BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH …..…..
BÙI THỊ HỒNG PHƯƠNG
TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG – CÔNG NGHIỆP
TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN NHO
Ở KHÁNH HÒA, NINH THUẬN, BÌNH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Thành phố Hồ Chí Minh 2007
I
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu, đề tài Luận văn "Tổ chức lãnh
thổ Nông - Công nghiệp trồng và chế biến Nho ở Khảnh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận" của em được hoàn thành. Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và
tri ân sâu sắc đến:
Tất cả các Thầy Cô phụ trách khóa học, các Thầy Cô trong Khoa Địa Lý
trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tận tình giảng dạy, hướng
dẫn, giúp đỡ em trong suốt khóa học.
Thầy TS. Trịnh Thanh Sơn đã tận tụy hướng dẫn và giúp đỡ em trong
quá trình làm và hoàn thành Luận văn Cao học.
Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng Khoa Học Công nghệ sau Đại Học
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Học viên trong việc học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn tốt nghiệp.
Cùng lời cảm ôn chân thành đến các Thày Cô, Đồng nghiệp, Bạn bè, Gia
đình đã có nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
tôi có thể hoàn thành tốt khóa học và Đề tài nghiên cứu.
Thành phố Hồ Chí Minh 11/2007
Tác giả Luận văn
Bùi Thị Hồng Phương
II
2TLỜI CẢM ƠN2T .......................................................................................................I
2TMỤC LỤC2T ........................................................................................................... II
2TBẢNG CÁCCHỮ VIẾT TẮT2T ........................................................................... V
2TDANH MỤC CÁC BẢNG2T ................................................................................ VI
2TDANH MỤC CÁC HÌNH VẼ2T ......................................................................... VII
2TDANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ2T ............................................................................ VIII
2TDANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ2T ....................................................................... VIII
2TPHẦN MỞ ĐẦU2T .................................................................................................. 1
2T1. Tính cấp thiết của đề tài2T ....................................................................................... 1
2T2. Mục đích, nhiệm vụ2T ............................................................................................... 2
2T3. Những nghiên cứu liên quan đề tài2T ...................................................................... 2
2T4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu2T ................................................ 4
2T5. Những đóng góp chính của luận văn2T ................................................................... 7
2T6. Cấu trúc luận văn2T .................................................................................................. 7
2TChương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG2T .............................................................. 8
2T1.1. Tổ chức lãnh thổ Nông nghiệp2T .......................................................................... 8
2T1.1.1. Khái niệm2T ...................................................................................................... 8
2T1.1.2. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp2T ........................................... 9
2T1.2. Liên kết nông - công nghiệp2T ............................................................................ 12
2T1.2.1. Liên kết nông - công nghiệp là tất yếu khách quan2T .................................... 13
2T1.2.2. Cơ sở của liên kết nông - công nghiệp2T ....................................................... 13
2T1.3. Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nho trên thế giới và Việt Nam2T............. 14
2T1.3.1. Tình hình tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nho trên thế giới2T .................. 14
2T1.3.2. Tình hình tổ chức lãnh thề trồng và chế biến nho ở Việt Nam2T .................. 24
MỤC LỤC
2TChương 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG TRỒNG VÀ CHẾ BIỂN NHO Ở CÁC TỈNH KHÁNH HÒA, NINH THUẬN, BÌNH THUẬN2T ............................................................................................................... 33
2T2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu2T ......................................................................... 33
2T2.2. Đặc điểm sinh thái của cây nho2T ....................................................................... 33
2T2.2.1. Đất trồng nho2T .............................................................................................. 34
III
2T2.2.2. Khí hậu2T ........................................................................................................ 35
2T2.2.3. Một số giống nho ở Việt Nam2T .................................................................... 37
2T2.3. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.2T ............................................................................................................. 44
2T2.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa2T ....................... 44
2T2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Ninh Thuận2T ...................... 46
2T2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Bình Thuận2T ...................... 57
2T2.4. Thực trạng trồng va chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.2T ................................................................................................................................... 66
2T2.4.1. Thực trạng trồng nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.2T................. 66
2T2.4.2. Thực trạng chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận2T............. 79
2T2.4.3. Liên kết giữa trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khảnh Hòa, Ninh Thuân,
Bình Thuận2T ........................................................................................................... 87
2T2.4.4. Hiệu quả kinh tế trong trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận.2T .............................................................................................. 88
2T2.4.5. Đánh giá về trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận2T ........................................................................................................... 93
2TChương 3: ĐỊNH HƯỚNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN NHO Ở CÁC TỈNH KHÁNH HÒA, NINH THUẬN, BÌNH THUẬN2T ............................................................................................................................. 96
2T3.1. Cơ sở của việc định hướng2T .............................................................................. 96
2T3.1.1. Mở rộng diện tích2T ........................................................................................ 97
2T3.1.2. Tăng năng suất2T ............................................................................................ 98
2T3.1.3. Tăng chất lượng2T .......................................................................................... 98
2T3.1.4. Đa dạng giống nho2T ...................................................................................... 98
2T3.1.5. Đa dạng hóa sản phẩm2T ................................................................................ 99
2T3.2. Định hướng và các mô hình2T ............................................................................. 99
2T3.2.1. Hộ gia đình2T ................................................................................................ 100
IV
2T3.2.2. Trang trại2T ................................................................................................... 101
2T3.2.3. Hợp tác xã2T ................................................................................................. 104
2T3.2.4. Doanh nghiệp nông nghiệp2T ....................................................................... 106
2T3.2.5. Doanh nghiệp liên doanh nước ngoài2T ....................................................... 107
2T3.3. Các giải pháp2T .................................................................................................. 108
2T3.3.1. Xác định địa bàn tiêu thụ2T .......................................................................... 108
2T3.3.2. Xây dựng mở rộng diện tích trồng và chế biến nho2T ................................. 110
2T3.3.3. Chính sách phát triển trồng và chế biến nho2T............................................. 114
2T3.3.4. Vốn đầu tư và cơ sở vật chất kỹ thuật2T ...................................................... 114
2T3.4. Kiến nghị2T ......................................................................................................... 118
2TKẾT LUẬN2T ...................................................................................................... 121
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T .............................................................................. 123
2TPHỤ LỤC2T ......................................................................................................... 127
V
Bộ (Sở) NN & PTNT : Bộ (Sở) Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
KT-XH
: Kinh tế - Xã hội
PR- TC
: Phan Rang - Tháp Chàm
SEDEC (Sedec)
: Trung tâm phát triển Kinh tế - Xã hội Bình Thuận
TP. HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND
: Ủy ban Nhân dân
BẢNG CÁCCHỮ VIẾT TẮT
VI
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 : Tình hình sản xuất nho tại Thái Lan năm 1998 ....................... 18
Bảng 1.2 : Tình hình sản xuất nho tại Trung Quốc năm 1998 .................. 20
Bảng 1.3 : Diện tích trồng nho ở một số tỉnh ở nước ta............................ 26
Bảng 1.4 : Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận năm 2004 ......................... 30
Bảng 1.5: Giá một số loại nho ở thị trường tự do Việt Nam năm 2000 ... 31
Bảng 2.1 : Một số điểm chính của một số giống nho ............................... 38
Bảng 2.2 : So sánh ưu nhược điểm của giống nho Cardinal và giống nho
Black Queen và White Malaga ................................................ 43
Bảng 2.3 : Tiềm năng diện tích phát triển cây nho trên đất thích nghi ..... 55
Bảng 2.4 : Tổng họp các yếu tố Khí Tượng tại Tuy Phong ...................... 61
Bảng 2.5: Kết quả phân tích đất tại Trại giống nho Vĩnh Hảo ................. 62
Bảng 2.6 : Kết quả phân tích đất tại Bình Thạnh ...................................... 64
Bảng 2.7 : Diễn biến diện tích và sản lượng nho tại Ninh Thuận ............. 68
Bảng 2.8 : Diện tích và sản lượng nho qua các năm ở Tuy Phong ........... 76
Bảng 2.9 : Hiệu quả của trồng nho so với các cây trồng khác ở
Tuy Phong ................................................................................ 93
Bảng 3.1 : Cơ cấu diện tích nho đến năm 2010 ở các huyện,
thị Ninh Thuận ........................................................................ 110
Bảng 3.2 : Dự kiến tình hình phát triển nho năm 2010 của Ninh Thuận
và Bình Thuận ....................................................................... 111
VII
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Khánh Hòa………………………… 45
Hình 2.2 : Bạn đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận……………………….. 47
Hình 2.3 : Bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Ninh Thuận……………………….. 49
Hình 2.4 : Bản đồ đánh giá tính thích nghi cây nho tại Ninh Thuận….. 54
Hình 2.5 : Bản đồ hành chính tỉnh Bình Thuận ………………………..59
Hình 2.6 : Bản đồ đất tỉnh Bình Thuận…………………………………63
Hình 2.7 : Bản đồ hiện trạng vùng trồng nho tỉnh Ninh Thuận ………69
Hình 3.1 : Bản đồ bố trí cơ cấu cây trồng tỉnh Ninh Thuận đến
năm 2010 …………………………………………………..112
Hình 3.2 : Bản đồ quy hoạch vùng trồng nho tỉnh Ninh Thuận ………113
VIII
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1 : Qui trình sơ chế nho an toàn ................................................. 75
Sơ đồ 2.2 : Qui trình làm nho rượu bằng thủ công ................................. 85
Sơ đồ 2.3 : Qui trình làm nho rượu bằng công nghiệp ........................... 85
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1 : Diện tích trồng nho .............................................................. 27
Biểu đồ 1.2 : Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận ...................................... 30
Biểu đồ 2.1 : Diện tích trồng nho ở các huyện, thị của Ninh Thuận ........ 70
Biểu đồ 2.2 : Diện tích thu hoạch nho ở các huyện, thị của Ninh Thuận . 71
Biểu đồ 2.3 : Sản lượng nho ở các huyện, thị của Ninh Thuận ................ 72
Biểu đồ 2.4 : Năng suất nho ở các huyện, thị của Ninh Thuận ................ 73
Biểu đồ 2.5 : Diện tích trồng nho ở Tuy Phong, Bình Thuận ................... 76
Biểu đồ 2.6 : Sản lượng nho ở Tuy Phong, Bình Thuận ........................... 77
Biểu đồ 2.7 : Năng suất nho ở Tuy Phong, Bình Thuận ........................... 77
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế - xã hội ở nước ta ngày càng phát triển, nhiều lĩnh vực hoạt
động đã có sự thay đổi mạnh mẽ thích ứng với nền kinh tế của đất nước. Nguồn
thực phẩm ngày càng đa dạng và phong phú vừa cung cấp cho nhu cầu của con
người vừa là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, đồng thời có
khả năng tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Đến nay, qua nhiều nguồn tư liệu và thực tiễn khác nhau, cây nho đã được
du nhập vào Việt Nam với số lượng giống khá lớn khoảng trên 60 giống. Những
giống này tập trung chủ yếu trong vườn tập đoàn của Trung tâm Nghiên cứu
Cây bông Nha Hố và Trung tâm khuyến khích phát triển kinh tế xã hội duyên
hải Miền Trung (Bình Thuận). Tập đoàn nho này bao gồm các giống nho ăn tươi,
nho rượu và nho dùng làm khô nho.
Ở Việt Nam, Nho được trồng tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận và Bắc Bình
Thuận với diện tích khoảng trên 2.700 ha và một số ít ở phía Nam tỉnh Khánh
Hòa có khí hậu khô nóng và lượng mưa thấp. Trong những năm gần đây, cây
nho được phát triển ra cả các tỉnh phía Bắc vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm [17, tr
8] và một số tỉnh khác. Điều kiện canh tác vùng trồng nho chính ở nước ta có
thể khai thác 3vụ/năm hoặc 5vụ/2năm. Tại Ninh Thuận, cây nho cho năng suất
khá cao 20- 40 tấn/ha nhưng không ổn định do chưa đầu tư kỹ thuật, chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm và điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Tuy nhiên, ở nước ta việc trồng và chế biến nho gặp không ít khó khăn về
sản xuất và thị trường tiêu thụ nên chúng ta cần tìm hướng đi phù hợp nhằm
tăng hiệu quả kinh tế, đóng góp cho sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước.
Trước vấn đề đó chúng ta cùng quan tâm và tìm hiểu nghiên cứu trong luận văn:
Tổ chức lãnh thổ Nông - Công nghiệp trồng và chế biến Nho ở Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận.
2
2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng phát triển cây nho ở Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận. Tình hình chế biến sản phẩm từ nho, hiệu quả kinh tế từ
việc phát triển lãnh thổ trồng và chế biến nho ở các tỉnh này.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận.
Đề xuất về phân bố vùng nguyên liệu và tổ chức chế biến nho một cách
hợp lý, định hướng tổ chức lãnh thổ giữa trồng và chế biến nho.
2.2. Nhiệm vụ
Đúc kết các cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ nông- công
nghiệp trồng và chế biến nông sản của nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa -
hiện đại hóa.
Điều tra thực trạng về việc trồng và chế biến cây nho ở các tỉnh trong đề tài
nghiên cứu.
Phân tích, đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến sản xuất cây nho ở các
tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Vấn đề tổ chức lãnh thổ kết họp nông - công nghiệp trồng và chế biến cây
nho ở địa bàn nghiên cứu.
Định hướng việc tổ chức lãnh thổ nông - công nghiệp một cách hợp lý
trồng và chế biến nho ở các tỉnh nghiên cứu.
3. Những nghiên cứu liên quan đề tài
3.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cây nho là một trong những cây ăn quả có giá trị kinh tế cao của nhiều
quốc gia trên thế giới. Với tổng diện tích khoảng 7,3 triệu ha trồng tập trung ở
92 quốc gia. Tổng sản lượng hàng năm đạt gần 62 triệu tấn (2001) (Nguồn: FAO
3
production yearbook). Các nước có diện tích trồng nho và sản lượng nho lớn:
Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Trung Quốc, Achentina..., các nước có giá trị
xuất khẩu nho cao là Mỹ, Pháp, Italia [7,tr 13].
Trong khu vực Châu Á, diện tích và sản lượng nho đã tăng lên trong những
năm gần đây, với tổng diện tích khoảng 1,7 triệu ha và tổng sản lượng hàng năm
khoảng 5 triệu tấn [7, tr 13-14]. Trung Quốc có diện tích trồng nho lớn nhất với
303 nghìn ha và sản lượng đạt 3.630 nghìn tấn (2001), nhưng hàng năm Trung
Quốc vẫn nhập khẩu một lượng nho ăn tươi khá lớn từ Mỹ. Thái Lan cũng là
nước có nghề trồng nho đang phát triển mạnh.
Tại Việt Nam, cây nho đang được chú trọng phát triển. Theo quyết định
của Thủ tướng chính phủ số 668/TTG ngày 22 tháng 8 năm 1997 về phương
hướng, biện pháp giảm nhẹ thiên tai và những chương trình chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội các tỉnh ven biển Miền Trung có nêu: "...Có quy hoạch, kế
hoạch phát triển ...cây nho, thanh long ở Bình Thuận, Ninh Thuận, gắn liền
với việc xây dựng các cơ sở chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao
hiệu quảy đảm bảo cho nông dân yên tâm sản xuất lâu dài” …
Với sự chú trọng quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà Nước, đã có
nhiều đề tài, dự án, hội thảo nghiên cứu phát triển cây nho. Đó là:
Nghiên cứu chọn tạo giống nho cho một số địa phương Miền Bắc Việt
Nam (Luận án Tiến sĩ Nông Nghiệp, tác giả Nguyễn Quốc Hùng, Hà Nội, 2004).
Hội thảo Phát triển cây nho, Định hướng và Giải pháp. Trung tâm khuyến
khích phát triển KT-XH vùng duyên hải tỉnh Bình Thuận (SEDEC), 2004.
Dự án Quy hoạch phát triển cây nho tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2002-
2010. Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, 2002.
Sản xuât thử l0ha giông nho xanh NHO1-48. Viện Nghiên cứu và phát
triển Cây Bông chủ trì, TS. Lê Quang Quyến chủ nhiệm đề tài, 2002.
4
Dự án đầu tư phát triển cây nho huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận giai
đoạn 2005- 2010. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận, 2005.
Và Một số đề tài, dự án khác của các cơ quàn quản lý, viện nghiên cứu.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến mối
quan hệ trồng và chế biến cây nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, đặc biệt là nghiên cứu về hiệu quả của sự hợp tác đầu tư phát triển chung
về cây nho của các tỉnh này. Đây là nội dung cơ bản cho đề tài nghiên cứu của
tôi dưới góc độ về Địa lý Kinh tế - Xã hội.
3.2. Giới hạn đề tài
- Thời gian: từ năm 2000 - 2005
- Không gian: các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông - công
nghiệp trồng và chế biến cây nho.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Tình hình trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận luôn biến đổi do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và sự phát triển KT-
XH của tỉnh, của vùng và chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều kiện tự nhiên
và hệ thống KT-XH thể hiện các đặc điểm sinh thái của cây nho, các đặc điểm
về dân cư, nguồn lao động, chính sách.... tác động đến việc phát triển cây nho.
Do vậy, việc nghiên cứu trồng và chế biến cây nho phải được xem xét, tìm hiểu
các sự vật, hiện tượng trong một hệ thống hòan chỉnh và không thể tách rời sự
phát triển KT-XH của tỉnh, của vùng, quốc gia và thế giới.
4.1.2. Quan điểm tổ chức lãnh thồ
5
Đây là quan điểm đặc trưng của ngành Địa lý học. Là nghiên cứu các yếu
tố tự nhiên và KT-XH tác động trên cùng một đối tượng sẽ ảnh hưởng đến diện
tích, sản lượng, năng suất, các hoạt động chế biến của cây nho của từng lãnh thổ.
Từ đó, chúng ta xem xét, đề xuất hoạt động tổng hợp giữa các lãnh thổ, mối
quan hệ, liên kết giữa các lãnh thổ nhằm đem lài hiệu quả kinh tế cao nhất cho
từng lãnh thổ, cho vùng và cho cả nước.
4.1.3. Quan điểm lịch sử-viễn cảnh
Vấn đề trồng và chế biến cây nho được phân tích theo thời gian. Mỗi một
giai đoạn mang một số đặc điểm riêng. Vận dụng quan điểm lịch sử trong việc
nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông - công nghiệp trồng và chế biến cây nho ở các
tỉnh nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề theo từng giai đoạn. Từ đó, xác định
một số đặc điểm cơ bản tác động đến sự phát triển của cây nho nhằm đánh giá,
phân tích vấn đề một cách biện chứng, khoa học.
4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Trồng và chế biến cây nho tác động rất lớn đến môi trường. Do vậy, quán
triệt quan điểm sinh thái trong nghiên cứu nhằm giảm thiểu những tổn hại đối
với môi trường sinh thái như suy thoái đất, thuốc bảo vệ thực vật, ô nhiễm môi
trường.... Đồng thời, tạo nên hệ thống liên kết nông - công nghiệp trồng và chế
biến nho nhằm tạo nguồn nho sạch cung cấp cho người tiêu dùng, tạo ra những
sản phẩm nho qua các nhà máy chế biến. Từ đó đề ra một số giải pháp nhằm
phát triển bền vững cây nho và môi trường xung quanh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương phápthu thập - thống kê
Tiến hành thu thập tài liệu liên quan đến nội dung đề tài từ các nguồn: báo
chí, thư viện, các dự án của các ban ngành, hội thảo,.... Từ đó, chọn lọc nội dung,
số liệu đảm bảo giá trị phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài. Số liệu được
6
tổng hợp và xử lý trên cơ sở dữ liệu của Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận, Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn các tỉnh,...
Đồng thời đề tài cũng tham khảo các số liệu được cồng bố trên sách, bảo,
của các cơ quan khác như Trung tâm Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật Nông nghiệp
Miền Nam và từ một số hộ nông dân.
4.2.2. Phương pháp điều tra thực địa
Để có các số liệu cơ bản và những cái nhìn thực tế để nhận xét đúng các
yếu tố ảnh hưởng cũng như thực trạng trồng và chế biến nho ở các tỉnh cần
nghiên cứu. Vì thế, tôi đã đi thực tế các cơ quan của các ngành liên quan, đến
một số hộ gia đình nông dân gắn bó lâu dài với nghề trồng nho. Tôi cũng tham
khảo những khó khăn, kiến nghị đến việc trồng và chế biến nho từ một số cán bộ
và người nông dân.
4.2.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu các vấn đề về Địa lý. Xây
dựng các bản đồ liên quan trong nội dung đề tài, bản đồ hành chính, bản đồ các
nhân tố tự nhiên, bản đồ quy hoạch,....
Xây dựng một số biểu đồ thể hiện đối tượng nghiên cứu một cách trực quan
cho việc phân tích đánh giá, và so sánh giữa các năm, giữa các tỉnh.
4.2.4. Thăm dò ý kiến chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tiến hành tiếp cận các cơ
quan ban ngành liên quan của các tỉnh, tham khảo ý kiến đóng góp của các
chuyên gia liên quan đến nội dung đề tài cũng như những kiến nghị của các
chuyên gia.
4.2.5. Phương pháp dự báo
Phương pháp này dựa trên những nghiên cứu trước đây và xu hướng phát
triển hiện nay của cây nho. Đồng thời trên cơ sở tiềm năng của tự nhiên và yếu
7
tố kinh tế - xã hội, cho phép chúng tôi đưa ra những dự báo phát triển giữa trồng
và chế biến nho ở các tỉnh nghiên cứu, nhất là ở tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
5. Những đóng góp chính của luận văn
Xây dựng cơ sở lý luận cho liên kết giữa trồng và chế biến nho ở các tỉnh
Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa.
Đánh giá thực trạng việc trồng và chế biến nho ở các tỉnh Ninh Thuận,
Bình Thuận, Khánh Hòa.
Tìm hướng phát triển cho cây nho ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,
Khánh Hòa.
Mô hình, giải pháp để hoàn thiện mối liên kết trồng và chế biến nho giữa
các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, mục
lục của đề tài; nội dung chính của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung
Chương 2: Các yếu tố ảnh hưởng và thực trạng trồng và chế biến nho ở các
tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Chương 3: Định hướng tổ chức lãnh thổ giữa trồng và chế biến cây nho ở
các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Tổ chức lãnh thổ Nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một hình thức của việc tổ chức nền sản
xuất xã hội theo lãnh thổ.
Theo K.I.Ivanov, V.G.Kriutokov và một số tác giả khác quan niệm về tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp như sau:
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không
gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở
các qui trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa
và hợp tác hóa sản xuất cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau
theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo
năng suất lao động xã hội cao nhất. [16,tr 70].
Như vậy, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp thể hiện một số điểm nổi bật sau:
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết họp giữa tự nhiên,
kinh tế, nguồn lao động là cơ sở để hình thành các mối liên hệ qua lại theo lãnh
thổ.
- Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong việc tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp.
- Các đặc điểm không gian của sản xuất phần nhiều bắt nguồn từ tính chất
của việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
- Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp. [16,tr 71].
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải là bất biến. Trong điều kiện hiện
nay, vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn liền mật thiết với cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhờ thành tựu của
9
cuộc cách mạng này, nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã và đang
xuất hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các
ngành sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng
lớn với các điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các
điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát triển
từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp, cần nghiên cứu kĩ các điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chúng
về phương diện sinh thái. Điều đó có nghĩa là vật nuôi, cây trồng phải được
phân bố ở những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Vì thế, việc phân bố vật nuôi,
cây trồng cần tiến hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp.
Việc nghiên cứu hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo nên những
điều kiện nhằm đẩy mạnh và làm sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời việc hoàn thiện hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo ra cả
những điều kiện nhằm nâng cao năng suất lao động.
1.1.2. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Trong phạm vi đề tài, tôi xin đưa ra một vài hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp quan trọng.
1.1.2.1. Xí nghiệp nông nghiệp
Xí nghiệp nông nghiệp là sự thống nhất giữa lực lượng lao động với công
cụ và đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Mỗi xí
nghiệp đều có tính độc lập về pháp lý và có thể có quan hệ với các xí nghiệp
khác.
Ở các nước Xã hội chủ nghĩa, các nông trang, nông trường quốc doanh,
họp tác xã nông nghiệp được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
10
Ở các nước phương Tây, hình thức liên quan đến xí nghiệp nông nghiệp là
nông trại và đồn điền.
1.1.2.2. Thể tổng hợp nông nghiệp
Theo K.I.Ivanov, thể tổng hợp nông nghiệp như là sự phối họp của các xí
nghiệp nông nghiệp có mối quan hệ qua lại và liên kết với nhau về mặt lãnh thổ
cũng như của các xí nghiệp nông nghiệp và các xí nghiệp nống nghiệp cho phép
trên cơ sở các qui trình kĩ thuật mới nhất sử dụng đầy đủ nhất điều kiện tự nhiên,
vị trí địa lý kinh tế (kể cả vị trí địa lý giao thông) và các điều kiện kinh tế hình
thành trong lịch sử để đạt năng suất lao động xã hội cao nhất.
Thể tổng hợp nông nghiệp có thể nổi lên những điểm quan trọng sau:
Các yếu tố quyết định diện mạo của thể tổng họp nông nghiệp gồm có vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên kinh tế, chuyên môn hóa theo giai đoạn của các xí
nghiệp nông nghiệp, các mối liên hệ thuận chiều và ngược chiều của các xí
nghiệp nông nghiệp với các xí nghiệp chế biến nông sản.
Các xí nghiệp nông nghiệp có xu hướng phân bố liền nhau về lãnh thổ
mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Cơ sở cấu trúc eủa các thể tổng hợp nông nghiệp là của xí nghiệp công
nghiệp và các xí nghiệp công nghiệp chế biến.
Trên cơ sở dựa vào những sản phẩm hàng hóa mà việc sản xuất những sản
phẩm này do các điều kiện tự nhiên, kinh tế quyết định và liên quan với việc lưa
chọn các quy trình kỹ thuật hợp lý để đảm bảo hiệu quả kinh tế cao. Toàn bộ hệ
thống các xí nghiệp nông nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp liên quan với nhau
và liền nhau về lãnh thổ được hình thành xung quanh, các sản phẩm hàng hóa
chính và các quy trình kỹ thuật để sản xuất ra các sản phẩm ấy.
Xuất phát từ những điểm trên, người ta chia thành hai nhóm thể tổng họp
nông nghiệp:
11
Các thể tổng hợp mà những sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra trước
hết do các điều kiện phân bố mang tính chất quyết định.
Các thể tổng hợp nông nghiệp ngoại thành. Đặc trưng cho các thể tổng
hợp này ở chỗ sản phẩm hàng hóa chủ yếu của chúng do nhu cầu thực phẩm của
dân cư thành phố chi phối. Các thể tổng hợp nông nghiệp ngọai thành hình
thành chủ yếu ở xung quanh các thành phố trung tâm công nghiệp. Ở đây, các
yếu tố kinh tế (nhu cầu) đóng vai trò chủ đạo, còn các yếu tố tự nhiên tuy cũng
được lưu ý nhưng chỉ giữ vai trò thứ yếu. Quy mô (diện tích sản xuất, sản phẩm)
của các thể tổng hợp có thể rất khác nhau tùy thuộc vào quy mô số dân của
thành phố.
Có thể nói thể tổng họp nông nghiệp là một trong những hình thức tổ chức
sản xuất theo lãnh thổ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời đây còn là bộ
khung để tạo nên các vùng nông nghiệp.
1.1.2.3. Vùng nông nghiệp
Phân vùng nông nghiệp gần như là phân vùng tự nhiên phục vụ mục đích
nông nghiệp. Nhiệm vụ cần phân vùng tự nhiên phục vụ mục đích nông nghiệp
là phát hiện các tổng thể tự nhiên và đánh giá chúng theo yêu cầu của sản xuất
nông nghiệp.
Vùng nông nghiệp được coi là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp. Thực chất, đó là những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối
đồng nhất về các điều kiện tự nhiên, kinh tế được phân chia với mục đích phân
bố họp lý và chuyên môn hóa đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng
đầy đủ và có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước
cũng như trong nội bộ từng vùng. Vùng nông nghiệp là sự biểu hiện tổng hợp
của các hình thức sản xuất nông nghiệp khác nhau và được coi như một lãnh thổ
có sự lập lại của các kiểu sản xuất tương đối giống nhau hoặc của các kiểu sản
xuất khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau.
12
1.1.2.4. Băng chuyền địa lý trong nồng nghiệp
Băng chuyền địa lý trong nông nghiệp có thể hiểu là các dây chuyền sản
xuất nông phẩm mà quá trình kỹ thuật được tiến hành ở các vùng tự nhiên -kinh
tế khác nhau nhằm sử dụng hợp lý nhất những đặc điểm của các vùng. Đồng
thời, là các dây chuyền thực hiện công việc đồng áng, sản xuất và cung cấp cho
nhân dân rau, hoa quả tươi được xây dựng dựa trên cơ sở có hiệu quả sự phát
triển mùa của tự nhiên. (K.I.Ivanov, 1975). Và các dây chuyền mà các giai đoạn
sản xuất của chúng tách biệt nhau về mặt không gian.
Các băng chuyền địa lý trong nông nghiệp có thể chia thanh hai loại:
Băng chuyền địa lý sử dụng có hiệu quả sự khác biệt theo vùng trong
việc sản xuất nông phẩm.
Băng chuyền sử dụng có hiệu quả sự phát triển mùa của tự nhiên.
Cả hai băng chuyền địa lý nêu trên đều là hình thức tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp. Ở chừng mực nhất định, mỗi loại lại có thể tách ra theo các dấu hiệu
vùng và các dấu hiệu ngành.
1.2. Liên kết nông - công nghiệp
Liên kết trong nông nghiệp là quy luật khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất dưới tác động tích cực của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Nó bắt nguồn từ quá trình phân công lao động xã hội sâu sắc từ chuyên môn hóa,
tập trung hóa, từ việc mở rộng mối quan hệ hàng hóa giữa các xí nghiệp nông
nghiệp với nhau và giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế khác.
Ngày nay, nền nông nghiệp đang có sự thay đổi lớn do sự tác động mạnh
mẽ của những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Điều này làm cho nông nghiệp có
mối quan hệ với lĩnh vực công nghiệp qua các khâu như điện khí hóa, cơ giới
hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa,... Với những tác động này, sản phẩm nông
nghiệp được nâng cao năng suất, chất lượng và sản lượng, chủ động trong sản
xuất.
13
Hiện nay, công nghệ sinh học cũng góp phàn thúc đẩy nông nghiệp phát
triển bằng cách lai giống, biến đổi gien, cấy mô,... đã tạo được các giống cây,
giống con mới có năng suất cao, kháng được dịch bệnh,... Không những thế
công nghiệp còn giúp nông phẩm ngày càng có giá trị cao trên thị trường cũng
như tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng thông qua việc sơ chế, chế biến các loại nông
phẩm.
1.2.1. Liên kết nông - công nghiệp là tất yếu khách quan
Trong xu thế hiện nay, nông nghiệp có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ
với ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp tiếp nhận của
công nghiệp không chỉ về tư liệu sản xuất mà còn sử dụng các phương pháp và
nguyên tắc của công nghiệp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất. Các
thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ đã góp phần nông nghiệp sản xuất
phát triển cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, nông nghiệp là cơ sở cung cấp
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, thúc đẩy một số ngành công nghiệp
phát triển nhất là các ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến...
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra bước chuyển lớn trong hoạt
động nông nghiệp, tổ chức lãnh thổ và tổ chức quản lý nông nghiệp. Mối liên
kết nông - công nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn trong các khâu của quá trình sản
xuất, đem lại kết quả cao trong lĩnh vực nông - công nghiệp. Vì thế, liên kết
nông - công nghiệp là một yêu cầu tất yếu và khách quan.
1.2.2. Cơ sở của liên kết nông - công nghiệp
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội là cơ sở
đầu tiên của quá trình liên kết nông công nghiệp và các ngành khác trong nền
kinh tế quốc dân. Sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất trong nền đại cơ khí
làm thay đổi quá trình sản xuất, thu hẹp thời gian, giải phóng sức lao động trong
các ngành, nâng cao năng suất lao động.
14
Sự liên kết nông - công nghiệp là một yêu cầu tất yếu nhằm tạo ra sự đa
dạng về số lượng và tăng thêm chất lượng của sản phẩm nông nghiệp đáp ứng
cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Sự liên kết nông - công nghiệp góp phần
chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa mang
tính chuyên môn hóa cao. Sản phẩm tạo ra chất lượng cao, sản xuất có tính hàng
loạt nên giá thành hạ, tăng thu nhập cho người trực tiếp sản xuất, hiệu quả kinh
tế tăng, góp phần tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản.
Sự phát triển nền công nghiệp là cơ sở vật chất tạo tiền đề cho việc hình
thành liên kết nông - công nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình cơ
giới hóa, tự động hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa... trong sản xuất nông nghiệp
(trồng trọt và chăn nuôi). Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và công
nghệ sinh học đã làm thay đổi các quá trình sản xuất, các quy trình công nghệ
trong sản xuất, đa dạng hóa các máy móc phục vụ trong nông nghiệp
1.3. Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nho trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nho trên thế giới
Nho là một trong những cây trồng có nguồn gốc sớm nhất trên Trái Đất,
qua các mẫu hóa thạch của lá và cây nho trong các trầm tích đá phấn. Cây nho
dại có nguồn gốc ở vùng Bắc bán cầu, đặc biệt là vùng khí hậu ôn đới ở Châu
Âu, Bắc Mỹ, Trung Mỹ. Nho được coi là cây trồng chủ yếu vào thế kỷ thứ XI-
XII sau công nguyên. Những giống nho ưu việt ở vùng Trung Đông và Nam
Châu Âu được chọn ra từ nho dại và dần dần được địa phương hóa. Cho đến nay,
cây nho đã được trồng trên năm châu lục, ở những vùng có điều kiện khí hậu
phù hợp [10, tr 7]. Theo B.Aubert nho là một trong những cây lâu năm có tính
thích ứng cao nhất. Các chuyên gia Philippines năm 1975 đã viết "Nghề trồng
nho không còn là một độc quyền của các nước ôn đới nữa".
Nho là loại quả mọc trên các cây dạng dây leo thân gỗ hoặc để chỉ chính
các loài cây này. Các loài cây này thuộc về họ Vitaceae. Quả nho mọc thành
chùm từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay trắng.
15
Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng
như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, dầu hạt nho.
Đối với vùng có khí hậu ôn đới, cây nho chỉ cho thu hoạch mỗi năm một vụ,
trong khi ở những vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới cây nho có khả
năng sinh trưởng liên tục và cho thu hoạch 2-3 vụ/năm.
Diện tích trồng cây nho trên thế giới khoảng 10 triệu ha. Châu Âu là khu
vực có diện tích trồng nho lớn nhất thế giới. Những nước trồng nhiều nho là Bồ
Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Italia, Liên bang Nga và Mỹ. Năng suất nho trên
thế giới dao động khá lớn từ 5,2 - 27,0 tấn/ha. Những nước có năng suất nho khá
2 Theo số liệu của FAO, 75.866 kmP
P trên thế giới được dùng để trồng nho.
cao là Ấn Độ, Hà Lan,..
Khoảng 71% sản lượng nho để sản xuất rượu vang, 27% để ăn dưới dạng quả
tươi và 2% làm nho khô. Có 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho hàng đầu thế
2 kmP
2 P, Pháp 8.640 kmP
2 P, Italy 8.270 kmP
2 P, Thổ Nhĩ Kỳ 8.120 kmP
P, Hoa Kỳ 4.150
2 P, Iran 2.860 kmP
2 P, Romania 2.480 kmP
2 P, Bồ Đào Nha 2.160 kmP
P, Argentina
2 kmP
2 2.080 kmP
2 P, Trung Quốc 1.780 kmP
2 P, Australia 1.642 kmP
P (Nguồn: FAO).
giới với diện tích trồng nho cho việc sản xuất rượu vang: Tây Ban Nha 11.750
Nho được trồng tập trung ở những trang trại lớn trên thế giới. Trong khuôn
khổ chuyến thăm Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, sáng 21.6.2006, Chủ tịch Nước
Nguyễn Minh Triết và phu nhân đã tới thăm một gia đình nông dân Mỹ có trang
trại trồng nho và sản xuất rượu vang nhãn hiệu BREAUX. Breaux là một trong
những trang trại trồng nho và sản xuất rượu vang nổi tiếng ở bang Virginia, cách
trung tâm thủ đô Washington khoảng 70 km. Trang trại trải dài trên diện tích
rộng 160ha, trong đó có 34ha trồng 15 loại nho khác nhau và tại đây rượu vang
được sân xuất theo phong cách truyền thống của gia đình với các trang thiết bị
nhập chủ yếu từ châu Âu
Trên khắp thế giới, sự phân bố và phát triển cây nho là sự kết họp của di
tryền giống cây trồng qua mùa vụ và khả năng thích nghi của nhiệt độ, ở vùng
16
khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Những quốc gia phải cùng đóng góp các
thông tin về giống và mong muốn ghép giống, lai giống tạo ra những giống nho
có giá trị tốt nhằm đem lãi hiệu quả cao. Nhưng nghịch lý, nền tảng của sự di
truyền của các giống nho thương mại thì quá giới hạn, là nguyên nhân gây bệnh
từ sâu bọ, côn trùng,..cho cây nho đặc biệt là vùng cận nhiệt và nhiệt đới. Dưới
đây là ngành trồng nho ở một số quốc gia trên thế giới.
1.3.1.1. Một số quốc gia trồng nho trên thế giới
❖ Ngành trồng nho ở Australia [31, tr 4, 8,14]
Australia là một trong số 10 nước có năng suất nho cao hàng đầu thế giới.
Diện tích nho năm 1998 - 1999 là 122.915 ha, sản lượng đạt 1.265.536 tấn, mỗi
năm thu hoạch 1 vụ. Trong đó, sản lượng dùng ăn tươi chiếm 5,5%. Lượng nho
ăn tươi xuất khẩu khoảng 31.071 tấn/năm.
Nho được trồng ở tất cả các bang của Australia nhưng tập trung phần lớn
sản phẩm cung cắp ở vùng ôn đới. Có 3 bang sản xuất lớn nhất ở phía nam là
Nam Australia (Riverland), Victoria và New South Wales. Vườn nho được hình
thành dựa vào các yếu tố ưu tiên để xác định vùng trồng nho ổn định lâu dài và
quản lý thuận lợi là khí hậu, thời tiết, nguồn nước và đất.
Nguồn nước là yếu tố chính để xác định đến việc thiết lập hệ thống vườn
nho. Nguồn nước cấp cho vùng trồng nho được xác định khối lượng nước có thể
dùng được từ những bể chứa nước hoặc những giếng khoan nước ngầm. Vùng
trồng nho ở Australia được đặt ở vị trí mà nguồn nước có thể cung cấp được.
Nhiều vườn nho mới phát triển dựa vào nguồn nước bơm từ sông ngòi và suối.
Lượng nước mưa liên quan đến mùa trồng nho, làm thay đổi đáng kể mùa vụ
khắp đất nước.
Nguồn đất cũng là yếu tố quyết định xác định vị trí vườn nho mà việc cải
tạo đất và sự biến đổi tính chất tự nhiên cần nghiên cứu trước khi trồng.
17
Nho được tiêu thụ phổ biến thông qua các đại lý bán trái cây kí nhận bán
hàng tại các chợ trung tâm ở các trung tâm thành phố để hưởng hoa hồng.
Hiện nay, sản lượng trái cầy gia tăng nên được bán trực tiếp ở các chuỗi
siêu thị bán lẻ với giá cả thỏa thuận. Nho tươi không xuất khẩu vào lúc trái mùa
vì giá thành cao ở thị trường nội địa. Nho tươi xuất khẩu chính từ Sunraysia và
SwanValley. Năm 1998 - 1999 nho tươi xuất khẩu đạt mức kỉ lục với 31.017 tấn
giá trị 69,1 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chính là Hồng Kông và Singapore
ước khoảng 25% -40% giá trị hơn 44,3 triệu USD. Những giống chính xuất khẩu
là Thompson Seedless, Red Globe, Flame Seedless và Menindee Seedless.
Nho tươi cho phép nhập khẩu chỉ từ New Zealand dưới 5 tấn mỗi năm.
Ngày 14/1/2000. Tổ chức kiểm định chất lượng ở Australia cho phép nho tươi
nhập khẩu từ Califormia từ tháng 7 hoặc tháng 8 cho đến tháng 12.
Doanh thu nho rượu xuất khẩu ở Australia gia tăng từ 21,3 triệu lít năm
1986-1987 lên 215,5 triệu lít năm 1998-1999. Thị trường xuất chính là châu Âu,
Bắc Mỹ và New Zealand. Nho rượu cũng được xuất sang các nước châu Á tăng
trong những năm gần đây và khu vực này trở thành mục tiêu tiềm năng xuất
khẩu nho rượu của Australia.
❖ Ngành trồng nho ở Thái Lan [31, tr 70-73,76]
Trước 1960, nho tươi được nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Australia đến Thái
Lan với giá thành rất cao. Vào thời gian đó, hon một trăm giống nho từ Hoa Kỳ
và các nước khác được nghiên cứu trong nước để tìm ra những giống nho có thể
thích nghi và phát triển tốt trong nước. Năm 1956, Giáo sư Pavin Punsri và đồng
nghiệp của ông tại khoa Làm vườn (trồng hoa, quả và rau), Đại học Kasetsart,
Bangkok, đã cố gắng nghiên cứu và giải quyết các vấn đề về việc trồng nho.
Ngành trồng nho ở Thái Lan từng bước thành công. Lúc đầu, các vùng sản xuất
nho tươi thương mại được xác định ở các vùng đất rộng lớn bằng phẳng thuộc
trung tâm các tỉnh Nakhon Pathom, Ratchaburi, Samut Sakhon và Samut
18
Songkhram, gần Bangkok. Gần đây, ngành trồng nho được mở rộng đến các
vùng phía Bắc, Đông Bắc và phía Tây các vùng.
0 30P PC, lượng mưa trung bình năm: 1300 - 1450mm; độ ẩm 60 - 90% và độ cao so
Những đặc điểm về khỉ hậu và đất của các vùng trồng nho: nhiệt độ 25 -
với mực nước biển là 2-3m. Đất là loại đất sét và thoát nước tốt. Vì thế, cần phải
cải thiện hệ thống thoát nước được sử dụng "đào mương đắp luống". Đất có pH
khoảng 4-5,5. Bón vôi và phân bón cũng cần thiết để cải tạo đặc tính lý hóa của
các loại đất này. Nguồn nước được lấy từ sông ngòi và kênh đào. Ở các vùng
phía Bắc và miền Đông Bắc cũng có các yếu tố thuận lợi cho phát triển nho.
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất nho tại Thái Lan năm 1998
Vùng
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Năng suất (tấn/ha)
Diên tích nho rươu (ha)
15,2 -
2.717,9 25,9 338,2 2.353,8
31.677,1 22,5 3.897,2 27.757,0
- -
Diên tích nho tươi (ha) 2.377,5 19,5 154,4 2.203,8
340,4 6,4 184,0 150,0
Cả nước Vùng phía Băc Vùng Đông Bắc Trung tâm và vùng phía Tây
Nguồn: Bộ Phát triển Nông nghiệp Thái Lan
Hiện nay, Thái Lan có khoảng 2.717 ha cung cấp 31.677 tấn mỗi năm,
năng suất trung bình khoảng 15tấn/ha. Các vùng chính sản xuất nho được tập
trung ở vùng đồng bằng trung tâm ở Nakhon Pathom, Ratchaburi, Samut Sakhon,
là nơi cung cấp nho tươi chính của cả nước. Các giống nho không hạt Beauty,
Ruby (Beauty Seedless, Ruby Seedless) và nho xạ Early (Early Muscat) phát
triển tốt, cho sản lượng và chất lượng tốt. Thái Lan vẫn tiếp tục mở rộng ngành
trồng nho.
Cây nho ở đồng bằng được trồng theo các luống (rộng khoảng 6m) trong
khu vực trồng nơi có mực nước ngầm cao hoặc ngập nước. Các luống trồng xen
kẽ với mương rãnh (rộng khoảng 1m và sâu 1m) giúp tưới hoặc tiêu nước. Cây
19
nho thường được trồng ở giữa các luống, cách 2m hoặc ở hai bên bờ luống trồng,
số lượng cây nho trên 1 ha từ 550 – 1.100 cây.
Ở vùng đổi núi nơi có mực nước ngầm cao, người ta phải đào hố để trồng
nho. Kích thước hố thường sâu 0,5m, dài 0,5m, rộng 0,5m. Khoảng cách giữa
các hố là 1,5 - 2 x 3,5 - 4m với số cây nho trồng 1.250- 1.875/1ha. Phân bón
hoặc phân xanh có thể trộn với đất và lấp đầy mỗi hố. Thời gian trồng từ tháng 1
hoặc tháng 2.
Thái Lan có khí hậu nhiệt đới thuận lợi để phát triển nho. Vụ mùa đầu tiên
có thể thu hoạch chỉ sau 14-16 tháng sau khi trồng, một năm có thể thu hoạch 2
đến 3 vụ. Thực tế những người trồng nho chặt tỉa các cây nho hai lần trong một
năm và có hai vụ, một vào mùa mưa (tháng 5 -10) và một mùa vào mùa khô
(tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Vụ sau thì tốt hơn vì hàm lượng đường cao hơn,
chất lượng hơn, ít bị sâu bệnh. Việc tăng vụ này làm cho cây nho có tuổi thọ
ngắn khoảng 7 đến 10 năm.
Với giống nho White Malaga, là giống chủ lực được trồng với mục đích ăn
tươi người trồng nho có thể khai thác 2 vụ một năm hoặc 5 vụ trong hai năm,
năng suất trung bình 15 - 20 kg/vụ. Giống nho Cardinal, có thể thu hoạch 3 -4
vụ/năm với năng suất trung bình 12-15 kg/vụ.
Ở Thái Lan không có tổ chức nào hay hiệp hội nào đứng ra tiếp thị nho.
Việc tiếp thị nho thường từ những người trồng nho qua 1 hoặc 2 bên trung gian
để người trung gian chuyển nho ra thị trường bán cho người tiêu thụ. Hầu hết
nho tươi tiêu thụ trong nước. Xuất khẩu nho tươi chỉ có sản lượng nhỏ. Giá
thành nho tươi phụ thuộc vào chủng loại, chất lượng, mùa vụ và nhu cầu thị
trường. Trung bình giá các giống nho cũ tại nơi trồng thấp, như nho White
Malaga và Cardinal khoảng 30- 37 bath/kg, trong khi giống nho mới như nho
khô không hạt giá khoảng 100- 150 bath/kg. Số lượng và giá trị nho tươi và nho
rượu ngày càng tăng từ năm 1993 đến nay.
20
❖ Ngành trồng nho ở Trung Quốc [31, tr 19-20, 23-24]
Nho (Vitis vinifera L.) được trồng ở Trung Quốc hơn 2000 năm. Tuy nhiên,
sản lượng nho trồng với số lượng không đáng kể, đến năm 1998 khoảng 178.000
ha, sản lượng đạt 2.358.200 tấn. Trong đó nho ăn tươi chiếm 80% tổng sản
phẩm khoảng 10% nho làm rượu và 10% nho khô.
Hiện nay ngành trồng nho ở Trung Quốc được xếp thứ 15 trong ngành sản
xuất cây ăn trái sau táo, cam quýt, lê, chuối,... Diện tích trồng chính được mở
rộng về phía Bắc, 5 tỉnh dẫn đầu cung cấp 2/3 tổng lượng nho trong nước năm
1998 là Xingjiang, Hebei, Shangdong, Liaoning và Henan.
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất nho tại Trung Quốc năm 1998
Diện tích trồng nho
Sản lượng nho
Tỉnh
Nghìn ha
Nghìn tấn
Xingjiang Hebei Shangdong Liaoning Henan Cả nước
Tỉ lệ % cả nước 18,0 17,7 11,7 8,0 6,3 100
32,0 31,5 20,9 14,2 11,3 178,0
Tỉ lệ % cả nước 23,6 17,1 11,4 11,7 6,5 100
555,4 404,4 269,0 275,6 153,0 2358,2
Nguồn: Thống kê Nông Nghiệp Trung Quốc 1999
Hầu hết trái cây sản xuất ở Trung Quốc được kinh doanh bằng hệ thống
tiếp thị trong nước. Việc xuất khẩu trái cây rất nhỏ, trung bình khoảng 600.000
tấn mỗi năm, hoặc 1,2% tổng sản lượng trong nước. Tình hình tiếp thị nho cũng
giống như các loại trái cây khác, 650 tấn nho và 1.100 tấn nho khô được xuất
khẩu năm 1997. Xuất khẩu nho đứng thứ 6 trong các loại trái cây xuất khẩu ở
Trung Quốc, đứng sau táo, cam quýt, lê, chuối và đào. Tuy nhiên, nhập khẩu
nhiều hơn xuất, năm 1997, gần 4800 tấn nho được nhập khẩu gấp khoảng 7,4 lần
nho xuất. Nho nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ và hầu hết nho nhập khẩu là loại nho
Red Globe. Với loại nho khô nhập vào Trung Quốc thì ít hơn nho khô xuất, gần
460 tấn nho khô nhập năm 1997 chỉ khoảng 1/2 sản lượng xuất.
21
1.3.1.2. Tình hình chế biến nho trên thế giới
Nho ngoài mục đích ăn tươi, nho còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến. Nho được chế biến thành rượu, nho khô, nước ngọt, nho đóng
hộp,... Trên thế giới ngành chế biến nho phát triển tương đối sớm nhất là ở các
nước Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ.
Nước Pháp là quốc gia nổi tiếng về trồng nho và sản xuất rượu vang. Năm
1992, đất trồng nho ở Pháp khoảng 1.100.000 ha và sản xuất được 60- 70 triệu
hectôlit rượu vang. Rượu vang của Pháp chất lượng cao và độc đáo với các nhãn
hiệu: Boocđô, Cônhắc, AOC,...[12, tr 71]
Rượu vang của Hoa Kỳ ngày nay đã có thể cạnh tranh được với những thứ
rượu nho thượng hảo hạng của nước Pháp. Một trong những vùng trồng nho và
cất rượu vang nổi tiếng của nước Mỹ là thung lũng Napa. Napa được biết đến là
nhờ nó có tới hơn 175 nhà sản xuất rượu nho để đưa ra thị trường một số những
loại vang cabemet, chardonnay, pinot noir, Zinfandel và merlot ngon nhất.
Chế biến rượu nho [10, tr 131-132]
Rượu nho chủ yếu được chế biến ở các nước châu Âu, Bắc Phi, Nam Phi và
Nam Mỹ. Những giống nho vùng ôn đới thích hợp cho việc chế biến rượu. Yêu
cầu của giống nho làm rượu là phải có hương vị thơm trong thời gian dài, giữ
được đến sau khi chế biến, có đủ lượng đường, độ ngọt trên 24%, độ axit 0,5-
0,7% và vitamin 0,57-0,8%. Đối với những giống nho trồng trong điều kiện khí
hậu nhiệt đới thường có hàm lượng đường thấp, cần phải thêm 5-8kg đường cho
100kg nước ép để cho ra rượu nhẹ 12%. Trên thế giới, những giống nho White
Riesling, Chardonnay, Cabemet Sauvignon, và Muscat Blanc cho ra rượu có
chất lượng cao với hương vị tuyệt hảo.
Chế biến nho khô [10, tr 127-129]
Sản phẩm nho chế biến giữ vị trí thứ hai là khô nho, xuất hiện muộn hơn so
với ngành chế biến rượu nho.
22
Chế biến nho khô tập trung chủ yếu ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Bắc Phi. Hiện
nay sản lượng nho khô trên thế giới khoảng 750.000 tấn trong đó Hoa Kỳ sản
xuất chiếm 30%, kế đến là Thổ Nhĩ Kỳ 25%, Hy Lạp 20%, Úc 10%, Iran 5%,
Afganixtan 5%, các nước còn lại như Italia, Marốc, Ai Cập,... khoảng 5%.
Để làm nho khô, cần chọn những quả đã chín hoàn toàn, vỏ quả mỏng,
nhiều thịt, giữ được nhiều mùi vị, màu sắc khi khô, quả chín đồng đều và dính
chắc với cuống để không bị chảy nước trong quá trình chế biến.
* UNho khô tư nhiên
Loại nho này không dính, có màu mận, vỏ dai, giữ nguyên cả lớp phấn trên
UCách làmU: Phơi nho trong khay gỗ (miếng giấy) trong 1-2 tuần. Khi thấy vỏ
vỏ quả, khi bảo quản không bị đóng bánh.
quả lớp trên đã nhăn nheo thì lật lại cho khô đều, sau đó cuốn giấy lên để có độ
ẩm đồng đều. Khi độ ẩm còn từ 13-15% thì xếp vào hộp khoảng 2-3 tuần để cân
bằng độ ẩm. Sau đó xông hơi bromua methyl và gói lại sau khi đã phân loại.
Trước khi cất trữ cần xông hơi bằng đioxit lưu huỳnh để chống thối.
* UNho khô tao màu vàng
UCách làmU: nhúng chùm nho vào NaON (xút ăn da) 0,2-0,5% trong 2-3 giây
0 PC, rồi rửa ngay bằng nước lạnh. Nếu thấy bề mặt quả mỏng đi ở nhiệt độ 90-95P
Sau khi làm khô, nho có màu vàng chanh, mềm vừa phải và hơi dính.
nhìn thấu bên trong là được. Sau đó đưa nho vào buồng kín xông hơi đioxit lưu
0 không khí nóng 60-70P
PC từ 18-50 giờ để quả khô.
huỳnh (khoảng 100-200g/tạ nho) trong 24 giờ, khi quả vàng đều là được. Thổi
* UNhó khô bằng phương pháp xử lý soda và dầu
Phương pháp này, nho có màu nâu đậm, mềm, không dính, có mùi dầu ăn.
23
PC và
0 UCách làmU: nhúng nho vào dung dịch NaCOR3R 3-4%, ở nhiệt độ 40P
0,1% NaOH. Cho thêm vào dung dịch một chút dầu ô liu tạo thành váng mỏng.
Xử lý xong, xếp các chùm nho ra khay và phơi nắng cho đến khi khô.
Chế biến nước ngọt [10, tr 130]
Trên thị trường nho thế giới còn có sản phẩm nho đóng hộp và nước ngọt
sản xuất từ nho hay có hương vị nho. Tuy nhiên những sản phẩm này còn ít và
chưa phổ biến đến người tiêu dùng. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật, nhất là trong công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến tạo điều kiện cho
ngành chế biến nho phát triển mạnh trong tương lai, góp phần tăng chất lượng
và sản lượng nho, đa dạng hóa sản phẩm nho trên thị trường.
Nước ép nho làm thức uống với nhiều vitamin và các chất bổ dưỡng cơ thể.
0 thịt quả nát ở nhiệt độ 70P PC trong vòng 2 phút, sau đó dùng vải muslin lọc.
Người ta dùng tay bóp vỡ quả nho hoặc máy trục xoắn ép quả, đun nóng phần
người ta thường trộn lẫn quả nho xanh với nho đỏ với các tỷ lệ khác nhau tùy
thuộc giống để có màu sắc đẹp. Nước ép được đóng vào chai hoặc hộp lon, bảo
quản nhờ nhiệt hoặc hút chân không ở 35 -400c để làm đậm đặc dung dịch tới
68-700Brix. Nhờ hàm lượng đường cao mà nước nho đựoc bảo quản tốt.
1.3.1.3. Phân loại nho theo công dụng
Nho ăn tươi
Nho được tiêu thụ dưới dạng quả tươi. Các giống có màu sắc bề ngoài quả
đẹp, mùi vị hấp dẫn, vận chuyển đi xa ít bị dập nát, thịt quả cứng, vỏ quả dai,
cuống quả liên kết chặt với quả và quả giữ được chất lượng tốt sau thu hoạch.
Các giống nho ăn tươi chủ yếu Muscat Hamburg, Thompson Seedless, Tokay,
Muscat of Alexandra, Black Queen, Redstar, NH.01-48, Ribier, Cardinal,...
Nho khô
Những giống nho trồng để làm khô nho. Những giống này thường có cấu
trúc quả mềm, không hạt, hàm lượng đường cao, hương vị dễ chịu và ít bị dính
24
khi bảo quản sản phẩm. Những giống nho không hạt như Thompson Seedless,
Black corinth, Seedless sultana, Red corinth, Muscat of Alexandra,...
Nho rượu
Các giống nho được trồng để sản xuất rượu vang và một số rượu mạnh cao
cấp, đắt tiền. Loại nho này chủ yếu trồng ở Châu Âu, Nam Phi, Bắc Phi, Nam
Mỹ, Úc và Hoa Kỳ với các giống như White Riesling, Ruby Red, Chardonnay,
Cabemet Sanvignon, Tinta Maderia, Chambourcin, NH.02-04 và Muscat Blanc.
Nho làm nước ngọt
Những giống nho có dịch nước ép ngọt để làm đồ uống. Nước quả nho có
thể giữ lại được hương vị tự nhiên của nho tươi thông qua việc lọc và bảo quản.
Ở Hoa Kỳ dùng giống Concord, các nước Trung Âu dùng giống White Riesling
và Chasslas dore, Pháp dùng giống Aramon và Carignan.
Nho đóng hộp
Các giống nho không hạt như Thompson Seedless và Canner thường được
dùng đóng hộp chung với loại quả cây khác.
1.3.2. Tình hình tổ chức lãnh thề trồng và chế biến nho ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cây nho có thể nhìn thấy ở mọi nơi. Đã từ rất lâu, người dân
Hà Nội đã trồng nho xung quanh nhà để làm cảnh và che bóng râm. Những cây
nho trồng giàn có những quả nhỏ và chùm nhỏ nhưng vị rất chua và giá trị dinh
dưỡng thấp. Hiện nay, chỉ ở miền Nam mới có nho trồng để kinh doanh, chất
lượng nho chưa lý tưởng nhưng cần thiết như trái cây khác.
Nghề trồng nho đã tồn tại hàng ngàn năm trên một số nơi trên thế giới
nhưng ở Việt Nam chỉ mới phát triển trong những năm gần đây. Từ khi nó có
giá trị kinh tế cao hơn so với các loại cây trồng khác, diện tích trồng nho ở Việt
Nam nhanh chóng tăng lên từ những năm 1990, chỉ có nho tươi là hàng hóa
thương mại chính từ trồng nho.
25
Trong các loại cây thực phẩm có nhiều loại có giá trị cao, đem lại nhiều
hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, bổ sung chất khoáng và
vitamin có lợi cho con người. Trong đó nho là một loại cây trồng có giá trị kinh
tế cao, như ăn tươi, ché biến thành nhiều sản phẩm có giá trị thương mại như
rượu vang, cônhắc, nho khô, nước ngọt, nho đóng hộp,... và là một trong những
loại quả giàu dinh dưỡng, bổ sung sức khỏe cho người. Cây nho là cây trồng
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Cây
nho có thể khai thác hết, lá nho dùng làm phân bón, rễ nho dùng làm thuốc nam,
trái nho non có thể dùng làm dưa chua. Cây nho là thu nhập chính, là cây góp
phần "Xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu".
Tại Việt Nam, theo trung tâm khảo cứu Nông nghiệp Ninh Thuận (trước
giải phóng), cây nho đã được du nhập vào từ năm 1971 với trên 70 giống có
nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới từ Thái Lan, Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ. Sau
năm 1975, do chưa có định hướng phát triển cay nho nên vườn tập đoàn giống
nho đã bị chặt phá. Cho đến những năm 1980- 1990 chỉ còn tồn tại 4 giống nho
trong vườn cây ăn quả của Trung tâm Nghiên cứu Cây bông Nha Hố (Cardinal,
Ribier, Muscat de St.vallier và Alden) và cũng bị phá bỏ cùng với những cây
khác vào năm 1985. Những năm sau đó, chỉ còn duy nhất giống nho đỏ Cardinal
đang được trồng trọt mang tính thương mại ở tỉnh Ninh Thuận và Bắc Bình
Thuận.
Việc tiến hành nghiên cứu nho ở Việt Nam được thực hiện chính của Trung
tâm nghiên cứu cây Bông, nơi có chuyên ngành nghiên cứu vụ mùa hoa quả và
thực phẩm phục vụ cho nông nghiệp địa phương. Để hiểu nhiều hơn về tầm
quan trọng của tình hình trồng nho ở Việt Nam và giúp đỡ người trồng nho
nhằm giải quyết vấn đề về sản xuất về giống và công nghệ. Từ năm 1989, Trung
tâm nghiên cửu cây Bông Nha Hố ở Ninh Thuận đã tiến hành nghiên cứu một số
vấn đề quan trọng trong việc phát triển nghề trồng nho.
1.3.2.1. Tình hình trồng nho ở Việt Nam
26
Theo Phạm Hữu Nhượng, 2000, ở Việt Nam cây nho được trồng tập trung
chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và Bắc Bình Thuận với diện tích khoảng 2.500-2.700
ha và một số ít ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa, trên các vùng khí hậu khô nóng và
có lượng mưa thấp. Trong những năm gần đây, cây nho được phát triển ra các
tỉnh phía Bắc, vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm. Tại vùng này cây nho có thể sống
được nhưng sản lượng không đạt như mong muốn do áp lực lớn của bệnh và do
cây nho phải ngủ nghỉ qua đông làm giảm mùa vụ khai thác trong năm.
Bảng 1.3: Diện tích trồng nho ở một số tỉnh ở nước ta
Diện tích trồng nho (ha)
Tỉnh
Chú thích
1985
1990
1995
1999
3 Nho ăn và nho chê biên (nho 10 rượu và nho 0 khô) 0 12
Bấc Giang Hà Tây Hải Dương Quảng Ninh Vĩnh Phúc Bình Thuận Ninh Thuận Tồng
0 0 0 0 0 0 26 26
0 0 0 0 0 0 306 306
23 16 17 7 12 100 1952 2127
250 Trồng nho ăn 2400 2675
Nguồn: FAO, tháng 7, 2001
Nho được trồng với mục đích thương mại bắt đầu những năm cuối thấp kỷ
70 ở phía Bắc tỉnh Thuận Hải (bao gồm tỉnh Ninh Thuận và huyện Tuy Phong
của tỉnh Bình Thuận). Ngoài ra, nho còn trồng tại một số xã ở huyện Phú Hòa,
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa, và một số tỉnh ở phía Bắc
như Bắc Giang, Hà Tây, Hải Dương, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc, nho bắt đầu
trồng với 1 tỉ lệ nhỏ để thử nghiệm. Sau đó, việc nghiên cứu chỉ được thực hiện
ở vùng đất trồng nho tỉnh Ninh Thuận.
27
3000
ha
2750
2500
2400
2000
1952
1709
1615
1500
Ninh Thuận
Bình Thuận
1000
500
310
306
298
251
250
100
0
26 0
0
Nam
1985
1990
1995
1999
2003
2004
2005
Biểu đồ 1.1: Diện tích trồng nho ở Ninh Thuận và Bình Thuận
Dựa vào bảng 1.3 và biểu đồ 1.1, cho thấy rằng nho được trồng chủ yếu ở
Ninh Thuận và Bình Thuận. Hiện nay, diện tích trồng nho chủ yếu ở Ninh
Thuận (chiếm 90% diện tích) và Bình Thuận (chiếm 9% diện tích của cả nước).
Cho đến nay, số liệu thống kê về sản lượng nho ở Việt Nam chưa được cung cấp
bởi Cục Thống Kê vì diện tích trồng nho quá nhỏ so với các cây trồng khác.
Sản lượng nho của Việt Nam đến năm 2003 đạt khoảng 60.000 tấn
quả/năm. Sản lượng chủ yếu dùng để ăn tươi, lượng nho quả các nhà máy chế
biến rượu thu mua để chế biến rượu vang ước khoảng 300- 400tấn /năm. Còn
các cơ sở chế biến xirô nho, mật nho ước khoảng 10.000 tấn /năm.
Giống nho trước đây trồng chủ yếu là giống Cardinal, mỗi năm thu hoạch
khoảng năng suất bình quân 200 - 300tạ/ha, năng suất cao nhất là vụ Đông Xuân,
Hè Thu, thấp nhất là vụ Thu Đông (bằng 50%).
28
Hiện nay, nho còn được trồng thử nghiệm ở tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên quy
mô nhỏ. Điển hình có ông Huỳnh Tấn Sơn, thôn Phú Tân, Xã Phú Hội, huyện
Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng trồng giống nho mới Cự Phong có nguồn gốc từ
Nhật Bản (dưới sự trợ giúp của chuyên gia Nhật Bản) đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Năm 2003, ông Sơn trồng phủ kín 1,5 ha theo mô hình "trên nho, dưới hoa".
Đen năm 2005, ông Sơn thu hoạch vụ đầu tiên vơi 3 tấn nho được tiêu thụ nhanh
với giá 30.000 đồng/kg (loại 2) và 45.000 đồng/kg (loại 1).
1.3.2.2. Chính sách của Nhà Nước về phát triển ngành trồng nho
Chính phủ Việt Nam ban hành một số chính sách chung hướng dẫn phát
triển mùa vụ cây ăn trái trên cả nước, gồm có nho. Những chính sách này bao
gồm việc khuyến khích người nông dân thay đổi mùa vụ cây trồng, đa dạng hóa
cây trồng trong nông nghiệp và sản phẩm nông sản với điều kiện là người nông
dân được vay tiền với tỉ suất thấp, hấp dẫn và xây dựng hồ chứa nước mới cũng
như hệ thống kênh đào chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong những
năm gần đây, Bộ NN & PTNT Việt Nam bước đầu đã đầu tư nghiên cứu và mở
rộng nông nghiệp gồm việc khảo sát về kỹ thuật trồng nho cho nông dân, định
hình cho việc mở rộng nông nghiệp hiện đại cho việc trồng các giống cây trồng
mới giống như chương trình IPM. Tuy nhiên, những đẩu tư mới này quá nhỏ so
với những yêu cầu của những người trồng nho đặc biệt kỹ thuật sản xuất.
Năm 1992, tỉnh Ninh Thuận tái thành lập, Tỉnh được phê chuẩn, việc phát
triển ngành trồng nho là một trong những nhiệm vụ cho chương trình phát triển
KT - XH. Kể từ đó, chính quyền tỉnh bắt đầu quan tâm hơn về việc phát triển
ngành trồng nho bằng cách đầu tư nghiên cứu thu thập giống cây trồng, khảo sát
vùng thích hợp cho trồng nho và xây dựng chế biến các giống nho rượu,... Tuy
nhiên, những đầu tư này vẫn không đủ so với sự cần thiết của sản xuất.
Ở Việt Nam có 4 tổ chức duy trì nghiên cứu cây nho. Đó là Trung tâm
nghiên cứu cây Bông, Viện nghiên cứu Rau quả Hà Nội, Trung tâm giống cây
trồng và Vật nuôi Ninh Thuận và Trung tâm phát triển KT- XH Bình Thuận.
29
Tại Trung tâm nghiên cứu cây Bông, từ năm 1994 đến 2000 những giống
nho tốt được tiến hành nghiên cứu, giới thiệu và thu thập gồm 61 giống. Trong
đó, có 12 giống thu thập trong nước và 49 giống được giới thiệu từ nước ngoài
(Pháp, Hoa Kỳ, Australia, Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc và Đức), gồm 34 giống
nho tươi, 25 giống nho rượu và 3 loại gốc ghép. Nhờ vậy, kết quả của việc
nghiên cứu thu thập này là một vài giống đặc biệt triển vọng được nhận biết và
tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Những giống nho tươi được lựa chọn là NH-01-
08, NH-01-48 và NH-01-60, giống nho rượu được lựa chọn là NH-02-04, NH-
02-10 và NH-02-17 và giống nho khô được lựa chọn là NH-01-11.
Ở Viện nghiên cứu Rau quả Hà Nội, 5 giống nho rượu giới thiệu từ Pháp
được tiến hành nghiên cứu từ năm 1995. Kết quả, giống Vilard noir được nhận
biết là một giống cho khả năng sản xuất cao nhất và chất lượng tốt nhất (Nguyễn
Quốc Hùng, Trần Thế Túc, Vũ Mạnh Hải và Stephen Desmazieres, 1999). Bên
cạnh đó, Viện vừa được giới thiệu thêm một số giống nho. Hiện tại, có 28 giống
trong bộ thu thập ở đây gồm 16 giống nho tươi và 12 giống nho rượu.
Ở Trung tâm giống cây trồng và Vật nuôi Ninh Thuận, giống nho thu thập
chính chủ yếu nho rượu từ Australia năm 1995. Năm 1996, các nhà khoa học
Đức bổ sung một vài giống nho tươi và nho gốc ghép. Hiện nay, có 33 giống
trong bộ sưu tầm gồm 17 giống nho tươi, 13 giống nho rượu và 3 giống gốc
ghép. Từ kết quả của việc nghiên cứu thu thập giống, giống nho tươi Black
Queen được phục hồi từ chương trình sản xuất thí điểm quy mô nhỏ.
Tại Trung tâm phát triển KT - XH Bình Thuận (thành lập bởi các nhà khoa
học Đức với chính quyền tỉnh Bình Thuận), một trong những nhiệm vụ quan
trọng là nghiên cứu giống nho cho nông dân huyện Tuy Phong. Cho đến nay,
Trung tâm có 42 giống nho thu thập thích nghi được ở đây, trong đó có 32 giống
nho tươi, 5 giống nho rượu và 5 giống gốc ghép. Trung tâm cũng đã phục hồi
được giống nho tươi Black Queen từ chương trình sản xuất thí điểm quy mô nhỏ.
1.3.2.3. Thị trường
30
Cho đến nay, hầu hết nho sản xuất chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận
được tiêu thụ là nho tươi và một số ít nho với chất lượng kém dùng để chế biến
thành nước ép trái cây và rượu nho tại địa phương. Nho được vận chuyển đến
mọi nơi ở Việt Nam bởi người buôn bán và người môi giới trung gian.
Bảng 1.4: Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận năm 2004
Thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội
60% 30% Các tỉnh khác 9% Xuất khẩu 1%
1%
9%
Thành phố Hồ Chí Minh
Hà Nội
30%
Các tỉnh khác
60%
Xuất khẩu
Nguồn: Theo Thương lái ở Ninh Thuận
Biểu đồ 1.2: Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận
Theo bảng 1.4 và biểu đồ 1.2, tỷ lệ tiêu thụ nho trong nước hiện tại khoảng
99% chủ yếu là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nam Định, Đà Nẵng, Nha
Trang, và các tỉnh miền Tây. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 nơi tiêu
thụ lớn nhất nước, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 60% nho của Ninh Thuận.
Các tư thương bán lẻ nho trên thị trường ảnh hưởng một phần đến người
tiêu dùng. Nho lấy tại điểm trồng giá 3000 - 15000 đồng tùy theo loại nho, tùy
theo mùa vụ. Nhưng khi bán ra thị trường đến tay người tiêu dùng, giá cao gấp
nhiều lần, nhiều tư thương bán nho Ninh Thuận theo giá nhập khẩu nho từ Thái
31
Lan, Mỹ. Điều này ảnh hưởng nhiều đến tình hình tiêu thụ nho trong nước. Và
người chịu thiệt thòi nhất là người nông dân làm ra sản phẩm.
Lượng nho xuất khẩu không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 1%, chủ yếu theo
tiểu ngạch sang Campuchia, Trung Quốc. Nói chung qui mô xuất khẩu nho Ninh
Thuận còn nhỏ bé, khó khăn. Nho an toàn Ba Mọi vẫn chưa xuất khẩu.
Hiện tại do lượng Nho trong nước cung cấp thấp hơn so với nhu cầu nên
việc nhập khẩu nho ngoại ngày càng tăng. Nước xuất khẩu nho nhiều nhất vào
Việt Nam là Úc (khoảng 60% sản lượng nho nhập khẩu vào nước ta), Mĩ
(khoảng 10%), tiếp đó là các nước như Thái Lan, Hồng Kông, Trung Quốc,...
Việt Nam đang nhập khẩu 2 loại nho tươi từ nước ngoài. Những người tiêu
dùng chấp nhận những loại nho sản xuất tại Hoa Kỳ, Australia hoặc Thái Lan.
Giá các loại nho tươi được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 1.5: Giá một số loại nho ở thị trường tự do Việt Nam (tháng
4/2000)
Giá sỉ (VND/kg)
Nơi sản xuất Nước ngoài
Giả lẻ (VND/kg) 90.000- 110.000
Nước ngoài
60.000 - 80.000
Loai nho ăn Loại nho ăn tươi với quả mọng to, màu đỏ, ít hạt Loại nho ăn tươi với quả to, màu vàng mọng xanh, không hạt Cardinal
Việt Nam
5.000- 10.000
10.000- 15.000
Nguồn: Sản xuất nho ở Việt Nam – Lê Quang Quyến và Vũ Xuân Long
(Trung tâm Nghiên cứu cây Bông Nha Hố, Ninh Thuận)
Các loại Nho nhập khẩu ngoài việc có xuất xứ rõ ràng và đáp ứng đầy đủ
các tiêu chuẩn chất lượng, nhìn chung đều có kích cỡ đồng đều, bao bì đẹp,
đóng gói bằng thùng carton, có lót các lớp chịu va đập, rất thuận tiện cho việc
vận chuyển đường dài, bảo quản tốt bằng hệ thống lạnh của nhà nhập khẩu và
nhà bán sỉ (bình quân thời gian bảo quản 2 - 2,5 tháng).
32
1.3.2.4. Tình hình chế biến nho ở Việt Nam
Ngành công nghiệp chế biến ở nước ta đang từng bước phát triển, tuy nhiên
chế biến sản phẩm cây ăn quả vẫn chưa đem lại giá trị cao trên thị trường, trong
đó ngành chế biến nho nhìn chung còn chậm phát triển.
Hiện nay, ngành chế biến nho ở nước ta chủ yếu tập trung một số cơ sở nhỏ
ở Ninh Thuận công nghệ lạc hậu, mang tính thủ công. Nguồn nguyên liệu từ nho
ăn tươi Red Cardinal, sản phẩm chủ yếu là nho rượu.
Ngoài ra một số công ty Rượu -Bia - nước giải khát Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh sản xuất rượu vang nhưng nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài.
Ngành chế biến nho khô chưa phát triển vì cần giống nho không hạt và
thường dùng hóa chất để giữ màu, giữ vị. Hiện nay Viện nghiên cứu Cây Bông
và Cây có sợi Nha Hố đang nghiên cứu giống nho không hạt phục Vụ cho chế
biến nho khô.
33
Chương 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG TRỒNG VÀ
CHẾ BIỂN NHO Ở CÁC TỈNH KHÁNH HÒA, NINH THUẬN, BÌNH
THUẬN
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận là các tỉnh ở phía nam của Duyên hải
Miền Trung, thuộc tiểu vùng khí hậu khu vực Nam Trung Bộ (nằm ở phía Đông
của dãy Trường Sơn từ đèo Cả đến mũi Dinh). Kiểu khí hậu của tiểu vùng có
đặc điểm quan trọng nhất và rất độc đáo là có khí hậu khô hạn điển hình nhất
trong cả nước. Ở khu vực Phan Rang, lượng mưa trung bình hàng năm chỉ
khoảng 700mm, thời kỳ mùa mưa chỉ kéo dài trong 3 -4 tháng (từ tháng 9 -
tháng 11 (tháng 12). Lượng ẩm ở đây rất thấp, lượng mây thấp và có số giờ nắng
trung bình hàng năm 2300 - 2400.
2.2. Đặc điểm sinh thái của cây nho
Muốn trồng nho, cần phải tìm hiểu kỹ về điều kiện thời tiết khí hậu. Không
phải quan tâm đến độ nhiệt ở miền Nam vì những nơi rét nhất như Đà Lạt, vẫn
còn là nóng đối với nho, nho thích nghi tốt với độ nhiệt cao, thậm chí nắng to
cũng không làm nám trái như với dứa, cam nhờ có giàn che.
Cơ bản nhất là phải có khí hậu khô nhiều nắng, độ ẩm không khí thường
xuyên thấp. Vùng Phan Rang có lượng mưa thấp nhất nước 750 - 850 mm/năm
và không khí tương đối khô. Tuy nhiên, lượng mưa quá cao tập trung vào những
tháng cuối năm (tháng 9, 10, 11...) kết họp với độ nhiệt cao làm cho bệnh phát
triển mạnh và phải phun thuốc nhiều lần vào thời kỳ này.
Ở nhiều nơi khác ở miền Nam, vẫn có thể trồng nho kinh doanh với điều
kiện là phải có mùa khô 4, 5 tháng nắng, và đất không bị úng nước mùa mưa do
rễ nho là nơi xúc tích dự trữ của cây, rất mẫn cảm với tình trạng thiếu oxy. Cũng
phải tính toán nên thu hoạch 1 vụ hay 2 vụ vì những nơi mưa nhiều chi phí về
phun thuốc cộng với khả năng ô nhiễm môi trường làm giảm hiệu quả kinh tế
34
của việc trồng nho. Gió to không những có thể làm dập nát lá, chùm nho, còn có
thể làm đổ giàn, vậy nên trồng nho ở những nơi hứng nắng, nhưng được che
chắn kỹ. Những vùng hay có gió bão không thuận tiện.
Đất phù sa ven sông Dinh (Phan Rang), sâu, giàu chất dinh dưỡng, luôn
thoát nước, là đất nho rất tốt. Tuy nhiên theo điều tra của Trung tâm Nha Hố đất
thịt, đất cát, đất lẫn sỏi đá ở các triền đồi, đều có thể trồng nho nếu đầu tư phân
hữu cơ và phân khoáng với lượng cao, cũng phải có điều kiện tưới nước về mùa
khô và bao giờ cũng phải thoát nước.
2.2.1. Đất trồng nho
Nho có thể trồng ở nhiều loại đất kể cả đất sét, miễn là đất không bị úng
thủy. Tuy nhiên, đất thịt và thịt pha cát giàu chất mùn thích hợp nhất cho việc
trồng nho. Trên đất nhẹ, pha cát, nho mau chín và ngọt hơn trên đất nặng nhiều
sét. Đất sét chai cứng, không rút nước, đất mặn có nhiều muối hoặc đất phèn
không trồng nho được. Nho thích hợp với đất có pH từ 6- 7,7, do đó tại Việt
Nam điều cần thiết là phải bón vôi cho đất khi trồng nho.
Nho trồng tốt nhất trên đất bồi phì nhiêu, thành phần cát nhẹ và thịt pha cát,
đất tơi có kết cấu tốt, tầng đất cái bên dưới thoáng và xốp. Mực nước ngầm
không nên cao quá đến 2m kể từ mặt đất. Yêu cầu đất trồng nho phải có tầng
canh tác sâu và đồng đều. Đất tiêu nước tốt là cực kỳ quan trọng, cây nho khó
sinh trưởng tốt trên đất quá ướt vì sự sinh trưởng của bộ rễ bị đình trệ do thiếu
không khí, do đó phải làm hệ thống thoát nước khi thiết lập giàn nho.
Những chân đất phì nhiêu, bằng phẳng và có tầng canh tác sâu thường cho
năng suất cao. Lý tưởng nhất là đất thịt đỏ sâu 2 -3m, tiêu nước tốt. Đất này phù
hợp cho trồng nho khô, nho rượu thông thường và các giống nho ăn tươi.
Những nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy cây nho có thể chịu đựng được độ pH
khác nhau từ 5,5 - 9,5 tùy từng giống nhung thích hợp nhất cho các giống đều
nằm trong khoảng pH 6,5 - 7,5. Những đất chua và kiềm không phù hợp với cây
35
nho. Các loại đất nhiễm mặn hoặc tưới nước nhiễm mặn làm cho cây nho không
có khả năng hút nước nhanh.
Ở nước ta vùng nho chính là tỉnh Ninh Thuận, theo Thái Công Tụng (1974),
đất ở vùng này có độ pH 6,5 - 7,0 tùy từng loại. Đất phù sa độ pH 6,6; cát trắng
6,5 và đất cà giang (mặn) pH > 7,0.
Hiện nay ở Ninh Thuận, nho được trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ
đất cát thô ven biển đến đất thịt đỏ quanh các sườn đồi Tháp Chàm. Trên đất cát
thô nhờ thoáng khí, nho có khả năng ra rễ nhanh, cây sinh trưởng mạnh trong
vòng 3 năm đầu khi giàn cành chưa nhiều. Sau đó cây yếu đi do khả năng cung
cấp dinh dưỡng của đất kém. Đất cát thô không thể là nơi dự trữ thức ăn tốt cho
cây. Đất thịt pha cát cho năng suất cao nhất. Nho trồng trên loại đất này chiếm
phần lớn trong vùng, và một số diện tích khác là đất cát nhẹ nhiễm mặn, phèn
mà chủ yếu là Na2C03, cần có chế độ cải tạo tốt mới có thể thu được năng suất
mong muốn. Tuy nhiên đất trồng nho Ninh Thuận có mực nước ngầm cao gần
với bề mặt mặt đất, về mùa mưa rất dễ bị úng thủy, đòi hỏi phải có hệ thống tiêu
nước tốt.
Tóm lại, đất tốt nhất cho nho là đất thịt (35-40% cát, 35-40% bùn và 10-
25% sét) và thịt pha cát có kết cấu tốt, tầng canh tác sâu, thoát nước tốt, đồng
đều, không tích lũy muối độc, và không chứa nhiều mầm mống sâu bệnh trong
đất.
0 Cây nho có thể chịu đựng được nhiệt độ khắc nghiệt từ -20P PC trong mùa
PC trong mùa hè. Tuy nhiên, trong suốt mùa đông khi nhiệt độ thấp,
0 đông đến 45P
2.2.2. Khí hậu
cây nho ở vào giai đoạn ngủ nghỉ. Cây nho cần nhiệt độ cao vừa phải cho sự nở
hoa và thụ phấn. Vùng trồng nho yêu cầu khí hậu khô, nhiều nắng và ít mưa.
Những vùng có nhiều mưa với lượng mưa 1000m trở lên không thích hợp cho
sự hình thành và phát triển hoa, quả, không những thế còn kích thích sự phát
sinh sâu bệnh.
36
Ớ Việt Nam, điều kiện khí hậu khô và nóng như Ninh Thuận tương đối phù
họp cho sự sinh trưởng phát triển của cây nho. Vùng này có nhiệt độ cao quanh
năm, không có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc, đảm bảo cho cây nho sinh
trưởng và giữ được màu xanh quanh năm, không có hiện tượng ngủ nghỉ đông
như các nước ôn đới. Thời gian chiếu sáng nhiều, số giờ nắng bình quân trên 7
giờ mỗi ngày là điều kiện tốt cho nho sinh trưởng, phát triển và năng suất cao.
2.2.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng giúp cho cây sinh trưởng sinh dưỡng cũng
như sinh trưởng sinh thực. Nhiệt độ cao vừa phải giúp cho việc xúc tiến quá
trình ra hoa, đậu quả. Cụ thể là thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các
bộ phận của hoa nho, ảnh hưởng tới sự nảy mầm của hạt phấn. Nho chín vào
tháng nhiệt độ cao dẫn đến hiện tượng quả chín không có màu mà người trồng
nho gọi là "nho cầm màu". Đối với những chùm quả chín thì vỏ dai, quả nhỏ,
chất lượng kém, cụ thể là hàm lượng axít thấp hơn các tháng nhiệt độ thấp.
2.2.2.2. Ánh sáng
Yếu tố này cần thiết để cây quang hợp. Nếu thiếu sáng trong thời gian dài
dẫn đến làm giảm việc sinh tổng hợp hydrat cacbon là nguyên liệu cơ bản cho
việc tạo thành hầu hết các bộ phận của cây. Vì vậy làm rụng quả, năng suất và
phẩm chất giảm. Như vậy, bộ lá rậm rạp hoặc thời tiết u ám làm cho cây bị ảnh
hưởng, gây nên rụng hoa và quả non.
2.2.2.3. Ẩm độ
Ẩm độ không khí gần như là một yếu tố quyết định để nói rằng vùng này
hay vùng kia có thích hợp cho việc trồng nho hay không. Khí hậu khô, ẩm độ
thấp trung bình 76,67% tương đối phù hợp với cây nho. Ẩm độ cao trên 80%
vào các tháng vụ mưa (tháng 8 -11) là điều kiện thuận lợi để nấm bệnh tấn công
tàn phá bộ lá cũng như cuống chùm và gây thối quả. Chính vì vậy mọi cố gắng
để trồng nho đỏ Cardinal ra các tỉnh phía Bắc không có hiệu quả, cây vẫn sinh
37
trưởng được nhưng năng suất không cao, chủ yếu do ẩm độ quá cao trong mùa
mưa. Để phát triển nho ra phía Bắc, cần phải khảo nghiệm, chọn lọc những
giống kháng được những bệnh rỉ sắt, mốc sương và nấm cuống.
2.2.2.4. Lượng mưa
Cây nho không thích họp với những vùng mưa nhiều. Lượng mưa lớn gây
nên úng thủy, làm hỏng bộ rễ và làm cản trở việc phòng trừ sâu bệnh vốn
thường xuyên được quan tâm. Lượng mưa làm cho người trồng nho rất khó chủ
động trong việc điều khiển cây để cắt cành. Mưa rào có hại cho cây nho khi
đang nở hoa và đậu quả. Mưa trong thời gian nở hoa hoặc đậu quả làm loãng
hoặc rửa đi đỉnh đầu nhụy và làm hạt phấn nảy mầm kém. Như vậy, những vùng
có mưa lớn thường có hiện tượng rụng hoa, quả úng thủy trong thời gian ra hoa
làm tăng sự rụng hoa và làm cho sự phát triển của chùm hoa không bình thường.
Nó còn ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành quả thông qua giảm quang hợp
bởi việc giảm hàm lượng cytokinin trong dịch tế bào mạch xylem hoặc bởi mức
tăng abscisic trong lá và thân cây. Lượng mưa của mỗi vùng ảnh hưởng lớn tới
việc chọn vùng trồng nho và thời vụ cắt cành. Điều kiện mưa ít của vùng Ninh
Thuận, Bắc Bình Thuận và một số nơi khác như các vùng Châu Đốc, Tịnh Biên,
Tri Tôn (An Giang) và Cam Ranh (Khánh Hòa) khá phù hợp với việc trồng nho.
2.2.3. Một số giống nho ở Việt Nam
Từ năm 1979, tập đoàn nho tại Trung tâm Nha Hố (Ninh Thuận) có tới 74
giống. Từ năm 1993, chương trình nghiên cứu cây nho được Nhà nước bắt đầu
quan tâm. Hàng loạt giống nho mới đang được du nhập vào Việt Nam với nhiều
nhóm giống có giá trị sử dụng khác nhau. Cho đến nay đã có trên 50 giống nho
kể cả giống cũ và mới có nguồn gốc từ Mỹ, Pháp, Úc, Ấn Độ đã được trồng thử
tại Trung tâm Nghiên cứu cây bông Nha Hố (Ninh Thuận).
Qua khảo nghiệm và đánh giá một số giống nho có nhiều đặc tính tốt, có
thể giới thiệu cho sản xuất thử. Ngoài ra hảng loạt các giống khác cũng được
38
trồng trong tập đoàn của Trung tâm giống cây trồng Vật nuôi tỉnh Ninh Thuận
và Trung tâm khuyến khích phát triển KT - XH tỉnh Bình Thuận.
Qua khảo sát đánh giá, có 6 giống nho có đặc điểm tốt, thích nghi với điều
kiện Việt Nam là Muscat Blanc de Saint Vallier, Muscat Baily A, Ribier, Alden,
Golden Alexandria và Cardinal. Trong đó, hai giống nho trồng khá phổ biến ở
Ninh Thuận là giống nho đỏ Cardinal và nho tím Ribier.
Và một số giống nho khác đã được Hội đồng khoa học của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn và Hội đồng khoa học của các tỉnh cho phép sản
xuất ở vùng Nam Trung Bộ cũng như một số vùng khác trong nước có khí hậu
phù hợp với việc trồng nho.
Đặc điểm chính các giống nho được tóm tắt trong bảng sau.
Bảng 2.1: Một số điểm chính của một số giống nho
Tên giống
Màu sắc quả
Brix Năng suất
Sức sống
Số hạt mỗi quả
Thòi gian từ cắt cành đến chín (ngày) 98-103
Khối lượng chùm (g) 150-200 Vàng
3,0
16-18 Cao
Mạnh
2,0 3,0
Muscat Blanc de Saint Vallier Muscat Baily A 115-120 105-110 Ribier
2,1
15-16 Cao 14-16 Rất cao 16-17 Cao
Alden
102-105
Mạnh Rất Mạnh Mạnh
200-250 Tím 200-250 Tím đen 100-150 Tím đen
100-105
200-150 Vàng
1,8
16-17 Rất cao
Golden Alexandria Cardinal
Rất Mạnh Mạnh
87-95
150-200 Đỏ
3,0
14-16 Cao
Nguồn: Kỹ thuật trồng nho – Nhà Xuất bản Nông nghiệp
2.2.3.1. Giống nho đỏ Cardinal
Giống cây này có sức sống trung bình tới cao. Chùm hoa ra ở đốt thứ 1-8.
Chùm quả lớn trung bình, hình nón cụt hoặc nón dài. Quả có màu đỏ sáng hoặc
đỏ sẫm khá hấp dẫn, hình cầu hoặc elip. Kích thước quả nhỏ tới trung bình, quả
39
thường có 2-3 hạt, chín không đều. Chất lượng quả trung bình 14-150Brix. Đây
là giống nho chín sớm, thời gian cắt cành tới chín 87-95 ngày. Năng suất trung
bình tới cao. Đây là con lai của giống Tokay với Ribier, đựoc thực hiện tại Trạm
nghiên cứu vườn liên bang Frens (Caliíòmia, Mỹ).
Giống nho này được trồng chủ yếu cho mục đích ăn tươi. Giống này mẫn
cảm với nhiều loại nấm bệnh.
2.2.3.2. Giống nho tím Ribier
Giống cây có sức sống mạnh, lá to, mặt dưới lá nhám, nhiều lông. Chùm
quả và dạng quả tương tự như nho đỏ Cardinal vì nó là giống bố của nho đỏ.
Quả có màu tím đen, khối kượng quả khá lớn 4,5 -5g, vỏ quả mỏng. Cuống quả
liên kết với phôi tâm không chắc. Chất lượng quả thuộc loại trung bình với 14-
160Brix.
Giống này có thời gian sinh trưởng dài hơn nho đỏ Cardinal, từ khi cắt
cành đến chín 105 - 110 ngày. Đây là giống ít mẫn cảm với bệnh mốc sương
hơn so với nho đỏ Cardinal.
2.2.3.3. Giống NH.01-48 (White Malaga)
Giống này được nhập nội từ Thái lan vào Viện nghiên cứu cây Bông và cây
có sợi Nha hố từ năm 1996 và được Bộ NN & PTNT công nhận cho phổ biến từ
năm 1999. Đây là giống sinh trưởng khá khi ghép trên gốc ghép Couderc 1613
và sinh trượng yếu khi trồng từ cây giâm hom cua chúng.
Thời gian từ khi cắt cành đến thu hoạch 115 - 120 ngày. Năng suất từ 16 -
20 tấn/ha/vụ. Chùm quả từ trung bình đến lớn. Kích thước quả trung bình. Quả
có hình thon dài. Quả khi chín có màu xanh. Quả có từ 2-3 hạt. Độ Brix từ 16-
20%.
Giống này bị nhiều loại sâu bệnh gây hại ở mức nhẹ đến trung bình, đặc
biệt là bệnh thán thư (Gloeosporium ampelophagum.) và bệnh thối trái hay còn
gọi là bệnh mốc xám (Botrytis cinerea) bị nhiễm trung bình (Theo báo cáo của
40
TS. Nguyên Thơ, Phân viện Công nghệ sau thu hoạch tại Hội thảo Sản xuất và
tiêu thụ nho Ninh thuận, tháng 12 năm 2002).
2.2.3.4. Giống Black Queen
Giống nho Black queen được nhập nội từ California, Mỹ vào Trại Giống
nho Vĩnh hảo từ tháng 6 năm 1997 và được UBND Tỉnh Bình thuận cho phép
khảo nghiệm diện rộng vào tháng 11 năm 1999.
Giống Black queen sinh trưởng rất mạnh trên gốc ghép Couderc 1613 và
sinh trưởng mạnh khi trồng từ cây giâm hom của chúng. Thời gian từ khi cắt
cành đến lúc thu hoạch từ 115 - 120 ngày. Năng suất bình quân từ 16-24
tấn/ha/vụ. Chùm quả rất lớn, kích thước quả lớn, quả hình bầu dục đến hơi tròn.
Khi chín vỏ quả có màu đen. Vỏ quả dính chặt với thịt quả giòn. Quả có từ 3-4
hạt. Độ Brix từ 17-20%.
Giống này ít bị sâu bệnh, riêng bệnh thối trái (Botrytis cinerea) nhiễm trung
bình. Đây là một trong những giống nho ăn tươi có triển vọng ở nước ta.
2.2.3.5. Giống RedStar
Giống Red Star nhập từ California (Mỹ) (năm 1998). Cây có sức sống
trung bình. Thời gian cắt cành tới chín từ 110 - 115 ngày. Lá màu xanh nhạt, ít
lông, chẻ thúy sâu, có kích thước trung bình tới lớn (16-19cm). Chùm hoa phân
nhánh nhiều. Chùm quả có hình nón, kích thước lớn, khối lượng chùm 600-800g.
Số quả trung bình mỗi chùm 70-90quả. Quả hình cầu, mỗi quả có 2-4 hạt; khi
chín quả có màu đỏ; khối lượng quả 7,8- 8,3g. Vỏ quả dính chặt với thịt quả, thịt
quả giòn. Chất lượng quả tốt với 16-170Brix. Năng suất trung bình 12-14
tấn/ha/vụ.
Đây là một trong những giống nho ăn tươi có triển vọng ở nước ta. Giống
nho này có khả năng kháng bệnh mốc sương khá hơn so với nho đỏ Cardinal.
2.2.3.6. Giống Pakchong Seedless
41
Giống này nhập từ Thái Lan (năm 1997). Cây có sức sống trung bình đến
cao. Thời gian cắt cành tới chín từ 90 - 95 ngày. Lá màu xanh đậm, ít lông, chẻ
thúy sâu, có kích thước nhỏ tới trúng bình (13-16cm). Chùm hoa phân nhánh
nhiều. Chùm quả có hình nón, kích thước trung bình đến lớn, khối lượng chùm
200-350g. Số quả trung bình mỗi chùm nhiều 95- 130 quả. Quả không hạt, hình
cầu khi chín quả có màu đen; khối lượng quả 2,3- 2,5g. Vỏ quả dính chặt với thịt
quả, thịt quả chắc vừa phải. Chất lượng quả tốt với 16-170Brix. Chùm quả có
đặc điểm chín không đều. Năng suất từ trung bình 10-13 tấn/ha/vụ. Giống nho
này có khả năng kháng bệnh mốc sương tốt.
2.2.3.7. Giống NH.02-04
Đây là giống nho rượu có triển vọng nhất, nhập từ Pháp năm 1994. Cây có
sức sống cao. Thời gian cắt cành tới chín từ 110 - 115 ngày. Lá tròn, màu xanh
nhạt, ít lông, chẻ thúy sâu, có kích thước trung bình (15-17cm). Chùm hoa có
hình dạng dài, ít phân nhánh. Chùm quả có hình nón, thuôn dài, khối lượng
chùm quả 200-250g. Số quả trung bình mỗi chùm nhiều 150- 180 quả. Quả hình
cầu, mỗi quả từ 2-3 hạt; khi chín quả có màu xanh hơi vàng; khối lượng quả 1,2-
l,4g. Hương vị thơm ngon, thịt quả mềm. Độ axit và độ đường cao 16-180Brix,
vỏ quả mỏng. Năng suất khá cao 15-18 tấn/ha/vụ.
Giống nho này có thể trồng để khai thác quả làm rượu và chế biến nước
ngột rất tốt. Chúng có khả năng kháng cao với nhiều loại bệnh.
2.2.3.8. Giống Chambourci (NH.02-10)
Đây là giống nho rượu nhập từ úc năm 1994. Cây có sức sống trung bình.
Thời gian cắt cành tới chín từ 95 - 110 ngày. Lá hình tím, mỏng, màu xanh đậm,
ít lông, có kích thước trung bình (15-17cm). Cuống lá đỏ, chùm hoa phân nhánh
nhiều. Chùm quả có hình nón hơi thuôn dài, khối lượng chùm quả 150-200g.
Quả hình cầu, mỗi quả từ 2-3 hạt; khi chín quả có màu đen sẫm; khối lượng quả
1,8- 2,0g. Hương vị thơm chua ngọt. Độ axit và độ đường cao 16-170Brix, vỏ
42
quả dày. Năng suất trung bình 8-10 tấn/ha/vụ. Rượu vang và nước ngọt chế biến
từ giống nho này có màu sắc khá hấp dẫn.
Giống nho này có khả năng kháng cao với nhiều loại bệnh trừ bệnh rỉ sắt,
thường bị bọ trĩ hại nặng.
2.2.3.9. Giống RubiRed (NH.02-09)
Đầy là giống nho nhập từ Úc năm 1994. Cây có sức sống trung bình. Thời
gian cắt cành tới chín từ 100 - 110 ngày. Lá hơi tròn, dày, màu xanh nhạt, ít lông,
chẻ thúy nông, có kích thước trung bình (15-17cm). Chùm hoa phân nhánh
nhiều. Chùm quả có hình nón hơi tròn; khối lượng chùm quả 50-150g. Quả hình
cầu, mỗi quả từ 1-3 hạt; khi chín quả có màu đen sẫm; khối lượng quả 1,3- l,5g.
Hương vị thơm chua ngọt. Độ axit và độ đường cao 18-200Brix, vỏ quả dày.
Năng suất trung bình 7-10 tấn/ha/vụ.
Rượu vang và nước ngọt chế biến từ giống nho này có màu sắc khá hấp dẫn.
Giống nho này có khả năng kháng cao với bệnh mốc sương và thán thư, nhiễm
bệnh rỉ sắt, thường bị bọ trĩ hại nặng.
2.2.3.10. Những giống nho gốc ghép có triển vọng
Couderc 1613
Gốc ghép này được nhập đầu năm 1999. Đây là con lai của giống Solanis
và Othello. Giống này có sức sống rất cao. Bộ rễ phát triển mạnh, có khả năng
kháng tuyến trùng trong đất. Giống này thích nghi được với nhiều chân đất, có
khả năng chống chịu rất tốt với điều kiện môi trường bất thuận như đất nhiễm
mặn, ẩm ướt hoặc khô hạn. Đặc biệt chúng có khả năng tiếp nhận mắt ghép rất
tốt với tỷ lệ ghép sống cao trên 95%.
Cây có đường kính thân lớn và sinh trưởng mạnh ngay từ thời gian đầu, khi
mới giâm cành, tương đối thuận lợi cho kỹ thuật ghép cành. Khả năng kháng sâu
bệnh của giống này rất cao, gần như không thấy bệnh mốc sương, phấn trắng và
thán thư.
43
Ramsey
Gốc ghép này được nhập từ Úc, năm 1997; có sức sống cao. Cây có khả
năng sinh trưởng mạnh. Rễ có khả năng kháng tuyến trùng trong đất. Giống này
có khả năng chống chịu rất tốt với điều kiện môi trường bất thuận như đất nhiễm
mặn, ẩm ướt hoặc khô hạn. Chúng có khả năng tiếp nhận mắt ghép rất tốt với tỷ
lệ ghép sống cao trên 95%. Khả năng kháng sâu bệnh của giống này rất cao, chỉ
bị nấm sét ở mức độ nhẹ. Tuy nhiên thời gian đầu mới ươm, cây con chậm phát
triển, với đường kính thân nhỏ, khó ghép. Đòi hỏi thời gian dài để cây có đường
kính đủ lớn cho việc ghép cành.
Bảng 2.2: So sánh ưu nhược điểm của giống nha Cardinal và giống nho
Ưu điểm:
Ít sâu bệnh hại
Black Queen và White Malaga
Giống nho Cardinal - Thời gian sinh trưởng ngắn, từ cắt cành đến thu hoạch 90 ngày. - Dễ chăm sóc.
Nhươc điểm:
Giống nho Black Queen và White Malaga - Năng suât và chất lượng cao - - Màu sắc và mẫu mã quá đẹp - Nếu áp dụng đúng kỹ thuật canh tác Nho sẽ đạt chất lượng, an toàn - Giá tiêu thụ cao (5000-18000 đ/kg) - Bệnh thối trái xuất hiện trung bình, có thể khắc phục bằng biện pháp canh tác và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. - Đòi hỏi cao về đầu tư thâm canh, và kỹ thuật canh tác.
- Nhiễm nhiều sâu bệnh hại - Bị bệnh nứt trái trong cả vụ nắng và mưa - Chất lượng quả không cao - G i á tiêu thụ thấp (1500-4000 đ/kg)
Nguồn: Dự án phát triển cây nho – huyện Tuy Phong
tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2004 - 2010
Ngoài hai gốc ghép kể trên thì những giống nho ăn tươi Anab-e-Shahi,
Alden,.... Có đặc tính tốt như kháng tuyến trùng, chống chịu rất tốt với điều kiện
môi trường bất thuận cũng được sử dụng làm gốc ghép. Kết quả đánh giá của
trung tâm nghiên cứu cây bông cho thấy những giống nho ăn tươi NH.01-48,
44
Black Queen, Pakchong được ghép trên những gốc ghép này sinh trưởng rất
mạnh và cho năng suất cao hơn trồng trực tiếp bằng hom.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận.
2.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa
Khánh Hòa là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, nằm ở phần
cong vươn ra biển xa nhất về phía Đông.
Phía Bắc: giáp tỉnh Phú Yên.
Phía Nam: giáp tỉnh Ninh Thuận.
Phía Tây: giáp tỉnh ĐăkLăk và Gia Lai.
Phía Đông: giáp Biển Đông.
Về mặt tổ chức hành chính, đến năm 2001, Khánh Hòa gồm: 1 thành phố, 1
thị xã, 6 huyện, 5 thị trấn, 27 phường và 104 xã.
2.3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Khí hậu Khánh Hòa vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa vừa
0 năm là 26P
0 PC. Tổng nhiệt độ khoảng 9500P
PC. Lượng mưa trung bình năm trên
mang tính chất của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hòa. Nhiệt độ trung bình
dưới 2000m, trong đó vùng đồng bằng ven biển phổ biến là 1000-1200mm.
Khánh Hòa gồm các nhóm đất chính:
Đất cát và cồn cát có diện tích 10.550 ha, chiếm 2% diện tích tự nhiên,
phân bố dọc ven biển.
Đất phù sa diện tích 39.300 ha, chiếm 7,5% diện tích tự nhiên, phân bố ở
các vùng đồng bằng ven biển như Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Ranh...
Đất mặn và phèn mặn có diện tích 7950 ha, chiếm 1,5% diện tích tự
nhiên, phân bố ở ven biển Ninh Hòa, Vạn Ninh, Cam Ranh.
45
Đất xám bạc màu 24.250 ha, chiếm 4,6% diện tích tự nhiên.
Đất đỏ vàng và các loại đất khác diện tích 443.750ha, chiếm 84,4% diện
tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở khu vực đồi núi, độ dốc lớn.
46
2.3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Theo số liệu thống kê, đến 31/12/2004 dân số trung bình tỉnh Khánh Hòa
đạt 1.111.000 người với tốc độ tăng dân số 1,34%. Tăng dân số ở Khánh Hòa
gần đây chủ yếu là tăng dân số cơ học do quá trình phát triển kinh tế.
Cơ cấu lao động trong nông nghiệp giảm, điều này chứng tỏ các ngành
kinh tế phi nông nghiệp ở Khánh Hòa đã phát triển, thu hút lao động từ nông
thôn ra thành thị.
Cơ cấu kinh tế của Khánh Hòa chuyển biến theo hướng tích cực: giảm tỷ
trọng nông lâm thủy sản từ 28,9% (năm 2000) còn 19,4% (năm 2004); tăng tỷ
trọng công nghiệp- xây dựng từ 36,5% (năm 2000) lên 41% (năm 2004); tăng tỷ
trọng dịch vụ từ 34,6% năm 2000 lên 39,6% năm 2004.
Bình quân GDP/ người/năm tăng liên tục: 7.796.513 đồng (2002), năm
2004: 10.552.000 đồng.
2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Ninh Thuận
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,
2 105 km, với trên 24.480 kmP
P vùng lãnh hải, xung quanh giáp các tỉnh sau:
được tách ra từ tỉnh Thuận Hải cũ (tháng 4/1992). Ninh Thuận có bờ biển dài
Phía Bắc: giáp tỉnh Khánh Hòa.
Phía Nam: giáp tỉnh Bình Thuận.
Phía Tây: giáp tỉnh Lâm Đồng.
Phía Đông: giáp Biển Đông.
Về mặt tổ chức hành chính, đến năm 2001, Ninh Thuận gồm: 1 Thị xã PR-
TC; 4 huyện: Ninh Sơn, Ninh Hải, Ninh Phước, và huyện Bác Ái vừa thành lập,
44 xã, 3 thị trấn và 9 phường.
47
Tổng diện tích đất tự nhiên là 336.006.04 ha. Ninh Thuận là nơi giao nhau
của 3 tuyến đường giao thông quan trọng (quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất,
và quốc lộ 27) tạo thuận lợi cho giao thương với các tỉnh trong cả nước.
48
2.3.2.1. Điều kiện tự nhiên
Đất đai
Theo kết quả điều tra bổ sung, phân loại, lập bản đồ đất tỉnh Ninh Thuận
năm 2000 theo phương pháp phân loại định hướng (WRB) do Sở NN & PTNT
tiến hành thì trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận có 9 nhóm đất với 75 loại đất. Đó là:
Nhóm đất cát
Diện tích 10.401,30 ha, chiếm 3,10% diện tích tự nhiên, phân bố ở các xã
phường ven biển thuộc huyện Ninh Hải, Thị xã Phan Rang-Tháp Chàm. Thành
phần cơ giới chủ yếu là cát thô, kết cấu rời rạc, thoát nước tốt.
Nhóm đất mặn
Diện tích 5.532,81 ha, chiếm 1,65% diện tích tự nhiên, trong đó đất mặn sú
vẹt ở Đầm Nại huyện Ninh Hải; đất mặn nhiều ở Cà Ná - huyện Ninh Hải; đất
mặn ít và trung bình ở xã Hộ Hải, Phương Hải, Nhơn Hải huyện Ninh Hải.
Nhốm đất phù sa
Diện tích 8.340,62 ha, chiếm 2,48% diện tích tự nhiên. Đất phù sa được bồi
hàng năm phân bố ở ven sông Cái.
Đất phù sa không được bồi phân bố khá tập trung ở hầu hết vùng đồng
bằng các huyện, thị; đất phù sa ngoài suối phân bố rải rác ven các sông, suối ở
vùng đồi núi. Đây là nhóm đất tốt của tỉnh, địa hình bằng phẳng, tầng đất dày,
thành phần cơ giới trung bình thịt nhẹ, đất có phản ứng từ chua đến ít chua, giàu
mùn, N, PR2RO5, KR2RO từ trung bình đến khá, dễ tiêu úng...chủ động nước, thích
hợp với các loại cây trồng. Nhóm đất này sử dụng trồng lúa, ngô và loại hoa
màu khác.
Nhóm đất gley
Diện tích 7.755,60 ha, chiếm 2,30% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Nhóm đất
này phân bố ở một số xã của Ninh Phước, Ninh Hải và thị xã PR-TC.
49
BẢN ĐỒ THỔ NHƯỠNG TỈNH NINH THUẬN
50
Nhóm đất mới biến đổi
Diện tích 9.049,83 ha, chiếm 2,70% diện tích toàn tỉnh. Nhóm đất này phân
bố chủ yếu ở một số xã thuộc các huyện Ninh Phước (4.267,70 ha), Ninh Sem
(4.390,80 ha), Ninh Hải.
Nhóm đất xám vùng bán khô hạn
Diện tích 232.015 ha, chiếm 69% diện tích toàn tỉnh. Nhóm đất này phân
bố chủ yếu huyện Ninh Sơn, Bác Ái (140,6 nghìn ha), Ninh Phước (51,1 nghìn
ha).
Nhóm đất xám
Diện tích 28.423,40 ha, chiếm 8,50% diện tích toàn tỉnh, phân bố ở Ninh
Sơn, Bác Ái, Ninh Phước. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, tầng
dày, thích hóp với nhiều loại cây trồng.
Nhóm đất đỏ
Diện tích 1.840,00 ha, chiếm 0,55% diện tích toàn tỉnh, phân bố ở Ninh
Sơn, Ninh Phước. Đất có thành phần cơ giới nhẹ. Đất nghèo chất dinh dưỡng,
hàm lượng mùn thấp.
Đất xói mòn trơ sỏi đá
Diện tích 17.274,40 ha, chiếm 5,10% diện tích toàn tỉnh. Đất bị rửa trôi bào
mòn nhanh nên tầng đất mặn bị trôi hết, mất khả năng sản xuất nông nghiệp.
Khí hậu
Nằm trong khu vực có vùng khô hạn nhất cả nước, có nền khí hậu nhiệt đới
gió mùa điển hình với đặc trưng là khô nóng gió nhiều, lượng bốc hơi lớn, được
thể hiện ở các mặt sau:
Số giờ nắng
51
Ninh Thuận nằm ở vĩ độ thấp, quanh năm có thời gian chiếu sáng dài. Hơn
nữa, suốt cả mùa khô kéo dài tới 8 - 9 tháng, trời thường ít hoặc quang mây nên
ở Ninh Thuận trung bình năm có tới 2.800 - 2.900 giờ nắng.
Trong suốt 7 tháng đầu năm (từ tháng 1 đến tháng 7), mỗi tháng trung bình
có trên 240 giờ nắng, mỗi ngày trung bình có trên 8 giờ. Các tháng 3,4,5 có số
giờ nắng lớn từ 286 - 306 giờ. Các tháng ít nắng từ tháng 8 năm trước đến tháng
1 năm sau, tuy vậy cũng trên 6 giờ. Tháng ít nắng nhất là tháng 11 (152 giờ).
Giữa các tháng nhiều nắng nhất và các tháng ít nắng nhất chỉ chênh lệch khoảng
120 - 130 giờ nắng.
Ở Ninh Thuận rất ít khi có những ngày trời không nắng. Cả năm có khoảng
5-11 ngày không nắng. số ngày nắng và số giờ nắng nhiều, phù hợp với yêu cầu
"rất đủ sáng" của cây nho, nên thích hợp cho canh tác nhiều vụ trong một năm
với năng suất sinh vật cao.
Nhiệt độ
0 27,4P
0 PC. Nhiệt độ tối cao là 36,8P
0 PC, và tối thấp là 19,4P
0 PC, PC. Tổng tích ôn là 9.400P
Ninh Thuận có nhiệt độ cao quanh năm, với nhiệt độ bình quân cả năm là
cho phép canh tác nhiều vụ/ năm.
Độ ẩm
Độ ẩm tương đối trung bình năm Ninh Thuận từ 70 - 83%. Khu vực Phan
Rang có độ ẩm tương đối trung bình năm dưới 75%, thấp nhất trong tỉnh và cả
nước. Trong mùa khô, nhiều tháng độ ẩm trung bình không quá 70%.
Vào mùa mưa, độ ẩm cao hơn hẳn các tháng khác, nhưng cũng chưa đến
85%; biên độ năm lại khá lớn lên đến 16%, vượt xa các nơi khác. Thời kỳ có độ
ẩm cao nhất là 83% (tháng 9), và thấp nhất là 70% (tháng 7).
Lượng mưa
Ninh Thuận là một trong những tỉnh ít mưa nhất ở Miền Trung nước ta.
Phần lớn các vùng ở Ninh Thuận có lượng mưa trung bình khoảng 500 -600mm/
52
năm (khoảng tối thích cho cây nho thuộc họ Vitis vinifera L. từ 700 - 850mm/
năm).
Lượng mưa phân bố không đều giữa hai mùa trong năm. Mùa mưa bắt đầu
từ cuối tháng 7 đến tháng 11, và ngưng hẳn vào đầu tháng 1 năm sau.
Trong khi, mùa khô kéo dài tư tháng 1 đến hết tháng 7 trong năm. Lượng
mưa cao nhất vào tháng 9 (105,8mm/năm) trong năm, và thấp nhất tháng 1
(0,lmm/năm).
Năm 2002, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Ninh Thuận là 336.006,0 ha.
Đất nông nghiệp là 59.122,2 ha (chiếm 17,6%); trong đố đất trồng cây hàng năm
chiếm 89,4% (52.889.5 ha), chủ yếu là đất làm nương rẫy; đất trồng nho chiếm
trên 50,0% diện tích đất trồng cây ăn quả (1.584 ha so với 2.850 ha), điều này
cho thấy tỉnh Ninh Thuận có tiềm năng rất lớn để có thể phát triển thành một
vùng nho đặc trưng. Đất có mục đích sử dụng khác chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong cơ cấu đất tự nhiên của tỉnh năm 2002 (chiếm 5,0%, trong đó đất có mặt
nước nuôi trồng thủy sản chiếm 0,5%, đất chuyên dùng chiếm 3,7%, và đất ở
chiếm 0,8% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đáng quan tâm hơn hết là tổng diện
tích đất chưa sử dụng đã chiếm tới 30,4% đất tự nhiên của tỉnh (tương đương
với 101.984,6 ha).
Đánh giá tiềm năng phát triển nho của tỉnh theo cấp thích nghi
Trong nhiều yếu tố quyết định vùng này hay vùng khác có thể phát triển
hiệu quả các loại cây trồng, đất đai là một trong những yếu tố đặc thù và quan
trọng góp phần vào sự thành công của quyết định ấy. Ninh Thuận là một tỉnh có
khí hậu khô vả nóng, gió nhiều, tiềm năng đất chưa khai thác cho cây nho còn
rất lớn. Vì điều này, trong những năm gần đây, UBND tỉnh đã chỉ đạo cho các
Sở Ban ngành của tỉnh phối họp với các cơ quan, đơn vị ngoài tỉnh tiến hành lai
tạo, sản xuất thử và nhân rộng nhiều giống nho mới với nhiều phương thức canh
tác mới phù họp, trong đó nổi bật nhất là phương thức canh tác "Nho an toàn
53
theo hướng hữu cơ sinh học" nhằm khai thác tối đa và có hiệu quả tiềm năng
này.
Tổng diện tích đất thích nghi là 7.905ha, thì tỉnh Ninh Thuận có điều kiện
rất lớn để phát triển cây nho. So với diện tích đang trồng năm 2003 là 2.185ha,
thì tổng diện tích cồ điều kiện tốt cho trồng nho nhưng chưa khai thác của tỉnh
hiện nay là 5.720ha, tức là có tới 72,36% diện tích đất trồng nho tiềm nâng.
Trong các huyện thị, huyện Ninh Phước thuận lợi hơn hết so với các huyện
thị khác trong tỉnh về: tổng diện tích thích nghi, diện tích đang trồng năm 2003,
và cả diện tích tiềm năng, tương ứng với 4.783ha, 1.500ha, và 3.283ha. Huyện
đã canh tác được 32,36% diện tích thích nghi, 68,64% còn lại được coi là diện
tích tiềm năng; và huyện đang tiếp tục đầu tư phát triển trong những năm sắp tới.
Huyện Ninh Hải có 1.717ha diện tích thích nghi, canh tác được 100ha, còn
1.6 nha chưa khai thác, và là huyện có diện tích đất thích nghi trồng nho chưa
khai thác lớn nhất hiện nay của tỉnh (94,18% diện tích tiềm năng).
Huyện Ninh Sơn, với 766ha diện tích thích nghi, nhưng chỉ canh tác 85ha,
do đó diện tích tiềm năng còn tới 681ha, tướng ứng là có 88,90% diện tích chưa
khai thác.
Huyện Bác Ải và Ninh Sơn là huyện vùng cao của tỉnh; điều kiện đi lại,
tưới tiêu còn nhiều khó khăn, chưa chủ động được yêu cầu nhiều nước của cây
nho; trong khi đó, các loại cây trồng khác như: mì, điều,...thích nghi với điều
kiện ít nước tốt hơn; nên trong nhiều năm qua, huyện đã tập trung phát triển các
cây trồng này nhiều hơn là cây nho (1.000ha mì và 2.268ha điều năm 2003). Có
hai xã hiện nay của huyện đang canh tác nho là: xã Nhơn Sơn 80ha, và xã Mỹ
Sơn 5ha. Trong khi, do mới thành lập năm 2001, lại chưa có công trình nghiên
cứu nào đánh giá tính thích nghi cho eây nho, nên huyện Bác Ái chưa thể phát
triển cây nho so với các huyện thị khác của tỉnh.
54
Cuối cùng là Thị xã PR - TC, 639ha diện tích thích nghi, diện tích đang
trồng năm 2003 là 500ha, tức là có 139ha diện tích tiềm năng, tương ứng với
21,75% diện tích có thể phát triển cây nho chưa khai thác.
BẢN ĐỒ ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI CÂY NHO TẠI NINH THUẬN
55
Bảng 2.3: Tiềm năng diện tích (DT) phát triển cây nho trên đất thích
nghi
Đơn vị: ha
DT đang trồng năm 2003
DT tiềm năng
% DT tiềm năng
Phân theo đơn vị l.Thị xã PR-TC 2 Huyện Ninh Sơn 3. Huyện Ninh Hải 4. Huyện Ninh Phước 5. Huyện Bác Ái
Tổng cộng
Tổng DT thích nghi 639 766 1.717 4.783 - 7.905
500 85 100 1.500 - 2.185
139 681 1.617 3.283 - 5.720
21,75 88,90 94,18 68,64 - 72,36
Nguồn: Phòng Nông nghiệp – Sở NN&PTNT tỉnh Ninh Thuận
Tỉnh Ninh Thuận nằm trong vùng khô hạn nhất cả nước, khí hậu nhiệt đới
gió mùa với các đặc trưng là khô nóng, gió nhiều, lượng bốc hơi lớn, độ ẩm
không khí thấp khá thích họp với cây nho sinh trưởng, phát triển.
Ninh Thuận quanh năm có thời gian chiếu sáng dài, mùa khô kéo dài tới 8 -
9 tháng, trời thường ít hoặc quang mây nên trung bình từ 2800 - 2900 giờ
nắng/năm, mỗi ngày trung bình có trên 8 giờ nắng. Các tháng 3, 4, 5 có số giờ
nắng lớn từ 280 - 318 giờ nắng. Các tháng ít nắng từ tháng 8 năm trước đến
tháng 1 năm sau cũng đạt trên 6 giờ nắng. Tháng ít nắng nhất là tháng 10 và
tháng 11, đặc biệt tại Ninh Thuận rất ít có những ngày trời không nắng, cả năm
có khoảng 5-11 ngày trời không nắng. Ninh Thuận có nền nhiệt độ cao quanh
0 0 nhiệt độ trung bình năm trên 270c và tổng nhiệt năm từ 9.500P PC. PC -10.000P
năm và ít biến động, hầu hết vùng đồng bằng ven biển và các vùng núi thấp
Độ ẩm tương đối trung bình năm ở Ninh Thuận khoảng 76%. Vào mùa khô,
nhiều tháng độ ẩm trung bình không quá 65%. Đen mùa mưa, độ ẩm cao hơn
hẳn các tháng khác nhưng chưa đến 80%. Thời kỳ có độ ẩm lớn là tháng 10 và
11. Ninh Thuận có lượng bốc hơi nước rất lớn, trung bình năm từ 1.650 -
1.850mm.
56
Ninh Thuận là một trong những tỉnh có lượng mưa thấp nhất ở nước ta.
Phần lớn các vùng ở Ninh Thuận có lượng mưa khoảng 800mm/năm và số ngày
mưa từ 45 - 90 ngày/năm. Lượng mưa phân bố không đều giữa hai mùa. Năm
2000, trận lũ lụt lòn nhất trong 30 năm qua ở Ninh Thuận.
2.3.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Ninh Thuận là một tỉnh có cơ cấu ngành Nông lâm thủy sản chiếm trên
50% GDP toàn tỉnh, và giảm đều qua các năm (năm 1995: 56,14% đến năm
2002 giảm còn 50,00%). Trong khi đó ngành Công nghiệp - Dịch vụ tăng; năm
1995, ngành Công nghiệp chiếm 11,01% cơ cấu GDP thì đến năm 2002 tăng lên
14,66%; và ngành Dịch vụ cũng tăng. Điều đó chứng tỏ, tỉnh Ninh Thuận đang
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Dịch vụ - Công nghiệp -Nông nghiệp,
phù họp với xu thế hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước và thế giới.
Một yếu tố khá quan trọng đó là yếu tố con người luôn là một vấn đề khó
khăn nhất trong việc thực hiện các chương trình khuyến nông có quy mô lớn do
tỷ lệ người dân ít học, tỷ lệ người dân tóe tại Ninh Thuận khá cao.
Trên địa bàn Ninh Thuận có 28 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh,
người Chăm và người Gia Rai. Theo tài liệu điều tra dân số 1/4/1999, Ninh
Thuận có 57,1 nghìn người Chăm, chiếm trên 11,3% người và chiếm 43,0%
tổng số người Chăm của cả nước ; 47,6 nghìn người Gia Rai, chiếm 9,4% người
và 49,1% tổng số người Gia Rai của cả nước. Chính vì vậy việc tìm ra phương
hướng phát triển cho loại sản phẩm tiềm năng này từ khâu sản xuất đến khâu
tiêu thụ, đặc biệt từ khâu cắt trái, bao bì, bảo quản, chuyên chở và thị trường là
không hề đơn giản và hết sức cần thiết.
Tổng số lao động biến động không lơn lắm (năm 2002: 229.035 người;
năm 2005: tổng số lao động trong các ngành kinh tế 251.991 người,). Dân số
trong độ tuổi có khả năng lao động năm 2002 lả 283.873 người (chiếm 53%
tổng dân số), và dân số chưa có việc làm là 49.846 (chiếm 9% dân số toàn tỉnh).
57
Dân số làm việc trong ngành nông nghiệp là 165.770 người (chiếm 72,38% dân
số trong độ tuổi lao động).
Theo Tổng Cục Thống Kê, dân số Ninh Thuận năm 2004 là 554.7 nghìn
người, thành thị chiếm 32,3 %, nông thôn 67,7% với mật độ dân số là 165
người/ km2. Số người lao động (nông, lâm nghiệp) là 153,625 người, trong đó
có khoảng 15,000 người trồng nho chiếm khoảng 10% dân số lao động nông lâm
nghiệp. Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người dân tộc khá cao, số hộ nghèo nhiều nên
yiệc thực hiện các chương trình phát triển cây nho với qui mô lớn rất khó thực
hiện (Nguồn: Sở NN&PTNT).
Năm 2005, diện tích toàn tỉnh: 3.358 km2, dân số toàn tỉnh Ninh Thuận là
564.403 người, trong đó có 279.097 nam và 285.306 nữ, và 182.059 dân thành
thị và 382.344 dân nông thôn. Số lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp là
157.208 người chiếm 62,4%, với mức thu nhập bình quân trên 1.500 nghìn
đồng/người/tháng (Cục Thống kê Ninh Thuận, 2005).
Hệ thống giao thông có hai trục quốc lộ chính là quốc lộ 1A và quốc lộ 27
chạy ngang, các hệ thống giao thông liên thôn, liên xã đã được chú ý đầu tư xây
dựng nhưng chưa rộng khắp.
Hệ thống thủy lợi có nhiều công trình thủy lợi như đập Nha Trinh- Lâm
Cấm, sông Pha, hồ Tân Cương,... với tổng năng lực tưới là 24.030 ha.
2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng trồng và chế biến nho ở Bình Thuận
Tỉnh Bình Thuận có diện tích vùng đất cát ven biển tương đối lớn: 125.935
ha, chiếm 16,16% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Tập trung chủ yếu ở các huyện
Tuy Phong, Bắc Bình, Phan Thiết, Hàm Tân.
Tuy Phong là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bình Thuận, cách Phan
0 700mm, nhiệt độ trung bình hàng năm 26,9P
PC, mùa mưa bắt đầu từ cuối tháng 6
Thiết 100km. Là vùng khô hạn nhất nước với lượng mưa trung bình năm 500-
58
đến tháng 11. Đất đai chủ yếu là đất cát và cát pha (chiếm diện tích trên 66%
diện tích tự nhiên), huyện có 9 xã và 2 thị trấn.
Trong những năm qua, cây Nho đã góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống cho một bộ phận nông dân ở các xã thuộc huyện Tuy Phong, nhất là một số
xã Phú Lạc, Phong Phú, Vĩnh Hảo, Phước Thể, .. .Vùng phát triển cây Nho,
huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận phân bố rải rác trên địa phận hành chính
thuộc 7 xã: Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phong Phú, Phú Lạc, Phước Thể, Bình Thạnh,
Chí Công. Tuy nhiên, việc phát triển còn mang tính tự phát.
Tuy Phong là huyện nằm phía Bắc tỉnh Bình Thuận,
Phía Bắc: giáp huyện Ninh Phước- tỉnh Ninh Thuận, huyện Đức Trọng-
tỉnh Lâm Đồng.
Phía Nam và phía Đông: giáp Biển Đông.
2 Huyện Tuy Phong có diện tích tự nhiên 795 kmP
P, phân chia đơn vị hành
Phía Tây: giáp huyện Bắc Bình - tỉnh Bình Thuận.
chính gồm 10 xã và 2 thị trấn, phân bố theo khu vực sau:
- Vùng cao: Xã Phan Dũng
- Miền núi: Xã Phong Phú, Phú Lạc, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân
- Vùng trung du: Xã Chí Công, Hòa Phú, Hòa Minh, Bình Thạnh, Phước
Thể.
- Đồng bằng: Thị trấn Liên Hương, Thị trấn Phan Rí Cửa.
59
60
2.3.3.1. Điều kiện tự nhiên
Thời tiết - Khí hậu
Tuy Phong là huyện nằm trong vùng nhiệt đới khô hạn, đặc trưng khí hậu
của vùng là khô, nóng, lượng mưa hàng năm thấp và phân bố không đều, lượng
bốc hơi cao. Do đó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất các loại cây trồng
cần sử dụng lượng nước tưới cao. Các số liệu quan trắc của trạm Tuy Phong cho
thấy:
0 Nhiệt độ trung bình 26,9P
0 PC, PC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 34,1P
0 PC, nhiệt độ thấp nhất là 19,2P
PC.
0 0 PC. Nhiệt độ tối đa là 39P tháng thấp nhất là 19,6P
0 PC. Tổng tích ôn 9.807P
Nhiệt độ
Gió
Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc từ tháng 12 - tháng 5,
gió mùa Tây Nam từ tháng 6-tháng 11. Vận tốc trung bình 3,5 m/s, vận tốc lớn
nhất 4,6 m/s (tháng 2).
Nắng
Tổng số giờ nắng trong năm: 2.911,3 giờ. Mỗi ngày trung bình 7-8 giờ
nắng, cường độ ánh sáng mạnh. Tháng 3 có số giờ nắng cao nhất (319 giờ),
tháng 9 số giờ nắng ít nhất (182 giờ).
Lượng mưa
Là khu vực có lượng mưa thấp nhất trong cả nước, lượng mưạ trung bình
hàng năm dao động khoảng từ 600-700 mm. Tập trung chủ yếu từ tháng 8 -
tháng 10, những tháng còn lại mưa rất ít; số ngày mưa trung bình trong năm từ
40-45 ngày.
Lượng bốc hơi trung bình
61
Lượng bốc hơi trung bình 1.290 mm/ năm, gấp đôi lượng mưa. Do đó điều
kiện thời tiết hết sức khô han.
Ẩm độ không khí
Ẩm độ không khí 78-80 %, thấp nhất là tháng 1 (71%), cao nhất là tháng
10 (86%). Nhìn chung không khí khô nóng quanh năm. Ngoài những đặc điểm
khí hậu như trên. Trên địa bàn huyện Tuy Phong vào các tháng mùa mưa thường
kèm theo những cơn giông, sấm sét. Bão ít xuất hiện nhưng thường có lũ quét
trên sông Lòng Sông và các sông suối nhỏ khác.
Tuy nhiên với đặc điểm khí hậu đặc trưng như trên: ít mưa, nhiều gió,
nhiều nắng, khí hậu khô nóng không thuận lợi cho một số loại cây trồng khác.
Nhưng lại tạo nên yếu tố thuận lợi cho loại cây trồng thích nghi như cây Nho.
Tuy Phong là huyện khô hạn nhất nước, mùa mưa chỉ có 3 tháng (từ tháng
PC, độ ẩm
0 2.806 giờ, và lượng bốc hơi rất lớn 1.280mm. Nhiệt độ trung bình 27,1P
9-11), mùa khô kéo dài 9 tháng (từ tháng 12-8 năm sau) với số giờ nắng rất cao
không khí trung bình năm thấp 27,1 %.
Nhìn chung điều kiện khí hậu - thời tiết tại Tuy Phong rất thuận lợi cho
việc trồng nho nhưng phải quan tâm đến nước tưới trong mùa khô.
Bảng 2.4: Tổng hợp các yếu tố Khí Tượng tại Tuy Phong
(Số liệu trung bình quan trắc từ 1930-1984)
Các yếu tố
Cả năm
2
10 1 1 12
3
4
Các tháng trong năm 9 7 5
8
6
1 25,9 25,6 26,3 27,9 28,8 28,2 26,3 26,8 27,8 26,9 26,6 26,1 27,1
trung
65 62 65 63 68 73 71 70 78
77 71 68 71
0,25 0,19 11,3 17,1 79,6 62,9 17,7 62,8 148,5 136 93,1 31 660
1,5 0,2 0,7 1,8 7,8 6,3 6,6 7,2 10,2 9,8 7,0 2,2 61,3
Nhiệt độ 0 bình (P PC) Độ ẩm trung bình (%) Lượng mưa trung bình(mm) Số ngày mưa Lượng nước bốc 118 132 127 125 106 116 116 95 82
68 90 105 1.280
62
trung bình
2,7 2,8 2,9 3,2 2,8 2,6 2,8 3,3 2,6
1,8 2,2 2,5 2,7
280 275 309 273 237 196 231 294 292
200 194 235 2.806
9.900
hơi (mm) Tốc độ gió trung bình (m/s) Số giờ nắng (giờ /tháng) Tổng nhiệt năm 0 PC) (P
Nguồn: Trạm Khí Tượng Cà Ná-Liên Hương
Nguồn nước mặt
Trên địa bàn huyện nguồn nước mặt chủ yếu tập trung trên hai hệ thống
chính là: sông Lòng Sông và suối Đá Bạc.
Sông Lòng Sông là 1 trong 7 lưu vực sông chính của tỉnh, bắt nguồn từ cao
nguyên phía Tây của tỉnh, có nhiều sông suối nhỏ đổ về nên lưu lượng nước lớn,
2 tích lưu vực 511 kmP
P, chiều dài sông 50 km, chiều dài lưu vực 45 km, độ cao
sông chảy qua vùng dự án và đến cửa sông Liên Hương đổ ra biển Đông. Diện
P. Công trình hồ Lòng Sông đang được xây dựng để tưới cho 4.200 ha.
3 mP
trung bình lưu vực 531 m, chiều rộng lưu vực 11 km. Tổng lượng nước 108 triệu
Đất đai
Các giống nho triển vọng được trồng trên 2 loại đất chính là đất cát ven
biển và đất thịt pha cát. Kết quả phân tích 2 loại đất trên được trình bày trên
bảng 2.5 và bảng 2.6 sau:
Thành phần cơ
pH
pH
Mùn
Ndt
Nts
Pdt
Pts
Kts
Ca Mg K
Na
giới (%)
KCl
HR2R0
Cát Thịt Sét
(1:2,5)
(%) Mg/100g
(%) Mg/100g
(Meq/100g)
(%) %(KR2R0)
47
17
36 5,4
4,4 1,35
2,49
0.05
5,07
0,04
0,28
3,38 1,25 0,32 0,00
Bảng 2.5: Kết quả phân tích đất tại Trại giống nho Vĩnh Hảo
Nguồn: Bộ môn Thủy nông – Trường đại học Nông lâm
Thành phố Hồ Chí Minh, 28/11/2001
63
Đánh giá: Thành phần cơ giới: Đất thịt pha cát. pH: Đất rất ít chua.
Mùn: Rất thấp. N tổng số: rất nghèo. N dễ tiêu: nghèo.
P dễ tiêu: thấp. P tổng số: thấp. Ca: cao. Mg, K: trung bình
Hình 2.6: Bản đồ đất tỉnh Bình Thuận
64
Thành phần cơ giới (%)
Mùn
Ca Mg CEC
Nts PR2R0R5Rts
pH HR2R0
Sét
Cát Limon 96
2,2
1,8
(%) 0,175
(%) 0,017
(%) 0,012
(Meq/100g) 0,2 3,06
0,8
6,8
pH KCl (1;2,5) 5,6
Bảng 2.6: Kết quả phân tích đất tại Bình Thạnh
Nguồn: (Phòng Thổ Nhữơng-
Phân viện Quy hoạch thiết kế Nông Nghiệp Miền Trung, 4/2001)
Đánh giá: Thành phần cơ giới: Đất cát pH: Đất trung tính. Mùn: Rất thấp.
N tổng số: rất nghèo. P tổng số : rất thấp. Ca: Rất thấp.
Mg: Rất thấp. CEC: rất thấp.
Nhận xét chung:
- Vùng đất cát có pH trung tính, hàm lượng mùn và các chất đa và vi lượng
đều rất thấp.
- Vùng đất thịt pha cát có pH rất ít chua, Ca cao, Mg, K trung bình. Các
chất dinh dưỡng mùn, đa lượng ở dạng tổng số và dễ tiêu đều rất thấp đến thấp.
Cả 2 vùng đất trên đều cần phải bón thêm phân hữu cơ và các khoáng đa, vi
lượng cần thiết cho cây trồng. Đất phù hợp cho trồng nho.
2.3.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân số: Tổng dân số toàn huyện Tuy Phong năm 2003 có 131.690 người,
2 Mật độ dân số 166 người/ kmP
P. Tập trung chủ yếu ở vùng hạ lưu sông Lòng
trong đó khu vực thành thị 67.126 người (51%), nông thôn 64.564 người (49%).
Sông, ven biển và quốc lộ số I; có 80 % là dân tộc Kinh, 15 % dân tộc Chăm và
5 % dân tộc ít người khác. Dân cư vùng nông thôn sinh sống chủ yếu nhờ sản
xuất nông nghiệp, kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng do điểm xuất phát thấp và
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đầy đủ, năng suất sản lượng cây trồng chưa
cao, nên nhìn chung đời sống của nông dân rất khó khăn.
65
Theo số liệu điều tra nông thôn năm 2001 huyện Tuy Phong có tổng số
24.477 hộ, trong đó tỷ lệ hộ có kinh tế gia đình dưới mức trung bình trở xuống
còn khá lớn, chiếm tỷ lệ 34,13 % toàn huyện, trong đó hộ nghèo 21,67%, cụ thể
như sau :
- Số hộ giàu: 2.169 hộ, chiếm 8,86%,
- Hộ khá: 5.099 hộ, chiếm 20,83%,
- Hộ trung bình: 8.853 hộ, chiếm 36,16%,
- Hộ dưới trung bình: 3.051 hộ, chiếm 12,46%,
- Hộ nghèo: 5.305 hộ, chiếm 21,67%.
- Hộ có điện sử dụng: 23.776 hộ, tỷ lệ 97,13%
Giá trị sản xuất nông nghiệp ở huyện Tuy Phong chiếm tỷ lệ thấp so với
toàn tỉnh. Tổng diện tích gieo trồng năm 2003 chỉ đạt 3.790 ha, tập trung ở các
xã phía Bắc, chủ yếu là các loại cây lương thực (lúa, bắp), cây thực phẩm (rau,
đậu), cây công nghiệp ngắn ngày (thuốc lá, bông, bụp giấm) và cây ăn quả (nho,
xoài, điều, thanh long...). Riêng về cây nho là cây trồng mới phát triển trong
những năm gần đây, nhưng được xem là loại cây trồng mang hiệu qua kinh tế
cao nhất trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó, Trại Giống Nho Vĩnh Hảo được thành lập có nhiều hoạt động
tích cực giúp cho nông dân tiếp cận được các loại giống mới có nhiều ưu thế, tổ
chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật trồng và thâm canh cây Nho.
Cho đến nay Trại Giống Nho Vĩnh Hảo đã tập huấn được cho 3200 lượt
người và quảng bá nhiều giống nho mới, phần lớn các hộ trồng nho đều được
trang bị những kiến thức cơ bản. Tuy nhiên do vốn đầu tư trên đơn vị diện tích
rất cao, nông dân đa phần là nghèo, thiếu vốn đầu tư, do đó diện tích mở rộng
hàng nám không được nhiều.
66
2.4. Thực trạng trồng va chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận.
2.4.1. Thực trạng trồng nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
2.4.1.1. Thực trạng trồng nho ở tỉnh Khánh Hòa
Mặc dù có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nho ở Khánh
Hòa, nhưng so với các loại cây trồng của tỉnh, nho chưa được chú trọng đầu tư
phát triển.
Nho ở Khánh Hòa hầu hết tập trung trồng ở Cam Ranh nhưng năng suất
không cao. Rất ít hộ gia đình trồng nho vì so với các cây trồng khác thì không có
lãi nhiều. Điều kiện tự nhiên ở Cam Ranh tương đối giống với Ninh Thuận,
tương đối phù hợp với cây nho. Tuy nhiên Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Khánh Hòa chưa có định hưởng để phát triển cây nho nhưng cũng khuyến
khích nông dân phát triển trồng nho.
Do các nguyên nhân:
* Người dân ít có kinh nghiệm và truyền thống trong việc trồng nho.
* Giống nho cũ, gặp nhiều sâu bệnh, hiệu quả năng suất không cao, nông
dân không duy trì, phát triển nho.
* Nông dân chưa tiếp cận với các giống nho mới từ các Trung tâm, Viện
nghiên cứu về cây nho.
* Định hướng phát triển nho của Sở NN & PTNT Khánh Hòa chưa thật rõ
nét, chưa quan tâm đến trồng nho.
Đến nay, diện tích trồng nho của tỉnh không đáng kể, chưa có số liệu thống
kê và điện tích và sản lượng, năng suất trồng nho của tỉnh.
Hiện nay, tại Cam Ranh chỉ có xã Cam Thịnh Đông còn duy trì trồng nho
với diện tích ước đoán 2,1 ha, trong đó hộ gia đình Lê Ninh duy trì với nghề
trồng nho trên 10 năm với diện tích 5 sào (0,5ha) và một số hộ khác nhưng
67
mang tính tự phát. Sản phẩm nho chủ yếu bán tại địa phương và Thành phố Nha
Trang.
2.4.1.2. Thực trạng trồng nho ở tỉnh Ninh Thuận
Cây nho là loại cây trồng đặc thù của Ninh Thuận, có giá trị cao và hàng
năm mang lại nguồn lợi khá lớn cho nông dân và kinh tế địa phương. Hiện tại
diện tích cây nho là 1.890 ha chỉ chiếm 3 -3,5% diện tích gieo trồng nhưng giá
trị sản xuất lại chiếm tới 15- 20% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
Giống nho đầu tiên được trồng là giống nho đỏ ăn tươi Red Cardinal. Cho
tới bây giờ, đây vẫn là giống nho chủ lực do sản lượng tương đối cao (20 tấn/ha),
kinh nghiệm của nông dân trong trồng trọt và kháng bệnh cũng như thói quen
tiêu thụ trong người dân Việt Nam khá lâu đời.
Cây nho hiện trồng trên 31 xã, phường tại hầu hết các huyện, thị xã trong
tỉnh trừ huyện miền núi Bác Ái. Huyện Ninh Phước có diện tích trồng nho cao
nhất với 1.115 ha chiếm 59% diện tích cây nho cả tỉnh, kế tiếp là thị xã Phan
Rang - Tháp Chàm diện tích trồng nho 567 ha chiếm 30%.
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau năm 2000, công tác nghiên cứu về
giống nho bắt đầu chú trọng. Hiện nay ngoài giống chủ lực phục vụ sản xuất là
giống nho đỏ (Cardinal), một số giống mới như NH.01-48, Black Queen,...
Đến năm 2005, diện tích giống nho mới đạt 500 ha, trong đó giống nho
xanh NH-01-48 là chủ yếu. Đây là giống có năng suất cao, ổn định, phẩm chất
tốt, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, là nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho
việc mở rộng diện tích và khôi phục cây nho. Giống nho xanh trái lớn, chất
lượng không thua kém nho vùng ôn đới.
Theo thống kê của ngành Nông nghiệp, trên diện tích 1.890 ha nho hiện có,
giống nho Cardinal thuần chiếm 1.250 ha (tỷ lệ 66,6%), giống nho Cardinal
ghép từ gốc dại 250 ha (13%), 361 ha nho NH01-48 (19%), giống Black Queen
9,4 ha (0,4%), còn lại 19,6 ha (1%) là giống nho Italia và một số giống nho khác.
68
Đặc biệt các giống nho rượu như giống Shiaz dùng chế biến rượu vang đỏ,
giống Saw Blanc làm rượu vang trắng và rượu Champane đã khảo nghiệm hiện
đang được tiến hành sản xuất thử trên địa bàn huyện Ninh Phước và thị xã PR-
TC.
Bảng 2.7: Diễn biến tình hình phát triển nho tại Ninh Thuận
2000
2001
2002
2003
2004
2005
TT 1
1.809 603 85 155 966 1.459
1.425 508 84 120 713 1.334
1.584 474 94 88 928 1.416
1.754 495 76 126 1.057 1.728
1.709 402 46 148 1.113 1.417
1.615 307 47 118 1.143 1.475
2
579 84 107 689
508 84 I U 713
525 48 121 640
530 93 105 1.000
3
4
Chỉ tiêu Điện tích (ha) PR- TC Ninh Sơn Ninh Hải Ninh Phước Diên tích thu hoạch (ha) PR- TC Ninh Sơn Ninh Hải Ninh Phước Sản lượng (tấn) PR- TC Ninh Sơn Ninh Hải Ninh Phước Năng suất (tấn/ha) PR-TC Ninh Sơn Ninh Hải Ninh Phước
333 45 115 924 20.344 18.411 15.370 18.680 22.810 7.560 6.840 6.090 6.912 871 740 840 1.008 2.130 1.225 1.440 1.712 9.024 13.100 7.000 10.712 16,1 10,8 10,9 13,9 20,5 14,3 12,0 11,9 16,4 9,4 10,0 12,0 18,5 11,7 13,0 16,0 14,2 9,0 9,8 15,5
6.996 560 1.560 9.295 13,8 13,3 11,7 12,9 14,5
317 46 95 L O I ? 26.000 6.283 760 1.810 17.147 17,6 19,8 16,5 19,1 16,9
Nguồn: Niên giám thống kê Ninh Thuận,2006
69
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG VÙNG TRỒNG NHO TỈNH NINH THUẬN
Hình 2.7: Bản dồ hiện trạng vùng trồng nho tỉnh Ninh Thuận
70
Đến nay 8/2005 diện tích nho toàn tỉnh là: 1800 ha trong đó diện tích nho
giống đỏ ghép trên gốc nho dại tăng, mức độ phát triển giống nho mới có
khuynh hướng chững lại.
Qua biểu đồ 2.1, ta thấy diện tích trồng nho ở các huyện, thị xã của Ninh
Thuận phát triển không ổn định, cụ thể là việc giảm diện tích 50% từ 2000 đến
2001, và khoảng 3% trong giai đoạn 2003-2004, đến năm 2005 diện tích lại tiếp
tục giảm. Tuy nhiên diện tích tăng giảm của các huyện, thị không đều. Riêng
huyện Ninh Phước, từ năm 2001 tốc độ diện tích trồng nho tăng liên tục, đến
năm 2005 tăng gấp 1,6 lần. Thị xã PR-TC, huyện Ninh Sơn diện tích giảm nhiều,
đặc biệt thị xã PR- TC giảm khoảng 1/2 diện tích từ 603 ha năm 2000 đến năm
2005 là 307 ha.
Tổng diện tích nho toàn tỉnh từ năm 2000 đến 2005 tăng giảm không ổn
định. Từ năm 2000 đến năm 2002 giảm 225 ha, sau đó năm 2003 tăng lên 170
ha, năm 2005 giảm 139 ha. Do ảnh hưởng của thời tiết, sâu bệnh, giá cả bất ổn
định trên thị trường và một số nơi lấy đất quy hoạch đô thị.
71
Qua một số nghiên cứu, giống nho xanh NH01-48 mắc phải một số các
bệnh như bệnh thán thư, phấn trắng... Khả năng mất trắng với nguy cơ rủi ro cao
hơn giống đỏ Red Cardinal. Do vậy, một số người dân hoang mang nên thu hẹp
diện tích để trồng lại giống đỏ Cardinal (Theo một số hộ trồng nho).
Tương tự với diện tích trồng, biểu đồ 2.2 thể hiện diện tích thu hoạch nhỏ
của các huyện, thị cũng tăng giảm không ổn định. Huyện Ninh Phước có diện
tích thu hoạch lớn nhất trong các huyện, thị, có diện tích tăng từ 2000 đến 2005
là 328 ha, tuy nhiên năm 2001 và năm 2004 diện tích thu hoạch giảm nhưng
không đáng kể. Huyện Ninh Sơn có diện tích thu hoạch thấp nhất, năm 2004
(45ha) so với năm 2003 (93) diện tích thu hoạch giảm Vi diện tích và đến năm
2005 chỉ tăng thêm 1 ha. Thị xã PR - TC diện tích thu hoạch có xu hướng giảm
mạnh từ 579 ha năm 2000 đến 2005 có 317 ha nho thu hoạch.
72
Qua biểu đồ 2.3, từ năm 2000 - 2002, sản lượng nho Ninh Thuận giảm
4.974 tấn, từ năm 2003 đến 2005 sản lượng nho Ninh Thuận tăng 7.320 tấn.
Trong các huyện thị, sản lượng cũng tăng giảm không ổn định, huyện Ninh
Phước cũng có sản lượng cao nhất chiếm hơn 1/2 sản lượng của cả tỉnh, nên ảnh
hưởng rất lớn đến sản lượng nho chung của tỉnh. Trong khi đó, sản lượng nho
của PR - TC lại giảm từ năm 2003 đến 2005: 1.277 tấn.
Nguyên nhân do điều kiện thời tiết có sự thay đổi thất thường, nên nông
dân phải chặt phá chuyển sang trồng các loại cây trồng khác. Việc đô thị hóa
nhanh và thiếu chính sách bảo hộ ruộng vườn nho cho nông dân nên diện tích
nho cũng bị thu hẹp nhất là các vùng đô thị ảnh hưởng đến sản lượng nho. Và do
sâu bệnh phá hại nên sản lượng nho không ổn định, chất lượng nho ngày càng
giảm.
73
Dựa vào biểu đồ 2.4, nhìn chung năng suất nho bình quân không ổn định
theo năm và cả mùa vụ, năm 2000 bình quân chỉ còn 13,9 tấn/ ha và đến năm
2005 bình quân lại được 17,6 tấn/ ha. Năng suất cũng thay đổi qua các năm, năm
2003 năng suất thấp nhất 10,8 tấn/ha. Năng suất nho của các huyện, thị thay đổi,
thị xã PR -TC có năng suất cao nhất trong các huyện, thị từ năm 2003 (14,3
tấn/ha), 2004 (20,5 tấn/ha) và 2005 (19,8 tấn/ha). Huyện Ninh Phước năm 2003
và 2004 năng suất thấp nhất trong các huyện, thị 2003 (9,0 tấn/ha), 2004 (14,2
tấn/ha).
Năm 2004, do mưa kéo dài, vườn nho đang chuẩn bị thu hoạch bị thối toàn
bộ. Gia đình anh Lê Văn Hùng ở xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn đã mất trắng
gần 100 triệu đồng. Anh Nguyễn Tường, một trong những người tiên phong
trồng cây nho từ thuở sơ khai ở xã Phước Thạnh, huyện Ninh Phước nói: "tui
phải chia tay với nó thôi. Liên tục 2 năm liền do bị sâu bệnh, năng suất không
bao nhiêu". Ngoài yếu tố khách quan về thời tiết, nguyên nhân dẫn tới việc nho
nhiễm bệnh chủ yếu là do kỹ thuật, trình độ canh tác của nhà nông", anh Mai
Văn Hào, Viện Nghiên cứu và Phát triển cây bông Nha Hố cho biết. Do vậy cây
nho chỉ cho năng suất trên dưới 50% so với trước đây đã ảnh hưởng không nhỏ
74
đến việc duy trì diện tích cây nho. Thêm vào đó, người nông dân sản xuất phần
lớn dựa trên kinh nghiệm, chưa chủ động tìm tòi, chưa học hỏi thêm về kĩ thuật
canh tác tiến bộ nên sản lượng và năng suất nho của tỉnh và các huyện, thị chưa
cao và thiếu tính ổn định.
Đối với sản xuất nho trên địa bàn, đó là đa số nông dân trong tỉnh đã có
nhiều năm kinh nghiệm về nghề, nho lại có giá trị cao hơn nhiều so với các cây
trồng khác; bình quân 1 ha nho được trồng và chăm sóc đúng kỹ thuật cho thu
nhập từ 100-300 triệu đồng.
Công tác giống và chuyển giao công nghệ trong sản xuất nho thời gian qua
đã có những tiến bộ đáng kể, hiện nay tại Viện Nghiên cứu và phát triển cây
bông, Trung tâm Giống cây trồng - vật nuôi tỉnh có tập đoàn giống nho rất
phong phú với gần 200 giống, gồm cả nho ăn tươi và nho rượu.
Với số lượng giống này, khả năng hàng năm có thể đưa ra sản xuất từ 1-2
giống nho năng suất cao, chất lượng tốt để thay thế dần những giống nho cũ đã
có những biểu hiện thoái hóa về năng suất và chất lượng, bổ sung vào cơ cấu
giống nho trên địa bản tỉnh. Như vậy, mặc dù vẫn còn có những khó khăn nhất
định do thời tiết và cả chủ quan của người sản xuất, những mặt thuận lợi trên
đây đã là tiền đề khá vững cho triển vọng phát triển cây nho của tỉnh thời gian
tới.
Từ nay đến năm 2010, ngành Nông nghiệp vẫn xác định nho là cây trồng
chủ lực trong cơ cấu cây trồng của tỉnh, là cây trồng đặc thù và có giá trị kinh tế
cao, phải tập trung phát triển.
Theo đó, thực hiện mục tiêu mở rộng cơ cấu giống nho các loại đến năm
2010 đạt diện tích 3.200 ha và huyện Ninh Phước vẫn chiếm nhiều nhất vơi
2.500 ha; trong đó nho giống mới từ 1.000-1.500 ha và 100 ha nho rượu. Cây
nho được tập trung đầu tư theo hướng công nghệ cao, sản xuất theo hướng nho
sạch và được thị trường chấp nhận, với sản lượng nho ước tính đến năm 2010 là
60.000 tấn.
75
Về cơ cấu giống, đến năm 2010, với nho ăn tươi ngoài 2 giống Cardinal
(thuần và ghép gốc dại) và NH01-48, tiếp tục chọn tạo thêm từ 2-3 giống khác
để đưa vào sản xuất. Khảo nghiệm và chọn được 2 giống nho rượu Shiaz và Saw
Blanc hiện đang thực hiện sản xuất thử vào đầu năm 2006; đồng thời từng bước
mở rộng diện tích để cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy chế biến rượu vang nho
đang được xây dựng trên địa bàn tỉnh.
Cùng với đó là khảo nghiệm so sánh tại vườn thực nghiệm, chọn tạo từ 1-2
giống nho không hạt đưa vào sản xuất, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến nho sấy khô mang thương hiệu Ninh Thuận.
Cho đến nay, tại Ninh Thuận, 100% các hộ nông dân vẫn chỉ trồng các
giống nho ăn tươi. Trung tâm giống cây trồng có khoảng 162 giống nho, trong
đó chỉ có 40 giống nho rượu. Theo Ts. Nông, phó giám đốc trung tâm cây giống
Ninh Thuận, sắp tới trung tâm sẽ tiến hành quảng bá một số loại giống nho rượu
như NH02-04, NH02-10 (Chambourcin), NH 02-09 (Rubi Red), Chardonay,
Syrah... để người dân thử trồng, đáp ứng yêu cầu với giống nho rượu đạt chất
lượng tốt cho nhu cầu làm rượu vang trong tương lai (nguồn phỏng vấn sâu sở
Khoa học Công Nghệ).
Sơ đồ 2.1: Quá trình sơ chế nho an toàn
2.4.1.3. Thực trạng trồng nho ở tỉnh Bình Thuận
Cây nho bắt đầu được trồng từ năm 1992 và đến năm 1997 mới đạt 25 ha
(năm cây nho đạt diện tích cao nhất tại Ninh Thuận). Năm 2001, diện tích nho là
210 ha. Đến cuối tháng 10 năm 2004 diện tích cây nho tại Tuy Phong đạt 288 ha
76
và trong thời gian này năng suất, sản lượng nho của Tuy Phong đã tăng lên một
cách đáng kể.
Đến năm 2003, diện tích nho tại Tuy Phong trồng tập trung tại các xã Phú
Lạc (123,33 ha), Phong Phú (66,45 ha), Phước Thể (38,28 ha), Vĩnh Hảo (15,96
ha) đã phần nào khẳng định được khả năng phát triển của cây nho tại vùng đất
này trong đó xã Phong Phú, Phú Lạc là 2 xã chủ lực phát triển cây nho.
Bảng 2.8: Diện tích và sản lượng nho qua các năm ở Tuy Phong
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Diện tích (ha) 210 210 181 216 298 310
Sản lượng (tấn) 1.236 3.472 2.644 2.606 4.950 5.430
5,9 16,5 14,6 12,1 16,6 17,5 Năng suất
(tấn/ha)
350
310
298
300
250
216
210
210
200
181
150
Diện tích (ha)
100
50
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nguồn: Cục Thống kê Bình Thuận
Biểu đồ 2.5: Diện tích trồng nho ở Tuy Phong, Bình Thuận
77
6000
5430
4950
5000
4000
3472
3000
2644
2606
Sản lượng (Tấn)
2000
1236
1000
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Biểu đồ 2.6: Sản lượng nho ở Tuy Phong, Bình Thuận
Qua bảng số liệu 2.8 và biểu đồ 2.6, ta thấy diện tích trồng nho và sản
lượng nho của Tuy Phong cũng thiếu tính ổn định. Năm 2001, diện tích không
thay đổi so với năm 2000 nhung sản lượng tăng nhiều, năm 2001 tăng 2.236 tấn
do có sự thay đổi về giống nho trồng. Nhưng đến năm 2002, diện tích và sản
lượng lại giảm do ảnh hưởng của lũ lụt, hạn hán nên nho bị chết gây sụt giảm về
diện tích và sản lượng. Những năm gần đây, diện tích và sản lượng có xu hướng
20
17.5
18
16.6
16.5
16
14.6
14
12.1
12
10
8
5.9
Năng suất (tấn/ha)
6
4
2
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
tăng trở lại.
Biểu đồ 2.7: Năng suất nho ở Tuy Phong, Bình Thuận
78
Nhìn vào biểu đồ 2.7, năng suất nho Tuy Phong, Bình Thuận thay đổi thất
thường, năm 2001 tăng gần gấp 3 lần năm 2000 nhưng từ 2001 (16,5 tấn/ha) đến
2003 (12,1 tấn/ha) lại giảm và năng suất tăng lên đến 2005 (17,5 tấn/ha).
Tuy nhiên so với Ninh Thuận diện tích cây nho phát triển chậm tại Tuy
Phong, Bình Thuận trong thời gian đầu vì những lý do sau:
- Thủy lợi chưa đảm bảo cho việc mở rộng diện tích nho.
- Người dân thiếu kiến thức kỹ thuật, kinh nghiệm, vốn đầu tư ban đầu cho
cây nho.
- Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường theo chiều hướng có hại cho sự
sinh trưởng phát triển của cây nho.
- Giống nho Cardinal có dấu hiệu sụt giảm năng suất, chất lượng làm ảnh
hưởng đến thu nhập của người trồng nho.
Đầu thập niên 1990, cây nho đỏ (Cardinal) cho năng suất cao và thu nhập
của người trồng nho khá, năng suất nho từ 15-20 tấn/ha/vụ, mỗi năm thu 3 vụ,
nhưng những năm gần đây thường xảy ra lũ lụt lớn và lúc này giống nho đỏ có
dấu hiệu sụt giảm năng suất và chất lượng, nhiễm rất nặng các loại sâu bệnh hại
đã làm cho năng suất giảm xuống dưới 10 tấn/ha/vụ làm giảm thu nhập của
người trồng nho và có một số hộ bị thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên trong những năm
cuối thập niên 1990, một số giống nho mới được Trung tâm Phát triển KT-XH
Bình Thuận nhập nội và trồng thử thành công, phù hợp với khí hậu Tuy Phong,
có năng suất, chất lượng tốt đã thay thế một phần diện tích nho cũ.
Tại huyện Tuy Phong đã có Trại giống Nho Vĩnh Hảo - là đơn vị trực thuộc
Trung tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng duyên hải tỉnh Bình Thuận (SEĐEC
Bình Thuận), được thành lập từ năm 1998 với sự hỗ trợ tài chính và chuyên gia
của Viện Konrad Adenauer - Cộng hòa Liên Bang Đức (KAS).
Tổng diện tích của Trại có 14 ha, mới đưa vào sử dụng 8 ha (trong đó 3 ha
vườn giống gốc; 3 ha sản xuất qua, vườn tập đoàn và vườn khảo nghiệm 0,7 ha,
79
vườn ươm 0,1 ha, còn lại là đường đi, nhà làm việc, nhà kho...). Trại đang chuẩn
bị mở thêm 2 ha trồng nho rượu và mua 1 máy tạo ôzôn để bảo quản qua tươi.
Trong 5 năm qua từ khi thành lập đến nay, Trại giống vừa làm công tác
nghiên cửu, vừa chuyển giao kỹ thuật và cung ứng giống trồng nho cho nông
dân trong vùng đạt được nhiều kết qua tốt, được nông dân và địa phương tín
nhiệm.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của Trại hiện còn rất đơn sơ. Lực luợng công
nhân kỹ thuật của Trại có 45 người, hàng năm vừa thực hiện công tác nghiên
cứu, chuyển giao kỹ thuật, vừa làm công tác ghép giống nho cung ứng cho bà
con nông dân trong và ngoài tỉnh. Trong các năm qua, mỗi năm cung ứng
khoảng 100.000 cây giống. Ngoài ra Trại đã từng bước thâm nhập và giúp bà
con tiếp cận với thị trường tiêu thụ tại TP HCM, dần tiến tới xây dựng tên gọi
chỉ dẫn địa lý và thương hiệu cho sản phẩm nho quả.
2.4.2. Thực trạng chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận
2.4.2.1. Thực trạng chế biến nho ở tỉnh Khánh Hòa
Diện tích trồng nho ở Khánh Hòa không đáng kể, nên sản lượng cung cấp
nho tươi không nhiều, chủ yếu cung cấp nho tươi ra thị trường trong tỉnh. Đồng
thời Sở Khoa học Công nghệ và Sở NN & PTNT Khánh Hòa chưa có định
hướng để phát triển nho, vì so với các cây trồng khác, cây nho không có nhiều
hiệu quả kinh tế. Do vậy, tình hình chế biến nho ở Khánh Hòa không hoạt động.
2.4.2.2. Thực trạng chế biến nho ở tỉnh Ninh Thuận
Việc chế biến sản phẩm từ quả nho tại Ninh Thuận bước đầu đã được thực
hiện nhưng gặp rất nhiều khó khăn.
Sản phẩm nho chủ yểu dung với mục đích ăn tươi. Do vậy, công nghệ chế
biến nho (sấy khô, chế biến mật, rượu vang, nước giải khát,...) chưa được chú
trọng nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Khoảng 5% sản phẩm nho kém phẩm chất
80
(nho tỉa, nho xấu...) được sử dụng cho mục đích chế biến rượu vang, làm mật
nho...
Các cơ sở chế biến nho của các tư nhân sản xuất mang tính thủ công,
truyền thống chủ yếu chế biến rượu nho, sirô nho để bán ra thị trường. Ngoài ra,
các hộ trồng nho tự chế biến phục vụ cho nhu cầu gia đình. Tuy nhiên, hiện sản
phẩm tạo ra chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Công nghệ sấy khô cũng chưa chú trọng.
Trước đây, tỉnh Ninh Thuận đã liên doanh đầu tư với 100% vốn đầu tư của
nước ngoài, thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Allied Domecq Ninh Thuận
với dây chuyền sản xuất rượu vang nho tương đối hiện đại bằng công nghệ Anh
quốc, có công suất 1 triệu lít/năm nhưng giá thành sản phẩm khá cao, tiêu thụ
chậm, sản xuất cầm chừng và bị thua lỗ nặng.
Hiện nay, việc chế biến các sản phẩm khác từ quả nho chủ yếu được nông
dân địa phương thực hiện bằng phương pháp thủ công gia đình có công suất nhỏ
tạo ra các sản phẩm như rượu nho, nước cốt nho có chất lượng thấp và giá trị
thương phẩm không cao, chưa đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng.
Để tạo cơ sở chế biến phục vụ công nghệ chế biến sản phẩm từ nho. Sở
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Ninh Thuận đang xây dựng tiền khả thi dự
án đầu tư nhà máy chế biến nước nho cô đặc tại tỉnh, trình Bộ Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn phê duyệt. Đồng thời các công ty rượu vang như Công ty
thực phẩm Đà Lạt - Lâm Đồng, Công ty rượu bia Hà Nội thuộc Tổng Cống ty
rượu bia Việt Nam bắt đầu họp tác với một số cơ quan đơn vị trong tỉnh bàn việc
ký hợp đồng phát triển diện tích trồng nho rượu và tiêu thụ sản phẩm quả nho để
làm nguyên liệu cho chế biến rượu vang nho, bước đầu thu được một số kết quả
rất khả quan. Đây là tín hiệu đáng mừng cho việc phát triển chế biến các sản
phẩm từ quả nho của nước ta. Góp phần phát triển, mở rộng diện tích một số
giống nho rượu có tiềm năng năng suất cao, phẩm chất tốt phục vụ công nghiệp
chế biến đồng thời đa dạng các sản phẩm từ nho, tạo ra các sản phẩm chế biến từ
81
nước quả nho tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của thị trường. Việc mở rộng diện
tích đất trồng nhò của tỉnh, tăng thu nhỉập trên một đơn vị diện tích, góp phần
chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng phát triển cây công nghiệp và tăng
thêm nguồn thu ngân sách Nhà nước. [28, tr 19-20].
Bên cạnh đó nguyên nhân cơ bản hạn chế việc chế biến nho là chưa có
giống nho rượu thích hợp, đầu tư nghiên cứu tạo giống còn thiếu, diện tích trồng
nho rượu còn hạn chế. Giống làm nho khô hầu như chưa có, cần giống nho
không hạt và thường dùng hóa chất để giữ màu trong qui trình sản xuất.
Năm 2005, Viện nghiên cứu và phát triển cây Bông kết hợp với Viện
nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam chọn được 5 giống nho làm rượu: NH02-04,
NH02-19, NH02-66, NH02-90 và NH02-97 có năng suất chất lượng tốt, khả
năng sinh trưởng phát triển mạnh, khả năng chống chịu tốt với các đối tượng sâu
bệnh và thích ứng tốt với điều kiện tự nhiên. Hiện nay, công ty Thực phẩm Lâm
Đồng thu mua giống nho rượu NH02-04 để làm rượu vang, với giá thu mua
nguyên liệu 6 triệu đồng/1 tấn. Sản phẩm rượu của giống NH02-04 có màu vàng
nhạt, trong tương tự rượu Henessy. Trong tỉnh đang xây dựng thương hiệu sản
phẩm nho rượu Ninh Thuận.
"Đến năm 2010, phát triển sản xuất với qui mô 100 ha nho rượu, cung cấp
hàng năm từ 2.500 tấn đến 3.000 tấn nho nguyên liệu phục vụ chế biến khoảng
1,8 triệu lít rượu vang chất lượng cao. Đưa giá trị sản xuất từ 100 triệu
đồng/ha/năm lên 150 triệu đồng/ha/năm". Đó là mục tiêu cơ bản của dự án sản
xuất thử các giống nho rượu gắn với chế biến rượu vang chất lượng cao vừa
được UBND tỉnh Ninh Thuận thông qua vào cuối tháng 8/2005. Đặc biệt, dự án
này có sự tham gia của cả "4 nhà" gồm Sở Nông nghiệp và Phát triến Nông thôn
tỉnh chủ trì dự án, Trung tâm Khuyến nông tỉnh, Trung tâm giống vật nuôi tỉnh,
Viện Nghiên cứu và Phát triển cây Bông, Công ty cổ phần Thăng Long tại Ninh
Thuận và nông dân các xã: Phước Thuận, Phước Hậu, Phước Sơn, thị trấn
82
Phước Dân (huyện Ninh Phước), xã Thành Hải (thị xã PR- TC). Tuy nhiên, hiện
nay mới trồng được 2 ha trồng riho rượu.
Theo đó, Trung tâm giống vật nuôi tỉnh, Viện Nghiên cứu và Phát triển cây
Bông có trách nhiệm cung cấp giống ghép và cành ghép 2 giống nho rượu
Shiraz và giống Saw-Blanc cho nông dân; Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối
hợp với Công ty cổ phần Thăng Long tổ chức tập huấn cho nông dân về giống,
kỹ thuật canh tác, thu hoạch nho; Công ty cổ phần Thăng Long tiến hành họp
đồng thời vụ với các hộ trồng nho để đầu tư sản xuất, thu mua sản phẩm (thu
mua toàn bộ sản phẩm cho nông dân trong vùng dự án với mức giá thấp nhất
5.000 đồng/kg, thời gian ổn định 5 năm). Giá cả thu mua được Công ty xác định
tăng lên hằng năm thông qua hợp đồng, trên cơ sở thị trường kèm theo tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm, đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích giữa 2 bên; đồng
thời, thực hiện ứng trước một phần kinh phí ban đầu cho các hộ trồng nho theo
hợp đồng, cuối vụ thu hồi lại bằng giá trị thu mua sản phẩm.
Đồng thời, Sở Khoa học Công nghệ hướng dẫn Trung tâm giống cây trồng
vật nuôi tỉnh thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về "Xây dựng qui trình kỹ
thuật trồng và chăm sóc các giống Nho Rượu gắn với chế biến". Trước mắt,
Trung tâm giống cây trồng vật nuôi tỉnh hướng dẫn kỹ thuật tạm thời để khuyến
cáo cho các hộ trồng nho khi chưa có qui trình chính thức. Đón đầu dự án này,
ngày 29/9/2005, Công ty cổ phần Rượu vang nho Thăng Long tại Hà Nội có Chi
nhánh tại Ninh Thuận đã khởi công xây dựng Nhà máy chế biến vang nho có
dây chuyền công nghệ hiện đại, tại Khu công nghiệp Thành Hải (PR - TC) với
tổng vốn đầu tư hơn 21 tỉ đồng, công suất thiết kế 2 triệu lít vang nho/năm. Hiện
nay, Công ty cũng đang tiến hành các thủ tục họp đồng với nông dân trong tỉnh
trồng 22 ha nho rượu Shiraz và Saw-Blanc (giai đoạn 1 của dự án trồng 20 ha
được thực hiện từ tháng 11/2005 đến tháng 12/2006); đồng thời, phối hợp với
Trung tâm giống cây trồng vật nuôi tỉnh tổ chức giới thiệu cho những nhà quản
lý và người trồng nho trong tỉnh về giống nho và kỹ thuật trồng nho làm rượu.
83
Tiến sĩ Nguyễn Như Hiến, Giám đốc Trung tâm giống cây trồng vật nuôi
tỉnh cho biết, từ năm 1995, Trung tâm đã du nhập và trồng thử nghiệm nhiều
loại giống nho, trong đó có các loại giống nho làm rượu nổi tiếng. Sau 3 năm
nghiên cứu đến năm 1997, Hội đồng Khoa học kỹ thuật, ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh đã cho phép Trung tâm trồng thử nghiệm những giống
nho rượu có triển vọng trong sản xuất. Đến năm 2003, Hội đồng cho phép Trung
tâm đưa 2 giống nho Shiraz và giống Saw-Blanc trồng trên vùng đất Phước
Thuận, huyện Ninh Phước. Giống nho Shiraz là một trong những giống nho làm
rượu vang đỏ, mỗi chùm nho có hơn 100 quả, mỗi quả cân nặng 1,5g, năng suất
2 rượu vang xanh, sâm banh có khoảng 10 chùm/mP
P, mỗi chùm khoảng 95 quả,
15- 20 tấn/ha/vụ; còn giống nho Saw-Blanc là một trong những giống nho làm
khối lượng quả 1,45 g, năng suất 15-20 tấn ha/vụ.
Nhằm khẳng định tính thích nghi, năng suất, chất lượng nho làm rượu, từ
năm 2003, Trung tâm giống cây trồng vật nuôi tỉnh đã cùng Công ty Rượu vang
Pháp (Thành phố Hồ Chí Minh) ký kết hợp đồng trồng 1 ha nho rượu với giống
nho Shiraz và giống Saw-Blanc. Năm 2004, Trung tâm ký hợp đồng với Công ty
Chế biến thực phẩm Lâm Đồng trồng 2ha. Để góp phần xây dựng mô hình, phát
triển vùng nguyên liệu sản xuất các loại vang đỏ, vang xanh và sâm banh, các
công ty hợp đồng sản xuất với Trung tâm có trách nhiệm bao tiêu toàn bộ sản
phẩm với giá 6.000 đồng/kg và ổn định trong vòng 5 năm; đồng thời, ứng trước
vốn và thực hiện nhiều ưu đãi trong đầu tư ban đầu. Thông qua kết quả trồng thử
nghiệm, trồng theo hợp đồng, Trung tâm giống cây trồng vật nuôi tỉnh xác định,
thời gian sinh trưởng của 2 giống nho trên là rất ngắn, cây sinh trưởng mạnh, dễ
trồng, có khả năng kháng sâu bệnh cao. Mức đầu tư thâm canh nho rượu chỉ
bằng 50% mức đầu tư cho nho ăn tươi, do giảm được công lao động buộc cành,
tỉa trái, tiết kiệm chi phí công lao động và vật tư bảo vệ thực vật, vì khả năng
kháng sâu bệnh rất cao, kể cả trong mùa mưa. Đồng thời, trồng nho rượu không
đòi hỏi kỹ thuật quá cao, chỉ cần trồng đủng giống tốt, mật độ, tuân thủ kỹ thuật
canh tác để đảm bảo sản phẩm có chất lượng tốt, không có dư lượng thuốc bảo
84
vệ thực vật. Sau 6 tháng trồng cây nho làm rượu có thể cho quả bói, mỗi năm có
thể sản xuất được 3 vụ, năng suất ổn định từ 45 đến 60 tấn quả/ha/năm. Hiện
nay, trồng nho rượu lãi gấp 2 đến 3 lần trồng các loại nho ăn tươi truyền thống.
Sản phẩm ché biến chiếm gần 1/3 sản lượng nho của tỉnh, chủ yếu từ loại
nho chất lượng thấp. Phần lớn sản phẩm chế biến được mua lại từ thương lái lớn
(khoảng 60%) và các thương lái nhỏ địa phương (khoảng 40%), chủ yếu để nấu
rượu nho (khoảng 80%) và làm mứt nho (khoảng 20%).
❖ Chế biến rượu
Tổng số cơ sở chế biến rượu vang nho trên toàn tỉnh (qui mô hộ gia đình)
là 30 cơ sở, chủ yếu là chế biến thủ công: nguyên liệu nho thứ cấp (nho dạt,
hỏng, chùm nhỏ, trái thưa...). Trong số này có 3 cơ sở đăng kí nhãn hiệu hàng
hóa cho rượu vang nho là cơ sở Viết Nghi, Cường, và Ba Mọi, và trung tâm
thông tin ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có
2 cơ sở sản xuất vang theo dạng công nghiệp là tập đoàn Alied Domeq (vốn đầu
tư nước ngoài), công suất 10 triệu lít/ năm. Tuy nhiên do rất nhiều nguyên nhân
nên công ty này đang ngưng sản xuất khoảng 2 năm nay. Và công ty cổ phần
vang Thăng Long (Hà Nội) chi nhánh tại Ninh Thuận với công suất 3 triệu
lít/năm. Hiện công ty này mới kí với Ninh Thuận hợp đồng cung cấp nguyên
liệu làm rượu vang nho mang nhãn hiệu Thăng Long trên đất Ninh Thuận.
Để phát triến sản phẩm nho rượu UBND tỉnh Ninh Thuận vừa thông qua
mục tiêu đến năm 2010, phát triển sản xuất với qui mô 1000ha nho rượu, cung
cấp hàng năm từ 2.500 tấn đến 3.000 tấn nho nguyên liệu phục vụ chế biến
khoảng 1,8 triệu lít rượu vang chất lượng cao. Mục tiêu cơ bản của dự án sản
xuất thử các giống nho rượu gắn với chế biến rượu vang chất luợng cao của tỉnh
là đưa giá trị sản xuất từ 100 triệu đồng/ha/năm lên 150 triệu đồng/ha/năm.
Quy trình làm rượu hiện nay của các cơ sở trong tỉnh chủ yếu thủ công và
quy mô nhỏ: mỗi hộ chứa khoảng 20 chum (bằng đất sét nung), mỗi chum chứa
85
200 lít rượu. Như vậy mỗi cơ sở (như cơ sở Viết Nghi) mỗi lần làm khoảng
4.000-5.000 lít bán ra thị trường, cơ sở Cường nhiều hơn (gấp đôi).
Gạn lấy nước rượu nho
Nho tươi (xấu) rửa sạch
Nghiền nát/bóp nát bằng tay
Lên men tự nhiên (cho thêm đường vào hũ, chum dựng)
Đóng chai (bán ra thị trường)
Sơ đồ 2.2: Qui trình làm nho rượu bằng thủ công
Lọc ly tâm
Nho tươi (xấu) rửa sạch
Nghiền nát/bóp nát bằng tay
Xử lý Enzyme/thanh trùng
Đóng chai (bán ra thị trường)
Lọc phối chế
Lên men tự nhiên (cho thêm đường vào hũ, chum đựng)
Sơ đồ 2.3: Qui trình làm nho rượu bằng công nghiệp
Như vậy trên thực tế, rượu nho tại Ninh Thuận được làm thủ công, hết sức
đơn giản. Những khâu quan trọng như chọn loại nho để làm rượu, xử lí thanh
trùng, lọc ly tâm, lọc phối chế..., ngay cả đóng chai cũng không được quan tâm
và đúng quy trình an toàn vệ sinh, nên chất lượng rượu nho Ninh Thuận thấp,
chỉ có thể tiêu thụ nội địa với số lượng nhỏ. Hiện nay, rượu nho có nhãn (loại
chai thủy tinh) được tiêu thụ chủ yếu ngay tại tỉnh, đặt tại các khách sạn, bán
cho du lịch, hoặc các nhà bán lẻ, chợ tại một số tỉnh khác. Đó là các cơ sở Viết
Nghi, Cường với giá bán lẻ 23.000-25.000đồng/chai 500ml. Đây là hai cơ sở
nhanh nhạy trong việc dán nhãn mác và tự tìm thị trường, đầu ra cho sản phẩm
này. Ngoài loại chai thủy tinh, rượu nho Ninh Thuận còn được bán với bao bì
chai nhựa 1 lít hoặc can nhựa 21ít, 51ít và 10 lít.
86
Chế biến mật
Ngoài rượu vang, nho thứ phẩm còn được dùng để chế biến mật. Tổng số
có khoảng 20 hộ làm mật nho trên toàn tỉnh, chủ yếu với quy mô nhỏ, gia đình.
Việc chế biến mật còn đơn giản hơn làm rượu (chỉ bao gồm 3 bước đầu tiên).
Giá bán 1 lít mật nho khoảng 20,000 đồng/chai nhựa.
Sản phẩm chế biến khác
Hiện nay hầu như không có cơ sở chế biến nho khô vì giá thành cao, người
dân không biết được kĩ thuật làm nho khô. Riêng kĩ thuật ép nước quả cũng chỉ
đang là kết quả nghiên cứu khoa học, chưa được ứng dụng vào sản xuất đại trà.
Nhìn chung, các cơ sở chế biến nho còn ít, quy mô nhỏ trong hộ gia đình,
chủ yếu là nấu rượu. Quy trình chế biến đơn giản, chỉ có một số ít chất lượng
được Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Ninh Thuận kiểm nghiệm. Còn
hầu hết mang tính tự phát (tự làm, tự đóng gói, tự tiêu thụ).
Các cơ sở chế biến thường kinh doanh theo nhiều hình thức như bán theo
quốc lộ 1A, mở đại lí tại các tỉnh hoặc đưa vào các chợ ở các thành phố lớn như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ...Có cơ sở tự đưa sản phẩm
cảu mình đi giới thiệu tại các hội chợ thương mại (trong khi các cấp chính quyền
địa phương không biết, như trường họp của Viết Nghi).
Những khó khăn của người chế biến về quy trình chế biến rượu chất lượng
cao, kĩ thuật, quản lí chất lượng từ khâu nguyên liệu - đóng chai, thiếu thông tin
các sản phẩm chế biến khác từ nho, và thị trường tiêu thụ.
2.4.2.3. Thực trạng chế biến nho ở tỉnh Bình Thuận
Nho được trồng phổ biến ở Bình Thuận năm 1992, cho đến nay, năm 2004
diện tích cây nho tại Tuy Phong đạt 288 ha. Sản lượng nho của Tuy Phong đạt
khoảng 3.000 tấn/năm. Sản phẩm chủ yếu tiêu thụ trên thị trường. Nhìn chung,
việc chế biến nho tại Bình Thuận chưa phát triển.
87
Tuy nhiên, Trại giống Nho Vĩnh Hảo là đơn vị chủ lực cung ứng giống cho
nhân dân đồng thời là trung tâm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật, phổ biến kỹ
thuật canh tác nho cho các tổ chức và hộ gia đình trồng nho, trung tâm còn giúp
nông dân liên kết các cơ sở chế biến rượu mặt nho, vang nho nhằm tạo điều kiện
tiêu thụ sản phẩm nho từ nông dân.
SEDEC Bình Thuận tiến hành liên kết với doanh nghiệp thu mua nho để
chế biến sản phẩm rượu "Vang Vĩnh Hảo" tiêu thụ tại các siêu thị. Hiện có 3
công ty đang khảo sát lập dự án đầu tư phát triển vùng sản xuất nho rượu phụe
vụ nguyên liệu cho chế biến rượu nho... Một số hộ dân cũng đã chế biến rượu
mật nho tiêu thụ trên thị trường.
2.4.3. Liên kết giữa trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khảnh Hòa, Ninh
Thuân, Bình Thuận
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và người nông dân có nhiều kinh nghiệm
trồng nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Các tỉnh này có diện
tích, năng suất, sản lượng và chất lượng nho cao nhất trong cả nước nhất là Ninh
Thuận. Nhưng nhìn chung giữa các tỉnh này việc trồng nho, chế biến nho và tiêu
thụ nho mang tính độc lập, tự đầu tư phát triển của từng tỉnh. Các tỉnh hầu như
liên kết, phối họp trong việc trồng nho, chế biến nho và tiêu thụ nho trên thị
trường chưa chặt chẽ. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho trồng nho,
chế biến nho và tiêu thụ nho còn nhiều khó khăn bấp bênh, không ôn định.
Việc phối họp các nhà khoa học, nông dân của các tỉnh chưa chặt chẽ là do
suy nghĩ hạn hẹp, mang tính địa phương. Vì lợi ích kinh tế của từng địa phương
nên không muốn trao đổi, sợ cạnh tranh với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của
mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến ngành trồng nho của nước ta, chưa đáp
ứng được nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng. Tháng l0 năm 2004,
Trung tâm SEDEC Bình Thuận tổ chức hội thảo về Định hướng và Giải pháp
phát triển cây Nho cùng với các nhà khoa học Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
88
nghiệp Miền Nam định hướng tiềm năng phát triển cây nho theo xu hướng an
toàn, chất lượng và bền vững.
Việc hội nhập toàn cầu hóa nền kinh tế, vấn đề liên kết trồng và chế biến
nho là điều cần thiết cho các tỉnh trồng nho. Các nhà khoa học cần tư vấn cho
nông dân trong việc chọn lựa giống nho trồng, kỹ thuật trồng nho, cách chăm
sóc và thu hoạch nho cho nông dân. Nông dân phải tự tìm hiểu và tiếp cận đến
các nhà khoa học để được tư vấn cụ thể hơn.
Mỗi năm nên có những buổi hội nghị cho người nông dân giỏi trong trồng
và chế biến nho. Những hội nghị giữa người nông dân và các nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học nhằm giúp người nông dân tiếp cận, đặt câu hỏi cũng như những
mong muốn để các nhà khoa học và doanh nghiệp giải đáp.
2.4.4. Hiệu quả kinh tế trong trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận.
2.4.4.1. Hiệu quả kinh tế trong trồng và chế biến nho ở tỉnh Khánh
Hòa
Diện tích trồng nho ở Khánh Hòa rất ít. Nhìn chung, ngành trồng và chế
biến nho ở Khánh Hòa không được chú trọng phát triển, mặc dù theo một số hộ
gia đình trồng nho thì hiệu quả kinh tế từ cây nho khá cao....
Hộ ông Lê Ninh ở xã Cam Thịnh Đông, Cam Ranh, Nha Trang, hộ nông
dân sản xuất tiêu biểu năm 2005 cho biết, trồng giống nho xanh NHO1-48, nếu
bán với giá bình quân 15.000đồng/kg thì lãi ròng mỗi năm được 60.000.000
đồng. Tuy nhiên, nơi đây có nhiều ưu thế thuận lợi từ các cây trồng khác như
mía, xoài, điều có kinh tế cao nhất là xoài Cam Ranh năng suất cao, chất lượng
đứng đầu cả nước, và trồng xoài giống úc giá trị kinh tế lớn. Nên nho ở Cam
Ranh phát triển do tự phát, bán chủ yếu trong tỉnh.
2.4.4.2. Hiệu quả kinh tế trong trồng và chế biến nho ở tỉnh Ninh
Thuận
89
Cây nho được xem là "nữ hoàng" ở Ninh Thuận. Chỉ với khoảng trên 2.000
ha nhưng giá trị mà cây nho đem lại hàng năm gần 20% tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp của cả tỉnh. Sử dụng đất nông nghiệp để trồng nho mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác, theo ước tính thì thu
nhập 1 ha nho tương đương với thu nhập của 10 ha lúa nhưng phải bố trí cây
nho trên từng loại đất cụ thể để khai thác tối đa tiềm năng đất đai.
Qua tính toán hiệu quả kinh tế của cây nho so với một số loại cây trồng
khác, kết quả cho thấy trồng nho lãi gấp 9-10 lần so với trồng lúa, 6-7 lần so với
cây mía đường, và từ 3-4 lần so với các cây công nghiệp ngắn ngày khác được
trồng trên địa bàn tỉnh. Qua điều tra thu nhập trong nông nghiệp trung bình nho
lãi 55.740 triệu đồng/ha, lãi cao hơn nhiều so với một số cây trồng khác lúa 4,7
triệu đồng/ha, đậu xanh 4 triệu đồng/ha, dưa lấy hạt 2,6, triệu đồng/ha, mía 9
triệu đồng/ha, bông vải 9 triệu đồng/ha, thuốc lá 12,5 triệu đồng/ha.... Qua đó
lần nữa khẳng định cây nho là một lợi thế so với các cây trồng khác tại tỉnh Ninh
Thuận. Cây nho còn nhiều khả năng phát triển hơn nữa thế mạnh vốn có của nó
nếu chúng ta khắc phục những nhược điểm, yếu kém trong khâu trồng trọt, thu
hoạch, chế biến và tiêu thụ. [28, tr 9]
Hiện nay, nho Ninh Thuận vẫn chưa có một tên tuổi, thương hiệu nào đáng
kể trên thị trường. Ở Ninh Thuận nho xanh hiện nay chỉ xây dựng được một vài
thương hiệu, như nho Ba Mọi, Ninh Phú. Các sản phẩm của nho Ba Mọi có
khoảng 60 - 70 % vào siêu thị và được dán nhãn, số còn lại không có nhãn hiệu
được bán cho thương lái khác trong vùng (theo ông Ba Mọi)
Giống nho mới, nho xanh NHO1-48 đem lại hiệu quả cao cho người trồng.
P qua vụ đầu thu hoạch sản lượng từ 0,7 tấn vụ thứ nhất tăng lên 1,2 tấn ở
2 1.000mP
P nho xanh NH01-48 sản
2 vụ thứ hai rồi 1,5 tấn ổn định ở vụ thứ ba. Cứ l.000mP
Giá bán tại vườn trung bình 10-12 ngàn đồng, cao gấp hai lần nho đỏ. Chỉ với
xuất ra sản phẩm an toàn đã có lãi ròng mỗi vụ trên 10 triệu đồng.
Hiệu quả xã hội
90
Mở rộng diện tích trồng nho đạt chất lượng cao, an toàn. Chuyển giao
những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng và công nghệ sau thu hoạch, đầu tư
giống đưa giống mới vào sản xuất, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... Góp phần
ổn định thị trường tiêu thụ và nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng mức thu nhập
cho người dân.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ người thất nghiệp. Theo
dự tính, đến năm 2010 mở rộng 3.200 ha nho sẽ giải quyết công ăn việc làm cho
27.000 - 32.000 người trong vùng.
Thu nhập tăng đã góp phần cải thiện đời sống văn hóa tinh thần cho nhân
dân. Góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo, khắc phục sự phân hóa giàu nghèo
và sự khác biệt giữa thành thị và nồng thôn. Đồng thời phân bố lại lao động giữa
các ngành nghề, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, thúc đẩy thực hiện quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. [28, tr 38-39]
❖ Hiệu quả môi trường
Mở rộng diện tích trồng nho nhằm khai thác tiềm năng sử dụng đất đai có
hiệu quả theo hướng bền vững sinh học.
Hệ thống thủy lợi và giao thông được phát huy tốt, khả năng tưới tiêu đảm
bảo. Trồng nho với diện tích lớn góp phần tạo môi trường xanh, giữ đất, tăng
dinh dưỡng cho đất. Đồng thời trồng nho theo qui mô lớn có thể kết họp với du
lịch phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Theo đề tài nghiên cứu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong trái nho tại
tỉnh Ninh Thuận năm 1996 của TS Bùi Cách Tuyến (Trường Đại học Nông Lâm
TP. Hồ Chí Minh) cho thấy đa số hộ trồng nho đều sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật với liều lượng cao hơn khuyến cáo từ 1,5 - 2,5 lần, đa số các hộ có tập quán
phun thuốc theo định kỳ, 80 % phun từ 40 - 60 lần mỗi vụ, nhất là trong mùa
mưa nho bị bệnh nhiều gần như phun thuốc mỗi ngày, không chỉ tốn kém mà
91
còn gây ô nhiễm nặng đối với môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người
sản xuất và người tiêu dùng.
Nho ở Ninh Thuận và nho nhiệt đới nói chung chóng tàn, thời gian khai
thác ngắn, chỉ khoảng 10 năm, đã phải phá đi trồng lại (ở ôn đới 40 - 50 chục
năm). Đó là kết quả của việc "trồng cưỡng" cắt ba lần, thu hoạch 3 vụ 1 năm, vắt
kiệt sức bụi nho. Việc sản xuất nho hiện nay tại Ninh Thuận đang gặp nhiều khó
khăn như kỹ thuật canh tác chưa hợp lý, bón phân hóa học không cân đối, chất
lượng nho ngày càng giảm, chi phí đầu tư cao, dịch bệnh phát triển, năng suất
bấp bênh. Chính điều này, để giữ được năng suất, người trồng nho phải sử dụng
một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật, đã làm giảm giá trị sản phẩm do dư lượng
thuốc hóa học trong trái nho quá ngưỡng an toàn cho phép.
Vụ Thu đông năng suất thấp nhất, ít hơn vụ Đông xuân và Xuân hè tới 50%
sản lượng, chi phí lại cao hơn vì lượng mưa ở Ninh Thuận dồn về mấy tháng 9,
10, 11, 12; bệnh nặng đến độ phải phun thuốc 1 hay 2 ngày một lần (30 - 50 lần
phun một vụ). Phun thuốc nhiều thì tồn dư thuốc trên trái nho cao, ô nhiễm môi
trường cao. Vậy có thể đặt vấn đề có nên tiếp tục cắt 3 vụ một năm, hay lại trở
lại phương thức trước đây một năm chỉ cắt 2 vụ, bỏ vụ Thu đông vừa có năng
suất thấp vừa chi phí nhiều lại ô nhiễm môi trường.
2.4.4.3. Hiệu quả kinh tế trong trồng và chế biến nho ở tỉnh Bình
Thuận
Ở Tuy Phong, đến cuối năm 2003 Tuy Phong có 251 ha nho, trong đó có
23 ha giống mới năng suất, chất lượng cao; còn lại 228 ha giống cũ (Cardinal).
Đe đến 2010 đạt được tổng diện tích nho 1.000 ha, cần trồng mới 750 ha: bố trí
năm 2004 trồng 70 ha, năm 2005 trồng 110 ha, năm 2006 trồng 130 ha và từ
năm 2007- 2010 trồng mỗi năm 160 ha. Bên cạnh đó mỗi năm số diện tích cũ
đến chu kỳ phải trồng lại khoảng 30 ha giống mới năng suất cao, chất lượng tốt
để tăng hiệu qua. [27]
92
Lợi thế nhất của vùng trồng nho Tuy Phong là có Trại Giống Nho đóng
ngay trên địa bàn Huyện, những hoạt động của Trại trong 5 năm qua đã giúp cho
nông dân tiếp cận nhanh với kỹ thuật trồng nho và phát triển giống mới. Đồng
thời cũng từng bước hướng cho nông dân sản xuất phải gắn với công tác tiêu
thụ- thị trường.
Hiệu quả xã hội
Lao động trồng nho bình quân 1 ha giải quyết việc làm thường xuyên cho 6
lao động/ năm, chủ yếu lao động nữ. Mở rộng diện tích nho sẽ giải quyết việc
làm tăng thêm cho khoảng 3.000 lao động tại chỗ. Ngoài ra khi sản phẩm hàng
hoa tăng thêm thì mạng lưới dịch vụ thương mại cũng phát triển, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nâng cao mức sống cho nông dân,
xóa hộ đói giảm hộ nghèo; đem đến sự khởi sắc trong đời sống văn hóa tinh thần
của người dân. [27]
Hiệu quả và tác động đến môi trường:
Nho là cây ăn qua lâu năm, có bộ lá phát triển khá dày, luôn giữ được màu
xanh trên đồng ruộng (trừ thời gian cắt cành xen kẻ khoảng 2 tháng trong năm).
Ruộng nho luôn được tưới ẩm, tạo khí hậu tiểu vùng luôn xanh mát, biến những
vùng đất khô hạn thành những vùng nho xanh tươi.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích cơ bản đó, dự án không tránh khỏi
những tác hại đến tài nguyên và môi trường như vấn đề sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật trên cây nho là khá lớn nếu không có sự kiểm soát, hướng dẫn chặt chẽ
của các cơ quan chuyên môn, không những gây ảnh hưởng xấu đến môi trường,
mà còn ảnh hưởng đến sự an toàn cho người sử dụng. Mặt khác, vật liệu để làm
giàn nho chủ yếu là cây gỗ có đường kính từ 10-15 cm, cần phải được kiểm soát
và có kế hoạch cho khai thác tận dụng để giải quyết cây gỗ cho dân làm giàn
nho, hoặc nghiên cứu vật liệu thay thế trong tương lai.
93
Quy hoạch đến năm 2010 nếu đạt được 1.000 ha nho được chuyển dịch từ
đất lúa, đất màu, sẽ tăng nhanh giá trị sản xuất trên diện tích được chuyển đổi
lên ít nhất là 10 lần, hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích tăng lên, đóng góp
ngân sách, thu nhập nông dân tăng, góp phần xóa đói giảm nghèo trong vùng.
Bảng 2.9: Hiệu quả của trồng nho so với các cây trồng khác ở Tuy
Phong
Hiện trạng sản xuất
Chuyển đổi trồng Nho
Lợi nhuận tăng thêm/ hàng năm khi chuyển trồng Nho
Lợi nhuận (triệu đồng)
Doanh thu (triệu đồng)
Doanh thu trồng Nho (triệu đồng)
Lợi nhuận trồng nho (triệu đồng)
Diện tích chuyên đỗi theo quy hoạch (ha)
22 286 345
141 4118 3416
44 1716 2001
5.214 67.782 81.765
2.794 36.322 43.815
2.420 31.460 37.950
Lúa 1 vu Lúa 2 vụ Đất màu- CCNNN Đất khác Tổng số
97 750
582 8.257
388 4.149
22.989 177.750
12.319 95.250
10.670 71.500
Nguồn: Dự án trồng nho huyện Tuy Phong
2.4.5. Đánh giá về trồng và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận
Nho là cây trồng không đòi hỏi cao về điều kiện tự nhiên, nhưng lại yêu
cầu cao về kỹ thuật, công chăm sóc. Nhìn chung, nho trồng nhiều nơi trong nước
nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào thu nhập chính của phần lớn
nông dân vả tổng thu nhập trong hoạt động nông nghiệp chủ yếu ở các tỉnh
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Trong đó, Ninh Thuận và Bình Thuận là
hai tỉnh phát triển ngành trồng nho thương mại sớm nhất trong cả nước, có nhiều
điều kiện thuận lợi cho trồng nho. Do vậy, hai tỉnh này đều có những dự án,
94
trung tâm nghiên cứu về cây nho. Công tác nghiên cứu chọn giống nho ở 2 tỉnh
được quan tâm lớn nên đến nay đa dạng các giống nho trong sản xuất.
Viện nghiên cứu Cây Bông và Cây có sợi Nha Hố có trên 150 giống trong
đó 90 giống nho ăn, 38 giống nho rượu, 4 giống nho gốc ghép và đã xác định 3
giống nho rượu, 3 giống nho ăn có triển vọng và giống NHO Ì-48 đã được Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống quốc gia, phục tráng
giống nho Cardinal.[20, tr 2]
Trung tâm giống cây trồng vặt nuôi Ninh Thuận đã nhập 35 giống nho
trong đó có 18 giống nho ăn và 17 giống nho rượu đã khảo nghiệm diện rộng
giống Black Queen. [20, tr 2]
Trung tâm SEDEC Bình Thuận thành lập Trại giống nho Vĩnh Hảo đến nay
nhập nội 102 giống nho, trong đó có 52 giống nho ăn, 39 giống nho rượu và 11
giống gốc ghép, đã khảo nghiệm diện rộng 2 giống gốc ghép, 5 giống nho ăn, 4
giống nho rượu. [20, tr 2]
Hiện diện tích trồng nho của 2 tỉnh là 2.012 ha (năm 2004). Trong đó diện
tích nho ghép giống mới là 643 ha và nho Cardinal trồng không qua gốc ghép là
1.369 ha. Trong 643 ha nho ghép chiếm 32% tổng diện tích có 358 ha nho ghép
NHO 1-48, 210 ha nho Cardinal ghép, 65 ha nho Black Queen ghép và diện tích
còn lại là các giống Italia, Red Star ghép. Các giống nho mới cũng dần được
trồng thay thế cho giống Cardinal do có những đặc điểm tốt như năng suất cao,
chất lượng tốt, đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng.
Hai tỉnh tiến hành quy hoạch phát triển nho đến năm 2010. Ninh Thuận
3.200 ha trong đó nho giống mới chiếm 1.000 ha, sản lượng 60 - 70 ngàn tấn và
Bình Thuận từ 1.000 - 1.800 ha trồng chủ yếu là nho giống mới cho ăn tươi và
làm rượu.
Theo tính toán đến năm 2010, diện tích nho thu hoạch khoảng 2.708 ha với
năng suất bình quân tăng lên 24 tấn/ha và sản lượng ước đạt 65.000 tấn. Để nâng
95
cao hiệu quả kinh tế của cây nho đến năm 2010 càn nâng cao năng suất trên đơn
vị diện tích bằng cách áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chọn
lọc tạo các giống nho mới có năng suất cao, phẩm chất tốt và chống chịu với
điều kiện bất lợi của tự nhiên, chống chịu sâu bệnh hại,...
Năm 2005, huyện Tuy Phong, Bình Thuận, tổng diện tích trồng nho đạt
385 ha, và theo xu hướng mở rộng diện tích, đến năm 2010 đạt 1.000 ha với
năng suất bình quân tăng lên 21,2 tấn/ha và sản lượng nho toàn huyện ước đạt
21.800 tấn. Hiện đang kêu gọi dự án đầu tư trồng nho và chế biến rượu nho tại
huyện Tuy Phong với quy mô vườn trồng là 200 ha, sản lượng nho đưa vào chế
biến rượu vang nho 6.000 tấn nho quả/năm.
96
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ TRỒNG VÀ CHẾ
BIẾN NHO Ở CÁC TỈNH KHÁNH HÒA, NINH THUẬN, BÌNH THUẬN
3.1. Cơ sở của việc định hướng
Căn cứ vào những điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên và điều kiện
KT - XH trong việc trồng nho của các tỉnh (như đã nêu ở mục 3 chương 2) và
những kinh nghiệm của người dân trong việc trồng và chế biến nho.
Căn cứ Quyết định số 7183/QĐ ngày 23/12/2002 của Chủ tịch ủy ban Nhân
dân tỉnh Ninh Thuận về việc phê duyệt Dự án Quy hoạch phát triển Nho tỉnh
Ninh Thuận giai đoạn 2002 - 2010 (phụ lục).
Căn cứ Quyết định số 25/QĐ ngày 06/01/2005 của Chủ tịch ủy ban Nhân
dân tỉnh Bình Thuận về việc phê duyệt Dự án Đầu tư phát triển cây Nho huyện
Tuy Phong giai đoạn 2004 - 2010 (phụ lục).
Với mục tiêu thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất và hiệu quả
kinh tế của nông dân, cây nho cần phải đưa vào cơ cấu cây trồng nông nghiệp
một cách ổn định.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, mức sống của dân cư ngày càng
được nâng cao, nhu cầu về dinh dưỡng ngày càng được tiêu chuẩn hóa. Thành
phần dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày của đại đa số dân cư đang có xu hướng
giảm dần chất đường bột, chất đạm và chất béo, tăng nhanh nhu cầu thực phẩm
rau qua trong bữa ăn hàng ngày. Do đó phát triển cây ăn qua nói chung và cây
Nho nói riêng là phù hợp với nhu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Quả
nho được xem là loại qua cao cấp, quý phái; là loại sản phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao, hấp dẫn, dễ ăn, phù họp cho mọi lứa tuổi.
Sản lượng Nho cả nước chỉ ở mức 50.000-60.000 tấn qua/năm, trong khi
đó nhu cầu sử dụng còn rất lớn. Nêu mỗi người dân bình quân dùng 2 kg nho/
năm, thì nhu cầu cũng lên đến 160.000 tấn, ngòai ra triển vọng phát triển du lịch
97
đang mở ra thì nhu cầu tiêu thụ rượu vang cũng tăng lên, ước tính tổng nhu cầu
cả nước là 200.000 tấn/ năm, như vậy so với sản lượng nho hiện tại thì cũng mới
đáp ứng được 15% nhu cầu. Sản lượng cần phải đáp ứng thêm từ 200.000 -
300.000 tấn tương đương với 10.000 ha. Do chưa đáp ứng nhu cầu nên hiện nay
Nho còn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Mỹ, Úc, Thái Lan để phục vụ nhu cầu
tiêu dùng trong nước. Nho nhập khẩu tuy chất lượng ngon, hình thức hấp dẫn,
nhưng giả cả đắt gấp 3 lần so với Nho giống mới của ta, chỉ phù họp một bộ
phận người tiêu dùng có thu nhập cao. Trong khi đó với mức sống của người
bình thường thì giá sản phẩm Nho trồng trong nước đáp ứng được nhu cầu đại
đa số dân cư trong nước. Theo ý kiến các nhà phân phối thì hiện nay lượng
người tiêu dùng đang chuyển dần từ sử dụng "nho ngoại" sang "nho nội" ngày
càng đông. Điều này thúc đẩy cho ngành trồng nho trong nước phát triển.
Trước những cơ sở đó, việc phát triển ngành trồng nho và chế biến nho
theo các hướng sau:
3.1.1. Mở rộng diện tích
Diện tích đất thích nghi cho trồng nho vẫn còn nhiều nên việc mở rộng diện
tích đất trồng nho là điều có thể thực hiện. Tuy nhiên, người dân trồng nho vẫn
chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, do nhận thức của người dân chưa cao,
không thực hiện đúng những yêu cầu kĩ thuật trồng trọt, chạy theo lợi nhuận.
Nên diện tích nho trồng biến động, không ổn định. Điều này ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả kinh tế cho người dân.
Ngoài ra, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm tăng diện tích trồng nho. Khai
hoang những vùng đất, đồi để mở rộng diện tích đất trồng nho. Điều này cần có
chính sách hỗ trợ vốn, chính sách thuê đất cho các hộ trồng nho.
Hiện tại, tiềm năng đất thích nghi đối với cây nho trên địa bàn tỉnh Ninh
Thuận còn rất lớn khoảng 7.900 ha, trong đó huyện Ninh Phước chiếm hơn
4.700 ha; trong số nàỷ ước khoảng 4.000 ha đất chủ động nước tưới, là điều kiện
rất thuận lợi để mở rộng diện tích nho trong những năm sắp tới.
98
3.1.2. Tăng năng suất
Hiện nay, quá trình đô thị hóa ngày càng tăng cũng như việc tăng dân số đã
làm giảm diện tích đất dành cho nông nghiệp nói chung và diện tích cho trồng
nho. Do vậy, việc tăng năng suất trên một diện tích trồng là rất cần thiết, người
trồng nho phải tiếp cận với máy móc, công cụ lao động kĩ thuật hiện đại, sử
dụng giống tốt. Người trồng nho cũng phải nâng cao kiến thức hiểu biết về cây
nho và nắm vững kỹ thuật canh tác. Năng suất nho tùy thuộc vào giống, mùa vụ,
và mức độ chăm sóc.
3.1.3. Tăng chất lượng
Sau khi thu hoạch, nho không chín thêm nữa. Nên khi nho thu hoạch sớm
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nho, nho hơi chua, dễ vỡ, dễ hư hỏng dẫn đến giá
thành sản phẩm thấp và người tiêu dùng khó chấp nhận.
Do vậy, để tăng chất lượng nho trước hết người nông dân cần có ý thức
trong việc chăm sóc và thu hoạch nho. Xây dựng thương hiệu sản phẩm nho:
nho an toàn, chất lượng cao. Sử dụng thuốc trừ sâu đúng liều lượng, bảo vệ cho
người trồng và người tiêu dùng.
3.1.4. Đa dạng giống nho
Với sự hỗ trợ của các Viện, Trung tâm nghiên cứu giống, Viện khoa học kỹ
thuật đã nghiên cứu nhiều loại giống nho mới có khả năng kháng bệnh, cho năng
suất cao, chất lượng tốt. Ngoài các giống nho dành cho ăn tươi, các trung tâm
nghiên cứu các giống nho rượu, nho khô nhằm đa dạng cấc sản phẩm nho. Công
tác giống đã tạo được những chuyển biến rõ nét góp phần nâng cao chất lượng
và năng suất cho sản xuất nho.
Hiện nay, đã có nhiều giống nho ăn tươi mới được đưa vào sản xuất với
màu sắc và chất lượng khác nhau, người tiêu dùng chấp nhận với giá cả khá cao
biến động từ 10.000 - 20.000 đ/kg (tùy mùa vụ). Với chất lượng các giống nho
99
mới và đảm bảo nho sạch, quảng bá tốt, sẽ tạo sự hấp dẫn mạnh đối với người
tiêu dùng.
3.1.5. Đa dạng hóa sản phẩm
Việc đa dạng hóa sản phẩm nho rất cần thiết cho ngành trồng nho. Từ nho
có thể làm ra nhiều sản phẩm khác nhau có giá trị đem lại hiệu quả kinh tế cao
như nho rượu, nho khô, nước sirô nho,.... Do vậy, các Viện, trung tâm nghiên
cứu cung cấp giống nho, công nghệ sản xuất, kỹ thuật trồng, phương pháp sử
dụng phân bón, thuốc trừ sâu, người trồng nho cung cấp nguyên liệu và các
doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm và tìm nguồn tiêu thụ. Đồng thời công tác
khuyến nông của tỉnh cần đầu tư chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, tập
huấn nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học kỹ thuật cho người sản xuất.
Ngoài ra, cần sự hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ của nhà nước tạo vốn, tạo cơ sở pháp lý,
các điều khoản ràng buộc của các "nhà".
Điều kiện đất đai, thời tiết khá phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của
cây nho ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Đặc biệt ngành trồng nho ở Ninh Thuận,
Bình Thuận được sự quan tâm, giúp đỡ của các ban ngành trong Tỉnh. Đây là
những điều kiện quan trọng giúp cho ngành trồng nho ở ở Ninh Thuận, Bình
Thuận vẫn tiếp tục phát triển và mở rộng.
3.2. Định hướng và các mô hình
Hiện nay trên thế giới có hon 150.000 giống nho ăn và 110 giống nho làm
gốc ghép. Tại Việt Nam có 4 cơ quan đã nhập và nghiên cứu, chọn lọc ra một số
giống nho ăn có triển vọng: đang làm công tác nghiên cứu, khảo nghiệm chọn
lọc và phổ biến giống nho mới gồm:
- Viện nghiên cứu rau quả.
- Viện nghiên cứu cây Bông và cây có sợi Nha Hố - Ninh Thuận.
- Trung tâm Giống nông nghiệp Ninh Thuận.
100
- Trại giống Nho Vĩnh Hảo -Tuy Phong - Bình Thuận (thuộc Trung tâm
Khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội vùng duyên hải tỉnh Bình Thuận).
Để phát triển hoạt động ngành trồng và chế biến nho ở Ninh Thuận và Tuy
Phong đạt kinh tế cao cần thực hiện một số mô hình tổ chức sản xuất như: phát
triển kinh tế trang trại, thành lập hiệp hội, liên doanh nước ngoài... Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân có vốn đầu tư trồng Nho theo mô hình kinh tế trang
trại, mở rộng diện tích trồng nho, thu mua sản phẩm đưa vào chế biến. Cần tổ
chức thành tổ hợp tác, hoặc hiệp hội Nho để liên kết các tổ chức, cá nhân trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ.
3.2.1. Hộ gia đình
Hộ gia đình là hình thức sản xuất nhỏ. Là hình thức kinh tế quy mô gia
đình, sử dụng nguồn lao động của các thành viên trong gia đình. Hình thức này
phổ biến ở các huyện, thị của Ninh Thuận, Bình Thuận. Phần lớn các thành viên
trong hộ gia đình là thuần nông, nguồn thu nhập chính chủ yếu dựa vào trồng
nho. Nguồn thu nhập chủ yếu của nông dân là từ cây nho chiếm 76% thu nhập,
điều này cho thấy cây nho rất quan trọng đối với người nông dân, ảnh hưởng
gần như trực tiếp đến cuộc sống người nông dân. Do vậy, cây nho đóng vai trò
quan trọng trong đời sống của họ. Tuy nhiên hiện nay nho trồng chủ yếu từ các
hộ gia đình với quỹ đất nhỏ, manh múm, dựa vào thiên nhiên, nên sản lượng và
năng suất bấp bênh, không ổn định.
Hiện nay, hộ trồng nho đóng vai trò quan trọng trong việc trồng nho, cung
cấp nho trên thị trường, tuy nhiên do hạn chế về diện tích, về nguồn vốn, về
trình độ kỹ thuật, phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch,
rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. ... nên ảnh hưởng rất lớn đến việc mở
rộng ngành trồng nho.
Phần lớn hộ trồng nho ở Ninh Thuận, Bình Thuận sử dụng kiểu giàn lưới
qua đầu. Kiểu giàn này giúp cho cây nho tận dụng được tối đa diện tích trống để
phát triển cành, nhánh, cho năng suất cao trong mùa nắng. Tuy nhiên trong mùa
101
mưa, kiểu giàn này rất bất lợi vì không thông thoáng, tạo vùng tiểu khí hậu với
ẩm độ dưới giàn rất cao, thuận lợi cho nấm bệnh phát triển, gây tốn tiền thuốc và
kém hiệu quả. Bên cạnh đó, người nông dân chưa ý thức bảo vệ sản phẩm cây
trồng, công cụ sản xuất thô sơ, trồng nho theo kinh nghiệm, thói quen nên chất
lượng nho chưa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Người trồng nho rất
cần cù trong sản xuất nhưng nhận thức về thương mại, thị trường, kênh tiêu thụ
còn kém nên rất lúng túng trong việc tiêu thụ.
Do nguồn vốn tự có của người dân không nhiều (chiếm 30,31%), để có đủ
vốn sản xuất họ phải đi vay từ nhiều nguồn (ngân hàng, quỹ xóa đói giảm nghèo,
láng giềng...). Vốn và kỹ thuật là những khó khăn lớn mà chính quyền địa
phương và cấc nhà khoa học cần quan tâm tháo gỡ cho nông dân. Do vậy, người
trồng nho cần chủ động hơn trong việc trồng và chế biến nho.
Mỗi địa phương trồng nho cần có thư viện cho người nông dân để người
nông dân tiếp cận dần những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật, thay đổi tập
quán, thói quen lối sống nông dân của mình. Và người trồng nho phải tự tìm đến
nhà khoa học để được tư vấn trong việc trồng nho, tạo sản phẩm nho chất lượng
cao, sạch, và tự tìm thị trường tiêu thụ nho cho hộ gia đình mình.
3.2.2. Trang trại
Ở Việt Nam, trang trại mới phát triển từ đầu thập kỉ 90 song nó đã tạo ra sự
phát triển mới trong nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện để nông nghiệp
nước ta chuyển nhanh sang sản xuất hàng hóa. Trang trại là hình thức sản xuất
cao hơn hộ gia đình. Kinh tế trang trại là kết quả tất yếu của kinh tế hộ gia đình
gắn với sản xuất hàng hóa, là hình thức tiến bộ mới của sản xuất nông nghiệp
thế giới, Hình thức trang trại đòi hỏi cao về nguồn vốn, về trình độ kỹ thuật, về
việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong hoạt động sản xuất nhưng đem lại
hiệu quả kinh tế lớn hơn nhiều so với hộ gia đình. Theo quy định của nhà nước
về trang trại, diện tích đất trồng cây lâu năm là 3 ha giá trị hàng hóa 40 triệu
đồng trở lên của một năm.
102
Hiện nay, cả nước có trên 120.000 trang trại với các loại hình. Toàn tỉnh
Ninh Thuận có gần 1000 trang trại với các loại hình phong phú, đa dạng. Hàng
năm các trang trại đã cung cấp một lượng lớn sản phẩm hàng hóa cho thị trường.
Nhiều mô hình kinh tế trang trại phát triển quy mô lớn đã đem lại thu nhập cao
cho các hộ dân.
Sự phát triển kinh tế trang trại ở các vùng nông thôn là cần thiết vì nó có
khả năng tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người dân thiếu việc làm.
Đồng thời việc phát triển kinh tế trang trại cũng phải nhằm vào việc bảo vệ tài
nguyên. Các chủ trang trại phải cỏ trách nhiệm đến việc duy trì, phục hồi và gia
tăng độ màu mỡ cho đất, đảm bảo sự cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường sống
cho sinh vật và con người. Do vậy cần quy hoạch sử dụng đất gắn với việc xác
lập quyền sở hữu tư nhân lâu dài cho chủ trang trại.
Trang trại trồng nho hiện nay chưa nhiều, chủ yếu dựa vào quỹ đất của
từng gia đình. Việc tập trung phát triển kinh tế trang trại nho sẽ thu hút một khối
lượng lớn tiền vốn trong dân đầu tư vào sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc
làm, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở các vùng nông thôn, tạo xu hướng họp tác
phát triển trong sản xuất kinh doanh. Lập trang trại trồng giống nho mới đòi hỏi
đầu tư cao (khoảng 150 triệu đồng). Trong điều kiện nguồn lực đất đai bị hạn
chế, diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người thấp, việc phát triển ngành
trồng nho theo chiều sâu là điều cấp thiết.
Các hệ thống ngân hàng và tín dụng nông thôn phải được thiết lập nhằm
giúp đỡ các hộ nông dân và chủ trang trại sử dụng các nguồn lực địa phương để
đầu tư vào đổi mới trang thiết bị cống cụ, nâng cao trình độ học vấn, sự hiểu biết
về thị trường, về việc chăm sóc cây trồng, thu hoạch nông sản được kinh tế cao.
Một số hộ gia đình đầu tư về công nghệ, nắm vững kinh nghiệm trồng nho
đã phát triển thành trang trại nho. Điển hình hộ ông Nguyễn Văn Mọi ở Ninh
Thuận. Với diện tích trồng nho 2 ha nhưng chuyên trồng nho các loại ăn tươi,
nho rượu, kết hợp sự hổ trợ của các trung tâm khoa học, và tâm huyết với cây
103
nho đã tăng năng suất cây trồng, chất lượng nho an toàn và tự tìm đầu ra cho sản
phẩm và tạo thương hiệu của mình nho "Ba Mọi".
Việc phát triển trang trại trồng nho cần gắn kết với việc trồng cây trồng
khác hoặc nuôi vật nuôi sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao, sự rủi ro giảm đi và
đem lại nhiều việc làm cho nông hộ, tăng thu nhập kinh tế gia đình. Tại xã Phú
Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận ông Nguyễn Văn Mưa người Chăm
phát triển trang trại trồng nho khoảng 1,2 ha, thu lãi từ 120-150 triệu đồng/năm.
Ông phát triển thêm dịch vụ thu mua, tự tìm thị trường tiêu thụ, giúp bà con
không bị tư thương ép giá. Mỗi vụ, ông tiêu thụ được 300 tấn nho, thu về 30
triệu đồng tiền lãi. Không để đất chết, ông chủ trương "lấy ngắn nuôi dài" tiếp
tục thâm canh lúa nước cho thu nhập ổn định 30 triệu đồng/năm. Trang trại còn
chăn nuôi 20 con bò cái sinh sản cho thu nhập mỗi năm 20 triệu. Tổng thu nhập
hàng năm gần 200 triệu đồng, với 4 khẩu, bình quân đạt 4,1 triệu
đồng/tháng/khẩu. Ông Mưa chú trọng đầu tư cho cây nho vì "tôi không chỉ bảo
vệ cây nho của tôi mà muốn bảo vệ uy tín cây nho cả vùng".
Tại thôn Phú Tân, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, anh
Huỳnh Tấn Sơn hiện phủ kín được l,5ha theo mô hình "trên nho, dưới hoa" đã
trở thành một sự kiện đáng chú ý của nông nghiệp Lâm Đồng. Sơn bảo: "Sắp
đến, tôi sẽ phủ kín cả 7ha trang trại theo hình thức "trên nho, dưới hoa".
Từ trang trại nho này, 3 tấn nho thu bói vụ đầu tiên được tiêu thụ nhanh
chóng với giá 30.000 đồng/kg (loại 2) và 45.000 đồng/kg (loại 1). gấp nhiều lần
so với nho đỏ Ninh Thuận, có mặt ở siêu thị cao cấp dưới Sài Gòn.
Phát triển trang trại nho có thể kết hợp với hoạt động du lịch sinh thái vườn
nho dành cho khách du lịch. Thông qua đó, sản phẩm nho sẽ được bán tại chỗ,
giảm chi phí vận chuyển, người du lịch có sản phẩm làm quà cho người thân.
Tuy nhiên hiện nay quỹ đất có hạn, việc mở rộng trang trại trồng nho rất
khó thực hiện, nông dân không có vốn để mua đất. Do vậy, cần phải có chính
sách của UBND, các Sở ban ngành cho nông dân thuê đất sử dụng thời hạn 20-
104
50 năm, sau đó gia hạn thời gian thuê tiếp đối với những hộ có nhu cầu, phát
triển trồng nho hiệu quả ở những vùng đồi núi, ở những nơi có điều kiện tốt cho
trồng nho nhưng chưa khai thác.
Các chủ trang trại phải sử dụng các biện pháp quản lý sản xuất hiệu quả, an
toàn nhằm tránh tình trạng các chủ trang trại vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà
lạm dụng quá mức các chất hóa học để kiểm soát sâu bệnh, hoặc sử dụng các
chất kích thích tăng trượng để tăng năng suất cây nho... gây ra những tác hại lâu
dài cho sức khỏe con người và môi trường sinh thái. Các trang trại đóng vai trò
là cầu nối để chuyển giao công nghệ này một cách nhanh chóng cho nông dân
địa phương, đặc biệt là chuyển giao cho các hộ nông dân đang sản xuất cây nho.
Trang trại thúc đẩy thị trường tiêu thụ, phát triển công nghệ sơ chế, chế biến nho.
3.2.3. Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
(gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động các thành viên của các tổ họp tác vẫn là hùn vốn, hỗ trợ vốn,
cùng nhau ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, họp tác làm thủy lợi, bơm tưới, hỗ trợ
nhân lực sản xuất... Đầu năm 2006, cả nước có 17.133 họp tác xã với các loại
hình. Các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chiều hưởng phát triển đa ngành
nghề, kinh doanh tổng hợp nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu xã viên.
Hợp tác xã là lực lượng quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển,
tạo mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động của từng hộ. Các hợp tác xã nông nghiệp có chiều hướng phát triển đa
ngành, đa nghề, kinh doanh tổng hợp, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã viên.
105
Xu hướng của các hợp tác xã hiện nay là phát triển theo chiều sâu, huy
động vốn, đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, nâng cao hiệu quả quản lý, đổi mới phương thức hoạt động. Xu thế họp
tác, liên kết giữa các hợp tác xã với cơ quan nghiên cứu khoa học, các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp tục mở rộng ở nhiều nơi. Hoạt
động sản xuất kinh doanh của các họp tác xã đã có nhiều chuyển biến đáng kể,
phát triển và dần đi vào ổn định, góp phần không nhỏ vào việc xóa đói giảm
nghèo, tạo công ăn việc làm.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Ninh Phú đóng trên địa bàn thị xã Phan
Rang - Tháp Chàm. Để thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, hợp tác xã Ninh Phú đã
chủ động liên hệ với Hiệp hội trái cây miền nam, nghiên cứu, thiết kế mẫu bao
bì để đóng gói nho an toàn mang nhãn hiệu "Nho Ninh Phú" để đưa vào tiêu thụ
tại các siêu thị ở TP Hồ Chí Minh. Tuy mới chỉ làm được một vụ nhưng do đã
có thương hiệu, dù chưa đăng ký được bản quyền nhưng nho của hợp tác xã
Ninh Phú thu hoạch đến đâu đều tiêu thụ hết đến đó với giá ổn định từ 13.000
đến 16.000 đồng/kg. Hợp tác xã phải bảo đảm chất lượng nhất là độ an toàn của
nho Ninh Phú với Hiệp hội trái cây Miền Nam.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Ninh Phú thành lập năm 2005, đến tháng
6/2006 có khoảng 16 hộ tham gia của nhiều phường xã ở thị xã PR - TC. Ông
Lê Phúc làm chủ nhiệm hợp tác xã, chịu trách nhiệm trong việc tiêu thụ sản
phẩm nho của hợp tác xã.
Không những phát triển mô hình họp tác xã cho người trồng nho, mà còn
cần phát triển mô hình hợp tác xã cho người thu mua, tư thương riêng, nhỏ lẻ
hình thành hợp tác xã thu mua. Hợp tác xã này có thể cung cấp nguồn vốn cho
người trồng nho muốn mở rộng diện tích, hoặc thay đổi phương tiện sản xuất,
đổi mới công nghệ,... Hợp tác xã này có trách nhiệm thu mua sản phẩm của
nông dân, tìm nguồn tiêu thụ, họrp tác xã liên hệ với các nhà máy nhằm cung
106
cấp nguyên liệu cho các nhà máy. Như vậy người nông dân và nhà máy chỉ
chuyên tâm sản xuất, chú trọng về chất lượng, năng suất sản phẩm.
3.2.4. Doanh nghiệp nông nghiệp
Loại hình doanh nghiệp nông nghiệp là sự liên kết giữa doanh nhân nông
nghiệp với nhà khoa học, ngân hàng để cho ra những sản phẩm chất lượng cao,
giá thành hạ, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong đó yếu tố
chất xám (khoa học, công nghệ) phải rất cao. Hình thành loại hình doanh nghiệp
mới cả về quy mô lẫn chất lượng. Doanh nghiệp nông nghiệp có thể dựa vào
nguồn vốn đầu tư của Nhà nước nhằm khai thác trồng và chế biến nho đạt hiệu
quả tốt nhất.
Hiện nay, ở Ninh Thuận có các Trung tâm nghiên cứu về cây nho, trên cơ
sở đó các trung tâm này sẽ phát triển thành doanh nghiệp nông nghiệp. Nhà
nước khoán đất hoặc cho trung tâm thuê đất với quy mô lớn, thời hạn thuê trên
50 năm. Ngoài ra tư nhân hay tổ chức kinh tế đầu tư với quy mô lớn, thuê đất
của nhà nước hoặc nông dân phát triển thành doanh nghiệp nông nghiệp. Các kỹ
sư nông nghiệp và công nhân của doanh nghiệp khai thác trồng nho kết họp với
chế biến nho. Mô hình này sề khai thác cây nho triệt để, phương pháp canh tác
trồng nho theo kỹ thuật mới áp dụng nhanh, tiếp cận nhanh với tiến bộ khoa học
kỹ thuật. Trung tâm cỏ thể trồng nhiều giống nho gồm nho ăn tươi, nho rượu,
nho khô,... kết hợp xây dựng xí nghiệp chế biến nho tại chỗ, giảm chi phí vận
chuyển và tận dụng nho phế thải từ nho ăn tươi. Sản phẩm nho được bán ra thị
trường với chất lượng cao, uy tín, người tiêu dùng tin cậy.
Hiện nay, vốn đầu tư cho nông nghiệp chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng vốn
đầu tư xã hội nên sự phát triển trong nông nghiệp so với các khu vực kinh tế-xã
hội khác còn thấp, việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư phát triển cho khu vực
nông nghiệp chưa thích đáng mặc dù số người lao động trong nông nghiệp vẫn
còn cao. Điều này cần có sự thay đổi vượt bậc trong hoạt động nông nghiệp. Sản
xuất kinh doanh nông nghiệp vẫn được xem là lĩnh vực có nhiều rủi ro, bởi
107
những biến đổi của thời tiết, khí hậu, dịch bệnh, điều kiện đảm bảo về hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật... nền nông nghiệp nước ta vẫn mang nặng tính sản xuất nhỏ, kỹ
thuật giản đơn, thiếu chuyên môn hóa, đầu tư manh mún... Chưa có chiến lược
thu hút đầu tư nước ngoài vào nông, lâm nghiệp. Hệ thống cơ chế, chính sách
thu hút đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn; hệ thống sản xuất, chế biến, lưu thông hàng
hóa nông- lâm sản còn nhiều bất cập. Công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến
đầu tư nước ngoài chưa được coi trọng đúng mức.
Hoạt động doanh nghiệp nông nghiệp vẫn cần có sự "hợp tác bốn nhà", nhà
doanh nghiệp thuế đất trồng của nông dân dài hạn, nông dân vẫn tiếp tục lao
động trên đất trồng này và nhận tiền công lào động của mình (thỏa thuận với
doanh nghiệp). Mọi kế hoạch trồng cây gì, nuôi con gì, chế biến ra sao, bảo quản
ra sao, bán cho ai, bán giá nào, người nông dân không cần quan tâm. Độ là việc
của nhà doanh nghiệp. Nông dân có thu nhập cao hơn rõ rệt. Nhà nước giúp cho
nhà doanh nghiệp vay tín dụng nếu thấy có khả năng hoàn vốn và trả lãi ngân
hàng đúng kỳ hạn. Đây là mô hình tích tụ mộng đất dễ thực hiện nhất và đem lại
hiệu quả cao cho nông dân và doanh nghiệp. Nhà doanh nghiệp kết hợp với nhà
khoa học để được áp dụng kỹ thuật mới, công nghệ mới, thiết bị hiện đại và nhà
doanh nghiệp phải nghĩ đến xuất khẩu thì mới có thu nhập cao ổn định. vấn đề
bức thiết hiện nay là nhà nước phải có chính sách phù hợp để nối kết nhà nông
và doanh nghiệp, nhà khoa học, chia sẻ với nhau những rủi ro, thách thức cũng
như cùng hưởng lợi nhuận.
Trong tương lai, Nhà nước kết hợp các trung tâm nghiên cứu nho thành
Viện nghiên cứu về cây Nho ở Việt Nam.
3.2.5. Doanh nghiệp liên doanh nước ngoài
Khi Việt Nam vào WTO, thị trường nông sản sẽ rộng mở, nhất là với các
mặt hàng thúy sản và cây ăn quả. vốn đầu tư nước ngoài gia tăng sẽ kéo theo sự
xuất hiện của nhiều nhà máy sơ chế hoặc chế biến nông sản. Nhờ đó, lao động
nông nghiệp có thêm công ăn việc làm; người tiêu dùng mua được sản phẩm rẻ,
108
tốt; nông dân nghèo có cơ hội phát triển nhờ các giống mới cho năng suất và giá
trị kinh tế cao...
Đất đai đang là bài toán khó cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư phát triển
với quy mô lớn tuy nhiên tình trạng thiếu đất sản xuất, hoặc không thể có đất để
tạo vùng nguyên liệu cùng với sự rủi ro của thiên nhiên, nguồn nguyên liệu bấp
bênh, những phân biệt đối xử với doanh nghiệp trong nước gây nhiều khó khăn
cho doanh nghiệp liên doanh nước ngoài.... Nhìn chung, vốn đầu tư của khu vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài dành cho nông nghiệp còn rất hạn chế.
Nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển giao công nghệ mới, cách sản xuất tiên
tiến, hiện đại. Tuy nhiên môi trường cạnh tranh với các hộ gia đình, trang trại rất
lớn. Do vậy, nông dân Việt Nam cần đổi mới tư duy: chấp nhận cạnh tranh, đổi
mới công nghệ, tuân thủ pháp luật và các tiêu chuẩn định mức. Bên cạnh đó,
nông dân, doanh nghiệp phải biết chia sẻ lợi ích, phải biết hợp tác, phải vừa họp
tác, vừa cạnh tranh, không thể dùng các thủ pháp không lành mạnh để "hạ gục"
đối thủ. Nếp suy nghĩ của nông dân phải được thay đổi sâu sắc thông qua tiếp
cận với những cách làm ăn mới, liên kết với những doanh nghiệp hiện đại. Đây
là cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp.
Thông qua các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, các sản phẩm nho của
ta mới đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, mở rộng thị trường tiêu thụ
sang nước ngoài, tạo thương hiệu nho Việt Nam với các nước trên thế giới.
Hiện nay, trung tâm SEDEC Bình Thuận có dự án hợp tác với Hoa Kỳ về
trồng giống nho để lấy lá quanh năm, sản phẩm chủ yếu để xuất khẩu.
3.3. Các giải pháp
3.3.1. Xác định địa bàn tiêu thụ
Trong thời vụ thu hoạch Nho tập trung, giá cả cũng sụt giảm như những
sản phẩm nông nghiệp khác. Chênh lệch giá bán rất lớn, có thể là 5.000 đ -
109
22.000 đ/kg. Hiện nay những người trồng Nho rất mong muốn có một tổ chức,
hoặc cơ sở thu mua tiêu thụ sản phẩm cho nông dân với giá cả tương đối ổn định.
Trung tâm Sedec là đầu mối đăng ký tên gọi chỉ dẫn địa lý "Nho Vĩnh Hảo",
tiến tới giúp đỡ và hướng dẫn cho các nhóm hộ, câu lạc bộ, tổ hợp tác đăng ký
thương hiệu sản phẩm, tạo cho khách hàng biết đến sản phẩm của địa phương.
Tại Ninh Thuận đã có những sản phẩm nho đăng ký thương hiệu như "nho Ba.
Mọi", "nho Ninh Phú".
Để thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại, cần thiết phải có sự phối hợp
của các ban ngành, của Tỉnh hỗ trợ đăng ký thương hiệu hàng hoa, nghiên cứu
ứng dụng quy trình bảo quản nho tươi và chế biến sản phẩm nho khô, rượu vang
nho trong thời gian tới, với mục tiêu cuối cùng là giúp nông dân tiêu thụ sản
phẩm đạt giá trị cao.
Cần phải có hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp và người sản xuất
giúp người sản xuất yên tâm, chủ động trong sản xuất.
Các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, thông tin về thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Liên kết giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Nhà phân phổi tổ chức
quảng cáo tiếp thị, thu mua nho, kiểm tra chất lượng sản phẩm nho và điều phối
nho họp lý theo mùa vụ. Đồng thời các doanh nghiệp trang bị, đầu tư công nghệ
mới trong việc bảo quản, chế biến nho mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các nhà
doanh nghiệp phối hợp với các nhà khoa học chọn lọc giống nho trồng thích hợp
với điều kiện tự nhiên từng vừng, khoa học kỹ thuật, cung cấp nguồn vốn hỗ trợ
cho nông dân trong trồng và thu hoạch nho.
Thị trường tiêu thụ trong nước rất lớn, giá cả nho trong nước phù hợp với
người tiêu dùng trong nước, là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất
nho ở Ninh Thuận và Bình Thuận.
110
Trong xu thế hội nhập thị trường AFTA và WTO, Việt Nam đã là thành
viên của WTO nên việc cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nho của các nước nhập
vào Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất nho trong nước.
Các cơ quan chức năng phải mở rộng mạng lưới thu mua, hình thành kênh
phân phối và tiêu thụ, việc mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm
là cần thiết, cần có chính sách phù hợp để khuyến khích và mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm nho giúp người nông dân yên tâm mở rộng sản xuất.
3.3.2. Xây dựng mở rộng diện tích trồng và chế biến nho
Để khuyến khích nông dân đầu tư trồng mới, trước hết Quy hoạch Nho đến
2010 phải được Tỉnh và huyện thống nhất phê duyệt làm căn cứ triển khai thực
hiện, sau đó thông báo cho địa phương và dân biết cụ thể các vùng quy hoạch để
tạo sự đồng bộ trong chỉ đạo thực hiện.
Tăng cường các hoạt động tư vấn, chuyển giao giống mới, đào tạo kỹ thuật
để đến năm 2010 tăng diện tích trồng giống nho mới
Bảng 3.1: Cơ cấu diện tích nho đến năm 2010 các huyện, thị Ninh
Thuận
Đơn vị : ha
TT
2004
2005
Huyện 1 Toàn tỉnh 2 Phan Rang 3 Ninh Phước 4 Ninh Hải 5 Ninh Sơn
1.709 402 1.113 148 46
Dư kiến 2010 3.200 500 2.500 100 100
1.615 307 1.143 118 47
Nguồn: Thống kê của Sở NN&PTNT Ninh Thuận
111
Bảng 3.2: Dự kiến tình hình phát triển nho năm 2010 của Ninh Thuận
và Bình Thuận
Tỉnh
Diện tích thu hoạch (ha)
Sản lượng (tấn)
Năng suất (tấn/ha)
Ninh Thuận Bình Thuận
Diện tích (ha) 3.200 1.000
2.708 -
65.000 21.800
24,0 21,2
Nguồn: Sở NN&PTNT Ninh Thuận và Sở NN&PTNT Bình Thuận
Tỉnh Bình Thuận, quỹ đất chưa sử dụng của huyện Tuy Phong có khả năng
chuyển dịch đến 2010 còn khá cao so với quy hoạch cây Nho, đồng thời với việc
đầu tư công trình hồ Lòng Sông, có khả năng tưới 4.200 ha và chủ trương
khuyến khích phát triển đễ mở rộng điện tích trổng mới Nho trển địa bàn huyện.
Tỉnh, huyện tập trung tổ chức tuyên truyền chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây
trồng đến các hộ gia đình có qũy đất đang canh tác các loại cây trồng khác hiệu
quả thấp để chuyển sang trồng Nho.
112
113
114
- Hiện nay tỉnh Bình Thuận đang kêu gọi dự án đầu tư trồng nho và chế
biến rượu nho tại huyện Tuy Phong với quy mô vườn trồng là 200 ha, sản lượng
nho đưa vào chế biến rượu vang nho 6.000 tấn nho qủa/năm.
- Tiếp tục kêu gọi đầu tư cơ sở thu mua, bảo quản và tiêu thụ Nho quả.
- Kêu gọi các nhà đầu tư lập dự án trồng nho với diện tích tập trung theo
mô hình trang trại.
- Chuyển đổi vùng đất đồi đủ điều kiện trồng nho để mở rộng diện tích theo
hướng cho nông dân thuê đất với thời hạn lâu năm, vốn hổ trợ ưu đãi.
- Kết hợp vườn trồng nho với quy mô lớn và phát triển du lịch sinh thái
vườn nho, tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Đồng thời du khách cũng là
khách hàng tiêu thụ sản phẩm tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển, tránh hư hỏng
dọc đường, đem lại hiệu quả cao cho du lịch và ngành trồng nho.
3.3.3. Chính sách phát triển trồng và chế biến nho
Nhà nước sớm hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu
dài cho người dân yên tâm đầu tư sản xuất, đồng thời có thể sử dụng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thế chấp để vay vốn đầu tư trồng Nho.
- Khuyến khích nông dân đang canh tác các cây trồng khác hiệu quả thấp
chuyển sang trồng nho.
- Có kế hoạch khai hoang cấp đất cho các dự án tái định cư, di dân kinh tế
mới để khai thác những vùng đất chưa sử dụng.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi về đất đai để kêu gọi các dự án đầu tư trồng
Nho, thông báo các chính sách của Trung ương và Tỉnh quy định về ưu đãi đầu
tư, miễn giảm thuế, tiền thuê đất và thuế thu nhập trong giai đoạn đầu cho các tổ
chức, cá nhân muốn tham gia đầu tư trồng nho hoặc chế biến rượu nho.
3.3.4. Vốn đầu tư và cơ sở vật chất kỹ thuật
3.3.4.1. Chính sách hỗ trợ vốn
115
UBND tỉnh và các trung tâm nông nghiệp hoặc các tổ chức phi Chính phủ
sẽ chịu trách nhiệm về công tác nhập nội, tuyển chọn giống, nhân giống nho có
năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng để
chuyển giao cho nông dân. Đồng thời hỗ trợ cho nông dân của trong việc triển
khai việc trồng giống nho mới: như hỗ trợ gốc ghép, mắt ghép, công kỷ thuật
ghép, tập huấn về kỹ thuật trồng, phòng trừ sâu bệnh...
Nhà nước và các trung tâm sẽ hỗ trợ một phần hoặc toàn phần cho các mô
hình khảo nghiệm, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật trồng nho cho nông dân.
Để khuyến khích phát triển, Nhà nước có chính sách giải quyết cho dân vay
vốn trung hạn để trồng nho tối thiểu 50 triệu /ha, có hỗ trợ lãi suất trong năm
đầu, tạo điều kiện cho dân mạnh dạn tham gia chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đối
với những hộ đã trồng giống nho cũ, hết chu kỳ sản xuất cần thay bằng giống
mới cũng được vay vốn.
Do vốn đầu tư giai đoạn kiến thiết cơ bản cho Ì ha nho rất cao so với khả
năng đầu tư của nông dân. Đây là vấn đề bức xúc mà người dân đang đề nghị
Nhà nước quan tâm. Hầu hết những người dân khu vực nông thôn đều nghèo,
mong muốn mở rộng diện tích trồng Nho để làm giàu nhưng thiếu vốn đầu tư,
không có tài sản thế chấp; hoặc đã vay vốn ngân hàng nhưng lại gặp rủi ro về
khí hậu thời tiết, thiếu kinh nghiệm sản xuất bị thất thu, chưa đủ tiền để trả ngân
hàng, Do đó ngân hàng không giải quyết cho vay tiếp. Đây là một thực tế phát
sinh chưa được tháo gỡ, làm cản trở sự phát triển. Ngân hàng cần hỗ trợ vốn vay
cho các đối tượng nghèo cũng như các đối tượng phát triển theo hướng trang trại
nhằm đẩy mạnh quy mô sản xuất nho khai thác về lợi thế của cây nho.
Nhà nước cho khoanh nợ đối với những hộ nghèo, hộ đói, hộ bị thiên tai và
tiếp tục xem xét cho vay tiếp đối với những hộ có thiện chí trồng nho để trả nợ.
Hỗ trợ lãi suất cho dân vay vốn mua máy móc thiết bị phục vụ bơm tưới, chăm
sóc vườn nho.
116
Có chính sách khen thưởng phù hợp và thỏa đáng cho các tổ chức và cá
nhân phát triển nho tiêu thụ sản phẩm quả nho ổn định bằng xuất khẩu sản phẩm
nho của địa phương .
3.3.4.2. Giải pháp về khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật
Các cơ quan khoa học tiến hành chuyến giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
nâng cao năng lực tiếp cận và ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ
thuật như giống, kỹ thuật canh tác, thuốc bảo vệ thực vật, hạn chế sâu bệnh trên
cây nho. Đặc biệt chú trọng công nghệ bảo quản sau thu hoạch và các biện pháp
giảm dư lượng hóa chất trên sản phẩm. Áp dụng và nhân rộng các mô hình sản
xuất nho theo hướng an toàn (sử dụng phân hữu cơ, phân xanh, phân vi sinh).
Trại giống Nho Vĩnh Hảo - thuộc Trung tâm SEDEC Bình Thuận là đơn vị
đã có quá trình nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cây nho trên địa bàn
Huyện. Trong thời gian tới, theo kế hoạch của Trung tâm SEĐEC đề ra tiếp tục
thực hiện công tác nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật để giúp các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu phát triển cây nho trên địa bàn.
Đặc biệt là hướng tới công tác chuyển giao công nghệ ghép giống cho kỹ
thuật viên là nông dân để thực hiện ghép giống ngay trên ruộng nho của mình,
giảm đáng kể chi phí cây giống khi trồng mới hoặc thay giống.
Bên cạnh đó Trung tâm khuyến nông, Chi cục Bảo vệ thực vật hàng năm sẽ
phối họp với các đon vị bố trí các lớp tập huấn, chuyển giao mô hình kỹ thuật về
cây Nho trên địa bàn. Trong đó chú trọng hướng dẫn các biện pháp tổng hợp để
bảo vệ cây trồng, sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh an toàn hiệu qủa.
"Muốn có được vùng nho bền vững, bà con phải áp dụng đồng bộ các biện
pháp khoa học kỹ thuật và có sự tham gia, gắn kết tích cực của các nhà quản lý,
khoa học về các vấn đề mang tính vĩ mô như: bán nho ở đâu, trồng giống gì,
công tác quy hoạch ra sao...", Tiến sĩ Lê Quang Quyến, Trưởng Phòng Nông học,
Viện Nghiên cứu và Phát triển cây bông Nha Hố khẳng định.
117
3.3.4.3. Đầu tư cơ sở hạ tầng
Các tuyến đường giao thông cấp tỉnh, huyện đến trung tâm xã cần được trải
nhựa và nâng cấp tuyến đường liên thôn nhằm đảm bảo giao thông thông suốt
trong các mùa, giữa các vùng sản xuất nho để thuận tiện trong công tác thu mua,
tiêu thụ, bảo quản, vận chuyển sản phẩm.
Công tác thủy lợi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trồng
nho. Mạng lưới thủy lợi ở Ninh Thuận đang được hoàn thành và đưa vào sử
dụng công trình thủy lợi Hồ Tân Giang. Kiên cố hóa 100% kênh mương cấp 1,
cấp 2 và 50% kênh cấp 3 để phát huy tối đa các công trình đã có.
Hiện nay công trình hồ Lòng Sông đang thi công, sau khi hoàn thành sẽ
phục vụ cho các khu vực sản xuất thuộc xã Phong Phú, Phú Lạc, Phước Thể,
Vĩnh Tân ... Theo phân cấp của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tại
Quyết định phê duyệt công trình hồ chứa nước Lòng Sông tại Bình Thuận số
1020/Quyết định -Bộ Nông nghiệp - Xây dựng cơ bản ngày 24/3/2000, trong đó
tổng giá trị đầu tư 196,164 triệu đồng giao cho Tỉnh đầu tư tu sửa đập Tuy Tịnh,
công trình trên kênh, kênh cấp 1 và các khoản chi phí khác. Tổng kinh phí
14,516 tỷ đồng, nhiệm vụ công trình tưới cho 4.260 ha (tự chảy 4.000 ha, tạo
nguồn 260 ha). Hiện nay ủy ban Nhân dân Tỉnh đã phê duyệt báo cáo nghiên
cứu khả thi công trình tiếp nước Lòng Sông - Đá Bạc, huyện Tuy Phong, giao
Công ty Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận làm chủ đầu tư. Nhiệm vụ
công trình sẽ chuyển nước từ hồ chứa nước Lòng Sông và các lưu vực phụ cận
cấp cho hồ Đá Bạc, ổn định nước cho 394 ha đất canh tác của hố Đá Bạc, đồng
thời mở rộng khu tưới khoảng 650 ha đất canh tác và cấp nước sinh họat cho dân
trong vùng. Đề nghị Tỉnh quan tâm cấp kinh phí để triển khai, nhằm sớm phát
huy khu vực tưới cho vùng nho xã Vĩnh Hảo.
Ngoài ra tiếp tục kiên cố hóa các hệ thống kênh tưới và tu sửa các đập thủy
lợi nhỏ để phục vụ tưới. Trong giai đoạn đầu, khi các công trình thủy lợi đầu tư
118
chưa hoàn chỉnh, đối với những khu vực trồng nho nhưng chưa được tưới, từng
hộ gia đình có kế hoạch đào ao, khoan giếng để phục vụ bơm tưới.
3.3.4.4. Giống, công nghệ bảo quản quả, chế biến
Các trung tâm nghiên cứu khoa học về giống nho, đa dạng hóa các giống
nho, chọn giống có chất lượng cao tuy nhiên cũng đưa ra những điểm chưa khắc
phục, yếu kém của từng giống nho để người trồng chọn lựa giống cho phù họp.
Vì vậy trong giai đoạn tới cần đầu tư nâng cấp và mở rộng Trại giống Nho Vĩnh
Hảo, Trang tâm nghiên cứu nho Ninh Thuận đảm bảo hoạt động nghiên cứu,
chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương tưới trong
vườn nho, phổ biến quy trình kỹ thuật canh tác nho cho các tổ chức và hộ gia
đình trồng nho.
Sản xuất các giống nho để chế biến rượu vang.
Tiếp tục công tác nghiên cứu giống và khảo nghiệm giống Nho. Chọn lọc
tập đoàn giống để thường xuyên đưa ra đại trà các loại giống mới có ưu thế.
Nghiên cứu nhiều về kỹ thuật trồng nho: làm đất, sử dụng phân bón, nước, công
tác chăm sóc,... đến tận từng người dân. Ngoài ra, cần có các lớp tập huấn nâng
cao về kỹ thuật.
Nghiên cứu và phổ biến công nghệ bảo quản qua nho cho nông dân để tăng
giá trị sản phẩm trong quá trình vận chuyển, tiêu thụ.
3.4. Kiến nghị
Trong xu thế hội nhập, Việt Nam tham gia tổ chức WTO và các tổ chức
kinh tế khác trên thế giới. Do vậy, đây là điều kiện thuận lợi cũng như thách
thức đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói
riêng. Đồng thời việc trao đổi hàng hóa các loại nông sản giữa các nước ngày
càng dễ dàng hơn, là thách thức lớn với hoạt động sản xuất nông sản hàng hóa
của Việt Nam trong đó có nho.
119
Hàng năm, Việt Nam đã nhập khẩu một lượng lớn nho rất lớn từ Mỹ, Úc,
Thái Lan,... với giá thành khá cao từ 60.000 - 100.000 đồng/kg. Đời sống người
dân ngày một nâng cao, thị trường tiêu thụ nho ngày càng lớn, nên Việt Nam
cần phải có các dự án để phát triển nho nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng cho
người dân. Đồng thời tăng thêm thu nhập người dân và ngân sách nhà nước ở
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Bên cạnh đó còn có thị trường tiêu thụ ở Trung
Quốc, Campuchia, Lào,... cũng là tiềm lực lớn cho ngành trồng nho ở nước ta.
Qua khảo nghiệm cũng như từ thực tiễn sản xuất của nông dân đã khẳng
định Nho là cây trồng có nhiều lợi thế phát triển tại Ninh Thuận và huyện Tuy
Phong tỉnh Bình Thuận, đạt hiệu qua kinh tế rất cao so với nhiều loại cây trồng
khác. Quy hoạch phát triển Nho được thực hiện giúp khai thác hiệu qua tiềm
năng đất đai, lao động, giải quyết việc làm và giúp nông dân phát triển kinh tế
và tăng thu nhập đáng kể, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo và phát triển ngành nghề chế
biến trong tương lai.
Vấn đề phát triển nho cần được ủy ban Nhân dân Tỉnh quan tâm đầu tư cơ
sở hạ tầng về giao thông, thủy lợi; đầu tư nâng cấp Trung tâm giống Nho và các
chương trình nghiên cứu, khảo nghiệm, chuyển giao kỹ thuật cho nông dẩn Ban
hanh chính sách cụ thề vế hỗ trợ giống, vay vốn để giúp nông dân có điều kiện
phát triển, mở rộng diện tích theo quy hoạch.
Phối hợp với các Viện khoa học nghiên cứu tìm giải pháp cho phát triển
cây nho và công nghệ chế biến nho an toàn hiệu quả. Tạo điều kiện cho các đơn
vị chuyển giao tiến bộ kỹ thuật in ấn ti liệu, tập huấn phổ biến rộng rãi qui trình
cho bà con nông dân.
Đầu tư để xây dựng bộ giống phù họp cho sản xuất, trên cơ sở giống
Cardinal phục tráng và giống NHO 1-48, tiếp tục thử nghiệm các giống mới để
xác định một số giống đưa vào cơ cấu giống nho của tỉnh;
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác nho, sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật thích họp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần
120
cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập. Chú trọng cải thiện chất lượng nho theo
hướng an toàn cho người sử dụng, hạn chế sử dụng hóa chất;
- Thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn để nâng cao trình độ người sản
xuất, cán bộ kỹ thuật,... để áp dụng có hiệu quả tiến bộ kỹ thuật.
- Xây dựng các cơ sở bảo quản và chế biến sản phẩm sau nho.
- Ổn định giá thành nho trên thị trường, mở các cơ sở thu mua của nhà
nước nhằm tránh tình trạng ép giá thu mua của các cơ sở thu mua tư thương.
- Việc phát triển nho cần mở rộng ở các địa phương trong cả nước trên cơ
sở hỗ trợ của các Trung tâm nghiên cứu nho và mối liên hệ giao lưu giữa các
nông dân, cấp lãnh đạo của các địa phương nhất là cần có sự liên kết chặt chẽ
giữa các trung tâm nghiên cứu của tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
- Cần đưa các thông tin về những nghiên cứu mới về trồng và chế biến nho
trên các phương tiện đại chúng, thông tin trên intemet để người dân có thể cập
nhật và trao đổi. Đồng thời nâng cao trình độ văn hóa cho người dân để người
dân hiểu biết hơn về trồng, chăm sóc cây nho cho hiệu quả.
- Nên hình thành Viện nghiên cứu về cây nho cho cả nước. Đưa nông dân
tham quan các trại giống nho ở nước ngoài, đặc biệt đến Thái Lan tìm hiểu về
cách trồng nho ở nước bạn.
- Mở rộng các trung tâm tư vấn, chuyển giao khoa học về cây nho và cách
chế biến nho đạt kết quả tốt nhất.
121
KẾT LUẬN
Nho là trái cây vừa có giá trị dinh dưỡng cao đồng thời đem lại nhiều giá trị
kinh tế. Nho có thể trồng ở hầu hết khắp nơi nhưng rất nhạy cảm với các yếu tố
về độ ẩm, lượng mưa, nhiệt độ... và đòi hỏi cao về kỹ thuật trồng, chăm sóc.
Sản phẩm từ nho rất đa dạng và hiệu quả kinh tế cao, thị trường tiêu thụ
nho lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Do vậy tiềm năng phát triển nho
rất lớn. Cây nho là cây trồng chủ lực của tỉnh Ninh Thuận và huyện Tuy Phong
tỉnh Bình Thuận đóng góp phần lớn giá trị sản xuất trong trồng trọt.
Thiên nhiên đã ưu đãi đặc biệt các yếu tố khí hậu, đất đai để phát triển cây
nho với quy mô lớn, năng suất cao cho tỉnh Ninh Thuận và huyện Tuy Phong
tỉnh Bình Thuận. Nguồn lao động dồi dào có kinh nghiệm trong việc trồng nho.
Tuy nhiên việc phát triển nho còn nhiều vấn đề đặt ra. Do vậy trong đề tài đề
cập một số nội dung để cây nho ngày càng được mở rộng phát triển đồng thời
giúp nông dân yên tâm trong việc trồng nho.
Qua đề tài này, tôi đã thu được một số kết quả nghiên cứu về tổ chức lãnh
thổ trồng và chế biến nho thể hiện trong đề tài:
* Đề tài có tính kế thừa các quan điểm và cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ
sản xuất nông - công nghiệp của các tác giả trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó
nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ trồng nho và chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
* Đề tài đánh giá đầy đủ các nguồn lực chủ yếu ảnh hưởng đến trồng và
chế biến nho ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận từ năm 2000 -
2005 và định hướng phát triển nho và chế biến nho đến năm 2010.
* Đề tài nêu lên được tình hình phát triển nho và chế biến nho
* Đề tài phân tích mối quan hệ giữa trồng và chế biến nho, tính hiệu quả
kinh tế đem lại từ việc trồng và chế biến nho đối với nông dân và giá trị kinh tế
của tỉnh.
122
* Đề tài cũng đã nêu lên một số mô hình trồng nho nhằm đem lại hiệu quả
cao về việc trồng và chế biến nho của các tỉnh.
* Đề tài đề xuất một số giải pháp cho việc trồng và chế biến nho ở các tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận nhằm tăng hiệu quả kinh tế cao đúng với tiềm năng
của tỉnh.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trịnh Ngọc Ánh (1992), Một vài ý kiến nhận xét về mối quan hệ giữa
Trồng Mía và chế biến Đường ở các tỉnh phía Nam Việt Nam, khóa luận tốt
nghiệp khoa Địa lý Tp. Hồ chí Minh.
Nguyễn Ngọc Châu (2001), Báo cáo Nghiên cứu Phòng trừ sâu hại nho tại 2.
Ninh Thuận bằng thuốc sinh học tuyến trùng, Hà Nội,
TS. Đàm Nguyễn Thúy Dương, TS Nguyễn Văn Luyện (2005), Nghiên 3.
cứu tổ chức lãnh thổ Nông-Công nghiệp trồng và chế biến cây công nghiệp
ngắn ngày, cây thực phẩm ở các quận, huyện ngoại thành thành phồ Hồ
Chí Minh, Đề tài cấp Bộ.
Mai Văn Hào (chủ nhiệm), Phan Công Kiên, Hoàng Thị Mỹ Lệ (2005), 4.
Nghiên cứu bệnh thán thư hại nho và biện pháp phòng trừ theo hướng sản
xuất nho an toàn tại Ninh Thuận, Ninh Thuận.
Vũ Công Hậu, (1997), Cây nho, Nhà xuất bản Nông nghiệp Tp. Hồ Chí 5.
Minh.
Nguyễn Thị Hằng (2005), Tìm hiểu tình hình trồng và chế biến vải thiều ở 6.
tỉnh Hải Dương-Định hướng phát triển đến năm 2010, khóa luận tốt nghiệp
khoa Địa lý Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quốc Hùng (2004), Nghiên cứu chọn tạo giống nho cho một số 7.
địa phương miền Bắc Việt Nam, Luận văn tiến sĩ nông nghiệp chuyên
ngành Chọn giống và nhân giống, Hà Nội.
Lê Văn Kha, Nguyễn Thị Ý Thuận (2002), Kỹ thuật trồng nho ghép, Trung 8.
tâm SEDEC Bình Thuận.
Phan Công Kiên (2007) Giống nho NH01-48: Thách thức và cơ hội, Báo 9.
Ninh Thuận.
10. Phạm Hữu Nhượng, Nguyễn Hữu Bình, Lê Xuân Đính, Lê Quang Quyến
(2000), Kỹ thuật trồng nho, Nhà Xuất bản Nông nghiệp.
124
11. Trần Đức Minh (2002), Nghiên cứu mối quan hệ nồng- công nghiệp giữa
trồng và chế biến cây sắn (khoai mì) ở Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Địa lý Kinh tế - Xã hội.
12. Nguyễn Văn Quang (2003), Kết hợp trồng và chế biến nho tại tỉnh Ninh
Thuận, khóa luận tốt nghiệp khoa Địa lý Tp. Hồ Chí Minh.
13. Tấn Quýnh (2005), Ninh Thuận: Vùng nho mất trắng vì bệnh lạ.
14. Phạm Khắc Thọ, Lê Văn Kha (2001), Báo cáo kết quả trồng nho trên đất
cát xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.
15. GS.TS Lê Thông (chủ biên) (2003), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam
(Phần bốn), Nhà xuất bản Giáo dục.
16. GS.TS Lê Thông (1996), Nhập môn Địa lý Nhân Văn, Đại học Sư Phạm Hà
Nội.
17. KS. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó (2005), Kỹ thuật trồng
nho, Nhà Xuất bản Lao Động, Hà Nội.
18. Trịnh Thanh Sơn (2004), Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến sắn ở các tỉnh
Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ Địa lý Kinh tế và Chính trị, Trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội.
19. Chi cục Bảo vệ Thực vật Ninh Thuận (1997), Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh
hại nho ở Ninh Thuận.
SEDEC Bình Thuận (2004), Hội thảo phát triển cây nho Định 20.
hướng và Giải pháp, Bình Thuận.
21. Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Bình Thuận- Trung tâm SEDEC
(2005), Chủ nhiệm đề tài: Lê Văn Kha. Cơ quan phối họp chính: Viện
nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam, "Trồng khảo nghiệm và xây dựng quy
trình canh tác cho các giống nho nhập nội có triển vọng tại huyện Tuy
Phong, tỉnh Bình Thuận".
22. Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Ninh Thuận, ủy ban nhân dân
Ninh Thuận (1999), Báo cáo Đảnh giá thích nghi Đất trồng Nho tỉnh Ninh
Thuận,
125
23. Tiêu chuẩn ngành (2005), Quy phạm khảo nghiệm tính khác biệt, tỉnh đồng
nhất và tính ổn định của giống nho, Hà Nội.
24. Trung tâm Tin học Bộ NN&PTNT (21/4/2006), Ninh Thuận: Nỗ lực đưa
cây nho trở lại thời hoàng kim.
25. Ủy ban nhân dân Ninh Thuận và Viện Khoa học kỹ thuật Nông Nghiệp
Miền Nam (2003), Báo cáo Nhân rộng mô hình ứng dụng phân hữu cơ sinh
học trên cây nho đỏ (Red Cardinal) tại tỉnh Ninh Thuận, Tp. Hồ Chí Minh.
26. Ủy ban nhân dân Ninh Thuận và Viện Khoa học kỹ thuật Nông Nghiệp
Miền Nam (2004), Dự án Xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
phát triển cây Nho để có hiệu quả kinh tế tại Ninh Thuận (thuộc chương
trình xây dựng các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát
triển kinh tế xã hội nông thôn và miền núi tỉnh Ninh Thuận), Tp. Hồ Chí
Minh.
27. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2005), Dự án đầu tư phát triển cây nho
huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2004 - 2010.
28. Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận (2002), Dự án Quy hoạch phát triển cây
nho tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2002-2010.
29. Viện Nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam, Chủ nhiệm đề tài Ths Phạm Ngọc
Liễu, TS. Lê Công Nông, Báo cáo kết quả chọn tạo giống nho chế biến nho
rượu tại Ninh Thuận giai đoạn 2002 - 2005.
30. Và một số báo cáo, tài liệu tham khảo khác liên quan.
Tiếng Anh
31. Minas K. Papademetriou, Frank J. Dent, Grape Production in the Asia -
Pacific Region. Bangkok, 2001.
32. Roger C.Pearson and Austin C.Goheen, Compendium of Grape Diseases,
APSPress, 1990.
Mạng Internet
33. 2TUwww.google.com.vnU2T
126
34. www.binhthuan.gov.vn
35. www.ninhthuan.gov.vn
36. www.vtv.vn
127
PHỤ LỤC
Vườn ươm cây giống – Trại giống nho Vĩnh Hảo – Thuộc SEDEC Bình Thuận
Nông dân đang chọn giống nho
128
Đóng thùng
Đào tạo kỹ thuật cho nông dân
129
Giống nho Black Queen
Lai ghép các giống nho ở Trung tâm Nho Nha Hố
130
Vườn nho của Bác Nguyễn Văn Mọi ở Ninh Thuận
Làm đất chuẩn bị trồng nho của gia đình bác Nguyễn Văn Mọi ở Ninh Thuận
131
Vườn nho ở Cam Ranh
132
133
134
Các bệnh hại chính trên cây nho:
a) Bệnh Mốc sương hay phấn trắng:
Bệnh thường xuất hiện trong mùa mưa.
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: Aliette, Bordeaux,
Champion, Ridomil, Tilt, Metaxyl, Curzate M-8...
b) Bệnh Nấm xám:
Bệnh xuất hiện quanh năm. Bệnh nặng hơn trong mùa nắng.
- Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: Benlate, Plant,
Melody,Sumi-8, Score, Rovrál, Anvil....
c) Bệnh Thán thư:
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: các nhóm Carbendazime,
Benomyl, Propiconazole, đồng và họp chất có đồng hay thuốc Benlate, Antracol,
Score...
d) Bệnh Thối trái
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: Benomyl, Nustar, đồng và
hợp chất có đồng hay thuốc Benlate, Antracol, Score...
Các loại sâu hại chính:
a) Bọ trĩ:
Sâu xuất hiện quanh năm, thường hại nặng trong mùa nắng.
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
135
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: dầu nhờn, nước Ozon,
Lannate, Permethrin, Vertimex...
b) Nhện đỏ:
Nhện thường hại nặng trong mùa nắng.
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: Kumulus, Selecron, Comite,
Nissorum, dầu nhem, nước Ozon...
c) Rệp sáp:
Rệp thường xuất hiện quanh năm, hại nặng trong mùa nắng lúc quả trắng
trái trở đi.
-Quản lý bằng biện pháp IPM.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: nước Ozonj Supracide,
Admire, Lannate, Actara.
d) Tuyển trùng hại rễ:
Tuyến trùng hại quanh năm làm giảm chất lượng quả nho và cây sinh
trưởng kém, giảm năng suất đáng kể.
-Quản lý bằng biện pháp IPM, thay giống kháng.
-Khi cần thiết dùng các loại thuốc BVTV như: Sincosin + Agropam,
Mocap, Mefutox...
136
137
3. Nội dung dự án:
a. quy mô dự án:
-Đến năm 2005: diện tích nho: 2.580 ha trong đó giống nho mới 500 ha, sản lượng
47.600tấn.
- Đến năm 2010: diện tích nho: 3.200 ha trong đó giống nho mới 1.000 ha, sản lượng
65.000tấn.
b. Phân bổ địa bàn cụ thể như sau:
- Năm 2005:
+ Ninh Phước:
1.960 ha, nho giống mới: 280 ha
+ Phan rang-Tháp chàm:
500 ha, nho giống mới: 150 ha
+ Ninh Hải:
100 ha, nho giống mới: 40 ha
+ Ninh Sơn:
100 ha, nho giống mới: 30 ha
- Năm 2010:
+ Ninh Phước:
2.500 ha, nho giống mới: 700 ha
+ Phan rang-Tháp chàm:
500 ha, nho giống mói: 200 ha
+ Ninh Hải:
100 ha, nho giống mới: 60 ha
+ Ninh Sơn:
100 ha, nhọ giống mới: 40 ha
c. Phân vùng trồng nho:
Tập trung trên đất thích nghi nhọ S1, S2, S3 không bị trũng ngập úng, tập trung chu yếu
là Ninh Phước, Phan rang Tháp Chàm, một ít ở Ninh Sơn và Ninh Hải.
d. Hình thức tổ chức sản xuất:
Hộ gia đình, kinh tế trang trại theo kế hoạch phân bổ hàng năm đã được phân bổ.
e. Phương thức tiêu thụ sản phẩm nho:
Thông qua tổ chức Hiệp hội trồng nho ký hợp đồng với các tổ chức tiêu thụ nho, Hiệp hội cây ăn quả Việt Nam và các Công ty thựơng mại thành phố HGM, thông qua hợp đồng các doanh nghiệp với người trồng nho.
4. Nguồn vốn đầu tư:
a. Tổng vốn đầu tư:
569,73 tỷ đồng
- Giai đoạn 2002-2005:
296,58 tỷ đồng
- Giai đoạn 2006-2010:
273,15 tỷ đồng
b. Nguồn vốn đầu tư:
- Chương trình giống quốc gia (thông qua Bộ Nông nghiệp và PTNT) phê duyệt 9,69 tỷ
đồng.
-Vốn khoa học kỹ thuật tỉnh:
2,3 tỷ đồng
-Vốn vay xây dựng cơ sở chế biến:
47 tỷ đồng
-Vốn của dân:
510,74 tỷ đồng
138
139
140
định phục vụ cho các nhà máy chế biến, bảo quản nho cung cấp thị trưc trong thời gian tới.
- Tạo sự chuyển địch về cơ cấu cây trồng, gắn với việc phát huy hiệu quả của công trình hồ Lòng Sông, tạo việc làm cho 3.000 lao động nông nghiệp: tại địa phương, tăng thu nhập để nâng cao mức sống cho nông dân, xoá hộ giảm hộ nghèo. Nâng cao kiến thức và trình độ canh tác cây nho thông qua chương trình đào tạo kỹ thuật ghép cành, chọn giống, phòng trừ sâu bệnh khuyến nông.
- Tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, lao động; tăng lợi ích kinh tế và hiệu quả xã hội thông qua dự án phát triển nho và đầu tư nhà máy chế biến rượu vang và các sản phẩm từ nho trong thời gian tới.
- Chuyển dịch một số diện tích đất sản xuất của các cây trồng như hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Trong đó, diện tích đất lúa 2 vụ chuyển 352 ha, đất lúa 1 vụ chuyển 49 ha, đất màu và cây công nghiệp 294 ha và đất khác 20 ha.
- Năng suất bình quân đạt 212 tạ/ha, sản lượng nho toàn huyện là 21tấn.
V. Một số giải pháp:
1. Khuyến khích đầu tư mở rộng diện tích nho giống mới:
- Tăng cường các hoạt động tư vấn, chuyển giao giống mới, đào tạo kỹ thuật để
năm 2005 đạt trên 50% diện tích trồng giống nho mới trên toàn huyện
- Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Tỉnh về chuyể cơ cấu cây trồng đến các hộ gia đình có quỹ đất đang canh tác các loại cây trồng khác có hiệu quả thấp để chuyển sang trồng nho giống mới.
- Có chủ trương để giải quyết nhu cầu trụ nho cho dân mở rộng diện tích.
2. Kêu gọi dự án đầu tư mới:
- Kêu gọi dự án đầu tư trồng nho và chế biến rượu và các sản phẩm nho với quy
mô tập trung theo mô hình trang trại.
- Tiếp tục kêu gọi đầu tư cơ sở thu mua, bảo quản, chế biến và tiêu thụ nho quả.
3. Giải pháp về chính sách:
a. Đất đai:
+ Đẩy nhanh hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng lâu dài cho người dân yên tâm đầu tư sản xuất, đồng thời có thể sử dụng thếu chấp vay vốn đầu tư trồng nho.
+ Có kế hoạch khai hoang cấp đất cho các dự án tái định cư, định cư, di dân phát triển vùng kinh tế mới để khai thác những vùng đất chưa sử dụng có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp để bố trí phát triển cây nho.
141
+ Tạo điều kiện thuận lợi về đất đai để kêu gọi các dự án đầu tư trồng nho, thông báo các chủ trương, chính sách của Trung ương và Tỉnh quy định về đầu tư và ưu đãi đầu tư.
b. Chính sách hỗ trợ vốn:
+ Nhà nước hoặc các tổ chức phi Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm về công tác nhập nội, tuyển chọn giống, nhân giống nho có năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất.
+ Nhà nước và các tổ chức sẽ hỗ trợ một phần hoặc toàn phần cho các mô hình
khảo nghiệm, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật trồng nho cho nông dân.
+ Giải quyết cho dân vay vốn trung hạn để trồng nho (tối thiểu 50 triệu đồng /ha), có hỗ trợ lãi suất trong năm đầu. Đối với những hộ đã trồng giống nho cũ hết chu kỳ sản xuất cần thay thế bằng giống mới cũng được giải quyết cho vay.
+ Hỗ trợ lãi suất cho dân vay vốn mua máy móc thiết bị phục vụ bơm tưới, chăm sóc vườn nho theo chủ trương, chính sách của UBND Tỉnh đã ban hành tại Quyết định 45/QĐ-CT.UBBT ngày 19/6/2003 .
c. Chính sách hỗ trợ giá giống:
Thực hiện chính sách hỗ trợ giá giống đối với người trồng nho giống mới Tỉnh đã
ban hành.
4. Giải pháp về khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật:
- Trại giống Nho Vĩnh Hảo - thuộc Trung tâm SEDEC Bình Thuận là đơn vị chủ lực thực hiện công tác nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật để giúp các tổ chức, cá nhân có nhu cầu phát triển cây nho trên địa bàn.
- Hướng tới công tác chuyển giao công nghệ ghép giống cho kỹ thuật viên là
nông dân.
- Trung tâm Khuyến nông, Chi cục Bảo vệ thực vật hàng năm bố trí các lớp tập huấn, chuyển giao mô hình kỹ thuật về cây nho trên địa bàn, trong đó chú trọng hướng dẫn các biện pháp tổng hợp để bảo vệ cây trồng; sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh an toàn, hiệu quả.
5. Giải pháp đầu tư kết cấu hạ tầng:
- Tập trung hoàn thành công trình hồ chứa nước Lòng Sông do Bộ Nông nghiệp và PTNT đầu tư, trong đó vốn kết dư do đấu thầu giảm được Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và PTNT cho phép đầu tư bao gồm cả tu sửa đập Tuy Tịnh, công trình trên kênh, kênh cấp 1 và đường giao thông từ Liên Hương đến hồ đầu mối chứa nước Lòng Sông.
142
- Bố trí kinh phí thi công nối tuyến kênh tiếp nước từ hồ chứa nước Lòng Sông đến hồ Đá Bạc để điều tiết nước lượng nước phục vụ tưới cho khu vực Vĩnh Hảo. Tiếp tục kiên cố hóa các hệ thống kênh tưới và tu sửa các đập thủy lợi nhỏ để phục vụ tưới.
6. Xây dựng nâng cấp các trạm, trại nghiên cứu, cung ứng giống, công nghệ
bảo quản quả, chế biến:
- Đầu tư nâng cấp và mở rộng Trại giống Nho Vĩnh Hảo nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất hoạt động nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương tưới trong vườn nho, phổ biến quy trình kỹ thuật canh tác nho cho các tổ chức và hộ gia đình trồng nho.
- Tiếp tục công tác nghiên cứu giống và khảo nghiệm giống nho. Chọn lọc tập
đoàn giống để thường xuyên đưa ra đại trà các loại giống mới có ưu thế.
- Nghiên cứu và phổ biến công nghệ bảo quản qủa nho cho nông dân để tăng giá
trị sản phẩm trong quá trình vận chuyển, tiêu thụ.
- Liên kết với các cơ sở chế biến rượu mật nho, vang nho để hướng dẫn và giúp
đỡ nông dân ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
7. Giải pháp về mô hình tổ chức sản xuất: phát triển kinh tế trang trại,
thành lập hiệp hội:
- Khuyển khích các tổ chức, cá nhân có vốn đầu tư trồng nho theo mô hình kinh tế trang trại hoặc đầu tư vốn cho các hộ gia đình mở rộng diện tích trồng nho, thu mua sản phẩm đưa vào chế biến.
- Tổ chức thành tổ hợp tác hoặc hiệp hội sản xuất, chế biến nho để liên kết các tổ
chức, cá nhân trong quá trình sản xuất và tiêu thụ.
- Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh, tiêu thụ
nho trên địa bàn.
8. Giải pháp về tiêu thụ, thị trường (đăng ký thương hiệu sản phẩm):
- Trung tâm SEDEC là đầu mối phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT giúp đỡ và hướng dẫn cho các nhóm hộ, Câu lạc bộ, tổ hợp tác đăng ký thương hiệu sản phẩm, tạo cho khách hàng biết đến sản phẩm của địa phương.
- Các Sở, Ban, Ngành chức năng của Tỉnh có trách nhiệm phối hợp hỗ trợ Trung tâm SEDEC Bình Thuận trong việc đăng ký tên gọi xuất xứ hàng hóa, nghiên cứu ứng dụng quy trình bảo quản nho tươi và chế biến sản phẩm nho khô, rượu vang nho trong thời gian tới.
VI. Tiến độ đầu tư dự án:
Chia thành 2 giai đoạn: năm 2005; từ năm 2006 - 2010.
VII. Vốn và nguồn vốn đầu tư:
143
2004-2005
2006-2010
STT
Nội dung đầu tư
10 8lớp 8 180 ha 180 ha
50 25 lớp 20 770 ha 770 ha
-
50 km -
180 ha 200 máy
770 ha 1000 máy
180 ha 40 cái
770 ha 100 cái
I Vốn ngân sách 1 Nhập nội, chọn giống 2 Tập huấn,chuyển giao KT 3 Xây dựng mô hình 4 Hỗ trợ giống trồng mới Hỗ trợ lãi suất tiền vay II Vốn đầu tư kết cấu hạ tầng 1 Giao thông vùng, nội đồng 2 Nâng cấp trại giống Nho III Vốn vay 1 Vay vốn trồng mới, cải tạo 2 Mua máy bơm nước, ống tưới IV Vốn tự có 1 Trồng mới 2 Đào ao, khoan giếng
Số lượng Kinh phí (triệu đồng) 2.510 500 50 120 1.253 586 500 - 500 10.000 9.000 1.000 7.363 7163 200 20.373
Số lượng Kinh phí (triệu đồng) 8.868 2.500 150 300 4.455 1.463 8.500 6.000 2.500 43.500 38.500 5.000 33.082 32.582 500 93.950
Tổng cộng
VIII. Hiệu quả đầu tư:
1. Về mặt kinh tế:
Dự án phát triển cây nho trên địa bàn huyện Tuy Phong đến năm 2010 đạt diện tích 1.000 ha được chuyển dịch từ đất lúa, đất màu, đất trống chưa sử dụng, làm tăng nhanh giá trị sản xuất trên diện tích đất được chuyển đổi, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích được tăng lên, đóng góp vào ngân sách và thu nhập của nông dân.
2. Về mặt xã hội:
Tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giảm sản xuất độc canh cây lúa, mở ra triển vọng các ngành nghề phụ, giải quyết nhiều việc làm cho xã hội (giải quyết cho khoảng 3.000 lao động tại chỗ), xóa hộ đói giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, giàu; phát triển mạng lưới dịch vụ thương mại góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Điều 2. Tổ chức thực hiện:
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Sở Tài chính tham mưu UBND Tỉnh ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ để phát triển cây nho trên địa bàn Tỉnh. Có kế hoạch bố trí đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ cho chuyển đổi trồng nho từ các nguồn vốn ngân sách hàng năm.