BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Nương

NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN TỈNH TRÀ VINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Nương

NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN TỈNH TRÀ VINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

Chuyên ngành Mã số

: Địa lý học (trừ ĐLTN) : 60 31 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu,

biểu đồ, hình ảnh và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa được

ai công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2012

Võ Thị Nương

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp, tôi xin chân thành

cám ơn:

Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Sư Phạm TP HCM, cùng các thầy cô,

cán bộ trong khoa Sư Phạm và phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn

thành khóa học.

Trân trọng bày tỏ sự biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Bích Hà đã

tận tình giúp đỡ, cố vấn và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận

văn tốt nghiệp.

Cán bộ UBND tỉnh Trà Vinh, Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn,

các hộ nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Trà vinh đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập

số liệu và cung cấp số liệu, tư liệu.

Các anh chị học viên lớp Địa Lý Học K21 ủng hộ và nhiệt tình giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình học tập. Gia đình đã không ngừng động viên, khuyến khích

tôi trong suốt quá trình học tập.

Võ Thị Nương

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

Danh mục hình ảnh

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NUÔI TRỒNG

THỦY SẢN ........................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm về nuôi trồng thủy sản ................................................................... 7

1.2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản .............................................................. 8

1.2.1. Nuôi trồng thủy sản có tính thời vụ cao ................................................. 8

1.2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất quan trọng nhất ......................................... 9

1.2.3. Đối tượng hoạt động là các sinh vật thuỷ sinh ..................................... 14

1.2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có tính liên ngành cao đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn,

độ rủi ro cao ......................................................................................................... 15

1.2.5. Trong nền kinh tế hiện đại, khai thác và nuôi trồng thủy sản nước ta

đang dần trở thành ngành sản xuất hàng hóa ....................................................... 16

1.3. Vai trò của ngành nuôi trồng thủy sản .......................................................... 16

1.3.1. Duy trì, tái tạo các nguồn lợi thuỷ sản .................................................. 16

1.3.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản ................... 17

1.3.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập ................................................... 18

1.3.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội ....................................... 19

1.3.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp .................................... 21

1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản ...................................... 22

1.4.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 22

1.4.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................. 22

1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội .................................................................. 30

Chương 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH

TRÀ VINH .......................................................................................................... 35

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh ............. 35

2.1.1. Vị trí địa lý ........................................................................................... 35

2.1.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................. 39

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ..................................................................... 52

2.2. Thực trạng hoạt động nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà vinh ........................ 67

2.2.1. Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ ........................................................ 67

2.2.2. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt ............................................................. 75

2.3. Thực trạng về sản lượng, năng suất nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh . 79

2.3.1. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trong cơ cấu ngành nông – lâm – ngư

nghiệp ................................................................................................................... 79

2.3.2. Sản lượng ............................................................................................. 81

2.4. Thực trạng về nguồn lao động nuôi trồng thủy sản ...................................... 93

2.5. Thực trạng về các yếu tố hỗ trợ phát triển nuôi trồng thuỷ sản .................... 95

2.5.1. Sản xuất giống ...................................................................................... 95

2.5.2. Thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản ..................................... 99

2.5.3. Công tác khuyến ngư và chuyển giao công nghệ ............................... 100

2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản ...................................... 102

2.6.1. Thị trường nội địa ............................................................................... 102

2.6.2. Thị trường xuất khẩu .......................................................................... 103

2.7. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động nuôi trồng thủy sản ................. 104

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG

THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH ......................................... 108

3.1. Định hướng về phát triển nuôi trồng thuỷ sản ............................................ 108

3.2. Các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Trà Vinh ... 113

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ............................................................................. 127

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 129

PHỤ LỤC .............................................................................................................. 1

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu long.

BCHTWĐ : Ban chấp hành trung ương Đảng.

CHXHCN : Công hoà xã hội chủ nghĩa

HTTL : Hệ thống thuỷ lợi.

HTX : Hợp tác xã.

KHCN : Khoa học công nghệ.

NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản.

NN – PTNT : Nông nghiệp phát triển nông thôn.

UBND : Uỷ ban nhân dân.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 : Nhu cầu thủy sản trên thế giới đến năm 2010 .............................. 20

Bảng 1.2 : Phân bố nguồn nước mặt ở Việt Nam .......................................... 29

Bảng 2.1 : Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Trà Vinh năm 2010 ................... 48

Bảng 2.2 : Dân số trung bình phân theo thành thị và nông thôn ở tỉnh Trà

Vinh. ............................................................................................. 54

Bảng 2.3 : Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. ................................... 56

Bảng 2.4 : Số học sinh ở các cấp học của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010) ....... 59

Bảng 2.5 : Số giáo viên ở các cấp học( 2006 – 2010) ................................... 60

Bảng 2.6 : Diện tích mặt nước NTTS mặn, lợ tỉnh Trà Vinh ( 2006 – 2010)68

Bảng 2.7 : Diện tích khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS mặn, lợ của

tỉnh Trà Vinh ( 2008-2020) .......................................................... 70

Bảng 2.8 : Diện tích mặt nước NTTS nước ngọt tỉnh Trà Vinh (2006 -2010)76

Bảng 2.9 : Diện tích khai thác mới và chuyển sang NTTS nước ngọt tỉnh Trà

Vinh (2008 – 2020). ..................................................................... 77

Bảng 2.10 : Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản theo giá trị thực tế phân theo

ngành hoạt động (2006 – 2010) ................................................... 80

Bảng 2.11 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng phân theo loại thủy sản của tỉnh

Trà Vinh (2006 – 2010) ............................................................... 86

Bảng 2.12 : Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phân theo huyện (2006 – 2010) .. 88

Bảng 2.13 : Năng suất một số đối tượng mặn lợ (2006 -2010) ....................... 91

Bảng 2.14 : Số lao động làm việc trong khu vực 1 ......................................... 93

Bảng 2.15 : Nhu cầu về con giống trong việc phục vụ quy hoạch NTTS của

tỉnh Trà Vinh ................................................................................ 96

Bảng 2.16 : Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh Trà Vinh giai

đoạn 2006 – 2010 ....................................................................... 103

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Thể hiện nhiệt độ và lượng mưa của tỉnh Trà vinh năm 2010 ..... 43

Biểu đồ 2.2: Thể hiện dân số trung bình phân theo giới tính của tỉnh Trà Vinh

(2006 – 2010) ............................................................................... 53

Biểu đồ 2.3: Thể hiện số học sinh phổ thông của tỉnh Trà Vinh (2006-2010). 57

Biểu đồ 2.4: Thể hiện diễn biến diện tích nuôi tôm sú giai đoạn (2007 - ........ 71

Biểu đồ 2.5: Sản lượng khai thác và nuôi trồng của tỉnh Trà Vinh

(2006 – 2010) ............................................................................... 82

Biểu đồ 2.6: Thể hiện cơ cấu sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh 2006 –

2010 .............................................................................................. 87

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010 ........................................ 36

Hình 2.4: Thể hiện sự phân bố sản lượng thuỷ sản ở các huyện năm 2010......... 84

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đòi hỏi mỗi ngành, mỗi lĩnh

vực, mỗi quốc gia không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, phát huy lợi

thế so sánh để tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực. Việt Nam

không nằm ngoài xu hướng phát triển đó, cánh cửa WTO ngày càng mở rộng hơn

cho Việt Nam khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức này. Việt Nam

vốn là một nước nông nghiệp với khoảng 3/4 dân số sống bằng nghề nông, nông

nghiệp là một thế mạnh của nền kinh tế nước ta phải được chú trọng đầu tư khai

thác hợp lý. Trong ngành nông nghiệp thì ngành nuôi trồng thủy sản được coi là

ngành mang lại nhiều lợi ít kinh tế nhất. Ngành nuôi trồng thủy sản của nước ta

trong những năm gần đây đã có sự phát triển vượt bậc. Hiện nay, nước ta đã trở

thành nước xuất khẩu thủy sản đứng thứ 6 thế giới, đứng thứ 3 thế giới về sản lượng

thủy sản nuôi trồng (sau Trung Quốc và Ấn Độ) và đứng thứ 13 thế giới về sản

lượng khai thác hải sản.

Trà Vinh là một tỉnh ven biển của Đồng bằng sông Cửu long có 65km đường bờ

biển, với nhiều lợi thế để phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng

thủy sản của Trà Vinh đã đem lại những giá trị kinh tế không nhỏ cho tỉnh nhà như:

góp phần giải quyết được công ăn, việc làm cho lao động của tỉnh, đóng góp giá trị

xuất khẩu ngày càng cao. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp

hành trung ương Đảng (BCHTWĐ) khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm

2020”, tỉnh tập trung phát triển lĩnh vực thủy sản ngày càng vững mạnh và ngành

nuôi trồng thủy sản còn được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ðể ngành

thủy sản thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, việc quy hoạch, đầu tư

để khai thác tốt những vùng đất có tiềm năng vào nuôi trồng thủy sản là cần thiết.

Trà Vinh đã nhanh chóng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi sang nuôi

trồng thủy sản cho những vùng đã quy hoạch.

Nhưng cũng như các ngành kinh tế khác ngành nuôi trồng thủy sản Trà Vinh

đang gặp không ít những khó khăn, trong thực tế phát triển. Vì vậy, nghiên cứu hiện

2

trạng ngành nuôi trồng thủy sản Trà Vinh từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát

huy tối đa lợi thế của tỉnh là rất cần thiết.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó tôi đã lựa chọn để tài: “Nuôi trồng thuỷ sản

Trà Vinh thực trạng và giải pháp phát triển”. Với hy vọng thông qua vấn đề

nghiên cứu có thể đóng góp được phần nào vào việc phát triển kinh tế thủy sản nói

riêng và kinh tế xã hội của tỉnh nói chung.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Thủy sản và những vấn đề liên quan đến nuôi trồng thủy sản đã được đề

cập và nghiên cứu ở rất nhiều tài liệu chuyên sâu.

Những tài liệu chuyên sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ngành

thủy sản bao gồm các tài liệu nghiên cứu về nguồn lợi thủy sản của nước ta như

“Nguồn lợi cá biển – Cơ sở của nghề cá biển Việt Nam” của Bùi Đình Chung, Chu

Tiến Vĩnh, Nguyễn Hữu Đức; “Cá biển Việt Nam” của Nguyễn Nhật Thi; các tài

liệu về nghề cá Việt Nam như “Tình hình nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển

nước ta” (Nguyễn Điền), “Xu thế phát triển nuôi trồng thủy sản thế giới và Việt

Nam - Những vấn đề cần quan tâm” (Lê Thanh Lựu), “Một số vấn đề phát triển bền

vững đối với ngành thủy sản” (Nguyễn Chu Hồi), Tạp chí thủy sản, Tuyển tập các

công trình nghiên cứu nghề cá biển của Bộ Thủy sản... Đặc biệt là “Giáo trình kinh

tế thủy sản” (Vũ Đình Thắng, Nguyễn Viết Trung) và “Giáo trình thủy sản” (Trần

Văn Sỹ) là những nghiên cứu sâu sắc và khá đầy đủ về ngành thủy sản dưới góc độ

chuyên sâu về ngành thủy sản và kinh tế thủy sản, là tài liệu chuyên ngành của các

trường Thủy sản.

Dưới góc độ Địa lý học, thủy sản và những vấn đề liên quan đến nuôi trồng

thủy sản cũng đã được đề cập một phần như trong “Tài nguyên biển Đông Việt

Nam” (Phùng Ngọc Đĩnh), “Địa lý Kinh tế - xã hội Việt Nam” (Lê Thông chủ

biên), “Giáo trình Địa lý Kinh tế - xã hội Việt Nam” (Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị

Minh Đức) được trình bày là một bộ phận của ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng ở

mức độ khái quát cao.

3

3. Mục tiêu, nhiêm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu

- Vận dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn về NTTS.

- Đề tài tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng phát triển

NTTS của tỉnh Trà Vinh. Trên cơ sở đó, kiến nghị định hướng và các giải pháp

nhằm khắc phục những khó khăn trong phát triển NTTS của tỉnh, góp phần khai

thác tốt các tiềm năng, mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu

sau:

- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về NTTS áp dụng vào

lãnh thổ nghiên cứu.

- Phân tích đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến NTTS tỉnh Trà Vinh.

- Phân tích, đánh giá thực trạng NTTS của tỉnh.

- Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp cho phát triển NTTS

của tỉnh Trà Vinh.

4. Phạm vi và giới hạn của đề tài

- Về lãnh thổ: đề tài chọn tỉnh Trà Vinh

- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh

Trà Vinh.

- Về thời gian: tháng 1/2006 đến 12/2011.

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu:

5.1.1. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Sự phát triển của ngành NTTS trong quá khứ, đã ảnh hưởng đến hiện tại và

tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề NTTS trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại

- tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo

tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, khi

xem xét hay đánh giá cần đứng trên quan điểm lịch sử. Quan điểm này đòi hỏi phải

4

có sự nhìn nhận quá khứ để lý giải ở mức độ nhất định cho hiện tại và dự báo cho

tương lai.

5.1.2. Quan điểm lãnh thổ

Dựa vào quan điểm này để thấy được bức tranh toàn cảnh của cả đối tượng

nghiên cứu và các yếu tố xung quanh, thấy rõ mối quan hệ qua lại, tác động lẫn

nhau giữa chúng. Thông qua quan điểm tổng hợp lãnh thổ, nét đặc trưng tiêu biểu

của đối tượng nghiên cứu cũng được nêu bật, giúp ta phân biệt, nhận biết được đối

tượng so với các yếu tố khác. Đặc biệt, khi nghiên cứu sự khác biệt về mặt tự nhiên

sẽ phát hiện ra mối quan hệ hữu cơ trong tổng thể, phát hiện các đặc trưng quan

trọng nhất, chuẩn bị cho việc quy hoạch, thiết kế không gian sản xuất và sinh sống

trong các hoạt động của lãnh thổ với một cấu trúc hợp lý nhất.

5.1.3. Quan điểm hệ thống

Quan điểm này được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Thủy sản

là một bộ phận của ngành Nông nghiệp và cả nền kinh tế chung, nó có mối quan hệ

với nhiều ngành khoa học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó

với nhau. Vì thế, khi nghiên cứu chúng ta phải đặt vấn đề trong mối quan hệ tương

hỗ, tác động qua lại của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy, phải

coi vấn đề NTTS và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế - xã

hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.

5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững

Phát triển bền vững cho hôm nay và cho cả những thế hệ tương lai là yêu cầu

bức thiết của mọi quốc gia và lãnh thổ hiện nay. Nghiên cứu sự phát triển của NTTS

ở hiện tại và đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai. Quán triệt quan điểm

phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự bền vững cả về 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi

trường.

Trong quá trình nghiên cứu vấn đề phải có sự vận dụng các quan điểm trên

một cách tổng hợp. Trên nền chung vận dụng một cách tổng hợp, phụ thuộc vào nội

dung thời gian, địa điểm nghiên cứu thì từng quan điểm sẽ được chú ý nhiều hơn.

5

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Đây là một trong phương pháp quan trọng nhất trong quá trình tiến hành

nghiên cứu một vấn đề khoa học, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp

một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều hiệu quả. Vì dựa trên việc phân tích tài liệu

đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu.

Từ đó, chúng ta rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất nhằm đáp

ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.

5.2.2. Phương pháp thu thập- xử lý tài liệu

Đây là phương pháp được áp dụng đầu tiên trong quá trình làm đề tài, thu

thập, thanh lọc những tài liệu theo nội dung, yêu cầu cần tìm hiểu, sắp xếp theo từng

đề mục, so sánh, đối chiếu các tài liệu và chọn lọc, xử lý, nhằm tạo nên tính rõ ràng

mạch lạc trong nghiên cứu khoa học. tài liệu thu thập được rất đa dạng và phong

phú, có rất nhiều dạng như: văn bản, số liệu thống kê, các bản đồ, ảnh hàng không

và ảnh viễn thám,… Phương pháp này rất cần thiết trong quá trình nghiên cứu khoa

học.

5.2.3. Phương pháp thống kê

Sau khi thu thập được nhiều dữ liệu chúng ta sẽ tiến hành thống kê theo từng đề

mục, nội dung cần nghiên cứu. Đây là phương pháp không thể thiếu được trong quá

trình nghiên cứu, có rất nhiều đối tượng liên quan trong bài nghiên cứu, phải được

thống kê theo từng đơn vị rõ ràng, mạch lạc theo từng đối tượng, từng giai đoạn và

thời kỳ. Phương pháp này giúp hiểu rõ hơn về bản chất của từng đối tượng.

5.2.4. Phương pháp dự báo

Phương pháp này cũng rất cần trong quá trình nghiên cứu vấn đề khi nắm được

tình hình thực tế trong quá trình phát triển của vấn đề nghiên cứu chúng ta có thể dự

báo những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai đồng thời đưa ra những phương hướng,

giải pháp phát triển bền vững cho vấn đề.

6

5.2.5. Phương pháp bảng biểu, bản đồ

Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí, bởi vì mọi nghiên cứu

thuộc lĩnh vực địa lý kinh tế - xã hội đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản

đồ. Ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết nhiều nội dung nghiên cứu như

đánh giá các nguồn lực, phân tích hiện trạng theo ngành và theo lãnh thổ. Sử dụng

phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn

diện hơn. Ngày nay, phương pháp bản đồ ngày càng được hoàn thiện và đem lại

hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thông tin địa lý (GIS).

Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số

liệu và biểu đồ.

5.2.6. Phương pháp khảo xác thực địa

Đây là phương pháp cần thiết để đề tài nghiên cứu mang tính thực tế và khả

thi. Khi trực tiếp khảo xác thực tế địa phượng tiếp cận với vấn đề nghiên cứu, sẽ

cho chúng ta có cách nhìn chính xác, rõ ràng hơn về vấn đề.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận

Phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nuôi trồng thuỷ sản.

Chương 2: Thực trạng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Trà Vinh.

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn

tỉnh Trà Vinh.

7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

1.1. Khái niệm về nuôi trồng thủy sản

Ngành thủy sản có từ rất lâu đời gắn liền với quá trình phát triển lâu dài của văn

hóa, lịch sử con người Việt Nam với những hoạt động trên bến dưới thuyền, quăng

chài thả cá... lúc này chúng ta chỉ chú ý đến đánh bắt thủy sản là chính trong hoạt

động thủy sản, ngành NTTS ít được chú ý đến do con người chưa ý thức được việc

tái tạo nguồn lợi thủy sản và đảm bảo sự phát triển của các loại thủy sản, nhưng

hiện nay do nhiều yếu tố mà các nguồn lợi thủy sản tự nhiên ngày càng cạn kiệt hạn

chế sự phát triển của ngành đánh bắt thủy sản tạo điều kiện cho ngành NTTS ngày

một có vị thế quan trọng hơn.

Trước tình hình sản lượng thủy sản khai thác toàn cầu đang sụt giảm trong khi

dân số ngày càng bùng nổ thì nuôi trồng thủy sản được cho là có tiềm năng lớn nhất

trong tương lai và có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản

phẩm có chất lượng và an toàn.

Theo Điều 2 của Luật Thủy Sản được Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa

XI thông qua: “Hoạt động thủy sản là việc tiến hành khai thác nuôi trồng vận

chuyển, chế biến, bảo quản chế biến mua bán xuất nhập khẩu thủy sản trong hoạt

động dịch vụ trong hoạt động thủy sản.”

Ngành thủy sản được phân thành hai bộ phận chính là đánh bắt thủy sản và nuôi

trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản là một bộ phận của ngành thủy sản đã góp phần

tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. NTTS nhằm mục đích cung cấp

sản phẩm cho tiêu dùng của dân cư và cung cấp nguyên liệu cho hoạt động chế biến

thủy sản xuất khẩu.

NTTS là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh trong điều kiện kiểm soát

hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường nói, NTTS là sản xuất nông

nghiệp trong môi trường nước. Vì vậy, từng vùng sinh thái môi trường nước thì

ngành nuôi trồng thuỷ sản đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước mặn,

nước lợ và nước ngọt.

8

NTTS là một khái niệm dùng để chỉ hai hoạt động "nuôi" và "trồng" động thực

vật thủy sinh ở các môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Các loài thủy sản, gồm nuôi các

loài động vật như cá, tôm, cua, ếch và trồng các loại thực vật như rong câu chỉ vàng,

rong sụn, nhuyễn thể…

Qua các tài liệu nghiên cứu có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về NTTS.

- Theo quan điểm của FAO: NTTS là hoạt động canh tác trên đối tượng sinh

vật thủy sinh như: giáp xác, sinh vật thủy sinh, nhuyễn thể… quá trình này bắt đầu

từ khi thả giống chăm sóc đến khi thu hoạch.

- Theo quan điểm của các nhà sinh học: NTTS là hoạt động tạo ra các điều

kiện sinh thái phù hợp với sự trưởng thành và phát triển của các loại thủy sản để

thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của dòng đời.

- Theo giáo trình kinh tế thủy sản: NTTS là một bộ phận sản xuất nông

nghiệp nhằm duy trì bổ sung tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản tạo ra các sản

phẩm phục vụ nhu cầu của con người và góp phần vào việc xuất khẩu. Hoạt động

nuôi trồng diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước với nhiều chủng loại khác nhau,

bên cạnh đó sự phát triển của KHKT phục vụ cho phát triển NTTS.

Tóm lại, NTTS là hoạt động sản xuất gắn liền với động vật thủy sinh và môi

trường thủy vực đồng thời chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên.

1.2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản

1.2.1. Nuôi trồng thủy sản có tính thời vụ cao

Đối tượng hoạt động của ngành NTTS là những cơ thể sống nên có những qui

luật sinh trưởng và phát triển nhất định, chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên.

Vì vậy, chúng có thời gian hoạt động sản xuất nhất định, con người chỉ tác động vào

những giai đoạn nhất định. Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào

như lao động, thức ăn, khâu chăm sóc, mà còn cả ở khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ

và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.

Động vật thủy sinh có quy luật sinh trưởng riêng nên dẫn tới trong hoạt động

NTTS có tính thời vụ rõ rệt. Đây cũng là một nét đặc thù điển hình nhất của sản

xuất nông nghiệp nói chung. Theo Lênin thì tính thời vụ thể hiện ở chỗ thời gian lao

9

động không ăn khớp với thoài gian sản xuất vậy nên người lao động luôn tuân theo

những quy luật riêng đó. Tính thời vụ trong NTTS dẫn đến tình trạng người lao

động có lúc rất bận rộn có những lúc lại nhàn rỗi, do thời gian sản xuất bao giờ

cũng dài hơn thời gian lao động. Trước mỗi mùa vụ, để khắc phục được tính thời vụ

cần có kế hoạch sản xuất cụ thể cho mùa vụ và cho các mùa vụ trong năm và thực

hiện theo lịch mùa vụ. Tính thời vụ ở đây có thể xem xét ở góc độ thời vụ trong sản

xuất và thời vụ trong sinh trưởng phát triển của sinh vật. Thời gian lao động là

khoảng thời gian mà lao động có tác động trực tiếp với việc hình thành sản phẩm,

còn thời gian sản xuất được coi là thời gian sản phẩm đang trong quá trình sản xuất.

Quá tình sinh học của cây trồng, vật nuôi diễn ra thông qua hàng loạt các giai đoạn

kế tiếp nhau: giai đoạn này là sự tiếp tục của giai đoạn trước và tạo tiền đề cần thiết

cho giai đoạn sau. Chính vì vậy, sự tác động của con người vào các giai đoạn sinh

trưởng của chúng là hoàn toàn không phải như nhau. Thời gian sinh trưởng và phát

triển của sinh vật thủy sinh và thời gian lao động không trùng khớp. Đặc điểm này

đòi hỏi trong NTTS phải tôn trọng tính thời vụ một mặt phải giảm bớt tính thời vụ

tạo ra những giống cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn để sản xuất nhiều mùa

vụ trong năm, đem lại năng suất, sản lượng lớn trong năm.

Thực hiện các giải pháp để hạn chế tính thời vụ như: thực hiện cơ giới hóa

những khâu canh tác tốn nhiều lao động thủ công, tùy theo điều kiện cụ thể từng nơi

thực hiện tốt việc chuyển đổi mùa vụ, xen canh, tăng vụ, gối vụ.

1.2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất quan trọng nhất

Môi trường nước là một phần của môi trường sống trong tự nhiên có diện tích

lớn nhất chếm 70% diện tích trái đất. Môi trường nước không chỉ rộng lớn mà còn

có nhiều đặc tính thuận lợi cho sự sống của thủy sinh vật.

Toàn bộ đời sống của thủy sinh vật đều gắn với nước và riêng đối với từng loại

thủy vực có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của thủy sinh vật. Ngành NTTS

thì thủy vực là TLSX quan trọng không thể thiếu, tất cả các loài thực vật thủy sinh

đều sinh trưởng phát triển và tồn tại trong môi trường nước. NTTS luôn cần đến

một diện tích mặt nước đủ để tiến hành nuôi trồng, ngành luôn gắn liền với diện tích

10

thủy vực. Thủy vực luôn được các nhà nuôi trồng đặc biệt chú ý từ khâu khai thác

đến khâu bảo vệ môi trường sống của sinh vật thủy sinh.

Yếu tố thủy vực được tận dụng từ khâu khai thác đến bảo vệ môi trượng thủy

vực. Thủy vực được xem là TLSX quan trọng nhất nên cần phải chú ý đến các yếu

tố lý – hóa – sinh học của thủy vực, đây được xem là yếu tố hàng đầu đảm bảo sự

sinh trưởng của vật nuôi thủy sản.

 Các yếu tố lý – hóa học của thủy vực:

 Nhiệt độ của nước:

Nhiệt độ ao hồ thường phụ thuộc vào nhiệt độ không khí nhưng mức độ biến

thiên chậm hơn nhiệt độ không khí. Nhiệt độ trong nước thường ổn định hơn nhiệt

độ trên cạn, về mùa lạnh thì nhiệt độ trong ao hồ càng dưới sâu càng ấm, còn về

mùa nóng nước càng ở dưới sâu càng mát hơn tầng mặt.

- Chế độ nhiệt trong thủy vực biến đổi theo ba nhân tố: vĩ độ, mùa vụ và độ sâu.

Theo từng vùng vĩ độ thì nhiệt độ trung bình năm của nước trong hải dương giảm

dần từ xích đạo về vùng cực. Ngoài ra nhiệt độ thủy vực còn phụ thuộc từng loại

thủy vực, từng vùng địa lý khác nhau, độ cao so với mặt biển và các lớp nước sâu

khác của thủy vực. Nhiệt độ nước ở bề mặt đại dương ở những vùng nhiệt đới có biên độ nhiệt dao động theo mùa vụ chỉ trong khoảng 3 – 4oC, vùng cận cực 8 – 12oC, vùng cực 2 – 3oC. Ở các thủy vực nội địa quy luật biến đổi nhiệt độ nước theo

mùa phức tạp. Thủy vực ôn đới có chế độ nước bề mặt dao động trong khoảng 20 – 25 oC. Biên độ thay đổi ở các hồ lớn, các thủy vực vùng cận nhiệt đới theo hướng

giảm thấp đi còn ở các thủy vực nông thì nhiệt độ nước theo mùa phụ thuộc rất

nhiều vào biên độ nhiệt không khí theo mùa. Nhiệt độ thủy vực còn giảm dần từ mặt xuống đáy, thủy vực ở vùng cực và vùng ôn đới tầng mặt đông ở 0oC nhưng tầng đáy không đông ở 4oC.

Nhiệt độ môi trường nước thích hợp cho hầu hết các loài thủy sản phát triển từ 20 – 30oC, nếu nhiệt độ thấp dưới 15oC giảm quá trình tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng, một số loài có xuất xứ nóng có thể chết đi khi nhiệt độ giảm 12oC. Các loài thủy sinh vật sẽ chết ở ngưỡng 39oC. Nhiệt độ không khí biến động lớn ngày đêm

11

theo mùa, nếu vùng nước nuôi thủy sản bị cạn thì nhiệt độ khô nước bằng nhiệt độ không khí. Khi nhiệt độ nước thay đổi đột ngột 3 - 4 oC có thể làm tôm cá chết.

Đối với môi trường mặn lợ thì nhiệt độ thích hợp từ 28 – 32oC. Nhiệt độ nước

trong NTTS luôn được quan tâm nghiên cứu nhằm xác định được vùng nuôi có

nhiệt độ thích hợp.

Nhiệt độ của thủy vực đối với thủy sinh vật rất lớn có tính quyết định đối với đời

sống thủy sinh vật. Nhiệt độ nước ảnh hưởng đến trao đổi chất thồn qua ảnh hưởng

đến các men, chế độ nhiệt ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của thủy sinh

vật, cùng với nồng độ muối và chế độ nhiệt quyết định sự phân bố theo vĩ độ theo

thủy vực của thủy sinh vật. Nhiệt độ ảnh hưởng đến dinh dưỡng và hô hấp của thủy

sinh vật.

 Độ trong suốt và độ vẫn đục:

Độ trong có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của thủy sinh vật, khi thủy sinh

vật sống trong nước đục khả năng quan sát kiếm thức ăn của tôm, cá. Nước đục hạn

chế ánh sáng mặt trời vào ao, quang hợp của thực vật phù du giảm nhiêm trọng mà

thực vật phù du là nhóm quan trọng vào bậc nhất của một vực nước nhờ quá trình

quang hợp của chúng tạo ra chất hữu cơ cho vực nước. Nếu nước quá trong ánh

sáng xâm nhập sâu vào lòng nước nhưng trong nước không có thực vật phù du thì

năng lượng mặt trời bị bỏ phía không có ý nghĩa. Vì vậy cần xác định độ trong của

nước sau cho cân đối cả hai yếu tố, vừa cần có ánh sáng đi sâu vào trong nước, vừa

có thực vật phù du để sử dụng năng lượng.

Trong ao nuôi cá thông thường mật độ phù du thường khá lớn trên 2 triệu cá

thể/lít, độ trong nước ao thường thấp 10 – 40cm. Ở thủy vực tự nhiên trên sông, hồ

tự nhiên, hồ chứa nước nhân tạo có mật độ phù du rất thấp dưới 1 triệu cá thể/lít.

Nếu nước không bị đục bởi keo đất, phù sa thì độ trong suốt rất lớn 100cm.

Thích hợp cho thủy sản là 20 – 30cm, màu thích hợp cho nuôi thủy sản là màu

xanh nõn lá chuối non.

 Ánh sáng: Nguồn cung cấp chủ yếu là mặt trời, ngoài ra còn phải kể đến

nguồn ánh sáng sinh vật từ các loài thủy sinh vật tự phát sáng như: một số loài cá,

12

giáp xác, tảo… Ánh sáng một phần bị phản xạ ở trên mặt nước, một phần bị tán xạ

trong tầng nước còn phần lớn sẽ được hấp thu trong nước. khi tia sáng đi vào trong

nước phân bố không đều, phụ thuộc vào độ dài và độ trong của nước. Độ sâu ít ánh

sáng đi vào trong nước khoảng 1500 – 1700m, vùng sâu dưới 1700m luôn luôn

không có ánh sáng.

Tác động của ánh sáng đến thủy vực là rất quan trọng, ánh sáng ảnh hưởng đến

sự di động và phân bố của thủy sinh vật theo độ sâu. Sự chiếu sáng ngày và đêm

cũng ảnh hưởng đến việc di động ngày và đêm của thủy sinh vật. Ánh sáng giúp cho

động vật ở nước định hướng di động nhờ định tính tính về quang hướng động thúc

đẩy quá trình sinh hóa trong đời sống cá thể, đặc biệt trong quá trình tạo vitamin.

Ánh sáng ảnh hưởng nhất định đến quá trình sinh sản, lối sinh sản và chu kỳ sinh

sản.

Điều đó cho thấy ánh sáng thủy vực có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển

của thủy sinh vật. Đối với nước tinh khiết chỉ có 53% cường độ ánh sáng biến thành

nhiệt và bị triệt tiêu khi qua mét nước đầu tiên của cột nước. Nước thiên nhiên chứa

nhiều tạp chất ngăn cản ánh sáng xâm nhập vào mặt nước. Theo Boyd thì tầng ánh

sáng thường gấp đôi độ trong của nước đo bằng đĩa Secchi. Ánh sáng còn lệ thuộc

vào cây có bên trên nước, nơi thiếu ánh sáng thủy sinh vật chậm phát triển.

 PH: Lượng PH trong thủy vực cần cho các loại thủy sản phát triển thích hợp

từ 6,5 – 8,5 thích hợp nhất 7,3 – 8,3. PH trên 9 và dưới 6,5 một số đối tượng thủy

sản vẫn sống được nhưng phát triển chậm. PH còn ảnh hưởng đến hô hấp của thủy

sinh vật, PH của nước phụ thuộc vào PH của đất, lượng hữu cơ có ở đáy ao, quang

hợp của thực vật thủy sinh, nhiệt độ, hoạt động của vi sinh vật, tác động của con

người.

 Hàm lượng Oxy trong nước: Đối với bất kỳ loài sinh vật nào trên trái đất này

không thể sống mà không cần đến không khí. Các loài thủy sản trong nước đều cần

có oxy từ 3 – 8mg/l để phát triển bình thường. Song có một số loài có cơ quan hô

hấp phụ thở được khí trời, nên có thể sống được ở môi trường có khí thấp. Oxy

trong nước hào tan trong nước chỉ chếm 3,4 % thể tích, còn trong khí quyển nó

13

chếm đến 20,98%. Nguồn oxy cung cấp chính trong ao là do hoạt động quang hợp

của thực vật thủy sinh, tuy nhiên lượng oxy trong nước có ít hơn 20 lần so với trên

mặt đất.

- Ở tầng mặt từ 0 – 0,5m hàm lượng oxy hòa tan ổn định từ 7,5 – 8,5 mg/l. Càng

xuống sâu hàm lượng oxy càng giảm. Các thủy vực tự nhiên thường oxy cao nhất

lúc 14 – 18h chiều và thấp nhất từ 2 – 8h sáng, cụ thể là ở điều kiện ao bình thường

hàm lượng oxy cao nhất trong nước thường đạt 8-11mg/l vào lúc 15-17 giờ và thấp

nhất là 0,8-1,28mg/l vào lúc 1-7 giờ sáng. Lượng Oxy hòa tan vào nước do gió, do

nước xáo động, do quang hợp của thực vật thủy sinh, ban ngày tăng oxy cho ao ban

đêm hấp thụ oxy của ao do đáy ao dơ, có nhiều chất H2S, NH3… tiêu thụ oxy làm

thiếu oxy ở ao.

Đối với môi trường thủy vực thì yếu tố oxy có vị trí cực kỳ quan trong trong

NTTS là yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của thủy sinh vật.

 Nồng độ CO2 trong nước: Khí CO2 có hại cho sự hô hấp của cá, hàm lượng

CO2 trong nước cao sẽ làm cá ngạt thở. Nồng độ CO2 cho phép trong ao nuôi thủy

sản từ 10 – 30mg/l có nhiều ở trong nước bất lợi cho phát triển thủy sản. Ao có

nhiều bùn dầy quá 20cm, nhiều chất dơ tiêu thụ oxy phóng thích CO2. Ngoài ra do

quá trình hô hấp của thủy sinh vật và do quá trình phân giải chất hữu cơ trong nước.

Sự biến động hàm lượng CO2 trong nước biến thiên hoàn toàn ngược lại vơi hàm

lượng oxy trong nước. Ở tầng mặt hàm lượng CO2 thấp và tầng đáy ao có hàm

lượng CO2 cao.

 Độ cứng của thủy vực: có mặt Canxi và Magie trong vực nước độ cứng của

nước thường được xác định bằng hàm lượng CaCO3 (mg) hoặc theo độ Đức kí hiệu oH; 1 oH=18mg CaCO3.

Độ cứng trung bình trong khoảng 0 – 20oH, nguồn nước từ các vùng đồi núi đất

đỏ thường hầu như không có Ca và Mg độ cứng xấp xỉ bằng 0, đặc biệt ao nuôi bón vôi độ cứng có thể lên đến trên 40oC. Trong NTTS việc bón vôi cho ao hồ không

chỉ có tác dụng khử chua, trừ tạp còn tăng độ cứng cho nước.

 Nền đáy thủy vực: là nơi tồn tại và phát triển của khu hệ sinh thái đáy và là

14

nơi trú ẩn trong từng gai đoạn của nhiều sinh vật trong tầng nước đặc tính nền đáy

phụ thuộc vào hai yếu tố: thành phần cơ học của nền đáy là đặc tính địa chất thổ

nhưỡng của nền đáy nơi có thủy vực quyết định hoặc chất lắng động thực vật do

sinh vật sống trong thủy vực nhiều khi có lượng chất sống rất lớn, chúng tiếp tục

được hình thành và phân hủy trong thủy vực, phân nguyên sinh nhanh chóng bị

phân hủy và tan vào trong nước, phần xương khó phân hủy sẽ lắng xuống đáy. Đây

là nguồn vật chất hữu cơ tích tụ ở đáy thủy vực là một khâu trong chu trình vật chất

của thủy vực quyết định độ dinh dưỡng thủy vực.

 Độ mặn và các chất hòa tan trong nước: nước là dung môi hoà tan các chất

có trong môi trường thủy vực, nồng độ muối có trong thủy vực luôn được trung hòa

nhằm giảm bớt độ mặn trước khi cho vào ao nuôi thủy sản. Căn cứ vào nồng độ

muối có trong môi trường thủy vực thì sẽ chia thủy vực thành 3 dạng môi trường

chính.

- Thủy vực nước ngọt: giới hạn nồng độ muối 0,5 – 1‰ là vùng nước tự

nhiên ở xa biển dưới dạng thủy vực khác nhau như: sông, suối, ao hồ, đầm, ruộng

lúa cấy,…

- Thủy vực nước lợ: giới hạn 1 - 30‰ trung bình 10 - 20‰ bao gồm vùng

cửa sông, ven biển vùng nằm xa giữa vùng nước ngọt trong lục địa và nước mặn

ngoài đại dương, có khi là cả một vùng biển bị nước từ lục địa chảy ra làm nồng độ

muối nhạt đi.

- Thủy vực nước mặn: có nồng độ muối là 35‰ dao động chỉ trong khoảng

32 - 38‰ ở các biển và ven lục địa.

Trong môi trường thủy vực còn có nhiều thành phần khác như amoniac, sắt, lân.

NH3 trong thủy vực có từ phân hủy bình thường của Prôtêin, xác bã động vật phù

du. Các thành phần trong thủy vực đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát

triển của thủy sinh vật

1.2.3. Đối tượng hoạt động là các sinh vật thuỷ sinh

Sinh vật thủy sinh là đối tượng hoạt động chủ yếu của ngành NTTS nói riêng và

toàn ngành thủy sản nói chung đây là loại sinh vật duy nhất có thể tồn tại trong môi

15

trường thủy vực. Các khâu chăm sóc nuôi trồng trong ngành thủy sản đều là những

sinh vật thủy sinh, đây được xem là đối tượng hoạt động chủ yếu trong ngành

NTTS, cũng giống như ngành sản xuất nông nghiệp đối tượng của NTTS là các cơ

thể sống. Sinh vật thủy sinh phát triển theo những quy luật nhất định của tự nhiên

nên cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện bên ngoài như gió mưa, bão lụt, hạn hán

đều ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của chúng. Quá trình sản xuất ra sản

phẩm là quá trình chuyển hóa về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng

của cây trồng vật nuôi. Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các quy luật sinh

học không thể đảo ngược. Con người chỉ tác động nhằm mục đích giúp cho sự sinh

trưởng và phát triển của thủy sinh vật được thuận lợi nâng cao khả năng thích nghi

với môi trường thủy vực.

Chúng rất nhạy cảm với những thay đổi của điều kiện tự nhiên nên cần tập trung

chú ý đến những thay đổi của tự nhiên đưa ra những giải pháp nuôi trồng hợp lý

tránh tình trạng thủy sản bị bệnh và lây lan toàn vùng ảnh hưởng đến năng suất nuôi

trồng. Để tạo được một tập đoàn cây trồng, vật nuôi tốt hơn đòi hỏi phải thường

xuyên chọn lọc bồi dục các giống hiện có, nhập những giống tốt để cho ra những

giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt hơn thích hợp với điều kiện từng vùng,

từng địa phương.

VD: Các sinh vật được nuôi trồng chủ yếu trong ngành thủy sản: tôm, cá, cua,

nhuyễn thể,…

1.2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có tính liên ngành cao đòi hỏi đầu tư ban đầu

lớn, độ rủi ro cao

Tính liên ngành cao của thủy sản thể hiện bao gồm nhiều bộ phận có mối

quan hệ mật thiết, hỗ trợ cho nhau: khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu và

dịch vụ thủy sản. Chính đặc điểm này làm cho ngành thủy sản có tính hỗn hợp, vừa

có tính chất của sản xuất công nghiệp, vừa mang tính chất của ngành sản xuất nông

nghiệp.

Hầu hết các hoạt động sản xuất thủy sản so với nông nghiệp theo nghĩa rộng

đòi hỏi đầu tư lớn, đặc biệt là đánh bắt xa bờ và nuôi trồng với quy mô lớn theo

16

hướng hiện đại. Ngành thủy sản chịu tác động rất mạnh của điều kiện tự nhiên như

bão, lũ và cả các nhân tố dịch bệnh tạo nên tính rủi ro cao.

1.2.5. Trong nền kinh tế hiện đại, khai thác và nuôi trồng thủy sản nước ta

đang dần trở thành ngành sản xuất hàng hóa

Đây là yêu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của ngành thủy sản trong bối cảnh

hội nhập quốc tế. Từ trước những năm 90, thủy sản nước ta tồn tại một cách manh

mún, nhỏ lẻ, tự phát, đầu tư cho sản xuất hạn chế, sản xuất thủy sản thương phẩm

chưa nhiều. Hiện nay, cùng với việc chuyên môn hóa nông nghiệp, thủy sản cũng có

sự phát triển theo hướng chuyên môn hóa, mở rộng quy mô, khai thác và nuôi trồng

thủy sản gắn liền với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, quan tâm

đến chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm để đáp ứng được yêu cầu của những thị

trường khó tính. Vì thế, hiệu quả của ngành thủy sản được tăng lên rõ nét, vai trò

của ngành được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân.

1.3. Vai trò của ngành nuôi trồng thủy sản

NTTS có một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ngoài việc

đảm bảo an ninh lương thực, mặt khác còn cung cấp một lượng lớn các nguồn hàng

xuất khẩu, thu hút lao động giải quyết việc làm. Chính vì những đều này mà chúng

ta cần tìm hiểu vai trò của ngành NTTS trong đời sống xã hội cũng như cả nền kinh

tế quốc dân.

1.3.1. Duy trì, tái tạo các nguồn lợi thuỷ sản

Nguồn lợi thủy sản tự nhiên điều có hạn cùng với việc khai thác quá mức sẽ

làm cho nguồn thủy sản ngày một cạn kiệt nếu việc khai thác đánh bắt không kế

hoạch làm cho nguồn lợi ngày càng khan hiếm thậm chí bị tiệt chủng. Trước tình

thế đó, NTTS được xem là ngành tạo ra nhiều sản phẩm thủy sản có giá trị đồng

thời phục vụ nhu cầu xuất khẩu, nhưng đồng thời đối với ngành cũng đã duy trì tái

tạo nguồn lợi thủy sản. Hiện nay khi ngành thủy sản ngày một phát triển và chếm

một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thì việc duy trì và tái tạo nguồn lợi thủy sản

là một yêu cầu cấp thiết. NTTS là ngành đảm bảo sự duy trì và tạo ra một nguồn

giống thủy sản. Ngoài ra, ngành NTTS còn có thể tạo ra những giống mới đem lại

giá trị năng suất cao hơn.

17

Ngành nuôi trồng thủy sản luôn giữ một vai trò quan trọng trong việc duy trì

nguồn lợi thủy sản thông qua việc nuôi trồng, lai tạo những giống thủy sinh vật,

nhằm phục vụ tốt hơn việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sự phát

triển bền vững và cung cấp thực phẩm đáp ứng một phần nào nhu cầu thiết yếu của

con người. Vai trò duy trì và tái tạo nguồn lợi thủy sản còn một vị trí đặc biệt trong

việc cung ứng giống cây trồng vật nuôi. Quá trình nuôi trồng luôn diễn ra nhằm

đảm bảo vai trò chủ đạo trong việc duy trì lưu giữ nguồn gen trong hoạt động sản

xuất nuôi trồng.

1.3.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản

Ngoài việc đáp ứng nhu cầu trực tiếp của con người trong việc tiêu dùng hằng

ngày một phần lớn được cung cấp cho các nhà máy chế biến làm nguyên liệu chế

biến. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề khai thác thủy sản bị hạn chế do các vấn đề

về môi trường thì NTTS đóng vai trò quan trọng chủ đạo trong việc cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. NTTS đã đáp ứng được một cơ

cấu mặt hàng đa dạng hơn góp phần phát triển thương mại thủy sản.

Các nhà máy xí nghiệp chế biến thủy sản được thành lập ngày càng nhiều đều

này cho thấy vai trò nguồn cung ứng nguyên liệu cho chế biến ngày càng tăng, diện

tích nuôi trồng ngày càng nhiều với các chính sách quy hoạch cụ thể làm cho sản

lượng NTTS ngày càng tăng. Sản phẩm thô bao giờ cũng đem lại hiệu quả không

cao nhưng khi qua chế biến thì hoàn toàn ngược lại. Sản phẩm như tôm, cá các loại

đều là nguồn cung đáng kể cho ngành công nghiệp chế biến, trong mấy năm qua sản

lượng thủy sản xuất khẩu ngày càng tăng ở một số thị trường lớn nhất định như Hoa

Kỳ, Tây Âu, Trung Quốc,... đều này cho thấy vai trò ngày một quan trọng của

ngành thủy sản đặc biệt là lĩnh vực NTTS ngành đã cung ứng một lượng lớn nguồn

nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong thực trạng nguồn lợi tự nhiên có giới

hạn. NTTS được xem là một nguồn cung tương đối ổn định hơn ngành khai thác

thủy sản.

Trong điều kiện sản lượng khai thác đã vượt qua ngưỡng cho phép, NTTS là

hướng đi đúng để bổ sung nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu và chế biến truyền

18

thống đồng thời nó cung ứng thêm sản phẩm thủy sản cho thị trường trong và ngoài

nước. Trong khi khai thác thủy sản đang gặp khó khăn thì NTTS là phương thức

thay thế và để phát huy lợi thế tự nhiên của nước ta bù đấp lượng hàng hóa thủy sản

cho thị trường và nguyên liệu cho các cơ sở chế biến.

1.3.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập

Đây là ngành cần sử dụng nhiều lao động nên đã giải quyết phần nào vấn đề

việc làm cho một bộ phận lao động của xã hội. Hằng năm thu hút một lượng lớn lao

động tham gia, NTTS được phát triển rộng khắp trên cả nước giải quyết một lượng

lớn lao động nông nghiệp. Đặc biệt là lao động ở nông thôn và ven biển sẽ là những

nơi mà lao động sẽ có nhiều cơ hội về việc làm. Hoạt động nuôi trồng thủy sản phần

lớn vẫn sử dụng lao động thủ công từ các khâu cải tạo môi trường nuôi thủy sản cho

đến thả giống, chăm sóc, thu hoạch... đều cần đến bàn tay chăm sóc của con người.

Đây được xem là một trong những vai trò quan trọng của ngành trong việc giải

quyết vấn đề lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ao hồ nhỏ là thế mạnh của NTTS ở

các vùng nông thôn Việt Nam. Người nông dân tận dụng ao hồ nhỏ như một cách

tận dụng đất đai và lao động.

Mặt khác, do hiệu quả từ việc NTTS đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể từ

việc chuyển đổi kết hợp giữa trồng lúa và NTTS, mô hình này đã đem lại thu nhập

cao hơn so với thế độc canh cây lúa trên một diện tích, tăng thêm nguồn thu nhập

đảm bảo đời sống nhân dân và nâng cao hơn mức sống của người dân. Các trang

trại nuôi trồng thủy sản cho năng suất ngày càng cao đồng nghĩa với mức thu nhập

ngày càng lớn. Lợi nhuận từ những diện tích nuôi trồng là rất lớn, hàng năm ngoài

việc trừ chi phí nông dân có thể lời hàng trăm triệu đồng trên diện tích nuôi đảm

bảo nguồn thu ổn định. Theo ước tính, có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc

hoàn toàn hoặc một phần vào ngành thủy sản. Một bộ phận dân cư ở vùng ven biển

đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ NTTS.

Ngành thủy sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát

triển các mô hình NTTS đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn

dinh dưỡng, đảm bảo an ninh lương thực mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo. Ở

19

Việt Nam, tại các vùng duyên hải, từ năm 2005, nuôi thủy sản nước lợ đã chuyển

mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và

thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh them mô hình

công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo mô hình

sản xuất hàng hóa lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư vùng ven biển đã giàu lên

nhanh chóng nhờ mô hình nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm đã trở thành ngành sản

xuất chính ở ven biển Việt Nam, đem lại thu nhập cao, giá trị xuất khẩu lớn. Thu

nhập từ nuôi tôm đã trở thành hoạt động kinh tế, tích lũy chủ yếu và nguồn tái đầu

tư cơ bản các hạng mục kinh tế - xã hội của nhiều địa phương, góp phần thay đổi bộ

mặt nông thôn ven biển.

1.3.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội

Nông nghiệp là ngành được xem là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm

chủ yếu cho con người. Trong đó, NTTS có tầm quan trọng đặc biệt nó thể hiện ở

việc tham gia vào cơ cấu bữa ăn cung cấp các sản phẩm dinh dưỡng cho con người

như tôm, cua, ghẹ,... đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra mặt hàng xuất khẩu. Đối với

bữa ăn hằng ngày ngoài lượng tinh bột thiết yếu thì nhu cầu thực phẩm cũng không

kém phần quan trọng trong cơ cấu bữa ăn, một mặt do đời sống con người ngày

càng được nâng cao, mức tiêu thụ cũng tăng. NTTS là nguồn cung cấp đạm động

vật bổ dưỡng cho con người, các chất đạm từ cá, tôm, cua dễ tiêu hóa, không gây

béo phì và nhất là cung cấp các nguyên tố vi lượng từ biển như i-ốt, canxi, brom,

natri, sắt, mangan,... rất dễ hấp thụ và có lợi cho sức khỏe. Trong cơ cấu bữa ăn thì

các sản phẩm từ NTTS xuất hiện ngày càng nhiều đảm bảo cung cấp nguồn dinh

dưỡng thiết yếu cho con người với các hình thức nuôi tại chỗ đáp ứng nhu cầu thực

phẩm tươi sống.

Theo báo cáo của FAO, NTTS hiện là nguồn cung cấp đạm động vật tăng trưởng

nhanh nhất của thế giới và đáp ứng gần một nửa sản lượng tiêu thụ toàn cầu. Báo

cáo nuôi trồng thủy sản thế giới năm 2010 cho thấy, sản lượng thủy sản nuôi của thế

giới đã tăng hơn 60% từ 32,4 - 52,5 triệu tấn trong giai đoạn 2000 - 2008.

Theo dự báo của Trung tâm Thủy sản Thế giới, đến năm 2010 nhu cầu thủy sản

20

toàn thế giới vào khoảng 156,72 triệu tấn, trong đó nhu cầu làm thực phẩm chiếm

81,84%; phi thực phẩm chiếm 18,17%. Dự kiến trong năm 2012, thủy sản nuôi sẽ

đáp ứng hơn 50% lượng tiêu thụ thủy sản của thế giới. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm

thủy sản bình quân đầu người trên toàn thế giới được dự đoán là 18,4 kg/người/năm

năm 2010 và 19,1 kg/người/năm vào năm 2015. Nhu cầu thủy sản/đầu người năm

2010 đối với các loại cá sẽ là 13,7 kg/năm, và 14,3 kg/năm vào năm 2015, đối với

nhuyễn thể và các động vật thủy sản khác sẽ là 4,7 kg vào năm 2010 và 4,8 kg vào

năm 2015. Các nước đang phát triển sẽ đứng đầu về tốc độ tăng cầu theo đầu người,

trong khi đó tốc độ tăng cầu/đầu người ở các nước phát triển nhìn chung sẽ có xu

hướng giảm xuống. Trong tổng mức tăng về nhu cầu sản phẩm thủy sản thì khoảng

46% mức tăng là do sự gia tăng dân số, số còn lại 54% là do sự phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó lượng thủy sản tiêu thụ cho các hoạt động khác cũng chếm phần

đáng kể như nhu cầu về sản phẩm thủy sản để làm thức ăn cho động vật và gia cầm

hoặc dầu sẽ tăng 1,1%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010 và 0,5%/năm trong giai

đoạn 2010 - 2015. Lượng thủy sản cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn

cho động vật và cho các mục đích phi thực phẩm khác trên toàn thế giới khoảng

45.432 triệu tấn vào năm 2015.

Bảng 1.1: Nhu cầu thủy sản trên thế giới đến năm 2010

Các nhu cầu Thứ tự Châu Phi Bắc Mỹ Toàn thế giới Châu Á Châu Đại Dương Châu Âu, Nga Caribe, Nam Mỹ

I. 8.735 9.047 19.180 91.310 20.584 7.862 156.718

1 736 1.278 12.873 7.469 6.001 109 28.466

2 7.999 7.769 6.307 83.841 14.583 7.753 128.252

3 8.8 23.4 10.6 20.2 20.5 22.1 18.4

II 997 332 595 4.145 713 34 6.816 Tổng nhu cầu (triệu tấn) Phi thực phẩm (triệu tấn) Thực phẩm (triệu tấn) Mức tiêu thụ/ người (kg) Dân số (triệu người)

(Nguồn: Trung tâm thông tin và KHKT thủy sản - Bộ NN&PTNT)

21

1.3.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang

trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển kinh tế xã hội, giúp cho nền kinh tế phát triển

nhanh, vững chắc có khả năng hội nhập với khu vực và thế giới.

Trong xu thế đất nước đang chuyển mình hòa nhịp vào nền kinh tế quốc tế nền

kinh tế nước ta đang chuyển mình đúng hướng. Phát triển NTTS là một trong những

biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó

phát triển NTTS cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đặc biệt

là sự tham gia của các hộ gia đình nông thôn thúc đẩy sự phát triển của nên kinh tế

tư nhân. NTTS phát triển theo hướng bền vững kéo theo sự phát triển của ngành

dịch vụ và công nghệp. Như vậy, sự phát triển NTTS đã góp phần đưa nền kinh tế

Việt Nam tiến tới một cơ cấu bền vững và tiến bộ hơn. Việt Nam là một quốc gia có

nền nông nghiệp phát triển đang trên đường tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa

đất nước, trong bản thân nền nông nghiệp hiện tại đã diễn ra sự chuyển dịch trong

nội bộ ngành.

Trong nhiều năm qua việc xuất hiện nhiều công trình hồ thủy điện đã được xây

dựng, khiến nước mặn nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào cửa sông, ven biển.

Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm họa nhưng

đối với NTTS nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng

mới, vì hoạt động nuôi trồng có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt

động canh tác lúa nước. Một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp kém hiệu quả

đã được chuyển sang NTTS. Nguyên nhân của hiện tượng này là do giá thủy sản

trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi các loại nông

sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại giảm sút dẫn đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu

diện tích giữa NTTS và nông nghiệp càng trở nên cấp bách. Chính phủ đã đưa ra

nghị quyết 09 NQ/CP ngày 15/06/2000 về chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông

nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu tố giúp cho quá trình

chuyển đổi diện tích NTTS diễn ra nhanh mạnh và rộng khắp hơn. Quá trình chuyển

22

đổi diện tích chủ yếu từ lúa kém hiệu quả sang NTTS hoặc kết hợp với NTTS, có

thể nói NTTS đã phát triển với tốc độ nhanh thu được hiều quả kinh tế - xã hội đáng

kể góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Tại nhiều vùng nông thôn thì mô hình nuôi cá ruộng trũng phát triễn mạnh mẽ.

Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một

trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp góp phần tăng thu nhập và

xóa đói giảm nghèo vùng nông thôn.

1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của ngành thủy

sản. Ta có thể chia ra thành 3 nhóm nhân tố:

1.4.1. Vị trí địa lý

Là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến các nhân tố tự nhiên khác và quy

định cơ bản đối với ngành khai thác thủy sản. Vị trí địa lý ảnh hưởng đến đặc điểm

thủy vực (đặc biệt vị trí địa lý giáp biển hay không), quy định những đặc điểm cơ

bản của khí hậu, từ đó ảnh hưởng tới các nhân tố khác như thủy văn, nguồn lợi sinh

vật.

1.4.2. Các nhân tố tự nhiên

1.4.2.1. Diện tích mặt nước

Hiện nay, mặt nước NTTS trên thế giới chếm một phần đáng kể trong diện

tích mặt nước tự nhiên. NTTS phát triển ở nhiều loại mặt nước khác nhau, ngành

cho phép sử dụng hữu hiệu hàng triệu ha các loại mặt nước kể cả các loại mặt nước

như: nước ngọt (ao, hồ, sông, kênh, rạch,…), nước mặn lợ, bao gồm cả mặt đất canh

tác kém hiệu quả. Diện tích này ngày càng nhiều trên các diện tích nuôi trồng nếu

áp dụng các biện pháp canh tác hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao, mặt nước trong

NTTS có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đây được xem là tư liệu sản xuất đặc biệt.

Mặt nước tự nhiên trên toàn thế giới là rất lớn bao gồm các hệ thống sông

lớn như: sông Nin, sông Amazon, Missisipi, Mêkông,… đây được xem là những hệ

thống cung cấp nước ngọt chủ yếu cho các ao hồ, sông, suối phục vụ cho sinh hoạt

và sản xuất. Đặc biệt đối với ngành NTTS đây là mặt nước nuôi trồng chủ yếu, trên

23

các lưu vực sông có thể phát triển các hình thức nuôi lồng, bè hoặc tận dụng nguồn

nước ngọt để đào ao nuôi đối với các loài thủy sản nước ngọt. Ngoài các hệ thống

sông lớn trên thế giới còn có các kênh, rạch, ao, hồ phần lớn được cung cấp nước từ

những dòng sông lớn đây là những mặt nước nuôi trồng tự nhiên.

Song song đó còn có mặt nước nuôi trồng thủy sản theo hình thức nhân tạo,

đó là các hồ chứa, ao nhân tạo do con người tạo ra theo chủ ý của mình nhằm làm

tăng thêm diện tích nuôi trồng. Hình thức này chủ yếu được tập trung thực hiện ở

những vùng đồi núi ít hệ thống sông, hồ tự nhiên việc NTTS ở vùng đồi núi tưởng

chừng như không thể với hình thức này thì NTTS ở những vùng này không còn là

vấn đề. Ở những khu vực, quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc đầu tư mở rộng

diện tích mặt nước ở vùng có điều kiện khó khăn hoặc hạn chế về mặt nước nuôi

thủy sản luôn được chú trọng, ngành với những vai trò cung ứng thực phẩm tại chổ;

đồng thời, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu, nên

việc mở rộng mặt nước NTTS ở những nơi này là rất quan trọng đối với đời sống

nhân dân cũng như phát triển kinh tế.

Mặt khác, diện tích các đại dương lớn trên thế giới vào khoảng 361 triệu km2 với một lượng lớn nguồn nước phong phú giúp cho việc phát triển ngành nuôi

trồng thủy sản nước mặn lợ có điều kiện thuận lợi hơn, cùng với việc ảnh hưởng

của các nhân tố tự nhiên đặc biệt là vấn đề Biến đổi khí hậu ngày nay diễn ra ngày

một gay gắt đã làm cho nước biển xâm nhập sâu vào nội đồng góp phần mở rộng

diện tích mặt nước NTTS nước mặn lợ. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật thì

việc nuôi lồng bè trên biển sẽ rất phổ biến nhằm mục đích mở rộng diện tích nuôi

trồng và tăng năng suất.

Diện tích mặt nước NTTS có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của

ngành ứng với từng vùng, từng khu vực sẽ có những mặt nước nuôi trồng với những

tính chất đặc trưng. Đôi lúc, diện tích mặt nước lại là yếu tố quyết định việc tổ chức

các hình thức nuôi trồng thủy sản, nhằm tận dụng tối đa diện tích mặt nước đem lại

hiệu quả về năng suất, sản lượng một cách cao nhất.

Ở Việt Nam ngoài vùng biển rộng hơn 1 triệu km2 (chỉ số biển khoảng 0,01

24

gấp 6 lần chỉ số biển trên toàn cầu) vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, gần

10 triệu ha đất ngập nước với nhiều điều kiện đặc trưng cho môi trường nước ngọt,

lợ và mặn. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có một nguồn

nước mặt phong phú đặc biệt là hệ thống nước ngọt. Diện tích bề mặt nước ngọt lớn

với 653 nghìn ha sông ngòi, 394 nghìn ha hồ chứa, 85 nghìn ha đầm phá ven biển,

580 nghìn ha ruộng lúa nước. Hệ thống ao, hồ sông suối, kênh, mương, ruộng trũng

ở nước ta là khá lớn là điều kiện quan trọng trong việc tổ chức phát triển NTTS.

Ngoài hệ thống mặt nước tự nhiên người ta còn tạo ra những môi trường sống nhân

tạo cho các loài thủy sinh (hồ chứa). Thủy sản nước ta có thể phát triển ở tất cả các

loại hình mặt nước và trên vùng tự nhiên – sinh thái khác nhau từ vùng núi, trung

du, đồng bằng đến vùng biển đảo.

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay thì diện tích mặt nước NTTS đang dần

được mở rộng từ việc chuyển đổi đất nông nghiệp trồng lúa kém hiệu quả chuyển

sang NTTS hoặc kết hợp cùng hoạt động thủy sản. Ở Việt Nam quá trình này diễn

ra mạnh mẽ vào năm 2000 – 2002: hơn 200 ha diện tích được chuyển sang NTTS,

đến năm 2007 đạt 95.400ha. Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa năng suất thấp,

các vùng trồng lúa 1 vụ bấp bênh, các vùng đất hoang hóa ven sông sang NTTS

nước ngọt tập trung đã cải thiện hiệu quả khai thác trên một đơn vị diện tích. Chính

vì những yếu tố như thế mà diện tích mặt nước NTTS ngày càng được mở rộng;

song song đó tương ứng với những môi trường nhất định sẽ có những loài thủy sinh

vật đặc trưng.

Năm 2009, diện tích NTTS ở Việt Nam đạt 1044.7 nghìn ha. Thời gian gần

đây các địa phương tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi và các diện tích NTTS

theo hướng đa canh, đa con kết hợp hướng vào thị trường nội địa tăng năng suất

nuôi trồng, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo môi trường sinh thái bền

vững. Thêm vào đó, hình thức nuôi thủy sản lồng, bè phát triển khá ở các vùng,

trong đó tăng mạnh ở hình thức nuôi biển.

Diện tích mặt nước trong NTTS ngày càng tăng lên nhanh trong những năm

gần đây đều này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy ngành NTTS

25

phát triển trên diện rộng nâng cao năng suất, sản lượng của ngành góp phần phát

triển kinh tế - xã hội. Đối với từng diện tích mặt nước sẽ có những giải pháp quy

hoạch phát triển từng hình thức nuôi trồng cùng với những loại thủy sinh vật đặc

trưng phù hợp với tính chất của môi trường nước nhất định, nhằm phát huy được tác

dụng của từng loại mặt nước nuôi trồng.

1.4.2.2. Khí hậu, nguồn nước

- Khí hậu: Đối với NTTS thì khí hậu đóng vai trò rất quan trọng, nó quyết

định thời gian nuôi, thành phần loài, tốc độ sinh trưởng, dịch bệnh và hiệu quả kinh

tế của hoạt động nuôi. Điều kiện khí hậu với những yếu tố thích hợp sẽ tạo nhiều

điều kiện thuận lợi cho thủy sản phát triển, với các yếu tố như: nhiệt độ, lượng mưa,

ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió cả những bất thường của thời tiết như mưa, bão, lũ lụt,

hạn hán,… ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất cũng như sinh trưởng phát triển

của thủy sinh vật. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả

trong tiêu thụ sản phẩm. Nhiệt độ vừa phải cũng là điều kiện để các loài thủy sản

phát triển như ở Việt Nam do có lượng bức xạ lớn nên nước ta có nhiều nắng tổng

số giờ nắng tùy nơi từ 1400 – 3000 giờ/năm, thủy sinh vật có nhiều thuận lợi để

sinh trưởng và phát triển hơn.

Chế độ nhiệt: thuận lợi là yếu tố quan trọng trong việc phát triển của sinh vật

thủy sinh. Ở những vùng có nền nhiệt cao, đồng nhất là điều kiện tốt để sinh vật

sinh trưởng và phát triển. Ở những vùng nhiệt đới điển hình như Việt Nam thì nhiệt độ trung bình phù hợp cho việc NTTS là vào khoảng 270C – 280C.

Chế độ bức xạ: có nhiều tác động đến nuôi trồng thủy sản, số giờ chiếu sáng

cao sẽ là tiền đề thuận lợi cho quá trình quang hợp, tổng hợp chất hữu cơ của thực

vật, đây là cơ sở thức ăn quan trọng cho nhiều loài sinh vật khác.

Các yếu tố như khí hậu tăng, mưa bão ngày càng mạnh và phức tạp, mực

nước biển dâng là những nhân tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất thủy sản.

Mưa bão và nhiệt độ tăng làm cho các vùng ven biển, đảo, các đồng bằng hằng năm

chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa, hạn hán và xâm nhập mặn trong mùa khô.

Mưa bão và nước biển dâng sẽ làm tăng thêm tình trạng ngập lụt, gây khó khăn cho

26

thoát nước, tăng xói lỡ bờ biển và nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến cả lĩnh

vực khai thác và NTTS, gây rũi ro lớn đối với các công trình xây dựng ở khu vực

ven biển, cửa sông như đường giao thông, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, cơ sở

chế biến thủy sản,…

Các diễn biến thất thường của khí hậu đã làm cho các hoạt động thủy sản mất

sản lượng, tàn phá công trình nuôi, giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả khi thời

tiết diễn biến bất thường. Nhiệt độ tăng gây giảm sức sản xuất các đối tượng nuôi,

làm căn thẳng thêm tình trạng cung cấp giống (về số lượng, chất lượng và tính thời

vụ). Lượng mưa phong phú tạo điều kiện cho quá trình ngọt hóa rửa mặn trong cánh

đồng và nhanh chóng có thể tạo ra vùng trồng lúa rộng lớn và bố trí nuôi tôm vào

mùa khô. Những vùng có nhiệt độ trung bình năm cao đó là điều kiện thuận lợi cho

các thủy sinh vật phát triển quanh năm. Ở những vùng nhiệt đới có số giờ chiếu

nắng tương đối đồng đều trong năm, là tiền đề thuận lợi cho quá trình quang hợp,

tổng hợp chất hữu cơ của thực vật. Đây là cơ sở thức ăn quan trọng cho nhiều loài

sinh vật đặc biệt là sinh vật thủy sản. Mỗi loại thủy sinh vật cũng thích nghi với

những điều kiện khí hậu nhất định vượt quá ngưỡng cho phép chúng sẽ chậm phát

triển, thậm chí là bị chết.

Chế độ hải văn: sóng biển có ảnh hưởng tốt cho sự phát triển NTTS của

vùng, hải lưu là yếu tố quyết định đến việc chọn vị trí nuôi biển, với sự kết hợp

tương tác giữa các yếu tố của hải lưu sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho NTTS

như: sự tương tác gió, truyền triều, tính chất của dòng lục địa,… Sóng biển là yếu tố

ảnh hưởng quyết định đến việc chọn vị trí nuôi biển.

Khí hậu vừa được xem là yếu tố quyết định sự phát triển của ngành NTTS là

vừa là yếu tố ảnh hưởng xấu đến ngành. Nhiệt độ tăng, mưa, bão… làm cho vùng

ven biển hằng năm chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa, hạn hán và xâm nhập mặn

trong mùa khô.

- Nguồn nước: Đối với NTTS thì nguồn nước có vị trí đặc biệt quan trọng

nó ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng vật nuôi thủy sinh. Những nơi có

nguồn nước cung cấp phong phú thường xuyên đều là những vùng thủy sản phong

27

phú, nguồn nước là yếu tố quan trọng trong NTTS quyết định sự phát triển của

ngành. Tuy nhiên do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình mà nguồn nước trên thế

giới lại phân bố không đều và thay đổi theo mùa, có những mùa nước tập trung rất

lớn và ngược lại với mùa khô thì rất khan hiếm nước. Đối với NTTS thì nguồn nước

có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức phát triển cũng như ảnh hưởng đến

sự sống của thực vật thủy sinh thông qua các tính chất của nguồn nước.

Nguồn nước mặt thường được gọi là tài nguyên nước mặt, tồn tại thường

xuyên hay không thường xuyên trong các thuỷ vực ở trên mặt đất như: sông ngòi,

hồ tự nhiên, hồ chứa (hồ nhân tạo), đầm lầy, đồng ruộng và băng tuyết. Tài nguyên

nước sông là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất, được sử dụng rộng rãi trong

đời sống và sản xuất. Do đó, tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước mặt nói

riêng là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một

vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Trong ngành NTTS thì nguồn nước đóng vai trò

quan trọng trong việc tổ chức sản xuất đồng thời cũng là yếu tố quyết định sự phát

triển của thủy sinh vật.

Nước mặn: nước mặn ngày càng thâm nhập sâu vào nội đồng thông qua các

hệ thống sông ven biển, đây là điều kiện quan trọng để phát triển thủy sản nước

mặn. Hiện tượng xâm nhập mặn ở các dòng sông ngày càng có xu hướng tăng lên.

Hiện nay, do qua trình nóng lên toàn cầu đã dẫn đến hàng loạt những biến đổi về

môi trường, trong đó vấn đề nâng cao mực nước biển đã tạo điều kiện xâm nhập sâu

vào đất liền.

Theo nghiên cứu của tổng cục khí tượng thủy văn cho biết thông qua quá

trình nghiên cứu nhiều năm nay: ở Việt Nam trung bình nước biển dâng cao 2

mm/năm và có khả năng nước biển trong 50 - 70 năm sau sẽ cao hơn 50 – 60cm.

Đây là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng mặn, lợ.

Nước ngọt và ngọt – lợ: Nguồn nước này trên thế giới cũng tương đối phong

phú, với nhiều hệ thống sông ngòi lớn. Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước

ngọt trong vùng đất ngập nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi

giáng thủy và chúng mất đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất.

28

Nguồn nước này còn được cung cấp bởi các lượng nước mưa, được thu hồi bởi các

lưu vực, tổng lượng nước trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc vào

một số yếu tố khác. Các yếu tố này như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập

nước và các hồ chứa nhân tạo, độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các

đặc điểm của dòng chảy mặt trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc hơi

địa phương. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mất nước. Ở những vùng

nhiệt đới có lượng mưa dồi dào thì nguồn nước được cung cấp từ những lượng nước

mưa sẽ góp phần quan trọng trong NTTS.

Điển hình như ở Việt Nam do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên có

nguồn nước mặt rất phong phú do các hệ thống sông lớn của nước ta bắt nguồn từ

lãnh thổ các nước láng giềng nên khối nước mặt lớn hơn lượng nước mưa (các hệ

thống sông lớn như: hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đồng Nai, sông

Cửu Long,…). Ngoài ra lượng nước mặt tương đối lớn hằng năm tạo điều kiện cho

sự phong phú của nguồn nước mặt. Nước đối với ngành nông nghiệp không riêng gì

ngành NTTS là rất cần thiết, yếu tố này được xem là quan trọng nhất trong ngành

NTTS là nguồn nước được xem là môi trường sống của thủy sinh vật. Lượng mưa

hàng năm tương đối lớn, trung bình từ 1800mm – 2000mm. Sông ngòi Việt Nam

tương đối nhiều, phân bố tương đối đồng đều trên các vùng lãnh thổ. Dọc theo đường bờ biển cứ 10km có một cửa sông. Mật độ sông ngòi là 0,12km/km2, chỉ kể

các sông suối có chiều dài từ 10km trở lên đã có 2560 sông, bao gồm 124 hệ thống sông với tổng chiều dài lưu vực là 292.470km2, đây sẽ là nơi cung cấp nguồn nước

cho NTTS.

29

Trong đó: riêng nội

Tổng số

địa

Bảng 1.2 : Phân bố nguồn nước mặt ở Việt Nam

Các vùng lãnh thổ và lưu vực

%

%

Lưu lượng (tỉ m3/ năm)

Lưu lượng (tỉ m3/năm)

840,0

100,0

328,0

100,0

Cả nước

1. Đồng bằng Sông Hồng

Lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình

137,0

16,3

90,6

27,6

2. Đông Bắc

17,4

2

15,7

4,8

- Lưu vực sông vùng Quảng Ninh

8,5

1

7,2

2,2

- Lưu vực sông vùng Cao Bằng, Lạng

8,9

1

7,2

2,2

Sơn

3. Bắc Trung Bộ

67

8

58,3

17,9

- Lưu vực sông Mã

15,8

2,3

14,7

4,5

- Lưu vực sông Cả

24,7

2,9

19,8

6,3

- Các sông vùng Bình Trị Thiên

23,8

2,8

23,8

7,3

4. Duyên hải nam Trung Bộ

48,7

5,8

48,7

14,8

- Khu vực Quãng nam, Đà nẵng

21,6

2,6

21,6

6,6

- Khu vực Quãng Ngãi, Bình Định

14,6

1,7

14,6

3,2

- Khu vực Phú Yên, Khánh Hòa

12,5

1,4

12,5

4,4

5. Tây Nguyên

30,0

3.6

30,0

9,1

6. Đông Nam Bộ

34,9

4,2

34,9

10,6

- Lưu vực sông Đồng Nai

30,0

3,0

8,4

2,6

- Ninh Thuận – Bình Thuận

8,4

1,0

7. Đồng Bằng Sông Cửu Long

Lưu vực sông Cửu Long

05,0

60,1

50,0

15,2

Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn

Nhu cầu nước ngọt cho NTTS là rất lớn, cạn kiệt nguồn nước ngầm làm cho

nguồn nước ngọt hạn chế dẫn đến sụt lở địa tầng nếu khai thác quá mức. Nguồn

nước là môi trường sống cơ bản của các loài thủy sinh, NTTS phụ thuộc vào rất

nhiều yếu tố đặc biệt là môi trường nước và bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào từ môi

30

trường tự nhiên và nước liên quan đến NTTS đều tạo ra những trở ngại, dẫn đến

những hậu quả khôn lường.

Tài nguyên nước tuy là phong phú nhưng phân bố không đều theo thời gian và

không gian. So với lượng nước cả năm, mùa lũ chếm 70 – 80%, còn mùa kiệt chỉ có

20 – 30%. Đây là khó khăn lớn nhất đối với nền nông nghiệp nói chung và ngành

NTTS nói riêng.

1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội

Có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển và phân bố của ngành NTTS.

Dân cư và lao động: là lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời là thị trường tiêu

thụ các sản phẩm thủy sản. Do vừa là yếu tố đầu vào, vừa là đầu ra của sản xuất nên

đây là nhân tố hàng đầu trong phát triển thủy sản. Quy mô dân cư, cơ cấu dân số,

mức sống dân cư, tập quán canh tác, thói quen ăn uống, đặc biệt là chất lượng dân

cư là những khía cạnh ảnh hưởng cơ bản tới sự phát triển và phân bố của ngành

thủy sản.

Một số đặc điểm của dân cư và lao động hoạt động động trong ngành thủy

sản, xuất phát từ đặc điểm của ngành thủy sản nên lao động thủy sản cũng có tính

thời vụ, đặc biệt là lao động khai thác. Dân cư hoạt động thủy sản thường có tính ổn

định và có truyền thống sản xuất từ lâu nên có nhiều kinh nghiệm. Khai thác thủy

sản cần lao động trẻ khỏe nên chủ yếu là nam tham gia và làm việc theo kinh

nghiệm. Trong nuôi trồng và chế biến thì lực lượng đa dạng hơn và đòi hỏi về kỹ

năng nghề nghiệp và được đào tạo.

Khoa học - công nghệ: Trong tiến trình CNH – HĐH thì sự tiến bộ của khoa

học công nghệ được xem như một minh chứng cho sự phát triển không ngừng của

nền kinh tế mỗi quốc gia khu vực. Đối với ngành NTTS thì có thể diện tích nuôi

trồng không lớn mà có thể tận dụng những thành tựu của yếu tố khoa học – công

nghệ vào sản xuất nâng cao năng suất chất lượng.

- Ứng dụng công nghệ sinh học và các quy trình trong việc chọn tạo giống mới

và nuôi thương phẩm các đối tượng chủ lực phát triển nhanh các công nghệ lưu trữ

tinh, trứng và phôi để chủ động vận chuyển các con giống theo ý muốn ở các vùng

31

miền. Công nghệ sản xuất giống nhân tạo các loài thủy sản là động lực thúc đẩy

ngành sản xuất giống phát triển. Trong NTTS thì con giống luôn là yếu tố quyết

định nên việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuât giống là rất cần thiết, vấn

đề di truyền chọn giống, tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí

hậu, trong đó ưu tiên chọn các giống mới, bản địa. Nghiên cứu công nghệ sản xuất

giống có năng suất và sản lượng cao, an toàn sinh học. Nghiên cứu đa dạng sinh

học, bảo tồn gen và các loài thủy sản quý hiểm, đặc biệt loại thủy sản bản địa.

Trong nuôi trồng thủy sản thì con giống luôn là yếu tố quan trọng trong việc qui

định năng suất cũng như chất lượng, đặc biệt là việc tạo ra những con giống đặc

trưng thích nghi cho từng loại môi trường sống.

- Công nghệ sản xuất thức ăn điển hình là phát triển các nhà máy sản xuất thức

ăn trong nước, tạo cơ chế thông thoáng trong việc sản xuất và xuất nhập khẩu thức

ăn, chế phẩm sinh học, các sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường thông qua những tiến

bộ về khoa học kỹ thuật nhằm đem lại chất lượng cao hơn.

- Công nghệ xử lý nước thải của cơ sở/vùng nuôi thủy sản tập trung, xử lý và tái

sử dụng nền đáy ao nuôi độc canh tôm lâu ngày bị suy thoái, xử lý nguồn nước cấp

và giảm thiểu môi trường nước ao nuôi. Yếu tố này là rất cần thiết cho NTTS vì

thủy vực là yếu tố quan trọng trong đời sống thủy sinh vật nên phải chú trọng vấn

đề xử lý nguồn nước.

- Công nghệ sinh học dần đưa vào ứng dụng để nghiên cứu các biện pháp phòng

trị bệnh ở các giống loài thủy sản như: bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm, kỹ thuật

này nhanh chóng trở thành công cụ phổ biến để phát hiện bệnh dịch ở các vùng

nuôi thủy sản. Đồng thời nghiên cứu các phương pháp phòng trị bệnh cho tôm cá,

trong đó chú trọng nghiên cứu vácxin cho cá và chất kích thích miễn dịch cho tôm,

thực hiện việc phòng trị bệnh cho thủy sản bằng thảo dược.

- Trước những vấn đề về nguồn nguyên liệu (số lượng còn hạn chế và chất lượng

chưa cao), thất thoát sau thu hoạch còn nhiều; vấn đề về dư lượng kháng sinh hoá

chất trong sản phẩm thuỷ sản, các rào cản về thương mại đang là những thách thức

lớn đối với các sản phẩm CBTS xuất khẩu nên trong ngành NTTS là khâu công

32

nghệ bảo quản sau thu hoạch là rất quan trọng việc nghiên cứu các hình thức bảo

quản vận chuyển hàng tươi sống. Trong thời gian qua đã giải quyết được một phần

những yêu cầu cấp thiết của sản xuất, ở mức độ nào đó góp phần giảm thất thoát sau

thu hoạch, tạo ra nguồn nguyên liệu có chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm tốt

hơn cho chế biến xuất khẩu, một số sản phẩm có khả năng ứng dụng vào sản xuất,...

Công nghệ này được chú trọng phát triển sẽ góp phần thúc đẩy ngành NTTS phát

triển tốt hơn trong điều kiện bảo quản sản phẩm tốt.

Hiện nay, khi nguồn nguyên liệu còn thiếu, giá nguyên liệu còn cao, đòi hỏi

những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao hơn, chất lượng hơn.

Vốn: trong ngành thủy sản là một đối tượng động, di chuyển từ sản xuất sang

lưu thông rồi quay lại sản xuất, là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất.

Vốn không chỉ bao gồm tiền đầu tư cho sản xuất mà gồm cả các tư liệu lao động có

nguồn gốc kỹ thuật và các tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (vốn cố định).

Đặc điểm cơ bản của vốn trong sản xuất thủy sản là: vốn tương đối lớn, tính

luân chuyển chậm chạp do đầu tư ban đầu cho nuôi trồng, sắm tàu thuyền và các

phương tiện cho khai thác lớn; chu kỳ nuôi trồng và mỗi chuyến đi biển khai thác

thường tương đối dài và có tính mùa vụ. Vốn có nhiều rủi ro, khi sản xuất ở trình độ

cao thì mức độ rủi ro sẽ giảm. Vì vậy, đầu tư huy động nguồn vốn cho ngành thủy

sản là một vấn đề cần được quan tâm.

Thị trường tiêu thụ: trong và ngoài nước là yếu tố đầu ra, ảnh hưởng quan trọng

tới hiệu quả sản xuất, từ đó tác động trở lại đến các yếu tố đầu vào của sản xuất.

Tiêu thụ của người dân, công nghiệp chế biến phát triển cùng với việc đẩy mạnh mở

rộng thị trường xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành thủy sản, thúc

đẩy thủy sản phát triển.

Thị trường trong nước: thủy sản Việt Nam cung cấp khoảng 30% nhu cầu đạm

cho dân cư, trong đó sản phẩm từ nuôi trồng cung cấp ½ trong sản lượng thủy sản,

riêng Đồng Bằng Sông Cửu Long tỷ lệ này lên tới 60% và mức tiêu thụ trung bình

gấp 4 -5 lần ở các vùng khác. Mức tiêu thụ trung bình của Việt Nam khoảng 10 –

11kg, đều này cũng là động lực để thúc đẩy ngành nuôi trồng nói riêng và ngành

33

thủy sản nói chung phát triển và chếm tỷ trọng cao trong cả nước. Nếu so với lượng

tiêu thụ sản phẩm thủy sản của nước ta so với các nước khác trong khu vực thì Việt

nam xếp hàng trung bình (Inđônêxia, Philippin đều ở khoảng 17kg/người). Trong

khi đó (Nhật 90kg/người, Trung quốc 25kg/người) Việt Nam chỉ thuộc loại thấp

trên thế giới. Ngày nay thị trường tiêu thụ nội địa có xu hướng tiêu thụ những sản

phẩm có giá trị kinh tế cao, chất lượng tốt cũng tăng lên nhanh chóng, trước đây chủ

yếu tiêu thụ dưới dạng thô dưới dạng nguyên con thì ngày nay do công nghiệp chế

biến phát triển tì sản phẩm sơ chế, đông lạnh và cả đồ hộp đã trở thành phổ biến.

Trong điều kiện khai thác thủy sản có giới hạn thì ngành nuôi trồng càng được chú

trọng đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường một cách bền vững.

Thị trường thế giới: khối lượng hàng hóa ngày càng được trao đổi nhiều trên thế

giới, sản phẩm thủy ản ngày càng được tin tưởng sử dụng rộng rãi. Nhu cầu này trên

thế giới đã tạo điều kiện cho các nước đang phát triển giữ vai trò là người sản xuất

thu nhiều lợi nhuận hơn vì các nơi tiêu thụ thường là các nước phát triển.

Các thị trường tiêu thụ rộng lớn trên thế giới là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của

ngành nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm tham gia vào các thị trường lớn là nguồn thu

mang về ngoại tệ lớn từ việc xuất khẩu sản phẩm, đặc biệt nếu thâm nhập vào được

các thị trường lớn mà đòi hỏi về chất lượng sản phẩm cao mà sản phẩm nội địa có

thể đáp ứng được thì càng nâng cao uy tính trên thị trường thế giới. Việc đưa các

sản phẩm thủy sản tiếp xúc được với nhiều thị trường trên thế giới đã giúp cho

chúng ta có nhiều điều kiện để học hỏi nâng cao hơn chất lượng sản phẩm của quốc

gia mình.

Đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng nhất định đến sự

phát triển của ngành NTTS. Chúng ta phải có những giải pháp nhằm phát huy tốt

hơn các nguồn lực, chú ý đến sự khai thác các nguồn lực cho thích hợp đãm bảo sự

phát triển bền vững.

Đường lối chính sách: phát triển thủy sản có tác dụng định hướng, khuyến

khích ngành thủy sản phát triển. Những thay đổi cơ bản về đường lối chính sách

có tác động mạnh mẽ, đánh dấu bởi những giai đoạn phát triển của ngành.

34

Như vậy, thủy sản là ngành kinh tế chịu tác động tổng hợp của rất nhiều

nhân tố. Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhưng quyết định

sự phát triển của ngành thủy sản là các nhân tố kinh tế - xã hội, trong đó, trụ cột để

xây dựng ngành thủy sản phát triển theo hướng hiện đại là vốn, khoa học kỹ thuật

công nghệ, thị trường và đường lối chính sách.

35

Chương 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CỦA TỈNH TRÀ VINH

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh với hệ thống sông ngòi chằng chịt và nhiều điều kiện thuận lợi cho

việc phát triển kinh tế thủy sản. Trong thời gian qua ngành thủy sản nói chung và

ngành NTTS nói riêng luôn được củng cố và không ngừng phát triển góp phần quan

trọng vào việc ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tế, tạo nguồn nguyên liệu quan

trọng cho công nghiệp chế biến, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm

cho người lao động, từng bước hình thành những cụm kinh tế chuyên ngành tạo

điều kiện cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, là động lực để thúc đẩy ngành công

– nông – thương nghiệp và dịch vụ phát triển, góp phần không nhỏ cho việc xây

dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đưa công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất, tạo tiền đề để

thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất, mở rộng phân công lao động về ngành nghề

để sản xuất hàng hóa phát triển, làm nhân tố kích thích phát triển giữa các ngành

các vùng nhất là gắn công nghiệp với nông - lâm - ngư nghiệp góp phần nâng cao

đời sống dân cư trong cộng đồng. Để đạt được thành tựu quan trọng như thế trong

nền kinh tế thì Tỉnh đã có rất nhiều nhân tố thuận lợi từ tự nhiên cho đến kinh tế -

xã hội góp phần thúc đẩy ngành NTTS phát triển.

2.1.1. Vị trí địa lý

Vị trí địa lý là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói

chung và của từng ngành nói riêng. Trà Vinh với tổng diện tích tự nhiên 2295,1 km2, tỉnh nằm trong tọa độ địa lý giới hạn từ: 9031’46’’ đến 10004’05” vĩ độ Bắc và 105057’16” đến 1060 36’04” kinh độ Đông.

36

BẾN TRE

VĨNH LONG

SÓC TRĂNG

BIỂN ĐÔNG

Đường giao thông

Đường sông

Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010

37

+ Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long thông qua quốc lộ 53 dài 168 km, là

tuyến đường giao thông quan trọng với việc giao lưu theo đường bộ chủ yếu diễn ra

trên tuyến quốc lộ 53 nối liền với tỉnh Vĩnh Long giúp cho Trà Vinh nhiều điều kiện

tiếp xúc với các tiến bộ kinh tế, giao thông thông suốt giúp việc buôn bán trao đổi

hàng hóa với các tỉnh và khu vực trong cả nước được thuận lợi hơn.

+ Phía Đông giáp sông Cổ Chiên, ngăn cách với tỉnh Bến Tre, thông qua tuyến

quốc lộ 60 nối Trà Vinh với tỉnh Bến Tre bị chặn bởi dòng sông Cổ Chiên gây

nhiều khó khăn trở ngại trong việc giao lưu buôn bán. Công trình cầu qua sông Cổ

Chiên trên quốc lộ 60 hoàn thành thì sẽ rút ngắn khoảng cách giữa Trà Vinh và

thành phố Hồ Chí Minh một trung tâm kinh tế năng động của miền Nam thông qua

tỉnh Bến Tre, mang đến nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, với hệ

thống giao thông hoàn thiện việc trao đổi, buôn bán diễn ra một cách hiệu quả hơn.

Nằm trong vùng kinh tế tương đối năng động nên việc giao thương vận chuyển

hàng hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc liên kết hợp tác phát triển kinh tế

với khu vực.

+ Phía Tây giáp sông Hậu một trong hai nhánh sông chính của ĐBSCL, ngăn

cách với tỉnh Sóc Trăng và bị chặn lại bởi dòng sông lớn này gây nên nhiều khó

khăn, trở ngại. Qua tuyến phà Đại Ngãi nối Trà Vinh với huyện Cù Lao Dung của

Sóc Trăng.

+ Phía Nam và Đông Nam giáp biển với chiều dài hơn 65 km, đây được xem là

yếu tố quan trọng trong phát triển thủy sản nói chung và NTTS nói riêng. Tỉnh

thường xuyên ở trong tình trạng bị nước biển xâm nhập đã gây nên không ít khó

khăn cho việc trồng lúa nên nhiều vùng nông dân ở đây đã mạnh dạng chuyển hẳn

sang mô hình NTTS hoặc kết hợp với trồng lúa đã đem lại hiệu quả cao, việc tận

dụng nguồn nước ngọt trong mùa mưa để phát triển cây lúa đồng thời khi nước mặn

xâm nhập vào đất ruộng ở khu vực thì người dân tiến hành nuôi thủy sản nước mặn.

Vị trí địa lý của tỉnh mang đến một điều kiện vô cùng quan trọng cho ngành thủy

sản nói chung và ngành nuôi trồng nói riêng với việc mở rộng diện tích nuôi trồng

là đất bãi bồi và cồn nổi để nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa đối tượng

38

nuôi, nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng diện tích nuôi trồng ở vùng bãi bồi và

cồn nổi ven biển, ven sông, vùng đất rừng, đất nông nghiệp ngập nước khi triều lên;

quy hoạch và giao đất bãi bồi, cồn nổi cho hộ dân tham gia tổ hợp tác và hợp tác xã

sản xuất, ưu tiên giải quyết cho đối tượng là hộ ngư dân khai thác hải sản ven bờ

chuyển nghề và hộ nông nghiệp không đất sản xuất ở các xã ven biển. Có địa thế

tiếp giáp với biển Đông ở khu vực này có chế độ bán nhật triều đây là một trong

những điều kiện ảnh hưởng đến ngành NTTS với nguồn lợi tự nhiên từ biển mang

lại với nhiều giống loại thủy sản đa dạng hơn nữa có thể tận dụng nguồn nước biển

mang lại. Là một tỉnh ven biển có gần một nửa diện tích nằm trong vùng bị nhiễm

mặn thuận lợi cho phát triển NTTS thì việc tiếp giáp biển tự nhiên ngoài việc cung

cấp nguồn sinh vật, các rặng san hô, ngoài ra còn giúp cho việc phát triển kinh tế

vùng ven biển với các cảng biển có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế.

Là một tỉnh ven biển ở ĐBSCL và là một bộ phận của đồng bằng hạ lưu của

sông Mêkông với một nguồn nước dồi dào của 2 nhánh sông lớn là vị thế thuận lợi

cho phát triển nuôi trồng thủy sản, đây là khu vực mà ngành thủy sản rất phát triển

với nhiều tiềm năng NTTS nhất và có thể nói đây là vùng có nhiều lợi thế cho phát

triển NTTS nhất thế giới. Trà Vinh có vị trí quan trọng về kinh tế cũng như quốc

phòng. Thông qua các con sông và cửa sông, Trà Vinh có thể dễ dàng giao lưu với

các tỉnh bằng đường thủy, nhờ đó mà việc trao đổi cũng như buôn bán các sản phẩm

được dễ dàng hơn.

Nằm giữa hai nhánh sông lớn này và đổ ra biển cho phép Trà Vinh phát triển cả

3 mặt nước NTTS: mặn lợ và ngọt, nguồn nước ngọt được cung cấp từ sông Cổ

Chiên và sông Hậu cùng với sông Mang Thít giúp cho việc NTTS nước ngọt phát

triển thuận lợi hơn. Ngoài ra do phù sa sông có thể tạo ra những cồn nổi, bãi bồi ven

sông sẽ được quy hoạch tập trung khai thác những điều kiện thuận lợi phục vụ

NTTS. Một mặt, nguồn nước từ hai con sông lớn cung cấp cho các kênh rạch trong

nội đồng phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp trong đó ngư nghiệp sẽ có nhiều

điều kiện thuận lợi hơn hết. Khu vực trên 2 nhánh sông lớn người dân còn phát triển

các hình thức nuôi lồng bè trên sông đem lại hiệu quả cao.

39

Đặc biệt trên cửa sông Định An, Chính Phủ đang tiến hành đầu tư xây dựng

Cảng cho các luồng tàu thuyền có trọng tải lớn vào sông Hậu mở ra một hướng phát

triển mới cho khu vực ĐBSCL. Đối với tỉnh Trà Vinh sẽ có nhiều điều kiện thuận

lợi hơn trong việc giao lưu buôn bán thúc đẩy kinh tế phát triển.

Với địa thế này tỉnh Trà Vinh được chọn là tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế

biển cả về thủy sản lẫn thế mạnh trong giao lưu quốc tế, phát triển cảng nước sâu

với vai trò khu vực, đặc biệt với nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển thủy sản

được coi là thế mạnh trong phát triển kinh tế của tỉnh trong tương lai.

2.1.2. Các nhân tố tự nhiên

2.1.2.1. Địa hình

Nhìn một cách tổng quát thì địa hình tỉnh Trà Vinh tương đối bằng phẳng là

một đồng bằng ven biển với nhiều cồn cát chạy dọc duyên hải.

Địa hình luôn được xem là yếu tố quyết định trong việc tổ chức quy hoạch

phát triển của các ngành kinh tế. Địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc lưu

giữ, lan toả và thâm nhập của nguồn tài nguyên nước là thành phần thiết yếu trong

NTTS. Địa hình Trà Vinh mang tính chất vùng đồng bằng ven biển, là vùng chịu

ảnh hưởng bởi sự giao thoa giữa sông và biển chính đều này đã làm cho địa hình

của tỉnh hình thành các vùng trũng, phẳng xen lẫn các giồng cát, càng về phía biển,

các giồng cát càng cao và rộng lớn. Do sự chia cắt bởi các giồng và hệ thống trục lộ,

kinh rạch chằng chịt, địa hình toàn vùng khá phức tạp. Các vùng trũng xen kẹp với

các giồng cao, xu thế độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng.

Địa hình các huyện phía bắc bằng phẳng hơn so với các huyện phía nam. Cao

trình bình quân phổ biến từ 0,4 - 1,0 m, chiếm 66% diện tích đất tự nhiên. Phía Bắc

địa hình bằng phẳng hơn phía Nam, địa hình cao nhất trên 4m, dọc ven biển là các

giồng cát, gồm các giồng cát hình cánh cung phân bố ở Nhị Trường, Long Sơn (Cầu

Ngang); Ngọc Biên (Trà Cú); Long Hữu (Duyên Hải). Địa hình thấp nhất dưới 0,4

m, tập trung tại các cánh đồng trũng xã Tập Sơn, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên (Trà Cú);

Thanh Mỹ (Châu Thành); Mỹ Hoà, Mỹ Long, Hiệp Mỹ (Cầu Ngang); Long Vĩnh

(Duyên Hải) với độ cao từ 3 – 5 m.

40

Khu vực có địa hình cao hơn khu vực này được đặc trưng bởi quá trình hình

thành các giồng cát cửa sông có cao trình từ 0,75 - 1,81 m so với mực nước biển.

Địa hình tỉnh Trà Vinh rất phức tạp, cây lúa chiếm ưu thế ở các vùng trung bình

- thấp, một số vùng trũng ven sông có thể nuôi tôm tự nhiên hoặc tiến hành các hình

thức nuôi xen canh tôm cá trên ruộng lúa, nuôi ở các mương vườn đây là một trong

những hình thức đầy triển vọng trong phát triển nông nghiệp của tỉnh. Sự phân cắt

của các giồng cát đã làm cho việc thực hiện các công trình dẫn ngọt khó khăn cũng

như tập trung nước mưa nhanh gây ngập úng cho các vùng trũng kẹp giữa giồng.

Nhìn chung, địa hình thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp là từ: 0,6 - 1m. Cao trình

này thích hợp cho việc tưới tiêu tự chảy, ít bị hạn cũng như không bị ngập úng. Địa

hình có hướng cao dần ra hướng bờ biển vì vậy ảnh hưởng của thủy triều có thể vào

rất sâu, ở bờ biển đông có chế độ bán nhật triều tạo điều kiện thuận lợi cho việc

nuôi trồng thủy sản nước lợ phát triển. Địa hình tương đối bằng phẳng với các ao,

hồ, mương ruộng đều là những nơi có thể tiến hành nuôi trồng thủy sản và kể cả

nuôi các diện tích mặt nước ở các sông lớn.

Địa hình đáy biển ven bờ: thành phần cơ học của nền đáy là đặc tính thỗ nhưỡng

của nền đáy nơi có thủy vực quyết định cụ thể phân thành các nền đáy căn cứ vào cá

hạt nhỏ kích thước dưới 0,01mm.

+ Nền đáy đá: không có hạt nhỏ, suối, sông đầu nguồn vùng núi chỉ có tảng đá

lớn.

+ Nền cát: các hạt có kích thước nhỏ chiếm < 5%.

+ Nền cát bùn: các hạt kích thước nhỏ chiếm 5 -10%.

+ Nền bùn cát: các hạt có kích thước nhỏ chiếm 10 – 30 %.

+ Nền bùn: các hạt kích thước nhỏ chiếm 30 -50%.

+ Nền bùn nhão: các hạt kích thước nhỏ chiếm 50 %.

Căn cứ vào các đặc điểm trên thì ở đây địa hình vùng đáy ven biển là phần sát

bờ tính từ mép nước đến độ sâu 5m có bề rộng 5-10km, cấu tạo chủ yếu cát hạt mịn,

phần tiếp theo từ độ sâu 5m đến độ sâu 10m có bề rộng 10km, cấu tạo chủ yếu là

bùn sét.

41

Địa hình tỉnh Trà Vinh tuy có sự phân hóa và có nhiều độ cao khác nhau, nhưng

địa hình ở đây 100% hoàn toàn là đồng bằng đây là một trong những điều kiện tổ

chức phát triển sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi cho

ngành NTTS phát triển trong điều kiện địa hình tương đối bằng phẳng.

2.1.2.2. Khí hậu

Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ven biển, có điều kiện

ánh sáng bức xạ dồi dào, nền nhiệt độ cao và ổn định, tuy nhiên, do đặc thù của

vùng khí hậu ven biển tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như: gió

chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít,... Các yếu tố của khí hậu có ảnh hưởng nhất định

đến sự sinh trưởng và phát triển của thủy sinh vật.

Một năm có hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12

đến tháng 4 năm sau.

- Nhiệt độ không khí: trung bình toàn tỉnh là 27,2oC, nhiệt độ cao nhất đo được là 35,8oC, nhiệt độ thấp nhất đo được là 18,50C. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm thấp: 6,4oC. Đây là điều kiện để thủy sinh vật (tôm, cá,…) tồn tại và phát triển trong nền nhiệt giới hạn phát triển của thủy sinh vật từ 200 - 300C. Yếu tố này có vai

trò quan trọng trong phát triển thủy sản ở Trà Vinh, đây là điều kiện giúp cho các

loài thủy sinh vật phát triển quanh năm là điều kiện thuận lợi cho việc thich nghi

phát triển của một số loài có giá trị kinh tế cao như: tôm sú, cua biển,....

- Bức xạ: toàn tỉnh có tổng số giờ nắng cao: 7,7 giờ/ngày, bức xạ quang hợp

dồi dào: 82 cal/năm, cán cân bức xạ luôn dương cho phép cây trồng, vật nuôi phát

triển quanh năm. Số giờ chiếu sáng cao và tương đối đồng đều là tiền đề cho quá

trình quang hợp và tổng hợp chất hữu cơ của sinh vật. Độ ẩm trung bình năm biến

thiên từ 80 - 85%.

- Chế độ mưa: Mưa là yếu tố khí hậu biến động mạnh theo không gian và

thời gian, và là yếu tố có nhiều tác động - ảnh hưởng lớn đối với nền Nông nghiệp –

Thủy sản, phân bố không ổn định và phân hóa mạnh theo thời gian và không gian.

+ Về thời gian: 90% lượng mưa của năm tập trung vào mùa mưa bắt đầu từ

tháng 5 đến tháng 11, các tháng có lượng mưa cao nhất là từ tháng 6 - tháng 10.

42

+ Về không gian: lượng mưa giảm dần từ Bắc xuống Nam, cao nhất ở Càng

Long, Trà Vinh; thấp nhất ở Cầu Ngang và Duyên Hải; ở các huyện gần biển, mùa

mưa bắt đầu muộn nhưng kết thúc sớm. Địa phương có số ngày mưa cao nhất là

huyện Càng Long (118 ngày), thị xã Trà Vinh (98 ngày); thấp nhất là huyện Duyên

Hải (77 ngày) và huyện Cầu Ngang (79 ngày).

Tổng lượng mưa từ trung bình đến thấp 1.227 - 1.588mm, mùa mưa đến sớm

hơn, nông dân có điều kiện rửa mặn và xuống giống sớm, sản xuất lúa - tôm kết hợp

đem lại hiệu quả cao.

Nhìn chung, do mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian, khiến

ảnh hưởng ít nhiều đến việc sản xuất Nông nghiệp – Thủy sản. Khoảng 90% lượng

mưa tập trung vào thời điểm ngập lũ khiến tình hình trầm trọng hơn, trong khi đó

vào mùa khô thì rất ít mưa khiến xảy ra tình trạng khô hạn kéo dài. Tuy nhiên, việc

tận dụng được các lợi thế do lượng mưa dồi dào đem lại, cũng như việc gia cố

chống lũ tốt, sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa sản phẩm sản xuất cho

ngành Nông nghiệp – Thủy sản.

- Chế độ gió và hướng gió: ảnh hưởng của chế độ gió mùa rõ rệt. Tháng 5 - 9

(mùa mưa): hướng gió chính là Tây - Nam đến Tây Tây - Nam. Cuối tháng 9 - 10:

gió giảm dần, và đổi hướng Tây - Nam đến Đông Đông - Bắc. Tháng 12 - 2: gió

thổi hướng Đông - Bắc đến Đông - Nam. Tháng 3 - 5: gió thổi theo hướng Đông

đến Đông Đông - Nam.

Gió mùa Đông Bắc hoặc Đông Nam (gió chướng) hoạt động từ tháng 11

năm trước đến tháng 3 năm sau có hướng song song với các cửa sông lớn. Gió

chướng là nguyên nhân khiến cho nước biển dâng cao và đẩy mặn truyền sâu vào

nội đồng điều kiện thuận lợi tiến hành NTTS nước lợ. Vận tốc gió đạt cao nhất đạt 5

- 8 m/s (chủ yếu trong tháng 2, 3) và thường mạnh vào buổi chiều. Sự xuất hiện các

đỉnh mặn do gió chướng tác động đã làm cho việc sản xuất không ổn định trong thời

gian này.

- Tổng lượng bốc hơi toàn tỉnh cao, bình quân 1.293 mm/năm. Vào mùa khô,

lượng bốc hơi rất mạnh từ 130 - 150 mm/tháng, nhất là các vùng giồng cát cao và

43

khu vực sát biển, gây ra sự khô hạn gay gắt ở các vùng này. Riêng huyện Duyên

Hải, lượng bốc hơi cao hơn lượng mưa năm đã gây ra sự mao dẫn muối lên và tập

trung ở tầng mặt làm cho lý tính đất trở nên xấu và khó sử dụng hơn.

Biểu đồ 2.1: Thể hiện nhiệt độ và lượng mưa của tỉnh Trà vinh năm 2010

mm

mm

0C

450 400 350 300 250 200 150 100 50 0

30 29 28 27 26 25 24 23 22 21 0C Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Tháng

lượng mưa

nhiệt độ

Với khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình của khu vực đây là điều kiện thuận

lợi phát triển nông nghiệp nhiệt đới, nhiệt độ và độ ẩm phù hợp với một mùa mưa

và một mừa nắng tạo điều kiện cho cây lúa và con tôm sinh trưởng và phát triển tốt.

2.1.2.3. Thủy văn

Trà Vinh vốn là một Cù Lao lớn giữa sông Tiền và Sông Hậu với hai con

sông chính là sông Cổ Chiên (một nhánh của sông Tiền) và sông Hậu. Có 3 dòng

sông lớn Hậu Giang, sông Cổ Chiên và sông Măng Thít với tổng chiều dài 578km

nếu tính luôn cả hằng trăm sông kênh rạch nhỏ cùng nhiều kênh đào dẫn nước từ

sông chính về đồng ruộng thì tổng chiều dài là 1876 km. Nguồn nước do sông Hậu,

Cổ Chiên, Mang Thít tạo cho tỉnh Trà Vinh một tài nguyên dồi dào đây là nguồn

cung cấp nước trực tiếp cho toàn bộ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của tỉnh như

phục vụ thủy lợi, tưới tiêu, giao thông.

44

Nguồn nước mặt của tỉnh chủ yếu lấy nước ngọt từ sông Mê Kông thông qua

hai nhánh sông được phân chia trên lãnh thổ Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu và

nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước

bình quân của sông Mê Kông chảy qua Đồng bằng sông Cửu Long nói chung hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Nguồn nước ngọt được

cung cấp bởi hai dòng sông chính: Cổ Chiên là nhánh sông của sông Tiền và sông

Hậu là điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS nước ngọt phát triển với lượng nước

mặt phong phú.

- Sông Hậu chảy theo hướng Tây Bắc Đông Nam, đoạn qua địa bàn tỉnh Trà

Vinh có chiều dài 55 km. Sông đổ ra biển theo cửa Định An, lưu lượng nước bình quân 2.000 - 3.000 m3/s đủ để cung cấp nước ngọt cho các kênh rạch, ao hồ trong

nội đồng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất nông nghiệp đặc biệt ngành NTTS trên

địa bàn tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi hơn.

- Sông Cổ Chiên là một trong ba nhánh chính của sông Tiền, đoạn ngang

Vĩnh Long cách biển khoảng 100km thì sông Tiền chia ra thành sông Cổ Chiên và

sông Mỹ Tho, đoạn sông Cổ Chiên chảy qua địa bàn tỉnh Trà Vinh có chiều dài

khoảng 45 km. Mặt sông rộng nhất ở khu vực huyện Càng Long (1.800 - 2.100 m). Lưu lượng nước 12.000 - 19.000 m3/s. Hàm lượng phù sa 100 - 500 g/m3.

Hai hệ thống sông chính này giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước

ngọt cho các vùng NTTS thông qua hệ thống sông nội đồng. Hệ thống kê rạch

chằng chịt Trà Vinh cung cấp nước cho các khu vực nuôi thủy sản. Mật độ kinh trục

phân bố khá đều trong tỉnh từ 4 - 10 m/ha. Đối với mật độ kinh nội đồng, Trà Vinh

có mật độ còn thấp (< 50% so với yêu cầu sản xuất). Trong đó, huyện có mật độ

kênh cao nhất của toàn tỉnh là huyện Tiểu Cần (45 m/ha); thấp nhất là huyện Duyên

Hải, Trà Cú, Cầu Ngang (18 - 28 m/ha).

Trên địa bàn tỉnh có các kênh trục chính có vai trò quan trọng trong phát

triển kinh tế là:

- Phía sông Cổ Chiên: rạch Láng Thé, kênh Trà Vinh, rạch Bãi Vàng, rạch

Thâu Râu.

45

- Phía sông Hậu: Rạch Mỹ Văn, sông Cần Chông, rạch Trà Cú, Tống Long,

Vàm Ray, kênh Láng Sắc (Nguyễn Văn Pho).

- Hệ thống kênh trục dọc: Kênh Trà Ngoa, kênh 3/2.

Các hệ thống sông thống nhất quan trọng mang nhiệm vụ tiếp nước ngọt đều

tiết nguồn nước cho từng vùng có thể phục vụ cho sản xuất sinh hoạt đồng thời đối

với hoạt động NTTS thủy sản thì việc cung cấp nước cho ao nuôi cũng như tháo rửa

ao, thay nước cho ao,….

Hệ thống thủy văn của tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ triều biển

Đông. Đây là chế độ bán nhật triều không đều, ngày có 2 lần triều lên và 2 lần triều

xuống, mỗi tháng có 2 kỳ triều cường (vào ngày 1 và 15 âm lịch) và 2 kỳ triều kém

(vào ngày 7 và 23 âm lịch). Vùng đất phía Tây quốc lộ 53 của huyện bị xâm nhập

mặn vào mùa khô, chủ yếu từ sông Hậu như rạch Trà Cú, Tổng Long, Vàm Ray. Do

gần biển, biên độ và mực nước trên sông rạch khá cao nên tiềm năng tiêu tự chảy

của tỉnh rất lớn, chỉ riêng một phần ở Càng Long và khu vực giữa tỉnh (phần giáp

ranh của các huyện: Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang) do có sự giáp

nước từ nhiều hướng và biên độ triều tắt nhanh nên bị ngập kéo dài 3 - 4 tháng.

Chế độ triều biển đông có biên độ triều khá lớn trên 2 m, đạt tối đa 3,59m,

đặc biệt trong chu kỳ triều Maton (chu kỳ 19 năm) có thể lên đến 4 - 4,2 m.

Nhìn chung, khoảng 1/3 diện tích đất tự nhiên của tỉnh bị ngập khá sâu vào

mùa mưa (> 0,6 m) phân bố tập trung ở ven sông và các trũng giữa giồng của các

huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú. Các vùng gò ngập ít (< 0,4 m) phân bố chủ

yếu ở khu vực giữa tỉnh (thuộc vùng lúa cao sản), đây là vùng có khả năng canh tác

màu và thâm canh lúa cao sản nhưng dễ bị hạn ảnh hưởng. Bên cạnh các vùng gò

ngập ít, do bị mặn ảnh hưởng nên dù động lực triều cao nhưng chỉ một phần diện

tích của tỉnh có khả năng sử dụng nước sông để tưới tiêu hoặc tiến hành nuôi trồng

thủy sản ở những vùng nhiễm mặn.

Thủy triều biển Đông gia tăng biên độ khi tiến sát đến cửa sông và bắt đầu

giảm dần khi truyền sâu vào đất liền. Đặc biệt về mùa kiệt, ảnh hưởng của triều

trong hệ thống sông rất lớn. Biên độ triều cũng giảm nhanh khi vào các kênh rạch

46

nhỏ. Khi đến mùa lũ triều yếu đi, nhưng nó cũng là một yếu tố làm mực nước lũ

tăng cao. Hàng năm, có khoảng 90% diện tích đất tự nhiên của tỉnh bị nhiễm mặn

trung bình 4gr/lít trong phạm vi 30 km tính từ biển trở vào. Hiện tượng nhiễm mặn

thường bắt đầu từ tháng 12 tại Hưng Mỹ trên sông Cổ Chiên và Trà Ngoa trên sông

Hậu. Mặn lên cao nhất vào tháng 4 tại cửa Vũng Liêm (sông Cổ Chiên) và Cầu

Quan (sông Hậu). Mặn thường kết thúc vào tháng 6, thời gian sớm hay muộn phụ

thuộc vào thời gian, lượng mưa tại thượng nguồn và địa phương. Dựa trên ranh giới

độ mặn 4‰, có thể chia ra thành những vùng có cấp độ mặn như sau: Vùng mặn

thường xuyên độ mặn 4‰: chiếm 17,7%, vùng mặn 5 - 6 tháng chiếm 25,8%, vùng

mặn 4 tháng (từ tháng 2 - 5 dương lịch) chiếm 13,9%, vùng mặn 3 tháng (từ tháng 3

- 5 dương lịch) chiếm 16,6%, vùng mặn 2 tháng (từ tháng 4 - 5 dương lịch) chiếm

1,8%, vùng mặn 2 tháng bất thường (từ tháng 4 - 5 dương lịch) chiếm 15,1%.

Một vấn đế lớn đối với tài nguyên nước mặt ở tỉnh, đó là hiện tượng nước

chua. Nước chua thường xảy ra ở vùng đất phèn, một số nơi chịu ảnh hưởng nước

chua từ nơi khác đến nhưng không nhiều. Trong mùa khô, khi nước ở kênh rạch cạn

làm tăng khả năng oxy hóa tầng đất Pyrite sinh ra các sản phẩm gây chua và mao

dẫn đưa lên tầng đất mặt. Đầu mùa mưa, nước mưa hòa tan các sản phẩm này làm

cho ruộng bị chua và sau đó chảy xuống kênh làm cho nước ở kênh bị nhiễm chua.

● Sự xâm nhập mặn: Do vị trí địa lý tự nhiên nên Trà Vinh bị ảnh hưởng

mặn trực tiếp từ phía Đông và biển phía Tây tác động lên cả vùng ĐBSCL nói

chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng qua hai hệ thống sông chính là sông Tiền và Sông

Hậu, đặc biệt trong mùa kiệt khi mà lưu lượng thượng lưu về ít mà độ dốc đáy sông

nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho thủy triều xâm nhập sâu vào trong hệ thống sông

kênh nội đồng đây là nguồn cung nước cho các hình thức nuôi mặn lợ. Do chế độ

bán nhật triều không đều ở biển Đông, nên việc truyền mặn từ các vùng biển này

vào các cửa sông cũng theo nhịp điệu của quá trình triều: tại một vị trí cố định,

trong ngày thường có 2 đỉnh mặn và 2 chân mặn, thường thì quá trình mặn chậm

hơn quá trình mực nước khoảng 1-2 giờ, độ mặn cũng giảm dần từ cửa sông vào.

47

Trà Vinh vốn được xem là một cù lao lớn nằm giữa sông Tiền và Sông Hậu

hằng năm khi nước biển xâm nhập vào sâu nội đồng thì phần lớn lãnh thổ đều bị

nhiễm mặn. Vào cuối mùa lũ, khi nguồn nước từ thượng lưu về trong sông giảm

dần, mặn từ biển bắt đầu lấn dần vào vùng cửa sông và theo triều xâm nhập vào sâu

lên thượng lưu. Theo quan sát mức độ xâm nhập mặn lớn nhất là vào tháng 4 - 5

hàng năm trên các nhánh sông, sau đó giảm dần theo thứ tự là tháng 3, tháng 2,

tháng 1, tháng 6, tháng 8, tháng 9 và yếu nhất là tháng 10. Từ tháng 6, do ảnh

hưởng của sự gia tăng nước ngọt thượng nguồn vào những tháng đầu mùa lũ và mùa

mưa tại đồng bằng, nước mặn bị đẩy ra xa vùng ven biển.

Nguồn nước ngầm trong vùng tương đối thấp chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt

hầu như toàn bộ nước ngầm trên vùng này đều bị nhiễm mặn. Các huyện ven biển

thường hay bị nhiễm mặn cục bộ đây là điều kiện để tỉnh tiến hành nuôi thủy sản

đồng thời luân canh với cây lúa vào những tháng mùa mưa hoặc những tháng nước

ngọt.

2.1.2.4. Thổ nhưỡng

Tổng diện tích đất toàn tỉnh là 234.115 ha, với những đặc điểm thổ nhưỡng

khác nhau thì những diện tích đất được khai thác vào những mục đích phù hợp.

Theo số liệu thống kê năm 2010 được thể hiện ở bảng 2.1, tổng diện tích đất sản

xuất nông nghiệp là 185.091 ha chếm 79,1% trong cơ cấu sử dụng đất, đất phi nông

nghiệp 47.932 ha chếm 20,5%, đất diêm nghiệp 195,8 ha chếm 0,1%, bên cạnh đó

diện tích đất chưa sử dụng là 896,9%. Trong tổng diện tích đất sử dụng cho nông

nghiệp thì diện tích đất dùng trong NTTS là 29.632 ha chếm 12,7% trong cơ cấu đất

nông nghiệp.

48

Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Trà Vinh năm 2010

Tổng số (ha) Cơ cấu (%)

185.091 79,1 - Đất NN

148.569 63,5 + Đất sản xuất NN.

6.684 2,9 + Đất lâm nghiệp có rừng

29,632 12,7 + Đất nuôi trồng thủy sản.

207 0,1 + Đất NN khác.

47.932 20,5 - Đất phi NN

4.444 1,9 + Đất ở

13.433 5,7 + Đất chuyên dùng

897 0,4 - Đất chưa sử dụng

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám Thống kê 2010).

Ngoài những diện tích đất sử dụng vào mục đích chính thì còn nhiều diện tích

được sử dụng vào các hoạt động kinh tế xã hội khác. Diện tích đất chưa sử dụng còn

tương đối có thể khai thác tận dụng quy hoạch đưa vào các mục đích kinh tế khác.

Mặt khác, đặc điểm thổ nhưỡng của khu vực là đất bị nhiễm mặn do địa hình

lòng chảo cao dần ra hướng bờ biển. Vùng nội đồng vốn là vùng sinh thái nước ngọt

nhưng với địa hình lòng chảo đã làm cho vùng này bị nhiễm mặn tuy có những khó

khăn cho sản xuất nông nghiệp nhưng lại là những tiềm năng cho phát triển NTTS.

Vì ảnh hưởng của thủy triều có thể xâm nhập rất sâu vào nội địa trong mùa khô, gây

khó khăn trong việc chuyên canh cây lúa nhưng lại là điều kiện thuận lợi để nuôi

tôm nước lợ. Vào mùa mưa, nước được ngọt hóa, phù hợp để trồng lúa. Như vậy,

trong một năm phương thức canh tác phù hợp, có hiệu quả cao ở khu vực này là

luân canh nuôi một vụ tôm, trồng một vụ lúa.

Các nhóm đất: Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2010 tổng diện tích

đất tự nhiên của tỉnh Trà Vinh là 234.116 ha. Đất đai được chia thành các nhóm

chính như sau:

- Đất cát giồng: là các giồng cát hình cánh cung chạy dài song song với bờ

biển, thuộc địa bàn các huyện Trà Cú, Cầu Ngang, Duyên Hải, Châu Thành. Độ cao

địa hình từ 1,4 - 2 m. Loại đất này thích hợp trồng cây ăn trái và hoa màu.

49

- Đất phù sa: chia thành các loại sau:

+ Đất phù sa phát triển trên chân giồng cát phân bố chủ yếu ở Trà Cú, Duyên

Hải, Châu Thành. Đất này hình thành ở địa hình cao từ 0,8 - 1,2 m, không bị ngập

nước do triều. Loại đất này đang được sử dụng trồng hoa màu với cơ cấu 2 - 3

vụ/năm hoặc luân canh lúa - màu. Tuy nhiên, năng suất và mùa vụ chưa ổn định.

+ Đất phù sa không nhiễm mặn phân bố chủ yếu ở Cầu Kè, Càng Long, một

phần nhỏ phân bố ở Tiểu Cần, Châu Thành. Đất có độ cao từ 0,6 - 1,2 m, chủ yếu

trồng lúa 2 - 3 vụ/năm, một số diện tích có thể trồng cây ăn trái hay hoa màu.

+ Đất phù sa nhiễm mặn ít nằm trong vòng cung mặn, nước kênh rạch bị

nhiễm mặn 2 - 5 tháng. Loại đất này phân bố tập trung tại Trà Cú, Tiểu Cần, Cầu

Ngang; một phần nhỏ phân bố ở Cầu Kè, Châu Thành. Độ cao từ 0,6 - 1,2 m nên

hầu như không bị ngập úng. Đất thích hợp trồng lúa 2 vụ/năm hay 1 vụ lúa + 1 vụ

màu.

+ Đất phù sa nhiễm mặn trung bình có nguồn nước bị nhiễm mặn từ 6 - 8

tháng phân bố tập trung ở Cầu Ngang, Duyên Hải và một ít ở Trà Cú, Châu Thành.

Đất thấp nên thường bị ngập khi triều cường hoặc ngập theo mùa. Điều kiện canh

tác khá hạn chế, chỉ trồng lúa 1 vụ vào mùa mưa và kết hợp nuôi trồng thủy sản.

+ Đất phù sa nhiễm mặn nhiều: tập trung ở Duyên Hải, thời gian mặn trên 8

tháng, độ mặn 10‰. Đất này sử dụng cho nuôi trồng thủy sản, khoanh nuôi bảo vệ

rừng và làm muối.

- Đất phèn gồm có các loại:

+ Đất phèn không nhiễm mặn: phân bố ở Càng Long, Cầu Kè. Địa thế cao,

không bị ngập lũ, có thể cải tạo để trồng lúa.

+ Đất phèn nhiễm mặn ít: tập trung ở Châu Thành, Cầu Ngang, có thể cải tạo

để trồng lúa.

+ Đất phèn nhiễm mặn trung bình: phân bố ở Châu Thành, Duyên Hải, Cầu

Ngang, Trà Cú. Địa hình khá cao, từ 0,6 - 1,2 m, không thể ngập lũ. Người dân ở

đây có thể canh tác bằng cách trồng lúa mùa, nuôi thủy sản.

50

+ Đất phèn nhiễm mặn nhiều, tập trung ở Duyên Hải. Đất nhiễm mặn quanh

năm do ảnh hưởng của biển, chỉ thích hợp trồng rừng ngập mặn.

Nhìn chung, đất đai ở Trà Vinh có đến 56% diện tích nhiễm mặn và 27% diện

tích nhiễm phèn. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tỉnh phải thực hiện nhiều dự án

cải tạo đất nhằm rửa phèn, rửa mặn. Dự án thủy lợi Nam Mang Thít (Nam Măng

Thít) là một trong những công trình trọng điểm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn đầu tư trên địa bàn hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Mục tiêu của dự án

là nhằm kiểm soát mặn, lấy nước và giữ nước ngọt, tiêu úng, tiêu chua, rửa phèn

cho gần 171.626 ha đất canh tác và 225.628 ha đất tự nhiên, đồng thời có nhiệm vụ

cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng, kết hợp khai thác nguồn lợi thủy sản,

phát triển giao thông, cải tạo môi trường.

Những loại đất mà không thể canh tác nông nghiệp thì cơ quan quản lý tiến

hành quy hoạch chuyển đổi diện tích sử dụng sang NTTS cho phù hợp với đặc tính

đất đai của từng vùng, tùy từng loại đất mà có hình thức phát triển thích hợp với

quy mô nhất định. Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh có rất nhiều diện tích đất dần dần do

sự tác động của tự nhiên đã làm thay đổi tính chất của đất vốn là những diện tích đất

phù sa dọc sông Cổ Chiển và sông Hậu hiện nay với sự thay đổi thất thường tự

nhiên làm cho nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng gây nhiễm mặn cục bộ trên

diện rộng, từ đó cơ quan chính quyền địa phương đã tiến hành chuyển sang NTTS ở

những vùng có nước mặn xâm nhập vào những khoảng thời gian nhất định và

những vùng ven biển.

2.1.2.5. Tài nguyên thiên nhiên

Trong bất kỳ nền hoạt động sản xuất nào thì nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn

là yếu tố quyết định sự phát triển của các ngành kinh tế. Trong ngành NTTS thì

nguồn lợi thủy sản càng giữ vai trò quan trọng hơn hết. Nguồn lợi thủy sản là một

bộ phận nông sản tự nhiên nói chung, là nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng quý giá,

có khả năng tái tạo, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và đời sống

nhân dân.

51

Nguồn lợi thủy sản cũng tương đối phong phú có hơn 660 loài thủy sản sinh

sống, Trà Vinh có bờ biển dài 65 km, là vùng biển nông, thuộc khu vực tiếp giáp

của 2 vùng biển Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đây là vùng biển có nguồn tài

nguyên phong phú, có giá trị kinh tế cao. Biển không chỉ cho tiềm năng về hải sản

mà còn có thể phát triển thương mại và du lịch.

- Biển Trà Vinh có nhiều tôm cá và các loại thủy sản khác. Trữ lượng thủy

sản khoảng 1,2 triệu tấn/năm, khả năng khai thác 630.000 tấn/năm. Thực vật phù du

có 73 loài thuộc 5 ngành, đa phần tập trung vào ngành tảo Silíc và các nhóm tảo có

nguồn gốc nước mặn. Mật độ trung bình đạt 666 cá thể/ lít.

- Động vật phù du có 48 loài, số động vật nổi vùng ven bờ đạt bình quân 15.600 cá thể/m3 (biến động từ 4.000 - 34.000 cá thể/m3). Động vật đáy (cỡ nhỏ) ở

vùng biển Trà Vinh khá phong phú.

Với nguồn lợi thủy sản tự nhiên phong phú giúp cho ngành NTTS có nhiều

điều kiện phát triển với nhiều giống loài đa dạng nguồn giống tự nhiên là cơ sở để

lai tạo ra những giống thủy sản khác làm phong phú hơn các đối tượng nuôi trên

khu vực.

Diện tích lưu vực tự nhiên của tỉnh là 21.265 ha và khoảng 98.597 ha ngập

nước từ 3 - 5 tháng/ năm, trữ lượng thủy sản nội đồng ước tính của Trà Vinh là

3.000 - 4.000 tấn, khai thác thường xuyên từ 2.000 - 2.500 tấn. Nguồn lợi thủy sản

vùng ven biển Trà Vinh bao gồm nguồn lợi cửa sông, rừng ngập mặn và vùng nước

ven biển có độ sâu 30 - 40 m nước vào bờ.

Nguồn cá ven biển có 40 họ, 78 giống và 150 loài gồm cá biển ven bờ, cá

nước lợ và cá di cư. Trữ lượng cá vùng cửa sông ven biển Trà Vinh trên diện tích

lưới quét năm 1994 là 62 tấn (khu cửa sông ), 274 tấn cá nổi và cá tầng giữa; khu

nước mặn và lợ là 9.063 tấn, cá nổi và cá tầng giữa là 63.470 tấn. Tổng trữ lượng

khu cửa sông, ven biển là 72.869 tấn, khả năng khai thác (50%) là 36.434 tấn.

Theo điều tra của Phân viện Kinh tế Qui hoạch Thủy sản phía Nam - Bộ

NN&PTNT (Bộ Thủy sản cũ) khảo sát thực tế ngư trường, cho biết: “Ngư trường có

khả năng khai thác biển ở Trà Vinh có diện tích hơn 45.536 hải lý vuông. Trong đó:

52

độ sâu từ 0 - 30 m = 3.001 hải lý vuông; từ 30 - 50 m = 22.499 hải lý vuông; 50 -

100 m = 14.788 hải lý vuông; 100 - 200 m = 5.248 hải lý vuông. Lượng tôm phân

bố chủ yếu gần bờ khoảng 20m trở vào.

Trà Vinh có 2 bãi tôm lớn gồm: bãi tôm ở phía bắc cửa Cung Hầu (sông Cổ

Chiên), có diện tích khoảng 30.000 ha kéo dài từ thị trấn Mỹ Long (Cầu Ngang) ra

đường thẳng sâu 30m và kéo dài lên địa phận tỉnh Bến Tre; mùa vụ khai thác bãi

tôm này trong mùa khô đạt khoảng 40%, sản lượng cao vào các tháng 11 năm trước

đến tháng 1 năm sau và trong mùa mưa đạt khoảng 60% tổng sản lượng, sản lượng

cao vào các tháng tháng 6 - 9 hàng năm. Bãi tôm cửa Định An diện tích khoảng

20.000 ha là bãi tôm lớn nhất trong 5 bãi tôm ở dải ven biển Đồng bằng Sông Cửu

Long. Ước tính trữ lượng tôm biển tại hai bãi tôm chính là 97 - 212kg/ha (Bắc Cung

Hầu) và 64 - 249kg/ha (Cửa Định An); tổng sản lượng tôm biển của Trà Vinh

khoảng 4.300 - 11.000 tấn/năm. Có thể khai thác mỗi năm 2.000 - 3.000 tấn mực;

35 - 49 tấn sò huyết/năm; trữ lượng nghêu khoảng 168 - 210 tấn.

Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, năm 2010 tỉnh Trà Vinh có 32.841 ha

diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản; sản lượng thủy sản khai thác năm 2010 đạt

77.276 tấn, chiếm khoảng 7,8% sản lượng thủy sản khai thác trong năm của khu

vực Đồng bằng Sông Cửu Long, sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2010 đạt

82.777 tấn chếm 4,3 % sản lượng nuôi trồng của cả ĐBSCL.

Nguồn lợi thủy sản có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế thủy sản.

Đây vừa là nguồn lợi phục vụ nhu cầu đánh bắt vừa phục vụ việc cung ứng nguồn

giống tự nhiên trong nuôi trồng.

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động

Theo số liệu thống kê năm 2010 dân số trung bình của tỉnh là 1.005.856 nghìn người, mật độ 440 người/km2. Trong đó số nam chếm 495.593 người, số nữ chếm

510.263 người, khu vực thành thị 154.751 người, nông thôn 851.105 người.

53

Theo số liệu thống kê 2010, dân số Trà Vinh chiếm 5,82% Đồng bằng sông

Cửu Long, trong đó hơn 85% sống ở khu nông thôn, Trà Vinh là tỉnh có quy mô

dân số nhỏ.

Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, dân số tỉnh Trà Vinh năm 2010 là

1.005.856 người, đứng thứ 11 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, cao hơn tỉnh

Bạc Liêu và tỉnh Hậu Giang. Dân số Trà Vinh tăng liên lục qua các năm, tốc độ

tăng tự nhiên các năm trước khá cao, nhưng đã giảm mạnh trong những năm gần

đây. Năm 2006 tỷ lệ gia tăng tự nhiên là 12,35‰ đến năm 2010 còn 9,3‰. Mức

tăng tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao hơn so với trung bình cả nước. Dân cư Trà Vinh phân bố không đều. Thị xã Trà Vinh có mật độ cao nhất (1.484 người/km2 vào năm 2010). Huyện Duyên Hải có mật độ thấp nhất (236 người/km2 vào năm 2010).

Dân cư phân bố thưa dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Các huyện có điều kiện tự

nhiên thuận lợi như Càng Long, Cầu Kè có mật độ tương đối cao; các huyện có điều

kiện tự nhiên khó khăn như Cầu Ngang, Duyên Hải có mật độ khá thấp.

Biểu đồ 2.2: Thể hiện dân số trung bình phân theo giới tính

của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)

Người

1.000.782

1.003.164

1.005.856

993.706

997.188

505.134

503.381

509.055

510.263

506.929

492.054

490.325

493.853

494.109

495.593

1.200.000 1.000.000 800.000 600.000 400.000 200.000

0

2006

2007

2008

2009

2010 Năm

Tổng số Nam Nữ

54

Dân số trung bình toàn tỉnh xét trong giai đoạn ở hình 2 luôn tăng, trong đó

dân số nam và nữ trong giai đoạn đều giữ mức tăng ổn định. Trong tổng dân số của

tỉnh thì dân số nữ luôn cao hơn dân số nam. Dân số nữ năm 2006 chếm 503.391

người đến năm 2010 tăng lên 510.263 người, trong khi dó dân số nam năm 2006 là

490.325 người tăng lên 495.593 người năm 2010.

 Cơ cấu dân số:

- Xét theo độ tuổi, Trà Vinh là địa phương có dân số trẻ tỷ lệ trẻ em cao.

Ngày nay, mức sinh đã giảm nhưng kết cấu dân số vẫn trẻ. Theo số liệu Tổng điều

tra dân số năm 2009, Trà Vinh có 23,17% dân số trong độ tuổi dưới 15, chỉ có 8,1%

dân số trong độ tuổi từ 60 trở lên, số người trong độ tuổi từ 15 – 60 tuổi chếm

68,73% tức là có 762,508 người trong độ tuổi này. Kết cấu dân số trẻ của Trà Vinh

được lý giải bởi tỷ suất sinh thô khá cao trong một thời gian dài, làm gia tăng tốc độ

tăng dân số tự nhiên. Dân số trẻ giúp Trà Vinh có nguồn lao động dồi dào. Tuy

nhiên, do kinh tế của tỉnh chủ yếu dự vào nông nghiệp nên số lao động dư thừa khá

cao, nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết như: việc làm, y tế, giáo dục.

- Về lực lượng lao động, Trà Vinh có dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào. Theo

số liệu thông kê năm 2010 thì toàn tỉnh có 585.926 người tuy nhiên vấn đề việc làm

chưa được giải quyết tốt. Hàng năm có khoảng 10.000 lao động của tỉnh tìm kiếm

việc làm ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.

Bảng 2.2: Dân số trung bình phân theo thành thị và nông thôn ở tỉnh Trà Vinh.

Đơn vị: Người

Năm

2006 2007 2008 2009 2010 Khu

vực

145.081 148.082 151.118 153.819 154.751 Thành Thị

848.625 849.106 849.664 849.345 851.105 Nông Thôn

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (NGTK – 2010)

55

Tỷ lệ dân số nông thôn của tỉnh luôn cao và chếm tỷ lệ lớn hơn dân số thành

thị trong cơ cấu dân số của tỉnh. Dân số nông thôn luôn giữ ở mức trên khoảng 800

nghìn người trong khi đó dân số thành thị chỉ khoảng 150 nghìn người (Bảng 2.2).

Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp đặc

biệt là ngành thủy sản sử dụng lao động chủ yếu là lao động nông thôn.

Trên địa bàn tỉnh có 3 nhóm dân tộc chính, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh

có 680.692 người, chiếm 67.67%; dân tộc Khmer có 316.961 người chiếm 31,51%;

dân tộc khác có 8.203 người, chiếm 0,82%.

Trong các cuộc thống kê thì thời kỳ 2009 được xem là thời kỳ “dân số vàng”

của tỉnh Trà Vinh, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động chiếm 68,9%, Là thời kỳ

cứ 02 lao động chỉ phải gánh 01 người ngoài độ tuổi lao động (từ 0 đến 15 tuổi và

trên 60 tuổi). Đây là thời kỳ mà lực lượng lao động xã hội dồi dào nhất, có khả năng

tạo ra lực lượng vật chất cho xã hội cao và đưa lại nhiều thặng dư xã hội nhất. Tuy

nhiên, chất lượng lao động là một trong những thách thức lớn đối với tỉnh. Hầu hết

lao động của tỉnh Trà Vinh là lao động giản đơn (73,8%). Đây là bài toán khó cho

công tác đào tạo nghề, xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững trong những năm

trước mắt.

Tỷ lệ gia tăng tự nhiên của dân số tỉnh đang có xu hướng giảm dần năm 2006

tỷ lệ tăng tự nhiên là 12,35‰, đến năm 2010 tỷ lệ này đạt 9,3‰. Năm 2010 tỷ lệ

sinh là 15,6‰ trong khi đó tỷ lệ tử là 6,3‰.

Về tỷ số giới tính dân số Trà Vinh có nữ nhiều hơn nam, tuy nhiên, mức

chênh lệch không đáng kể và không thay đổi nhiều qua các năm và chất lượng cuộc

sống, nhìn chung dân số tỉnh Trà Vinh tại thời điểm Tổng điều tra tương đối cân

bằng: tổng số Nam là 495.593 người chiếm 49,27% và nữ la 510.263 người chiếm

50,73%. Tuy nhiên, khi phân tích theo độ tuổi thì xuất hiện những mất cân bằng

như: nhóm từ 60 tuổi trở lên chỉ có 58,6 nam/100 nữ (hậu quả của chiến tranh);

nhóm dưới 15 tuổi có 106,7 nam/100 nữ.

- Về dân tộc: Trà Vinh là địa bàn có nhiều dân tộc cùng cư trú. Người Khmer

ở Trà Vinh chiếm khoảng 31,63% dân số tỉnh, đông nhất so với các tỉnh Đồng bằng

56

Sông Cửu Long; tuyệt đại bộ phận người Khmer ở Trà Vinh sinh sống bằng nghề

nông, trồng lúa nước là chủ yếu và sống tập trung trên những con giồng cao, bao

quanh bởi chi chít mương rạch nhỏ. Người Hoa ở Trà Vinh số lượng không nhiều,

chiếm khoảng hơn 0,77% dân số tỉnh. Người Kinh chiếm khoảng 67,56% dân số

tỉnh. Một số ít còn lại là các dân tộc Chăm, Tày, Nùng.

Về chất lượng cuộc sống của dân cư trong 10 năm qua đã có bước cải thiện

tương đối khá. Tuy nhiên, so với khu vực và cả nước thì tuổi thọ bình quân dân cư

Trà Vinh vẫn còn thấp: Trà Vinh 72,5 tuổi, đồng bằng sông Cửu Long 73,8 tuổi và

cả nước là 72,8 tuổi.

Dân số là nguồn lực, là đầu vào cơ bản của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, là đối

tượng quản lý chủ yếu của nhà nước, vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng

tiêu dùng của xã hội. Việc nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ tay nghề lao

động nói riêng là cốt lõi của phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Mặt khác, công tác

truyền thông phải nhắm tới ba mục tiêu: tỷ lệ sinh thay thế; cân bằng giới tính và

giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.

Sự phân công lao động trong cơ cấu nền kinh tế cũng có sự chênh lệch, hiện tại

vào năm 2010 lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp là 54.39% và dự

kiến năm 2011 lao động ở các lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp sẽ chiếm 60%, công

nghiệp và xây dựng chiếm 20% và lao động dịch vụ chiếm 20% (Bảng 2.3). Chỉ

riêng lao động lao động trong ngành thủy sản là 37.541 người, chếm tỷ lệ 10,21%

trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp.

Bảng 2.3 : Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.

Đơn vị: %

Năm

2006 100,0 69,1 2007 100,0 65 2008 100,0 61,6 2009 100,0 57,0 2010 100,0 54,4

11,3 13,5 15,1 17,2 18,2

19,6 21,6 23,3 25,8 27,4

Tổng số Nông – lâm – ngư nghiệp( KV1) Công nghiệp - xây dựng (KV2) Dịch vụ và các lĩnh vực khác (KV3) Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010

57

Dân cư vừa là nguồn lao động vừa là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm của nền

kinh tế, chính vì vậy mà sự phân bố của các ngành sản xuất phụ thuộc vào sự phân

bố dân cư và nguồn lao động tại chổ.

Trà vinh phần lớn là lao động nông thôn có hơn 851.105 người đây là nguồn

lao động chính cho ngành NTTS nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.

2.1.3.2. Trình độ dân trí

Trà Vinh là một tỉnh nghèo trình độ dân trí còn thấp, tính đến năm 2000, đã

phổ cập giáo dục tiểu học cho 8 huyện, thị xã với 94 xã, phường, thị trấn, tỷ lệ

người biết chữ trong độ tuổi đạt 100%. Số học sinh phổ thông trong toàn tỉnh đang

theo học ở các cấp học trên 148.204 em trong đố số học sinh là các dân tộc ít người

chếm 44.797 em chếm 30,23%; số giáo viên toàn tỉnh năm 2010 có 10.011 người,

trong đó số giáo viên là người dân tộc thiểu số là 1.982 người chiếm 19,8% trong

tổng số giáo viên của toàn tỉnh.

Trong mặt bằng chung về trình độ dân trí của cả nước và khu vực, nhằm nâng

cao hơn nữa trình độ dân trí tỉnh đã tiến hành phổ cập giáo dục ở cả 3 cấp. Tỷ lệ phổ

cập cao nhất vẫn là ở cấp tiểu học tiếp đến là cấp trung học và phổ thông. (Biểu đồ

2.3).

Biểu đồ 2.3: Thể hiện số học sinh phổ thông của tỉnh Trà Vinh (2006-2010).

58

Hệ thống giáo dục của tỉnh Trà Vinh bao gồm đầy đủ các cấp học: mầm non,

tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Theo số liệu của Tổng cục Thống

kê, tại thời điểm 2010, tỉnh Trà Vinh có 344 trường học ở các cấp phổ thông, đứng

thứ 10 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.

Tuy tỉnh còn nghèo, nhưng ngành giáo dục trong những năm qua đã có những

bước phát triển khá. Cuối 2007, tỉnh đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục Phổ

thông cơ sở; 6/8 huyện thị có trường dân tộc nội trú (DTNT) với trên 1.000 học sinh

người dân tộc Khmer. Tình trạng học sinh bỏ học đã được cải thiện. Tuy nhiên về

cơ sở vật chất, các trường trong tỉnh đều chưa đáp ứng được việc học ngày 2 buổi.

Việc xây dựng trường chuẩn còn chậm. Đào tạo nhân lực khó khăn, phân luồng học

sinh sau Phổ thông cơ sở còn lúng túng. Kế hoạch kiên cố hoá trường học đến 2010

không thể hoàn thành, trên địa bàn tỉnh còn hàng ngàn trường tre lá, còn nhiều điểm

trường mượn nhà dân, nhà chùa. Tỉnh chỉ đạo mỗi ấp phải có lớp mầm non, nhưng

hiện chỉ có trên 70% ấp thực hiện được.

Tỉnh sẽ tập huy động các nguồn lực và thu hút đầu tư cho phát triển giáo dục -

đào tạo, phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp: trường

mẫu giáo đạt 70%, trường tiểu học đạt 50%, trường trung học cơ sở đạt 40%, trường

trung học phổ thông đạt 30%; đến năm 2020, các tỷ lệ này lần lượt đạt 100%, 90%,

70% và 50%. Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông dân

tộc nội trú; có cơ chế quản lý, phối hợp với các chùa Khmer dạy chữ viết, học bổ

túc văn hóa và phong tục, tập quán cho đồng bào dân tộc; củng cố các trường lớp

dành cho trẻ khuyết tật. Đồng thời có chính sách đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất cho

các cơ sở đào tạo, dạy nghề, nhất là tại thành phố Trà Vinh và các thị trấn.

Quy mô và hình thức giáo dục và đào tạo của tỉnh Trà Vinh không ngừng được

mở rộng và đa dạng hóa nhằm nâng cao trình độ dân trí của tỉnh. Toàn tỉnh hiện đã

có 344 trường học và trung tâm dạy nghề, với 4538 phòng học; 28 trường tiểu học

và 2 trường mẫu giáo được công nhận đạt chuẩn quốc gia; 149 trường có lớp học 2

buổi/ngày. Giáo dục trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học tiếp tục phát

triển cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Việc nâng cấp và mở rộng Trường Cao

59

đẳng Cộng đồng lên thành Trường Đại học Trà Vinh, Trường Trung học Y tế lên

Trường Cao đẳng Y tế, Trường Dạy nghề lên thành Trường Trung cấp Nghề... góp

phần nâng cao năng lực đào tạo và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong tỉnh.

Đã có 101/104 xã, phường, thị trấn và 8/8 huyện, thị xã được công nhận đạt

chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 100/104 xã, phường, thị trấn thuộc 8

huyện, thị xã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Tỷ lệ các xã phường /thị trấn có trường tiểu học chếm 100%, trung học cơ sở

là 87,66%. Ngành giáo dục đã rất chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục nhằm

nâng cao trình độ dân trí trong dân cư. Tỉnh cũng đã tiến hành phổ cập giáo dục mở

nhiều lớp bổ túc văn hoá, thu hút nhiều học viên theo học ở tất cả các cấp.

Bảng 2.4: Số học sinh ở các cấp học của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)

Đơn vị: Người

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Cấp học

78.826 77.917 76.385 79.003 81.608 Tiểu học

55.699 50.942 50.373 47.877 48.344 Trung học

27.338 24.806 23.635 19.660 18.252 Phổ thông

Nguồn: Cục thống kê tỉnh trà vinh (Niên giám thông kê 2006 - 2010)

Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trung bình qua các năm cũng

chếm tỷ lệ tương đối lớn. Thành phố Trà Vinh là một trong những đơn vị có tỷ lệ đỗ

tốt nghiệp cao nhất trong tỉnh chếm 90,23%, trong đó đơn vị có tỷ lệ thấp nhất là

huyện Tiểu Cần 60,71%.

Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng tăng về số lượng và

nâng dần về chất lượng; nhờ đó, trình độ dân trí trong toàn tỉnh được nâng lên rõ

rệt, tổng số giáo viên năm 2006 đạt 9.635 người đến năm 2010 số giáo viên đạt

10.011 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh hằng năm, công tác thu hút,

bồi dưỡng nhân tài được quan tâm. Tỉnh tổ chức tốt hệ thống mạng lưới hội khuyến

học các cấp ở các cơ quan, ban, ngành và tất cả các trường học trong tỉnh. Hệ thống

60

này ngày càng phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền, vận động

khuyến học nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.

Bảng 2.5: Số giáo viên ở các cấp học( 2006 – 2010)

Đơn vị: Người

Năm 2006 2007 2008 2009 2010

Cấp học

4.376 4.485 4.417 4.560 4.732 Tiểu học

3.564 3.486 3.513 3.437 3.525 Trung học

1.695 1.786 1.823 1.742 1.754 Phổ thông

Nguồn: Cục thống kê tỉnh trà vinh (Niên giám thông kê 2006 - 2010).

Chú trong nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong phục vụ phát triển kinh tế

xã hội, ngành NTTS thủy sản được xem là thế mạnh nên việc nâng cao trình độ cho

nguồn lao động của ngành là đều rất quan trọng

2.1.3.3. Khoa học công nghệ

Cùng với tốc độ phát triển của khu vực ĐBSCL nói riêng và cả nước nói

chung thì tỉnh Trà Vinh đã chú trọng đầu tư nâng cao trình độ khoa học công nghệ

trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhằm đưa kinh tế phát triển bền vững cùng

với các tỉnh trong khu vực.

Đặc biệt trong lĩnh vực NTTS việc đầu tư đẩy mạnh tiến độ phát triển của

Khoa học công nghệ (KHCN) là tiền đề đưa ngành phát triển ngày một bền vững.

Những thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực NTTS về công

nghệ gen, sản xuất giống, nuôi thương phẩm, xử lý môi trường, sẽ được tiếp tục đẩy

mạnh nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới. Đây sẽ là những nhân tố tích cực

tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của NTTS tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa một cách hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, do tác động của xu thế toàn cầu

hóa và trong điều kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO), lĩnh vực NTTS nói riêng cũng như ngành thủy sản nói chung phải nhanh

chóng tiếp cận, du nhập, ứng dụng các công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới,

đặc biệt là công nghệ sản xuất giống, nuôi thương phẩm ít gây ảnh hưởng xấu đến

61

môi trường sinh thái để nâng cao chất lượng sản phẩm và vượt qua các rào cản kỹ

thuật, yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản của các thị

trường nhập khẩu.

Tỉnh đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ trong việc sản xuất giống

mới như ứng dụng quy trình sản xuất nhân tạo nghêu giống, tôm, cá tra, cá lóc, cua

biển... Trung tâm giống của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN-PTNT) đã

áp dụng quy trình sản xuất nhân tạo nghêu giống và đã đạt được thành công đáng

khích lệ sản xuất được 12,7 triệu con nghêu cám cấp II. Việc sản xuất thành công

nghêu giống đã mở ra hướng phát triên mới cho ngành nuôi của tỉnh.

Hiện tại Tỉnh đang áp dụng công nghệ sản xuất giống tôm toàn đực, năm 2010

được Viện Nuôi trồng Thuỷ sản II cung cấp trong khuôn khổ Dự án Nông thôn

Miền núi của Chính phủ cho tỉnh Trà Vinh, với tên gọi: “Dự án Xây dựng Mô hình

nuôi tôm càng xanh luân canh trong ao nuôi tôm sú tại 2 huyện Cầu Ngang - Duyên

Hải & Tiếp nhận Qui trình Công nghệ sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực phục

vụ sản xuất”. Đây là công nghệ xử lý để những con tôm cái giả có khả năng sinh sản

nên thế hệ F1 là những con giống tôm càng xanh toàn đực, đáp ứng khả năng cung

cấp cho việc tiến hành nuôi tôm thương phẩm có giá trị kinh tế cao vượt trội từ đặc

thù phát triển nhanh của con tôm càng xanh đực, có thể nặng đến 400gr mỗi con.

Trong hệ thống ao nuôi của tỉnh đa số đều có hệ thống máy quạt, máy bom,

sục khí đảm bảo cho môi trường nước thông thoáng hơn.

2.1.3.4. Cơ sở sở hạ tầng

Trà Vinh được xem là một trong những tỉnh nghèo của khu vực ĐBSCL cơ sở

hạ tầng còn nhiều yếu kém. Những năm qua, ngành Giao thông vận tải (GTVT) Trà

Vinh đã triển khai thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và

đạt được những kết quả rất lớn. Toàn tỉnh Trà Vinh hiện có 3 tuyến quốc lộ chính

gồm: QL53; QL54; QL60 với tổng chiều dài 246 km, hiện còn 11 km là đường đất

(QL53 đoạn Long Vĩnh – Định An) Bộ GTVT đưa vào Dự án phát triển cơ sở hạ

tầng ĐBSCL (WB5), theo kế hoạch sẽ triển khai thi công trong năm 2009. Có 5

tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài 183km, trong đó đã nhựa hóa 111,3km, đạt 60,8%,

62

còn 71,7km đường đất (trong đó ĐT 915 có tổng chiều dài 60,8km hiện Dự án WB5

đã có kế hoạch đầu tư 17,5km, nguồn ngân sách đầu tư 5,2 km, phần còn lại khoảng

38,1km đang tìm nguồn để đầu tư). Có 39 Hương lộ với tổng chiều dài 410km,

trong đó đã nhựa hóa 292,7km, đạt 71,2%, còn 117,3km đường đất, hiện đang tìm

nguồn đầu tư. Toàn tỉnh có một mạng lưới giao thông nông thôn rộng khắp với trên

2.000km, trong đó loại mặt đường bằng bê tông cốt thép và các loại vật liệu khác

như: đá nhựa, cấp phối đá, đất gia cố hóa chất… trên 1.600km.

- Đường bộ: phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xem xét nâng cấp các tuyến

quốc lộ 53, 54, 60 trên địa bàn Tỉnh; chủ động xem xét nâng cấp các tuyến đường

tỉnh 911, 912, 913, 914, 915, 915B phù hợp với nhu cầu phát triển và nguồn lực

từng giai đoạn; nghiên cứu xây dựng một số tuyến đường kết nối với các vùng sâu,

vùng xa trong Tỉnh. Xây dựng các tuyến đê ven biển kết hợp với đường giao thông

dọc theo sông Cổ Chiên và sông Hậu. Nâng cấp các tuyến đường cấp huyện và liên

xã, đường giao thông nông thôn; phát triển đồng bộ các tuyến đường đô thị. Xây

dựng các tuyến đường giao thông phục vụ di dân có lụt bão trên địa bàn tỉnh. Hoàn

thiện các cầu đang được đầu tư như cầu Cổ Chiên, cầu Đại Ngãi; đầu tư hệ thống

phà qua các sông ở những nơi chưa có điều kiện làm cầu. Nghiên cứu khôi phục lại

sân bay Long Toàn theo hướng bay dịch vụ, khảo sát, cứu hộ khi đáp ứng đủ điều

kiện quy định.

Đối với NTTS, hệ thống đường giao thông phục vụ các vùng nuôi trồng thủy

sản còn nhiều hạn chế. Mọi lưu thông, phân phối đều bằng giao thông thủy, có một

số ít dựa vào đường giao thông nông thôn và các đường kết hợp đào kênh thủy lợi

và đắp bờ bao, nhưng cũng không thể phục vụ được tuyến dài do khó khăn vì không

có cầu.

Đường thủy: cải tạo, mở rộng khơi luồng các tuyến để đảm bảo thông suốt trên

tuyến Trà Ngoa - Trà Ếch - Ô Chát - Kênh 3/2 - La Bang; hoàn thành đầu tư xây

dựng công trình cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu phù hợp với nguồn lực

trong từng giai đoạn. Hệ thống kênh đã có tác dụng tốt trong việc cấp nước tưới

tiêu, tiêu phèn, tháo lũ, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết. Mật độ kênh

63

nhiều vùng thấp, hiện tượng bồi lắng vẫn diễn ra, đặc biệt là những vùng giáp nước

do đó cấp và tiêu nước kém.

Với mạng lưới sông ngòi như trên sẽ là điều kiện phát triển của giao thông

thủy. Đối với ngành kinh tế nói chung và với NTTS nói riêng, giao thông thủy ở

đây là điều kiện vô cùng thuận lợi, với chi phí rẻ và cơ động; giao thông thủy hoàn

toàn đáp ứng nhu cầu phát triển NTTS. Có những loài cá không thể thu mua với

đường bộ đó là cá Tra, Ba Sa, vì yêu cầu của tiêu thụ cá Tra, Ba Sa là cá phải sống

tới tận nhà máy chế biến. Do vậy phương tiện vận chuyển cá Tra hiện nay hoàn toàn

bằng ghe “đục” có trọng tải lớn và gần khu nuôi gần sông rạch chính.

- Cảng: hình thành cảng đầu mối trung tâm khu vực trên bờ biển Duyên Hải và

các cảng phục vụ theo quy hoạch gắn với Khu kinh tế Định An. Xây dựng các bến

đường thủy phục vụ vận chuyển hàng hóa và các bến tàu du lịch liên tỉnh.

Đối với ngành thủy sản: Ngoài tuyến đường giao thông huyết mạch trong nền

kinh tế riêng đối với ngành NTTS cũng đã được các cấp chính quyền quan tâm đầu

tư nâng cấp mở rộng. Giao thông theo chủ trương chung của tỉnh sẽ nâng cấp, xây

mới mạng lưới giao thông, đảm bảo quốc lộ rải nhựa đạt tiêu chuẩn đường cấp I, II,

tỉnh lộ đạt cấp II, III; xây dựng hoàn thành các đường đến trung tâm các xã. Bảo

đảm những tuyến đường ở các vùng nuôi thủy sản đều được trải nhựa góp phần

thuận lợi hơn trong việc chuyên chở nguyên liệu thủy sản: giống, thức ăn thủy sản,

thuốc thú y thủy sản,…. đồng thời thuận lợi hơn trong việc buôn bán sản phẩm, giao

thông thuận tiện luôn là yếu tố quyết định phát triển của các ngành kinh tế.

- Thủy lợi: Xây dựng hệ thống thủy lợi theo hướng đa mục tiêu: kiểm soát lũ,

ngăn mặn, ngọt hóa, thau chua, xổ phèn và phục vụ: nông nghiệp, thủy sản, cấp

nước sinh hoạt và công nghiệp, dịch vụ; đồng thời gắn với việc bố trí dân cư theo

quy hoạch đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, nhất là xây dựng cụm tuyến dân cư

vượt lũ. Tiếp tục triển khai các hạng mục kênh, đê, bờ bao của Dự án Nam Măng

Thít; xây dựng đưa vào sử dụng 2 khu neo đậu tránh, trú bão cho tàu cá ở cửa Cung

Hầu và cửa Định An; quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng làng cá xã Đông

Hải, huyện Duyên Hải và làng cá Vĩnh Bảo, huyện Châu Thành.

64

Theo thông tin từ Thông tấn xã Việt Nam, năm 2012 ngành nông nghiệp tỉnh

Trà Vinh đã được Trung ương đầu tư hai công trình thủy lợi phục vụ cho nghề nuôi

trồng thủy sản với nguồn vốn hơn 77,5 tỷ đồng. Cụ thể, dự án xây dựng hệ thống

thủy lợi phục vụ nuôi tôm sú trên cách đồng Trà Côn, huyện Cầu Ngang với diện

tích 800ha có tổng vốn đầu tư hơn 44,5 tỷ đồng; dự án thủy lợi phục vụ nghề nuôi

cá da trơn, tôm càng thuộc vùng qui hoạch Rạch Đùi - Bà Bảy - Vàm Đình tại xã

Ninh Thới, huyện Cầu Kè, vốn đầu tư 37 tỷ đồng. Cùng với hai dự án mới, ngành

nông nghiệp tỉnh Trà Vinh đang xúc tiến xây dựng hoàn thành ba công trình hạ tầng

kỹ thuật phục vụ cho nghề nuôi trồng thủy sản được chuyển tiếp của năm 2011 là hệ

thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm sú cánh đồng Rẫy Cá Kèo, rộng 200ha tại xã Mỹ

Long Nam, vốn đầu tư hơn 26 tỷ đồng; Dự án cung cấp điện cho hệ thống thủy lợi

phục vụ cho vùng nuôi tôm sú ở 2 xã Hiệp Mỹ Đông - Mỹ Long Nam, rộng 800ha,

vốn đầu tư 11,5 tỷ đồng; Dự án xây dựng Trung tâm sản xuất giống thủy sản huyện

Tiểu Cần, vốn đầu tư 26 tỷ đồng. Đây là những công trình hướng đến phát triển

nghề nuôi tôm sú theo hướng công nghiệp, bền vững; phục vụ cho kế hoạch mở

rộng diện tích 500ha nuôi tôm sú công nghiệp nhằm nâng tổng diện tích nuôi tôm sú

công nghiệp toàn tỉnh năm 2010 lên 3.650 ha.

Việc đảm bảo phát triển hài hòa giữa các vùng nuôi tôm - lúa vẫn là điều nan

giải hiện nay và cần có hệ thống thuỷ lợi (HTTL) phù hợp. Việc tiêu thoát nước thải

luôn là mối quan tâm của nhiều hộ NTTS và của toàn vùng NTTS, bởi vì dịch bệnh

có thể lan truyền nhanh trong môi trường tác động qua lại, đặc biệt thông qua nguồn

nước thải dịch bệnh sẽ có nhiều điều kiện phát tán gây hại cho các vùng nuôi thủy

sản. Trong nhiều trường hợp, các ao nuôi tôm ở hạ lưu thiệt hại cao hơn đây cũng là

đều thường thấy ở các vùng nuôi. Để NTTS ở mức độ cao, không những HTTL

phải tiếp ngọt ổn định mà cần cả HTTL dẫn mặn chủ động vào những thời điểm

thích hợp phục vụ hoạt động NTTS. Ngoài ra, HTTL hiện tại chưa là hệ thống liên

kết liên hoàn từ vùng NTTS đến vùng phát triển trồng trọt hay trồng rừng để tạo

môi trường sinh thái, theo nguyên lý chất thải của NTTS là nguồn cấp dinh dưỡng

cho nông nghiệp và lâm nghiệp, đồng thời nông nghiệp và lâm nghiệp làm vai trò

65

xử lý chất thải cho NTTS.

Đối với HTTL nội đồng của các vùng NTTS tập trung: Hiện nay một số vùng

quy hoạch và các dự án đã đầu tư hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, có ao lắng và

ao xử lý, chất thải, còn lại các vùng phát triển nuôi trồng tự phát, các hộ nuôi vẫn

chưa có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt trong HTTL nội đồng do sản xuất nhỏ,

đất đai manh mún, do vậy đầu tư thêm kênh là rất khó khăn. Hệ thống ao lắng cũng

có đầu tư nhưng còn nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu do phải tốn diện tích và vốn

đào ao. Ao xử lý chất thải thì gần như không có do nguyên nhân là phải đầu tư thêm

ao, công nghệ xử lý giá thành hạ chưa có. Tiêu chuẩn chất thải của Việt Nam chưa

hợp lý vì theo tiêu chuẩn xử lý chất thải loại B thì họ sẽ dùng luôn nước đó dùng lại

còn tốt hơn là lấy nước từ sông. Trong giai đoạn 2006 – 2010 trên địa bàn tỉnh đã

đầu tư xây dựng Kè sông Long Bình và nâng cấp đê biển với nhiệm vụ bảo vệ vùng

nội đồng với tổng vốn đầu tư gần 56.000 triệu đồng. Công trình này sẽ có vai trò

quan trọng trong phát triển nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng.

Theo Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thuỷ Sản, các cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi

thủy sản của tỉnh đã được nhiều chủ quản đầu tư với quy mô phù hợp phục vụ

NTTS. Địa phương quản lý có các dự án như: Thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản

Hưng Mỹ, Châu Thành có quy mô công suất 200ha với số vốn khoảng 8 tỷ đồng,

Thủy lợi thủy sản Sà Lôn- Lộ Sỏi (Xã Đại An, Đôn Xuân, Định An) quy mô công

suất đạt 250 ha nguồn vốn khoảng 16 tỷ đồng, Thủy lợi thủy sản kết hợp trồng lúa

xã Hòa Ân - Tam Ngãi Thông Hòa, Thủy lợi thủy sản kết hợp trồng lúa Cà Hom -

Bến Bạ, Thủy lợi cho nuôi thủy sản La Ghi- Vàm Rạch Cỏ, Thủy lợi nuôi thủy sản

vùng chuyển đổi 450 ha xã Mỹ Long Nam, với tổng nguồn vốn cho các dự án hơn

39 tỷ đồng.

Ngoài ra, hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS của tỉnh còn có công trình thuộc Bộ

NN - PTNT quản lý như hệ thồng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản Đồng Đon,

Trà Vinh. Với quy mô công suất đạt 1380 ha thời gian tiến hành từ năm 2011-2015,

với tổng số vốn đầu tư lên đến 140 tỷ đồng trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà

nước là 100 tỷ đồng, nguồn vốn khác chếm 40 tỷ đồng.

66

- Cấp điện: tiếp tục mở rộng, nâng cấp mạng lưới điện hiện có đáp ứng nhu

cầu điện sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. 100% số xã có mạng lưới điện quốc

gia hoà mạng, có 70% số hộ được sử dụng điện. Mạng lưới điện, trong giai đoạn

2006 – 2010 phát triển trên 335 km đường dây trung thế, 814 km đường dây hạ thế,

540 trạm biến thế; ước đến cuối năm 2010 toàn tỉnh có 2.292 km đường dây trung

thế, 3.125 km đường dây hạ thế, 3.042 trạm biến thế, hộ sử dụng điện chiếm 94%

hộ dân toàn tỉnh. Phối hợp Trung ương khởi công xây dựng Dự án Trung tâm Điện

lực Duyên Hải, cắm mốc giải phóng mặt bằng, bàn giao tuyến Dự án Điện cho

20.000 hộ. Ngoài ra, Hệ thống lưới điện quốc gia đã được nối hoàn toàn các vùng

của ĐBSCL. Đường dây 220 KV đã được truyền tải từ đường dây 500KV Bắc Nam

vào khu vực ĐBSCL thông qua trạm Cai Lậy. Từ trạm Phú Lâm và Cai Lậy các

đường dây 110KV được nối với các tỉnh ĐBSCL. Cùng với việc phát triển và mở

rộng một số nhà máy phát điện trong vùng (nhiệt điện khí Cà Mau và Ô Môn) đã

làm cho hệ thống điện quốc gia đảm bảo phục vụ tốt cho nền kinh tế ĐBSCL nói

chung và phục vụ NTTS nói riêng.

Do nhu cầu đầu tư đường dây điện dễ hơn so với phát triển giao thông hay

thủy lợi, nên khi có nhu cầu phát triển hạ tầng, đặc biệt là khi có đường giao thông

hoặc bờ bao thủy lợi là ngành điện phát triển theo. Do vậy, tại các vùng NTTS tập

trung ngành điện đã đáp ứng điện 3 pha (đặc biệt là những vùng nuôi tôm công

nghiệp). Những vùng nuôi không tập trung hoặc phát triển chưa có quy hoạch thì

mới chỉ có điện 1 pha thắp sáng, điện 3 pha chưa đáp ứng được nhu cầu bơm nước,

sục khí và chế biến thức ăn.

+ Hệ thống thông tin liên lạc: Phấn đấu đến năm 2015, đạt mức 3.844

người/điểm phục vụ bưu chính và bán kính phục vụ bình quân 1,54 km; đến năm

2020 đạt mức 3.000 người/điểm phục vụ và bán kính phục vụ bình quân 1,2 km.

Năm 2015, đạt 100% xã có cáp quang đến trung tâm; 100% xã có nút mạng; đạt mật

độ 120 thuê bao điện thoại/100 dân và năm 2020 đạt 150 thuê bao điện thoại/100

dân. Phát triển mạng bưu cục đến các khu dân cư, điểm du lịch, khu kinh tế, khu -

cụm công nghiệp; đảm bảo 100% xã có điểm bưu điện văn hóa; 100% số điểm phục

67

vụ bưu chính được tin học hóa; 100% số xã có báo trong ngày.

Hệ thống thông tin liên lạc khá phát triển phục vụ khá tốt vấn đề thông tin liên

lạc cho NTTS. Điện thoại cố định hữu tuyến đã phủ khắp các xã của Tỉnh, điện

thoại cố định vô tuyến đáp ứng đến tận ao nuôi, điện thoại di động đã phủ sóng gần

như hoàn toàn các vùng nuôi. Với giá cả hợp lý do vậy việc thông tin bằng điện

thoại là đáp ứng được nhu cầu. Hệ thống Internet và fax cũng đáp ứng nhu cầu cho

các vùng NTTS.

- Phát thanh - truyền hình: Mở rộng diện phủ sóng trong toàn tỉnh; tiếp tục đổi

mới nội dung, tăng số lượng kênh phát và thời lượng phát sóng; nâng cấp đài trạm

và mạng lưới phát thanh ở các huyện, xã, phường. đảm bảo hệ thống này phát triển

hoàn chỉnh ở các vùng nuôi, nhằm đáp ững nhu cầu nắm bắt những thông tin cần

thiết cho hoạt động.

Tuy nhiên, hiện việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng tôm - lúa ở tỉnh

vẫn còn hạn chế, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao, chưa hấp dẫn so với các mô

hình khác trong cùng địa bàn.

2.2. Thực trạng hoạt động nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà vinh

2.2.1. Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ

2.2.1.1. Diện tích nuôi trồng

Trà Vinh có gần một nửa diện tích nằm trong vùng bị nhiễm mặn, vùng nước

lợ gồm huyện Cầu Ngang, một phần Trà Cú và Châu Thành, phần còn lại gồm toàn

bộ huyện Duyên Hải, các xã ven biển thuộc huyện Cầu Ngang và xã Long Hòa,

huyện Châu Thành là vùng mặn hoặc ngọt theo mùa những vùng nhiễm mặn của

Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Ngang hầu như không được canh tác. Những năm gần đây,

tỉnh đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy

sản trên diện tích không phù hợp cho trồng trọt. Các vùng này đều chuyển sang nuôi

tôm sú với các mô hình mới mang lại hiệu quả cao.

Ngành NTTS tỉnh Trà vinh phát triển sôi động ở khu vực ĐBSCL với nhiều

điều kiện thuận lợi. Diện tích NTTS mặn – lợ của tỉnh luôn có sự biến động năm

2006 diện tích mặt nước NTTS của tỉnh là 25.194, năm 2007 thì diện tích này lại

68

tăng lên 31.264 ha, tiếp tục lại giảm vào năm 2008 đây là giai đoạn mà diện tích

mặt nước NTTS giảm mạnh nhất 5.663 ha, đến năm 2010 thì diện tích giảm còn

26.479 ha. Nếu tính so với năm 2006 thì diện tích mặt nước NTTS năm 2010 chỉ

tăng khoảng 1.285 ha.

Bảng 2.6 : Diện tích mặt nước NTTS mặn, lợ tỉnh Trà Vinh ( 2006 – 2010)

Đơn vị: Ha

2006 2007 2008 2009 2010 Loại thủy sản Năm

39.931 38.603 33.084 33.955 32.841 Tổng diện tích nuôi trồng

Tổng diện tích nuôi trồng mặn, 25.194 31.264 25.601 27.246 26.479 lợ

2.349 5.130 36 … … Nuôi cá

22.845 26.134 25.566 21.152 21.873 Nuôi tôm

Nuôi hỗn hợp và thủy sản … … … 6.094 4.606 khác

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh (Niên giám thống kê 2006 – 2010).

Ở môi trường nước mặn lợ thì diện tích nuôi tôm luôn chiếm diện tích lớn

hơn các loại thủy sản khác năm 2006 diện tích mặt nước nuôi tôm là 22.845 ha

trong khi đó diện tích mặt nước nuôi cá chỉ có 2.349 ha. Đến năm 2008 thì diện tích

nuôi cá giảm một cách đáng kể chỉ còn 36 ha. Ở môi trường mặn lợ hầu như là diện

tích nuôi tôm chiếm ưu thế. Diện tích nuôi trồng mặn lợ có cơ cấu lớn trong diện

tích nuôi trồng thủy sản là 63.1% năm 2006 những đến năm 2010 chiếm 80.63%,

chủ yếu là do tăng diện tích mặt nước nuôi tôm.

Diện tích mặt nước NTTS ở đây chưa kể đến các diện tích nuôi trồng xen với

đất lúa, đất rừng. Đối với vùng ruộng nhiễm mặn được đã quy hoạch chuyển đổi

khu vực nước mặn, lợ thuộc các huyện: Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Ngang nuôi tôm sú

và nghêu, sò huyết. Từ nhiều năm nay do ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu nước

biển dâng cao làm cho diện tích ngập mặn ở những vùng ven biển ngày càng nhiều,

Trà vinh là tỉnh ven biển diện tích ngày càng tăng lên phần lớn là diện tích trồng lúa

69

Trà Vinh vùng nuôi thủy sản mặn lợ được xác định là toàn bộ diện tích bị

nhiễm mặn quanh năm, với tổng diện tích đất có khả năng NTTS 28.000 ha thuộc

huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành, các xã ven biển thuộc huyện

Cầu Ngang và xã Long Hòa, huyện Châu Thành là vùng mặn hoặc ngọt theo mùa,

các huyện kế cận cũng bố trí một số diện tích nuôi tôm kết hợp với cấy lúa 1 vụ.

Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ và kế

hoạch Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của Uỷ ban nhân dân (UBND)

tỉnh về chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang NTTS và chỉ tập trung ở các

vùng triều (bao gồm các ao đầm ven biển, ruộng nhiễm mặn và đất làm muối có khả

năng chuyển đổi sang NTTS). Giai đoạn 2001-2003, bắt đầu triển khai Nghị quyết

số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ, các tỉnh trong vùng đã thực hiện việc rà soát quỹ

đất, các loại hình mặt nước, các vùng làm muối kém hiệu quả, các vùng đất cát

hoang hóa quy hoạch chuyển đổi và triển khai các dự án NTTS, nên tốc độ tăng

trưởng diện tích giai đoạn này đạt cao hơn các giai đoạn còn lại. Trong giai đoạn

2004-2008, tốc độ tăng diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh (24,78%/năm)

cao nhất ĐBSCL. Sau hơn 10 năm thực hiện nghị quyết chuyển dịch cơ cấu sản

xuất ngành thủy sản thì lĩnh vực nuôi thủy sản ở tỉnh phát triển khá mạnh ở 03 vùng

nước ngọt, lợ và mặn. Tiêu biểu là huyện Cầu Ngang đến nay đã chuyển đổi diện

tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi thủy sản được hơn 7.365 ha (Theo

thống kê của UBND huyện) là địa phương đi đầu trong các huyện vùng ven biển,

nhưng đáng biểu dương là xã Mỹ Long Nam.

Diện tích nuôi ngày càng được mở rộng với nhiều đối tượng nuôi, tại các bãi

bồi ven biển, Trà Vinh còn có mô hình nuôi nghêu và sò huyết. Tuy nhiên, diện tích

nuôi còn khiêm tốn (1.500 ha/6.000 ha) nhưng hiệu quả đạt 1 vốn, 4 lời. Các hợp

tác xã (HTX) nuôi nghêu đã giải quyết cho 1.785 xã viên có việc làm ổn định, thu

nhập cao.

Trong giai đoạn 2008 - 2020 vấn đề chuyển đổi mặn, lợ chuyển đổi mạnh

đến năm 2020 Trà Vinh là 5.756 ha trong đó nuôi nhuyễn thể bãi bồi 2.728 ha, nuôi

chuyên ao 528 ha, nuôi tôm rừng 2.500 ha thể hiện ở bảng 2.10. Tỉnh có tổng diện

70

tích rừng ngập mặn 8.582 ha, đây sẽ là yếu tố quan trọng giúp cho diện tích nuôi

xen canh ngày một mở rộng trên diện tích rừng.

Bảng 2.7: Diện tích khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS mặn, lợ

của tỉnh Trà Vinh ( 2008-2020)

Đơn vị: ha

Đối tượng Diện tích khai thác Tổng DT ĐBSCL

Nuôi nhuyễn thể bãi 12.391 2.728 bồi ven biển

17.980 528 Nuôi chuyên ao

5.928 2.500 Tôm – rừng

Nguồn: Viện Kinh tế - Quy hoạch Thủy Sản

Theo viện kinh tế - Quy hoạch Thủy Sản thì diện tích mới khai thác và

chuyển đổi là 5.756 ha, được đưa vào sử dụng góp phần mở rộng thêm diện tích

nuôi trồng thủy sản. trong năm 2007 tỉnh cũng đang trong giai đoạn thực hiện

chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS hoặc kết hợp chuyên canh.

Nuôi trồng thủy sản vùng nước mặn ven biển tiếp tục phát triển đa dang với nhiều

loại như: tôm, cua, cá, sò huyết.

 Diện tích nuôi một số đối tượng đối tượng chủ yếu:

- Tôm Sú: Diện tích nuôi tôm có sự chênh lệch rất nhiều với các đối tượng, ở

vùng nước mặn lợ của tỉnh thì tôm sú là loại thủy sản được nuôi nhiều nhất. Báo

cáo kinh tế của tỉnh qua các năm cho thấy năm 2007 diện tích nuôi tôm sú là

25.000ha với 34000 hộ thả nuôi, năm 2008 diện tích nuôi tôm sú là 26.385 ha tăng

hơn so với năm trước là 1.385 ha , năm 2009 có diện tích nuôi là 21.152 ha diện tích

nuôi đã có sự tụt giảm so với năm trước, 2010 diện tích nuôi tôm sú là 24.028 ha

đến năm 2011 diện tích nuôi tôm sú là 24.594 ha, đến tháng 5/2012 diện tích nuôi

tôm sú là 21.897 ha 21.904 hộ thả nuôi. Tuy diện tích tăng không nhiều nhưng do

áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đang góp phần năng cao năng suất, sản

lượng.

71

Biểu đồ 2.4: Thể hiện diễn biến diện tích nuôi tôm sú giai đoạn (2007 -

Ha

30.000

26.385

25.000

24.594

24.028

25.000

21.152

20.000

15.000

10.000

5.000

0

2007

2008

2009

2010

2011 Năm

2011)

- Tôm thẻ chân trắng (TCT): tháng 6/2008, UBND tỉnh đã có chủ trương quy

hoạch vùng và nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh tại 04 huyện: Duyên Hải (730

ha), Cầu Ngang (400 ha), Trà Cú (400 ha) và Châu Thành (300 ha) tổng diện tích

quy hoạch là 1.830ha, trong năm 2008 tỉnh thả nuôi được 71 ha. Trong Báo cáo

tham luận của Sở NN – PTNT diện tích nuôi là 48,58 ha, số lượng giống thả là

49.432.000con, thu hoạch được 371,31 tấn. Theo số liệu thống kê của sở Nông

nghiệp và PTNT sau qua 4 năm thực hiện quy hoạch, năm 2011 có 678 hộ ở 04

huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành thả nuôi 104 triệu con tôm

chân trắng trên diện tích 546 ha, chỉ đưa vào thả nuôi gần 1/3 diện tích quy hoach,

trong diện tích này có trên 70% diện tích nuôi ngoài vùng quy hoạch và tỷ lệ số hộ

thả nuôi thành công chiếm 50%.

- Phát triển nuôi các đối tượng nhuyễn thể chủ lực như nghêu, sò và các đối

tượng khác tại những vùng sinh thái thích hợp nhằm tạo ra một lượng lớn sản phẩm

phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, đồng thời khai thác hợp lý và bảo vệ tốt

nguồn giống nhuyễn thể, khai thác tốt tiềm năng các vùng đất, bãi bồi ven biển để

thực hiện đa dạng phương thức nuôi nhằm nâng cao sản lượng, tăng hiệu quả kinh

tế và thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững vùng ven biển. Năm 2008 diện tích

72

nuôi nhuyễn thể đạt 2.618 ha các loại cua cá khác là 12.750 ha. Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển nuôi

nhuyễn thể hàng hóa tập trung đến năm 2020; trong đó có Quy hoạch vùng nuôi

nghêu, sò đến năm 2015 và năm 2020 cho các tỉnh ĐBSCL. Theo nội dung Quyết

định phấn đấu đến năm 2015, diện tích nuôi nghêu ở Trà Vinh sẽ được quy hoạch là

3.450 ha, diện tích nuôi sò 60 ha. Đến năm 2020, diện tích nuôi nghêu 4.150 ha;

diện tích nuôi sò 70 ha. Thực hiện được chỉ tiêu này sẽ đưa ngành nuôi thủy sản của

tỉnh tiên thêm bước xa hơn. Nuôi cua biển tuy là đối tượng nuôi mới nhưng được

xác định là đem lại hiệu quả kinh tế cao trong khi việc nuôi tôm gặp nhiều rũi ro.

2.2.1.2. Các phương thức nuôi trồng

Trà Vinh có phong trào NTTS phát triển mạnh nhưng hình thức nuôi nhỏ lẻ,

manh mún và phân tán. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội thường niên của tỉnh đã

nhấn mạnh năng suất là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Hình thức phù hợp với

từng đối tượng, loại hình mặt nước sẽ là yếu tố quyết định đến năng suất của các

loài vật nuôi trên những diện tích nhất định.

Ngành NTTS của tỉnh Trà vinh nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung đã

trãi qua giai đoạn phát triển từ các hình thức nuôi trồng từ đơn giản nhất là hình

thức quảng canh tất cả nguồn thức ăn đều trông vào tự nhiên cho đến các hình thức

tiến bộ hiện đại như hiện nay thâm canh, bán công nghiệp và công nghiệp. Căn cứ

vào nhiều yếu tố mà người ta chia ra nhiều hình thức nuôi có thể tùy thuộc loại hình

mặt nước, đối tượng nuôi và kể cả hình thức đầu tư.

Ở môi trường nước mặn lợ nếu chia theo hình thức đầu tư Ngành NTTS của

tỉnh cũng áp dụng hình thức nuôi đơn giản nhất có các hình thức nuôi chủ yếu là:

quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh, nuôi thâm canh, nuôi bán công

nghiệp và công nghiệp (tôm - lúa, tôm- rừng). Trên những diện tích đất ngập mặn

theo mùa sẽ áp dụng hình thức thả nuôi như luân canh 01 vụ lúa + 01 vụ tôm sú

đem lại hiệu quả cao.

Tình hình thực hiện Nghị Quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ phát

triển Kinh tế - Xã hội 5 năm 2006 – 2010 nuôi tôm theo hình thức công nghiệp và

73

bán công nghiệp là 9.400 ha. Tùy vào từng đối tượng nuôi mà ở những môi trường

nước sẽ có hình thức nuôi trồng khác nhau.

 Phương thức nuôi phân theo đối tượng:

- Tôm sú: đối với tôm sú thì trên địa bàn tỉnh áp dụng hình thức nuôi thâm

canh, bán thâm canh và quảng canh cải tiến, đạt đươc hiệu quả cao. Vùng mặn, lợ tập

trung nuôi tôm sú, chú trọng hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh.

+ Nông dân ở đây đã thực hiện rất nhiều mô hình nuôi như: chuyên canh;

một vụ lúa, một vụ tôm; tôm-cua; quảng canh... nhưng cách nuôi hiệu quả nhất là nuôi bán thâm canh, thả thưa với mật độ từ 10 đến 15 con/m2, cách nuôi này tôm

mau lớn đạt trọng lượng từ 17 đến 20 con/ kg.

● Đối với nuôi tôm sú tỉnh đã chủ trương áp dụng hình thức nuôi thâm canh

trong “ao nổi”. Hình thức này được áp dụng từ năm 2003 với quy mô công trình có

tổng diện tích khu nuôi là 3,6 ha, được chia làm 8 ao gồm 1 ao láng diện tích 1 ha, 6

ao nuôi diện tích 2ha, 1 ao xử lí nước thải 0,6 ha. Ngoài ra có cống cấp, thoát nước

riêng biệt để thuận lợi trong quá trình nuôi.

▫ Các ao lắng, ao nuôi được trải bạt nilon xung quanh để chống sạt lở bờ,

chống rò rỉ nước từ bên trong ra ngoài, ngăn cách lớp phèn từ bên ngoài thấm vào

bên trong ao nuôi. Ngoài ra ao lắng có sử dụng thả nuôi cá rô phi để cải thiện môi

trường nước.

▫ Trang bị đầy đủ như máy bơm nước, hệ thống cung cấp oxy (quạt nước),

các loại máy đo pH, độ kiềm, độ mặn, độ trong...và các dụng cụ khác phục vụ cho

nuôi tôm. Sử dụng các loại hóa chất trong quá trình nuôi như: Chất khoáng,

Dolomite, chế phẩm sinh học, vitamin, men vi sinh.

Đây là mô hình mới trong hình thức nuôi thủy sản mặn lợ của tỉnh, mô hình

nuôi tôm sú trong ao nổi tiết kiệm được hơn 40% diện tích đất nạo vét so với ao

chìm. Ưu điểm của loại hình ao nuôi này còn làm giảm việc đào xới trong quá trình

thi công, lượng phèn tiềm tàng không phát triển được sẽ hạn chế tối đa tác động xấu

cho môi trường khu vực nuôi đồng thời nuôi ao nổi còn có ưu điểm là cải tạo khô

phơi nền đáy được dài ngày nên hạn chế mầm bệnh”. Nuôi ao nổi hơn hẳn ao chìm

74

truyền thống (đào sâu 1 đến 1,5 mét) là nông dân chủ động từ trong cải tạo ao hồ,

quản lý môi trường đến thu hoạch. Mặt nước hữu hiệu lớn, thuận lợi cho công tác

cải tạo ao hồ cũng như thu hoạch dễ dàng. Xung quanh bờ ao có trải bạt nilon, có

trang bị máy quạt nước (cung cấp thêm oxy) nên khi gặp trời mưa giảm được lớp

phèn độc trôi xuống ao. Qua nhiều năm áp dụng mô hình này việc nuôi tôm sú ở

Trà vinh cũng đạt nhiều tính hiệu khả quan các địa phương phát triển ao nổi theo

hình thức công và bán công nghiệp có diện tích ngày càng tăng.

● Trà Vinh còn mạnh dạng áp dụng mô hình nuôi tôm sú theo quy trình GAP

là mô hình sản xuất mới ở vùng ngập mặn, ven biển tỉnh Trà Vinh, sản phẩm làm ra

sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn GAP. Trung tâm Khuyến

nông - Khuyến ngư quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư

tỉnh Trà Vinh tổ chức hội thảo, tổng kết mô hình; tập huấn qui trình, kỹ thuật nuôi

tôm sú theo qui trình GAP ở 3 huyện trọng điểm nuôi tôm sú của tỉnh gồm: Duyên

Hải, Cầu Ngang và Trà Cú. Góp phần mở rộng diện tích nuôi tôm sú trên địa bàn

tỉnh trong tương lai.

- Tôm chân trắng: chính quyền địa phương đã tiến hành quy hoạch những

vùng nuôi thích hợp với hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh luôn cho năng

suất cao, đây là loại thủy sản không thể xen canh được với bất kỳ loại thủy sản nào

và đặc biệt được quy hoạch một vùng nuôi riêng nguồn nước thải sẽ ảnh hưởng đến

các vùng nuôi khác. Đây là loại thủy sản rất khó nuôi và chi phí cho các khâu trước

sau khi thu hoạch cũng như quá trình nuôi là rất lớn. Nuôi theo hình thức thâm canh

thì nguồn dinh dưỡng của cá do con người cung cấp: thức ăn phối trộn dạng dạng

tươi sống hay sấy khô. Nguồn thức ăn tự nhiên vẫn có vai trò nhất định đối với đời

sống của cá nuôi nhưng không lớn.

- Cua biển: Nhằm đa dạng hóa đối tượng con nuôi, giảm rủi ro, tăng thu

nhập trên cùng diện tích có nhiều hình thức nuôi đa dạng đặc biệt nổi bậc là việc

đưa cua biển vào nuôi theo hình thức xen canh trong ao nuôi tôm quảng canh hay

tôm – cua – rừng. Có thể nói hiệu quả kinh tế mang lại của nghề nuôi cua biển cho

người dân ở các hộ vùng ngập mặn ven biển ở Trà Vinh là rất cao. Mô hình cua

75

biển hiện nay có rất nhiều hộ chuyển sang hình thức thả nuôi chuyên cua, hiệu quả

mang lại rất cao và dễ thực hiện khâu quản lý cũng như thu hoạch.

- Nhuyễn thể và các loại thủy sản khác: Nhuyễn thể đựơc xác định là một

trong những đối tượng chủ lực của tỉnh, loại hình nuôi trên đất bãi bồi, nuôi nhuyễn

thể bãi triều được khuyến khích phát triển, có diện tích đất bãi bồi ven biển khá lớn

có thể khai thác phục vụ nghề nuôi nghêu thương phẩm.

 Phương thức nuôi chia theo loại hình mặt nước:

- Nuôi ruộng nhiễm mặn (bao gồm các ao đầm nuôi nước lợ, các ruộng lúa

nhiễm mặn) chủ yếu tập trung các xã ven biển của các huyện Châu Thành, Cầu

Ngang, Duyên Hải.

- Nuôi xen canh trên đất rừng đây là mô hình mới được tỉnh áp dụng đối với

đối tượng tôm - cua - rừng, các bãi bồi vùng triều cửa sông tỉnh tiến hành quy hoạch

nuôi nghêu, nuôi chuyên ao.

Tỉnh Trà vinh luôn xem ngành thủy sản nói chung và ngành NTTS nói riêng

là ngành mũi nhọn của tỉnh trong thời gian tới đặc biệt trong tương lai với sự ảnh

hưởng của Biến đổi khí hậu diện tích nuôi mặn lợ sẽ được mở rộng với nhiều hình

thức nuôi đa dạng phù hợp với từng đối tượng và loại hình mặt nước, một mặt vừa

thích nghi với sự thay đổi của tự nhiên mặt khác lại mang về thu nhập cho người

dân.

Tất cả các hình thức nuôi trồng đều có những ưu khuyết điểm riêng, tùy từng

đối tượng và các hình thức nuôi sẽ đem lại hiệu quả cao cho người nuôi.

2.2.2. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt

2.2.2.1. Diện tích nuôi trồng

Trà vinh là một trong những tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL cùng mang một đặc

điểm chung của địa hình khu vực có hệ thống kênh rạch chằng chịt. Mặc dù là tỉnh

giáp biển với hơn một nửa là diện tích nhiễm mặn nhưng tỉnh vẫn có diện tích

không bị nhiễm mặn và ít bị nước mặn xâm nhập chính đều đó giúp cho ngành nuôi

thủy sản nước ngọt phát triển với hệ thống sông ngòi, kênh rạch, ao hồ thậm chí cả

diện tích trồng lúa và cây ăn trái đều có sự có mặt của các đối tượng thủy sinh.

76

Vùng ngọt hoàn toàn gồm huyện Cầu Kè, một phần huyện Tiểu Cần và Càng

Long

nuôi cá tra vùng ngọt. Ở các huyện vùng nước ngọt ngoài nuôi tôm càng xanh trên

ruộng lúa, vài ba năm nay có phong trào nuôi khoảng 100 ha cá tra, cá ba sa khá

hiệu quả. Các huyện Càng Long, Châu Thành và thị xã Trà vinh cũng nuôi tôm

càng, cá các loại và nhiều loại thủy sản khác cho thu nhập cao. Diện tích mặt nước

luôn gắn liền với sự phát triển của ngành kết hợp với các biện pháp canh tác cùng

sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật góp phần đem sản lượng nuôi đáng kể.

Bảng 2.8: Diện tích mặt nước NTTS nước ngọt tỉnh Trà Vinh (2006 -2010)

Đơn vị: Ha

Năm 2006 2007 2008 2009 2010

Loại thủy sản

39.931 38.603 33.084 33.955 32.841 Tổng diện tích mặt nước NTTS

Tổng số 14.737 7.339 7.483 6.709 6.363

6.530 6.911 6.642 5.778 5.597 Nuôi cá

8.207 428 840 896 742 Nuôi tôm

… … … 35 24 Nuôi hỗn hợp và thủy sản khác

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Trà vinh (NGTK 2006 – 2010)

Những năm qua do diễn biến thất thường của khí hậu đã ảnh hưởng không

nhỏ đến diện tích nuôi thủy sản nước ngọt. Diện tích luôn giảm qua các năm có tăng

nhưng không đáng kể; năm 2006 là 14.737 ha chếm 36,9%, nhưng đến năm 2010 là

5.597 ha chỉ chếm 19,38%, giảm một cách đáng kể hơn 9.14 ha, chủ yếu giảm ở

diện tích nuôi tôm nước ngọt (Bảng 2.8). Nguồn nước ngọt thượng nguồn sông Hậu

và Sông Tiền có vai trò rất lớn trong phát triển nuôi nước ngọt, tuy diện tích nuôi

không nhiều nhưng chủ yếu nuôi hình thức thâm canh nên mang về sản lượng lớn.

Thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo tinh thần Nghị quyết

09/2000/NQ-TTg của Chính phủ: Một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch

77

cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và kế hoạch Quyết định số 38/QĐ-

UBT ngày 20/8/2001 của UBND tỉnh, về việc phê duyệt định hướng quy hoạch

chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa năng suất thấp, các vùng trồng lúa 1 vụ

bấp bênh, các vùng đất hoang hoá ven sông sang NTTS nước ngọt tập trung đã cải

thiện hiệu quả khai thác trên một đơn vị diện tích, sang nuôi trồng thủy sản và trồng

màu. Bên cạnh đó diện tích trồng xen canh hoặc thâm canh trên đất lúa, nuôi trồng

trong các mương vườn vườn trái cây góp phần mở rộng diện tích nuôi.

Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa trồng cây ăn trái trên địa bàn tỉnh đến

năm 2010 thì diện tích nuôi thuỷ sản đã được mở rộng khoảng 19.500 ha; bao gồm

vườn cây ăn trái kết hợp nuôi thuỷ sản 6.277 ha (tăng hơn năm 2001 là 4.285 ha);

lúa kết hợp nuôi cá là 1.500 ha, tăng 446 ha; lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh 1.520

ha, tăng 1.481 ha; chuyên nuôi tôm càng xanh 500 ha và nuôi thuỷ sản trong ao hồ

9.753 ha, trong đó có 150 ha nuôi cá tra. Đây là một thành quả hết sức quan trọng

mà các cấp lãnh đạo đã đạt được sau hơn 10 năm thực hiện nghị quyết. Hầu hết

người dân đều tham gia tích cực trong việc áp dụng nuôi thâm canh, xen canh hoặc

chuyển đổi diện tích trồng lúa, hoa màu không hiệu quả sang nuôi thủy sản. Ngành

thủy sản mang lại lợi nhuận cao hơn gấp nhiều lần so với trồng lúa nên người dân

rất phấn khởi.

Trong một nghiên cứu mới đây của Viện Kinh tế - Quy hoạch thủy sản, diện

tích nuôi nước ngọt được khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS từ năm 2008 –

2020 là 2.644 ha. Trong đó ao, hồ mương vườn 390 ha nuôi tôm, cá ruộng lúa 3.034

ha. Đây sẽ là tính hiệu khả quan nếu diện tích được khai thác đưa vào sử dụng.

Bảng 2.9: Diện tích khai thác mới và chuyển sang NTTS nước ngọt

tỉnh Trà Vinh (2008 – 2020).

Đơn vị: ha

Diện tích khai thác Tổng DT ĐBSCL

390 3.034 Đối tượng Ao hồ, mương, vườn Nuôi tôm, cá ruộng lúa.

27.769 100.559 Nguồn: Viện kinh tế - Quy hoạch thuỷ sản

78

Diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt theo loại hình mặt nước năm 2008 là

nuôi ao hồ nhỏ mương vườn 6.379ha, nuôi tôm cá ruộng lúa là 7.932 ha, nuôi mặt

nước lớn là 289ha.

Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong

mương vườn và kết hợp với ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra, các loại thủy sản có

giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu; tăng

cường đầu tư các công trình thủy lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất

lượng con giống, đảm bảo lịch thời vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm

đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản bền vững, phấn đấu tăng sản lượng nuôi trồng, khai

thác. Theo sở NN – PTNT đối với các huyện vùng nước ngọt ven tuyến sông sông

Cổ Chiên, sông Hậu, khẩn trương quy hoạch vùng nuôi cá da trơn, tôm càng xanh

phục vụ chế biến xuất khẩu.

2.2.2.2. Các phương thức nuôi trồng

Đối với môi trường nước ngọt có các hình thức nuôi đơn giản, đây là loại

hình rất phổ biến gắn liền với kinh tế hộ gia đình phát triển từ những hình thức đơn

giản nhất, hiện nay các phương thức dần được cải thiện trước yêu cầu của quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

 Các phương thức nuôi trồng nước ngọt được chia theo loại hình mặt

nước:

+ Nuôi cá, ao, hồ nhỏ, mương vườn (nuôi cá nước tĩnh, nuôi cá nước chảy,

nuôi có quạt sục khí). Đối với loại hình ao hồ nhỏ, mương vườn: Trà vinh thuộc hạ

lưu của hệ thống sông Mê Kông với hệ thống kênh rạch chằng chịt, do đó có nhiều

lợi thế cho phát triển NTTS trong các ao hồ nhỏ và mương vườn. Loại hình mặt

nước ao hồ nhỏ này được hình thành chủ yếu do người dân lấy đất làm vườn và làm

nhà. Hình thức nuôi, chủ yếu quảng canh cải tiến, bán thâm canh, VAC và trang

trại, chủ yếu là nuôi ghép các loài cá truyền thống; thả giống chính vụ từ trung tuần tháng 3 đến cuối tháng 5; mật độ 1 - 3 con/m2; kích cỡ 30 - 80 con/kg (tùy loài). Khi

cá đạt cỡ thương phẩm tiến hành đánh tỉa và thả bù.

+ Nuôi tôm, cá ruộng lúa (nuôi cá xen với vụ cấy lúa, nuôi cá xen với hai vụ

79

cấy lúa, nuôi cá vụ ba). Đây là mô hình được áp dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh nói

riêng và toàn vùng ĐBSCL nói chung, nuôi tôm càng xanh, nuôi cá với mô hình

tôm + lúa, cá + lúa ở vùng nước ngọt và kể cả nước lợ.

 Các loại thủy sản đặc trưng của môi trường nước ngọt như cá tra, tôm

càng xanh, các loài cá khác (cá lóc, cá chẽm ,cá rô,…) nếu xét theo cách đầu tư thì

có các hình thức nuôi chủ yếu như: cá tra được nuôi theo hình thức thâm canh trong

ao đất đáp ứng nhu cầu chế biến và xuất khẩu, canh tác cá – lúa, tôm càng xanh

được nuôi với hình thức đa dạng nhất như nuôi chuyên canh, quảng cang cải tiến

nuôi kết hợp với trồng lúa là nhiều nhất và nuôi luân canh lúa nước (một vụ lúa –

một vụ tôm, hai lúa – một tôm), mương vườn.

+ Cá xen lúa: Thời vụ thả từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 (sau khi cấy lúa 15

– 20 ngày thì thả cá), mật độ 100 – 120 con/sào, kích cỡ 20 – 30 con/kg.

+ Ruộng cấy 1 vụ lúa, nuôi 1 vụ cá (chủ yếu ở các vùng chiêm trũng): Thời vụ

thả từ tháng 4 đến đầu tháng 5 (riêng cá trắm cỏ thả cá sau khi gặt lúa xong), mật độ

170 – 180 con/sào, kích cỡ 10 – 40 con/kg (tùy loài).

+ Cá vụ 3: Thả giống từ cuối tháng 8 đến tháng 9, mật độ 40 – 60 con/sào,

kích cỡ 5 – 10 con/kg.

Đặc biệt cá tra và tôm càng xanh được áp dụng hình thức nuôi công nghiệp

là chủ yếu, đây được xem là hai đối tượng nước ngọt chủ lực góp phần cung cấp

nguồn hàng xuất khẩu của tỉnh.

2.3. Thực trạng về sản lượng, năng suất nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh

2.3.1. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trong cơ cấu ngành nông – lâm – ngư

nghiệp

Ngành thủy sản được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thế mạnh về

nuôi trồng và khai thác thủy hải sản, tuy được chú trọng đầu tư phát triển nhưng

chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; các công trình phục vụ phát triển nuôi

trồng, khai thác thủy sản triển khai chậm; chưa có giải pháp khai thác có hiệu quả

năng lực đánh bắt hải sản xa bờ đã được đầu tư; nuôi tôm sú còn thiệt hại do chất

lượng con giống và nguồn nước không tốt; năng lực sản xuất giống, nhất là giống cá

80

còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu cho nghề nuôi. Kiểm tra, kiểm soát giống

thủy sản chưa tốt. Mặc dù vậy, ngành thủy sản đã đạt được những thành tựu nhất

định trong lĩnh vực khai thác lẫn nuôi trồng.

Giá trị sản xuất của ngành thủy sản theo giá trị thực tế theo ngành kinh tế qua

các năm thì chếm giá trị rất cao đứng thứ hai chỉ sau ngành nông nghiệp, đã khẳng

định được thế mạnh của ngành trong nền kinh tế của tỉnh. (Phụ lục 1).

Ngành thủy sản và dần dần ngành được khẳng định vị trí trong nền kinh tế, trong

đó ngành nuôi trồng luôn có giá trị sản xuất cao giá trị trung bình chếm trên 70%

tổng giá trị sản xuất của ngành thủy sản, nhưng bên cạnh đó ngành khai thác cũng

được chú trọng đầu tư nên giá trị cũng được tăng đáng kể.

Xét về giá trị sản xuất toàn giai đoạn thì giá trị sản xuất tăng trong đó giai đoạn

2007 -2008 giá trị sản xuất của ngành thủy sản có chiều hướng giảm do ảnh hưởng

của suy thoái kinh tế, về mặt cơ cấu của ngành năm 2006 thì ngành thủy sản chếm

33,31% trong tổng cơ cấu giá trị ngành nông – lâm – thủy sản đến năm 2010 chếm

28,71%. Qua thực tế xét về mặt cơ cấu trong toàn ngành thì cơ cấu ngành thủy sản

có sự tăng giảm qua các năm, năm 2010 tuy có cơ cấu thấp hơn năm 2006 nhưng

xét về mặt giá trị vẫn cao hơn xấp xỉ gấp đôi, giá trị sản xuất năm 2006 là 3.213.880

triệu đồng năm 2010 có giá trị chếm 6.109.057 triệu đồng, tuy giảm nhưng vẫn có

giá trị cao trong cơ cấu ngành.

Bảng 2.10: Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản theo giá trị thực tế

phân theo ngành hoạt động (2006 – 2010)

Đơn vị:%

Khai thác 20,4 24,1 26,7 21,6 25,5 Dịch vụ 4,2 4,7 4,9 7,8 6,1 Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Nuôi trồng 75,4 71,2 68,4 70,6 68,4

Nguồn: Cục thống kê Trà Vinh (NGTK 2006 – 2010)

81

Giá trị sản xuất thủy sản luôn chếm tỷ trọng cao nếu xét trong giai đoạn 2006 -

2010 thì giá trị này tăng từ hơn 3.213.880 triệu đồng đến năm 2010 tăng hơn

6.109.057 triệu đồng, trong giai đoạn này thời kỳ 2007 do tình hình kinh tế thế giới

diễn biến phức tạp, khó lường; cuộc khủng hoảng tài chính từ cuối năm 2007, kéo

theo suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội

của đất nước và địa phương, chính vì đều này mà giá trị sản xuất của các ngành

kinh tế không riêng gì thủy sản đều bị ảnh hưởng và suy giảm. Trong tổng giá trị

sản xuất của ngành thủy sản thì ngành nuôi trồng vẫn có giá trị cao nhất và không

ngừng tăng lên.

Trong nền kinh tế của tỉnh Trà vinh thì ngành thủy sản được xem là thế mạnh và

được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh được các cấp chính quyền chú

trọng quan tâm đầu tư phát triển đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng phát triển ở cả 3

vùng nước mặn, lợ và ngọt, từ nhiều năm qua đã đạt sản lượng cao.

2.3.2. Sản lượng

a/ Sản lượng ngành thuỷ sản

Ngành thủy sản của tỉnh từ nhiều năm qua nhờ thực hiện thành công các

chính sách khuyến khích đầu tư cở sở vật chất kỹ thuật phát triển mở rộng đánh bắt

xa bờ và chuyển đổi mở rộng diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng

thuỷ sản nhờ đó sản lượng thủy sản không ngừng tăng lên. Sản lượng thuỷ sản luôn

tăng tuy không quá nhanh nhưng cũng ở mức cao. Năm 2006 sản lượng thủy sản đạt

133.988 tấn thì đến năm 2010 sản lượng này lại tăng lên 160.053 tấn tăng gấp 1,2

lần tăng gần 26.065 tấn (Phụ lục 2). Sản lượng tăng sẽ mang về giá trị sản xuất cao.

Trong sản lượng thủy sản ngành nuôi trồng luôn có sản lượng cao hơn ngành khai

thác luôn chếm trên 50% trong cơ cấu sản lượng thủy sản.

82

Biểu đồ 2.5: Sản lượng khai thác và nuôi trồng của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)

Tỉnh đã triển khai thực hiện kế hoạch điều tra nguồn lợi để hướng dẫn và có

chính sách hỗ trợ ngư dân mở rộng đánh bắt xa bờ hiệu quả và an toàn; tuyên

truyền, phổ biến các quy định pháp luật về khai thác, đánh bắt thuỷ hải sản của Việt

Nam và các nước lân cận cho ngư dân. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh các công trình hạ

tầng cho phát triển nghề cá như: cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu

cá. Xây dựng kế hoạch nâng cấp, đổi mới thiết bị, công nghệ cho các tàu đánh bắt

xa bờ (90CV trở lên) nhằm nâng cao chất lượng, giảm tổn thất và đảm bảo vệ sinh

an toàn thực phẩm. Thực hiện triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của nhà

nước trong hoạt động khai thác biển và thực hiện phương án chuyển nghề thích hợp

cho ngư dân khai thác ven bờ. Thực hiện tốt những hoạt động trên đã giúp ngành

khai thác thủy sản có giá trị luôn tăng, năm 2010 tăng 1,33 lần so với năm 2006

tương đương với 19.188 tấn, so với năm 2009 tăng 1,33 lần tốc độ tăng trưởng bình

quân năm của ngành khai thác là 7,57%. Những năm gần đây ngành ngoài việc

được sự đầu tư nâng cấp các phương tiện đánh bắt xa bờ, đồng thời thực hiện tốt

chính sách hỗ trợ ngư dân theo tinh thần Quyết định 289/QĐ-TTg, 965/QĐ-TTg của

83

Thủ tướng chính phủ đã phần nào đưa ngành ngày càng đạt nhiều thành tựu mang

về hiệu quả kinh tế lớn cho ngành, cùng hưởng ứng những chính sách đầu tư phát

triển của nhà nước nhưng do sự chi phối của những nhân tố tự nhiên mà mức độ

phát triển và đóng góp sản lượng của ngành có sự khác nhau giữa các địa phương.

Huyện Duyên hải, Cầu Ngang, Châu Thành là những huyện có sản lượng cao trong

tỉnh. Quan sát ở hình 2.4 chúng ta có thể thấy được sự chênh lệch về sản lượng ở

từng huyện, màu xanh lá tượng trưng cho sản lượng của ngành nuôi trồng phân bố ở

các huyện còn lại thể hiện cho sản lượng của ngành khai thác.

84

Hình 2.4: Thể hiện sự phân bố sản lượng thuỷ sản ở các huyện năm 2010.

85

Bản thân ngành NTTS là ngành đầy tiềm năng của tỉnh mặc dù chưa được khai

thác hết mức nhưng vẫn mang về giá trị sản xuất lớn. So với ngành khai thác thì

ngành nuôi trồng có tốc độ phát triển nhanh hơn được xem là một trong những

ngành mũi nhọn của tỉnh. Nếu so với thời kỳ năm 2000 thì sản lượng nuôi trồng của

tỉnh chỉ đạt 21.673 tấn nhưng sau qua mười năm phát triển sản lượng này đã tăng

gấp 3,82 lần với tổng sản lượng là 82.777 tấn tăng gần 61.104 tấn. Ngành nuôi

trồng ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

b/ Sản lượng ngành nuôi trồng

Sản phẩm ngành nuôi trồng thủy sản nói chung rất đa dạng cung cấp cho

những nhu cầu thực phẩm thiết yếu hằng ngày của người dân như các loại cá, tôm,

cua,… Sản phẩm thuỷ sản chếm tỷ trọng cao nhất của ngành là tôm và cá. Những

tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra được những giống mới năng suất cao góp

phần củng cố hơn nữa chất lượng con giống trong hoạt động nuôi trồng của tỉnh.

Tập trung phát triển thủy hải sản, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Triển

khai quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản các huyện, rà sóat diện tích nuôi thủy sản đảm

bảo các điều kiện nuôi thâm canh, an toàn dịch bệnh đồng thời đầu tư nâng cao

năng lực sản xuất giống, thực hiện việc đánh số cơ sở, vùng nuôi đối với con nuôi

chủ lực. Vùng nước mặn, lợ phát triển nhanh và vững chắc nuôi tôm sú theo hình

thức công nghiệp, mở rộng diện tích nuôi cua, nghêu, sò ở các vùng bãi bồi ven

biển, Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong

mương vườn và ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra là đối tượng chủ lực vùng sinh thái

nước ngọt, tập trung phát triển các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường

tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu tăng cường đầu tư các công trình thủy

lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống đảm bảo lịch thời

vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản bền

vững. Hoạt động NTTS diễn ra ở hầu hết các huyện trong tỉnh ở cả 3 môi trường

nước mặn lợ và ngọt, tuỳ những điều kiện khác nhau ở từng vùng sinh thái sẽ được

đầu tư khai thác nuôi trồng các loại thích hợp.

NTTS luôn gắn liền với diện tích mặt nước, nhìn chung diện tích nuôi trồng thuỷ

86

sản của tỉnh có sự tăng giảm thiếu ổn định thời kỳ được xem là có diện tích nuôi

trồng đạt cao nhất là vào giai đoạn 2000 – 2001 đây là giai đoạn đầu trong việc áp

dụng chính sách chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS chuyên

canh hoặc kết hợp thời gian này diện tích đạt 52,6 nghìn tấn năm 2000 và 54,3

nghìn tấn năm 2001, đến năm 2010 diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn

khoảng 32,8 nghìn ha, nhưng về mặt sản lượng luôn tăng và luôn giữ ở mức cao đó

là những thành công từ việc áp dụng khoa học công nghệ, đồng thời vận dụng các

hình thức nuôi trồng mới tiến bộ trên diện tích nuôi. Tổng sản lượng thuỷ sản nuôi

trồng ở giai đoạn 2000- 2010 tăng 61.104 tấn với tốc độ tăng trưởng bình quân năm

trong toàn giai đoạn là 15,18%, sản lượng năm 2010 tăng 3,82 lần so với năm 2000.

Trong tổng sản lượng nuôi trồng giai đoạn phát triển nhanh về sản lượng là giai

đoạn 2000 – 2005 tăn 52.227 tấn tăng 3,41 lần tốc độ tăng trưởng 28%, ở giai đoạn

2006 – 2010 sản lượng chỉ tăng được 6.797, tăng được 1,1 lần có tốc độ tăng trưởng

bình quân năm trong giai đoạn là 2,25%. Đây là giai đoạn ít nhiều bị ảnh hưởng của

cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động đến các yếu tố của nền kinh tế xã

hội của tỉnh.

Bảng 2.11 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng phân theo loại thủy sản

của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)

Đơn vị: Tấn

Năm

2006

2007

2008

2009

2010

Loại TS

75.980

83.349

83.627

83.423

82.777

Tổng SL

47.404

48.084

54.349

55.114

53.824

SL Cá nuôi

24.142

24.814

19.789

17.442

20.944

SL tôm nuôi

4.434

10.451

9.489

10.868

8.009

TS khác

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010.

Trong ngành nuôi trồng thuỷ sản cá luôn chếm cơ cấu lớn hơn các loại thuỷ sản

khác khác. Điển hình như năm 2000 cá chếm 82,42% trong khi đó tôm chỉ chếm

87

10,66% còn lại các loại khác chếm 6,92%. Đến giai đoạn khoảng 5 năm gần đây giá

trị này tuy có giảm nhưng vẫn giữ vị trí cao trong tổng cơ cấu. Năm 2006 cá chếm

62,39%, tôm chếm 31,77% các loại khác chếm 5,84%. Năm 2007 là năm mà sản

lượng cá có tỷ lệ cơ cấu nhỏ nhất trong các năm chếm 57,69%, bên cạnh đó giá trị

sản lượng của tôm và các loại thuỷ sản khác tăng lên. Năm 2010 cá nuôi chếm

65,02% trong tổng cơ cấu sản lượng, tôm nuôi chếm 25,3% và các loại thuỷ sản

khác chếm 9,68% trong cơ cấu sản lượng thuỷ sản. (Phụ lục 3).

Trong tổng sản lượng thuỷ sản thì sản lượng cá nuôi luôn chếm tỷ lệ lớn hơn các

loại thuỷ sản khác, cá nuôi phát triển đa dạng ở nhiều loại hình mặt nước như: ao,

hồ, mương, vườn, ruộng lúa,… với nhiều hình thức nuôi đa dạng và tiến bộ.

Biểu đồ 2.6: Thể hiện cơ cấu sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh 2006 – 2010

2006

2010

5,80%

9,70%

31,80%

25,30%

62,40%

65%

Tôm TS khác

Tỉnh có 7 huyện và một thành phố hầu hết trên địa bàn các huyện thị đều có hoạt

động NTTS. Huyện có sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cao qua các năm đầu tiên phải

nói đến là huyện Duyên Hải, Cầu Ngang và Tiểu Cần, Châu Thành. Những huyện

còn lại cũng có sản lượng tương đối cao. Trong tổng sản lượng thì sản lượng cá

nuôi luôn chếm giá trị cao hơn tôm và các loại thuỷ sản khác.(Biểu đồ 2.6)

88

Bảng 2.12: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phân theo huyện (2006 – 2010)

Đơn vị: Tấn

2006 2007 2008 2009 2010 Năm

975 1.022 2.427 4.318 4.814 Tốc độ tăng trưởng(% 57,92 Huyện/Thị Tp. Trà Vinh

7.255 7.392 9.606 9.258 8.048 3,79 Càng Long

8.297 8.010 11.199 12.455 13.176 13,33 Châu Thành

8.820 9.094 12.166 8.025 9.316 4,73 Cầu kè

12.165 12.092 14.418 14.424 12.272 0,87 Tiểu Cần

16.110 18.091 11.143 11.293 12.931 3,9 Cầu Ngang

5.840 5.768 3.878 5.685 4.303 2,93 Trà Cú

16.581 21.880 18.790 17.966 17.918 3,42 Duyên Hải

Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 - 2010

Sản lượng thuỷ sản trên địa bàn các huyện nhìn chung đều tăng, một số huyện

tuy có sản lượng không cao nhưng lại là địa phương có sự gia tăng rõ rệt nhất về

sản lượng: Tp. Trà Vinh từ năm 2006 – 2010 tăng gần 3.839 tấn tăng 4,94 lần,

huyện Châu Thành cũng có sản lượng tăng đáng kể 4.879 tấn tăng 1,59 lần. Các

huyện khác tuy có giá trị sản lượng tăng không đáng kể nhưng giá trị sản lượng đã ở

mức rất cao như huyện Duyên Hải trong giai đoạn 5 năm chỉ tăng khoảng 1.337 tấn

đạt sản lượng năm 2010 là 17.918 tấn, huyện Cầu Ngang đạt sản lượng 12.931 tấn,

huyện Tiểu Cần được 12.272 tấn năm 2010. Trong thời gian nhờ việc thực hiện kế

hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất đạt kết quả tích cực, diện tích lúa kém hiệu quả

chuyển sang luân canh nuôi thủy sản, chuyển sang chuyên nuôi thủy sản, nuôi thủy

sản trong mương vườn, vườn kết hợp nuôi thủy sản. Các mô hình chuyển đổi trên

đất lúa làm giá trị sản xuất trên một ha tăng bình quân 1,5-2 lần so với trồng thuần

lúa, riêng mô hình chuyển đổi đất 1 vụ lúa sang luân canh lúa - tôm sú bán thâm

canh tăng gấp 9 lần; thu nhập tăng thêm cho lao động ở nông thôn 1,2-1,5 triệu

đồng/người/năm. Đồng thời cùng với việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ

thuật vào quy trình nuôi, trang bị các thiết bị trong ao nuôi (máy quạt, máy bơm,

89

máy sục khí,…), đẩy mạnh đầu tư con giống năng suất cao. Hình thành nhiều trang

trại nuôi thủy sản, bước đầu ứng dụng tốt mô hình nuôi tôm sú công nghiệp trong ao

nổi đạt năng suất 4 tấn/ha, nuôi cá tra cá rô phi đơn tính trong ao đất đáp ứng nhu

cầu chế biến và xuất khẩu.

Tôm nuôi tập trung chủ yếu ở các huyện ven biển của tỉnh ở môi trường nước

mặn lợ tôm nuôi đạt sản lượng cao đối tượng chủ lực là tôm sú, tôm thể chân

trắng,…khu vực ven biển được tiến hành quy hoạch thành những vùng nuôi riêng

biệt với việc đầu tư vững chắc về trang thiết bị cơ sở vật chất cho vùng nuôi. Năm

2010 một số huyện ven biển như Duyên hải, Cầu ngang, Châu thành đây là những

huyện có sản lượng tôm cao trong tỉnh: huyện Duyên hải đạt sản lượng 8.372 tấn,

Cầu ngang là 10.773 tấn, Châu thành 1.207 tấn. Đây là 3 huyện đạt sản lượng tôm

nuôi cao nhất trong năm cũng như trong toàn giai đoạn từ 2006 – 2010 (Phụ lục 4).

Ngoài đối tượng tôm nuôi thì cá được xem là đối tượng đặc trưng của vùng sinh

thái nước ngọt nói chung, với hệ thống kênh rạch chằng chịt và nguồn nước ngọt

dồi dào được cung cấp từ hai con sông lớn tạo điều kiện thuận lợi cho NTTS nước

ngọt. Trong cơ cấu sản lượng thuỷ sản thì sản lượng cá luôn chếm tỷ trọng cao hơn

sản lượng tôm. Tiểu cần, Cầu kè, Châu Thành, Càng long là 4 huyện đạt sản lượng

cá nuôi lớn nhất trong toàn tỉnh, Tiểu cần là huyện luôn dẫn đầu về sản lượng cá

nuôi qua các năm với tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 3,95% sản lượng năm

2010 đạt 12.260 tấn, tiếp đến là Cầu kè sản lượng trung bình giai đoạn 2006 – 2010

là 9.403 tấn năm 2010 đạt 9.316 tấn, Châu thành sản lượng trung bình trong giai

đoạn là 8.584 tấn sản lượng năm 2010 đạt 11.016 tấn, Càng long đạt sản lượng

11.016tấn. (Phụ lục 5).

Thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 09/2000/NQ-

TTg của Chính phủ và kế hoạch Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của

UBND tỉnh đã phần nào góp phần làm tăng diện tích nuôi chuyên canh hoặc nuôi

kết hợp trong vườn cây ăn trái, xen canh trên ruộng lúa tận dụng mọi diện tích mặt

nước kể cả ao, hồ, mương, vườn.

Một số đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh đạt sản lượng cao và là một trong những

90

mặt hàng xuất khẩu có giá trị: tôm sú, cua, cá da trơn,…Những đối tượng này cơ

bản được xem như là đối tượng được nuôi chủ yếu trên địa bàn tỉnh chếm diện tích

cũng như sản lượng tương đối cao.

c/ Sản lượng và năng suất một số đối tượng chủ yếu

Trà vinh là tỉnh ven biển với những tiềm năng thuận lợi phục vụ phát triển

NTTS ở 3 vùng sinh thái mặn lợ, ngọt với với hệ thống đối tượng nuôi phong phú.

Tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực của vùng sinh thái mặn lợ sản lượng luôn duy trì

ở mức cao qua các năm, cùng với một số đối tượng khác đã mang về giá trị kinh tế

cao cho ngành nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.

Sản lượng tôm sú năm 2007 đạt 22.742 tấn chếm 15 % trong tổng sản lượng

thuỷ sản của năm với năng suất trung bình năm 0,91 tấn/ha, công tác kiểm soát nuôi

trồng, con giống được thực hiện tốt, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăm sóc, hơn

65% hộ thả nuôi tôm sú có lãi, trong khi đó nghêu thu hoạch được 5.030 tấn, cua

2.850 tấn, giá nghêu khá cao, giá cua biển tuy có giảm nhưng người nuôi vẫn có lãi.

Tình hình thả nuôi phát triển tốt. Các địa phương đang thực hiện kế hoạch chuyển

đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi kết hợp hoặc chuyên canh thủy sản.

Năm 2008 sản lượng tôm sú trên địa bàn tỉnh đạt 18.832 tấn với năng suất ước

đạt 0,71%, nhuyễn thể 5.699 tấn, sản lượng cá tra ước đạt 8000 tấn. Hoạt động

NTTS trong năm đã gặp rất nhiều khó khăn do giá nguyên liệu tăng cao, mặt khác

lại chịu ảnh hưởng của môi trường nước, tôm giống kém chất lượng, việc cải tạo ao

chưa đảm bảo kỹ thuật nên dẫn đến sản lượng tôm sú giảm 3.910 tấn so với năm

2007 khoảng 37% hộ bị thua lỗ. đối với thuỷ sản nước ngọt do giá cả giảm, thị

trường tiêu thụ không ổn định nên số hộ nuôi đầu tư nuôi cũng giảm.

Năm 2009 sản lượng tôm sú có chiều hướng giảm sản lượng ước đạt 16.307 tấn

giảm gần 2.525 tấn so với năm 2008, năng suất bình quân đạt 0,77 tấn /ha. Giá trị

sản lượng đạt: 1.206,64 tỷ đồng. Trong đó có 11.083 hộ lãi, chiếm 56,27 %; 3.166

hộ hòa vốn, chiếm 16,07 % và 5.449 hộ nuôi bị lỗ, chiếm 27,66 %. Đây cũng là

năm tỉnh đã triển khai kế hoạch nuôi trồng thủy sản vùng ven biển.

Các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng năm 2009 đều có lãi, mức lãi trung bình khoảng

91

150 triệu đồng/ha/vụ. Cơ sở Giáo dục Bến Giá thả nuôi 36,5 triệu con giống trên

diện tích 25 ha, thu hoạch được 295 tấn, năng suất trung bình 11,8 tấn/ha. Trong đó

các hộ thả nuôi theo hình thức công nghiệp sản lượng đạt 6.615,2 tấn, năng suất

trung bình 1,95 tấn/ha, riêng huyện Cần Ngang đạt năng suất 4,52 tấn/ha.

Sản lượng tôm sú năm 2010 ước đạt 20.000 tấn, sản lượng cua ước đạt 9000 tấn,

nghêu sò với diện tích nuôi 1600 ha đạt sản lượng khoảng 1000 tấn, cá tra là đối

tượng nuôi có giá trị xuất khẩu huyện Tiểu Cần là địa phương nuôi chếm tỷ lệ lớn

trong năm thì toàn tỉnh đạt sản lượng là 15000 tấn.

Nhiều vùng trên địa bàn tỉnh điển hình như huyện Cầu nghề nuôi tôm sú ở các

xã ven biển phát triển vào năm 1998. Từ một vùng đất đai hoang hóa, nhiễm mặn,

sản lượng tôm nuôi những năm đầu 1999 chưa đạt quá 100 tấn/năm, vậy mà bây giờ

sau qua hơn chục năm phát triển vùng đất này trở thành “mỏ tôm” của tỉnh Trà

Vinh.

Nuôi nhuyễn thể bao gồm hai đối tượng chính là nghêu và sò huyết, chủ yếu

nuôi theo phương thức QCCT, với định hướng phát triển nuôi các đối tượng nhuyễn

thể chủ lực như nghêu, sò và các đối tượng khác tại những vùng sinh thái thích hợp

nhằm tạo ra một lượng lớn sản phẩm phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước,

đồng thời khai thác hợp lý và bảo vệ tốt nguồn giống nhuyễn thể, khai thác tốt tiềm

năng các vùng đất, bãi bồi ven biển để thực hiện đa dạng phương thức nuôi nhằm

nâng cao sản lượng, tăng hiệu quả kinh tế và thực hiện xóa đói giảm nghèo bền

vững vùng ven biển. Mặc dù diện tích nuôi tương đối ổn định, nhưng năng suất nuôi

nhuyễn thể luôn biến động năm 2006 năng suất đạt 1,88 tấn/ha/năm đến năm 2008

đạt năng suất 1,12 tấn/ha.

Bảng 2.13: Năng suất một số đối tượng mặn lợ (2006 -2010)

Đơn vị: tấn/ha/năm

Tôm sú 0,82 0,91 0,72 0,77 0,83 Nhuyễn thể 1,88 2,19 1,12 … … Năm 2006 2007 2008 2009 2010

Nguồn: Sở NN – PTNT tỉnh Trà vinh.

92

Nguyên nhân giảm do hình thức nuôi chủ yếu phụ thuộc nguồn giống tự nhiên,

các chương trình kiểm soát an toàn vệ sinh vùng nuôi, việc phòng trị bệnh cho

nghêu còn rất hạn chế; đặc biệt từ năm 2003 đến nay hàng năm lượng giống ngày

càng thiếu, không đáp ứng được nhu cầu thả nuôi của các hộ dân, do đó ảnh hưởng

tới sản lượng.

Năng suất theo hình thức nuôi: đối với tôm nuôi năng suất bình quân ở hình

thức nuôi bán công nghiệp đạt 3-3,5 tấn/ha, nuôi công nghiệp đạt 5-6 tấn/ha, cá biệt

có một số hộ nuôi tôm sú theo hình thức thâm canh “ao nổi” đạt năng suất kỷ lục 8-

12 tấn/ha. Một số địa phương trong tỉnh điển hình là huyện Cầu Ngang đã biết áp

dụng quy trình nuôi tôm sú ít thay nước hoặc cấp nước bổ sung kết hợp sử dụng

men vi sinh. Hiệu quả rất cao, năng suất tôm từ 6 - 7 tấn/ha/vụ, một số vùng nuôi

lên đến 10-12 tấn/ha/vụ. Trong các hình thức nuôi này thức ăn chủ yếu phụ thuộc

rất nhiều vào con người, đều là những thức ăn dạng viên, sấy khô,… đem lại hiệu

quả cao trong sản xuất. Đối với hình thức luân canh với trồng lúa thì đây được xem

là mô hình phổ biến đang được đa số ngư dân của tỉnh áp dụng nuôi ở các vùng

ruộng trũng hiện nay, bởi hiệu quả sử dụng đất cao, khả năng đầu tư hợp lý cũng

như trình độ kỹ thuật hiện nay. Mô hình nuôi tôm sú QCCT luân canh ruộng lúa

một vụ (ở vùng nước lợ), với diện tích mương bao quanh thửa ruộng; chiếm 25- 30% diện tích. Thả giống nhân tạo mật độ từ 4 - 6 con/m2 tôm giống có kích cỡ 2-3

cm/con. Năng suất thu hoạch tôm sú 1 ha ruộng lúa 0,20-0,56 tấn/ha tùy từng vùng.

Năng suất thuỷ sản nước ngọt đạt năng suất trung bình năm tương đối cao trong

giai đoạn 2001 - 2005 tốc độ tăng năng suất trung bình đạt 10,3%, năng suất bình

quân các năm đạt 3,21 tấn/ha/năm năm 2005 là năm đạt năng suất cao nhất 3,73

tấn/ha/năm. Ở giai đoạn sau năng suất cũng tương đối ổn định. Việc năng suất nuôi

tăng theo thời gian, là do diện tích nuôi thâm canh ngày càng cao, nhất là những

vùng có diện tích nuôi không nhiều. Tôm càng xanh và các da trơn là hai đối tượng

thuỷ sản nước ngọt chủ lực luôn đem đạt năng suất và sản lượng cao, ngoài ra còn

có một số loài như: cá lóc, ốc len, cá kèo.

Sau 20 năm tái lập tỉnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì bản thân

93

ngành cũng đạt được những thành tựu nhất định, tỉnh cũng đã có nhiều cách tổ chức

sản xuất mới đem về hiệu quả kinh tế quan trọng. Tỉnh đã tổ chức nhiều tổ hợp tác

như: đường nước, con giống, hùn đất, bỏ vốn làm ăn chung, tiêu thụ sản phẩm hoặc

theo phương chấm: người nghèo góp đất, người giàu góp vốn nhà nước góp về khoa

học kỹ thuật và kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư cơ sở vật chất. Toàn bộ quy

trình nuôi, từ khâu chọn giống đến chăm sóc và thu hoạch, có hẳn cán bộ chuyên

môn theo dõi chặt chẽ. Nhờ đó, hạn chế được dịch bệnh và năng suất nuôi luôn đạt

cao. Đây thực sự đã tạo ra những bước tiến khả quan với sự đồng lòng từ nhân dân

cho đến các cấp chính quyền địa phương, nhiều địa phương trong tỉnh cũng đã chủ

trương không phát triển diện tích nuôi tôm tràn lan, khi cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi

thủy sản chưa hoàn chỉnh.

2.4. Thực trạng về nguồn lao động nuôi trồng thủy sản

Trà Vinh là một tỉnh thuần nông với tổng số lực lượng lao động dồi dào, theo

kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm tháng 1 - 4/2009 thì tổng số

người trong độ tuổi lao động chếm 70,84% dân số toàn tỉnh.

Bảng 2.14: Số lao động làm việc trong khu vực 1

Đơn vị: người

Ngành kinh tế 2006 2007 2008 2009 2010

339.100 323.697 310.956 290.563 279.976 Nông nghiệp

84.333 175.960 169.6734 157.949 130.931  LĐ Nữ

1.049 982 1.003 1.078 1.142 Lâm nghiệp

570 5.334 545 586 643  LĐ Nữ

51.956 46.679 43.150 39.352 37.541 Thuỷ sản

28.243 25.374 23.356 21.392 19.838  LĐ Nữ

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thống kê 2006- 2010).

Lao động hoạt động trong ngành thuỷ sản có xu hướng giảm do nhiều

nguyên nhân, một phần do khoa học - kỹ thuật phát triển vận dụng nhiều máy móc

vào hoạt động sản xuất hạn chế sử dụng lao động chân tay. Hoà cùng xu hướng

94

CNH – HĐH của đất nước đang triển khai thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu

kinh tế cũng chính vì đều này dẫn đến tình trạng lao động trong khu vực 1 giảm

dần, bản thân ngành thuỷ sản trong giai đoạn 2006 – 2010 đã giảm khoảng 14.415

người.

Theo số liệu thống kê năm 2006 số lao động trong ngành thuỷ sản là 51.956

người, năm 2010 Trà Vinh có tổng số lao động là 585.926 người đang hoạt động

trong các ngành kinh tế, trong đó ngành thủy sản tổng số lao động chếm 37.541

người chếm 6,42% trong tổng số lao động, giảm 1,38 lần so với năm 2006, trong đó

lao động nữ chếm 19.838 người (Bảng 2.14). Đa số là những người nuôi trồng thủy

sản chưa qua các lớp chuyên môn đào tạo, từ những hoạt động và kết quả thực tế họ

đúc kết được những kinh nghiệm cho công tác nuôi trồng. Nguồn lao động chính

của ngành đa phần là những người nông dân còn yếu kém về tay nghề chỉ thiên về

số lượng, đều đặc biệt là đội ngủ được đào tạo chuyên môn cho nghề nuôi thủy sản

lại rất hiếm, sẽ dẫn đến tình trạng khó tiếp thu khoa học - công nghệ vào sản xuất.

Nguồn lao động không qua đào tạo dẫn đến trình độ tổ chức sản xuất, quản lý đều

hành yếu kém. Phần lớn các lao động (đại diện của các hộ nuôi trồng thủy sản) đã

được tham gia các khoá tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Những lớp tập

huấn này được tổ chức bởi nhiều cơ quan khác nhau như: Trung tâm Khuyến ngư,

Phòng thủy sản, phòng Nông nghiệp của các quận, huyện…

Việc mở các lớp tập huấn cho người lao động thường diễn ra trong vòng 1

hoặc 2 ngày, tập trung vào các vấn đề mấu chốt như kỹ thuật nuôi, xử lý môi trường

và phòng trừ dịch bệnh. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức của người dân còn thấp

nên việc áp dụng các kiến thức đã học được của người dân vào thực tế còn nhiều

hạn chế. Thực tế chỉ phổ biến trong việc áp dụng kỹ thuật nuôi vẫn là tham quan,

học hỏi kinh nghiệm giữa những người nuôi với nhau. Hoạt động NTTS có nhu cầu

sử dụng lao động khác nhau đối với các hình thức nuôi, đối với các hình thức nước

ngọt chủ yếu nuôi trong các mương vườn, ao hồ nên gắn với các hộ gia đình, do

mức độ đầu tư chưa lớn, các hoạt động chăm sóc, quản lý ao nuôi chủ yếu tận dụng

lao động có sẵn trong gia các gia đình thường sử dụng trung bình 1 lao động cho

95

việc quản lý chăm sóc 1 ao nuôi diện tích trung bình 2000 m2 đến thời điểm thu

hoạch và cải tạo ao cần phải thuê thêm lao động ngoài. Do tính chất của từng loại

hình canh tác mà nhu cầu sử dụng lao động có sự khác nhau tùy mức đầu tư vào các

hoạt động chăm sóc vật nuôi, phụ thuộc vào các hình thức nuôi mà ngành cần lượng

lao động phục vụ, như hình thức quảng canh thì mức độ sử dụng lao động thấp, số

lao động trung bình sử dụng cho nuôi QCCT trong nuôi nước lợ là 2 người/ha/vụ

nuôi, trong việc nuôi bán thâm canh là 3 lao động/ha ao nuôi/vụ nuôi, nuôi thâm

canh thì cần nhiều hơn là 5 người/ha/vụ nuôi (theo điều tra của Viện Quy Hoạch

Thủy Sản).

Mặt khác, một bộ phận lao động rất có kinh nghiệm canh tác mà không cần

qua các lớp đào tạo, thông qua việc đúc kết những kinh nghiệm từ thực tế nuôi

trồng truyền thụ lại cho thế hệ sau. Chất lượng lao động là nhân tố hàng đầu như

nghiên cứu quá trình phát triển NTTS. Lao động trong NTTS đòi hỏi sự am hiểu về

kỹ thuật, có kinh nghiêm và kỹ năng tổ chức quản lý nuôi trồng theo những hình

thức và quy mô nhất định. Hiện tại tỉnh đang thực hiện việc nâng cao trình độ cho

các cán bộ quản lý và nuôi trồng trên địa bàn tỉnh, đồng thời mở rộng đào tạo nhân

lực có trình độ chuyên môn phục vụ nuôi trồng.

2.5. Thực trạng về các yếu tố hỗ trợ phát triển nuôi trồng thuỷ sản

2.5.1. Sản xuất giống

Trà Vinh là một tỉnh vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL),

có tốc độ phát triển kinh tế chậm so với các nhiều tỉnh khác trong khu vực. Với sự

nỗ lực thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành NTTS được Trà Vinh xem như

đòn bẩy thúc đẩy ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Một trong

những yếu tố quan trọng quyết định đến thành bại của ngành ở Trà Vinh là yếu tố

con giống, luôn cần được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương.

Ngành nuôi của tỉnh đang phải đối mặt với tình trạng người dân nhập giống trôi

nổi không rõ nguồn gốc đã mang nhiều mầm bệnh, gây nhiều thiệt hại đáng kể. Từ

năm 2001, Bộ Thủy sản (trước đây) đã tiến hành quy hoạch các vùng sản xuất giống

thủy sản trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, năm 2004 Chính phủ cũng đã ban hành

96

Quyết định số 112/2004/QĐ - TTg phê duyệt Chương trình sản xuất giống thủy sản

đến năm 2010.

Theo Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thủy Sản đã đưa ra 3 phương án phát triển

quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020, trong nhu cầu quy hoạch phát triển

NTTS của các tỉnh ĐBSCL thì nhu cầu về con giống của tỉnh Trà vinh cụ thể là:

Bảng 2.15: Nhu cầu về con giống trong việc phục vụ quy hoạch NTTS

của tỉnh Trà Vinh

Đơn vị: Triệu con

Giống thủy sản mặn, lợ Giống thủy sản nước ngọt

Tôm Các Tôm Các Tổng Tôm Nghêu Cá Rô chân loại càng loại số sú sò tra phi trắng khác xanh khác

640 3.000 407 219 132 3 216 96 QH 2010 4.713

800 2.900 630 219 245 10 258 129 4.961 QH 2015

3.500 1.460 890 230 495 14 145 6.168 324 ĐH 2020

Nguồn: Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thủy Sản

Theo chiến lược phát triển quy hoạch NTTS thì nhu cầu con giống của tỉnh

luôn tăng do diện tích và sản lượng thủy sản nuôi tăng trong giai đoạn 2008-2020,

dẫn đến nhu cầu con giống cũng tăng theo.

 Nguồn giống nội: Theo thống kê năm 2009 toàn tỉnh có 122 trại sản xuất

giống tôm hoạt động, công suất thiết kế trại sản xuất là 1,45 tỷ con/năm và 44 cơ sở

di nhập con giống ngoài tỉnh về ương dưỡng cung cấp cho hơn 25.000 hộ dân thả

nuôi trong tỉnh hàng năm. Năm 2009 đã sản xuất 600 triệu con, đạt 41,4% công suất

thiết kế, chếm 37% nhu cầu giống thả nuôi trong tỉnh. Các trại sản xuất giống chủ

yếu tập trung ở huyện Duyên Hải, một phần ở Cầu Ngang, Trà Cú và Thị xã Trà

Vinh. Dịch vụ ương, thuần dưỡng: có 44 cơ sở ương thuần dưỡng và dịch vụ giống

97

tôm sú, trong năm đã thuần dưỡng và xuất bán được 1 tỷ con tôm giống chiếm

62,5% nhu cầu. Tỉnh đã tiến hành đầu tư cơ sở sản xuất giống của tỉnh như Trung

tâm giống thủy sản TX. Trà Vinh, cải tạo nâng cấp trại giống tôm Hiệp Mỹ - Cầu

Ngang với tổng nguồn vốn đầu tư 3,82 tỷ đồng. Kế hoạch được hoàn thành vấn đề

về con giống sẽ được giải quyết phần nào đáp ứng nhu cầu của người nuôi.

Tuy nhiên tỉ lệ kiểm dịch chất lượng tôm giống trong từng mẻ xuất rất thấp.

Chất lượng con giống không đồng đều và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tay nghề

của người sản xuất, trang thiết bị và quy trình sản xuất giống, công nghệ và chất

lượng nguồn tôm giống bố mẹ... nên tỉ lệ tôm giống sạch bệnh, chất lượng cao trong

từng mẻ sản xuất thường đạt rất thấp.

Theo Trung tâm Giống thủy sản tỉnh Trà Vinh thường vào vụ nuôi giá tôm sú

giống tăng mạnh nhưng nguồn cung không đủ cầu. Tôm giống sản xuất tại địa

phương (P12-P15) giá 50 - 65 đồng/con. Giá tôm sú mẹ (tôm biển) có nguồn gốc Cà

Mau trọng lượng 180 - 220gam/con (chất lượng tịnh trung bình) giá 3 - 3,5 triệu

đồng/con; loại tôm mẹ tốt từ 4,5 - 5 triệu đồng/con nhưng nguồn cung cũng rất hạn

chế đồng thời cũng phải cảnh giác chất lượng và nguồn gốc tôm giống.

Trong việc kiểm định chất lượng con giống thì toàn tỉnh cũng chỉ có 2 phòng

kiểm dịch bằng hệ thống PCR. Trong khi các thương lái luôn tìm mọi cách né tránh

sự kiểm soát của cán bộ Thanh tra nông nghiệp và Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy

sản. Lực lượng Thanh tra nông nghiệp và kiểm dịch của Chi cục Bảo vệ nguồn lợi

thủy sản thì quá mỏng. Nhiều cơ sở cung cấp giống trong tỉnh cũng né kiểm dịch,

chấp nhận nhập tôm không rõ nguồn gốc để bán với giá rẻ bằng 50% giá bán tôm

giống đã qua kiểm dịch. Nguồn giống sạch bệnh tại tỉnh đang thiếu trầm trọng. Để

có nguồn giống cung cấp cho người nuôi tôm, ngành Nông nghiệp tỉnh chỉ đạo Chi

cục Nuôi trồng thủy sản ngoài việc khuyến khích các trại sản xuất tôm giống trong

tỉnh tăng cường sản xuất giống có chất lượng, sạch bệnh; tạo mọi điều kiện cho các

doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung cấp tôm giống đảm bảo đủ nhu cầu giống thả

nuôi trong tỉnh. Đồng thời, buộc các doanh nghiệp phải cam kết và đảm bảo giống

có chất lượng tốt, sạch bệnh… Nếu kiểm tra phát hiện các đàn tôm bị nhiễm bệnh

98

thì doanh nghiệp đó phải hỗ trợ 100% chi phí giống để nông dân khôi phục thả nuôi

trở lại…”. Năm 2010 toàn tỉnh có trên 1,62 tỷ con tôm giống thả nuôi, nhưng chỉ có

khoảng 300 triệu con giống được kiểm dịch. Đây là thực trạng hết sức báo động đối

với ngành nuôi.

Trước tình hình nghề nuôi cua biển đang phát triển mạnh, mà bên cạnh đó nuôi

tôm sú lại gặp nhiều khó khăn, nhiều cơ sở sản xuất giống tôm sú trên địa bàn

huyện Duyên Hải đã chuyển sang hoặc kết hợp với sản xuất giống cua nhân tạo. Từ

vài cơ sở sản xuất cua giống nhân tạo năm 2011 đến vụ cua năm 2012, số cơ sở sản

xuất, ương dưỡng tôm sú giống chuyển sang cua tăng lên 12 cơ sở, với năng lực sản

xuất từ 400 – 500 ngàn con giống/cơ sở. Bên cạnh đó tình trạng nuôi nghêu của tỉnh

hiện đang sử dụng nguồn giống tự nhiên, tỉnh đang xúc tiến việc xây dựng các trại

sản xuất nghêu giống địa điểm xây dựng là huyện Duyên Hải hoặc là huyện Cầu

Ngang, công suất trại 2 tỷ con/năm.

Tỉnh đã thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” khuyến khích các cơ sở sản

xuất giống hiện có đầu tư nâng cấp, mở rộng sản xuất nhằm đáp ứng khả năng cung

ứng trên 70% nhu cầu con giống sản xuất tại địa phương, cần có những chính sách

ưu đãi đầu tư vốn, đào tạo nguồn nhân lực trong nghiên cứu và sản xuất con giống.

Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất đến lưu thông, tiêu thụ giống, tăng

cường xét nghiệm và loại bỏ tôm bố mẹ bị bệnh trước khi cho sinh sản và quản lý

số lần sinh sản của chúng. Đồng thời tiến hành kiểm dịch bằng phương pháp PCR

hoặc mô học tận gốc đối với giống sản xuất trong tỉnh cũng như giống nhập tỉnh.

 Giống ngoại nhập:

Trước tình trạng giống tôm trong tỉnh không đáp ứng đủ nhu cầu thì nguồn

giống ngoại nhập là đều tất yếu. Nguồn giống này phải được kiểm dịch một cách

cẩn thận trước khi cho nhập vào tỉnh đảm bảo an toàn cho vùng nuôi. Trước đây lực

lượng kinh doanh giống được các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ, kiểm tra yêu

cầu kỹ thuật và kiểm dịch thường xuyên, nên các cơ sở chủ yếu cạnh tranh về chất

lượng tôm giống. Từ khi chuyển dịch cơ cấu sản xuất đến nay, do nhu cầu lớn các

99

trại tôm giống hình thành khắp nơi, nên công tác quản lý không còn chặt chẽ như

trước. Trên 65% lượng tôm sú giống nhập tỉnh vẫn chưa qua kiểm dịch, vì thế

không ai dám bảo đảm chất lượng. Một thực trạng bức xúc hiện nay là tôm giống

nhập từ tỉnh bạn có giá rẻ hơn tôm giống sản xuất tại địa phương. Khi vào vụ do cần

giống để thả nuôi thế là bà con mua đại, bất kể chất lượng dẫn đến tình trạng tôm

chết tràn lan.

Trên thực tế, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, rất nhiều ngõ để có thể nhập

tôm vào tỉnh mà không qua kiểm dịch trước thì việc thực hiện quản lý chất lượng

tôm giống nhập vào Trà Vinh ngày càng khó khăn hơn. Công việc kiểm dịch giống

thủy sản phải được quan tâm hơn trước tình trạng giống vào tỉnh luôn mang nhiều

mầm bệnh khó kiểm soát.

Trước thực trạng này để đảm bảo có nguồn tôm giống sạch bệnh thì Trung tâm

giống thủy sản Trà Vinh đã xem xét thành lập một đoàn kiểm tra, tiêu hủy những lô

tôm giống nhập tỉnh không đạt yêu cầu và có dấu hiệu bệnh đến mức phải tiêu hủy.

Đây là một trong những điều kiện cần và phải có để tổ chức, liên hệ thông tin về

chất lượng con giống nhằm đảm bảo được nguồn giống sạch. Để đảm bảo phất triển

bền vững cần điều tra hiện trạng tổng thể nghề sản xuất giống và nghề nuôi tôm của

tỉnh, đồng thời đó các cơ quan chuyên môn phải dự báo biến động của môi trường,

thị trường, dịch bệnh... để có qui hoạch tổng thể hoàn chỉnh nghề nuôi thủy sản.

Một số loại giống phải nhập từ ngoài tỉnh vào như cá chẽm, cá lóc, tôm các

loại,… vì lượng giống trong tỉnh không đủ để đáp ứng nhu cầu.

Tuy nhiên, để nghề nuôi thủy sản của Trà Vinh mang tính bền vững, nguồn con

giống phải được tỉnh tự túc thông qua việc đầu tư phát triển hệ thống sản xuất con

giống, tăng cường các thiết bị kiểm tra chất lượng tôm bố mẹ và cả con tôm giống.

2.5.2. Thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản

Vào thời kỳ sơ khai khi ngành mới phát triển người ta chỉ biết đến hình thức

nuôi quảng canh tất cả đều dựa vào tự nhiên, người nuôi chưa ý thức được vai trò

của thức ăn công nghiệp. Ngoài nguồn thức ăn tự nhiên chủ yếu của tôm là cá tươi,

cá phân và các phụ phẩm khác như khoai, mì, dừa, … có sẵn tại địa phương, thì

100

hiện tại thức ăn công nghiệp càng có vị trí quan trọng trong ngành NTTS khi tiến

hành áp dụng nhiều hình thức nuôi mới tiến bộ đối với những giống năng suất cao

nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường hàng hóa. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn tự nhiên

cũng chếm phần không nhỏ trên những diện tích nuôi, cũng như các tỉnh ĐBSCL

thì tỉnh Trà Vinh cũng có nhiều diện tích nuôi thâm canh hoặc xen canh cá, tôm trên

ruộng lúa đã tận dụng khai thác được nguồn thức ăn tự nhiên. Tuy nhiên vẫn không

phủ nhận được vai trò quan trọng của thức ăn công nghiệp trong việc đảm bảo đầy

đủ dưỡng chất, vật nuôi chóng lớn.

Nhằm tăng tỷ lệ thức ăn công nghiệp sản xuất nội địa cho NTTS, các địa phương

đang xây dựng kế hoạch nâng cấp các cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi để kết hợp

sản xuất thức ăn cho NTTS. Tuy nhiên, trên thực tế loại thức ăn cho tôm cá chất

lượng cao sẽ rất khó sản xuất ở những cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ. Bởi vậy, cần tổ chức

các công ty cổ phần với sự tham gia của nhiều thành phần để xây dựng các nhà máy

sản xuất thức ăn qui mô lớn có công nghệ cao ở cấp vùng. Số nhà máy này sẽ cung

cấp thức ăn chất lượng cao với nguyên liệu nội địa, đảm bảo một nền tảng cung cấp

thức ăn vững chắc, nhằm hạn chế tình trạng quá lệ thuộc vào thức ăn, nguyên liệu

ngoại nhập (nhưng cần phải thận trọng trong vấn đề cạnh tranh) và cũng loại trừ dần

những nhà sản xuất thức ăn kém chất lượng ở các địa phương khác.

Hiện toàn tỉnh có 155 cơ sở kinh doanh thuốc thú y thủy sản, chế phẩm sinh học

và hóa chất xử lý môi trường ao nuôi, 59 cơ sở kinh doanh cung ứng thức ăn thủy

sản. Các cơ sở này đã cung ứng tương đối tốt và khá đầy đủ các loại sản phẩm phục

vụ nhu cầu nuôi trồng thủy sản.

2.5.3. Công tác khuyến ngư và chuyển giao công nghệ

Công tác khuyến ngư được triển khai chặt chẽ theo hệ thống chân rết, hệ thống

khuyến ngư ngày càng mở rộng và hoạt động có hiệu quả. Đa số nông dân đã sử

dụng hóa chất, kiểm tra môi trường, tuân thủ lịch thời vụ, nắm bắt kịp thông tin

khoa học kỹ thuật do trung tâm khuyến ngư đưa ra.

Các mô hình trình diễn: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư thuộc Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh đã phối hợp với địa phương xây dựng

101

2 mô hình trình diễn nuôi tôm sú theo qui trình GlobalGAP (GlobalGAP là tổ chức

thiết lập các tiêu chuẩn chứng nhận tự nguyện cho các sản phẩm ngành nông nghiệp

và thủy sản toàn cầu), tại xã Hiệp Mỹ Đông (huyện Cầu Ngang) và Hiệp Thạnh

(huyện Duyên Hải). Qui trình GAP là mô hình sản xuất mới ở vùng ngập mặn, ven

biển tỉnh Trà Vinh, sản phẩm làm ra sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo

tiêu chuẩn GAP. Các hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 100% chi phí con giống và

30% chi phí thức ăn; người nuôi còn được cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông

- Khuyến ngư hướng dẫn kỹ thuật thông qua các lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ.

Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến

nông- Khuyến ngư tỉnh Trà Vinh tổ chức hội thảo, tổng kết mô hình; tập huấn qui

trình, kỹ thuật nuôi tôm sú theo qui trình GAP cho 30 nông dân nuôi tôm theo hình

thức thâm canh (công nghiệp) ở 3 huyện trọng điểm nuôi tôm sú của tỉnh gồm:

Duyên Hải, Cầu Ngang và Trà Cú, nhằm nhân rộng mô hình trong vụ nuôi tôm sú

năm 2012.

Việc tổ chức các buổi khuyến ngư trực tiếp đến các hộ nông dân và vùng nuôi

đôi lúc cũng gặp nhiều khó khăn, hiện tại trên phương tiện truyền hình tỉnh cũng tổ

chức xây dựng chương trình khuyến ngư ở các đài truyền thanh và truyền hình địa

phương, lắp đặt hệ thống truyền thanh và tăng cường các biện pháp truyền thông

như bản tin nhanh, loa phóng thanh công cộng, vô tuyến địa phương theo giờ hàng

ngày truyền bá kiến thức thông tin về công nghệ và kỹ thuật NTTS, để người nuôi

có thể theo dõi hàng tuần nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhất về chăn nuôi.

Ngoài ra, còn kết hợp với các đơn vị sản xuất thuốc thú ý, thức ăn nuôi thủy sản.

Tổ chức nhiều cuộc hội thảo với các nội dụng hướng dẫn sử dụng thuốc, phương

pháp phòng ngừa dịch bệnh, sử dụng các sản phẩm để quản lý các vùng nuôi.

Trong các năm qua, khuyến ngư trung ương và các tỉnh ĐBSCL đã hỗ trợ đắc

lực cho phát triển NTTS thông qua các cuộc tập huấn, hội thảo, thực hiện các điểm

trình diễn, cấp phát các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật nuôi và phòng trừ bệnh thủy

sản.Tuy nhiên đội ngũ khuyến ngư còn mỏng, chưa đến tuyến các huyện thị. Mặc

dù theo Khoản 1, 2 - Điều 11 – Chương III - Nghị định 56 về tổ chức thực hiện, tại

102

mỗi xã, phường, huyện thị đều phải có cán bộ khuyến nông, khuyến ngư tuy có

nhưng chưa chi tiết cho khuyến ngư đây cũng là đều bức xúc trong thực tế phát

triển.

Tỉnh cũng đang tiếp tục xây dựng các mô hình khuyến ngư, nhân rộng các mô

hình tốt trong sản xuất; thực hiện tốt các chính sách khuyến khích các nhà khoa học

trong và ngoài ngành chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, góp

phần thúc đẩy sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thành lập các trạm

khuyến ngư cấp huyện ở tất cả các huyện trong vùng, ở các xã nên có đội kỹ thuật

thủy sản và cán bộ khuyến ngư, mỗi ấp nên có 1 mô hình trình diễn mẫu cho nhân

dân làm theo. Được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước các cấp chính quyền địa

phương tiến hành chuyển giao những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật lại cho người

nuôi nắm vững.

2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản

2.6.1. Thị trường nội địa

Sản phẩm thủy sản ngày càng được ưa chuộng nhiều hơn không chỉ trong

nước mà còn kể cả nước ngoài. Sản phẩm thuỷ sản luôn là loại thực phẩm phổ biến

trong phần lớn các bữa cơm hàng ngày của người dân. Thị trường trong tỉnh cũng

chếm một phần đáng kể cung cấp cho hơn 1 triệu dân, hầu hết các xã phường đều có

các chợ cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng. Sản phẩm thủy sản của tỉnh cùng

với các sản phẩm của các tỉnh khác đã được phân phối đến tất cả các vùng khác

trong cả nước sản phẩm đa phần là cá, tôm đều được rất là ưa chuộng. Khâu tiếp thị

sản phẩm được đầu tư phát triển đã giúp cho sản phẩm của ngành được lưu thông

tốt hơn. Tỉnh có 07 nhà máy chế biến thủy hải sản xuất khẩu với công suất 27.300

tấn thành phẩm/năm, lực lượng lao động khoảng 3.900 người, bên cạnh đó còn có

hệ thống thu mua sản phẩm thủy sản phân bố rộng khắp trên toàn tỉnh, cơ bản đã

thu mua hết lượng sản phẩm thủy sản trong dân. Nhiều năm qua có chủ trương “liên

kết 4 nhà” thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Song mới chỉ thành

công rất hạn chế với vùng sản xuất tập trung, thuận lợi về giao thông, giải quyết

một phần rất nhỏ trong số sản phẩm nông nghiệp đa dạng, số lượng lớn, thị trường

103

hàng hoá nhiều.

Thông qua các nhà máy chế biến sản phẩm thủy sản đến với người tiêu dùng

ngày càng đa dạng hơn như các sản phẩm: đồ hộp, nước mắm, phơi sấy, đông

lạnh… Theo báo cáo tuần của UBND tỉnh thì tháng 5/2012 các cơ sở chế biến thủy

sản thu mua 917 tấn nguyên liệu trong đó (310 tấn tôm sú), chế biến 385 tấn, tiêu

thụ 484 tấn sản phẩm, kim ngạch xuất khẩu 1,15 triệu USD; nâng đến nay thu mua

4.895 tấn nguyên liệu (1.120 tấn tôm sú), chế biến 2.498 tấn, tiêu thụ 2.258 tấn, kim

ngạch xuất khẩu trên 11,15 triệu USD. Thị trường nội địa sẽ là động lực thúc đẩy

ngành phát triển, trên tinh thần đảm bảo nhu cầu người dân, một phần ổn định kinh

tế hộ gia đình.

2.6.2. Thị trường xuất khẩu

Cùng với các tỉnh ĐBSCL thị trường xuất khẩu chủ yếu của sản phẩm thủy

sản của tỉnh ngày càng được mở rộng ra nhiều thị trường trên thế giới như: Nhật,

Mỹ, Trung Quốc, EU,… Đây là những thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản lớn.

Các doanh nghiệp đều phải tự tạo ra lợi thế cạnh tranh riêng và vì thế ở mỗi địa

phương có được những mặt mạnh và mặt yếu ở từng thị trường xuất khẩu.

Bảng 2.16: Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh Trà Vinh

giai đoạn 2006 – 2010

Đơn vị: tấn

Năm 2006 2007 2008 2009 2010

Sản phẩm

3.402 3.791 4.058 4.371 5.489 Tôm đông

2.352 2.453 2.720 3.689 1.391 Cá đông

3.073 2.919 2.481 3.266 3.220 Thủy sản đông lạnh

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thống kê 2006 – 2010)

Tôm đông, cá đông và thủy sản đông lạnh là những mặt hàng xuất khẩu có

giá trị của tỉnh. Tổng sản phẩm xuất khẩu trong giai đoạn 2006 – 2010 luôn tăng

104

qua các năm từ 8.827 tấn năm 2006 lên 10.100 tấn năm 2010 tăng 1.273 tấn, trong

đó mặt hàng tôm đông luôn chếm tỷ trọng lơn trong các mặt hàng xuất khẩu khác

năm 2006 chiếm 38,54% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu đến năm 2010 giá trị

này lại tăng lên 54,35%. Đều này đã chứng minh được sự cố gắn vượt bậc của toàn

ngành thủy sản đặc biệt là công nghiệp chế biến đã tạo nên được nhiều mặt hàng

thủy sản chế biến đa dạng hơn.

2.7. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động nuôi trồng thủy sản

Tuy có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển NTTS nhưng tỉnh cũng đang

mắc phải những khó khăn hạn chế từ nhiều khâu trong NTTS có thể điểm qua một

vài khó khăn hạn chế của ngành: Nuôi trồng thủy sản đòi hỏi chi phí đầu tư cao,

nhất là chi phí đầu tư xây dựng công trình ao nuôi. Tuy nhiên, do đa số hộ nuôi

thiếu vốn sản xuất nhất là các hộ nuôi theo hình thức quảng canh, quảng canh cải

tiến và tư tưởng chủ quan trong quá trình nuôi, vì vậy một số hộ nuôi xây dựng

công trình ao nuôi không đúng qui trình kỹ thuật, không có ao lắng, ao xử lý nước;

Trong sản xuất thì giảm những khoản chi phí không phù hợp nên làm cho nghề nuôi

trồng thủy sản phát triển thiếu tính ổn định.

 Cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS:

- Việc xây dựng công trình ao nuôi không đúng quy trình kỹ thuật, không có

ao lắng, ao xử lý nước. Trong quá trình sản xuất thì giảm các chi phí không phù hợp

nên làm cho ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh phát triển thiếu tính ổn định. Nhiều cơ

sở nuôi còn dùng chung đường cấp thoát nước nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm ảnh

hưởng các vùng nuôi lân cận.

- Cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư nhưng còn thiếu và hiệu quả sử dụng còn

hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất là hệ thống giao thông thủy lợi,

điện phục vụ riêng cho ngành NTTS. Hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, khả năng

phục vụ còn thấp chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao.

- Hệ thống thủy lợi (cung cấp và tiêu thoát nước) còn yếu kém, hệ thống cấp,

thoát chưa riêng biệt chưa phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi có tính đặc thù của

NTTS, không cung cấp đủ nước đảm bảo chất lượng cho NTTS cũng như không

105

đảm bảo việc tiêu nước khi bị ô nhiễm là nguyên nhân cơ bản gây ra dịch bệnh và

hiệu quả sản xuất kém của nhiều vùng NTTS.

 Quy hoạch: Khu NTTS tập trung còn ít, đa số là sản xuất mạnh mún, nhỏ

lẻ nuôi tôm ở Trà Vinh mang tính chất hộ gia đình, qui mô nhỏ lẻ nên việc quản lý

nguồn nước thải ở các hộ có tôm bị chết gặp nhiều khó khăn, chưa hình thành được

vùng sản xuất nguyên liệu tập trung mang tính hàng hóa lớn. Trong phát triển nuôi

trồng tuy có quy hoạch nhưng chậm công bố và quy hoạch chậm hơn so với nhu cầu

phát triển sản xuất. Nhiều nơi nuôi còn mang tính tự phát; phần lớn lại tập trung ở

các vùng mặn, lợ; các vùng nước ngọt còn yếu phát triển tự phát thiếu quy hoạch

đồng bộ, mức độ đầu tư cho nghề nuôi còn thấp.

- Việc gia tăng quá mức về diện tích NTTS và công tác quy hoạch NTTS,

đặc biệt là theo vùng nuôi, chưa được tốt đã và đang làm cho nguồn nước ngày càng

bị ô nhiễm ảnh hưởng xấu tới NTTS. Nhiều khu vực do tự phát NTTS phá vỡ quy

hoạch sản xuất nông nghiệp, nhất là ở những vùng canh tác lúa do ngọt hoá trước

đây, việc cấp thoát nước cho NTTS gây ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất nông

nghiệp khác, làm tăng mâu thuẫn giữa các ngành nghề ở số địa phương.

- Địa phương và ngành thủy sản chậm trễ trong việc xây dựng các qui hoạch

chi tiết và dự án, Nhà nước thiếu cơ sở để phân bổ đầu tư, đầu tư cho phát triển

NTTS nhìn chung còn quá thấp chưa tương xứng với khả năng và những kì vọng

phát triển. Hợp tác giữa các ngành các cấp chưa chặt chẽ, chưa có qui hoạch phát

triển liên ngành, liên vùng cho nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là việc phát triển thủy

lợi nằm trong ngành nông nghiệp do chưa thấy được nhu cầu thủy lợi hoá phục vụ

NTTS có sự khác biệt rất lớn so với việc ngọt hoá một số vùng để phát triển nông

nghiệp, nên đã gây ra những khó khăn nhất định khi địa phương muốn triển khai

nhanh kế hoạch phát triển NTTS của mình.

 Tổ chức quản lý và sản xuất:

- Thiếu sự liên kết trong sản xuất, sự liên kết giữa người nuôi với người nuôi,

thành lập ban quản lý vùng nuôi để tự quản lý công đồng về con giống, môi trường

nước, dịch bệnh thủy sản, sự liên kết giữa người nuôi với nhà khoa học, sự liên kết

106

giữa người nuôi với doanh nghiệp thu mua, chế biến sản phẩm xuất khẩu. Chính vì

vậy người nuôi chịu áp lực của dịch bệnh và giá cả thị trường.

- Thiếu chính sách hỗ trợ phát triển đặc biệt là chính sách rủi ro cho người

nuôi thủy sản thiệt hại. Hằng năm người nuôi phải chịu những tổn thất trong quá

trình nuôi do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc chất lượng con giống không

đảm bảo, nhưng vẫn chưa có những chính hỗ trợ thiệt hại cho người dân..

- Quản lý của nhà nước trong lĩnh vực nuôi trồng còn nhiều hạn chế do các

hệ thống văn bản còn thiếu, một số văn bản chồng chéo chưa có hướng dẫn cụ thể

rõ ràng.

- Các cơ sở chế biến tuy thu mua hết sản phẩm của các hộ nuôi nhưng phải

chờ đợi lâu vào thời điểm thu hoạch làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và bị

ép giá.

 Nguồn vốn: Nuôi trồng thủy sản đòi hỏi chi phí đầu tư cao, nhất là chi phí

đầu tư xây dựng công trình ao nuôi. Tuy nhiên, do đa số hộ nuôi thiếu vốn sản xuất

nhất là các hộ nuôi theo hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến và tư tưởng chủ

quan trong quá trình nuôi, vì vậy một số hộ nuôi xây dựng công trình ao nuôi không

đúng qui trình kỹ thuật, không có ao lắng, ao xử lý nước. Trong sản xuất thì giảm

những khoản chi phí không phù hợp nên làm cho nghề nuôi trồng thủy sản phát

triển thiếu tính ổn định. Nguồn vốn đầu tư vào ngành trên địa bàn tỉnh chưa thật sự

ổn định. Nhiều năm nay nhiều hộ nuôi trên địa bàn tỉnh đã gặp không ít khó khăn

trong việc tìm được nguồn vốn vai nhất là những lúc người nuôi bị thiệt hại, nhu

cầu về vốn để tái sản xuất cho các hộ nuôi tôm hiện nay đang trở nên bức xúc nhất.

Lợi nhuận từ hoạt động NTTS rất cao nhưng khi có rủi ro thì thiệt hại cũng rất lớn,

dẫn đến tình trạng người nuôi thiếu vốn trầm trọng.

 Trình độ nguồn lao động: Trình độ kỹ thuật của người nuôi chưa đều.

Trình độ dân trí trong tỉnh còn hạn chế, nhất là nông dân ở các vùng sâu vùng xa,

tiếp thu công nghệ và kĩ thuật mới còn chậm đây là đều mà các cấp quản lý luôn

quan tâm giải quyết. Đa số người nuôi trong tỉnh còn dựa vào kinh nghiệm nuôi

thực tế, số lượng qua đào tạo thực sự chưa nhiều. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật

107

chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là cán bộ chuyên

biệt về công nghệ sản xuất giống sạch bệnh, sản xuất thức ăn, xử lý môi trường và

phòng trừ dịch bệnh.

 Về con giống: nhiều khuyến cáo mở rộng diện tích vùng nuôi nhưng một

thực trạng đặc ra cho ngành NTTS là vấn đề thiếu nguồn con giống chất lượng. Các

cơ sở sản xuất giống trong tỉnh không đủ cung cấp từ đó dẫn đến vấn đề là phải

nhập giống phải đối mặt với vấn đề chất lượng con giống, mặt khác lại chưa chủ

động được nguồn giống nuôi, vì thế mà phong trào nuôi chưa ổn định và thiếu vững

chắc, nguồn giống ngoại nhập thì không đảm bảo chất lượng, chưa kiểm dịch một

cách triệt để.

Ngoài ra, ngành NTTS của tỉnh cũng đang đối mặt với khó khăn trong công

tác kiểm tra chất lượng thức ăn, thuốc thú y thủy sản. Người sản xuất và các cơ sở

kinh doanh chưa có ý thức cao trong việc thực hiện, quán triệt các qui định trong

nuôi trồng thủy sản, sử dụng các loại thuốc, thức ăn thủy sản thiếu sự kiểm tra về

các sản phẩm trong việc mua và sử dụng. Về mặt giao thông thủy lợi điện phục vụ

NTTS tuy được chú trọng phát triển nhưng chưa được hoàn thiện chưa đạt được

hiệu quả cao nhất.

108

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH

3.1. Định hướng về phát triển nuôi trồng thuỷ sản

3.1.1. Định hướng chung

* Về cơ cấu diện tích nuôi:

- Giảm dần về diện tích nuôi trồng theo hình thức nuôi quảng canh cải tiến, bán

thâm canh và tiến tới mô hình nuôi thâm canh. Đồng thời không chặt phá rừng để

nuôi tôm, tân dụng ruộng lúa một vụ để nuôi tôm nhưng không lấn diện tích trồng

lúa, tận dụng ruộng muối để nuôi tôm.

- Mở rộng diện tích nuôi thâm canh, có năng suất cao, công nghệ sạch và bảo vệ

môi trường. Nâng cao năng suất, sản lượng các vùng nuôi tôm quảng canh hiện có,

trên cơ sở nâng cấp hệ thống thủy lợi, áp dụng rộng rãi công nghệ nuôi tiên tiến

- Tăng diện tích nuôi cá, tôm trong ao, hầm, mương đây được xem là khu vực dễ

chăm sóc và đạt năng suất cao. Tăng số lượng lồng bè trên sông, cải tiến kết cấu và

vật liệu làm bè nhằm giảm đầu tư xây dựng cơ bản.

* Về đối tượng nuôi:

Tiến hành nuôi những giống loài có giá trị kinh tế cao vừa đáp ứng nhu cầu

trong nước và cung ứng cho xuất khẩu đêm lại thu nhập cao: tôm sú, tôm càng

xanh, nhuyễn thể,…Tăng tỷ lệ các đối tượng trong sản lượng nuôi trồng, tăng tỷ lệ

có giá trị xuất khẩu vào ao nuôi, hồ, mương và nuôi bè.

- Phát triển nuôi trồng các loại có giá trị kinh tế cao, phục vụ xuất khẩu, đặc biệt

là các loại tôm. Đa dạng hóa các loại tôm như tôm sú, tôm hùm, tôm càng xanh, đưa

tôm thẻ chân trắng vào một trong các đối tượng nuôi trồng chính, tăng lợi thế cạnh

tranh bằng tôm sú có kích cỡ với sức cạnh tranh cao trên thị trường. Cùng với nuôi

công nghiệp sạch bệnh cần phát triển nuôi sinh thái ở những vùng phù hợp. Mở

rộng nuôi các loại các như: cá basa, cá tra, rô phi đơn tính và các đối tượng nước

ngọt xuất khẩu khác.

109

* Về giống:

Quy hoạch lại hệ thống trại giống sản xuất, trại ương và cung cấp giống cho

nghề nuôi. Tạo điều kiện cho việc sinh sản của các giống cá tôm nhằm góp phần

hoàn chỉnh quy trình nuôi.

- Nâng cấp các trại sản xuất giống tạo ra được nhiều loại giống có năng suất,

chất lượng cao. Hoàn thiện hệ thống nghiên cứu, sản xuất, cung ứng giống thủy sản

từ Trung ương đến các địa phương. Đến năm 2015: cung cấp 100% giống thủy sản

cho nhu cầu nuôi; 70% giống các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân

trắng, cá tra, tôm càng xanh, rô phi, nhuyễn thể) là giống sạch bệnh. Phấn đấu đến

năm 2020: 100% giống các đối tượng nuôi chủ lực là giống chất lượng cao, sạch

bệnh.

- Công tác kiễm dịch giống thủy sản cần được chú trọng hơn nữa. Nuôi thả đúng

thời vụ và làm tốt việc hạn chế rủi ro, dịch bệnh.

 Về công tác quy hoạch:

Tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch phát triển NTTS theo tuyến,

theo vùng, trên từng địa phương đảm bảo nâng cao giá trị sản phẩm của ngành một

cách vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có kết quả, từng bước công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành.

- Tiếp tục hoàn chỉnh việc chuyển đổi đất ruộng trũng, đất nông nghiệp kém

hiệu quả sang NTTS. Nhanh chóng đưa các dự án đầu tư nuôi tôm công nghiệp,

nuôi tôm trên cát.

 Về khoa học công nghệ:

- Phát triển nghiên cứu khoa học, công nghệ sinh học, công nghệ biến đổi gen để

cung ứng đầy đủ và kịp thời giống thủy sản có chất lượng với giá bán hợp lý.

- Thực hiện chuyển giao nhanh, phổ biến các kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến cho

ngư dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế đẩy mạnh giống sản xuất thương

phẩm cung cấp cho thị trường. Đảm bảo sản xuất đủ các loại giống tôm, các rô phi,

tôm càng xanh, các loại nhuyễn thể, cá nước ngọt và cá biển. Nhập khẩu một số loại

giống cần thiết trên cơ sở có sự tính toán, cân đối hợp lý.

110

 Tổ chức quản lý sản xuất:

- Cần quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất và lưu thông thức ăn, các chế phẩm

dùng trong NTTS. Bên cạnh đó, cần đảm bảo sự thông thoáng theo môi trường

chính sách đổi mới để phát huy, khai thác một cách hiệu quả các nguồn nhân lực

trong nhân dân.

- Tổ chức tốt việc thực hiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản đảm bảo tuân thủ các

quy định về điều kiện sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời tạo

mối liên kết chặt chẽ giữa nuôi trồng với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

- Tiến hành quản lý vùng nuôi tốt, đảm bảo về sinh vùng nuôi, vệ sinh chất

lượng sản phẩm từ vùng nuôi, xây dựng vào phổ biến mô hình quản lý cộng đồng ở

các vùng nuôi thủy sản. Không sử dụng hóa chất kháng sinh bị cấm.

- Xây dựng dự án phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ NTTS, tổ chức các

chương trình đào tạo, cán bộ lao động nghề các phục vụ chiến lược phát triển lâu

dài.

3.1.2. Định hướng cụ thể phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh

Trong tương lai sẽ đưa ngành thủy sản nói chung và NTTS nói riêng trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh dựa trên những tiềm năng và phát huy những lợi

thế sẵn có của Tỉnh. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất.

Quản lý chặt chẽ lịch thời vụ, tăng cường kiểm soát và phòng chống dịch bệnh trên

cây trồng, vật nuôi. Nhân rộng mô hình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc

biệt là mô hình sản xuất, cung ứng giống theo phương thức xã hội hóa để đảm bảo

nhu cầu giống chất lượng cao cho sản xuất. Tiếp tục chuyển giao ứng dụng khoa

học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và sắp xếp tổ chức lại sản xuất để đạt hiệu quả

cao hơn.

- Triển khai quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản các huyện; rà soát diện tích nuôi

thủy sản đảm bảo các điều kiện nuôi thâm canh, an toàn dịch bệnh; đầu tư nâng cao

năng lực sản xuất giống, thực hiện việc đánh số cơ sở, vùng nuôi đối với con nuôi

chủ lực.

111

+ Vùng nước mặn, lợ phát triển nhanh và vững chắc nuôi tôm sú theo hình thức

công nghiệp, mở rộng diện tích nuôi cua, nghêu, sò ở các cồn nổi, bãi bồi, ven biển.

+ Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong

mương vườn và ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra, các loại thủy sản có giá trị kinh tế

cao, có thị trường tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu; tăng cường đầu tư các

công trình thủy lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống,

đảm bảo lịch thời vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm đẩy mạnh nuôi

trồng thủy sản bền vững, phấn đấu tăng sản lượng nuôi trồng.

- Diện tích nuôi: phấn đấu năm 2011 diện tích nuôi thủy sản vùng nước mặn, lợ

trên 41.000 ha (có 25.300 ha nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản vùng nước ngọt

13.000 ha (phấn đấu trên 200 ha nuôi cá da trơn). Đến năm 2015 sẽ thực hiện quy

hoạch mở rộng diện tích nuôi ở cả 3 vùng mặn, lợ và ngọt có 66.000 ha (trong đó,

có khoảng 7.000 - 8.000 ha nuôi công nghiệp và bán công nghiệp tôm sú, 1.000 -

1.400 ha nuôi cá tra xuất khẩu, 5.700 ha nuôi nghêu, sò huyết, 1.830 ha nuôi tôm

thẻ chân trắng, 12.000 ha nuôi cua biển kết hợp....). Diện tích nuôi tập trung ở các

huyện:

+ Huyện Duyên Hải 530 ha (gồm Xã Long Hữu- khu vực trong đê bao thuộc

Chương trình 773 và Dự án đê bao ngăn lũ chống triều cường (các cấp 15, 16, 17).

Khu nuôi tôm của cơ sở giáo dục Bến Giá với tổng diện tích 370 ha; xã Ngũ Lạc-

Khu đê bao ấp Đường Liếu 60 ha; Xã Long Vĩnh - Khu vực đê bao thuộc chương

trình 773 ấp La Ghi, Gạch Cò khoảng 300 ha).

+ Huyện Cầu Ngang với 350 ha, (gồm Xã Mỹ Long Bắc 200 ha, Khu vực ngoài

đê bao quốc phòng 150 ha; khu cồn Bần 100 ha; Xã Vĩnh Kim - Khu vực ngoài đê

bao quốc phòng 150 ha).

+ Huyện Châu Thành khoảng 100 ha (Khu quy hoạch nuôi tôm thâm canh bậc

cao thuộc xã Long Hòa). Huyện Trà Cú 200 ha, gồm ấp Bà Nhì, xã Đôn Châu 100

ha và ấp Bà Nhì, xã Đôn Xuân 100 ha.

Quy hoạch thành những vùng nuôi tập trung các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải,

Châu Thành nuôi nghêu, huyện Duyên Hải nuôi sò huyết, triển khai quy hoạch nuôi

112

cá da trơn trên tuyến sông Tiền và sông Hậu tra tập trung chủ yếu ở huyện Càng

Long, Tiểu Cần, Cầu Kè và Châu Thành.

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa lớn trên các vùng

nước mặn lợ, nước ngọt với hai đối tượng nuôi chủ lực là tôm nước lợ, cá tra. Tiếp

tục phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thủy sản với các hình thức, hệ thống và đối tượng

phù hợp với mọi trình độ, vùng sinh thái, song ưu tiên cho nuôi trồng thủy sản theo

hướng thâm canh và tập trung. Chuyển sang nuôi trồng bán thâm canh và thâm

canh, áp dụng công nghệ mới. Đẩy mạnh phát triển nuôi tôm sú ở các huyện Duyên

Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành và đạt diện tích nuôi đến năm 2020 khoảng

35.000 ha bao gồm nuôi thâm canh, bán thâm canh 13.900 ha, nuôi quảng canh cải

tiến 12.300 ha, tôm rừng 2.500 ha.

Sẽ tập trung phát triển NTTS vùng ven biển với những bãi bồi, cồn nổi với nhiều

loại thủy sản đa dạng có giá trị kinh tế cao, tập trung đầu tư phát triển các đối tượng

chủ lực (tôm sú, cá tra, tôm thẻ chân trắng, cá rô phi, nhuyễn thể, tôm càng xanh và

các loài cá biển để phục vụ xuất khẩu). Đối với nuôi nhuyễn thể tỉnh sẽ thực hiện

quy hoạch thành những vùng nuôi tập trung.

Mở rộng quy mô diện tích nuôi trồng thủy sản ở những vùng sản xuất lúa kém

hiệu quả, từng bước xây dựng các vùng chuyên canh, tăng nhanh diện tích vùng

nuôi trồng kết kết hợp. Phấn đấu mở rộng trên 50.000 ha đất ven biển và 15.000 ha

đất bãi bồi và cồn nổi để nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa vật nuôi như:

tôm, cá, cua, nghêu, sò huyết… phát triển nhanh và bền vững diện tích nuôi tôm sú

theo hình thức công nghiệp, bán công nghiệp; tiếp tục phát triển nuôi tôm càng xanh

trong mương vườn, ruộng lúa ở các vùng nước lợ thuộc lưu vực Láng Thé và Cái

Hóp; nuôi cá da trơn ở lưu vực sông Cần Chông và Cầu Kè.

- Cùng với việc thực hiện định hướng chung của cả nước, giảm dần diện tích

nuôi quảng canh cải tiến, bán thâm canh tiến dần đến nuôi thâm canh.

113

3.2. Các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Trà Vinh

3.2.1 Giải pháp về nguồn vốn đầu tư

3.2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước

Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý quý I năm 2012

ước thực hiện 41.257 triệu đồng, nguồn vốn này được đầu tư chủ yếu ở các công

trình, dự án của các Bộ như: đồn biên phòng Long Hòa, đồn Cái Côn, hệ thống thủy

lợi phục hồi nuôi trồng thủy sản Đồng Đon trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Nguồn vốn

từ trung ương đầu tư trước tiên cần tập trung các hạn mục tiên quyết của ngành là

những yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển của ngành.

- Nhà nước cần có chính sách cho vay lãi suất phù hợp với người nuôi theo

từng loại hình dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.

- Sử dụng nguồn vốn đầu tư một cách hợp lý vào quy hoạch vùng nuôi, xây

dựng hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện, kênh cấp và thoát nước, trạm bơm,

các cống dẫn và thoát nước chính, khu xử lý nước thải. Đặc biệt chú trọng đầu tư cơ

sở hạ tầng cho vùng chuyển đổi, vùng nuôi tạo sản phẩm tập trung.

- Đầu tư nhập các đối tượng nuôi mới, công nghệ mới về sinh sản nhân tạo

những giống thủy sản có giá trị cao và xuất khẩu. Đầu tư cho trợ giá một số giống

thủy sản cần phát triển ở vùng xa, trong việc phát triển khoa học và công nghệ

giống, nâng cấp các trại sản xuất giống hiện có ở địa phương, di nhập và thuần hóa

các giống mới, chuyển giao sản xuất giống cho các trại sản xuất, hỗ trợ các giống

mới, giống có giá trị kinh tế. Hỗ trợ trong xây dựng, thử nghiệm và chuyển giao

công nghệ của các mô hình nuôi mới, đào tạo và tập huấn cho các cán bộ quản lý,

các hộ dân và tổ chức tham gia NTTS. Hỗ trợ trong xúc tiến thương mại, giới thiệu

sản phẩm.

- Hỗ trợ cho các địa phương đầu tư cho các dự án mới đầu tư xây dựng các

công trình, cơ sở vật chất kỹ thuật thiết yếu phục vụ nuôi trồng thủy sản cho các

vùng nuôi tập trung trên biển, eo vịnh, đầm phá.

Cần có sự phân bổ nguồn vốn đầu tư từ trung ương một cách hợp lý, vốn ngân

sách Trung ương cần đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm, cơ

114

sở hạ tầng cho các khu nuôi thâm canh tập trung, các khu công nghiệp sản xuất

giống tập trung, hỗ trợ kinh phí cho các địa phương xây dựng cơ sở vật chất cho

công tác kiểm định và quan trắc vùng nuôi. Đầu tư xây dựng các chợ thủy sản đầu

mối, tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ nuôi, sản xuất giống,

thức ăn và phòng chống dịch bệnh, đào tạo cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật cơ sở

và cán bộ khuyến ngư. Chính phủ phân bổ một phần nguồn vốn đầu tư hạ tầng cơ sở

phục vụ NTTS thông qua các tỉnh và thành phố nhằm giải quyết các giải pháp quy

hoạch, điều chỉnh hệ thống thủy lợi, xây dựng hệ thống kênh cấp thoát nước riêng

biệt từ cấp 2, 3 trở xuống, nạo vét các kênh bị bồi lắng, quy hoạch vùng nuôi theo

mô hình sinh thái, đầu tư hệ thống điện và giao thông bộ tới các vùng nuôi.

3.2.1.2. Đầu tư từ vốn ngân sách địa phương

Cùng với hỗ trợ từ ngân sách trung ương đầu tư xây dựng các công trình, cơ sở

vật chất kỹ thuật thiết yếu phục vụ nuôi trồng thủy sản cho các vùng nuôi tập trung

trên biển, eo vịnh, đầm phá; xây dựng hệ thống thủy lợi đầu mối cấp I (cống, đê

bao, kè, kênh cấp, kênh tiêu nước, trạm bơm), đường giao thông, hệ thống cung cấp

điện, khu xử lý nước thải …; tăng cường quản lý điều kiện vùng nuôi, xử lý và cải

tạo môi trường; hỗ trợ kinh phí mua giống, làm lồng bè cho các hộ gia đình nuôi

trồng thủy sản trên vùng biển, đảo xa; hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở nuôi trồng thủy

sản tập trung áp dụng Quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) và các chứng chỉ áp dụng

các Quy trình nuôi tiên tiến; kinh phí cho công tác xúc tiến thương mại, xây dựng

thương hiệu cho sản phẩm thủy sản và khuyến ngư (đào tạo, tập huấn ngắn ngày

cho cán bộ và nông ngư dân, xây dựng mô hình).

- Sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ lãi suất vốn vay cho các dự án

NTTS tập trung cho các địa phương có mức sống thấp. Đầu tư một số hạng mục hạ

tầng cơ sở vùng nuôi (nội đồng), cải tạo nâng cấp ao nuôi; đầu tư các chi phí sản

xuất (giống, thức ăn, thuốc và hoá chất) ở địa phương. Xây dựng dự án hỗ trợ người

nghèo tham gia hoạt động NTTS các vùng tập trung được vay vốn từ Ngân hàng

Chính sách xã hội (theo quy định hiện hành). Các tổ chức tín dụng ở cấp tỉnh và cấp

115

huyện có biện pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức (trong nước),

cá nhân, hộ gia đình vay vốn.

3.2.1.3. Các nguồn vốn khác

Nguồn vốn khác có thể là khoản vốn vay, vốn của các doanh nghiệp, khoản tự

góp của dân. Đầu tư trang thiết bị phụ trợ cho hoạt động sản xuất, thuê mướn nhân

công; mua giống, thức ăn, thuốc và hóa chất, nhiên liệu và các vật liệu mau hỏng,

chi phí cho các hoạt động sản xuất giống, thức ăn.

- Nguồn vốn doanh nghiệp, chủ trang trại đầu tư xây dựng các công trình hạ

tầng cho vùng nuôi, cơ sở sản xuất giống, xây dựng mới hoặc nâng cấp cơ sở chế

biến theo hướng công nghiệp hiện đại, quảng bá thương hiệu và xúc tiến thương

mại.

- Nguồn vốn của cá nhân, hộ gia đình: đầu tư xây dựng các ao nuôi; hệ thống

cấp, thải nước từ kênh mương cấp, thoát nước cấp II; mua giống, thức ăn, thuốc,

hóa chất phòng trừ dịch bệnh và xử lý môi trường ao nuôi, cải tạo chính diện tích

nuôi của hộ mình hoặc của các doanh nghiệp, được đầu tư vào các hạn mục nhỏ ở

từng địa phương, chủ yếu đầu tư cho việc tu sửa và hoàn thiện ao nuôi. Các doanh

nghiệp, tổ chức, cá nhân có cơ sở nuôi trồng thủy sản tập trung chủ động dành kinh

phí đầu tư bảo đảm các điều kiện cho việc áp dụng Quy trình thực hành nuôi tốt

(GAP) và các chứng chỉ áp dụng các Quy trình nuôi tiên tiến, áp dụng các tiêu

chuẩn tiên tiến về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.

Ngoài ra có thể tận dụng vốn nước ngoài để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế, kỹ thuật phục vụ mở rộng mặt nước nuôi thủy sản. Ðồng thời khuyến khích

các tổ chức kinh tế đầu tư vào nuôi trồng thủy sản; vận động nhân dân tiết kiệm tích

lũy vốn để mở rộng dần diện tích nuôi.

3.2.2. Giải pháp đầu tư có trọng điểm

Tránh tình trạng đầu tư dàng trãi trên diện rộng sẽ không mang lại hiệu quả cao.

Tập trung đầu tư ở những vùng nuôi tiềm năng và đã được tiến hành quy hoạch cụ

thể, ưu tiên đầu tư các vùng có tiềm năng thế mạnh, tạo ra giá trị kinh tế cao, phục

vụ chế biến xuất khẩu; lấy xuất khẩu và tiêu thụ làm động lực phát triển, trong đó

116

con tôm là sản phẩm chủ lực. Cụ thể hơn là tiến hành đầu tư cho cơ sở hạ tầng vùng

nuôi, đặc biệt chú trọng hệ thống thủy lợi là một trong những yếu tố quyết định sự

phát triển của ngành NTTS. Tập trung nguồn vốn vào những vùng thực sự có thế

mạnh về điều kiện tự nhiên lẫn kinh tế xã hội.

3.2.3. Giải pháp về kinh tế

3.2.3.1. Giải pháp về quy hoạch

Cần tổ chức thực hiện tốt qui hoạch các vùng nuôi tập trung theo từng hình

thức nuôi và lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái. Khuyến

khích phát triển theo hướng thâm canh hóa và đa dạng hóa đối tượng con nuôi, ưu

tiên phát triển những giống loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ

ổn định và thích nghi tốt với điều kiện sinh thái của địa phương.

Cần đẩy mạnh công tác quy hoạch tại địa phương khẩn trương hoàn chỉnh quy

hoạch tổng thể ngành, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch cho từng địa phương. Các

đơn vị bộ ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để xây dựng chương trình

một cách khoa học. Tiến hành quy hoạch ruộng trũng sang NTTS, quy hoạch nuôi

thủy sản trên cát, cụ thể là các loại tôm có sức cạnh tranh; xây dựng quy hoạch và

khai thác và bảo về nguồn lợi thủy sản. Xây dựng đề án phát triển một số loài thủy

đặc sản nuôi xuất khẩu như: tôm, cá tra, basa,... đồng thời cần gắn liền việc phát

triển NTTS với xây dựng các vùng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến.

Cần gắn liền quy hoạch phát triển cho ngành với phát triển chung của các

ngành kinh tế khác, đặc biệt là công nghiệp chế biến, tạo sự phát triển cân đối hài

hòa trong sự phát triển chung. Để sản phẩm sản xuất ra có thể tiêu thụ được, chất

lượng là yêu cầu tiên quyết. Chính vì vậy mà, phát triển công nghiệp chế biến sẽ tạo

thuận lợi cho sự phát triển của NTTS. Có thể quy hoạch các vùng tập trùng nuôi

trồng thủy sản và công nghiệp chế biến theo một quy trình khép kín, giúp nâng cao

hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Quy hoạch NTTS cần phải cân nhắc kỹ đến sự cân bằng sinh thái trong khu

vực nuôi, bảo tồn tính đa dạng sinh học ở khu vực rừng ngập mặn ven bờ xen với

117

các vùng nuôi tủy sản. Cần trồng thêm các vùng rừng ngập mặn đệm ở dưới các

vùng nuôi trên các bãi triều để quản lý xử lý nước biển.

Khi quy hoạch chuyển đổi được phê duyệt cần tiến hành quy hoạch chi tiết

thiết kế cụ thể từng loại hình nuôi, sử dụng những cơ sở vật chất hiện có đặc biệt là

hệ thống thủy lợi đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trên diện tích canh tác. Đồng

thời người nuôi phải tuân thủ các quy hoach phát triển tổng thể, tranh thủ sự tham

gia toàn diện trong việc thảo luận ra quyết định liên quan đến quy hoạch thiết kế,

xây dựng và giám sát trong NTTS.

3.2.3.2. Giải pháp về chính sách phát triển nuôi trồng thủy sản

Chính sách phát triển NTTS là rất quan trọng liên quan đến sự thành công hay

thất bại của ngành. Chính vì vậy cần khuyến khích thực hiện các chính sách đã đang

có nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của ngành. Từ năm 1995 đến nay, đã có

hàng trăm văn bản chính sách liên quan đến phát triển nuôi trồng thủy sản được ban

hành. Có những chính sách chỉ thể hiện một nội dung, nhưng cũng có nhiều chính

sách có liên quan đến nhiều nội dung trong phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong

những năm qua, ngành thủy sản đã tham mưu và đề xuất UBND tỉnh phê duyệt qui

hoạch chi tiết nuôi thủy sản huyện Duyên Hải, Cầu Ngang đến năm 2015 và tầm

nhìn đến năm 2020; Qui hoạch 1.830 ha vùng nuôi tôm thẻ chân trắng; Qui hoạch

vùng nuôi thủy sản bãi bồi và cồn mới nổi ven biển 03 huyện Cầu Ngang, Châu

Thành và Duyên Hải; Qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất Nông –lâm – diêm

nghiệp và nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm

2020, nhằm có cơ sở để phát triển và xây dựng các vùng nuôi tập trung của tỉnh,

góp phần đảm bảo môi trường sinh thái.

Để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành cần có những chính sách nhất

quán cụ thể:

- Chính sách quy hoạch vùng nuôi có tiềm năng như nuôi thủy sản bãi bồi và

cồn mới nổi ven biển 03 huyện Cầu Ngang, Châu Thành và Duyên Hải.

118

- Chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, thực hiện cụ thể

việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả, đất trũng nhiễm mặn, ngập úng sang

NTTS theo các quy hoạch phát triển.

- Có chính sách hỗ trợ rủi ro cho các hộ nuôi thủy sản: rủi ro về dịch bệnh,

thiên tai,… để giúp các hộ này khắc phục rủi ro và có đủ vốn để tái đầu tư sản xuất.

Đối tượng sẽ được hưởng những chính sách này là các tổ chức, cá nhân trực tiếp

đầu tư sản xuất, các cơ sở sản xuất, cung cấp giống.

- Tạo môi trường ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư trong các

lĩnh vực nuôi thủy sản, sản xuất giống, thức ăn, thuốc hóa chất phục vụ cho nuôi

trồng thủy sản, góp phần thúc đẩy nghề nuôi thủy sản phát tri ển nhanh và bền

vững.

- Có chính sách hỗ trợ các cơ sở sản xuất và các hộ nuôi chi phí kiểm tra

giống đặc biệt là giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng để nguồn giống cung ứng cho

nuôi trồng đảm bảo sạch bệnh, hạn chế rủi ro trong nuôi trồng.

- Về bao tiêu sản phẩm cần có chính sách quyết định cụ thể đảm bảo sự phát

triển ổn định cho đầu ra sản phẩm cho người nuôi đồng thời đảm bảo nguồn cung

nguyên liệu ổn định chi các doanh nghiệp.

3.2.3.3. Giải pháp về giống nuôi trồng thủy sản

 Đối với nguồn giống nội địa:

- Tận dụng khai thác những nguồn giống tự nhiên, đồng thời đầu tư nghiên

cứu và tiếp nhận những qui trình sản xuất các loại giống mới có khả năng phát triển

nuôi trồng trên địa bàn. Kiện toàn hệ thống sản xuất và cung ứng giống có chất

lượng, đầy đủ. Xây dựng trung tâm giống của tỉnh với hệ thống các trại giống cả 3

vùng mặn, lợ, ngọt. Thực hiện tốt quản lý nhà nước trong lĩnh vực giống. Củng cố

và nhân rộng các mô hình nuôi, các tổ chức sản xuất hiệu quả như: tổ hợp tác, HTX,

các chi hội, tổ chức cộng đồng. Đặc biệt là nuôi rải vụ để có đủ nguyên liệu phục vụ

chế biến xuất khẩu quanh năm.

- Tổ chức nhân rộng những mô hình đã nghiên cứu và ứng dụng thành công

trong sản xuất giống thủy sản. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích

119

các cơ sở sản xuất giống, đặc biệt là các cơ sở sản xuất giống tôm, ứng dụng các qui

trình sản xuất theo tiêu chuẩn SQF-1.000. Tăng cường liên kết với các cơ sở sản

xuất giống trong khu vực ĐBSCL và các vùng trên cả nước về phương diện liên

doanh, liên kết sản xuất giống; tạo nên một chuỗi thị trường năng động giữa sản

xuất giống - sản xuất và kinh doanh thức ăn, thuốc thú y-nuôi tôm - và chế biến xuất

khẩu.

- Xây dựng thêm các trại sản xuất giống có đủ trang thiết bị hiện đại trong sản

xuất, kiễm định chất lượng giống. Nên đầu tư chiều sâu vào hệ thống trại giống hiện

có, nâng cao về trình độ kỹ thuật lai tạo, sinh sản nhân tạo, chủ động linh hoạt trong

khâu sản xuất các loại cá giống có giá trị thương phẩm và hiệu quả kinh tế. Cần

quản lý chặt chẽ con giống trong mùa vụ thả tôm của huyện. Nên nhập các đối

tượng nguồn giống mới nhưng phải được kiễm dịch rất kỹ càng,đãm bảo sạch bệnh

chất lượng cao.

- Quy hoạch các trại sản xuất giống theo khu vực nhằm chủ động phục vụ cho

các vùng nuôi trong tỉnh và các tỉnh lân cận, nhằm giảm chi phí vận chuyển và chủ

động kiểm soát được nguồn giống tại chỗ.

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm dịch con

giống; phát triển hệ thống dịch vụ cấp giấy chứng nhận kiểm dịch tôm nuôi và thay

vì nhà nước trực tiếp kiểm tra từng cơ sở nhỏ lẻ, thì chỉ nên xây dựng các văn bản

để kiểm soát họat động của các cơ sở kiểm dịch dịch của Bộ, các Sở NN&PTNT,

Sở Thủy sản nhằm hạn chế chi phí nhân lực và nâng cao hiệu quả quản lý.

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định 103/2000/QĐ-TTg về một số

chính sách khuyến khích phát triển giống thủy sản và Quyết định 112/2004/QĐ-

TTg về Phê duyệt Chương trình phát triển giống thủy sản.

 Đối với nguồn giống ngoại nhập: phải kiểm tra rõ nguồn gốc xuất xứ, kiểm

định chất lượng con giống khả năng kháng bệnh, năng suất cao, điều đặc biệt là có

khả năng thích nghi với điều kiện sống của vùng nuôi ở địa phương.

120

3.2.3.4. Khoa học công nghệ

Trước hết phải làm tốt việc chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật đến từng

người nuôi.

- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ xây dựng các trung tâm giống

địa phương, các trung này cần hoạt động trên cơ sở chủ yếu cho phát triển ngư

nghiệp, chuyên về phục vụ nuôi thủy sản. Khẩn trương thực hiện đề án phát triển

tổng thể những loài thủy sản có giá trị cao (Giáp xác, nhuyễn thễ, cá tra, cá rô phi,

các loài cá biển…) cho mục tiêu lâu dài theo hướng bền vững và đa dạng hoá sản

phẩm: gia hoá khép kín vòng đời, di truyền chọn giống theo hướng tăng trưởng

nhanh, kháng bệnh.

- Tỉnh tiếp tục triển khai hoàn thiện và nâng cấp công nghệ sản giống tôm

càng xanh toàn đực.

- Nghiên cứu công nghệ nuôi thủy sản hữu cơ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm

sạch.

- Hoàn thiện công nghệ sản xuất giống các loài tôm bản địa, nhóm loài tôm sẽ

phát triển trong tương lai. Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học tạo ra nguồn

giống mới có năng suất cao, sức phát triển tốt, chất lượng đảm bảo. Công nghệ

chuẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, công nghệ lưu trữ bảo quản giống và công nghệ

bảo quản sau thu hoạch phải được quan tâm đặc biệt. Đồng thời phát triển công

nghệ hóa chất tạo ra thuốc phòng trừ dịch bệnh có hiệu quả, tránh gây ảnh hưởng

đến môi trường sinh thái và chất lượng sản phẩm.

- Công tác khuyến ngư cần được đẩy mạnh, kết hợp với việc phổ biến kỹ

thuật và hiểu biết về các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh đến người sản xuất. Phải có

sự kết hợp chặt chẽ từ trung ương cho đến địa phương. Thường xuyên tổng kết đánh

giá rút kinh nghiệm từ các hộ nuôi và tuyên truyền rộng rãi cho mọi người nuôi

cùng nắm rõ và có thể áp dụng vào vùng nuôi của hộ.

- Nghiên cứu hoàn thiện các biện pháp xử lý nguồn chất thải rắn và chất thải

lỏng trong các nông hộ, trang trại của vùng nuôi tôm, cá.

121

- Chú trọng đầu tư nghiên cứu các biện pháp phòng trừ bệnh cho thủy sinh vật,

tăng cường nghiên cứu thuốc, văc xin cho các đối tượng có giá trị kinh tế cao.

- Khuyến khích nhập các công nghệ mới tiến bộ phục vụ NTTS nhằm nâng cao

năng suất, chất lượng, đưa ngành phát triển nhanh trên đường hội nhập.

- Xây dựng trạm quan trắc cảnh báo môi trường, dịch bệnh phục vụ nuôi trồng

thủy sản.

3.2.3.5. Sản xuất thức ăn, công nghiệp chế biến

Trong bối cảnh hội nhập, tự do hóa thương mại, kinh tế thị trường và cạnh

tranh khốc liệt hiên nay việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, mở rộng

liên doanh liên kết là cần thiết, trên cơ sở đó tranh thủ các kinh nghiệm về kỹ thuật

và quản lý để chủ động xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn NTTS gắn với vùng

nguyên liệu bột tôm, bột cá nhằm hoàn thiện hệ thống liên hoàn nhằm tối ưu hóa sử

dụng tài nguyên và tối đa hóa lợi nhuận trong chuỗi giá trị cho toàn vùng.

Vấn đề sản xuất thức ăn: Từng bước hiện đại hóa nghề sản xuất thức ăn cho

nuôi trồng, xây dựng và hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp hệ số

thấp cho tất cả những đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực trên cơ sở sử dụng nguyên

liệu sẵn có của địa phương.

Xúc tiến các họat động thanh kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn,

doanh nghiệp nhỏ trên các phương diện nhãn mác, kho bảo quản, kho lưu chứa.

Từng bước sắp xếp tổ chức lại hệ thống dịch vụ kiểm soát các cơ sở kinh doanh,

thực hiện có hiệu quả Nghị định 59/2005/CP và Thông tư 02/2005/TT-BTS trong

việc quản lý các cơ sở kinh doanh thức ăn. Sản xuất ra những loại thức ăn có nhiều

chất dinh dưỡng nhưng không gây ô nhiễm môi trường.

Các cơ sở sản xuất thức ăn trong tỉnh cần phải có sự kết hợp với các Viện,

Trường, Công ty nghiên cứu và sản xuất các loại thức ăn viên nổi cho các đối tượng

như cá tra, cá quả, cá rô phi, tôm càng xanh và cá rô đồng với giá thành phù hợp với

sức mua của dân; đồng thời đẩy mạnh xây dựng nhà máy thức ăn công nghiệp cho

nuôi giáp xác. Nghiên cứu tạo ra những loại thức ăn cung cấp được nhiều chất dinh

dưỡng, dễ hấp thu, đặc biệt là giá thành phải phù hợp với người nuôi.

122

Nâng cấp và xây dựng mới nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp hiện có

trong tỉnh với công suất bình quân 13.000-15.000 tấn/năm/nhà máy.

Đối với các nhà máy chế biến thủy sản: xây dựng các khu công nghiệp chế

biến công nghệ cao để thu hút khối lượng thuỷ sản nguyên liệu lớn, tạo ra sản phẩm

chất lượng cao, tăng giá trị cho các loại sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu

cho sản phẩm thủy sản. Đồng thời nâng cấp đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đổi mới công

nghệ, đổi mới trang thiết bị các cơ sở chế biến thuỷ sản hiện có và phát triển thêm

để nâng tổng công suất cấp đông. Các cơ sở chế biến thủy sản (theo phương thức

công nghiệp) đều đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh và thú y thuỷ

sản; phấn đấu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế ở

doanh nghiệp có điều kiện.

3.2.4. Giải pháp về xã hội

3.2.4.1. Tăng cường bộ máy quản lý, tổ chức sản xuất NTTS.

- Cần ban hành đầy đủ và hướng dẫn cụ thể, rỏ ràng các văn bản quản lý kinh

doanh giống, thức ăn, thuốc hóa chất, dịch vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản và các

văn bản về quản lý nuôi, quản lý môi trường, quản lý chất thải trong nuôi trồng thủy

sản, tránh sự chồng chéo nhau giữa các văn bản quản lý. Đối với cơ sở sản xuất

giống, thức ăn, ngư y thủy sản thì nên giao cho Chi cục thủy sản các tỉnh, thành phố

trực tiếp quản lý.

- Từng địa phương thành lập Ban quản lý vùng nuôi để chủ động trong việc

triển khai các kế hoạch nuôi trồng như: lịch sên vét cải tạo ao hồ, lịch thời vụ thả

nuôi, thời gian sản xuất kinh doanh giống thủy sản, công bố các qui hoạch nuôi

trồng thủy sản,... Đồng thời tổ chức quản lý tốt các hoạt động như: quản lý sên vét

cải tạo ao hồ, quản lý nguồn con giống cung ứng cho hộ nuôi, quản lý môi trường

nước, quản lý dịch bệnh, để có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế thiệt hại thấp nhất

cho người dân.

- Hàng năm có tổ chức sơ, tổng kết và đánh giá rút kinh nghiệm trong việc chỉ

đạo sản xuất, làm cơ sở cho các năm sau hoạt động tốt hơn.

Thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã, hiệp hội nuôi nhằm gắn kết giữa “4 nhà”

123

với nhau. Khuyến khích liên kết giữa các hộ nuôi trong sản xuất như hình thành các

câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã, để hỗ trợ nhau trong sản xuất, quản lý môi

trường, quản lý dịch bệnh, cũng như sự liên kết giữa các nhà trong sản xuất kinh

doanh. Khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau vào quá

trình phát triển NTTS như tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn,

thuốc hóa chất phục vụ nuôi trồng thủy sản, các tổ chức nuôi trồng, thu mua, chế

biến và xuất khẩu sản phẩm thủy sản tham gia v ào hiệp hội thủy sản để liên kết với

nhau trong sản xuất, dịch vụ cung ứng đầu vào, đầu ra sản phẩm. Đối với các thành

phần kinh tế tham gia đầu tư vào chế biến, NTTS tại các khu công nghiệp trong tỉnh

sẽ được hưởng các ưu đãi theo quy định của Nhà nước và các ưu đãi riêng có của

vùng cũng như của từng địa phương tạo điều kiện thu hút đầu tư phục vụ cho sự

phát triển của ngành thủy sản trong vùng. Hiện nay một số khu vực ở các tỉnh xuất

hiện mô hình tự liên kết để sản xuất cũng đem lại hiệu quả cao, cần có những chính

sách phù hợp nhằm quản lý nhằm khuyến khích phát triển mang về năng suất cao

hơn.

Tùy vào đặc điểm tính chất của từng vùng nuôi mà giao cho các đơn vị chủ quản

có thẩm quyền quản lý phù hợp với các cấp từ trung ương đến địa phương.

- Khuyến khích các hộ nuôi thực hiện tốt chính sách dồn điền đổi thửa để sản

xuất mang tính tập trung hơn và phát triển qui mô hơn.

- Khuyến khích các hộ nuôi theo các hình thức nuôi sạch đảm bảo vệ sinh môi

trường và vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn: GAP, BMP, COC,...

3.2.4.2. Đào tạo nguồn nhân lực

Đối với các cấp quản lý, chỉ đạo tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh

vực NTTS, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Tăng cường các

hình thức đào tạo ngắn hạn phù hợp với trình độ, tập quán của lao động nghề cá,

nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảm nhận

được nhiệm vụ chuyển giao công nghệ cho người nuôi đến từng vùng. Đủ trình độ

tiếp thu các công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài thực hiện liên kết, nhập

khẩu một số loại hóa chất, thuốc phòng bệnh của nước ngoài. Tiến hành lai tạo các

124

loại, thủy sản có giá trị kinh tế, phục vụ xuất khẩu, xây dựng nguồn giống quý hiếm.

Cụ thể, cần mở rộng phạm vi đào tạo cán bộ có trình độ đại học trong các lĩnh

vực kỹ thuật và công nghệ nuôi: Ngư y, khuyến ngư và phát triển nông thôn. Trung

bình 50 ha NTTS cần một cán bộ quản lý chuyên ngành thủy sản (trung cấp trở lên

Nên tập trung đào tạo loại cán bộ này ở Đại Học Cần Thơ và Đại học An Giang

(mỗi năm mỗi trường khoảng 350 cán bộ), số còn lại đào tạo ở các trường đại học

thủy sản (nay là ĐH Nha Trang) và nông nghiệp khác. Trong tỉnh thì Trường Đại

học Trà Vinh là đơn vị đảm bảo đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ

chuyên môn về lĩnh vực NTTS, cần phải nâng cao năng lực giảng dạy đa dạng hoá

các loại hình đào tạo nhằm đảm bảo cung cấp nguồn cán bộ chuyên biệt phục vụ

ngành.

Số lượng cán bộ có trình độ dưới đại học và đại học có thể tính theo tỷ lệ sau:

đào tạo 1 đại học, 3 cao đẳng và 10 trung cấp (có nghĩa là đào tạo theo mô hình

1/3/10). Riêng đối với cán bộ trình độ trên đại học thì đào tạo theo mô hình sau: 01

thạc sĩ/50 kỹ sư; 1tiến sĩ /100 kỹ sư.

Công nhân kỹ thuật và lực lượng sản xuất trực tiếp cần phải được đào tạo vừa

cơ bản vừa thường xuyên do các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ NTTS thường diễn

ra rất nhanh. Vì vậy nên đưa các trường nghiệp vụ phát triển NTTS về sát với các

vùng nuôi hoặc tổ chức các lớp học tại chỗ tập trung ngắn hạn tại các địa phương có

lĩnh vực NTTS phát triển mạnh để người nuôi có thể tiếp xúc vận dụng và thực tế.

Các trường này có thể mở các lớp đào tạo mới hoặc nâng cao trình độ ngắn ngày kết

hợp với khuyến ngư, tăng cường đào tạo nâng cấp thường xuyên, mở các buổi

khuyến ngư nâng cao đối với lực lượng lao động trực tiếp.

Đào tạo một đội ngủ chuyên biệt với nhiệm vụ chính là nghiên cứu thị trường

nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, xu hướng phát triển của thị trường trong

nước cũng như thế giới. Từ đó lập kế hoạch sản xuất phát triển của ngành cho phù

hợp và đáp ứng được nhu cầu thị trường.

Nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trên mọi lĩnh vực, vì

vậy việc đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho tất cả các hoạt động kinh tế không

125

riêng gì ngành thuỷ sản là nhiệm vụ mang tính bức thiết.

3.2.4.3. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế

Gia nhập vào những thị trường lớn luôn có nhiều thách thức cho việc phát

triển của các ngành kinh tế nhưng đây lại là đều kiện thuận lợi thúc đẩy bản thân

từng ngành phát triển. Trong hoạt động NTTS việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế

sẽ mở ra nhiều hướng đi mới cho ngành, thuận lợi cho việc tiếp cận với những kỹ

thuật hiện đại phục vụ nuôi trồng, nhập các trang thiết bị mới.

Tiến hành đa phương hóa các mối quan hệ và đa dạng hóa các đối tượng nuôi,

chính đều này sẽ mở rộng hơn thị xuất khẩu hàng hóa cho ngành, mang đến nhiều

cơ hội cạnh tranh với các mặt hàng của các nước khác. Sẵn sàng giao lưu trao đổi

kinh nghiệm học tập những tiến bộ của khoa học công nghệ nước ngoài du nhập vào

đây sẽ là yếu tố giúp cho bản thân ngành phát triển vượt bậc, yêu cầu phải nhanh

chóng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng phát huy lợi thế so sánh và nâng cao

nhanh khả năng cạnh tranh.

- Tăng cường hợp tác với các tổ chức của các nước trong khu vực và trên thế

giới trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực sinh sản nhân tạo một số loài thủy sản

có giá trị kinh tế cao. Hợp tác trong việc nghiên cứu di truyền, chọn giống một số

loài quý, quản lý phòng ngừa dịch bệnh.

- Tăng cường giao lưu giữa các hiệp hội giữa những người nuôi giữa các vùng

nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp trong vùng.

- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế tạo đều kiện cho việc tham gia nhiều vào

các dự án quốc tế như dự án hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản mặn lợ, để nâng

cao năng lực khuyến ngư tại địa phương, xây dựng các mô hình trình diễn tập huấn

kỹ thuật cho nông dân.

- Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế và khu

vực thông qua các chương trình, dự án cụ thể, phù hợp với mục tiêu phát triển của

ngành thuỷ sản, thực hiện tốt các hiệp định hợp tác nghề cá và chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế. Các địa phương chủ động tìm kiếm đối tác để thu hút vốn đầu tư,

công nghệ của nước ngoài nhằm tạo nguồn lực cho sự phát triển. Tích cực tìm kiếm

126

và hợp tác với nước ngoài để xuất khẩu lao động nghề cá và hợp tác nghề cá trên tất

cả các lĩnh vực.

3.2.5. Giải pháp bảo vệ môi trường nước

Môi trường nước là yếu tố quyết định sự sinh trưởng phát triển của sinh vật

thủy sinh nên việc bảo vệ môi trường nước phải được quan tâm. Việc xử lý nước

trước khi cho vào ao nuôi trồng cũng như lượng nước thải ra môi trường sẽ ảnh

hưởng đến các vùng nuôi khác, cần có ao lắng xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi

thông qua túi lọc nhằm hạn chế cá tạp vào ao nuôi; không sử dụng các loại thuốc

diệt giáp xác có nguồn gốc thuốc bảo vệ thực vật để xử lý ao nuôi. Môi trường nước

rất nhạy cảm với những tác động của các yếu tố xung quanh chính các chất thải từ

NTTS đã tác động ngược trở lại đối với sự phát triển bền vững của ngành. Những

vùng NTTS tập trung, quy mô công nghiệp rất dễ bị ảnh hưởng do chúng gây ra.

Đối với nuôi cá Tra, mặc dù mức độ ô nhiễm chưa ở diện rộng nhưng trong phạm vi

hẹp đã có sự cạnh tranh nguồn nước sạch giữa người nuôi cá với các hộ gia đình

sinh sống quanh đó vì sinh hoạt của hộ thường vẫn dựa chủ yếu vào nước ngọt ven

sông. Trong những vùng nuôi tôm do chưa đảm bảo các yếu cầu về nguồn nước cấp

thoát dẫn đến sự lan truyền bệnh tật và ô nhiễm giữa các vùng với nhau.

Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực trên chúng ta cần hạn chế sử dụng

các chế phẩm gây ô nhiễm nguồn nước, cần xây dựng hệ thống lắng lọc nước trước

khi sử dụng và thải ra môi trường, tăng cường sử dụng máy quạt, máy sụt khí trong

hệ thống ao nuôi. Bảo vệ môi trường nước chính là đảm bảo môi trường sống cho

thủy sinh vật.

127

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

 KẾT LUẬN

Trà vinh là một tỉnh ven biển của ĐBSCL có rất nhiều điều kiện thuận lợi để

phát triển nông nghiệp nói chung và đặc biệt là ngành thủy sản càng có nhiều ưu thế

phát triển hơn như: vị trí địa lý, đất đai, nguồn nước, khí hậu,...Tỉnh lại có có điều

kiện phát triển ngành NTTS ở cả 3 loại hình mặt nước mặn, lợ và ngọt. Nằm trong

khu vực được xem như là trọng điểm phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Trong

những năm qua Tỉnh đã thực hiện nhiều chính sách nhằm phát triển đưa ngành thủy

sản thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, xem nuôi trồng thủy sản là khâu đột phá

trong phát triển nông nghiệp đã đóng góp nhiều vào các chỉ tiêu kinh tế trong tiến

trình hội nhập vào kinh tế thế giới. Tiềm năng của tỉnh vẫn còn rất lớn, dựa trên

những tiềm năng và lợi thế sẵn có đã tiến hành khai thác phát triển ngành nuôi một

cách bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nuôi trồng thủy sản của tỉnh nhiều

năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể: an ninh lương thực vẫn được giữ

vững, đời sống của nhân dân nhiều vùng nuôi trồng thủy sản được cải thiện rõ rệt,

cơ sở hạ tầng dần được cải thiện. Tuy nhiên do tốc độ phát triển NTTS ở tỉnh diễn

ra quá nóng, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, trình độ canh tác chưa đủ đảm bảo cho

phát triển NTTS một cách bền vững, nên đã đối mặt với những khó khăn nhất định.

Qua quá trình tìm hiểu tôi đã hoàn thành đề tài “ Nuôi trồng thuỷ sản tỉnh

Trà vinh thực trạng và giải pháp phát triển” Đề tài đã tìm hiểu nghiên cứu những

điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành NTTS, đồng thời đã xem xét phân tích

đánh giá thực trạng phát triển, những mặt được cũng như những mặt còn hạn chế

của ngành. Thông qua những vấn đề nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp cơ bản

như quy hoạch, nguồn giống, thức ăn, vốn đầu tư,... nhằm góp phần củng cố, thúc

đẩy sự phát triển của ngành mang về giá trị sản xuất cao cho nền kinh tế.

128

 KIẾN NGHỊ

- Khẩn trương quy hoạch tổng thể thủy lợi phục vụ NTTS, tăng mức hỗ trợ

cho vùng để xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi như: thủy lợi, thủy điện, giao thông,

nhất là những vùng nuôi tập trung mới khai thác đưa vào sử dụng.

- Cần chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt là khoa học công nghệ,

đồng thời tiến hành phổ biến các tiến bộ khoa học đến với người dân thông qua các

cuộc hội thảo, khuyến ngư.

- Tăng cường bộ máy quản lý của nhà nước đến trung ương và địa phương

đối với những vùng nuôi, đã xuất hiện nhiều vùng nuôi tự phát không theo quy

hoạch và quản lý, nên các địa phương phải chú trọng hơn những vấn đề này và hỗ

trợ sự phát triển bền vững cho ngành.

- Các cơ quan chức năng cần đảm bảo ngoài nguồn giống trong tỉnh tự cấp

thì nguồn giống cho nuôi thủy sản từ ngoài khi vào nhập tỉnh phải sạch bệnh, có

năng suất cao, có khả năng thích nghi với điều kiện môi trường sống tự nhiên của

tỉnh. Hơn nữa cần xem xét đảm bảo đầu ra sản phẩm ổn định.

- Tập trung nguồn vốn từ trung ương và địa phương hỗ trợ phát triển NTTS,

đầu tư cho cơ sở hạ tầng..., đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các cấp đầu

tư.

- Đảm bảo thị trường tiêu thụ, giá cả ổn định cho người nuôi.

Đối với người nuôi phải tuân thủ lịch thời vụ, tổ chức hoạt động nuôi trồng

theo quy hoạch tránh phát triển tràn lang dẫn đến tình trạng khó kiễm soát vùng

nuôi.

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Báo cáo tham luận của Sở Nông Nghiệp – Phát triển nông thôn Trà vinh 1.

(2009). Về thực trạng và xu hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng ven

biển tỉnh Trà Vinh.

Nguyễn Duy Khoát (2003), Hỏi đáp về nuôi cá nước ngọt, Nhà xuất bản Hà 2.

Nội.

Lê Tiêu La (2009), Kinh tế - quy hoạch phát triển thủy sản, NXB nông 3.

nghiệp Hà Nội.

Dương Tấn Lộc, Hướng dẫn kỹ thuật Nuôi thuỷ đặc sản nước ngọt và phòng 4.

trị bệnh, Nhà xuất bản Thanh Niên.

Dương Tấn Lộc, Thức ăn cho thuỷ sản nuôi (tôm – cá), Nhà xuất bản Thanh 5.

Hoá.

Lê Thị Nga (2000), Giáo trình Thuỷ sinh vật học, Trường Trung học thuỷ 6.

sản IV, Nhà xuất bản Nông Nghiệp.

Nền kinh tế các tỉnh vùng biển Việt Nam, NXB Lao Động. 7.

Nghị quyết 09/2000/NQ-TTg của Chính phủ: Một số chủ trương và chính 8.

sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp

(15/06/2000), Chính Phủ.

Niên Giám thống kê 2006 – 2010 (2011), nhà xuất bản Thông tin và truyền 9.

thông.

10. Quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng ĐBSCL đến năm 2015, định

hướng đến năm 2020, Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn, Viện kinh

tes và quy hoạch thuỷ sản, tháng 4/2009.

11. Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của UBND tỉnh, về việc phê

duyệt định hướng “quy hoạch chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa sang

nuôi trồng thủy sản và trồng màu, trồng cây ăn trái trên địa bàn tỉnh đến năm

2010”.

12. Nguyễn Trung Thành – Phạm Văn Trang, Công nghệ nuôi trồng thủy đặc

sản theo hướng trang trại.

130

Lê Bá Thảo (2008), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục. 13.

Lê văn Thắng, Giáo trình kinh tế và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Trường 14.

Trung cấp thuỷ sản IV, Nhà xuất bản Nông Nghiệp.

Lê Thông(chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế xã 15.

hội Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

16. Nguyễn Văn Thường, Trần Khánh Hưng, Giáo trình kinh tế Việt Nam,

Trường Đại Học kinh tế Quốc Dân Khoa Kinh tế học.

Tổng cục thống kê Việt Nam 2000 - 2012. 17.

18. Vũ Văn Toàn (2003), Hợp phần Nuôi trồng thuỷ sản Biển và nước lợ,

DANIDA, Bộ Thuỷ Sản

19. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông, Địa lý kinh tế

đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

Trần Văn Vỹ (2005), Giáo trình thuỷ sản, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 20.

Trần Văn Vỹ, Huỳnh Thị Dung, Nuôi cá nước ngọt (Ao, hồ, ruộng, nuôi cá 21.

lồng), Nhà xuất bản Nghệ An.

22. Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Trà vinh, Báo cáo kinh tế xã hội 2007, 2008, 2009,

2010.

23. www.Agroviet.gov.vn

24. www.travinh.gov.vn

25. www.thuysanvietnam.com.vn

1

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Giá trị sản xuất theo giá thực tế phân theo ngành nông – lâm –

thủy sản.

Đơn vị: Triệu đồng

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Ngành

Tổng số 9.648.296 12.019.011 15.527.180 16.518.146 21.281.295

11.691.9 Ngành nông 6.329.854 7.903.824 12.203.662 14.975.520 85 nghiệp

104.562 131.285 195.665 195.483 196.718 Lâm nghiệp

3.213.880 3.983.902 3.665.785 4.119.001 6.109.057 Thủy sản

Nguồn: NGTK – 2010

Phụ lục 2: Sản lượng thủy sản tỉnh Trà vinh (2006 – 2010). Đơn vị: Tấn

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Ngành

58.088 68.385 70.820 72.200 77.276 Khai thác

75.980 83.349 83.627 83.423 82.777 Nuôi trồng

133.988 151.734 154.447 155.624 160.053 Tổng số

Nguồn: NGTK 2006 – 2010

0 1 0 2

2 0 , 5 6

3 , 5 2

8 6 , 9

9 0 0 2

7 0 , 6 6

9 , 0 2

2 0 , 3 1

2

i

8 0 0 2

0 , 5 6

7 , 3 2

4 3 , 1 1

%

ả G c á T : n ồ u g N

7 0 0 2

7 , 7 5

8 , 9 2

3 5 , 2 1

: ị v n ơ Đ

– 0 0 0 2 ( g n ồ r t i ô u n h n à g n g n ợ ư

6 0 0 2

9 3 , 2 6

7 7 , 1 3

4 8 , 5

. ) 0 1 0 2

l n ả s u ấ c ơ C

5 0 0 2

9 3 , 4 6

4 6 , 6 2

0 , 9

4 0 0 2

4 1 , 1 7

7 0 , 0 2

8 , 8

: 3 c ụ l ụ h P

3 0 0 2

1 , 5 6

9 , 9 1

0 , 5 1

2 0 0 2

9 3 , 7 6

1 , 3 1

1 5 , 9 1

1 0 0 2

0 , 7 6

9 3 , 5 1

1 6 , 7 1

0 0 0 2

2 4 , 2 8

6 6 , 0 1

2 9 , 6

S T

m ă N

á C

m ô T

c á h k S T

i ạ o L

3

Phụ lục 4: Sản lượng tôm nuôi phân theo huyện của tỉnh Trà vinh (2006 –

2010). Đơn vị: tấn

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Huyện/Thị

42 45 44 14 43 Tp. Trà Vinh

172 215 180 156 115 Càng Long

1.016 1.267 1.297 1.041 1.207 Châu Thành

1 - - - 1 Cầu kè

194 - 1 - 75 Tiểu Cần

9.706 8.106 8.337 10.773 7.050 Cầu Ngang

885 430 404 421 1.010 Trà Cú

11.627 11.763 9.696 7.436 8.372 Duyên Hải

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên Giám thống kê 2010)

Phụ lục 5: Sản lượng cá nuôi phân theo huyện của tỉnh Trà vinh (2006 –

2010). Đơn vị: tấn.

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Huyện/Thị

914 2.382 4.274 4.800 920 Tp. Trà Vinh

7.177 9.375 9.071 7.873 8.052 Càng Long

5751 8.932 10.101 11.016 7.120 Châu Thành

8.115 12.166 8.025 9.316 9.397 Cầu kè

13.510 12.323 14.418 14.415 12.260 Tiểu Cần

4016 2.407 2.413 1.982 3.984 Cầu Ngang

2.508 2.690 4.275 3.077 3.436 Trà Cú

7.281 1.979 2.540 3.500 985 Duyên Hải

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thông kê 2006 – 2010)

Hình 1: Một ao tôm chuẩn bị cho mùa vụ 2012

Hình 2: Nuôi cua biển xen canh trên đất rừng-tôm, xã Quãng Đông, Duyên Hải. (Nguồn Báo Trà Vinh)

4

Phụ lục 6: Một số hình ảnh về nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh

Hình 3: Thu hoạch tôm sú tại xã Mỹ Long Nam

Hình 4: Đầm nuôi tôm tại Hiệp Mỹ Tây, Cầu Ngang. (Nguồn: Agroviet.gov.vn)

(Nguồn: Báo Nhân Dân)

Hình 6: Chăm sóc cá tra theo mô hình GAP. (Nguồn: TTXVN)

Hình 5: Rừng ngập mặn Duyên Hải trên đất tôm – cua. (Nguồn: travinh.gov.vn)

5

Hình 6: Hệ thống giao thông ở vùng nuôi thủy sản tỉnh Trà Vinh

(Ảnh: Đình Huệ/TTXVN)

Hình 7: Nuôi tôm sú theo hình thức thâm canh mô hình GAP ở Mỹ Long

Nam, Cầu Ngang, Trà Vinh.( Ảnh: Huy Hoàng)

6

Hình 8: Sản phẩm tôm đã qua sơ chế tại cơ sở sản xuất thuỷ sản Long Toàn.(Nguồn Báo Thuỷ Sản)