BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Hoàng Dung ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG (TỈNH TIỀN GIANG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Hoàng Dung ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG (TỈNH TIỀN GIANG)

Chuyên ngành : Địa lý học Mã số

: 60 31 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN THÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tác giả xin chân thành cảm ơn Phòng KHCN & Sau Đại

học Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh cùng với Khoa địa lý

và thư viện trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình

học tập đến khi hoàn thành luận văn này.

Và tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy – TS. Trần Văn

Thông, người đã rất tận tình hướng dẫn tôi từ những ngày đầu viết đề cương

luận văn. Thầy đã dành nhiều thời gian sửa chữa, hướng dẫn tôi trong từng nội

dung và nhắc nhở tôi từng chi tiết nhỏ đến khi luận văn được hoàn chỉnh. Một

lần nữa, tôi xin cảm ơn Thầy.

Kế đến, tôi cũng xin cảm ơn những đơn vị: Uỷ ban nhân dân, Phòng

thống kê, Phòng kế hoạch đầu tư, Phòng nông nghiệp huyện Gò Công Đông

và Sở tài nguyên môi trường, Sở thủy sản Tỉnh Tiền Giang đã rất nhiệt tình

cung cấp tài liệu một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng giúp tôi có thể làm

tốt luận văn này.

Lời sau cùng, tôi xin gởi lời tri ân đến gia đình, cùng tập thể Thầy cô

nơi tôi đang công tác và các anh chị thành viên lớp cao học K17. Họ là những

người luôn sát cánh cùng tôi, ủng hộ, động viên và tạo cho tôi thêm niềm tin

và động lực trong cuộc sống, trong học tập và nhất là khi thực hiện luận văn.

Tác giả

Phạm Thị Hoàng Dung

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Biển có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sinh tồn của nhân loại. Biển là

kho nước vô tận, là kho tài nguyên, là kho thực phẩm vô cùng quý giá, là môi

trường nuôi sống con người trong quá khứ, ở hiện tại và cả tương lai. Biển là tài sản

quý giá của mỗi quốc gia. Nhiều nhà kinh tế học đã nói đến “lục địa xanh” này và

họ cho rằng “nền kinh tế tương lai của loài người trước hết là nền kinh tế gắn với

biển”, bởi vì đất liền đang mòn mỏi dần vì bị khai thác kiệt quệ tài nguyên, biển có

thể mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc về nguyên liệu, nhiên liệu cho sự phát triển.

Chính vì thế mà ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia có biển (kể cả những quốc

gia không có biển) cũng điều chú ý đến việc nghiên cứu, khai thác nguồn lợi từ biển

trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.

Có diện tích hơn 3,4 triệu km2, Biển Đông là một bộ phận nhỏ của Thái Bình

Dương nhưng lại có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi qua lại của những đường

giao thông huyết mạch đối với nhiều nước, nối liền khu vực Đông Bắc Á với Tây

Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và vùng Vịnh qua eo Malacca. Biển Đông là nơi

có nguồn tài nguyên biển vô cùng phong phú về số lượng và chủng loại.

Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông

ra Thái Bình Dương và mở cửa ra nước ngoài. Nước ta là một quốc gia biển, với

diện tích vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền (vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2), đường bờ biển dài 3260km bao lấy lãnh thổ cả 3 hướng: Bắc, Đông, Nam; trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển và không một nơi nào trên đất

nước ta lại cách xa biển hơn 500km. Từ bao đời nay, biển đã gắn bó chặt chẽ, mật

thiết với mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc ta, ảnh hưởng lớn đến mọi

miền của Tổ Quốc, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất

nước.

Với 32km bờ biển, Tiền Giang có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế biển.

Trong đó, Huyện Gò Công Đông là huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế lớn. Tình

hình kinh tế - xã hội vùng biển của Huyện trong thời gian qua đã có bước phát triển,

vừa đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, vừa kết

hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái. Nhận thức được tầm quan trọng của

nền kinh tế biển trong tương lai, tôi chọn đề tài : “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và

định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang”.

2. Mục tiêu, nhiêm vụ nghiên cứu

2.1 Mục tiêu nghiên cứu

Trong những năm qua, kinh tế biển đã bước đầu khẳng định được vai trò của

mình trong công cuộc phát triển kinh tế huyện Gò Công Đông. Cùng với chương

trình hành động thực hiện Nghị Quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung

ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Tỉnh Tiền Giang

nói chung và Huyện Gò Công Đông nói riêng đã đề ra chương trình thực hiện mục

tiêu “vươn ra biển lớn” nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đề tài nghiên cứu:

“Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò

Công Đông tỉnh Tiền Giang” với những mục đích sau:

+ Khảo sát và đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế biển của huyện.

+ Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông giai đoạn

2000 – 2007.

+ Xác định các phương hướng phát triển và các giải pháp phát triển kinh tế

biển đến năm 2020.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cở sở lý luận về kinh tế biển

- Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông.

- Căn cứ vào vào hiện trạng phát triển biển của huyện để đưa ra những định

hướng nhằm phát triển kinh tế biển của huyện trong tương lai đồng thời đưa ra

những giải pháp phát triển kinh tế biển một cách bền vững.

3. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ 30/04/2008, Tỉnh Tiền Giang chính

thức công bố Huyện mới với tên gọi là Huyện Tân Phú Đông là phần đất được tách

ra từ Huyện Gò Công Đông, Huyện Gò Công Tây. Trong phạm vi luận văn này, tôi

chỉ nghiên cứu Huyện Gò Công Đông giai đoạn 2000 – 2007.

- Về nội dung nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu chính của đề tài là những

vấn đề xoay quanh ngành kinh tế biển thật sự là thế mạnh của Huyện (những bộ

phận của kinh tế biển: ngành thủy hải sản, du lịch biển, vấn đề môi trường biển).

4. Lịch sử nghiên cứu

Kinh tế biển có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế

của đất nước và càng được chú trọng hơn trong giai đoạn hiện tại. Chính tầm quan

trọng đó của kinh tế biển nên từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề

này nhưng tập trung nhất là các tỉnh có lợi thế lớn về biển như: Nha Trang, Bà Rịa

Vũng Tàu,….Vì vậy, các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham

khảo để tôi nghiên cứu đề tài “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát

triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông” (Tỉnh Tiền Giang) được đầy đủ và hoàn

chỉnh hơn.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

5.1.1 Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin

là phương pháp luận khoa học. Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề về lý luận và

thực tiễn phát triển kinh tế biển cần xem xét trong sự phát triển của khoa học này

với sự phát triển của các ngành khoa học có liên quan trong sự vận động, phát triển

của kinh tế - xã hội theo những quy luật khách quan và trong mối quan hệ biện

chứng qua lại chặt chẽ.

5.1.2 Quan điểm hệ thống

Quan điểm này được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Kinh tế

biển là một bộ phận của nền kinh tế chung, nó có mối quan hệ với nhiều ngành khoa

học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó với nhau. Vì thế, khi

nghiên cứu, chúng ta phải đặt vấn đề trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại

của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy, phải coi vấn đề kinh tế

biển và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn

chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.

5.1.3 Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Trong thực tế, các sự vật - hiện tượng luôn có sự phân hóa theo không gian

làm cho chúng có sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác. Và việc nghiên cứu các

vấn đề về kinh tế biển huyện Gò Công Đông không thể tách rời vấn đề phát triển

kinh tế biển của tỉnh, vùng và cả nước.

5.1.4 Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Sự phát triển kinh tế biển và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh

hưởng lớn đến kinh tế biển và kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn

đề kinh tế biển trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai sẽ làm rõ được bản

chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo tính logic, khoa học và chính xác

khi nghiên cứu.

5.1.5 Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Nghiên cứu vấn đề biển phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền

vững. Phát triển kinh tế biển, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lý kết hợp

với bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường, có sự

kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng

cao chất lượng cuộc sống con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1 Phương pháp phân tích, tổng hợp

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích –

tổng hợp một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều lợi ích. Vì việc dựa trên việc phân

tích tài liệu đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề

nghiên cứu. Từ đó, chúng ta rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất

nhằm đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.

5.2.2 Phương pháp thực địa

Thực địa là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu

nói chung và đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế

- xã hội nói riêng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng

phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu

thập được.

Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú cần chọn lọc

chính xác. Đối với công tác nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội, trước hết cần quan

tâm đến các dạng thông tin sau: trình bày bằng văn bản, số liệu thống kê, các bản

đồ, các dạng khác (trên mạng, những cuộc điều tra,…).

5.2.3 Phương pháp bản đồ - biểu đồ

Phương pháp bản đồ là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí, bởi vì

mọi nghiên cứu thuộc lĩnh vực địa lý kinh tế - xã hội đều mở đầu bằng bản đồ và

kết thúc bằng bản đồ. Ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết nhiều nội dung

nghiên cứu như đánh giá các nguồn lực, phân tích hiện trạng theo ngành và theo

lãnh thổ. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể,

trực quan và toàn diện hơn. Ngày nay, phương pháp bản đồ ngày càng được hoàn

thiện và đem lại hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thông

tin địa lý (GIS).

Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng

số liệu và biểu đồ.

5.2.4 Phương pháp sưu tầm

Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm được những số

liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm

về kinh tế biển huyện Gò Công Đông cũng như nhìn nhận, đánh giá chính xác mối

quan hệ giữa kinh tế biển và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

5.2.5 Phương pháp sử dụng hệ thông tin địa lý

Trong hai thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin phát triển nhanh như vũ bão.

Việc sử dụng những thành tựu mới của nhân loại trong nghiên cứu địa lý kinh tế -

xã hội ngày càng được nhân rộng.

Hệ thông tin địa lý (GIS) là hệ thông tin đa dạng dùng để lưu trữ, xử lý, phân

tích, tổng hợp, điều hành và quản lý những dữ liệu không gian, đồng thời cho phép

lấy và trình bày thông tin dưới dạng dễ tiếp nhận, trao đổi và sử dụng. Có thể coi

đây là một công cụ hoặc là một phương pháp có hiệu quả trong nghiên cứu địa lý

kinh tế - xã hội. Nó cho phép chồng xếp các thông tin địa lý để xác định được

những đặc trưng của các đối tượng nghiên cứu với độ tin cậy cao.

5.2.6 Phương pháp dự báo

Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã

thu thập được và sự phát triển có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng trong quá

khứ, hiện tại và tương lai.

6. Cấu trúc luận văn

Mở đầu

Chương 1: Cơ sở lí luận

Chương 2: Hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông

Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế biển huyện Gò

Công Đông đến năm 2020.

Kiến nghị

Kết luận

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Biển

1.1.1 Khái niệm về biển

Mặt nước bao la liền một dải của đại dương Thế giới chiếm 70,8% diện tích

bề mặt hành tinh của chúng ta. Tên gọi “đại dương” bắt nguồn từ tên riêng của con

sông thần thoại Okêan. Theo sự tưởng tượng của người Babylon và người Ai Cập

vào thời kỳ văn hóa sơ khai, con sông này bao quanh các đất nổi mà hình dạng như

một cái đĩa bằng phẳng. Sự phát triển của ngành hàng hải dần dần cho thấy rõ ràng

không phải là một con sông bao quanh các lục địa, nhưng tên riêng của con sông

thần thoại ấy vẫn còn lại.

Khi có sự thâm nhập của lục địa vào đại dương thì các đảo và bán đảo được

hình thành và ngược lại, khi có sự thâm nhập của đại dương vào lục địa thì các biển,

vịnh và eo biển được hình thành.

Biển là một bộ phận biệt lập của đại dương. Nó được phân biệt bởi những

đặc điểm tự nhiên, chủ yếu là bởi những đặc điểm thủy văn và khí hậu. Nó có thể

nằm giữa hai lục địa, ăn sâu vào lục địa hoặc tách ra khỏi đại dương bởi các bán

đảo, đảo và địa hình ngầm.

Tùy thuộc vào đặc tính của sự tiếp xúc giữa lục địa và đại dương, các biển

được phân chia thành ba nhóm:

- Các biển giữa các lục địa. Các biển này được bố trí giữa hai lục địa. Cần

chú ý rằng các biển giữa các lục địa nằm ở các vòng đai đứt gãy của vỏ Trái đất,

cho nên những nét đặt trưng của các biển này là sự chia cắt mạnh mẽ của đường bờ,

sự chênh lệch rõ rệt của độ sâu, hoạt động địa chấn và hoạt động núi lửa mạnh mẽ.

- Các biển trong lục địa. Các biển này ăn sâu vào trong lục địa, nằm ở thềm

lục địa và có độ sâu không lớn.

- Các biển rìa lục địa. Các biển này được tách ra khỏi đại dương bởi các quần

đảo hay bán đảo, được nối với các đại dương trên những tuyến rộng. Các biển này

được bố trí hoặc là ở thềm lục địa với độ sâu nhỏ, hoặc là ở sườn lục địa với sự tăng

nhanh đến độ sâu của đại dương..

Vị trí địa lý của biển quy định về nhiều mặt chế độ thủy văn của nó. Các biển

trong lục địa ít liên quan với đại dương, cho nên độ mặn của nước, chế độ của các

dòng biển và của thủy triều ở các biển này khác biệt rõ rệt so với đại dương.

1.1.2 Khái niệm về vùng ven biển

Từ trước đến nay có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về biển đã đưa

ra các định nghĩa khác nhau về vùng ven biển. Dưới đây là một số định nghĩa về

vùng ven biển đã được lựa chọn tùy theo từng quốc gia và từng lĩnh vực khoa học

cụ thể.

- Vùng ven biển (theo các nhà khoa học Nga) là dải ranh giới giữa đất liền và

biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại.

Định nghĩa này phù hợp với nghiên cứu môi trường và tài nguyên thiên nhiên,

nhưng hạn chế khi nghiên cứu về địa lý, nhân khẩu học và kinh tế học, không nêu

được những ảnh hưởng của biển đến các hoạt động kinh tế hướng tới biển.

- Vùng ven biển (theo Joe Baker – Viện khoa học biển Australia) là dải đất

rộng khoảng 3km dọc đường bờ biển, bao gồm phần kéo dài của biển đến ranh giới

ảnh hưởng của thủy triều vào trong đất liền. Định nghĩa này đã đề cập đến tương tác

biển và lục địa nhưng vẫn còn hạn chế khi nghiên cứu về các tác động kinh tế - xã

hội trong quá trình khai thác lợi thế của biển.

- Vùng ven biển (theo định nghĩa của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế)

là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông,

suối và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tùy theo khoảng

cách nào lớn hơn. Định nghĩa này thiên về nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên. Các

tác giả theo quan điểm này cũng chưa chú ý đến các vấn đề về kinh tế - xã hội, dân

cư sinh sống và khai thác các nguồn lợi biển.

Khi phân tích các tác động kinh tế - xã hội và môi tường của phần lãnh thổ

sát biển với các vùng bị nhiễm mặn cho thấy các hoạt động kinh tế - xã hội của dân

cư mang những sắc thái đặc thù gắn với nguồn lợi ven biển. Quá trình khai phá

thềm lục địa, phát triển các lĩnh vực kinh tế hướng tới mở rộng kinh tế đối ngoại

qua đường hàng hải của dân cư các quốc gia có biển cho thấy các định nghĩa chung

về vùng ven biển phải đề cập không chỉ đến những tiêu chí khách quan về điều kiện

tự nhiên và tài nguyên vùng ven biển, mà còn phải phản ánh được các vấn đề về dân

cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời phải tuân thủ những điều luật Quốc

tế và Quốc gia về xác định chủ quyền, ranh giới và các vùng đặc quyền kinh tế của

một quốc gia trên biển. Như vậy, có thể phân định vùng ven biển là toàn bộ phần

đất liền ven biển và các hải đảo trên phần biển hải phận và vùng đặc quyền kinh tế

của một quốc gia. Đó là một không gian để bố trí các hoạt động kinh tế - xã hội

hướng biển.

1.2. Kinh tế biển

1.2.1 Khái niệm về kinh tế biển

Kinh tế biển là một ngành kinh tế có vai trò ngày càng quan trọng. Chính vì

thế định nghĩa cụ thể thế nào là kinh tế biển là việc làm rất có ý nghĩa.

Trước tiên, kinh tế biển phải được định nghĩa bằng cách tách ra giữa hoạt

động biển và phi biển.

Theo giáo sư Nguyễn Văn Hường (Tạp chí hoạt động khoa học kỹ thuật – số

5 năm 1996) đã viết: “Kinh tế biển là một lĩnh vực bao trùm gồm nhiều ngành hoạt

động liên quan đến biển như: thủy sản, du lịch, giao thông vận tải, dầu khí,…nhằm

khai thác toàn bộ lợi ích mà biển có thể mang lại để phát triển đất nước”.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản: kinh tế biển là những hoạt

động kinh tế dựa trên việc khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường biển.

Khi xem xét tới kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở

một mức độ cần thiết. Để có một khái niệm mang tính quy ước khi phân tích, quan

niệm kinh tế biển bao gồm:

1) Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế

Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng

hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ

tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; 7. Kinh tế đảo. Có thể coi đây là quan niệm về kinh tế

biển theo nghĩa hẹp.

2) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không

phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển

hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm:

1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực

kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu, khí; 3. Công nghiệp chế biến thuỷ,

hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa

học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ

bản về tài nguyên - môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả

các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan

đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa

rộng.

Cách quan niệm về kinh tế biển như vậy về cơ bản cũng thống nhất với

thông lệ quốc tế. Ví dụ, trong thống kê hàng năm về kinh tế biển của Trung Quốc,

tập hợp trong khái niệm về kinh tế biển bao gồm: hải sản, khai thác dầu và khí tự

nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn thông và vận

tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, dịch vụ

biển…

Hiện nay thế giới thống nhất kinh tế biển là nền kinh tế tổng thành của các

ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại. Môi trường biển được định nghĩa là

những vùng biển Việt Nam có chủ quyền: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế

đặc quyền. Môi trường biển là một chức năng gồm cả công nghiệp và địa lý. Nhưng

trong các báo cáo tổng kết về kinh tế biển hiện nay, ta chỉ thấy một bức tranh không

toàn cục, chủ yếu là đánh bắt, dầu khí và vận tải. Tại các hội thảo về kinh tế biển,

người ta vẫn thấy những cái nhìn rời rạc, chưa có một nghiên cứu tổng thể để từ đó

lên kế hoạch cụ thể cho từng ngành công nghiệp biển vừa nêu. Ở các nước, vẫn có

nhiều tranh cãi trong các phép đo của từng ngành công nghiệp biển, cũng như sự

đối kháng, xung đột của các ngành, kể cả những xung đột nhất định trong nội bộ

ngành. Chẳng hạn đánh bắt và nuôi trồng xung đột với nhau vì một bên gây ô nhiễm

môi trường, làm cho cá không sinh sản trong những vùng nước gần bờ được. Chẳng

hạn khai thác dầu khí, khoáng sản thường gây ô nhiễm nước ảnh hưởng đến đời

sống hải sản… nếu không tính đến bài toán phát triển bền vững qua bảo vệ môi

trường một cách hữu hiệu, biển sẽ trở thành sa mạc nước.

Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế

ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc

cũng có thể là các tỉnh ven biển - có biên giới đất liền tiếp giáp với biển), bao gồm

cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn

lãnh thổ này

1.2.2 Cơ cấu của kinh tế biển

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ

hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Từ định nghĩa này có thể nhấn mạnh đến hai

nội dung chủ yếu: thứ nhất, đó là tổng thể các bộ phận hợp thành và thứ hai, chúng

có mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định.

Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền

kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của nền kinh tế được sắp

xếp theo một tương quan tỷ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu ngành thể hiện số

lượng, tỷ trọng của ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế.

Có rất nhiều ngành tạo thành nền kinh tế. Về đại thể, chúng được phân thành

ba nhóm ngành sau đây:

- Khu vực 1 bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.

- Khu vực 2 bao gồm: công nghiệp và xây dựng.

- Khu vực 3 là dịch vụ.

Cần lưu ý thêm, trong nền kinh tế có cơ cấu ngành thì trong bản thân từng

ngành cũng tồn tại cơ cấu đó. Chẳng hạn, cơ cấu ngành của ngư nghiệp là tương

quan tỷ trọng giữa đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản,...

Cơ cấu kinh tế biển theo nghĩa hẹp bao gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải

biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác

Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối.

1.2.2.1 Kinh tế hàng hải

Đại dương, biển chiếm gần 71% bề mặt của hành tinh xanh. Lịch sử tiến hóa

của loài người luôn được gắn kết với biển. Văn minh nhân loại càng phát triển thì

giá trị của biển càng được tôn vinh. Ngành hàng hải ra đời, biển chẳng những là cầu

nối giữa các châu lục, các quốc gia mà còn là tài sản vô giá của Trái đất.

Từ sau những cuộc phát kiến địa lý lớn, ngành hàng hải mới chính thức ra

đời và phát triển khá nhanh cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Thế giới,

với sự trao đổi hàng hóa giữa các nước có chuyên môn hóa kinh tế khác nhau, giữa

chính quốc và các nước thuộc địa, giữa các nước có nền kinh tế phát triển và các

nước kém phát triển.

Ngành vận tải biển là ngành mang tính chất kinh doanh, phục vụ trong khâu

vận chuyển hàng hải bằng đường biển và xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển. Khâu vận

chuyển có nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh tàu biển hoạt động trên một

địa bàn rộng lớn. Khâu xếp dỡ có nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh các

hoạt động sản xuất, phục vụ ở cảng biển.

Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ

thế kỷ thứ V trước công nguyên, con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến

đường giao thông để giao lưu các vùng miền, các quốc gia với nhau trên thế giới.

Cho đến nay, vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại

trong hệ thống vận tải quốc tế.

Khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển không lớn, nhưng vì

đường dài nên hiện nay đường biển đảm đương tới 3/5 khối lượng luân chuyển

hàng hóa của tất cả các phương tiện vận tải trên Thế giới. Không chỉ có các tuyến

viễn dương có ý nghĩa quan trọng, mà cả các tuyến vận tải ven bờ cũng có ý nghĩa

đối với các nước có đường bờ biển.

Các tuyến hàng hải thường được chia thành ba loại: từ cảng đến cảng (port –

to – port), tuyến con lắc (pendulum) và vòng quanh Thế giới (round the world). Các

dịch vụ kiểu con lắc rất được ưa chuộng do tính chất uyển chuyển trong dịch vụ và

đặc biệt là trong thời đại chuyên chở bằng các tàu container. Trong những năm gần

đây, còn có khuynh hướng tích hợp và chuyên môn hóa các tuyến đường biển nhờ

các tàu chuyển tải đường ngắn nối các cảng lớn với nhau.

Đại dương bao la nhưng các tuyến đường hàng hải lại chỉ tập trung ở một số

tuyến quan trọng: Bắc Đại Tây Dương nối Châu Âu và Bắc Mỹ, Địa Trung Hải –

Châu Á qua kênh Suez, thông qua kênh Panama nối Châu Âu và bờ Đông Hoa Kỳ

và Châu Á, đường biển Nam Phi nối Châu Âu qua Châu Mỹ với Châu Phi, đường

biển Nam Mỹ nối Châu Âu và Bắc Mỹ với Nam Mỹ, đường Biển Bắc Thái Bình

Dương nối Tây Hoa Kỳ với Nhật Bản và Trung Quốc, đường biển Nam Thái Bình

Dương từ Tây Hoa Kỳ đến Ôxtrâylia, Niu Dilân, Inđônêsia và Nam Á. Đường biển

từ vùng vịnh Pecxich qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Châu Âu và Châu Mỹ dành

riêng cho các tàu chở dầu khổng lồ không đi qua được kênh Suez.

Vận tải đường biển là loại phương tiện vận tải hàng hóa chủ yếu nhất trong

thương mại quốc tế. Trước khi Thế giới bước vào kỷ nguyên của các chuyến bay

liên lục địa thì vận chuyển hành khách bằng tàu biển khá quan trọng, nhất là ở Bắc

Đại Tây Dương, nối Châu Âu với Bắc Mỹ. Vào năm 1838, vượt Đại Tây Dương hết

15,5 ngày (tàu Great Western), thì đến đầu thế kỷ XX chỉ còn 4,5 ngày (tàu

Mauritania, 1907) và đến năm 1952 chỉ còn 3,5 ngày (tàu United States, 1952).

Nhưng cũng từ thời điểm đó, vận tải hàng không đã chiếm mất vị trí độc tôn của tàu

vận tải khách xuyên Đại Tây Dương. Hiện nay, chỉ còn một số tàu chở khách viễn

dương nhằm mục tiêu du lịch, các phà biển (ferries) hay các tàu chở khách nhỏ như

các nước quần đảo Inđônêxia, Philippin, các nước vùng Caribê. Trong khi việc

chuyên chở hành khách bằng đường biển giảm sút thì việc chuyên chở dầu mỏ, các

hàng hóa khác lại tăng lên mạnh. Việc chuyên chở các loại khoáng sản, gỗ, ngũ

cốc,… vẫn còn chiếm một khối lượng lớn, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, việc

chuyên chở các loại hàng chế biến ngày càng tăng mạnh.

Khoảng ½ khối lượng hàng vận chuyển trên đường biển quốc tế là dầu mỏ và

các sản phẩm dầu mỏ. Việc chở dầu bàng các tanke luôn đe dọa ô nhiễm môi

trường. Toàn Thế giới có hàng trăm tàu chở dầu có trọng tải trên 100 nghìn tấn

đang hoạt động. Tàu chở dầu chở tới hơn 300 loại sản phẩm dầu mỏ và mỡ. Mỗi khi

lấy hàng, người ta xả nước, nước nóng vào các khoang để rửa sạnh tàu rồi trút nước

và cặn bẩn xuống biển. Theo đánh giá của UNEP (Chương trình môi trường của

Liên Hợp Quốc) năm 1987, thì mỗi năm các tàu chở dầu trút xuống biển 1,1 triệu

tấn dầu mỏ từ nước rửa tàu và nước trọng tải dầu, cộng thêm khoảng 500 nghìn tấn

dầu do các sự cố tàu dầu.

Hiện nay, khoảng 100000 tàu biển có trọng tải trên 100 tấn đang hoạt động

khắp Thế giới, trong đó ½ làm nhiệm vụ trọng tải, còn ½ làm nhiệm vụ dịch vụ.

Cùng với sự mở rộng buôn bán quốc tế, đội tàu biển đã tăng lên cả về số lượng và

trọng tải trung bình.

Trong đời sống ngành hàng hải Thế giới phổ biến hiện tượng chủ tàu mượn

cờ của nước khác, chẳng hạn gần như toàn bộ đội tanke của Libêria và Panama là

thuộc về các chủ tàu Hoa Kỳ, Hi Lạp và một số nước khác. Điều này giải thích tại

sao có các quốc gia tuy không đóng vai trò lớn trong nền kinh tế Thế giới nhưng lại

có đội tàu buôn với trọng tải rất lớn.

Đội tàu buôn được chia thành tàu chở khách, tàu chở hàng (cargo ship) và

tàu chở dầu (tanke). Các tàu hàng thông thường có thể chở hàng được đóng gói,

hàng rót (quặng, ngũ cốc) và cả một số hàng lỏng (mủ cao su, dầu ăn,..). Có những

tàu hàng được thiết kế chuyên dụng để chuyên chở ô tô, ngũ cốc.

Đối với địa lý vận tải đường biển, mạng lưới các cảng biển có ý nghĩa căn

bản. Cảng biển là nơi tàu đỗ tiện lợi và an toàn, nơi có thể tiến hành bốc dỡ hàng

hóa và xếp hàng mới. Thường thì các cảng tự nhiên được xây dựng ở bờ vịnh nước

sâu hay ở các cửa sông. Người ta thường phân loại các cảng thành cảng địa phương,

cảng khu vực hay cảng quốc tế, cảng chuyển tải, cảng bách hóa hay cảng chuyên

dụng.

Lịch sử của ngành đường biển thế giới cho thấy kinh tế biển luôn được coi là

ngành mũi nhọn, trong đó vai trò chủ đạo là cảng biển. Nơi nào có cảng biển, nơi

đó sẽ là thành phố với kinh tế, công nghiệp và giao thương phát triển. Cảng biển

phồn vinh, kinh tế biển càng mạnh.

Cảng biển là kết cấu hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, nó phải đi

trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác phát triển. Vì vậy cần phải

có một quy hoạch cụ thể, phù hợp vì hoạt động của một cảng biển tồn tại đến hàng

trăm năm hoặc lâu hơn thế. Chẳng hạn cảng Rotterdam của Hà Lan hình thành từ

những năm 1860 đến nay đã gần 150 năm mà vẫn còn sầm uất, hiện nay vẫn là cảng

lớn nhất Châu Âu và còn một số cảng khác như: cảng London của Anh, cảng

Hamburg của Đức, cảng Antwerp của Bỉ cũng tương đồng ý nghĩa đó.

Cảng nằm trong một hệ thống phân phối hàng hóa. Vì vậy, để phân tích sự

phát triển và hoạt động của cảng, người ta phải quan tâm đến hậu phương

(hinterland) và vùng trước cảng (foreland). Hậu phương của cảng có thể được hiểu

là một bộ phận lãnh thổ của đất nước tạo nên thị trường tự nhiên và phục vụ cho

cảng. Vùng trước cảng có thể được hiểu là vùng đất đối diện với hậu phương của

cảng qua vùng biển, nơi mà hàng hóa được chở từ đó đến cảng và ngược lại. Vùng

trước cảng xác định sự tham gia của cảng vào nền kinh tế Thế giới. Hiện trên Thế

giới có khoảng 6000 – 7000 cảng đang hoạt động, nhưng chỉ khoảng 100 có ý nghĩa

toàn cầu.

Cuối cùng, cần phải đề cập đến ba vị trí địa lý chiến lược cực kỳ quan trọng

trong hàng hải Thế giới hiện đại: kênh Suez (được đào cắt ngang eo đất Suez của Ai

Cập, nối Đại Tây Dương với Ấn Độ Dương), kênh Panama (cắt qua eo đất Panama

rộng 50 km là con đường ngắn nhất nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương) và eo

biển Malacca.

1.2.2.2 Hải sản

Nguồn lợi hải sản là thế mạnh đặc trưng của biển và khi nói về kinh tế biển

không thể không nhắc đến vai trò, vị trí của ngành. Ngành hải sản bao gồm các lĩnh

vực như: khai thác, nuôi trồng, chế biến.

Tài nguyên sinh vật biển rất phong phú, đa dạng, bao gồm nguồn lợi động

vật biển (cá, tôm, cua, các loài động vật thân mềm (mực, bào ngư, trai ngọc,…) và

nhiều động vật có giá trị cả về kinh tế và nghiên cứu đa dạng sinh học biển như: rùa

biển, sứa,…) và thực vật biển (rong biển). Sức sản xuất nguyên khai của biển

khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng hàng năm đạt khoảng 600 triệu tấn. Đây là

tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của Thế giới.

Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn Thế giới có hơn 160 quốc gia làm

kinh tế thủy sản, trong đó có hơn 20 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1

triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ.

Sản lượng khai thác thủy sản từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay ngày càng

tăng nhanh. Vào những năm 1950, sản lượng khai thác gần 20 triệu tấn thì đến

những năm đầu của thế kỷ XXI, sản lượng thủy sản khai thác đạt gần 100 triệu tấn.

Các nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn nhất Thế giới là Trung Quốc (gần 18

triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kì (5 triệu tấn), Nhật Bản (4,8 triệu tấn),

Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chilê (4 triệu tấn), Ấn Độ (3,9 triệu tấn), Liên Bang Nga

(3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Na Uy (2,8 triệu tấn). Đến năm 2007, Việt

Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng khai thác hải sản trên

biển, xếp thứ 12 trên thế giới về năng lực đánh bắt với sản lượng luôn ổn định ở

mức 1,5 - 1,8 triệu tấn/năm.

Ngành khai thác thủy sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Đó

là các đội tàu đánh cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò

luồng cá, các cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần

dịch vụ,…

Tuy nhiên, việc khai thác thủy sản quá mức ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi

thủy sản. Vì vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài

nguyên thủy sản có ý nghĩa to lớn. Một số ngư trường, chẳng hạn bãi cá thu Grand

Banks ngoài khơi phía đông Canada, đã bị khai thác vượt quá khả năng phục hồi.

Đánh bắt cá quá mức đã trở thành một vấn đề lớn. Theo báo cáo của Liên Hiệp

Quốc, hơn 25% ngư trường trên toàn thế giới bị khai thác quá mức, 50% bị đánh bắt

hết công suất và 75% cần được cấm hoặc giảm tốc độ đánh bắt ngay lập tức để đảm

bảo nguồn cá cho tương lai.

Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên Thế Giới là Biển Bắc, Đông

Bắc Đại Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung Tâm Tây Đại Tây Dương,

Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông Ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái

Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương

Tuy việc đánh bắt từ biển vẫn còn cung cấp cho Thế giới tới 2/3 sản lượng

thủy sản, song ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh với vị thế ngày càng

cao. Rõ ràng, nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác

quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Thế giới, việc phát triển nuôi

trồng thủy sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng của Thế giới từ năm 1950 đến nay tăng gấp 3

lần, đạt trên 48 triệu tấn. Các loài thủy sản được nuôi ở các vùng nước lợ và nước

mặn ngày càng phổ biến với nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh tế đã trở

thành đối tượng nuôi trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm,..), cua, cá…

Ngành nuôi trồng phát triển mạnh ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn

Độ, Nhật Bản, Philippin,…Ngoài ra còn có các nước khác như Bănglađet, Hàn

Quốc, Chilê,…

Sự tăng trưởng của các hoạt động nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến

thủy hải sản là lĩnh vực quan trọng đối với phát triển kinh tế biển, phát triển kinh tế

- xã hội vùng biển. Trong đó năng lực đánh bắt thủy sản phụ thuộc vào việc trang bị

cơ giới và công suất động lực của tàu thuyền. Và bên cạnh các hoạt động khai thác,

đánh bắt hải sản tự nhiên thì việc đầu tư nuôi thủy sản cũng đã được phát triển rộng

rãi, trở thành một nghề mới có ý nghĩa quan trọng của đông đảo dân cư vùng biển.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản đa dạng, tập trung vào các loại sản phẩm có giá trị

kinh tế cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi địa phương. Kế đến là hoạt

động chế biến thủy hải sản, đây là biện pháp tốt nhất nhằm bảo quản các sản phẩm

thủy hải sản từ hoạt động đánh bắt và nuôi trồng.

Nguồn nguyên liệu hải sản dồi dào cung cấp cho các ngành công nghiệp chế

biến, tạo một bước khởi đầu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm

phát triển. Trên Thế giới, ngành công nghiệp chế biến hải sản rất phát triển và ngày

càng có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, góp phần tăng giá trị của các

nguồn tài nguyên trong lòng biển cả.

1.2.2.3 Khai thác dầu khí ngoài khơi

Trong điều kiện thuận lợi, trải qua những biến đổi địa chất, dầu mỏ được tạo

thành tích tụ ở các lớp đá phù hợp (côlectơ) có độ nức nẻ hay có độ rỗng và có khả

năng chứa dầu. Tập hợp các vỉa dầu ở một khu vực nhất định của vỏ Trái đất tạo

nên mỏ dầu. Dầu có thể di chuyển theo các khe nứt hay lỗ rỗng của đá giúp cho việc

khai thác được dễ dàng. Người ta khai thác dầu từ các giếng với lỗ khoan hẹp khoan

trong đá cho tới vỉa chứa dầu. Sau khi khoan tới vỉa chứa dầu, dầu thô được hút lên

mặt đất. Khi vỉa dầu còn đủ áp lực thì dầu theo giếng đi lên và tràn ra mặt đất. Khi

áp suất trong vỉa tuột xuống, giếng không tự phun được, người ta phải dùng bơm.

Dầu từ vỉa được hút và bơm lên các bể chứa rồi được vận chuyển bằng đường ống

tới các trung tâm lọc, hóa dầu.

Dầu mỏ và các sản phẩm của nó được dùng làm nhiên liệu chiếm vị trí số

một trong số các loại nhiên liệu do dễ sử dụng, vận chuyển và có khả năng sinh

nhiệt cao (10000 – 11500 kcal/kg). Dầu mỏ, khí đốt là nguồn năng lượng mới, chỉ

thực sự được sử dụng nhiều vào nửa sau thế kỷ XX, từ 2% năm 1860 lên 4% năm

1900, đến 26% năm 1940 và 44% năm 1960 rồi đạt cực đại vào thập kỷ 80 gắn liền

với sự phát triển của ngành giao thông vận tải, công nghiệp hóa chất, đặc biệt là hóa

dầu…Dầu mỏ được coi là “vàng đen” của đất nước.

Khí thiên nhiên trong một thời gian dài bị coi thường. Khí đồng hành ở các

mỏ dầu đã bị đốt đi một cách phí phạm. Ngày nay, khí thiên nhiên là nhiên liệu

sạch, có hiệu quả, ít gây ô nhiễm môi trường hơn so với việc sử dụng than và dầu

nên được tận dụng một cách triệt để.

Trung Đông là khu vực có tiềm năng cực lớn về dầu mỏ và chiếm tới 65%

trữ lượng của Thế giới. Tiếp theo với trữ lượng nhỏ hơn nhiều là Châu Phi (9,3%),

Liên Xô cũ và Đông Âu (7,9%), Trung và Nam Mỹ (7,2%). Nếu phân theo nhóm

nước thì hơn 80% trữ lượng dầu mỏ toàn cầu tập trung ở các nước đang phát triển.

Trữ lượng khí đốt nhiều nhất cũng thuộc về Trung Đông, Liên Xô cũ và Đông Âu,

Châu Phi, Viễn Đông – ASEAN.

Nhờ những tiến bộ về khoa học công nghệ mà con người ngày càng phát

hiện thêm nhiều mỏ dầu – khí mới, làm cho trữ lượng của chúng tăng lên đáng kể.

Theo đánh giá của các chuyên gia, trữ lượng ước tính của dầu mỏ từ 400 đến 500 tỉ tấn, còn trữ lượng chắc chắn khoảng 140 tỉ tấn và khoảng 190 nghìn tỉ m3 khí đốt.

Công việc thăm dò, khai thác và lọc hóa dầu đòi hỏi trình độ khoa học công

nghệ cao, vốn đầu tư lớn, khả năng quản lý giỏi về kinh tế. Vì thế, việc điều hành,

quản lý công tác thăm dò khai thác và chế biến dầu hiện nay là độc quyền của một

số công ty và tập đoàn dầu khí lớn như Exxon, Shell, Mobil, BP,…Các nước đang

phát triển giàu nguồn tài nguyên này đều phải hợp tác, liên doanh và chia sẻ quyền

lợi với các công ty dầu mỏ hàng đầu Thế giới.

Dầu khí là tài nguyên mũi nhọn, có ưu thế nổi trội nhất của biển. Hiện nay,

tại các khu vực có tiềm năng dầu khí cao, đang có các hoạt động khai thác với quy

mô ngày càng lớn, góp phần quan trọng vào việc thay đổi cơ cấu năng lượng của cả

Thế giới. Và khí thiên nhiên cũng là một nguồn tài nguyên to lớn, có thể đáp ứng

nhu cầu tiêu thụ năng lượng của các ngành công nghiệp.

1.2.2.4 Du lịch biển

Du lịch được hiểu là sự lữ hành để nhằm mục đích giải trí hoặc tìm hiểu.

Thường thì du khách đi thành các nhóm hoặc cá nhân.

Du lịch “là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc

di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục

đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức,…và nhìn chung là vì những lí do

không phải để kiếm sống” (WTO,1994).

Du lịch biển là ngành du lịch nhằm tận dụng các cảnh quan và sinh thái vùng

ven biển đáp ứng nhu cầu hưởng thụ cho du khách. Các tài nguyên phục vụ hoạt

động du lịch biển bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên (các bãi biển, hệ thống các

đảo và quần đảo, nguồn nước, tài nguyên sinh vật,…) và tài nguyên du lịch nhân

văn (các lễ hội, hoạt động thể thao,…), có thể khai thác, phát triển nhiều loại hình

du lịch: tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, nghiên cứu, giải trí, thể thao,…

- Tài nguyên du lịch tự nhiên phục vụ du lịch biển

+ Kiểu địa hình ven bờ, đặc biệt là các bãi cát ven biển, đảo, thường được

gọi là các bãi biển. Địa hình tự nhiên đa dạng của dải ven biển tạo ra những thắng

cảnh đẹp. Các bãi biển, hệ thống các đảo và quần đảo đóng một vai trò quan trọng

trong việc sử dụng tiềm năng tự nhiên của biển vào mục đích nghỉ ngơi và du lịch

biển.

Các bãi biển hấp dẫn du khách và thuận lợi phát triển các loại hình du lịch

tắm biển, lặn biển, thể thao biển, nghỉ dưỡng chữa bệnh cần có các điều kiện: có bãi cát trắng, mịn, chiều dài và chiều rộng lớn, có độ dốc từ 1 – 30, nước biển có độ

trong suốt cao từ 3 – 5m, độ mặn từ 2,5% - 4%, đảm bảo các tiêu chuẩn lý hóa sinh

không bị ô nhiễm, độ sâu của bãi tắm không quá 1,5m, độ sâu của các vùng ven bờ

phát triển du lịch lặn biển thường từ 20 – 30m. Những bãi biển có độ dốc lớn hơn 30, độ sâu trên 1,5m, độ mặn trên 4% hoặc nhỏ hơn 2,5%, sóng cao trên 1,5m, độ

trong suốt dưới 0,5m, nước bị ô nhiễm đều không thuận lợi cho hoạt động tắm biển.

+ Ngoài ra, để phát triển du lịch biển còn cần có sự kết hợp các điều kiện địa

hình với điều kiện nước biển và khí hậu. Khí hậu ấm áp, nhiều nắng thuận lợi cho

phát triển du lịch biển. Khí hậu vùng ven biển thường là môi trường nghỉ dưỡng an

toàn cho du khách. Chính sự phân bố các vùng khí hậu khác nhau đã tạo ra mức độ

thuận lợi khác nhau trong việc sử dụng các bãi biển vào mục đích nghỉ ngơi và du

lịch. Theo các nhà khí hậu học, vùng ven biển có khí hậu rất thuận lợi cho hoạt

động du lịch vì nhiệt độ ở đây cũng không quá nóng và cũng không quá lạnh như ở

lục địa.

Tài nguyên sinh vật vùng ven biển đa dạng, phong phú, là tiền đề phát triển

loại hình du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học như: hệ thống rừng

ngập mặn, san hô,…

- Tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch biển

Các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, các làng nghề truyền thống đã gắn

chặt với đời sống người dân vùng biển đang là một lợi thế khai thác du lịch biển,

nhất là nghệ thuật ẩm thực vùng biển, một sắc thái rất riêng của vùng biển là một tài

nguyên du lịch tạo sức hấp dẫn và lôi cuốn du khách một cách mạnh mẽ.

Tài nguyên nước ở vùng ven biển cho phép khai thác nhiều loại hình du lịch

tùy thuộc vào lưu lượng dòng chảy, chế độ sóng có thể khai thác các loại hình du

lịch như tắm biển (đây là loại hình phổ biến nhất), lặn, tham quan đáy biển hoặc các

hoạt động thể thao diễn ra trên biển như thuyền buồm, lướt ván, du thuyền,…

Hiện nay, du lịch biển đang trở thành một chiến lược phát triển của ngành du

lịch, đem lại nguồn thu lớn, góp phần tăng thu nhập cho người dân cũng như nguồn

ngân sách. Theo UNWTO (Tổ chức du lịch Thế giới), có hơn 70% số du khách rất

thích đi du lịch biển.

1.2.2.5 Làm muối

Khai thác muối biển là một nghề truyền thống và giữ vị trí quan trọng đối

với đời sống nhân dân vùng ven biển. Muối là một khoáng chất, được con người sử

dụng như một thứ gia vị. Đó là một chất rắn có dạng tinh thể, có màu từ trắng tới có

vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các mỏ muối. Muối

thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên,

muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới ánh nắng trong các

ruộng muối.

Tài nguyên muối và các hóa phẩm biển chủ yếu là các loại muối như: NaCl,

MgCl, MgSO, CaSO, CaCO,…Trong đó, chủ yếu là NaCl là nguồn thực phẩm tối

cần thiết của cuộc sống và nguyên liệu để điều chế các hóa phẩm công nghiệp khác

từ nước biển như Magiê, Clo, Brôm, Kali hay sản xuất axit clohydric,…

1.3. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững

1.3.1 Môi trường và phát triển bền vững

1.3.1.1 Môi trường

Trong khái niệm chung, môi trường được hiểu là toàn bộ các yếu tố của hoàn

cảnh xung quanh, tạo nên điều kiện tồn tại và phát triển của một chủ thể nào đó.

Chính vì thế có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Trong giáo dục học,

người ta nói đến môi trường giáo dục; trong kinh tế học có khái niệm về môi trường

kinh tế - xã hội; trong sinh học, người ta nói đến môi trường sống. Trong “Từ điển

đa dạng sinh học và phát triển bền vững Anh Việt” khái niệm môi trường được định

nghĩa là toàn bộ các điều kiện bao gồm những yếu tố không sống (các chất hóa học,

năng lượng,…) và các yếu tố sống (vật dữ, con mồi, vật ký sinh,…) có tác động lên

đời sống của sinh vật hoặc một hệ thống đặc trưng khác.

Môi trường tự nhiên là bộ phận hợp thành của môi trường sống và sản xuất

của loài người, là bộ phận của môi trường xung quanh. Môi trường tự nhiên bao

gồm toàn bộ các đối tượng của thiên nhiên sống và không sống bao quanh con

người, các đối tượng không chịu ảnh hưởng của hoạt động của con người, những

đối tượng đã chịu những biến đổi ở những mức độ khác nhau, nhưng phần nào hay

hoàn toàn còn giữ được khả năng tự phát triển (ví dụ như: các khu rừng bị chặt, đất

bỏ hóa,…)

Định nghĩa về môi trường của Ngân hàng Thế giới (WB, 1980): Môi trường

là tổng hợp những nhân tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế xã hội có tác động đến

một cá thể, quần thể hoặc một cộng đồng.

Định nghiã của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP): Môi

trường bao gồm các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế xã hội có tác động đến

con người. Con người là trung tâm của môi trường, không có con người không có

môi trường. Định nghĩa này quá thiên về môi trường con người.

Định nghiã của UNESCO (1981): Môi trường của con người bao gồm toàn

bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình

(tập quán, niềm tin,…), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài

nguyên tự nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.

Định nghiã của Từ điển bách khoa môi trường (Sylbil P.Parker, 1980): Môi

trường là tổng của tất cả các điều kiện ở bên ngoài và có ảnh hưởng đáng kể đến sự

sống và sự phát triển của sinh vật.

Hiện nay có nhiều định nghĩa về môi trường, nhưng định nghĩa sau đây được

thừa nhận về mặt pháp lý: Môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và yếu tố

vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng

đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.

1.3.1.2 Phát triển bền vững

Định nghĩa về sự phát triển bền vững được đưa ra đầu tiên vào năm 1987 bởi

Uỷ ban Thế giới về môi trường và phát triển WCED (World Commission on

Environment and Development) trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”

(Our common future) và định nghĩa này hiện nay được dùng phổ biến nhất. Phát

triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm

thiệt hại đến khả năng của các thế hệ tương lai được thỏa mãn các nhu cầu của

chính họ. Những nguyên tắc của sự phát triển xã hội bền vững xuất phát từ những

nguyên tắc rất giản dị, dường như ai cũng chấp nhận được. Đó là sự bền vững trong

cuộc sống của một dân tộc phụ thuộc vào việc hòa hợp được với các dân tộc khác

và với thiên nhiên. Dân tộc đó phải cùng chung với các dân tộc khác trong việc cứu

lấy Trái đất. Nhân loại không thể bòn rút gì hơn ngoài khả năng thiên nhiên có thể

cung cấp. Điều này có nghĩa là phải áp dụng một kiểu sống và phát triển trong giới

hạn thiên nhiên cho phép. Nó không loại bỏ những phúc lợi mà nền kỹ thuật hiện

đại đã mang lại cho con người, miễn là kỹ thuật đó phải tuân theo giới hạn nói trên.

Cần phải nhận thức rằng định nghĩa trên về sự phát triển bền vững mang rất

rõ màu sắc chính trị và đạo đức. Định nghĩa này cho thấy hy vọng của nhân loại về

sự hòa hợp của môi trường và phát triển, là một định nghĩa rất lạc quan rằng loài

người hoàn toàn có thể đạt được điều này.

Tiếp sau định nghĩa này, người ta còn đưa ra hàng loạt định nghĩa khác nhau

về sự phát triển bền vững. Chẳng hạn, chỉ hai năm sau khi định nghĩa của WCED

được đưa ra, người ta đã liệt kê được 140 định nghĩa khác nhau về sự phát triển bền

vững, chẳng hạn như: phát triển bền vững được hiểu là sự cải thiện chất lượng cuộc

sống con người trong phạm vi khả năng chịu đựng được của các hệ sinh thái.

Tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Gianêrô (Braxin) năm 1992, gần

180 nước đã thảo luận về nguyên tắc làm thế nào để đạt được sự phát triển bền

vững. Một kế hoạch hành động toàn diện được gọi là chương trình nghị sự 21

(Agenda 21) cũng đã được thông qua. Đây là một văn kiện đồ sộ gồm 40 chương,

nhằm cụ thể hóa các quan điểm nêu trong bản Tuyên ngôn Rio, bản “Tuyên bố về

những nguyên tắc quản lý rừng bền vững”, “Công ước về sự thay đổi khí hậu toàn

cầu” và “Công ước về sự đa dạng sinh học”.

1.3.1.3 Vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các nước phát triển

Vấn đề môi trường và phát triển có tính chất toàn cầu. Nhưng vấn đề môi

trường ở các nước phát triển chủ yếu gắn với những tác động lên môi trường của sự

phát triển công nghiệp, những vấn đề của đô thị.

Hiện tượng nóng lên toàn cầu chủ yếu do hàm lượng CO2 trong khí quyển

tăng lên đáng kể, làm tăng hiệu ứng nhà kính. Trong các hoạt động kinh tế làm tăng

hiệu ứng nhà kính thì việc sử dụng năng lượng chiếm 49%, công nghiệp 24%, nông

nghiệp 13% và phá rừng 14%. Các nước công nghiệp phát triển chính là những

nước phát thải CO2 nhiều nhất thế giới. Hiện tượng mưa axit là một trong những

biểu hiện của ô nhiễm không khí trong thế giới công nghiệp hóa, chủ yếu từ các

nguồn phát thải khí SO2, NO.

Ở các nước phát triển, vấn đề ô nhiễm nguồn nước cũng vẫn còn tồn tại. Các

hoạt động công nghiệp và khai mỏ chủ yếu là nguồn cung cấp các tác nhân gây ô

nhiễm nước ở các nước phát triển. Phần lớn các ngành công nghiệp đều tạo ra các

tác nhân gây ô nhiễm tiềm tàng: việc sản xuất dầu mỏ, các ngành công nghiệp hóa

chất,…

Nhiều nước công nghiệp phát triển đã bảo vệ tốt hơn môi trường của mình.

Tuy nhiên, nhiều công ty tư bản đã chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm sang các

nước đang phát triển. Điều này làm cho vấn đề môi trường ở các nước đang phát

triển thêm phức tạp.

1.3.1.4 Vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các nước đang phát triển

Các nước đang phát triển chiếm hơn ½ diện tích thế giới và là nơi tập trung

hơn 80% dân số Thế giới. Đây là khu vực giàu tài nguyên, nhất là tài nguyên

khoáng sản, tài nguyên rừng,…Tuy nhiên, tình trạng chậm phát triển, thiếu vốn,

công nghệ, hậu quả của chiến tranh, sự bùng nổ dân số, nạn đói,…đã làm cho môi

trường ở đây bị hủy hoại nghiêm trọng.

Việc khai thác tài nguyên khoáng sản, hiện tượng sử dụng rừng một cách bừa

bãi cộng thêm nạn cháy rừng, tình trạng khan hiếm nước…tác động tiêu cực đến

môi trường sống của con người nơi đây.

Từ những năm 1980, Liên Hợp Quốc đã khởi xướng Thập kỷ quốc tế về

cung cấp nước uống và vệ sinh nhằm cải thiện sức khỏe thông qua một quan điểm

tổng hợp về quản lý nước và vệ sinh môi trường. Mục tiêu là cung cấp nước uống

và vệ sinh cho dân số ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay Thế giới

vẫn đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nước.

1.3.2 Tình trạng giảm sút nguồn lợi vùng ven bờ

Biển cung cấp cho con người nguồn thực phẩm phong phú, đa dạng từ sinh

vật biển. Cá là nguồn cung cấp đạm động vật bổ sung quan trọng cho dân cư ở hầu

hết các quốc gia trên Thế giới, nhất là các nước đang phát triển. Các nguồn nguyên

liệu thủy sản còn dùng để chế biến thức ăn gia súc, phân bón, chất béo để làm xà

phòng, dược liệu và mỹ phẩm.

Tình trạng khai thác hải sản quá mức làm suy giảm nguồn lợi và đe dọa

nhiều giống loài trước nguy cơ tuyệt chủng. Các nhà khoa học tính rằng trên Thế

giới có gần 20 nghìn loài cá, trong đó khoảng 9 nghìn loài đang được khai thác,

nhưng chỉ có khoảng 22 loài được đánh bắt thường xuyên với khối lượng lớn. Chỉ

tính 6 nhóm là: cá trích, cá tuyết, cá háo, cá hồi đỏ, cá thu và cá ngừ đã chiếm tới

gần 2/3 tổng sản lượng đánh bắt hàng năm. Nguồn lợi từ biển cho phép đánh bắt tối

đa là 100 triệu tấn/năm. Trung Quốc chiếm đến 60% sản lượng đánh bắt ở vùng

biển Tây Bắc Thái Bình Dương, vượt xa Peru. Peru là nước đặc biệt chịu ảnh hưởng

của việc đánh bắt quá mức, khi mà sản lượng cá cơm đã giảm 75% trong thời gian

1970-1973 và đây là ví dụ điển hình cho thấy nguồn lợi của biển không phải là vô

tận.

Ô nhiễm biển làm một phần ba số loài san hô có nguy cơ tuyệt chủng, 415

vùng hệ sinh thái "chết", số lượng cá mập và cá ngừ giảm. Chỉ còn một phần tư diện

tích đại dương giữ lại được những đặc tính như ban đầu. Từ những năm 50 của thế

kỷ trước đến nay, trữ lượng các loài cá có giá trị thương mại cao, như cá ngừ, cá

hồi, cá tuyết, cá mũi kiếm và cá đuối đã giảm đến 90%. Ở miền bắc Ðại Tây

Dương, trong vòng một thế kỷ, các loài cá tuyết, cá pô-lắc,... giảm khoảng 89%.

Loài cá ngừ vây xanh cũng là loài đang có nguy cơ tuyệt chủng vì bị đánh bắt quá

mức. Theo kết quả của một nghiên cứu ở vùng tây-bắc Ðại Tây Dương, số lượng cá

thể của loài cá mập ở vùng biển này đã giảm từ 40 đến 89% trong vòng 14 năm.Sự

sụt giảm số lượng các loài cá ăn thịt đã gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái biển. Sự

suy giảm số lượng các loài cá ăn thịt đã dẫn đến sự tăng nhanh loài cá đuối mũi bò.

Số lượng cá thể của loài này hiện nay khoảng 40 triệu. Thức ăn của loài cá đuối là

những loài thân mềm hai mảnh vỏ như hàu, trai. Sự gia tăng số lượng của loài cá

này một cách ồ ạt dẫn đến sụt giảm sản lượng trong ngành khai thác các loài thủy

sản hai mảnh vỏ. Loài rùa biển cũng không nằm ngoài số phận đó. Trong số bảy

loài rùa biển có trên Trái đất, sáu loài đang bị đe dọa nghiêm trọng. Riêng loài rùa

xanh đã giảm hơn 99%.

Ở vùng biển Caribe, việc đánh bắt cá quá mức hiện đã làm giảm loài cá ăn

thực vật khi mà mầm bệnh đã làm giảm số cá thể của loài chim biển Diadema (cũng

là một loại động vật kiểm soát tảo). Kết quả là các dải san hô đã phải chịu sự sinh

trưởng quá mức của các loài tảo nâu búi lớn - một tốc độ sinh sôi mà giờ đây rất

khó hạn chế, vì loại tảo này khi đã lớn không phù hợp làm thức ăn cho các loài sinh

vật biển, và quá trình tồn tại của chúng đã ngăn cản sự định cư của ấu trùng san hô.

1.3.3 Suy thoái các hệ sinh thái ven biển

Theo P.Duvigneaud và M.Tanghe định nghiã: Hệ sinh thái như là một tập

hợp tất cả các sinh vật lập thành quần xã sinh vật cùng với quan hệ khác nhau giữa

các sinh vật đó và các mối quan hệ giữa chúng với môi trường, những cái đó hợp

thành hệ sinh thái.

Theo nhà sinh thái học E.P.Odum (1971): hệ sinh thái là hệ thống gồm quần

xã và sinh cảnh của nó.

Trong vấn đề sử dụng tài nguyên biển và vùng ven biển, vấn đề nóng bỏng

nhất là ở các vùng nước ven bờ, tính từ bờ biển đến khoảng 200 hải lý. Các hệ sinh

thái ở các vùng nước đến 200 hải lý chiếm hơn ½ năng suất sinh học của cả biển và

cung cấp gần như toàn bộ sản lượng cá biển của thế giới.

Các dòng sông đưa phù sa từ đất liền ra, còn các dòng biển cuốn chất dinh

dưỡng từ các trầm tích giàu chất dinh dưỡng ở đáy biển lên, rồi gió đưa vào bờ. Ánh

sáng mặt trời thúc đẩy sự sinh trưởng của các loài thực vật ở vùng nước nông. Đối

với đời sống của biển cả và đời sống con người, các hệ sinh thái ven biển rất quan

trọng, trong đó nổi lên các hệ sinh thái đầm lầy ngập mặn ở vùng ôn đới, rừng ngập

mặn ở vùng nhiệt đới, các hệ sinh thái cửa sông và các hệ sinh thái rạn san hô. Các

hệ sinh thái này rất đa dạng về sinh học, là nơi sinh sản của các loài tôm, cá, mực,

nhuyễn thể,… Các đầm lầy ngập mặn và các rừng ngập mặn còn là nơi có các loài

cỏ biển cung cấp thức ăn cho chim biển, rùa biển và động vật dưới biển. Do đặc

điểm cấu trúc phức tạp, lại ở gần bờ nên các hệ sinh thái này còn là nơi giữ lại và

lọc phần lớn các chất gây ô nhiễm, nhờ thế mà góp phần bảo vệ môi trường ven

biển trong lành. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bờ biển

không bị xói lở.

Các hệ sinh thái cửa sông và rạn san hô cho năng suất sinh học lớn gấp 14

đến 16 lần vùng biển khơi, còn rừng ngập mặn cho năng suất sinh học còn cao hơn

20 lần so với các hệ sinh thái cửa sông và rạn san hô.

Các hệ sinh thái ven biển đang bị đe dọa xuống cấp do hoạt động kinh tế của

con người ngày càng tập trung ra vùng ven biển, cùng sức ép gia tăng dân số ở vùng

ven biển. Việc “khẩn hoang ven biển” để xây dựng mở rộng các đô thị ven biển, các

cảng biển…đã phá hủy một số kiểu hệ sinh thái như các thảm cỏ biển, rừng ngập

mặn, rạn san hô. Ở nhiều nước nhiệt đới như ở Châu Á, Trung Mỹ, Nam Mỹ,

khoảng từ 1/4 đến 1/3 diện tích rừng ngập mặn đã bị phá hủy để làm các đầm tôm.

Còn ở Đông Phi rừng ngập mặn bị phá hủy để lấy củi hay gỗ xây dựng. Các rạn san

hô bị hủy hoại ở nhiều vùng biển nhiệt đới. Ở Xrilanca, mỗi năm 75 nghìn tấn san

hô bị khai thác làm vật liệu xây dựng, gây xói lở bờ nghiêm trọng. Còn ở nhiều

nước, ngư dân đánh cá bằng chất nổ, hóa chất làm tổn hại các hệ sinh thái rạn san

hô. Cùng với việc xây dựng các công trình cảng, nạo vét luồng lạch cũng phá vỡ

môi trường sinh thái, các chuỗi dinh dưỡng vốn có trong hệ sinh thái.

Rừng ngập mặn là hệ sinh thái đặc thù, có ý nghĩa to lớn đối với môi trường,

là hệ sinh thái có năng suất cao ở vùng ven biển nhiệt đới, song nó cũng là hệ sinh

thái rất nhạy cảm với các tác động của con người và những biến động của các yếu

tố và các điều kiện tự nhiên. Rừng ngập mặn không những cung cấp các lâm sản có

giá trị mà còn là sinh cảnh sinh sản của nhiều loài hải sản, chim và một số động vật

có giá trị khác. Rừng ngập mặn có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, bờ

sông, điều tiết, bảo đảm tính ổn định của khí hậu, hạn chế xói lở, mở rộng diện tích

lực địa, hạn chế sự xâm nhập mặn, bảo vệ đê điều, đồng ruộng trước sự tàn phá của

gió mùa, bão, nước biển dâng.

1.3.4 Tình trạng ô nhiễm môi trường biển

Biển là tài sản đặc biệt quý giá của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, biển cũng đang

là nơi tập trung các chất thải từ lục địa theo sông suối đổ ra.

Sự phát triển các đô thị, các cảng biển phân bố tập trung ở ven các vịnh biển,

các cửa sông làm cho nhiều vũng vịnh biển nổi tiếng Thế giới đã bị ô nhiễm nặng

nề do nước thải đô thị. Các chất thải từ tàu thuyền trên hệ thống cảng biển do chưa

kiểm soát chặt chẽ cũng là nguyên nhân gây nên ô nhiễm môi trường. Thậm chí

việc quai đê lấn biển ở một số vùng cửa sông, ven bờ cũng làm thay đổi dòng chảy

và có nguy cơ xói lở bờ ở các vùng khác. Tình trạng ngập lụt ở các vùng ven biển

do chặt phá rừng bừa bãi để khai thác gỗ, đốt rừng đầu nguồn... đã làm đảo lộn các

hệ sinh thái, dẫn đến việc huỷ diệt các dải san hô, nơi sinh sống của nhiều loài thuỷ

sản.

Môi trường biển còn chịu tác động của các hoạt động công nghiệp, dân sinh

dọc theo các tuyến sông, ven biển, đảo. Chất thải công nghiệp, sinh hoạt từ các khu

đô thị, công nghiệp không được xử lý hoặc xử lý chưa triệt để xả thẳng ra sông và

biển. Biển là nơi cuối cùng phải "gánh chịu" hậu quả, chưa kể hàng loạt khách sạn,

với các hoạt động dịch vụ ở các khu du lịch biển ngày đêm thải ra biển lượng không

nhỏ nước và rác thải chưa qua xử lý.

Các dòng sông mang các hóa chất nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu,

thuốc diệt cỏ,…) từ các đồng ruộng ra biển. Các loại thuốc trừ sâu không dễ bị phân

hủy, vì thế gây ô nhiễm kéo dài ở vùng ven biển và đi vào chuỗi dinh dưỡng, tích tụ

lại trong cơ thể sinh vật. Các dòng biển lại mang chất ô nhiễm phát tán rộng hơn.

Đại dương Thế giới lại bị ô nhiễm dầu, nhất là do thăm dò, khai thác và vận chuyển

dầu mỏ bị ô nhiễm bởi các chất dẻo thải xuống từ các tàu biển (mà các loài chim

biển, rùa biển tưởng lầm là thức ăn nên ăn phải).

1.3.5 Những biện pháp trước mắt về bảo vệ môi trường biển

Loài người trên Trái đất ngày càng đông, xã hội loài người ngày càng phát

triển thì càng cần không gian sống mở rộng. Bằng những thành tựu khoa học và

công nghệ, con người đang làm cho môi trường sống của mình ngày càng trở nên

tiện nghi hơn. Mặc khác, các chất thải đưa vào môi trường ngày càng nhiều và tích

dồn lại, làm cho không gian sống trên Trái đất dường như đang bị thu hẹp lại. Theo

quan điểm sinh thái, các lãnh thổ trên Trái đất đều có sức chứa nhất định (ta thường

gọi là sức chứa lãnh thổ) và Trái đất cũng có sức chứa nhất định. Trong đó, môi

trường biển là môi trường chịu nhiều tác động nhất. Chính vì vậy cần có những biện

pháp nhằm bảo vệ môi trường biển.

- Do môi trường biển là vấn đề chung của các quốc gia nên vấn đề hợp tác

quốc tế trong quản lý và bảo vệ môi trường biển cũng hết sức quan trọng. Mở rộng

và tăng cường hợp tác quốc tế, sự liên kết toàn cầu trong vấn đề bảo vệ môi trường.

- Hình thành luật bảo vệ môi trường biển.

- Phân chia quyền sử dụng tài nguyên biển một cách công bằng giữa ngành

đánh bắt thủy sản, công nghiệp biển và du lịch, nhằm tăng quyền lợi của các cộng

đồng và các tổ chức địa phương.

- Sử dụng phương pháp sinh thái trong việc quản lý tài nguyên biển

- Phát động các chiến dịch thông tin, cổ động về vấn đề bờ biển và biển. Tổ

chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường biển và sáng tác về biển.

- Đưa vấn đề bảo vệ môi trường biển, đại dương vào chương trình giáo dục

môi trường theo cấp học.

- Thiết lập các vùng bảo vệ biển.

- Bảo vệ các loài sinh vật biển và các kho gen đang bị đe dọa

- Ngăn chặn ô nhiễm biển bởi những nguồn từ đất liền, từ tàu biển và các

công trình lắp đặt ngoài khơi bằng hệ thống văn bản pháp luật.

- Xử lý kịp thời những sự cố về ô nhiễm môi trường bằng công nghệ hiện

đại.

- Thúc đẩy công tác nghiên cứu liên ngành và trao đổi thông tin về các hệ

sinh thái vùng biển.

- Đào tạo đội ngũ quản lý về môi trường biển và có sự bố trí hợp lý theo từng

vùng biển.

Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG

2.1. Tổng quan về huyện Gò Công Đông

Gò Công Đông là một trong 9 đơn vị hành chánh cấp huyện thị của tỉnh Tiền

Giang (năm 2007). Năm 2007, tổng diện tích tự nhiên huyện 44.754 ha, dân số 195.852 người, mật độ dân số là 438 người/km2.

Về tổ chức hành chánh, huyện Gò Công Đông bao gồm một thị trấn (Tân

Hòa) và 17 xã (Tân Đông, Tân Tây, Tân Phước, Gia Thuận, Bình Nghị, Bình

Ân,Kiểng Phước, Vàm Láng, Tân Điền, Tân Thành, Tăng Hòa, Phước Trung, Phú

Đông, Phú Tân, Bình Xuân, Bình Đông, Tân Trung). Trung tâm huyện đặt tại thị

trấn Tân Hòa, là nơi tập trung các cơ quan Đảng, đoàn thể, trụ sở hành chánh quản

lý nhà nước, các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa cấp huyện. Tuy nhiên, về qui mô

hoạt động kinh tế, thị trấn Tân Hòa nhỏ hơn hai đô thị quan trọng khác là Vàm

Láng và Tân Tây.

Khu vực Gò Công nói chung và huyện Gò Công Đông nói riêng có lịch sử

hình thành khá sớm, nơi đây trước kia là vùng rừng thiêng nước độc và là nơi đóng

quân của nghĩa quân anh hùng dân tộc Trương Định trong thời kỳ đầu kháng chiến

chống Pháp. Từ khi hòa bình lập lại thống nhất đất nước, đặc biệt là từ năm 1979

huyện Gò Công Đông được tách ra từ huyện Gò Công trước đây đã không ngừng

phát triển trên nhiều lĩnh vực cho đến nay.

Huyện Gò Công Đông sẽ thu hẹp lãnh thổ do sáp nhập ba xã Tân Trung, Bình

Đông, Bình Xuân vào Thị xã Gò Công; cắt hai xã Phú Đông, Phú Tân để thành lập

huyện mới đầu năm 2008, diện tích tự nhiên của Huyện sẽ giảm từ 44.754ha còn

26.768 ha (giảm 17.985 ha). Sự thay đổi này sẽ dẫn đến sự biến động về dân số, mật

độ dân số và các hoạt động kinh tế đang diễn ra trên địa bàn huyện.

2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm về tài nguyên tự nhiên

2.1.1.1 Vị trí địa lý

a. Ranh giới hành chính

Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Long An, TP Hồ Chí Minh qua ranh giới tự

nhiên là sông Soài Rạp.

Phía Nam giáp tỉnh Bến Tre qua ranh giới tự nhiên là sông Cửa Đại.

Phía Đông là biển Đông.

Phía Tây giáp huyện Gò Công Tây, Thị xã Gò Công.

b.Tọa độ địa lý Từ 106035’00’’ – 106048’48’’ kinh độ Đông. Từ 10012’10’’ – 10029’49’’ vĩ độ Bắc.

2.1.1.2 Đặc điểm về tài nguyên tự nhiên

a.Khí hậu, thời tiết

Điều kiện khí hậu, thời tiết của huyện Gò Công Đông mang các đặc điểm

chung: nền nhiệt cao, biên độ nhiệt ngày đêm nhỏ, khí hậu phân hóa thành hai mùa

tương phản (mùa mưa từ tháng V đến tháng XI trùng với mùa gió Tây Nam và mùa

khô từ tháng XII đến tháng IV trùng với mùa gió Đông Bắc). Các chỉ số chung như

sau:

- Nhiệt độ trung bình 270C, chênh lệch giữa các tháng khoảng 3 – 40C. - Tổng tích ôn năm cao (khoảng 9.8000C).

- Lượng mưa vào loại thấp nhất đồng bằng sông Cửu Long (<1.300mm/năm)

ẩm độ không khí bình quân 84-85% và thay đổi theo mùa, lượng bốc hơi trung bình

3,5mm/ngày.

- Số giờ nắng cao (2.400- 2.600 giờ) và phân hóa theo mùa.

- Vào mùa mưa, gió mùa Tây Nam mang theo nhiều hơi nước với hướng gió

thịnh hành là Tây Nam, tốc độ trung bình là 2,4m/s; vào mùa khô, gió mùa Đông

Bắc mang không khí khô có hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Đông, tốc độ gió

trung bình là 3,8m/s và thường gây gió chướng đẩy mặn xâm nhập sâu vào đất liền.

b.Chế độ thủy văn

Huyện Gò Công Đông có mật độ dòng chảy khá dày tại khu vực phía Bắc,

khu vực ven biển Đông và khu vực cù lao. Các kênh rạch chính là sông Soài Rạp,

sông Tiền, sông Gò Công, kênh Salicette, kênh Champeaux, kênh Trần Văn Dõng,

kênh xóm Giồng, rạch Cần Lộc, rạch Gốc, rạch Long Uông và các lạch triều trên

hai xã cù lao.

Sông Tiền là một trong hai dòng chảy chính, chiều dài trên 10km từ Phước

Trung đến Đèn Đỏ, có cao trình đáy sông bình quân -9m, độ dốc đáy 0.07%, chiều rộng 1.200-2.400m, tiết diện ướt vào khoảng 12000-17000 m2; chịu ảnh hưởng chế

độ bán nhật triều không đều, mực nước tối đa tại cửa sông là 1,53m ( với tần suất p

= 10%) và thấp nhất là -3,08m, biên độ triều bình quân khoảng 2,5m, thuận lợi cho việc tưới tiêu tự chảy; lưu lượng mùa kiệt (tháng IV) khoảng 130-190m3/s và bị

nhiễm mặn >4g/l quanh năm.

Sông Soài Rạp từ vàm Gò Công đến Vàm Láng dài 37,4km, chiều rộng

1200m (đoạn sau vàm Gò Công), 2700m (từ Vàm Láng qua Lý Nhơn), chịu ảnh

hưởng chế độ bán nhật triều không đều, nhiễm mặn >4g/l quanh năm.

Các kênh rạch nội đồng được chia ra làm hai hệ thống:

Hệ thống các rạch và lạch triều: rạch Gò Công, rạch Cần Lộc, rạch Gốc, rạch Long

Uông và các lạch triều trên hai xã cù lao, hình thái uốn khúc và nhiễm mặn quanh

năm.

Hệ thống các tuyến kênh ngọt hóa: kênh Salicatte, kênh Champeaux, kênh

Trần Văn Dõng, kênh xóm Giồng.

Đường bờ biển có khuynh hướng bồi lắng nhanh, tăng thêm diện tích đất,

đặc biệt là tại khu vực phía Nam và Phú Tân, tuy nhiên khu vực đê xung yếu bị xói

lở mạnh và quy luật bồi lắng – xói lở chưa rõ ràng.

c. Địa mạo, địa hình, địa chất

Về địa mạo, huyện Gò Công Đông nằm trong khu vực hạ lưu tam giác châu

nhiễm mặn lợ và tiếp nối là các bãi triều ven biển, địa hình bằng phẳng nghiêng từ

Tây sang Đông, xen lẫn với nhiều giồng cát lớn hình cánh cung.

Về địa chất, địa bàn được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích

biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50m có hai loại trầm tích:

Holocene (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).

Cao trình phổ biến từ 0,5 – 0,8m, bao gồm một vùng đồng bằng trung tâm

cao khoảng 0,6 – 0,7m và vùng bãi triều thấp. Các giồng cát trên địa bàn có cao

trình 0,9 -1,2m.

Về địa chất công trình, trên nền phù sa mới, tầng đất mặt trong khoảng 1-8m

có đặc tính không thích ứng với việc xây dựng công trình lớn (góc ma sát trong 2- 30, lực dính 0,1-0,2 kg/cm2, hệ số nén lún 0,2-0,3 cm2/kg). Các tầng đất từ 3-30m là

giồng cát (tỷ lệ cát 19-64%) nên có đặc điểm địa chất công trình khá (góc ma sát trong 8-160, lực dính 0,3-0,9 kg/cm2, hệ số nén lún 0,02-0,03 cm2/kg).

d. Thổ nhưỡng

Trên địa bàn huyện Gò Công Đông có ba nhóm đất chính:

Nhóm đất mặn, bao gồm đất mặn ít trên vùng ngọt hóa, đã được rửa mặn trên

tầng mặt, thích nghi cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu là lúa; đất mặn nhiều và mặn

phèn tiềm tàng tại khu vực ven biển.

Nhóm đất cát giồng địa hình từ trung bình đến cao, thành phần cơ giới nhẹ,

độ phì kém nhưng thoát nước tốt, chủ yếu sử dụng làm đất thổ cư và canh tác cây ăn

trái, rau màu.

Nhóm đất liếp phân bố chủ yếu tại khu vực thổ canh và vườn.

e. Tài nguyên khoáng sản

Trên địa bàn huyện không có tài nguyên khoáng sản quan trọng và không có

nguồn nước ngầm ngọt.

f. Tài nguyên sinh vật

Tài nguyên ven biển khá phong phú với hệ thống thực vật đặc trưng cho

nhiều kiểu lập địa của rừng ngập mặn (đước, mắm, vẹt, sú). Các loài thủy sinh vật

ven biển cũng rất phong phú, trong đó có đối tượng quan trọng có khả năng khai

thác kinh tế là nghêu, tôm và các loài cá biển; sinh vật trong các kênh rạch nội đồng

cũng có khuynh hướng thay đổi thành phần loài theo hướng phù hợp môi trường

nước dưới tác động của việc đóng cống ngăn mặn.

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội

2.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế

Nền kinh tế huyện Gò Công Đông đến nay vẫn phát triển theo hướng nông

ngư nghiệp, mặc dù vẫn có một bộ phận công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và

thương mại dịch vụ quan trọng. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phát triển còn khá

chậm chạp do sự thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng và nguồn vốn đầu tư. Hệ thống

canh tác nông nghiệp, mặc dù còn chịu tác động mạnh từ điều kiện tự nhiên (nhất là

điều kiện về thời tiết và chế độ thủy văn) nhưng nhìn chung, cả trồng trọt, chăn nuôi

và đánh bắt thủy hải sản trên địa bàn tăng trưởng khá ổn định về cơ cấu mùa vụ, kỹ

thuật canh tác, khai thác và hệ thống thu mua. Riêng lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là

ngành tăng trưởng nhanh nhất, song chưa thật sự ổn định về phương diện hệ thống

canh tác và độ bền vững. Nền thương mại-dịch vụ tăng trưởng nhanh nhưng vẫn

còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục như: hệ thống chợ, vựa và cơ sở dịch vụ còn

tương đối nhỏ, một số nơi đã bắt đầu quá tải.

2.1.2.1.1. Tình hình tăng trưởng GDP qua các năm 2001 – 2007

Trong toàn nền kinh tế tỉnh Tiền Giang, GDP huyện Gò Công Đông năm

2000 chiếm 9%, 11% năm 2005 và 11,8% năm 2007. Nền kinh tế huyện hiện phát

triển khá nhanh, có quy mô lớn so với toàn tỉnh, và đang có nhiều tiềm năng đột phá

về thủy hải sản và công thương nghiệp.

Bảng 2.1: GDP huyện Gò Công Đông từ năm 2000-2007

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

622186 937579 1040092 1072435 1257294 1429191 1805316 1880179,2

570952 669124 759230

774639

857033

973292 1127458

1184521

Năm GDP (giá HH) GDP (giáSS 94)

(Đơn vị: triệu đồng)

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

GDP theo giá hiện hành năm 2000 là 622.186 triệu đồng, 1.429.191 triệu

đồng năm 2005 và 1880179,2 triệu đồng năm 2007; theo giá so sánh năm 2000 tăng

từ 570.952 triệu đồng lên 973.292 triệu đồng năm 2005 và 1184521triệu đồng năm

2007. Bình quân tăng 11,3%/năm trong giai đoạn 2001-2005 (tỷ lệ tăng bình quân

khá cao so với giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 9,7%/năm).

Về cơ cấu thành phần trong GDP, kinh tế nhà nước chỉ còn chiếm tỷ trọng

nhỏ trong ngành điện, nước và một số cơ sở công nghiệp, còn lại toàn bộ là kinh tế

ngoài quốc doanh. Trên địa bàn chưa có cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Bảng 2.2: GDP/ người năm 2000 – 2007

(Đơn vị: 1000đồng)

2000 3518 2001 5199 2002 5746 2003 5926 2004 6846 2005 7782 2006 9300 2007 9600

3157 3660 4120 4164 4508 5069 5808 6048 Năm GDP/người (giá HH) GDP/người (giá SS 94)

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

GDP/ người theo giá hiện hành tăng từ 3,5 triệu đồng năm 2000 lên 9,6 triệu

đồng năm 2007, tương đương với giá so sánh là 3,2 triệu đồng năm 2000 và 6 triệu

đồng năm 2007. Thu nhập bình quân của dân huyện Gò Công Đông tăng khá nhanh

và phát triển hài hòa giữa hai khu vực đô thị và nông thôn, mức chênh lệch giảm rất

nhanh.

2.1.2.1.2. Cơ cấu kinh tế qua các năm 2000 – 2007

Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế huyện Gò Công Đông từ năm 2000 – 2007

Đơ n vị: %)

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Năm 2000

KV1 74,2 72,9 72,3 70,0 70,0 69,0 70,1 68,8

KV2 7,8 8,7 8,8 8,0 8,7 8,8 8,9 9,5

KV3 18 18,4 18,9 22,0 21,3 22,2 21,0 21,7

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

21.70%

18%

KV1

7.80%

9.50%

KV2

68.80%

74.20%

KV3

Năm 2000

Năm 2007

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu kinh tế Huyện Gò Công Đông năm 2000 và 2007

Biểu đồ 2.1 cho thấy, cơ cấu kinh tế huyện đã có sự thay đổi theo hướng tăng

dần tỷ trọng khu vực 3 (chiếm18% năm 2000 tăng lên 21,7% năm 2007), khu vực 2

(năm 2000 là 7,8% tăng lên 9,5% vào năm 2007) và giảm dần tỷ trọng khu vực 1

(giảm từ 74,2% xuống 68,8%). Sự thay đổi này diễn ra chậm, song cũng thể hiện

được sự chuyển mình trong quá trình phát triển kinh tế. Và cũng chính sự thay đổi

trên đã thể hiện được phần nào sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trong việc chăm lo

đời sống người dân và bước đầu thực hiện hiệu quả công cuộc đổi mới đất nước

trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Về cơ cấu kinh tế của Huyện qua các năm 2001-2007 nhìn chung đã có sự

chuyển dịch đáng kể theo hướng phát triển toàn diện, trong đó nông ngư nghiệp

đóng vai trò chủ lực. Phát huy lợi thế của vùng kinh tế biển, cùng với chương trình

ngọt hóa Gò Công đã khai thác tiềm năng và phát triển kinh tế, cơ cấu giá trị tính

theo giá trị thực tế năm 2007. Cụ thể:

- Khu vực I (nông-lâm-ngư) đạt 68,8%

- Khu vực II (công nghiệp-xây dựng) đạt 9,5%

- Khu vực III (thương mại-dịch vụ) đạt 21,7%

Huyện Gò Công Đông trước đây là một vùng đất nhiễm mặn phèn lâu đời,

thường xuyên nên hàng năm chỉ sản xuất được 01 vụ lúa mùa năng suất thấp, bấp

bênh do đó đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Sau vụ mùa nhân dân

phải đi làm thuê mướn nới khác để tìm nguồn thu nhập thêm. Trước tình hình đó,

được Trung ương và Tỉnh quan tâm đầu tư thực hiện dự án ngọt hóa Gò Công đã

tạo sự chuyển biến tột bậc cho vùng Gò Công, trong đó có huyện Gò Công Đông.

Nhìn chung, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm từ 74,2% năm 2000

còn 68,8% năm 2007 (giảm 5,4% trong vòng 7 năm). Mặc dù tỷ trọng giảm nhưng

ngành nông lâm ngư nghiệp vẫn còn chiếm một tỷ lệ cao, đến 68,8% năm 2007. Tỷ

lệ trên cho thấy đây là khu vực kinh tế trọng điểm của Huyện, có tác động mạnh

mẽ đến đời sống người dân trong huyện và huyện Gò Công Đông vẫn còn là một

huyện thuần nông. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2005, tỷ trọng của ngành

giảm liên tục từ 74,2% xuống còn 69%, nhưng sau đó lại tăng lên 70,1% năm

2006, sang năm 2007 lại giảm còn 68,8%. Tuy tỷ trọng của khu vực 1 có sự biến

động qua các năm nhưng về giá trị đóng góp của ngành thì luôn tăng, cụ thể là năm

2000, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp là 538839 triệu đồng thì đến năm 2007

đạt 1066897 triệu đồng, tăng gần gấp đôi trong vòng 7 năm.

Trong khu vực 1, ngành trồng trọt phát triển nhanh trong giai đoạn trước

năm 2000 và giảm tốc độ trong giai đoạn từ năm 2000 – 2007, nhưng hiện chiếm

đến 56,7% giá trị tăng thêm khu vực 1. Sản xuất nông nghiệp đã phát triển ổn định,

từ sản xuất chỉ 01 vụ/năm đến năm 2002 có 13.000ha sản xuất 03 vụ lúa/năm,

3.256ha sản xuất 02 vụ/năm. Năng suất lúa bình quân 4,5 tấn/ha. Sản lượng lương

thực đạt 180.000 tấn, bình quân lương thực 960kg/đầu người. Riêng trong năm

2007, tổng sản lượng lương thực 195.931 tấn, trong đó sản lượng lúa thơm giá trị

cao chiếm 60%, sản lượng lúa chất lượng cao chiếm 30%. Từ thực tế độc canh cây

lúa dần dần chuyển sang đa dạng hóa cơ cấu cây trồng. Sản xuất hoa màu gia tăng

với diện tích gieo trồng hàng năm 8.300ha. Kinh tế vườn từng bước phát triển với

diện tích 2.160ha (trong đó khoảng 700ha trồng cây sơri. Nhìn chung, tuy ngành

trồng trọt giữ vị trí khá quan trọng trong cơ cấu sử dụng đất (chiếm tỷ trọng 46%

diện tích tự nhiên, 72% diện tích nhóm đất nông nghiệp) nhưng do giá trị tăng

thêm/ha canh tác thấp hơn so với nuôi trồng thủy sản nên thu nhập/ đơn vị diện tích

canh tác chỉ vào loại trung bình, giá trị tăng thêm/ người nông thôn chỉ vào khoảng

1,98 triệu đồng, thuộc vào loại trung bình.

Riêng ngành thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh do phát triển nuôi

trồng thủy sản, chiếm đến 38,8% giá trị tăng thêm khu vực 1. Trong đó nuôi tôm sú

vẫn giữ vai trò chủ đạo với số lượng con giống thả nuôi gần 300 triệu con đã tạo

nguồn thu nhập đáng kể. Hoạt động đánh bắt hải sản giảm số phương tiện do nguồn

lợi thủy sản ven bờ cạn kiệt, ngư dân thiếu vốn tích lũy để đầu tư cải tạo, đóng mới

phương tiện đánh bắt xa bờ. Diện tích nuôi tôm tăng lên một cách đáng kể đã góp

phần tích cực trong vấn đề cải thiện đời sống người dân. Thêm vào đó là sự tăng giá

một số mặt hàng được coi là chủ lực trong nuôi trồng thủy hải sản của Huyện là

nghêu, tôm càng xanh,…Và cũng do sự tăng nhanh của ngành thủy hải sản trong

thời gian gần đây đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của hệ thống rừng

phòng hộ ven biển của huyện, hiện ngành lâm nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ

trong giá trị tăng thêm trong khu vực 1. Ngành chăn nuôi phát triển chậm và chiếm

một tỷ lệ nhỏ, khoảng 4,4% giá trị tăng thêm khu vực 1, tốc độ tăng trưởng trong

những năm gần đây có khuynh hướng chựng lại do sự giảm sút của đàn lợn và đàn

gia cầm dưới tác động của tình hình giá cả thị trường, dịch bệnh. Các sản phẩm

chính theo thứ tự là lợn, đại gia súc và gia cầm.

Và từ bản đồ hiện trạng kinh tế xã hội huyện Gò Công Đông, ta dễ dàng

nhận ra đây là một huyện thuần nông vì toàn cảnh là một màu vàng thể hiện đất

trồng lúa, nó chiếm hầu hết diện tích của huyện, kế đến là đất chuyên thủy sản, đây

là một lợi thế của huyện mà không phải huyện nào cũng có được và đây cũng là lí

do để giải thích vì sao huyện được chọn là địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế biển

của Tỉnh.

Khu vực 2 phát triển chậm trong giai đoạn 2000 – 2007, tăng từ 7,8% năm

2000 lên 9,5% năm 2007 nhưng so với giai đoạn trước từ năm 1996 – 2000, ngành

công nghiệp tăng 6,2%/năm, trong khi đó giai đoạn 2001-2005 tăng 17,2%/năm.

Mặc dù tỷ trọng ngành công nghiệp của huyện tăng nhưng còn chiếm một tỷ lệ nhỏ

trong cơ cấu kinh tế. Ngành còn yếu kém, quy mô sản xuất nhỏ, máy móc thiết bị

lạc hậu. Sản phẩm nông nghiệp, hải sản chủ yếu bán thô chưa qua chế biến nên thu

nhập còn thấp. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Gò Công Đông

đã được hình thành và phát triển tại các đô thị và ở một số tụ điểm dân cư lớn từ lâu

đời. Tuy nhiên, quy mô ngành còn nhỏ và máy móc, thiết bị còn yếu kém, phần lớn

các cơ sở còn dưới dạng tiểu thủ công nghiệp. Do cơ sở hạ tầng của huyện chưa

được đầu tư cải tạo, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch, ngành công nghiệp chưa

được định hướng phát triển. Do đó, dù có nguồn nguyên liệu nông thủy sản dồi dào,

ngành công nghiệp huyện cũng chỉ phát triển một số lĩnh vực sơ chế hàng nông ngư

sản, tiểu thủ công nghiệp phục vụ sản xuất và đời sống, sản xuất chủ yếu dựa vào

tiềm năng và nội lực. Đây là ngành kinh tế còn nhiều tiềm năng của huyện với

những đầu tư mới của Tỉnh về tuyến nước công nghiệp, hình thành khu công nghiệp

đóng tàu và các cụm công nghiệp cấp huyện. Các sản phẩm chủ lực là thủy sản chế

biến và cơ khí sửa chữa. Còn riêng ngành xây dựng thì ngược lại, trong giai đoạn từ

2001 – 2005 (6,1%/năm) ngành tăng chậm hơn giai đoạn từ 1996 - 2000 (20,9%

/năm).

Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện chỉ có 1 đơn

vị quốc doanh, còn lại là các đơn vị ngoài quốc doanh, sản xuất bán cơ giới theo

kinh nghiệm hoặc được truyền nghề tại chỗ. Tổng số cơ sở tăng từ 500 cơ sở năm

2000 lên 636 cơ sở năm 2007. Lao động của ngành trong giai đoạn trước năm 2000

do diện tích muối thu hẹp (giảm từ 1885 người năm 1995 còn 1614 người năm

2000) và tăng mạnh đến năm 2007 là 4705 người với các ngành chủ lực hiện nay là:

lương thực thực phẩm và đồ uống, các ngành cơ khí và sản phẩm từ kim loại.

Khu vực 3 cũng có diễn biến phức tạp, tỷ trọng ngành tăng từ 18% năm 2000

lên 22% năm 2003, qua năm 2004 lại giảm còn 21,3%, sang năm 2005 lại tăng lên

hơn năm 2003 là 22,2%, sau đó lại giảm vào năm 2006 là 21%, đến năm 2007 đạt

21,7%. Nếu như nhìn vào tỷ trọng đóng góp của ngành thì chúng ta không khỏi

ngạc nhiên và chỉ có thể giải thích là từ năm 2000, do huyện được đầu tư nâng cấp

và xây dựng mới các chợ, chợ vựa và sự phát triển của các đô thị nông thôn, nhưng

ngành thương nghiệp lại tăng yếu, chưa tương xứng với tiềm năng; riêng ngành vận

tải, thông tin liên lạc bắt đầu phát triển mạnh trong năm 2005. Đến năm 2006, một

cơn bão bất ngờ đi qua đã tàn phá hầu hết các xã trong huyện, trong đó thiệt hại

nặng nhất là xã Phú Tân, Phú Đông đã làm cho các hoạt động dịch vụ cũng như một

số hoạt động khác phải tạm ngưng và sang năm 2007, kinh tế Huyện đã từng bước

được khắc phục, cải tạo và phát triển, nhất là các hoạt động du lịch đã khởi sắc, trở

thành tâm diểm và tạo nguồn đóng góp đáng kể cho ngành dịch vụ.

Khu vực 3 phát triển sẽ là nền tảng cho sự phát triển của các ngành kinh tế

khác. Đây cũng là khu vực kinh tế còn nhiều triển vọng của huyện với những đầu tư

mở rộng thị trấn Tân Hòa, hình thành các thị trấn, thị tứ mới, chợ đầu mối thủy sản

và đô thị công nghiệp.

2.1.2.2 Tình hình xã hội

2.1.2.2.1. Dân cư và nguồn lao động

Bảng 2.4: Hiện trạng dân số huyện Gò Công Đông năm 2000-2007

2000 2002 2001 180852 182805 184262 1,41% 1,45% 1,5%

2003 2004 186049 190117 1,3% 1,36%

2005 2007 2006 192027 194120 195852 1,18% 1,23% 1,27%

404

408

412

416

425

429

434

438

15023

15232

6134

6209

6741

6949

7025

7099

165829 167573 178128

179840 183376

185078 187095 188753

Năm Dân số Tỷ lệ tăng TN Mật độ DS (ng/km2) DS thành thị DS nông thôn

(Đv: người)

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

Từ bảng số liệu 1.4: Hiện trạng dân số huyện cho thấy, dân số huyện Gò

Công Đông tăng chậm từ năm 2000 trở về sau, trung bình tăng trên 2100

người/năm. Riêng năm 2003-2004, dân số huyện có sự gia tăng đột biến, chỉ trong

vòng một năm nhưng dân số của huyện tăng nhanh chóng từ 186049 người lên

190117 người, tăng 4068 người. Nguyên nhân chính của sự biến động này chính là

do một số đông dân cư từ nơi khác đến đây lập nghiệp, chủ yếu là gia tăng cơ giới

(tỷ lệ gia tăng tự nhiên năm 2003 là 1,36% giảm còn 1,3% năm 2004). Sự gia tăng

trên đã cho thấy điều kiện kinh tế của huyện đã có nhiều khởi sắc tạo một sức hút

lớn về dân số.

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 1,5% năm 2000 còn 1,27% năm 2005 và

đến năm 2007 tỷ lệ này chỉ còn 1,18%. Đây là một tính hiệu vui trong công tác quản

lý và việc thực hiện biện pháp kế hoạch hóa gia đình đã đạt kết quả khả quan. Thêm

một nguyên nhân khác góp phần làm giảm tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên nơi đây là

do trong giai đoạn từ năm 1996 – 2003, dân số giảm cơ học rất lớn, chủ yếu là đi

làm công nơi khác do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.

Mật độ dân số trung bình tăng chậm từ 429 người//km2 năm 2000 lên 438 người//km2. Mật độ dân số huyện còn thấp so với bình quân của tỉnh Tiền Giang do

điều kiện tự nhiên, nhất là địa hình nhiều sông rạch và đất ven biển đã tác động

mạnh mẽ đến sự phân bố dân cư trong địa bàn huyện.

Dân số đô thị tăng rất chậm, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 2,28%/năm từ năm 2000

đến năm 2007, đây là một tỷ lệ thuộc vào hàng nhỏ nhất tỉnh Tiền Giang. Năm

2007, dân số đô thị là 7099 người, chỉ chiếm 3,62% dân số huyện. Và một điều bất

thường là dân số đô thị từ năm 2001 đến năm 2002 lại giảm đột ngột từ 15.232

người còn 6.134 người, nhưng từ năm 2002 trở đi, dân số đô thị của huyện lại tăng

với tốc độ rất chậm. Sự thay đổi trên cũng được giải thích giống sự biến động về

dân số của huyện như trên.

Dân số nông thôn tăng nhanh và tăng liên tục từ năm 2000 đến năm 2007.

Cụ thể là năm 2000, dân số nông thôn là 165829 người, chiếm 91,7%, đến năm

2007, dân số nông thôn là 188.753 người, chiếm đến 96,38% dân số. Dân số nông

thôn tăng đều kéo theo sự gia tăng dân số của huyện.

Sự thay đổi về dân số thành thị và nông thôn đã dẫn đến sự thay đổi trong cơ

cấu dân số thành thị và nông thôn. Cụ thể là cơ cấu dân số thành thị và nông thôn

năm 2000 là 8,31% và 91,69%, năm 2007 là 3,62% và 96,38%. Qua số liệu trên đã

một lần nữa khẳng định, huyện Gò Công Đông có tốc độ đô thị hóa rất chậm.

200000

7099

7025

190000

6949

6741

6209

i

6134

180000

15232

15023

188753

ờ ư g n

187095

170000

185078

183376

179840

178128

160000

165829

167573

150000

năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

dân số nông thôn

dân số thành thị

Biểu đồ 2.2: Hiện trạng dân số thành thị, nông thôn huyện Gò Công Đông

từ năm 2000 – 2007

Lao động ngành nghề trong khu vực 1 giảm từ 84,3% năm 2000 còn 72,65%

năm 2007, trong khu vực 2 tăng từ 3,5% năm 2000 lên 8,54% năm 2007, và khu

vực 3 tăng từ 12,1% lên 18,79% tương ứng năm 2000 và 2007. Mặc dù tỷ lệ lao

động trong khu vực 1 giảm nhưng số lao động tham gia sản xuất của ngành tăng từ

75581 người năm 2000 lên 91020 người năm 2007 (tăng 15439 người), nhưng tỷ lệ

lao động khu vực 2, 3 tăng thì số lao động tham gia sản xuất của ngành cũng tăng

theo, cụ thể là khu vực 2 tăng từ 3166 người lên 10699 người (tăng 7533 người),

khu vực 3 tăng từ 10883 người lên 23550 người (tăng 12667 người).

Cơ cấu lao động phi nông nghiệp/ tổng số lao động nghề nghiệp chỉ đạt 18%

là rất thấp, cho thấy nhân dân trong huyện còn sống bằng nông ngư nghiệp với

cường độ lao động thấp, đa số đi làm lao động giản đơn ở nơi khác. Nhờ vậy nạn

thất nghiệp trên địa bàn hầu như không có, thậm chí các ngành nghề còn sử dụng

lao động ngoài độ tuổi.

Tổng số lao động kỹ thuật được đào tạo, qua khảo sát thực địa, chỉ vào

khoảng 3,6% lao động trong độ tuổi, nếu tính cả lao động được đào tạo qua công

việc có thể lên đến 13,9%. Bên cạnh đó là số lao động trong độ tuổi còn đang đi học

hiện chiếm 5,2%, tuy thấp hơn các huyện khác nhưng là một lực lượng dự trữ quan

trọng cho chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa huyện

trong thời gian tới.

Bảng 2.5: Lao động và cơ cấu lao động năm 2000 – 2007

(Đơn vị: người)

2001

2007

2000 91005 2 286

2002 102901 106073 2 673 3 172

2003 108383 2 276

2004 110516 3 867

2005 112847 3 226

ngành

2006 116988 117814 119978 125281

91020 10699 23550

89 629 75 581 3 166 10 883 11 287 4 498 802

89791 75 549 3 683 10 559 11 588 4 787 854

93207 79537 3 374 10296 11897 5 095 909

95745 81 209 4 385 10 151 12 214 5 422 969

96 262 80 060 5 634 10 568 12 540 5 771 1 031

96 694 79 321 6 011 11 362 12 875 6 142 1 098

thừa

89744 9226 21008

-947

72,65 8,54 18,79

-3 315 84,3% 3,5% 12,1% 4,37%

84,1% 4,1% 11,8% 4,51%

-2 362 85,3% 3,6% 11,0% 4,68%

-3 328 84,8% 4,6% 10,6% 4,88%

-715 83,2% 5,9% 11,0% 5,02%

1 306 82,0% 6,2% 11,8% 5,20%

thừa

74,8 7,69 17,51

Năm LĐ trong tuổi LĐ gia tăng LĐ nghề LĐ KV1 LĐ V2 LĐ KV3 Nội trợ Đang đi học Mất sức LĐ Thiếu LĐ Cơ cấu LĐ LĐ KV1 LĐ KV2 LĐ KV3 Đang đi học Thiếu LĐ

-3,22%

-0,89%

-2,17%

-3,00%

-0,62%

1,11%

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

2.1.2.2.2. Trình độ văn hóa và dân trí

Kết cấu dân số theo trình độ văn hoá phản ánh trình độ dân trí và học vấn của

dân cư, là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống con người.

Trình độ dân trí của dân cư cao là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, nâng cao

năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy các mặt khác của đời sống xã

hội. Trên địa bàn huyện Gò Công Đông, số xã phường được công nhận xóa mù chữ

và phổ cập giáo dục tiểu học đến năm 2007 là 100% (18 xã phường được công

nhân). Song thực tế không hẳn toàn diện như vậy, tỷ lệ dân biết đọc-biết viết đạt

97,6%; tuy nhiên tỷ lệ nhập học các cấp phổ thông chỉ đạt 74,6%, tỷ lệ này thấp hơn

nhiều so với các huyện khác trong tỉnh. Nhưng nhìn chung, tình trạng giáo dục của

Huyện đã có sự tiến triển khá tích cực.

Bảng 2.6: Số trường, phòng học, giáo viên và học sinh phổ thông nhà nước

trên địa bàn huyện Gò Công Đông

2001-

2002-

2003-

2004-

2005-

2006-

Năm

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Trường 40 41 41 43 43 43

Phòng học 614 684 718 657 706 781

Giáo viên 1110 1160 1220 1180 1291 1208

Học sinh 33881 33557 33564 33513 32909 32755

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

Về đào tạo hiện nay, huyện chưa có trường Trung học chuyên nghiệp và

trường dạy nghề. Việc đào tạo tại huyện thông qua Trung tâm hướng nghiệp dạy

nghề chủ yếu dành cho trường Trung học phổ thông. Tuy nhiên hàng năm huyện

đều có học viên theo học tại các trường dạy nghề tại Mỹ Tho, TX Gò Công, cũng

như xuất khẩu lao động để được đào tạo. Năm 2007, số lao động được đào tạo nghề

chiếm khoảng 2,5% dân số, lực lượng sinh viên Cao đẳng và Đại học chiếm khoảng

0,6% dân số.

2.2. Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế biển của huyện Gò

Công Đông từ 2001 – 2007

2.2.1. Các nguồn lực phát triển

2.2.1.1. Vị trí địa lý vùng biển và ven biển

Huyện Gò Công Đông nằm trên địa bàn ba huyện phía Đông tỉnh Tiền

Giang, trung tâm huyện cách TP Mỹ Tho 42km; Thị xã Gò Công 7,5km về hướng

Tây; cách các thị trấn Vĩnh Bình 19,5km; Chợ Gạo 31km, Tân Hiệp 54km, Mỹ

Phước 67km, Cai Lậy 71km, Cái Bè 88km và trung tâm huyện cách TP Hồ Chí

Minh chỉ vào khoảng 68km (theo Quốc lộ 50).

Vị trí nằm sát biển Đông, đồng thời với các trục giao thông quan trọng

(đường tỉnh 862, 871; tuyến sông Soài Rạp và sông Tiền), về phương diện địa lý

kinh tế huyện Gò Công Đông là huyện trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh

Tiền Giang (nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, hậu cần nghề cá, du lịch sinh thái

biển), là cửa ngõ quan trọng hướng ra biển Đông và về TP Hồ Chí Minh.

Với một tầm nhìn dài hạn, sau khi Thị xã mở rộng ranh giới ra phía Bắc,

huyện Gò Công Đông mất đi vị trí cửa ngõ đường bộ hướng về TP Hồ Chí Minh;

tuy nhiên tầm quan trọng của thế cửa ngõ đường thủy tăng lên nhờ vào sự phát triển

kinh tế ven biển.

Với cửa ngõ phía Đông là biển Đông, sông Cửa Đại phía Nam, sông Soài

Rạp phía Bắc và Đông Bắc; huyện Gò Công Đông có lợi thế lớn về phương diện địa

lý kinh tế, trở thành huyện trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh.

2.2.1.2. Tài nguyên hải sản

Các loài thủy sinh vật ven biển rất phong phú, trong đó các đối tượng quan

trọng có khả năng khai thác kinh tế là nghêu, tôm và các loài cá biển. Thêm vào đó

là điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản khá đa

dạng trên nhiều loại hình thủy vực và nhiều phương thức nuôi trồng (nuôi tôm

chuyên công nghiệp, nuôi tôm chuyên quảng canh cải tiến, nuôi tôm xen lúa và

rừng, nuôi nghêu, cua,..), tiềm năng mở rộng diện tích và đặc biệt là tăng năng suất

còn khá lớn, có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.

2.2.1.3. Tài nguyên du lịch biển

Huyện Gò Công Đông với 32km bờ biển có bãi biển Tân Thành là một điểm

du lịch có tiếng từ xưa. Trong nhiều năm qua, bãi biển vừa là địa bàn nuôi nghêu

vừa là địa bàn du lịch. Từ đầu năm 2000, Công ty du lịch tỉnh Tiền Giang bắt đầu

đầu tư xây dựng khu du lịch tại bãi biển này với quy mô là 36 ha. Ngoài ra, tại các

cồn bãi vẫn còn giữ được tính nguyên thủy của môi trường sinh thái tự nhiên như

cồn Ngang, cồn Cống, cồn Ông Mão… đây cũng là điểm tham quan hấp dẫn.

Là người con của đất biển, những người dân huyện Gò Công Đông luôn

tưởng nhớ và biết ơn biển. Lễ hội Nghinh Ông, xây dựng lăng ông Nam Hải vừa thể

hiện tấm lòng thành của họ, vừa là điểm du lịch rất đặc sắc và mang tính văn hóa

cao.

2.2.1.4. Dân cư và lao động

Dân số huyện gia tăng nhanh, năm 2007 có 195852 người, trong đó số người

trong độ tuổi lao động là 117814 người, chiếm 60,2% dân số của huyện. Đây là một

tính hiệu vui trong quá trình phát triển kinh tế huyện, một nguồn lao động dồi dào

đáp ứng được nhu cầu của các ngành nghề đang có sự tăng trưởng nhanh. Bên cạnh

đó, đại bộ phận dân số lao động có kinh nghiệm trong các ngành kinh tế biển (theo

hướng lao động gia đình) nhất là ngành thủy hải sản.

Như vậy, huyện Gò Công Đông đã hội tụ gần như đầy đủ các yếu tố (thiên

thời, địa lợi, nhân hòa) để phát triển chiến lược phát triển kinh tế biển đã đề ra và

trở thành huyện trọng điểm phát triển kinh tế biển của Tỉnh Tiền Giang.

2.2.2.Thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông

2.2.2.1. Tình hình nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản biển

Ngành thủy hải sản biển huyện Gò Công Đông trước năm 2000 phát triển

chủ yếu trong lĩnh vực khai thác thủy hải sản. Sau năm 2000, ngành nuôi trồng thủy

sản mặn, lợ phát triển nhanh, đặc biệt tại hai xã cù lao và các xã ven biển, dần dần

chiếm tỷ trọng lớn và có đóng góp quan trọng trong cơ cấu ngành thủy sản. Trong

cơ cấu kinh tế khu vực 1, ngành thủy sản chiếm tỷ trọng đến 39% và đạt tốc độ tăng

trưởng rất nhanh, đạt 16,5%/năm.

Toàn huyện hiện có 10 trại sản xuất tôm sú giống, 16 cơ sở thuần dưỡng

tôm, 38 cơ sở kinh doanh thức ăn – thuốc thú y thủy sản và hơn mười đại lý thu

mua thủy sản, tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành trong tương lai.

2.2.2.1.1. Tình hình nuôi trồng thủy hải sản

Gò Công Đông là huyện biển có thế mạnh về nuôi trồng thủy hải sản. Đây

cũng là vùng được tỉnh Tiền Giang xác định là huyện trọng điểm về nuôi thủy sản

xuất khẩu. Và từ năm 1993 đến nay, huyện đã thực hiện Nghị quyết của Trung ương

nhằm phát triển ngành thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó đặc biệt chú

ý đến sản xuất, nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Tiền Giang đã thực hiện đầu tư nhiều dự

án lớn trên địa bàn huyện Gò Công Đông. Các dự án này đã có tác động tích cực đến

người nông dân trong nghề, khuyến khích họ mạnh dạn đầu tư vào nuôi trồng thủy sản.

Bảng 2.7: Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện GCĐ từ năm 2000 - 2007

lợ mặn 2000 4570 2001 4017 2002 4299 2003 4569 2004 5148 2005 5586 2006 5586 2007 5788

sản 2860 2860 1700 10 2207 2207 1800 10 2489 2489 1800 10 2764 2764 1800 5 3248 1383 326 1539 1900 0 3436 1476 234 1726 2150 0 3436 1405 304 1726 2150 0 3488 1506 233 1749 2300 0 Năm DT (ha) - Tôm +Công nghiệp +Bán CN +QCCT - Nghêu - Thủy khác

6000

5

5000

10

5

10

2150

2300

2150

4000

1900

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

) a h (

1700

1800

1800

3000

1800

h c í t

n ệ i

2000

d

1000

2860

2764

3436

3488

3248

3436

2489

2207

0

năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

DT tôm DT nghêu DT thủy sản khác

Biểu đồ 2.3: Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông

từ năm 2000 - 2007

Tính đến năm 2007, diện tích nuôi trồng thủy sản lợ mặn đạt 5788 ha, diện

tích nuôi trồng thủy sản tăng gấp 1,2 lần so với năm 2000, đạt 4570 ha (trong đó

diện tích nuôi nước mặn – lợ tăng nhanh hơn diện tích nuôi nước ngọt). Diện tích

nuôi thủy sản đạt kế hoạch nhờ vào thời tiết thuận lợi đã tạo điều kiện cho nghêu,

hến, sò huyết sinh giống chủ yếu tập trung ở các bãi triều ven biển thuộc các xã Tân

Thành, Kiểng Phước, Tân Điền, Phú Tân… ngành thủy sản tiếp tục phối hợp các

ngành chức năng tăng cường công tác quản lý, đảm bảo khai thác nguồn giống một

cách hợp lý tránh thất thoát và làm ảnh hưởng đến môi trường sống của các giống

loài thủy sản khác.

Về hình thức nuôi tôm, hình thức nuôi công nghiệp và bán công nghiệp chỉ

mới được áp dụng trong thời gian gần đây (từ năm 2004 trở về sau). Trong đó diện

tích nuôi công nghiệp tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao, năm 2004 là 1383 ha (chiếm

42,58% diện tích nuôi nuôi tôm) và đến năm 2007 là 1506 ha (chiếm 43,17% diện

tích nuôi tôm). Còn riêng diện tích nuôi theo hình thức bán công nghiệp lại tăng

giảm qua từng năm, cụ thể: năm 2004 là 326 ha, năm 2005 giảm còn 234 ha; nhưng

vào năm 2006, diện tích tôm nuôi theo hình thức này lại tăng, đạt 304 ha; sang năm

2007, diện tích nuôi lại giảm, còn 233 ha. Trước đây, hình thức nuôi tôm chủ yếu là

quảng canh cải tiến, với hình thức nuôi này, diện tích nuôi giảm nhanh từ năm 2000

đến năm 2007 (diện tích nuôi quảng canh cải tiến năm 2000 là 2860 ha, năm 2007

là 1749 ha). Đáng chú ý là mô hình nuôi trồng thủy sản gồm cả nước lợ, mặn đang

được nông dân trong huyện phát triển mạnh. Hiện nay, huyện Gò Công Đông đang

quan tâm chuyển dịch nội bộ ngành nuôi thủy sản theo hướng bền vững, hiệu quả,

đa dạng hóa các đối tượng nuôi ngay trên ao nuôi tôm sú, tiến tới vùng nuôi tập

trung, cung ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Cụ thể,

huyện đang khuyến khích nông dân sau khi thu hoạch tôm sú chính vụ xong cải tạo

ao đầm thả luân vụ thêm cá kèo, tôm càng xanh,…với mục đích là cải tạo môi

trường nước và đáy ao, ngăn chặn được mầm bệnh tồn lưu, tạo điều kiện cho vụ

tôm sú mới bội thu, tăng thêm lợi nhuận cho nông dân và nguồn hàng chế biến.

Tôm sú Gò Công thịt ngon, thơm, hàm lượng dinh dưỡng cao, là sản phẩm ưa

chuộng của nhiều thị trường trong và ngoài nước.

Diện tích nuôi nghêu tăng 600 ha trong vòng 7 năm, năm 2000 đạt 1700 ha

và năm 2007 là 2300 ha; trong khoảng thời gian 3 năm liên tiếp (năm 2001, 2002,

2003) diện tích nuôi nghêu hoàn toàn không có một sự biến động nào, đạt 1800 ha.

Nguyên nhân là do sự thay đổi trong cơ cấu đối tượng nuôi, con tôm đã đem lại một

“hơi thở” mới cho người dân vùng biển. Sau đó, từ năm 2004, diện tích nuôi nghêu

bắt đầu có sự tăng nhẹ, năm 2004 là 1900 ha, năm 2005 và 2006 là 2150 ha, năm

2007 là 2300 ha. Trong đó tập trung nhiều nhất là hai “mỏ nghêu” Tân Thành và

Vàm Láng.

Về sản lượng nuôi thủy sản không ổn định qua các năm. Trong suốt năm

năm (từ năm 2000 đến năm 2004), sản lượng nuôi thủy sản của huyện tăng liên tục

qua các năm, năm 2000 đạt sản lượng 14588 tấn, đến năm 2004 đạt sản lượng

27608 tấn. Sang năm sau, năm 2005, mặc dù diện tích nuôi thủy sản mặn, lợ vẫn

chiếm tỷ lệ cao (5586 ha) nhưng sản lượng nuôi lại giảm, chỉ đạt 23797 tấn (giảm

3629 tấn so với năm 2004) và sau đó lại tăng chậm, đạt 24568 tấn năm 2006 và tăng

đột biến vào năm 2007, đạt 29257 tấn (tăng 4689 tấn). Nguyên nhân của sự biến

động trên là vì năng suất nuôi thủy sản mặn lợ của địa phương chưa cao, thêm vào

đó là sự bùng phát của dịch bệnh trên các vuông tôm vào năm 2005 đã ảnh hưởng

lớn đến sản lượng thu hoạch năm. Tình hình trên kéo dài qua năm 2006, cộng thêm

sự có tràn dầu vùng ven biển làm cho diện tích nuôi thủy sản mặn, lợ không tăng,

sản lượng khai thác không cao, đặc biệt là sản lượng nghêu. Đến năm 2007, tình

hình đó đã được khắc phục, diện tích nuôi trồng đã tăng cùng với việc áp dụng

những kỹ thuật mới trong công tác tạo giống và nuôi trồng đã tạo một bước đột phá

mới trong vấn đầ nuôi thủy sản mặn, lợ, góp phần nâng cao sản lượng nuôi thủy sản

mặn lợ vùng ven biển.

Sự thay đổi về sản lượng nuôi thủy sản mặn, lợ phụ thuộc vào sự biến động

của sản lượng nghêu. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2003, sản lượng nghêu tăng

nhanh qua từng năm, tăng từ 13570 tấn năm 2000, 20000 tấn năm 20001, 21512 tấn

năm 2002 và đạt sản lượng cao nhất vào năm 2003 là 22050 tấn vào năm 2003. Sự

gia tăng nhanh về sản lượng nghêu trong thời gian qua trong khi diện tích vẫn

không tăng (diện tích nuôi nghêu duy trì liên tục trong 3 năm, từ năm 2001 đến năm

2003 là 1800 ha) là nhờ vào kinh nghiệm của người dân địa phương không ngừng

được cải tiến cộng thêm nhân tố tự nhiên ưu đãi đã làm cho năng suất nuôi tăng cao.

Nhưng tín hiệu tốt đó đã không được duy trì, sản lượng nghêu biến động liên tục từ

năm 2003 đến năm 2005, giảm từ 22050 tấn năm 2003 còn 10000 tấn năm 2005 do

điều kiện tự nhiên không thuận lợi, giá cả bấp bênh, sự cố tràn dầu ảnh hưởng đến

môi trường sân nuôi, làm cho nghêu chết hàng loạt. Sau đó, sản lượng nghêu lại có

khuynh hướng gia tăng rất nhanh (tăng gấp đôi sản lượng từ năm 2005 đến năm

2007, đạt 20000 tấn) và sự gia tăng càng được nhân đôi khi giá nghêu trong thời

điểm này đang rất cao, trung bình từ 10000 đến 15000 đồng/kg, mỗi ha thu trung

bình 20 – 30 tấn nghêu thì số tiền thu được khoảng 300 – 400 triệu đồng/ha, năng

suất nghêu đạt 18 tấn/ha/năm. Bước đầu, nghề nuôi nghêu đã giải quyết công ăn

việc làm và tăng thu nhập cho khoảng 4600 lao động thường xuyên và 10000 lao

động thời vụ, tạo thành vùng cung cấp nguyên liệu tại chỗ rất ổn định. So với nghề

đánh bắt cá thì ngư dân dễ dàng giàu lên nhờ con nghêu.

Trong khi đó, sản lượng tôm nuôi lại có sự biến động ngược lại, tăng nhanh

trong giai đoạn 2000 – 2005, tăng từ 1018 tấn năm 2000 lên 6679 tấn năm 2005,

tăng hơn 6 lần trong vòng 5 năm do sự gia tăng chóng mặt của diện tích nuôi tôm;

nhưng đến năm 2006, sản lượng tôm nuôi bắt đầu có khuynh hướng giảm, năm

2006 còn 6354 tấn và 6257 tấn vào năm 2007. Thêm vào đó là sự giảm sút về giá cả

thu mua tôm, sự tăng giá của thức ăn, thuốc, dịch bệnh tăng nhanh và nguyên nhân

chính là do diện tích nuôi tôm không có sự biến động lớn, từ năm 2005 trở đi, diện

tích nuôi tôm hầu như không tăng. Riêng sản lượng các loại thủy sản nuôi khác

chưa có số liệu thống kê đầy đủ trong thời gian trước, đến năm 2004, sản lượng

nuôi đạt 4540 tấn, đến năm 2007, đạt 3000 tấn.

Trong cơ cấu sản lượng nuôi đã có hướng chuyển dịch rõ rệt: Chuyển từ chủ

yếu khai thác tự nhiên đến đầu tư nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao

ở các vùng đất ven sông – ven biển và đất bãi bồi ven biển, hình thành các vùng

nuôi tập trung như ở Rạch Xẻo – Kiểng Phước, Phú Đông – Phú Tân – Vàm Láng

– Phước Trung – Bình Đông – Bình Xuân với phương thức nuôi chuyển dần từ mô

hình quảng canh sang nuôi thâm canh với hiệu quả ngày càng cao.

Chính điều kiện tự nhiên ưu đãi, sự hào phóng của biển đã kích thích ngành

nuôi thủy sản ở Gò Công Đông không ngừng phát triển, đời sống của người dân

không ngừng được nâng cao cũng như nguồn ngân sách của huyện từ nguồn lợi

thủy sản này mang lại. Thêm vào đó là nguồn thu từ nguồn nghêu giống của địa

phương. Đây là một lợi thế mà không phải nơi nào cũng có được vì việc nghêu, sò

sinh sản rất hiếm xảy ra. Nghêu giống thường xuất hiện cuối mùa khô, đầu mùa

mưa; nghêu cám (25000 con/kg) thường xuất hiện tháng 5 đến tháng 7, đến tháng

10 thì nghêu trở thành nghêu giống. Nghêu giống xuất hiện trên các bãi không đều,

có sự khác biệt lớn về sinh lượng giữa các cồn bãi. Sự xuất hiện của nghêu giống

thường không đồng đều và vị trí bãi giống cũng không cố định qua các năm. Đặc

biệt, cồn Ông Mão và cồn Ông Liễu vào thời điểm này rất phù hợp với nhiệt độ và

nồng độ muối (đầu mùa mưa, nồng độ muối giảm) tạo điều kiện cho nghêu giống

sinh sản. Đồng thời vùng ven biển tại các xã ven biển như Tân Thành – Tân Điền –

Phú Tân diện tích các cồn nổi gần 8000 ha (gần cồn Ông Liễu, cồn Ông Mão – cồn

Ngang – cồn Vượt) thuận lợi cho việc hình thành đai rừng sinh thái để thúc đẩy

nhanh quá trình bồi tụ phù sa, kết hợp với xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho công

tác quốc phòng tuần tra vùng cửa biển. Hầu hết các bãi bồi đã được đưa vào khai

thác, tuy nhiên để đảm bảo khai thác hiệu quả và bền vững, cần có sự hỗ trợ của

tỉnh và các ngành chức năng để thống nhất định hướng khai thác và sử dụng trong

thời gian tới.

Bảng 2.8: Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông từ năm 2000 -

2007

2003 2001

2000 2004 2002 14588 21220 24163 25756 27608 2005 2007 2006 23979 24568 29257

1220 3706

1018 5068 2651 13570 20000 21512 22050 18000 4540 Năm SL nuôi (tấn) lợ, mặn Tôm Nghêu TS khác

6679 6257 6354 10000 16000 20000 3000 2214 7300 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

Biểu đồ 2.4: Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông

từ năm 2000 - 2007

Biểu đồ : Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn từ năm 2000 đến năm 2007

25000

22050

21512

20000

20000

18000

20000

16000

13570

15000

n ấ t

10000

10000

7300

6679

6257

6354

5068

4540

3706

5000

2651

3000

2214

1018

1220

0

năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

SL tôm SL nghêu SL thủy sản khác

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển, tập trung đầu tư hạ

tầng nuôi thủy sản cho vùng ven biển và các dịch vụ phục vụ hậu cần…coi đây là

khâu đột phá, mang tính bền vững lâu dài cho vùng kinh tế biển trọng điểm của

tỉnh. Đầu tư cho sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất giống thủy sản có chất

lượng và giá trị cao, đặc biệt là tôm giống và nghêu giống, và làm tốt công tác dịch

vụ hậu cần nghề cá, dự báo môi trường và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tăng cường

năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.

2.2.2.1.2. Tình hình đánh bắt thủy hải sản

Đây là nghề đã được hình thành và phát triển lâu đời do lợi thế ven biển của

huyện Gò Công Đông. Theo số liệu của Chi cục quản lý chất lượng và thú y Thủy

sản, trong năm 2007 toàn huyện hiện có 915 phương tiện khai thác thủy sản với

tổng công suất 97.849 CV. Sản lượng đánh bắt cuối năm ước đạt 31.735 tấn. Hiện

nay, huyện đang triển khai cho ngư dân đăng ký nghề đáy và đã cấp phép hoạt động

cho 55 hộ tập trung ở 2 xã Vàm Láng và Tân Thành.

Số tàu thuyền đánh bắt tăng từ 723 chiếc năm 2000 lên 915 chiếc năm 2007.

Sự gia tăng này diễn ra với tốc độ đều trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2003,

đạt 750 chiếc. Đến năm 2004, số tàu thuyền đánh bắt giảm hơn 100 chiếc, chỉ còn

641 chiếc. Nguyên nhân của sự giảm sút đột biến này là do đa số tàu thuyền đánh

bắt đã cũ và công suất nhỏ, không đủ đáp ứng với yêu cầu đánh bắt xa bờ. Và được

sự quan tâm của nhà nước về chính sách vay vốn, người dân vùng biển đã bắt đầu

trang bị tàu thuyền đánh bắt lớn với công suất lớn và được trang bị các thiết bị phục

vụ đánh bắt xa bờ đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, đến năm 2005, số tàu thuyền đánh

bắt đã tăng lên 250 chiếc (đạt 891 chiếc) và tăng dần lên 916 chiếc năm 2006 và

915 chiếc năm 2007. Trong đó, tổng công suất đánh bắt tăng liên tục qua các năm

trong suốt giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007, tăng từ 48578CV lên 97849CV.

Về cơ cấu nghề khai thác, nghề hoạt động chủ lực tập trung vào ba họ nghề

chính: họ kéo lưới (đặc biệt là kéo đơn), họ câu và họ lưới vây. Họ lưới kéo và vây

có xu hướng tăng dần. Họ câu và nghề khác có sự biến động theo xu thế giảm dần.

Đánh bắt thủy hải sản bao gồm hai loại hình: đánh bắt ven bờ chủ yếu là sử

dụng các phương tiện nhỏ dưới 20 mã lực và các phương tiện đăng đáy trên sông

Cửa Tiểu, sông Cửa Đại, Sông Soài Rạp, các kênh rạch nhằm khai thác nguồn lợi

thủy sản nội địa, năng suất và sản lượng khai thác thấp. Đánh bắt biển bao gồm tàu

đang hoạt động với công suất lớn hơn, đánh bắt xa bờ, khai thác nguồn lợi thủy hải

sản ngoài khơi. Sản lượng đánh bắt biển huyện thuộc vào loại cao nhất tỉnh. Trên

địa bàn huyện, sản lượng đánh bắt nội địa giảm dần từ năm 2000, đến năm 2003 thì

đánh bắt nội địa đã không còn do nguồn tài nguyên nội địa đã cạn kiệt dần. Hình

thức khai thác biển vẫn còn duy trì nhịp độ, sản lượng khai thác biển tăng từ 27491

tấn năm 2000 lên 31600 tấn năm 2005; sang năm 2006 và 2007, sản lượng đánh bắt

giảm còn 30661 tấn năm 2006 và 30276 tấn năm 2007. Ai cũng biết, nghề đánh bắt

xa bờ trong vài năm trở lại đây gặp vô vàng khó khăn do nguồn tài nguyên biển đã

bị khai thác nhiều dẫn đến tình trạng khan hiếm, trong khi số số lượng tàu đánh bắt

không ngừng tăng lên, trang thiết bị thăm dò của thuyền đánh bắt chưa được đáp

ứng. Đã vậy, các loại hình đánh bắt biến hóa “muôn hình vạn trạng”, chưa kể trong

đó có nhiều cách làm tận diệt nguồn thủy sản. Và nguyên nhân quan trọng nhất là

do điều kiện tự nhiên, cơn bão năm 2006 đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành đánh

bắt nói riêng và cả sự phát triển kinh tế -xã hội toàn huyện Gò Công Đông.

Sản lượng đánh bắt cá là chủ yếu, sau đó đến tôm, ghẹ, các loại thủy sản

khác. Nhìn chung, sản lượng khai thác cá, tôm đều tăng; trong đó, sản lượng khai

thác cá tăng gấp đôi từ năm 2000 đến năm 2007 (còn tôm tăng 1,4 lần trong cùng

thời gian). Riêng năm 2007, ngư dân các xã Vàm Láng, Kiểng Phước, Tân Điền,

Tân Phước, Tân Thành trúng mùa ruốc. Mỗi miệng đáy, thu hoạch trung bình 100kg

ruốc, giá bán hiện nay 3500 đồng/kg và 17000 đồng/kg ruốc khô. Mỗi thuyền

thường kinh doanh từ 5 đến 10 miệng đáy, có nguồn lãi ròng từ 0,5 triệu đến 1,5

triệu đồng/ngày. Riêng những tháng vào vụ (từ tháng 2 đến tháng 4), số lượng ruốc

thường tăng lên gấp 3 lần. Loại hải sản này được các thương lái mua, bán lại cho

các hộ dân trong vùng có ao nuôi tôm, cua, cá. Đây là điều đáng mừng, đem lại

một nguồn thu quan trọng cho ngư dân vùng biển. Hiện tại, ở địa phương có 135

thuyền đáy chạy và thuyền cào mé, làm ra hàng chục tấn tôm, cá và ruốc trong

ngày, trong đó nhiều nhất là con ruốc. Chính quyền địa phương quan tâm tạo điều

kiện cho ngư dân địa phương có nghề truyền thống này vay vốn ngân hàng chính

sách của huyện, ngư dân có điều kiện tu sửa tàu thuyền và trang bị thêm các phương

tiện đánh bắt tốt. Tuy nhiên, giá nhiên liệu tăng làm chi phí mỗi chuyến đi biển của

ngư dân tăng thêm kéo theo hiệu quả kinh tế đạt được không cao, càng làm tăng

thêm nỗi lo cho người dân vùng biển.

Bảng 2.9: Hiện trạng ngành thủy sản huyện Gò Công Đông từ năm 2000-2007

2000 723 2001 730 2002 740 2003 750 2004 641 2005 891 2006 916 2007 915

48578 49178 50178 50280 53654 74635 86124 97849

67 67 68 68 83.7 83.765 113 106.94

27491 27800 26254 27746 29329 31600

Năm 1. Số tàu thuyền (chiếc) Tổng công suất (CV) Bq số CV/chiếc 2. SL đánh bắt (tấn) Cá Tôm TS khác Bq tấn/ CV 8100 19125 17016 15933 8100 4289 2550 3000 8555 16841 16700 0.55 0.57 0.57 4734 2395 0.52 0.6

30661 30276 16808 16443 16237 3704 3578 3624 4696 10829 10594 10461 6034 0.44 0.51 0.54 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

30661

35000

1000

30276

31600

916

915

900

29329

30000

27800

27746

27491

26254

891

800

) c ế i

25000

700

750

740

723

730

h c (

600

) n ấ t (

20000

641

500

g n ợ ư

15000

n ề y u h t

l

400

u à t

n ả s

300

10000

ố s

200

5000

100

0

0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

năm

SL khai thác biển (tấn)

Số tàu thuyền (chiếc)

Biểu đồ 2.5: Số tàu thuyền và sản lượng đánh bắt thủy sản

huyện Gò Công Đông từ năm 2000-2007

2.2.2.1.3.Tình hình chế biến thủy hải sản

Ngành chế biến thủy sản đông lạnh phát triển dưới dạng sơ chế vì tình trạng

thiếu nước sạch. Sản lượng của thủy sản đông lạnh còn nhỏ, năm 2000 là 100 tấn

tăng lên 480 tấn năm 2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2001-

2005 là 36,9 %/năm.

Ngành chế biến cá khô phát triển tại Vàm Láng và là làng nghề truyền thống,

sản xuất thủ công nên chất lượng chưa cao. Sản lượng tăng từ 1880 tấn năm 2000

lên 2300 tấn năm 2005, tăng bình quân 4,1 %/ năm.

Ngành chế biến bột cá mới phát triển, sản lượng tương đối khá, tăng gấp đôi

trong vòng năm năm từ 1100 tấn năm 2000 lên 2200 tấn năm 2005, tăng bình quân

14,9 %/năm.

Đến năm 2007, tình hình chế biến và sơ chế thủy sản các loại có chiều hướng

phát triển, có hộ đầu tư với hình thức như mua cá tươi về phơi trên sân và làm lò

sấy khô xay bột cá, lột ghẹ, xẻ khô, làm mắm,…tạo công ăn việc làm cho hơn 1600

lao động với hơn 150 hộ hoạt động trên lĩnh vực sơ chế thủy hải sản. Tuy nhiên,

việc sơ chế biến thủy hải sản của huyện còn ở quy mô nhỏ chủ yếu ở dạng thủ công,

chưa đảm bảo được các yêu cầu về chế biến thủy hải sản.

Phục vụ cho ngành đánh bắt thủy hải sản, các ngành dịch vụ hậu cần nghề

cá, sơ chế thủy hải sản đều được nhà nước khuyến khích hỗ trợ và nhân dân quan

tâm đầu tư phát triển. Hầu hết các cơ sở dịch vụ và chế biến tập trung ở các xã Vàm

Láng – Đèn Đỏ - Tân Thành và ở Phước Trung. Tuy nhiên, các cơ sở này đều có

quy mô nhỏ, trang thiết bị thô sơ, nguyên liệu sơ chế là những sản phẩm thủy sản có

giá trị thấp, do vậy hiệu quả đạt được còn nhiều hạn chế.

Đối với các ngành dịch vụ phục vụ phát triển nuôi trồng thủy sản: chủ yếu là

phát triển các cơ sở ương nuôi – thuần dưỡng tôm sú giống, cung cấp thức ăn –

thuốc phòng trị bệnh tôm và các cơ sở thu mua tôm thịt để xuất khẩu thô sang nơi

khác.

Bảng 2.10: Hiện trạng các cơ sở dịch vụ phục vụ thủy sản năm 2007

ố cơ sở Lao động Công suất STT Tên nghề S

Sản xuất nước đá 5 30 2500 cây/ngày 1

Sản xuất khô các loại 65 355 2000 T/năm 2

Sơ chế ghẹ 6 Hơn 600 200T/năm 3

Sản xuất cá phân Các hộ dân 1200T/năm 4

Sản xuất ruốc 43 145 500T/năm 5

Cơ khí sửa chữa nhỏ 11 48 6

Sửa chữa tàu thuyền 21 7

Sơ chế nghêu 1 10 8

Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm

2.2.2.1.4. Doanh thu của ngành thủy hải sản

Bảng 2.11: Các chỉ tiêu giá trị ngành thủy sản trên địa bàn huyện Gò Công Đông

2001

2003

2002

2000 147598 612326 667435 679616 293916 329712 215870 65540

2004 816529 352711

2005 963964 487288

2006 1173175 654771

2007 1405074 671948

Năm Tổng số Giá HH

82058

318410 337723 434766

427986

469598

507012

637006

28980

35832

7078

11392

6120

Nuôi trồng Khai thác Dịch vụ

134224 370938 404322 411701,5 450543 178050 199735 130771 59602

484627 194618,3 203193

552757,85 565705 217871,4

227035,9

Tổng số Giá SS 94’

74622

192888 204587 263374

236153,4 275796,9 326524,45 334030,5

17556,5

19771,3

5637,1

8362

4638,6

76131

494273

456261

493237

Nuôi trồng Khai thác Dịch vụ Giá trị Giá tăng HH thêm Giá

69233

248493

255279

262825

SS.94 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

(Đv: triệu đồng)

Địa bàn huyện Gò Công Đông có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển

mạnh nghề nuôi trồng thủy sản khá đa dạng trên nhiều loại hình thủy vực và nhiều

phương thức nuôi trồng, tiềm năng mở rộng diện tích và tăng năng suất còn khá lớn,

đạt tốc độ tăng trưởng trong một thời gian dài, tạo một nguồn đóng góp cực kỳ quan

trọng cho nền kinh tế huyện.

Giá trị sản xuất của ngành thủy hải sản theo giá hiện hành năm 2000 là

147598 triệu đồng, năm 2007 là 147598 triệu đồng, tương ứng theo giá so sánh năm

1994 là 147598 triệu đồng năm 2000 và 565705 triệu đồng năm 2007. Ngành có

tốc độ tăng trưởng rất cao (giai đoạn 2001-2005 tăng 29,3%). Trong đó, ngành nuôi

trồng và đánh bắt có tỷ trọng tương đương nhau (gần 50%). Nếu so với thời gian từ

năm 2000 - 2004, trong cơ cấu giá trị sản xuất, ngành đánh bắt luôn chiếm tỷ trọng

lớn hơn. Và từ năm 2004, ngành nuôi trồng ngày càng được chú trọng phát triển, có

thể thay thế dần ngành đánh bắt nên tỷ trọng của ngành ngày càng tăng. Thêm vào

đó là đóng góp của các hoạt động dịch vụ cũng tham gia một phần đóng góp quan

trọng trong giá trị sản xuất ngành.

Về giá trị tăng thêm, năm 2000 đạt 76131 triệu đồng, năm 2007 đạt 493237

triệu đồng theo giá hiện hành (tương ứng theo giá so sánh 1994 là 69233 triệu đồng

và 262825 triệu đồng) với tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2001-2005 là 29,1%.

2.2.2.2. Phát triển du lịch biển

Ngoài lợi thế về nguồn lợi thủy hải sản, huyện Gò Công Đông có nhiều tiềm

năng phát triển du lịch biển với những điểm du lịch đặc trưng mang sắc thái đặc

trưng và đậm đà hương vị vùng biển.

2.2.2.2.1. Các điểm du lịch biển

Huyện Gò Công Đông có 32 km bờ biển, ngoài các khu vực gần bờ có tiềm

năng phát triển du lịch rất lớn là cồn Ông Mão, bãi biển Tân Thành (những vùng

này hiện đang nuôi trồng thuỷ sản), huyện còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn phân

bổ ven biển và gần các cửa sông Soài Rạp, Vàm Cỏ Đông, Cửa Tiểu; đặc biệt có

rừng phòng hộ chạy dọc ven biển khoảng 20 km với nhiều hệ động - thực vật sinh

sống.

 Biển Tân Thành

Với loại hình tham quan, giải trí, so với những “tên tuổi” như Mũi Né, Vũng

Tàu hay Nha Trang, bãi biển Tân Thành không phải là nơi tắm biển lý tưởng bởi

đây là một bãi cát đen pha bùn đặc trưng. Song bãi cát dài 7km này lại là một trong

những bãi biển cát đen được đánh giá là đẹp nhất đồng bằng sông Cửu Long..

Thời gian đi từ Thành phố Hồ Chí Minh đến biển Tân Thành chừng trên

dưới hai giờ đồng hồ theo quốc lộ 50, đi qua thị trấn Cần Giuộc, Cần Đước (thuộc

tỉnh Long An). Bỏ lại thị trấn Cần Giuộc, xa phố thị Cần Đước yên ả, tới bờ Bắc

sông lớn Soài Rạp. Đây là hợp lưu sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây để đổ ra

biển Đông. Vượt phà Mỹ Lợi là đặt chân qua đất Gò Công. Đi thêm chừng 10 km

nữa giữa bao la đồng ruộng vùng nước mặn nay đã được ngọt hóa, trù phú lắm.

Trước mắt hiện ra di tích lịch sử gò Sơn Qui, địa linh sản sinh nhân kiệt Gò Công.

Đây là khu lăng Hoàng Gia ẩn trong um tùm cây cối, yên tịnh. Phủ thờ Đức Quốc

công Phạm Đăng Hưng có kiến trúc đậm chất nhà rường pha lẫn nét chạm trổ cung

đình Huế, dựng lập từ thời vua Thành Thái. Một bên, lăng mộ Quốc công, kiến trúc

cổ kính, hoành tráng.

Đi chừng 15 km nữa, du khách ra tới biển Tân Thành dường như còn “trinh

nguyên”. Sông Soài Rạp chở sa bôi, am thầm bồi thành bãi cát dọc dài thoai thoải

lấn ra biển Đông. Nước triều xuống, bãi lộ ra, phơi mình, đi bộ ra mấy cây số mới

tới mép nước. Mặt biển lăn tăn sóng, hiền hoà. Bãi cát đen, nước biển đục ngầu thu

hút du khách bởi sự bình lặng của biển cả, khí hậu mát mẽ, gió biển trong lành, nhất

là vào mùa gió chướng tháng giêng đến tháng 3 hàng năm, đây là nơi lý tưởng để

vui chơi, giải trí vào những ngày cuối tuần, lễ, tết…Và để điểm vào nét yên bình,

tĩnh lặng của vùng biển là những hàng dương xanh ngắt, khi thì réo rắt vi vu theo

gió tạo một cảm giác thoải mái cho du khách khi đến đây thư giãn, nghỉ ngơi. Thêm

một thú vui nữa là khi du khách đến đây nhằm những lúc nước lớn, bạn có thể theo

thuyền thúng, bơi ra các chòi canh nghêu nằm rải rác trên biển, leo lên chòi nằm

ngắm ra khơi xa cũng hay hay. Nhìn lên phía Bắc, thấy núi Vũng Tàu mờ mờ ẩn

hiện.

Nước triều xuống, bãi lộ ra, phơi mình, đi bộ ra mấy cây số mới tới mép

nước. Mặt biển lăn tăn sóng, hiền hoà. Nước triều chưa lên, bãi rộng còn là sân

banh. Phía này, nhiều thanh niên chia phe đá bóng hào hứng. Bên kia, sôi nổi những

trận thi đấư bóng chuyền bãi biển. Ra biển, có những khách thả cánh diều sặc sỡ

bay cao trên bầu trời gió lộng. Từ đây, ngược lên hướng Bắc, thấy bên bãi Cần Giờ,

vịnh Gành Rái, núi Vũng Tàu xa mờ. Triều dâng, nước biên lên cao vào tận kè đá.

Biển Tân Thành cũng gợn sóng như các danh thắng. Du khách tắm biển, đi thuyền

thúng, bềnh bồng theo phao bơi... biển Gò Công còn sơ khai lắm. Cả bãi rộng chỉ có

dăm ba tư nhân dựng rạp che bán thức ăn hải sản, cho thuê võng... cốt lấy công làm

lời.

Có những bungalow dọc bờ biển để cho khách nghỉ lại. Bungalow đơn giản,

chỉ có cái giường nằm, điện chập chờn, khi có khi cúp phải xài đèn dầu. Vậy mà

hay. Phía sau là rừng đước rậm rịt. Gió biển thốc ù ù suốt đêm. Một đêm ngủ cũng

vài phen “đứng tim” với những người nhát cáy. Nhưng sáng ra, bãi biển tuyệt đối

yên tĩnh, đi ra cầu tàu ngắm mặt trời mọc. Cây cầu tàu 300m, vươn dài ra biển dành

cho khách đi dạo, lúc nào cũng đẹp, khi bình minh, hoàng hôn hay đêm xuống.

 Các đặc sản vùng biển

Nghêu: khi trời chiều, nước triều xuống, bãi cát đen rộng mênh mông, đấy là

giờ dân biển đi cào nghêu. Khách tới chơi cũng đi theo, túm tụm trên bãi vừa xem

vừa cùng cào nghêu. Cào cả buổi chiều được chừng 1-2kg, cân ký rồi luộc ăn tại

chổ, đó là cái thú rất đặc trưng của vùng biển.. Du khách hòa lẫn với dân biển đi

xem cào nghêu, thỏa chí tò mò khám phá. Trên những khoảnh “sân” rộng còn sũng

nước, dân ra sức kéo cào sớt qua mặt cát, bật ra những con nghêu trắng được gom

đống trên những manh đệm. Chỗ nước sâu thì ngụp người, hốt nghêu.

Suốt con nước ròng người cào nghêu đông như trảy hội trên bãi Tân Thành

mênh mang. Một thoáng hòa mình sinh hoạt với dân địa phương thật hứng thú.

Nước biển còn xuống, nhiều du khách ngồi ghế dựa, túm tụm trên bãi biển. Phía

trên, lúp xúp mấy mái rạp che mất lợp bằng lá dừa nước. Nghe gió thổi vi vu giữa

bốn bề yên tĩnh. Từng nhóm khách ngồi ăn hải sản, nhàn nhã. Thưởng thức đồ biển

tại chỗ dường như có phong vị đặc trưng hơn chốn nhà hàng, quán xá thị thành!

Món chủ lực "nghêu luộc” ngon số “dách”. Nghêu Tân Thành to con, trắng phau,

thêm vào đó là vị mặn mòi của biển thấm vào con nghêu, là món ăn “chủ lực” nơi

đây. Còn đặc sản ghẹ, tôm, của, móng tay, chém chép, mực, vọp, ốc hương, ốc

mỡ… tươi ăn “khỏi chê”. Nhấm nháp thêm vài ly bia cảm thấy dâng lâng. Tính tiền,

giá cả hết sức bình dân khiến du khách càng thêm khoái chí vì được phục vụ thật

thà.

Sam: ngoài ra còn có con sam trộn với bưởi làm thành món gỏi sam đã làm

nên tên tuổi của xứ Tân Thành. Sam có thể chế biến thành nhiều món. Nhưng ngon

nhất là trứng sam nướng, vừa béo vừa thơm lại nhiều đạm. Sam có vỏ cứng như mai

cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần

đầu là mũi nhọn ba cạnh dài cỡ 20cm. Sam cái nặng chừng 1 kg, sam đực chỉ bằng

nửa. Khoảng từ tháng 10 tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam

cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày cho ra đời sam con. Sam đực

đeo cứng lưng sam cái không rời (có câu dân gian truyền khẩu "Đeo như sam").

Người ta bỏ con đực bởi ít thịt, chỉ bắt sam cái lấy trứng. Khách sành ăn thường

khoái món sam trứng nướng. Đốt bếp than miếng gáo dừa, đặt ngựa sam rồi trở đều

tới khi chín vàng. Chuẩn bị sẵn: bưởi chua tách múi, củ cải thái nhỏ ngâm giấm, rau

thơm gồm húng cay, răm, đậu phộng rang đập dập, hành phi, nước mắm chanh tỏi

ớt... Lật ngửa con sam nóng hổi tách yếm bỏ ruột, dùng dao bén rạch bụng sẽ thấy

trứng đầy ắp, vàng ươm bắt mắt. Phần thịt sống lưng và sát đuôi dai, ngọt. Trứng

sam béo, thơm, nhiều đạm và rất bổ dưỡng. Chưa muốn ăn ngay thì phơi sam vài

buổi nắng rồi treo giàn bếp để dành, lúc cần nướng lên ăn vẫn thơm ngon. Ngán

món nướng thì rửa sạch sam, chặt miếng to nấu canh chua với bạc hà, rau nhút hoặc

đậu rồng, rau om... lai rai lít rượu nếp là đúng điệu. Khách du lịch có thể cùng tham

gia đi “săn” sam, mùa của sam là từ tháng 10 cho đến tháng 2 âm lịch. Còn khi trái

mùa, sam ở ngoài biển xa, muốn săn phải lặn dưới đáy biển sâu. Trứng sam rất

ngon và bổ, máu sam có màu trắng, dân địa phương thường lấy máu sam pha với

rượu uống, cũng trở thành đặc sản của xứ này. Người dân ở đây nói với khách rằng,

đến Tân Thành mà chưa thưởng thức qua món nghêu và món gỏi sam thì kể như

chưa đến đây.

Còng: biển Gò Công còn có nhiều loại đặc sản khác phục vụ nhu cầu ẩm

thực phong phú của du khách như món mắm còng, ốc hương. Nhắc đến mắm còng

thì những du khách nào đã thưởng thức qua không khỏi “nức mũi” với mùi vị của

sản phẩm này. Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng/ Về sông ăn cá, về đồng ăn cua ...

Thứ sản vật xuất xứ từ miền Nam cứ làm cho người ta, một lần nếm món, thì không

thể nguôi ngoai... Hơn nữa, còng còn là nguồn thu nhập phụ một thời của người dân

Gò Công (ở xã Bình Đông, Bình Xuân, huyện Gò Công Đông ven sông Soài, cùng

hai xã cù lao Phú Đông, Phú Tân). Gặt lúa xong, còng bâu kín chân rạ, tha hồ mà

quơ bắt. Còng rang ăn với bần chua xắt lát chấm nước mắm tỏi ớt hoặc lăn chiên

giòn hay nấu canh chua lá me non chấm mắm ruốc... cũng đủ ấm cúng bữa cơm gia

đình. Đến mùng năm tháng năm là mùa còng lột, người Gò Công đã sáng chế ra

một món còng đó là mắm còng để ăn được rất lâu. Chẳng biết đức bà Từ Dũ khẩu vị

ra sao khi quy định món mắm tôm chà xứ Gò Công lên thành món hàng năm phải

đem về kinh đô. Chứ món ấy không thể vượt qua được món mắm còng Gò Công.

Mắm còng có cái vị rất riêng của nó. Ăn mắm tôm chà rồi ăn mắm còng, mới thấy

được mắm tôm có sắc nhưng thiếu hương, còn mắm còng tuy sắc có giống nữ

hoàng Xiba xứ châu Phi, tuy có nâu đen, nhưng hương lại rất thắm rất đượm. Bạn

hãy đem mắm còng trộn với khóm đã chao qua với một ít đường, thêm một ít thịt ba

chỉ luộc, ăn kèm với rau sống…thì còn gì bằng.

 Hệ sinh thái rừng ngập mặn

Gò Công Đông có hệ sinh thái rừng ngập mặn phân bổ ven biển và gần các

cửa sông có rừng phòng hộ dọc bờ biển Gò Công Đông khoảng 20km dần dần đã

có sinh vật về trú ẩn.

 Điểm du lịch Cồn Ngang

Từ biển Tân Thành, trải mắt nhìn xa xa là khu du lịch Cồn Ngang cách bờ

khoảng 1 giờ đi đò máy. Cồn Ngang có hình vòng cung với hai đầu là hai bãi cát

lớn, trải dài, vẫn còn giữ được nét nguyên sinh. Hiện nay, Cồn Ngang đang được

đầu tư trở thành khu du lịch với nhiều dịch vụ : nghỉ biển, tắm nắng, thể thao trên

nước...hứa hẹn là một điểm tham quan thú vị của du khách khi đến đây.

 Chợ Vàm Láng

Nếu đi theo hướng ngược lại, bạn sẽ đến biển Vàm Láng cách thị xã 12 km.

Chợ Vàm Láng là chợ đầu mối chuyên mua bán hải sản với hầu hết là các sản

phẩm từ biển Gò Công, rất phong phú và giá cả phải chăng. Sau khi thăm chợ biển,

bạn có thể đến làng Kiểng Phước để xem bộ xương cá ông không còn nguyên vẹn

ở đình làng Vàng Láng. Vào ngày 16 đến 18 tháng 8 âm lịch hàng năm, tại đây

diễn ra lễ hội Nghinh Ông với sự góp mặt của hàng trăm ghe thuyền được trang trí

đèn hoa rực rỡ. Về lịch sử biển Tân Thành đã hình thành từ trước giải phóng, chưa

được đầu tư, khai thác đúng mức nên chưa thu hút được du khách. Trong những

năm gần đây đã được đầu tư bước đầu như xây dựng bờ kè theo công nghệ mới tại

khu vực biển Tân Thành, hiện nay vẫn tiếp tục thi công thêm 200m nhằm bảo vệ đê

biển và phục vụ du khách, các ngành chức năng đang có ý tưởng xây dựng Trung

tâm Thông tin du lịch tại đây với kinh phí trên 3,5 tỷ đồng. Có thể nói, lượng khách

du lịch đến biển Tân Thành ngày càng đông, chiếm tỷ lệ trên 50% tổng lượng

khách nội địa toàn tỉnh (bình quân trên 200.000 người/năm).

Và trong xu thế phát triển công nghiệp trên địa bàn, với nhiều dự án lớn, khu

du lịch biển Tân Thành lại nằm rất gần khu Công nghiệp vùng Gò Công và cảng

biển Hiệp Phước – TP. Hồ Chí Minh 28 km, Vũng Tàu 35 km và Bình Đại-Bến Tre

08 km sẽ là điều kiện thuận lợi để thu hút hàng ngàn công nhân, người lao động và

gia đình họ đến vui chơi, nghỉ dưỡng tại đây. Mặc khác, trong tương lai, sẽ còn

nhiều điều kiện thuận lợi giúp cơ sở hạ tầng phục vụ đi lại, du lịch ngày càng hoàn

chỉnh vào cuối năm nay. Chính phủ, bộ giao thông vận tải cho đầu tư nâng cấp quốc

lộ 50; trong đó xây dựng cầu Mỹ Lợi thay thế phà Mỹ Lợi hiện nay, nếu hai dự án

này sớm hoàn thành du khách từ TP. Hồ Chí Minh đến khu du lịch biển Tân Thành

chỉ mất khoảng 1 giờ 30 phút. Bên cạnh đó, Tỉnh đang đầu tư hệ thống chuyển tải

nước ngọt về huyện Gò Công Đông trong đó có biển Tân Thành, phục vụ nhu cầu

sinh hoạt người dân và cả du khách.

2.2.2.2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch biển

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Khách tham quan

67657 68761

75750

80122

87925

97207 100817 104561

Khách lưu trú

643

739

850

978

1125

1293

1470

1671

Số ngày người

643

739

850

978

1125

1293

1485

1706

Vòng lưu khách

1.00

1.00

1.00

1.00

1.00

1.00

1.01

1.02

(ngày/người)

Trong đó: khách

1293

1470

1671

nội địa

Số ngày người

1293

1485

1706

Vòng lưu khách

1.00

1.01

1.02

(ngày/người)

Bảng 2.12: Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông từ năm 2000 – 2007

Nguồn:Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

i

120000

ờ ư g n

104561

100817

97207

100000

87925

80112

75750

80000

68761

67657

60000

40000

20000

1293

1671

643

850

1125

1470

978

739

0

năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

khách tham quan

khách lưu trú

Biểu đồ 2.6: Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông

từ năm 2000 – 2007

Nhìn chung, lượng khách du lịch đến với huyện có chiều hướng gia tăng,

trong khoảng thời gian từ năm 2000-2007, tăng gần 37000 người, trong đó khách

lưu trú chỉ tăng hơn 1000 người và vòng lưu khách rất thấp (năm 2007 là 1.02

ngày/người). Đây là một khuyết điểm của ngành du lịch biển của huyện cần phải

thay đổi, tạo sức hút du khách đến tham quan thì chưa đủ mà điều quan trọng là

phải giữ được chân khách. Song, muốn làm được điều này không phải dễ và cũng

không thể thực hiện ngay trong một ngày, một giờ mà là cả một quá trình, trước tiên

là phải trả lời được những câu hỏi: khách sẽ ở đâu? Khách sẽ làm gì?,…

Tài nguyên biển được khai thác nhằm mục đích phát triển du lịch của địa bàn

chỉ hấp dẫn được du khách nội địa (chỉ một phần nhỏ dân số) và tập trung vào dịp

lễ, tết. Họ đến tham quan biển, ngắm nhìn biển, thưởng thức các đặc sản biển.

Những du khách có nhu cầu ở lại cũng chưa được đáp ứng một cách thõa

đáng vì số nhà trọ, khách sạn không nhiều. Đến năm 2007, trên địa bàn huyện chỉ

có 2 nhà trọ, khách sạn phục vụ cho nhu cầu lưu trú của khách tham quan, trong đó

chỉ có 1 khách sạn có thể tiếp khách quốc tế, nhưng lại cách biển gần 10km và chỉ

có 1 nhà hàng với khoảng 20 điểm ăn uống. Vào những dịp cao điểm như tết, lượng

khách tham quan biển tăng lên một cách đột biến (550-600 người/ngày) thì khả

năng “đáp ứng” của biển trở nên quá tải. Đa phần du khách nội địa tham gia hoạt

động du lịch ở đây đều diễn ra trong ngày, thường là vào dịp cuối tuần. Nếu được

hỏi tại sao lại có tình trạng trên xảy ra thì câu trả lời từ phía đấu tư là việc đầu tư

kinh phí xây dựng nhà hàng, khách sạn ở đây không hiệu quả, khả năng thu hồi vốn

rất chậm; còn về phía du khách thì ngược lại. họ nói rằng các nhà trọ ở đây không

tốt, khách sạn thì mắc và ở lại đây cũng không biết làm gì vì các sản phẩm du lịch

trên đị a bàn đã được tiêu thụ hết trong một ngày.

Vấn đề đặt ra hiện nay là phải khai thác tài nguyên du lịch biển một cách

hiều sản phẩm du lịch mang sắc thái riêng có khả năng hấp dẫn, lôi hiệu quả, tạo ra n

cuốn du khách.

Bảng 2. sở vật chất ngành h g 13: Cơ G du lịc huyện ò Côn Đông

2003 2004 2 2007 Năm 005 2006

1. Số khách sạn, nhà trọ 1 1 1 2 2

Trong đ ó: tiếp khách qu ốc tế 1 1

a. Số phòng 5 5 5 25 25

Trong đ ó: tiếp khách q uốc tế 20 20

60 60 b. Số giường 10 10 10

Trong đó: tiếp khách q uốc tế 30 30

2 . Số nhà hàng 1 1 1 1 1

Số chỗ ngồi 20 20 20 30 40

3. Số điểm ăn uống 15 15 15 18 20

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

Do những nguyên nhân trên nên doanh số thu từ hoạt động du lịch biển trên

địa bàn huyện Gò Công Đông chưa cao. Năm 2007, doanh thu theo giá hiện hành

đạt 2809 triệu đồng và 2012 triệu đồng theo giá so sánh năm 1994. Mặc dù doanh

thu chưa cao nhưng so với 7 năm trước (năm 2000), doanh thu theo giá hiện hành

đã tăng 2,3 lần và tăng 1,8 lần theo giá so sánh. Những con số trên là tín hiệu vui

cho hoạt động du lịch biển trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

Về giá trị sản xuất tính theo giá hiện hành tăng từ 943 triệu đồng năm 2000

lên 1760 triệu đồng năm 2005 và 2184 triệu đồng năm 2007, tương đương với giá

so sánh 1994 là tăng từ 891 triệu đồng lên 1377 triệu đồng và 1564 triệu đồng., tăng

bình quân trên 9%/năm.

Về giá trị tăng thêm tăng từ 642 triệu đồng năm 2000 lên 1165 triệu đồng

năm 2005 và 1459 triệu đồng năm 2007, tương đương với giá so sánh 1994 là tăng

từ 607 triệu đồng lên 911 triệu đồng và 1045 triệu đồng, tăng bình quân trên

8%/năm.

Bảng 2.14: Doanh số thu từ hoạt động du lịch biển huyện GCĐ

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Doanh

Giá HH

1208

1228

1441

1657

1893

2260

2517

2809

thu

Giá SS

1140

1189

1322

1426

1583

1768

1884

2012

GTSX

Giá HH

1124

1292

1475

1760

1959

2184

943

958

Giá SS

891

928

1031

1112

1234

1377

1466

1564

GTTT

Giá HH

642

638

748

852

963

1165

1302

1459

Giá SS

607

618

687

734

806

911

975

1045

(Đơn vị: triệu đồng)

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông

Nhìn chung, tuy phát triển, hiệu quả kinh tế có sự tăng trưởng khả quan, như

do đầu tư ít nên hoạt động du lịch còn quá nhỏ lẻ, hầu hết là do các hộ kinh doanh

tham gia cho thuê nhà trọ, cung cấp dịch vụ ăn uống, chất lượng phục vụ thấp.

Thêm vào đó là hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất ngành du lịch huyện còn

thiếu đồng bộ nên khó thu hút du khách và cả nhà đầu tư.

2.2.2.3. Phát triển ngành giao thông vận tải

Địa bàn huyện Gò Công Đông chưa có sự phát triển giao thông vận tải biển

như một số địa phương có biển khác, đại bộ phận là hoạt động giao thông trên các

sông thông ra biển. Huyện giáp với sông cửa Tiểu và hệ thống sông Vàm Cỏ - Soài

Rạp. Tổng chiều dài giao thông thủy theo phân cấp là 32,5km, bao gồm:

- Đường thủy do TW quản lý: 12,7km

- Đường thủy do địa phương quản lý: 19,8km.

Các tuyến giao thông trên sông chính và khu vực cửa sông khá phát triển. Về

giao thông nội vùng, nhìn chung ít phát triển do phần lớn các kênh rạch nhỏ.

Về phương tiện vận tải thủy có 296 ghe thuyền vận tải hàng hóa có năng lực

tổng cộng là 12644 tấn; 26 ghe tàu vận tải hành khách có 492 ghế.

Huyện có 11 bến đò chính, bao gồm 3 bến lớn là Bình Xuân, Phước Trung –

Phú Đông, Đèn Đỏ - Pháo Đài và 8 bến nhỏ là Vàm Láng, Gia Thuận, Tân Phước, Tân Trung, Lý Quàn, Bà Tư, Phú Hữu, Cồn Cống. Tổng diện tích là 1760 m2, số

phương tiện là 26 chiếc, tổng lưu lượng khách có khả năng phục vụ vào khoảng

3800 – 3900 lượt người.

2.2.2.4. Môi trường sinh thái biển

Môi trường sinh thái biển chịu tác động của các hoạt động sản xuất của con

người. Hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy hải sản ven biển, hoạt động du lịch,

sự phát công nghiệp ven biển trong tương lai,… là những “con sâu” sẽ làm sầu “nồi

canh” biển cả nếu không có sự quan tâm bảo vệ ngay bây giờ.

_ Đối với các khu vực bãi triều ven biển, các vấn đề đáng lưu ý là việc khai

thác nguồn giống nghêu, tôm nuôi trong lâm phần, nước thải trong các vuông tôm

công nghiệp, dịch bệnh tôm biển, ô nhiễm mùi từ các bến cá…

_ Tác động của quá trình phát triển công nghiệp ven biển

Diện tích nuôi nghêu chỉ còn khoảng từ 600 – 900ha, giảm hơn một nửa so

với thời hoàng kim của nghề này. Nghề nuôi nghêu bây giờ không còn dễ ăn như

xưa, nhiều chủ sân nghêu đã mất bạc tỉ vì nghêu chết hàng loạt”. Theo ban Quản lý

cồn bãi huyện Gò Công Đông cho hay con số thiệt hại 20% chỉ là ước tính trên số

vỏ nghêu chết còn nằm lại trên bãi, số vỏ bị thuỷ triều, sóng biển cuốn đi nơi khác

thì vô phương thống kê. Theo số liệu thu được nếu tính năng suất 20 tấn nghêu

thịt/ha/vụ (12 tháng) và mức thiệt hại 20% sản lượng thì chỉ trong ba tháng trước và

sau tết Mậu Tý vừa qua, dân nuôi nghêu Tân Thành (khoảng 900ha) đã tổn thất

không dưới 900 tấn nghêu thịt. Với giá bán 10.000 đồng/kg tại sân thì dân Tân

Thành bị cướp trắng ít nhất 9 tỉ đồng.

Hiện nay đã có các dự án của nhà máy đóng tàu biển Vinashin, công nghiệp

hoá dầu, kho bãi, cảng biển… được tỉnh chấp thuận cho đầu tư dọc theo sông Soài

Rạp và vùng ven biển Gò Công. Trước viễn cảnh phát triển công nghiệp ồ ạt (dự án

phát triển khu công nghiệp rộng từ 5.000 – 6.000ha), người nuôi nghêu ở bãi bồi

Tân Thành bắt đầu nhận ra viễn cảnh ít nhất bãi nghêu 2.000ha của mình sẽ bị xoá

sổ vì… lượng chất thải của những nhà máy công nghiệp, hàng chục ngàn con người

sống bám vào sân nghêu này sẽ trắng tay”. Dân ở đây cho rằng vùng bãi bồi Tân

Thành giống như một cái túi chứa. Vào mùa gió chướng, dòng thuỷ triều từ Vũng

Tàu và cửa sông Soài Rạp luôn hướng thẳng vào bãi Tân Thành, khi đó những loại

chất thải công nghiệp của các nhà máy sẽ đổ vào, biến sân nghêu thành một bãi

chứa chất thải khổng lồ, nghề nuôi nghêu sẽ biến mất.

Trên thực tế, ngoài sân nghêu Tân Thành phải gánh chịu hậu quả nếu các

khu công nghiệp của vùng duyên hải Gò Công phát tán ô nhiễm xuống dòng hải

lưu, các vùng nuôi thuỷ sản cận kề cũng có nguy cơ ô nhiễm nặng. Mùa gió chướng

ngoài sân nghêu Tân Thành bị ô nhiễm thì các vùng nuôi thuỷ sản và sân nghêu ở

Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú (Bến Tre) cũng khó thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề

(bằng chứng là vụ tràn dầu khiến nghêu chết hàng loạt năm 2007, các vùng biển Gò

Công, Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú đều chung số phận). Nhưng vào mùa gió nam

thì chắc chắn sân nghêu Cần Giờ của TP.Hồ Chí Minh sẽ “lãnh đủ” nguồn nước ô

nhiễm. Và theo lời của người dân tâm sự: “Chúng tôi đang tranh thủ thời gian các

nhà máy chưa hoạt động để thả nuôi thêm vài vụ nghêu gỡ vốn, đồng thời tìm kế

sinh nhai khác bởi chuyện sân nghêu bị xoá sổ gần như đã ngay trước mắt. Mấy

chục năm theo nghề, bây giờ lên bờ không biết làm gì để sống đây?”

_ Trồng rừng phòng hộ ven biển

Duy trì công tác bảo vệ rừng, đất rừng. Trồng mới rừng năm 2007 đạt diện

tích 54,1 ha, đồng thời thực hiện công tác vệ sinh rừng, trồng dặm diện tích rừng

trồng năm trước 27 ha. Tổ chức lễ phát động ra quân trồng cây năm 2007 đạt kế

hoạch.

Cùng với hệ thống đê biển, rừng phòng hộ là một “lá chắn” hữu hiệu khi có

bão, lũ, triều cường, sóng thần; là “lá phổi” của vùng gió mặn nước phèn ven biển,

góp phần giảm nhẹ thiên tai, hạn chế những thiệt hại tính mạng con người và của

cải vật chất. Hiện nay, “lá chắn” ấy đang ngày càng mỏng dần, không dứt nỗi lo

thường nhật trong lòng người dân nơi đây.

Rừng phòng hộ dọc tuyến đê biển từ xã Phước Trung tới xã Vàm Láng ngày

càng thưa, mỏng dần, có đoạn rừng đã vĩnh viễn bị xóa sổ. Một số đoạn bờ kè ở đây

hiện đã bị lún, sụt do không chịu nổi sức công phá của sóng biển. Riêng xã Kiểng

Phước, 27/75ha rừng đước và dừa nước tiếp tục bị vàng úa rồi chết khô. Người dân

ở xã Kiểng Phước, cho biết: Hàng chục năm nay chưa bao giờ thấy hiện tượng

nhiều cây rừng chết hàng loạt như hai năm trở lại đây. Chúng tôi cố gắng trồng cây

với hy vọng gây lại vốn rừng nhưng cây không sống được. Ngay cả dừa nước là cây

vốn dễ trồng nhất cũng chẳng sống nổi. Điều đáng lo ngại là ở chính những khu vực

rừng phòng hộ bị mỏng lại là nơi có các đoạn đê xung yếu. Nhiều đoạn đê không

còn một bóng cây rừng phòng hộ nào, triều cường cao, sóng biển đập vào chân đê

càng lúc càng dữ dội.

Diện tích rừng phòng hộ ven biển hiện chỉ còn hơn 1.600ha, chủ yếu gồm

các loại cây đước, mắm, bần và dừa nước. Trong đó, có 350ha giữ vai trò đặc biệt

quan trọng trong việc bảo vệ an toàn cho 21km đê biển - có vai trò ngăn chặn xâm

nhập mặn, lấy ngọt tiêu úng, chống biển lấn do ảnh hưởng bão, lũ, triều cường, bảo

vệ, phát triển đời sống, sản xuất cho khu vực ngọt hóa, có diện tích tự nhiên hơn

60.000ha, trong đó có hơn 36.700ha đất canh tác và 500.000 người dân của các

huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công cùng một phần huyện Chợ

Gạo. Diện tích rừng phòng hộ còn lại tập trung ở các xã cù lao thuộc hai huyện Gò

Công Đông và Gò Công Tây cũng có chức năng tương tự bảo vệ, phát triển sản xuất

cho khoảng 7.800ha đất tự nhiên và hơn 23.000 người dân. Ước tính trung bình mỗi

năm rừng phòng hộ ven biển Gò Công bị thu hẹp diện tích 15ha mà chưa có biện

pháp ngăn chặn hiệu quả. Tình trạng rừng chết và bị biển xâm thực ngày càng

nghiêm trọng. Được biết, tuyến đê hiện nay được tập trung đầu tư xây dựng từ năm

1983, hằng năm tỉnh đều có kinh phí gia cố, bảo dưỡng. Chỉ tính từ năm 1991 đến

năm 1996, tỉnh Tiền Giang đã xây dựng bức tường làm giảm sóng bằng đá hộc xếp,

đặt 212 khối tứ diện (bằng bê tông) dài 810m phía ngoài đoạn đê xung yếu, tu bổ

những đoạn đê xuống cấp. Tuy nhiên, tường giảm sóng chỉ phát huy tác dụng được

một thời gian ngắn. Sau 5 năm sử dụng, chúng đã bị hạ thấp hơn 1m do lún và phù

sa bồi lấp. Rừng phòng hộ hiện đang rất mỏng, một số đoạn rừng bị sóng biển tàn

phá, lấn vào đất liền 1km

Tốc độ suy thoái rừng hiện đang diễn ra quá nhanh. Nguyên nhân chủ yếu là

do xâm thực của nước mặn, sự bào phá của sóng biển, kèm theo nạn chặt phá rừng

để sử dụng vào mục đích nuôi tôm, hoặc bị đốn trộm bừa bãi. Một nguyên nhân nữa

là do công tác quản lý rừng phòng hộ chưa được chính quyền cấp cơ sở quan tâm

đúng mức, thiếu biện pháp xử lý kiên quyết, chưa ngăn chặn kịp thời các hành vi

phá rừng phòng hộ. Nếu không kịp thời có giải pháp hiệu quả cứu rừng phòng hộ ở

khu vực này thì e rằng vài năm nữa đai rừng sẽ bị mất trắng, hậu quả cho con người

không thể lường hết.

Trước tình hình những khu rừng phòng hộ ven biển giảm dần diện tích, hàng

loạt biện pháp khắc phục: rừng suy thoái đến đâu thì làm kè đê biển đến đó; đầu tư

các công trình thủy lợi trong đai rừng chết do không tiêu thoát và bị nhiễm phèn để

trồng lại số diện tích rừng đã chết. Riêng các đoạn đê xung yếu ở những khu vực

không còn rừng phòng hộ, hoặc rừng phòng hộ mỏng, tỉnh đã tiến hành xây kè bằng

bê tông để hạn chế sóng biển dài 3km. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh

Tiền Giang triển khai việc lập dự án xây dựng tuyến đê phòng thủ (hay còn gọi đê

tuyến trong) dài 14,68km để trình cấp thẩm quyền phê duyệt, báo cáo Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét hỗ trợ vốn. Đê tuyến trong có nhiệm vụ

phòng thủ bảo vệ tài sản, hoa màu của nhân dân trong vùng ngọt hóa khi tuyến đê

biển ở ngoài gặp sự cố do bão lớn, triều cường. Tuy nhiên, giải pháp cứng hóa đê

biển bằng bê tông chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế. Điều cần thiết hiện nay là

tiến hành nghiên cứu, xây dựng công trình gây bồi (tạo bãi bồi) chống xói lở ở đoạn

xung yếu, với mục tiêu khôi phục lại đai rừng đã mất. Sau khi tạo được bãi bồi

thành công, sẽ tiến hành lựa chọn trồng loại cây cho phù hợp để phát triển diện tích

rừng phòng hộ ven biển. Đây mới chính là giải pháp mang tính chất lâu dài, bền

vững.

Rừng phòng hộ ven biển có giá trị trong việc phát triển kinh tế biển và vùng

ven biển Tiền Giang. Hệ thống đê biển gắn với rừng phòng hộ không chỉ bảo vệ

tính mạng, tài sản của người dân, mà còn bảo vệ hệ sinh thái, môi trường, đặc biệt

giúp ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội theo đường lối

đổi mới và hội nhập hiện nay.

2.2.2.5. Tình hình lao động trong ngành kinh tế biển

Trong tất cả các hoạt động kinh tế, nguồn lao động luôn đóng vai trò quyết

định đến sự tồn tại và phát triển của ngành. Và cũng như những vùng ven biển khác,

vùng ven biển huyện Gò Công Đông cũng tập trung một số lượng lớn dân số đang

sinh sống. Mặc dù huyện chưa có một số liệu thống kê đầy đủ về số dân sống ven

biển nhưng nguồn lao động cung cấp cho các hoạt động kinh tế biển trên địa bàn

huyện khá dồi dào.

Bảng 2.15: Lao động trong các ngành kinh tế biển năm 2005, 2006, 2007

(Đơn vị: người)

Năm

Nuôi trồng Lao động ngành thủy hải sản Đánh bắt Lao động ngành du lịch biển Lao động ngành lâm nghiệp 2006 3804 3693 115 502 2007 4661 4236 120 507 2005 3080 3149 110 497

Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm UBND Huyện GCĐ, năm 2005, 2006, 2007

10000

9000

8897

8000

7497

7000

6229

i

LĐ ngành thủy hải sản

6000

LĐ ngành du lịch

5000

ờ ư g n

4000

LĐ ngành lâm nghiệp

3000

2000

502

497

507

1000

0

120

110

115

năm

2005

2006

2007

Biểu đồ 2.7: Lao động trong các ngành kinh tế biển năm 2005, 2006, 2007

Xét riêng ngành thủy hải sản, lao động trong ngành tăng từ 6229 người năm

2005 lên 8897 người năm 2007. Trong đó, nguồn lao động cung cấp cho hoạt động

nuôi trồng tăng nhanh hơn số lao động phục vụ ngành đánh bắt thủy hải sản, cụ thể

là lao động ngành nuôi trồng thủy sản tăng 1581 người, lao động ngành đánh bắt

thủy hải sản tăng 1087 người. Và trong tương lai, nhu cầu lao động trong kĩnh vực

nuôi trồng tăng nhanh do nhu cầu phát triển của ngành.

Trong lĩnh vực du lịch biển, lao động tăng chậm, tăng từ 110 người năm

2005 lên 120 người năm 2007. Mặc dù lao động ngành du lịch biển tăng chậm

nhưng vẫn có thời gian nhàn rỗi do thiếu nguồn khách du lịch, họ chỉ thật sự tham

gia lao động ngành trong những dịp lễ, tết hoặc cuối tuần. Song trong tương lai, nhu

cầu lao động ngành đòi hỏi một số lượng lớn khi các công trình trọng điểm du lịch

của huyện hoàn thành.

Lao động trong ngành lâm nghiệp tăng chậm, chỉ tăng 10 người trong thời

gian từ 2005-2007. Nguyên nhân do lao động trong ngành hầu như không đem lại

thu nhập trước mắt; một số hộ gia đình được giao đất trồng rừng, giữ rừng chia tỷ lệ

với ban quản lý thì đến khi 10-15 năm mới thu lợi, một số khác thì lao động theo

thời vụ tức là trong những mùa trồng rừng. Còn lại đa số là lực lượng bảo vệ rừng.

Nhìn chung, nguồn lao động trong các ngành kinh tế biển còn rất hạn chế,

hạn chế về số lượng cả về chất lượng. Đa phần lao động chưa qua đào tạo nghề, chỉ

làm theo tính chất gia đình, truyền nghề. Một yêu cầu cấp thiết đặc ra cho các cấp

lãnh đạo hiện nay là phải mở một lớp đào tạo ngắn hạn theo ngành nghề tại địa

phương, bám sát thực tế địa bàn cho nguồn lao động nay. Đồng thời thu hút thêm

nhiều lao động cho các ngành kinh tế biển phát triển trong tương lai.

2.2.2.6. Tình hình đầu tư phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông

Tình hình đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển huyện Gò Công Đông chỉ

thật sự khởi sắc trong thời gian gần đây nhờ vào tầm quan trọng của ngành trong

tương lai.

Ngành thủy hải sản vẫn là thế mạnh của địa phương, ngành đã thu hút được

nguồn đầu tư lớn phát triển ngành. Trong thời gian hai năm từ 2005-2007, nguồn

vốn đầu tư phát triển tăng nhanh, tăng từ 39081 triệu đồng lên 65968 triệu đồng.

Trong đó, nguồn vốn đầu tư tập trung ở lĩnh vực nuôi trồng nhiều hơn đánh bắt;

năm 2005, nguồn vốn đầu tư cho nuôi trồng gấp 2,5 lần nguồn vốn đầu tư cho đánh

bắt; đến năm 2007, con số này là 3,8 lần (theo giá so sánh). Vốn đầu tư phát triển

ngành từ năm 2005 sang năm 2006 tăng rất nhanh, tăng 22429 triệu đồng và tăng

chậm lại trong năm 2007.

Riêng lĩnh vực du lịch biển, nguồn vốn đầu tư từ Tỉnh đã bắt đầu tăng nhanh

trong thời gian từ 2005 – 2007, tăng 1870 triệu đồng. Số đầu tư này không phải là

lớn nhưng là động lực lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành trong tương lai, thể hiện

sự quan tâm của các cấp lãnh đạo nhằm vực dậy một tiềm năng to lớn của địa bàn.

Vốn đầu tư dành cho ngành lâm nghiệp của huyện giảm dần, nếu năm 2005

vốn đầu tư là 428 triệu đồng thì đến năm 2007 là 399 triệu đồng. Mặc dù vốn đầu tư

giảm nhưng không nhiều vì ngành lâm nghiệp vẫn là ngành có vai trò quan trọng

đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế huyện.

Bảng 2.16: Vốn đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển

(Đơn vị: triệu đồng)

Năm Thủy hải sản Ngành du lịch Ngành lâm nghiệp 2005 39081 4950 428 2006 61510 6100 388 2007 65968 6820 399

Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm UBND Huyện GCĐ năm 2005, 2006, 2007

2.2.2.7. Những thuận lợi và khó khăn, hạn chế đối với phát triển kinh tế biển

của huyện Gò Công Đông

2.2.2.7.1 Những thuận lợi

 Về vị trí

Vị trí nằm sát biển Đông, đồng thời với các trục giao thông quan trọng

(đường tỉnh 862, 871; tuyến sông Soài Rạp và sông Tiền), về phương diện địa lý

kinh tế huyện Gò Công Đông là huyện trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh

Tiền Giang (nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, hậu cần nghề cá, du lịch sinh thái

biển), là của ngõ quan trọng hướng ra biển Đông và về TP Hồ Chí Minh.

Địa bàn Huyện Gò Công Đông là ngoại vi của TX Gò Công, với nguồn lực

chủ yếu là kinh tế biển, hiện đóng góp 11,92% vào GDP của toàn tỉnh Tiền Giang

(973,3 tỷ đồng/8166 tỷ đồng). Kinh tế biển phát triển khiến mức sống của đại bộ

phận dân cư sống bằng nghề biển tăng đáng kể.

 Về thủy sản

Tài nguyên đất đai khá đa dạng với nhiều nhóm đất, trong đó có nhóm đất

mặn nhiều, bãi triều thích hợp cho nuôi trồng thủy sản.

Tài nguyên ven biển khá phong phú với hệ thống thực vật đặc trưng cho

nhiều kiểu lập địa của rừng ngập mặn (đước, mắm, vẹt, sú). Các loài thủy sinh vật

ven biển cũng rất phong phú, trong đó có đối tượng quan trọng có khả năng khai

thác kinh tế là nghêu, tôm và các loài cá biển; sinh vật trong các kênh rạch nội đồng

cũng có khuynh hướng thay đổi thành phần loài theo hướng phù hợp môi trường

nước dưới tác động của việc đóng cống ngăn mặn.

Địa bàn huyện Gò Công Đông có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh

nghề nuôi trồng thủy sản khá đa dạng trên nhiều loại hình thủy vực và nhiều

phương thức nuôi trồng (nuôi tôm chuyên công nghiệp, quảng canh cải tiến, nuôi

tôm xen rừng, nuôi nghêu, cua,…) với tiềm năng mở rộng diện tích và đặc biệt là

tăng năng suất còn khá lớn, có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Ngành đánh bắt thủy hải sản tuy không tăng trưởng nhanh nhưng với lợi thế

về phương tiên khai thác, đội ngũ ngư dân và các cơ sở hậu cần, đặc biệt là cảng cá

tại khu vực Vàm Láng có vị trí quan trọng đối với các luồng ghe tàu theo tuyến

Biển Đông – Soài Rạp, nghề đánh bắt có nhiều điều kiện khai thác theo chiều sâu

nhằm gia tăng chất lượng đánh bắt và chất lượng thủy hải sản.

Trên địa bàn huyện, cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng

phát huy thế mạnh thủy sản: toàn nền kinh tế huyện có sự chuyển dịch theo hướng

tăng nhanh khu vực 1 trong đó thủy sản là mũi nhọn, thu hút nguồn đầu tư lớn từ

Tỉnh. Cơ cấu sản xuất ngành có sự chuyển dịch theo hướng khai thác tốt tiềm năng

và lợi thế của vùng sinh thái với thế mạnh là kinh tế biển. Kinh tế biển cung ứng

ngày càng nhiều thương phẩm cho thị trường và nguyên liệu cho chế biến, tăng

nhanh giá trị xuất khẩu của Tỉnh.

 Về du lịch

Huyện Gò Công Đông với 32km bờ biển có bãi biển Tân Thành là một điểm

du lịch có tiếng từ xưa. Trong nhiều năm qua, bãi biển vừa là địa bàn nuôi nghêu

vừa là địa bàn du lịch. Ngoài ra, tại các cồn bãi vẫn còn giữ được tính nguyên thủy

của môi trường sinh thái tự nhiên như cồn Ngang, cồn Cống, cồn Ông Mão… đây

cũng là điểm tham quan hấp dẫn. Thêm vào đó là nguồn cung cấp thực phẩm thủy

hải sản rất dồi dào và phong phú về cả số lượng và chất lượng.

 Về lao động

Dân số khá dồi dào về số lượng, hiếu học, năng động, lại gần trung tâm

thành phố lớn, sẽ là một lực lượng nòng cốt cho công cuộc phát triển kinh tế huyện

trong tương lai.

2.2.2.7.2. Những khó khăn

Khi Việt Nam hội nhập toàn diện với AFTA và WTO, Tiền Giang nói chung,

Gò Công Đông nói riêng, sẽ chịu nhiều áp lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội

địa của Tỉnh, nhất là các mặt hàng nông thủy sản chưa đủ khả năng tranh bán với

hàng nhập khẩu, cũng như chưa chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng hội nhập vào nền kinh

tế thế giới.

Do nhiệt độ Trái đất ngày càng tăng, băng ở hai cực tan ra, nước biển ngày

càng dân cao, diện tích đất canh tác sẽ mất dần do bị chìm trong nước biển, nhất là

những vùng đất ven biển. Thêm vào đó là sự gia tăng ngày càng nhiều của các cơn

bão với tần suất hoạt động ngày càng tăng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất

của con người, đặc biệt là những cư dân ven biển và cư dân vùng biển huyện Gò

Công Đông cũng không ngoại lệ.

Nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản hiện còn một số những hạn chế cần

khắc phục như: các loại hình nuôi chưa ổn định, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật

nuôi trồng chưa thật sự chắc chắn, còn nhiều vấn đề về độ bền vững của nuôi trồng

– khai thác chưa được giải quyết, tín dụng cho phát triển thủy sản còn ít, năng suất

đánh bắt đang có khuynh hướng giảm sút. Thêm vào đó là các cơ sỏ hạ tầng phục

vụ cho nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với các cơ sở hậu cần nghề cá tương ứng

trên địa bàn có quy mô nhỏ, phân tán, chưa có bến trú bão vũng chắc. Tăng trưởng

kinh tế chủ yếu là dựa vào các nhân tố phát triển theo rộng, chủ yếu là khai thác tài

nguyên, phụ thuộc nhiều vào quy mô mở rộng diện tích, công suất tàu thuyền, năng

suất tăng chậm nên hiệu quả của các sản phẩm còn thấp, có nguy cơ dẫn đến phát

triển không bền vững. Và tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư để khai thác các

sản phẩm tươi sống, nhất là tôm cá, nếu với hàm lượng công nghệ thấp, giá trị thấp,

dẫn đến kém ổn định về thị trường và rất dễ vướng những rào cản kỹ thuật trong

tương lai khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

Mặc dù sản lượng thu được cao, năng suất trung bình là 20 – 25 tấn/ha

nhưng trong thời gian gần đây, người nuôi nghêu vẫn bị thất thu, nguyên nhân là do

giá nghêu thịt sụt giảm do các thương lái ép giá. Vì từ trước đến nay, người nuôi

nghêu tại địa phương chưa được trang bị thông tin về giá cả sản phẩm cũng như

không trực tiếp mua bán với khách hàng tiêu thụ, chỉ bán qua thương lái với giá cả

do thương lái quy định cho nên đầu ra cho con nghêu vùng biển chưa được ổn định.

Thêm vào đó là vấn nạn “nghêu tặc” hoành hành làm cho ngư dân càng trở nên khó

khăn hơn.

Ô nhiễm môi trường biển (sự cố tràn dầu, thức ăn tôm, rác thải,…) cũng là

một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng và chất lượng thủy

hải sản của địa phương, kể cả môi trường du lịch cũng bị vạ lây.

Ngành du lịch tuy phát triển khá, hiệu quả kinh tế cao, nhưng do đầu tư ít

nên hoạt động du lịch còn quá nhỏ lẻ, hầu hết là các hộ kinh doanh tham gia cho

thuê nhà trọ, cung cấp dịch vụ ăn uống, chất lượng phục vụ chưa cao. Cơ sở hạ tầng

và cơ sở vật chất ngành du lịch biển còn thiếu đồng bộ nên khó thu hút khách và

nhà đầu tư.

Chức năng chủ yếu của ngành lâm nghiệp huyện là lấn biển, phòng hộ môi

trường, tạo vùng đệm sinh thái giữa biển và đất liền, đồng thời cũng là nơi cư trú

cửa nhiều loài thủy sản non. Tuy nhiên, hiện trạng phát triển rừng hiện còn một số

hạn chế cần khắc phục, trong đó đáng lưu ý là diện tích nuôi thủy sản trong lâm

phần có khuynh hướng tăng làm giảm dần diện tích rừng phòng hộ trên địa bàn.

Tuyến đê biển Đông nối liền 3 trung tâm quan trọng về phát triển kinh tế

biển là Vàm Láng, Tân Thành, Đèn Đỏ mới chỉ được nhựa hóa một phần (ĐT 862

từ Tân Thành đến Đèn Đỏ), phần còn lại vẫn là đê biển, khả năng thông xe kém ảnh

hưởng đến việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa trên thị trường.

Nhưng trên hết, nguồn nhân lực tuy dồi dào về số lượng nhưng trình độ

chuyên môn kỹ thuật có văn bằng chứng chỉ còn thấp, nếu kể cả lao động được

truyền nghề thì cũng chỉ chiếm 13,9% (so với bình quân của Tỉnh là 23%). Lao

động chưa được đào tạo theo kịp nhu cầu phát triển của ngành, chưa kể lực lượng

được đào tạo thì bị thu hút đi nơi khác hoặc bỏ nghề do nguồn thu nhập thấp, không

đủ trang trải cho cuôc sống gia đình.

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG ĐẾN 2020

3.1 Định hướng phát triển kinh tế biển của Tỉnh Tiền Giang và Huyện Gò

Công Đông

3.1.1 Định hướng phát triển kinh tế biển của Tỉnh Tiền Giang

Tiền Giang là tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng

lớn về phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, Tiền Giang cũng là tỉnh có sẵn lợi thế về

phát triển kinh tế biển do có khoảng 32 km bờ biển và khoảng 120 km sông Tiền đổ

ra biển. Chính vì thế Tiền Giang đang nỗ lực triển khai Chương trình hành động về

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 4 (khóa X).

Về quan điểm, phương pháp xây dựng, Tiền Giang đã xác định nhất thiết

phải bám sát những nội dung chỉ đạo cơ bản của Nghị quyêt TW 4 nhưng một yêu

cầu có tính nguyên tắc cũng được Tiền Giang đồng thời quán triệt khi xây dựng

chương trình hành động là phải sâu sát với các điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn địa

phương. Theo đó, Chương trình hành động về Chiến lược biển Việt Nam trên địa

bàn tỉnh Tiền Giang từ nay đến năm 2020 đã được xây dựng với các nội dung cơ

bản: Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển chiến lược biển; Nhiệm vụ và các

giải pháp; và Tổ chức thực hiện. Theo đó, Chương trình hành động đã xác định rõ

hệ thống các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội

vùng biển trên địa bàn tỉnh. Chương trình cũng đề ra các nhiệm vụ, hệ thống các

giải pháp là: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc; Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh bằng những chương

trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; Đầu tư và khuyến khích

đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Phát triển nguồn nhân lực biển đáp

ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và ven biển; Điều tra cơ bản và

phát triển khoa học – công nghệ biển; Bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên

biển; Thực hiện gắn kết kinh tế biển của tỉnh với các tỉnh trong vùng và ven biển

Tây Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh; Xây dựng một số công trình, dự án trọng

điểm; Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến biển.

Chương trình trình hành động về chiến lược biển Việt Nam trên địa bàn tỉnh

Tiền Giang đã được xây dựng theo yêu cầu là phải gắn việc thực hiện mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội vùng biển với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo

phát triển bền vững và cảnh quan cho phát triển du lịch biển; đồng thời kết hợp với

củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh vững mạnh. Phấn đấu nâng tỷ lệ đóng góp của

kinh tế biển từ 14,9% (năm 2006) lên 20% (năm 2010), 25% (năm 2015) và đến

năm 2020 đạt tới 33 – 35% tổng GDP toàn tỉnh.

Thực hiện phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng giải quyết ngày càng tốt

hơn các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống nhân dân vùng kinh tế biển. Trong tương

lai gần, phấn đấu thu nhập bình quân của cư dân vùng kinh tế biển phải cao hơn so

với mức thu nhập bình quân chung của tỉnh. Muốn vậy, Tiền Giang sẽ có quy hoạch

cụ thể để xây dựng các khu, cụm công nghiệp gắn với xây dựng cảng biển; đồng

thời cũng sẽ phát triển mạnh việc nuôi trồng, khai thác, chế biến hải phẩm từ biển

và phát triển các ngành dịch vụ - du lịch để đẩy mạnh kinh tế vùng biển phiá đông

của tỉnh.

Hướng tới mục tiêu phấn đấu đã đề ra đó, Chương trình hành động về Chiến

lược biển Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn Tiền Giang đã được Lãnh đạo Tỉnh

xác định và đề ra các nhiệm vụ; huy động sự tham gia tích cực và sáng tạo của trí

tuệ, sức lực toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh cùng nỗ lực phấn đấu hoàn

thành thắng lợi các nhiệm vụ đó. Theo đó, Tiền Giang sẽ tập trung thực hiện các

nhiệm vụ về xây dựng các công trình, dự án trọng điểm sau:

- Khu công nghiệp đóng tàu Soài Rạp – Gia Thuận; Khu công nghiệp Bình

Đông; Cụm công nghiệp Vàm Láng, Tân Tây và Long Hưng.

- Phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối thuỷ sản phục vụ

cho kinh tế biển và các khu, cụm công nghiệp, cùng các khu du lịch vui chơi,

giải trí, nghỉ dưỡng Tân Thành, Hàng Dương.

- Đầu tư xây dựng các tuyến đường kết nối vào Khu công nghiệp đóng tàu

Soài Rạp gắn liền với việc nâng cấp, phát triển đồng bộ hệ thống cầu đường

như quốc lộ 50, cầu Mỹ Lợi, cầu Chợ Gạo, đường tỉnh 862, 871, 877...

đường huyện 03, các trục đường sông cửa Tiểu, sông Vàm Cỏ, đường đê ven

biển…

- Đầu tư xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch từ thành phố Mỹ Tho về các

huyện phía Đông đảm bảo phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của

nhân dân trong vùng.

- Phát triển, mở rộng thị xã Gò Công, gắn với kiến thiết, chỉnh trang thị trấn

Tân Hoà và phát triển các đô thị mới như Vàm Láng, Tân Thành; đặc biệt

chú trọng hình thành khu dân cư, khu đô thị mới phía Bắc thị xã Gò Công,

tiếp giáp quốc lộ 50 nhằm tiếp cận TP. Hồ Chí Minh, gắn với sự hình thành

và phát triển của lực lượng lao động phục vụ cho phát triển công nghiệp

trong vùng.

Song hành với việc tập trung đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng

điểm trên đây, tỉnh Tiền Giang luôn khuyến khích hình thành các hợp tác xã, doanh

nghiệp, tập đoàn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực kinh tế biển; và chú trọng công

tác nghiên cứu đầu tư thiết lập các dự án, công trình nâng cao chất lượng môi

trường ven biển, cải thiện môi trường ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

mang tính bền vững.

Trên đây mới chỉ là phác thảo những định hướng, nội dung cơ bản mục tiêu,

nhiệm vụ đặt ra của bước đầu xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành

động về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang theo

tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết TW 4 (khoá X). Trên cơ sở đó, Lãnh đạo tỉnh Tiền

Giang đã và đang chỉ đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban ngành, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể khẩn trương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ

thể, phù hợp đối với từng địa phương, cơ sở. Trưởng ban Tuyên giáo Trần Hoàng

Diệu đã cho biết như vậy và đồng chí khẳng định thêm: “Tiền Giang luôn xác định

đây là vấn đề “đại sự”, do đó cần phải có sự đồng thuận, quyết tâm phấn đấu của

toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Ngoài ra, Tiền Giang rất mong được sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Trung ương; sự phối kết hợp đồng bộ

của các bộ, ban, ngành, các cơ quan liên quan trên phạm vi toàn quốc. Về phía Tiền

Giang cũng sẽ tiếp tục đổi mới, thông thoáng hơn nữa cơ chế, chính sách thu hút

các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào tỉnh để phát triển mạnh kinh tế biển, góp

phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với các

tiềm năng, thế mạnh sẵn có của địa phương, tạo tiền đề vật chất cần thiết để Tiền

Giang cùng với cả nước hội nhập có hiệu quả vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Đây

cũng chính là con đường phấn đấu mà toàn Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang đã

thống nhất lựa chọn để không chỉ nhanh chóng xoá hết các hộ ở diện nghèo vẫn

đang chiếm tỷ lệ trên 17% như hiện nay mà còn vươn lên trở thành tỉnh giầu, mạnh

trong phạm vi cả nước”.

3.1.2 Định hướng phát triển kinh tế biển của Huyện Gò Công Đông

Trên cơ sở triển khai quán triệt Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 09/2/2007 tại

Hội nghị lần thư tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển

Việt Nam đến năm 2020 và cụ thể hóa việc thực hiện Chương trình hành động số

08-CTr/TU ngày 17/5/2007 của Tỉnh ủy (khóa VIII) thực hiện Nghị quyết của

Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa IX) đề ra chương trình hành

động như sau:

a. Nội dung chương trình:

a.1. Tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận

thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát

triển kinh tế- xã hội của địa phương

Các cấp ủy Đảng và chính quyền, nhất là các xã vùng ven biển, quan tâm

thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng nhằm nâng cao

nhận thức và tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của tất cả đảng viên,

cán bộ, công chức, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò chiến lược

biển. Qua đó, thấy rõ được thuận lợi, khó khăn, tiềm năng, lợi thế của một huyện có

biển, phấn khởi, tin tưởng, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc

tham gia khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường biển; ven biển; tham gia phát

triển mạnh nuôi trồng, khai thác chế biến sản phẩm từ biển và phát triển các ngành

công nghiệp, dịch vụ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh kinh tế - xã hội vùng biển phía

Đông của tỉnh, tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nhanh

và bền vững nền kinh tế huyện nhà.

a.2. Bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện

và xây dựng quy hoạch ngành và cơ sở, xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm

vụ phát triển kinh tế biển; ven biển.

- Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo

quốc phòng an ninh của huyện theo địa giới hành chính mới khi mở rộng thị xã Gò

Công và thành lập huyện mới ở các xã cù lao.

+ Căn cứ quy hoạch tổng thể của huyện, các ngành, các xã ven biển tiến

hành xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển; thực hiện tốt các chính

sách thu hút mọi nguồn lực, liên kết với các địa phương trong vùng cùng hợp tác

đầu tư khai thác và phát triển kinh tế biển.

+ Quy hoạch, đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho các vùng nuôi thủy

sản tập trung, định hướng và hỗ trợ các loại hình khai thác biển; vận động thành lập

đội tàu lớn đánh bắt tuyến khơi, trang bị phương tiện từng bước hiện đại. Quy

hoạch vùng sinh giống loài thủy sản, vùng hạn chế khai thác hàng năm đối với loài

nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo

quốc phòng an ninh vững mạnh.

- Phấn đấu nâng tỷ lệ đóng góp của kinh tế biển trong cơ cấu GDP của

huyện từ 30% (2006) lên 35% (năm 2010); 40% (năm 2015) và đến năm 2020 đạt

45%. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân

vùng kinh tế biển; tăng thu nhập bình quân của người dân vùng kinh tế biển cao

hơn so với thu nhập bình quân chung của huyện.

- Tiếp tục đầu tư và khuyến khích đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở

các xã vùng biển:

+ Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống, giao thông, thủy lợi, cung cấp điện,

nước ngọt đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ sinh hoạt của

dân cư các xã ven biển. Nâng cấp phát triển thị trấn Tân Hòa, Tân Thành, Vàm

Láng, Tân Tây, Gia Thuận, Tân Phước để hình thành hệ thống đô thị ven biển, gắn

kết với việc hình thành và phát triển công nghiệp ven sông Soài Rạp, Cụm công

nghiệp Vàm Láng, Tân Tây và khu du lịch sinh thái biển Tân Thành.

+ Đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước cho các khu nuôi thủy sản Bắc

Nam Gò Công, trại giống Cồn Cống. Hoàn chỉnh hệ thống kinh mương cấp thoát

nước khu vực 230 ha xã Phú Đông để đưa vào sản xuất theo dự án được duyệt.

+ Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện dự án “khu bảo tồn thiên nhiên đa dạng

thủy sinh vật ven biển, cửa sông ở Cồn Ngang” và dự án “phục hồi tái tạo và phát

triển nguồn lợi thủy sản”.

+ Hoàn chỉnh giai đoạn 2 bờ kè Đèn Đỏ (Tân Thành) để triển khai xây dựng

chợ thủy sản Đèn Đỏ; tiếp tục triển khai dự án xây dựng chợ cá Vàm Láng, tổ chức

tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Xúc tiến xây dựng khu tránh bão cho tàu thuyền trên

kênh Cần Lộc xã Vàm Láng.

+ Đề nghị Trung ương, tỉnh đầu tư nhựa hóa đê biển, hình thành đường giao

thông ven biển; gia cố nâng cấp đê xung yếu, làm đê phụ, phát triển đai rừng phòng

hộ để đủ sức phòng chống bão, triều cường, đồng thời tạo cơ sở phát triển giống

loài thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái biển.

+ Tranh thủ và phối hợp tốt với các ngành chức năng triển khai đầu tư phát

triển hạ tầng kỹ thuật về bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin hiện đại,

đồng bộ, đảm bảo thông tin liên lạc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc

phòng an ninh, phòng chống thiên tai về công tác tìm kiếm cứu nạn trên biển.

- Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội

vùng biển và ven biển:

+ Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp trong các trường trung học trên địa bàn

huyện, tạo cơ hội cho thanh niên, học sinh học nghề và tham gia vào các nghề như

đánh bắt, nuôi trồng chế biến thủy sản, du lịch, đóng tàu.... Liên kết với các nhà đầu

tư đào tạo nghề và sử dụng lao động của địa phương.

+ Tranh thủ tuyển chọn nhiều học sinh và lao động tham gia học nghề ở

Trung tâm Dạy nghề khu vực Gò Công; đề nghị Tỉnh cho thành lập Trường Trung

học chuyên nghiệp trên địa bàn huyện (ở xã Tân Tây). Đồng thời có chính sách thu

hút đội ngũ lao động đã được đào tạo chuyên sâu đang làm việc ở các nơi khác về

phục vụ, xây dựng quê hương vùng biển.

+ Tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo nghề phổ thông cho thanh niên

nông thôn, cần tập trung vào các nghề có yêu cầu sử dụng tại địa phương. Tăng

cường công tác khuyến ngư, chú trọng đầu tư và quản lý tốt các cơ sở sản xuất,

trung tâm giống thủy sản; xây dựng các mô hình quản lý nghề đáy sông cầu, quản

lý cộng đồng ở vùng nuôi thủy sản tập trung; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt

động của hợp tác xã thủy sản Phú Tân và tiếp tục nghiên cứu hình thành các tổ chức

kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên lĩnh vực đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản.

- Bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh, trật tự trên biển:

+ Xây dựng và thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa Huyện ủy với Đảng ủy

Bộ đội Biên phòng tỉnh; giữa các lực lượng Công an, Quân sự huyện và Bộ đội

Biên phòng; giữa các xã ven biển với các đồn Biên phòng; xây dựng dân quân tự vệ

biển vững mạnh. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các ngành, các cơ

sở trong công tác quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, xây

dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gắn với phát triển kinh tế

biển.

+ Tăng cường công tác quản lý địa bàn ven biển, vùng sản xuất khai thác

thủy sản, các cồn bãi trong khu vực... đảm bảo cho ngư dân, người sản xuất, các nhà

đầu tư an tâm sản xuất và khai thác có hiệu quả tài nguyên biển.

+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân, đặc biệt là những

người lao động trên biển nắm được cơ bản luật pháp về biển; luật thủy sản và các

thông lệ quốc tế, vùng lĩnh hải và ranh giới biển của quốc gia... nhằm khai thác có

hiệu quả nguồn tài nguyên biển, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền quốc

gia, góp phần giữ vững quốc phòng an ninh trên biển.

+ Tăng cường liên kết liên doanh với các đơn vị giáp ranh trong tỉnh và các

huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), Cần Đước (Long An), Bình Đại (Bến

Tre) để hợp tác, đầu tư phát triển kinh tế xã hội, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ an

ninh, trật tự vùng biển và ven biển.

- Tranh thủ và chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi để sớm triển khai một số

công trình, dự án trọng điểm của Trung ương, của tỉnh trên địa bàn huyện:

+Tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và kêu gọi nhà

đầu tư vào Cụm công nghiệp Vàm Láng, khu du lịch sinh thái biển Tân Thành, chợ

đầu mối thủy sản và dự án cấp nước sạch các huyện phía Đông.

+ Thực hiện tốt việc giải ngân đền bù, giải tỏa, bàn giao mặt bằng cho dự án

đầu tư khu công nghiệp đóng tàu Soài Rạp. Phối hợp và đáp ứng tốt các yêu cầu về

mặt bằng trên địa bàn cho việc triển khai các dự án ven sông Soài Rạp, nâng cấp

Quốc lộ 50, cầu Mỹ Lợi, đường huyện 03; hệ thống cung cấp nước ngọt về Vàm

Láng, Tân Thành.

+ Phục vụ tốt cho việc khảo sát, quy hoạch phát triển và bảo vệ rừng phòng

hộ ven biển, nhựa hóa đê biển và triển khai dự án xây dựng đê phụ.

+ Xúc tiến nhanh dự án nghiên cứu đặc điểm phân bổ nguồn lợi nghêu, sò

huyết giống vùng ven biển và đề xuất quy hoạch vùng cấm khai thác có thời hạn.

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến biển:

+ Uỷ ban Nhân dân huyện tăng cường quản lý về khai thác, bảo vệ và phát

triển bền vững nguồn tài nguyên biển; khai thác có hiệu quả, tiềm năng ven biển

của địa phương. Trước mắt, tăng cường cán bộ quản lý, chuyên môn giỏi cho phòng

thủy sản, củng cố hoạt động Ban Quản lý cồn bãi, xây dựng các kế hoạch bảo vệ

nguồn lợi thủy sản, bảo vệ an ninh, trật tự, môi trường vùng nuôi thủy sản; triển

khai thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước về đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải

sản và bảo vệ tài nguyên biển. Tranh thủ cấp trên xác định ranh giới; các cồn, bãi

với tỉnh bạn (Bến Tre) để quản lý khai thác; có chính sách hỗ trợ khuyến khích ngư

dân đang khai thác thủy sản ven bờ chuyển ngành nghề phù hợp để bảo vệ nguồn

lợi thủy sản.

+ Triển khai thực hiện tốt các chính sách và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút

mạnh mẽ người dân làm ăn sinh sống gắn bó với biển, tích cực góp phần phát triển

kinh tế biển cùng nhau hợp tác quản lý cộng đồng vùng nuôi thủy sản; phát triển mô

hình quản lý cộng đồng nghề đáy sông cầu và bảo vệ chủ quyền biển của quốc gia.

Quan tâm vấn đề an toàn lao động, cứu nạn, cứu hộ người làm nghề biển và thực

hiện các phương án phòng, chống thiên tai. Quy hoạch xây dựng khu né bão gắn với

khu dân cư nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản cho người dân sinh sống vùng ven

biển.

+ Kịp thời phát hiện và phối hợp tốt với các ngành chức năng xử lý các sự cố

về môi trường ven biển, về chất lượng nước từ các sông đổ ra biển, các hoạt động

sản xuất kinh doanh trên đất liềnn có phát sinh chất thải chưa qua xử lý hoặc xử lý

chưa đạt tiêu chuẩn, khuyến khích và hướng dẫn nông dân hạn chế việc sử dụng

thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học trong sản xuất nông nghiệp, góp phần làm

giảm ô nhiễm nguồn nước.

3.2 Các định hướng phát triển kinh tế biển cụ thể

3.2.1 Định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế biển

3.2.1.1 Định hướng chung về tổ chức lãnh thổ

Với định hướng phát triển kinh tế xã hội tổng hợp, định hướng tổ chức lãnh

thổ kinh tế biển đến năm 2020 như sau:

- Vùng I (vùng kinh tế biển quan trọng)

Sau khi điều chỉnh ranh giới với Thị xã Gò Công và thành lập huyện mới với

6 xã cù lao, diện tích tự nhiên của huyện Gò Công Đông sau năm 2010 là 26768 ha

(giảm 17985 ha), mục đích sử dụng đất có nhiều thay đổi. Đất có mặt nước nuôi

trồng thủy sản giảm mạnh do quá trình hình thành các khu công nghiệp, còn khoảng

3040 ha năm 2010 và 3500 ha năm 2020, chủ yếu là nuôi tôm nước mặn lợ và nuôi

nghêu tại khu vực ven biển. Cùng chung tình hình trên, đất lâm nghiệp giảm còn

870 ha năm 2010 và 670 ha năm 2020 do mất đất cho các khu công nghiệp ven

biển, chủ yếu chỉ phát triển thêm một ít trên phần bãi triều được bồi. Nhất là diện

tích đất làm muối từ sau năm 2005, ngành làm muối đã mất hẳn.

Vùng I , thu hẹp diện tích trồng lúa theo tiến độ mở rộng đất chuyên dùng tại

khu vực ven biển (Kiểng Phước, Tân Phước, Gia Thuận, Vàm Láng), phát triển

kinh tế biển: công nghiệp (Vàm Láng – Gia Thuận), di lịch sinh thái (Tân Thành),

ổn định vùng nuôi trồng thủy sản từ kênh 3 về phía Đông và trên các bãi triều trên

cơ sở có cân nhắc đến tác động môi trường phát sinh từ các khu cụm công nghiệp.

Đồng thời, duy trì nuôi trồng thủy sản ngoài đê trong vùng II, vùng kinh tế nội địa.

+ Vùng Ia (phía Bắc kênh Trần Văn Dõng)

Phát triển chủ lực là công nghiệp với các khu cụm công nghiệp quan trọng

phục vụ phát triển kinh tế biển như: khu công nghiệp tập trung Vàm Láng – Gia

Thuận, khu công nghiệp tập trung Gia Thuận, khu công nghiệp tập trung Tân

Phước, cụm công nghiệp Vàm Láng. Các hoạt động thương mại, dịch vụ tương đối

phát triển tại các đô thị và cụm dân cư công nghiệp. Đồng thời ổn định ngành nuôi

trồng và đánh bắt thủy hải sản trên cơ sở kiểm soát nghiêm ngặt môi trường công

nghiệp ven biển, môi trường nuôi trồng, phát triển các cơ sở hậu cần nghề cá.

Trung tâm chính của tiểu vùng là Vàm Láng, được xem như đô thị lớn nhất

huyện, chức năng đa dạng (phục vụ công nghiệp ven biển, hậu cần nghề cá trung

tâm trung chuyển và giao lưu kinh tế tiểu vùng) và các cụm dân cư vệ tinh cho các

khu cụm công nghiệp (Kiểng Phước, Tân Phước, Gia Thuận).

Có thể xem vùng Ia là khu vực phát triển kinh tế nhiều tiềm năng và năng

động nhất huyện, đồng thời cũng có khả năng phát sinh nhiều vấn đề về môi trường

nhất.

+ Vùng Ib (phía Nam kênh Trần Văn Dõng)

Phát triển chủ lực là du lịch sinh thái biển kết hợp với làng cá. Du lịch biển

phát triển chủ yếu tại Tân Thành với cảnh quan bãi nghêu, rừng ngập mặn, giồng

cát. Làng cá Đèn Đỏ sẽ mở rộng quy mô, được xem như là cơ sở hậu cần nghề cá và

là một điểm giao lưu với đầu cầu Phú Đông.

Trung tâm của vùng là Tân Thành – Đèn Đỏ, về lâu dài có thể kết hợp thành

một tuyến kinh tế - đô thị. Ngoài ra, vùng có cụm dân cư quan trọng là Vàm Kênh.

Có thể xem vùng Ib là khu vực phát triển chủ yếu về thương mại – dịch vụ

và nông nghiệp. Tuy nhiên, cần lưu ý các tác động đến môi trường ven biển phát

sinh từ vùng Ia.

- Vùng II (kinh tế nội địa)

+ Vùng IIa (phía Bắc kênh Trần Văn Dõng), sau khi Thị xã Gò Công mở

rộng và tuyến quốc lộ 50 đã thực sự thông tuyến (thông qua cầu Mỹ Lợi) và vùng Ia

đã phát triển mạnh về công nghiệp, địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển các loại

hình công nghiệp – trung tâm công nghiệp vệ tinh (cụm công nghiệp Tân Tây), đặc

biệt là thương mại- dịch vụ với trung tâm trung chuyển là Tân Tây.

+ Vùng IIb (phía Nam kênh Trần Văn Dõng), phát triển chủ yếu là thủy sản

(nuôi trồng, bến neo đậu tàu đánh bắt) phát triển chủ yếu ngoài khu vực đê bao ngọt

hóa. Phát triển chủ yếu tại trung tâm thị trấn Tân Hòa, vừa là trung tâm hành chính

của huyện, vừa là trung tâm thương mại của vùng và chịu nhiều tác động của Thị xã

Gò Công với cụm dân cư vệ tinh là Bình Nghị.

Tóm lại, từ nay đến năm 2020, nền kinh tế huyện Gò Công Đông sẽ phát

triển với tốc độ nhanh hơn, bền vững, có hiệu quả, góp phần với tỉnh Tiền Giang

nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần trong

sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

3.2.1.2 Một số tổ chức lãnh thổ kinh tế biển trên địa bàn huyện

3.2.1.2.1 Thị trấn Vàm Láng

Thị trấn Vàm Láng được tách ra từ trung tâm xã Vàm Láng và lên đô thị loại

5 trước năm 2010, diện tích 550 ha. Dự kiến đến năm 2020 có dân số 13200 người, mật độ 2400 người/km2.

Về các hoạt động kinh tế, ngoài chức năng truyền thống (cảng cá kết hợp với

các cơ sở hậu cần nghề cá) sẽ được phát triển lên tầm cao hơn (trung tâm giao dịch

thủy sản đầu mối, cụm công nghiệp thủy sản, khu vực tránh bão cho tàu cá), Vàm

Láng được phát triển như là trung tâm của khu vực công nghiệp phục vụ kinh tế

biển (Gia Thuận, Tân Phước).

Về bố trí không gian, có các khu sau:

- Khu phía Nam ĐT.871, sẽ phát triển thành chợ đầu mối thủy sản, kết hợp

với việc mở rộng cảng cá Cần Lộc, kiêm dụng thêm chức năng khu tránh bão cho

tàu đánh cá, phát triển cụm công nghiệp bao gồm các ngành nghề phục vụ hậu cần

nghề cá (chế biến thủy sản, nước mắm, khô, bột cá, dệt lưới và thừng, nước đá…).

- Khu vực phía Đông Bắc là khu dân cư mật độ trung bình kết hợp với các cơ

sở đóng sửa tàu đánh cá (liền vùng với khu công nghiệp Gia Thuận).

3.2.1.2.2 Thị trấn Tân Thành – Đèn Đỏ

Thị trấn Tân Thành – Đèn Đỏ hình thành từ việc nối tuyến hai thị tứ Tân

Thành và Đèn Đỏ, lên đô thị loại 5 trước năm 2015, diện tích 280 ha, đến năm 2020 có dân số khoảng 4300 người, mật độ 1547 người/km2.

Về tính chất, thị trấn Tân Thành – Đèn Đỏ là trung tâm tiểu vùng Ib, chức

năng chính là đô thị du lịch, chức năng phụ là thương mại-dịch vụ đầu mối nghề cá,

xem như là điểm đầu cầu của Phú Đông.

Về các hoạt động kinh tế, chủ yếu là các hoạt động dịch vụ du lịch biển tại

Tân Thành, cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ trung chuyển thủy sản tại Đèn Đỏ.

Về bố trí không gian, chia ra hai khu:

- Khu trung tâm Tân Thành hiện nay sẽ được quy hoạch thành cụm tổ hợp

các khu chức năng phục vụ dịch vụ du lịch và mở rộng ra thành hai tuyến theo

hướng Bắc (rừng ngập mặn) và Nam (bãi cát).

- Khu trung tâm Đèn Đỏ hiện nay quá chật hẹp, sẽ mở rộng hướng về rạch

Gốc và lên phía Bắc để ráp nối với Tân Thành, trên đó bố trí các khu chức năng về

cơ sở hậu cần nghề cá.

- Ngoài ra còn có một cụm dân cư vệ tinh là Vàm Kênh.

3.2.1.2.3 Thị trấn Tân Tây

Thị trấn Tân Tây được tách ra từ trung tâm xã Tân Tây và khu vực tập trung

dân cư của xã Tân Đông, lên đô thị loại 5 trước năm 2015, diện tích 350 ha, đến năm 2020 có dân số trên 11500 người, một độ 3311 người/km2.

Về tính chất, thị trấn Tân Tây là đô thị trung tâm tiểu vùng Iia, xem như là

trung tâm trung chuyển từ khu vực kinh tế biển hướng ra QL.50 về vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam, hoạt động chủ lực là thương mại, dịch vụ.

Về các hoạt động kinh tế, chủ yếu là các hoạt động thương mại, dịch vụ đầu

mối cho các xã thuộc tiểu vùng IIa và là điểm trung chuyển giữa TX Gò Công (mở

rộng) với vùng Ia.

3.2.2. Định hướng cơ cấu ngành kinh tế biển

3.2.2.1 Ngành thủy, hải sản

Phương hướng chung phát triển ngành thủy hải sản đến năm 2020 như sau:

- Đối với nuôi trồng thủy sản, trên các thủy vực mặn lợ, trên cơ sở mục tiêu

phát triển bền vững, ổn định và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm nuôi

trồng, sẽ ổn định các loại hình nuôi tôm nước mặn lợ trên các địa bàn thích nghi sau

khi tách phần diện tích đất ven biển để xây dựng các khu công nghiệp, xác định

vùng nuôi trồng cụ thể cho các phương thức nuôi tôm, trong đó chú trọng kiểm soát

môi trường nuôi nhằm tiến đến sản xuất bền vững vùng nuôi tôm bán công nghiệp-

công nghiệp. Đồng thời ổn định một số diện tích nuôi quảng canh cải tiến, từng

bước tiếp cận và tiến tới hình thức nuôi sinh thái. Bên cạnh đó, khai thác ổn định và

bền vững vùng nuôi nghêu, sò; phát triển đa dạng các loại hình nuôi thủy sản mặn,

lợ khác (cua, cá kèo, cá luân canh trong vuông tôm,…).

- Đối với ngành đánh bắt, cải thiện phương tiện và phương thức đánh bắt, đa

dạng hóa thủy vực và loại hình đánh bắt, trong đó chú trọng phát triển các loại hình

đánh bắt chuyên loại và đánh bắt theo tổ hợp có phân công trong phạm vi xa bờ

nhằm gia tăng năng suất lẫn chất lượng sản phẩm đánh bắt.

Đồng thời giảm dần quy mô đánh bắt nội địa nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản

sông rạch.

Mặc dù mất nhiều đất nuôi trồng cho khu công nghiệp và tách hai xã cù lao,

ngành thủy sản dự kiến vẫn tăng trưởng bình quân 2,8%/năm, đến năm 2020 chiếm

tỷ trọng 41% trong cơ cấu giá trị tăng thêm khu vực 1.

3.2.2.1.1 Nuôi trồng

Diện tích nuôi chuyên giảm 3,5%/năm, ổn định trong khoảng 3500 ha năm 2020.

Về cơ cấu theo loại thủy vực, đến năm 2010 có 2590 ha nuôi vùng mặn lợ

(trong đó 686 ha tôm), đến năm 2020 dự kiến có 3085 ha nuôi vùng mặn lợ (trong

đó có 1177 ha tôm).

Về cơ cấu theo loài, đến năm 2010 có 686 ha nuôi tôm, 443 ha nuôi cá, 1900

ha nghêu sò và 6 ha cua, cá kèo; đến năm 2020 dự kiến 1177 ha tôm, 449 ha cá,

1900 ha nghêu sò và 8 ha cua, cá kèo.

Về cơ cấu theo mức độ thâm canh, đến năm 2010 có trên 100 ha nuôi công

nghiệp và có thể tăng lên đến trên 350ha năm 2020.

Đối tượng nuôi chính ở vùng mặn lợ là tôm sú (nuôi bán công nghiệp- công

nghiệp và quảng canh cải tiến), nghêu sò (nuôi vùng bãi bồi ven biển và đầm lầy

mặn), cua,…

Đối với nuôi trồng chuyên, tập trung phát triển mạnh loại hình nuôi bán công

nghiệp-công nghiệp với tiến độ thích hợp theo khả năng chủ động giống xác nhận,

xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện kỹ thuật nuôi, kiểm soát dịch bệnh và môi

trường nước nhằm tạo thế bền vững, ổn định của phương thức nuôi trồng này cũng

như từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, đạt kích cỡ và các tiêu chuẩn an toàn

thực phẩm theo yêu cầu của từng loại thị trường.

Diện tích nuôi xen-luân canh năm 2010 ước khoảng 60 ha và có thể tăng lên

đến 90 ha năm 2020.

Về cơ cấu theo loại hình xen canh – luân canh, từ năm 2010 các loại hình

nuôi tôm rừng ổn định trong khoảng 50 ha. Trong cơ cấu đối tượng nuôi xen canh –

luân canh vùng mặn lợ, đối tượng chính là tôm sú.

Sản lượng nuôi trồng năm 2010 ước đạt khoảng 2291 tấn cá, 2333 tấn tôm,

17100 tấn nghêu; đến năm 2020 dự kiến 3126 tấn cá, 6133 tấn tôm,19950 tấn

nghêu. Sản lượng này có thể biến động giảm trong điều kiện các biện pháp bảo vệ

môi trường ven bờ dưới tác động của các khu công nghiệp ven biển mới được xây

dựng không được đảm bảo.

3.2.2.1.2 Đánh bắt

Dự kiến số tàu đánh bắt biển tăng không nhiều, ổn định trong khoảng 727

phương tiện năm 2010 và 755 phương tiện năm 2020; tổng công suất các phương

tiện đánh bắt tăng nhẹ (0,5%/năm), tương ứng với 51000 ML năm 2010 và 56600

ML năm 2020.

Trọng tâm của ngành đánh bắt thủy hải sản là cải thiện năng suất đánh bắt

(thông qua hiện đại hóa phương tiện, cải thiện kỹ năng lao động và đa dạng hóa ngư

trường theo mùa) kết hợp với nâng cao chất lượng sản phẩm (thông qua việc từng

bước gia tăng dần các loại hình đánh bắt chuyên loài, tổ chức đội tàu thuyền chuyên

dụng và kết hợp đánh bắt-tồn trữ dài ngày,…).

Năng suất đánh bắt định hình khoảng 0,69 T/ML/năm, sản lượng đánh bắt

năm 2010 dự kiến 31552 tấn, năm 2020 là 39063 tấn, trong đó có 20950 tấn cá,

4600 tấn tôm và 13500 tấn thủy sản khác.

Giá trị sản xuất theo giá hiện hành đạt 874 tỷ đồng năm 2010 và 2636 tỷ

đồng năm 2020, tương ứng với 402 tỷ đồng và 745 tỷ đồng theo giá so sánh 1994,

tốc độ phát triển bình quân thời kỳ 2006-2020 là 2,9%/năm (6,2-6,7%/năm giai

đoạn 2011-2020); trong đó ngành nuôi trồng chiếm 28%, ngành đánh bắt 58% và

dịch vụ-sản phẩm khác là 14%.

Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành đạt 425 tỷ đồng năm 2010 và 1324 tỷ

đồng năm 2020, tương đương với 196 tỷ đồng và 374 tỷ đồng theo giá so sánh

1994; trong đó ngành nuôi trồng chiếm 35%, ngành đánh bắt chiếm 52% và dịch vụ

-sản phẩm khác là 14%. Tốc độ phát triển bình quân thời kỳ 2006-2020 là

2,8%/năm (6,3-7,1%/năm giai đoạn 2011-2020); trong đó ngành nuôi trồng tăng

trưởng 0,7%, ngành đánh bắt tăng trưởng 2,8%.

Để phát triển ổn định và bền vững ngành thủy hải sản, cần chú trọng các cơ

sở hạ tầng sau:

- Hình thành khu liên hợp cảng cá-khu tránh bão-cụm công nghiệp-chợ đầu

mối thủy sản trên địa bàn xã Vàm Láng (sau này là thị trấn Vàm Láng) trên cơ sở

nạo vét rạch Cần Lộc hình thành âu tàu và đắp đất tạo nền hạ công trình, bao gồm

các khu chức năng sau:

+ Cảng cá Cần Lộc kể cả âu tàu tránh bão.

+ Dãy phố thị và cụm công nghiệp hậu cần nghề cá (hệ thống kho, các cơ

sớ chế biến thủy sản, chế biến nước mắm, khô, bột cá, sản xuất nước đá, sữa chữa

và đóng tàu thuyền, sữa chữa ngư cụ, cung ứng và đào tạo lao động,…)

+Chợ đầu mối thủy sản.

- Dự kiến đến năm 2010, nhu cầu giống thủy sản là 120 triệu con giống tôm

cá và trên 665 triệu con giống nghêu sò; năm 2020 là 250 triệu con giống tôm cá và

700 triệu con giống nghêu sò. Do đó, nhằm hạn chế tình trạng nhập giống ngoài

huyện và bảo đảm chất lượng con giống, cần đầu tư hình thành một điểm tập trung

trại giống tại Tân Thành với quy mô 1ha (tương đương 4-5 trại), có chính sách bảo

vệ giống nghêu sò ven biển, đồng thời khuyến khích hình thành các cơ sở hoặc các

hộ ương cá, tôm,…

- Về xây dựng mặt bằng và cơ giới, trong suốt thời kỳ đến năm 2020, cần

xây dựng 1180 ha mặt bằng nuôi và 80 ha mặt nước luân canh-xen canh, cải tạo

2800 ha mặt bằng nuôi và 120 ha mặt nước luân canh – xen canh, đóng mới các

phương tiện đánh bắt với tổng công suất 6800 ML, cải tạo phương tiện đánh bắt

tương đương 39800 ML. Tổng chi phí đầu tư trong suốt thời kỳ chiếm 5-9% giá trị

tăng thêm.

Chương trình phát triển kinh tế thủy sản huyện Gò Công Đông đến năm

2020:

- Ổn định và phát triển bền vững vùng nuôi trồng thủy sản bao gồm trên

480ha nuôi nước ngọt, trên 1100 ha tôm vùng mặn lợ và 1900ha nghêu trong bối

cảnh phát triển công nghiệp vùng ven biển, có gắn kết chặt chẽ với thị trường, cơ sở

chế biến, chợ vựa. Đưa nhanh khoa học kỹ thuật tiên tiến ứng dụng vào việc nuôi

trồng nhằm cải thiện chất lượng nuôi và chất lượng sản phẩm, tạo sản phẩm với

chất lượng và quy cách đồng nhất.

- Tăng cường năng lực đánh bắt theo hướng cải thiện chất lượng đánh bắt và

chất lượng sản phẩm, phát triển các cơ sở hậu cần nghề cá.

- Chương trình này bao gồm

Bảng 3.1: Các nhóm dự án – Các chương trình thuộc khu vực 1

Đơ n vị: triệu đồng

- Các nhóm dự án - -

Tổng cộng 156311 27370 245473 2016 2020 79144 13393 115017

Phát triển thủy sản bền vững Bảo vệ và phát triển vùng nghêu Cải thiện điều kiện đánh bắt Cộng 2006 2010 27801 4186 52482 84469

Ngân 2011 sách 2015 7972 49365 1779 9791 11046 77974 137130 207554 429153 10797 Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH huyện GCĐ đến năm 2020

 Dự án nuôi phát triển nghề nuôi thủy sản bền vững, kinh phí dự kiến 156 tỷ

đồng, chia ra 28 tỷ đồng trong giai đoạn 2006 – 2010; 78 tỷ đồng trong giai đoạn

2011 – 2015; 49 tỷ đồng trong giai đoạn 2016 – 2020; trong đó ngân sách đầu tư

khoảng 8tỷ đồng.

 Dự án nuôi bảo vệ và phát triển vùng nghêu, kinh phí dự kiến 27 tỷ đồng, chia ra

4 tỷ đồng trong giai đoạn 2006 – 2010; 10 tỷ đồng trong giai đoạn 2011 – 2015;

13 tỷ đồng trong giai đoạn 2016 – 2020; trong đó ngân sách đầu tư khoảng 1,8tỷ

đồng.

 Dự án cải thiện điều kiện đánh bắt, kinh phí dự kiến 245 tỷ đồng, chia ra 52 tỷ

đồng trong giai đoạn 2006 – 2010; 78 tỷ đồng trong giai đoạn 2011 – 2015; 115

tỷ đồng trong giai đoạn 2016 – 2020; trong đó ngân sách đầu tư khoảng 18tỷ

đồng.

- Chương rình này được hỗ trợ bằng các chính sách:

 Chính sách về vốn đầu tư (trợ giá con giống, tín dụng ngắn – trung và dài hạn

của ngân hàng,..).

 Hỗ trợ về kỹ thuật ương giống, nuôi trồng, bảo vệ môi trường nuôi.

 Hỗ trợ về cải hoán phương tiện đánh bắt và cải thiện điều kiện đánh bắt, phát

triển các cơ sở hậu cần nghề cá.

Nhìn chung, ba nhóm dự án trên có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát

triển kinh tế huyện, nhằm phát huy triệt để nguồn tài nguyên biển kết hợp bảo vệ

môi trường. Tuy nhiên, nguồn vốn theo dự kiến còn khiêm tốn, trong đó nguồn

ngân sách chi lại quá ít (chỉ chiếm khoảng 5%).

Nhóm dự án cải thiện điều kiện đánh bắt đang được chú trọng, các thiết bị từ

phương tiện đánh bắt, hệ thống thăm dò, điều kiện bảo quản,...Và nguồn vốn đầu tư

khá cao, song vẫn chưa có nhiều khả quan vì tình hình giá cả hiện nay luôn thay đổi

theo chiều hướng tăng mạnh, các thiết bị cải thiện điểu kiện đánh bắt hiện nay rất

đắt.

Trong khi đó, nhóm dự án phát triển thủy sản bền vững, nhóm dự án bảo vệ

và phát triển vùng nghêu chiếm một tỷ lệ lớn về nguồn vốn đầu tư nhằm cung cấp

nguồn nguyên liệu dồi dào về số lượng đồng thời đảm bảo về chất lượng. Nhưng

vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu của nhóm dự án này là chất lượng môi

trường phải được đảm bảo.

3.2.2.2.Ngành du lịch

Ngành du lịch của huyện đặt trọng tâm vào hoạt động thu hút du khách nghỉ

dưỡng cuối tuần. Định hướng phát triển ngành du lịch trong thời gian trước mắt

cũng như lâu dài là đa dạng hóa các loại hình du lịch, phát triển mạnh du lịch sinh

thái ven biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, kêu gọi đầu tư trong và ngoài tỉnh

và khuyến khích phát triển du lịch tư nhân.

Ngành sẽ thu hút đầu tư phát triển hệ thống lưu trú và cơ sở phục vụ ăn uống,

giải trí đạt tiêu chuẩn tại khu du lịch Tân Thành – Đèn Đỏ, đầu tư xây dựng hoàn

chỉnh kết cấu hạ tầng giao thông tuyến đê biển song song với xây dựng bãi tắm, cơ

sở dịch vụ phục vụ, các vườn cây ăn trái đặc sản ven biển, các sản phẩm du lịch

nhằm thu hút du khách du lịch mang bản sắc xứ biển. Đến năm 2010 xây dựng khu

du lịch Tân Thành-Hàng Dương quy mô 80 ha từ đó lan tỏa dần đến Đèn Đỏ. Ngoài

ra, ngành còn có thể tổ chức tham quan các cồn bãi còn nguyên sinh thái tự nhiên

như cồn Ngang, cồn Cống, cồn Ông Mão.

Trong thời kỳ 2006-2020, huyện sẽ hình thành bộ phận chuyên trách du lịch

trong phòng kinh tế, đẩy mạnh việc liên kết với công ty du lịch Tỉnh và các công ty

du lịch lữ hành của Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển các tuyến và điểm

du lịch, tập trung đầu tư và xây dựng khu Tân Thành-Đèn Đỏ làm điểm đột phá và

từng bước hoàn chỉnh.

Với định hướng như trên, Huyện sẽ khuyến khích đầu tư nâng cấp các nhà

trọ hiện có và mở mới một khách sạn có quy mô tiêu chuẩn, nhà hàng có khả năng

phục vụ cùng lúc 200 khách trở lên, phương tiện vận tải, cửa hàng du lịch bán hàng

lưu niệm và đặc sản của huyện, của tỉnh Tiền Giang, kết hợp với chợ đầu mối thủy

hải sản Vàm Láng, chợ vựa thủy sản Đèn Đỏ.

Đẩy nhanh công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ nhân viên lành nghề, có tác

phong và cung cách phục vụ tốt du khách, tạo sản phẩm du lịch hoàn hảo.

Năm 2020, toàn huyện có 3 khách sạn, trong đó có 2 khách sạn tiêu chuẩn,

với 65 phòng trong đó có 25 phòng có khả năng tiếp khách quốc tế, 5 nhà hàng với

1000 chỗ ngồi, một số điểm ăn uống có quy mô 400-500 chỗ ngồi và 16 phương

tiện vận chuyển có khả năng đưa đón cùng lúc 270 du khách.

Lượng khách du lịch tham quan dự kiến tăng từ khoảng 97207 người năm

2005 (104561 người năm 2007) sẽ lên 116600 người năm 2010, 175000 người năm

2015 và 306000 người năm 2020; trong đó khách lưu trú tăng từ 1293 lên 2657,

5313 và 12009 tương ứng các năm 2005, 2010, 2015 và 2020. Với vòng khách lưu

trú tăng từ 1,0 năm 2005 (1,02 năm 2007) lên 1,15 vào năm 2020. Doanh số tăng

lên gần 12 tỷ đồng năm 2010, 23 tỷ đồng năm 2015 và đến năm 2020 là 53 tỷ đồng.

Giá trị sản xuất theo giá hiện hành tăng từ khoảng 1,8 tỷ đồng năm 2005

(khoảng 2,2 tỷ đồng năm 2007) lên 9 tỷ đồng năm 2010, 18 tỷ đồng năm 2015 và 42

tỷ đồng năm 2020 tương đương với 14 tỷ đồng , 6 tỷ đồng, 9 tỷ đồng và 18 tỷ đồng,

tốc độ tăng bình quân là 32,8%/năm trong giai đoạn 2006-2010; 10,1%/năm trong

giai đoạn 2011-2015; 13,8%/năm trong giai đoạn 2016-2020.

Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành tăng từ khoảng 1,2tỷ đồng năm 2005

(khoảng 1,5 tỷ đồng năm 2007) lên 6 tỷ đồng năm 2010, 12 tỷ đồng năm 2015 và 28

tỷ đồng năm 2020 tương đương với 9,1tỷ đồng , 4 tỷ đồng, 6 tỷ đồng và 12 tỷ đồng,

tốc độ tăng bình quân là 32,4%/năm trong giai đoạn 2006-2010; 10,5%/năm trong

giai đoạn 2011-2015; 14,2%/năm trong giai đoạn 2016-2020.

Lao động sử dụng toàn ngành năm 2020 là 233 người.

Tổng vốn đầu tư trong toàn ngành đến năm 2020 là 309 tỷ đồng

Chương trình phát triển du lịch huyện Gò Công Đông:

- Xây dựng hoàn chỉnh khu du lịch Tân Thành – Đền Đỏ, khuyến khích xây dựng

một số khách sạn có quy mô tiêu chuẩn, có khả năng tiếp nhận khách quốc tế,

các nhà đầu tư nước ngoài.

- Nối kết các tour du lịch lữ hành của Tỉnh đến tham quan, nghỉ dưỡng cuối tuần

tại khu du lịch.

Chương trình này bao gồm:

- Các dự án đầu tư vào khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận tải.

- Xây dựng chợ, trung tâm thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của du khách.

Bảng 3.2: Các nhóm dự án thuộc chương trình phát triển du lịch

(Đơn vị: triệu đồng, giá hiện hành)

Danh mục các nhóm dự án - - -

Chợ, trung tâm thương mại Cụm điểm du lịch, khách sạn, nhà hàng Cộng

Tổng 2016 2011 2006 cộng 2020 2015 2010 953793 587647 255537 110609 80597 289215 171748 36870 336134 759395 1243008 147479 Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH huyện GCĐ đến năm 2020

Chương trình này được hỗ trợ bằng các chính sách

- Chính sách về vốn (vay tín dụng của ngân hàng).

- Chính sách bảo tồn, khai thác hỗ trợ ngành văn hóa thông tin.

Tóm lại, các nhóm dự án thuộc chương trình phát triển du lịch đã thể hiện

được tầm quan trọng của ngành trong tương lai, và chúng ta có thể khẳng định đây

là một bước đi rất phù hợp với xu thế chung của cả nước.

Trong hai nhóm dự án thể hiện bảng 3.2, nhóm dự án xây dựng chợ, trung

tâm thương mại có nguồn vốn đầu tư hợp lý. Riêng dự án hình thành cụm điểm du

lịch, khách sạn, nhà hàng với nguồn vốn rất hạn chế. Cụ thể, trong giai đoạn 2006 –

2010: dự án xây dựng khu du lịch sinh thái Tân Thành đã chiếm khoảng 36 tỷ đồng,

bao gồm cả tiền đền bù giải tỏa, gia cố lại đê bao cũ và xây thêm đê bao mới từ bến

đò Đèn Đỏ, xây dựng nhà hàng, khách sạn tiêu chuẩn,…thì con số đầu tư 36 tỷ

đồng là quá nhỏ. Đến giai đoạn sau, giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn 2016 –

2020, nguồn vốn đầu tư tương đối hợp lý nhằm phát triển hơn nữa ngành du lịch và

đưa ngành du lịch biển trở thành thế mạnh trong quá trình phát triển kinh tế huyện.

3.2.2.3.Bảo vệ môi trường biển

Thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Sở thủy sản

tỉnh Tiền Giang tổ chức thả tôm sú xuống sông Cửa Tiểu. Tôm sú giống này do các

trại giống của các hộ dân tại huyện Gò Công Đông hỗ trợ. Việc thả nuôi thủy sản

xuống sông rạch được Sở thủy sản tổ chức hàng năm nhằm bảo vệ, tái tạo nguồn lợi

thủy sản đang bị cạn kiệt và góp phần giáo dục, tuyên truyền, vận động người dân

khai thác thủy sản hợp lý.

Tạo dựng môi trường biển trong sạch và bền vững là một trong những bí

quyết để phát triển ngành du lịch biển, là góp phần bảo vệ môi trường biển. Bởi ở

đó tạo cho du khách sự an toàn về môi trường khi nghỉ ngơi, tham quan. Ở đó tạo

cho du khách môi trường trong sạch để tái tạo, tăng cường sức khỏe. Vì vậy, con

người cần tránh những can thiệp quá sâu về cải tạo thiên nhiên đối với những nơi

đang diễn ra hoạt động du lịch, tránh xả rác bừa bãi và tận diệt các nguồn thủy hải

sản.

Phát triển ngành lâm nghiệp trên địa bàn huyện Gò Công Đông chủ yếu là

phòng hộ môi trường ven biển, tạo cảnh quan và cải thiện môi trường cho các công

trình công cộng, khu công nghiệp, các khu vực xây dựng đô thị và tận dụng quỹ đất

trong khu vực kinh tế vườn.

Phương hướng chung của ngành lâm nghiệp là:

- Bảo vệ diện tích rừng ngập mặn phòng hộ sau khi đã chuyển một phần đất

cho khu công nghiệp, tích cực mở rộng thêm diện tích rừng mới tại khu vực đầm

lầy mặn và bãi bồi ven biển theo tiến độ lấn biển, kết hợp với trồng mới đai rừng

ngập mặn tại các khu vực xung yếu xói lở, nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường ven

biển, chống xói lở và đẩy mạnh quá trình bồi lắng ven bờ, phục hồi và phát triển hệ

sinh thái ngập mặn, giảm dần diện tích nuôi tôm trong lâm phần. Diện tích định

hình 670 ha (trong đó giao quản lý rừng 480 ha).

- Xây dựng một số khu vực rừng sản xuất xen canh tôm sinh thái, diện tích

trong khoảng 50 ha.

- Tập trung trồng mới cây phân tán trên các bờ bao vùng và tiểu vùng thuỷ

lợi, đặc biệt chú trọng vành đai cây xanh cách ly các cụm khu công nghiệp nhằm

đảm bảo độ che phủ và năn chặn bụi từ công nghiệp sữa chữa và đóng tàu. Tổng số

lượng cây phân tán trồng mới hàng năm vào khoảng 601 ngàn cây năm 2010 và 693

ngàn cây năm 2020.

Sản lượng khai thác chủ yếu là cây phân tán và tỉa thưa rừng, năm 2010 dự kiến khai thác 876 m3 gỗ, 5385 xite củi và 429000 tre trúc; năm 2020 khai thác 1010 m3 gỗ, 6122 xite củi và 495000 tre trúc.

Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp tăng chậm (1,7%/năm), đạt 2,4 tỷ đồng

năm 2010 và 3,4 tỷ đồng năm 2020 theo giá hiện hành (1,3 tỷ đồng và 1,5 tỷ đồng

giá so sánh 1994), trong đó 87% từ khai thác lâm sản.

Giá trị tăng thêm đạt 1,9 tỷ đồng năm 2010 và 2,7 tỷ đồng năm 2020 theo giá

hiện hành (1,0 tỷ đồng và 1,2 tỷ đồng giá so sánh 1994), tốc độ tăng trưởng

2,0%/năm.

3.2.3.Định hướng phát triển nguồn nhân lực

Theo chiến lược phát triển kinh tế biển của huyện cần phải phát triển nguồn

nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng biển và ven biển.

Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp trong các trường trung học trên địa bàn

huyện, tạo cơ hội cho thanh niên, học sinh học nghề và tham gia vào các nghề như

đánh bắt, nuôi trồng chế biến thủy sản, du lịch, đóng tàu.... Liên kết với các nhà đầu

tư đào tạo nghề và sử dụng lao động của địa phương.

Tranh thủ tuyển chọn nhiều học sinh và lao động tham gia học nghề ở Trung

tâm Dạy nghề khu vực Gò Công; đề nghị Tỉnh cho thành lập Trường Trung học

chuyên nghiệp trên địa bàn huyện (ở xã Tân Tây). Đồng thời có chính sách thu hút

đội ngũ lao động đã được đào tạo chuyên sâu đang làm việc ở các nơi khác về phục

vụ, xây dựng quê hương vùng biển.

Tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo nghề phổ thông cho thanh niên nông

thôn, cần tập trung vào các nghề có yêu cầu sử dụng tại địa phương. Tăng cường

công tác khuyến ngư, chú trọng đầu tư và quản lý tốt các cơ sở sản xuất, trung tâm

giống thủy sản; xây dựng các mô hình quản lý nghề đáy sông cầu, quản lý cộng

đồng ở vùng nuôi thủy sản tập trung; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của

hợp tác xã thủy sản Phú Tân và tiếp tục nghiên cứu hình thành các tổ chức kinh tế

hợp tác, hợp tác xã trên lĩnh vực đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản.

3.2.4. Định hướng đầu tư phát triển kinh tế biển

Căn cứ vào nội dung chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về chiến

lược biển đến năm 2020, vấn đề đầu tư phát triển kinh tế biển được định hướng như

sau:

Đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống, giao thông, thủy lợi, cung cấp điện, nước

ngọt đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ sinh hoạt của dân

cư các xã ven biển. Nâng cấp phát triển thị trấn Tân Hòa, Tân Thành, Vàm Láng,

Tân Tây, Gia Thuận, Tân Phước để hình thành hệ thống đô thị ven biển, gắn kết với

việc hình thành và phát triển công nghiệp ven sông Soài Rạp, Cụm công nghiệp

Vàm Láng, Tân Tây và khu du lịch sinh thái biển Tân Thành.

Đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước cho các khu nuôi thủy sản Bắc

Nam Gò Công, trại giống Cồn Cống. Hoàn chỉnh hệ thống kinh mương cấp thoát

nước khu vực 230 ha xã Phú Đông để đưa vào sản xuất theo dự án được duyệt.

Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện dự án “khu bảo tồn thiên nhiên đa dạng

thủy sinh vật ven biển, cửa sông ở Cồn Ngang” và dự án “phục hồi tái tạo và phát

triển nguồn lợi thủy sản”.

Hoàn chỉnh giai đoạn 2 bờ kè Đèn Đỏ (Tân Thành) để triển khai xây dựng

chợ thủy sản Đèn Đỏ; tiếp tục triển khai dự án xây dựng chợ cá Vàm Láng, tổ chức

tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Xúc tiến xây dựng khu tránh bão cho tàu thuyền trên

kênh Cần Lộc xã Vàm Láng.

Đề nghị Trung ương, tỉnh đầu tư nhựa hóa đê biển, hình thành đường giao

thông ven biển; gia cố nâng cấp đê xung yếu, làm đê phụ, phát triển đai rừng phòng

hộ để đủ sức phòng chống bão, triều cường, đồng thời tạo cơ sở phát triển giống

loài thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái biển.

3.3 Các chỉ tiêu dự báo

3.3.1 Dự báo doanh thu của ngành kinh tế biển

3.3.1.1 Ngành thủy hải sản

Bảng 3.3: Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020

(Đơn vị: triệu đồng)

2010

Các giá trị Giá trị sản xuất (giá HH) 874330 2015 1541199 2020 2635807

Giá trị sản xuất (giá SS 94) 402457 555848 744843

Giá trị tăng thêm (giá HH) 424802 763222 1324147

Giá trị tăng thêm (giá SS94) 195538 275263 374186

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Gò Công Đông

Giá trị sản xuất theo giá hiện hành đạt 874 tỷ đồng năm 2010 và 2636 tỷ đồng

năm 2020, tương đương với 402 tỷ đồng và 745 tỷ đồng theo giá so sánh 1994, tốc

độ phát triển bình quân là 6,2 – 6,7%/năm giai đoạn 2011-2020; trong đó ngành

nuôi trồng chiếm 28%, ngành đánh bắt là 58% và dịch vụ - sản phẩm khác là 14%.

Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành đạt 425 tỷ đồng năm 2010 và 1324 tỷ

đồng năm 2020, tương đương với 196 tỷ đồng và 374 tỷ đồng theo giá so sánh

1994, trong đó ngành nuôi trồng chiếm 35%, ngành đánh bắt là 52% và dịch vụ -

sản phẩm khác là 13%. Tốc độ phát triển bình là 6,3 – 7,1%/năm giai đoạn 2011-

2020; trong đó ngành nuôi trồng tăng trưởng 0,7%/năm và ngành đánh bắt tăng

trưởng 2,8%/năm.

Tuy nhiên, với tình hình thực tế nhiều biến động như hiện nay thì những chỉ

tiêu dự kiến trên có thể không hoàn thành được và huyện phải có một kế hoạch cụ

thể , chi tiết hơn trong thời gian tới.

3.3.1.2 Ngành du lịch

Bảng 3.4: Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020

(Đơn vị: triệu đồng)

2010 2015 2020

Các giá trị Giá trị sản xuất (giá HH) 9069 17861 41518

Giá trị sản xuất (giá SS 94) 5692 9214 17604

Giá trị tăng thêm (giá HH) 5917 11831 27940

Giá trị tăng thêm (giá SS94) 3714 6103 11847

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Gò Công Đông

Giá trị sản xuất theo giá hiện hành đạt 9 tỷ đồng năm 2010 và 18 tỷ đồng

năm 2015 và 42 tỷ đồng năm 2020, tương đương với 6 tỷ đồng, 9 tỷ đồng và 18 tỷ

đồng theo giá so sánh 1994, tốc độ phát triển bình quân thời kỳ 2006-2010 là

32,8%/năm, 10,1%/năm giai đoạn 2011-2015 và 13,8%/năm giai đoạn 2016 – 2020.

Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành đạt 6 tỷ đồng năm 2010 và 12 tỷ đồng

năm 2015 và 28 tỷ đồng năm 2020, tương đương với 4 tỷ đồng, 6 tỷ đồng và 12 tỷ

đồng theo giá so sánh 1994, tốc độ phát triển bình quân thời kỳ 2006-2010 là

32,4%/năm, 10,5%/năm giai đoạn 2011-2015 và 14,2%/năm giai đoạn 2016 – 2020.

3.3.1.3 Ngành lâm nghiệp

Bảng 3.5: Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020

(Đơn vị: triệu đồng)

Các giá trị Giá trị sản xuất (giá HH) 2010 2427 2015 2926 2020 3363

Giá trị sản xuất (giá SS 94) 1331 1453 1513

Giá trị tăng thêm (giá HH) 1029 1146 1220

Giá trị tăng thêm (giá SS94) 260 201 201

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Gò Công Đông

Giá trị sản xuất theo giá hiện hành đạt 2427 triệu đồng năm 2010 và 2926

triệu đồng năm 2015 và 3363 triệu đồng năm 2020, tương đương với 1331 triệu

đồng, 1453 triệu đồng và 1513 triệu đồng theo giá so sánh 1994. Gía trị sản xuất

ngành lâm nghiệp tăng chậm, chỉ đạt 1,75/năm; trong đó 87% từ khai thác lạn sản.

Giá trị tăng thêm theo giá hiện hành đạt 1029 triệu đồng năm 2010 và 1146

triệu đồng năm 2015 và 1220 triệu đồng năm 2020, tương đương với 260 triệu

đồng, 201 triệu đồng và 201triệu đồng theo giá so sánh 1994, tốc độ tăng trưởng

2,0%/năm.

3.3.2 Dự báo nguồn nhân lực

Bảng 3.6: Dự báo nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển các năm

2010,2015,2020

(Đơn vị: người)

Nguồn lao động Ngành thủy hải sản 2010 8897 2015 11284 2020 14268

Ngành du lịch 137 188 223

Ngành lâm nghiệp 205 91 104

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Gò Công Đông

Mặc dù diện tích tự nhiên, dân số của huyện giảm (do tách huyện) kéo theo

diện tích nuôi trồng thủy sản giảm đi đáng kể và cả nguồn lao động cũng giảm

mạnh. Thế nhưng kinh tế biển trở thành mục tiêu phát triển của huyện trong tương

lai cũng là động lực chính thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế chung của huyện,

góp phần cải thiện đời sống người dân nên nguồn lao động cung cấp cho ngành đã

không ngừng tăng lên, tạo một tiền đề vũng chắc cho sự phát triển của ngành trong

thời gian tới.

Nguồn lao động cung cấp cho ngành thủy hải sản dự kiến tăng, năm 2010 có

8897 lao động, bằng với số lao động khi chưa tách huyện (năm 2007), sau đó lao

động tăng dần lên, năm 2015 là 11284 người và năm 2020 là 14268 người.

Riêng ngành du lịch, lao động tham gia hoạt động ngành tăng liên tục, đến

năm 2020 là 223 người. Mặc dù có sự gia tăng về số lao nhưng tỷ lệ lao động của

ngành vẫn còn rất ít và thực tế phát triển ngành có nhiều khả năng nguồn lao động

sẽ tăng nhanh hơn dự báo. Đó là một tín hiệu tốt cho sự phát triển của ngành.

Trong đó, ngành lâm nghiệp sẽ có sự thay đổi ngược lại, số lao động giảm

một cách đột biến từ trước khi tách huyện đến năm 2020. Nguyên nhân của sự thay

đổi này (theo dự báo) là do việc mất đi một phần lớn diện tích lâm phần sang huyện

mới (huyện Tân Phú Đông).

3.3.3 Dự báo đầu tư phát triển kinh tế biển

Bảng 3.7: Dự báo đầu tư phát triển kinh tế biển các năm 2010, 2015, 2020 (Đơn vị: triệu đồng)

Vốn đầu tư (giá HH) Ngành thủy hải sản 2010 67949 2015 71620 2020 73196

Ngành du lịch 9076 20727 47944

Ngành lâm nghiệp 334 112 247

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Gò Công Đông

Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, đến năm 2025, Thế giới sẽ mất đi khoảng

70 triệu ha đất canh tác do bị ngập mặn hay bị chìm trong nước biển và Việt Nam là

một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất. Song không vì lí do đó mà nguồn

vốn đầu tư phát triển kinh tế lại sụt giảm, mà trái lại, kinh tế biển lại trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn trong thế kỷ XXI.

Tỉnh Tiền Giang nói chung, huyện Gò Công Đông nói riêng, cũng không

tách ra khỏi xu hướng phát triển chung đó. Nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế biển

huyện theo dự báo vẫn tăng. Tuy nhiên, đầu năm 2008, diện tích đất nuôi trồng thủy

sản diện tích rừng giảm do tách huyện mới (huyện Tân Phú Đông) nên nguồn vốn

đầu tư ngành thủy hải sản tăng chậm, cụ thể năm 2010 là 67949 triệu đồng, năm

2015 là hơn 71620 triệu đồng, năm 2020 là 73196 triệu đồng; còn vốn đầu tư cho

ngành lâm nghiệp giảm mạnh, nếu năm 2010 là 334 triệu đồng thì đến năm 2020

chỉ còn 247 triệu.

Riêng ngành du lịch thì hoàn toàn ngược lại, một tương lai mới đang mở ra

cho sự phát triển mạnh của ngành trong tương lai với nguồn vốn đầu tư theo dự báo

tăng lên một cách nhanh chóng. Nếu năm 2010, vốn đầu tư là 9076 triệu đồng, đến

năm 2015 là 20727 triệu đồng, năm 2020 là 47944 triệu đồng.

3.4. Các giải pháp chủ yếu

Trong thời gian qua, sự phát triển kinh tế biển của huyện Gò Công Đông

chưa phát triển tương xứng với vai trò và tiềm năng to lớn của biển. Để hoàn thiện

chiến lược phát triển kinh tế biển của huyện đến năm 2020 đã đề ra, đòi hỏi phải

thực hiện một loạt các giải pháp tích cực và đồng bộ, bám sát tình hình thực tế của

địa phương, trong đó phải kể đến các giải pháp quan trọng sau:

3.4.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và khai thác biển

Thời gian qua, Chính phủ và các ngành, các cấp đã ban hành nhiều chính

sách và văn bản pháp quy có liên quan đến quản lý và khai thác biển. Tuy nhiên,

đến nay chúng ta vẫn chưa có một hệ thống chính sách đồng bộ được gắn kết với

nhau trong một chiến lược thống nhất để quản lý, khai thác biển và bảo vệ tài

nguyên biển. Tính chia cắt và cục bộ trong quản lý và tổ chức sản xuất của ngành

trong khai thác biển còn là tình trạng phổ biến. Chính sự thiếu kết hợp chặt chẽ giữa

các ngành và giữa các xã trong huyện không những hạn chế việc phát triển kinh tế

biển mà còn là nguyên nhân quan trọng làm giảm sút tài nguyên và ô nhiễm môi

trường biển.

Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng là hoàn thiện hệ thống chính

sách và cơ chế tổ chức khai thác biển phù hợp với tính đa dạng và đặc thù của tài

nguyên biển, cũng như tính đa dạng về ngành nghề, về thành phần, về quy mô và

trình độ trong khai thác sử dụng tài nguyên biển và phát triển kinh tế biển.

Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và cụ thể hóa việc

thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy khóa VIII thực hiện Nghị quyết của

Trung ương, Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa IX đề ra chương trình hành động

về chiến lược kinh tế biển của địa phương phù hợp với điều kiện thực tế của huyện.

Từ đó, các xã ven biển xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể thực hiện chương

trình hành động của Huyện ủy. Uỷ ban nhân dân huyện xây dựng và triển khai kế

hoạch thực hiện cùng với các ban ngành thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

việc thực hiện chương trình hành động này và định kỳ báo cáo, đề xuất Ban thường

vụ Huyện ủy để có chỉ đạo kịp thời. Áp dụng linh hoạt các hình thức quản lý mới

để khuyến khích và phối hợp các hoạt động khai thác biển, tạo điều kiện thu hút vốn

và mở rộng liên doanh, liên kết ở trong và ngoài nước.

Riêng cấp Nhà nước, cần xúc tiến nhanh việc xây dựng bộ Luật biển của

nước ta, từ đó cụ thế hóa thành những văn bản pháp quy làm cơ sở cho việc tổ chức

và quản lý thống nhất các hoạt động kinh tế biển trong khuôn khổ hệ thống pháp

luật chung của Nhà nước.

3.4.2 Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền

Trong nền kinh tế thị trường có định hướng, Nhà nước đóng vai trò vô cùng

quan trọng đối với việc quản lý và điều tiết sự phát triển đó. Vì vậy, để đẩy nhanh

tốc độ phát triển kinh tế cả nước nói chung và của địa phương nói riêng, một trong

những nhiệm vụ hàng đầu là không ngừng nâng cao năng lực quản lý của bộ máy

chính quyền huyện theo pháp luật nhằm tạo mọi thuận lợi cho mọi hoạt động kinh

tế của địa phương có khả năng phát huy tối đa năng lực của mình thông qua những

kế hoạch, định hướng cụ thể, linh hoạt nhằm phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp

của các công cụ quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường, phát huy tính tích

cực, năng động, sáng tạo của đội ngũ quản lý. Đặc biệt là tình trạng quan liêu, bảo

thủ, cửa quyền cũng như tính chủ quan nóng vội gây phiền hà trong bộ máy Nhà

nước và các tổ chức kinh tế cần phải được bài trừ một cách nhanh chóng, triệt để

cùng với việc khắc phục các khuyết tật và những tác động tiêu cực của kinh tế thị

trường để kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động khai thác biển, thúc

đẩy kinh tế biển phát triển nhanh.

Tăng cường vai trò, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương trong

quản lý và phát triển kinh tế, cải tiến công tác kế hoạch hóa định hướng, tăng cường

công tác nghiên cứu tạo căn cứ đầy đủ cho những quyết định mang tính đột phá.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, áp dụng quy trình “một cửa”. Tiến hành rà

soát lại các văn bản ở các ngành, các cấp quản lý, xóa bỏ các quy chế không cần

thiết, giảm bớt các thủ tục hành chính. Đơn giản hóa hệ thống thuế, giảm bớt số

lượng mức thuế, ổn định thuế xuất tạo niềm tin cho các chủ doanh nghiệp yên tâm

đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Xử lý kịp thời những biến cố xảy ra một cách

chủ động, linh hoạt. Khuyến khích phát triển và đa dạng hóa các hoạt động kinh

doanh đối với các hoạt động khai thác biển.

Đối với một số khu vực trọng tâm trong vấn đề phát triển kinh tế biển (Vàm

Láng, Tân Thành,…) cần áp dụng một số cơ chế đặc biệt, coi đó là một trong những

giải pháp quan trọng để phát triển, nhất là trong giai đoạn mới khởi động của kinh tế

biển.

3.4.3 Huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài huyện cho phát triển

kinh tế biển

Đây là vấn đề mấu chốt để thực hiện các mục tiêu kinh tế nói chung và phát

triển kinh tế biển nói riêng. Xây dựng nền tài chính có tiềm lực đủ mạnh, đảm bảo

chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, đủ sức phát triển nội lực, chủ động

hội nhập kinh tế , thu hút ngoại lực, quản lý và sử dụng có hiệu quả toàn bộ nguồn

lực tài chính của địa phương. Xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, minh

bạch, dân chủ, được kiểm toán, kiểm soát, làm cho tài chính trở thành thước đo hiệu

quả quá trình hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội. Phấn đấu hàng năm

huy động thuế và phí vào ngân sách. Ngoài việc thu theo luật định, phải chống

thất thu thuế và phí, nuôi dưỡng nguồn thu và tạo nguồn thu mới, khai thác triệt

để các nguồn thu để tăng nhanh nguồn thu cho ngân sách.

Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính một cách triệt để, thông thoáng, tạo

điều kiện tốt nhất cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển. Nâng

cao hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị các cấp. Xây dựng và ban hành đầy

đủ, kịp thời các quy chế, chính sách đảm bảo phát huy dân chủ, sáng kiến, sáng

tạo và làm cho hệ thống hoạt động tốt đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Đa dạng hóa các hình thức huy động và tạo vốn trong huyện, đây là nguồn

vốn có ý nghĩa quyết định về lâu dài, đảm bảo có đủ năng lực nội tại để tiếp nhận

đầu tư trong và ngoài nước một cách bình đẳng và đôi bên cùng có lợi. Về quan

điểm, cần xác định nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là

rất quan trọng. Phải huy động tối đa nguồn lực của địa phương và thu hút vốn trong

nước, đặc biệt là của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận; đồng thời tạo mọi

điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức thích

hợp.

Trong điều kiện ngân sách địa phương có hạn, cần khai thác tối đa nguồn vốn

đầu tư, hỗ trợ của Trung ương được Chính phủ phê duyệt, tranh thủ nguồn vốn

Trung ương hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc

biệt khó khăn huyện Gò Công Đông.

Hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh (gồm các thành phần

kinh tế) đều thiếu vốn, có rất ít doanh nghiệp có đủ khả năng tự tích lũy để tái đầu

tư mở rộng sản xuất - nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức tài

chính, tín dụng. Cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với cơ quan

quản lý vốn để tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng vốn kịp thời. Trong điều kiện nguồn

vốn có hạn thì cần thiết đầu tư có trọng điểm, nhằm mang lại hiệu quả thiết thực.

Tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển

các ngành, lĩnh vực mà tỉnh có lợi thế về tiềm năng và vị trí địa lý gần thành phố Hồ

Chí Minh

Huy động nhiều nguồn vốn (nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Trung ương, vốn

tín dụng ưu đãi, vốn vay nước ngoài trả chậm hoặc thuê tài chính, vốn FDI,

ODA...) và sử dụng có hiệu quả, xử lý đồng bộ các nguồn vốn trung hạn và dài hạn

để đảm bảo sản xuất ổn định và phát triển. Huy động vốn không chỉ trong tỉnh mà

còn thu hút trong vùng và cả nước, nhất là vốn trong dân cư hiện đang được đánh

giá là còn khá lớn mà huyện chưa được khai thác. Cần phải có chính sách tín dụng

hợp lý để đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích giữa người có vốn và các doanh nghiệp

có thể vay để phát triển sản xuất. Cụ thể:

- Nguồn vốn từ quỹ đất: sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng

cần thiết cho phát triển các ngành kinh tế biển..

- Nguồn vốn ngân sách: khai thác nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ưu đãi của

Trung ương, tăng cường nguồn thu từ kinh tế địa phương; đồng thời, tiết kiệm chi

cho tiêu dùng đi đôi với việc xác định và thực hiện cơ cấu chi hợp lý, ưu tiên chi

cho đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển. Nguồn vốn ngân sách sẽ tập trung vào

đầu tư kết cấu hạ tầng . Đầu tư tập trung, không dàn trải, tránh lãng phí, thất thoát.

- Nguồn vốn tín dụng: tăng cường công tác huy động vốn tại địa phương của

các Ngân hàng quốc doanh và Tổ chức tín dụng, mở rộng vốn tín dụng đầu tư phát

triển trung và dài hạn cho các thành phần kinh tế, đảm bảo tín dụng tăng trưởng ổn

định, an toàn bền vững và hiệu quả.

- Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp: bằng những chính sách thu hút,

khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp và các nhà đầu

tư trong nước tập trung vốn cho đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh,

nhất là thu hút đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng.

- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI: trên cơ sở tạo ra môi trường đầu tư thông

thoáng, bình đẳng và đảm bảo lâu dài lợi ích cho nhà đầu tư nước ngoài, cần đẩy

mạnh hơn nữa việc khai thác và thu hút nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ

động trong việc mời chào, kêu gọi tìm kiếm đối tác. Việc thu hút đầu tư trực tiếp

FDI phải hướng mạnh vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, đạt trình độ tiêu

chuẩn quốc tế, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm và tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu.

Ưu tiên cho đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài, nhất là các công ty đa quốc gia,

xuyên quốc gia có tầm cỡ trên thế giới, tranh thủ tiếp cận công nghệ hiện đại, kỹ

năng quản lý, điều hành tiên tiến, mở lối thâm nhập vào thị trường khu vực và thế

giới. Có chính sách khuyến khích đặc biệt đối với một số ngành, lĩnh vực cần

khuyến khích đầu tư.

- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: ưu tiên sử dụng nguồn vốn

ODA cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Xác định danh mục dự án cần sử dụng

nguồn vốn này theo thứ tự ưu tiên để bố trí kế hoạch trung hạn, dài hạn và hàng

năm.

- Nguồn vốn đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài: thông qua các

phương tiện thông tin, thân nhân trong nước đẩy mạnh tuyên truyền, kêu gọi,

khuyến khích cộng đồng người Việt Nam - đặc biệt là đồng bào quê hương Gò

Công, Tiền Giang đang sinh sống ở nước ngoài về đầu tư phát triển sản xuất; đồng

thời, có chính sách ưu đãi thích hợp.

3.4.4 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố mang tính quyết định của mọi sự

phát triển. Vì vậy, để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế biển cần coi trọng việc

đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, phải có những giải pháp đồng bộ để sử dụng

có hiệu quả nhân tố vô cùng quan trọng này, coi đây là biện pháp cấp bách cần tiến

hành ngay.

Trước mắt là phải khẩn trương điều tra, sắp xếp lại lực lượng cán bộ có kỹ

thuật, chuyên môn về biển. Trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo lại và sử dụng hợp lý

đội ngũ cán bộ hiện có với những cơ chế chính sách thích hợp để đáp ứng yêu cầu

to lớn và khẩn trương của công cuôc phát triển kinh tế biển. Đồng thời phải đẩy

mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực mới, có khả năng xử lý tổng hợp các vấn đề

về khai thác và quản lý biển. Có một chính sách thỏa đáng và chế độ ưu đãi đặc biệt

thật cụ thể về vấn đề thu hút nhân tài.

Tăng cường đào tạo lao động thạo nghề, chú trọng công tác giáo dục, đào tạo

nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thức về biển, về quản lý, khai thác và bảo

vệ tài nguyên, môi trường biển cho toàn dân trong huyện và nhất là dân cư các xã

ven biển.

Tỉnh hỗ trợ ngân sách đài thọ toàn phần hoặc một phần học phí cho các học

viên trường nghề, các lớp đào tạo thợ chuyên môn kỹ thuật và quản lý, phục vụ cho

các hoạt động kinh tế trong huyện.

Trên cơ sở các công tác, tổ chức như: khuyến nông ngư, các trung tâm hướng

nghiệp,…, cần tiếp tục nâng cao trình độ lao động, phấn đấu đến năm 2020, có 90%

lao động nông nghiệp nói chung được qua các khóa khuyến nông ngư và 35-45%

lao động được đào tạo các lớp ngắn hạn về kỹ năng nông ngư nghiệp.

Cần tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật tại chỗ (mỗi xã có ít

nhất 2-3 cán bộ kỹ thuật) làm nồng cốt hỗ trợ người dân tiếp thu và ứng dụng kỹ

thuật mới trong nuôi trồng.

Mở rộng hợp tác với các cơ sở đào tạo có trang bị hiện đại trong và ngoài

tỉnh để đào tạo lao động kỹ thuật lành nghề. Khuyến khích các doanh nghiệp có sử

dụng lao động góp vốn và trang bị phương tiện để nâng cao chất lượng đào tạo hoặc

liên kết đào tạo tại doanh nghiệp, Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần kinh phí. Tạo sự liên

kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tư vấn về phát triển kinh tế - kỹ

thuật công nghệ, các doanh nghiệp với các trường đại học, các cơ sở đào tạo công

nhân kỹ thuật để hỗ trợ nhau trong vấn đề đào tạo, cung ứng, sử dụng nhân lực một

cách có hiệu quả nhất.

Xây dựng và mở rộng thêm các trường, cơ sở đào tạo, mở rộng thêm các

ngành nghề mới, chú ý đến đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ dạy nghề,

nhằm nâng cao chất lượng và số lượng đào tạo đi đôi với việc liên kết, thu hút đội

ngũ giảng viên có chuyên môn cao về giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng nguồn

lao động. Cụ thể:

+ Đầu tư nâng cấp Trường Đại học Tiền Giang, Trường Cao đẳng nghề Tiền

Giang và các cơ sở đào tạo công lập đang có tại tỉnh. Tăng cường cơ sở vật chất,

chuẩn hóa giáo viên, chuẩn hóa nội dung và chương trình đào tạo để tăng quy mô,

chất lượng đào tạo.

+ Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư thành lập các trường đào tạo

nghề từ công nhân kỹ thuật trung cấp khu vực Gò Công.

+ Khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn và các trung tâm

tư vấn dịch vụ việc làm để định hướng chọn nghề, việc làm cho lực lượng lao động

tại địa phương.

- Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm giữ và thu hút nhân tài nhất là các

chuyên gia đầu ngành phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng

cường hợp tác với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam trong vấn đề đào tạo, tuyển dụng lao động. Cụ thể theo ngân

sách của Tỉnh: tốt nghiệp cử nhân, kỹ sư loại giỏi được thưởng 5 triệu, loại khá 4

triệu, khi về huyện sẽ được hỗ trợ thêm chi phí tàu xe, nhà ở tập thể; nếu tham gia

học sau đại học sẽ được thanh toán hoàn toàn tiền học phí, hỗ trợ 500 ngàn

đồng/năm tiền tài liệu và sinh hoạt phí mỗi tháng đi học là 650 ngàn đồng đối với

nữ và 550 ngàn đồng đối với nam; đối với lao động phổ thông sẽ được đào tạo nghề

theo những lớp ngắn hạn từ 3 – 6 tháng, được hưởng lương tối thiểu cộng thêm tiền

phụ cấp vùng sâu, khó khăn.

- Trẻ hóa đội ngũ cán bộ quản lý ngành, tạo điều kiện tham quan, học tập,

giao lưu với nước ngoài để kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trường, công nghệ...

- Thường xuyên mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp để nâng cao

trình độ quản lý doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh.

Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế và nguồn lao động dự báo trong kế

hoạch đã đề ra của Uỷ Ban Nhân Dân huyện phê duyệt nhằm đào tạo nguồn lao

động theo yêu cầu phát triển ngành, có sự bố trí cơ cấu lao động hợp lý theo cơ cấu

ngành.

3.4.5. Quảng cáo, tiếp thị và mở rộng thị trường

Thị trường là nhân tố đặc biệt quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung

và sự phát triển kinh tế biển. Để đẩy nhanh tốc độ phát triển của kinh tế biển đòi hỏi

phải không ngừng mở rộng thị trường, kể cả thị trường ttrong và ngoài nước thông

qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị.

Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa và dịch vụ với sự tham gia của nhiều thành

phần kinh tế, ưu tiên phát triển sản xuất các mặt hàng chế biến thủy hải sản, các sản

phẩm du lịch biển độc đáo…mang tính cạnh tranh trên thị trường. Tận dụng vị trí

cửa mở của vùng ven biển để tăng cường giao lưu kinh tế, mở rộng và phát triển thị

trường đến nhiều vùng khác nhau. Tăng cường hội nhập thị trường trong vùng với

thị trường cả nước và thị trường quốc tế.

Tổ chức các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tốt nhằm thu hút sự quan tâm của

đông đảo các thành phần dân cư trong địa phương và các vùng lân cận. Khuyến

khích người dân tham gia vào các hoạt động hữu hiệu trong các hiệp hội. Hình

thành các câu lạc bộ các ngành nghế nhằm phối hợp trong thông tin thị trường, có

tác động như sàn giao dịch và thông tin mới về các loại sản phẩm, đặc biệt là những

đặc sản trên địa bàn huyện.

Quảng cáo là nhằm tạo sự nhận biết của khách hàng đến sản phẩm. Vì vậy,

để đạt được kết quả, khi tiến hành quảng cáo và tiếp thị, chúng ta cần trả lời được

những câu hỏi:1. Tiếp cận khách hàng như thế nào? 2. Làm sao để tiếp cận khách

hàng?. Với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, đặc biệt là internet kết hợp

với các công cụ truyền thông nên việc quảng cáo, tiếp thị trở nên rộng rãi và thông

thoáng hơn. Sau đây là một số phương tiện truyền thông sử dụng cho mục đích tiếp

thị và quảng cáo

- Quảng cáo trên báo, tạp chí: hiện nay có khoảng 40 đầu báo, tạp chí được

quan tâm nhiều nhất trong số hơn 600 loại báo, tạp chí. Việc lựa chọn đầu báo phù

hợp cho mục đích quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm của địa phương là rất quan

trọng. Ví dụ: báo Thanh niên tuần san số 150 (năm 2009), chuyên mục du lịch đã

quảng bá hình ảnh bãi cát đen Tân Thành thuộc khu du lịch Tân Thành một cách rất

lôi cuốn và hiệu quả.

- Quảng cáo truyền thanh, truyền hình: quảng cáo truyền thanh tập trung vào

hai sóng nhất định là FM và AM vì đây là hai sóng phát thanh thu hút hầu hết

những thính giả nghe đài. Mặc khác, hình thức quảng cáo truyền hình đã tạo hiệu

ứng tốt (nhưng chi phí khá cao), nhất là đài truyền hình của tỉnh nhà (Đài truyền

hình Tiền Giang) và một số đài truyền hình khác: HTV, VTV,...

- Quảng cáo ngoài trời: bằng các áp phích, pa nô trên đường phố một các

sáng tạo, lôi cuốn,.. nhưng không làm mất mỹ quan đường phố. Đây là loại hình

quảng cáo rất phổ biến hiện nay vì tính hiệu quả và tiết kiệm.

- Quảng cáo trực tuyến trên Internet thông qua hệ thống trang web

- Xây dựng thương hiệu.

- Tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề và các hội chợ triển lãm sản phẩm.

Nhất là ngành du lịch, hoạt động quảng cáo, tiếp thị mang tính quyết định

đối với sự tồn tại của ngành. Ngoài các cách thức trên, ngành du lịch huyện còn đưa

vào hoạt động Trung tâm Thông tin du lịch Gò Công Đông

- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt

động Trung tâm Thông tin du lịch Gò Công Đông tại Khu Du lịch biển Tân Thành. Công trình được xây dựng kiên cố trên diện tích 152,53m2 và sân 237,85m2 với

tổng kinh phí gần 945 triệu đồng từ nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng nhỏ của Cấu

phần B thuộc Dự án phát triển du lịch Mekong Tiền Giang. Công trình đã được bàn

giao cho UBND huyện Gò Công Đông quản lý và khai thác hoạt động.

- Trung tâm Thông tin du lịch Gò Công Đông là cơ sở thứ 3, sau Trung tâm

Thông tin Du lịch Cái Bè và Trung tâm Thông tin Du lịch Long Trung – Cai Lậy.

Việc đưa các Trung tâm Thông tin du lịch vào hoạt động là một trong những nỗ lực

của ngành Du lịch Tiền Giang, nhằm cung cấp thông tin cần thiết cho du khách

trong và ngoài nước, góp phần quảng bá và xúc tiến du lịch Tiền Giang.

3.4.6. Tổ chức thực hiện quy hoạch kinh tế biển

Sau khi ban chấp hành Trung ương Đảng đưa ra nghị quyết về chiến lược

biển đến năm 20220, tỉnh Tiền Giang là một trong những tỉnh có tiềm năng về kinh

tế biển đã nhanh chóng đưa ra chương trình hành động về chiến lược biển và huyện

Gò Công Đông là huyện có nhiều lợi thế trong quá trình phát triển kinh tế biển của

tỉnh nhà cũng không nằm ngoài công cuộc phát triển đó. Các ban ngành,các xã biển

tiến hành ngay việc lập chi tiết cụ thế của địa phương theo định hướng chung của

phương án quy hoạch tổng thể. Trước hết, nhanh chóng hiệu chỉnh quy hoạch chi

tiết cho các vùng trọng điểm với các bước đi cụ thể cho từng giai đoạn.

Sở kế hoạch-đầu tư cũng như các ban ngành lien quan phối hợp chặt chẽ với

nhau, khẩn trương xây dựng các dự án cho các công trình trọng điểm nhằm thu hút

vốn đầu tư.

3.4.6.1. Quy hoạch về thủy sản

Về việc quản lý tạm thời khu vực sinh giống các loài thuỷ sản: việc tăng

cường quản lý bảo vệ và phát triển nguồn giống nghêu, sò huyết và hến ở các thuỷ

vực trên địa bàn tỉnh. Xét tình hình thực tế nguồn sinh giống loài thuỷ sản cần được

bảo vệ ở vùng biển Gò Công Đông tiến hành quy hoạch các vùng sau:

* Khu vực 1: diện tích 196 ha thuộc ấp Tân Phú, vị trí:

- Phía Đông: giáp biển Đông.

- Phía Tây: giáp rừng phòng hộ.

- Phía Nam: giáp sân nghêu ông Nguyễn Văn Săn (chín Săn).

- Phía Bắc: giáp ranh giới xã Tân Điền.

* Khu vực 2: diện tích 30 ha thuộc ấp Cây Bàng, vị trí:

- Phía Đông: giáp cồn nghêu giống.

- Phía Tây: giáp bãi biển.

- Phía Nam: giáp sông Cửa Tiểu.

- Phía Bắc: giáp sân nghêu ông Võ Minh Hùng.

2. Vùng biển thuộc ấp Hộ - xã Tân Điền - huyện Gò Công Đông, có diện tích

là 600 ha (sáu trăm ha):

- Phía Đông giáp: biển Đông.

- Phía Tây giáp: rừng phòng hộ.

- Phía Nam giáp: ranh giới xã Tân Thành.

- Phía Bắc giáp: bãi biển (đất công).

3. Vùng ven sông thuộc xã Phước Trung - huyện Gò Công Đông có diện tích

20 ha (hai mươi ha) thuộc 2 khu vực:

* Khu vực 1: Diện tích 10 ha thuộc ấp Nghĩa Chí – xã Phước Trung - huyện

Gò Công Đông, có vị trí như sau:

- Phía Đông giáp: tuyến sông biển Đông (thuộc xã Tăng Hoà).

- Phía Tây giáp: sông Cửa Tiểu

- Phía Nam giáp: xã Phú Đông

- Phía Bắc giáp: ấp Nghĩa Chí (cống số 2).

* Khu vực 2: diện tích 10 ha thuộc ấp Dương Hòa - xã Phước Trung - huyện

Gò Công Đông, có vị trí như sau:

- Phía Đông giáp: tuyến sông về ấp Nghĩa Chí.

- Phía Tây giáp: tuyến sông về ấp Bình Tân

- Phía Nam giáp: xã Phú Thạnh - huyện Gò Công Tây

- Phía Bắc giáp: ấp Dương Hòa (đầm tôm Lê Phát Vinh).

4. Vùng bãi thuộc xã Kiểng Phước diện tích 100ha, có vị trí như sau:

- Phía Đông: giáp biển.

- Phía Tây: giáp đê biển.

- Phía Nam: giáp xã Tân Điền.

- Phía Bắc: giáp xã Vàm Láng

3.4.6.2. Quy hoạch về du lịch biển

Trong năm 2005-2006, UBND huyện cho tiến hành quy hoạch chi tiết xây

dựng khu du lịch sinh thái biển Tân Thành (với tổng diện tích là 80,36 ha. Vị trí từ

cửa hàng du lịch Tân Thành thuộc Cty Du lịch Tiền Giang đến BQL Cồn bãi huyện

với tổng chiều dài là trên 3 km cặp biển) và đã được UBND tỉnh Tiền Giang phê

duyệt. UBND huyện cho thành lập ban chỉ đạo và khu du lịch nhằm tăng cường

công tác thực hiện triển khai quy hoạch chi tiết xây dựng khu du lịch sinh thái biển

Tân Thành. Theo đó, khu du lịch sinh thái biển Tân Thành được xây dựng thành

khu du lịch sinh thái phát triển đồng bộ, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh,

với các khu nghỉ dưỡng, khu sinh hoạt giải trí, thể dục thể thao…với nguồn vốn đầu

tư hơn 35,8 tỷ đồng hiện đang thực hiện giai đoạn đầu. Khi hoàn thành, đây là khu

du lịch sinh thái ngập mặn phục vụ nhu cầu tham quan nghỉ biển, khu vui chơi giải

trí,…mang tính chất nghỉ dưỡng, kết hợp các loại hình sinh hoạt vui chơi bãi biển,

du lịch dã ngoại, cắm trại, mua sắm các sản phẩm địa phương và thưởng thức các

món ăn vùng biển.

Thực hiện công tác kêu gọi đầu tư: (đã liên hệ trung tâm xúc tiến Thương

mại tỉnh, Sở Thương mại - Du lịch Tiền Giang hỗ trợ quảng bá du lịch. Hiện có một

số nhà đầu tư ở TP Hồ Chí Minh xin hợp đồng thuê đất thực hiện đầu tư)

Uỷ Ban Nhân Dân huyện cho tiến hành đo đạt tòan bộ khu vực quy hoạch

(đã thực hiện xong), đang tiếp tục xin Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh ra quyết định thu hồi

đất và xin vay vốn để có cơ sở kê biên, áp giá, đền bù, giải tỏa, giao đất cho nhà

đầu tư triển khai dự án.

Sở Thương mại - Du lịch đã xây dựng 100m bờ kè biển theo công nghệ mới

tại khu vực biển Tân Thành (vừa bảo vệ đê và phục vụ du lịch) với kinh phí trên 1,7

tỷ đồng. Hiện Sở Thương mại - Du lịch dự kiến tiếp tục thi công thêm 200m kè biển

và Trung tâm thông tin du lịch tại khu du lịch sinh thái biển Tân Thành với kinh phí

trên 3,5 tỷ đồng trong 6 tháng cuối năm 2007.

3.4.7. Đẩy mạnh hợp tác liên vùng

Trên địa bàn huyện Gò Công Đông có cả hai loại thủy vực nuôi trồng thủy

sản mặn, lợ và ngọt hóa với độ thích nghi khá đa dạng. Trên các thủy vực vùng

nhiễm mặn, lợ ven biển, sau khi tách phần đất được chuyển thành khu công nghiệp

có trên 1200 ha đất có mặt nước có thể nuôi trồng thủy sản dưới nhiều hình thức và

gần 2000 ha bãi bồi có thể nuôi nhuyễn thể. Trên các thủy vực ngọt hoa, có khoảng

gần 500 ha mặt nước nuôi dạng ao hầm và 100 ha có thể nuôi xen thủy sản. Tuy

nhiên, cần lưu ý thủy vực mặn lợ rất nhạy cảm với tác động của các khu công

nghiệp sẽ phát triển rất mạnh tại các khu vực ven biển trong tương lai và cần có giải

pháp kiểm soát, bảo vệ môi trường nuôi thích hợp nhằm tiến đến phát triển bền

vững. Mặc khác, với vị trí giáp biển Đông và với lợi thế vị trí của cảng cá Cần Lộc

(Vàm Láng), ngành đánh bắt thủy hải sản của huyện Gò Công Đông có điều kiện

phát triển mạnh theo chiều sâu và chiếm tỷ trọng quan trọng trong cơ cấu ngành

thủy sản.

Trong phạm vi nhỏ, với lợi thế của huyện về nuôi trồng thủy sản và phát

triển du lịch biển, huyện cần có sự kết hợp chặt chẽ với các địa phương lân cận

trong Tỉnh nhằm tạo đầu ra an toàn cho các sản phẩm. Ở một diện tích rộng và xa

hơn, huyện phải có sự liên kết với các huyện ven biển lân cận khác như: Bình Đại,

Ba Tri (Bến Tre) hay huyện đảo Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh). Đây là các địa

phương có nhiều yếu tố tương đồng về các ngành nghề và cả về phương diện địa lý,

nhằm học tập, trao đổi kinh nghiệm cũng như những kỹ năng trong sản xuất, phát

triển kinh tế.

Hợp tác phát triển là một trong nhưng giải pháp quan trọng nhằm tăng cường

khả năng thu hút đầu tư, khả năng cạnh tranh, khi mà những điều kiện về vốn, nhân

sự và kỹ thuật của Huyện còn rất hạn chế. Do đó, để phát triển nhanh nền kinh tế

nói chung và kinh tế biển nói riêng, nâng cao đờ sống vật chất tinh thần người dân,

Huyện xác định nhu cầu liên kết và hợp tác đầu tư phát triễn với các huyện lân cận,

với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tập trung của thành phố Mỹ Tho, với

chợ dầu mối thủy sản và hệ thống các siêu thị của thành phố Hồ Chí Minh.

3.5. Kiến nghị

Huyện tiếp tục xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế –

xã hội cho các xã ven sông, ven biển. Trên cơ sở đó phát huy các tiềm năng của

từng vùng và xác định nhu cầu và thứ tự ưu tiên cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, hình thành các vùng chuyên canh, bố trí cụm dân cư, hình thành các khu

trung tâm xã.

Trong lĩnh vực thủy sản: triển khai xây dựng dự án quy hoạch các vùng nuôi

thủy sản tập trung nhằm tạo điều kiện cải tạo hệ thống môi trường, kiểm soát dịch

bệnh, phát triển các giống loại nuôi phù hợp với thị trường. Trong lĩnh vực đánh bắt

thủy sản: khuyến khích và có chính sách hỗ trợ cho các tàu đánh bắt xa bờ đầu tư

phương tiện để chế biến tại chổ, quản lý tốt chất lượng sản phẩm sau đánh bắt. Hình

thành các tổ hợp tác khai thác biển nhằm gia tăng hiệu quả đánh bắt kết hợp với bảo

đảm trật tự, an toàn, an ninh vùng biển; hoàn thành các dự án neo đậu trú bão cho

tàu cá.

Đẩy mạnh hợp tác mở rộng ngành nghề chế biến thủy sản. Tiếp tục hỗ trợ

xây dựng dự án sử dụng vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Xây dựng và

phát triển các làng nghề.

Tạo điều kiện cho loại hình kinh tế hợp tác phát triển- đặc biệt là đối với các

khu vực nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản, phát huy hình thức liên doanh, liên

kết, xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư.

Đối với đánh bắt thủy hải sản: kiến nghị với Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh có ý

kiến với ngành chức năng tiếp tục thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi đầu tư

cho các chủ phương tiện đánh bắt xa bờ, thực hiện khoanh nợ đối với các chủ

phương tiện làm ăn thua lỗ trong trận bão vừa qua, đồng thời tạo điều kiện cho họ

có đủ vốn tiếp tục tham gia tái sản xuất. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn và giảm thiểu

thiệt hại cho các phương tiện khi đánh bắt xa bờ, đề nghị các ngành chức năng tăng

cường công tác kiểm định-kiểm soát các thiết bị kỹ thuật trên phương tiện, trang bị

thêm các phương tiện cứu hộ - cứu nạn tiên tiến để kịp thời xử lý khi có tình huống

xảy ra.

Ngoài ra, kiến nghị các ngành chức năng sớm có chủ trương thu phí kiểm

định môi trường nuôi – kiểm soát dịch bệnh và phí thủy lợi nhằm duy trì hiệu quả

công trình hạ tầng ở các vùng dự án, đồng thời tăng cường kinh phí cho các ngành

chức năng xây dựng điểm trình diễn, chuyển giao kỹ thuật nuôi tiên tiến ở những

vùng nuôi trọng điểm, tổ chức nuôi thử nghiệm một số loài thủy sản khác phù hợp

và có giá trị kinh tế khác ngoài tôm để đa dạng hóa các loài thủy sản nuôi. Bên cạnh

đó, tiếp tục mở rộng chương trình đào tạo kỹ thuật viên nuôi thủy sản trình độ từ sơ

cấp, trung cấp với hướng ưu tiên hỗ trợ cho các lao động trong độ tuổi trong vùng

nuôi và đặc biệt là phải có sự quan tâm đúng mức đối với các sinh viên thuộc ngành

thủy sản đang theo học cũng như việc thu hút họ sau khi tốt nghiệp về công tác tại

địa phương với các chính sách ưu đãi thích hợp.

Đầu tư hoàn chỉnh khu du lịch Tân Thành. Mở rộng và phát triển thêm các

tuyến du lịch sinh thái, du lịch văn hóa. Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh ban hành

chính sách ưu đãi đầu tư về du lịch sinh thái biển Tân Thành huyện Gò Công Đông

cụ thể như về chế độ thuế, thuê đất…(hiện du lịch sinh thái thuộc lĩnh vực ưu đãi

đầu tư và Gò Công Đông thuộc địa bàn ưu đãi nhưng theo quy định về khuyến

khích, hỗ trợ và ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Tiền Giang (ban hành theo Quyết

định số 08/2007/QĐ- Uỷ Ban Nhân Dân ngày 28/03/2007 của Uỷ Ban Nhân Dân

tỉnh Tiền Giang) chưa có hướng dẫn cụ thể).

Đối với sản xuất lâm nghiệp: kiến nghị việc xây dựng dự án thi công đê bao

ven biển ngăn triều cường hai xã Phú Tân, Phú Đông (nay đã thuộc huyện Tân Phú

Đông) kết hợp làm ranh đai rừng phòng hộ và các vùng nuôi thủy sản vừa đáp ứng

được nhu cầu giao thông, quốc phòng và bảo vệ đai rừng phòng hộ. Thực hiện trồng

rừng trên các cồn (cồn Ngang, cồn Vượt) để hình thành rừng sinh thái ngập mặn,

bảo vệ môi trường ven sông – ven biển một cách bền vững.

Đối với việc phát triển các ngành dịch vụ: kiến nghị Tỉnh sớm bố trí vốn đầu

tư hình thành chợ đầu mối thủy sản ở khu vực Đèn Đỏ - Tân Thành để khuyến

khích việc đầu tư nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản.

Sớm xây dựng chợ thủy sản Vàm Láng có quy mô phù hợp với định hướng phát

triển kinh tế trong tương lai.

Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế- xã hội với bảo vệ và cải thiện môi

trường. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống xử lý môi trường cho các vùng chuyên canh.

Tiếp tục tiến hành điều tra và nghiên cứu các chỉ tiêu cơ bản liên quan đến

hiện trạng các vùng trên bờ và ngoài biển, làm cơ sở cho công tác quản lý, khai thác

các tiềm năng kinh tế và bảo vệ môi trường.

Đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khác: kiến nghị Tỉnh ưu tiên bố trí

vốn xây dựng và nâng cấp các công trình hạ tầng phúc lợi công cộng cho các xã ven

biển, triển khai nhanh việc thi công đường ống cấp nước cho cụm công nghiệp Vàm

Láng, nạo vét sông Cửa Tiểu và thường xuyên nạo vét sông Cần Lộc, đẩy nhanh

tiến độ thi công các công trình ở khu du lịch Tân Thành. Cùng với hệ thống đê bao

ven sông – ven biển đã được quan tâm nâng cấp vừa làm chức năng phòng chống

lụt bão vừa đảm bảo khả năng cơ động của các lực lượng khi có tình huống xảy ra.

Công tác phòng chống lụt bão cho các xã ven biển phải được đầu tư với việc

hình thành khu né bão, thường xuyên diễn tập các tình huống phòng chống thiên tai

cho người dân nơi đây.

KẾT LUẬN

Một thời gian rất dài Gò Công Ðông vốn nổi tiếng là vùng "đất trắng", là một

trong số những huyện nghèo nhất tỉnh vì đất đai bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm

trọng đến đời sống, sản xuất của nhân dân. Mùa nắng thì "đồng khô, cỏ cháy", mặn

xâm nhập kéo dài hơn sáu tháng, đất đai cằn cỗi, sản xuất độc canh cây lúa, chỉ làm

được một vụ bấp bênh, năng suất thấp, từ 2 đến 2,2 tấn/ha. Mặt khác, thế mạnh tiềm

năng kinh tế biển lại chưa có điều kiện để chú ý khai thác, cho nên đời sống người

dân rất cơ cực, vất vả, nhiều hộ dân thiếu việc làm, buộc phải rời xa quê đi làm thuê

mướn ở các nơi khác.

Hiện nay, một bước ngoặc mới đã làm thay đổi diện mạo của huyện, vực dậy

một tiềm năng đang bị bỏ quên. Toàn bộ phía đông của huyện dài 32 km tiếp giáp

bờ biển, có tuyến đê sông dài 91 km, được bao bọc bởi ba cửa sông lớn: cửa Soài

Rạp, cửa Tiểu và cửa Ðại, là nơi hội tụ nguồn tài nguyên thủy sản đa dạng, phong

phú; đồng thời còn là cửa ngõ thứ hai của tỉnh, chỉ cách TP Hồ Chí Minh gần 40

km... Với lợi thế tiềm năng quan trọng trong việc phát triển kinh tế biển, Ðảng bộ

huyện đã xác định việc nuôi trồng, khai thác, đánh bắt và chế biến thủy, hải sản; đầu

tư phát triển dịch vụ, du lịch sinh thái... là mũi nhọn để phát triển kinh tế.

Ngành nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản đang được chú trọng

phát triển và được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Đáng chú ý là hiện nay

mô hình nuôi trồng thủy sản gồm cả nước lợ, nước mặn đang được nông dân trong

huyện phát triển mạnh theo hướng da dạng hóa đối tượng nuôi tiến tới xây dựng

vùng nuôi tập trung cung ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến xuất

khẩu. Tôm sú, nghêu, tôm càng xanh, các đối tượng thủy sản nuôi khác đang là thế

mạnh của huyện biển Gò Công Đông. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển

kinh tế biển toàn diện, tập trung đầu tư hạ tầng nuôi thủy sản cho vùng ven biển, coi

đây là khâu đột phá mang tính bền vững lâu dài cho vùng kinh tế biển của tỉnh. Đầu

tư cho sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất giống thủy sản có chất lượng và

giá trị cao, đặc biệt là tôm giống và nghêu giống. Làm tốt công tác dịch vụ hậu cần

nghề cá, dự báo môi trường và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tăng cường năng lực chế

biến, đa dạng hoá sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu

Với ưu thế bãi biển, huyện đã hình thành khu du lịch sinh thái biển Tân

Thành, hàng năm đón tiếp đông đảo du khách khắp nơi. Với sự đầu tư và nâng cấp

của Nhà nước, Gò Công Đông hứa hẹn sẽ mở ra điểm du lịch lý tưởng cho nhân dân

toàn khu vực.Với những thành tựu và thế mạnh kinh tế, Gò Công Đông có ý nghĩa

quan trọng trong việc góp phần giữ vững an ninh vùng biển, tạo tiền đề và điều

kiện cơ bản tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, công nghiệp và nông thôn.

Rừng phòng hộ ven biển có giá trị trong việc phát triển kinh tế biển và vùng

ven biển Tiền Giang. Hệ thống đê biển gắn với rừng phòng hộ không chỉ bảo vệ

tính mạng, tài sản của người dân, mà còn bảo vệ hệ sinh thái, môi trường, đặc biệt

giúp ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội theo đường lối

đổi mới và hội nhập hiện nay.

Tuy nhiên, do sự phát triển một cách nhanh chóng các ngành kinh tế biển đã

làm cho môi trường biển huyện đang phải “oằn mình” gánh chịu những hậu quả

năng nề, cộng thêm tình trạng rừng chết và bị biển xâm thực ngày càng nghiêm

trọng. Và do nhiều nguyên nhân khác nhau, các lĩnh vực kinh tế biển còn kém phát triển

ở nhiều mặt, việc quản lý và khai thác biển kém hiệu quả, gây lãng phí tiềm năng của biển.

Thế kỷ 21 được thế giới xem là “Thế kỷ của đại dương” và để thực hiện thắng

lợi Chiến lược biển đã đề ra, cần nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vị

trí, vai trò của biển và thực hiện một số giải pháp sau:

- Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và khai thác biển

- Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền

- Huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài huyện cho phát triển kinh tế biển

- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

- Quảng cáo, tiếp thị và mở rộng thị trường

- Tổ chức thực hiện quy hoạch kinh tế biển

- Quy hoạch về thủy sản

- Quy hoạch về du lịch biển

- Đẩy mạnh hợp tác liên vùng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Âu (2002), Địa lý biển Đông, NXB ĐHQG Hà Nội.

2. Lê Huy Bá (1997), Quản trị môi trường, NXB KHKT, Hà Nội.

3. Báo cáo tổng hợp: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển và các hải đảo

Việt Nam đến năm 2010, Bộ kế hoạch và đầu tư, Viện chiến lược phát triển,

Hà Nội, 1996.

4. Báo cáo tổng hợp: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Gò Công

Đông đến năm 2020.

5. Nguyễn Khắc Duật (1987), Địa lý kinh tế vận tải biển, NXB Giao thông vận tải,

Hà Nội.

6. Phạm Văn Giáp (chủ biên), Phan Bạch Châu, Nguyễn Ngọc Huệ (2002), Biển

và cảng biển Thế giới, NXB Xây dựng, Hà Nội.

7. Võ Nguyên Giáp (1987), Kinh tế biển và khoa học kỹ thuật về biển ở nước ta,

Nông nghiệp.

8. Quang Luyện, Rừng – biển và kinh tế thủy sản, Viện kinh tế trung tâm khoa học

xã hội và nhân văn quốc gia.

9. Phạm Trung Lương (chủ biên), Hoàng Hoa Quân, Nguyễn Ngọc Khánh,

Nguyễn Văn Lanh, Đỗ Quốc Thông (2001), Du lịch sinh thái-Những vấn đề

về lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam , NXB Giáo dục.

10. Đỗ Ngọc Hà – Nguyễn Đức Phú (1997), Các phương tiện vận tải, NXB Khoa

học và kỹ thuật, Hà Nội.

11. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, NXB ĐHQG Hà Nội.

12. Nguyễn Kim Hồng (2001), Giáo dục môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Tô Thị Lựu (2000), Kinh tế biển ở huyện đảo Cát Hải-TP Hải Phòng, ĐHSP Hà Nội.

14. Vũ Trung Tạng (1979), Nguồn lợi sinh vật biển Đông, NXB KH&KT.

15. Trần Văn Thành (2002), Chuyên đề: “Bảo vệ môi trường”, ĐHSP TP.HCM.

16. Trần Văn Thông (2005), Quy hoạch du lịch - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,

NXB ĐHQG TP.HCM.

17. Lý Thái Thuận (1990), Biển – Cái nôi của sự sống, NXB Long An.

18. Nguyễn Đức Tuấn (2001), Địa lý kinh tế học, NXB Thống kê.

19. Nguyễn Minh Tuệ,Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Kim

Hồng (1996), Địa lý du lịch, NXB TP.HCM.

20. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2005), Địa lý

kinh tế - xã hội đại cương, NXB ĐHSP.

21. Vũ Bội Tuyền, Sản xuất muối biển theo phương pháp phơi nước, Bộ lương thực

thực phẩm.

22. Bùi Thị Hải Yến (2006), Quy hoạch du lịch, NXB Giáo dục.

20. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên), Phạm Hồng Long (2007), Tài nguyên du lịch, NXB

Giáo dục.

23. Tài liệu tập huấn: Phương pháp quy hoạch phát triển vùng ven biển, Chương

trình hợp tác Việt Nam – Thụy Điển (PCM), Tiểu dự án 5, Đồng Hới, 1997.

24. Tạp chí kinh tế và dự báo, số 8/2007

25. Trích từ báo SGGP 11/5/2002, Huyện Cần Giờ - Khu công nghiệp dịch vụ cảng

biển và du lịch sinh thái: Các khu vực quy hoạch ở TP HCM.

26. Trích từ báo Sài Gòn giải phóng ngày 6/10/2000, trang 1, Hội thảo phát triển

kinh tế biển Việt Nam, hiện trạng, những mục tiêu và giải pháp.

27. Trích từ báo Tài nguyên và môi trường, ngày 1/9/2007, số 9, Bảo vệ môi trường

biển cần một hệ thống giải pháp đồng bộ.

28. Calinkin (G.F), Chế độ vùng biển, NXB Giao thông vận tải.

29. Đubinxki, Những công nghệ tiên tiến vận chuyển hàng hóa bằng đường biển,

NXB Giao thông vận tải.

30. L.P.Subaev (1982), Địa lý tự nhiên đại cương, tập 3, Đào Trọng Năng (dịch),

NXB Giáo dục.

31. Jaques Vernier (1992), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo

(dịch), NXB Thế giới, Hà Nội.

32. Website: http://www.google.com.vn

Nhóm hình 1: Biển Tân Thành

Đi trên bãi biển Tân Thành

Chòi giữ nghêu ở biển Tân Thành

Đi dạo trên biển

Đê biển Tân Thành

Bãi biển Tân Thành

Nhóm hình 2: Đặc sản vùng biển

Con còng Con nghêu

Con sam

Mắm còng Tôm sú Gỏi sam nướng

Cua biển và món nham cua

Nhóm hình 3: Con nghêu vùng biển

Thu hoạch nghêu Các món ăn từ nghêu

Lẩu nghêu Cơm nghêu Nghêu hấp xả

Nhóm hình 4: Nuôi tôm

Đầm nuôi tôm

Thu hoạch tôm sú

Nuôi tôm công nghiệp

Nhóm hình 5: Môi trường biển

Dầu

Một vạt rừng phòng hộ thuộc ấp Hộ, Tân Điền đang biến mất vì sóng Rừng phòng hộ ven biển ở Gò Công Đông bị lấn chiếm để làm vuông tôm

Nghêu chết hàng loạt

Dầu tràn trên sân nghêu

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cám ơn

Mục lục

Danh mục các bảng, biểu đồ, bản đồ

MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Biển .................................................................................................................7

1.2. Kinh tế biển .....................................................................................................9

1.3. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ...................................................21

Chương 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG

2.1. Tổng quan về huyện Gò Công Đông ............................................................31

2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm về tài nguyên tự nhiên ................................32

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ...................................................35

2.2. Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế biển của huyện

Gò Công Đông từ 2001 – 2007 ...................................................................45

2.2.1. Các nguồn lực phát triển ....................................................................45

2.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông ..................47

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ

BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG ĐẾN 2020

3.1. Định hướng phát triển kinh tế biển của Tỉnh Tiền Giang và Huyện

Gò Công Đông ............................................................................................79

3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế biển của Tỉnh Tiền Giang ..................79

3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế biển của Huyện Gò Công Đông..........82

3.2. Các định hướng phát triển kinh tế biển cụ thể ..............................................87

3.2.1. Định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế biển...........................................87

3.2.2. Định hướng cơ cấu ngành kinh tế biển ...............................................91

3.2.3. Định hướng phát triển nguồn nhân lực ............................................100

3.2.4. Định hướng đầu tư phát triển kinh tế biển .......................................101

3.3. Các chỉ tiêu dự báo .....................................................................................102

3.3.1. Dự báo doanh thu của ngành kinh tế biển.........................................102

3.3.2. Dự báo nguồn nhân lực .....................................................................104

3.3.3. Dự báo đầu tư phát triển kinh tế biển ...............................................105

3.4. Các giải pháp chủ yếu..................................................................................106

3.4.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và khai thác biển ...............106

3.4.2. Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền........................107

3.4.3. Huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài huyện cho phát

triển kinh tế biển................................................................................108

3.4.4. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ...............................................111

3.4.5. Quảng cáo, tiếp thị và mở rộng thị trường ........................................113

3.4.6. Tổ chức thực hiện quy hoạch kinh tế biển ........................................115

3.4.7. Đẩy mạnh hợp tác liên vùng..............................................................118

3.5. Kiến nghị......................................................................................................119

KẾT LUẬN ............................................................................................................122

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................124

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 : GDP huyện Gò Công Đông từ năm 2000-2007 .................................35

Bảng 2.2 : GDP/ người năm 2000 – 2007 ...........................................................36

Bảng 2.3 : Cơ cấu kinh tế huyện Gò Công Đông từ năm 2000 – 2007 ...............36

Bảng 2.4 : Hiện trạng dân số huyện Gò Công Đông năm 2000-2007 .................41

Bảng 2.5 : Lao động và cơ cấu lao động năm 2000 – 2007 .................................44

Bảng 2.6 : Số trường, phòng học, giáo viên và học sinh phổ thông nhà nước

trên địa bàn huyện Gò Công Đông .....................................................45

Bảng 2.7 : Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện GCĐ từ năm 2000 – 2007.....48

Bảng 2.8 : Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông từ năm

2000 – 2007 ........................................................................................52

Bảng 2.9 : Hiện trạng ngành thủy sản huyện Gò Công Đông từ năm 2000-2007 .....55

Bảng 2.10 : Hiện trạng các cơ sở dịch vụ phục vụ thủy sản năm 2007 .................57

Bảng 2.11 : Các chỉ tiêu giá trị ngành thủy sản trên địa bàn huyện Gò Công Đông ....... 58

Bảng 2.12 : Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông từ năm 2000 – 2007........ 64

Bảng 2.13 : Cơ sở vật chất ngành du lịch huyện Gò Công Đông...........................66

Bảng 2.14 : Doanh số thu từ hoạt động du lịch biển huyện GCĐ .........................67

Bảng 2.15 : Lao động trong các ngành kinh tế biển năm 2005, 2006, 2007 .........72

Bảng 2.16 : Vốn đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển......................................75

Bảng 3.1 : Các nhóm dự án – Các chương trình thuộc khu vực 1 .......................95

Bảng 3.2 : Các nhóm dự án thuộc chương trình phát triển du lịch.......................98

Bảng 3.3 : Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020 ................102

Bảng 3.4 : Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020 ...............103

Bảng 3.5 : Dự kiến các chỉ tiêu giá trị ngành năm 2010, 2015, 2020 ...............103

Bảng 3.6 : Dự báo nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển các năm 2010,

2015,2020 .........................................................................................104

Bảng 3.7 : Dự báo đầu tư phát triển kinh tế biển các năm 2010, 2015, 2020 ....105

DANH MỤC CÁC BIỂU ÐỒ

Biểu đồ 2.1 : Cơ cấu kinh tế Huyện Gò Công Đông năm 2000 và 2007 ...............37

Biểu đồ 2.2 : Hiện trạng dân số thành thị, nông thôn huyện Gò Công Đông

từ năm 2000 – 2007 ..........................................................................44

Biểu đồ 2.3 : Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông từ năm

2000 – 2007 ......................................................................................48

Biểu đồ 2.4 : Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông từ

năm 2000 – 2007 ..............................................................................53

Biểu đồ 2.5 : Số tàu thuyền và sản lượng đánh bắt thủy sản huyện Gò Công

Đông từ năm 2000-2007 ..................................................................56

Biểu đồ 2.6 : Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông từ năm 2000 – 2007 ..........65

Biểu đồ 2.7 : Lao động trong các ngành kinh tế biển năm 2005, 2006, 2007 .......73

DANH MỤC CÁC BẢN ÐỒ

Bản đồ 1 : Bản đồ hành chính huyện Gò Công Ðông

Bản đồ 2 : Bản đồ hiện trạng kinh tế xã hội huyện Gò Công Ðông - Tiền Giang

Bản đồ 3 : Bản đồ quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội huyện Gò Công Ðông đến

năm 2020