BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Nương
NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN TỈNH TRÀ VINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Võ Thị Nương
NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN TỈNH TRÀ VINH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành Mã số
: Địa lý học (trừ ĐLTN) : 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu,
biểu đồ, hình ảnh và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa được
ai công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2012
Võ Thị Nương
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp, tôi xin chân thành
cám ơn:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Sư Phạm TP HCM, cùng các thầy cô,
cán bộ trong khoa Sư Phạm và phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn
thành khóa học.
Trân trọng bày tỏ sự biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Bích Hà đã
tận tình giúp đỡ, cố vấn và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận
văn tốt nghiệp.
Cán bộ UBND tỉnh Trà Vinh, Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn,
các hộ nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Trà vinh đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập
số liệu và cung cấp số liệu, tư liệu.
Các anh chị học viên lớp Địa Lý Học K21 ủng hộ và nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập. Gia đình đã không ngừng động viên, khuyến khích
tôi trong suốt quá trình học tập.
Võ Thị Nương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục hình ảnh
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN ........................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm về nuôi trồng thủy sản ................................................................... 7
1.2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản .............................................................. 8
1.2.1. Nuôi trồng thủy sản có tính thời vụ cao ................................................. 8
1.2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất quan trọng nhất ......................................... 9
1.2.3. Đối tượng hoạt động là các sinh vật thuỷ sinh ..................................... 14
1.2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có tính liên ngành cao đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn,
độ rủi ro cao ......................................................................................................... 15
1.2.5. Trong nền kinh tế hiện đại, khai thác và nuôi trồng thủy sản nước ta
đang dần trở thành ngành sản xuất hàng hóa ....................................................... 16
1.3. Vai trò của ngành nuôi trồng thủy sản .......................................................... 16
1.3.1. Duy trì, tái tạo các nguồn lợi thuỷ sản .................................................. 16
1.3.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản ................... 17
1.3.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập ................................................... 18
1.3.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội ....................................... 19
1.3.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp .................................... 21
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản ...................................... 22
1.4.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 22
1.4.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................. 22
1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội .................................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH
TRÀ VINH .......................................................................................................... 35
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh ............. 35
2.1.1. Vị trí địa lý ........................................................................................... 35
2.1.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................. 39
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ..................................................................... 52
2.2. Thực trạng hoạt động nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà vinh ........................ 67
2.2.1. Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ ........................................................ 67
2.2.2. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt ............................................................. 75
2.3. Thực trạng về sản lượng, năng suất nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh . 79
2.3.1. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trong cơ cấu ngành nông – lâm – ngư
nghiệp ................................................................................................................... 79
2.3.2. Sản lượng ............................................................................................. 81
2.4. Thực trạng về nguồn lao động nuôi trồng thủy sản ...................................... 93
2.5. Thực trạng về các yếu tố hỗ trợ phát triển nuôi trồng thuỷ sản .................... 95
2.5.1. Sản xuất giống ...................................................................................... 95
2.5.2. Thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản ..................................... 99
2.5.3. Công tác khuyến ngư và chuyển giao công nghệ ............................... 100
2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản ...................................... 102
2.6.1. Thị trường nội địa ............................................................................... 102
2.6.2. Thị trường xuất khẩu .......................................................................... 103
2.7. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động nuôi trồng thủy sản ................. 104
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH ......................................... 108
3.1. Định hướng về phát triển nuôi trồng thuỷ sản ............................................ 108
3.2. Các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Trà Vinh ... 113
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ............................................................................. 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 129
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu long.
BCHTWĐ : Ban chấp hành trung ương Đảng.
CHXHCN : Công hoà xã hội chủ nghĩa
HTTL : Hệ thống thuỷ lợi.
HTX : Hợp tác xã.
KHCN : Khoa học công nghệ.
NTTS : Nuôi trồng thuỷ sản.
NN – PTNT : Nông nghiệp phát triển nông thôn.
UBND : Uỷ ban nhân dân.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 : Nhu cầu thủy sản trên thế giới đến năm 2010 .............................. 20
Bảng 1.2 : Phân bố nguồn nước mặt ở Việt Nam .......................................... 29
Bảng 2.1 : Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Trà Vinh năm 2010 ................... 48
Bảng 2.2 : Dân số trung bình phân theo thành thị và nông thôn ở tỉnh Trà
Vinh. ............................................................................................. 54
Bảng 2.3 : Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. ................................... 56
Bảng 2.4 : Số học sinh ở các cấp học của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010) ....... 59
Bảng 2.5 : Số giáo viên ở các cấp học( 2006 – 2010) ................................... 60
Bảng 2.6 : Diện tích mặt nước NTTS mặn, lợ tỉnh Trà Vinh ( 2006 – 2010)68
Bảng 2.7 : Diện tích khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS mặn, lợ của
tỉnh Trà Vinh ( 2008-2020) .......................................................... 70
Bảng 2.8 : Diện tích mặt nước NTTS nước ngọt tỉnh Trà Vinh (2006 -2010)76
Bảng 2.9 : Diện tích khai thác mới và chuyển sang NTTS nước ngọt tỉnh Trà
Vinh (2008 – 2020). ..................................................................... 77
Bảng 2.10 : Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản theo giá trị thực tế phân theo
ngành hoạt động (2006 – 2010) ................................................... 80
Bảng 2.11 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng phân theo loại thủy sản của tỉnh
Trà Vinh (2006 – 2010) ............................................................... 86
Bảng 2.12 : Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phân theo huyện (2006 – 2010) .. 88
Bảng 2.13 : Năng suất một số đối tượng mặn lợ (2006 -2010) ....................... 91
Bảng 2.14 : Số lao động làm việc trong khu vực 1 ......................................... 93
Bảng 2.15 : Nhu cầu về con giống trong việc phục vụ quy hoạch NTTS của
tỉnh Trà Vinh ................................................................................ 96
Bảng 2.16 : Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh Trà Vinh giai
đoạn 2006 – 2010 ....................................................................... 103
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Thể hiện nhiệt độ và lượng mưa của tỉnh Trà vinh năm 2010 ..... 43
Biểu đồ 2.2: Thể hiện dân số trung bình phân theo giới tính của tỉnh Trà Vinh
(2006 – 2010) ............................................................................... 53
Biểu đồ 2.3: Thể hiện số học sinh phổ thông của tỉnh Trà Vinh (2006-2010). 57
Biểu đồ 2.4: Thể hiện diễn biến diện tích nuôi tôm sú giai đoạn (2007 - ........ 71
Biểu đồ 2.5: Sản lượng khai thác và nuôi trồng của tỉnh Trà Vinh
(2006 – 2010) ............................................................................... 82
Biểu đồ 2.6: Thể hiện cơ cấu sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh 2006 –
2010 .............................................................................................. 87
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010 ........................................ 36
Hình 2.4: Thể hiện sự phân bố sản lượng thuỷ sản ở các huyện năm 2010......... 84
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đòi hỏi mỗi ngành, mỗi lĩnh
vực, mỗi quốc gia không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, phát huy lợi
thế so sánh để tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực. Việt Nam
không nằm ngoài xu hướng phát triển đó, cánh cửa WTO ngày càng mở rộng hơn
cho Việt Nam khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức này. Việt Nam
vốn là một nước nông nghiệp với khoảng 3/4 dân số sống bằng nghề nông, nông
nghiệp là một thế mạnh của nền kinh tế nước ta phải được chú trọng đầu tư khai
thác hợp lý. Trong ngành nông nghiệp thì ngành nuôi trồng thủy sản được coi là
ngành mang lại nhiều lợi ít kinh tế nhất. Ngành nuôi trồng thủy sản của nước ta
trong những năm gần đây đã có sự phát triển vượt bậc. Hiện nay, nước ta đã trở
thành nước xuất khẩu thủy sản đứng thứ 6 thế giới, đứng thứ 3 thế giới về sản lượng
thủy sản nuôi trồng (sau Trung Quốc và Ấn Độ) và đứng thứ 13 thế giới về sản
lượng khai thác hải sản.
Trà Vinh là một tỉnh ven biển của Đồng bằng sông Cửu long có 65km đường bờ
biển, với nhiều lợi thế để phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng
thủy sản của Trà Vinh đã đem lại những giá trị kinh tế không nhỏ cho tỉnh nhà như:
góp phần giải quyết được công ăn, việc làm cho lao động của tỉnh, đóng góp giá trị
xuất khẩu ngày càng cao. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp
hành trung ương Đảng (BCHTWĐ) khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, tỉnh tập trung phát triển lĩnh vực thủy sản ngày càng vững mạnh và ngành
nuôi trồng thủy sản còn được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ðể ngành
thủy sản thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, việc quy hoạch, đầu tư
để khai thác tốt những vùng đất có tiềm năng vào nuôi trồng thủy sản là cần thiết.
Trà Vinh đã nhanh chóng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi sang nuôi
trồng thủy sản cho những vùng đã quy hoạch.
Nhưng cũng như các ngành kinh tế khác ngành nuôi trồng thủy sản Trà Vinh
đang gặp không ít những khó khăn, trong thực tế phát triển. Vì vậy, nghiên cứu hiện
2
trạng ngành nuôi trồng thủy sản Trà Vinh từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát
huy tối đa lợi thế của tỉnh là rất cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó tôi đã lựa chọn để tài: “Nuôi trồng thuỷ sản
Trà Vinh thực trạng và giải pháp phát triển”. Với hy vọng thông qua vấn đề
nghiên cứu có thể đóng góp được phần nào vào việc phát triển kinh tế thủy sản nói
riêng và kinh tế xã hội của tỉnh nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thủy sản và những vấn đề liên quan đến nuôi trồng thủy sản đã được đề
cập và nghiên cứu ở rất nhiều tài liệu chuyên sâu.
Những tài liệu chuyên sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ngành
thủy sản bao gồm các tài liệu nghiên cứu về nguồn lợi thủy sản của nước ta như
“Nguồn lợi cá biển – Cơ sở của nghề cá biển Việt Nam” của Bùi Đình Chung, Chu
Tiến Vĩnh, Nguyễn Hữu Đức; “Cá biển Việt Nam” của Nguyễn Nhật Thi; các tài
liệu về nghề cá Việt Nam như “Tình hình nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển
nước ta” (Nguyễn Điền), “Xu thế phát triển nuôi trồng thủy sản thế giới và Việt
Nam - Những vấn đề cần quan tâm” (Lê Thanh Lựu), “Một số vấn đề phát triển bền
vững đối với ngành thủy sản” (Nguyễn Chu Hồi), Tạp chí thủy sản, Tuyển tập các
công trình nghiên cứu nghề cá biển của Bộ Thủy sản... Đặc biệt là “Giáo trình kinh
tế thủy sản” (Vũ Đình Thắng, Nguyễn Viết Trung) và “Giáo trình thủy sản” (Trần
Văn Sỹ) là những nghiên cứu sâu sắc và khá đầy đủ về ngành thủy sản dưới góc độ
chuyên sâu về ngành thủy sản và kinh tế thủy sản, là tài liệu chuyên ngành của các
trường Thủy sản.
Dưới góc độ Địa lý học, thủy sản và những vấn đề liên quan đến nuôi trồng
thủy sản cũng đã được đề cập một phần như trong “Tài nguyên biển Đông Việt
Nam” (Phùng Ngọc Đĩnh), “Địa lý Kinh tế - xã hội Việt Nam” (Lê Thông chủ
biên), “Giáo trình Địa lý Kinh tế - xã hội Việt Nam” (Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị
Minh Đức) được trình bày là một bộ phận của ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng ở
mức độ khái quát cao.
3
3. Mục tiêu, nhiêm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
- Vận dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn về NTTS.
- Đề tài tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng phát triển
NTTS của tỉnh Trà Vinh. Trên cơ sở đó, kiến nghị định hướng và các giải pháp
nhằm khắc phục những khó khăn trong phát triển NTTS của tỉnh, góp phần khai
thác tốt các tiềm năng, mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về NTTS áp dụng vào
lãnh thổ nghiên cứu.
- Phân tích đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến NTTS tỉnh Trà Vinh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng NTTS của tỉnh.
- Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp cho phát triển NTTS
của tỉnh Trà Vinh.
4. Phạm vi và giới hạn của đề tài
- Về lãnh thổ: đề tài chọn tỉnh Trà Vinh
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh.
- Về thời gian: tháng 1/2006 đến 12/2011.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu:
5.1.1. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Sự phát triển của ngành NTTS trong quá khứ, đã ảnh hưởng đến hiện tại và
tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề NTTS trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại
- tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo
tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, khi
xem xét hay đánh giá cần đứng trên quan điểm lịch sử. Quan điểm này đòi hỏi phải
4
có sự nhìn nhận quá khứ để lý giải ở mức độ nhất định cho hiện tại và dự báo cho
tương lai.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Dựa vào quan điểm này để thấy được bức tranh toàn cảnh của cả đối tượng
nghiên cứu và các yếu tố xung quanh, thấy rõ mối quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau giữa chúng. Thông qua quan điểm tổng hợp lãnh thổ, nét đặc trưng tiêu biểu
của đối tượng nghiên cứu cũng được nêu bật, giúp ta phân biệt, nhận biết được đối
tượng so với các yếu tố khác. Đặc biệt, khi nghiên cứu sự khác biệt về mặt tự nhiên
sẽ phát hiện ra mối quan hệ hữu cơ trong tổng thể, phát hiện các đặc trưng quan
trọng nhất, chuẩn bị cho việc quy hoạch, thiết kế không gian sản xuất và sinh sống
trong các hoạt động của lãnh thổ với một cấu trúc hợp lý nhất.
5.1.3. Quan điểm hệ thống
Quan điểm này được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Thủy sản
là một bộ phận của ngành Nông nghiệp và cả nền kinh tế chung, nó có mối quan hệ
với nhiều ngành khoa học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó
với nhau. Vì thế, khi nghiên cứu chúng ta phải đặt vấn đề trong mối quan hệ tương
hỗ, tác động qua lại của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy, phải
coi vấn đề NTTS và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế - xã
hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.
5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững cho hôm nay và cho cả những thế hệ tương lai là yêu cầu
bức thiết của mọi quốc gia và lãnh thổ hiện nay. Nghiên cứu sự phát triển của NTTS
ở hiện tại và đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai. Quán triệt quan điểm
phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự bền vững cả về 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi
trường.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề phải có sự vận dụng các quan điểm trên
một cách tổng hợp. Trên nền chung vận dụng một cách tổng hợp, phụ thuộc vào nội
dung thời gian, địa điểm nghiên cứu thì từng quan điểm sẽ được chú ý nhiều hơn.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là một trong phương pháp quan trọng nhất trong quá trình tiến hành
nghiên cứu một vấn đề khoa học, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp
một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều hiệu quả. Vì dựa trên việc phân tích tài liệu
đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu.
Từ đó, chúng ta rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất nhằm đáp
ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.
5.2.2. Phương pháp thu thập- xử lý tài liệu
Đây là phương pháp được áp dụng đầu tiên trong quá trình làm đề tài, thu
thập, thanh lọc những tài liệu theo nội dung, yêu cầu cần tìm hiểu, sắp xếp theo từng
đề mục, so sánh, đối chiếu các tài liệu và chọn lọc, xử lý, nhằm tạo nên tính rõ ràng
mạch lạc trong nghiên cứu khoa học. tài liệu thu thập được rất đa dạng và phong
phú, có rất nhiều dạng như: văn bản, số liệu thống kê, các bản đồ, ảnh hàng không
và ảnh viễn thám,… Phương pháp này rất cần thiết trong quá trình nghiên cứu khoa
học.
5.2.3. Phương pháp thống kê
Sau khi thu thập được nhiều dữ liệu chúng ta sẽ tiến hành thống kê theo từng đề
mục, nội dung cần nghiên cứu. Đây là phương pháp không thể thiếu được trong quá
trình nghiên cứu, có rất nhiều đối tượng liên quan trong bài nghiên cứu, phải được
thống kê theo từng đơn vị rõ ràng, mạch lạc theo từng đối tượng, từng giai đoạn và
thời kỳ. Phương pháp này giúp hiểu rõ hơn về bản chất của từng đối tượng.
5.2.4. Phương pháp dự báo
Phương pháp này cũng rất cần trong quá trình nghiên cứu vấn đề khi nắm được
tình hình thực tế trong quá trình phát triển của vấn đề nghiên cứu chúng ta có thể dự
báo những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai đồng thời đưa ra những phương hướng,
giải pháp phát triển bền vững cho vấn đề.
6
5.2.5. Phương pháp bảng biểu, bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí, bởi vì mọi nghiên cứu
thuộc lĩnh vực địa lý kinh tế - xã hội đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản
đồ. Ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết nhiều nội dung nghiên cứu như
đánh giá các nguồn lực, phân tích hiện trạng theo ngành và theo lãnh thổ. Sử dụng
phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn
diện hơn. Ngày nay, phương pháp bản đồ ngày càng được hoàn thiện và đem lại
hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thông tin địa lý (GIS).
Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số
liệu và biểu đồ.
5.2.6. Phương pháp khảo xác thực địa
Đây là phương pháp cần thiết để đề tài nghiên cứu mang tính thực tế và khả
thi. Khi trực tiếp khảo xác thực tế địa phượng tiếp cận với vấn đề nghiên cứu, sẽ
cho chúng ta có cách nhìn chính xác, rõ ràng hơn về vấn đề.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nuôi trồng thuỷ sản.
Chương 2: Thực trạng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Trà Vinh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn
tỉnh Trà Vinh.
7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1.1. Khái niệm về nuôi trồng thủy sản
Ngành thủy sản có từ rất lâu đời gắn liền với quá trình phát triển lâu dài của văn
hóa, lịch sử con người Việt Nam với những hoạt động trên bến dưới thuyền, quăng
chài thả cá... lúc này chúng ta chỉ chú ý đến đánh bắt thủy sản là chính trong hoạt
động thủy sản, ngành NTTS ít được chú ý đến do con người chưa ý thức được việc
tái tạo nguồn lợi thủy sản và đảm bảo sự phát triển của các loại thủy sản, nhưng
hiện nay do nhiều yếu tố mà các nguồn lợi thủy sản tự nhiên ngày càng cạn kiệt hạn
chế sự phát triển của ngành đánh bắt thủy sản tạo điều kiện cho ngành NTTS ngày
một có vị thế quan trọng hơn.
Trước tình hình sản lượng thủy sản khai thác toàn cầu đang sụt giảm trong khi
dân số ngày càng bùng nổ thì nuôi trồng thủy sản được cho là có tiềm năng lớn nhất
trong tương lai và có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản
phẩm có chất lượng và an toàn.
Theo Điều 2 của Luật Thủy Sản được Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa
XI thông qua: “Hoạt động thủy sản là việc tiến hành khai thác nuôi trồng vận
chuyển, chế biến, bảo quản chế biến mua bán xuất nhập khẩu thủy sản trong hoạt
động dịch vụ trong hoạt động thủy sản.”
Ngành thủy sản được phân thành hai bộ phận chính là đánh bắt thủy sản và nuôi
trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản là một bộ phận của ngành thủy sản đã góp phần
tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. NTTS nhằm mục đích cung cấp
sản phẩm cho tiêu dùng của dân cư và cung cấp nguyên liệu cho hoạt động chế biến
thủy sản xuất khẩu.
NTTS là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh trong điều kiện kiểm soát
hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường nói, NTTS là sản xuất nông
nghiệp trong môi trường nước. Vì vậy, từng vùng sinh thái môi trường nước thì
ngành nuôi trồng thuỷ sản đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước mặn,
nước lợ và nước ngọt.
8
NTTS là một khái niệm dùng để chỉ hai hoạt động "nuôi" và "trồng" động thực
vật thủy sinh ở các môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Các loài thủy sản, gồm nuôi các
loài động vật như cá, tôm, cua, ếch và trồng các loại thực vật như rong câu chỉ vàng,
rong sụn, nhuyễn thể…
Qua các tài liệu nghiên cứu có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về NTTS.
- Theo quan điểm của FAO: NTTS là hoạt động canh tác trên đối tượng sinh
vật thủy sinh như: giáp xác, sinh vật thủy sinh, nhuyễn thể… quá trình này bắt đầu
từ khi thả giống chăm sóc đến khi thu hoạch.
- Theo quan điểm của các nhà sinh học: NTTS là hoạt động tạo ra các điều
kiện sinh thái phù hợp với sự trưởng thành và phát triển của các loại thủy sản để
thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của dòng đời.
- Theo giáo trình kinh tế thủy sản: NTTS là một bộ phận sản xuất nông
nghiệp nhằm duy trì bổ sung tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản tạo ra các sản
phẩm phục vụ nhu cầu của con người và góp phần vào việc xuất khẩu. Hoạt động
nuôi trồng diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước với nhiều chủng loại khác nhau,
bên cạnh đó sự phát triển của KHKT phục vụ cho phát triển NTTS.
Tóm lại, NTTS là hoạt động sản xuất gắn liền với động vật thủy sinh và môi
trường thủy vực đồng thời chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên.
1.2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản
1.2.1. Nuôi trồng thủy sản có tính thời vụ cao
Đối tượng hoạt động của ngành NTTS là những cơ thể sống nên có những qui
luật sinh trưởng và phát triển nhất định, chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên.
Vì vậy, chúng có thời gian hoạt động sản xuất nhất định, con người chỉ tác động vào
những giai đoạn nhất định. Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào
như lao động, thức ăn, khâu chăm sóc, mà còn cả ở khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ
và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Động vật thủy sinh có quy luật sinh trưởng riêng nên dẫn tới trong hoạt động
NTTS có tính thời vụ rõ rệt. Đây cũng là một nét đặc thù điển hình nhất của sản
xuất nông nghiệp nói chung. Theo Lênin thì tính thời vụ thể hiện ở chỗ thời gian lao
9
động không ăn khớp với thoài gian sản xuất vậy nên người lao động luôn tuân theo
những quy luật riêng đó. Tính thời vụ trong NTTS dẫn đến tình trạng người lao
động có lúc rất bận rộn có những lúc lại nhàn rỗi, do thời gian sản xuất bao giờ
cũng dài hơn thời gian lao động. Trước mỗi mùa vụ, để khắc phục được tính thời vụ
cần có kế hoạch sản xuất cụ thể cho mùa vụ và cho các mùa vụ trong năm và thực
hiện theo lịch mùa vụ. Tính thời vụ ở đây có thể xem xét ở góc độ thời vụ trong sản
xuất và thời vụ trong sinh trưởng phát triển của sinh vật. Thời gian lao động là
khoảng thời gian mà lao động có tác động trực tiếp với việc hình thành sản phẩm,
còn thời gian sản xuất được coi là thời gian sản phẩm đang trong quá trình sản xuất.
Quá tình sinh học của cây trồng, vật nuôi diễn ra thông qua hàng loạt các giai đoạn
kế tiếp nhau: giai đoạn này là sự tiếp tục của giai đoạn trước và tạo tiền đề cần thiết
cho giai đoạn sau. Chính vì vậy, sự tác động của con người vào các giai đoạn sinh
trưởng của chúng là hoàn toàn không phải như nhau. Thời gian sinh trưởng và phát
triển của sinh vật thủy sinh và thời gian lao động không trùng khớp. Đặc điểm này
đòi hỏi trong NTTS phải tôn trọng tính thời vụ một mặt phải giảm bớt tính thời vụ
tạo ra những giống cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn để sản xuất nhiều mùa
vụ trong năm, đem lại năng suất, sản lượng lớn trong năm.
Thực hiện các giải pháp để hạn chế tính thời vụ như: thực hiện cơ giới hóa
những khâu canh tác tốn nhiều lao động thủ công, tùy theo điều kiện cụ thể từng nơi
thực hiện tốt việc chuyển đổi mùa vụ, xen canh, tăng vụ, gối vụ.
1.2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất quan trọng nhất
Môi trường nước là một phần của môi trường sống trong tự nhiên có diện tích
lớn nhất chếm 70% diện tích trái đất. Môi trường nước không chỉ rộng lớn mà còn
có nhiều đặc tính thuận lợi cho sự sống của thủy sinh vật.
Toàn bộ đời sống của thủy sinh vật đều gắn với nước và riêng đối với từng loại
thủy vực có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của thủy sinh vật. Ngành NTTS
thì thủy vực là TLSX quan trọng không thể thiếu, tất cả các loài thực vật thủy sinh
đều sinh trưởng phát triển và tồn tại trong môi trường nước. NTTS luôn cần đến
một diện tích mặt nước đủ để tiến hành nuôi trồng, ngành luôn gắn liền với diện tích
10
thủy vực. Thủy vực luôn được các nhà nuôi trồng đặc biệt chú ý từ khâu khai thác
đến khâu bảo vệ môi trường sống của sinh vật thủy sinh.
Yếu tố thủy vực được tận dụng từ khâu khai thác đến bảo vệ môi trượng thủy
vực. Thủy vực được xem là TLSX quan trọng nhất nên cần phải chú ý đến các yếu
tố lý – hóa – sinh học của thủy vực, đây được xem là yếu tố hàng đầu đảm bảo sự
sinh trưởng của vật nuôi thủy sản.
Các yếu tố lý – hóa học của thủy vực:
Nhiệt độ của nước:
Nhiệt độ ao hồ thường phụ thuộc vào nhiệt độ không khí nhưng mức độ biến
thiên chậm hơn nhiệt độ không khí. Nhiệt độ trong nước thường ổn định hơn nhiệt
độ trên cạn, về mùa lạnh thì nhiệt độ trong ao hồ càng dưới sâu càng ấm, còn về
mùa nóng nước càng ở dưới sâu càng mát hơn tầng mặt.
- Chế độ nhiệt trong thủy vực biến đổi theo ba nhân tố: vĩ độ, mùa vụ và độ sâu.
Theo từng vùng vĩ độ thì nhiệt độ trung bình năm của nước trong hải dương giảm
dần từ xích đạo về vùng cực. Ngoài ra nhiệt độ thủy vực còn phụ thuộc từng loại
thủy vực, từng vùng địa lý khác nhau, độ cao so với mặt biển và các lớp nước sâu
khác của thủy vực. Nhiệt độ nước ở bề mặt đại dương ở những vùng nhiệt đới có biên độ nhiệt dao động theo mùa vụ chỉ trong khoảng 3 – 4oC, vùng cận cực 8 – 12oC, vùng cực 2 – 3oC. Ở các thủy vực nội địa quy luật biến đổi nhiệt độ nước theo
mùa phức tạp. Thủy vực ôn đới có chế độ nước bề mặt dao động trong khoảng 20 – 25 oC. Biên độ thay đổi ở các hồ lớn, các thủy vực vùng cận nhiệt đới theo hướng
giảm thấp đi còn ở các thủy vực nông thì nhiệt độ nước theo mùa phụ thuộc rất
nhiều vào biên độ nhiệt không khí theo mùa. Nhiệt độ thủy vực còn giảm dần từ mặt xuống đáy, thủy vực ở vùng cực và vùng ôn đới tầng mặt đông ở 0oC nhưng tầng đáy không đông ở 4oC.
Nhiệt độ môi trường nước thích hợp cho hầu hết các loài thủy sản phát triển từ 20 – 30oC, nếu nhiệt độ thấp dưới 15oC giảm quá trình tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng, một số loài có xuất xứ nóng có thể chết đi khi nhiệt độ giảm 12oC. Các loài thủy sinh vật sẽ chết ở ngưỡng 39oC. Nhiệt độ không khí biến động lớn ngày đêm
11
theo mùa, nếu vùng nước nuôi thủy sản bị cạn thì nhiệt độ khô nước bằng nhiệt độ không khí. Khi nhiệt độ nước thay đổi đột ngột 3 - 4 oC có thể làm tôm cá chết.
Đối với môi trường mặn lợ thì nhiệt độ thích hợp từ 28 – 32oC. Nhiệt độ nước
trong NTTS luôn được quan tâm nghiên cứu nhằm xác định được vùng nuôi có
nhiệt độ thích hợp.
Nhiệt độ của thủy vực đối với thủy sinh vật rất lớn có tính quyết định đối với đời
sống thủy sinh vật. Nhiệt độ nước ảnh hưởng đến trao đổi chất thồn qua ảnh hưởng
đến các men, chế độ nhiệt ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của thủy sinh
vật, cùng với nồng độ muối và chế độ nhiệt quyết định sự phân bố theo vĩ độ theo
thủy vực của thủy sinh vật. Nhiệt độ ảnh hưởng đến dinh dưỡng và hô hấp của thủy
sinh vật.
Độ trong suốt và độ vẫn đục:
Độ trong có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của thủy sinh vật, khi thủy sinh
vật sống trong nước đục khả năng quan sát kiếm thức ăn của tôm, cá. Nước đục hạn
chế ánh sáng mặt trời vào ao, quang hợp của thực vật phù du giảm nhiêm trọng mà
thực vật phù du là nhóm quan trọng vào bậc nhất của một vực nước nhờ quá trình
quang hợp của chúng tạo ra chất hữu cơ cho vực nước. Nếu nước quá trong ánh
sáng xâm nhập sâu vào lòng nước nhưng trong nước không có thực vật phù du thì
năng lượng mặt trời bị bỏ phía không có ý nghĩa. Vì vậy cần xác định độ trong của
nước sau cho cân đối cả hai yếu tố, vừa cần có ánh sáng đi sâu vào trong nước, vừa
có thực vật phù du để sử dụng năng lượng.
Trong ao nuôi cá thông thường mật độ phù du thường khá lớn trên 2 triệu cá
thể/lít, độ trong nước ao thường thấp 10 – 40cm. Ở thủy vực tự nhiên trên sông, hồ
tự nhiên, hồ chứa nước nhân tạo có mật độ phù du rất thấp dưới 1 triệu cá thể/lít.
Nếu nước không bị đục bởi keo đất, phù sa thì độ trong suốt rất lớn 100cm.
Thích hợp cho thủy sản là 20 – 30cm, màu thích hợp cho nuôi thủy sản là màu
xanh nõn lá chuối non.
Ánh sáng: Nguồn cung cấp chủ yếu là mặt trời, ngoài ra còn phải kể đến
nguồn ánh sáng sinh vật từ các loài thủy sinh vật tự phát sáng như: một số loài cá,
12
giáp xác, tảo… Ánh sáng một phần bị phản xạ ở trên mặt nước, một phần bị tán xạ
trong tầng nước còn phần lớn sẽ được hấp thu trong nước. khi tia sáng đi vào trong
nước phân bố không đều, phụ thuộc vào độ dài và độ trong của nước. Độ sâu ít ánh
sáng đi vào trong nước khoảng 1500 – 1700m, vùng sâu dưới 1700m luôn luôn
không có ánh sáng.
Tác động của ánh sáng đến thủy vực là rất quan trọng, ánh sáng ảnh hưởng đến
sự di động và phân bố của thủy sinh vật theo độ sâu. Sự chiếu sáng ngày và đêm
cũng ảnh hưởng đến việc di động ngày và đêm của thủy sinh vật. Ánh sáng giúp cho
động vật ở nước định hướng di động nhờ định tính tính về quang hướng động thúc
đẩy quá trình sinh hóa trong đời sống cá thể, đặc biệt trong quá trình tạo vitamin.
Ánh sáng ảnh hưởng nhất định đến quá trình sinh sản, lối sinh sản và chu kỳ sinh
sản.
Điều đó cho thấy ánh sáng thủy vực có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
của thủy sinh vật. Đối với nước tinh khiết chỉ có 53% cường độ ánh sáng biến thành
nhiệt và bị triệt tiêu khi qua mét nước đầu tiên của cột nước. Nước thiên nhiên chứa
nhiều tạp chất ngăn cản ánh sáng xâm nhập vào mặt nước. Theo Boyd thì tầng ánh
sáng thường gấp đôi độ trong của nước đo bằng đĩa Secchi. Ánh sáng còn lệ thuộc
vào cây có bên trên nước, nơi thiếu ánh sáng thủy sinh vật chậm phát triển.
PH: Lượng PH trong thủy vực cần cho các loại thủy sản phát triển thích hợp
từ 6,5 – 8,5 thích hợp nhất 7,3 – 8,3. PH trên 9 và dưới 6,5 một số đối tượng thủy
sản vẫn sống được nhưng phát triển chậm. PH còn ảnh hưởng đến hô hấp của thủy
sinh vật, PH của nước phụ thuộc vào PH của đất, lượng hữu cơ có ở đáy ao, quang
hợp của thực vật thủy sinh, nhiệt độ, hoạt động của vi sinh vật, tác động của con
người.
Hàm lượng Oxy trong nước: Đối với bất kỳ loài sinh vật nào trên trái đất này
không thể sống mà không cần đến không khí. Các loài thủy sản trong nước đều cần
có oxy từ 3 – 8mg/l để phát triển bình thường. Song có một số loài có cơ quan hô
hấp phụ thở được khí trời, nên có thể sống được ở môi trường có khí thấp. Oxy
trong nước hào tan trong nước chỉ chếm 3,4 % thể tích, còn trong khí quyển nó
13
chếm đến 20,98%. Nguồn oxy cung cấp chính trong ao là do hoạt động quang hợp
của thực vật thủy sinh, tuy nhiên lượng oxy trong nước có ít hơn 20 lần so với trên
mặt đất.
- Ở tầng mặt từ 0 – 0,5m hàm lượng oxy hòa tan ổn định từ 7,5 – 8,5 mg/l. Càng
xuống sâu hàm lượng oxy càng giảm. Các thủy vực tự nhiên thường oxy cao nhất
lúc 14 – 18h chiều và thấp nhất từ 2 – 8h sáng, cụ thể là ở điều kiện ao bình thường
hàm lượng oxy cao nhất trong nước thường đạt 8-11mg/l vào lúc 15-17 giờ và thấp
nhất là 0,8-1,28mg/l vào lúc 1-7 giờ sáng. Lượng Oxy hòa tan vào nước do gió, do
nước xáo động, do quang hợp của thực vật thủy sinh, ban ngày tăng oxy cho ao ban
đêm hấp thụ oxy của ao do đáy ao dơ, có nhiều chất H2S, NH3… tiêu thụ oxy làm
thiếu oxy ở ao.
Đối với môi trường thủy vực thì yếu tố oxy có vị trí cực kỳ quan trong trong
NTTS là yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của thủy sinh vật.
Nồng độ CO2 trong nước: Khí CO2 có hại cho sự hô hấp của cá, hàm lượng
CO2 trong nước cao sẽ làm cá ngạt thở. Nồng độ CO2 cho phép trong ao nuôi thủy
sản từ 10 – 30mg/l có nhiều ở trong nước bất lợi cho phát triển thủy sản. Ao có
nhiều bùn dầy quá 20cm, nhiều chất dơ tiêu thụ oxy phóng thích CO2. Ngoài ra do
quá trình hô hấp của thủy sinh vật và do quá trình phân giải chất hữu cơ trong nước.
Sự biến động hàm lượng CO2 trong nước biến thiên hoàn toàn ngược lại vơi hàm
lượng oxy trong nước. Ở tầng mặt hàm lượng CO2 thấp và tầng đáy ao có hàm
lượng CO2 cao.
Độ cứng của thủy vực: có mặt Canxi và Magie trong vực nước độ cứng của
nước thường được xác định bằng hàm lượng CaCO3 (mg) hoặc theo độ Đức kí hiệu oH; 1 oH=18mg CaCO3.
Độ cứng trung bình trong khoảng 0 – 20oH, nguồn nước từ các vùng đồi núi đất
đỏ thường hầu như không có Ca và Mg độ cứng xấp xỉ bằng 0, đặc biệt ao nuôi bón vôi độ cứng có thể lên đến trên 40oC. Trong NTTS việc bón vôi cho ao hồ không
chỉ có tác dụng khử chua, trừ tạp còn tăng độ cứng cho nước.
Nền đáy thủy vực: là nơi tồn tại và phát triển của khu hệ sinh thái đáy và là
14
nơi trú ẩn trong từng gai đoạn của nhiều sinh vật trong tầng nước đặc tính nền đáy
phụ thuộc vào hai yếu tố: thành phần cơ học của nền đáy là đặc tính địa chất thổ
nhưỡng của nền đáy nơi có thủy vực quyết định hoặc chất lắng động thực vật do
sinh vật sống trong thủy vực nhiều khi có lượng chất sống rất lớn, chúng tiếp tục
được hình thành và phân hủy trong thủy vực, phân nguyên sinh nhanh chóng bị
phân hủy và tan vào trong nước, phần xương khó phân hủy sẽ lắng xuống đáy. Đây
là nguồn vật chất hữu cơ tích tụ ở đáy thủy vực là một khâu trong chu trình vật chất
của thủy vực quyết định độ dinh dưỡng thủy vực.
Độ mặn và các chất hòa tan trong nước: nước là dung môi hoà tan các chất
có trong môi trường thủy vực, nồng độ muối có trong thủy vực luôn được trung hòa
nhằm giảm bớt độ mặn trước khi cho vào ao nuôi thủy sản. Căn cứ vào nồng độ
muối có trong môi trường thủy vực thì sẽ chia thủy vực thành 3 dạng môi trường
chính.
- Thủy vực nước ngọt: giới hạn nồng độ muối 0,5 – 1‰ là vùng nước tự
nhiên ở xa biển dưới dạng thủy vực khác nhau như: sông, suối, ao hồ, đầm, ruộng
lúa cấy,…
- Thủy vực nước lợ: giới hạn 1 - 30‰ trung bình 10 - 20‰ bao gồm vùng
cửa sông, ven biển vùng nằm xa giữa vùng nước ngọt trong lục địa và nước mặn
ngoài đại dương, có khi là cả một vùng biển bị nước từ lục địa chảy ra làm nồng độ
muối nhạt đi.
- Thủy vực nước mặn: có nồng độ muối là 35‰ dao động chỉ trong khoảng
32 - 38‰ ở các biển và ven lục địa.
Trong môi trường thủy vực còn có nhiều thành phần khác như amoniac, sắt, lân.
NH3 trong thủy vực có từ phân hủy bình thường của Prôtêin, xác bã động vật phù
du. Các thành phần trong thủy vực đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển của thủy sinh vật
1.2.3. Đối tượng hoạt động là các sinh vật thuỷ sinh
Sinh vật thủy sinh là đối tượng hoạt động chủ yếu của ngành NTTS nói riêng và
toàn ngành thủy sản nói chung đây là loại sinh vật duy nhất có thể tồn tại trong môi
15
trường thủy vực. Các khâu chăm sóc nuôi trồng trong ngành thủy sản đều là những
sinh vật thủy sinh, đây được xem là đối tượng hoạt động chủ yếu trong ngành
NTTS, cũng giống như ngành sản xuất nông nghiệp đối tượng của NTTS là các cơ
thể sống. Sinh vật thủy sinh phát triển theo những quy luật nhất định của tự nhiên
nên cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện bên ngoài như gió mưa, bão lụt, hạn hán
đều ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của chúng. Quá trình sản xuất ra sản
phẩm là quá trình chuyển hóa về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng
của cây trồng vật nuôi. Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các quy luật sinh
học không thể đảo ngược. Con người chỉ tác động nhằm mục đích giúp cho sự sinh
trưởng và phát triển của thủy sinh vật được thuận lợi nâng cao khả năng thích nghi
với môi trường thủy vực.
Chúng rất nhạy cảm với những thay đổi của điều kiện tự nhiên nên cần tập trung
chú ý đến những thay đổi của tự nhiên đưa ra những giải pháp nuôi trồng hợp lý
tránh tình trạng thủy sản bị bệnh và lây lan toàn vùng ảnh hưởng đến năng suất nuôi
trồng. Để tạo được một tập đoàn cây trồng, vật nuôi tốt hơn đòi hỏi phải thường
xuyên chọn lọc bồi dục các giống hiện có, nhập những giống tốt để cho ra những
giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt hơn thích hợp với điều kiện từng vùng,
từng địa phương.
VD: Các sinh vật được nuôi trồng chủ yếu trong ngành thủy sản: tôm, cá, cua,
nhuyễn thể,…
1.2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có tính liên ngành cao đòi hỏi đầu tư ban đầu
lớn, độ rủi ro cao
Tính liên ngành cao của thủy sản thể hiện bao gồm nhiều bộ phận có mối
quan hệ mật thiết, hỗ trợ cho nhau: khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu và
dịch vụ thủy sản. Chính đặc điểm này làm cho ngành thủy sản có tính hỗn hợp, vừa
có tính chất của sản xuất công nghiệp, vừa mang tính chất của ngành sản xuất nông
nghiệp.
Hầu hết các hoạt động sản xuất thủy sản so với nông nghiệp theo nghĩa rộng
đòi hỏi đầu tư lớn, đặc biệt là đánh bắt xa bờ và nuôi trồng với quy mô lớn theo
16
hướng hiện đại. Ngành thủy sản chịu tác động rất mạnh của điều kiện tự nhiên như
bão, lũ và cả các nhân tố dịch bệnh tạo nên tính rủi ro cao.
1.2.5. Trong nền kinh tế hiện đại, khai thác và nuôi trồng thủy sản nước ta
đang dần trở thành ngành sản xuất hàng hóa
Đây là yêu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của ngành thủy sản trong bối cảnh
hội nhập quốc tế. Từ trước những năm 90, thủy sản nước ta tồn tại một cách manh
mún, nhỏ lẻ, tự phát, đầu tư cho sản xuất hạn chế, sản xuất thủy sản thương phẩm
chưa nhiều. Hiện nay, cùng với việc chuyên môn hóa nông nghiệp, thủy sản cũng có
sự phát triển theo hướng chuyên môn hóa, mở rộng quy mô, khai thác và nuôi trồng
thủy sản gắn liền với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, quan tâm
đến chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm để đáp ứng được yêu cầu của những thị
trường khó tính. Vì thế, hiệu quả của ngành thủy sản được tăng lên rõ nét, vai trò
của ngành được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân.
1.3. Vai trò của ngành nuôi trồng thủy sản
NTTS có một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ngoài việc
đảm bảo an ninh lương thực, mặt khác còn cung cấp một lượng lớn các nguồn hàng
xuất khẩu, thu hút lao động giải quyết việc làm. Chính vì những đều này mà chúng
ta cần tìm hiểu vai trò của ngành NTTS trong đời sống xã hội cũng như cả nền kinh
tế quốc dân.
1.3.1. Duy trì, tái tạo các nguồn lợi thuỷ sản
Nguồn lợi thủy sản tự nhiên điều có hạn cùng với việc khai thác quá mức sẽ
làm cho nguồn thủy sản ngày một cạn kiệt nếu việc khai thác đánh bắt không kế
hoạch làm cho nguồn lợi ngày càng khan hiếm thậm chí bị tiệt chủng. Trước tình
thế đó, NTTS được xem là ngành tạo ra nhiều sản phẩm thủy sản có giá trị đồng
thời phục vụ nhu cầu xuất khẩu, nhưng đồng thời đối với ngành cũng đã duy trì tái
tạo nguồn lợi thủy sản. Hiện nay khi ngành thủy sản ngày một phát triển và chếm
một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thì việc duy trì và tái tạo nguồn lợi thủy sản
là một yêu cầu cấp thiết. NTTS là ngành đảm bảo sự duy trì và tạo ra một nguồn
giống thủy sản. Ngoài ra, ngành NTTS còn có thể tạo ra những giống mới đem lại
giá trị năng suất cao hơn.
17
Ngành nuôi trồng thủy sản luôn giữ một vai trò quan trọng trong việc duy trì
nguồn lợi thủy sản thông qua việc nuôi trồng, lai tạo những giống thủy sinh vật,
nhằm phục vụ tốt hơn việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sự phát
triển bền vững và cung cấp thực phẩm đáp ứng một phần nào nhu cầu thiết yếu của
con người. Vai trò duy trì và tái tạo nguồn lợi thủy sản còn một vị trí đặc biệt trong
việc cung ứng giống cây trồng vật nuôi. Quá trình nuôi trồng luôn diễn ra nhằm
đảm bảo vai trò chủ đạo trong việc duy trì lưu giữ nguồn gen trong hoạt động sản
xuất nuôi trồng.
1.3.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu trực tiếp của con người trong việc tiêu dùng hằng
ngày một phần lớn được cung cấp cho các nhà máy chế biến làm nguyên liệu chế
biến. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề khai thác thủy sản bị hạn chế do các vấn đề
về môi trường thì NTTS đóng vai trò quan trọng chủ đạo trong việc cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. NTTS đã đáp ứng được một cơ
cấu mặt hàng đa dạng hơn góp phần phát triển thương mại thủy sản.
Các nhà máy xí nghiệp chế biến thủy sản được thành lập ngày càng nhiều đều
này cho thấy vai trò nguồn cung ứng nguyên liệu cho chế biến ngày càng tăng, diện
tích nuôi trồng ngày càng nhiều với các chính sách quy hoạch cụ thể làm cho sản
lượng NTTS ngày càng tăng. Sản phẩm thô bao giờ cũng đem lại hiệu quả không
cao nhưng khi qua chế biến thì hoàn toàn ngược lại. Sản phẩm như tôm, cá các loại
đều là nguồn cung đáng kể cho ngành công nghiệp chế biến, trong mấy năm qua sản
lượng thủy sản xuất khẩu ngày càng tăng ở một số thị trường lớn nhất định như Hoa
Kỳ, Tây Âu, Trung Quốc,... đều này cho thấy vai trò ngày một quan trọng của
ngành thủy sản đặc biệt là lĩnh vực NTTS ngành đã cung ứng một lượng lớn nguồn
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong thực trạng nguồn lợi tự nhiên có giới
hạn. NTTS được xem là một nguồn cung tương đối ổn định hơn ngành khai thác
thủy sản.
Trong điều kiện sản lượng khai thác đã vượt qua ngưỡng cho phép, NTTS là
hướng đi đúng để bổ sung nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu và chế biến truyền
18
thống đồng thời nó cung ứng thêm sản phẩm thủy sản cho thị trường trong và ngoài
nước. Trong khi khai thác thủy sản đang gặp khó khăn thì NTTS là phương thức
thay thế và để phát huy lợi thế tự nhiên của nước ta bù đấp lượng hàng hóa thủy sản
cho thị trường và nguyên liệu cho các cơ sở chế biến.
1.3.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập
Đây là ngành cần sử dụng nhiều lao động nên đã giải quyết phần nào vấn đề
việc làm cho một bộ phận lao động của xã hội. Hằng năm thu hút một lượng lớn lao
động tham gia, NTTS được phát triển rộng khắp trên cả nước giải quyết một lượng
lớn lao động nông nghiệp. Đặc biệt là lao động ở nông thôn và ven biển sẽ là những
nơi mà lao động sẽ có nhiều cơ hội về việc làm. Hoạt động nuôi trồng thủy sản phần
lớn vẫn sử dụng lao động thủ công từ các khâu cải tạo môi trường nuôi thủy sản cho
đến thả giống, chăm sóc, thu hoạch... đều cần đến bàn tay chăm sóc của con người.
Đây được xem là một trong những vai trò quan trọng của ngành trong việc giải
quyết vấn đề lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ao hồ nhỏ là thế mạnh của NTTS ở
các vùng nông thôn Việt Nam. Người nông dân tận dụng ao hồ nhỏ như một cách
tận dụng đất đai và lao động.
Mặt khác, do hiệu quả từ việc NTTS đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể từ
việc chuyển đổi kết hợp giữa trồng lúa và NTTS, mô hình này đã đem lại thu nhập
cao hơn so với thế độc canh cây lúa trên một diện tích, tăng thêm nguồn thu nhập
đảm bảo đời sống nhân dân và nâng cao hơn mức sống của người dân. Các trang
trại nuôi trồng thủy sản cho năng suất ngày càng cao đồng nghĩa với mức thu nhập
ngày càng lớn. Lợi nhuận từ những diện tích nuôi trồng là rất lớn, hàng năm ngoài
việc trừ chi phí nông dân có thể lời hàng trăm triệu đồng trên diện tích nuôi đảm
bảo nguồn thu ổn định. Theo ước tính, có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc
hoàn toàn hoặc một phần vào ngành thủy sản. Một bộ phận dân cư ở vùng ven biển
đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ NTTS.
Ngành thủy sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát
triển các mô hình NTTS đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn
dinh dưỡng, đảm bảo an ninh lương thực mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo. Ở
19
Việt Nam, tại các vùng duyên hải, từ năm 2005, nuôi thủy sản nước lợ đã chuyển
mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và
thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh them mô hình
công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo mô hình
sản xuất hàng hóa lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư vùng ven biển đã giàu lên
nhanh chóng nhờ mô hình nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm đã trở thành ngành sản
xuất chính ở ven biển Việt Nam, đem lại thu nhập cao, giá trị xuất khẩu lớn. Thu
nhập từ nuôi tôm đã trở thành hoạt động kinh tế, tích lũy chủ yếu và nguồn tái đầu
tư cơ bản các hạng mục kinh tế - xã hội của nhiều địa phương, góp phần thay đổi bộ
mặt nông thôn ven biển.
1.3.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội
Nông nghiệp là ngành được xem là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm
chủ yếu cho con người. Trong đó, NTTS có tầm quan trọng đặc biệt nó thể hiện ở
việc tham gia vào cơ cấu bữa ăn cung cấp các sản phẩm dinh dưỡng cho con người
như tôm, cua, ghẹ,... đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra mặt hàng xuất khẩu. Đối với
bữa ăn hằng ngày ngoài lượng tinh bột thiết yếu thì nhu cầu thực phẩm cũng không
kém phần quan trọng trong cơ cấu bữa ăn, một mặt do đời sống con người ngày
càng được nâng cao, mức tiêu thụ cũng tăng. NTTS là nguồn cung cấp đạm động
vật bổ dưỡng cho con người, các chất đạm từ cá, tôm, cua dễ tiêu hóa, không gây
béo phì và nhất là cung cấp các nguyên tố vi lượng từ biển như i-ốt, canxi, brom,
natri, sắt, mangan,... rất dễ hấp thụ và có lợi cho sức khỏe. Trong cơ cấu bữa ăn thì
các sản phẩm từ NTTS xuất hiện ngày càng nhiều đảm bảo cung cấp nguồn dinh
dưỡng thiết yếu cho con người với các hình thức nuôi tại chỗ đáp ứng nhu cầu thực
phẩm tươi sống.
Theo báo cáo của FAO, NTTS hiện là nguồn cung cấp đạm động vật tăng trưởng
nhanh nhất của thế giới và đáp ứng gần một nửa sản lượng tiêu thụ toàn cầu. Báo
cáo nuôi trồng thủy sản thế giới năm 2010 cho thấy, sản lượng thủy sản nuôi của thế
giới đã tăng hơn 60% từ 32,4 - 52,5 triệu tấn trong giai đoạn 2000 - 2008.
Theo dự báo của Trung tâm Thủy sản Thế giới, đến năm 2010 nhu cầu thủy sản
20
toàn thế giới vào khoảng 156,72 triệu tấn, trong đó nhu cầu làm thực phẩm chiếm
81,84%; phi thực phẩm chiếm 18,17%. Dự kiến trong năm 2012, thủy sản nuôi sẽ
đáp ứng hơn 50% lượng tiêu thụ thủy sản của thế giới. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
thủy sản bình quân đầu người trên toàn thế giới được dự đoán là 18,4 kg/người/năm
năm 2010 và 19,1 kg/người/năm vào năm 2015. Nhu cầu thủy sản/đầu người năm
2010 đối với các loại cá sẽ là 13,7 kg/năm, và 14,3 kg/năm vào năm 2015, đối với
nhuyễn thể và các động vật thủy sản khác sẽ là 4,7 kg vào năm 2010 và 4,8 kg vào
năm 2015. Các nước đang phát triển sẽ đứng đầu về tốc độ tăng cầu theo đầu người,
trong khi đó tốc độ tăng cầu/đầu người ở các nước phát triển nhìn chung sẽ có xu
hướng giảm xuống. Trong tổng mức tăng về nhu cầu sản phẩm thủy sản thì khoảng
46% mức tăng là do sự gia tăng dân số, số còn lại 54% là do sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó lượng thủy sản tiêu thụ cho các hoạt động khác cũng chếm phần
đáng kể như nhu cầu về sản phẩm thủy sản để làm thức ăn cho động vật và gia cầm
hoặc dầu sẽ tăng 1,1%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010 và 0,5%/năm trong giai
đoạn 2010 - 2015. Lượng thủy sản cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn
cho động vật và cho các mục đích phi thực phẩm khác trên toàn thế giới khoảng
45.432 triệu tấn vào năm 2015.
Bảng 1.1: Nhu cầu thủy sản trên thế giới đến năm 2010
Các nhu cầu Thứ tự Châu Phi Bắc Mỹ Toàn thế giới Châu Á Châu Đại Dương Châu Âu, Nga Caribe, Nam Mỹ
I. 8.735 9.047 19.180 91.310 20.584 7.862 156.718
1 736 1.278 12.873 7.469 6.001 109 28.466
2 7.999 7.769 6.307 83.841 14.583 7.753 128.252
3 8.8 23.4 10.6 20.2 20.5 22.1 18.4
II 997 332 595 4.145 713 34 6.816 Tổng nhu cầu (triệu tấn) Phi thực phẩm (triệu tấn) Thực phẩm (triệu tấn) Mức tiêu thụ/ người (kg) Dân số (triệu người)
(Nguồn: Trung tâm thông tin và KHKT thủy sản - Bộ NN&PTNT)
21
1.3.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang
trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển kinh tế xã hội, giúp cho nền kinh tế phát triển
nhanh, vững chắc có khả năng hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong xu thế đất nước đang chuyển mình hòa nhịp vào nền kinh tế quốc tế nền
kinh tế nước ta đang chuyển mình đúng hướng. Phát triển NTTS là một trong những
biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó
phát triển NTTS cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đặc biệt
là sự tham gia của các hộ gia đình nông thôn thúc đẩy sự phát triển của nên kinh tế
tư nhân. NTTS phát triển theo hướng bền vững kéo theo sự phát triển của ngành
dịch vụ và công nghệp. Như vậy, sự phát triển NTTS đã góp phần đưa nền kinh tế
Việt Nam tiến tới một cơ cấu bền vững và tiến bộ hơn. Việt Nam là một quốc gia có
nền nông nghiệp phát triển đang trên đường tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, trong bản thân nền nông nghiệp hiện tại đã diễn ra sự chuyển dịch trong
nội bộ ngành.
Trong nhiều năm qua việc xuất hiện nhiều công trình hồ thủy điện đã được xây
dựng, khiến nước mặn nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào cửa sông, ven biển.
Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm họa nhưng
đối với NTTS nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng
mới, vì hoạt động nuôi trồng có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt
động canh tác lúa nước. Một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp kém hiệu quả
đã được chuyển sang NTTS. Nguyên nhân của hiện tượng này là do giá thủy sản
trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi các loại nông
sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại giảm sút dẫn đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu
diện tích giữa NTTS và nông nghiệp càng trở nên cấp bách. Chính phủ đã đưa ra
nghị quyết 09 NQ/CP ngày 15/06/2000 về chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu tố giúp cho quá trình
chuyển đổi diện tích NTTS diễn ra nhanh mạnh và rộng khắp hơn. Quá trình chuyển
22
đổi diện tích chủ yếu từ lúa kém hiệu quả sang NTTS hoặc kết hợp với NTTS, có
thể nói NTTS đã phát triển với tốc độ nhanh thu được hiều quả kinh tế - xã hội đáng
kể góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tại nhiều vùng nông thôn thì mô hình nuôi cá ruộng trũng phát triễn mạnh mẽ.
Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một
trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp góp phần tăng thu nhập và
xóa đói giảm nghèo vùng nông thôn.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của ngành thủy
sản. Ta có thể chia ra thành 3 nhóm nhân tố:
1.4.1. Vị trí địa lý
Là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến các nhân tố tự nhiên khác và quy
định cơ bản đối với ngành khai thác thủy sản. Vị trí địa lý ảnh hưởng đến đặc điểm
thủy vực (đặc biệt vị trí địa lý giáp biển hay không), quy định những đặc điểm cơ
bản của khí hậu, từ đó ảnh hưởng tới các nhân tố khác như thủy văn, nguồn lợi sinh
vật.
1.4.2. Các nhân tố tự nhiên
1.4.2.1. Diện tích mặt nước
Hiện nay, mặt nước NTTS trên thế giới chếm một phần đáng kể trong diện
tích mặt nước tự nhiên. NTTS phát triển ở nhiều loại mặt nước khác nhau, ngành
cho phép sử dụng hữu hiệu hàng triệu ha các loại mặt nước kể cả các loại mặt nước
như: nước ngọt (ao, hồ, sông, kênh, rạch,…), nước mặn lợ, bao gồm cả mặt đất canh
tác kém hiệu quả. Diện tích này ngày càng nhiều trên các diện tích nuôi trồng nếu
áp dụng các biện pháp canh tác hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao, mặt nước trong
NTTS có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đây được xem là tư liệu sản xuất đặc biệt.
Mặt nước tự nhiên trên toàn thế giới là rất lớn bao gồm các hệ thống sông
lớn như: sông Nin, sông Amazon, Missisipi, Mêkông,… đây được xem là những hệ
thống cung cấp nước ngọt chủ yếu cho các ao hồ, sông, suối phục vụ cho sinh hoạt
và sản xuất. Đặc biệt đối với ngành NTTS đây là mặt nước nuôi trồng chủ yếu, trên
23
các lưu vực sông có thể phát triển các hình thức nuôi lồng, bè hoặc tận dụng nguồn
nước ngọt để đào ao nuôi đối với các loài thủy sản nước ngọt. Ngoài các hệ thống
sông lớn trên thế giới còn có các kênh, rạch, ao, hồ phần lớn được cung cấp nước từ
những dòng sông lớn đây là những mặt nước nuôi trồng tự nhiên.
Song song đó còn có mặt nước nuôi trồng thủy sản theo hình thức nhân tạo,
đó là các hồ chứa, ao nhân tạo do con người tạo ra theo chủ ý của mình nhằm làm
tăng thêm diện tích nuôi trồng. Hình thức này chủ yếu được tập trung thực hiện ở
những vùng đồi núi ít hệ thống sông, hồ tự nhiên việc NTTS ở vùng đồi núi tưởng
chừng như không thể với hình thức này thì NTTS ở những vùng này không còn là
vấn đề. Ở những khu vực, quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc đầu tư mở rộng
diện tích mặt nước ở vùng có điều kiện khó khăn hoặc hạn chế về mặt nước nuôi
thủy sản luôn được chú trọng, ngành với những vai trò cung ứng thực phẩm tại chổ;
đồng thời, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu, nên
việc mở rộng mặt nước NTTS ở những nơi này là rất quan trọng đối với đời sống
nhân dân cũng như phát triển kinh tế.
Mặt khác, diện tích các đại dương lớn trên thế giới vào khoảng 361 triệu km2 với một lượng lớn nguồn nước phong phú giúp cho việc phát triển ngành nuôi
trồng thủy sản nước mặn lợ có điều kiện thuận lợi hơn, cùng với việc ảnh hưởng
của các nhân tố tự nhiên đặc biệt là vấn đề Biến đổi khí hậu ngày nay diễn ra ngày
một gay gắt đã làm cho nước biển xâm nhập sâu vào nội đồng góp phần mở rộng
diện tích mặt nước NTTS nước mặn lợ. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật thì
việc nuôi lồng bè trên biển sẽ rất phổ biến nhằm mục đích mở rộng diện tích nuôi
trồng và tăng năng suất.
Diện tích mặt nước NTTS có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của
ngành ứng với từng vùng, từng khu vực sẽ có những mặt nước nuôi trồng với những
tính chất đặc trưng. Đôi lúc, diện tích mặt nước lại là yếu tố quyết định việc tổ chức
các hình thức nuôi trồng thủy sản, nhằm tận dụng tối đa diện tích mặt nước đem lại
hiệu quả về năng suất, sản lượng một cách cao nhất.
Ở Việt Nam ngoài vùng biển rộng hơn 1 triệu km2 (chỉ số biển khoảng 0,01
24
gấp 6 lần chỉ số biển trên toàn cầu) vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, gần
10 triệu ha đất ngập nước với nhiều điều kiện đặc trưng cho môi trường nước ngọt,
lợ và mặn. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có một nguồn
nước mặt phong phú đặc biệt là hệ thống nước ngọt. Diện tích bề mặt nước ngọt lớn
với 653 nghìn ha sông ngòi, 394 nghìn ha hồ chứa, 85 nghìn ha đầm phá ven biển,
580 nghìn ha ruộng lúa nước. Hệ thống ao, hồ sông suối, kênh, mương, ruộng trũng
ở nước ta là khá lớn là điều kiện quan trọng trong việc tổ chức phát triển NTTS.
Ngoài hệ thống mặt nước tự nhiên người ta còn tạo ra những môi trường sống nhân
tạo cho các loài thủy sinh (hồ chứa). Thủy sản nước ta có thể phát triển ở tất cả các
loại hình mặt nước và trên vùng tự nhiên – sinh thái khác nhau từ vùng núi, trung
du, đồng bằng đến vùng biển đảo.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay thì diện tích mặt nước NTTS đang dần
được mở rộng từ việc chuyển đổi đất nông nghiệp trồng lúa kém hiệu quả chuyển
sang NTTS hoặc kết hợp cùng hoạt động thủy sản. Ở Việt Nam quá trình này diễn
ra mạnh mẽ vào năm 2000 – 2002: hơn 200 ha diện tích được chuyển sang NTTS,
đến năm 2007 đạt 95.400ha. Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa năng suất thấp,
các vùng trồng lúa 1 vụ bấp bênh, các vùng đất hoang hóa ven sông sang NTTS
nước ngọt tập trung đã cải thiện hiệu quả khai thác trên một đơn vị diện tích. Chính
vì những yếu tố như thế mà diện tích mặt nước NTTS ngày càng được mở rộng;
song song đó tương ứng với những môi trường nhất định sẽ có những loài thủy sinh
vật đặc trưng.
Năm 2009, diện tích NTTS ở Việt Nam đạt 1044.7 nghìn ha. Thời gian gần
đây các địa phương tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi và các diện tích NTTS
theo hướng đa canh, đa con kết hợp hướng vào thị trường nội địa tăng năng suất
nuôi trồng, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo môi trường sinh thái bền
vững. Thêm vào đó, hình thức nuôi thủy sản lồng, bè phát triển khá ở các vùng,
trong đó tăng mạnh ở hình thức nuôi biển.
Diện tích mặt nước trong NTTS ngày càng tăng lên nhanh trong những năm
gần đây đều này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy ngành NTTS
25
phát triển trên diện rộng nâng cao năng suất, sản lượng của ngành góp phần phát
triển kinh tế - xã hội. Đối với từng diện tích mặt nước sẽ có những giải pháp quy
hoạch phát triển từng hình thức nuôi trồng cùng với những loại thủy sinh vật đặc
trưng phù hợp với tính chất của môi trường nước nhất định, nhằm phát huy được tác
dụng của từng loại mặt nước nuôi trồng.
1.4.2.2. Khí hậu, nguồn nước
- Khí hậu: Đối với NTTS thì khí hậu đóng vai trò rất quan trọng, nó quyết
định thời gian nuôi, thành phần loài, tốc độ sinh trưởng, dịch bệnh và hiệu quả kinh
tế của hoạt động nuôi. Điều kiện khí hậu với những yếu tố thích hợp sẽ tạo nhiều
điều kiện thuận lợi cho thủy sản phát triển, với các yếu tố như: nhiệt độ, lượng mưa,
ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió cả những bất thường của thời tiết như mưa, bão, lũ lụt,
hạn hán,… ảnh hưởng đến việc tổ chức sản xuất cũng như sinh trưởng phát triển
của thủy sinh vật. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả
trong tiêu thụ sản phẩm. Nhiệt độ vừa phải cũng là điều kiện để các loài thủy sản
phát triển như ở Việt Nam do có lượng bức xạ lớn nên nước ta có nhiều nắng tổng
số giờ nắng tùy nơi từ 1400 – 3000 giờ/năm, thủy sinh vật có nhiều thuận lợi để
sinh trưởng và phát triển hơn.
Chế độ nhiệt: thuận lợi là yếu tố quan trọng trong việc phát triển của sinh vật
thủy sinh. Ở những vùng có nền nhiệt cao, đồng nhất là điều kiện tốt để sinh vật
sinh trưởng và phát triển. Ở những vùng nhiệt đới điển hình như Việt Nam thì nhiệt độ trung bình phù hợp cho việc NTTS là vào khoảng 270C – 280C.
Chế độ bức xạ: có nhiều tác động đến nuôi trồng thủy sản, số giờ chiếu sáng
cao sẽ là tiền đề thuận lợi cho quá trình quang hợp, tổng hợp chất hữu cơ của thực
vật, đây là cơ sở thức ăn quan trọng cho nhiều loài sinh vật khác.
Các yếu tố như khí hậu tăng, mưa bão ngày càng mạnh và phức tạp, mực
nước biển dâng là những nhân tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất thủy sản.
Mưa bão và nhiệt độ tăng làm cho các vùng ven biển, đảo, các đồng bằng hằng năm
chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa, hạn hán và xâm nhập mặn trong mùa khô.
Mưa bão và nước biển dâng sẽ làm tăng thêm tình trạng ngập lụt, gây khó khăn cho
26
thoát nước, tăng xói lỡ bờ biển và nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến cả lĩnh
vực khai thác và NTTS, gây rũi ro lớn đối với các công trình xây dựng ở khu vực
ven biển, cửa sông như đường giao thông, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, cơ sở
chế biến thủy sản,…
Các diễn biến thất thường của khí hậu đã làm cho các hoạt động thủy sản mất
sản lượng, tàn phá công trình nuôi, giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả khi thời
tiết diễn biến bất thường. Nhiệt độ tăng gây giảm sức sản xuất các đối tượng nuôi,
làm căn thẳng thêm tình trạng cung cấp giống (về số lượng, chất lượng và tính thời
vụ). Lượng mưa phong phú tạo điều kiện cho quá trình ngọt hóa rửa mặn trong cánh
đồng và nhanh chóng có thể tạo ra vùng trồng lúa rộng lớn và bố trí nuôi tôm vào
mùa khô. Những vùng có nhiệt độ trung bình năm cao đó là điều kiện thuận lợi cho
các thủy sinh vật phát triển quanh năm. Ở những vùng nhiệt đới có số giờ chiếu
nắng tương đối đồng đều trong năm, là tiền đề thuận lợi cho quá trình quang hợp,
tổng hợp chất hữu cơ của thực vật. Đây là cơ sở thức ăn quan trọng cho nhiều loài
sinh vật đặc biệt là sinh vật thủy sản. Mỗi loại thủy sinh vật cũng thích nghi với
những điều kiện khí hậu nhất định vượt quá ngưỡng cho phép chúng sẽ chậm phát
triển, thậm chí là bị chết.
Chế độ hải văn: sóng biển có ảnh hưởng tốt cho sự phát triển NTTS của
vùng, hải lưu là yếu tố quyết định đến việc chọn vị trí nuôi biển, với sự kết hợp
tương tác giữa các yếu tố của hải lưu sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho NTTS
như: sự tương tác gió, truyền triều, tính chất của dòng lục địa,… Sóng biển là yếu tố
ảnh hưởng quyết định đến việc chọn vị trí nuôi biển.
Khí hậu vừa được xem là yếu tố quyết định sự phát triển của ngành NTTS là
vừa là yếu tố ảnh hưởng xấu đến ngành. Nhiệt độ tăng, mưa, bão… làm cho vùng
ven biển hằng năm chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa, hạn hán và xâm nhập mặn
trong mùa khô.
- Nguồn nước: Đối với NTTS thì nguồn nước có vị trí đặc biệt quan trọng
nó ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng vật nuôi thủy sinh. Những nơi có
nguồn nước cung cấp phong phú thường xuyên đều là những vùng thủy sản phong
27
phú, nguồn nước là yếu tố quan trọng trong NTTS quyết định sự phát triển của
ngành. Tuy nhiên do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình mà nguồn nước trên thế
giới lại phân bố không đều và thay đổi theo mùa, có những mùa nước tập trung rất
lớn và ngược lại với mùa khô thì rất khan hiếm nước. Đối với NTTS thì nguồn nước
có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức phát triển cũng như ảnh hưởng đến
sự sống của thực vật thủy sinh thông qua các tính chất của nguồn nước.
Nguồn nước mặt thường được gọi là tài nguyên nước mặt, tồn tại thường
xuyên hay không thường xuyên trong các thuỷ vực ở trên mặt đất như: sông ngòi,
hồ tự nhiên, hồ chứa (hồ nhân tạo), đầm lầy, đồng ruộng và băng tuyết. Tài nguyên
nước sông là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất, được sử dụng rộng rãi trong
đời sống và sản xuất. Do đó, tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước mặt nói
riêng là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một
vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Trong ngành NTTS thì nguồn nước đóng vai trò
quan trọng trong việc tổ chức sản xuất đồng thời cũng là yếu tố quyết định sự phát
triển của thủy sinh vật.
Nước mặn: nước mặn ngày càng thâm nhập sâu vào nội đồng thông qua các
hệ thống sông ven biển, đây là điều kiện quan trọng để phát triển thủy sản nước
mặn. Hiện tượng xâm nhập mặn ở các dòng sông ngày càng có xu hướng tăng lên.
Hiện nay, do qua trình nóng lên toàn cầu đã dẫn đến hàng loạt những biến đổi về
môi trường, trong đó vấn đề nâng cao mực nước biển đã tạo điều kiện xâm nhập sâu
vào đất liền.
Theo nghiên cứu của tổng cục khí tượng thủy văn cho biết thông qua quá
trình nghiên cứu nhiều năm nay: ở Việt Nam trung bình nước biển dâng cao 2
mm/năm và có khả năng nước biển trong 50 - 70 năm sau sẽ cao hơn 50 – 60cm.
Đây là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng mặn, lợ.
Nước ngọt và ngọt – lợ: Nguồn nước này trên thế giới cũng tương đối phong
phú, với nhiều hệ thống sông ngòi lớn. Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước
ngọt trong vùng đất ngập nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi
giáng thủy và chúng mất đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất.
28
Nguồn nước này còn được cung cấp bởi các lượng nước mưa, được thu hồi bởi các
lưu vực, tổng lượng nước trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc vào
một số yếu tố khác. Các yếu tố này như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập
nước và các hồ chứa nhân tạo, độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các
đặc điểm của dòng chảy mặt trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc hơi
địa phương. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mất nước. Ở những vùng
nhiệt đới có lượng mưa dồi dào thì nguồn nước được cung cấp từ những lượng nước
mưa sẽ góp phần quan trọng trong NTTS.
Điển hình như ở Việt Nam do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên có
nguồn nước mặt rất phong phú do các hệ thống sông lớn của nước ta bắt nguồn từ
lãnh thổ các nước láng giềng nên khối nước mặt lớn hơn lượng nước mưa (các hệ
thống sông lớn như: hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đồng Nai, sông
Cửu Long,…). Ngoài ra lượng nước mặt tương đối lớn hằng năm tạo điều kiện cho
sự phong phú của nguồn nước mặt. Nước đối với ngành nông nghiệp không riêng gì
ngành NTTS là rất cần thiết, yếu tố này được xem là quan trọng nhất trong ngành
NTTS là nguồn nước được xem là môi trường sống của thủy sinh vật. Lượng mưa
hàng năm tương đối lớn, trung bình từ 1800mm – 2000mm. Sông ngòi Việt Nam
tương đối nhiều, phân bố tương đối đồng đều trên các vùng lãnh thổ. Dọc theo đường bờ biển cứ 10km có một cửa sông. Mật độ sông ngòi là 0,12km/km2, chỉ kể
các sông suối có chiều dài từ 10km trở lên đã có 2560 sông, bao gồm 124 hệ thống sông với tổng chiều dài lưu vực là 292.470km2, đây sẽ là nơi cung cấp nguồn nước
cho NTTS.
29
Trong đó: riêng nội
Tổng số
địa
Bảng 1.2 : Phân bố nguồn nước mặt ở Việt Nam
Các vùng lãnh thổ và lưu vực
%
%
Lưu lượng (tỉ m3/ năm)
Lưu lượng (tỉ m3/năm)
840,0
100,0
328,0
100,0
Cả nước
1. Đồng bằng Sông Hồng
Lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình
137,0
16,3
90,6
27,6
2. Đông Bắc
17,4
2
15,7
4,8
- Lưu vực sông vùng Quảng Ninh
8,5
1
7,2
2,2
- Lưu vực sông vùng Cao Bằng, Lạng
8,9
1
7,2
2,2
Sơn
3. Bắc Trung Bộ
67
8
58,3
17,9
- Lưu vực sông Mã
15,8
2,3
14,7
4,5
- Lưu vực sông Cả
24,7
2,9
19,8
6,3
- Các sông vùng Bình Trị Thiên
23,8
2,8
23,8
7,3
4. Duyên hải nam Trung Bộ
48,7
5,8
48,7
14,8
- Khu vực Quãng nam, Đà nẵng
21,6
2,6
21,6
6,6
- Khu vực Quãng Ngãi, Bình Định
14,6
1,7
14,6
3,2
- Khu vực Phú Yên, Khánh Hòa
12,5
1,4
12,5
4,4
5. Tây Nguyên
30,0
3.6
30,0
9,1
6. Đông Nam Bộ
34,9
4,2
34,9
10,6
- Lưu vực sông Đồng Nai
30,0
3,0
8,4
2,6
- Ninh Thuận – Bình Thuận
8,4
1,0
7. Đồng Bằng Sông Cửu Long
Lưu vực sông Cửu Long
05,0
60,1
50,0
15,2
Nguồn: Viện Quy hoạch Thủy lợi, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn
Nhu cầu nước ngọt cho NTTS là rất lớn, cạn kiệt nguồn nước ngầm làm cho
nguồn nước ngọt hạn chế dẫn đến sụt lở địa tầng nếu khai thác quá mức. Nguồn
nước là môi trường sống cơ bản của các loài thủy sinh, NTTS phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố đặc biệt là môi trường nước và bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào từ môi
30
trường tự nhiên và nước liên quan đến NTTS đều tạo ra những trở ngại, dẫn đến
những hậu quả khôn lường.
Tài nguyên nước tuy là phong phú nhưng phân bố không đều theo thời gian và
không gian. So với lượng nước cả năm, mùa lũ chếm 70 – 80%, còn mùa kiệt chỉ có
20 – 30%. Đây là khó khăn lớn nhất đối với nền nông nghiệp nói chung và ngành
NTTS nói riêng.
1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
Có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển và phân bố của ngành NTTS.
Dân cư và lao động: là lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời là thị trường tiêu
thụ các sản phẩm thủy sản. Do vừa là yếu tố đầu vào, vừa là đầu ra của sản xuất nên
đây là nhân tố hàng đầu trong phát triển thủy sản. Quy mô dân cư, cơ cấu dân số,
mức sống dân cư, tập quán canh tác, thói quen ăn uống, đặc biệt là chất lượng dân
cư là những khía cạnh ảnh hưởng cơ bản tới sự phát triển và phân bố của ngành
thủy sản.
Một số đặc điểm của dân cư và lao động hoạt động động trong ngành thủy
sản, xuất phát từ đặc điểm của ngành thủy sản nên lao động thủy sản cũng có tính
thời vụ, đặc biệt là lao động khai thác. Dân cư hoạt động thủy sản thường có tính ổn
định và có truyền thống sản xuất từ lâu nên có nhiều kinh nghiệm. Khai thác thủy
sản cần lao động trẻ khỏe nên chủ yếu là nam tham gia và làm việc theo kinh
nghiệm. Trong nuôi trồng và chế biến thì lực lượng đa dạng hơn và đòi hỏi về kỹ
năng nghề nghiệp và được đào tạo.
Khoa học - công nghệ: Trong tiến trình CNH – HĐH thì sự tiến bộ của khoa
học công nghệ được xem như một minh chứng cho sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế mỗi quốc gia khu vực. Đối với ngành NTTS thì có thể diện tích nuôi
trồng không lớn mà có thể tận dụng những thành tựu của yếu tố khoa học – công
nghệ vào sản xuất nâng cao năng suất chất lượng.
- Ứng dụng công nghệ sinh học và các quy trình trong việc chọn tạo giống mới
và nuôi thương phẩm các đối tượng chủ lực phát triển nhanh các công nghệ lưu trữ
tinh, trứng và phôi để chủ động vận chuyển các con giống theo ý muốn ở các vùng
31
miền. Công nghệ sản xuất giống nhân tạo các loài thủy sản là động lực thúc đẩy
ngành sản xuất giống phát triển. Trong NTTS thì con giống luôn là yếu tố quyết
định nên việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuât giống là rất cần thiết, vấn
đề di truyền chọn giống, tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí
hậu, trong đó ưu tiên chọn các giống mới, bản địa. Nghiên cứu công nghệ sản xuất
giống có năng suất và sản lượng cao, an toàn sinh học. Nghiên cứu đa dạng sinh
học, bảo tồn gen và các loài thủy sản quý hiểm, đặc biệt loại thủy sản bản địa.
Trong nuôi trồng thủy sản thì con giống luôn là yếu tố quan trọng trong việc qui
định năng suất cũng như chất lượng, đặc biệt là việc tạo ra những con giống đặc
trưng thích nghi cho từng loại môi trường sống.
- Công nghệ sản xuất thức ăn điển hình là phát triển các nhà máy sản xuất thức
ăn trong nước, tạo cơ chế thông thoáng trong việc sản xuất và xuất nhập khẩu thức
ăn, chế phẩm sinh học, các sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường thông qua những tiến
bộ về khoa học kỹ thuật nhằm đem lại chất lượng cao hơn.
- Công nghệ xử lý nước thải của cơ sở/vùng nuôi thủy sản tập trung, xử lý và tái
sử dụng nền đáy ao nuôi độc canh tôm lâu ngày bị suy thoái, xử lý nguồn nước cấp
và giảm thiểu môi trường nước ao nuôi. Yếu tố này là rất cần thiết cho NTTS vì
thủy vực là yếu tố quan trọng trong đời sống thủy sinh vật nên phải chú trọng vấn
đề xử lý nguồn nước.
- Công nghệ sinh học dần đưa vào ứng dụng để nghiên cứu các biện pháp phòng
trị bệnh ở các giống loài thủy sản như: bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm, kỹ thuật
này nhanh chóng trở thành công cụ phổ biến để phát hiện bệnh dịch ở các vùng
nuôi thủy sản. Đồng thời nghiên cứu các phương pháp phòng trị bệnh cho tôm cá,
trong đó chú trọng nghiên cứu vácxin cho cá và chất kích thích miễn dịch cho tôm,
thực hiện việc phòng trị bệnh cho thủy sản bằng thảo dược.
- Trước những vấn đề về nguồn nguyên liệu (số lượng còn hạn chế và chất lượng
chưa cao), thất thoát sau thu hoạch còn nhiều; vấn đề về dư lượng kháng sinh hoá
chất trong sản phẩm thuỷ sản, các rào cản về thương mại đang là những thách thức
lớn đối với các sản phẩm CBTS xuất khẩu nên trong ngành NTTS là khâu công
32
nghệ bảo quản sau thu hoạch là rất quan trọng việc nghiên cứu các hình thức bảo
quản vận chuyển hàng tươi sống. Trong thời gian qua đã giải quyết được một phần
những yêu cầu cấp thiết của sản xuất, ở mức độ nào đó góp phần giảm thất thoát sau
thu hoạch, tạo ra nguồn nguyên liệu có chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm tốt
hơn cho chế biến xuất khẩu, một số sản phẩm có khả năng ứng dụng vào sản xuất,...
Công nghệ này được chú trọng phát triển sẽ góp phần thúc đẩy ngành NTTS phát
triển tốt hơn trong điều kiện bảo quản sản phẩm tốt.
Hiện nay, khi nguồn nguyên liệu còn thiếu, giá nguyên liệu còn cao, đòi hỏi
những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao hơn, chất lượng hơn.
Vốn: trong ngành thủy sản là một đối tượng động, di chuyển từ sản xuất sang
lưu thông rồi quay lại sản xuất, là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất.
Vốn không chỉ bao gồm tiền đầu tư cho sản xuất mà gồm cả các tư liệu lao động có
nguồn gốc kỹ thuật và các tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (vốn cố định).
Đặc điểm cơ bản của vốn trong sản xuất thủy sản là: vốn tương đối lớn, tính
luân chuyển chậm chạp do đầu tư ban đầu cho nuôi trồng, sắm tàu thuyền và các
phương tiện cho khai thác lớn; chu kỳ nuôi trồng và mỗi chuyến đi biển khai thác
thường tương đối dài và có tính mùa vụ. Vốn có nhiều rủi ro, khi sản xuất ở trình độ
cao thì mức độ rủi ro sẽ giảm. Vì vậy, đầu tư huy động nguồn vốn cho ngành thủy
sản là một vấn đề cần được quan tâm.
Thị trường tiêu thụ: trong và ngoài nước là yếu tố đầu ra, ảnh hưởng quan trọng
tới hiệu quả sản xuất, từ đó tác động trở lại đến các yếu tố đầu vào của sản xuất.
Tiêu thụ của người dân, công nghiệp chế biến phát triển cùng với việc đẩy mạnh mở
rộng thị trường xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành thủy sản, thúc
đẩy thủy sản phát triển.
Thị trường trong nước: thủy sản Việt Nam cung cấp khoảng 30% nhu cầu đạm
cho dân cư, trong đó sản phẩm từ nuôi trồng cung cấp ½ trong sản lượng thủy sản,
riêng Đồng Bằng Sông Cửu Long tỷ lệ này lên tới 60% và mức tiêu thụ trung bình
gấp 4 -5 lần ở các vùng khác. Mức tiêu thụ trung bình của Việt Nam khoảng 10 –
11kg, đều này cũng là động lực để thúc đẩy ngành nuôi trồng nói riêng và ngành
33
thủy sản nói chung phát triển và chếm tỷ trọng cao trong cả nước. Nếu so với lượng
tiêu thụ sản phẩm thủy sản của nước ta so với các nước khác trong khu vực thì Việt
nam xếp hàng trung bình (Inđônêxia, Philippin đều ở khoảng 17kg/người). Trong
khi đó (Nhật 90kg/người, Trung quốc 25kg/người) Việt Nam chỉ thuộc loại thấp
trên thế giới. Ngày nay thị trường tiêu thụ nội địa có xu hướng tiêu thụ những sản
phẩm có giá trị kinh tế cao, chất lượng tốt cũng tăng lên nhanh chóng, trước đây chủ
yếu tiêu thụ dưới dạng thô dưới dạng nguyên con thì ngày nay do công nghiệp chế
biến phát triển tì sản phẩm sơ chế, đông lạnh và cả đồ hộp đã trở thành phổ biến.
Trong điều kiện khai thác thủy sản có giới hạn thì ngành nuôi trồng càng được chú
trọng đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường một cách bền vững.
Thị trường thế giới: khối lượng hàng hóa ngày càng được trao đổi nhiều trên thế
giới, sản phẩm thủy ản ngày càng được tin tưởng sử dụng rộng rãi. Nhu cầu này trên
thế giới đã tạo điều kiện cho các nước đang phát triển giữ vai trò là người sản xuất
thu nhiều lợi nhuận hơn vì các nơi tiêu thụ thường là các nước phát triển.
Các thị trường tiêu thụ rộng lớn trên thế giới là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của
ngành nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm tham gia vào các thị trường lớn là nguồn thu
mang về ngoại tệ lớn từ việc xuất khẩu sản phẩm, đặc biệt nếu thâm nhập vào được
các thị trường lớn mà đòi hỏi về chất lượng sản phẩm cao mà sản phẩm nội địa có
thể đáp ứng được thì càng nâng cao uy tính trên thị trường thế giới. Việc đưa các
sản phẩm thủy sản tiếp xúc được với nhiều thị trường trên thế giới đã giúp cho
chúng ta có nhiều điều kiện để học hỏi nâng cao hơn chất lượng sản phẩm của quốc
gia mình.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng nhất định đến sự
phát triển của ngành NTTS. Chúng ta phải có những giải pháp nhằm phát huy tốt
hơn các nguồn lực, chú ý đến sự khai thác các nguồn lực cho thích hợp đãm bảo sự
phát triển bền vững.
Đường lối chính sách: phát triển thủy sản có tác dụng định hướng, khuyến
khích ngành thủy sản phát triển. Những thay đổi cơ bản về đường lối chính sách
có tác động mạnh mẽ, đánh dấu bởi những giai đoạn phát triển của ngành.
34
Như vậy, thủy sản là ngành kinh tế chịu tác động tổng hợp của rất nhiều
nhân tố. Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhưng quyết định
sự phát triển của ngành thủy sản là các nhân tố kinh tế - xã hội, trong đó, trụ cột để
xây dựng ngành thủy sản phát triển theo hướng hiện đại là vốn, khoa học kỹ thuật
công nghệ, thị trường và đường lối chính sách.
35
Chương 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CỦA TỈNH TRÀ VINH
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh với hệ thống sông ngòi chằng chịt và nhiều điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế thủy sản. Trong thời gian qua ngành thủy sản nói chung và
ngành NTTS nói riêng luôn được củng cố và không ngừng phát triển góp phần quan
trọng vào việc ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tế, tạo nguồn nguyên liệu quan
trọng cho công nghiệp chế biến, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm
cho người lao động, từng bước hình thành những cụm kinh tế chuyên ngành tạo
điều kiện cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, là động lực để thúc đẩy ngành công
– nông – thương nghiệp và dịch vụ phát triển, góp phần không nhỏ cho việc xây
dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đưa công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất, tạo tiền đề để
thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất, mở rộng phân công lao động về ngành nghề
để sản xuất hàng hóa phát triển, làm nhân tố kích thích phát triển giữa các ngành
các vùng nhất là gắn công nghiệp với nông - lâm - ngư nghiệp góp phần nâng cao
đời sống dân cư trong cộng đồng. Để đạt được thành tựu quan trọng như thế trong
nền kinh tế thì Tỉnh đã có rất nhiều nhân tố thuận lợi từ tự nhiên cho đến kinh tế -
xã hội góp phần thúc đẩy ngành NTTS phát triển.
2.1.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và của từng ngành nói riêng. Trà Vinh với tổng diện tích tự nhiên 2295,1 km2, tỉnh nằm trong tọa độ địa lý giới hạn từ: 9031’46’’ đến 10004’05” vĩ độ Bắc và 105057’16” đến 1060 36’04” kinh độ Đông.
36
BẾN TRE
VĨNH LONG
SÓC TRĂNG
BIỂN ĐÔNG
Đường giao thông
Đường sông
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010
37
+ Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long thông qua quốc lộ 53 dài 168 km, là
tuyến đường giao thông quan trọng với việc giao lưu theo đường bộ chủ yếu diễn ra
trên tuyến quốc lộ 53 nối liền với tỉnh Vĩnh Long giúp cho Trà Vinh nhiều điều kiện
tiếp xúc với các tiến bộ kinh tế, giao thông thông suốt giúp việc buôn bán trao đổi
hàng hóa với các tỉnh và khu vực trong cả nước được thuận lợi hơn.
+ Phía Đông giáp sông Cổ Chiên, ngăn cách với tỉnh Bến Tre, thông qua tuyến
quốc lộ 60 nối Trà Vinh với tỉnh Bến Tre bị chặn bởi dòng sông Cổ Chiên gây
nhiều khó khăn trở ngại trong việc giao lưu buôn bán. Công trình cầu qua sông Cổ
Chiên trên quốc lộ 60 hoàn thành thì sẽ rút ngắn khoảng cách giữa Trà Vinh và
thành phố Hồ Chí Minh một trung tâm kinh tế năng động của miền Nam thông qua
tỉnh Bến Tre, mang đến nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, với hệ
thống giao thông hoàn thiện việc trao đổi, buôn bán diễn ra một cách hiệu quả hơn.
Nằm trong vùng kinh tế tương đối năng động nên việc giao thương vận chuyển
hàng hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc liên kết hợp tác phát triển kinh tế
với khu vực.
+ Phía Tây giáp sông Hậu một trong hai nhánh sông chính của ĐBSCL, ngăn
cách với tỉnh Sóc Trăng và bị chặn lại bởi dòng sông lớn này gây nên nhiều khó
khăn, trở ngại. Qua tuyến phà Đại Ngãi nối Trà Vinh với huyện Cù Lao Dung của
Sóc Trăng.
+ Phía Nam và Đông Nam giáp biển với chiều dài hơn 65 km, đây được xem là
yếu tố quan trọng trong phát triển thủy sản nói chung và NTTS nói riêng. Tỉnh
thường xuyên ở trong tình trạng bị nước biển xâm nhập đã gây nên không ít khó
khăn cho việc trồng lúa nên nhiều vùng nông dân ở đây đã mạnh dạng chuyển hẳn
sang mô hình NTTS hoặc kết hợp với trồng lúa đã đem lại hiệu quả cao, việc tận
dụng nguồn nước ngọt trong mùa mưa để phát triển cây lúa đồng thời khi nước mặn
xâm nhập vào đất ruộng ở khu vực thì người dân tiến hành nuôi thủy sản nước mặn.
Vị trí địa lý của tỉnh mang đến một điều kiện vô cùng quan trọng cho ngành thủy
sản nói chung và ngành nuôi trồng nói riêng với việc mở rộng diện tích nuôi trồng
là đất bãi bồi và cồn nổi để nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa đối tượng
38
nuôi, nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng diện tích nuôi trồng ở vùng bãi bồi và
cồn nổi ven biển, ven sông, vùng đất rừng, đất nông nghiệp ngập nước khi triều lên;
quy hoạch và giao đất bãi bồi, cồn nổi cho hộ dân tham gia tổ hợp tác và hợp tác xã
sản xuất, ưu tiên giải quyết cho đối tượng là hộ ngư dân khai thác hải sản ven bờ
chuyển nghề và hộ nông nghiệp không đất sản xuất ở các xã ven biển. Có địa thế
tiếp giáp với biển Đông ở khu vực này có chế độ bán nhật triều đây là một trong
những điều kiện ảnh hưởng đến ngành NTTS với nguồn lợi tự nhiên từ biển mang
lại với nhiều giống loại thủy sản đa dạng hơn nữa có thể tận dụng nguồn nước biển
mang lại. Là một tỉnh ven biển có gần một nửa diện tích nằm trong vùng bị nhiễm
mặn thuận lợi cho phát triển NTTS thì việc tiếp giáp biển tự nhiên ngoài việc cung
cấp nguồn sinh vật, các rặng san hô, ngoài ra còn giúp cho việc phát triển kinh tế
vùng ven biển với các cảng biển có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế.
Là một tỉnh ven biển ở ĐBSCL và là một bộ phận của đồng bằng hạ lưu của
sông Mêkông với một nguồn nước dồi dào của 2 nhánh sông lớn là vị thế thuận lợi
cho phát triển nuôi trồng thủy sản, đây là khu vực mà ngành thủy sản rất phát triển
với nhiều tiềm năng NTTS nhất và có thể nói đây là vùng có nhiều lợi thế cho phát
triển NTTS nhất thế giới. Trà Vinh có vị trí quan trọng về kinh tế cũng như quốc
phòng. Thông qua các con sông và cửa sông, Trà Vinh có thể dễ dàng giao lưu với
các tỉnh bằng đường thủy, nhờ đó mà việc trao đổi cũng như buôn bán các sản phẩm
được dễ dàng hơn.
Nằm giữa hai nhánh sông lớn này và đổ ra biển cho phép Trà Vinh phát triển cả
3 mặt nước NTTS: mặn lợ và ngọt, nguồn nước ngọt được cung cấp từ sông Cổ
Chiên và sông Hậu cùng với sông Mang Thít giúp cho việc NTTS nước ngọt phát
triển thuận lợi hơn. Ngoài ra do phù sa sông có thể tạo ra những cồn nổi, bãi bồi ven
sông sẽ được quy hoạch tập trung khai thác những điều kiện thuận lợi phục vụ
NTTS. Một mặt, nguồn nước từ hai con sông lớn cung cấp cho các kênh rạch trong
nội đồng phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp trong đó ngư nghiệp sẽ có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn hết. Khu vực trên 2 nhánh sông lớn người dân còn phát triển
các hình thức nuôi lồng bè trên sông đem lại hiệu quả cao.
39
Đặc biệt trên cửa sông Định An, Chính Phủ đang tiến hành đầu tư xây dựng
Cảng cho các luồng tàu thuyền có trọng tải lớn vào sông Hậu mở ra một hướng phát
triển mới cho khu vực ĐBSCL. Đối với tỉnh Trà Vinh sẽ có nhiều điều kiện thuận
lợi hơn trong việc giao lưu buôn bán thúc đẩy kinh tế phát triển.
Với địa thế này tỉnh Trà Vinh được chọn là tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế
biển cả về thủy sản lẫn thế mạnh trong giao lưu quốc tế, phát triển cảng nước sâu
với vai trò khu vực, đặc biệt với nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển thủy sản
được coi là thế mạnh trong phát triển kinh tế của tỉnh trong tương lai.
2.1.2. Các nhân tố tự nhiên
2.1.2.1. Địa hình
Nhìn một cách tổng quát thì địa hình tỉnh Trà Vinh tương đối bằng phẳng là
một đồng bằng ven biển với nhiều cồn cát chạy dọc duyên hải.
Địa hình luôn được xem là yếu tố quyết định trong việc tổ chức quy hoạch
phát triển của các ngành kinh tế. Địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc lưu
giữ, lan toả và thâm nhập của nguồn tài nguyên nước là thành phần thiết yếu trong
NTTS. Địa hình Trà Vinh mang tính chất vùng đồng bằng ven biển, là vùng chịu
ảnh hưởng bởi sự giao thoa giữa sông và biển chính đều này đã làm cho địa hình
của tỉnh hình thành các vùng trũng, phẳng xen lẫn các giồng cát, càng về phía biển,
các giồng cát càng cao và rộng lớn. Do sự chia cắt bởi các giồng và hệ thống trục lộ,
kinh rạch chằng chịt, địa hình toàn vùng khá phức tạp. Các vùng trũng xen kẹp với
các giồng cao, xu thế độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng.
Địa hình các huyện phía bắc bằng phẳng hơn so với các huyện phía nam. Cao
trình bình quân phổ biến từ 0,4 - 1,0 m, chiếm 66% diện tích đất tự nhiên. Phía Bắc
địa hình bằng phẳng hơn phía Nam, địa hình cao nhất trên 4m, dọc ven biển là các
giồng cát, gồm các giồng cát hình cánh cung phân bố ở Nhị Trường, Long Sơn (Cầu
Ngang); Ngọc Biên (Trà Cú); Long Hữu (Duyên Hải). Địa hình thấp nhất dưới 0,4
m, tập trung tại các cánh đồng trũng xã Tập Sơn, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên (Trà Cú);
Thanh Mỹ (Châu Thành); Mỹ Hoà, Mỹ Long, Hiệp Mỹ (Cầu Ngang); Long Vĩnh
(Duyên Hải) với độ cao từ 3 – 5 m.
40
Khu vực có địa hình cao hơn khu vực này được đặc trưng bởi quá trình hình
thành các giồng cát cửa sông có cao trình từ 0,75 - 1,81 m so với mực nước biển.
Địa hình tỉnh Trà Vinh rất phức tạp, cây lúa chiếm ưu thế ở các vùng trung bình
- thấp, một số vùng trũng ven sông có thể nuôi tôm tự nhiên hoặc tiến hành các hình
thức nuôi xen canh tôm cá trên ruộng lúa, nuôi ở các mương vườn đây là một trong
những hình thức đầy triển vọng trong phát triển nông nghiệp của tỉnh. Sự phân cắt
của các giồng cát đã làm cho việc thực hiện các công trình dẫn ngọt khó khăn cũng
như tập trung nước mưa nhanh gây ngập úng cho các vùng trũng kẹp giữa giồng.
Nhìn chung, địa hình thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp là từ: 0,6 - 1m. Cao trình
này thích hợp cho việc tưới tiêu tự chảy, ít bị hạn cũng như không bị ngập úng. Địa
hình có hướng cao dần ra hướng bờ biển vì vậy ảnh hưởng của thủy triều có thể vào
rất sâu, ở bờ biển đông có chế độ bán nhật triều tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nuôi trồng thủy sản nước lợ phát triển. Địa hình tương đối bằng phẳng với các ao,
hồ, mương ruộng đều là những nơi có thể tiến hành nuôi trồng thủy sản và kể cả
nuôi các diện tích mặt nước ở các sông lớn.
Địa hình đáy biển ven bờ: thành phần cơ học của nền đáy là đặc tính thỗ nhưỡng
của nền đáy nơi có thủy vực quyết định cụ thể phân thành các nền đáy căn cứ vào cá
hạt nhỏ kích thước dưới 0,01mm.
+ Nền đáy đá: không có hạt nhỏ, suối, sông đầu nguồn vùng núi chỉ có tảng đá
lớn.
+ Nền cát: các hạt có kích thước nhỏ chiếm < 5%.
+ Nền cát bùn: các hạt kích thước nhỏ chiếm 5 -10%.
+ Nền bùn cát: các hạt có kích thước nhỏ chiếm 10 – 30 %.
+ Nền bùn: các hạt kích thước nhỏ chiếm 30 -50%.
+ Nền bùn nhão: các hạt kích thước nhỏ chiếm 50 %.
Căn cứ vào các đặc điểm trên thì ở đây địa hình vùng đáy ven biển là phần sát
bờ tính từ mép nước đến độ sâu 5m có bề rộng 5-10km, cấu tạo chủ yếu cát hạt mịn,
phần tiếp theo từ độ sâu 5m đến độ sâu 10m có bề rộng 10km, cấu tạo chủ yếu là
bùn sét.
41
Địa hình tỉnh Trà Vinh tuy có sự phân hóa và có nhiều độ cao khác nhau, nhưng
địa hình ở đây 100% hoàn toàn là đồng bằng đây là một trong những điều kiện tổ
chức phát triển sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi cho
ngành NTTS phát triển trong điều kiện địa hình tương đối bằng phẳng.
2.1.2.2. Khí hậu
Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ven biển, có điều kiện
ánh sáng bức xạ dồi dào, nền nhiệt độ cao và ổn định, tuy nhiên, do đặc thù của
vùng khí hậu ven biển tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như: gió
chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít,... Các yếu tố của khí hậu có ảnh hưởng nhất định
đến sự sinh trưởng và phát triển của thủy sinh vật.
Một năm có hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau.
- Nhiệt độ không khí: trung bình toàn tỉnh là 27,2oC, nhiệt độ cao nhất đo được là 35,8oC, nhiệt độ thấp nhất đo được là 18,50C. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm thấp: 6,4oC. Đây là điều kiện để thủy sinh vật (tôm, cá,…) tồn tại và phát triển trong nền nhiệt giới hạn phát triển của thủy sinh vật từ 200 - 300C. Yếu tố này có vai
trò quan trọng trong phát triển thủy sản ở Trà Vinh, đây là điều kiện giúp cho các
loài thủy sinh vật phát triển quanh năm là điều kiện thuận lợi cho việc thich nghi
phát triển của một số loài có giá trị kinh tế cao như: tôm sú, cua biển,....
- Bức xạ: toàn tỉnh có tổng số giờ nắng cao: 7,7 giờ/ngày, bức xạ quang hợp
dồi dào: 82 cal/năm, cán cân bức xạ luôn dương cho phép cây trồng, vật nuôi phát
triển quanh năm. Số giờ chiếu sáng cao và tương đối đồng đều là tiền đề cho quá
trình quang hợp và tổng hợp chất hữu cơ của sinh vật. Độ ẩm trung bình năm biến
thiên từ 80 - 85%.
- Chế độ mưa: Mưa là yếu tố khí hậu biến động mạnh theo không gian và
thời gian, và là yếu tố có nhiều tác động - ảnh hưởng lớn đối với nền Nông nghiệp –
Thủy sản, phân bố không ổn định và phân hóa mạnh theo thời gian và không gian.
+ Về thời gian: 90% lượng mưa của năm tập trung vào mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5 đến tháng 11, các tháng có lượng mưa cao nhất là từ tháng 6 - tháng 10.
42
+ Về không gian: lượng mưa giảm dần từ Bắc xuống Nam, cao nhất ở Càng
Long, Trà Vinh; thấp nhất ở Cầu Ngang và Duyên Hải; ở các huyện gần biển, mùa
mưa bắt đầu muộn nhưng kết thúc sớm. Địa phương có số ngày mưa cao nhất là
huyện Càng Long (118 ngày), thị xã Trà Vinh (98 ngày); thấp nhất là huyện Duyên
Hải (77 ngày) và huyện Cầu Ngang (79 ngày).
Tổng lượng mưa từ trung bình đến thấp 1.227 - 1.588mm, mùa mưa đến sớm
hơn, nông dân có điều kiện rửa mặn và xuống giống sớm, sản xuất lúa - tôm kết hợp
đem lại hiệu quả cao.
Nhìn chung, do mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian, khiến
ảnh hưởng ít nhiều đến việc sản xuất Nông nghiệp – Thủy sản. Khoảng 90% lượng
mưa tập trung vào thời điểm ngập lũ khiến tình hình trầm trọng hơn, trong khi đó
vào mùa khô thì rất ít mưa khiến xảy ra tình trạng khô hạn kéo dài. Tuy nhiên, việc
tận dụng được các lợi thế do lượng mưa dồi dào đem lại, cũng như việc gia cố
chống lũ tốt, sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa sản phẩm sản xuất cho
ngành Nông nghiệp – Thủy sản.
- Chế độ gió và hướng gió: ảnh hưởng của chế độ gió mùa rõ rệt. Tháng 5 - 9
(mùa mưa): hướng gió chính là Tây - Nam đến Tây Tây - Nam. Cuối tháng 9 - 10:
gió giảm dần, và đổi hướng Tây - Nam đến Đông Đông - Bắc. Tháng 12 - 2: gió
thổi hướng Đông - Bắc đến Đông - Nam. Tháng 3 - 5: gió thổi theo hướng Đông
đến Đông Đông - Nam.
Gió mùa Đông Bắc hoặc Đông Nam (gió chướng) hoạt động từ tháng 11
năm trước đến tháng 3 năm sau có hướng song song với các cửa sông lớn. Gió
chướng là nguyên nhân khiến cho nước biển dâng cao và đẩy mặn truyền sâu vào
nội đồng điều kiện thuận lợi tiến hành NTTS nước lợ. Vận tốc gió đạt cao nhất đạt 5
- 8 m/s (chủ yếu trong tháng 2, 3) và thường mạnh vào buổi chiều. Sự xuất hiện các
đỉnh mặn do gió chướng tác động đã làm cho việc sản xuất không ổn định trong thời
gian này.
- Tổng lượng bốc hơi toàn tỉnh cao, bình quân 1.293 mm/năm. Vào mùa khô,
lượng bốc hơi rất mạnh từ 130 - 150 mm/tháng, nhất là các vùng giồng cát cao và
43
khu vực sát biển, gây ra sự khô hạn gay gắt ở các vùng này. Riêng huyện Duyên
Hải, lượng bốc hơi cao hơn lượng mưa năm đã gây ra sự mao dẫn muối lên và tập
trung ở tầng mặt làm cho lý tính đất trở nên xấu và khó sử dụng hơn.
Biểu đồ 2.1: Thể hiện nhiệt độ và lượng mưa của tỉnh Trà vinh năm 2010
mm
mm
0C
450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
30 29 28 27 26 25 24 23 22 21 0C Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Tháng
lượng mưa
nhiệt độ
Với khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình của khu vực đây là điều kiện thuận
lợi phát triển nông nghiệp nhiệt đới, nhiệt độ và độ ẩm phù hợp với một mùa mưa
và một mừa nắng tạo điều kiện cho cây lúa và con tôm sinh trưởng và phát triển tốt.
2.1.2.3. Thủy văn
Trà Vinh vốn là một Cù Lao lớn giữa sông Tiền và Sông Hậu với hai con
sông chính là sông Cổ Chiên (một nhánh của sông Tiền) và sông Hậu. Có 3 dòng
sông lớn Hậu Giang, sông Cổ Chiên và sông Măng Thít với tổng chiều dài 578km
nếu tính luôn cả hằng trăm sông kênh rạch nhỏ cùng nhiều kênh đào dẫn nước từ
sông chính về đồng ruộng thì tổng chiều dài là 1876 km. Nguồn nước do sông Hậu,
Cổ Chiên, Mang Thít tạo cho tỉnh Trà Vinh một tài nguyên dồi dào đây là nguồn
cung cấp nước trực tiếp cho toàn bộ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của tỉnh như
phục vụ thủy lợi, tưới tiêu, giao thông.
44
Nguồn nước mặt của tỉnh chủ yếu lấy nước ngọt từ sông Mê Kông thông qua
hai nhánh sông được phân chia trên lãnh thổ Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu và
nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước
bình quân của sông Mê Kông chảy qua Đồng bằng sông Cửu Long nói chung hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Nguồn nước ngọt được
cung cấp bởi hai dòng sông chính: Cổ Chiên là nhánh sông của sông Tiền và sông
Hậu là điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS nước ngọt phát triển với lượng nước
mặt phong phú.
- Sông Hậu chảy theo hướng Tây Bắc Đông Nam, đoạn qua địa bàn tỉnh Trà
Vinh có chiều dài 55 km. Sông đổ ra biển theo cửa Định An, lưu lượng nước bình quân 2.000 - 3.000 m3/s đủ để cung cấp nước ngọt cho các kênh rạch, ao hồ trong
nội đồng phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất nông nghiệp đặc biệt ngành NTTS trên
địa bàn tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi hơn.
- Sông Cổ Chiên là một trong ba nhánh chính của sông Tiền, đoạn ngang
Vĩnh Long cách biển khoảng 100km thì sông Tiền chia ra thành sông Cổ Chiên và
sông Mỹ Tho, đoạn sông Cổ Chiên chảy qua địa bàn tỉnh Trà Vinh có chiều dài
khoảng 45 km. Mặt sông rộng nhất ở khu vực huyện Càng Long (1.800 - 2.100 m). Lưu lượng nước 12.000 - 19.000 m3/s. Hàm lượng phù sa 100 - 500 g/m3.
Hai hệ thống sông chính này giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước
ngọt cho các vùng NTTS thông qua hệ thống sông nội đồng. Hệ thống kê rạch
chằng chịt Trà Vinh cung cấp nước cho các khu vực nuôi thủy sản. Mật độ kinh trục
phân bố khá đều trong tỉnh từ 4 - 10 m/ha. Đối với mật độ kinh nội đồng, Trà Vinh
có mật độ còn thấp (< 50% so với yêu cầu sản xuất). Trong đó, huyện có mật độ
kênh cao nhất của toàn tỉnh là huyện Tiểu Cần (45 m/ha); thấp nhất là huyện Duyên
Hải, Trà Cú, Cầu Ngang (18 - 28 m/ha).
Trên địa bàn tỉnh có các kênh trục chính có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế là:
- Phía sông Cổ Chiên: rạch Láng Thé, kênh Trà Vinh, rạch Bãi Vàng, rạch
Thâu Râu.
45
- Phía sông Hậu: Rạch Mỹ Văn, sông Cần Chông, rạch Trà Cú, Tống Long,
Vàm Ray, kênh Láng Sắc (Nguyễn Văn Pho).
- Hệ thống kênh trục dọc: Kênh Trà Ngoa, kênh 3/2.
Các hệ thống sông thống nhất quan trọng mang nhiệm vụ tiếp nước ngọt đều
tiết nguồn nước cho từng vùng có thể phục vụ cho sản xuất sinh hoạt đồng thời đối
với hoạt động NTTS thủy sản thì việc cung cấp nước cho ao nuôi cũng như tháo rửa
ao, thay nước cho ao,….
Hệ thống thủy văn của tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ triều biển
Đông. Đây là chế độ bán nhật triều không đều, ngày có 2 lần triều lên và 2 lần triều
xuống, mỗi tháng có 2 kỳ triều cường (vào ngày 1 và 15 âm lịch) và 2 kỳ triều kém
(vào ngày 7 và 23 âm lịch). Vùng đất phía Tây quốc lộ 53 của huyện bị xâm nhập
mặn vào mùa khô, chủ yếu từ sông Hậu như rạch Trà Cú, Tổng Long, Vàm Ray. Do
gần biển, biên độ và mực nước trên sông rạch khá cao nên tiềm năng tiêu tự chảy
của tỉnh rất lớn, chỉ riêng một phần ở Càng Long và khu vực giữa tỉnh (phần giáp
ranh của các huyện: Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang) do có sự giáp
nước từ nhiều hướng và biên độ triều tắt nhanh nên bị ngập kéo dài 3 - 4 tháng.
Chế độ triều biển đông có biên độ triều khá lớn trên 2 m, đạt tối đa 3,59m,
đặc biệt trong chu kỳ triều Maton (chu kỳ 19 năm) có thể lên đến 4 - 4,2 m.
Nhìn chung, khoảng 1/3 diện tích đất tự nhiên của tỉnh bị ngập khá sâu vào
mùa mưa (> 0,6 m) phân bố tập trung ở ven sông và các trũng giữa giồng của các
huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú. Các vùng gò ngập ít (< 0,4 m) phân bố chủ
yếu ở khu vực giữa tỉnh (thuộc vùng lúa cao sản), đây là vùng có khả năng canh tác
màu và thâm canh lúa cao sản nhưng dễ bị hạn ảnh hưởng. Bên cạnh các vùng gò
ngập ít, do bị mặn ảnh hưởng nên dù động lực triều cao nhưng chỉ một phần diện
tích của tỉnh có khả năng sử dụng nước sông để tưới tiêu hoặc tiến hành nuôi trồng
thủy sản ở những vùng nhiễm mặn.
Thủy triều biển Đông gia tăng biên độ khi tiến sát đến cửa sông và bắt đầu
giảm dần khi truyền sâu vào đất liền. Đặc biệt về mùa kiệt, ảnh hưởng của triều
trong hệ thống sông rất lớn. Biên độ triều cũng giảm nhanh khi vào các kênh rạch
46
nhỏ. Khi đến mùa lũ triều yếu đi, nhưng nó cũng là một yếu tố làm mực nước lũ
tăng cao. Hàng năm, có khoảng 90% diện tích đất tự nhiên của tỉnh bị nhiễm mặn
trung bình 4gr/lít trong phạm vi 30 km tính từ biển trở vào. Hiện tượng nhiễm mặn
thường bắt đầu từ tháng 12 tại Hưng Mỹ trên sông Cổ Chiên và Trà Ngoa trên sông
Hậu. Mặn lên cao nhất vào tháng 4 tại cửa Vũng Liêm (sông Cổ Chiên) và Cầu
Quan (sông Hậu). Mặn thường kết thúc vào tháng 6, thời gian sớm hay muộn phụ
thuộc vào thời gian, lượng mưa tại thượng nguồn và địa phương. Dựa trên ranh giới
độ mặn 4‰, có thể chia ra thành những vùng có cấp độ mặn như sau: Vùng mặn
thường xuyên độ mặn 4‰: chiếm 17,7%, vùng mặn 5 - 6 tháng chiếm 25,8%, vùng
mặn 4 tháng (từ tháng 2 - 5 dương lịch) chiếm 13,9%, vùng mặn 3 tháng (từ tháng 3
- 5 dương lịch) chiếm 16,6%, vùng mặn 2 tháng (từ tháng 4 - 5 dương lịch) chiếm
1,8%, vùng mặn 2 tháng bất thường (từ tháng 4 - 5 dương lịch) chiếm 15,1%.
Một vấn đế lớn đối với tài nguyên nước mặt ở tỉnh, đó là hiện tượng nước
chua. Nước chua thường xảy ra ở vùng đất phèn, một số nơi chịu ảnh hưởng nước
chua từ nơi khác đến nhưng không nhiều. Trong mùa khô, khi nước ở kênh rạch cạn
làm tăng khả năng oxy hóa tầng đất Pyrite sinh ra các sản phẩm gây chua và mao
dẫn đưa lên tầng đất mặt. Đầu mùa mưa, nước mưa hòa tan các sản phẩm này làm
cho ruộng bị chua và sau đó chảy xuống kênh làm cho nước ở kênh bị nhiễm chua.
● Sự xâm nhập mặn: Do vị trí địa lý tự nhiên nên Trà Vinh bị ảnh hưởng
mặn trực tiếp từ phía Đông và biển phía Tây tác động lên cả vùng ĐBSCL nói
chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng qua hai hệ thống sông chính là sông Tiền và Sông
Hậu, đặc biệt trong mùa kiệt khi mà lưu lượng thượng lưu về ít mà độ dốc đáy sông
nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho thủy triều xâm nhập sâu vào trong hệ thống sông
kênh nội đồng đây là nguồn cung nước cho các hình thức nuôi mặn lợ. Do chế độ
bán nhật triều không đều ở biển Đông, nên việc truyền mặn từ các vùng biển này
vào các cửa sông cũng theo nhịp điệu của quá trình triều: tại một vị trí cố định,
trong ngày thường có 2 đỉnh mặn và 2 chân mặn, thường thì quá trình mặn chậm
hơn quá trình mực nước khoảng 1-2 giờ, độ mặn cũng giảm dần từ cửa sông vào.
47
Trà Vinh vốn được xem là một cù lao lớn nằm giữa sông Tiền và Sông Hậu
hằng năm khi nước biển xâm nhập vào sâu nội đồng thì phần lớn lãnh thổ đều bị
nhiễm mặn. Vào cuối mùa lũ, khi nguồn nước từ thượng lưu về trong sông giảm
dần, mặn từ biển bắt đầu lấn dần vào vùng cửa sông và theo triều xâm nhập vào sâu
lên thượng lưu. Theo quan sát mức độ xâm nhập mặn lớn nhất là vào tháng 4 - 5
hàng năm trên các nhánh sông, sau đó giảm dần theo thứ tự là tháng 3, tháng 2,
tháng 1, tháng 6, tháng 8, tháng 9 và yếu nhất là tháng 10. Từ tháng 6, do ảnh
hưởng của sự gia tăng nước ngọt thượng nguồn vào những tháng đầu mùa lũ và mùa
mưa tại đồng bằng, nước mặn bị đẩy ra xa vùng ven biển.
Nguồn nước ngầm trong vùng tương đối thấp chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt
hầu như toàn bộ nước ngầm trên vùng này đều bị nhiễm mặn. Các huyện ven biển
thường hay bị nhiễm mặn cục bộ đây là điều kiện để tỉnh tiến hành nuôi thủy sản
đồng thời luân canh với cây lúa vào những tháng mùa mưa hoặc những tháng nước
ngọt.
2.1.2.4. Thổ nhưỡng
Tổng diện tích đất toàn tỉnh là 234.115 ha, với những đặc điểm thổ nhưỡng
khác nhau thì những diện tích đất được khai thác vào những mục đích phù hợp.
Theo số liệu thống kê năm 2010 được thể hiện ở bảng 2.1, tổng diện tích đất sản
xuất nông nghiệp là 185.091 ha chếm 79,1% trong cơ cấu sử dụng đất, đất phi nông
nghiệp 47.932 ha chếm 20,5%, đất diêm nghiệp 195,8 ha chếm 0,1%, bên cạnh đó
diện tích đất chưa sử dụng là 896,9%. Trong tổng diện tích đất sử dụng cho nông
nghiệp thì diện tích đất dùng trong NTTS là 29.632 ha chếm 12,7% trong cơ cấu đất
nông nghiệp.
48
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Trà Vinh năm 2010
Tổng số (ha) Cơ cấu (%)
185.091 79,1 - Đất NN
148.569 63,5 + Đất sản xuất NN.
6.684 2,9 + Đất lâm nghiệp có rừng
29,632 12,7 + Đất nuôi trồng thủy sản.
207 0,1 + Đất NN khác.
47.932 20,5 - Đất phi NN
4.444 1,9 + Đất ở
13.433 5,7 + Đất chuyên dùng
897 0,4 - Đất chưa sử dụng
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám Thống kê 2010).
Ngoài những diện tích đất sử dụng vào mục đích chính thì còn nhiều diện tích
được sử dụng vào các hoạt động kinh tế xã hội khác. Diện tích đất chưa sử dụng còn
tương đối có thể khai thác tận dụng quy hoạch đưa vào các mục đích kinh tế khác.
Mặt khác, đặc điểm thổ nhưỡng của khu vực là đất bị nhiễm mặn do địa hình
lòng chảo cao dần ra hướng bờ biển. Vùng nội đồng vốn là vùng sinh thái nước ngọt
nhưng với địa hình lòng chảo đã làm cho vùng này bị nhiễm mặn tuy có những khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp nhưng lại là những tiềm năng cho phát triển NTTS.
Vì ảnh hưởng của thủy triều có thể xâm nhập rất sâu vào nội địa trong mùa khô, gây
khó khăn trong việc chuyên canh cây lúa nhưng lại là điều kiện thuận lợi để nuôi
tôm nước lợ. Vào mùa mưa, nước được ngọt hóa, phù hợp để trồng lúa. Như vậy,
trong một năm phương thức canh tác phù hợp, có hiệu quả cao ở khu vực này là
luân canh nuôi một vụ tôm, trồng một vụ lúa.
Các nhóm đất: Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2010 tổng diện tích
đất tự nhiên của tỉnh Trà Vinh là 234.116 ha. Đất đai được chia thành các nhóm
chính như sau:
- Đất cát giồng: là các giồng cát hình cánh cung chạy dài song song với bờ
biển, thuộc địa bàn các huyện Trà Cú, Cầu Ngang, Duyên Hải, Châu Thành. Độ cao
địa hình từ 1,4 - 2 m. Loại đất này thích hợp trồng cây ăn trái và hoa màu.
49
- Đất phù sa: chia thành các loại sau:
+ Đất phù sa phát triển trên chân giồng cát phân bố chủ yếu ở Trà Cú, Duyên
Hải, Châu Thành. Đất này hình thành ở địa hình cao từ 0,8 - 1,2 m, không bị ngập
nước do triều. Loại đất này đang được sử dụng trồng hoa màu với cơ cấu 2 - 3
vụ/năm hoặc luân canh lúa - màu. Tuy nhiên, năng suất và mùa vụ chưa ổn định.
+ Đất phù sa không nhiễm mặn phân bố chủ yếu ở Cầu Kè, Càng Long, một
phần nhỏ phân bố ở Tiểu Cần, Châu Thành. Đất có độ cao từ 0,6 - 1,2 m, chủ yếu
trồng lúa 2 - 3 vụ/năm, một số diện tích có thể trồng cây ăn trái hay hoa màu.
+ Đất phù sa nhiễm mặn ít nằm trong vòng cung mặn, nước kênh rạch bị
nhiễm mặn 2 - 5 tháng. Loại đất này phân bố tập trung tại Trà Cú, Tiểu Cần, Cầu
Ngang; một phần nhỏ phân bố ở Cầu Kè, Châu Thành. Độ cao từ 0,6 - 1,2 m nên
hầu như không bị ngập úng. Đất thích hợp trồng lúa 2 vụ/năm hay 1 vụ lúa + 1 vụ
màu.
+ Đất phù sa nhiễm mặn trung bình có nguồn nước bị nhiễm mặn từ 6 - 8
tháng phân bố tập trung ở Cầu Ngang, Duyên Hải và một ít ở Trà Cú, Châu Thành.
Đất thấp nên thường bị ngập khi triều cường hoặc ngập theo mùa. Điều kiện canh
tác khá hạn chế, chỉ trồng lúa 1 vụ vào mùa mưa và kết hợp nuôi trồng thủy sản.
+ Đất phù sa nhiễm mặn nhiều: tập trung ở Duyên Hải, thời gian mặn trên 8
tháng, độ mặn 10‰. Đất này sử dụng cho nuôi trồng thủy sản, khoanh nuôi bảo vệ
rừng và làm muối.
- Đất phèn gồm có các loại:
+ Đất phèn không nhiễm mặn: phân bố ở Càng Long, Cầu Kè. Địa thế cao,
không bị ngập lũ, có thể cải tạo để trồng lúa.
+ Đất phèn nhiễm mặn ít: tập trung ở Châu Thành, Cầu Ngang, có thể cải tạo
để trồng lúa.
+ Đất phèn nhiễm mặn trung bình: phân bố ở Châu Thành, Duyên Hải, Cầu
Ngang, Trà Cú. Địa hình khá cao, từ 0,6 - 1,2 m, không thể ngập lũ. Người dân ở
đây có thể canh tác bằng cách trồng lúa mùa, nuôi thủy sản.
50
+ Đất phèn nhiễm mặn nhiều, tập trung ở Duyên Hải. Đất nhiễm mặn quanh
năm do ảnh hưởng của biển, chỉ thích hợp trồng rừng ngập mặn.
Nhìn chung, đất đai ở Trà Vinh có đến 56% diện tích nhiễm mặn và 27% diện
tích nhiễm phèn. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tỉnh phải thực hiện nhiều dự án
cải tạo đất nhằm rửa phèn, rửa mặn. Dự án thủy lợi Nam Mang Thít (Nam Măng
Thít) là một trong những công trình trọng điểm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đầu tư trên địa bàn hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Mục tiêu của dự án
là nhằm kiểm soát mặn, lấy nước và giữ nước ngọt, tiêu úng, tiêu chua, rửa phèn
cho gần 171.626 ha đất canh tác và 225.628 ha đất tự nhiên, đồng thời có nhiệm vụ
cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng, kết hợp khai thác nguồn lợi thủy sản,
phát triển giao thông, cải tạo môi trường.
Những loại đất mà không thể canh tác nông nghiệp thì cơ quan quản lý tiến
hành quy hoạch chuyển đổi diện tích sử dụng sang NTTS cho phù hợp với đặc tính
đất đai của từng vùng, tùy từng loại đất mà có hình thức phát triển thích hợp với
quy mô nhất định. Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh có rất nhiều diện tích đất dần dần do
sự tác động của tự nhiên đã làm thay đổi tính chất của đất vốn là những diện tích đất
phù sa dọc sông Cổ Chiển và sông Hậu hiện nay với sự thay đổi thất thường tự
nhiên làm cho nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng gây nhiễm mặn cục bộ trên
diện rộng, từ đó cơ quan chính quyền địa phương đã tiến hành chuyển sang NTTS ở
những vùng có nước mặn xâm nhập vào những khoảng thời gian nhất định và
những vùng ven biển.
2.1.2.5. Tài nguyên thiên nhiên
Trong bất kỳ nền hoạt động sản xuất nào thì nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn
là yếu tố quyết định sự phát triển của các ngành kinh tế. Trong ngành NTTS thì
nguồn lợi thủy sản càng giữ vai trò quan trọng hơn hết. Nguồn lợi thủy sản là một
bộ phận nông sản tự nhiên nói chung, là nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng quý giá,
có khả năng tái tạo, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và đời sống
nhân dân.
51
Nguồn lợi thủy sản cũng tương đối phong phú có hơn 660 loài thủy sản sinh
sống, Trà Vinh có bờ biển dài 65 km, là vùng biển nông, thuộc khu vực tiếp giáp
của 2 vùng biển Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đây là vùng biển có nguồn tài
nguyên phong phú, có giá trị kinh tế cao. Biển không chỉ cho tiềm năng về hải sản
mà còn có thể phát triển thương mại và du lịch.
- Biển Trà Vinh có nhiều tôm cá và các loại thủy sản khác. Trữ lượng thủy
sản khoảng 1,2 triệu tấn/năm, khả năng khai thác 630.000 tấn/năm. Thực vật phù du
có 73 loài thuộc 5 ngành, đa phần tập trung vào ngành tảo Silíc và các nhóm tảo có
nguồn gốc nước mặn. Mật độ trung bình đạt 666 cá thể/ lít.
- Động vật phù du có 48 loài, số động vật nổi vùng ven bờ đạt bình quân 15.600 cá thể/m3 (biến động từ 4.000 - 34.000 cá thể/m3). Động vật đáy (cỡ nhỏ) ở
vùng biển Trà Vinh khá phong phú.
Với nguồn lợi thủy sản tự nhiên phong phú giúp cho ngành NTTS có nhiều
điều kiện phát triển với nhiều giống loài đa dạng nguồn giống tự nhiên là cơ sở để
lai tạo ra những giống thủy sản khác làm phong phú hơn các đối tượng nuôi trên
khu vực.
Diện tích lưu vực tự nhiên của tỉnh là 21.265 ha và khoảng 98.597 ha ngập
nước từ 3 - 5 tháng/ năm, trữ lượng thủy sản nội đồng ước tính của Trà Vinh là
3.000 - 4.000 tấn, khai thác thường xuyên từ 2.000 - 2.500 tấn. Nguồn lợi thủy sản
vùng ven biển Trà Vinh bao gồm nguồn lợi cửa sông, rừng ngập mặn và vùng nước
ven biển có độ sâu 30 - 40 m nước vào bờ.
Nguồn cá ven biển có 40 họ, 78 giống và 150 loài gồm cá biển ven bờ, cá
nước lợ và cá di cư. Trữ lượng cá vùng cửa sông ven biển Trà Vinh trên diện tích
lưới quét năm 1994 là 62 tấn (khu cửa sông ), 274 tấn cá nổi và cá tầng giữa; khu
nước mặn và lợ là 9.063 tấn, cá nổi và cá tầng giữa là 63.470 tấn. Tổng trữ lượng
khu cửa sông, ven biển là 72.869 tấn, khả năng khai thác (50%) là 36.434 tấn.
Theo điều tra của Phân viện Kinh tế Qui hoạch Thủy sản phía Nam - Bộ
NN&PTNT (Bộ Thủy sản cũ) khảo sát thực tế ngư trường, cho biết: “Ngư trường có
khả năng khai thác biển ở Trà Vinh có diện tích hơn 45.536 hải lý vuông. Trong đó:
52
độ sâu từ 0 - 30 m = 3.001 hải lý vuông; từ 30 - 50 m = 22.499 hải lý vuông; 50 -
100 m = 14.788 hải lý vuông; 100 - 200 m = 5.248 hải lý vuông. Lượng tôm phân
bố chủ yếu gần bờ khoảng 20m trở vào.
Trà Vinh có 2 bãi tôm lớn gồm: bãi tôm ở phía bắc cửa Cung Hầu (sông Cổ
Chiên), có diện tích khoảng 30.000 ha kéo dài từ thị trấn Mỹ Long (Cầu Ngang) ra
đường thẳng sâu 30m và kéo dài lên địa phận tỉnh Bến Tre; mùa vụ khai thác bãi
tôm này trong mùa khô đạt khoảng 40%, sản lượng cao vào các tháng 11 năm trước
đến tháng 1 năm sau và trong mùa mưa đạt khoảng 60% tổng sản lượng, sản lượng
cao vào các tháng tháng 6 - 9 hàng năm. Bãi tôm cửa Định An diện tích khoảng
20.000 ha là bãi tôm lớn nhất trong 5 bãi tôm ở dải ven biển Đồng bằng Sông Cửu
Long. Ước tính trữ lượng tôm biển tại hai bãi tôm chính là 97 - 212kg/ha (Bắc Cung
Hầu) và 64 - 249kg/ha (Cửa Định An); tổng sản lượng tôm biển của Trà Vinh
khoảng 4.300 - 11.000 tấn/năm. Có thể khai thác mỗi năm 2.000 - 3.000 tấn mực;
35 - 49 tấn sò huyết/năm; trữ lượng nghêu khoảng 168 - 210 tấn.
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, năm 2010 tỉnh Trà Vinh có 32.841 ha
diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản; sản lượng thủy sản khai thác năm 2010 đạt
77.276 tấn, chiếm khoảng 7,8% sản lượng thủy sản khai thác trong năm của khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long, sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2010 đạt
82.777 tấn chếm 4,3 % sản lượng nuôi trồng của cả ĐBSCL.
Nguồn lợi thủy sản có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế thủy sản.
Đây vừa là nguồn lợi phục vụ nhu cầu đánh bắt vừa phục vụ việc cung ứng nguồn
giống tự nhiên trong nuôi trồng.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Theo số liệu thống kê năm 2010 dân số trung bình của tỉnh là 1.005.856 nghìn người, mật độ 440 người/km2. Trong đó số nam chếm 495.593 người, số nữ chếm
510.263 người, khu vực thành thị 154.751 người, nông thôn 851.105 người.
53
Theo số liệu thống kê 2010, dân số Trà Vinh chiếm 5,82% Đồng bằng sông
Cửu Long, trong đó hơn 85% sống ở khu nông thôn, Trà Vinh là tỉnh có quy mô
dân số nhỏ.
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, dân số tỉnh Trà Vinh năm 2010 là
1.005.856 người, đứng thứ 11 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, cao hơn tỉnh
Bạc Liêu và tỉnh Hậu Giang. Dân số Trà Vinh tăng liên lục qua các năm, tốc độ
tăng tự nhiên các năm trước khá cao, nhưng đã giảm mạnh trong những năm gần
đây. Năm 2006 tỷ lệ gia tăng tự nhiên là 12,35‰ đến năm 2010 còn 9,3‰. Mức
tăng tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao hơn so với trung bình cả nước. Dân cư Trà Vinh phân bố không đều. Thị xã Trà Vinh có mật độ cao nhất (1.484 người/km2 vào năm 2010). Huyện Duyên Hải có mật độ thấp nhất (236 người/km2 vào năm 2010).
Dân cư phân bố thưa dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Các huyện có điều kiện tự
nhiên thuận lợi như Càng Long, Cầu Kè có mật độ tương đối cao; các huyện có điều
kiện tự nhiên khó khăn như Cầu Ngang, Duyên Hải có mật độ khá thấp.
Biểu đồ 2.2: Thể hiện dân số trung bình phân theo giới tính
của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)
Người
1.000.782
1.003.164
1.005.856
993.706
997.188
505.134
503.381
509.055
510.263
506.929
492.054
490.325
493.853
494.109
495.593
1.200.000 1.000.000 800.000 600.000 400.000 200.000
0
2006
2007
2008
2009
2010 Năm
Tổng số Nam Nữ
54
Dân số trung bình toàn tỉnh xét trong giai đoạn ở hình 2 luôn tăng, trong đó
dân số nam và nữ trong giai đoạn đều giữ mức tăng ổn định. Trong tổng dân số của
tỉnh thì dân số nữ luôn cao hơn dân số nam. Dân số nữ năm 2006 chếm 503.391
người đến năm 2010 tăng lên 510.263 người, trong khi dó dân số nam năm 2006 là
490.325 người tăng lên 495.593 người năm 2010.
Cơ cấu dân số:
- Xét theo độ tuổi, Trà Vinh là địa phương có dân số trẻ tỷ lệ trẻ em cao.
Ngày nay, mức sinh đã giảm nhưng kết cấu dân số vẫn trẻ. Theo số liệu Tổng điều
tra dân số năm 2009, Trà Vinh có 23,17% dân số trong độ tuổi dưới 15, chỉ có 8,1%
dân số trong độ tuổi từ 60 trở lên, số người trong độ tuổi từ 15 – 60 tuổi chếm
68,73% tức là có 762,508 người trong độ tuổi này. Kết cấu dân số trẻ của Trà Vinh
được lý giải bởi tỷ suất sinh thô khá cao trong một thời gian dài, làm gia tăng tốc độ
tăng dân số tự nhiên. Dân số trẻ giúp Trà Vinh có nguồn lao động dồi dào. Tuy
nhiên, do kinh tế của tỉnh chủ yếu dự vào nông nghiệp nên số lao động dư thừa khá
cao, nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết như: việc làm, y tế, giáo dục.
- Về lực lượng lao động, Trà Vinh có dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào. Theo
số liệu thông kê năm 2010 thì toàn tỉnh có 585.926 người tuy nhiên vấn đề việc làm
chưa được giải quyết tốt. Hàng năm có khoảng 10.000 lao động của tỉnh tìm kiếm
việc làm ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.
Bảng 2.2: Dân số trung bình phân theo thành thị và nông thôn ở tỉnh Trà Vinh.
Đơn vị: Người
Năm
2006 2007 2008 2009 2010 Khu
vực
145.081 148.082 151.118 153.819 154.751 Thành Thị
848.625 849.106 849.664 849.345 851.105 Nông Thôn
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (NGTK – 2010)
55
Tỷ lệ dân số nông thôn của tỉnh luôn cao và chếm tỷ lệ lớn hơn dân số thành
thị trong cơ cấu dân số của tỉnh. Dân số nông thôn luôn giữ ở mức trên khoảng 800
nghìn người trong khi đó dân số thành thị chỉ khoảng 150 nghìn người (Bảng 2.2).
Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp đặc
biệt là ngành thủy sản sử dụng lao động chủ yếu là lao động nông thôn.
Trên địa bàn tỉnh có 3 nhóm dân tộc chính, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh
có 680.692 người, chiếm 67.67%; dân tộc Khmer có 316.961 người chiếm 31,51%;
dân tộc khác có 8.203 người, chiếm 0,82%.
Trong các cuộc thống kê thì thời kỳ 2009 được xem là thời kỳ “dân số vàng”
của tỉnh Trà Vinh, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động chiếm 68,9%, Là thời kỳ
cứ 02 lao động chỉ phải gánh 01 người ngoài độ tuổi lao động (từ 0 đến 15 tuổi và
trên 60 tuổi). Đây là thời kỳ mà lực lượng lao động xã hội dồi dào nhất, có khả năng
tạo ra lực lượng vật chất cho xã hội cao và đưa lại nhiều thặng dư xã hội nhất. Tuy
nhiên, chất lượng lao động là một trong những thách thức lớn đối với tỉnh. Hầu hết
lao động của tỉnh Trà Vinh là lao động giản đơn (73,8%). Đây là bài toán khó cho
công tác đào tạo nghề, xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững trong những năm
trước mắt.
Tỷ lệ gia tăng tự nhiên của dân số tỉnh đang có xu hướng giảm dần năm 2006
tỷ lệ tăng tự nhiên là 12,35‰, đến năm 2010 tỷ lệ này đạt 9,3‰. Năm 2010 tỷ lệ
sinh là 15,6‰ trong khi đó tỷ lệ tử là 6,3‰.
Về tỷ số giới tính dân số Trà Vinh có nữ nhiều hơn nam, tuy nhiên, mức
chênh lệch không đáng kể và không thay đổi nhiều qua các năm và chất lượng cuộc
sống, nhìn chung dân số tỉnh Trà Vinh tại thời điểm Tổng điều tra tương đối cân
bằng: tổng số Nam là 495.593 người chiếm 49,27% và nữ la 510.263 người chiếm
50,73%. Tuy nhiên, khi phân tích theo độ tuổi thì xuất hiện những mất cân bằng
như: nhóm từ 60 tuổi trở lên chỉ có 58,6 nam/100 nữ (hậu quả của chiến tranh);
nhóm dưới 15 tuổi có 106,7 nam/100 nữ.
- Về dân tộc: Trà Vinh là địa bàn có nhiều dân tộc cùng cư trú. Người Khmer
ở Trà Vinh chiếm khoảng 31,63% dân số tỉnh, đông nhất so với các tỉnh Đồng bằng
56
Sông Cửu Long; tuyệt đại bộ phận người Khmer ở Trà Vinh sinh sống bằng nghề
nông, trồng lúa nước là chủ yếu và sống tập trung trên những con giồng cao, bao
quanh bởi chi chít mương rạch nhỏ. Người Hoa ở Trà Vinh số lượng không nhiều,
chiếm khoảng hơn 0,77% dân số tỉnh. Người Kinh chiếm khoảng 67,56% dân số
tỉnh. Một số ít còn lại là các dân tộc Chăm, Tày, Nùng.
Về chất lượng cuộc sống của dân cư trong 10 năm qua đã có bước cải thiện
tương đối khá. Tuy nhiên, so với khu vực và cả nước thì tuổi thọ bình quân dân cư
Trà Vinh vẫn còn thấp: Trà Vinh 72,5 tuổi, đồng bằng sông Cửu Long 73,8 tuổi và
cả nước là 72,8 tuổi.
Dân số là nguồn lực, là đầu vào cơ bản của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, là đối
tượng quản lý chủ yếu của nhà nước, vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng
tiêu dùng của xã hội. Việc nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ tay nghề lao
động nói riêng là cốt lõi của phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Mặt khác, công tác
truyền thông phải nhắm tới ba mục tiêu: tỷ lệ sinh thay thế; cân bằng giới tính và
giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
Sự phân công lao động trong cơ cấu nền kinh tế cũng có sự chênh lệch, hiện tại
vào năm 2010 lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp là 54.39% và dự
kiến năm 2011 lao động ở các lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp sẽ chiếm 60%, công
nghiệp và xây dựng chiếm 20% và lao động dịch vụ chiếm 20% (Bảng 2.3). Chỉ
riêng lao động lao động trong ngành thủy sản là 37.541 người, chếm tỷ lệ 10,21%
trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp.
Bảng 2.3 : Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
Đơn vị: %
Năm
2006 100,0 69,1 2007 100,0 65 2008 100,0 61,6 2009 100,0 57,0 2010 100,0 54,4
11,3 13,5 15,1 17,2 18,2
19,6 21,6 23,3 25,8 27,4
Tổng số Nông – lâm – ngư nghiệp( KV1) Công nghiệp - xây dựng (KV2) Dịch vụ và các lĩnh vực khác (KV3) Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010
57
Dân cư vừa là nguồn lao động vừa là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm của nền
kinh tế, chính vì vậy mà sự phân bố của các ngành sản xuất phụ thuộc vào sự phân
bố dân cư và nguồn lao động tại chổ.
Trà vinh phần lớn là lao động nông thôn có hơn 851.105 người đây là nguồn
lao động chính cho ngành NTTS nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.
2.1.3.2. Trình độ dân trí
Trà Vinh là một tỉnh nghèo trình độ dân trí còn thấp, tính đến năm 2000, đã
phổ cập giáo dục tiểu học cho 8 huyện, thị xã với 94 xã, phường, thị trấn, tỷ lệ
người biết chữ trong độ tuổi đạt 100%. Số học sinh phổ thông trong toàn tỉnh đang
theo học ở các cấp học trên 148.204 em trong đố số học sinh là các dân tộc ít người
chếm 44.797 em chếm 30,23%; số giáo viên toàn tỉnh năm 2010 có 10.011 người,
trong đó số giáo viên là người dân tộc thiểu số là 1.982 người chiếm 19,8% trong
tổng số giáo viên của toàn tỉnh.
Trong mặt bằng chung về trình độ dân trí của cả nước và khu vực, nhằm nâng
cao hơn nữa trình độ dân trí tỉnh đã tiến hành phổ cập giáo dục ở cả 3 cấp. Tỷ lệ phổ
cập cao nhất vẫn là ở cấp tiểu học tiếp đến là cấp trung học và phổ thông. (Biểu đồ
2.3).
Biểu đồ 2.3: Thể hiện số học sinh phổ thông của tỉnh Trà Vinh (2006-2010).
58
Hệ thống giáo dục của tỉnh Trà Vinh bao gồm đầy đủ các cấp học: mầm non,
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, tại thời điểm 2010, tỉnh Trà Vinh có 344 trường học ở các cấp phổ thông, đứng
thứ 10 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tuy tỉnh còn nghèo, nhưng ngành giáo dục trong những năm qua đã có những
bước phát triển khá. Cuối 2007, tỉnh đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục Phổ
thông cơ sở; 6/8 huyện thị có trường dân tộc nội trú (DTNT) với trên 1.000 học sinh
người dân tộc Khmer. Tình trạng học sinh bỏ học đã được cải thiện. Tuy nhiên về
cơ sở vật chất, các trường trong tỉnh đều chưa đáp ứng được việc học ngày 2 buổi.
Việc xây dựng trường chuẩn còn chậm. Đào tạo nhân lực khó khăn, phân luồng học
sinh sau Phổ thông cơ sở còn lúng túng. Kế hoạch kiên cố hoá trường học đến 2010
không thể hoàn thành, trên địa bàn tỉnh còn hàng ngàn trường tre lá, còn nhiều điểm
trường mượn nhà dân, nhà chùa. Tỉnh chỉ đạo mỗi ấp phải có lớp mầm non, nhưng
hiện chỉ có trên 70% ấp thực hiện được.
Tỉnh sẽ tập huy động các nguồn lực và thu hút đầu tư cho phát triển giáo dục -
đào tạo, phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp: trường
mẫu giáo đạt 70%, trường tiểu học đạt 50%, trường trung học cơ sở đạt 40%, trường
trung học phổ thông đạt 30%; đến năm 2020, các tỷ lệ này lần lượt đạt 100%, 90%,
70% và 50%. Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông dân
tộc nội trú; có cơ chế quản lý, phối hợp với các chùa Khmer dạy chữ viết, học bổ
túc văn hóa và phong tục, tập quán cho đồng bào dân tộc; củng cố các trường lớp
dành cho trẻ khuyết tật. Đồng thời có chính sách đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất cho
các cơ sở đào tạo, dạy nghề, nhất là tại thành phố Trà Vinh và các thị trấn.
Quy mô và hình thức giáo dục và đào tạo của tỉnh Trà Vinh không ngừng được
mở rộng và đa dạng hóa nhằm nâng cao trình độ dân trí của tỉnh. Toàn tỉnh hiện đã
có 344 trường học và trung tâm dạy nghề, với 4538 phòng học; 28 trường tiểu học
và 2 trường mẫu giáo được công nhận đạt chuẩn quốc gia; 149 trường có lớp học 2
buổi/ngày. Giáo dục trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học tiếp tục phát
triển cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Việc nâng cấp và mở rộng Trường Cao
59
đẳng Cộng đồng lên thành Trường Đại học Trà Vinh, Trường Trung học Y tế lên
Trường Cao đẳng Y tế, Trường Dạy nghề lên thành Trường Trung cấp Nghề... góp
phần nâng cao năng lực đào tạo và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong tỉnh.
Đã có 101/104 xã, phường, thị trấn và 8/8 huyện, thị xã được công nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 100/104 xã, phường, thị trấn thuộc 8
huyện, thị xã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tỷ lệ các xã phường /thị trấn có trường tiểu học chếm 100%, trung học cơ sở
là 87,66%. Ngành giáo dục đã rất chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục nhằm
nâng cao trình độ dân trí trong dân cư. Tỉnh cũng đã tiến hành phổ cập giáo dục mở
nhiều lớp bổ túc văn hoá, thu hút nhiều học viên theo học ở tất cả các cấp.
Bảng 2.4: Số học sinh ở các cấp học của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)
Đơn vị: Người
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Cấp học
78.826 77.917 76.385 79.003 81.608 Tiểu học
55.699 50.942 50.373 47.877 48.344 Trung học
27.338 24.806 23.635 19.660 18.252 Phổ thông
Nguồn: Cục thống kê tỉnh trà vinh (Niên giám thông kê 2006 - 2010)
Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trung bình qua các năm cũng
chếm tỷ lệ tương đối lớn. Thành phố Trà Vinh là một trong những đơn vị có tỷ lệ đỗ
tốt nghiệp cao nhất trong tỉnh chếm 90,23%, trong đó đơn vị có tỷ lệ thấp nhất là
huyện Tiểu Cần 60,71%.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng tăng về số lượng và
nâng dần về chất lượng; nhờ đó, trình độ dân trí trong toàn tỉnh được nâng lên rõ
rệt, tổng số giáo viên năm 2006 đạt 9.635 người đến năm 2010 số giáo viên đạt
10.011 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh hằng năm, công tác thu hút,
bồi dưỡng nhân tài được quan tâm. Tỉnh tổ chức tốt hệ thống mạng lưới hội khuyến
học các cấp ở các cơ quan, ban, ngành và tất cả các trường học trong tỉnh. Hệ thống
60
này ngày càng phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền, vận động
khuyến học nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
Bảng 2.5: Số giáo viên ở các cấp học( 2006 – 2010)
Đơn vị: Người
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Cấp học
4.376 4.485 4.417 4.560 4.732 Tiểu học
3.564 3.486 3.513 3.437 3.525 Trung học
1.695 1.786 1.823 1.742 1.754 Phổ thông
Nguồn: Cục thống kê tỉnh trà vinh (Niên giám thông kê 2006 - 2010).
Chú trong nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong phục vụ phát triển kinh tế
xã hội, ngành NTTS thủy sản được xem là thế mạnh nên việc nâng cao trình độ cho
nguồn lao động của ngành là đều rất quan trọng
2.1.3.3. Khoa học công nghệ
Cùng với tốc độ phát triển của khu vực ĐBSCL nói riêng và cả nước nói
chung thì tỉnh Trà Vinh đã chú trọng đầu tư nâng cao trình độ khoa học công nghệ
trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhằm đưa kinh tế phát triển bền vững cùng
với các tỉnh trong khu vực.
Đặc biệt trong lĩnh vực NTTS việc đầu tư đẩy mạnh tiến độ phát triển của
Khoa học công nghệ (KHCN) là tiền đề đưa ngành phát triển ngày một bền vững.
Những thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực NTTS về công
nghệ gen, sản xuất giống, nuôi thương phẩm, xử lý môi trường, sẽ được tiếp tục đẩy
mạnh nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới. Đây sẽ là những nhân tố tích cực
tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của NTTS tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa một cách hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, do tác động của xu thế toàn cầu
hóa và trong điều kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), lĩnh vực NTTS nói riêng cũng như ngành thủy sản nói chung phải nhanh
chóng tiếp cận, du nhập, ứng dụng các công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới,
đặc biệt là công nghệ sản xuất giống, nuôi thương phẩm ít gây ảnh hưởng xấu đến
61
môi trường sinh thái để nâng cao chất lượng sản phẩm và vượt qua các rào cản kỹ
thuật, yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản của các thị
trường nhập khẩu.
Tỉnh đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ trong việc sản xuất giống
mới như ứng dụng quy trình sản xuất nhân tạo nghêu giống, tôm, cá tra, cá lóc, cua
biển... Trung tâm giống của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN-PTNT) đã
áp dụng quy trình sản xuất nhân tạo nghêu giống và đã đạt được thành công đáng
khích lệ sản xuất được 12,7 triệu con nghêu cám cấp II. Việc sản xuất thành công
nghêu giống đã mở ra hướng phát triên mới cho ngành nuôi của tỉnh.
Hiện tại Tỉnh đang áp dụng công nghệ sản xuất giống tôm toàn đực, năm 2010
được Viện Nuôi trồng Thuỷ sản II cung cấp trong khuôn khổ Dự án Nông thôn
Miền núi của Chính phủ cho tỉnh Trà Vinh, với tên gọi: “Dự án Xây dựng Mô hình
nuôi tôm càng xanh luân canh trong ao nuôi tôm sú tại 2 huyện Cầu Ngang - Duyên
Hải & Tiếp nhận Qui trình Công nghệ sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực phục
vụ sản xuất”. Đây là công nghệ xử lý để những con tôm cái giả có khả năng sinh sản
nên thế hệ F1 là những con giống tôm càng xanh toàn đực, đáp ứng khả năng cung
cấp cho việc tiến hành nuôi tôm thương phẩm có giá trị kinh tế cao vượt trội từ đặc
thù phát triển nhanh của con tôm càng xanh đực, có thể nặng đến 400gr mỗi con.
Trong hệ thống ao nuôi của tỉnh đa số đều có hệ thống máy quạt, máy bom,
sục khí đảm bảo cho môi trường nước thông thoáng hơn.
2.1.3.4. Cơ sở sở hạ tầng
Trà Vinh được xem là một trong những tỉnh nghèo của khu vực ĐBSCL cơ sở
hạ tầng còn nhiều yếu kém. Những năm qua, ngành Giao thông vận tải (GTVT) Trà
Vinh đã triển khai thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và
đạt được những kết quả rất lớn. Toàn tỉnh Trà Vinh hiện có 3 tuyến quốc lộ chính
gồm: QL53; QL54; QL60 với tổng chiều dài 246 km, hiện còn 11 km là đường đất
(QL53 đoạn Long Vĩnh – Định An) Bộ GTVT đưa vào Dự án phát triển cơ sở hạ
tầng ĐBSCL (WB5), theo kế hoạch sẽ triển khai thi công trong năm 2009. Có 5
tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài 183km, trong đó đã nhựa hóa 111,3km, đạt 60,8%,
62
còn 71,7km đường đất (trong đó ĐT 915 có tổng chiều dài 60,8km hiện Dự án WB5
đã có kế hoạch đầu tư 17,5km, nguồn ngân sách đầu tư 5,2 km, phần còn lại khoảng
38,1km đang tìm nguồn để đầu tư). Có 39 Hương lộ với tổng chiều dài 410km,
trong đó đã nhựa hóa 292,7km, đạt 71,2%, còn 117,3km đường đất, hiện đang tìm
nguồn đầu tư. Toàn tỉnh có một mạng lưới giao thông nông thôn rộng khắp với trên
2.000km, trong đó loại mặt đường bằng bê tông cốt thép và các loại vật liệu khác
như: đá nhựa, cấp phối đá, đất gia cố hóa chất… trên 1.600km.
- Đường bộ: phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xem xét nâng cấp các tuyến
quốc lộ 53, 54, 60 trên địa bàn Tỉnh; chủ động xem xét nâng cấp các tuyến đường
tỉnh 911, 912, 913, 914, 915, 915B phù hợp với nhu cầu phát triển và nguồn lực
từng giai đoạn; nghiên cứu xây dựng một số tuyến đường kết nối với các vùng sâu,
vùng xa trong Tỉnh. Xây dựng các tuyến đê ven biển kết hợp với đường giao thông
dọc theo sông Cổ Chiên và sông Hậu. Nâng cấp các tuyến đường cấp huyện và liên
xã, đường giao thông nông thôn; phát triển đồng bộ các tuyến đường đô thị. Xây
dựng các tuyến đường giao thông phục vụ di dân có lụt bão trên địa bàn tỉnh. Hoàn
thiện các cầu đang được đầu tư như cầu Cổ Chiên, cầu Đại Ngãi; đầu tư hệ thống
phà qua các sông ở những nơi chưa có điều kiện làm cầu. Nghiên cứu khôi phục lại
sân bay Long Toàn theo hướng bay dịch vụ, khảo sát, cứu hộ khi đáp ứng đủ điều
kiện quy định.
Đối với NTTS, hệ thống đường giao thông phục vụ các vùng nuôi trồng thủy
sản còn nhiều hạn chế. Mọi lưu thông, phân phối đều bằng giao thông thủy, có một
số ít dựa vào đường giao thông nông thôn và các đường kết hợp đào kênh thủy lợi
và đắp bờ bao, nhưng cũng không thể phục vụ được tuyến dài do khó khăn vì không
có cầu.
Đường thủy: cải tạo, mở rộng khơi luồng các tuyến để đảm bảo thông suốt trên
tuyến Trà Ngoa - Trà Ếch - Ô Chát - Kênh 3/2 - La Bang; hoàn thành đầu tư xây
dựng công trình cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu phù hợp với nguồn lực
trong từng giai đoạn. Hệ thống kênh đã có tác dụng tốt trong việc cấp nước tưới
tiêu, tiêu phèn, tháo lũ, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết. Mật độ kênh
63
nhiều vùng thấp, hiện tượng bồi lắng vẫn diễn ra, đặc biệt là những vùng giáp nước
do đó cấp và tiêu nước kém.
Với mạng lưới sông ngòi như trên sẽ là điều kiện phát triển của giao thông
thủy. Đối với ngành kinh tế nói chung và với NTTS nói riêng, giao thông thủy ở
đây là điều kiện vô cùng thuận lợi, với chi phí rẻ và cơ động; giao thông thủy hoàn
toàn đáp ứng nhu cầu phát triển NTTS. Có những loài cá không thể thu mua với
đường bộ đó là cá Tra, Ba Sa, vì yêu cầu của tiêu thụ cá Tra, Ba Sa là cá phải sống
tới tận nhà máy chế biến. Do vậy phương tiện vận chuyển cá Tra hiện nay hoàn toàn
bằng ghe “đục” có trọng tải lớn và gần khu nuôi gần sông rạch chính.
- Cảng: hình thành cảng đầu mối trung tâm khu vực trên bờ biển Duyên Hải và
các cảng phục vụ theo quy hoạch gắn với Khu kinh tế Định An. Xây dựng các bến
đường thủy phục vụ vận chuyển hàng hóa và các bến tàu du lịch liên tỉnh.
Đối với ngành thủy sản: Ngoài tuyến đường giao thông huyết mạch trong nền
kinh tế riêng đối với ngành NTTS cũng đã được các cấp chính quyền quan tâm đầu
tư nâng cấp mở rộng. Giao thông theo chủ trương chung của tỉnh sẽ nâng cấp, xây
mới mạng lưới giao thông, đảm bảo quốc lộ rải nhựa đạt tiêu chuẩn đường cấp I, II,
tỉnh lộ đạt cấp II, III; xây dựng hoàn thành các đường đến trung tâm các xã. Bảo
đảm những tuyến đường ở các vùng nuôi thủy sản đều được trải nhựa góp phần
thuận lợi hơn trong việc chuyên chở nguyên liệu thủy sản: giống, thức ăn thủy sản,
thuốc thú y thủy sản,…. đồng thời thuận lợi hơn trong việc buôn bán sản phẩm, giao
thông thuận tiện luôn là yếu tố quyết định phát triển của các ngành kinh tế.
- Thủy lợi: Xây dựng hệ thống thủy lợi theo hướng đa mục tiêu: kiểm soát lũ,
ngăn mặn, ngọt hóa, thau chua, xổ phèn và phục vụ: nông nghiệp, thủy sản, cấp
nước sinh hoạt và công nghiệp, dịch vụ; đồng thời gắn với việc bố trí dân cư theo
quy hoạch đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, nhất là xây dựng cụm tuyến dân cư
vượt lũ. Tiếp tục triển khai các hạng mục kênh, đê, bờ bao của Dự án Nam Măng
Thít; xây dựng đưa vào sử dụng 2 khu neo đậu tránh, trú bão cho tàu cá ở cửa Cung
Hầu và cửa Định An; quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng làng cá xã Đông
Hải, huyện Duyên Hải và làng cá Vĩnh Bảo, huyện Châu Thành.
64
Theo thông tin từ Thông tấn xã Việt Nam, năm 2012 ngành nông nghiệp tỉnh
Trà Vinh đã được Trung ương đầu tư hai công trình thủy lợi phục vụ cho nghề nuôi
trồng thủy sản với nguồn vốn hơn 77,5 tỷ đồng. Cụ thể, dự án xây dựng hệ thống
thủy lợi phục vụ nuôi tôm sú trên cách đồng Trà Côn, huyện Cầu Ngang với diện
tích 800ha có tổng vốn đầu tư hơn 44,5 tỷ đồng; dự án thủy lợi phục vụ nghề nuôi
cá da trơn, tôm càng thuộc vùng qui hoạch Rạch Đùi - Bà Bảy - Vàm Đình tại xã
Ninh Thới, huyện Cầu Kè, vốn đầu tư 37 tỷ đồng. Cùng với hai dự án mới, ngành
nông nghiệp tỉnh Trà Vinh đang xúc tiến xây dựng hoàn thành ba công trình hạ tầng
kỹ thuật phục vụ cho nghề nuôi trồng thủy sản được chuyển tiếp của năm 2011 là hệ
thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm sú cánh đồng Rẫy Cá Kèo, rộng 200ha tại xã Mỹ
Long Nam, vốn đầu tư hơn 26 tỷ đồng; Dự án cung cấp điện cho hệ thống thủy lợi
phục vụ cho vùng nuôi tôm sú ở 2 xã Hiệp Mỹ Đông - Mỹ Long Nam, rộng 800ha,
vốn đầu tư 11,5 tỷ đồng; Dự án xây dựng Trung tâm sản xuất giống thủy sản huyện
Tiểu Cần, vốn đầu tư 26 tỷ đồng. Đây là những công trình hướng đến phát triển
nghề nuôi tôm sú theo hướng công nghiệp, bền vững; phục vụ cho kế hoạch mở
rộng diện tích 500ha nuôi tôm sú công nghiệp nhằm nâng tổng diện tích nuôi tôm sú
công nghiệp toàn tỉnh năm 2010 lên 3.650 ha.
Việc đảm bảo phát triển hài hòa giữa các vùng nuôi tôm - lúa vẫn là điều nan
giải hiện nay và cần có hệ thống thuỷ lợi (HTTL) phù hợp. Việc tiêu thoát nước thải
luôn là mối quan tâm của nhiều hộ NTTS và của toàn vùng NTTS, bởi vì dịch bệnh
có thể lan truyền nhanh trong môi trường tác động qua lại, đặc biệt thông qua nguồn
nước thải dịch bệnh sẽ có nhiều điều kiện phát tán gây hại cho các vùng nuôi thủy
sản. Trong nhiều trường hợp, các ao nuôi tôm ở hạ lưu thiệt hại cao hơn đây cũng là
đều thường thấy ở các vùng nuôi. Để NTTS ở mức độ cao, không những HTTL
phải tiếp ngọt ổn định mà cần cả HTTL dẫn mặn chủ động vào những thời điểm
thích hợp phục vụ hoạt động NTTS. Ngoài ra, HTTL hiện tại chưa là hệ thống liên
kết liên hoàn từ vùng NTTS đến vùng phát triển trồng trọt hay trồng rừng để tạo
môi trường sinh thái, theo nguyên lý chất thải của NTTS là nguồn cấp dinh dưỡng
cho nông nghiệp và lâm nghiệp, đồng thời nông nghiệp và lâm nghiệp làm vai trò
65
xử lý chất thải cho NTTS.
Đối với HTTL nội đồng của các vùng NTTS tập trung: Hiện nay một số vùng
quy hoạch và các dự án đã đầu tư hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, có ao lắng và
ao xử lý, chất thải, còn lại các vùng phát triển nuôi trồng tự phát, các hộ nuôi vẫn
chưa có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt trong HTTL nội đồng do sản xuất nhỏ,
đất đai manh mún, do vậy đầu tư thêm kênh là rất khó khăn. Hệ thống ao lắng cũng
có đầu tư nhưng còn nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu do phải tốn diện tích và vốn
đào ao. Ao xử lý chất thải thì gần như không có do nguyên nhân là phải đầu tư thêm
ao, công nghệ xử lý giá thành hạ chưa có. Tiêu chuẩn chất thải của Việt Nam chưa
hợp lý vì theo tiêu chuẩn xử lý chất thải loại B thì họ sẽ dùng luôn nước đó dùng lại
còn tốt hơn là lấy nước từ sông. Trong giai đoạn 2006 – 2010 trên địa bàn tỉnh đã
đầu tư xây dựng Kè sông Long Bình và nâng cấp đê biển với nhiệm vụ bảo vệ vùng
nội đồng với tổng vốn đầu tư gần 56.000 triệu đồng. Công trình này sẽ có vai trò
quan trọng trong phát triển nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng.
Theo Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thuỷ Sản, các cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi
thủy sản của tỉnh đã được nhiều chủ quản đầu tư với quy mô phù hợp phục vụ
NTTS. Địa phương quản lý có các dự án như: Thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản
Hưng Mỹ, Châu Thành có quy mô công suất 200ha với số vốn khoảng 8 tỷ đồng,
Thủy lợi thủy sản Sà Lôn- Lộ Sỏi (Xã Đại An, Đôn Xuân, Định An) quy mô công
suất đạt 250 ha nguồn vốn khoảng 16 tỷ đồng, Thủy lợi thủy sản kết hợp trồng lúa
xã Hòa Ân - Tam Ngãi Thông Hòa, Thủy lợi thủy sản kết hợp trồng lúa Cà Hom -
Bến Bạ, Thủy lợi cho nuôi thủy sản La Ghi- Vàm Rạch Cỏ, Thủy lợi nuôi thủy sản
vùng chuyển đổi 450 ha xã Mỹ Long Nam, với tổng nguồn vốn cho các dự án hơn
39 tỷ đồng.
Ngoài ra, hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS của tỉnh còn có công trình thuộc Bộ
NN - PTNT quản lý như hệ thồng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản Đồng Đon,
Trà Vinh. Với quy mô công suất đạt 1380 ha thời gian tiến hành từ năm 2011-2015,
với tổng số vốn đầu tư lên đến 140 tỷ đồng trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước là 100 tỷ đồng, nguồn vốn khác chếm 40 tỷ đồng.
66
- Cấp điện: tiếp tục mở rộng, nâng cấp mạng lưới điện hiện có đáp ứng nhu
cầu điện sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. 100% số xã có mạng lưới điện quốc
gia hoà mạng, có 70% số hộ được sử dụng điện. Mạng lưới điện, trong giai đoạn
2006 – 2010 phát triển trên 335 km đường dây trung thế, 814 km đường dây hạ thế,
540 trạm biến thế; ước đến cuối năm 2010 toàn tỉnh có 2.292 km đường dây trung
thế, 3.125 km đường dây hạ thế, 3.042 trạm biến thế, hộ sử dụng điện chiếm 94%
hộ dân toàn tỉnh. Phối hợp Trung ương khởi công xây dựng Dự án Trung tâm Điện
lực Duyên Hải, cắm mốc giải phóng mặt bằng, bàn giao tuyến Dự án Điện cho
20.000 hộ. Ngoài ra, Hệ thống lưới điện quốc gia đã được nối hoàn toàn các vùng
của ĐBSCL. Đường dây 220 KV đã được truyền tải từ đường dây 500KV Bắc Nam
vào khu vực ĐBSCL thông qua trạm Cai Lậy. Từ trạm Phú Lâm và Cai Lậy các
đường dây 110KV được nối với các tỉnh ĐBSCL. Cùng với việc phát triển và mở
rộng một số nhà máy phát điện trong vùng (nhiệt điện khí Cà Mau và Ô Môn) đã
làm cho hệ thống điện quốc gia đảm bảo phục vụ tốt cho nền kinh tế ĐBSCL nói
chung và phục vụ NTTS nói riêng.
Do nhu cầu đầu tư đường dây điện dễ hơn so với phát triển giao thông hay
thủy lợi, nên khi có nhu cầu phát triển hạ tầng, đặc biệt là khi có đường giao thông
hoặc bờ bao thủy lợi là ngành điện phát triển theo. Do vậy, tại các vùng NTTS tập
trung ngành điện đã đáp ứng điện 3 pha (đặc biệt là những vùng nuôi tôm công
nghiệp). Những vùng nuôi không tập trung hoặc phát triển chưa có quy hoạch thì
mới chỉ có điện 1 pha thắp sáng, điện 3 pha chưa đáp ứng được nhu cầu bơm nước,
sục khí và chế biến thức ăn.
+ Hệ thống thông tin liên lạc: Phấn đấu đến năm 2015, đạt mức 3.844
người/điểm phục vụ bưu chính và bán kính phục vụ bình quân 1,54 km; đến năm
2020 đạt mức 3.000 người/điểm phục vụ và bán kính phục vụ bình quân 1,2 km.
Năm 2015, đạt 100% xã có cáp quang đến trung tâm; 100% xã có nút mạng; đạt mật
độ 120 thuê bao điện thoại/100 dân và năm 2020 đạt 150 thuê bao điện thoại/100
dân. Phát triển mạng bưu cục đến các khu dân cư, điểm du lịch, khu kinh tế, khu -
cụm công nghiệp; đảm bảo 100% xã có điểm bưu điện văn hóa; 100% số điểm phục
67
vụ bưu chính được tin học hóa; 100% số xã có báo trong ngày.
Hệ thống thông tin liên lạc khá phát triển phục vụ khá tốt vấn đề thông tin liên
lạc cho NTTS. Điện thoại cố định hữu tuyến đã phủ khắp các xã của Tỉnh, điện
thoại cố định vô tuyến đáp ứng đến tận ao nuôi, điện thoại di động đã phủ sóng gần
như hoàn toàn các vùng nuôi. Với giá cả hợp lý do vậy việc thông tin bằng điện
thoại là đáp ứng được nhu cầu. Hệ thống Internet và fax cũng đáp ứng nhu cầu cho
các vùng NTTS.
- Phát thanh - truyền hình: Mở rộng diện phủ sóng trong toàn tỉnh; tiếp tục đổi
mới nội dung, tăng số lượng kênh phát và thời lượng phát sóng; nâng cấp đài trạm
và mạng lưới phát thanh ở các huyện, xã, phường. đảm bảo hệ thống này phát triển
hoàn chỉnh ở các vùng nuôi, nhằm đáp ững nhu cầu nắm bắt những thông tin cần
thiết cho hoạt động.
Tuy nhiên, hiện việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng tôm - lúa ở tỉnh
vẫn còn hạn chế, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao, chưa hấp dẫn so với các mô
hình khác trong cùng địa bàn.
2.2. Thực trạng hoạt động nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà vinh
2.2.1. Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ
2.2.1.1. Diện tích nuôi trồng
Trà Vinh có gần một nửa diện tích nằm trong vùng bị nhiễm mặn, vùng nước
lợ gồm huyện Cầu Ngang, một phần Trà Cú và Châu Thành, phần còn lại gồm toàn
bộ huyện Duyên Hải, các xã ven biển thuộc huyện Cầu Ngang và xã Long Hòa,
huyện Châu Thành là vùng mặn hoặc ngọt theo mùa những vùng nhiễm mặn của
Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Ngang hầu như không được canh tác. Những năm gần đây,
tỉnh đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy
sản trên diện tích không phù hợp cho trồng trọt. Các vùng này đều chuyển sang nuôi
tôm sú với các mô hình mới mang lại hiệu quả cao.
Ngành NTTS tỉnh Trà vinh phát triển sôi động ở khu vực ĐBSCL với nhiều
điều kiện thuận lợi. Diện tích NTTS mặn – lợ của tỉnh luôn có sự biến động năm
2006 diện tích mặt nước NTTS của tỉnh là 25.194, năm 2007 thì diện tích này lại
68
tăng lên 31.264 ha, tiếp tục lại giảm vào năm 2008 đây là giai đoạn mà diện tích
mặt nước NTTS giảm mạnh nhất 5.663 ha, đến năm 2010 thì diện tích giảm còn
26.479 ha. Nếu tính so với năm 2006 thì diện tích mặt nước NTTS năm 2010 chỉ
tăng khoảng 1.285 ha.
Bảng 2.6 : Diện tích mặt nước NTTS mặn, lợ tỉnh Trà Vinh ( 2006 – 2010)
Đơn vị: Ha
2006 2007 2008 2009 2010 Loại thủy sản Năm
39.931 38.603 33.084 33.955 32.841 Tổng diện tích nuôi trồng
Tổng diện tích nuôi trồng mặn, 25.194 31.264 25.601 27.246 26.479 lợ
2.349 5.130 36 … … Nuôi cá
22.845 26.134 25.566 21.152 21.873 Nuôi tôm
Nuôi hỗn hợp và thủy sản … … … 6.094 4.606 khác
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh (Niên giám thống kê 2006 – 2010).
Ở môi trường nước mặn lợ thì diện tích nuôi tôm luôn chiếm diện tích lớn
hơn các loại thủy sản khác năm 2006 diện tích mặt nước nuôi tôm là 22.845 ha
trong khi đó diện tích mặt nước nuôi cá chỉ có 2.349 ha. Đến năm 2008 thì diện tích
nuôi cá giảm một cách đáng kể chỉ còn 36 ha. Ở môi trường mặn lợ hầu như là diện
tích nuôi tôm chiếm ưu thế. Diện tích nuôi trồng mặn lợ có cơ cấu lớn trong diện
tích nuôi trồng thủy sản là 63.1% năm 2006 những đến năm 2010 chiếm 80.63%,
chủ yếu là do tăng diện tích mặt nước nuôi tôm.
Diện tích mặt nước NTTS ở đây chưa kể đến các diện tích nuôi trồng xen với
đất lúa, đất rừng. Đối với vùng ruộng nhiễm mặn được đã quy hoạch chuyển đổi
khu vực nước mặn, lợ thuộc các huyện: Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Ngang nuôi tôm sú
và nghêu, sò huyết. Từ nhiều năm nay do ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu nước
biển dâng cao làm cho diện tích ngập mặn ở những vùng ven biển ngày càng nhiều,
Trà vinh là tỉnh ven biển diện tích ngày càng tăng lên phần lớn là diện tích trồng lúa
69
Trà Vinh vùng nuôi thủy sản mặn lợ được xác định là toàn bộ diện tích bị
nhiễm mặn quanh năm, với tổng diện tích đất có khả năng NTTS 28.000 ha thuộc
huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành, các xã ven biển thuộc huyện
Cầu Ngang và xã Long Hòa, huyện Châu Thành là vùng mặn hoặc ngọt theo mùa,
các huyện kế cận cũng bố trí một số diện tích nuôi tôm kết hợp với cấy lúa 1 vụ.
Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ và kế
hoạch Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của Uỷ ban nhân dân (UBND)
tỉnh về chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang NTTS và chỉ tập trung ở các
vùng triều (bao gồm các ao đầm ven biển, ruộng nhiễm mặn và đất làm muối có khả
năng chuyển đổi sang NTTS). Giai đoạn 2001-2003, bắt đầu triển khai Nghị quyết
số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ, các tỉnh trong vùng đã thực hiện việc rà soát quỹ
đất, các loại hình mặt nước, các vùng làm muối kém hiệu quả, các vùng đất cát
hoang hóa quy hoạch chuyển đổi và triển khai các dự án NTTS, nên tốc độ tăng
trưởng diện tích giai đoạn này đạt cao hơn các giai đoạn còn lại. Trong giai đoạn
2004-2008, tốc độ tăng diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh (24,78%/năm)
cao nhất ĐBSCL. Sau hơn 10 năm thực hiện nghị quyết chuyển dịch cơ cấu sản
xuất ngành thủy sản thì lĩnh vực nuôi thủy sản ở tỉnh phát triển khá mạnh ở 03 vùng
nước ngọt, lợ và mặn. Tiêu biểu là huyện Cầu Ngang đến nay đã chuyển đổi diện
tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi thủy sản được hơn 7.365 ha (Theo
thống kê của UBND huyện) là địa phương đi đầu trong các huyện vùng ven biển,
nhưng đáng biểu dương là xã Mỹ Long Nam.
Diện tích nuôi ngày càng được mở rộng với nhiều đối tượng nuôi, tại các bãi
bồi ven biển, Trà Vinh còn có mô hình nuôi nghêu và sò huyết. Tuy nhiên, diện tích
nuôi còn khiêm tốn (1.500 ha/6.000 ha) nhưng hiệu quả đạt 1 vốn, 4 lời. Các hợp
tác xã (HTX) nuôi nghêu đã giải quyết cho 1.785 xã viên có việc làm ổn định, thu
nhập cao.
Trong giai đoạn 2008 - 2020 vấn đề chuyển đổi mặn, lợ chuyển đổi mạnh
đến năm 2020 Trà Vinh là 5.756 ha trong đó nuôi nhuyễn thể bãi bồi 2.728 ha, nuôi
chuyên ao 528 ha, nuôi tôm rừng 2.500 ha thể hiện ở bảng 2.10. Tỉnh có tổng diện
70
tích rừng ngập mặn 8.582 ha, đây sẽ là yếu tố quan trọng giúp cho diện tích nuôi
xen canh ngày một mở rộng trên diện tích rừng.
Bảng 2.7: Diện tích khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS mặn, lợ
của tỉnh Trà Vinh ( 2008-2020)
Đơn vị: ha
Đối tượng Diện tích khai thác Tổng DT ĐBSCL
Nuôi nhuyễn thể bãi 12.391 2.728 bồi ven biển
17.980 528 Nuôi chuyên ao
5.928 2.500 Tôm – rừng
Nguồn: Viện Kinh tế - Quy hoạch Thủy Sản
Theo viện kinh tế - Quy hoạch Thủy Sản thì diện tích mới khai thác và
chuyển đổi là 5.756 ha, được đưa vào sử dụng góp phần mở rộng thêm diện tích
nuôi trồng thủy sản. trong năm 2007 tỉnh cũng đang trong giai đoạn thực hiện
chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS hoặc kết hợp chuyên canh.
Nuôi trồng thủy sản vùng nước mặn ven biển tiếp tục phát triển đa dang với nhiều
loại như: tôm, cua, cá, sò huyết.
Diện tích nuôi một số đối tượng đối tượng chủ yếu:
- Tôm Sú: Diện tích nuôi tôm có sự chênh lệch rất nhiều với các đối tượng, ở
vùng nước mặn lợ của tỉnh thì tôm sú là loại thủy sản được nuôi nhiều nhất. Báo
cáo kinh tế của tỉnh qua các năm cho thấy năm 2007 diện tích nuôi tôm sú là
25.000ha với 34000 hộ thả nuôi, năm 2008 diện tích nuôi tôm sú là 26.385 ha tăng
hơn so với năm trước là 1.385 ha , năm 2009 có diện tích nuôi là 21.152 ha diện tích
nuôi đã có sự tụt giảm so với năm trước, 2010 diện tích nuôi tôm sú là 24.028 ha
đến năm 2011 diện tích nuôi tôm sú là 24.594 ha, đến tháng 5/2012 diện tích nuôi
tôm sú là 21.897 ha 21.904 hộ thả nuôi. Tuy diện tích tăng không nhiều nhưng do
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đang góp phần năng cao năng suất, sản
lượng.
71
Biểu đồ 2.4: Thể hiện diễn biến diện tích nuôi tôm sú giai đoạn (2007 -
Ha
30.000
26.385
25.000
24.594
24.028
25.000
21.152
20.000
15.000
10.000
5.000
0
2007
2008
2009
2010
2011 Năm
2011)
- Tôm thẻ chân trắng (TCT): tháng 6/2008, UBND tỉnh đã có chủ trương quy
hoạch vùng và nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh tại 04 huyện: Duyên Hải (730
ha), Cầu Ngang (400 ha), Trà Cú (400 ha) và Châu Thành (300 ha) tổng diện tích
quy hoạch là 1.830ha, trong năm 2008 tỉnh thả nuôi được 71 ha. Trong Báo cáo
tham luận của Sở NN – PTNT diện tích nuôi là 48,58 ha, số lượng giống thả là
49.432.000con, thu hoạch được 371,31 tấn. Theo số liệu thống kê của sở Nông
nghiệp và PTNT sau qua 4 năm thực hiện quy hoạch, năm 2011 có 678 hộ ở 04
huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành thả nuôi 104 triệu con tôm
chân trắng trên diện tích 546 ha, chỉ đưa vào thả nuôi gần 1/3 diện tích quy hoach,
trong diện tích này có trên 70% diện tích nuôi ngoài vùng quy hoạch và tỷ lệ số hộ
thả nuôi thành công chiếm 50%.
- Phát triển nuôi các đối tượng nhuyễn thể chủ lực như nghêu, sò và các đối
tượng khác tại những vùng sinh thái thích hợp nhằm tạo ra một lượng lớn sản phẩm
phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, đồng thời khai thác hợp lý và bảo vệ tốt
nguồn giống nhuyễn thể, khai thác tốt tiềm năng các vùng đất, bãi bồi ven biển để
thực hiện đa dạng phương thức nuôi nhằm nâng cao sản lượng, tăng hiệu quả kinh
tế và thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững vùng ven biển. Năm 2008 diện tích
72
nuôi nhuyễn thể đạt 2.618 ha các loại cua cá khác là 12.750 ha. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển nuôi
nhuyễn thể hàng hóa tập trung đến năm 2020; trong đó có Quy hoạch vùng nuôi
nghêu, sò đến năm 2015 và năm 2020 cho các tỉnh ĐBSCL. Theo nội dung Quyết
định phấn đấu đến năm 2015, diện tích nuôi nghêu ở Trà Vinh sẽ được quy hoạch là
3.450 ha, diện tích nuôi sò 60 ha. Đến năm 2020, diện tích nuôi nghêu 4.150 ha;
diện tích nuôi sò 70 ha. Thực hiện được chỉ tiêu này sẽ đưa ngành nuôi thủy sản của
tỉnh tiên thêm bước xa hơn. Nuôi cua biển tuy là đối tượng nuôi mới nhưng được
xác định là đem lại hiệu quả kinh tế cao trong khi việc nuôi tôm gặp nhiều rũi ro.
2.2.1.2. Các phương thức nuôi trồng
Trà Vinh có phong trào NTTS phát triển mạnh nhưng hình thức nuôi nhỏ lẻ,
manh mún và phân tán. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội thường niên của tỉnh đã
nhấn mạnh năng suất là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Hình thức phù hợp với
từng đối tượng, loại hình mặt nước sẽ là yếu tố quyết định đến năng suất của các
loài vật nuôi trên những diện tích nhất định.
Ngành NTTS của tỉnh Trà vinh nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung đã
trãi qua giai đoạn phát triển từ các hình thức nuôi trồng từ đơn giản nhất là hình
thức quảng canh tất cả nguồn thức ăn đều trông vào tự nhiên cho đến các hình thức
tiến bộ hiện đại như hiện nay thâm canh, bán công nghiệp và công nghiệp. Căn cứ
vào nhiều yếu tố mà người ta chia ra nhiều hình thức nuôi có thể tùy thuộc loại hình
mặt nước, đối tượng nuôi và kể cả hình thức đầu tư.
Ở môi trường nước mặn lợ nếu chia theo hình thức đầu tư Ngành NTTS của
tỉnh cũng áp dụng hình thức nuôi đơn giản nhất có các hình thức nuôi chủ yếu là:
quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh, nuôi thâm canh, nuôi bán công
nghiệp và công nghiệp (tôm - lúa, tôm- rừng). Trên những diện tích đất ngập mặn
theo mùa sẽ áp dụng hình thức thả nuôi như luân canh 01 vụ lúa + 01 vụ tôm sú
đem lại hiệu quả cao.
Tình hình thực hiện Nghị Quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ phát
triển Kinh tế - Xã hội 5 năm 2006 – 2010 nuôi tôm theo hình thức công nghiệp và
73
bán công nghiệp là 9.400 ha. Tùy vào từng đối tượng nuôi mà ở những môi trường
nước sẽ có hình thức nuôi trồng khác nhau.
Phương thức nuôi phân theo đối tượng:
- Tôm sú: đối với tôm sú thì trên địa bàn tỉnh áp dụng hình thức nuôi thâm
canh, bán thâm canh và quảng canh cải tiến, đạt đươc hiệu quả cao. Vùng mặn, lợ tập
trung nuôi tôm sú, chú trọng hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh.
+ Nông dân ở đây đã thực hiện rất nhiều mô hình nuôi như: chuyên canh;
một vụ lúa, một vụ tôm; tôm-cua; quảng canh... nhưng cách nuôi hiệu quả nhất là nuôi bán thâm canh, thả thưa với mật độ từ 10 đến 15 con/m2, cách nuôi này tôm
mau lớn đạt trọng lượng từ 17 đến 20 con/ kg.
● Đối với nuôi tôm sú tỉnh đã chủ trương áp dụng hình thức nuôi thâm canh
trong “ao nổi”. Hình thức này được áp dụng từ năm 2003 với quy mô công trình có
tổng diện tích khu nuôi là 3,6 ha, được chia làm 8 ao gồm 1 ao láng diện tích 1 ha, 6
ao nuôi diện tích 2ha, 1 ao xử lí nước thải 0,6 ha. Ngoài ra có cống cấp, thoát nước
riêng biệt để thuận lợi trong quá trình nuôi.
▫ Các ao lắng, ao nuôi được trải bạt nilon xung quanh để chống sạt lở bờ,
chống rò rỉ nước từ bên trong ra ngoài, ngăn cách lớp phèn từ bên ngoài thấm vào
bên trong ao nuôi. Ngoài ra ao lắng có sử dụng thả nuôi cá rô phi để cải thiện môi
trường nước.
▫ Trang bị đầy đủ như máy bơm nước, hệ thống cung cấp oxy (quạt nước),
các loại máy đo pH, độ kiềm, độ mặn, độ trong...và các dụng cụ khác phục vụ cho
nuôi tôm. Sử dụng các loại hóa chất trong quá trình nuôi như: Chất khoáng,
Dolomite, chế phẩm sinh học, vitamin, men vi sinh.
Đây là mô hình mới trong hình thức nuôi thủy sản mặn lợ của tỉnh, mô hình
nuôi tôm sú trong ao nổi tiết kiệm được hơn 40% diện tích đất nạo vét so với ao
chìm. Ưu điểm của loại hình ao nuôi này còn làm giảm việc đào xới trong quá trình
thi công, lượng phèn tiềm tàng không phát triển được sẽ hạn chế tối đa tác động xấu
cho môi trường khu vực nuôi đồng thời nuôi ao nổi còn có ưu điểm là cải tạo khô
phơi nền đáy được dài ngày nên hạn chế mầm bệnh”. Nuôi ao nổi hơn hẳn ao chìm
74
truyền thống (đào sâu 1 đến 1,5 mét) là nông dân chủ động từ trong cải tạo ao hồ,
quản lý môi trường đến thu hoạch. Mặt nước hữu hiệu lớn, thuận lợi cho công tác
cải tạo ao hồ cũng như thu hoạch dễ dàng. Xung quanh bờ ao có trải bạt nilon, có
trang bị máy quạt nước (cung cấp thêm oxy) nên khi gặp trời mưa giảm được lớp
phèn độc trôi xuống ao. Qua nhiều năm áp dụng mô hình này việc nuôi tôm sú ở
Trà vinh cũng đạt nhiều tính hiệu khả quan các địa phương phát triển ao nổi theo
hình thức công và bán công nghiệp có diện tích ngày càng tăng.
● Trà Vinh còn mạnh dạng áp dụng mô hình nuôi tôm sú theo quy trình GAP
là mô hình sản xuất mới ở vùng ngập mặn, ven biển tỉnh Trà Vinh, sản phẩm làm ra
sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn GAP. Trung tâm Khuyến
nông - Khuyến ngư quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư
tỉnh Trà Vinh tổ chức hội thảo, tổng kết mô hình; tập huấn qui trình, kỹ thuật nuôi
tôm sú theo qui trình GAP ở 3 huyện trọng điểm nuôi tôm sú của tỉnh gồm: Duyên
Hải, Cầu Ngang và Trà Cú. Góp phần mở rộng diện tích nuôi tôm sú trên địa bàn
tỉnh trong tương lai.
- Tôm chân trắng: chính quyền địa phương đã tiến hành quy hoạch những
vùng nuôi thích hợp với hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh luôn cho năng
suất cao, đây là loại thủy sản không thể xen canh được với bất kỳ loại thủy sản nào
và đặc biệt được quy hoạch một vùng nuôi riêng nguồn nước thải sẽ ảnh hưởng đến
các vùng nuôi khác. Đây là loại thủy sản rất khó nuôi và chi phí cho các khâu trước
sau khi thu hoạch cũng như quá trình nuôi là rất lớn. Nuôi theo hình thức thâm canh
thì nguồn dinh dưỡng của cá do con người cung cấp: thức ăn phối trộn dạng dạng
tươi sống hay sấy khô. Nguồn thức ăn tự nhiên vẫn có vai trò nhất định đối với đời
sống của cá nuôi nhưng không lớn.
- Cua biển: Nhằm đa dạng hóa đối tượng con nuôi, giảm rủi ro, tăng thu
nhập trên cùng diện tích có nhiều hình thức nuôi đa dạng đặc biệt nổi bậc là việc
đưa cua biển vào nuôi theo hình thức xen canh trong ao nuôi tôm quảng canh hay
tôm – cua – rừng. Có thể nói hiệu quả kinh tế mang lại của nghề nuôi cua biển cho
người dân ở các hộ vùng ngập mặn ven biển ở Trà Vinh là rất cao. Mô hình cua
75
biển hiện nay có rất nhiều hộ chuyển sang hình thức thả nuôi chuyên cua, hiệu quả
mang lại rất cao và dễ thực hiện khâu quản lý cũng như thu hoạch.
- Nhuyễn thể và các loại thủy sản khác: Nhuyễn thể đựơc xác định là một
trong những đối tượng chủ lực của tỉnh, loại hình nuôi trên đất bãi bồi, nuôi nhuyễn
thể bãi triều được khuyến khích phát triển, có diện tích đất bãi bồi ven biển khá lớn
có thể khai thác phục vụ nghề nuôi nghêu thương phẩm.
Phương thức nuôi chia theo loại hình mặt nước:
- Nuôi ruộng nhiễm mặn (bao gồm các ao đầm nuôi nước lợ, các ruộng lúa
nhiễm mặn) chủ yếu tập trung các xã ven biển của các huyện Châu Thành, Cầu
Ngang, Duyên Hải.
- Nuôi xen canh trên đất rừng đây là mô hình mới được tỉnh áp dụng đối với
đối tượng tôm - cua - rừng, các bãi bồi vùng triều cửa sông tỉnh tiến hành quy hoạch
nuôi nghêu, nuôi chuyên ao.
Tỉnh Trà vinh luôn xem ngành thủy sản nói chung và ngành NTTS nói riêng
là ngành mũi nhọn của tỉnh trong thời gian tới đặc biệt trong tương lai với sự ảnh
hưởng của Biến đổi khí hậu diện tích nuôi mặn lợ sẽ được mở rộng với nhiều hình
thức nuôi đa dạng phù hợp với từng đối tượng và loại hình mặt nước, một mặt vừa
thích nghi với sự thay đổi của tự nhiên mặt khác lại mang về thu nhập cho người
dân.
Tất cả các hình thức nuôi trồng đều có những ưu khuyết điểm riêng, tùy từng
đối tượng và các hình thức nuôi sẽ đem lại hiệu quả cao cho người nuôi.
2.2.2. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt
2.2.2.1. Diện tích nuôi trồng
Trà vinh là một trong những tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL cùng mang một đặc
điểm chung của địa hình khu vực có hệ thống kênh rạch chằng chịt. Mặc dù là tỉnh
giáp biển với hơn một nửa là diện tích nhiễm mặn nhưng tỉnh vẫn có diện tích
không bị nhiễm mặn và ít bị nước mặn xâm nhập chính đều đó giúp cho ngành nuôi
thủy sản nước ngọt phát triển với hệ thống sông ngòi, kênh rạch, ao hồ thậm chí cả
diện tích trồng lúa và cây ăn trái đều có sự có mặt của các đối tượng thủy sinh.
76
Vùng ngọt hoàn toàn gồm huyện Cầu Kè, một phần huyện Tiểu Cần và Càng
Long
nuôi cá tra vùng ngọt. Ở các huyện vùng nước ngọt ngoài nuôi tôm càng xanh trên
ruộng lúa, vài ba năm nay có phong trào nuôi khoảng 100 ha cá tra, cá ba sa khá
hiệu quả. Các huyện Càng Long, Châu Thành và thị xã Trà vinh cũng nuôi tôm
càng, cá các loại và nhiều loại thủy sản khác cho thu nhập cao. Diện tích mặt nước
luôn gắn liền với sự phát triển của ngành kết hợp với các biện pháp canh tác cùng
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật góp phần đem sản lượng nuôi đáng kể.
Bảng 2.8: Diện tích mặt nước NTTS nước ngọt tỉnh Trà Vinh (2006 -2010)
Đơn vị: Ha
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Loại thủy sản
39.931 38.603 33.084 33.955 32.841 Tổng diện tích mặt nước NTTS
Tổng số 14.737 7.339 7.483 6.709 6.363
6.530 6.911 6.642 5.778 5.597 Nuôi cá
8.207 428 840 896 742 Nuôi tôm
… … … 35 24 Nuôi hỗn hợp và thủy sản khác
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Trà vinh (NGTK 2006 – 2010)
Những năm qua do diễn biến thất thường của khí hậu đã ảnh hưởng không
nhỏ đến diện tích nuôi thủy sản nước ngọt. Diện tích luôn giảm qua các năm có tăng
nhưng không đáng kể; năm 2006 là 14.737 ha chếm 36,9%, nhưng đến năm 2010 là
5.597 ha chỉ chếm 19,38%, giảm một cách đáng kể hơn 9.14 ha, chủ yếu giảm ở
diện tích nuôi tôm nước ngọt (Bảng 2.8). Nguồn nước ngọt thượng nguồn sông Hậu
và Sông Tiền có vai trò rất lớn trong phát triển nuôi nước ngọt, tuy diện tích nuôi
không nhiều nhưng chủ yếu nuôi hình thức thâm canh nên mang về sản lượng lớn.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo tinh thần Nghị quyết
09/2000/NQ-TTg của Chính phủ: Một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch
77
cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và kế hoạch Quyết định số 38/QĐ-
UBT ngày 20/8/2001 của UBND tỉnh, về việc phê duyệt định hướng quy hoạch
chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa năng suất thấp, các vùng trồng lúa 1 vụ
bấp bênh, các vùng đất hoang hoá ven sông sang NTTS nước ngọt tập trung đã cải
thiện hiệu quả khai thác trên một đơn vị diện tích, sang nuôi trồng thủy sản và trồng
màu. Bên cạnh đó diện tích trồng xen canh hoặc thâm canh trên đất lúa, nuôi trồng
trong các mương vườn vườn trái cây góp phần mở rộng diện tích nuôi.
Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa trồng cây ăn trái trên địa bàn tỉnh đến
năm 2010 thì diện tích nuôi thuỷ sản đã được mở rộng khoảng 19.500 ha; bao gồm
vườn cây ăn trái kết hợp nuôi thuỷ sản 6.277 ha (tăng hơn năm 2001 là 4.285 ha);
lúa kết hợp nuôi cá là 1.500 ha, tăng 446 ha; lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh 1.520
ha, tăng 1.481 ha; chuyên nuôi tôm càng xanh 500 ha và nuôi thuỷ sản trong ao hồ
9.753 ha, trong đó có 150 ha nuôi cá tra. Đây là một thành quả hết sức quan trọng
mà các cấp lãnh đạo đã đạt được sau hơn 10 năm thực hiện nghị quyết. Hầu hết
người dân đều tham gia tích cực trong việc áp dụng nuôi thâm canh, xen canh hoặc
chuyển đổi diện tích trồng lúa, hoa màu không hiệu quả sang nuôi thủy sản. Ngành
thủy sản mang lại lợi nhuận cao hơn gấp nhiều lần so với trồng lúa nên người dân
rất phấn khởi.
Trong một nghiên cứu mới đây của Viện Kinh tế - Quy hoạch thủy sản, diện
tích nuôi nước ngọt được khai thác mới và chuyển đổi sang NTTS từ năm 2008 –
2020 là 2.644 ha. Trong đó ao, hồ mương vườn 390 ha nuôi tôm, cá ruộng lúa 3.034
ha. Đây sẽ là tính hiệu khả quan nếu diện tích được khai thác đưa vào sử dụng.
Bảng 2.9: Diện tích khai thác mới và chuyển sang NTTS nước ngọt
tỉnh Trà Vinh (2008 – 2020).
Đơn vị: ha
Diện tích khai thác Tổng DT ĐBSCL
390 3.034 Đối tượng Ao hồ, mương, vườn Nuôi tôm, cá ruộng lúa.
27.769 100.559 Nguồn: Viện kinh tế - Quy hoạch thuỷ sản
78
Diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt theo loại hình mặt nước năm 2008 là
nuôi ao hồ nhỏ mương vườn 6.379ha, nuôi tôm cá ruộng lúa là 7.932 ha, nuôi mặt
nước lớn là 289ha.
Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong
mương vườn và kết hợp với ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra, các loại thủy sản có
giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu; tăng
cường đầu tư các công trình thủy lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất
lượng con giống, đảm bảo lịch thời vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm
đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản bền vững, phấn đấu tăng sản lượng nuôi trồng, khai
thác. Theo sở NN – PTNT đối với các huyện vùng nước ngọt ven tuyến sông sông
Cổ Chiên, sông Hậu, khẩn trương quy hoạch vùng nuôi cá da trơn, tôm càng xanh
phục vụ chế biến xuất khẩu.
2.2.2.2. Các phương thức nuôi trồng
Đối với môi trường nước ngọt có các hình thức nuôi đơn giản, đây là loại
hình rất phổ biến gắn liền với kinh tế hộ gia đình phát triển từ những hình thức đơn
giản nhất, hiện nay các phương thức dần được cải thiện trước yêu cầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các phương thức nuôi trồng nước ngọt được chia theo loại hình mặt
nước:
+ Nuôi cá, ao, hồ nhỏ, mương vườn (nuôi cá nước tĩnh, nuôi cá nước chảy,
nuôi có quạt sục khí). Đối với loại hình ao hồ nhỏ, mương vườn: Trà vinh thuộc hạ
lưu của hệ thống sông Mê Kông với hệ thống kênh rạch chằng chịt, do đó có nhiều
lợi thế cho phát triển NTTS trong các ao hồ nhỏ và mương vườn. Loại hình mặt
nước ao hồ nhỏ này được hình thành chủ yếu do người dân lấy đất làm vườn và làm
nhà. Hình thức nuôi, chủ yếu quảng canh cải tiến, bán thâm canh, VAC và trang
trại, chủ yếu là nuôi ghép các loài cá truyền thống; thả giống chính vụ từ trung tuần tháng 3 đến cuối tháng 5; mật độ 1 - 3 con/m2; kích cỡ 30 - 80 con/kg (tùy loài). Khi
cá đạt cỡ thương phẩm tiến hành đánh tỉa và thả bù.
+ Nuôi tôm, cá ruộng lúa (nuôi cá xen với vụ cấy lúa, nuôi cá xen với hai vụ
79
cấy lúa, nuôi cá vụ ba). Đây là mô hình được áp dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh nói
riêng và toàn vùng ĐBSCL nói chung, nuôi tôm càng xanh, nuôi cá với mô hình
tôm + lúa, cá + lúa ở vùng nước ngọt và kể cả nước lợ.
Các loại thủy sản đặc trưng của môi trường nước ngọt như cá tra, tôm
càng xanh, các loài cá khác (cá lóc, cá chẽm ,cá rô,…) nếu xét theo cách đầu tư thì
có các hình thức nuôi chủ yếu như: cá tra được nuôi theo hình thức thâm canh trong
ao đất đáp ứng nhu cầu chế biến và xuất khẩu, canh tác cá – lúa, tôm càng xanh
được nuôi với hình thức đa dạng nhất như nuôi chuyên canh, quảng cang cải tiến
nuôi kết hợp với trồng lúa là nhiều nhất và nuôi luân canh lúa nước (một vụ lúa –
một vụ tôm, hai lúa – một tôm), mương vườn.
+ Cá xen lúa: Thời vụ thả từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 (sau khi cấy lúa 15
– 20 ngày thì thả cá), mật độ 100 – 120 con/sào, kích cỡ 20 – 30 con/kg.
+ Ruộng cấy 1 vụ lúa, nuôi 1 vụ cá (chủ yếu ở các vùng chiêm trũng): Thời vụ
thả từ tháng 4 đến đầu tháng 5 (riêng cá trắm cỏ thả cá sau khi gặt lúa xong), mật độ
170 – 180 con/sào, kích cỡ 10 – 40 con/kg (tùy loài).
+ Cá vụ 3: Thả giống từ cuối tháng 8 đến tháng 9, mật độ 40 – 60 con/sào,
kích cỡ 5 – 10 con/kg.
Đặc biệt cá tra và tôm càng xanh được áp dụng hình thức nuôi công nghiệp
là chủ yếu, đây được xem là hai đối tượng nước ngọt chủ lực góp phần cung cấp
nguồn hàng xuất khẩu của tỉnh.
2.3. Thực trạng về sản lượng, năng suất nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh
2.3.1. Giá trị sản xuất ngành thủy sản trong cơ cấu ngành nông – lâm – ngư
nghiệp
Ngành thủy sản được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thế mạnh về
nuôi trồng và khai thác thủy hải sản, tuy được chú trọng đầu tư phát triển nhưng
chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; các công trình phục vụ phát triển nuôi
trồng, khai thác thủy sản triển khai chậm; chưa có giải pháp khai thác có hiệu quả
năng lực đánh bắt hải sản xa bờ đã được đầu tư; nuôi tôm sú còn thiệt hại do chất
lượng con giống và nguồn nước không tốt; năng lực sản xuất giống, nhất là giống cá
80
còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu cho nghề nuôi. Kiểm tra, kiểm soát giống
thủy sản chưa tốt. Mặc dù vậy, ngành thủy sản đã đạt được những thành tựu nhất
định trong lĩnh vực khai thác lẫn nuôi trồng.
Giá trị sản xuất của ngành thủy sản theo giá trị thực tế theo ngành kinh tế qua
các năm thì chếm giá trị rất cao đứng thứ hai chỉ sau ngành nông nghiệp, đã khẳng
định được thế mạnh của ngành trong nền kinh tế của tỉnh. (Phụ lục 1).
Ngành thủy sản và dần dần ngành được khẳng định vị trí trong nền kinh tế, trong
đó ngành nuôi trồng luôn có giá trị sản xuất cao giá trị trung bình chếm trên 70%
tổng giá trị sản xuất của ngành thủy sản, nhưng bên cạnh đó ngành khai thác cũng
được chú trọng đầu tư nên giá trị cũng được tăng đáng kể.
Xét về giá trị sản xuất toàn giai đoạn thì giá trị sản xuất tăng trong đó giai đoạn
2007 -2008 giá trị sản xuất của ngành thủy sản có chiều hướng giảm do ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế, về mặt cơ cấu của ngành năm 2006 thì ngành thủy sản chếm
33,31% trong tổng cơ cấu giá trị ngành nông – lâm – thủy sản đến năm 2010 chếm
28,71%. Qua thực tế xét về mặt cơ cấu trong toàn ngành thì cơ cấu ngành thủy sản
có sự tăng giảm qua các năm, năm 2010 tuy có cơ cấu thấp hơn năm 2006 nhưng
xét về mặt giá trị vẫn cao hơn xấp xỉ gấp đôi, giá trị sản xuất năm 2006 là 3.213.880
triệu đồng năm 2010 có giá trị chếm 6.109.057 triệu đồng, tuy giảm nhưng vẫn có
giá trị cao trong cơ cấu ngành.
Bảng 2.10: Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản theo giá trị thực tế
phân theo ngành hoạt động (2006 – 2010)
Đơn vị:%
Khai thác 20,4 24,1 26,7 21,6 25,5 Dịch vụ 4,2 4,7 4,9 7,8 6,1 Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Nuôi trồng 75,4 71,2 68,4 70,6 68,4
Nguồn: Cục thống kê Trà Vinh (NGTK 2006 – 2010)
81
Giá trị sản xuất thủy sản luôn chếm tỷ trọng cao nếu xét trong giai đoạn 2006 -
2010 thì giá trị này tăng từ hơn 3.213.880 triệu đồng đến năm 2010 tăng hơn
6.109.057 triệu đồng, trong giai đoạn này thời kỳ 2007 do tình hình kinh tế thế giới
diễn biến phức tạp, khó lường; cuộc khủng hoảng tài chính từ cuối năm 2007, kéo
theo suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước và địa phương, chính vì đều này mà giá trị sản xuất của các ngành
kinh tế không riêng gì thủy sản đều bị ảnh hưởng và suy giảm. Trong tổng giá trị
sản xuất của ngành thủy sản thì ngành nuôi trồng vẫn có giá trị cao nhất và không
ngừng tăng lên.
Trong nền kinh tế của tỉnh Trà vinh thì ngành thủy sản được xem là thế mạnh và
được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh được các cấp chính quyền chú
trọng quan tâm đầu tư phát triển đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng phát triển ở cả 3
vùng nước mặn, lợ và ngọt, từ nhiều năm qua đã đạt sản lượng cao.
2.3.2. Sản lượng
a/ Sản lượng ngành thuỷ sản
Ngành thủy sản của tỉnh từ nhiều năm qua nhờ thực hiện thành công các
chính sách khuyến khích đầu tư cở sở vật chất kỹ thuật phát triển mở rộng đánh bắt
xa bờ và chuyển đổi mở rộng diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng
thuỷ sản nhờ đó sản lượng thủy sản không ngừng tăng lên. Sản lượng thuỷ sản luôn
tăng tuy không quá nhanh nhưng cũng ở mức cao. Năm 2006 sản lượng thủy sản đạt
133.988 tấn thì đến năm 2010 sản lượng này lại tăng lên 160.053 tấn tăng gấp 1,2
lần tăng gần 26.065 tấn (Phụ lục 2). Sản lượng tăng sẽ mang về giá trị sản xuất cao.
Trong sản lượng thủy sản ngành nuôi trồng luôn có sản lượng cao hơn ngành khai
thác luôn chếm trên 50% trong cơ cấu sản lượng thủy sản.
82
Biểu đồ 2.5: Sản lượng khai thác và nuôi trồng của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)
Tỉnh đã triển khai thực hiện kế hoạch điều tra nguồn lợi để hướng dẫn và có
chính sách hỗ trợ ngư dân mở rộng đánh bắt xa bờ hiệu quả và an toàn; tuyên
truyền, phổ biến các quy định pháp luật về khai thác, đánh bắt thuỷ hải sản của Việt
Nam và các nước lân cận cho ngư dân. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh các công trình hạ
tầng cho phát triển nghề cá như: cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu
cá. Xây dựng kế hoạch nâng cấp, đổi mới thiết bị, công nghệ cho các tàu đánh bắt
xa bờ (90CV trở lên) nhằm nâng cao chất lượng, giảm tổn thất và đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm. Thực hiện triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của nhà
nước trong hoạt động khai thác biển và thực hiện phương án chuyển nghề thích hợp
cho ngư dân khai thác ven bờ. Thực hiện tốt những hoạt động trên đã giúp ngành
khai thác thủy sản có giá trị luôn tăng, năm 2010 tăng 1,33 lần so với năm 2006
tương đương với 19.188 tấn, so với năm 2009 tăng 1,33 lần tốc độ tăng trưởng bình
quân năm của ngành khai thác là 7,57%. Những năm gần đây ngành ngoài việc
được sự đầu tư nâng cấp các phương tiện đánh bắt xa bờ, đồng thời thực hiện tốt
chính sách hỗ trợ ngư dân theo tinh thần Quyết định 289/QĐ-TTg, 965/QĐ-TTg của
83
Thủ tướng chính phủ đã phần nào đưa ngành ngày càng đạt nhiều thành tựu mang
về hiệu quả kinh tế lớn cho ngành, cùng hưởng ứng những chính sách đầu tư phát
triển của nhà nước nhưng do sự chi phối của những nhân tố tự nhiên mà mức độ
phát triển và đóng góp sản lượng của ngành có sự khác nhau giữa các địa phương.
Huyện Duyên hải, Cầu Ngang, Châu Thành là những huyện có sản lượng cao trong
tỉnh. Quan sát ở hình 2.4 chúng ta có thể thấy được sự chênh lệch về sản lượng ở
từng huyện, màu xanh lá tượng trưng cho sản lượng của ngành nuôi trồng phân bố ở
các huyện còn lại thể hiện cho sản lượng của ngành khai thác.
84
Hình 2.4: Thể hiện sự phân bố sản lượng thuỷ sản ở các huyện năm 2010.
85
Bản thân ngành NTTS là ngành đầy tiềm năng của tỉnh mặc dù chưa được khai
thác hết mức nhưng vẫn mang về giá trị sản xuất lớn. So với ngành khai thác thì
ngành nuôi trồng có tốc độ phát triển nhanh hơn được xem là một trong những
ngành mũi nhọn của tỉnh. Nếu so với thời kỳ năm 2000 thì sản lượng nuôi trồng của
tỉnh chỉ đạt 21.673 tấn nhưng sau qua mười năm phát triển sản lượng này đã tăng
gấp 3,82 lần với tổng sản lượng là 82.777 tấn tăng gần 61.104 tấn. Ngành nuôi
trồng ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
b/ Sản lượng ngành nuôi trồng
Sản phẩm ngành nuôi trồng thủy sản nói chung rất đa dạng cung cấp cho
những nhu cầu thực phẩm thiết yếu hằng ngày của người dân như các loại cá, tôm,
cua,… Sản phẩm thuỷ sản chếm tỷ trọng cao nhất của ngành là tôm và cá. Những
tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra được những giống mới năng suất cao góp
phần củng cố hơn nữa chất lượng con giống trong hoạt động nuôi trồng của tỉnh.
Tập trung phát triển thủy hải sản, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Triển
khai quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản các huyện, rà sóat diện tích nuôi thủy sản đảm
bảo các điều kiện nuôi thâm canh, an toàn dịch bệnh đồng thời đầu tư nâng cao
năng lực sản xuất giống, thực hiện việc đánh số cơ sở, vùng nuôi đối với con nuôi
chủ lực. Vùng nước mặn, lợ phát triển nhanh và vững chắc nuôi tôm sú theo hình
thức công nghiệp, mở rộng diện tích nuôi cua, nghêu, sò ở các vùng bãi bồi ven
biển, Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong
mương vườn và ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra là đối tượng chủ lực vùng sinh thái
nước ngọt, tập trung phát triển các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường
tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu tăng cường đầu tư các công trình thủy
lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống đảm bảo lịch thời
vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản bền
vững. Hoạt động NTTS diễn ra ở hầu hết các huyện trong tỉnh ở cả 3 môi trường
nước mặn lợ và ngọt, tuỳ những điều kiện khác nhau ở từng vùng sinh thái sẽ được
đầu tư khai thác nuôi trồng các loại thích hợp.
NTTS luôn gắn liền với diện tích mặt nước, nhìn chung diện tích nuôi trồng thuỷ
86
sản của tỉnh có sự tăng giảm thiếu ổn định thời kỳ được xem là có diện tích nuôi
trồng đạt cao nhất là vào giai đoạn 2000 – 2001 đây là giai đoạn đầu trong việc áp
dụng chính sách chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS chuyên
canh hoặc kết hợp thời gian này diện tích đạt 52,6 nghìn tấn năm 2000 và 54,3
nghìn tấn năm 2001, đến năm 2010 diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn
khoảng 32,8 nghìn ha, nhưng về mặt sản lượng luôn tăng và luôn giữ ở mức cao đó
là những thành công từ việc áp dụng khoa học công nghệ, đồng thời vận dụng các
hình thức nuôi trồng mới tiến bộ trên diện tích nuôi. Tổng sản lượng thuỷ sản nuôi
trồng ở giai đoạn 2000- 2010 tăng 61.104 tấn với tốc độ tăng trưởng bình quân năm
trong toàn giai đoạn là 15,18%, sản lượng năm 2010 tăng 3,82 lần so với năm 2000.
Trong tổng sản lượng nuôi trồng giai đoạn phát triển nhanh về sản lượng là giai
đoạn 2000 – 2005 tăn 52.227 tấn tăng 3,41 lần tốc độ tăng trưởng 28%, ở giai đoạn
2006 – 2010 sản lượng chỉ tăng được 6.797, tăng được 1,1 lần có tốc độ tăng trưởng
bình quân năm trong giai đoạn là 2,25%. Đây là giai đoạn ít nhiều bị ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động đến các yếu tố của nền kinh tế xã
hội của tỉnh.
Bảng 2.11 : Sản lượng thủy sản nuôi trồng phân theo loại thủy sản
của tỉnh Trà Vinh (2006 – 2010)
Đơn vị: Tấn
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Loại TS
75.980
83.349
83.627
83.423
82.777
Tổng SL
47.404
48.084
54.349
55.114
53.824
SL Cá nuôi
24.142
24.814
19.789
17.442
20.944
SL tôm nuôi
4.434
10.451
9.489
10.868
8.009
TS khác
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010.
Trong ngành nuôi trồng thuỷ sản cá luôn chếm cơ cấu lớn hơn các loại thuỷ sản
khác khác. Điển hình như năm 2000 cá chếm 82,42% trong khi đó tôm chỉ chếm
87
10,66% còn lại các loại khác chếm 6,92%. Đến giai đoạn khoảng 5 năm gần đây giá
trị này tuy có giảm nhưng vẫn giữ vị trí cao trong tổng cơ cấu. Năm 2006 cá chếm
62,39%, tôm chếm 31,77% các loại khác chếm 5,84%. Năm 2007 là năm mà sản
lượng cá có tỷ lệ cơ cấu nhỏ nhất trong các năm chếm 57,69%, bên cạnh đó giá trị
sản lượng của tôm và các loại thuỷ sản khác tăng lên. Năm 2010 cá nuôi chếm
65,02% trong tổng cơ cấu sản lượng, tôm nuôi chếm 25,3% và các loại thuỷ sản
khác chếm 9,68% trong cơ cấu sản lượng thuỷ sản. (Phụ lục 3).
Trong tổng sản lượng thuỷ sản thì sản lượng cá nuôi luôn chếm tỷ lệ lớn hơn các
loại thuỷ sản khác, cá nuôi phát triển đa dạng ở nhiều loại hình mặt nước như: ao,
hồ, mương, vườn, ruộng lúa,… với nhiều hình thức nuôi đa dạng và tiến bộ.
Biểu đồ 2.6: Thể hiện cơ cấu sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh 2006 – 2010
2006
2010
5,80%
9,70%
31,80%
25,30%
62,40%
65%
Cá
Tôm TS khác
Tỉnh có 7 huyện và một thành phố hầu hết trên địa bàn các huyện thị đều có hoạt
động NTTS. Huyện có sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cao qua các năm đầu tiên phải
nói đến là huyện Duyên Hải, Cầu Ngang và Tiểu Cần, Châu Thành. Những huyện
còn lại cũng có sản lượng tương đối cao. Trong tổng sản lượng thì sản lượng cá
nuôi luôn chếm giá trị cao hơn tôm và các loại thuỷ sản khác.(Biểu đồ 2.6)
88
Bảng 2.12: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phân theo huyện (2006 – 2010)
Đơn vị: Tấn
2006 2007 2008 2009 2010 Năm
975 1.022 2.427 4.318 4.814 Tốc độ tăng trưởng(% 57,92 Huyện/Thị Tp. Trà Vinh
7.255 7.392 9.606 9.258 8.048 3,79 Càng Long
8.297 8.010 11.199 12.455 13.176 13,33 Châu Thành
8.820 9.094 12.166 8.025 9.316 4,73 Cầu kè
12.165 12.092 14.418 14.424 12.272 0,87 Tiểu Cần
16.110 18.091 11.143 11.293 12.931 3,9 Cầu Ngang
5.840 5.768 3.878 5.685 4.303 2,93 Trà Cú
16.581 21.880 18.790 17.966 17.918 3,42 Duyên Hải
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 - 2010
Sản lượng thuỷ sản trên địa bàn các huyện nhìn chung đều tăng, một số huyện
tuy có sản lượng không cao nhưng lại là địa phương có sự gia tăng rõ rệt nhất về
sản lượng: Tp. Trà Vinh từ năm 2006 – 2010 tăng gần 3.839 tấn tăng 4,94 lần,
huyện Châu Thành cũng có sản lượng tăng đáng kể 4.879 tấn tăng 1,59 lần. Các
huyện khác tuy có giá trị sản lượng tăng không đáng kể nhưng giá trị sản lượng đã ở
mức rất cao như huyện Duyên Hải trong giai đoạn 5 năm chỉ tăng khoảng 1.337 tấn
đạt sản lượng năm 2010 là 17.918 tấn, huyện Cầu Ngang đạt sản lượng 12.931 tấn,
huyện Tiểu Cần được 12.272 tấn năm 2010. Trong thời gian nhờ việc thực hiện kế
hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất đạt kết quả tích cực, diện tích lúa kém hiệu quả
chuyển sang luân canh nuôi thủy sản, chuyển sang chuyên nuôi thủy sản, nuôi thủy
sản trong mương vườn, vườn kết hợp nuôi thủy sản. Các mô hình chuyển đổi trên
đất lúa làm giá trị sản xuất trên một ha tăng bình quân 1,5-2 lần so với trồng thuần
lúa, riêng mô hình chuyển đổi đất 1 vụ lúa sang luân canh lúa - tôm sú bán thâm
canh tăng gấp 9 lần; thu nhập tăng thêm cho lao động ở nông thôn 1,2-1,5 triệu
đồng/người/năm. Đồng thời cùng với việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật vào quy trình nuôi, trang bị các thiết bị trong ao nuôi (máy quạt, máy bơm,
89
máy sục khí,…), đẩy mạnh đầu tư con giống năng suất cao. Hình thành nhiều trang
trại nuôi thủy sản, bước đầu ứng dụng tốt mô hình nuôi tôm sú công nghiệp trong ao
nổi đạt năng suất 4 tấn/ha, nuôi cá tra cá rô phi đơn tính trong ao đất đáp ứng nhu
cầu chế biến và xuất khẩu.
Tôm nuôi tập trung chủ yếu ở các huyện ven biển của tỉnh ở môi trường nước
mặn lợ tôm nuôi đạt sản lượng cao đối tượng chủ lực là tôm sú, tôm thể chân
trắng,…khu vực ven biển được tiến hành quy hoạch thành những vùng nuôi riêng
biệt với việc đầu tư vững chắc về trang thiết bị cơ sở vật chất cho vùng nuôi. Năm
2010 một số huyện ven biển như Duyên hải, Cầu ngang, Châu thành đây là những
huyện có sản lượng tôm cao trong tỉnh: huyện Duyên hải đạt sản lượng 8.372 tấn,
Cầu ngang là 10.773 tấn, Châu thành 1.207 tấn. Đây là 3 huyện đạt sản lượng tôm
nuôi cao nhất trong năm cũng như trong toàn giai đoạn từ 2006 – 2010 (Phụ lục 4).
Ngoài đối tượng tôm nuôi thì cá được xem là đối tượng đặc trưng của vùng sinh
thái nước ngọt nói chung, với hệ thống kênh rạch chằng chịt và nguồn nước ngọt
dồi dào được cung cấp từ hai con sông lớn tạo điều kiện thuận lợi cho NTTS nước
ngọt. Trong cơ cấu sản lượng thuỷ sản thì sản lượng cá luôn chếm tỷ trọng cao hơn
sản lượng tôm. Tiểu cần, Cầu kè, Châu Thành, Càng long là 4 huyện đạt sản lượng
cá nuôi lớn nhất trong toàn tỉnh, Tiểu cần là huyện luôn dẫn đầu về sản lượng cá
nuôi qua các năm với tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 3,95% sản lượng năm
2010 đạt 12.260 tấn, tiếp đến là Cầu kè sản lượng trung bình giai đoạn 2006 – 2010
là 9.403 tấn năm 2010 đạt 9.316 tấn, Châu thành sản lượng trung bình trong giai
đoạn là 8.584 tấn sản lượng năm 2010 đạt 11.016 tấn, Càng long đạt sản lượng
11.016tấn. (Phụ lục 5).
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 09/2000/NQ-
TTg của Chính phủ và kế hoạch Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của
UBND tỉnh đã phần nào góp phần làm tăng diện tích nuôi chuyên canh hoặc nuôi
kết hợp trong vườn cây ăn trái, xen canh trên ruộng lúa tận dụng mọi diện tích mặt
nước kể cả ao, hồ, mương, vườn.
Một số đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh đạt sản lượng cao và là một trong những
90
mặt hàng xuất khẩu có giá trị: tôm sú, cua, cá da trơn,…Những đối tượng này cơ
bản được xem như là đối tượng được nuôi chủ yếu trên địa bàn tỉnh chếm diện tích
cũng như sản lượng tương đối cao.
c/ Sản lượng và năng suất một số đối tượng chủ yếu
Trà vinh là tỉnh ven biển với những tiềm năng thuận lợi phục vụ phát triển
NTTS ở 3 vùng sinh thái mặn lợ, ngọt với với hệ thống đối tượng nuôi phong phú.
Tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực của vùng sinh thái mặn lợ sản lượng luôn duy trì
ở mức cao qua các năm, cùng với một số đối tượng khác đã mang về giá trị kinh tế
cao cho ngành nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
Sản lượng tôm sú năm 2007 đạt 22.742 tấn chếm 15 % trong tổng sản lượng
thuỷ sản của năm với năng suất trung bình năm 0,91 tấn/ha, công tác kiểm soát nuôi
trồng, con giống được thực hiện tốt, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăm sóc, hơn
65% hộ thả nuôi tôm sú có lãi, trong khi đó nghêu thu hoạch được 5.030 tấn, cua
2.850 tấn, giá nghêu khá cao, giá cua biển tuy có giảm nhưng người nuôi vẫn có lãi.
Tình hình thả nuôi phát triển tốt. Các địa phương đang thực hiện kế hoạch chuyển
đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi kết hợp hoặc chuyên canh thủy sản.
Năm 2008 sản lượng tôm sú trên địa bàn tỉnh đạt 18.832 tấn với năng suất ước
đạt 0,71%, nhuyễn thể 5.699 tấn, sản lượng cá tra ước đạt 8000 tấn. Hoạt động
NTTS trong năm đã gặp rất nhiều khó khăn do giá nguyên liệu tăng cao, mặt khác
lại chịu ảnh hưởng của môi trường nước, tôm giống kém chất lượng, việc cải tạo ao
chưa đảm bảo kỹ thuật nên dẫn đến sản lượng tôm sú giảm 3.910 tấn so với năm
2007 khoảng 37% hộ bị thua lỗ. đối với thuỷ sản nước ngọt do giá cả giảm, thị
trường tiêu thụ không ổn định nên số hộ nuôi đầu tư nuôi cũng giảm.
Năm 2009 sản lượng tôm sú có chiều hướng giảm sản lượng ước đạt 16.307 tấn
giảm gần 2.525 tấn so với năm 2008, năng suất bình quân đạt 0,77 tấn /ha. Giá trị
sản lượng đạt: 1.206,64 tỷ đồng. Trong đó có 11.083 hộ lãi, chiếm 56,27 %; 3.166
hộ hòa vốn, chiếm 16,07 % và 5.449 hộ nuôi bị lỗ, chiếm 27,66 %. Đây cũng là
năm tỉnh đã triển khai kế hoạch nuôi trồng thủy sản vùng ven biển.
Các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng năm 2009 đều có lãi, mức lãi trung bình khoảng
91
150 triệu đồng/ha/vụ. Cơ sở Giáo dục Bến Giá thả nuôi 36,5 triệu con giống trên
diện tích 25 ha, thu hoạch được 295 tấn, năng suất trung bình 11,8 tấn/ha. Trong đó
các hộ thả nuôi theo hình thức công nghiệp sản lượng đạt 6.615,2 tấn, năng suất
trung bình 1,95 tấn/ha, riêng huyện Cần Ngang đạt năng suất 4,52 tấn/ha.
Sản lượng tôm sú năm 2010 ước đạt 20.000 tấn, sản lượng cua ước đạt 9000 tấn,
nghêu sò với diện tích nuôi 1600 ha đạt sản lượng khoảng 1000 tấn, cá tra là đối
tượng nuôi có giá trị xuất khẩu huyện Tiểu Cần là địa phương nuôi chếm tỷ lệ lớn
trong năm thì toàn tỉnh đạt sản lượng là 15000 tấn.
Nhiều vùng trên địa bàn tỉnh điển hình như huyện Cầu nghề nuôi tôm sú ở các
xã ven biển phát triển vào năm 1998. Từ một vùng đất đai hoang hóa, nhiễm mặn,
sản lượng tôm nuôi những năm đầu 1999 chưa đạt quá 100 tấn/năm, vậy mà bây giờ
sau qua hơn chục năm phát triển vùng đất này trở thành “mỏ tôm” của tỉnh Trà
Vinh.
Nuôi nhuyễn thể bao gồm hai đối tượng chính là nghêu và sò huyết, chủ yếu
nuôi theo phương thức QCCT, với định hướng phát triển nuôi các đối tượng nhuyễn
thể chủ lực như nghêu, sò và các đối tượng khác tại những vùng sinh thái thích hợp
nhằm tạo ra một lượng lớn sản phẩm phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước,
đồng thời khai thác hợp lý và bảo vệ tốt nguồn giống nhuyễn thể, khai thác tốt tiềm
năng các vùng đất, bãi bồi ven biển để thực hiện đa dạng phương thức nuôi nhằm
nâng cao sản lượng, tăng hiệu quả kinh tế và thực hiện xóa đói giảm nghèo bền
vững vùng ven biển. Mặc dù diện tích nuôi tương đối ổn định, nhưng năng suất nuôi
nhuyễn thể luôn biến động năm 2006 năng suất đạt 1,88 tấn/ha/năm đến năm 2008
đạt năng suất 1,12 tấn/ha.
Bảng 2.13: Năng suất một số đối tượng mặn lợ (2006 -2010)
Đơn vị: tấn/ha/năm
Tôm sú 0,82 0,91 0,72 0,77 0,83 Nhuyễn thể 1,88 2,19 1,12 … … Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nguồn: Sở NN – PTNT tỉnh Trà vinh.
92
Nguyên nhân giảm do hình thức nuôi chủ yếu phụ thuộc nguồn giống tự nhiên,
các chương trình kiểm soát an toàn vệ sinh vùng nuôi, việc phòng trị bệnh cho
nghêu còn rất hạn chế; đặc biệt từ năm 2003 đến nay hàng năm lượng giống ngày
càng thiếu, không đáp ứng được nhu cầu thả nuôi của các hộ dân, do đó ảnh hưởng
tới sản lượng.
Năng suất theo hình thức nuôi: đối với tôm nuôi năng suất bình quân ở hình
thức nuôi bán công nghiệp đạt 3-3,5 tấn/ha, nuôi công nghiệp đạt 5-6 tấn/ha, cá biệt
có một số hộ nuôi tôm sú theo hình thức thâm canh “ao nổi” đạt năng suất kỷ lục 8-
12 tấn/ha. Một số địa phương trong tỉnh điển hình là huyện Cầu Ngang đã biết áp
dụng quy trình nuôi tôm sú ít thay nước hoặc cấp nước bổ sung kết hợp sử dụng
men vi sinh. Hiệu quả rất cao, năng suất tôm từ 6 - 7 tấn/ha/vụ, một số vùng nuôi
lên đến 10-12 tấn/ha/vụ. Trong các hình thức nuôi này thức ăn chủ yếu phụ thuộc
rất nhiều vào con người, đều là những thức ăn dạng viên, sấy khô,… đem lại hiệu
quả cao trong sản xuất. Đối với hình thức luân canh với trồng lúa thì đây được xem
là mô hình phổ biến đang được đa số ngư dân của tỉnh áp dụng nuôi ở các vùng
ruộng trũng hiện nay, bởi hiệu quả sử dụng đất cao, khả năng đầu tư hợp lý cũng
như trình độ kỹ thuật hiện nay. Mô hình nuôi tôm sú QCCT luân canh ruộng lúa
một vụ (ở vùng nước lợ), với diện tích mương bao quanh thửa ruộng; chiếm 25- 30% diện tích. Thả giống nhân tạo mật độ từ 4 - 6 con/m2 tôm giống có kích cỡ 2-3
cm/con. Năng suất thu hoạch tôm sú 1 ha ruộng lúa 0,20-0,56 tấn/ha tùy từng vùng.
Năng suất thuỷ sản nước ngọt đạt năng suất trung bình năm tương đối cao trong
giai đoạn 2001 - 2005 tốc độ tăng năng suất trung bình đạt 10,3%, năng suất bình
quân các năm đạt 3,21 tấn/ha/năm năm 2005 là năm đạt năng suất cao nhất 3,73
tấn/ha/năm. Ở giai đoạn sau năng suất cũng tương đối ổn định. Việc năng suất nuôi
tăng theo thời gian, là do diện tích nuôi thâm canh ngày càng cao, nhất là những
vùng có diện tích nuôi không nhiều. Tôm càng xanh và các da trơn là hai đối tượng
thuỷ sản nước ngọt chủ lực luôn đem đạt năng suất và sản lượng cao, ngoài ra còn
có một số loài như: cá lóc, ốc len, cá kèo.
Sau 20 năm tái lập tỉnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì bản thân
93
ngành cũng đạt được những thành tựu nhất định, tỉnh cũng đã có nhiều cách tổ chức
sản xuất mới đem về hiệu quả kinh tế quan trọng. Tỉnh đã tổ chức nhiều tổ hợp tác
như: đường nước, con giống, hùn đất, bỏ vốn làm ăn chung, tiêu thụ sản phẩm hoặc
theo phương chấm: người nghèo góp đất, người giàu góp vốn nhà nước góp về khoa
học kỹ thuật và kêu gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư cơ sở vật chất. Toàn bộ quy
trình nuôi, từ khâu chọn giống đến chăm sóc và thu hoạch, có hẳn cán bộ chuyên
môn theo dõi chặt chẽ. Nhờ đó, hạn chế được dịch bệnh và năng suất nuôi luôn đạt
cao. Đây thực sự đã tạo ra những bước tiến khả quan với sự đồng lòng từ nhân dân
cho đến các cấp chính quyền địa phương, nhiều địa phương trong tỉnh cũng đã chủ
trương không phát triển diện tích nuôi tôm tràn lan, khi cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi
thủy sản chưa hoàn chỉnh.
2.4. Thực trạng về nguồn lao động nuôi trồng thủy sản
Trà Vinh là một tỉnh thuần nông với tổng số lực lượng lao động dồi dào, theo
kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm tháng 1 - 4/2009 thì tổng số
người trong độ tuổi lao động chếm 70,84% dân số toàn tỉnh.
Bảng 2.14: Số lao động làm việc trong khu vực 1
Đơn vị: người
Ngành kinh tế 2006 2007 2008 2009 2010
339.100 323.697 310.956 290.563 279.976 Nông nghiệp
84.333 175.960 169.6734 157.949 130.931 LĐ Nữ
1.049 982 1.003 1.078 1.142 Lâm nghiệp
570 5.334 545 586 643 LĐ Nữ
51.956 46.679 43.150 39.352 37.541 Thuỷ sản
28.243 25.374 23.356 21.392 19.838 LĐ Nữ
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thống kê 2006- 2010).
Lao động hoạt động trong ngành thuỷ sản có xu hướng giảm do nhiều
nguyên nhân, một phần do khoa học - kỹ thuật phát triển vận dụng nhiều máy móc
vào hoạt động sản xuất hạn chế sử dụng lao động chân tay. Hoà cùng xu hướng
94
CNH – HĐH của đất nước đang triển khai thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng chính vì đều này dẫn đến tình trạng lao động trong khu vực 1 giảm
dần, bản thân ngành thuỷ sản trong giai đoạn 2006 – 2010 đã giảm khoảng 14.415
người.
Theo số liệu thống kê năm 2006 số lao động trong ngành thuỷ sản là 51.956
người, năm 2010 Trà Vinh có tổng số lao động là 585.926 người đang hoạt động
trong các ngành kinh tế, trong đó ngành thủy sản tổng số lao động chếm 37.541
người chếm 6,42% trong tổng số lao động, giảm 1,38 lần so với năm 2006, trong đó
lao động nữ chếm 19.838 người (Bảng 2.14). Đa số là những người nuôi trồng thủy
sản chưa qua các lớp chuyên môn đào tạo, từ những hoạt động và kết quả thực tế họ
đúc kết được những kinh nghiệm cho công tác nuôi trồng. Nguồn lao động chính
của ngành đa phần là những người nông dân còn yếu kém về tay nghề chỉ thiên về
số lượng, đều đặc biệt là đội ngủ được đào tạo chuyên môn cho nghề nuôi thủy sản
lại rất hiếm, sẽ dẫn đến tình trạng khó tiếp thu khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Nguồn lao động không qua đào tạo dẫn đến trình độ tổ chức sản xuất, quản lý đều
hành yếu kém. Phần lớn các lao động (đại diện của các hộ nuôi trồng thủy sản) đã
được tham gia các khoá tập huấn về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Những lớp tập
huấn này được tổ chức bởi nhiều cơ quan khác nhau như: Trung tâm Khuyến ngư,
Phòng thủy sản, phòng Nông nghiệp của các quận, huyện…
Việc mở các lớp tập huấn cho người lao động thường diễn ra trong vòng 1
hoặc 2 ngày, tập trung vào các vấn đề mấu chốt như kỹ thuật nuôi, xử lý môi trường
và phòng trừ dịch bệnh. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức của người dân còn thấp
nên việc áp dụng các kiến thức đã học được của người dân vào thực tế còn nhiều
hạn chế. Thực tế chỉ phổ biến trong việc áp dụng kỹ thuật nuôi vẫn là tham quan,
học hỏi kinh nghiệm giữa những người nuôi với nhau. Hoạt động NTTS có nhu cầu
sử dụng lao động khác nhau đối với các hình thức nuôi, đối với các hình thức nước
ngọt chủ yếu nuôi trong các mương vườn, ao hồ nên gắn với các hộ gia đình, do
mức độ đầu tư chưa lớn, các hoạt động chăm sóc, quản lý ao nuôi chủ yếu tận dụng
lao động có sẵn trong gia các gia đình thường sử dụng trung bình 1 lao động cho
95
việc quản lý chăm sóc 1 ao nuôi diện tích trung bình 2000 m2 đến thời điểm thu
hoạch và cải tạo ao cần phải thuê thêm lao động ngoài. Do tính chất của từng loại
hình canh tác mà nhu cầu sử dụng lao động có sự khác nhau tùy mức đầu tư vào các
hoạt động chăm sóc vật nuôi, phụ thuộc vào các hình thức nuôi mà ngành cần lượng
lao động phục vụ, như hình thức quảng canh thì mức độ sử dụng lao động thấp, số
lao động trung bình sử dụng cho nuôi QCCT trong nuôi nước lợ là 2 người/ha/vụ
nuôi, trong việc nuôi bán thâm canh là 3 lao động/ha ao nuôi/vụ nuôi, nuôi thâm
canh thì cần nhiều hơn là 5 người/ha/vụ nuôi (theo điều tra của Viện Quy Hoạch
Thủy Sản).
Mặt khác, một bộ phận lao động rất có kinh nghiệm canh tác mà không cần
qua các lớp đào tạo, thông qua việc đúc kết những kinh nghiệm từ thực tế nuôi
trồng truyền thụ lại cho thế hệ sau. Chất lượng lao động là nhân tố hàng đầu như
nghiên cứu quá trình phát triển NTTS. Lao động trong NTTS đòi hỏi sự am hiểu về
kỹ thuật, có kinh nghiêm và kỹ năng tổ chức quản lý nuôi trồng theo những hình
thức và quy mô nhất định. Hiện tại tỉnh đang thực hiện việc nâng cao trình độ cho
các cán bộ quản lý và nuôi trồng trên địa bàn tỉnh, đồng thời mở rộng đào tạo nhân
lực có trình độ chuyên môn phục vụ nuôi trồng.
2.5. Thực trạng về các yếu tố hỗ trợ phát triển nuôi trồng thuỷ sản
2.5.1. Sản xuất giống
Trà Vinh là một tỉnh vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL),
có tốc độ phát triển kinh tế chậm so với các nhiều tỉnh khác trong khu vực. Với sự
nỗ lực thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành NTTS được Trà Vinh xem như
đòn bẩy thúc đẩy ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Một trong
những yếu tố quan trọng quyết định đến thành bại của ngành ở Trà Vinh là yếu tố
con giống, luôn cần được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương.
Ngành nuôi của tỉnh đang phải đối mặt với tình trạng người dân nhập giống trôi
nổi không rõ nguồn gốc đã mang nhiều mầm bệnh, gây nhiều thiệt hại đáng kể. Từ
năm 2001, Bộ Thủy sản (trước đây) đã tiến hành quy hoạch các vùng sản xuất giống
thủy sản trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, năm 2004 Chính phủ cũng đã ban hành
96
Quyết định số 112/2004/QĐ - TTg phê duyệt Chương trình sản xuất giống thủy sản
đến năm 2010.
Theo Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thủy Sản đã đưa ra 3 phương án phát triển
quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020, trong nhu cầu quy hoạch phát triển
NTTS của các tỉnh ĐBSCL thì nhu cầu về con giống của tỉnh Trà vinh cụ thể là:
Bảng 2.15: Nhu cầu về con giống trong việc phục vụ quy hoạch NTTS
của tỉnh Trà Vinh
Đơn vị: Triệu con
Giống thủy sản mặn, lợ Giống thủy sản nước ngọt
Tôm Các Tôm Các Tổng Tôm Nghêu Cá Rô chân loại càng loại số sú sò tra phi trắng khác xanh khác
640 3.000 407 219 132 3 216 96 QH 2010 4.713
800 2.900 630 219 245 10 258 129 4.961 QH 2015
3.500 1.460 890 230 495 14 145 6.168 324 ĐH 2020
Nguồn: Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thủy Sản
Theo chiến lược phát triển quy hoạch NTTS thì nhu cầu con giống của tỉnh
luôn tăng do diện tích và sản lượng thủy sản nuôi tăng trong giai đoạn 2008-2020,
dẫn đến nhu cầu con giống cũng tăng theo.
Nguồn giống nội: Theo thống kê năm 2009 toàn tỉnh có 122 trại sản xuất
giống tôm hoạt động, công suất thiết kế trại sản xuất là 1,45 tỷ con/năm và 44 cơ sở
di nhập con giống ngoài tỉnh về ương dưỡng cung cấp cho hơn 25.000 hộ dân thả
nuôi trong tỉnh hàng năm. Năm 2009 đã sản xuất 600 triệu con, đạt 41,4% công suất
thiết kế, chếm 37% nhu cầu giống thả nuôi trong tỉnh. Các trại sản xuất giống chủ
yếu tập trung ở huyện Duyên Hải, một phần ở Cầu Ngang, Trà Cú và Thị xã Trà
Vinh. Dịch vụ ương, thuần dưỡng: có 44 cơ sở ương thuần dưỡng và dịch vụ giống
97
tôm sú, trong năm đã thuần dưỡng và xuất bán được 1 tỷ con tôm giống chiếm
62,5% nhu cầu. Tỉnh đã tiến hành đầu tư cơ sở sản xuất giống của tỉnh như Trung
tâm giống thủy sản TX. Trà Vinh, cải tạo nâng cấp trại giống tôm Hiệp Mỹ - Cầu
Ngang với tổng nguồn vốn đầu tư 3,82 tỷ đồng. Kế hoạch được hoàn thành vấn đề
về con giống sẽ được giải quyết phần nào đáp ứng nhu cầu của người nuôi.
Tuy nhiên tỉ lệ kiểm dịch chất lượng tôm giống trong từng mẻ xuất rất thấp.
Chất lượng con giống không đồng đều và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tay nghề
của người sản xuất, trang thiết bị và quy trình sản xuất giống, công nghệ và chất
lượng nguồn tôm giống bố mẹ... nên tỉ lệ tôm giống sạch bệnh, chất lượng cao trong
từng mẻ sản xuất thường đạt rất thấp.
Theo Trung tâm Giống thủy sản tỉnh Trà Vinh thường vào vụ nuôi giá tôm sú
giống tăng mạnh nhưng nguồn cung không đủ cầu. Tôm giống sản xuất tại địa
phương (P12-P15) giá 50 - 65 đồng/con. Giá tôm sú mẹ (tôm biển) có nguồn gốc Cà
Mau trọng lượng 180 - 220gam/con (chất lượng tịnh trung bình) giá 3 - 3,5 triệu
đồng/con; loại tôm mẹ tốt từ 4,5 - 5 triệu đồng/con nhưng nguồn cung cũng rất hạn
chế đồng thời cũng phải cảnh giác chất lượng và nguồn gốc tôm giống.
Trong việc kiểm định chất lượng con giống thì toàn tỉnh cũng chỉ có 2 phòng
kiểm dịch bằng hệ thống PCR. Trong khi các thương lái luôn tìm mọi cách né tránh
sự kiểm soát của cán bộ Thanh tra nông nghiệp và Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy
sản. Lực lượng Thanh tra nông nghiệp và kiểm dịch của Chi cục Bảo vệ nguồn lợi
thủy sản thì quá mỏng. Nhiều cơ sở cung cấp giống trong tỉnh cũng né kiểm dịch,
chấp nhận nhập tôm không rõ nguồn gốc để bán với giá rẻ bằng 50% giá bán tôm
giống đã qua kiểm dịch. Nguồn giống sạch bệnh tại tỉnh đang thiếu trầm trọng. Để
có nguồn giống cung cấp cho người nuôi tôm, ngành Nông nghiệp tỉnh chỉ đạo Chi
cục Nuôi trồng thủy sản ngoài việc khuyến khích các trại sản xuất tôm giống trong
tỉnh tăng cường sản xuất giống có chất lượng, sạch bệnh; tạo mọi điều kiện cho các
doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung cấp tôm giống đảm bảo đủ nhu cầu giống thả
nuôi trong tỉnh. Đồng thời, buộc các doanh nghiệp phải cam kết và đảm bảo giống
có chất lượng tốt, sạch bệnh… Nếu kiểm tra phát hiện các đàn tôm bị nhiễm bệnh
98
thì doanh nghiệp đó phải hỗ trợ 100% chi phí giống để nông dân khôi phục thả nuôi
trở lại…”. Năm 2010 toàn tỉnh có trên 1,62 tỷ con tôm giống thả nuôi, nhưng chỉ có
khoảng 300 triệu con giống được kiểm dịch. Đây là thực trạng hết sức báo động đối
với ngành nuôi.
Trước tình hình nghề nuôi cua biển đang phát triển mạnh, mà bên cạnh đó nuôi
tôm sú lại gặp nhiều khó khăn, nhiều cơ sở sản xuất giống tôm sú trên địa bàn
huyện Duyên Hải đã chuyển sang hoặc kết hợp với sản xuất giống cua nhân tạo. Từ
vài cơ sở sản xuất cua giống nhân tạo năm 2011 đến vụ cua năm 2012, số cơ sở sản
xuất, ương dưỡng tôm sú giống chuyển sang cua tăng lên 12 cơ sở, với năng lực sản
xuất từ 400 – 500 ngàn con giống/cơ sở. Bên cạnh đó tình trạng nuôi nghêu của tỉnh
hiện đang sử dụng nguồn giống tự nhiên, tỉnh đang xúc tiến việc xây dựng các trại
sản xuất nghêu giống địa điểm xây dựng là huyện Duyên Hải hoặc là huyện Cầu
Ngang, công suất trại 2 tỷ con/năm.
Tỉnh đã thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” khuyến khích các cơ sở sản
xuất giống hiện có đầu tư nâng cấp, mở rộng sản xuất nhằm đáp ứng khả năng cung
ứng trên 70% nhu cầu con giống sản xuất tại địa phương, cần có những chính sách
ưu đãi đầu tư vốn, đào tạo nguồn nhân lực trong nghiên cứu và sản xuất con giống.
Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất đến lưu thông, tiêu thụ giống, tăng
cường xét nghiệm và loại bỏ tôm bố mẹ bị bệnh trước khi cho sinh sản và quản lý
số lần sinh sản của chúng. Đồng thời tiến hành kiểm dịch bằng phương pháp PCR
hoặc mô học tận gốc đối với giống sản xuất trong tỉnh cũng như giống nhập tỉnh.
Giống ngoại nhập:
Trước tình trạng giống tôm trong tỉnh không đáp ứng đủ nhu cầu thì nguồn
giống ngoại nhập là đều tất yếu. Nguồn giống này phải được kiểm dịch một cách
cẩn thận trước khi cho nhập vào tỉnh đảm bảo an toàn cho vùng nuôi. Trước đây lực
lượng kinh doanh giống được các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ, kiểm tra yêu
cầu kỹ thuật và kiểm dịch thường xuyên, nên các cơ sở chủ yếu cạnh tranh về chất
lượng tôm giống. Từ khi chuyển dịch cơ cấu sản xuất đến nay, do nhu cầu lớn các
99
trại tôm giống hình thành khắp nơi, nên công tác quản lý không còn chặt chẽ như
trước. Trên 65% lượng tôm sú giống nhập tỉnh vẫn chưa qua kiểm dịch, vì thế
không ai dám bảo đảm chất lượng. Một thực trạng bức xúc hiện nay là tôm giống
nhập từ tỉnh bạn có giá rẻ hơn tôm giống sản xuất tại địa phương. Khi vào vụ do cần
giống để thả nuôi thế là bà con mua đại, bất kể chất lượng dẫn đến tình trạng tôm
chết tràn lan.
Trên thực tế, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, rất nhiều ngõ để có thể nhập
tôm vào tỉnh mà không qua kiểm dịch trước thì việc thực hiện quản lý chất lượng
tôm giống nhập vào Trà Vinh ngày càng khó khăn hơn. Công việc kiểm dịch giống
thủy sản phải được quan tâm hơn trước tình trạng giống vào tỉnh luôn mang nhiều
mầm bệnh khó kiểm soát.
Trước thực trạng này để đảm bảo có nguồn tôm giống sạch bệnh thì Trung tâm
giống thủy sản Trà Vinh đã xem xét thành lập một đoàn kiểm tra, tiêu hủy những lô
tôm giống nhập tỉnh không đạt yêu cầu và có dấu hiệu bệnh đến mức phải tiêu hủy.
Đây là một trong những điều kiện cần và phải có để tổ chức, liên hệ thông tin về
chất lượng con giống nhằm đảm bảo được nguồn giống sạch. Để đảm bảo phất triển
bền vững cần điều tra hiện trạng tổng thể nghề sản xuất giống và nghề nuôi tôm của
tỉnh, đồng thời đó các cơ quan chuyên môn phải dự báo biến động của môi trường,
thị trường, dịch bệnh... để có qui hoạch tổng thể hoàn chỉnh nghề nuôi thủy sản.
Một số loại giống phải nhập từ ngoài tỉnh vào như cá chẽm, cá lóc, tôm các
loại,… vì lượng giống trong tỉnh không đủ để đáp ứng nhu cầu.
Tuy nhiên, để nghề nuôi thủy sản của Trà Vinh mang tính bền vững, nguồn con
giống phải được tỉnh tự túc thông qua việc đầu tư phát triển hệ thống sản xuất con
giống, tăng cường các thiết bị kiểm tra chất lượng tôm bố mẹ và cả con tôm giống.
2.5.2. Thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản
Vào thời kỳ sơ khai khi ngành mới phát triển người ta chỉ biết đến hình thức
nuôi quảng canh tất cả đều dựa vào tự nhiên, người nuôi chưa ý thức được vai trò
của thức ăn công nghiệp. Ngoài nguồn thức ăn tự nhiên chủ yếu của tôm là cá tươi,
cá phân và các phụ phẩm khác như khoai, mì, dừa, … có sẵn tại địa phương, thì
100
hiện tại thức ăn công nghiệp càng có vị trí quan trọng trong ngành NTTS khi tiến
hành áp dụng nhiều hình thức nuôi mới tiến bộ đối với những giống năng suất cao
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường hàng hóa. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn tự nhiên
cũng chếm phần không nhỏ trên những diện tích nuôi, cũng như các tỉnh ĐBSCL
thì tỉnh Trà Vinh cũng có nhiều diện tích nuôi thâm canh hoặc xen canh cá, tôm trên
ruộng lúa đã tận dụng khai thác được nguồn thức ăn tự nhiên. Tuy nhiên vẫn không
phủ nhận được vai trò quan trọng của thức ăn công nghiệp trong việc đảm bảo đầy
đủ dưỡng chất, vật nuôi chóng lớn.
Nhằm tăng tỷ lệ thức ăn công nghiệp sản xuất nội địa cho NTTS, các địa phương
đang xây dựng kế hoạch nâng cấp các cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi để kết hợp
sản xuất thức ăn cho NTTS. Tuy nhiên, trên thực tế loại thức ăn cho tôm cá chất
lượng cao sẽ rất khó sản xuất ở những cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ. Bởi vậy, cần tổ chức
các công ty cổ phần với sự tham gia của nhiều thành phần để xây dựng các nhà máy
sản xuất thức ăn qui mô lớn có công nghệ cao ở cấp vùng. Số nhà máy này sẽ cung
cấp thức ăn chất lượng cao với nguyên liệu nội địa, đảm bảo một nền tảng cung cấp
thức ăn vững chắc, nhằm hạn chế tình trạng quá lệ thuộc vào thức ăn, nguyên liệu
ngoại nhập (nhưng cần phải thận trọng trong vấn đề cạnh tranh) và cũng loại trừ dần
những nhà sản xuất thức ăn kém chất lượng ở các địa phương khác.
Hiện toàn tỉnh có 155 cơ sở kinh doanh thuốc thú y thủy sản, chế phẩm sinh học
và hóa chất xử lý môi trường ao nuôi, 59 cơ sở kinh doanh cung ứng thức ăn thủy
sản. Các cơ sở này đã cung ứng tương đối tốt và khá đầy đủ các loại sản phẩm phục
vụ nhu cầu nuôi trồng thủy sản.
2.5.3. Công tác khuyến ngư và chuyển giao công nghệ
Công tác khuyến ngư được triển khai chặt chẽ theo hệ thống chân rết, hệ thống
khuyến ngư ngày càng mở rộng và hoạt động có hiệu quả. Đa số nông dân đã sử
dụng hóa chất, kiểm tra môi trường, tuân thủ lịch thời vụ, nắm bắt kịp thông tin
khoa học kỹ thuật do trung tâm khuyến ngư đưa ra.
Các mô hình trình diễn: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư thuộc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh đã phối hợp với địa phương xây dựng
101
2 mô hình trình diễn nuôi tôm sú theo qui trình GlobalGAP (GlobalGAP là tổ chức
thiết lập các tiêu chuẩn chứng nhận tự nguyện cho các sản phẩm ngành nông nghiệp
và thủy sản toàn cầu), tại xã Hiệp Mỹ Đông (huyện Cầu Ngang) và Hiệp Thạnh
(huyện Duyên Hải). Qui trình GAP là mô hình sản xuất mới ở vùng ngập mặn, ven
biển tỉnh Trà Vinh, sản phẩm làm ra sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo
tiêu chuẩn GAP. Các hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 100% chi phí con giống và
30% chi phí thức ăn; người nuôi còn được cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông
- Khuyến ngư hướng dẫn kỹ thuật thông qua các lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ.
Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến
nông- Khuyến ngư tỉnh Trà Vinh tổ chức hội thảo, tổng kết mô hình; tập huấn qui
trình, kỹ thuật nuôi tôm sú theo qui trình GAP cho 30 nông dân nuôi tôm theo hình
thức thâm canh (công nghiệp) ở 3 huyện trọng điểm nuôi tôm sú của tỉnh gồm:
Duyên Hải, Cầu Ngang và Trà Cú, nhằm nhân rộng mô hình trong vụ nuôi tôm sú
năm 2012.
Việc tổ chức các buổi khuyến ngư trực tiếp đến các hộ nông dân và vùng nuôi
đôi lúc cũng gặp nhiều khó khăn, hiện tại trên phương tiện truyền hình tỉnh cũng tổ
chức xây dựng chương trình khuyến ngư ở các đài truyền thanh và truyền hình địa
phương, lắp đặt hệ thống truyền thanh và tăng cường các biện pháp truyền thông
như bản tin nhanh, loa phóng thanh công cộng, vô tuyến địa phương theo giờ hàng
ngày truyền bá kiến thức thông tin về công nghệ và kỹ thuật NTTS, để người nuôi
có thể theo dõi hàng tuần nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhất về chăn nuôi.
Ngoài ra, còn kết hợp với các đơn vị sản xuất thuốc thú ý, thức ăn nuôi thủy sản.
Tổ chức nhiều cuộc hội thảo với các nội dụng hướng dẫn sử dụng thuốc, phương
pháp phòng ngừa dịch bệnh, sử dụng các sản phẩm để quản lý các vùng nuôi.
Trong các năm qua, khuyến ngư trung ương và các tỉnh ĐBSCL đã hỗ trợ đắc
lực cho phát triển NTTS thông qua các cuộc tập huấn, hội thảo, thực hiện các điểm
trình diễn, cấp phát các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật nuôi và phòng trừ bệnh thủy
sản.Tuy nhiên đội ngũ khuyến ngư còn mỏng, chưa đến tuyến các huyện thị. Mặc
dù theo Khoản 1, 2 - Điều 11 – Chương III - Nghị định 56 về tổ chức thực hiện, tại
102
mỗi xã, phường, huyện thị đều phải có cán bộ khuyến nông, khuyến ngư tuy có
nhưng chưa chi tiết cho khuyến ngư đây cũng là đều bức xúc trong thực tế phát
triển.
Tỉnh cũng đang tiếp tục xây dựng các mô hình khuyến ngư, nhân rộng các mô
hình tốt trong sản xuất; thực hiện tốt các chính sách khuyến khích các nhà khoa học
trong và ngoài ngành chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, góp
phần thúc đẩy sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thành lập các trạm
khuyến ngư cấp huyện ở tất cả các huyện trong vùng, ở các xã nên có đội kỹ thuật
thủy sản và cán bộ khuyến ngư, mỗi ấp nên có 1 mô hình trình diễn mẫu cho nhân
dân làm theo. Được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước các cấp chính quyền địa
phương tiến hành chuyển giao những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật lại cho người
nuôi nắm vững.
2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản
2.6.1. Thị trường nội địa
Sản phẩm thủy sản ngày càng được ưa chuộng nhiều hơn không chỉ trong
nước mà còn kể cả nước ngoài. Sản phẩm thuỷ sản luôn là loại thực phẩm phổ biến
trong phần lớn các bữa cơm hàng ngày của người dân. Thị trường trong tỉnh cũng
chếm một phần đáng kể cung cấp cho hơn 1 triệu dân, hầu hết các xã phường đều có
các chợ cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng. Sản phẩm thủy sản của tỉnh cùng
với các sản phẩm của các tỉnh khác đã được phân phối đến tất cả các vùng khác
trong cả nước sản phẩm đa phần là cá, tôm đều được rất là ưa chuộng. Khâu tiếp thị
sản phẩm được đầu tư phát triển đã giúp cho sản phẩm của ngành được lưu thông
tốt hơn. Tỉnh có 07 nhà máy chế biến thủy hải sản xuất khẩu với công suất 27.300
tấn thành phẩm/năm, lực lượng lao động khoảng 3.900 người, bên cạnh đó còn có
hệ thống thu mua sản phẩm thủy sản phân bố rộng khắp trên toàn tỉnh, cơ bản đã
thu mua hết lượng sản phẩm thủy sản trong dân. Nhiều năm qua có chủ trương “liên
kết 4 nhà” thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Song mới chỉ thành
công rất hạn chế với vùng sản xuất tập trung, thuận lợi về giao thông, giải quyết
một phần rất nhỏ trong số sản phẩm nông nghiệp đa dạng, số lượng lớn, thị trường
103
hàng hoá nhiều.
Thông qua các nhà máy chế biến sản phẩm thủy sản đến với người tiêu dùng
ngày càng đa dạng hơn như các sản phẩm: đồ hộp, nước mắm, phơi sấy, đông
lạnh… Theo báo cáo tuần của UBND tỉnh thì tháng 5/2012 các cơ sở chế biến thủy
sản thu mua 917 tấn nguyên liệu trong đó (310 tấn tôm sú), chế biến 385 tấn, tiêu
thụ 484 tấn sản phẩm, kim ngạch xuất khẩu 1,15 triệu USD; nâng đến nay thu mua
4.895 tấn nguyên liệu (1.120 tấn tôm sú), chế biến 2.498 tấn, tiêu thụ 2.258 tấn, kim
ngạch xuất khẩu trên 11,15 triệu USD. Thị trường nội địa sẽ là động lực thúc đẩy
ngành phát triển, trên tinh thần đảm bảo nhu cầu người dân, một phần ổn định kinh
tế hộ gia đình.
2.6.2. Thị trường xuất khẩu
Cùng với các tỉnh ĐBSCL thị trường xuất khẩu chủ yếu của sản phẩm thủy
sản của tỉnh ngày càng được mở rộng ra nhiều thị trường trên thế giới như: Nhật,
Mỹ, Trung Quốc, EU,… Đây là những thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản lớn.
Các doanh nghiệp đều phải tự tạo ra lợi thế cạnh tranh riêng và vì thế ở mỗi địa
phương có được những mặt mạnh và mặt yếu ở từng thị trường xuất khẩu.
Bảng 2.16: Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh Trà Vinh
giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị: tấn
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Sản phẩm
3.402 3.791 4.058 4.371 5.489 Tôm đông
2.352 2.453 2.720 3.689 1.391 Cá đông
3.073 2.919 2.481 3.266 3.220 Thủy sản đông lạnh
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thống kê 2006 – 2010)
Tôm đông, cá đông và thủy sản đông lạnh là những mặt hàng xuất khẩu có
giá trị của tỉnh. Tổng sản phẩm xuất khẩu trong giai đoạn 2006 – 2010 luôn tăng
104
qua các năm từ 8.827 tấn năm 2006 lên 10.100 tấn năm 2010 tăng 1.273 tấn, trong
đó mặt hàng tôm đông luôn chếm tỷ trọng lơn trong các mặt hàng xuất khẩu khác
năm 2006 chiếm 38,54% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu đến năm 2010 giá trị
này lại tăng lên 54,35%. Đều này đã chứng minh được sự cố gắn vượt bậc của toàn
ngành thủy sản đặc biệt là công nghiệp chế biến đã tạo nên được nhiều mặt hàng
thủy sản chế biến đa dạng hơn.
2.7. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động nuôi trồng thủy sản
Tuy có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển NTTS nhưng tỉnh cũng đang
mắc phải những khó khăn hạn chế từ nhiều khâu trong NTTS có thể điểm qua một
vài khó khăn hạn chế của ngành: Nuôi trồng thủy sản đòi hỏi chi phí đầu tư cao,
nhất là chi phí đầu tư xây dựng công trình ao nuôi. Tuy nhiên, do đa số hộ nuôi
thiếu vốn sản xuất nhất là các hộ nuôi theo hình thức quảng canh, quảng canh cải
tiến và tư tưởng chủ quan trong quá trình nuôi, vì vậy một số hộ nuôi xây dựng
công trình ao nuôi không đúng qui trình kỹ thuật, không có ao lắng, ao xử lý nước;
Trong sản xuất thì giảm những khoản chi phí không phù hợp nên làm cho nghề nuôi
trồng thủy sản phát triển thiếu tính ổn định.
Cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS:
- Việc xây dựng công trình ao nuôi không đúng quy trình kỹ thuật, không có
ao lắng, ao xử lý nước. Trong quá trình sản xuất thì giảm các chi phí không phù hợp
nên làm cho ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh phát triển thiếu tính ổn định. Nhiều cơ
sở nuôi còn dùng chung đường cấp thoát nước nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm ảnh
hưởng các vùng nuôi lân cận.
- Cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư nhưng còn thiếu và hiệu quả sử dụng còn
hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất là hệ thống giao thông thủy lợi,
điện phục vụ riêng cho ngành NTTS. Hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, khả năng
phục vụ còn thấp chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Hệ thống thủy lợi (cung cấp và tiêu thoát nước) còn yếu kém, hệ thống cấp,
thoát chưa riêng biệt chưa phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi có tính đặc thù của
NTTS, không cung cấp đủ nước đảm bảo chất lượng cho NTTS cũng như không
105
đảm bảo việc tiêu nước khi bị ô nhiễm là nguyên nhân cơ bản gây ra dịch bệnh và
hiệu quả sản xuất kém của nhiều vùng NTTS.
Quy hoạch: Khu NTTS tập trung còn ít, đa số là sản xuất mạnh mún, nhỏ
lẻ nuôi tôm ở Trà Vinh mang tính chất hộ gia đình, qui mô nhỏ lẻ nên việc quản lý
nguồn nước thải ở các hộ có tôm bị chết gặp nhiều khó khăn, chưa hình thành được
vùng sản xuất nguyên liệu tập trung mang tính hàng hóa lớn. Trong phát triển nuôi
trồng tuy có quy hoạch nhưng chậm công bố và quy hoạch chậm hơn so với nhu cầu
phát triển sản xuất. Nhiều nơi nuôi còn mang tính tự phát; phần lớn lại tập trung ở
các vùng mặn, lợ; các vùng nước ngọt còn yếu phát triển tự phát thiếu quy hoạch
đồng bộ, mức độ đầu tư cho nghề nuôi còn thấp.
- Việc gia tăng quá mức về diện tích NTTS và công tác quy hoạch NTTS,
đặc biệt là theo vùng nuôi, chưa được tốt đã và đang làm cho nguồn nước ngày càng
bị ô nhiễm ảnh hưởng xấu tới NTTS. Nhiều khu vực do tự phát NTTS phá vỡ quy
hoạch sản xuất nông nghiệp, nhất là ở những vùng canh tác lúa do ngọt hoá trước
đây, việc cấp thoát nước cho NTTS gây ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất nông
nghiệp khác, làm tăng mâu thuẫn giữa các ngành nghề ở số địa phương.
- Địa phương và ngành thủy sản chậm trễ trong việc xây dựng các qui hoạch
chi tiết và dự án, Nhà nước thiếu cơ sở để phân bổ đầu tư, đầu tư cho phát triển
NTTS nhìn chung còn quá thấp chưa tương xứng với khả năng và những kì vọng
phát triển. Hợp tác giữa các ngành các cấp chưa chặt chẽ, chưa có qui hoạch phát
triển liên ngành, liên vùng cho nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là việc phát triển thủy
lợi nằm trong ngành nông nghiệp do chưa thấy được nhu cầu thủy lợi hoá phục vụ
NTTS có sự khác biệt rất lớn so với việc ngọt hoá một số vùng để phát triển nông
nghiệp, nên đã gây ra những khó khăn nhất định khi địa phương muốn triển khai
nhanh kế hoạch phát triển NTTS của mình.
Tổ chức quản lý và sản xuất:
- Thiếu sự liên kết trong sản xuất, sự liên kết giữa người nuôi với người nuôi,
thành lập ban quản lý vùng nuôi để tự quản lý công đồng về con giống, môi trường
nước, dịch bệnh thủy sản, sự liên kết giữa người nuôi với nhà khoa học, sự liên kết
106
giữa người nuôi với doanh nghiệp thu mua, chế biến sản phẩm xuất khẩu. Chính vì
vậy người nuôi chịu áp lực của dịch bệnh và giá cả thị trường.
- Thiếu chính sách hỗ trợ phát triển đặc biệt là chính sách rủi ro cho người
nuôi thủy sản thiệt hại. Hằng năm người nuôi phải chịu những tổn thất trong quá
trình nuôi do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc chất lượng con giống không
đảm bảo, nhưng vẫn chưa có những chính hỗ trợ thiệt hại cho người dân..
- Quản lý của nhà nước trong lĩnh vực nuôi trồng còn nhiều hạn chế do các
hệ thống văn bản còn thiếu, một số văn bản chồng chéo chưa có hướng dẫn cụ thể
rõ ràng.
- Các cơ sở chế biến tuy thu mua hết sản phẩm của các hộ nuôi nhưng phải
chờ đợi lâu vào thời điểm thu hoạch làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và bị
ép giá.
Nguồn vốn: Nuôi trồng thủy sản đòi hỏi chi phí đầu tư cao, nhất là chi phí
đầu tư xây dựng công trình ao nuôi. Tuy nhiên, do đa số hộ nuôi thiếu vốn sản xuất
nhất là các hộ nuôi theo hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến và tư tưởng chủ
quan trong quá trình nuôi, vì vậy một số hộ nuôi xây dựng công trình ao nuôi không
đúng qui trình kỹ thuật, không có ao lắng, ao xử lý nước. Trong sản xuất thì giảm
những khoản chi phí không phù hợp nên làm cho nghề nuôi trồng thủy sản phát
triển thiếu tính ổn định. Nguồn vốn đầu tư vào ngành trên địa bàn tỉnh chưa thật sự
ổn định. Nhiều năm nay nhiều hộ nuôi trên địa bàn tỉnh đã gặp không ít khó khăn
trong việc tìm được nguồn vốn vai nhất là những lúc người nuôi bị thiệt hại, nhu
cầu về vốn để tái sản xuất cho các hộ nuôi tôm hiện nay đang trở nên bức xúc nhất.
Lợi nhuận từ hoạt động NTTS rất cao nhưng khi có rủi ro thì thiệt hại cũng rất lớn,
dẫn đến tình trạng người nuôi thiếu vốn trầm trọng.
Trình độ nguồn lao động: Trình độ kỹ thuật của người nuôi chưa đều.
Trình độ dân trí trong tỉnh còn hạn chế, nhất là nông dân ở các vùng sâu vùng xa,
tiếp thu công nghệ và kĩ thuật mới còn chậm đây là đều mà các cấp quản lý luôn
quan tâm giải quyết. Đa số người nuôi trong tỉnh còn dựa vào kinh nghiệm nuôi
thực tế, số lượng qua đào tạo thực sự chưa nhiều. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật
107
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là cán bộ chuyên
biệt về công nghệ sản xuất giống sạch bệnh, sản xuất thức ăn, xử lý môi trường và
phòng trừ dịch bệnh.
Về con giống: nhiều khuyến cáo mở rộng diện tích vùng nuôi nhưng một
thực trạng đặc ra cho ngành NTTS là vấn đề thiếu nguồn con giống chất lượng. Các
cơ sở sản xuất giống trong tỉnh không đủ cung cấp từ đó dẫn đến vấn đề là phải
nhập giống phải đối mặt với vấn đề chất lượng con giống, mặt khác lại chưa chủ
động được nguồn giống nuôi, vì thế mà phong trào nuôi chưa ổn định và thiếu vững
chắc, nguồn giống ngoại nhập thì không đảm bảo chất lượng, chưa kiểm dịch một
cách triệt để.
Ngoài ra, ngành NTTS của tỉnh cũng đang đối mặt với khó khăn trong công
tác kiểm tra chất lượng thức ăn, thuốc thú y thủy sản. Người sản xuất và các cơ sở
kinh doanh chưa có ý thức cao trong việc thực hiện, quán triệt các qui định trong
nuôi trồng thủy sản, sử dụng các loại thuốc, thức ăn thủy sản thiếu sự kiểm tra về
các sản phẩm trong việc mua và sử dụng. Về mặt giao thông thủy lợi điện phục vụ
NTTS tuy được chú trọng phát triển nhưng chưa được hoàn thiện chưa đạt được
hiệu quả cao nhất.
108
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH
3.1. Định hướng về phát triển nuôi trồng thuỷ sản
3.1.1. Định hướng chung
* Về cơ cấu diện tích nuôi:
- Giảm dần về diện tích nuôi trồng theo hình thức nuôi quảng canh cải tiến, bán
thâm canh và tiến tới mô hình nuôi thâm canh. Đồng thời không chặt phá rừng để
nuôi tôm, tân dụng ruộng lúa một vụ để nuôi tôm nhưng không lấn diện tích trồng
lúa, tận dụng ruộng muối để nuôi tôm.
- Mở rộng diện tích nuôi thâm canh, có năng suất cao, công nghệ sạch và bảo vệ
môi trường. Nâng cao năng suất, sản lượng các vùng nuôi tôm quảng canh hiện có,
trên cơ sở nâng cấp hệ thống thủy lợi, áp dụng rộng rãi công nghệ nuôi tiên tiến
- Tăng diện tích nuôi cá, tôm trong ao, hầm, mương đây được xem là khu vực dễ
chăm sóc và đạt năng suất cao. Tăng số lượng lồng bè trên sông, cải tiến kết cấu và
vật liệu làm bè nhằm giảm đầu tư xây dựng cơ bản.
* Về đối tượng nuôi:
Tiến hành nuôi những giống loài có giá trị kinh tế cao vừa đáp ứng nhu cầu
trong nước và cung ứng cho xuất khẩu đêm lại thu nhập cao: tôm sú, tôm càng
xanh, nhuyễn thể,…Tăng tỷ lệ các đối tượng trong sản lượng nuôi trồng, tăng tỷ lệ
có giá trị xuất khẩu vào ao nuôi, hồ, mương và nuôi bè.
- Phát triển nuôi trồng các loại có giá trị kinh tế cao, phục vụ xuất khẩu, đặc biệt
là các loại tôm. Đa dạng hóa các loại tôm như tôm sú, tôm hùm, tôm càng xanh, đưa
tôm thẻ chân trắng vào một trong các đối tượng nuôi trồng chính, tăng lợi thế cạnh
tranh bằng tôm sú có kích cỡ với sức cạnh tranh cao trên thị trường. Cùng với nuôi
công nghiệp sạch bệnh cần phát triển nuôi sinh thái ở những vùng phù hợp. Mở
rộng nuôi các loại các như: cá basa, cá tra, rô phi đơn tính và các đối tượng nước
ngọt xuất khẩu khác.
109
* Về giống:
Quy hoạch lại hệ thống trại giống sản xuất, trại ương và cung cấp giống cho
nghề nuôi. Tạo điều kiện cho việc sinh sản của các giống cá tôm nhằm góp phần
hoàn chỉnh quy trình nuôi.
- Nâng cấp các trại sản xuất giống tạo ra được nhiều loại giống có năng suất,
chất lượng cao. Hoàn thiện hệ thống nghiên cứu, sản xuất, cung ứng giống thủy sản
từ Trung ương đến các địa phương. Đến năm 2015: cung cấp 100% giống thủy sản
cho nhu cầu nuôi; 70% giống các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân
trắng, cá tra, tôm càng xanh, rô phi, nhuyễn thể) là giống sạch bệnh. Phấn đấu đến
năm 2020: 100% giống các đối tượng nuôi chủ lực là giống chất lượng cao, sạch
bệnh.
- Công tác kiễm dịch giống thủy sản cần được chú trọng hơn nữa. Nuôi thả đúng
thời vụ và làm tốt việc hạn chế rủi ro, dịch bệnh.
Về công tác quy hoạch:
Tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch phát triển NTTS theo tuyến,
theo vùng, trên từng địa phương đảm bảo nâng cao giá trị sản phẩm của ngành một
cách vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có kết quả, từng bước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành.
- Tiếp tục hoàn chỉnh việc chuyển đổi đất ruộng trũng, đất nông nghiệp kém
hiệu quả sang NTTS. Nhanh chóng đưa các dự án đầu tư nuôi tôm công nghiệp,
nuôi tôm trên cát.
Về khoa học công nghệ:
- Phát triển nghiên cứu khoa học, công nghệ sinh học, công nghệ biến đổi gen để
cung ứng đầy đủ và kịp thời giống thủy sản có chất lượng với giá bán hợp lý.
- Thực hiện chuyển giao nhanh, phổ biến các kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến cho
ngư dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế đẩy mạnh giống sản xuất thương
phẩm cung cấp cho thị trường. Đảm bảo sản xuất đủ các loại giống tôm, các rô phi,
tôm càng xanh, các loại nhuyễn thể, cá nước ngọt và cá biển. Nhập khẩu một số loại
giống cần thiết trên cơ sở có sự tính toán, cân đối hợp lý.
110
Tổ chức quản lý sản xuất:
- Cần quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất và lưu thông thức ăn, các chế phẩm
dùng trong NTTS. Bên cạnh đó, cần đảm bảo sự thông thoáng theo môi trường
chính sách đổi mới để phát huy, khai thác một cách hiệu quả các nguồn nhân lực
trong nhân dân.
- Tổ chức tốt việc thực hiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản đảm bảo tuân thủ các
quy định về điều kiện sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời tạo
mối liên kết chặt chẽ giữa nuôi trồng với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
- Tiến hành quản lý vùng nuôi tốt, đảm bảo về sinh vùng nuôi, vệ sinh chất
lượng sản phẩm từ vùng nuôi, xây dựng vào phổ biến mô hình quản lý cộng đồng ở
các vùng nuôi thủy sản. Không sử dụng hóa chất kháng sinh bị cấm.
- Xây dựng dự án phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ NTTS, tổ chức các
chương trình đào tạo, cán bộ lao động nghề các phục vụ chiến lược phát triển lâu
dài.
3.1.2. Định hướng cụ thể phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh
Trong tương lai sẽ đưa ngành thủy sản nói chung và NTTS nói riêng trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh dựa trên những tiềm năng và phát huy những lợi
thế sẵn có của Tỉnh. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất.
Quản lý chặt chẽ lịch thời vụ, tăng cường kiểm soát và phòng chống dịch bệnh trên
cây trồng, vật nuôi. Nhân rộng mô hình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc
biệt là mô hình sản xuất, cung ứng giống theo phương thức xã hội hóa để đảm bảo
nhu cầu giống chất lượng cao cho sản xuất. Tiếp tục chuyển giao ứng dụng khoa
học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và sắp xếp tổ chức lại sản xuất để đạt hiệu quả
cao hơn.
- Triển khai quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản các huyện; rà soát diện tích nuôi
thủy sản đảm bảo các điều kiện nuôi thâm canh, an toàn dịch bệnh; đầu tư nâng cao
năng lực sản xuất giống, thực hiện việc đánh số cơ sở, vùng nuôi đối với con nuôi
chủ lực.
111
+ Vùng nước mặn, lợ phát triển nhanh và vững chắc nuôi tôm sú theo hình thức
công nghiệp, mở rộng diện tích nuôi cua, nghêu, sò ở các cồn nổi, bãi bồi, ven biển.
+ Vùng nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh mô hình nuôi tôm càng xanh trong
mương vườn và ruộng lúa, phát triển nuôi cá tra, các loại thủy sản có giá trị kinh tế
cao, có thị trường tiêu thụ gắn với đầu tư chế biến xuất khẩu; tăng cường đầu tư các
công trình thủy lợi, kiểm soát môi trường, quản lý chặt chẽ chất lượng con giống,
đảm bảo lịch thời vụ và tăng cường phòng chống dịch bệnh nhằm đẩy mạnh nuôi
trồng thủy sản bền vững, phấn đấu tăng sản lượng nuôi trồng.
- Diện tích nuôi: phấn đấu năm 2011 diện tích nuôi thủy sản vùng nước mặn, lợ
trên 41.000 ha (có 25.300 ha nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản vùng nước ngọt
13.000 ha (phấn đấu trên 200 ha nuôi cá da trơn). Đến năm 2015 sẽ thực hiện quy
hoạch mở rộng diện tích nuôi ở cả 3 vùng mặn, lợ và ngọt có 66.000 ha (trong đó,
có khoảng 7.000 - 8.000 ha nuôi công nghiệp và bán công nghiệp tôm sú, 1.000 -
1.400 ha nuôi cá tra xuất khẩu, 5.700 ha nuôi nghêu, sò huyết, 1.830 ha nuôi tôm
thẻ chân trắng, 12.000 ha nuôi cua biển kết hợp....). Diện tích nuôi tập trung ở các
huyện:
+ Huyện Duyên Hải 530 ha (gồm Xã Long Hữu- khu vực trong đê bao thuộc
Chương trình 773 và Dự án đê bao ngăn lũ chống triều cường (các cấp 15, 16, 17).
Khu nuôi tôm của cơ sở giáo dục Bến Giá với tổng diện tích 370 ha; xã Ngũ Lạc-
Khu đê bao ấp Đường Liếu 60 ha; Xã Long Vĩnh - Khu vực đê bao thuộc chương
trình 773 ấp La Ghi, Gạch Cò khoảng 300 ha).
+ Huyện Cầu Ngang với 350 ha, (gồm Xã Mỹ Long Bắc 200 ha, Khu vực ngoài
đê bao quốc phòng 150 ha; khu cồn Bần 100 ha; Xã Vĩnh Kim - Khu vực ngoài đê
bao quốc phòng 150 ha).
+ Huyện Châu Thành khoảng 100 ha (Khu quy hoạch nuôi tôm thâm canh bậc
cao thuộc xã Long Hòa). Huyện Trà Cú 200 ha, gồm ấp Bà Nhì, xã Đôn Châu 100
ha và ấp Bà Nhì, xã Đôn Xuân 100 ha.
Quy hoạch thành những vùng nuôi tập trung các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải,
Châu Thành nuôi nghêu, huyện Duyên Hải nuôi sò huyết, triển khai quy hoạch nuôi
112
cá da trơn trên tuyến sông Tiền và sông Hậu tra tập trung chủ yếu ở huyện Càng
Long, Tiểu Cần, Cầu Kè và Châu Thành.
Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa lớn trên các vùng
nước mặn lợ, nước ngọt với hai đối tượng nuôi chủ lực là tôm nước lợ, cá tra. Tiếp
tục phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thủy sản với các hình thức, hệ thống và đối tượng
phù hợp với mọi trình độ, vùng sinh thái, song ưu tiên cho nuôi trồng thủy sản theo
hướng thâm canh và tập trung. Chuyển sang nuôi trồng bán thâm canh và thâm
canh, áp dụng công nghệ mới. Đẩy mạnh phát triển nuôi tôm sú ở các huyện Duyên
Hải, Cầu Ngang, Trà Cú và Châu Thành và đạt diện tích nuôi đến năm 2020 khoảng
35.000 ha bao gồm nuôi thâm canh, bán thâm canh 13.900 ha, nuôi quảng canh cải
tiến 12.300 ha, tôm rừng 2.500 ha.
Sẽ tập trung phát triển NTTS vùng ven biển với những bãi bồi, cồn nổi với nhiều
loại thủy sản đa dạng có giá trị kinh tế cao, tập trung đầu tư phát triển các đối tượng
chủ lực (tôm sú, cá tra, tôm thẻ chân trắng, cá rô phi, nhuyễn thể, tôm càng xanh và
các loài cá biển để phục vụ xuất khẩu). Đối với nuôi nhuyễn thể tỉnh sẽ thực hiện
quy hoạch thành những vùng nuôi tập trung.
Mở rộng quy mô diện tích nuôi trồng thủy sản ở những vùng sản xuất lúa kém
hiệu quả, từng bước xây dựng các vùng chuyên canh, tăng nhanh diện tích vùng
nuôi trồng kết kết hợp. Phấn đấu mở rộng trên 50.000 ha đất ven biển và 15.000 ha
đất bãi bồi và cồn nổi để nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa vật nuôi như:
tôm, cá, cua, nghêu, sò huyết… phát triển nhanh và bền vững diện tích nuôi tôm sú
theo hình thức công nghiệp, bán công nghiệp; tiếp tục phát triển nuôi tôm càng xanh
trong mương vườn, ruộng lúa ở các vùng nước lợ thuộc lưu vực Láng Thé và Cái
Hóp; nuôi cá da trơn ở lưu vực sông Cần Chông và Cầu Kè.
- Cùng với việc thực hiện định hướng chung của cả nước, giảm dần diện tích
nuôi quảng canh cải tiến, bán thâm canh tiến dần đến nuôi thâm canh.
113
3.2. Các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
3.2.1 Giải pháp về nguồn vốn đầu tư
3.2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý quý I năm 2012
ước thực hiện 41.257 triệu đồng, nguồn vốn này được đầu tư chủ yếu ở các công
trình, dự án của các Bộ như: đồn biên phòng Long Hòa, đồn Cái Côn, hệ thống thủy
lợi phục hồi nuôi trồng thủy sản Đồng Đon trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Nguồn vốn
từ trung ương đầu tư trước tiên cần tập trung các hạn mục tiên quyết của ngành là
những yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển của ngành.
- Nhà nước cần có chính sách cho vay lãi suất phù hợp với người nuôi theo
từng loại hình dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư một cách hợp lý vào quy hoạch vùng nuôi, xây
dựng hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện, kênh cấp và thoát nước, trạm bơm,
các cống dẫn và thoát nước chính, khu xử lý nước thải. Đặc biệt chú trọng đầu tư cơ
sở hạ tầng cho vùng chuyển đổi, vùng nuôi tạo sản phẩm tập trung.
- Đầu tư nhập các đối tượng nuôi mới, công nghệ mới về sinh sản nhân tạo
những giống thủy sản có giá trị cao và xuất khẩu. Đầu tư cho trợ giá một số giống
thủy sản cần phát triển ở vùng xa, trong việc phát triển khoa học và công nghệ
giống, nâng cấp các trại sản xuất giống hiện có ở địa phương, di nhập và thuần hóa
các giống mới, chuyển giao sản xuất giống cho các trại sản xuất, hỗ trợ các giống
mới, giống có giá trị kinh tế. Hỗ trợ trong xây dựng, thử nghiệm và chuyển giao
công nghệ của các mô hình nuôi mới, đào tạo và tập huấn cho các cán bộ quản lý,
các hộ dân và tổ chức tham gia NTTS. Hỗ trợ trong xúc tiến thương mại, giới thiệu
sản phẩm.
- Hỗ trợ cho các địa phương đầu tư cho các dự án mới đầu tư xây dựng các
công trình, cơ sở vật chất kỹ thuật thiết yếu phục vụ nuôi trồng thủy sản cho các
vùng nuôi tập trung trên biển, eo vịnh, đầm phá.
Cần có sự phân bổ nguồn vốn đầu tư từ trung ương một cách hợp lý, vốn ngân
sách Trung ương cần đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm, cơ
114
sở hạ tầng cho các khu nuôi thâm canh tập trung, các khu công nghiệp sản xuất
giống tập trung, hỗ trợ kinh phí cho các địa phương xây dựng cơ sở vật chất cho
công tác kiểm định và quan trắc vùng nuôi. Đầu tư xây dựng các chợ thủy sản đầu
mối, tăng đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ nuôi, sản xuất giống,
thức ăn và phòng chống dịch bệnh, đào tạo cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật cơ sở
và cán bộ khuyến ngư. Chính phủ phân bổ một phần nguồn vốn đầu tư hạ tầng cơ sở
phục vụ NTTS thông qua các tỉnh và thành phố nhằm giải quyết các giải pháp quy
hoạch, điều chỉnh hệ thống thủy lợi, xây dựng hệ thống kênh cấp thoát nước riêng
biệt từ cấp 2, 3 trở xuống, nạo vét các kênh bị bồi lắng, quy hoạch vùng nuôi theo
mô hình sinh thái, đầu tư hệ thống điện và giao thông bộ tới các vùng nuôi.
3.2.1.2. Đầu tư từ vốn ngân sách địa phương
Cùng với hỗ trợ từ ngân sách trung ương đầu tư xây dựng các công trình, cơ sở
vật chất kỹ thuật thiết yếu phục vụ nuôi trồng thủy sản cho các vùng nuôi tập trung
trên biển, eo vịnh, đầm phá; xây dựng hệ thống thủy lợi đầu mối cấp I (cống, đê
bao, kè, kênh cấp, kênh tiêu nước, trạm bơm), đường giao thông, hệ thống cung cấp
điện, khu xử lý nước thải …; tăng cường quản lý điều kiện vùng nuôi, xử lý và cải
tạo môi trường; hỗ trợ kinh phí mua giống, làm lồng bè cho các hộ gia đình nuôi
trồng thủy sản trên vùng biển, đảo xa; hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở nuôi trồng thủy
sản tập trung áp dụng Quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) và các chứng chỉ áp dụng
các Quy trình nuôi tiên tiến; kinh phí cho công tác xúc tiến thương mại, xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm thủy sản và khuyến ngư (đào tạo, tập huấn ngắn ngày
cho cán bộ và nông ngư dân, xây dựng mô hình).
- Sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ lãi suất vốn vay cho các dự án
NTTS tập trung cho các địa phương có mức sống thấp. Đầu tư một số hạng mục hạ
tầng cơ sở vùng nuôi (nội đồng), cải tạo nâng cấp ao nuôi; đầu tư các chi phí sản
xuất (giống, thức ăn, thuốc và hoá chất) ở địa phương. Xây dựng dự án hỗ trợ người
nghèo tham gia hoạt động NTTS các vùng tập trung được vay vốn từ Ngân hàng
Chính sách xã hội (theo quy định hiện hành). Các tổ chức tín dụng ở cấp tỉnh và cấp
115
huyện có biện pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức (trong nước),
cá nhân, hộ gia đình vay vốn.
3.2.1.3. Các nguồn vốn khác
Nguồn vốn khác có thể là khoản vốn vay, vốn của các doanh nghiệp, khoản tự
góp của dân. Đầu tư trang thiết bị phụ trợ cho hoạt động sản xuất, thuê mướn nhân
công; mua giống, thức ăn, thuốc và hóa chất, nhiên liệu và các vật liệu mau hỏng,
chi phí cho các hoạt động sản xuất giống, thức ăn.
- Nguồn vốn doanh nghiệp, chủ trang trại đầu tư xây dựng các công trình hạ
tầng cho vùng nuôi, cơ sở sản xuất giống, xây dựng mới hoặc nâng cấp cơ sở chế
biến theo hướng công nghiệp hiện đại, quảng bá thương hiệu và xúc tiến thương
mại.
- Nguồn vốn của cá nhân, hộ gia đình: đầu tư xây dựng các ao nuôi; hệ thống
cấp, thải nước từ kênh mương cấp, thoát nước cấp II; mua giống, thức ăn, thuốc,
hóa chất phòng trừ dịch bệnh và xử lý môi trường ao nuôi, cải tạo chính diện tích
nuôi của hộ mình hoặc của các doanh nghiệp, được đầu tư vào các hạn mục nhỏ ở
từng địa phương, chủ yếu đầu tư cho việc tu sửa và hoàn thiện ao nuôi. Các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân có cơ sở nuôi trồng thủy sản tập trung chủ động dành kinh
phí đầu tư bảo đảm các điều kiện cho việc áp dụng Quy trình thực hành nuôi tốt
(GAP) và các chứng chỉ áp dụng các Quy trình nuôi tiên tiến, áp dụng các tiêu
chuẩn tiên tiến về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra có thể tận dụng vốn nước ngoài để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật phục vụ mở rộng mặt nước nuôi thủy sản. Ðồng thời khuyến khích
các tổ chức kinh tế đầu tư vào nuôi trồng thủy sản; vận động nhân dân tiết kiệm tích
lũy vốn để mở rộng dần diện tích nuôi.
3.2.2. Giải pháp đầu tư có trọng điểm
Tránh tình trạng đầu tư dàng trãi trên diện rộng sẽ không mang lại hiệu quả cao.
Tập trung đầu tư ở những vùng nuôi tiềm năng và đã được tiến hành quy hoạch cụ
thể, ưu tiên đầu tư các vùng có tiềm năng thế mạnh, tạo ra giá trị kinh tế cao, phục
vụ chế biến xuất khẩu; lấy xuất khẩu và tiêu thụ làm động lực phát triển, trong đó
116
con tôm là sản phẩm chủ lực. Cụ thể hơn là tiến hành đầu tư cho cơ sở hạ tầng vùng
nuôi, đặc biệt chú trọng hệ thống thủy lợi là một trong những yếu tố quyết định sự
phát triển của ngành NTTS. Tập trung nguồn vốn vào những vùng thực sự có thế
mạnh về điều kiện tự nhiên lẫn kinh tế xã hội.
3.2.3. Giải pháp về kinh tế
3.2.3.1. Giải pháp về quy hoạch
Cần tổ chức thực hiện tốt qui hoạch các vùng nuôi tập trung theo từng hình
thức nuôi và lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái. Khuyến
khích phát triển theo hướng thâm canh hóa và đa dạng hóa đối tượng con nuôi, ưu
tiên phát triển những giống loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ
ổn định và thích nghi tốt với điều kiện sinh thái của địa phương.
Cần đẩy mạnh công tác quy hoạch tại địa phương khẩn trương hoàn chỉnh quy
hoạch tổng thể ngành, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch cho từng địa phương. Các
đơn vị bộ ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để xây dựng chương trình
một cách khoa học. Tiến hành quy hoạch ruộng trũng sang NTTS, quy hoạch nuôi
thủy sản trên cát, cụ thể là các loại tôm có sức cạnh tranh; xây dựng quy hoạch và
khai thác và bảo về nguồn lợi thủy sản. Xây dựng đề án phát triển một số loài thủy
đặc sản nuôi xuất khẩu như: tôm, cá tra, basa,... đồng thời cần gắn liền việc phát
triển NTTS với xây dựng các vùng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến.
Cần gắn liền quy hoạch phát triển cho ngành với phát triển chung của các
ngành kinh tế khác, đặc biệt là công nghiệp chế biến, tạo sự phát triển cân đối hài
hòa trong sự phát triển chung. Để sản phẩm sản xuất ra có thể tiêu thụ được, chất
lượng là yêu cầu tiên quyết. Chính vì vậy mà, phát triển công nghiệp chế biến sẽ tạo
thuận lợi cho sự phát triển của NTTS. Có thể quy hoạch các vùng tập trùng nuôi
trồng thủy sản và công nghiệp chế biến theo một quy trình khép kín, giúp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quy hoạch NTTS cần phải cân nhắc kỹ đến sự cân bằng sinh thái trong khu
vực nuôi, bảo tồn tính đa dạng sinh học ở khu vực rừng ngập mặn ven bờ xen với
117
các vùng nuôi tủy sản. Cần trồng thêm các vùng rừng ngập mặn đệm ở dưới các
vùng nuôi trên các bãi triều để quản lý xử lý nước biển.
Khi quy hoạch chuyển đổi được phê duyệt cần tiến hành quy hoạch chi tiết
thiết kế cụ thể từng loại hình nuôi, sử dụng những cơ sở vật chất hiện có đặc biệt là
hệ thống thủy lợi đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trên diện tích canh tác. Đồng
thời người nuôi phải tuân thủ các quy hoach phát triển tổng thể, tranh thủ sự tham
gia toàn diện trong việc thảo luận ra quyết định liên quan đến quy hoạch thiết kế,
xây dựng và giám sát trong NTTS.
3.2.3.2. Giải pháp về chính sách phát triển nuôi trồng thủy sản
Chính sách phát triển NTTS là rất quan trọng liên quan đến sự thành công hay
thất bại của ngành. Chính vì vậy cần khuyến khích thực hiện các chính sách đã đang
có nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của ngành. Từ năm 1995 đến nay, đã có
hàng trăm văn bản chính sách liên quan đến phát triển nuôi trồng thủy sản được ban
hành. Có những chính sách chỉ thể hiện một nội dung, nhưng cũng có nhiều chính
sách có liên quan đến nhiều nội dung trong phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong
những năm qua, ngành thủy sản đã tham mưu và đề xuất UBND tỉnh phê duyệt qui
hoạch chi tiết nuôi thủy sản huyện Duyên Hải, Cầu Ngang đến năm 2015 và tầm
nhìn đến năm 2020; Qui hoạch 1.830 ha vùng nuôi tôm thẻ chân trắng; Qui hoạch
vùng nuôi thủy sản bãi bồi và cồn mới nổi ven biển 03 huyện Cầu Ngang, Châu
Thành và Duyên Hải; Qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất Nông –lâm – diêm
nghiệp và nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2020, nhằm có cơ sở để phát triển và xây dựng các vùng nuôi tập trung của tỉnh,
góp phần đảm bảo môi trường sinh thái.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành cần có những chính sách nhất
quán cụ thể:
- Chính sách quy hoạch vùng nuôi có tiềm năng như nuôi thủy sản bãi bồi và
cồn mới nổi ven biển 03 huyện Cầu Ngang, Châu Thành và Duyên Hải.
118
- Chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, thực hiện cụ thể
việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả, đất trũng nhiễm mặn, ngập úng sang
NTTS theo các quy hoạch phát triển.
- Có chính sách hỗ trợ rủi ro cho các hộ nuôi thủy sản: rủi ro về dịch bệnh,
thiên tai,… để giúp các hộ này khắc phục rủi ro và có đủ vốn để tái đầu tư sản xuất.
Đối tượng sẽ được hưởng những chính sách này là các tổ chức, cá nhân trực tiếp
đầu tư sản xuất, các cơ sở sản xuất, cung cấp giống.
- Tạo môi trường ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư trong các
lĩnh vực nuôi thủy sản, sản xuất giống, thức ăn, thuốc hóa chất phục vụ cho nuôi
trồng thủy sản, góp phần thúc đẩy nghề nuôi thủy sản phát tri ển nhanh và bền
vững.
- Có chính sách hỗ trợ các cơ sở sản xuất và các hộ nuôi chi phí kiểm tra
giống đặc biệt là giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng để nguồn giống cung ứng cho
nuôi trồng đảm bảo sạch bệnh, hạn chế rủi ro trong nuôi trồng.
- Về bao tiêu sản phẩm cần có chính sách quyết định cụ thể đảm bảo sự phát
triển ổn định cho đầu ra sản phẩm cho người nuôi đồng thời đảm bảo nguồn cung
nguyên liệu ổn định chi các doanh nghiệp.
3.2.3.3. Giải pháp về giống nuôi trồng thủy sản
Đối với nguồn giống nội địa:
- Tận dụng khai thác những nguồn giống tự nhiên, đồng thời đầu tư nghiên
cứu và tiếp nhận những qui trình sản xuất các loại giống mới có khả năng phát triển
nuôi trồng trên địa bàn. Kiện toàn hệ thống sản xuất và cung ứng giống có chất
lượng, đầy đủ. Xây dựng trung tâm giống của tỉnh với hệ thống các trại giống cả 3
vùng mặn, lợ, ngọt. Thực hiện tốt quản lý nhà nước trong lĩnh vực giống. Củng cố
và nhân rộng các mô hình nuôi, các tổ chức sản xuất hiệu quả như: tổ hợp tác, HTX,
các chi hội, tổ chức cộng đồng. Đặc biệt là nuôi rải vụ để có đủ nguyên liệu phục vụ
chế biến xuất khẩu quanh năm.
- Tổ chức nhân rộng những mô hình đã nghiên cứu và ứng dụng thành công
trong sản xuất giống thủy sản. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
119
các cơ sở sản xuất giống, đặc biệt là các cơ sở sản xuất giống tôm, ứng dụng các qui
trình sản xuất theo tiêu chuẩn SQF-1.000. Tăng cường liên kết với các cơ sở sản
xuất giống trong khu vực ĐBSCL và các vùng trên cả nước về phương diện liên
doanh, liên kết sản xuất giống; tạo nên một chuỗi thị trường năng động giữa sản
xuất giống - sản xuất và kinh doanh thức ăn, thuốc thú y-nuôi tôm - và chế biến xuất
khẩu.
- Xây dựng thêm các trại sản xuất giống có đủ trang thiết bị hiện đại trong sản
xuất, kiễm định chất lượng giống. Nên đầu tư chiều sâu vào hệ thống trại giống hiện
có, nâng cao về trình độ kỹ thuật lai tạo, sinh sản nhân tạo, chủ động linh hoạt trong
khâu sản xuất các loại cá giống có giá trị thương phẩm và hiệu quả kinh tế. Cần
quản lý chặt chẽ con giống trong mùa vụ thả tôm của huyện. Nên nhập các đối
tượng nguồn giống mới nhưng phải được kiễm dịch rất kỹ càng,đãm bảo sạch bệnh
chất lượng cao.
- Quy hoạch các trại sản xuất giống theo khu vực nhằm chủ động phục vụ cho
các vùng nuôi trong tỉnh và các tỉnh lân cận, nhằm giảm chi phí vận chuyển và chủ
động kiểm soát được nguồn giống tại chỗ.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm dịch con
giống; phát triển hệ thống dịch vụ cấp giấy chứng nhận kiểm dịch tôm nuôi và thay
vì nhà nước trực tiếp kiểm tra từng cơ sở nhỏ lẻ, thì chỉ nên xây dựng các văn bản
để kiểm soát họat động của các cơ sở kiểm dịch dịch của Bộ, các Sở NN&PTNT,
Sở Thủy sản nhằm hạn chế chi phí nhân lực và nâng cao hiệu quả quản lý.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định 103/2000/QĐ-TTg về một số
chính sách khuyến khích phát triển giống thủy sản và Quyết định 112/2004/QĐ-
TTg về Phê duyệt Chương trình phát triển giống thủy sản.
Đối với nguồn giống ngoại nhập: phải kiểm tra rõ nguồn gốc xuất xứ, kiểm
định chất lượng con giống khả năng kháng bệnh, năng suất cao, điều đặc biệt là có
khả năng thích nghi với điều kiện sống của vùng nuôi ở địa phương.
120
3.2.3.4. Khoa học công nghệ
Trước hết phải làm tốt việc chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật đến từng
người nuôi.
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ xây dựng các trung tâm giống
địa phương, các trung này cần hoạt động trên cơ sở chủ yếu cho phát triển ngư
nghiệp, chuyên về phục vụ nuôi thủy sản. Khẩn trương thực hiện đề án phát triển
tổng thể những loài thủy sản có giá trị cao (Giáp xác, nhuyễn thễ, cá tra, cá rô phi,
các loài cá biển…) cho mục tiêu lâu dài theo hướng bền vững và đa dạng hoá sản
phẩm: gia hoá khép kín vòng đời, di truyền chọn giống theo hướng tăng trưởng
nhanh, kháng bệnh.
- Tỉnh tiếp tục triển khai hoàn thiện và nâng cấp công nghệ sản giống tôm
càng xanh toàn đực.
- Nghiên cứu công nghệ nuôi thủy sản hữu cơ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm
sạch.
- Hoàn thiện công nghệ sản xuất giống các loài tôm bản địa, nhóm loài tôm sẽ
phát triển trong tương lai. Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học tạo ra nguồn
giống mới có năng suất cao, sức phát triển tốt, chất lượng đảm bảo. Công nghệ
chuẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, công nghệ lưu trữ bảo quản giống và công nghệ
bảo quản sau thu hoạch phải được quan tâm đặc biệt. Đồng thời phát triển công
nghệ hóa chất tạo ra thuốc phòng trừ dịch bệnh có hiệu quả, tránh gây ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái và chất lượng sản phẩm.
- Công tác khuyến ngư cần được đẩy mạnh, kết hợp với việc phổ biến kỹ
thuật và hiểu biết về các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh đến người sản xuất. Phải có
sự kết hợp chặt chẽ từ trung ương cho đến địa phương. Thường xuyên tổng kết đánh
giá rút kinh nghiệm từ các hộ nuôi và tuyên truyền rộng rãi cho mọi người nuôi
cùng nắm rõ và có thể áp dụng vào vùng nuôi của hộ.
- Nghiên cứu hoàn thiện các biện pháp xử lý nguồn chất thải rắn và chất thải
lỏng trong các nông hộ, trang trại của vùng nuôi tôm, cá.
121
- Chú trọng đầu tư nghiên cứu các biện pháp phòng trừ bệnh cho thủy sinh vật,
tăng cường nghiên cứu thuốc, văc xin cho các đối tượng có giá trị kinh tế cao.
- Khuyến khích nhập các công nghệ mới tiến bộ phục vụ NTTS nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, đưa ngành phát triển nhanh trên đường hội nhập.
- Xây dựng trạm quan trắc cảnh báo môi trường, dịch bệnh phục vụ nuôi trồng
thủy sản.
3.2.3.5. Sản xuất thức ăn, công nghiệp chế biến
Trong bối cảnh hội nhập, tự do hóa thương mại, kinh tế thị trường và cạnh
tranh khốc liệt hiên nay việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, mở rộng
liên doanh liên kết là cần thiết, trên cơ sở đó tranh thủ các kinh nghiệm về kỹ thuật
và quản lý để chủ động xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn NTTS gắn với vùng
nguyên liệu bột tôm, bột cá nhằm hoàn thiện hệ thống liên hoàn nhằm tối ưu hóa sử
dụng tài nguyên và tối đa hóa lợi nhuận trong chuỗi giá trị cho toàn vùng.
Vấn đề sản xuất thức ăn: Từng bước hiện đại hóa nghề sản xuất thức ăn cho
nuôi trồng, xây dựng và hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp hệ số
thấp cho tất cả những đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực trên cơ sở sử dụng nguyên
liệu sẵn có của địa phương.
Xúc tiến các họat động thanh kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn,
doanh nghiệp nhỏ trên các phương diện nhãn mác, kho bảo quản, kho lưu chứa.
Từng bước sắp xếp tổ chức lại hệ thống dịch vụ kiểm soát các cơ sở kinh doanh,
thực hiện có hiệu quả Nghị định 59/2005/CP và Thông tư 02/2005/TT-BTS trong
việc quản lý các cơ sở kinh doanh thức ăn. Sản xuất ra những loại thức ăn có nhiều
chất dinh dưỡng nhưng không gây ô nhiễm môi trường.
Các cơ sở sản xuất thức ăn trong tỉnh cần phải có sự kết hợp với các Viện,
Trường, Công ty nghiên cứu và sản xuất các loại thức ăn viên nổi cho các đối tượng
như cá tra, cá quả, cá rô phi, tôm càng xanh và cá rô đồng với giá thành phù hợp với
sức mua của dân; đồng thời đẩy mạnh xây dựng nhà máy thức ăn công nghiệp cho
nuôi giáp xác. Nghiên cứu tạo ra những loại thức ăn cung cấp được nhiều chất dinh
dưỡng, dễ hấp thu, đặc biệt là giá thành phải phù hợp với người nuôi.
122
Nâng cấp và xây dựng mới nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp hiện có
trong tỉnh với công suất bình quân 13.000-15.000 tấn/năm/nhà máy.
Đối với các nhà máy chế biến thủy sản: xây dựng các khu công nghiệp chế
biến công nghệ cao để thu hút khối lượng thuỷ sản nguyên liệu lớn, tạo ra sản phẩm
chất lượng cao, tăng giá trị cho các loại sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm thủy sản. Đồng thời nâng cấp đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đổi mới công
nghệ, đổi mới trang thiết bị các cơ sở chế biến thuỷ sản hiện có và phát triển thêm
để nâng tổng công suất cấp đông. Các cơ sở chế biến thủy sản (theo phương thức
công nghiệp) đều đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh và thú y thuỷ
sản; phấn đấu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế ở
doanh nghiệp có điều kiện.
3.2.4. Giải pháp về xã hội
3.2.4.1. Tăng cường bộ máy quản lý, tổ chức sản xuất NTTS.
- Cần ban hành đầy đủ và hướng dẫn cụ thể, rỏ ràng các văn bản quản lý kinh
doanh giống, thức ăn, thuốc hóa chất, dịch vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản và các
văn bản về quản lý nuôi, quản lý môi trường, quản lý chất thải trong nuôi trồng thủy
sản, tránh sự chồng chéo nhau giữa các văn bản quản lý. Đối với cơ sở sản xuất
giống, thức ăn, ngư y thủy sản thì nên giao cho Chi cục thủy sản các tỉnh, thành phố
trực tiếp quản lý.
- Từng địa phương thành lập Ban quản lý vùng nuôi để chủ động trong việc
triển khai các kế hoạch nuôi trồng như: lịch sên vét cải tạo ao hồ, lịch thời vụ thả
nuôi, thời gian sản xuất kinh doanh giống thủy sản, công bố các qui hoạch nuôi
trồng thủy sản,... Đồng thời tổ chức quản lý tốt các hoạt động như: quản lý sên vét
cải tạo ao hồ, quản lý nguồn con giống cung ứng cho hộ nuôi, quản lý môi trường
nước, quản lý dịch bệnh, để có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế thiệt hại thấp nhất
cho người dân.
- Hàng năm có tổ chức sơ, tổng kết và đánh giá rút kinh nghiệm trong việc chỉ
đạo sản xuất, làm cơ sở cho các năm sau hoạt động tốt hơn.
Thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã, hiệp hội nuôi nhằm gắn kết giữa “4 nhà”
123
với nhau. Khuyến khích liên kết giữa các hộ nuôi trong sản xuất như hình thành các
câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã, để hỗ trợ nhau trong sản xuất, quản lý môi
trường, quản lý dịch bệnh, cũng như sự liên kết giữa các nhà trong sản xuất kinh
doanh. Khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau vào quá
trình phát triển NTTS như tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn,
thuốc hóa chất phục vụ nuôi trồng thủy sản, các tổ chức nuôi trồng, thu mua, chế
biến và xuất khẩu sản phẩm thủy sản tham gia v ào hiệp hội thủy sản để liên kết với
nhau trong sản xuất, dịch vụ cung ứng đầu vào, đầu ra sản phẩm. Đối với các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư vào chế biến, NTTS tại các khu công nghiệp trong tỉnh
sẽ được hưởng các ưu đãi theo quy định của Nhà nước và các ưu đãi riêng có của
vùng cũng như của từng địa phương tạo điều kiện thu hút đầu tư phục vụ cho sự
phát triển của ngành thủy sản trong vùng. Hiện nay một số khu vực ở các tỉnh xuất
hiện mô hình tự liên kết để sản xuất cũng đem lại hiệu quả cao, cần có những chính
sách phù hợp nhằm quản lý nhằm khuyến khích phát triển mang về năng suất cao
hơn.
Tùy vào đặc điểm tính chất của từng vùng nuôi mà giao cho các đơn vị chủ quản
có thẩm quyền quản lý phù hợp với các cấp từ trung ương đến địa phương.
- Khuyến khích các hộ nuôi thực hiện tốt chính sách dồn điền đổi thửa để sản
xuất mang tính tập trung hơn và phát triển qui mô hơn.
- Khuyến khích các hộ nuôi theo các hình thức nuôi sạch đảm bảo vệ sinh môi
trường và vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn: GAP, BMP, COC,...
3.2.4.2. Đào tạo nguồn nhân lực
Đối với các cấp quản lý, chỉ đạo tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh
vực NTTS, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Tăng cường các
hình thức đào tạo ngắn hạn phù hợp với trình độ, tập quán của lao động nghề cá,
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảm nhận
được nhiệm vụ chuyển giao công nghệ cho người nuôi đến từng vùng. Đủ trình độ
tiếp thu các công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài thực hiện liên kết, nhập
khẩu một số loại hóa chất, thuốc phòng bệnh của nước ngoài. Tiến hành lai tạo các
124
loại, thủy sản có giá trị kinh tế, phục vụ xuất khẩu, xây dựng nguồn giống quý hiếm.
Cụ thể, cần mở rộng phạm vi đào tạo cán bộ có trình độ đại học trong các lĩnh
vực kỹ thuật và công nghệ nuôi: Ngư y, khuyến ngư và phát triển nông thôn. Trung
bình 50 ha NTTS cần một cán bộ quản lý chuyên ngành thủy sản (trung cấp trở lên
Nên tập trung đào tạo loại cán bộ này ở Đại Học Cần Thơ và Đại học An Giang
(mỗi năm mỗi trường khoảng 350 cán bộ), số còn lại đào tạo ở các trường đại học
thủy sản (nay là ĐH Nha Trang) và nông nghiệp khác. Trong tỉnh thì Trường Đại
học Trà Vinh là đơn vị đảm bảo đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn về lĩnh vực NTTS, cần phải nâng cao năng lực giảng dạy đa dạng hoá
các loại hình đào tạo nhằm đảm bảo cung cấp nguồn cán bộ chuyên biệt phục vụ
ngành.
Số lượng cán bộ có trình độ dưới đại học và đại học có thể tính theo tỷ lệ sau:
đào tạo 1 đại học, 3 cao đẳng và 10 trung cấp (có nghĩa là đào tạo theo mô hình
1/3/10). Riêng đối với cán bộ trình độ trên đại học thì đào tạo theo mô hình sau: 01
thạc sĩ/50 kỹ sư; 1tiến sĩ /100 kỹ sư.
Công nhân kỹ thuật và lực lượng sản xuất trực tiếp cần phải được đào tạo vừa
cơ bản vừa thường xuyên do các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ NTTS thường diễn
ra rất nhanh. Vì vậy nên đưa các trường nghiệp vụ phát triển NTTS về sát với các
vùng nuôi hoặc tổ chức các lớp học tại chỗ tập trung ngắn hạn tại các địa phương có
lĩnh vực NTTS phát triển mạnh để người nuôi có thể tiếp xúc vận dụng và thực tế.
Các trường này có thể mở các lớp đào tạo mới hoặc nâng cao trình độ ngắn ngày kết
hợp với khuyến ngư, tăng cường đào tạo nâng cấp thường xuyên, mở các buổi
khuyến ngư nâng cao đối với lực lượng lao động trực tiếp.
Đào tạo một đội ngủ chuyên biệt với nhiệm vụ chính là nghiên cứu thị trường
nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, xu hướng phát triển của thị trường trong
nước cũng như thế giới. Từ đó lập kế hoạch sản xuất phát triển của ngành cho phù
hợp và đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trên mọi lĩnh vực, vì
vậy việc đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho tất cả các hoạt động kinh tế không
125
riêng gì ngành thuỷ sản là nhiệm vụ mang tính bức thiết.
3.2.4.3. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Gia nhập vào những thị trường lớn luôn có nhiều thách thức cho việc phát
triển của các ngành kinh tế nhưng đây lại là đều kiện thuận lợi thúc đẩy bản thân
từng ngành phát triển. Trong hoạt động NTTS việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
sẽ mở ra nhiều hướng đi mới cho ngành, thuận lợi cho việc tiếp cận với những kỹ
thuật hiện đại phục vụ nuôi trồng, nhập các trang thiết bị mới.
Tiến hành đa phương hóa các mối quan hệ và đa dạng hóa các đối tượng nuôi,
chính đều này sẽ mở rộng hơn thị xuất khẩu hàng hóa cho ngành, mang đến nhiều
cơ hội cạnh tranh với các mặt hàng của các nước khác. Sẵn sàng giao lưu trao đổi
kinh nghiệm học tập những tiến bộ của khoa học công nghệ nước ngoài du nhập vào
đây sẽ là yếu tố giúp cho bản thân ngành phát triển vượt bậc, yêu cầu phải nhanh
chóng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng phát huy lợi thế so sánh và nâng cao
nhanh khả năng cạnh tranh.
- Tăng cường hợp tác với các tổ chức của các nước trong khu vực và trên thế
giới trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực sinh sản nhân tạo một số loài thủy sản
có giá trị kinh tế cao. Hợp tác trong việc nghiên cứu di truyền, chọn giống một số
loài quý, quản lý phòng ngừa dịch bệnh.
- Tăng cường giao lưu giữa các hiệp hội giữa những người nuôi giữa các vùng
nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp trong vùng.
- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế tạo đều kiện cho việc tham gia nhiều vào
các dự án quốc tế như dự án hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản mặn lợ, để nâng
cao năng lực khuyến ngư tại địa phương, xây dựng các mô hình trình diễn tập huấn
kỹ thuật cho nông dân.
- Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế và khu
vực thông qua các chương trình, dự án cụ thể, phù hợp với mục tiêu phát triển của
ngành thuỷ sản, thực hiện tốt các hiệp định hợp tác nghề cá và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Các địa phương chủ động tìm kiếm đối tác để thu hút vốn đầu tư,
công nghệ của nước ngoài nhằm tạo nguồn lực cho sự phát triển. Tích cực tìm kiếm
126
và hợp tác với nước ngoài để xuất khẩu lao động nghề cá và hợp tác nghề cá trên tất
cả các lĩnh vực.
3.2.5. Giải pháp bảo vệ môi trường nước
Môi trường nước là yếu tố quyết định sự sinh trưởng phát triển của sinh vật
thủy sinh nên việc bảo vệ môi trường nước phải được quan tâm. Việc xử lý nước
trước khi cho vào ao nuôi trồng cũng như lượng nước thải ra môi trường sẽ ảnh
hưởng đến các vùng nuôi khác, cần có ao lắng xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi
thông qua túi lọc nhằm hạn chế cá tạp vào ao nuôi; không sử dụng các loại thuốc
diệt giáp xác có nguồn gốc thuốc bảo vệ thực vật để xử lý ao nuôi. Môi trường nước
rất nhạy cảm với những tác động của các yếu tố xung quanh chính các chất thải từ
NTTS đã tác động ngược trở lại đối với sự phát triển bền vững của ngành. Những
vùng NTTS tập trung, quy mô công nghiệp rất dễ bị ảnh hưởng do chúng gây ra.
Đối với nuôi cá Tra, mặc dù mức độ ô nhiễm chưa ở diện rộng nhưng trong phạm vi
hẹp đã có sự cạnh tranh nguồn nước sạch giữa người nuôi cá với các hộ gia đình
sinh sống quanh đó vì sinh hoạt của hộ thường vẫn dựa chủ yếu vào nước ngọt ven
sông. Trong những vùng nuôi tôm do chưa đảm bảo các yếu cầu về nguồn nước cấp
thoát dẫn đến sự lan truyền bệnh tật và ô nhiễm giữa các vùng với nhau.
Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực trên chúng ta cần hạn chế sử dụng
các chế phẩm gây ô nhiễm nguồn nước, cần xây dựng hệ thống lắng lọc nước trước
khi sử dụng và thải ra môi trường, tăng cường sử dụng máy quạt, máy sụt khí trong
hệ thống ao nuôi. Bảo vệ môi trường nước chính là đảm bảo môi trường sống cho
thủy sinh vật.
127
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Trà vinh là một tỉnh ven biển của ĐBSCL có rất nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển nông nghiệp nói chung và đặc biệt là ngành thủy sản càng có nhiều ưu thế
phát triển hơn như: vị trí địa lý, đất đai, nguồn nước, khí hậu,...Tỉnh lại có có điều
kiện phát triển ngành NTTS ở cả 3 loại hình mặt nước mặn, lợ và ngọt. Nằm trong
khu vực được xem như là trọng điểm phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Trong
những năm qua Tỉnh đã thực hiện nhiều chính sách nhằm phát triển đưa ngành thủy
sản thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, xem nuôi trồng thủy sản là khâu đột phá
trong phát triển nông nghiệp đã đóng góp nhiều vào các chỉ tiêu kinh tế trong tiến
trình hội nhập vào kinh tế thế giới. Tiềm năng của tỉnh vẫn còn rất lớn, dựa trên
những tiềm năng và lợi thế sẵn có đã tiến hành khai thác phát triển ngành nuôi một
cách bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nuôi trồng thủy sản của tỉnh nhiều
năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể: an ninh lương thực vẫn được giữ
vững, đời sống của nhân dân nhiều vùng nuôi trồng thủy sản được cải thiện rõ rệt,
cơ sở hạ tầng dần được cải thiện. Tuy nhiên do tốc độ phát triển NTTS ở tỉnh diễn
ra quá nóng, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, trình độ canh tác chưa đủ đảm bảo cho
phát triển NTTS một cách bền vững, nên đã đối mặt với những khó khăn nhất định.
Qua quá trình tìm hiểu tôi đã hoàn thành đề tài “ Nuôi trồng thuỷ sản tỉnh
Trà vinh thực trạng và giải pháp phát triển” Đề tài đã tìm hiểu nghiên cứu những
điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành NTTS, đồng thời đã xem xét phân tích
đánh giá thực trạng phát triển, những mặt được cũng như những mặt còn hạn chế
của ngành. Thông qua những vấn đề nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp cơ bản
như quy hoạch, nguồn giống, thức ăn, vốn đầu tư,... nhằm góp phần củng cố, thúc
đẩy sự phát triển của ngành mang về giá trị sản xuất cao cho nền kinh tế.
128
KIẾN NGHỊ
- Khẩn trương quy hoạch tổng thể thủy lợi phục vụ NTTS, tăng mức hỗ trợ
cho vùng để xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi như: thủy lợi, thủy điện, giao thông,
nhất là những vùng nuôi tập trung mới khai thác đưa vào sử dụng.
- Cần chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt là khoa học công nghệ,
đồng thời tiến hành phổ biến các tiến bộ khoa học đến với người dân thông qua các
cuộc hội thảo, khuyến ngư.
- Tăng cường bộ máy quản lý của nhà nước đến trung ương và địa phương
đối với những vùng nuôi, đã xuất hiện nhiều vùng nuôi tự phát không theo quy
hoạch và quản lý, nên các địa phương phải chú trọng hơn những vấn đề này và hỗ
trợ sự phát triển bền vững cho ngành.
- Các cơ quan chức năng cần đảm bảo ngoài nguồn giống trong tỉnh tự cấp
thì nguồn giống cho nuôi thủy sản từ ngoài khi vào nhập tỉnh phải sạch bệnh, có
năng suất cao, có khả năng thích nghi với điều kiện môi trường sống tự nhiên của
tỉnh. Hơn nữa cần xem xét đảm bảo đầu ra sản phẩm ổn định.
- Tập trung nguồn vốn từ trung ương và địa phương hỗ trợ phát triển NTTS,
đầu tư cho cơ sở hạ tầng..., đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các cấp đầu
tư.
- Đảm bảo thị trường tiêu thụ, giá cả ổn định cho người nuôi.
Đối với người nuôi phải tuân thủ lịch thời vụ, tổ chức hoạt động nuôi trồng
theo quy hoạch tránh phát triển tràn lang dẫn đến tình trạng khó kiễm soát vùng
nuôi.
129
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tham luận của Sở Nông Nghiệp – Phát triển nông thôn Trà vinh 1.
(2009). Về thực trạng và xu hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng ven
biển tỉnh Trà Vinh.
Nguyễn Duy Khoát (2003), Hỏi đáp về nuôi cá nước ngọt, Nhà xuất bản Hà 2.
Nội.
Lê Tiêu La (2009), Kinh tế - quy hoạch phát triển thủy sản, NXB nông 3.
nghiệp Hà Nội.
Dương Tấn Lộc, Hướng dẫn kỹ thuật Nuôi thuỷ đặc sản nước ngọt và phòng 4.
trị bệnh, Nhà xuất bản Thanh Niên.
Dương Tấn Lộc, Thức ăn cho thuỷ sản nuôi (tôm – cá), Nhà xuất bản Thanh 5.
Hoá.
Lê Thị Nga (2000), Giáo trình Thuỷ sinh vật học, Trường Trung học thuỷ 6.
sản IV, Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Nền kinh tế các tỉnh vùng biển Việt Nam, NXB Lao Động. 7.
Nghị quyết 09/2000/NQ-TTg của Chính phủ: Một số chủ trương và chính 8.
sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
(15/06/2000), Chính Phủ.
Niên Giám thống kê 2006 – 2010 (2011), nhà xuất bản Thông tin và truyền 9.
thông.
10. Quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng ĐBSCL đến năm 2015, định
hướng đến năm 2020, Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn, Viện kinh
tes và quy hoạch thuỷ sản, tháng 4/2009.
11. Quyết định số 38/QĐ-UBT ngày 20/8/2001 của UBND tỉnh, về việc phê
duyệt định hướng “quy hoạch chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa sang
nuôi trồng thủy sản và trồng màu, trồng cây ăn trái trên địa bàn tỉnh đến năm
2010”.
12. Nguyễn Trung Thành – Phạm Văn Trang, Công nghệ nuôi trồng thủy đặc
sản theo hướng trang trại.
130
Lê Bá Thảo (2008), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục. 13.
Lê văn Thắng, Giáo trình kinh tế và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Trường 14.
Trung cấp thuỷ sản IV, Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Lê Thông(chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế xã 15.
hội Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
16. Nguyễn Văn Thường, Trần Khánh Hưng, Giáo trình kinh tế Việt Nam,
Trường Đại Học kinh tế Quốc Dân Khoa Kinh tế học.
Tổng cục thống kê Việt Nam 2000 - 2012. 17.
18. Vũ Văn Toàn (2003), Hợp phần Nuôi trồng thuỷ sản Biển và nước lợ,
DANIDA, Bộ Thuỷ Sản
19. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông, Địa lý kinh tế
đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
Trần Văn Vỹ (2005), Giáo trình thuỷ sản, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 20.
Trần Văn Vỹ, Huỳnh Thị Dung, Nuôi cá nước ngọt (Ao, hồ, ruộng, nuôi cá 21.
lồng), Nhà xuất bản Nghệ An.
22. Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Trà vinh, Báo cáo kinh tế xã hội 2007, 2008, 2009,
2010.
23. www.Agroviet.gov.vn
24. www.travinh.gov.vn
25. www.thuysanvietnam.com.vn
1
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Giá trị sản xuất theo giá thực tế phân theo ngành nông – lâm –
thủy sản.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Ngành
Tổng số 9.648.296 12.019.011 15.527.180 16.518.146 21.281.295
11.691.9 Ngành nông 6.329.854 7.903.824 12.203.662 14.975.520 85 nghiệp
104.562 131.285 195.665 195.483 196.718 Lâm nghiệp
3.213.880 3.983.902 3.665.785 4.119.001 6.109.057 Thủy sản
Nguồn: NGTK – 2010
Phụ lục 2: Sản lượng thủy sản tỉnh Trà vinh (2006 – 2010). Đơn vị: Tấn
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Ngành
58.088 68.385 70.820 72.200 77.276 Khai thác
75.980 83.349 83.627 83.423 82.777 Nuôi trồng
133.988 151.734 154.447 155.624 160.053 Tổng số
Nguồn: NGTK 2006 – 2010
0 1 0 2
2 0 , 5 6
3 , 5 2
8 6 , 9
9 0 0 2
7 0 , 6 6
9 , 0 2
2 0 , 3 1
2
i
8 0 0 2
0 , 5 6
7 , 3 2
4 3 , 1 1
%
ả G c á T : n ồ u g N
7 0 0 2
7 , 7 5
8 , 9 2
3 5 , 2 1
: ị v n ơ Đ
– 0 0 0 2 ( g n ồ r t i ô u n h n à g n g n ợ ư
6 0 0 2
9 3 , 2 6
7 7 , 1 3
4 8 , 5
. ) 0 1 0 2
l n ả s u ấ c ơ C
5 0 0 2
9 3 , 4 6
4 6 , 6 2
0 , 9
4 0 0 2
4 1 , 1 7
7 0 , 0 2
8 , 8
: 3 c ụ l ụ h P
3 0 0 2
1 , 5 6
9 , 9 1
0 , 5 1
2 0 0 2
9 3 , 7 6
1 , 3 1
1 5 , 9 1
1 0 0 2
0 , 7 6
9 3 , 5 1
1 6 , 7 1
0 0 0 2
2 4 , 2 8
6 6 , 0 1
2 9 , 6
S T
m ă N
á C
m ô T
c á h k S T
i ạ o L
3
Phụ lục 4: Sản lượng tôm nuôi phân theo huyện của tỉnh Trà vinh (2006 –
2010). Đơn vị: tấn
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Huyện/Thị
42 45 44 14 43 Tp. Trà Vinh
172 215 180 156 115 Càng Long
1.016 1.267 1.297 1.041 1.207 Châu Thành
1 - - - 1 Cầu kè
194 - 1 - 75 Tiểu Cần
9.706 8.106 8.337 10.773 7.050 Cầu Ngang
885 430 404 421 1.010 Trà Cú
11.627 11.763 9.696 7.436 8.372 Duyên Hải
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên Giám thống kê 2010)
Phụ lục 5: Sản lượng cá nuôi phân theo huyện của tỉnh Trà vinh (2006 –
2010). Đơn vị: tấn.
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Huyện/Thị
914 2.382 4.274 4.800 920 Tp. Trà Vinh
7.177 9.375 9.071 7.873 8.052 Càng Long
5751 8.932 10.101 11.016 7.120 Châu Thành
8.115 12.166 8.025 9.316 9.397 Cầu kè
13.510 12.323 14.418 14.415 12.260 Tiểu Cần
4016 2.407 2.413 1.982 3.984 Cầu Ngang
2.508 2.690 4.275 3.077 3.436 Trà Cú
7.281 1.979 2.540 3.500 985 Duyên Hải
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Trà vinh (Niên giám thông kê 2006 – 2010)
Hình 1: Một ao tôm chuẩn bị cho mùa vụ 2012
Hình 2: Nuôi cua biển xen canh trên đất rừng-tôm, xã Quãng Đông, Duyên Hải. (Nguồn Báo Trà Vinh)
ầ
ồ
4
Phụ lục 6: Một số hình ảnh về nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh
Hình 3: Thu hoạch tôm sú tại xã Mỹ Long Nam
Hình 4: Đầm nuôi tôm tại Hiệp Mỹ Tây, Cầu Ngang. (Nguồn: Agroviet.gov.vn)
(Nguồn: Báo Nhân Dân)
Hình 6: Chăm sóc cá tra theo mô hình GAP. (Nguồn: TTXVN)
Hình 5: Rừng ngập mặn Duyên Hải trên đất tôm – cua. (Nguồn: travinh.gov.vn)
5
Hình 6: Hệ thống giao thông ở vùng nuôi thủy sản tỉnh Trà Vinh
(Ảnh: Đình Huệ/TTXVN)
Hình 7: Nuôi tôm sú theo hình thức thâm canh mô hình GAP ở Mỹ Long
Nam, Cầu Ngang, Trà Vinh.( Ảnh: Huy Hoàng)
6