng nước

lợ. Giá trị ngành sản xuất lâm nghiệp giai đoạn này cao hơn so với giai đoạn 1996 –

2000 nhưng giá trị đóng góp vào GDP toàn tỉnh chưa cao và có xu hướng giảm

mạnh từ 54,6 tỉ (năm 2001) xuống còn 26 tỉ (năm 2010). Trong đó, giá trị ngành

trồng và chăm sóc rừng vẫn rất hạn chế, chiếm từ 6 đến 10% giá trị sản xuất toàn

ngành, giá trị sản xuất từ khai thác gỗ và lâm sản vẫn chiếm ưu thế, chiếm từ 86 đến

94 %. Diện tích rừng trồng mới hằng năm đạt từ 10 đến 192 ha mỗi năm, trung bình

đạt 68,9 ha/năm. Diện tích rừng bị thiệt hại giảm mạnh từ 25 ha (năm 2001) xuống

còn 0,6 ha (năm 2010) do thời gian qua công tác quản lý, bảo vệ rừng được thực

hiện tốt.

Nhìn chung, giai đoạn 2001 – 2010, ngành lâm nghiệp đóng góp vào GDP

của tỉnh chưa cao và chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ, diện tích rừng trồng mới

chưa nhiều. Thêm vào đó, tình trạng đào đắp, lấn đất rừng trái phép để nuôi tôm còn

diễn ra hằng năm. Thêm vào đó, những năm gần đây, Sá Sùng (còn gọi là Sâm Đất,

Chạc Khoai) được tìm thấy ở vùng rừng ngập mặn tỉnh Bến Tre, năm 2005 – 2006,

nhu cầu tiêu thụ loại này từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh nêm người dân khai

thác rầm rộ làm thiệt hại rừng, gây khó khăn cho công tác quản lý, bảo vệ nguồn tài

nguyên rất có giá trị này.

2.2.2.4. Hiện trạng phát triển các ngành kinh tế biển khác

 Ngành du lịch biển

Ngành du lịch tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 có bước phát triển mạnh

hơn giai đoạn trước nhờ hệ thống giao thông được xây dựng, nâng cấp như xây

77

dựng cầu Rạch Miễu nối Bến Tre với Tiền Giang, cầu Hàm Luông nối liền cù lao

Bảo với cù lao Minh, nâng cấp các bến phà Cổ Chiên, Đình Khao, quốc lộ 60, quốc

lộ 57, các đường tỉnh lộ,...đã dần phá thế ốc đảo của Bến Tre. Nhờ đó, kinh tế của

tỉnh phát triển mạnh hơn, thu hút đầu tư tốt hơn nên hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ

du lịch ngày càng hoàn thiện, sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, tiềm năng du

lịch được khai thác ngày càng hiệu quả hơn.

Số khách du lịch đến Bến Tre năm 2010 là 693.660 lượt khách, tăng hơn 2,7

lần so với lượng khách du lịch của tỉnh năm 2001 (250.060 lượt khách). Trong đó,

lượng khách quốc tế là 118.024 lượt (17% lượng khách du lịch của tỉnh), khách nội

địa là 575.636 lượt người (83% lượng khách du lịch của tỉnh).

Khách du lịch đến Bến Tre để thưởng thức các sản phẩm du lịch hấp dẫn như

du lịch sông nước miệt vườn, tìm hiểu đời sống văn hóa, sinh hoạt, phong tục tập

quán, các làng nghề truyền thống, các công trình kiến trúc, di tích lịch sử - văn

hóa,...Du lịch tỉnh Bến Tre phát triển mạnh ở các địa bàn có tiềm năng du lịch hấp

dẫn, có nhiều sản phẩm du lịch độc đáo và nhất là có hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch

tốt. Các địa phương phát triển mạnh du lịch trong tỉnh là huyện Chợ Lách, huyện

Châu Thành, thành phố Bến Tre,..

Hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật phục vụ du lịch của tỉnh đã bước

đầu được cải thiện. Đến năm 2009, Bến Tre có 40 điểm tham quan du lịch sinh thái.

Số cơ sở lưu trú tăng từ 4 cơ sở (năm 2000) tăng lên 21 cơ sở (năm 2005) và đặc

biệt từ năm 2005 - 2010, hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ nên các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh mạnh dạn đầu tư phát triển hạ tầng du

lịch, nâng số cơ sở lưu trú lên 558 cơ sở vào năm 2010 với 5.632 phòng, 7.783

giường. Năm 2009, Bến Tre đã xây dựng và đưa vào hoạt động khu du lịch nghỉ

dưỡng cao cấp – Forever Green Resort – khu Resort đầu tiên của tỉnh. Giai đoạn

2005 – 2010 thực sự là một bước phát triển vượt bậc của du lịch tỉnh Bến Tre.

Riêng du lịch biển của tỉnh giai đoạn 2001 – 2010 cũng khá phát triển.

Doanh thu du lịch biển tăng trưởng bình quân là 15,32 %. Các sản phẩn du lịch biển

chủ yếu là tham quan ngắm biển, tắm biển, vui chơi giải trí, dã ngoại, thưởng thức

78

các đặc sản biển; tham quan, nghiên cứu hệ sinh thái đặc sắc sân chim, khu bảo tồn

tự nhiên, rừng ngập mặn ven biển; tham quan, nghiên cứu các di tích lịch sử văn

hóa và tham gia các lễ hội đặc trưng, độc đáo của ngư dân vùng biển.

Các cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch biển được cải thiện đáng kể. Hệ thống

đường giao thông đến các huyện ven biển gồm các đường tỉnh lộ 883, 885, 887,

quốc lộ 57 nối từ quốc lộ 60 đi các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, các bến

phà, cầu cống được nâng cấp, sửa chữa để đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của du

khách. Hệ thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư, xây dựng mới trên địa bàn các

huyện ven biển. Đến năm 2010, trên địa bàn ba huyện ven biển có 6 khách sạn –

nhà nghỉ lớn là khách sạn 33, Mỹ Tiên, Hùng Vương (huyện Bình Đại), nhà nghỉ

Hùng Vương, nhà nghỉ Đông Phương (huyện Ba Tri) và nhà nghỉ Hồng Nhung

(huyện Thạnh Phú). Các nhà hàng lớn có nhà hàng Thùy Dung, Hồng Phước, Biển

Đông, Đức Hòa, Bình Thới, Hùng Vương (huyện Bình Đại), nhà hàng Quế Chi

(huyện Ba Tri). Ngoài ra còn rất nhiều các cơ sở phục vụ nghỉ ngơi, ăn uống với

quy mô nhỏ tại các điểm du lịch biển góp phần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu

du khách.

Giai đoạn 2001 – 2010, một số bãi biển của tỉnh tiếp tục được khai thác phục

vụ du lịch khá tốt như biển Thừa Đức, bãi biển Thới Thuận (huyện Bình Đại), bãi

biển Cồn Hố (huyện Ba Tri). Năm 2007, trong Quy hoạch tổng thể phát triển Du

lịch tỉnh Bến Tre đến năm 2020, một số điểm du lịch được quy hoạch chi tiết, làm

cơ sở kêu gọi đầu tư, xây dựng thành các khu du lịch biển, khu du lịch sinh thái với

sản phẩm đa dạng, cơ sở hạ tầng khá tốt và đội ngũ lao động có trình độ, chuyên

môn nghiệp vụ ngày càng cao. Đến năm 2010, khu du lịch Thừa Đức, khu du lịch

biển Thới Thuận, khu Du lịch Cồn Hố, khu du lịch sinh thái Vàm Hồ đã hoàn thành

cơ bản cơ sở hạ tầng và một số hạng mục đã đưa vào hoạt động để phục vụ du

khách, đặc biệt vào các dịp lễ, Tết.

Bên cạnh các bãi biển có tiềm năng phát triển du lịch, trên địa bàn các huyện

ven biển còn có nhiều tài nguyên du lịch nhân văn mà nổi bật là các di tích lịch sử

văn hóa cấp quốc gia được khai thác phục vụ du lịch khá tốt như Di tích mộ và đền

79

thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri); Di tích Cây Da Đôi - nơi

thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bến Tre (xã Tân Xuân, huyện Ba Tri); Di tích

Đầu cầu tiếp viện Vũ khí Bắc – Nam – Đường Hồ Chí Minh trên biển (xã Thạnh

Phong, huyện Thạnh Phú),...hàng năm cũng thu hút hàng nghìn lượt khách đến tham

quan, nghiên cứu, học tập.

Các lễ hội đặc trưng vùng ven biển mà nhất là lễ hội Nghinh Ông được tổ

chức hàng năm ở các làng ven biển. Đây là lễ hội quan trọng nhất của ngư dân để tỏ

lòng thành kính biết ơn đối với cá Ông – loài cá bảo hộ của ngư dân vùng biển tránh

khỏi những rủi ro trên biển khơi đồng thời cầu mong một mùa đánh bắt mới được

bội thu. Trong đó, lễ hội lớn nhất được tổ chức ở xã Bình Thắng – huyện Bình Đại

thu hút phần lớn các tàu thuyền đánh bắt của ba huyện trong tỉnh và tàu thuyền đánh

bắt của các địa phương khác cùng tham gia. Đồng thời, với phần lễ và phần hội rất

đặc sắc, hàng năm lễ hội Nghinh Ông đã thu hút đông đảo du khách nhiều nơi về

tham dự với bà con ngư dân.

Ngoài ra, các loại hình tham quan du lịch biển khác như tham quan nghiên

cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn, khu bảo tồn tự nhiên ven biển Thạnh Phú, sân chim

Vàm Hồ (huyện Ba Tri); tham quan các cồn nổi trên sông như cồn Chài Mười, cồn

Ngô Năm, cồn Đậm,...cũng thu hút một lượng lớn khách du lịch yêu thích thiên

nhiên đến với vùng biển Bến Tre.

Nhìn chung, giai đoạn 2001 – 2010, du lịch biển của tỉnh có bước phát triển

hơn giai đoạn trước về nhiều mặt. Tuy nhiên, du lịch biển vẫn chưa thật sự trở thành

thế mạnh du lịch của Bến Tre. So với các địa phương khác trong khu vực như Tiền

Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, An Giang,... thì du lịch biển tỉnh Bến Tre còn nhiều

hạn chế do nhiều nguyên nhân. Điều kiện tự nhiên vùng biển của tỉnh không thích

hợp xây dựng các bãi tắm hiện đại, quy mô lớn. Cơ sở hạ tầng như cơ sở lưu trú, cơ

sở phục vụ ăn uống, vui chơi giải trí tại các điểm du lịch biển còn thiếu, nhất là các

khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn để phục vụ khách có nhu cầu cao. Đội ngũ cán

bộ, công nhân viên chức hoạt động trorng ngành du lịch có trình độ chưa cao. Các

điểm du lịch biển đa số có quy mô nhỏ, rời rạc, thiếu liên kết. Các sản phẩm du lịch

80

còn mang tính trùng lặp với các địa phương khác, tỉnh khác trong khu vực nên chưa

hấp dẫn, chưa tạo được dấu ấn riêng. Ngoài ra, công tác quảng bá du lịch biển của

tỉnh chưa được chú trọng đầu tư, công tác quản lý còn nhiều bất cập. Vì thế, phần

lớn khách du lịch đến vùng biển của tỉnh là khách nội địa, chưa thu hút khách quốc

tế.

 Ngành giao thông vận tải biển:

Bến Tre là tỉnh giáp biển, có đường bờ biển dài 65 km nhưng cũng như thời

giai đoạn 1996 – 2000, giai đoạn 2001 - 2010, giao thông vận tải biển của tỉnh vẫn

chưa có điều kiện để phát triển. Đến nay, Bến Tre vẫn chưa có cảng biển và đội tàu

biển.

Hiện nay, tại các huyện ven biển mới chỉ có một số cơ sở sửa chữa tàu

thuyền, chủ yếu là các tàu đánh bắt hải sản. Ngoài ra còn có một số cơ sở đóng tàu

thuyền với công suất nhỏ, trong đó, nổi tiếng nhất là các thợ ở xã Thới Thuận

huyện Bình Đại.

Tuy nhiên, trong danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư trong và ngoài

nước vào địa bàn tỉnh Bến tre đến năm 2020, tỉnh đã có dự án kêu gọi đầu tư, xây

dựng cảng biển và nhà máy sửa chữa, tháo ráp tàu thuyền tại xã Thới Thuận, Bình

Thắng huyện Bình Đại với vốn đầu tư dự kiến 10 triệu đô la Mỹ. Đây sẽ là cảng

biển đầu tiên của tỉnh. Khi cảng biển này được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng

sẽ tạo nên bước đột phá mới cho kinh tế biển tỉnh Bến Tre trong tương lai.

 Tình hình đầu tư, phát triển kinh tế biển

Xác định được tầm quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh nên thời gian qua, tỉnh Bến tre đã có nhiều chính sách, chương trình,

đề án đầu tư vào địa bàn các huyện ven biển và các ngành kinh tế biển chủ lực của

tỉnh.

Trước hết là việc đầu tư xây dựng cơ bản gồm hệ thống cầu cống, đường

giao thông trên địa bàn các huyện ven biển. Trong giai đoạn 2001 – 2010, tỉnh Bến

Tre đã đầu tư bằng vốn chính sách và thu hút đầu tư trong và ngoài nước để xây cầu

Rạch Miễu nối hai bờ Tiền Giang và Bến Tre (từ năm 2004 đến năm 2009); nâng

81

cấp phà Cổ Chiên, phà Đình Khao; xây dựng và khánh thành cầu Hàm Luông nối

liền cù lao Bảo và cù lao Minh; nâng cấp, hoàn thiện các đường tỉnh lộ 883, 885,

887, quốc lộ 57 nối từ quốc lộ 60 đến các xã ven biển của ba huyện Bình Đại, Ba

Tri và Thạnh Phú đã góp phần phá vỡ thế bị cô lập về giao thông của Bến Tre, mở

ra triển vọng mới cho kinh tế biển của tỉnh phát triển mạnh trong tương lai.

Từ năm 2001 – 2010, tỉnh đã đầu tư, phát triển lưới điện hạ thế đến các đia

bàn vùng sâu, vùng xa thuộc ba huyện ven biển. Đến năm 2010, tỉ lệ hộ sử dụng

điện trên địa bàn tỉnh đạt 96,8%. Lĩnh vực công nghiệp cũng được chú trọng đầu tư

với việc xây dựng cụm công nghiệp Ba Tri và cụm công nghiệp Thạnh Phú, hoàn

chỉnh cơ sở hạ tầng vào năm 2010, phát triển ngành nghề sau năm 2011, tổng vốn

đầu tư là 37.367 tỉ đồng.

Kinh tế thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng nhất trong cơ cấu

kinh tế biển của tỉnh nên tỉnh có nhiều chính sách, dự án thu hút đầu tư trên cả ba

lịnh vực khai thác hải sản, nuôi trồng thủy hải sản và công nghiệp chế biến thủy hải

sản. Từ năm 2000, Trung Ương và địa phương có chính sách khuyến khích ngư dân

tăng cường khai thác hải sản xa bờ như chính sách hỗ trợ cho các hộ ngư dân vay

ngân hàng với lãi suất thấp đóng mới và hiện đại hóa phương tiện khai thác. Bên

cạnh đó, ba cảng cá ở ba huyện ven biển là cảng cá Ba Tri, cảng cá Bình Đại và

cảng cá Thạnh Phú lần lượt được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhằm phát

triển hậu cần nghề cá. Tỉnh cũng đã xây dựng và đưa vào sử dụng Khu neo đậu,

tránh, trú bão huyện Bình Đại và đang xây dựng Khu neo đậu tránh, trú bão huyện

Ba Tri để tăng cường công tác đảm bảo an toàn cho ngư dân vào mùa bão.

Từ năm 2005, Bến Tre đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đê biển Bình Đại,

kênh xả phèn, thao chua rửa mặn, đắp đập ngăn mặn (cống đập Ba Lai), hoàn chỉnh

hệ thống cống, kênh phục vụ tưới tiêu và nuôi trồng thủy sản. Thời gian qua, tỉnh đã

đầu tư xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp 400 ha tại xã Thạnh Phước huyện Bình

Đại, đang thu hút vốn cho dự án xây dựng Trại sản xuất tôm giống tập trung tại

huyện Bình Đại với diện tích 10 ha.

82

Bên cạnh đó, tỉnh đã có nhiều ưu đãi, tạo thuận lợi để thu hút đầu tư, phát

triển công nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh và khuyến khích các nhà máy

hiện có đổi mới, nâng cấp công nghệ, thiết vị hiện đại để nâng cao năng suất và chất

lượng sản phẩm, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu. Năm 2004, nhà máy chế biến

thủy sản Ba Lai được khánh thành từ nguồn vốn đầu tư của Công ty Cổ phần Xuất

nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre. Hiện nay, tỉnh đang có dự án đầu tư chế biến thủy

sản của công ty Huy Hoàng và dự án chế biến nông thủy sản của Công ty TNHH

Thế giới Việt với nguồn vốn hơn 12 triệu đô la Mỹ. Tỉnh đang kêu gọi vốn cho dự

án nhà máy chế biến thủy sản thuộc Khu công nghiệp Giao Long huyện Châu

Thành có năng lực 10.000 tấn/năm, vốn dự kiến là 10 triệu đô la Mỹ cũng như dự

án xây dựng tổng hợp làng cá An Thủy huyện Ba Tri với vốn dự kiến 20 triệu đô la

Mỹ.

Ngoài thủy sản, nghề muối của diêm dân các xả ven biển cũng dược chú

trọng đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư vốn, khoa học công nghệ, từng bước

giúp diêm dân tiếp cận phương pháp sản xuất muối tiên tiến cho năng suất và chất

lượng cao.

Về du lịch biển, từ năm 2001 – 2010, tỉnh đã xây dựng quy hoạch chi tiết

làm cơ sở thu hút đầu tư các dự án phát triển du lịch biển, du lịch sinh thái trên địa

bàn ba huyện ven biển. Các dự án gồm Khu du lịch biển Thừa Đức, Khu du lịch

sinh thái biển Thới Thuận, Khu du lịch biển Cồn Hố, Khu du lịch sinh thái Vàm Hồ,

khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn – đường Hồ Chí Minh trên biển với tổng vốn

hơn 145 triệu đô la Mỹ.

Nhìn chung, ngân sách chi cho đầu tư và phát triển các huyện ven biển, các

ngành kinh tế biển không ngừng tăng lên. Đặc biệt, tỉnh đã có nhiều chính sách ưu

đãi để thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư phát triển hạ tầng, kĩ thuật, kinh tế

- xã hội ba huyện ven biển với các ngành thủy sản, du lịch, công nghiệp chế biến,

làm tiền đề phát triển mạnh kinh tế biển của tỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, nguồn

vốn đầu tư còn rất hạn chế so tiềm năng, hệ thống cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư

83

quản lý còn nhiều bất cập nên chưa thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư đến với các

huyện ven biển.

2.3. Phân tích ảnh hưởng của sự phát triển bền vững kinh tế biển đến sự phát

triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre

Bến Tre là tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế biển khá mạnh nhất là kinh tế

thủy sản. Trong thời gian qua, kinh tế biển của tỉnh thật sự đã có bước phát triển đột

phá. Tuy chưa thật sự là phát triển bền vững một cách hoàn hảo, song, sự phát triển

kinh tế biển của tỉnh đã có những tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh trên cả ba lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường.

2.3.1. Lợi ích kinh tế

Trong những năm qua, cùng với xu hướng đổi mới và phát triển kinh tế tỉnh

Bến Tre, mảng kinh tế biển của tỉnh nói chung và kinh tế vùng ven biển nói riêng

cũng có bước phát triển rõ rệt và ngày càng đóng góp đáng kể vào GDP kinh tế của

tỉnh.

Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng GDP vùng ven biển để phân tích sự

đóng góp kinh tế biển vào GDP kinh tế chung của tỉnh. GDP vùng ven biển được

tính là GDP của các ngành kinh tế diễn ra trên địa bàn các huyện ven biển của tỉnh

Bến Tre gồm: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.

Quy mô GDP và tỉ trọng GDP vùng ven biển không ngừng tăng lên. Năm

2010, GDP kinh tế vùng ven biển đạt 3.474,6 tỉ đồng (theo giá năm 1994), tăng 2,9

lần so với năm 2000 (1.186,8 tỉ đồng). Kinh tế vùng ven biển đóng góp tỉ trọng

ngày càng cao vào cơ cấu GDP của tỉnh, từ 29,1% năm 2000 tăng lên 35,4% năm

2010. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của kinh tế vùng ven biển thời kì 2001 –

2010 đạt 11,34%/ năm, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh

thời kì này là 9,2%/năm.

Tốc độ tăng trưởng GDP cao góp phần tăng mức GDP bình quân đầu người

của tỉnh từ 4,15 triệu đồng/người (năm 2000) lên mức 17,36 triệu đồng/người (năm

2010). Trong khi đó, GDP bình quân đầu người vùng ven biển tăng tương ứng từ

84

3,47 triệu đồng/ người lên 17,07 triệu đồng/người. Điều này cho thấy đời sống nhân

dân đã được cải thiện.

Bảng 2.9: So sánh GDP kinh tế vùng ven biển với GDP toàn tỉnh,

2000 – 2010

Năm 2000 Năm 2010

4.074,6 9.825,8

Chỉ tiêu GDP toàn tỉnh (tỉ đồng) (theo giá năm 1994) GDP/người (triệu đồng/người) Cơ cấu GDP (%)

+Nông – lâm – ngư nghiệp +Công nghiệp – xây dựng +Dịch vụ 4,15 66,3 13,5 20,2 17,36 44,1 20,4 35,5

1.186,8 3.474,6

GDP vùng ven biển (tỉ đồng) (Theo giá năm 1994) % so với toàn tỉnh Cơ cấu GDP (%)

+ Nông – lâm – ngư nghiệp + Công nghiệp – xây dựng + Dịch vụ 29,1 71,2 9,5 19,3 35,4 55,9 15,4 28,7

Nguồn: Xử lý số liệu từ [2],[13],[21]

Cơ cấu kinh tế vùng ven biển đang chuyển dịch nhanh và đúng hướng. Trong

10 năm từ 2001 đến 2010, cơ cấu kinh tế các huyện chuyển dịch theo hướng tăng tỉ

trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, tỉ trọng KV I

giảm mạnh từ 71,2% xuống còn 55,9%; KV II tăng từ 9,5% lên 15,4% và tăng

mạnh nhất là KV III từ 19,3% lên 28,7%.

Trong nội bộ từng ngành cũng có sự chuyển dịch rõ nét. Cơ cấu sản xuất

ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ,

tăng dần tỉ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm thế mạnh

của địa phương, chủ yếu là hàng nông – thủy sản; giá trị tăng thêm của ngành công

nghiệp – xây dựng bình quân đạt 16,76%. Cơ cấu các ngành dịch vụ chuyển dịch

theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu phục vụ đời

sống con người. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ bình quân là 14,22%/năm. Cơ

85

cấu ngành nông – lâm – ngư nghiệp chuyển dịch theo hướng khai thác tốt tiềm năng

và lợi thế của từng vùng sinh thái. Giá trị tăng thêm của các ngành này là

6,92%/năm.

Giai đoạn 2001 – 2010, GDP kinh tế vùng ven biển có sự tăng trưởng và

chuyển dịch mạnh mẽ đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch của cơ

cấu các ngành kinh tế trong tỉnh. Theo đó, tỉ trọng KV I của tỉnh giảm mạnh từ

66,3% xuống còn 44,1%; KV II tăng từ 13,5% lên 20,4% và tăng mạnh nhất là KV

III từ 20,2% lên 35,5%. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế tỉnh nhà, đồng

thời cho thấy tầm quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế chung

toàn tỉnh.

2.3.2. Lợi ích văn hóa – xã hội

Kinh tế biển phát triển đã góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển, từ đó

đóng góp vào ngân sách địa phương ngày càng lớn và thu hút đầu tư ngày càng

nhiều để làm nền tảng cho sự phát triển văn hóa – xã hội địa phương. Trong đó, nổi

bậc là công tác xóa đói giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục; giải quyết việc làm;

nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân.

Trong thời gian qua, công tác xóa đói giảm nghèo và chăm sóc cuộc sống

cho người nghèo được thực hiện tốt trên địa bàn các huyện ven biển. Chương trình

hỗ trợ cho người nghèo vay vốn sản xuất, mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn

giảm học phí, trao tặng học bổng khuyến học để tạo điều kiện cho các gia đình khó

khăn cho con em đến trường; lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo. Đặc biệt,

trong thời gian qua, công tác vận động cộng đồng cùng tham gia xóa đói giảm

nghèo được thực hiện tốt. Các hộ có điều kiện kinh tế khá giả tự nguyện đóng góp

vào quỹ giúp các hộ nghèo có vốn sản xuất, hay hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm, kĩ

thuật sản xuất để cùng nhau thoát nghèo. Qua 10 năm thực hiện, tỉ lệ hộ nghèo của

ba huyện ven biển giảm mạnh, huyện Bình Đại giảm còn 12,38%, huyện Ba Tri

giảm còn 11,32%, huyện Thạnh Phú giảm còn 15,45%, góp phần giảm tỉ lệ hộ

nghèo toàn tỉnh xuống mức 9% (năm 2010).

86

Công tác đào tạo nghề trên địa bàn ven biển được cải thiện nhờ sự hỗ trợ

nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương giúp các lao động có cơ hội tìm việc làm

tốt hơn. Tỉ lệ lao động qua đào tạo của ba huyện tăng lên 34,1% (năm 2010), giải

quyết việc làm cho khoảng 22 nghìn lao động, tăng gấp đôi năm 2007. Qua đó, tỉ lệ

lao động qua đào tạo của tỉnh được nâng lên 40% và trên 300.000 lao động được

giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người dân trên đại bàn

tỉnh.

Công tác đầu tư, phát triển kinh tế biển thời gian qua được chú trọng. Kết cấu

hạ tầng được cải thiện như đầu tư xây dựng các hệ thống đường giao thông, nâng

cấp các tỉnh 883, 886, đường Cồn Rừng, Thạnh Phú, bến phà Tam Hiệp, đê biển Ba

Tri,... và nhiều công trình thủy lợi, nước sạch được đầu tư đã phát huy khá tốt chức

năng ngăn mặn, trữ ngọt. Các cảng cá Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú được xây

dựng và đưa vào hoạt động. Bên cạnh đó, một số dự án chỉnh trang đô thị được tiến

hành đã góp phần thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội các huyện ven biển và của tỉnh

Bến Tre.

Giáo dục đào tạo trên địa bàn ba huyện ven biển được cải thiện về quy mô và

chất lượng do kinh tế phát triển, gia đình và xã hội có nhiều điều kiện để chăm lo

việc học cho con em, tỉ lệ bỏ học của học sinh giảm do không còn gánh nặng mưu

sinh như trước. Công tác phổ cập giáo dục được quan tâm, ba huyện đã hoàn thành

xóa mù chữ năm 1996, hoàn thành phổ cập Tiểu học năm 1997, cuối năm 2007

hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở, góp phần hoàn thành chỉ tiêu 8/8 huyện thị đạt

chuẩn Trung học cơ sở theo nghị quyết của tỉnh. Mạng lưới trường lớp được điều

chỉnh, sắp xếp và phát triển rộng khắp góp phần xóa phòng học ba ca, xóa một phần

phòng học tạm mượn và cải thiện đáng kể hệ thống cơ sở giáo dục trên phạm vi

toàn tỉnh.

Khi điều kiện kinh tế được cải thiện, điều kiện sống của dân cư vùng ven

biển nói riêng và của tỉnh Bến Tre nói chung được nâng lên thì nhu cầu về chăm sóc

sức khỏe được quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu đó, mạng lưới cơ sở y tế được củng

cố; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cùng việc đào tạo, nâng cao

87

tay nghề đội ngũ y bác sĩ được chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng khám và

chữa bệnh cho nhân dân. Đến năm 2010, ba huyện ven biển có 98,4% xã, phường

đạt chuẩn quốc gia về y tế (Bình Đại và Thạnh Phú đạt 100%, Ba Tri đạt 95,43%),

nâng tổng số xã phường đạt chuẩn quốc gia về y tế của tỉnh lên mức 91,46% với

150 xã phường.

Thu nhập của người dân tăng lên đáng kể trong thời gian qua nên nhu cầu

hưởng thụ các giá trị văn hóa tăng lên. Hệ thống thông tin, hoạt động thể dục thể

thao phát triển rộng khắp, hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Đến năm 2010,

100% xã phường của ba huyện ven biển đã phủ sóng phát thanh và truyền hình,

hoàn thành chỉ tiêu 100% xã phường trên địa bàn tỉnh Bến Tre được xem truyền

hình và nghe đài. Bên cạnh đó, nhu cầu về tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng cũng

tăng lên góp phần khai thác có hiệu quả các tiềm năng du lịch địa phương và cả

nước.

Ngoài ra, trình độ dân trí tăng lên đáng kể nên phong trào xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư phát triển rộng khắp. Đến năm 2007, ba huyện vùng biển có

17 xã văn hóa, 104.113 gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa. Qua đó, góp phần giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

2.3.3. Bảo vệ môi trường

Việc phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010

đã có những tác động rất lớn đến công tác bảo vệ môi trường trong tỉnh nhất là môi

trường vùng biển, ven biển. Trong đó, quan trọng nhất là việc giảm thiểu được

những tác động tiêu cực đến môi trường thông qua những chính sách, chương trình

phát triển bền vững kinh tế biển.

Từ năm 2003, tỉnh Bến Tre đã có quy hoạch nuôi trồng thủy, hải sản gắn với

từng vùng nuôi, từng đối tượng cụ thể đi đôi với việc kiểm tra xử lý chất thải ở các

đơn vị nuôi trồng đã giúp môi trường vùng biển, ven biển được kiểm soát tốt hơn.

Hàm lượng chất độc hại trong nước từ kênh nội đồng cho đến vùng ven biển được

Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh điều tra, báo cáo hằng năm.

88

Tỉnh chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải, rác thải tại các

nhà máy chế biến thủy hải sản, các cảng cá, chợ, khu du lịch trên địa bàn các huyện

ven biển và toàn tỉnh. Các cơ sở chế biến thủy hải sản, công nghiệp, khu du lịch

trên địa bàn tỉnh khi xây dựng và hoạt động phải có đánh giá tác động môi trường

hoặc cam kết bảo vệ môi trường. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thực hiện kiểm

tra hàng quý, hàng tháng để có biện pháp quản lý hiệu quả. Qua đó, góp phần nâng

cao ý thức của người dân, các cơ sở kinh doanh, sản xuất trên địa bàn tỉnh về công

tác bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững.

Công tác trồng và chăm sóc rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển được thực

hiện tốt bên cạnh việc phát triển kinh tế biển đã góp phần bảo vệ môi trường sinh

thái vùng ven biển. Rừng ngập mặn có tác dụng chống xói lở bờ biển, cố định và

tăng diện tích bãi bồi, lọc sạch nước biển, hạn chế những tác nhân gây ô nhiễm môi

trường nước biển nên đã góp phần rất lớn vào việc giữ cân bằng và bảo vệ môi

trường sinh thái. Ngoài ra, rừng ngập mặn còn là nơi trú ngụ, sinh sản của các loài

động thực vật, hải sản. Qua đó, nguồn gen được lưu trữ, góp phần bảo vệ đa dạng

sinh học.

2.4. Những vấn đề cần quan tâm đến phát triển bền vững kinh tế biển ở tỉnh

Bến Tre

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, sự phát triển kinh

tế biển của tỉnh Bến Tre cũng còn những vấn đề cần được quan tâm, giải quyết

nhằm đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai.

GDP kinh tế biển ngày càng tăng và có đóng góp ngày càng đáng kể trong cơ

cấu GDP của tỉnh nhưng tỉ trọng còn thấp (35,4% năm 2010). Như vậy, sự đóng góp

GDP của kinh tế biển chưa tương xứng với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Tăng trưởng kinh tế biển chủ yếu theo chiều rộng, thiếu chiều sâu. Kinh tế

biển phần lớn khai thác nguồn tài nguyên nông – lâm – ngư nghiệp; công nghiệp và

dịch vụ chưa phát triển mạnh. Công nghiệp – tiểu thủ công các huyện ven biển có

quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao, khả năng chế biến hàng nông

thủy sản của các huyện còn thấp, sản phẩm chưa có hàm lượng công nghệ cao. Các

89

ngành dịch vụ phát triển còn chậm, nhỏ lẻ, phân tán, các loại hình dịch vụ cao cấp

như tài chính tín dụng, vốn, tư vấn, khoa học công nghệ chưa phát triển mạnh.

Cơ cấu kinh tế các huyện ven biển thời kì 2001 – 2010 có sự chuyển biến

đúng hướng tuy nhiên sự chuyển dịch còn chậm. Giá trị sản xuất và giá trị tăng

thêm của ngành công nghiệp, dịch vụ chưa cao trong khi sản xuất nông – lâm – ngư

nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thị trường, giá cả bấp bênh nên

tính rủi ro của kinh tế cao, chưa phát triển bền vững. Điều này ảnh hưởng đến thu

nhập bình quân đầu người của vùng ven biển và toàn tỉnh chậm được nâng cao; sự

chênh lệch thu nhập/người giữa ba khu vực tăng lên, cản trở sự phát triển bền vững.

Các ngành kinh tế biển của tỉnh phát triển chưa đồng bộ và bền vững. Kinh tế

thủy sản có vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế biển của tỉnh nhưng ngành

thủy sản thời gian qua chưa phát triển ổn định. Lĩnh vực khai thác thủy hải sản

chậm đổi mới công nghệ, phương tiện, sức ép đối với nguồn lợi ven bờ còn rất lớn;

lĩnh vực nuôi trồng chưa bền vững do những năm gần đây phát triển một cách tự

phát, không theo quy hoạch, không tuân thủ lịch thời vụ làm dịch bệnh dễ phát tsinh

và lay lan, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi; công nghiệp chế biến thủy hải

sản chưa tương xứng với nguồn nguyên liệu. Trong khi đó, nghề muối còn nhiều

bấp bênh do công nghệ sản xuất muối lạc hậu, chất lượng thấp, khó tiêu thụ, giá cả

không cao. Tiềm năng ngành du lịch biển chưa được đầu tư khai thác hiệu quả.

Ngành giao thông vận tải biển của tỉnh chưa phát triển, chưa xây dựng cảng biển

trên địa bàn tỉnh nên khả năng phát triển kinh tế biển bị hạn chế.

Các cơ chế, chính sách của Trung Ương và của tỉnh về phát triển kinh tế biển

chưa được triển khai hiệu quả và đầy đủ, chưa tạo được môi trường đầu tư hấp dẫn

vào các huyện ven biển.

Tình hình đầu tư, phát triển kinh tế biển bị hạn chế do thiếu vốn, khoa học

công nghệ, nguồn nhân lực có trình độ cao, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, giao

thông cách trở.

Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế

biển chưa nhiều. Tỉnh chưa có dự báo chính xác về nguồn lợi, diễn biến môi trường

90

và thiên tai trên biển. Từ đó, kinh tế biển phát triển nhưng còn chậm, hiệu quả chưa

cao, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu.

Sự phát triển văn hóa – xã hội bên cạnh sự phát triển kinh tế vùng ven biển

cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Công tác giáo dục - đào tạo của tỉnh còn yếu,

chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn. Công tác đào tạo nghề còn yếu về số

lượng và chất lượng, thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn sâu. Vì thế

chưa đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển nói riêng

và kinh tế tỉnh Bến Tre nói chung.

Công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân chưa vững chắc,

nhất là bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa của các huyện ven biển. Mức thu nhập

của dân cư gia tăng là một trở ngại rất lớn cho việc phát triển bền vững. Các cơ hội

tìm kiếm và cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống của

người dân chưa ổn định và chưa có giải pháp lâu dài.

Trình độ dân trí của ngư dân vùng biển chưa cao, ảnh hưởng đến khả năng

tiếp thu khoa học – công nghệ bị hạn chế. Ý thức sản xuất cộng đồng chưa cao. Ngư

dân còn sử dụng nhiều các công cụ, kĩ thuật khai thác có tính lạm sát cao ảnh hưởng

đến khả năng tái tạo nguồn lợi thủy hải sản và môi trường sinh thái.

Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn các huyện ven biển còn diễn biến phức

tạp. Phạm pháp hình sự, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội còn nhiều đã ảnh hưởng

không tốt đến việc ổn định xã hội để phát triển kinh tế.

Quan điểm phát triển bền vững trong chỉ đạo phát triển kinh tế biển của tỉnh

chưa thể hiện rõ ràng, còn thiên về tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, vấn đề bảo

vệ môi trường chưa được quan tâm. Các cơ quan chức năng còn thiếu các kế hoạch,

biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi trường vùng biển, ven biển. Trong khi đó, môi

trường sinh thái vùng biển, ven biển ngày càng bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân,

ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học gây khó khăn cho công tác

nuôi trồng, khai thác hải sản và mục tiêu phát triển bền vững.

91

Ngoài ra, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp với việc gia tăng những sự cố

bất thường như xâm nhập mặn ngày càng sâu vào nội đồng, triều cường, mưa

bão,...đã gây không ít khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất của người dân.

2.5. Tóm tắt chương

1. Bến Tre có nguồn lực khá đa dạng và thuận lợi cho phát triển kinh tế biển

của tỉnh, bao gồm các nguồn lực về tự nhiên và các nguồn lực kinh tế - xã hội. Các

nguồn lực tự nhiên quan trọng gồm vị trí địa lý và đặc điểm vùng biển; tài nguyên

thủy sản phong phú, tiềm năng mặt nước nuôi thủy sản hơn 50.000 ha; tài nguyên

rừng ngập mặn ven biển có ý nghĩa lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái; các

tài nguyên du lịch biển khá đa dạng gồm các bãi biển, lễ hội, di tích lịch sử văn

hóa,..Đây là tiền đề quan trọng để phát triển các ngành kinh tế biển. Các nguồn lực

kinh tế - xã hội bao gồm nguồn nhân lực dồi dào; chính sách kinh tế -xã hội hiết

thực; cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện,...là những điều kiện rất quan trọng

cho việc phát triển mạnh, hợp lý kinh tế biển.

2. Kinh tế biển của tỉnh có bước phát triển liên tục giữa hai giai đoạn trước

và sau năm 2000. Theo đó, giai đoạn 1996 - 2000, kinh tế biển của tỉnh mới bắt đầu

khởi sắc, các ngành kinh tế biển chưa phát triển đồng bộ và chưa lồng ghép phát

triển kinh tế với phát triển bền vững. Thủy sản là ngành phát triển mạnh nhất; các

ngành du lịch biển, nghề muối còn nhiều hạn chế; giao thông vận tải biển chưa có

điều kiện phát triển. Các ngành kinh biển mà nhất là ngành thủy sản chủ yếu dựa

vào khai thác nguồn tài nguyên sẵn có, chưa chú trọng đầu tư, ứng dụng khoa học kĩ

thuật trong sản xuất.

3. Giai đoạn 2001 – 2010, kinh tế biển của tỉnh có bước phát triển mới, mang

tính bền vững hơn. Các ngành thủy sản, diêm nghiệp, du lịch biển đều phát triển

mạnh hơn trước. Sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế biển rõ nét hơn theo

hướng tăng tỉ trọng nuôi thủy sản so với khai thác, ngành khai thác được khuyến

khích đầu tư khai thác xa bờ và tập trung các loại hải sản có giá trị kinh tế cao, hạn

chế khai thác gần bờ để bảo vệ nguồn lợi, năng lực công nghiệp chế biến từng bước

được nâng cao. Nghề muối bắt đầu áp dụng kĩ thuật hiện đại trong sản xuất. Du lịch

92

biển có bước khởi sắc do thu hút đầu tư và khai thác tài nguyên tốt hơn. Công tác

bảo vệ môi trường được chú trọng hơn. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

biển giai đoạn 2001 – 2010 nhìn chung còn chậm.

4. Sự phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh Bến Tre trogn giai đoạn 2001

– 2010 đã có tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của tỉnh. Điều này thể hiện qua

quy mô và tỉ trọng kinh tế biển ngày càng tăng trong cơ cấu GDP tỉnh, cơ cấu ngành

kinh tế thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng cuộc sống của người dân vùng ven

biển dần được nâng cao, công tác môi trường được thực hiện tốt hơn.

5. Tuy nhiên, để kinh tế biển tỉnh Bến Tre thực sự phát triển bền vững vẫn

còn nhiều vấn đề cấp thiết cần được quan tâm giải quyết. Chiến lược phát triển kinh

tế biển của tỉnh trong giai đoạn qua phần lớn chú trọng phát triển kinh tế - xã hội,

chưa chú trọng đúng mức đến việc bảo vệ môi trường. Kinh tế biển phát triển chưa

tương xứng với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Kinh tế biển chủ yếu phát

triển theo chiều rộng, chưa phát triển chiều sâu, các ngành kinh tế biển phát triển

chưa đồng bộ, chưa chuyển dịch mạnh mẽ. Bên cạnh đó, cần quan tâm giải quyết

việc thiếu vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao. Các vấn đề văn

hóa – xã hội, môi trường vùng ven biển chưa thật sự bền vững, nhất là tỉ lệ hộ

nghèo, chất lượng môi trường sống châm được cải thiện.

93

94

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

KINH TẾ BIỂN TỈNH BẾN TRE ĐẾN NĂM 2020

3.1. Các cơ sở đưa ra định hướng

3.1.1. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của quốc gia và vùng

Hội nghị lần IV Ban chấp hành Trung Ương Đảng Khóa X đã ban hành Nghị

quyết số 09 –NQ/TW ngày 09/02/2007 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm

2020”. Quan điểm của chiến lược là xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia

mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế biển hiện đại, thực sự làm động lực thúc đẩy

kinh tế cả nước phát triển với tốc độ nhanh. Qua đó, tạo ra sự kết hợp kinh tế ven

biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để phát triển

nhanh, ổn định và bền vững. Đồng thời, chiến lược cũng nêu rõ quan điểm mở cửa,

tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách

toàn diện, trở thành động lực lôi kéo, thúc đẩy các vùng khác phát triển. [18]

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là cơ sở nền tảng để tỉnh Bến Tre

xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020 và Đề án

phát triển kinh tế biển của tỉnh.

“Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu

Long đến năm 2020” nêu rõ mục tiêu là xây dựng, phát triển vùng đồng bằng sông

Cửu Long trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa và thủy sản

của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững; phát triển mạnh kinh tế

biển và phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước;

là địa bàn cầu nối để chủ động hội nhập, giao thương, hợp tác kinh tế với các nước

trong khu vực, bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, quốc phòng. Bến Tre là một

tỉnh có thế mạnh phát triển kinh tế biển của đồng sông Cửu Long nên quy hoạch

kinh tế xã hội của vùng đã tác động đến việc quy hoạch kinh tế xã hội của tỉnh,

trong đó chú trọng phát triển bền vững kinh tế biển. [23]

3.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre

“Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ IX (nhiệm kì 2010 –

2015)” xác định 6 lĩnh vực trọng tâm cần tập trung trong thời gian tới. Trong đó,

95

lĩnh vực quan trọng nhất là phát triển kinh tế biển, khai thác có hiệu quả tiềm năng

nguồn lợi biển nhằm tạo nội lực để đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế khác. [19]

Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4, khóa X) về

“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Chương

trình hành động số 11-CTr/TU, ngày 19/4/2007; Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị

quyết số 01/2009/NQ-HĐND ban hành Đề án “Phát triển toàn diện 3 huyện ven

biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định phê

duyệt Đề án “Phát triển toàn diện 3 huyện ven biển tỉnh Bến Tre”, kèm theo đó là 7

chương trình phát triển và dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư để cụ thể hóa, thực hiện.

“Đề án phát triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020”

là đề án được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá nguồn tài nguyên để phát

triển kinh tế biển của tỉnh, làm cơ sở cho việc đưa ra các dự báo, định hướng phát

triển một cách khoa học, hợp lý. Mục tiêu của đề án là đầu tư, khai thác có hiệu quả

các tiềm năng kinh tế biển, chủ yếu là kinh tế thủy sản, kết hợp phát triển lâm

nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản gắn phát triển nuôi

trồng với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt; tăng nhanh các ngành dịch vụ du

lịch; kết hợp phát triển bền vững kinh tế biển với đảm bảo anh ninh quốc phòng

vùng biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển thực sự trở thành kinh tế mũi nhọn

của tỉnh. Giá trị tăng thêm chiếm ít nhất 30% trong GDP của tỉnh. [13]

Quan điểm của đề án:

- Phát triển vùng kinh tế biển trở thành một trong các vùng động lực phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn tỉnh.

- Khai thác tổng hợp các nguồn lực của vùng kinh tế biển, kết hợp hài hòa ba

khu vực kinh tế, kết hợp hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và củng cố an

ninh quốc phòng, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển kinh tế - xã hội, chuyển

dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao chất

lượng cuộc sống của nhân dân.

96

- Đến năm 2010 các chỉ tiêu về kinh tế, đến năm 2015 các chỉ tiêu về kết cấu

hạ tầng và văn hóa xã hội ngang bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung của toàn

tỉnh.

- Góp phần thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Bến

Tre giai đoạn 2006 – 2010 và đến năm 2020, phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với

bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo và

môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học, đảm bảo tài nguyên, môi trường

sống và phát triển cho các thế hệ tương lai, đặc biệt trong bối cảnh thay đổi khí hậu

và biển dâng có tác động trực tiếp đến vùng kinh tế biển.

3.2. Các chỉ số dự báo

3.2.1. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển các ngành kinh tế biển

 Ngành thủy sản

Với đà phát triển như hiện nay, ngành nuôi trồng và khai thác thủy hải sản

của tỉnh sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tới. Trong đó, tập trung chủ

yếu ở ba huyện ven biển; nuôi thủy sản sẽ phát triển mạnh và giữ vai trò chủ đạo

trong cơ cấu kinh tế thủy sản của tỉnh

Lĩnh vực nuôi trồng:

Dự báo tổng diện tích nuôi thủy sản của tỉnh sẽ tăng lên 40.000 ha vào năm

2020, với tốc độ tăng trưởng 0,69 %/năm. Các đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh là

tôm, cá, nhuyễn thể. Trong đó, diện tích nuôi cá và nhuyễn thể tăng nhanh với tốc

độ trung bình hơn 2 %/năm, nhất là diện tích nuôi cá da trơn và nghêu đáp ứng nhu

cầu xuất khẩu do hai sản phẩm xuất khẩu này của tỉnh đã nhận được chứng nhận về

chất lượng là GlobalGAP và MSC. Trong khi đó, tôm vẫn là đối tượng được nuôi

nhiều nhất do giá trị kinh tế cao, thị trường xuất khẩu lớn, tuy nhiên tốc độ tăng diện

tích nuôi tôm chậm để đảm bảo vùng quy hoạch. Hình thức nuôi thâm canh và bán

thâm canh phát triển mạnh, ước đạt hơn 6.800 ha đến năm 2020. Do tăng diện tích

nuôi và tăng cường các phương pháp nuôi hiện đại nên tổng sản lượng thủy sản nuôi

của tỉnh sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2011 – 2020, tốc độ tăng trung bình là 4,05

%/năm, đạt 104.000 tấn (năm 2020), tăng gấp đôi sản lượng năm 2010. Trong đó,

97

sản lượng nhuyễn thể dự kiến tăng nhanh nhất (trung bình 7,42 %/năm), kế đó là

tôm (4,03 %/năm). Giá trị sản xuất ngành nuôi thủy sản tăng nhanh, hơn 4,2 %/năm.

Nhu cầu lao động nuôi thủy sản đến năm 2020 tăng lên khoảng 35.470 người.

Bảng 3.1: Dự báo một số chỉ tiêu ngành nuôi thủy sản ba huyện ven biển

tỉnh Bến Tre đến năm 2020

Hiện Dự báo TTBQ (%) trạng STT Danh mục Đơn vị

2010 2015 2020 2011-2020

Tổng diện tích Ha 37.343 39.000 40.000 0,69 1. NTS

- 1.253 1.549 1.549 2,14 Nuôi cá

- 31.547 32.201 32.901 0,42 Nuôi tôm

- 4.543 5.250 5.550 2,02 Nhuyễn thể

- 5.167 6.340 6.840 2,84 Tôm, cá TC, BTC

Tổng sản lượng Tấn 69.920 96.030 104.000 4,05 2. NTS

- 25.440 29.360 29.570 1,51 Cá

- 27.480 36.580 40.810 4,03 Tôm

- 15.400 28.000 31.530 7,42 Nhuyễn thể

- 1.600 2.090 2.090 2,7 Thủy sản khác

Giá trị sản xuất 3. Tỉ đồng 5.089,3 6.778 7.735,4 4,27 (giá hiện hành)

Gí trị sản xuất 4. - 2.603,8 3.626,5 4.144,5 4,75 (giá so sánh 1994)

5. Lao động Người 32.570 34.090 35.470 0,86

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre [9]

98

Tổng lượng thức ăn công nghiệp cho tôm, cá theo quy hoạch khoảng 174.000

tấn vào năm 2020. Trong đó, cá tra nuôi có nhu cầu thức ăn lớn nhất, khoảng 67.000

đến 85.000 tấn; tôm sú thâm canh, bán thâm canh khoảng 30.000 đến 35.000 tấn;

tôm thẻ chân trắng cũng có nhu cầu thức ăn khá lớn, dao động từ 26.000 đến 30.000

tấn.

Tổng nhu cầu con giống đáp ứng nuôi thủy sản của ba huyện ven biển tỉnh

Bến Tre đến năm 2020 gần 8,2 tỉ con giống. Để đáp ứng nhu cầu con giống ngày

càng tăng, số trại sản xuất giống thủy sản dự báo đến năm 2020 là 176 trại. Sản

lượng giống dự kiến đạt khoảng 4,3 tỉ con giống, có khả năng đáp ứng khoảng 52%

nhu cầu con giống thủy sản trên địa bàn tỉnh. [9]

Về lĩnh vực đánh bắt thủy sản:

Số lượng tàu thuyền và tổng công suất khai thác giảm do giảm các tàu có

công suất nhỏ để để tăng cường cải hoán, nâng cấp, đóng mới các tàu có công suất

lớn (> 90CV). Từ cơ sở số liệu dự báo của “Đề án phát triển kinh tế biển ba huyện

ven biển đến năm 2020” và thực trạng phát triển ngành khai thác hải sản đến năm

2010, có thể dự báo tổng số tàu thuyền dự kiến giảm nhẹ còn khoảng 3.982 chiếc

vào năm 2020, công suất bình quân là 168 CV/chiếc. Dự báo đến năm 2020, sản

lượng hải sản khai thác đạt gần 121.135 tấn, trong đó cá 102.633 tấn, tôm hơn

18.502 tấn. Số lao động phục vụ trong ngành khai thác thủy hải sản khoảng 16.450

người vào năm 2020. [13 ]

Lĩnh vực chế biến thủy hải sản

Công nghiệp chế biến thủy hải sản của ba huyện sẽ tăng lên rõ rệt sau năm

2010 nhờ tỉnh có chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư và tiềm năng nguồn nguyên liệu

lớn. Nếu được đầu tư và khai thác đúng hướng, ngành công nghiệp chế biến thủy

sản sẽ mang lại giá trị sản xuất khá lớn và không ngừng tăng lên, dự kiến đạt 1.466

tỉ đồng (năm 2015) và tăng lên 3.270 tỉ đồng (năm 2020). Sản lượng thủy sản chế

biến sẽ tăng liên tục đạt 64.200 tấn vào năm 2020. Đặc biệt sản lượng thức ăn thủy

sản sản xuất trên địa bàn tỉnh sẽ tăng mạnh, đạt 32.500 tấn năm 2015 và tăng lên

80.000 tấn (năm 2020) do các cụm công nghiệp đã quy hoạch trên địa bàn ba huyện

99

sẽ bắt đầu hoàn thiện kết cấu hạ tầng và phát triển ngành nghề sau năm 2012, bên

cạnh đó, tiếp tục triển khai các quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp mới.

(Xem bảng 3.2)

Bảng 3.2: Dự báo các chỉ tiêu phát triển công nghiệp chế biến thủy hải sản ba

huyện ven biển đến năm 2020

Danh mục Đơn vị tính Năm 2015 2020

Giá trị sản xuất Tỉ đồng 1.466 3.270

Chế biến thủy sản đông lạnh Tấn 11.500 30.500

Chế biến thủy sản khô - 17.870 33.700

Chế biến nước mắm 1.000 lít 3.380 7.500

Sản phẩm từ thủy sản khác (bột cá) Tấn 18.000 32.000

Sản xuất thức ăn thủy sản - 32.500 80.000

Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]

 Nghề muối

Dựa vào tình hình phát triển nghề muối giai đoạn 2001 – 2010, nhất là sự

chuyển biến lớn về năng suất, sản lượng muối năm 2010, kết hợp với dự báo của đề

án phát triển kinh tế biển của tỉnh, nếu giữ nguyên tốc độ tăng trưởng bình quân như

đề án thì các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp đến năm 2020 sẽ tăng lên như (bảng

3.3). Theo đó, năng suất muối sẽ tăng trung bình 2,26 %/năm góp phần tăng nhanh

sản lượng muối của tỉnh lên khoảng 106.554 tấn (năm 2020), trong khi diện tích

muối tăng chậm.

Bảng 3.3: Dự báo các chỉ tiêu phát triển diêm nghiệp ba huyện ven biển

tỉnh Bến Tre đến năm 2020

Hiện trạng Dự báo TTBQ (%) Danh mục Đơn vị tính Năm 2010 Năm 2020 2011 - 2020

Diện tích Ha 1.652 1.738 0,51

Năng suất Tấn/ha 49 61,3 2,26

Sản lượng Tấn 81.000 106.554 2,78

Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]

100

 Ngành lâm nghiệp

Thực trạng phát triển ngành lâm nghiệp trong thời gian qua là cơ sở để dự

báo một số chỉ tiêu phát triển ngành lâm nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020. Theo

đó, diện tích đất lâm nghiệp đến năm 2020 giữ vững 7.833 ha như năm 2010; tỉ lệ

diện tích đất có rừng là 62,6%. Tổng vốn đầu tư cho phát triển lâm nghiệp trên địa

bàn ba huyện ven biển dự kiến là hơn 29 tỉ đồng, phân kì như sau: giai đoạn 2008 –

2010 là 5,1tỉ đồng; giai đoạn 2011 – 2015 là 10,85 tỉ đồng, giai đoạn 2016 – 2020 là

13,1tỉ đồng.

 Ngành du lịch biển

Dự kiến khách du lịch đến vùng biển của tỉnh đến năm 2020 là 290.428 lượt

người. Trong đó, khách quốc tế là 17.264 lượt người (5,9 %), khách nội địa là

273.164 lượt người (94,1%). Tốc độ tăng trưởng khách du lịch biển bình quân là

9,58 %/năm trong thời kì 2011 – 2020.

Doanh thu du lịch biển thời kì 2011 – 2020 dự kiến cũng tăng mạnh với tốc

độ tăng trưởng bình quân là 15,9 %/năm, đạt 80,37 tỉ đồng (năm 2020).

Đến năm 2010, tỉnh có 4 khu du lịch biển đang xây dựng và bước đầu đưa

vào khai thác. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có 7 khu du lịch biển được đầu tư xây

dựng. Theo đó, tỉnh đã định hướng xây dựng thêm khu du lịch Cồn Nhàn, khu du

lịch Cồn Chài Mười và khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn gắn với di tích lịch sử

“Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Số lượng cơ sở lưu trú cũng sẽ tăng nhanh để đáp

ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các hoạt động du lịch.

Với tình hình phát triển mạnh mẽ của hoạt động du lịch trên địa bàn ba

huyện ven biển đến năm 2020 dự kiến ngành du lịch biển của tỉnh Bến Tre cần

khoảng 1.989 lao động, tăng gần 4,5 lần so với năm 2010. Trong đó, lao động qua

đào tạo là 90% (1.790 người), riêng lao động có trình độ đại học và cao đẳng là 497

người.

3.2.2. Các chỉ số dự báo phát triển nguồn nhân lực

Dân số ba huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú sẽ có khuynh hướng tăng

chậm trong tương lai do chính sách kiển soát dân số, kế hoạch hóa gia đình nhưng

101

sẽ tái bố trí, chuyển dịch nhanh cơ cấu do sự phát triển của các đô thị, các cụm công

nghiệp, cơ sở hạ tầng, giao thông.

Dự kiến giai đoạn 2011 – 2020, dân số vùng ven biển sẽ tăng với tốc độ bình

quân 0,93 %/năm, đạt 491.245 người vào năm 2020. Tỉ lệ lao động ngành nghề và

lao động trong độ tuổi ba huyện ven biển sẽ tăng lên. Theo đó, lao động trong độ

tuổi sẽ tăng lên 387.806 người (năm 2020), lao động trong các ngành nghề khoảng

301.545 người. Đặc biệt lao động trong KV II và KV III sẽ tăng mạnh phù hợp với

quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa mạnh mẽ trên địa bàn, chiếm khoảng 45%

tổng lao động ngành nghề của các huyện. (Xem bảng 3.4)

Bảng 3.4: Dự báo dân số và lao động ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre

đến năm 2020

Đơn vị tính: người

Hiện trạng Dự báo TTBQ (%) Chỉ tiêu 2010 2020 20110 - 2020

1. Dân số

Dân số trung bình 447.812 491.245 0,93

2. Lao động

Lao động trong độ tuổi 345.923 387.806 0,89

Lao động ngành nghề 272.310 301.545 1,025

163.604 165.826 0,135 KV I

68.213 83.846 2,085 KV II

40.493 51.873 2,51 KV III

Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre, năm 2007 [13]

3.2.3. Các chỉ số dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của ba huyện ven

biển

GDP tăng bình giai đoạn 2011 – 2020 ba huyện ven biển dự báo tăng bình

quân là 12,1 %/năm.

102

GDP bình quân đầu người đạt 2.600 USD vào năm 2020 (bằng 93% toàn

tỉnh).

Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của ba huyện ven biển: KV I tăng

trưởng với tốc độ bình quân là 7,5 %/năm; KV II là 18,6 %/năm; KV III là 14,7

%/năm.

Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn ba huyện ven biển đóng góp vào kim

ngạch xuất khẩu chung của tỉnh là 178 triệu USD vào năm 2020 (bằng 19% toàn

tỉnh) do công nghiệp vẫn còn yếu so với mặt bằng chung toàn tỉnh.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng bình quân 7,5%/năm.

Chỉ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio - tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc

độ tăng trưởng) giai đoạn 2011 – 2020 là 2,72%.

Cơ cấu kinh tế năm 2010 là KV I: 55,9 – KV II: 15,4 – KV III: 28,7 đến năm

2020 lần lượt là 37% - 29% - 34%.

Về xã hội, phổ cập bậc Trung học đạt chuẩn sau năm 2015. Số lao động được

đào tạo so với số lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 53%. Số lao động thành thị

trong độ tuổi bị thất nghiệp được khống chế ở mức dưới 1%.

Tỉ lệ hộ sử dụng điện của ba huyện đạt trên 95%, tỉ lệ hộ dân được cung cấp

nước sạch tập trung đạt 91% vào năm 2020.

Cần 4 bác sĩ và 11,18 giường bệnh cho 1 vạn dân.

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới dưới 5%.

3.2.4. Các chỉ số dự báo tình hình đầu tư

Nhu cầu đầu tư để phát triển bền vững kinh tế, nhất là kinh tế biển đi đôi với

phát triển bền vững xã hội và môi trường trên địa bàn ba huyện ven biển tỉnh Bến

Tre trong thời gian tới là rất lớn. Theo đó, trước hết là đầu tư phát triển, hoàn chỉnh

hệ thống cơ sở, hạ tầng, kĩ thuật; kế đến là đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật phát triển

các ngành kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự báo nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế biển tỉnh

Bến Tre trong giai đoạn 2007 – 2020 là khoảng 103.485 tỉ đồng, trong đó phần đầu

tư trong khu vực tư từ 61 – 73% trong giai đoạn 2011 – 2020.

103

3.3. Các định hướng phát triển

Trước những tiềm năng, lợi thế và thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh

Bến Tre trong thời gian qua, rất cần những định hướng hợp lý, cụ thể để khai thác

một cách hợp lý nguồn tài nguyên nhằm phát triển kinh tế biển bền vững.

3.3.1. Phát triển sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa và nâng

cao chất lượng sản phẩm

Sản phẩm kinh tế biển thế mạnh của tỉnh là sản phẩm thủy hải sản. Bên

cạnh đó, các sản phẩm của ngành diêm nghiệp, sản phẩm du lịch biển và các nông –

lâm sản cũng có nhiều tiềm năng phát triển.

Để phát triển bền vững kinh tế biển, định hướng đầu tiên là phát triển các

sản phẩm kinh tế biển theo hướng chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm

nhằm giảm đến mức thấp nhất sự lãng phí tài nguyên, tăng cường hàm lượng công

nghệ cho sản phẩm để nâng cao chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị

trường nhằm mang lại lợi nhuận kinh tế cao mà vẫn bảo vệ tốt nguồn tài nguyên và

môi trường. Theo đó, cần:

Đa dạng hóa sản phẩm kinh tế biển bao gồm sản phẩm vật chất và các sản

phẩm văn hóa, tinh thần trên cơ sở đa dạng hóa ngành nghề, lĩnh vực kinh tế biển,

phát triển thêm các sản phẩm mới bên cạnh các sản phẩm truyền thống.

Đầu tư và thu hút đầu tư hình thành các vùng sản xuất hàng hóa về nông -

lâm – thủy sản gắn với nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, dây chuyền của

công nghiệp chế biến để chủ động nguồn nguyên liệu, hiện đại hóa và nâng cao chất

lượng sản phẩm. Đối với các ngành dịch vụ, nhất là ngành du lịch biển, định hướng

phát triển sản phẩm gắn với sinh thái và dịch vụ chất lượng cao.

Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm kinh tế biển phù hợp với xu hướng kinh tế

thị trường; ưu tiên phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế cao trong nuôi trồng,

khai thác thủy hải sản, các dịch vụ du lịch cao cấp,…

Tăng cường hàm lượng khoa học, công nghệ trong các sản phẩm kinh tế

biển.

104

Có chiến lược phát triển sản phẩm kinh tế biển hợp lý. Tùy theo điều kiện

từng thời kì mà xác định sản phẩm kinh tế biển nào là thế mạnh để tập trung đầu tư

phát triển, tạo nên bước đột phá, từ đó tạo đà phát triển cho các sản phát kinh tế biển

khác.

Chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là các nông – lâm – thủy sản

có lợi thế xuất khẩu, phấn đấu đạt và phát huy các chứng nhận về chất lượng sản

phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế như GlabalGAp, MSC,.. để tạo thương hiệu, tăng khả

năng cạnh tranh bền vững trên thị trường.

Phát triển các sản phẩm kinh tế biển trên cơ sở khai thác tốt đi đôi với bảo

vệ, tái tạo nguồn tài nguyên, tránh lạm dụng nguồn tài nguyên hay cố ý vi phạm các

nguyên tắc bảo vệ môi trường nhằm đảo bảo một sự phát triển lâu dài, hài hòa và

bền vững cho hiện tại và tương lai.

3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao

Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn

theo Quyết định số 1959/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ để nâng cao trình độ

dân trí và chuyên môn cho các lao động phổ thông ở nông thôn tham gia làm việc

trong các ngành kinh tế biển.

Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có điều kiện tiếp cận và sử dụng

công nghệ, kĩ thuật sản xuất hiện đại để nâng cao chất lượng lao động.

Có kế hoạch thực hiện tốt công tác hướng nghiệp tại các trường phổ thông.

Tích cực đa dạng hóa hình thức đào tạo.

Từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý để tham gia thực hiện

quy hoạch, điều hành, quản lý phát triển kinh tế biển một cách hiệu quả, chất lượng.

Có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, đào tạo chuyên gia trong các lĩnh

vực kinh tế biển để làm cơ sở thu hút đầu tư và phát triển kinh tế biển bền vững.

3.3.3. Tăng cường đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế biển theo

hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa

Cần tăng cường đầu tư phát triển hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng, vật chất kĩ thuật

các ngành kinh tế biển như hệ thống đường giao thông; cơ sở hạ tầng ngành nuôi

105

trồng, khai thác thủy sản; cơ sở hạ tầng ngành du lịch; ngành muối, lâm nghiệp,..

Chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học,

đổi mới công nghệ và hiện đại hóa trong hoạt động sản xuất để tăng hiệu quả.

Phân bố đầu tư hợp lý giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển theo từng

giai đoạn phát triển và có kế hoạch phân bổ đầu tư hợp lý trong từng ngành.

Thực hiện xã hội hóa đầu tư, kêu gọi, thu hút các nguồn đầu tư ngoài ngân

sách để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao và đa dạng.

Chú trọng đầu tư các dự án, công trình bảo vệ và nâng cao chất lượng môi

trường.

Tăng cường đầu tư liên ngành, liên vùng để tạo nên sức mạnh tổng hợp, hỗ

trợ lẫn nhau tạo mối quan hệ liên kết giúp khai thác và bảo vệ có hiệu quả nguồn tài

nguyên biển, tiến tới phát triển bền vững.

Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư để cung cấp thông tin, tạo điều kiện,

môi trường thuận lợi, thu hút đầu tư mạnh mẽ và có hiệu quả vào các ngành, lĩnh

vực kinh tế biển trên địa bàn tỉnh.

3.3.4. Bảo vệ môi trường biển

Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái vùng biển, ven biển

trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo chất lượng

môi trường sinh thái, môi trường sống và trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày

càng sâu sắc.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường và thường xuyên cập nhật thông tin để

xây dựng các phương án quản lý, bảo vệ môi trường hiệu quả.

Nâng cao các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, hạn

chế các tác động tiêu cực đến môi trường một cách có hiệu quả.

Có cơ chế đủ mạnh để quản lý và bảo vệ môi trường. Tăng cường nâng cao

trình độ và đào tạo mới đội ngũ cán bộ quản lý môi trường có trình độ, chuyên môn

nghiệp vụ cao kết hợp với tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào việc xử lý

ô nhiễm, quản lý và bảo vệ môi trường.

106

Tăng cường nâng cao ý thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng vào việc

quản lý và bảo vệ môi trường để tạo nên sức mạnh chung, chia sẻ trách nhiệm và lợi

ích, tạo hiệu quả toàn diện trong bảo vệ môi trường.

3.3.5. Nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển

Để duy trì sự phát triển kinh tế biển bền vững, yếu tố đóng vai trò quan trọng

nhất là phải có chương trình, cơ chế quản lý các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển

một cách chặt chẽ, hợp lý, đồng bộ, có chất lượng và hiệu quả.

Việc quản lý phát triển mảng kinh tế biển của tỉnh trong thời gian qua còn

nhiều hạn chế nên trong thời gian tới cần có định hướng và các biện pháp hữu hiệu

nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh tế biển.

Tăng cường nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các ngành kinh tế

biển kết hợp với xây dựng kế hoạch thu hút nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao bổ sung trong tương lai.

Quản lý phát triển kinh tế biển trên nguyên tắc hài hòa giữa phát triển kinh tế

với nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên

cũng như bảo vệ tốt môi trường sinh thái biển, ven biển; đảm bảo sự phát triển hài

hòa giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển.

Có quy hoạch ngắn hạn và dài hạn để phát triển kinh tế biển theo từng giai

đoạn cụ thể. Tăng cường công tác kiểm tra, rà soát để điều chỉnh và bổ sung quy

hoạch phát triển kinh tế biển một cách hợp lý.

Có cơ chế quản lý đủ mạnh để quản lý hiệu quả việc khai thác với bảo vệ, tái

tạo nguồn tài nguyên biển và bảo vệ môi trường sinh thái.

Có sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong phát triển kinh tế biển để tạo được

sự phát triển đồng bộ, thống nhất.

Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý, phát triển kinh

tế biển.

3.4. Các giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững

Để phát triển kinh tế biển thật sự bền vững, bên cạnh những định hướng cụ

thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, phải xây dựng các giải pháp cụ thể, thiết thực để

107

làm cơ sở triển khai các định hướng đạt hiệu quả. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu,

các giải pháp phát triển kinh tế biển bển vững đối với tỉnh Bến Tre trong thời gian

tới bao gồm các giải pháp: phát triển sản phẩm kinh tế biển; đào tạo, tuyển dụng

nguồn nhân lực chất lượng cao; đầu tư có hiệu quả, bảo vệ môi trường và quản lý

kinh tế biển có chất lượng, hiệu quả.

3.4.1. Các giải pháp phát triển sản phẩm kinh tế biển

Đa dạng hóa sản phẩm kinh tế biển bằng cách tập trung phát triển thêm các

sản phẩm mới có nhiều tiềm năng bên cạnh các sản phẩm truyền thống của các

ngành thủy sản, du lịch, muối, lâm nghiệp,..Cần tăng cường nghiên cứu, lựa chọn

nuôi các loại thủy hải sản, đặc sản mới có giá trị kinh tế cao và đáp ứng nhu cầu tiêu

dùng, tăng cường đánh bắt hải sản ngoài khơi; phát triển các dịch vụ du lịch vui

chơi giải trí, thể thao biển, các dịch vụ lưu trú, ăn uống cao cấp; phát triển các sản

phẩm muối sạch, thu hồi sản phẩm nước ót, thạch cao sau thu hoạch; phát triển các

đặc sản rừng ngập mặn,…Trong tương lai, tiến tới phát triển các dịch vụ giao thông

vận tải biển, cảng biển,..

Để hình thành vùng sản xuất hàng hóa nông – lâm – sản của vùng kinh tế

biển cần tiến hành lựa chọn sản phẩm ưu thế, có khả năng sản xuất theo hình thức

chuyên môn hóa như thủy sản nuôi trồng: tôm, cá da trơn, nghêu; muối;...Đẩy mạnh

các mô hình sản xuất tiên tiến: sản xuất công nghiệp, thâm canh, bán thâm canh đối

với sản phẩm ngành nuôi thủy sản nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào, chất

lượng đồng bộ, thuận lợi cho chế biến xuất khẩu.

Bên cạnh đó, cần gắn liền sản xuất hàng hóa với nâng cao năng lực của

công nghiệp chế biến cho tương xứng với nguồn nguyên liệu sản xuất của vùng sản

xuất hàng hóa bằng cách đầu tư xây dựng thêm các nàh máy chế biến, đổi mới dây

chuyển, công nghệ hiện đại để tránh lãng phí nguyên liệu, đa dạng hóa, nâng cao

chất lượng sản phẩm.

Đối với sản phẩm các ngành dịch vụ, nhất là du lịch biển cần xác định sản

phẩm đặc thù của từng địa phương; tăng cường phát triển sản phẩm du lịch sinh thái

gắn với biển, rừng; phát triển dịch vụ du lịch chất lượng cao,…

108

Tăng cường yếu tố khoa học công nghệ trong sản xuất theo hướng tăng

cường ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến làm tốt

công tác xử lý chất thải để nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, giảm

chi phí và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái.

Mặt khác, để nâng cao chất lượng sản phẩm cần tăng cường sử dụng công

nghệ vi sinh, thân thiện môi trường trong việc nuôi thủy sản; kiểm soát tốt dư lượng

kháng sinh, chất bảo quản trong sản phẩm thủy sản chế biến. Nhân rộng mô hình

sản xuất các sản phẩm được chứng nhận chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để xây

dựng thương hiệu bền vững.

Trong từng giai đoạn phát triển, lựa chọn sản phẩm kinh tế biển nào giữ vai

trò chủ đạo để trung đầu tư, phát triển mạnh, làm tiền đề thúc đầy các sản phẩm

khác cùng phát triển, tránh đầu tư dàn trãi, kém chất lượng.

Làm tốt công tác bảo vệ môi trường và tài nguyên để đảm bảo điều kiện

khai thác tốt các sản phẩm của ngành thủy sản, du lịch biển, nghề muối,…

Ngoài ra, đối với từng sản phẩm kinh tế biển cụ thể, cần có các giải pháp

phát triển riêng, theo đặc thù sản phẩm.

Đối với sản phẩm thủy hải sản:

Tạo bước tăng trưởng nhanh và bền vững trong lĩnh vực nuôi thủy hải sản,

khai thác tốt tiềm năng diện tích mặt nước để đưa vào nuôi trồng. Đa dạng hóa đối

tượng nuôi nhằm tạo ra nguồn sản phẩm phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị

trường. Ưu tiên phát triển các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm

thẻ chân trắng ở vùng mặn, lợ; nuôi nghêu, sò ở các bãi bồi ven biển và các đầm lầy

mặn; phát triển nuôi các đối tượng cua, cá kèo, cá song, cá măng ở các vuông hoặc

nuôi bè ven biển; nuôi cá rô phi dòng gift, cá tai tượng, cá mè, cá chép, cá đồng, đặc

biệt cá da trơn và tôm càng xanh…ở các vùng ngọt hóa.

Tăng cường nuôi thâm canh, bán thâm canh, nuôi công nghiệp, phát triển

mạnh trang trại thủy sản gắn liền với việc áp dụng các quy trình kĩ thuật tiên tiến

trong nuôi các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, hướng đến xuất khẩu như tôm

sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra,…để tạo ra sản phẩm theo hướng chuyên môn hóa với

109

số lượng lớn, chất lượng tốt và đồng đều, năng suất cao, đáp ứng nhu cầu cung cấp

nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Bên cạnh đó, xây dựng các mô hình nuôi bền

vững, nuôi xen nhiều đối tượng trên cùng một diện tích như mô hình tôm - lúa, tôm

- rừng, mô hình nuôi xen cua – tôm, phát triển nuôi đặc sản trên vùng bãi triều

không có đê, cống,..để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính bền vững hiệu quả nuôi

thủy hải sản.

Đẩy mạnh công tác ứng dụng, chuyển giao kĩ thuật nuôi tiên tiến cho người

nuôi, tăng cường sừ dụng chế phẩm sinh học, an toàn thân thiện với môi trường

trong nuôi thủy hải sản để giảm lượng hóa chất, kháng sinh trong sản phẩm nuôi,

góp phần bảo vệ môi trường nuôi, giúp phát triển bền vững ngành nuôi trồng đồng

thời không gây những tác hại tiêu cực cho môi trường sinh thái.

Phát huy, nhân rộng mô hình nuôi cá da trơn đạt chứng nhận GlobalGAP

và nghêu đạt chứng nhận MSC để tạo nguồn sản phẩm xuất khẩu đạt chất lượng,

xây dựng uy tín, thương hiệu bền vững trên thị trường xuất khẩu thế giới.

Nâng cao chất lượng đội tàu khai thác xa bờ để tăng cường năng lực khai

thác xa bờ, hướng đến các ngư trường biển khơi nhất là ngư trường cá nổi đại

dương để đa dạng hóa sản phẩm đánh bắt, đồng thời khai thác các loài có giá trị

kinh tế cao như cá ngừ đại dương, cá thu,..

Tăng cường gắn kết hoạt động khai thác xa bờ với phát triển hệ thống hậu

cần theo hướng hiện đại hóa nhằm đảm bảo việc khai thác hải sản theo hướng

chuyên môn hóa, vận chuyển, mua bán, bảo quản sản phẩm tốt hơn, nâng cao chất

lượng sản phẩm hải sản khai thác.

Gắn liền hoạt động khai thác và nuôi trồng với nâng cao năng lực công

nghệ chế biến nhằm giảm thất thoát sau thu hoạch, đa dạng hóa và nâng cao chất

lượng sản phẩm thủy hải sản, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị

trường, giúp người tiêu dùng được tiếp cận sản phẩm thủy hải sản sạch, an toàn,

chất lượng.

110

Đối với ngành diêm nghiệp:

Đảm bảo khu vực sản xuất muối liền canh, đồng bộ, mở rộng diện tích tối

đa ở những nơi có thể phát triển nghề muối để thuận lợi cho việc bố trí sản xuất,

tăng năng suất và chất lượng sàn phẩm.

Đẩy mạnh thâm canh, cải tiến kĩ thuật, chuyển giao công nghệ, chuyển dần

sang sản xuất muối sạch để nâng cao năng suất và chất lượng hạt muối, đảm bảo

đáp ứng nhu cầu muối sạch cho tiêu dùng và cung ứng cho ngành công nghiệp.

Đa dạng hóa sản phẩm sau thu hoạch, thu hồi các sản phẩm nước ót, thạch

cao bên cạnh muối nguyên liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất.

Đối với ngành nông - lâm nghiệp:

Phát triển mạnh công tác trồng và chăm sóc rừng để tăng nguồn thu lâm

sản, nhất là các sản phẩm có giá trị cao.

Phát triển sản phẩm lâm nghiệp đa dạng kết hợp với bảo vệ môi trường

sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, làm cơ sở cho việc phát triển các sản phẩm kinh

tế biển khác như sản phẩm du lịch sinh thái, thủy hải sản,…nhằm nâng cao giá trị và

hiệu quả sản xuất.

Ngành nông nghiệp vùng ven biển cần chú trọng phát triển sản xuất hàng

hóa, tăng cường chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.

Đối với ngành du lịch biển:

Tăng cường đa dạng hóa sản phẩm du lịch và các loại hình kinh doanh du

lịch để khai thác tốt tiềm năng du lịch biển, hướng đến phát triển bền vững du lịch

biển trong tương lai. Phát triển mạnh các sản phẩm du lịch sinh thái, văn hóa, lịch

sử kết hợp với bảo vệ môi trường và tăng cường lợi ích về kinh tế, văn hóa, xã hội

cho địa bàn ven biển.

Phát triển tổng hợp sản phẩm du lịch biển – rừng gắn liền với tài nguyên du

lịch biển và rừng ngập mặn. Phát triển sản phẩm du lịch tại các trọng điểm khu di

tích lịch sử văn hóa như mộ và đền thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu, khu Lạc Địa – Phú

Lễ,..xây dựng các loại hình nghệ thuật như câu lạc bộ thơ, ca nhạc tài tử, khôi phục

nghề việt thư pháp trên đồ lưu niệm, bốc thuốc chữa bệnh, văn hóa ẩm thực truyền

111

thống, các hoạt động vui chơi giải trí mang đậm bản sắc xứ dừa và biển.

Phát triển các đồ lưu niệm đa dạng, độc đáo mang đậm dấu ấn địa phương,

nhất là sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa, các đặc sản vùng biển, các sản

phẩm làng nghề như báng tráng Mỹ Lồng – báng phồng Sơn Đốc, kẹo dừa, rượu

dừa, rượu Phú Lễ,…

3.4.2. Các giải pháp đào tạo, tuyển dụng lao động chất lượng cao

Để tạo được nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh

tế, tỉnh Bến Tre cần phải có chiến lược và định hướng và giải pháp phù hợp từ việc

rà soát lại lực lượng lao động phục vụ các ngành kinh tế biển, từ đó có kế hoạch đào

tạo, sử dụng, điều chỉnh nguồn nhân lực một cách hợp lý, khoa học.

Tăng cường đẩy mạnh công tác hướng nghiệp tại các trường phổ thông để

góp phần định hướng việc lựa chọn ngành nghề của học sinh phù hợp với nhu cầu

xã hội và thực tiễn, tiềm năng phát triển kinh tế địa phương, nhất là lĩnh vực kinh tế

biển như nuôi trồng thủy sản, du lịch, nông – lâm, cơ khí, quản trị kinh tế,…

Thành lập thêm các trường trung cấp, cao đẳng đào tạo đa ngành nghề,

hướng tới mở các khoa đào tạo liên quan đến kinh tế biển tại trường Đại học Bến

Tre với mục tiêu phát triển thành những khoa đào tạo chủ lực của trường.

Khuyến khích tư nhân tham gia liên kết đào tạo hoặc hỗ trợ đào tạo nguồn

nhân lực có chất lượng cao nhất là lĩnh vực du lịch, nuôi trồng thủy hải sản; tăng

cường kí kết thỏa thuận sử dụng lao động qua đào tạo tại địa phương với các đơn vị,

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Có chính sách hỗ trợ đào tạo chuyên gia trong các ngành nghề kinh tế biển

để hỗ trợ địa phương trong công tác quản lý, quy hoạch và thu hút đầu tư. Tăng

cường chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, nhất là cán bộ khoa học về nuôi trồng

thủy hải sản, chế biến thủy sản, du lịch, cơ khí, tàu biển, ,…

Tăng cường nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp đào tạo

nghề cho bộ phận lao động phổ thông đang làm việc trong các ngành kinh tế biển để

góp phần nâng cao tay nghề, kĩ thuật sản xuất, đủ khả năng tiếp thu và sử dụng

công nghệ mới trong sản xuất.

112

Từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kĩ

thuật và công nhân lành nghề phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển trong

từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kì hội nhập.

Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực bổ sung, thực hiện luân chuyển, bố trí

lại đội ngũ cán bộ quản lí, các bộ khoa học kĩ thuật một cách hợp lý, khoa học giữa

các ngành kinh tế biển để tạo nên sự phát triển đồng bộ và bền vững các ngành

nghề.

3.4.3. Các giải pháp đầu tư đạt hiệu quả

Tăng cường cơ chế bắt buộc các ngành, các doanh nghiệp tham gia đầu tư

hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội bên cạnh việc đầu tư phát triển ngành.

Tăng cường thu hút đầu tư ngoài ngân sách bằng các chính sách ưu đãi về

vay vốn lãi suất thấp, ưu tiên giá thuê đất, miễm giảm thuế doanh nghiệp,.. để tạo

môi trường đầu tư thuận lợi nhằm tăng nhanh nguồn vốn đầu, khoa học kĩ thuật vào

phát triển các ngành kinh tế biển, giảm áp lực cho ngân sách địa phương.

Đầu tư, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp

chế biến. Tăng cường đầu tư vốn cho việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao

khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất hàng hóa gắn với việc đầu tư nâng cao

công suất, đổi mới công nghệ chế biến để tăng cường năng lực của công nghiệp chế

biến cho tương xứng với tiềm năng sản xuất nguyên liệu.

Chú trọng đầu tư nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng lực lượng lao động,

tăng khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ, kĩ thuật hiện đại trong sản xuất. Đặc

biệt chú trọng đầu tư về vốn, có chính sách ưu đãi để đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao phục vụ cho công tác quy hoạch, quản lý các ngành kinh tế biển và lực

lượng cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cao trực tiếp

tham gia quá trình sản xuất.

Quy hoạch, phân bố hợp lý nguồn vốn đầu tư giữa các ngành, lĩnh vực kinh

tế biển để tạo nên sự phát triển hài hòa. Bên cạnh đó, cần xây dựng kế hoạch đầu tư

theo hướng có chọn lọc, ưu tiên phát triển ngành chủ lực, nhiều lợi thế để phát triển

mạnh, trở thành ngành động lực, từng bước vực dậy các ngành giàu tiềm năng.

113

Đầu tư đổi mới từng ngành, từng lĩnh vực cho phù hợp chương trình, kế

hoạch phát triển kinh tế biển của tỉnh trong từng giai đoạn.

Đối với ngành thủy sản cần khuyến khích đầu tư nâng cao chất lượng đội tàu

đánh bắt bằng các giải pháp cho vay lãi suất thấp để đóng mới và hiện đại hóa trang

thiết bị tàu đánh bắt có công suất lớn (từ 90 CV trở lên) để tăng cường khả năng

khai thác hải sản ngoài khơi, hạn chế khai thác vùng ven bờ. Phát triển hậu cần song

song với phát triển hoạt động đánh bắt nhất là mô hình tàu hậu cần ra khơi cùng tàu

cá để tăng cường khả năng cung ứng dịch vụ, thu mua, bảo quản, chế biến sản phẩm

khai thác. Hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ nuôi thủy hải sản,

nhất là mô hình nuôi công nghiệp theo hướng thâm canh, bán thâm canh. Đầu tư và

tăng cường thu hút đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến thủy hải sản và tích cực

đổi mới quy trình kĩ thuật, dây chuyển sản xuất theo hướng hiện đại hóa để đa dạng

sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cung ứng tốt nhu cầu tiêu thụ.

Ngành du lịch cần được ưu tiên đầu tư và thu hút đầu tư trong, ngoài tỉnh,

đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác có hiệu quả tiềm năng theo hướng đa dạng

hóa sản phẩm và loại hình du lịch; tăng cường đầu tư hoàn thiện hệ thống lưu trú,

dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, các cửa hàng lưu niệm với các đặc sản mang dấu

ấn riêng của địa phương tại các điểm, khu du lịch biển.

Đối với ngành muối cần tăng cường đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ

tầng vùng muối; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất muối

sạch; từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề muối thay cho hình thức thủ

công truyền thống.

Đối với ngành lâm nghiệp cần tăng cường nguồn vốn đầu tư có hiệu quả việc

chăm sóc, trồng và khai thác rừng trên địa bàn tỉnh.

Có kế hoạch quy hoạch, đầu tư xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp

cơ khí, đóng và sửa chữa tàu thuyền trong thời gian tới, phấn đấu đến năm 2020,

tỉnh có ít nhất một cảng biển đi vào hoạt động để làm cơ sở phát triển ngành giao

thông vận tải biển, khai thác tốt hơn tiềm năng kinh tế biển của địa phương.

114

Tăng cường đầu tư liên ngành, liên vùng để cùng đầu tư và sử dụng chung

kết cấu hạ tầng như điện, nước, đường giao thông,.. để giảm chi phí vừa hoàn thiện

được cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, việc đầu tư phát triển ngành này có khi là cơ sở để

phát triển ngành khác, ví dụ trồng và chăm sóc rừng giúp phát triển các loại hình du

lịch sinh thái gắn với biển, rừng. Các địa phương có cùng điều kiện tương đồng cần

hợp tác chặt chẽ để phát triển các ngành kinh tế biển. Ví dụ có thể mở rộng vùng

quản lý, khai thác nghêu theo tiêu chuẩn MSC sang các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh,

Thành phố Hồ Chí Minh,..; xây dựng thương hiệu cá tra đồng bằng sông Cửu Long

hay du lịch sinh thái miệt vườn vùng Tây Nam Bộ,…

Sở Kế hoạch đầu tư cần tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư nhằm đa

dạng hóa các hình thức và thu hút đầu tư mạnh mẽ vào các ngành, các lĩnh vực kinh

tế biển của tỉnh. Theo đó, cần đăng tải đầy đủ thông tin, rõ ràng, chính xác; quảng

bá thông tin rộng rãi và kêu gọi thu hút đầu tư một cách có hiệu quả từ các doanh

nghiệp trong và ngoài địa phương.

Phát triển mạnh thị trường tài chính, đẩy nhanh xã hội hóa trong các lĩnh vực

y tế, giáo dục, văn hóa - thể thao; khuyến khích các hình thức đầu tư xây dựng và

vận hành, chuyển giao các kết cấu hạ tầng.

Tăng cường các biện pháp kiểm tra tiến độ thực hiện các công trình, dự án

đầu tư trọng điểm có quy mô lớn và tổ chức đánh giá hiệu quả đầu tư trên địa bàn

tỉnh theo định kì để kịp thời điều chỉnh, rút kinh nghiệm, xử lý sai phạm.

Ngoài ra, cần đầu tư phát triển mạnh mẽ, toàn diện ba huyện ven biển. Đầu

tư hoàn chỉnh hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước,..xây dựng các

chương trình, dự án cải tạo và bảo vệ môi trường có hiệu quả bên cạnh các chương

trình phát triển kinh tế - xã hội.

3.4.4. Các giải pháp bảo vệ môi trường

Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường.

Lồng ghép các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội với các chương trình,

biện pháp bảo vệ môi trường.

115

Đầu tư khôi phục 5.100 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng khu vực bãi

triều, cửa sông ven biển nhằm tạo sự cân bằng sinh thái, lọc sạch nước biển, hạn chế

các yếu tố gây ô nhiễm môi trường.

Quy hoạch vùng nuôi thủy sản, vùng phát triển du lịch, phát triển công

nghiệp thích hợp. Bắt buộc các cơ sở kinh doanh trên địa bàn có đánh giá tác động

môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác

thả đúng tiêu chuẩn.

Kiểm soát dịch bệnh tại vùng nuôi trồng thủy sản một cách kịp thời và hiệu

quả để tránh dịch bệnh lây lan làm ô nhiễm môi trường nước các vùng khác.

Điều tra, xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường biển, ven biển. Kiểm tra,

đánh giá tác động môi trường theo định kì để cập nhật thông tin, nắm rõ hiện trạng,

diện biến môi trường để có kế hoạch đối phó kịp thời.

Xây dựng các phương án sẵn sàng đối phó với biến đổi khí hậu, nước biển

dâng, thiên tai, mưa bão,..Đầu tư xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, khí tượng, xây

dựng khu tránh trú bão cho tàu thuyền tại các vùng biển và tăng cường xây dựng hệ

thống tìm kiếm cứu nạn trên biển.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc xử lý, bảo vệ môi trường của các đơn vị

sản xuất. Xây dựng cơ sở pháp lý đủ mạnh để xử lý các vi phạm, tăng hiệu quả bảo

vệ và quản lý môi trường như quy định mức xử phạt hành chính nặng đối với các cơ

sở vi phạm luật bảo vệ môi trường, đồng thời bắt buộc khắc phục sự cố vi phạm.

Tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân, kêu gọi cộng đồng cùng tham

gia bảo vệ môi trường.

Đào tạo và nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ

quản lý môi trường. Bên cạnh đó, cần tăng cường yếu tố khoa học, công nghệ trong

bảo vệ và quản lý môi trường.

Quản lý tốt việc khai thác đi đôi với việc bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên

phát triển kinh tế biển như tài nguyên thủy sản, tài nguyên du lịch,..

116

3.4.5. Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lí kinh tế biển

Đẩy mạnh điều tra cơ bản, xác định trữ lượng, khả năng cho phép khai thác

của tài nguyên hải sản, tài nguyên rừng, tài nguyên du lịch,..xây dựng các hệ thống

dự báo biến đổi dòng chảy, xâm nhập mặn, diễn biến môi trường,… để làm cơ sở dự

báo, quy hoạch, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế biển.

Hoàn thiện hệ thống chính sách, bộ máy và cơ chế đủ mạnh để quản lý kinh

tế biển từ cấp tỉnh cho đến cấp huyện, xã. Thay đổi tư duy quản lý, có tầm nhìn và

chiến lược phát triển kinh tế biển lâu dài trên cơ sở nhìn nhận các ngành, lĩnh vực

kinh tế biển có mối quan hệ mật thiết, dây chuyền với nhau và phát triển theo xu

hướng của khu vực và thế giới.

Tăng cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nâng cao trình độ đội ngũ quản lý,

tích cực đầu tư đào tạo nguồn cán bộ bổ sung có chất lượng cao, chuyên môn tốt.

Sắp xếp, luân chuyển đội ngũ cán bộ một cách hợp lý giữa các ngành, các lĩnh vực,

trẻ hóa đội ngũ quản lý.

Quản lý tốt việc khai thác nguồn lợi hải sản kết hợp với bảo vệ, tái tạo nguồn

lợi trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản. Quản lý đội tàu thuyền đánh bắt, phương tiện

kĩ thuật đánh bắt đạt tiêu chuẩn, quy định loài thủy hải sản nào được phép khai thác,

loài nào hạn chế hoặc không được khai thác để bảo tồn, hạn chế tối đa và cấm khai

thác đối với các phương tiện dùng biện pháp đánh bắt mang tính hủy diệt nguồn lợi

và ô nhiễm môi trường như cào điện, dùng xung điện, muối xianua,…Quản lý và

cấp giấy phép hoạt động đối với tàu thuyền đủ tiêu chuẩn theo hướng tăng cường

tàu có công công suất lớn, khai thác ngoài khơi, hạn chế tàu đánh bắt nhỏ có công

suất dưới 20 CV để bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven bờ.

Tăng cường thành lập các đội tàu đánh bắt xa bờ để tăng năng lực khai thác,

đảm bảo an toàn trên biển.

Quản lý tốt cơ sở hạ tầng, xử lý môi trường các vùng nuôi trồng thủy hải sản

và tại các cảng cá, chợ thủy sản, nhà máy chế biến thủy hải sản, để đảm bảo việc

phát triển theo đúng quy hoạch và tuân thủ tốt các yêu cầu sản xuất kết hợp bảo vệ

môi trường, làm cơ sở cho việc phát triển bền vững.

117

Phát triển và hiện đại hóa dịch vụ hậu cần, nhất là hình thức tàu hậu cần ra

khơi cùng tàu cá, tăng cường năng lực của các nhà máy, cơ sở chế biến thủy sản để

sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí nguồn nguyên liệu sản xuất. Quản lý chặc chẽ quy

trình nuôi trồng và chế biến các sản phẩm thủy hải sản để đảm bảo chất lượng, đảm

bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm soát dư lượng hóa chất trong sản phẩm, đảm

bảo nguồn gốc sản phẩm rõ ràng góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.

Tăng cường quản lý tài nguyên du lịch biển, tránh khai thác lạm dụng nguồn

tài nguyên biển gây tác động xấu đến môi trường và cạn kiệt tài nguyên, không thể

phục hồi. Phát triển mạnh các loại hình du lịch sinh thái trên cơ sở đảm bảo cân

bằng sinh thái và bảo vệ môi trường tốt nhất.

Xây dựng và quản lý các chương trình, dự án đảm bảo an toàn cho hoạt động

kinh tế biển tại địa bàn như xây dựng hệ thống hệ thống dự báo thiên tai, diễn biến

môi trường, đảm bảo tốt công tác cứu nạn, cứu hộ trên biển.

Có sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong quản lý, phát triển kinh tế biển

như tăng cường các hoạt động khai thác trên biển với đảm bảo an ninh, chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc; đảm bảo tốt việc bảo vệ, tái tạo tài nguyên rừng; quản lý tốt

chất lượng môi trường để phát triển mạnh du lịch sinh thái và nuôi trồng thủy

sản,…Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các địa phương có biển trong vùng

đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ trong việc phát triển tuyến, tour du

lịch liên vùng, phân chia ngư trường khai thác,…

Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên

tiến trong việc quản lý các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển, đảm bảo việc phát triển

kinh tế phải đi đôi với lợi ích xã hội và biện pháp hiệu quả bảo vệ môi trường sinh

thái. Ví dụ, ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên

tài nguyên biển.

118

119

3.5. Kiến nghị

3.5.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Bến Tre

- Thành lập cơ quan quản lý, phát triển kinh tế biển trực thuộc UBND tỉnh Bến

Tre. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý; hoàn thiện hệ thống chính

sách, cơ chế pháp lý về khai thác, bảo vệ tài nguyên môi trường biển.

- Thực hiện điều tra, thống kê, đánh giá tài nguyên biển của tỉnh một cách đầy

đủ và chi tiết làm cơ sở cho quy hoạch phát triển kinh tế biển về cơ cấu các

ngành kinh tế biển, không gian kinh tế biển phù hợp trong từng giai đoạn

phát triển.

- Chỉ đạo triển khai, giám sát và báo cáo dịnh kì việc thực hiện “Đề án phát

triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh Bến Tre đến năm 2020” để có sự bổ

sung, điều chỉnh các chỉ tiêu của đề án kịp thời.

- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trường Đại học, cao đẳng, trung tâm dạy

nghề trên địa bàn tỉnh; đa dạng hóa hình thức đào tạo từ cơ bản đến chuyên

sâu, đào tạo từ xa, tại chức. Tăng cường các chính sách ưu đãi về tài chính,

phúc lợi để thu hút nhân tài, lao động có chất lượng cao từ các trường đại

học, các địa phương về phục vụ phát triển kinh tế biển tỉnh nhà.

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi, xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, đơn

giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ về quy hoạch, giải tỏa, xây dựng hạ tầng

cơ bản,..để thu hút mạnh mẽ phát triển kinh tế biển từ các nhà đầu tư trong và

ngoài tỉnh, đầu tư nước ngoài,..

- Chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện bố trí lại dân cư và lao động

vùng ven biển cho hợp lý.

- Tăng cường phát triển bền vững kinh tế biển bằng cách kết hợp hài hòa giữa

phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi

trường vùng biển, ven biển. Theo đó, UBND tỉnh cần có cơ chế quy định rõ

quyền lợi và trách nhiệm của các đơn vị tham gia các hoạt động kinh tế biển

phải gắn với trách nhiệm đầu tư phát triển văn hóa, xã hội và cải thiện môi

trường vùng nơi sản xuất.

120

- UBND cần tăng cường các biện pháp duy trì cho người dân vay vốn với lãi

suất thấp, điều tiết giá cả thị trường trên địa bàn tỉnh một cách hợp lý để đảm

bảo quyền lợi người sản xuất và người tiêu dùng trong các sản phẩm, dịch vụ

kinh tế biển của tỉnh.

- Tăng cường xúc tiến, đầu tư, quảng bá, mở rộng thị trường cho các sản phẩm

kinh tế biển của tỉnh.

- Đua vấn đề bảo vệ, cải tạo môi trường và tài nguyên biển vào quy hoạch kinh

tế xã hội và các quy hoạch phát triển kinh tế biển của tỉnh một cách chi tiết,

cụ thể nhất.

- Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, hiện đại hóa trong việc quản lý,

các ngành, các lĩnh vực kinh tế biển nhất là quản lý, bảo vệ môi trường và tài

nguyên biển.

3.5.2. Kiến nghị đối với ngành Thủy sản Bến Tre

- Ngành thủy sản cần tiếp tục khuyến khích và ưu tiên đầu tư phát triển ngành

khai thác thủy sản theo hướng tăng cường khai thác xa bờ. Theo đó, cần duy

trì việc hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp để đóng mới và trang bị hiện đại tàu có

công suất lớn, ưu tiên tàu có công suất lớn hơn 300 CV; khoanh nợ cho ngư

dân làm ăn thua lỗ, bị thiệt hại do thiên tai,..

- Tăng cường công tác quản lý hoạt động khai thác như hạn chế hoặc không

cấp phép, cho tàu thuyền nhỏ có công suất nhỏ hơn 20CV để hạn chế khai

thác gần bờ. Ban hành văn bản cấm hoặc hạn chế khai thác đối với một số

khu vực, một số loài thủy sản có nguy cơ bị cạn kiệt. Quản lý giấy phép,

phương tiện kĩ thuật đánhh bắt chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các kĩ thuật

khai thác có tính lạm sát nguồn lợi như dung mìn, xung điện, muối xianua,

mắc lưới nhỏ hơn kích thước quy định,…

- Ngành Thủy sản cần tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ chuyển đổi

ngành nghề cho ngư dân đánh bắt gần bờ.

- Khuyến khích ngư dân thành lập các đội tàu khai thác trên biển để tăng

cường hỗ trợ và đảm bảo an toàn.

121

- Nghiên cứu thành lập mô hình đội tàu hậu cần ra khơi cùng tàu cá để nâng

cao hiệu quả khai thác và bảo quản sản phẩm.

- Đối với lĩnh vực nuôi trồng, cần tăng cường quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng

cho nuôi trồng. Phổ biến rộng rãi các quy hoạch nuôi thủy sản trên các

phương tiện truyền thông, báo đài để người dân có điều kiện tiệp cận, tránh

phát triển nuôi trồng tràn lan, không thuộc vùng quy hoạch vì thiếu kiến

thức.

- Kiểm tra, giám sát việc nuôi thủy sản theo đúng vùng quy hoạch, ban hành

lịch thời vụ cho từng đối tượng nuôi để có biện pháp chủ động ngăn ngừa

dịch bệnh lây lan và đảm bảo kiểm soát được chất lượng môi trường vùng

nuôi.

- Chú trọng việc nghiên cứu, phát triển các dối tượng thủy sản nuôi mới có giá

trị kinh tế cao và có lợi thế xuất khẩu.

- Ban hành quy định kiểm soát dư lượng hóa chất trong sản phẩm thủy sản

nuôi trồng để đảm bảo uy tín và chất lượng sản phẩm.

- Đầu tư, nhân rộng các mô hình nuôi cá da trơn đạt tiêu chuẩn GlobalGAP và

nghêu đạt chứng nhận MSC về chất lượng sản phẩm.

- Tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá, mở rộng thị trường cho sản phẩm

thủy sản tình Bến Tre.

122

KẾT LUẬN

1. Luận văn với đề tài: “Hiện trạng và định hướng phát triển bền vững kinh tế

biển ở tỉnh Bến Tre” đã hoàn thành với 117 trang nội dung, 16 bảng biểu và hình

ảnh. Các số liệu và hình ảnh đều trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và góp phần thể

hiện nội dung luận văn.

2. Tác giả đã đúc kết và xây dựng cơ sở lý luận về kinh tế biển và phát triển

kinh tế biển bền vững. Trong đó, tác giả chú trọng tìm hiểu định nghĩa, cơ cấu

ngành, cơ cấu lãnh thổ kinh tế biển; mối quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận của

phát triển bền vững, các nguyên tắc, tiêu chí phát triển bền vững và các chỉ số đo

lường phát triển kinh tế biển bền vững. Hệ thống cơ sở lý luận là cơ sở cho việc tiến

hành nghiên cứu các nội dung về phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre.

3. Bến Tre là một trong 28 tỉnh, thành giáp biển của Việt Nam, có tiềm năng

phát triển kinh tế biển khá đa dạng, có sự kết hợp các nguồn lực tự nhiên và nguồn

lực kinh tế - xã hội. Các nguồn lực tự nhiên là tiền đề quan trọng cho việc phát triển

kinh tế biển, bao gồm các nguồn lực quan trọng như vị trí bờ biển với 65 km đường bờ biển, hơn 20.000 km2 vùng lãnh hải; nguồn tài nguyên thủy sản phong phú và

dồi dào từ các ngư trường và vùng biển Nam Bộ; tài nguyên rừng có vai trò quan

trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái và tạo cảnh quan; tài nguyên du lịch biển

khá đa dạng. Bên cạnh đó, các nguồn lực kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định sự

phát triển kinh tế biển của tỉnh, bao gồm nguồn nhân lực ven biển dồi dào; hệ thống

chính sách, chủ trương phát triển kinh tế biển của tỉnh ngày càng hiệu quả, thiết

thực; cơ sở hạ tầng kĩ thuật ngày càng hoàn thiện, khả năng thu hút đầu tư ngày

càng cải thiện,…

4. Kinh tế biển tỉnh Bến Tre phát triển liên tục qua các giai đoạn 1996 – 2000

và 2001 – 2010. Giai đoạn 1996 – 2000 là giai đoạn kinh tế biển tỉnh Bến Tre bắt

đầu có sự khởi sắc. Giai đoạn 2001 – 2010, kinh tế biển của tỉnh phát triển mạnh,

chuyển dịch rõ rệt theo hướng hiện đại và bền vững. Đồng thời, sự phát triển mạnh

mẽ của kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010 đã tác động rất lớn đến tình

123

hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn ba huyện ven biển nói riêng và toàn tỉnh

nói chung.

5. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế biển tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 – 2010

chưa thật sự bền vững, vẫn còn nhiều hạn chế cần được quan tâm giải quyết kịp thời

và hiệu quả để đạt được sự phát triển bền vững thật sự. Các tồn tại chủ yếu gồm cơ

cấu kinh tế biển phát triển chưa đồng bộ; tài nguyên biển chưa được sử dụng một

cách hiệu quả, nhất là tài nguyên du lịch biển. Bên cạnh đó, các hiệu quả về văn hóa

– xã hội vùng ven biển chưa bền vững, nhất là tỉ lệ hộ nghèo giảm nhưng khả năng

tái nghèo cao; chất lượng môi trường vùng biển, ven biển chưa được cải thiện

nhiều.

6. Dựa vào hiện trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Bến Tre giai đoạn 1996 –

2000 và giai đoạn 2001 – 2010 cùng với các chủ trương, chính sách phát triển kinh

tế biển của tỉnh, tác giả đã đưa ra một số chỉ số dự báo phát triển kinh tế biển của

tỉnh đến năm 2020. Đồng thời đề xuất các định hướng và giải pháp phát triển bền

vững kinh tế biển tỉnh Bến Tre. Theo đó, tác giả tập trung vào các lĩnh vực như phát

triển sản phẩm kinh tế biển; đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực hiệu quả; tăng

cường đầu tư về vốn, khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế biển; chú trọng bảo

vệ môi trường và nâng cao năng lực, chất lượng quản lý kinh tế biển.

124

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Huy Bá, Vũ Chí Hiếu, Võ Đình Long (2006), Tài nguyên môi trường và….

phát triển bền vững, Nxb Khoa học và Kĩ thuật, Hà Nội.

2. Cục Thống kê Bến Tre (2001, 2005, 2011), Niên giám Thống kê năm 2000,

2004, 2010, Bến Tre.

3. Nguyễn Dược, Trung Hải (2006), Sổ tay thuật ngữ địa lý, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

4. Nguyễn Đình Hòe (2007), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

5. Lê Văn Khoa, Đoàn Văn Tiến, Nguyễn Song Tùng, Nguyễn Quốc Việt (2010),

Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Lê Xinh Nhân (2010), Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản

Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Địa lý học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh, Tp.HCM.

7. Đặng Văn Phan (20067), Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam, Trường

Đại học Dân lập Cửu Long (lưu hành nội bộ).

8. Nguyễn Thanh Phương, Châu Quang Hiền, Tăng Văn Dom, Cao Minh Sơn

(2002), Địa lý tỉnh Bến Tre – tập 1, lưu hành trong tỉnh.

9. Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre (2010), Quy hoạch nuôi

thủy sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2020, Bến Tre.

10. Đỗ Văn Thông (2012), “Thủy sản Bến Tre – xứng đáng với quê hương đồng

khởi”, Tạp chí Thương mại Thủy sản, số (149).

11. Nguyễn Thụy Ngọc Trang (2011), Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát

triển kinh tế biển tỉnh Ninh Thuận, Luận văn Thạc sĩ Địa lý học, Trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.

12. Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2006), Địa lý kinh tế xã hội

đại cương, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

13. UBND tỉnh Bến Tre (2007), Đề án phát triển toàn diện ba huyện ven biển tỉnh

Bến Tre đến năm 2020, Bến Tre.

125

14. UBND tỉnh Bến Tre (2011), Báo cáo tổng kết và phương hướng phát triển kinh

tế - xã hội tỉnh Bến Tre từ năm 2003 đến 2010, Bến Tre.

15. UBND tỉnh Bến Tre, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre

đến năm 2020, Bến Tre.

16. Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.

17. Viện Chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng kết

khoa học công nghệ đề tài: Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế - xã hội

dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực trọng

điểm, Hà Nội.

18. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2007), Báo cáo hội

thảo Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam, Hà Nội.

19. www.bentre.gov.vn : Trang thông tin điện tử UBND tỉnh Bến Tre

20. www.congthuongbentre.gov.vn : Trang thông tin điện tử Sở Công thương tỉnh

Các trang website:

21. www.vietnamtourism.gov.vn : Trang thông tin điện tử Tổng cục Du lịch

Bến Tre

22. www.cpv.org.vn : Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.

Việt Nam

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Kiến nghị về các tiêu chí PTBV cấp quốc gia và địa phương

Tiêu chế PTBV cấp địa phương Tiêu chí PTBV cấp quốc gia

MỤC TIÊU KINH TẾ

1. GDP/người 1. Thu nhập bình quân/người, ước tính

bằng tiền tệ

2. Tốc độ tăng , giảm GDP/người 2. Biến động thu nhập bình quân/người,

ước tính so với năm trước (%)

3.Cơ cấu GDP theo nông nghiệp, công 3. Ước tính cơ cấu thu nhập theo nông

nghiệp, dịch vụ nghiệp, công nghiệp, dịch vụ (%)

4. Nợ của quốc gia tính bằng tiền tệ và 4. Tổng số nợ của dân, tính bằng số

% GDP tiền/hộ

5.Diện tích đất nông nghiệp/người, tăng,

giảm/năm (%)

6. Bình quân thu nhập do nghề phi nông

nghiệp, tính bằng tiền/hộ/năm

TIÊU CHÍ XÃ HỘI

1. Tổng số dân (người) 1.Tổng số dân, tổng số hộ

2. Tốc độ tăng dân số (%/năm) 2. Tốc độ tăng dân số (% năm)

3. Chỉ số phát triển con người (HDI)

4. Tỉ lệ hộ nghèo trong tổng số dân 3. Tỉ lệ hộ nghèo trong tổng số dân

5. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm 4. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm

6. % dân di cư trong nước/năm 5. % dân di cư đến và đi/năm

7. Số năm đi học trung bình của người 6. Số học sinh, sinh viên (mẫu giáo, Tiểu

lớn học, THCS, THPT, đại học)

8. Số bác sĩ, y sĩ/10.000 dân 7. % hộ được sử dụng dịch vụ y tế

9. % dân được sử dụng nước sạch 8. % hệ được dử dụng nước sạch

10. % dân được sử dụng điện 9. % hộ được sử dụng điện

11. Số điện thoại/10.000 dân 10. % hộ có điện thoại

12. Tỉ lệ dân đô thị/tổng số dân (%)

TIÊU CHÍ MÔI TRƯỜNG

1.Diện tích nhà ở/người 1.Diện tích nhà ở/người

2. Diện tích thổ cư/người 2. Diện tích thổ cư/người

3. Chất lượng môi trường không khí 3. Chất lượng môi trường không khí đô

đô thị và KCN so với TCVN (nhìn thị (xấu, trung bình, tốt)

chung tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)

4. Chất lượng môi trường không khí 4. Chất lượng môi trường không khí

nông thôn so với TCVN (nhìn chung nông thôn (xấu, trung bình, tốt)

tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)

5. Chất lượng môi trường nước sông, 5. Chất lượng môi trường nước (xấu,

hồ tự nhiên so với TCVN (nhìn chung trung bình, tốt)

tốt hơn, bằng hoặc xấu hơn)

6. Tỉ lệ rác thải rắn được thu gom, xử 6. 6. Tỉ lệ rác thải rắn được thu gom, xử

lý lý

7.Diện tích đất nông nghiệp/người

tăng, giảm/năm (%)

8.Độ che phủ rừng, tăng, giảm/năm 7. Độ che phủ rừng, tăng, giảm/năm (%)

(%)

9. Diện tích gieo trồng được tưới

10.Sản lượng thủy sản tấn/người/năm: 8. Sản lượng thủy sản tấn/người/năm:

tăng, giảm/năm (%) tăng, giảm/năm (%)

11. Tỉ lệ diện tích các khu bảo tồn

thiên nhiên/tổng diện tích lãnh thổ (%)

12. Tổng lượng xả thải các khí nhà

kính/năm (tấn)

13. Tổng lượng sử dụng các khí làm

thủng tầng Ozon/năm (tấn)

14. Tổng thiệt hại do thiên tai và sự cố 9. Tổng thiệt hại do thiên tai và sự cố

môi trường/năm bằng tiền tệ, thiệt hại môi trường/năm

về nhân mạng/năm

TIÊU CHÍ VỀ ĐÁP ỨNG

1. Có chính sách/ chiến lược/kế hoạch

quốc gia về PTBV

2. Ngân sách Nhà nước chi cho

nghiên cứu, triển khai về PTBV

3. Số cán bộ trong biên chế nhà nước

về bảo vệ môi trường

4. Số hiệp định thỏa thuận đa phương

và song phương mà Việt Nam tham

gia

1. Nâng cao nhận thức về PTBV qua

truyền thông, giáo dục và đào tạo (làm

tốt, trung bình, kém, không có)

2. Phong trào bảo vệ môi trường, PTBV

có kết quả thiết thực (làm tốt, trung bình,

kém, không có)

3. Quy ước bảo vệ môi trường của

xã/làng (làm tốt, trung bình, kém, không

có)

Nguồn: Viện Môi trường và Phát triển bền vững, năm 2003 [5]

Phụ lục 2: Các di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia của tỉnh Bến Tre

Tên di tích Địa điểm Thời gian công nhận

Xã An Đức, huyện Ba Tri 27/04/1990 1. Di tích Mộ và đền thờ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu

2. Di tích nghệ thuật đình Phú Lễ Xã Phú Lễ, huyện Ba Tri 07/01/1993

07/01/1993 3. Di tích nghệ thuật đình Bình Hòa Xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm

07/10/1993 Xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam 4. Di tích Đồng Khởi – nơi nổ ra phong trào Đồng Khởi đầu tiên ở Bến Tre

5. Di tích chùa Tuyên Linh 20/07/1994 Xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam

23/12/1995 6. Di tích Căn cứ Khu Ủy Sài Gòn – Gia Định Xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc

23/12/1995 7. Di tích Đầu cầu tiếp viện vũ khí Bắc - Nam Xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú

8. Di tích Ngã Ba cây Da Đôi Xã Tân Xuân – huyện Ba Tri 07/05/1997

07/05/1997 9. Di tích mộ và đền thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng Xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm

10. Di tích nhà ông Mười Trác 07/05/1997 Xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm

Xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri 24/01/1998 11. Di tích mộ nhà giáo Võ Trường Toản

19/01/2001 12. Di tích cuộc thảm sát năm 1947 ở Cầu Hòa Xã Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm

13. Di tích đình Tân Thạch 28/12/2001 Xã Tân Thạch, huyện Châu Thành

Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre [19]

Phụ lục 3: Các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư tại địa bàn ba huyện ven biển, còn

hiệu lực đến năm 2020

Tên dự án Địa điểm Mục đích Diện tích Vốn đầu tư

LĨNH VỰC DU LỊCH

6 ha 1. Khu Du lịch sinh thái Vàm Hồ xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri 20 triệu USD

Khu du lịch sinh thái, vui chơi gải trí kết hợp tham quan khu bảo tồn chim Vàm Hồ

50 ha Khu du lịch biển 2. Khu Du lịch sinh thái Cồn Hố 75 triệu USD

60 ha 3. Khu Du lịch sinh thái biển Thới Thuận 10 triệu USD Khu du lịch sinh thái biển

6,3 ha 4. Khu Du lịch sinh thái biển Thừa Đức 10 triệu USD Khu du lịch sinh thái biển

300 ha 5. Khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn 30 triệu USD

Xã An Thủy, huyện Ba Tri Xã Thới Thuận, huyện Bình Đại Xã Thừa Đức, huyện Bình Đại Xã Thạnh Hải, Thạnh Phong huyện Thạnh Phú Thành lập khu du lịch sinh thái – lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển.

LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP – XÂY DỰNG

10 ha 1. Cụm công nghiệp thị trấn Thạnh Phú 37.186 tỉ đồng Thị trấn Thạnh Phú, huyện Thạnh Phú

20,6 ha 2. Cụm công nghệp thị trấn An Đức Thị trấn An Đức, huyện Ba Tri

200 ha 3. Thành lập làng cá An Thủy xã An Thủy, huyện Ba Tri 50 triệu USD

Sản xuất tiểu thủ công nghệp, may mặc, chế biến thủy sản Chế biến thủy sản, may mặc, tiểu thủ công, công nghệp phụ trợ,.. Khu dân cư đô thị, khu chế biến và phục vụ hậu cần ngành thủy sản.

10 triệu USD 4. Dự án xây dựng cảng biển Thới Thuận Xây dựng cảng biển, nhà máy sửa chữa tàu thuyền,..

Xã Thới Thuận, xã Bình Thắng huyện Bình Đại

Nguồn: Tổng cục Du lịch, UBND tỉnh Bến Tre [22] [19]

Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre [19]

Phụ lục 4: