BỘ QUỐC PHÒNG BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
MAI THỊ KIM HỒNG MAI THỊ KIM HỒNG
ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI - 2014 HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
MAI THỊ KIM HỒNG MAI THỊ KIM HỒNG
ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02 MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN
HÀ NỘI - 2014 HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
Tran g 3
MỞ ĐẦU Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 10
1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững 10
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng phát
triển bền vững 23
1.3. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững
của một số nước trên thế giới và bài học rút ra cho Hà Nội 26
Chương 2 THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI THÀNH HÀ
NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 36
Tổng quan về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội 2.1 36
Những thành tựu đạt được trong quá trình đô thị hóa 2.2
ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững 39
Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá ngoại thành Hà 2.3
Nội theo hướng phát triển bền vững 49
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 58
NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình đô
thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền
vững trong thời gian tới 58
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị
hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững
trong thời gian tới 63
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 101
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Cơ sở hạ tầng CSHT
Khu đô thị KĐT
Khu chế xuất KCX
Khu công nghiệp KCN
Kinh tế - xã hội KT - XH
Khoa học và Công nghệ KH&CN
Lực lượng sản xuất LLSX
Quan hệ sản xuất QHSX
Tài nguyên thiên nhiên TNTN
Phát triển bền vững PTBV
Ủy ban nhân dân UBND
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi
bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đô thị hóa có tác động tích
cực, sâu sắc tới mọi mặt đời sống KT-XH của mỗi quốc gia nói chung, tới
khu vực nông thôn mỗi quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác
động tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết
như: Việc làm cho nông dân mất đất sản xuất; xây dựng cơ sở hạ tầng, an
ninh xã hội, các vấn đề về môi trường… Do vậy, nếu không có một chiến
lược giải pháp cụ thể, các quốc gia trong quá trình phát triển sẽ gặp phải nhiều
vấn đề vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nẩy
sinh nhiều vấn đề phức tạp từ quá trình đô thị hóa.
Thành phố Hà Nội trong những năm qua có tốc độ đô thị hóa nhanh;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Quá trình đô
thị hóa đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, nhất là cư dân nông thôn, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh cho Hà Nội; tài nguyên thiên nhiên của Thành phố từng bước
đưa vào khai thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở
ngoại thành Hà Nội còn thiếu tính bền vững như: Chưa tạo điều kiện cho sự
phát triển thành phố theo xu hướng văn minh, hiện đại và bền vững; phát triển
nguồn nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng
đô thị chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; giải quyết công
ăn việc làm cho người dân bị thu hồi đất còn khó khăn; ô nhiễm môi trường
và các tệ nạn xã hội diễn ra phức tạp...
Như vậy, vấn đề đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội đã tác động không
nhỏ tới mọi mặt KT-XH, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho các cấp, các ngành, cơ quan chức năng thành phố Hà Nội đảm
7
bảo quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội phát triển theo hướng bền
vững. Với lý do đó, vấn đề “Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng
phát triển bền vững” được tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu vấn đề đô thị hoá theo hướng PTBV ở các mức độ và góc độ tiếp cận
khác nhau, dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham khảo
và chuyên khảo, các đề tài luận văn, luận án, các bài báo được đăng tải trên
các báo và tạp chí… Trong đó đáng chú ý một số công trình tiêu biểu sau:
* Các công trình luận văn, luận án
Luận án tiến sỹ kinh tế “Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí
đánh giá mức độ đô thị hoá nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát
triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ”, tác giả Nguyễn
Hữu Đoàn [12]. Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về đô thị hoá trên
thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá
mức độ đô thị hoá là cơ sở để đánh giá và so sánh mức độ đô thị hoá của các
đô thị. Trên cơ sở vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức
độ đô thị hóa bằng định lượng và định tính, luận án đã chứng minh tính khả
thi của việc vận dụng phương pháp bằng việc áp dụng đánh giá mức độ đô thị
hóa cho Hà Nội và làm rõ một số vấn đề chủ yếu về lý luận đô thị hoá và phát
triển đô thị trong quá trình phát triển KT-XH. Từ những phân tích trên, luận
án đã đề xuất một số quan điểm phát triển đô thị nhằm góp phần đẩy mạnh
quá trình đô thị hoá ở Việt Nam và Hà Nội.
Luận án tiến sỹ cấp Viện “Nghiên cứu tác động đến môi trường tự nhiên
của quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, tác giả Trần Thị
Ngân Hà [15]. Luận án đã đánh giá quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh
trong thời gian qua. Theo tác giả luận án, quá trình đô thị hóa ở Thành phố
Vinh đã làm biến đổi môi trường tự nhiên, tuy mức độ chưa lớn nhưng đã tạo
ra sức ép đối với sự phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường tại địa phương;
8
luận án cũng đánh giá những tác động đến môi trường tự nhiên của quá trình
đô thị hóa ở thành phố Vinh là căn cứ khoa học để đề xuất các giải pháp bảo
vệ môi trường tự nhiên, phát triển đô thị theo hướng bền vững.
Luận văn thạc sỹ kinh tế “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hóa”, tác giả Nguyễn Công Bằng [4]. Luận văn đã
hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo trong quá trình đô thị
hóa; đánh giá khách quan thực trạng đói nghèo tại các huyện ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hóa trên các phương diện: Kết quả, hạn chế và
nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu
thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong thời gian
tới.
Luận văn thạc sỹ địa lý “Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị
hóa tới biến đổi kinh tế - xã hội của thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh”, tác giả Nguyễn
Thị Huyền Minh [24]. Luận văn đã nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị
hóa tới biến đổi KT-XH thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2000
đến 2010, chỉ ra những ảnh hưởng tích cực cũng như ảnh hưởng tiêu cực ở địa
phương này. Từ đó luận văn đã đề xuất những giải pháp phát triển bền vững
KT-XH của địa phương dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa.
Luận văn thạc sỹ nông nghiệp “Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa
đến phát triển kinh tế- xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”, tác giả
Ngô Thị Mỹ [26]. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những tác động tích cực
cũng như hạn chế của đô thị hóa đối với các hộ nông dân mất đất nói riêng và
tình hình KT-XH của huyện Phổ Yên nói chung. Từ việc nghiên cứu thực
trạng của đô thị hóa, luận văn chỉ ra những ảnh hưởng của nó đến phát triển
KT-XH của huyện Phổ Yên; trên cơ sở đó luận văn đã đề ra những định
hướng và giải pháp phù hợp thúc đẩy KT-XH của huyện tiếp tục phát triển.
* Sách, báo cáo hội thảo và đề tài nghiên cứu các cấp
Sách “Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới
1979 - 1989 và 1989 - 1999” của tác giả Lê Thanh Sang, Viện khoa học Nông
9
thôn Việt Nam - Bộ thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 2008. Cuốn sách đã phác họa bức
tranh đô thị hóa và cấu trúc đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 1979 - 1999 từ
đó, đề xuất các biện pháp tiến hành cấu trúc lại đô thị ở Việt Nam.
Sách “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Trần Ngọc Hiên và Trần Văn Chử
đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998. Cuốn sách đã trình
bày khái quát về quá trình đô thị hóa ở Việt Nam kể từ năm 1975 cùng các
chính sách về đô thị hóa của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam. Theo các tác giả, quá trình đô thị hóa của Việt Nam từ
sau năm 1974 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng bộ
mặt đô thị trên cả nước. Đồng thời để cập quá trình đô thị hóa còn không ít
những hạn chế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan - các chính sách đô thị hóa
của các cấp quản lý. Trên cơ sở đó có những kiến nghị chính sách để đảm bảo
quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nhất.
Sách “Đô thị học- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh
Hòa, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2012. Đây là một tuyển tập
93 bài viết trong số hàng trăm bài công bố trên các tạp chí, sách chuyên khảo
trong và ngoài nước của tác giả khi nghiên cứu về đô thị hóa trong 20 năm liên
tục (1990-2012). Cuốn sách được tác giả trình bày theo các nội dung: Nhận
thức chung về đô thị; văn hóa và xã hội đô thị; tổ chức không gian sống đô
thị; phát triển đô thị trong bối cảnh ở Việt Nam; phát triển đô thị từ kinh
nghiệm quốc tế. Cuốn sách cung cấp những kiến thức về nguyên lý và quy luật
chung của phát triển đô thị, về quy hoạch - kiến trúc, giao thông, môi trường; đặc
biệt là những cách tiếp cận mới về đô thị dưới nhãn quan của đô thị học.
Cuốn sách “Phát triển bền vững đô thị: những vấn đề lý luận và kinh
nghiệm của thế giới” của tác giả Đào Hoàng Tuấn, Nxb Khoa học xã hội,
năm 2008. Cuốn sách đã khái quát kinh nghiệm phát triển đô thị của nhiều
10
nước trên thế giới từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí đối với đô thị ở Việt Nam
hiện nay.
Thông tin chuyên đề “Những tác động về văn hóa và xã hội của quá
trình đô thị hóa ở Việt Nam và Australia” do Khoa Văn hóa, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu đô thị và xã hội Trường
đại học Công nghệ Swiburme Australia phối hợp nghiên cứu, năm 1997. Bản
Thông tin đã phân tích những tác động về văn hóa và xã hội của quá trình đô
thị hóa ở hai quốc gia Việt Nam và Australia, từ đó, xác định những điểm
tương đồng và không tương đồng trong quá trình đô thị hóa giữa hai nước và
đề xuất những bài học kinh nghiệm cho quá trình đô thị hóa ở Việt Nam.
Bài tham luận của Ngô Thắng Lợi tại Hội thảo “Phát triển bền vững thủ
đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” và “Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ
góc độ phát triển bền vững”, năm 2010, đã khẳng định những khía cạnh bền
vững trong đô thị hóa Hà Nội bao gồm: Đô thị hóa đã gắn được với tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mật độ kinh tế; đô thị hóa gắn với quá trình công nghiệp
hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đô thị hóa với gắn liền
với việc mở rộng quy mô Thủ đô, tạo không gian thuận lợi bảo đảm tính bền
vững của quá trình đô thị hóa; đô thị hóa gắn với mở rộng phạm vi lan tỏa qua
việc hình thành và phát triển vùng thủ đô với tư cách là “bệ đỡ” cho phát triển
Hà Nội. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra tính chất thiếu bền vững trong đô thị
hóa Hà Nội gồm: Quá trình đô thị hóa đã không tạo điều kiện cho sự phát triển
thành phố theo xu hướng hiện đại và bền vững trong tương lai; phát triển nguồn
nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng đô thị
chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; ô nhiễm môi trường đô
thị Hà Nội trở thành “điểm nóng” cản trở sự phát triển…
Bên cạnh những công trình tiêu biểu nêu trên, chủ đề đô thị hóa còn thu
hút được không ít các bài báo, sách và đề tài nghiên cứu khoa học khác, có
thể kể đến là: “Đô thị Việt Nam”, Nxb Xây dựng, năm 1995 của Đàm Trung
Phương; “Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng, năm 2001 của Nguyễn Ngọc Châu;
11
“Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng năm 2005 của Phạm Trọng Mạnh; “Kinh tế
đô thị và vùng”, Nxb Xây dựng năm 2006 của Trần Văn Tấn; “Phân tích dưới
góc độ địa lí kinh tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội
trong quá trình đô thị hóa” của Đỗ Thị Minh Đức; “Nghiên cứu đo đạc một số
chỉ tiêu chất lượng cuộc sống năm 2002 của Thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ
Thiệu Hùng; “Cộng đồng dân cư ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh trong
quá trình đô thị hóa” của Văn Thị Ngọc Lan…
Những công trình khoa học, bài viết trên của các tác giả đã đề cập đến
quá trình đô thị hoá trên nhiều phương diện, mục đích khác nhau như: Phát
triển đô thị lấy kinh tế làm trọng tâm; phát triển đô thị lấy con người làm trọng
tâm; lý thuyết đô thị hóa tiếp cận dưới góc độ dân số học. Tổng quan về quá
trình đô thị hóa, các xu hướng, hình thái đô thị hóa và sự biến đổi kinh tế, xã
hội, văn hóa… cùng những chính sách, kinh nghiệm của các địa phương trong
và ngoài nước về đô thị hóa. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về đô thị hóa ngoại thành Hà
Nội theo hướng PTBV, trên cơ sở đó luận văn đề xuất một số quan điểm cơ
bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà
Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải quan niệm, đặc điểm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến
đô thị hóa theo hướng PTBV.
- Đánh giá thực trạng đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đô
thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững.
12
* Phạm vi nghiên cứu: Ngoại thành Hà Nội.
Tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thực hiện chủ yếu từ
năm 2008 đến nay. Đó là thời điểm Hà Nội mở rộng địa giới hành chính gần
đây nhất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
và các nghị quyết của thành phố Hà Nội về đô thị hóa, đồng thời kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế
chính trị Mác - Lênin (trừu tượng hóa khoa học) và các phương pháp: Kết hợp
logic và lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên
gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hóa
theo hướng PTBV. Qua đó cung cấp cứ liệu khoa học để Đảng bộ, chính
quyền thành phố Hà Nội có thể tham khảo trong nghiên cứu xác định chủ
trương, chính sách nhằm hướng tới sự PTBV trong quá trình đô thị hóa ngoại
thành Hà Nội.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và học tập
bộ môn kinh tế chính trị ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững
1.1.1. Đô thị hóa
* Khái niệm đô thị hóa
Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển.
Những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau
và những sắc thái khác nhau, đô thị hóa tiếp tục lan rộng như là một quá trình
phát triển KT-XH trên toàn thế giới. Đó là quá trình mở rộng thành phố, tập
trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng
hóa những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống
cũng như văn hóa đô thị. Đó cũng là quá trình biến đổi về phân bố lực lượng
sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề
cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thu
hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng
dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao
thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác.
Hiện nay, do cách tiếp cận và đối tượng nghiên cứu khác nhau của các
chuyên ngành khoa học nên quan niệm về đô thị hóa cũng có sự khác nhau:
Trong tác phẩm “Đô thị Việt Nam” của Đàm Trung Phương cho rằng:
“Đô thị hoá là quá trình chuyển dịch hoạt động nông nghiệp phân tán sang
hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp” [33,
tr.33]. Mặt khác, cũng theo tác giả này: “Đô thị hoá cũng bao gồm quá trình
di cư từ nông thôn ra thành thị, tập trung ngày càng nhiều dân cư trong những
vùng lãnh thổ hạn chế, gọi là đô thị” [33, tr.34].
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu Phát triển KT- XH Hà Nội, quá
trình đô thị hoá được nhìn từ hai góc độ, một mặt đó là “Quá trình hình thành
14
và phát triển các điểm dân cư được tập hợp lại và phổ biến lối sống thành thị,
đồng thời phát triển các hoạt động khác nhau để phục vụ sự tồn tại và phát
triển trong cộng đồng đó”; mặt khác “Đô thị hoá cũng là quá trình mở rộng
biên giới lãnh thổ đô thị do nhu cầu công nghiệp hoá, thương mại, dịch vụ và
giao lưu quốc tế - là sự tăng trưởng về không gian đô thị từ phát triển dân số
và phát triển sản xuất” [57].
Thực tế, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là quá trình dịch cư từ nông
thôn ra thành thị và dịch cư nghề nghiệp mà còn bao hàm các quá trình dịch
cư khác, đa chiều, đa cấp độ như các dòng dịch cư đô thị - đô thị, đô thị - ven
đô, đô thị - nông thôn, vùng - quốc tế với các mức độ khác nhau theo từng
hoản cảnh của các đô thị cụ thể. Các nhân tố kinh tế vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong việc tạo nên quá trình đô thị hoá, tuy nhiên các nhân tố khác phi kinh tế
như văn hoá, lịch sử, lối sống… đang ngày càng có những ảnh hưởng lớn tới
các đặc tính đô thị hoá của mỗi vùng.
Từ các quan niệm trên cho thấy: Đô thị hóa là quá trình mở rộng đô thị
và biến đổi, phân bố lại các yếu tố của lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, hình
thành, phát triển các hình thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị; có sự chuyển
biến rõ nét trong quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị tạo tiền đề vững chắc
cho phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật
chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
Theo nghĩa hẹp, đô thị hoá là quá trình dịch cư từ lĩnh vực nông
nghiệp sang phi nông nghiệp với biểu hiện là sự tăng tỷ lệ dân số đô thị và
nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật đô thị.
Theo nghĩa rộng, đô thị hoá là quá trình chuyển biến KT-XH, văn hoá
và không gian lãnh thổ, gắn liền với những tiến bộ về KH&CN, trong đó diễn
ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển
đổi lối sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ
chức bộ máy hành chính.
15
Như vậy, đô thị hóa là sự mở rộng đô thị cả về không gian và thời gian.
Về không gian, mức độ đô thị hóa được tính bằng tỷ lệ giữa dân số đô thị trên
tổng số dân hay giữa diện tích đô thị trên diện tích của địa phương. Về thời
gian, tốc độ đô thị hóa được tính bằng tốc độ gia tăng theo thời gian của yếu
tố dân số đô thị và diện tích đô thị; là quá trình hình thành, phát triển các hình
thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, biến đổi về phân bố lực lượng sản xuất,
bố trí dân cư những vùng không phải là đô thị thành đô thị.
Ngoại thành Hà Nội là phạm vi danh giới địa chính ngoại thị của thành
phố, gồm các đơn vị hành chính huyện, thị xã và được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thành lập, bao quanh, tiếp giáp với phần nội thành, không bao
gồm phần nội thị (các quận nội thành), dân cư phần lớn là làm nông nghiệp
cùng với những thói quen sản xuất, sinh hoạt, văn hóa truyền thống của người
nông dân, nông thôn.
Trên cơ sở quan niệm chung về đô thị hóa, có thể hiểu về đô thị hóa
ngoại thành Hà Nội là quá trình mở rộng đô thị; biến đổi, phân bố lại các yếu
tố của LLSX từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ; bố trí dân cư ở các huyện ngoại thành, hình thành phát triển các hình
thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị và tăng quy mô dân số đô thị; cải tạo
nâng cấp, mở rộng, hiện đại hóa các cơ sở tương ứng của ngoại thành và các
vùng, địa phương lân cận cho phù hợp với quá trình đô thị hóa.
* Đặc điểm của quá trình đô thị hoá
Đô thị hóa gắn liền với quá trình tăng trưởng kinh tế của một khu vực,
một quốc gia. Tuy nhiên, tốc độ và đặc điểm của đô thị hóa còn phụ thuộc vào
trình độ phát triển của một khu vực hay quốc gia đó. Ngày nay, đô thị hóa
được hiểu là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu
xã hội từ nông nghiệp- nông dân- nông thôn sang công nghiệp- thị dân- đô thị
được biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
16
Thứ nhất, đô thị hóa là một quá trình lâu dài diễn ra trong một không
gian, lãnh thổ rộng lớn.
Thứ hai, tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp hay
công nghiệp hóa, đô thị hóa. Trong quá trình đô thị hóa có sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
Thứ ba, đô thị hóa là quá trình hình thành nâng cấp mở rộng quy mô đô
thị với kết cấu hạ tầng hiện đại.
Thứ tư, không gian đô thị ngày càng mở rộng, cùng với nó là sự thu hẹp
đất nông nghiệp để phát triển KĐT, KCN, thương mại, dịch vụ, du lịch.
Thứ năm, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế ngày càng gia tăng thể hiện ở
sự gia tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy mô
các đơn vị kinh tế.
Thứ sáu, đô thị hóa đã góp phần chuyển từ lối sống nông thôn sang lối
sống đô thị, từ văn hóa làng xã sang văn hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp
sang văn minh công nghiệp; cùng với đó là sự thay đổi về cơ chế, chính sách
phát triển và quản lý đô thị.
* Nội dung đô thị hoá:
Một là, mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp.
Đô thị hóa dù diễn ra dưới hình thức nào cũng đều dẫn đến sự chuyển đổi
cơ cấu sử dụng đất: Mở rộng không gian đô thị, tức phát triển đô thị theo chiều
rộng làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng. Nguyên nhân do
Nhà nước và chính quyền các cấp chuyển đổi mục đích sử dụng để dành đất cho
xây dựng các công trình; do hình thành thị trường bất động sản, kinh doanh đất
đai và một phần do nhân dân ở nơi đang có quá trình đô thị hóa bán cho những
người từ địa phương khác đến. Tuy nhiên, bất kể mục đích chuyển đổi đất nông
nghiệp để làm gì thì trong quá trình đô thị hóa, Nhà nước phải nắm quyền chủ
động chuyển đổi mục đích sử dụng đất để tạo đà cho sự phát triển đô thị.
17
Hai là, bố trí dân cư trong các khu đô thị mới, giải quyết vấn đề dân số,
giải quyết vấn đề việc làm, thay đổi cơ cấu lao động.
Khu đô thị mới là khu đô thị đang được phát triển tập trung theo dự án
đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng, các công
trình sản xuất, công trình phúc lợi và nhà ở. Đồng thời, với các khu đô thị mới
đang được phát triển làm cho các khu nông thôn được chuyển thành phố,
phường. Vì vậy, đòi hỏi phải bố trí lại dân cư cho phù hợp với quy mô và
chức năng của đô thị, phải giải quyết vấn đề dân số, cả dân số tự nhiên và dân
số cơ học đáp ứng yêu cầu của sản xuất và bảo đảm không ngừng cải thiện
chất lượng cuộc sống của dân cư. Từ làng lên phố, từ xã lên phường, người
nông dân không còn đất để sản xuất nông nghiệp và trong số này không phải
ai cũng có điều kiện để tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, dịch
vụ, thương mại nhất là với những người dân lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp
càng ít có khả năng có việc làm để bảo đảm thu nhập và cuộc sống. Bên cạnh
đó là sự gia tăng dân số và lao động cơ học từ nơi khác vào đô thị mới. Vì
vậy, đô thị hóa đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ cả cơ cấu lao động và việc làm
cho dân cư sở tại và dân cư từ các địa phương khác về.
Ba là, có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; cơ cấu thành phần kinh tế.
Đô thị hóa tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đất đai
dùng cho sản xuất nông nghiệp trước đây ngày càng bị thu hẹp. Các đô thị
mới với chức năng chủ yếu là phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Vì vậy, quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế cũng thay đổi theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thương mại
trong tổng GDP. Đến lượt nó, sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình
đô thị hóa lại kéo theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh
thương mại và dịch vụ phục vụ cho đô thị như xây dựng các trung tâm mua
sắm, khu vui chơi giải trí, nghỉ ngơi cuối tuần. Bản thân ngành nông nghiệp
cũng chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
18
nông nghiệp sinh thái. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng thay đổi nhanh chóng.
Các hộ nông dân trong các Hợp tác xã nông nghiệp trước đây có thể phát triển
thành các hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm các nghề tiểu thủ công
nghiệp; phát triển mạnh các hình thức tổ chức kinh tế của nhiều thành phần
như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty nhà nước, công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài…
Bốn là, có sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
Quá trình đô thị hóa là quá trình hình thành nhanh chóng kết cấu hạ
tầng KT-XH. Những công trình này phải đáp ứng được yêu cầu của sản xuất
và đời sống với những tiêu chuẩn cụ thể của từng loại đô thị. Đảm bảo hiện
đại và đồng bộ kết nối với đô thị cũ trung tâm và các vùng lân cận. Việc giải
quyết tốt hay không tốt nội dung này đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực
tới sản xuất và đời sống nhân dân. Về giao thông, có thể thấy mật độ giao
thông đô thị tăng nhanh, do tăng dân số, lao động và tăng trưởng kinh tế với
tốc độ nhanh cùng với nhu cầu đi lại, vận chuyển và giao lưu hàng hóa, dịch
vụ ngày càng lớn làm cho mật độ giao thông phát triển mạnh.
Năm là, thay đổi hình thái kiến trúc từ kiến trúc nông thôn sang kiến
trúc đô thị.
Trong quá trình đô thị hóa, tất yếu phải thay đổi kiến trúc nông thôn bằng
kiến trúc đô thị. Tuy nhiên, ở đây có hai nội dung cần bàn là: Ở các đô thị mới
phải có kiến trúc, xây dựng nhà ở, các cơ quan, công sở bảo đảm mĩ quan, văn
minh, hiện đại; khắc phục nhà siêu mỏng, siêu méo, nhà không số, phố không tên…
Sáu là, thành lập các đơn vị hành chính mới ở địa bàn được đô thị hoá.
Đô thị hóa dẫn đến sự biến động ranh giới các đơn vị hành chính như:
sự thay đổi địa giới hành chính, dân số của đô thị, của các phường, các quận
mới và bộ phận còn lại của các thôn, các xã, các huyện ngoại thành. Sự thay
đổi này kéo theo sự thay đổi của bộ máy hành chính cùng với thay đổi quy
mô, trình độ, cách thức, hình thức, phương thức, biện pháp quản lý. Do đó
quá trình đô thị hóa rất cần thiết tổ chức lại quản lý nhà nước trên địa bàn.
19
1.1.2. Phát triển bền vững
Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Hay báo cáo Brundtland)
của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) năm 1997 cũng đã
đưa ra khái niệm về phát triển bền vững, theo đó, thừa nhận mối liên kết chặt
chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo WCED "Phát triển bền vững là sự
phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm
tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ” [27,
tr.16]. Phát triển bền vững bao hàm các quá trình thay đổi về kinh tế, xã hội,
môi trường. Đến nay, khái niệm này vẫn còn tiếp tục được bàn luận, sự diễn
giải về nó vẫn còn có sự khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của phát triển bền
vững theo ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường:
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi con đường phát triển
tạo ra sự tăng thu nhập thực sự, gia tăng sản xuất xã hội, xóa bỏ nghèo đói,
bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, hiệu quả. Mức độ bền vững về
kinh tế bị chi phối bởi tính hữu ích, chi phí đầu vào, chi phí khai thác, chế
biến và nhu cầu đối với sản phẩm. Để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh,
khai thác tài nguyên thiên nhiên với cường độ lớn hơn vẫn là phương thức mà
nhiều quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên
nhiên thì dễ rơi vào khủng hoảng khi tài nguyên bị cạn kiệt và có những tài
nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác tài nguyên như vậy
sẽ vượt quá sức chịu đựng của các hệ sinh thái, gây ô nhiễm, suy thoái môi
trường và tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn mà con người có thể còn chưa biết
đến hoặc chưa lường hết được. Vì vậy, đây không phải là phương thức PTBV.
Những vấn đề khác như vay nợ, đầu tư kém hiệu quả, thất thoát các nguồn
vốn... cũng sẽ ảnh hưởng đến mức độ bền vững về kinh tế.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội gắn chặt và có quan hệ biện
chứng với PTBV về kinh tế, là sự phát triển kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế
với ổn định xã hội, không có xung đột, xáo trộn; huy động tối đa, hiệu quả các
20
nguồn lực cho quá trình phát triển; bảo đảm giải quyết tốt các vấn đề về việc
làm, giáo dục, y tế, công bằng về thu nhập, phúc lợi xã hội giữa các tầng lớp
dân cư, giữa các vùng lãnh thổ; xây dựng, bảo vệ và phát huy những chuẩn
mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn giáo, truyền thống, phong tục, tập quán,
bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với
PTBV về kinh tế và về xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con người và giới
tự nhiên. Mọi quá trình phát triển xét đến cùng là việc sử dụng nguồn lực con
người để khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của con
người. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường
phải bảo đảm sự bền vững. Bền vững về môi trường cũng có nghĩa là tận
dụng, tái tạo các nguồn tài nguyên, năng lượng, phòng ngừa và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm cân bằng sinh thái. Nói
cách khác, PTBV về môi trường là sự bảo đảm cho môi trường sống luôn duy
trì được ba chức năng cơ bản của nó: Là không gian sống của con người; là
nơi cung cấp nguồn lực cho sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội; là
nơi chứa đựng, tiêu huỷ các chất thải. Chỉ một trong ba chức năng này bị tổn
thương hoặc mất cân bằng là nguy cơ PTBV về môi trường sẽ bị đe dọa.
1.1.3. Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững
* Quan niệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững
Có thể hiểu đô thị hóa theo hướng PTBV là sự phối hợp phát triển đa
ngành, đa cấp và của toàn xã hội. Đô thị hóa theo hướng PTBV là tư duy đổi
mới về quá trình đô thị hóa được diễn giải trên cơ sở duy trì những hiểu biết
về kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Phát triển đô thị là nền tảng vững
chắc để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một cách hiểu đơn giản nhất
đô thị hóa theo hướng PTBV là sự can thiệp với cách thức có chiến lược của
con người vào quá trình đô thị hóa phù hợp với xu thế, nguồn lực, quy luật
phát triển chung và đặc trưng riêng của từng quốc gia. Cho đến nay, chưa có
21
một quan niệm thống nhất về đô thị hóa theo hướng PTBV. Rất khó để đưa ra
được một định nghĩa hay hệ khái niệm được coi là thống nhất về đô thị hóa
theo hướng PTBV vì bản chất đa dạng và đa chiều của đối tượng nghiên cứu.
Tùy thuộc vào mục đích và phương pháp nghiên cứu mà các tác giả sẽ có
những quan điểm khác nhau; do vậy các quan điểm về đô thị hóa theo hướng
PTBV được trình bày rất đa dạng. Báo cáo của Ủy ban Brundtland, tại hội
nghị URBAN21 tổ chức tại Berlin tháng 7/2000 đã đưa ra định nghĩa về đô
thị hóa theo hướng PTBV: Cải thiện chất lượng cuộc sống trong một thành
phố, bao gồm cả các thành phần sinh thái, văn hóa, chính trị, thể chế, xã hội
và kinh tế nhưng không để lại gánh nặng cho các thế hệ tương lai, một gánh
nặng bị gây ra bởi sự sút giảm nguồn vốn tự nhiên và nợ địa phương quá lớn.
Mục tiêu của chúng ta là nguyên tắc dòng chảy, dựa trên cân bằng về vật liệu
và năng lượng cũng như đầu vào, đầu ra về tài chính, phải đóng vai trò then
chốt trong tất cả các quyết định tương lai về phát triển các khu vực đô thị.
Đô thị hóa theo hướng PTBV trên thực tế được định nghĩa chi tiết hơn
tùy theo từng khu vực địa lý, trình độ phát triển và góc nhìn. Đô thị hóa theo
hướng PTBV cũng được xem xét dưới một thuật ngữ khác, đó là “phát triển
cộng đồng bền vững” theo đó: "Phát triển cộng đồng bền vững là năng lực
đưa ra quyết định phát triển tôn trọng mối tương quan giữa ba khía cạnh- kinh
tế, sinh thái, và bình đẳng. Về kinh tế: Hành vi kinh tế cần đem lại những điều
tốt đẹp chung cho cả cộng đồng, có thể tự làm mới, tạo ra tài sản và có khả
năng tự túc. Về sinh thái: Con người là một phần của tự nhiên, tự nhiên có
những giới hạn, và cộng đồng phải có trách nhiệm bảo vệ và xây dựng các tài
sản thiên nhiên. Về bình đẳng: Cơ hội tham dự hoàn toàn trong các hoạt động,
lợi ích và quá trình ra quyết định của một cộng đồng” [27, tr.18].
Tại Ấn Độ, quốc gia đang và sẽ là nước có tốc độ đô thị hóa hàng đầu
Châu Á đã đưa ra định nghĩa về đô thị hóa theo hướng PTBV: "Một cộng
đồng sử dụng bền vững nguồn tài nguyên của mình để đáp ứng nhu cầu hiện
22
tại, trong khi đảm bảo đủ nguồn lực có sẵn cho các thế hệ tương lai. Nó tìm
cách cải thiện sức khỏe cộng đồng và một cuộc sống chất lượng tốt hơn cho
tất cả cư dân của nó bằng cách hạn chế chất thải, ngăn chặn ô nhiễm, bảo tồn
và phát huy tối đa hiệu quả, phát triển nguồn lực địa phương để khôi phục nền
kinh tế địa phương” [17, tr.22].
Argentina đưa ra quan điểm của về phát triển đô thị bền vững, đó là:
“Một thành phố bền vững kết hợp hài hòa yếu tố môi trường với các ngành
kinh tế và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không ảnh
hưởng đến những thế hệ tương lai” [17, tr.23].
Theo Viện Môi trường Stockholm của Thụy Điển, một thành phố bền
vững có thể được định nghĩa là "Một thành phố tại đó tiền hành các hành
động được đề ra bởi các chính sách kế hoạch nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên
sẵn có và thực hiện tái sử dụng, ổn định xã hội, phát triên các nguồn vốn chủ
sở hữu, đảm bảo phát triển kinh tế cho các thế hệ tương lai" [17, tr.25].
Theo Viện Quy hoạch Đô thị - Nông thôn, Bộ Xây dựng Việt Nam (Dự
án VIE), trên cơ sở các khái niệm về PTBV, phạm trù đô thị hóa theo hướng
PTBV cũng được xây dựng mang tính đặc thù hơn, theo đó đô thị hóa theo
hướng PTBV cần tập trung giải quyết các nội dung sau:
Một là, phát triển kinh tế đô thị ổn định, tạo công ăn việc làm cho dân
cư đô thị, đặc biệt cho người có thu nhập thấp, người nghèo đô thị.
Hai là, đảm bảo đời sống vật chất văn hóa tinh thần, giữ gìn bản sắc
truyền thống dân tộc, đảm bảo công bằng xã hội.
Ba là, tôn tạo, giữ gìn và bảo vệ môi trường đô thị luôn xanh, sạch, đẹp
với đầy đủ ý nghĩa vật thể và phi vật thể đô thị.
Đô thị hóa theo hướng PTBV là một lĩnh vực đặc thù, cần sự phối hợp
phát triển đa ngành, đa cấp và của đại bộ phận dân cư. Đô thị hóa theo hướng
PTBV thể hiện một cách thức suy nghĩ và một hướng giải quyết về đô thị hóa
mà trong đó việc xây dựng các đô thị sẽ được diễn ra trên cơ sở duy trì những
hiểu biết về kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Đô thị hóa theo hướng
23
PTBV là nền tảng vững chắc để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do
đó, có thể hiểu một cách đơn giản đô thị hóa theo hướng PTBV là một cách
sửa chữa những thiếu sót của quá trình đô thị hóa, trên cơ sở xem xét lại toàn
bộ cách thức quy hoạch xây dựng đô thị hiện nay và tìm ra một xu thế phát
triển mới trường tồn trong tương lai.
Từ những luận giải trên có thể quan niệm: Đô thị hóa theo hướng
PTBV là quá trình mở rộng đô thị; biến đổi, phân bố lại các yếu tố của LLSX,
bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu
đô thị; có sự chuyển biến rõ nét trong quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị tạo
tiền đề vững chắc cho phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện
đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số; bảo đảm kết hợp hài
hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.
* Nội dung đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững
Từ những phân tích trên cho thấy, đô thị hóa theo hướng PTBV là quá trình
đô thị hóa trong đó bảo đảm được sự hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế,
xã hội và môi trường. Quá trình này bao gồm các nội dung sau:
Một là, bền vững về kinh tế.
Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về kinh tế phải gắn với quá trình
công nghiệp hóa và chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy
sản trong thu nhập quốc dân; duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững;
không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống người dân. Trong quá trình phát
triển đô thị cần được tính toán phát triển phù hợp với tiềm năng sẵn có và
triển vọng phát triển kinh tế của địa phương. Cân đối vốn đầu tư theo khả
năng tăng trưởng KT-XH của từng giai đoạn, theo từng nhóm ngành, cũng
như kế hoạch đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững ngắn và dài hạn đã
được quy hoạch. Bên cạnh đó, kinh tế đô thị cần được tính toán sử dụng hiệu
24
quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên: Đất đai, nguồn nước, năng lực và lao
động đô thị.
Huy động và cân đối hợp lý các nguồn tài chính đô thị trên cơ sở tăng
cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị.
Ngoài ra quản lý đô thị hóa theo hướng PTBV còn cần quan tâm điều chỉnh
công tác quản lý hành chính và phân phối vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản
theo định kỳ, hàng năm, 5 năm và dài hạn.
Hai là, bền vững về xã hội.
Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về xã hội bao gồm: Phân bố hợp
lý dân cư, lao động, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho dân cư đô thị; tập trung
xóa đói, giảm nghèo, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng
cao chất lượng giáo dục, chất lượng dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe cho
người dân; tăng cường hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội; xây
dựng, bảo vệ và phát huy những chuẩn mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn
giáo, truyền thống, phong tục, tập quán, bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp;
đảm bảo an ninh, hòa bình, trật tự và ổn định xã hội.
Phải khẳng định rằng, đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ do đất đai bị thu hồi
để chuyển đổi cho mục đích phát triển đô thị quá nhanh trong khi người nông
dân ngoại thành lại chưa thay đổi kịp theo cơ cấu lao động, việc làm mới dẫn
đến tình trạng thất nghiệp và các vấn đề xã hội tăng lên nhanh chóng. Thay
đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống là hệ quả tất yếu của
quá trình đô thị hóa ngoại thành. Đây là vấn đề thuộc ý thức xã hội, cho nên
người nông dân ngoại thành sống trong các phường, các quận mới cũng
không dễ gì từ bỏ những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt phù hợp và
không phù hợp hợp đã được hình thành từ nhiều đời. Mặt khác, ngoại thành
thường là đầu mối giao thông, kho bãi, nơi tiếp nhận và trung chuyển hàng
hóa, dịch vụ ra vào thành phố, nơi tập trung các cơ sở, nhà máy công nghiệp
25
lớn, do đó cũng là địa bàn tập trung số lượng lớn người lao động từ các địa
phương khác kéo về làm ăn, sinh sống... là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã
hội. Vì vậy, vấn đề xã hội là một nội dung quan trọng phải giải quyết trong
quá trình đô thị hóa.
Đô thị bền vững phải có trật tự kỷ cương xã hội, tinh thần thượng tôn
pháp luật được đề cao. Con người sống một cách lành mạnh không chỉ về thể
chất mà còn về tinh thần, mọi công dân được đảm bảo về tính mạng và tự do
hoạt động trong một thành phố thanh bình.
Ba là, bền vững về môi trường.
Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về môi trường bao gồm: Sử
dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên đất đai; hạn chế phát triển đô thị, công
nghiệp vào khu vực đất nông nghiệp gắn với chiến lược an ninh lương thực;
sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất phát triển đô thị; bảo vệ môi
trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; bảo vệ đa dạng sinh học,
giảm thiểu ô nhiễm không khí, tiếng ồn, đất, nước ở các KĐT, KCN; quản lý
chất thải rắn và chất thải nguy hại; đổi mới phương pháp lập quy hoạch đô thị
theo hướng phát triển đô thị xanh...
Có thể thấy giải quyết vấn đề môi trường có ý nghĩa to lớn với sự phát
triển sản xuất cũng như đời sống của con người. Vì vậy, dù con người lao
động và sinh sống ở nơi nào thì cá nhân hay cộng đồng vẫn phải giải quyết vấn
đề này. Đối với những khu vực đang trong quá trình đô thị hóa lại càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Do các đô thị mới đang trong quá trình hình thành,
quy mô dân số, lao động, quy mô sản xuất và cung cấp các dịch vụ của đô thị
tăng nhanh làm cho rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, rác thải xây dựng,
rác thải y tế tăng theo. Với các địa bàn giáp ranh đô thị thường là nơi được lựa
chọn để xây dựng các nhà máy, KCN, KCX vì giá đất thấp mà vẫn được hưởng
các dịnh vụ của đô thị, thuận lợi về giao thông. Hơn nữa, nơi đây đang trong
26
quá hình thành và phát triển các đô thị mới sự quản lý môi trường thường lỏng
lẻo nên dễ dẫn tới hiện tượng ô nhiễm môi trường.
Môi trường đô thị cần quan tâm xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường (gồm
phòng chống ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm chất thải rắn, ô nhiễm
công nghiệp, ô nhiễm tiếng ồn, điện tử, hóa chất độc hại và các chất phóng xạ)
Cải thiện môi trường sinh thái đô thị (gồm xây dựng các tuyến vành đai
xanh đô thị, tăng cường bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, tăng
cường quản lý nguồn nguyên liệu sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng).
Tạo dựng môi trường cảnh quan, môi trường văn hóa, xã hội phù hợp với
sinh thái địa phương và thể hiện rõ tất cả các giá trị vật chất và tinh thần của đô thị.
Đảm bảo đánh giá tác động môi trường cho các dự án quy hoạch cải tạo
và quy hoạch đô thị hóa theo hướng PTBV; đề xuất được các dự báo đô thị hóa
theo hướng PTBV ngắn và dài hạn đúng và đủ đối với điều kiện kinh tế, xã
hội, môi trường của địa phương.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng phát triển
bền vững
Đô thị hóa theo hướng PTBV chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
trong đó bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế
Điều kiện tự nhiên là tổng hợp của tất cả yếu tố vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên, khí hậu, sông ngòi, thủy văn, địa chất, địa mạo… có ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình đô thị hóa theo hướng PTBV. Thường những nơi có khí
hậu thời tiết tốt, nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi là những nơi thu hút
đông dân cư sinh sống, do đó đô thị hóa sớm, quy mô lớn và tốc độ đô thị hóa
nhanh hơn. Ngược lại, những vùng khác đô thị hóa chậm hơn, quy mô nhỏ hơn.
Phát triển kinh tế trong đó phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ
là yếu tố có tính quyết định đến quá trình đô thị hoá theo hướng PTBV. Trình
độ phát triển kinh tế của một nước được thể hiện trên nhiều phương diện: Quy
27
mô và tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành của nền kinh tế, sự phát triển
các thành phần kinh tế, trình độ hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, trình độ văn hoá
giáo dục của dân cư, mức sống dân cư. Trong một chừng mực nhất định, trình
độ phát triển kinh tế thể hiện lợi thế về vị trí, điều kiện tự nhiên và các vấn đề
xã hội của một quốc gia hay một vùng. Tuy nhiên, khi điều kiện cần cho phát
triển đô thị là phát triển kinh tế đã đạt được thì vấn đề còn lại là chính sách
hay cơ chế cho phát triển đô thị được coi như điều kiện đủ của vấn đề. Nếu
không có chính sách phát triển đô thị đúng, sẽ dẫn đến tình hình bế tắc trong
tương lai.
1.2.2. Chủ trương, chính sách, năng lực quản lý của Nhà nước và
phong tục tập quán của địa phương
Các chủ trương, chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển kinh tế cũng như quá trình đô thị hoá theo hướng PTBV. Chủ
trương, chính sách đô thị hoá, chính sách nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư
nước ngoài là những chính sách lớn của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ đến quá trình đô thị hoá ở nước ta. Từ sau Đại hội Đảng Toàn quốc
lần thứ VII, ngoài các chính sách lớn như phát triển kinh tế nhiều thành phần
và các chính sách mở cửa, Nhà nước đã quan tâm nhiều đến công tác quản lý
và quy hoạch phát triển đô thị. Nhờ đó, các đô thị nước ta đã phát triển
nhanh cả về số lượng và chất lượng, tạo ra thành quả to lớn bằng nhiều thập
kỷ trước đây, đáp ứng được sự phát KT-XH của cả nước, đồng thời trở thành
nhân tố tích cực và quyết định của quá trình đô thị hoá.
Trình độ, năng lực cán bộ quản lý đô thị hay bộ máy quản lý Nhà nước
về đô thị là vấn đề then chốt trong việc tổ chức thực hiện các chính sách đô
thị hoá. Mọi chủ trương chính sách đúng cần có những cán bộ có trình độ tổ
chức thực hiện tốt thì chủ trương chính sách mới trở thành hiện thực.
Phong tục tập quán của địa phương có ảnh hưởng quan trọng đến quá
trình đô thị hoá theo hướng PTBV, trước hết là công tác quản lý đất đai đô
thị, quản lý xã hội, quản lý dân số. Mỗi địa phương có một phong tục tập
28
quán riêng của mình và những nét văn hoá đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường nói chung và kiểu đô thị nói riêng.
Về mặt xã hội, đô thị Việt Nam nói chung và đô thị ở Hà Nội nói riêng
còn mang nhiều màu sắc nông thôn. Người thành thị hôm nay, cách đây
không lâu họ còn là người nông dân, ra thành phố học tập, lao động, họ học
tập và hoà nhập lối sống thành thị nhưng vẫn mang theo những phong tục, tập
quán, thói quen cũ của vùng nông thôn.
Về mặt xây dựng, đô thị Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn
hoá khác nhau biểu hiện qua hình thức xây dựng nhà ở của các giai đoạn lịch
sử. Trên ba miền đất nước, mỗi thành phố đều có những nét độc đáo riêng của
mình. Hà Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh đều có những biểu tượng riêng
mang bản sắc của từng miền và trong đó có cái chung của Việt Nam.
1.2.3. Sự phát triển của khoa học- công nghệ và hội nhập quốc tế
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến phát triển kinh tế nói chung và từng đô thị nói riêng ở các mức độ khác
nhau và tuỳ thuộc vào những lợi thế địa phương, khả năng sinh lợi tiềm ẩn, các
kỹ năng vốn có và sự thích nghi mà mỗi đô thị có thể thu nhận được. Nhân tố
khoa học kỹ thuật bên ngoài có ảnh hưởng tới các thành phố theo hai hướng:
Thứ nhất, có sự cạnh tranh giữa các thành phố khi các công ty đa quốc
gia so sánh giá các yếu tố đầu vào và đánh giá các thuận lợi về luật pháp và
cơ chế chính sách; tính năng động của lực lượng sản xuất và sự ổn định chính
trị. Những thành phố nào đáp ứng các yêu cầu này sẽ phát triển nhanh hơn và
ngược lại.
Thứ hai, sự xuất hiện các ngành công nghiệp dịch vụ điện tử bao gồm
các dịch vụ tài chính và thương mại, thông tin và bưu điện. Các phương tiện
thông tin hiện đại đang mang lại lợi ích to lớn cho các thành phố lớn vì những
thành phố này đã tạo điều kiện để áp dụng công nghệ thông tin hiện đại có
hiệu quả nhất.
29
Sự hội nhập quốc tế một cách toàn diện là yếu tố thúc đẩy quá trình đô
thị hoá nhanh hơn. Nhập khẩu các hình thái kiến trúc, thương mại hoá các quan
hệ, phương pháp quản lý hiện đại, liên doanh trong xây dựng đô thị hoặc các
khu đô thị là một thực tế đã diễn ra khá sinh động ở các nước phát triển như ở
Pháp, Canada. Việt Nam cũng không nằm ngoài thực tế đó. Từ thời Pháp
thuộc, Hà Nội đã có những khu nhà Tây, những năm gần đây xuất hiện làng
của người Nhật, những khu nhà ở của người Hàn Quốc, người Nga, đó thực sự
là những ngoại ứng tích cực trong phát triển đô thị Việt Nam. Quá trình toàn
cầu hóa thông qua giao dịch quốc tế (về hàng hóa, vốn, và lao động) đã hình
thành một nền kinh tế thế giới có tính hội nhập. Sự cạnh tranh giữa các trung
tâm đô thị trong và ngoài nước ngày càng mạnh mẽ. Sự phụ thuộc lẫn nhau
đang hình thành vượt qua các biên giới quốc gia, tạo ra những mối liên hệ chặt
chẽ hơn về hợp tác kinh tế. Tự do hóa thương mại và hội nhập đang tạo ra
những cơ hội và sự biến động mới bên trong các đô thị.
1.3. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững của
một số nước trên thế giới và bài học rút ra cho Hà Nội
1.3.1. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững của
một số nước trên thế giới
Quá trình đô thị hóa theo hướng bền vững ở các nước trên thế giới đều
có xu hướng phát triển bảo đảm hài hòa giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi
trường. Tuy nhiên, ở mỗi nước cũng có những cách làm khác nhau tùy vào
đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội ở từng nước.
* Ở Thụy Điển
Khi tiến hành quy hoạch và xây dựng họ chú trọng gắn kết mối liên hệ
với môi trường, cảnh quan và hệ sinh thái. Cụ thể về gìn giữ môi trường, mặt
nước hồ được quan tâm đặc biệt, tất cả hệ thống nước thải dân dụng, công
nghiệp và nước mặt đều được tập trung vào một nhà máy để xử lý trước khi đổ
vào hồ. Hồ Malaren có một hệ thống đường dạo với chiều rộng từ 10-20 mét
30
bao quanh và một hệ sinh thái rừng ôn đới tự nhiên với thảm thực vật phong
phú. Về quản lý kiến trúc, các công trình xây dựng đều phải thấp dần về phía
bờ hồ để đảm bảo tầm nhìn và mỹ quan. Thành phố Vasteras (Thụy Điển) nằm
bên hồ lớn nhất đất nước, là thành phố chịu ảnh hưởng đặc biệt của phong
cách kiến trúc thế kỷ XIII. Vasteras có rất nhiều công trình cổ mang dấu ấn
của lịch sử phát triển, vì vậy việc bảo tồn luôn luôn được quan tâm để phù
hợp và hài hoà với sự phát triển của kiến trúc hiện đại và cảnh quan kiến trúc
chung gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
* Ở Singapore
Singapore là một quốc gia - đô thị với hệ thống tập trung cao, cả nước
chỉ có một tổ chức chịu trách nhiệm về xét duyệt quy hoạch và đầu tư - Cơ
quan tái phát triển đô thị. Tính tập trung, công khai và mục đích quy hoạch
cùng với công tác quy hoạch kiểm soát và quản lý theo quy hoạch rõ ràng nên
quản lý quy hoạch kiến trúc ở Singapore hoạt động rất có hiệu quả. Từ cuối
những năm 1980, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá đô thị mới được đặc biệt chú
ý. Nguyên tắc phổ biến về bảo tồn di sản kiến trúc đô thị ở Singapore chủ yếu
là xây dựng mới theo hình thức cũ và bổ sung các chức năng mới theo hướng
hiện đại. Việc bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống, giữ gìn cảnh quan
tập trung vào các vấn đề: Lối sống, nghề truyền thống, hình thức kiến trúc nhà
ở và các di sản văn hoá có giá trị (đền, chùa, thành quách, dinh, thự…). Khai
thác các giá trị văn hoá truyền thống tạo được thế mạnh trong lĩnh vực du lịch
và dịch vụ du lịch, đây là quan điểm bảo tồn các quần cư truyền thống khá
triệt để, có chọn lọc, mang ý nghĩa giáo dục.
Tại Singapore, chất thải được phân loại và thu gom bằng túi nylon từ nơi
phát sinh, sau đó xử lý bằng phương pháp đốt tại 5 nhà máy công suất 9.000
m3/ngày, với công nghệ hiện đại đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, nhiệt
lượng thu từ các lò đốt được dùng để phát điện. Các chất tái chế được như giấy,
chai lọ, dầu thải công nghiệp được xử lý, sử dụng lại. Việc thu gom chất thải do
các công ty tư nhân đảm nhiệm, lệ phí thu gom cho mỗi hộ gia đình một tháng
31
có thời điểm là 6 đôla Mỹ, với căn hộ có sân vườn là 11 đôla Mỹ. Hiện nay các
công ty thu gom chất thải đang chuyển sang hình thức cổ phần hoá. Nhà nước
hỗ trợ tiền xây dựng nhà máy xử lý chất thải, Bộ Môi trường giám sát chặt chẽ
việc quản lý chất thải trên phạm vi toàn quốc. Tại Singapore, hàng loạt khu ở
được xây dựng rất đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật,
từ mạng lưới giao thông đến cấp nước, thoát nước thải, cấp điện, thông tin liên
lạc, cây xanh và vệ sinh môi trường từ những năm 1980. Nhiều khu ở của
Singapore đã trở thành mẫu mực cho các đô thị về cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Nhiều hệ thống được xây dựng trước theo định hướng phát triển đáp ứng nhu
cầu của tương lai.
Chính sách của Chính phủ Singapore cung cấp nhà ở cho mọi gia đình,
tạo điều kiện cho họ làm chủ sở hữu căn nhà đó. Chính phủ thực hiện mục tiêu
này thông qua Cơ quan phát triển nhà ở. Hoạt động của cơ quan này bao gồm
quy hoạch phát triển đô thị mới, nâng cấp nhà cũ, khuyến khích sở hữu nhà ở
của dân, nâng cao trách nhiệm cuộc sống cộng đồng, cung cấp nhà ở chất
lượng cao và các tiện nghi công cộng liên quan, đề ra các tiêu chuẩn về xây
dựng và quản lý địa ốc. Cơ quan này được vay tiền Chính phủ để phát triển nhà
ở và cho dân vay lại để mua nhà trả góp. Chìa khoá để giải quyết vấn đề này là
"quỹ tiết kiệm Trung ương".
Theo luật pháp Singapore tất cả các công dân làm việc phải trích vào
quỹ này 20% lương của mình, các nhà doanh nghiệp, các chủ kinh doanh hàng
tháng cũng phải nộp vào quỹ một số tiền nhất định. Do vậy số tiền trong quỹ
rất lớn, bằng 40% quỹ lương cả nước. Phần tiền lương trích vào quỹ không bị
đánh thuế thu nhập, nó vẫn thuộc sở hữu người gửi và xem như tiết kiệm hàng
năm được cộng vào lãi theo quy định và chỉ được rút ra khi về hưu hoặc có
khoản chi cần thiết như mua nhà hay chữa bệnh. Quỹ này hỗ trợ cho dân có
tiền gửi tiết kiệm để mua nhà, tiền trả góp hàng tháng cho Nhà nước.
* Ở Malaysia
Tại Kuala Lumpur thì quy trình lập, xét duyệt và xây dựng các quy định
kiểm soát phát triển đô thị không khác nhiều so với những nước khác. Điểm
32
khác chủ yếu là ở hệ thống xét duyệt đầu tư xây dựng, ở Kuala Lumpur là hệ
thống các Ban hoặc Uỷ ban trên cơ sở phân cấp, phân quyền quản lý. Hệ thống
các Ban này làm việc theo nguyên tắc phối hợp tập thể trước khi ra quyết định
đầu tư phát triển đô thị. Mô hình quản lý Kuala Lumpur thể hiện tính dân chủ
trong các quyết định. Mô hình này chỉ thực sự hoạt động có hiệu quả khi các
thành viên trong hội đồng làm việc công tâm và trên những nguyên tắc, quy
định chặt chẽ. Trong lĩnh vực phát triển đô thị, thành công cần được nhấn mạnh
trong trường hợp Kuala Lumpur là vấn đề bảo tồn và phát triển làng trong đô
thị với cấu trúc đô thị hiện đại.
* Ở Trung Quốc
Mô hình quản lý đất đô thị được xây dựng bằng việc thành lập một cơ quan
hành chính đặc biệt, do một tổ chức thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước toàn diện. Tổ chức này có thể do Chính phủ thành lập, cũng có thể
là một cơ quan liên chính phủ hay là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động
theo một cơ chế đặc biệt, theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư xây dựng nhà ở có thể do doanh
nghiệp trong nước hoặc phối hợp với các doanh nghiệp nước ngoài. Đất đai ở
Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng được điều
tiết bằng Luật.
Tại Trung Quốc, hầu hết nhà ở được xây dựng dưới dạng chung cư cao
từ 4 tầng đến 30 tầng. Xây dựng nhà ở tại Trung Quốc phát triển nhanh chóng
do nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và nhu cầu về nhà ở của nhân dân tăng cao.
Cùng với chủ trương phát triển, Trung quốc thực hiện ba phương thức cung
cấp nhà ở: Nhà ở có tiêu chuẩn cao và khá cao được xây dựng phục vụ mục
đích kinh doanh, bán cho các đối tượng có thu nhập cao; Nhà ở thích hợp xây
dựng phù hợp với điều kiện kinh tế của các gia đình có thu nhập vừa và thấp;
Nhà cho thuê với giá rẻ, xây dựng phục vụ cho các đối tượng nghèo với mức
tiêu chuẩn khá thấp do Nhà nước quản lý. Ngoài ra, Nhà nước còn mở rộng,
phát triển và cải thiện công tác lưu thông tiền vốn nhà ở, kéo dài thời hạn cho
vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân vay vốn mua nhà ở, đồng thời
33
quản lý tốt giá cả, thúc đẩy, cải cách giá cho thuê nhà.
* Ở Philippines
Hoạt động quản lý đô thị dựa vào các điều khoản của Hiến pháp và
Pháp luật, đề cập tới sự phân loại, chuyển nhượng, chuyển dịch và phát triển
tài nguyên đất đai. Đất đai được xem như một bất động sản đặt dưới sự kiểm
soát của Nhà nước, không được phép chuyển dịch hay chuyển nhượng từ đời
này sang đời khác. Sự chia nhỏ quyền sở hữu đất dựa trên Sắc lệnh về bảo
đảm bất động sản và Sắc lệnh bảo vệ người mua. Chính quyền địa phương
bảo đảm sở hữu đất được cấp cho Chính phủ hay các cá nhân. Việc chuyển
đổi đất đai từ đất nông nghiệp sang các chức năng khác phải thực hiện theo
sắc lệnh, giới hạn trong phạm vi từ 5% - 15% của vùng đất nông nghiệp.
Những nơi đất đai không còn giá trị kinh tế cho mục đích nông nghiệp và
những nơi đất đai có thể có giá trị kinh tế lớn cho mục đích ở, kinh doanh hay
công nghiệp được quyết định bởi Hội đồng luật pháp địa phương. Đất chuyển
dịch là những vùng đất xấu, đất thu góp hay đất hợp tác xã, quỹ đất quyên góp
cho Chính phủ. Mức độ giá trị của đất được xác định bằng việc phân loại đất,
giá thị trường và thuế. Giải pháp hành chính của việc công nhận quyền sở hữu
thông qua việc quyết định cấp giấy đăng ký tự do.
* Ở Nhật Bản
Hệ thống cung cấp và quản lý nhà ở của Nhà nước thực hiện thông qua
Tổng Công ty tài chính nhà ở Chính phủ, thực hiện cung cấp vốn vay dài hạn với
lãi suất thấp cho những người sắp xây dựng nhà hoặc mua nhà. Cơ quan quản lý
nhà công cộng giúp chính quyền các địa phương cung cấp nhà cho thuê với giá
thấp được trung ương bao cấp một phần. Tổng Công ty phát triển nhà và đô thị
thực hiện khắc phục tình trạng thiếu nhà ở tại các trung tâm đồng thời xúc tiến
quá trình đổi mới đô thị nhằm tạo ra môi trường đô thị tốt với hình thức đa dạng.
Nhà nước Nhật Bản chủ trương đẩy mạnh xây dựng nhà ở nhiều loại hình với sự
phối hợp giữa chính quyền trung ương, địa phương và cộng đồng dân cư trên cơ
sở những chương trình dài hạn và toàn diện, tạo cơ hội cho mọi người lựa chọn
nhà ở phù hợp với tình trạng và khả năng của mình, như: các khu ở có chất
34
lượng tốt hoặc quy mô lớn, có công năng sử dụng hợp lý, có môi trường sống
theo tiêu chí PTBV; nhà ở cho thuê giá rẻ, nhà ở cho người ở xa gia đình, người
già yếu, người khuyết tật.
* Ở Indonesia
Do nguồn lực hạn chế của chính quyền trong các dự án nâng cấp, cải
tạo hạ tầng kỹ thuật, sự đóng góp của cộng đồng là yếu tố quan trọng để dự án
đạt tính bền vững. Trung bình với mỗi dự án, Nhà nước đầu tư một triệu rupi
cho các chi phí trực tiếp, thì cộng đồng đóng góp 50.000 rupi (5%). Nếu kể cả
những đóng góp của cá nhân và cộng đồng qua việc trồng và chăm sóc cây
xanh, cấp điện chiếu sáng, xây dựng, thu gom rác, thì đóng góp từ phía cộng
đồng còn lớn hơn nhiều.
Ở các thành phố lớn như Jakarta hay Surabaya, các dự án cải tạo, nâng
cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật cho các Kampung đã thành
công với sự đóng góp của chính cộng đồng dân cư ở đó. Chương trình cải tạo
Kampung được hình thành bắt đầu vào 1969 tại thành phố Surabaya, thành phố
lớn thứ hai của Indonesia, bao gồm nâng cấp đường phố, các hẻm nhỏ, hệ
thống cấp thoát nước, các điều kiện vệ sinh và quản lý rác thải…, có sự phối
hợp giữa cộng đồng dân cư và chính quyền, qua ba phương thức: Các dự án do
người dân tự đóng góp thực hiện; các dự án có sự hỗ trợ một phần của chính
quyền; các dự án được chính quyền địa phương và Trung ương tài trợ cùng
khoản viện trợ của Ngân hàng Thế giới.
Các chương trình ở Surabaya thể hiện mạnh mẽ sự hợp tác giữa chính
quyền và các cộng đồng dân cư. Qua việc xác định nhu cầu và có sự tham gia của
cộng đồng vào các dự án nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, làm cho người dân cảm thấy
đây là chương trình của họ, vì vậy họ có thể bảo đảm được việc thành công của dự
án, tham gia duy tu bảo dưỡng các cơ sở hạ tầng sau khi được xây dựng.
1.3.2. Những bài học rút ra cho Hà Nội
Từ kinh nghiệm của một số nước được đề cập ở trên, có thể rút ra cho
Hà Nội một số bài học kinh nghiệm trong quá trình đô thị hóa trong đó có đô
thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV như sau:
35
Một là, coi trọng việc quy hoạch kiến trúc đô thị trong quá trình đô thị
hóa theo hướng phát triển bền vững.
Kinh nghiệm của một số nước cho thấy trong quá trình đô thị hóa họ đã
coi trọng việc quy hoạch kiến trúc đô thị theo hướng PTBV. Như ở Thụy
Điển khi phát triển đô thị họ đã gắn việc quy hoạch kiến trúc với bảo vệ môi
trường, cảnh quan, hệ sinh thái, phát triển hài hòa giữa kiến trúc hiện đại và
kiến trúc truyền thống. Ở Singapore họ thành lập một tổ chức chịu trách
nhiệm xét duyệt quy hoạch và đầu tư phát triển đô thị. Trong quá trình đô thị
hóa họ thực hiện theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ phát triển đô thị hiện đại
với bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống, khai thác các giá trị văn hóa
truyền thống tạo ra thế mạnh trong lĩnh vực dịch vụ và du lịch, bảo tồn các
quần cư truyền thống một cách triệt để, có chọn lọc, mang ý nghĩa giáo dục
cao. Ở Malaysia trong quá trình phát triển đô thị được thực hiện theo một quy
trình xét duyệt kiểm soát hết sức chặt chẽ theo đúng quy hoạch, trong phát
triển đô thị họ đã nhấn mạnh vấn đề bảo tồn và phát triển làng trong đô thị với
cấu trúc đô thị hiện đại.
Hai là, thực hiện tốt vấn đề quản lý đất đai xây dựng trong đô thị hóa
theo hướng phát triển bền vững.
Trong quá trình đô thị hóa vấn đề quản lý đất đai được các nước hết
sức quan tâm. Ở Trung Quốc họ thành lập ra một cơ quan đặc biệt thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Đất đai thuộc sỡ hữu Nhà
nước, đền bù giải phóng mặt bằng được điều tiết bằng luật. Ở Pháp chính
phủ chủ động mua đất trước để tránh tình trạng khan hiếm đất và những khó
khăn phát sinh trong quá trình đô thị hóa. Đồng thời chủ động mua bất động
sản của những người có nhu cầu bán làm quỹ dự trữ chủ động cho thực hiện
quy hoạch đô thị. Ở Philippines đất đai được xem như một bất động sản đặt
dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Đất chuyển dịch phải là những vùng đất
xấu, đất thu góp, đất không còn giá trị kinh tế cho mục đích nông nghiệp.
Việc chuyển đổi đất đai từ nông nghiệp sang lĩnh vực khác giới hạn trong
phạm vi từ 5%-15% của đất nông nghiệp.
36
Ba là, đầu tư phát triển hệ thống giao thông đô thị một cách hợp lý và
phát triển đô thị phải huy động được sự tham gia của cộng đồng.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quá trình đô thị hóa đã
chú trọng việc phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển khu dân cư đô thị
gắn với hệ thống giao thông công cộng, đặc biệt là ở những nơi tập trung
đông dân cư. Phát triển mạng lưới giao thông thống nhất, chú trọng phát triển
hệ thống giao thông công cộng có chất lượng tốt nhằm tối ưu hóa nhu cầu đi
lại bằng một hệ thống giao thông đầy đủ, liên thông hợp lý, hiệu quả.
Ở Indonesia trong các dự án nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới hạ tầng kỹ
thuật khu vực đô thị hóa đều có sự đóng góp của cá nhân và cộng đồng tham
gia như: Trồng và chăm sóc cây xanh, cấp điện chiếu sáng, xây dựng hệ thống
cấp thoát nước, thu gom rác thải. Qua đó đã làm cho mọi người dân vừa có
trách nhiệm tham gia vừa có trách nhiệm giám sát thực hiện một cách có hiệu
quả các dự án...
Bốn là, đảm bảo chính sách nhà ở cho người dân trong quá trình đô thị
hóa và bảo vệ tốt môi trường đô thị.
Quá trình đô thị hóa của các nước trên thế giới cho thấy vấn đề đảm
bảo chính sách nhà ở và bảo vệ tốt môi trường đô thị luôn được các quốc gia
chú trọng. Ở Trung Quốc trong quá trình đô thị hóa đã thực hiện đa dạng hóa
các phương thức cung cấp nhà để đáp ứng cho tất cả các đối tượng đều có
nhà ở. Mở rộng các hình thức phát triển và cải thiện công tác lưu thông tiền
vốn nhà ở, kéo dài thời hạn cho vay vốn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
vay vốn mua nhà hoặc thuê nhà ở. Nhật Bản thực hiện chính sách cung cấp
vốn vay dài hạn với lãi xuất thấp cho những người sắp xây nhà, mua nhà hoặc
cho thuê giá thấp Nhà nước bao cấp một phần. Xây dựng nhà ở với nhiều loại
hình tạo cơ hội cho mọi người lựa chọn nhà ở phù hợp với khả năng của
mình. Ở Singapore quy định mọi công dân làm việc phải trích 20% lương của
mình nộp vào quỹ xem như tiết kiệm hàng năm được cộng lãi theo quy định
và chỉ được rút ra khi về hưu hoặc mua nhà hay chữa bệnh.
Trong quá trình đô thị hóa các nước đều quan tâm đến vấn đề bảo vệ
37
môi trường đô thị. Ở Singapore đã hình thành các công ty tư nhân đảm nhiệm
thu gom chất thải và xử lý chất thải bằng công nghệ hiện đại bảo đảm các tiêu
chuẩn về môi trường, các chất tái chế được xử lý và sử dụng lại. Ở Hà Lan đã
hình thành các khu liên hiệp xử lý rác thải, các chất thải qua xử lý với những
quy trình đặc biệt đã tạo ra những sản phẩm có giá trị như phân bón, các loại
nguyên vật liệu mới... Với cách làm như vậy ở Hà Lan đã xuất hiện một
ngành kinh tế mới mang tính kinh doanh và hiệu quả kinh tế cao. Ở Indonesia
đã hình thành hai lực lượng thu gom rác. Mỗi cộng đồng dân cư tự tổ chức
dịch vụ thu gom rác trong phạm vi của mình và do cộng đồng dân cư đó trả
lương. Công nhân vệ sinh do Nhà nước tổ chức thì do chính quyền trả lương.
*
* *
Đô thị hóa là kết quả tất yếu của sự phát triển KT-XH, nó diễn ra cùng
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình đô thị hóa
diễn ra từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Trên phương diện kinh tế,
đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp,
thương mại và dịch vụ, bố trí sắp xếp lại các yếu tố sản xuất, tập trung hóa
sản xuất, hình thành những ngành nghề mới, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả
sản xuất. Trên phương diện xã hội, đó là quá trình hình thành một xã hội mới
với đời sống văn hóa mới, lối sống mới (văn hóa, lối sống đô thị).
Đô thị hóa theo hướng PTBV là điều hết sức cần thiết trong quá trình
xây dựng, cải tạo và phát triển đô thị. Đã từ lâu, các nước trên thế giới đều
hướng tới việc tìm cách khai thác triệt để các nguồn lực, lợi thế khác nhau
nhằm phát triển đô thị hài hòa, bền vững. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của
mỗi nước, tầm nhìn của các nhà lãnh đạo, năng lực hiểu biết của giới chuyên
môn và nhà đầu tư mà quy mô và xu hướng phát triển đô thị bền vững của các
nước có trình độ và chất lượng khác nhau. Đô thị hóa theo hướng PTBV đòi
hỏi phải bảo đảm bảo hài hòa với sự phát triển các ngành trong nền kinh tế,
38
giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường.
Từ kinh nghiệm của một số nước trong quá trình đô thị hóa rút ra một
số gợi ý cho chúng ta cần coi trọng công tác xây dựng và thực hiện quy
hoạch; công tác quản lý đất đai; công tác phát triển giao thông đô thị; bảo
đảm tốt vấn đề môi trường; bảo đảm nhà ở cho người dân… trong quá trình
đô thị hóa theo hướng PTBV.
39
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Tổng quan về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội
Ngoại thành Hà Nội hiện nay gồm 17 huyện và 01 thị xã, chiếm 87,38%
diện tích tự nhiên Hà Nội (2.922,68 km2 /3.344,7 km2), 54,54% dân số Hà Nội
(3.518.880 người/6.451.909 người) [5].
Những năm trước thời kỳ đổi mới (1986), do nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu bị kéo dài, nặng tính bao cấp cùng với chiến tranh nên tốc độ đô thị
hóa diễn ra chậm. Không gian đô thị Hà Nội luôn có sự đan xen và phát triển
giữa đô thị và nông thôn. Do vậy, đặc điểm và lối sống của người Hà Nội là
thích ở gần nơi làm việc, các khu công nghiệp thường ở gần nhà dân, nhà dân
thường ở mặt đường. Đồng thời tạo ra tính bảo thủ trong nhận thức của người
dân, giữa đô thị- nông thôn không phân biệt rõ ràng, lối sống nông thôn còn
ngập tràn trong đô thị. Tốc độ đô thị hóa diễn ra chậm ở nội thành, hàng chục
năm trôi qua mà đô thị không mấy thay đổi.
Cùng với tốc độ đô thị hóa của cả nước, quá trình đô thị hóa ở Hà Nội
diện ra nhanh và mạnh từ những năm 1990 nhờ những chuyển biến trong thời
kỳ đổi mới, đô thị hóa gắn liền với công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Cơ
chế kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với sự đổi mới về quan hệ quốc tế mở rộng
đa phương. Tính năng động của các chủ thể cá nhân và tổ chức được đề cao.
Sự biến đổi này kéo theo sự tăng tốc phát triển KT-XH và đô thị hóa của Hà
Nội. Đô thị hóa nối liền thành thị với vùng nông thôn bao quanh, đầu tiên là
dọc theo các quốc lộ 1A, 5, 11, 3, 2, 6 (với các thị trấn Đông Anh, Yên Viên,
Cầu Giấy, Văn Điển…). Đó là một quá trình thực sự mang tính tích cực - kết
quả của nó là sự lan truyền của “lối sống thành thị”. Một trong những đặc
trưng của Hà Nội trong quá trình đô thị hóa là sự mở rộng có sự tồn tại đan
40
xen của các làng xã đô thị hóa, có hàng chục các làng xã đô thị hóa nằm rải
rác, xen kẽ trong đô thị không những ảnh hưởng tới hình thái phát triển, mở
rộng đô thị mà còn chứa đựng tất cả các vấn đề tiêu biểu nhất trong quá trình
đô thị hóa của thành phố Hà Nội hiện nay.
Từ cuối thập nên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực
ngoại thành Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở
khu vực nội đô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những
huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được
quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên tắc nghẽn; nhiều khu phố
chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn; mật độ dân số quá cao khiến dân
cư nội thành phải sống trong tình trạng chật hẹp, thiếu tiện nghi. Tuy nhiên,
đây cũng là giai đoạn đô thị hóa mạnh của Thủ đô với nhiều dự án xây dựng
mới, nhà chung cư mọc lên nhanh chóng, bình quân mỗi năm Hà Nội xây dựng
mới thêm khoảng trên 500.000 m2 nhà ở.
Bên cạch đó, từ năm 1991, thực hiện đường lối phát triển kinh tế của
Đảng, nhận thức được vai trò quan trọng của KCN đối với việc đẩy nhanh tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội đã sớm xây dựng các
KCN theo mô hình mới và đã thu được những kết quả nhất định. Sự hình thành
các KCN ở Hà Nội không chỉ thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư
trực tiếp nước ngoài; tiếp cận công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến; chuyển
dịch cấu kinh tế, tạo việc làm và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội
nhập kinh tế quốc tê; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ trọng GDP trong
công nghiệp…
Từ năm 2000 trở lại đây, thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển Thủ
đô đến năm 2020, Chính phủ và thành phố Hà Nội rất quan tâm đến quy
hoạch cải tạo, xây dựng Thủ đô và đã thu được nhiều chuyển biến đáng kể.
Các dự án khu đô thị mới ở khu vực ngoại thành được hình thành và phát
triển với tốc độ nhanh, đặc biệt ở Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm. Các khu đô
41
thị mới được xây dựng với tỷ lệ nhà thấp tầng là 40%, còn nhà ở cao tầng là
60%. Có 5 dự án có diện tích từ 50 - 400 ha, 12 dự án có diện tích trên 20 ha.
Đây cũng là thời kỳ xuất hiện một số nhà ở cao tầng được xem là hiện đại.
Trong 10 năm gần đây, nhà ở cao tầng được xây dựng ồ ạt, nhiều tầng
hơn, tạo ra một bộ mặt đô thị khang trang hơn, hình thành lối sống đô thị
phong phú, đa dạng và có cá tính hơn tại khu vực ngoại thành Hà Nội. Các
khu đô thị mới vẫn tiếp tục được xây dựng với số lượng lớn, đặc biệt là sau
khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô năm 2008, các huyện có tốc độ đô thị
hóa nhanh phải kể đến Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Hoài Đức, Quốc Oai,
Đan Phượng...
Sau khi mở rộng địa giới hành chính (tháng 8/2008), Hà Nội là một
trong 20 thủ đô có diện tích tự nhiên lớn nhất trên thế giới, với tổng diện tích
là 3.344,7 km², vấn đề tìm quỹ đất cho đầu tư xây dựng đã không còn khó như
trước đây. Theo Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm
2030 và tầm nhìn 2050, Thủ đô Hà Nội sẽ gồm trung tâm hạt nhân, 5 đô thị
vệ tinh và một số đô thị sinh thái, thị trấn hiện hữu khác. Đô thị trung tâm hạt
nhân được giới hạn từ đô thị lõi cũ kéo về phía Tây đến tuyến đường vành đai
4, kéo về phía Bắc và Đông Bắc sông Hồng gồm khu vực Mê Linh, Đông
Anh, Gia Lâm và Long Biên. 5 đô thị vệ tinh được xác định gồm có: Hòa Lạc,
Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên - Phú Minh và đô thị Sóc Sơn. Theo Đồ án
quy hoạch này, khu vực ngoại thành phía Tây Thành phố đã có những bước
phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Xu hướng phát triển các khu đô thị
mới ở các huyện ngoại thành phía Tây như Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất,
Chương Mỹ, Thị Xã Sơn Tây… là điều tất yếu. Quá trình đô thị hóa tại các
huyện ngoại thành đang diễn ra mạnh mẽ với sự hình thành các dự án khu dân
cư. Tính tới ngày 31/12/2011, diện tích đất cần phải thu hồi phục vụ cho các
dự án tại các huyện ngoại thành Hà Nội là 11,543.04ha (chiếm 85,85% tổng
diện tích đất phải thu hồi trên địa bàn Thành phố), trong đó chủ yếu là đất
nông nghiệp: 11,424.41 ha (chiếm 98,97% diện tích đất phải thu hồi tại các
huyện ngoại thành Hà Nội).
42
Ngoại thành Hà Nội là một trong những khu vực ngoại thành có tốc độ
đô thị hóa đạt cao nhất trong cả nước. Tính đến năm 2010, tỷ lệ đô thị hóa đạt
ở ngoại thành Hà Nội là 30 - 32%. Quá trình đô thị hóa của ngoại thành Hà
Nội đã phát triển mạnh theo chiều rộng và có sức lan tỏa mạnh. Các điểm dân
cư ven đô, những khu vực có khả năng tạo động lực phát triển đô thị, những
quỹ đất thuận lợi để tạo thị thì tốc độ đô thị hóa ngày càng được mở rộng. Chỉ
tính riêng KCN, đến hết năm 2009, trên địa bàn ngoại thành Hà Nội đã có 17
KCN tập trung được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập và phê duyệt
danh mục quy hoạch với tổng diện tích gấn 3500 ha (quy mô bình quân 206
ha/KCN) là các KCN: Bắc Thăng Long, Nội Bài, Nam Thăng Long, Hà Nội –
Đại Từ, Sài Đồng B, Đông Anh, Sóc Sơn, Khu công nghệ cao sinh học Từ
Liêm, Khu công viên công nghệ thông tin Hà Nội, Quang Minh I, Quang
Minh II, Nam Phú Cát, Thạch Thất, Quốc Oai, Phú Nghĩa, Bắc Thường Tín,
Phụng Hiệp, Kim Hoa và 01 Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Ngoài ra trên địa
bàn Hà Nội còn có 49 cụm công nghiệp với tổng diện tích 3707 ha, 177 điểm
công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.330 ha [55]. Tuy nhiên việc đô thị
hóa nhanh diễn ra trong thời gian ngắn cần phải được đánh giá khách quan
những mặt được và không được, nhất là dưới góc độ tính bền vững của nó.
2.2. Những thành tựu đạt được trong quá trình đô thị hóa ngoại
thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững và nguyên nhân
2.2.1. Về kinh tế
Với xu hướng đô thị hóa mạnh mẽ trong thời gian qua, kinh tế của khu
vực ngoại thành Hà Nội có bước phát triển đáng khích lệ.
* Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngoại thành Hà Nội tương
đối cao. Năm 2010, tốc độ tăng đạt 8,5%, đưa tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thời kỳ 2006-2010 đạt 9,85% (cả nước 6,96%) [50]..Đến năm 2012 tốc
độ tăng trưởng kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đạt 8,1% (trong khi mức
bình quân cả nước là 5,2%) [52]. Rõ ràng, trong mọi điều kiện, dù thuận lợi
hay khó khăn, khu vực ngoại thành Hà Nội vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, gấp từ 1,26 - 1,43 lần so với cả nước.
43
* Thứ hai, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Cơ
cấu kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ lệ
công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là, nhiều khu-cụm công nghiệp, điểm công
nghiệp làng nghề ra đời trong khu vực ngoại thành Hà Nội, trở thành trụ cột
của sự phát triển kinh tế Thành phố. Năm 2009, các khu-cụm công nghiệp
khu vực ngoại thành Hà Nội tạo ra tổng giá trị sản xuất 35.000 tỉ đồng (chiếm
trên 60% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của cả Thành phố Hà Nội);
còn các cụm công nghiệp làng nghề khu vực ngoại thành cũng tạo ra khoảng
3.000 tỉ đồng/2008 (chiếm 10% tổng giá trị sản xuất toàn ngành) [49]. Sự phát
triển của các khu-cụm công nghiệp không chỉ góp phần nâng cao tỷ trọng giá
trị công nghiệp trong GDP mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho một bộ phận
lao động ở khu vực ngoại thành của Thành phố Hà Nội.
* Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng đã được cải tạo và nâng cấp.
Trong 5 năm (2009 - 2013) kết cấu hạ tầng kỹ thuật của khu vực ngoại
thành Hà Nội đã có bước nhảy vọt về chất. Đường xá khang trang hơn, nhiều
tuyến mới được mở, tuyến cũ được nâng cấp. Hệ thống cấp thoát nước được
hiện đại hóa, hạn chế cảnh úng ngập cục bộ sau mỗi trận mưa. Điện, nước
sinh hoạt đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Cơ sở hạ tầng giao thông đô thị
Đến năm 2013, tổng diện tích đất dành cho giao thông của ngoại thành
Hà Nội đạt khoảng 110 km2, diện tích đường bộ của Hà Nội với chiều dài gần
400 km đường. Các tuyến đường chính trong các huyện ngoại thành đã được
nâng cấp, hiện đại hoá, bổ sung hệ thống đèn điều khiển. Đường bộ Hà Nội
phát triển đa dạng rất thuận lợi cho việc giao lưu giữa thành phố và bên ngoài:
Quốc lộ 1 từ phía Nam; quốc lộ 6, quốc lộ 32 từ phía Tây- Bắc; quốc lộ 5 từ
phía Đông, đường từ sân bay Nội Bài vào Hà Nội phía Bắc, đường Láng- Hòa
Lạc, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy... Tất cả các huyết mạch chính đã được
nâng cấp hiện đại [52].
44
Cơ sở hạ tầng cấp nước
Khu vực ngoại thành số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt
hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ 42,4% và số dân sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn
09 là 68,62%. Những số liệu tổng quát về cơ sở hạ tầng cho cấp nước sạch
trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2012 cho thấy Hà Nội đã xây dựng thêm 8
nhà máy, 1 trạm tăng áp, và khoảng 63 km đường ống và tuyến phân phối. Hệ
thống đường ống dẫn nước, tuyến ống phân phối tăng thêm khá nhiều sẽ là
điều kiện để nâng cao khả năng cung cấp nước đồng đều cho các khu vực
ngoại thành của Thành phố [52].
Trong 05 năm (từ 2013 - 2017), Hà Nội sẽ có 60.000 hộ dân ngoại
thành được sử dụng nước hợp vệ sinh theo Chương trình mục tiêu Quốc gia
Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Mục tiêu của chương trình là
cung cấp nguồn nước sạch bền vững cho 60.000 hộ dân nông thôn tại các xã
ngoại thành Hà Nội, cải thiện điều kiện sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh. Ngoài
ra, chương trình giúp đào tạo và xây dựng năng lực cho ngành cấp nước và vệ
sinh nông thôn, năng lực giám sát, đánh giá, quản lý chất lượng nước, lập kế
hoạch và tăng tính bền vững của các công trình cấp nước.
Năm 2014, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt năm dự án cấp nước
sạch liên xã tại Cổ Đô-Phong Vân (huyện Ba Vì), Thanh Lâm, Đại Thịnh, Tam
Đồng (huyện Mê Linh), Hiệp Thuận-Liên Hiệp (huyện Phúc Thọ), Tam Hưng-
Thanh Thùy (huyện Thanh Oai), Liên Phương-Hồng Vân-Thư Phú-Hà Hồi-Vân
Tảo (huyện Thường Tín). Các dự án này thực hiện từ nguồn vốn vay do Ngân
hàng Thế giới tài trợ và sẽ cấp nước cho trên 110.000 người dân và được thực
hiện trong hai năm (2014-2015), khi hoàn thành sẽ góp phần cải thiện điều kiện
sinh hoạt của người dân, thúc đẩy phát triển KT-XH các xã khu vực ngoại thành
trong khu vực dự án; tạo mô hình cung cấp nước sạch bền vững. Dự án còn tạo
thói quen dùng nước sạch hợp vệ sinh cho người dân, từ đó nâng cao ý thức bảo
vệ nguồn nước, cải tạo môi trường. Ngoài ra, Hà Nội hỗ trợ các thiết bị xử lý
nước quy mô gia đình với tổng kinh phí gần 184 tỷ đồng cho các hộ dân trên địa
45
bàn 16 huyện ngoại thành, khu vực đang bị ô nhiễm nguồn nước nhưng chưa có
kế hoạch xây dựng các trạm cấp nước sạch tập trung.
Cơ sở hạ tầng cung cấp điện và chiếu sáng đô thị
Cùng với quá trình đô thị hóa, thực hiện đề án điện nông thôn, nhiều
trạm biến áp, đường dây đã được cải tạo, nâng cấp. hệ thống điện nông thôn về
cơ bản đã đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành điện. Tổng công ty Điện
lực Hà Nội đã đầu tư, thay thế gần 441.000 công tơ không đảm bảo vận hành
theo quy định, xây dựng 106 đường dây hạ thế mới, cải tạo các đoạn đường
dây cũ nát bị quá tải, xây dựng 306 trạm biến áp với tổng công suất
83.320KVA, tổng số vốn đầu tư khoảng 400 tỷ đồng. Đến nay, 100% số xã đã
được sử dụng điện lưới quốc gia, trên 98% số hộ được sử dụng điện thắp sáng.
Có thể đánh giá mạng lưới điện Hà Nội đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về
cả công suất và sản lượng điện trên địa bàn ngoại thành Hà Nội [55].
* Thứ tư, thu nhập và đời sống của người dân khu vực ngoại thành
được cải thiện đáng kể.
Theo số liệu thống kê cho thấy, năm 2010 thu nhập bình quân đầu
người ngoại thành Hà Nội lên đến 35 triệu đồng, tăng 10% - 13% so với năm
2009. Tính chung sau 5 năm từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính
(2008-2013), mức thu nhập bình quân đầu người tại khu vực ngoại thành Hà
Nội đã tăng lên 32% [20].
Thu nhập tăng lên đã làm giảm tỷ lệ hộ nghèo khu vực ngoại thành Hà
Nội từ 3% năm 2006 xuống 2,4% năm 2008 (cả nước giảm tương ứng là
15,47% và 13,4%). Từ năm 2009, Hà Nội áp dụng chuẩn nghèo riêng (cao hơn
2 lần chuẩn quốc gia) nên tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 6,09%, nhưng năm
2015 ước tính sẽ giảm xuống còn khoảng 3,4% [20].
2.2.2. Về xã hội
* Thứ nhất, dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành tăng nhanh
Ngoại thành Hà Nội là địa bàn rộng lớn, quá trình đô thị hóa đồng
nghĩa với việc phát triển mở rộng các KCN, KCX, KĐT... Trong vòng 10
năm trở lại đây dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành Hà Nội có sự tăng lên
46
nhanh chóng [phụ lục 1]. Hiện tại ngoại thành Hà Nội có nguồn lao động dồi
dào với khoảng 2,4 triệu người trọng độ tuổi lao động, chiếm 58% dân số khu
vực ngoại thành. Hàng năm, khu vực này có trên 100.000 học sinh tốt nghiệp
phổ thông trung học, cung cấp nhân lực cho hệ thống đào tạo ở cấp bậc cao
hơn cũng như cho các nhu cầu lao động của các ngành kinh tế.
* Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho nông dân từ
lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp và dịch vụ.
Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho cầu về lao động ngày càng tăng,
nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người lao
động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch
vụ. Ngoài ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng giảm
việc làm nông nghiệp, tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường sức
lao động hoạt động sôi nổi hơn...Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển
đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Hiện tại trong cơ
cấu lao động ngoại thành Hà Nội, lao động công nghiệp- thủ công nghiệp-
xây dựng chiếm 25% (hơn 546 nghìn người); lao động dịch vụ- thương mại
chiếm gần 17% (khoảng 367 nghìn người); tuy nhiên, lao động nông nghiệp
vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn 58% ở nông thôn (khoảng 1,3 triệu người). Đáng
chú ý là các biến đổi cơ cấu khá tích cực trong bản thân ngành nông nghiệp.
Năm 2007, trong cơ cấu, ngành trồng trọt chiếm 46,34%; chăn nuôi 46,31%;
thủy sản 5,53%; dịch vụ nông nghiệp 1,82%. Năm 2010 tương ứng: trồng trọt
Trong những năm vừa qua, trung bình mỗi năm khu vực ngoại thành
41,74%; chăn nuôi 50,96%; thủy sản 4,33% và dịch vụ nông nghiệp 2,97% [5].
Hà Nội giải quyết việc làm cho gần 100 nghìn người, đào tạo nghề cho
khoảng 50 nghìn lao động, xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của Thành phố
trong đó có khu ngoại thành Hà Nội với nhiều tỉ đồng, xoá nghèo cho hơn
hàng chục nghìn hộ gia đình, hỗ trợ xây dựng hàng nghìn ngôi nhà cho hộ
47
nghèo ở các huyện ngoại thành. Tất cả những hoạt động này đều nhằm xoá
đói, giảm nghèo và giảm chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội giữa
khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội. Tuy nhiên, xoá đói và giảm nghèo
là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi phải thực hiện trong một chiến lược tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách đồng bộ, toàn diện và định hướng
bền vững, công bằng xã hội và bình đẳng xã hội.
* Thứ ba, đô thị hóa tạo cho người dân ngoại thành được tiếp cận với
các dịch vụ tiến bộ của xã hội như: Văn hóa - xã hội, giáo dục, giao thông
công cộng.
Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những KCN, KCX, các trung tâm
dịch vụ, các khu đô thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất đai, tạo những
ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng
dụng rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá kích thích và tạo cơ hội để
con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương
thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng.
Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện, đó là xu
hướng chủ đạo, là mặt tích cực của đô thị hoá.
Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá cùng với sự phát triển hạ
tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng, tăng cường quan
hệ làm ăn, buôn bán giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo ngoại thành
và đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội ngày càng phong phú, đa
dạng hơn. Đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại, sự
truyền bá các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị;
sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ… làm
cho văn hoá làng quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ
hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của người dân các vùng đô thị hoá,
nhìn trên tổng thể được nâng lên rõ rệt.
* Thứ tư, về mức độ phát triển cơ sở hạ tầng xã hội có sự tăng lên.
48
Về nhà ở: Quỹ nhà ở của Hà Nội, trong đó ngoại thành Hà Nội trong
năm gần đây tăng nhanh. Tính đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn Thành phố có khoảng 165.300.000 m2 nhà ở, diện tích bình quân đầu người đạt khoảng 22,7 m2/người, trong đó khu vực đô thị đạt 26,3 m2/người, khu vực ngoại thành đạt 19,1 m2/người. Tỷ lệ nhà kiên cố ngày càng cao, tỷ lệ nhà bán kiên cố giảm biểu hiện sự nâng cao chất lượng nhà ở. Tuy nhiên, một số chỉ
tiêu diện tích về nhà ở cho người thu nhập thấp, nhà ở công nhân, nhà ở học
sinh, sinh viên, nhà ở công vụ, nhà ở tái định cư chưa đạt được so với mục
tiêu phát triển nhà ở Thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 - 2020 và định hướng
đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sự hình thành các KĐT
mới khu vực ngoại thành Hà Nội là nhân tố góp phần tăng nhanh quỹ nhà ở của
Hà Nội. Trong 5 năm (2008 - 2013), khu vực ngoại thành Hà Nội đã xây dựng khoảng 41 khu đô thị mới, trên 11 triệu m2 nhà ở. Hiện nay, đã có những KĐT đã được xây dựng xong và còn một số đang xây dựng. Sự hình thành hàng
loạt các KĐT ở khu vực ngoại thành mới đã góp phần to lớn vào việc tăng
quỹ nhà ở của Hà Nội không chỉ về số lượng mà điều đáng nói là chất lượng
ngày càng được nâng lên [40].
Về y tế: Lĩnh vực y tế tiếp tục được quan tâm, Quy hoạch phát triển hệ
thống y tế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt. Hệ
thống y tế cơ sở không ngừng được củng cố, hoàn thiện cả về cơ sở vật chất,
trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Từ năm 2009 đến 2013, Thành phố đã đầu tư
3.186 tỷ đồng nâng cấp, mở rộng các bệnh viện, trung tâm y tế, trong đó đặc
biệt ưu tiên các bệnh viện đa khoa tuyến huyện. Đã có thêm 133 xã/phường
được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, nâng tổng số xã/phường đạt chuẩn lên
570, đạt tỷ lệ 98,8% (năm 2008 đạt 76%). Chất lượng y tế cộng đồng và chăm
sóc sức khỏe nhân dân tăng lên. Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức
khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến rõ nét. Chất lượng điều trị, chăm sóc,
phục vụ người bệnh được nâng cao, đặc biệt đối với hệ thống bệnh viện tuyến
huyện [40].
Về giáo dục: Giáo dục của Thủ đô nói chung và của khu vực ngoại
thành nói riêng giai đoạn 2006-2013 đã có những bước phát triển tích cực và
49
toàn diện. Số lượng các trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp
đều tăng lên đáng kể. Số lượng và quy mô các trường tiểu học và trung học cơ
sở và trường phổ thông trung học đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em
người dân Thủ đô. Quy mô đào tạo, số học sinh, sinh viên đều tăng. [Phụ lục
4]. Chương trình hiện đại hoá nhà trường được thực hiện sâu rộng đã hình
thành mạng lưới các cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng cao theo tiêu chuẩn
quốc gia và khu vực ở tất cả các bậc học. Cho đến hiện nay, trong tất cả các
trường ở ngoại thành Thủ đô, hệ thống trang thiết bị dạy học, các phòng thí
nghiệm, phòng máy tính, xưởng thực hành đều được đổi mới và hiện đại hoá,
giải quyết cơ bản tình trạng học chay ở các cấp học. Đến năm 2010, 100% số
trường đã được kết nối internet.
Về dịch vụ văn hóa, giải trí dành cho cộng đồng: Ngoại thành Hà Nội
là nơi có rất nhiều hồ nước và công viên, là địa điểm giải trí và thư giãn lý
tưởng của người dân thành phố vào các dịp nghỉ. Vào các dịp lễ, tết, thu hút
không chỉ người Hà Nội mà còn cả người dân các vùng lân cận. Những điểm
tham quan giải trí được nhiều người ưa thích cần phải kể đến như: Thành Cổ
Loa, chùa Hương, chùa Thầy, chùa Tây Phương, làng cổ Đường Lâm... Một
số di sản đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới, di sản văn hóa quốc
gia. Đã được UNESCO công nhận hội Dóng ở đền Phủ Đổng và đền Sóc là di
sản văn hóa phi vật thể thế gới. Sinh hoạt văn hóa cộng đồng của Hà Nội rất
phong phú, mỗi xã, mỗi huyện khu vực ngoại thành Hà Nội đều có nhà văn
hóa là nơi diễn ra các hoạt động học tập, trao đổi văn hóa văn nghệ.
2.2.3. Về môi trường
100% các địa phương ngoại thành Hà Nội đã ký hợp đồng đấu thầu, đặt
hàng công tác duy trì vệ sinh môi trường với các đơn vị vệ sinh môi trường.
Đến năm 2014: tỷ lệ thu gom rác thải trung bình tại các địa phương khu vực
ngoại thành đạt trên 90% . Nhiều dự án đầu tư xử lý rác thải tại khu vực nông
thôn đã được triển khai và đi vào hoạt động trong giai đoạn 2011-2015, trong
đó có 07 nhà máy đã khởi công, 04 nhà máy đã hoàn thành và đi vào hoạt
50
động. Ngoài ra, còn có lò đốt rác thải sinh hoạt theo công nghệ Nhật Bản tại
Khu thắng cảnh Hương Sơn Mỹ Đức được lắp đặt và đi vào hoạt động trong
năm 2012. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn công nghiệp không nguy hại 85-90%
tương đương 549-581 tấn/ngày và xử lý khoảng 382-405 tấn/ngày; được thu
gom và xử lý tại Khu xử lý chất thải Nam Sơn, Bãi rác Kiêu Kỵ và Khu xử lý
chất thải Xuân Sơn. Tỷ lệ thu gom rác thải nguy hại đạt khoảng 62-73 tấn/ngày
chiếm 60 - 70 % tỷ lệ phát sinh và được xử lý tại Khu xử lý chất thải Nam Sơn
và các cơ sở xử lý khác, còn lại được lưu giữ tại các cơ sở phát sinh theo đúng
quy định; dự kiến lò đốt chất thải rắn công nghiệp theo công nghệ đốt phát điện
công suất 75 tấn/ngày do tổ chức NEDO Nhật Bản tài trợ đang được xây dựng
và dự kiến đưa vào vận hành vào đầu năm 2016 tại khu xử lý Nam Sơn. 100%
lượng rác thải y tế được thu gom, phân loại để tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý
theo quy định. 100% KCN đang hoạt động ở khu vực ngoại thành có hệ thống
thu gom và xử lý nước thải tập trung. Đối với công tác xử lý nước thải sinh hoạt: Đã đưa vào vận hành Nhà máy Yên Sở công suất 200.000m3 /ngày đêm.
Triển khai xây dựng các trạm xử lý nước thải quy mô lớn Yên Xá, Phú Đô...
Trong giai đoạn 2011-2015, Hà Nội đã triển khai thực hiện một số dự án, đề án
thử nghiệm xử lý nước sông, hồ và đã đạt được một số kết quả nhất định. Việc
cải tạo này đã đem lại cảnh quan đẹp, cải thiện vệ sinh môi trường, được đông
đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Ưu tiên nguồn lực ngân sách cho
công tác bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành, tổng kinh phí dành cho sự
nghiệp môi trường các năm luôn cao hơn mức quy định 1% tổng chi ngân sách,
từ năm 2011 đến nay, mỗi năm bố trí khoảng 3% tổng chi ngân sách [37].
2.2.5. Nguyên nhân thành tựu
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Hà Nội là là một địa phương có vị thế hết sức đặc biệt, là
Thủ đô của cả nước, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước. Do vậy, Hà Nội nói chung và ngoại thành nói riêng nhận được sự quan
tâm, đầu tư mọi nguồn lực để phát triển toàn diện về KT-XH và là nơi hấp
51
dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, sau lần mở rộng địa giới hành chính gần đây (tháng 8/2008),
Hà Nội trở thành một trong hai mươi thủ đô có diện tích lớn nhất trên thế giới
(trên 3.344 km2), đây là điều kiện vô cùng thuận lợi trong việc phát triển kinh
tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa và mở rộng, phát triển
đô thị tại vùng ngoại thành.
Thứ ba, kết quả của quá trình đô thị hóa cũng chính là hệ quả tất yếu của
quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa của Thủ đô, của đất nước. Trong
những năm qua tốc độ phát triển kinh tế của Hà Nội nói chung và ngoại thành
nói riêng luôn đứng đầu cả nước. Do vậy, điều này đồng nghĩa với tốc độ đô thị
hóa của ngoại thành Hà Nội trong những năm qua phát triển tương đối nhanh.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, ngoại thành Hà Nội, luôn chủ động để phát huy nội lực của
mình, khai thác các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội (hệ thống
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, tài lực…) tạo ra khả
năng thu hút và hấp dẫn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển KT-XH,
tạo tiền đề cho phát triển đô thị theo hướng bền vững.
Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành từ Trung
ương đến địa phương của Hà Nội đều quán triệt và thực hiện nhất quán mục
tiêu phát triển bền vững. Căn cứ Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012
của Thủ tướng Chính phủ, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành kế hoạch
số 104/KH-UBND ngày 03/8/2012 về triển khai thực hiện chiến lược phát
triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 của Thành phố Hà Nội. Bên
cạnh đó, UBND Thành phố Hà Nội còn ban hành rất nhiều văn bản trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, xây dựng và quản lý đô thị nhằm hướng
tới đô thị hóa theo hướng PTBV.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến về các chủ trương, chính sách
52
của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực KT-XH được các địa phương ngày
càng được chú trọng. Do vậy ý thức của người dân, doanh nghiệp đối với
triển kinh tế, xã hội, giữ gìn và bảo vệ môi trường trong quá trình đô thị hóa
tại các địa phương được nâng lên, góp phần tích cực bảo đảm cho đô thị hóa
ngoại thành theo hướng PTBV.
2.3. Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá ngoại thành Hà Nội
theo hướng phát triển bền vững và nguyên nhân
2.3.1. Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá theo hướng phát
triển bền vững ngoại thành Hà Nội
* Thứ nhất, kinh tế ngoại thành Hà Nội phát triển chưa tương xứng với
tầm vóc Thủ đô.
Kinh tế khu vực ngoại thành tuy có sự phát triển với tốc độ tương đối
cao nhưng vẫn chưa xứng với tầm vóc của Thủ đô, chưa khai thác hết các
tiềm năng, lợi thế sẵn có. Nhiều dự án được triển khai nhưng kém hiệu quả.
Năm 2013, Hà Nội đã xử lý 1600 ha đất của 131 dự án treo nằm trong diện
thu hồi; 58 dự án đang triển khai vướng mắc về kiện cáo đông người; 16 dự
án chưa giải phóng được mặt bằng; 16 dự án chậm tiện độ do thiếu vốn...[35].
Khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nhân dân của
các doanh nghiệp còn hạn chế. Mối quan hệ giữa các quận, huyện trong phát
triển kinh tế chưa chặt chẽ. Môi trường đầu tư chưa được đánh giá cao, thứ
bậc còn sau một số đô thị ở trong nước. Hoạt động của các KCN chưa thực sự
hiệu quả, cá biệt có dự án KCN phải thu hồi giấy phép đầu tư, chuyển đổi
mục đích như KCN Sài Đồng B; hiệu quả xuất khẩu của các dự án chưa cao
mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng năm có tăng lên, nhưng giá trị xuất khẩu
gia tăng so với nhập khẩu rất ít… Những bất cập trên đây chính là những
nguy cơ phát triển không bền vững cho Hà Nội nói chung và khu vực ngoại
thành Hà Nội nói riêng. Dân số Hà Nội đã ở mức quá tải, nếu tiếp tục tăng
dân số sẽ làm cho hiệu quả KT-XH giảm. Vấn đề giao thông, môi trường sẽ
53
gặp nhiều khó khăn hơn. Cơ sở hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, bệnh
viện...) ngày càng mất cân đối về cung - cầu. Để quá trình đô thị hóa ngoại
thành Hà Nội theo hướng PTBV, Hà Nội cần có những giải pháp tổng thể,
đồng bộ và mạnh mẽ.
* Thứ hai, quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội đã làm phân hoá
giàu nghèo và nảy sinh các vấn đề KT-XH cần phải giải quyết
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta coi dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh là một mục tiêu phấn đấu. Trong quá trình đô thị
hoá ở ngoại thành Hà Nội, đã và đang diễn ra nhanh chóng sự phân hoá giữa
các nhóm xã hội trong dân cư nói chung trong nội bộ mỗi giai cấp, tầng lớp
xã hội nói riêng (Mức chênh lệch giàu nghèo của ngoại thành Hà Nội về thu
nhập bình quân đầu người của 20% giàu nhất so với nhóm 20% nghèo nhất
của Hà Nội cũ trước 2006 là gấp 6,7 lần, đến khi Hà Nội mở rộng sau 2008 tỉ
lệ này tăng lên là 8,7 lần). Một trong nhiều nguyên nhân của sự phân hoá đó
là sự thiếu công bằng, bình đẳng giữa các nhóm dân cư trên một số lĩnh vực
cơ bản của về KT-XH. Những phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc không chỉ
trong mức sống mà cả trong lối sống. Nhóm giàu có và khá giả sử dụng phần
lớn thu nhập của mình cho học tập, chăm sóc sức khoẻ và các vấn đề quan hệ
xã hội, trong khi đó nhóm nghèo và cận nghèo dùng phần lớn thu nhập của
mình để giải quyết nhu cầu tối thiểu của gia đình. Trong những năm gần đây,
cùng với quá trình đô thị hóa, dân số khu vực ngoại thành tăng nhanh đã tạo
ra áp lực lớn về việc làm, thất nghiệp. Nếu tính gộp cả số lao động ngoại
thành không có việc làm sẵn có, số mất việc làm hàng năm do thu hồi đất
nông nghiệp và số học sinh ngoại thành tốt nghiệp phổ thông hàng năm gia
nhập vào thị trường lao động thì tổng nhu cầu bố trí việc làm khu vực ngoại
thành ước khoảng 340 - 350 nghìn người. Nếu hàng năm, cả thành phố chỉ có
khả năng bố trí việc làm mới cho khoảng 130 - 150 nghìn người thì ta thấy
vấn đề lao động việc làm ở ngoại thành Hà Nội là đáng báo động [55].
Bên cạnh đó các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại
54
thành cũng đang nổi lên mà Thành phố Hà Nội cần quan tâm giải quyết. Đó là
tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp liên quan đến việc đền bù giải
phóng mặt bằng. Chỉ tính trong vòng 5 năm gần đây, thuộc thẩm quyền
Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 585 vụ liên quan đến đất đai, xây dựng,
giải phóng mặt bằng (chiếm 53% số vụ). Các quận, huyện tiếp nhận 3.305 vụ
việc liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng (chiếm 70% số đơn thư).
Trong đó phải kể đến một số vụ việc gây bức xúc trong nhân dân như: Dự án
sân golf Vân Trì thuộc xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh; dự án Quốc lộ 2 xã
Minh Trí, Xuân hòa, huyện Sóc Sơn; dự án khu đô thị An Khánh, huyện Hoài
Đức; dự án KCN Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ; dự án mở rộng đường Hồ
Chí Minh, huyện Chương Mỹ… Ngoài ra, các nguy cơ tệ nạn xã hội như lô
đề, cờ bạc, trộm cắp, mại dâm có chiều hướng gia tăng và thuần phong mỹ tục
tại các huyện ngoại thành bị xuống cấp [55].
* Thứ ba, hoạt động bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành Hà Nội
chưa theo kịp quá trình đô thị hóa.
Theo thống kê của Sở Công thương Hà Nội, hiện 70% thiết bị được sử
dụng tại các làng nghề Hà Nội là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy
móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt,
may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng
nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm
môi trường làng nghề đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của
hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng đe dọa nghiêm trọng
đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất. Không khí tại các làng
nghề chế biến nông sản thực phẩm thường bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự
phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải rắn như CO2,
NH3, CH4. Không khí tại các làng nghề mây tre đan, làm nón, tăm hương…
bị ô nhiễm do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh gây phát sinh một lượng
lớn khí SO2. Không khí tại các làng nghề dệt nhuộm bị ô nhiễm do bụi bông,
bụi than, hơi hóa chất, xút thải… Không những gây ảnh hưởng đến môi
55
trường, ô nhiễm khu vực ngoại thành, còn khiến cho tỷ lệ mắc bệnh tại các
làng nghề ngoại thành Hà Nội có xu hướng tăng cao [37].
Hiện nay, trên địa bàn ngoại thành Hà Nội tổng lượng rác thải sinh hoạt
phát sinh từ khu vực nông thôn ước khoảng 2.500 tấn/ngày, trong đó, lượng rác
thải cần phải thu gom xử lý ước khoảng 1.200 tấn/ngày, chiếm gần 61%
(không bao gồm các huyện Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Sóc Sơn). Tuy
nhiên, do việc thu gom và xử lý rác thải khu vực nông thôn còn rất hạn chế (chỉ
đạt 70%), dẫn tới tình trạng rác thải tồn đọng nhiều tại các điểm đổ rác, không
vận chuyển đi xử lý kịp thời làm mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường.
Nhiều xã thuộc các huyện ngoại thành Hà Nội có hiện tượng tận dụng các ao,
hồ và các vùng trũng để đổ rác thải, hình thành hố chôn lấp rác tự phát, không
đảm bảo quy trình kỹ thuật, làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm của
khu vực [37].
Tính đến tháng 9/2014, cả 18 huyện ngoại thành Hà Nội đã đặt hàng
với các đơn vị vệ sinh môi trường để thực hiện công tác duy trì vệ sinh môi
trường trên các tuyến đường do huyện quản lý. Nhưng thực tế triển khai tại
các huyện phía Nam của thành phố mới chỉ thực hiện được tại các thị trấn và
một số xã lân cận, còn một số nơi vùng sâu, vùng xa vẫn chưa thu gom được
rác thải. Đến nay, cũng chỉ có 5/18 huyện ngoại thành có toàn bộ lượng rác
thải thu gom được xử lý tại các khu xử lý tập trung của thành phố (gồm Sóc
Sơn, Đông Anh, Mê Linh, Gia Lâm, Thanh Trì); các huyện còn lại chỉ một
phần rác thải thu gom được vận chuyển về các khu xử lý tập trung, còn lại thu
gom, xử lý tại chỗ. Có thể kể đến một số điểm đổ rác tồn đọng nhiều, gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng trên tỉnh lộ 419 (huyện Thạch Thất), tỉnh lộ
421B (huyện Quốc Oai); dọc quốc lộ 6 như chợ Gốt xã Đông Sơn, chợ Đông
Phương Yên, xã Đông Phương Yên, trường học xã Trường Yên, xã Phục
Châu (huyện Chương Mỹ)… [37].
Kinh phí dành cho công tác bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành hàng
56
năm đều tăng, tuy nhiên, mức chi này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường ở khu vực ngoại thành, nhiều chương trình, dự
án vẫn chưa bố trí đủ kinh phí để thực hiện như: Chương trình tuyên truyền,
nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác môi
trường; chương trình xử lý nước mặt sông hồ, lắp đặt các trạm quan trắc không
khí, nước mặt, đầu tư xử lý nước thải làng nghề.
* Thứ tư, nhà ở chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân khu vực đô
thị hóa
Nhu cầu nhà ở của dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành ngày càng
tăng nhanh, quỹ nhà ở của thành phố mặc dù đã tăng, những diện tích nhà ở
bình quân trên đầu người còn thấp (dưới 20m2/người) [22]. Từ mất cân đối
cung cầu đã dẫn đến giá cả nhà, đất còn cao, chính quyền chưa có biện pháp
can thiệp hiệu quả. Người có thu nhập trung bình khó có đủ khả năng mua
được nhà ở riêng cho bản thân. Trong khi đó nhiều khu đô thị bỏ hoang, lãng
phí về tài nguyên và nguồn vốn. Dịch vụ thuê nhà chưa phát triển. Vấn đề nhà
ở cho những người lao động nhập cư từ các địa phương khác làm việc tại các
KCN, cụm công nghiệp… gặp nhiều khó khăn. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến các
vấn đề phát triển KT-XH bền vững của ngoại thành Hà Nội.
* Thứ năm, công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất
cập; cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất
và đời sống
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị của Hà Nội còn nhiều
bất cập, đây cũng là vấn đề chung của Việt Nam (Quỹ đất dành cho giao
thông chưa phù hợp mới đạt khoảng trên 30% mức hợp lý cho phát triển đô
thị; giao thông công cộng mới đáp ứng được 15% nhu cầu đi lại của người
dân...) [22]. Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của Hà Nội đã được xây dựng,
nhưng trong quá trình thực hiện còn mang tính hình thức. Chỉ tiêu quy hoạch
quan trọng trong quy hoạch tổng thể là quy mô dân số trong từng thời kỳ đã
không thực hiện được và do đó đã phá vỡ các chỉ tiêu khác. Hà Nội bị sự quá
57
tải về dân số đã dẫn đến sự quá tải trên tất cả các phương diện. Chưa có sự
lồng ghép các loại quy hoạch KT-XH trong quy hoạch đô thị. Các quy hoạch
ngành và lĩnh vực chưa có sự phối hợp chặt chẽ nhất là quy hoạch môi
trường. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng xây dựng xen kẽ các nhà ở của dân cư
vào khu vực nhà máy có gây ô nhiễm môi trường và ngược lại, là tình trạng
xây dựng nhà máy trong các khu dân cư đông đúc, thiếu các cơ sở hạ tầng và
dịch vụ xử lý chất thải, làm môi trường ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, khắc
phục các hậu quả là vấn đề rất khó khăn.
Trong quá trình đô thị hoá tốc độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị chậm
hơn so với tốc độ phát triển KT-XH đô thị và chưa đáp ứng yêu cầu về phát
triển sản xuất đời sống, bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và
lạc hậu của hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống
giao thông. Mặc dù hạ tầng kỹ thuật đô thị ở khu vực ngoại thành Hà Nội đã
được quan tâm đầu tư cải tạo và nâng cấp, nhưng nhìn chung chưa đạt được
những tiêu chuẩn của đô thị hiện đại.
Tốc độ đô thị hoá khu vực ngoại thành cao, đặc biệt là tăng trưởng kinh
tế và vấn đề tăng dân số, trong khi đó công tác quản lý mới chỉ tăng quy mô
số lượng cán bộ, chưa có sự thay đổi về chất, tất cả điều đó làm cho công tác
quản lý hoạt động kém hiệu quả. Các biện pháp quản lý còn mang nặng tính
tình thế, chưa đảm bảo tính đồng bộ. Đổi mới phương pháp quản lý đang là
một thách thức lớn đối với công tác quản khu vực đô thị hóa ngoại thành Hà
Nội. Nền kinh tế thị trường đã biều lộ rõ những mặt trái của nó đó là sự phát
triển không cân đối giữa các ngành, giữa các thành phần kinh tế, sự chạy theo
lợi nhuận của các doanh nghiệp đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng và lợi ích
chung của xã hội.
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là do trình độ phát triển kinh tế của ngoại thành Hà Nội còn
thấp so với các quận nội thành Hà Nội, do đó chính sách đô thị hóa trên địa
58
bàn ngoại thành Hà Nội trong thời gian đầu phải ưu tiên những mục tiêu kinh
tế mà ít quan tâm đến vấn đề xã hội, môi trường.
Thứ hai, đô thị hóa ngoại thành Hà Nội diễn ra trong bối cảnh phải đáp
ứng yêu cầu tạo nhiều việc làm, giảm đói nghèo cho một bộ phận lớn là dân cư
nông thôn tại địa phương và một bộ phận dân nhập cư, do đó các mục tiêu bảo
vệ môi trường có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, nhân lực của khu vực ngoại thành Hà Nội tuy có số lượng đông
nhưng tỷ lệ chưa được đào tạo còn cao, ý thức kỷ luật còn nhiều hạn chế,
thiếu lao động có tay nghề, nhất là đối với các ngành công nghệ cao, hiện đại;
Bên cạnh đó, trình độ công nghệ trong các cơ sở sản xuất khu vực ngoại thành
Hà Nội còn lạc hậu.
Thứ tư, nguồn vốn của Thủ đô Hà Nội còn chế, trong khi tốc độ tăng dân
số lại quá nhanh. Điều này đã gây sức ép lớn đến việc đáp ứng của hệ thống kết
cấu hạ tầng giao thông cũng như hệ thống hạ tầng xã hội của khu vực ngoại
thành Hà Nội. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng
xã hội (nhà trẻ, nhà mẫu giáo, trường học, nhà văn hoá, trạm y tế...) không đáp
ứng yêu cầu phục vụ của cộng đồng dân cư sống trong các khu đô thị mới.
Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp ít mặn mà trong việc đầu tư vào khu
vực này vì ít mang lại lợi nhuận cho họ.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước và các địa phương khu vực
ngoại thành Hà Nội chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu phát triển bền vững
trong hoạch định và thực thi các chính sách đô thị hóa. Còn chạy theo lợi ích
ngắn hạn, cục bộ, tư duy theo nhiệm kỳ, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan
có trách nhiệm cùng với tình trạng cát cứ theo địa giới hành chính của từng địa
phương. Việc tuân thủ quy hoạch tổng thể, dài hạn trong phát triển KT-XH nói
chung và đô thị hóa nói riêng còn chưa thực sự được quan tâm chú trọng. Đây
là nguyên nhân cơ bản của tình trạng kém bền vững trong quá trình đô thị hóa
59
ngoại thành Hà Nội những năm qua.
Thứ hai, còn thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các huyện ngoại thành
Hà Nội trong công tác quy hoạch phát triển đô thị và phát triển các ngành
kinh tế. Quy hoạch đô thị chủ yếu chú ý đến mặt lượng trong phát triển theo
từng địa phương, chưa chú ý đúng mức về mặt chất lượng. Chưa quan tâm
giải quyết đúng mức mối quan hệ giữa đô thị hóa với việc xử lý các vấn đề
môi trường, xã hội, chuẩn bị nguồn nhân lực, phát triển hệ thống giao thông
và mạng lưới dịch vụ. Công tác lồng ghép các nội dung quy hoạch và bảo vệ
môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch chung đô thị còn yếu vì chưa có
các văn bản pháp quy để thực hiện yêu cầu này.
Thứ ba, năng lực thực thi các quy định về môi trường và đảm bảo các
điều kiện xã hội cho người dân ngoại thành còn nhiều hạn chế. Một số địa
phương thường chỉ quan tâm và tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế,
đô thị mà thiếu quan tâm đến vấn đề xã hội và môi trường. Bên cạnh đó,
nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp ở ngoại thành Hà Nội vì khả năng
tài chính hạn chế đã không thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi
trường, đảm bảo điều kiện làm việc cho người lao động, các chính sách
đãi ngộ và bảo hộ lao động...
Thứ tư, công tác quản lý đô thị còn một khoảng cách khá xa so với yêu
cầu phát triển của quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị. Mặt khác, tính
chuyên nghiệp trong công tác quản lý đô thị ở khu vực ngoại thành hầu như
chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc đào tạo cán bộ quản lý đô thị
chưa được thực hiện bài bản, hệ thống.
*
* *
Quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội trong những năm qua đã đạt
được nhiều thành tựu nổi bật đó là: Kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đã có
bước phát triển vượt bậc trong quá trình đô thị hóa theo hướng bền vững; đã
bước đầu góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội trên địa bàn; cơ sở hạ tầng
60
y tế cơ bản được hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe và
khám chữa bệnh cho người dân ở khu vực ngoại thành; cơ sở hạ tầng giáo dục
đã có bước phát triển tích cực và toàn diện đáp ứng tốt yêu cầu học tập của
con em trong vùng; cơ sở hạ tầng dịch vụ văn hóa, giải trí dành cho cộng
đồng phát triển phong phú đa dạng đáp ứng tốt nhu cầu đời sống tinh thần của
nhân dân; kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu vực ngoại thành Hà Nội không ngừng
được nâng cấp, phát triển theo hướng hiện đại; công tác quy hoạch và quản lý
xây dựng đô thị đã được tập trung đẩy mạnh đồng bộ, tạo được sự chuyển
biến cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đô thị hóa
ngoại thành Hà Nội cũng đã bộc lộ một số hạn chế chế như: Kinh tế khu vực
ngoại thành Hà Nội phát triển chưa tương xứng với tầm vóc của Thủ đô; đô
thị hóa đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo và nảy sinh các vấn đề công bằng
xã hội; dân số tăng nhanh gây áp lực lớn cho vấn đề việc làm; bảo vệ môi
trường đô thị khu vực ngoại thành Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn; phát triển nhà ở khu vực đô thị hóa ngoại thành chưa đáp ứng được nhu
cầu của người dân; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất
cập; cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất và
đời sống; phương pháp quản lý chưa theo kịp quá trình phát triển đô thị.
Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, đây chính là
những nguy cơ phát triển thiếu bền vững cho Hà Nội nói chung và khu vực
ngoại thành Hà Nội nói riêng. Để quá trình này đạt hiệu quả thiết thực thì Hà
Nội cần phải thực hiện hệ thống quan điểm và giải pháp đồng bộ, phù hợp.
61
Chương 3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa
ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới
3.1.1. Coi trọng các nội dung phát triển bền vững trong quá trình đô
thị hóa ngoại thành Hà Nội
Sự phát triển bền vững trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là
sự bảo đảm cho phát triển kinh tế ổn định có hiệu quả ngày càng cao, gắn với
bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như yêu cầu
về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng…Như vậy, phát triển bền vững trong
quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là phát triển kinh tế hiệu quả, phát
triển xã hội hài hòa, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, khai thác
hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất
lượng môi trường.
Phải thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành Hà Nội một
cách đồng bộ, vì mục tiêu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển đô thị, từng bước hình thành
mạng lưới đô thị phù hợp theo quan điểm đồng bộ, hệ thống. Ưu tiên phát triển
kết cấu hạ tầng ở những nơi kinh tế còn nhiều khó khăn. Quy hoạch sản xuất
nông nghiệp một cách toàn diện, theo hướng hiện đại gắn với nhu cầu thị trường
và phù hợp với lợi thế của từng khu vực. Quy hoạch sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả đất nông nghiệp, nhất là đất canh tác. Gắn kết quy hoạch sản xuất nông
nghiệp với quy hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn ngoại thành
Hà Nội. Tăng cường thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,
tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết nhu cầu lao động tại chỗ và nâng cao
thu nhập của người dân, tạo điều kiện cho họ yên tâm phát triển sản xuất. Khớp
62
nối kết cấu hạ tầng các KCN, dịch vụ, các KĐT mới với kết cấu hạ tầng khu vực
ngoại thành Hà Nội theo một quy hoạch phát triển toàn diện, tổng thể. Triển khai
mạnh xây dựng nông thôn mới, hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu
hạ tầng KT-XH đồng bộ như: Thủy lợi, đường giao thông, điện, nước sạch,
trường học, cơ sở y tế, bưu điện, nhà văn hóa, trung tâm thể dục thể thao,
trung tâm mua sắm… Quan tâm quy hoạch môi trường, hình thành hệ thống
thu gom, xử lý rác, nước thải, phế thải; hạn chế tiến tới khắc phục tình trạng ô
nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Bảo vệ, nuôi dưỡng hệ sinh thái và giữ gìn
tài nguyên, cảnh quan thiên nhiên. Tăng cường khả năng phòng chống thiên
tai dịch bệnh. Phải quản lý chặt chẽ những tác động về môi trường của từng
doanh nghiệp và toàn bộ khu công nghiệp đối với nguồn nước cũng như
không khí ở các khu vực liên quan. Kiên quyết xử lý việc sử dụng quỹ đất
lãng phí, đặc biệt là đất canh tác và tình tình trạng san lấp, lấn chiếm ao hồ,
các công thình thủy lợi… cùng với sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải,
bụi khói, tiếng ồn…
Quá trình đô thị hóa phải gắn với phát huy vai trò của hệ thống chính trị
cơ sở và cộng đồng làng xã, đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ
chức Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở khu vực ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hóa. Củng cố nâng cao hiệu quả quản lý điều hành
các hoạt động KT-XH, trật tự của chính quyền cơ sở, đồng thời nâng cao năng
lực giải quyết kịp thời các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân. Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể xã hội ở khu vực
ngoại thành Hà Nội, làm cầu nối vững chắc giữa Đảng với người dân, thực sự
là trung tâm đoàn kết cộng đồng làng xã. Triển khai đồng thời, lồng ghép các
phong trào thi đua yêu nước với những nội dung thiết thực như: “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”… giữ gìn, phát huy các giá trị tốt đẹp
của văn hóa dân tộc.
63
3.1.2. Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với giải quyết các vấn đề xã
hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội
Phát triển KT-XH khu vực ngoại thành Hà Nội, đặc biệt là đẩy mạnh
công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện cần thiết cho
việc giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Trong thời gian tới, tốc độ phát triển các KCN và xây dựng kết cấu hạ tầng,
KĐT mới ở ngoại thành Hà Nội sẽ tiếp tục tăng. Do vậy, ngay từ khi quy
hoạch các KCN, KĐT mới phải có giải pháp đầu tư tạo việc làm, đào tạo
nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi môi trường, phát triển đời
sống văn hóa tinh thần cho người lao động.
Phát triển KT-XH theo hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ
yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý theo chiều sâu, vừa mở
rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với khu vực
ngoại thành Hà Nội, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng
các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế hướng vào phát triển các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao và các giải pháp đổi mới
công nghệ, chế tạo sản phẩm mới. Phát triển đa dạng các ngành nghề tạo
nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đô thị hóa trực tiếp góp
phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng giá trị nông sản
và tăng dần tỉ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP.
Đối với nông nghiệp cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng phát triển các
cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng hiệu quả cao hơn. Phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm dịch vụ, các đô thị mới phải
nâng được giá trị của đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng
giá trị sức lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học công nghệ.
Đồng thời quá trình đô thị hóa phải tạo ra nhiều cơ hội và kích thích mọi
64
người năng động sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương thức,
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh vươn lên làm giàu chính đáng. Kinh tế
phát triển, đời sống của người lao động từng bước được nâng lên, đây chính là
điều kiện căn bản để giải quyết kịp thời và đúng đắn các vấn đề xã hội bức
xúc nảy sinh (như tình trạng thiếu hoặc mất việc làm của nông dân, tệ nạn xã
hội phát sinh, tình hình an ninh chính trị mất ổn định, ô nhiễm môi trường,
nguồn nước…), thực hiện phát triển một cách bền vững ở khu vực ngoại
thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa.
3.1.3. Chú trọng vấn đề tiến bộ và công bằng trong quá trình đô thị
hóa ngoại thành Hà Nội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính
sách phát triển KT-XH là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong
đường lối phát triển của đất nước. Quan điểm này phải được quán triệt sâu sắc
trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội. Trong đó chú trọng bảo đảm hài
hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động. Việc thu hút đầu tư
để tiến hành đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội phải khuyến khích được các
doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, đồng thời bảo đảm được quyền
lợi và nghĩa vụ, cống hiến, hưởng thụ của người lao động và chủ sử dụng lao
động gắn bó chặt chẽ với nhau. Chống mọi biểu hiện xâm phạm quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động.
Tập trung bảo đảm đời sống và việc làm cho người lao động, thực hiện
tốt chủ trương xóa đói xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là những vùng khó khăn,
những nơi có nhiều nhạy cảm về chính trị xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các chương trình phát triển kinh tế gắn các vấn đề xã hội. Mọi chủ
trương giải pháp phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng trên địa bàn đều phải
tính đến yếu tố phát triển bền vững và bảo đảm tốt nhất lợi ích của người dân.
Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết, đây là một nội dung quan trọng để giải
quyết mối hệ giữa các giai tầng trong xã hội, vừa thực hiện các vấn đề bình
65
đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, đồng thời góp phần ổn định
chính trị xã hội để giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong quá trình đô thị
hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.
Giải quyết mối quan hệ đất đai và nâng cao đời sống của nhân dân khu
vực ngoại thành Hà Nội. Thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện quá trình đô
thị hóa phải được tiến hành một cách thận trọng và khoa học. Trong quá trình
đô thị hóa thu hồi đất là một tất yếu, là quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn, từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu lên nền sản xuất công nghiệp
hiện đại. Do vậy, quá trình xây dựng đường xá, cầu cống, các khu kinh tế, khu
công nghiệp, khu dân cư phải được hoạch định theo hướng tập trung; đòi hỏi
các địa phương khu vực ngoại thành Hà Nội phải quy hoạch lại đất đai,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động cho phù hợp với nền kinh tế công
nghiệp. Trên tế cho thấy, công tác thu hồi đất để phát triển công nghiệp hóa,
đô thị hóa phải thực hiện tốt chính sách bồi thường cho những đối tượng bị
thu hồi đất để giải phóng mặt bằng, tái định cư là một nội dung quan trọng, là
yếu tố quyết định môi trường đầu tư, thu các nguồn vốn, các dự án đầu tư
nhằm thúc đẩy KT-XH phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân. Do vậy,
để quá trình đô thị hóa diễn ra một cách thuận lợi thì công tác quy hoạch các
KCN, KCX phải tính toán đầy đủ các yếu tố liên quan đến tạo việc làm cho
những người lao động nằm trong diện phải thu hồi đất, đền bù và giải quyết
một cách thỏa đáng những lợi ích, quyền lợi chính đáng của người dân được
hưởng. Tránh để xảy tránh để xảy ra những điểm nóng phát sinh, những cuộc
khiếu kiện đông người kéo dài và nảy sinh các vấn đề xã hội gây bức xúc.
3.1.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của
chính quyền Thành phố trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội
Để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh về KT-XH trong quá trình đô thị
hóa thì việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao năng lực
quản lý của chính quyền, các cơ quan chức năng ở địa phương khu vực ngoại
66
thành Hà Nội cần phải được chú trọng. Đồng thời phải huy động được trách
nhiệm của toàn xã hội, sự tham gia đông đảo của người dân, của doanh nghiệp,
của các thành phần kinh tế vào việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh
trong quá trình đô thị hóa.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong quá trình đô thị hóa ở
ngoại thành Hà Nội trước hết là phải làm tốt công tác xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bảo đảm cho các cấp ủy Đảng có đủ năng lực
phát huy được vai trò của mình trong việc đề ra các chủ trương chính sách để giải
quyết tốt các vấn đề KT-XH nảy sinh một cách đúng đắn và hiệu quả.
Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp, các cơ
quan đoàn thể về giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh đó là phải thể chế
hóa kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đô thị hóa
nông nghiệp, nông thôn. Giải quyết hài hòa vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân. Xây dựng nông thôn mới gắn với các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và
phát triển đô thị theo quy hoạch và phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, thông tin để
nâng cao tính khả thi trong việc kết hợp đúng đắn giữa phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh như: Giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.
Huy động toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề KT-XH trong quá
trình đô thị hóa. Đây chính là phát huy sức mạnh tổng hợp để giải quyết các
vấn đề xã hội nảy sinh. Hầu hết các vấn đề có liên quan đến sản xuất, đời
sống của người dân và các vấn đề xã hội phải được toàn dân chăm lo giải
quyết thì mới có hiệu quả cao.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa
ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới
Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu
sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức
67
không gian kiến trúc... biến nông thôn thành thành thị hay nói cách khác, đô
thị hóa là quá trình biến các làng quê ngoại thành với hoạt động nông nghiệp
là chủ yếu thành các đô thị, với các hoạt động phi nông nghiệp là chủ yếu,
xóa bỏ dần thói quen của những người nông dân, để xây dựng phong cách,
thói quen, tư duy và lối sống công nghiệp, đô thị.
Đô thị hóa là quá trình tất yếu để phát triển KT-XH, song đô thị hóa sẽ
khiến nhiều nguồn tài nguyên của Hà Nội, trong đó có tài nguyên đất bị thu
hẹp... đô thị hóa sẽ đem lại nhiều lợi ích cho sự phát triển KT-XH Thành phố,
đồng thời bản thân nó lại nảy sinh nhiều vấn đề KT-XH cần phải giải quyết.
Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội PTBV trong thời gian tới cần phải
thực hiện tốt một số nhóm giải pháp sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về kinh tế
Nhóm giải pháp này có ý nghĩa hết to lớn để phát triển kinh tế ngoại
thành Hà Nội một cách ổn định, làm cho cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế
vùng, cơ cấu thành phần kinh tế phát triển theo hướng tích cực phù hợp với
tiềm năng và triển vọng phát triển kinh tế của từng địa phương trên địa. Thực
tế quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội thời gian qua còn bộc lộ sự thiếu
bền vững có nguyên nhân từ những bất cập về tăng trưởng, phát triển kinh tế
trong quá trình đô thị hóa chưa tương xứng. Bởi vậy, thực hiện nhón giải pháp
này nhằm nhằm huy động vốn đầu tư theo khả năng tăng trưởng KT-XH theo
từng giai đoạn, từng nhóm ngành và theo kế hoạch đô thị hóa theo hướng phát
triển bền vững ngắn và dài hạn đã được đề cập trong quy hoạch xây dựng đô
thị của thành phố. Điều này cho phép các địa phương tính toán sử dụng hiệu
quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên: đất đai, nguồn nước, năng lực và lao
động... Theo đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
* Thứ nhất, nâng cao chất lượng quy hoạch, giải quyết có hiệu quả mối
quan hệ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông
nghiệp, nông thôn
68
Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển đô thị ở ngoại thành Hà Nội
gắn với việc quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn trong vùng theo
quan điểm hệ thống, đồng bộ là một trong những giải pháp hết sức quan
trọng. Do vậy, trong thời gian tới UBND Thành phố cần tiếp tục chỉ đạo Sở
Quy hoạch Kiến trúc, Sở Kế hoạch & Đầu tư chủ trì phối hợp với các sở,
ngành có liên quan thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Việc quy hoạch phải thực hiện nguyên tắc tiết kiệm sử dụng đất nông
nghiệp, nhất là loại đất có hiệu quả canh tác cao. Việc quy hoạch đô thị hóa
phải coi trọng và tuân thủ hai loại quy hoạch: Quy hoạch phát triển KT-XH,
quy hoạch không gian sử dụng đất và quy hoạch phát triển các KCN, KĐT.
Xây dựng quy hoạch đô thị cần hạn chế thấp nhất việc lấy đất nông nghiệp,
đất trồng lúa, nhất là loại đất tốt để phát triển các KCN, khu đô thị, gây nên
một bộ phận nông dân mất việc làm, phát sinh phức tạp về mặt xã hội ảnh
hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực của Thành phố và quốc gia. Lập quy
hoạch dự án sử dụng đất nông nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển
KT-XH của từng địa phương. Phải gắn việc quy hoạch với sử dụng đất nông
nghiệp, với phát triển các ngành nghề, đặc biệt là phát triển các làng nghề
truyền thống của mỗi địa phương. Xây dựng và mở rộng các ngành công
nghiệp chế biến, dịch vụ ngay tại nông thôn để thu hút lao động nông nghiệp
vào lĩnh vực này, với phương châm "ly nông, bất ly hương".
Trong quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, các địa phương
phải thật sự gắn kết việc quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng của mình với việc
quy hoạch ngành, quy hoạch trong toàn vùng nhằm phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng bền vững. Việc xây dựng, phát triển các KCN, KĐT
phải có một quy hoạch chung thống nhất, bổ sung, tận dụng các lợi thế so
sánh của từng địa phương để phát triển.
Sở Quy hoạch kiến trúc, Sở Xây dựng và các cơ quan chức năng Thành
phố cần tổ chức rà soát, chấn chỉnh việc quy hoạch, quản lý các điểm, cụm,
69
KCN nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả quỹ đất, tránh tình trạng một số
đất quy hoạch vẫn còn bỏ hoang gây lãng phí rất lớn như: Các dự án khu đô
thị Mễ Trì Hạ, Mỹ Đình II (huyện Từ Liêm cũ); dự án khu đô thị mới ở các xã
Tiền Phong, Tráng Việt, Đại Việt, Thanh Lâm (huyện Mê Linh); dự án khu
đô thị mới Dầu khí An Khánh, Nam An Khánh, Bắc An Khánh (huyện Hoài
Đức); dự án Vườn sinh thái Cẩm Đình- Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ); dự án
KCN Phú Mỹ (huyện Chương Mỹ)... Các ngành chức năng cần đẩy mạnh
nghiên cứu, tổng kết để bổ sung hoàn thiện quy chế sử dụng đất ở khu công
nghiệp, trong đó cần quy định việc quy hoạch và xây dựng đồng bộ các khu
dân cư, hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn.
Thực hiện quy hoạch một cách thống nhất và đồng bộ:
Việc quy hoạch phải được thống nhất, đồng bộ với các loại quy hoạch
của Thành phố như: Quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ... Trên cơ sở như vậy, quy hoạch phát triển cho
từng vùng, từng địa phương phải tuân thủ quy trình để bảo đảm sự kết hợp về
quy hoạch chung của Thành phố. Từ đó, mới phát huy được lợi thế của vùng,
của từng địa phương như một không gian kinh tế thống nhất, kết hợp lợi thế
của từng địa phương. Các địa phương cần thực hiện một cách chi tiết và đầy
đủ việc lập quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp với việc quy hoạch giao
thông, thủy lợi, đảm bảo gọn vùng, gọn thửa, thuận lợi cho việc tưới tiêu, chú
trọng các vùng đã có công trình thủy lợi đầu mối. Tiếp tục thực hiện chủ
trương "dồn điền, đổi thửa"; đặc biệt quan tâm đến chính sách hoặc quy ước
việc chuyển đổi, cho thuê, mượn đất làm các dịch vụ khác.
Thực hiện quy hoạch một cách công khai, minh bạch:
Việc thực hiện quy hoạch phải được công khai, minh bạch và phải được
thông báo trước, nhất là việc quy hoạch quỹ đất của hộ nông dân, để họ nắm
được và chủ động trong việc tái định cư, chuyển đổi ngành nghề; khắc phục
tình trạng quy hoạch, nhưng không thông báo công khai. Đồng thời, kiên quyết
70
xóa bỏ quy hoạch treo, dự án treo, làm cho người dân thiếu an tâm không biết
lúc nào sẽ giải tỏa để chủ động chuyển đổi ngành nghề càng sớm càng tốt.
Trong quy hoạch phát triển, nhất là KCN, cụm công nghiệp, làng nghề phải
cân nhắc xây dựng khu sản xuất tách khỏi đất sản xuất nông nghiệp, xa khu
dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ như: Đường giao thông nối với
trục đường chính, điện, nước, hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Cách làm
này sẽ mất nhiều kinh phí hơn so với tận dụng đường chính, song là cần thiết
cho sự phát triển bền vững, tránh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đảm
bảo đời sống nhân dân. Nếu buộc lấy đất nông nghiệp phải lấy đất xấu, canh
tác không hiệu quả. Thành phố phải có trách nhiệm trong quy hoạch, kế
hoạch dài hạn bảo đảm quỹ đất cho tái định cư trên quy hoạch tổng thể phát
triển KT-XH và quy hoạch sử dụng đất dài hạn để phát triển các khu công
nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH. Để nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch trong việc sử dụng ruộng đất, cần rà soát điều chỉnh quy
hoạch tổng thể trong vùng, nhằm phát hiện các trường hợp quy hoạch đã được
duyệt, nhưng không được triển khai, hoặc bỏ trống, ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng đất.
* Thứ hai, sử dụng đất đai một cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa
Những tác động tiêu cực của việc thu hồi đất nông nghiệp cho mục đích
đô thị hóa khu vực ngoại thành Hà Nội đối với nông dân vừa qua đã gây ra nhiều
hệ lụy và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển KT-XH. Để sử dụng đất đai một
cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội cần phải giải quyết
tốt một số vấn đề sau:
Đối với việc chuyển đổi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa:
UBND Thành phố cần hạn chế tối đa việc lấy đất nông nghiệp, nhất là đất
trồng lúa và cây lương thực cho mục đích công nghiệp và đô thị hóa. Nếu cần
phải lấy đất nông nghiệp, phải tính đến chi phí cơ hội giữa đất trong lúa, hoa
màu, đất gò đồi, đất hoang hóa cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Các dự án
lấy đất nông nghiệp không hợp lý, không hiệu quả, làm xâm hại đến lợi ích của
71
người nông dân như chia lô bán đất với giá cao, bỏ hoang, cho thuê, bán lại dự
án... đều phải được quy trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân phê duyệt,
nếu nặng phải được xem xét trước pháp luật, nếu nhẹ phải bồi thường, thi hành
kỷ luật… Đồng thời, UBND thành phố xây dựng kế hoạch sử dụng đất nông
nghiệp, đất trồng cây lương thực một cách khoa học và hợp lý nhằm bảo vệ
đất trồng cây lương thực ổn định lâu dài. Muốn vậy, công tác lập quy hoạch
phải có căn cứ khoa học và thực tiễn, có quan điểm toàn diện và tầm nhìn xa.
Kiên quyết giữ các vùng đất tốt cho sản xuất nông nghiệp, khi sử dụng đất nông
nghiệp vào mục đích khác phải tính tới cả hệ quả xã hội và môi trường. Quy
hoạch sử dụng đất từng vùng, từng địa phương cũng phải tuân nguyên tắc chung,
tránh lấy những vùng đất nông nghiệp màu mỡ, đảm bảo hài hòa về kinh tế, xã
hội và môi trường.
Đẩy mạnh chính sách dồn điền đổi thửa cho nông dân sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả:
Nông dân gắn liền với ruộng đất, nên người nông dân phải có ruộng đất
để canh tác. Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng ruộng đất không thể sử
dụng một cách manh mún, nhỏ lẻ, phân tán mà phải tập trung ruộng đất để
vươn lên sản xuất hàng hóa. Vì vậy, UBND thành phố cần chỉ đạo các ngành,
địa phương thực hiện tốt các nội dung sau: Chính sách đất nông nghiệp cần
đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp hiện đại và cải thiện điều kiện sản xuất cho
nông dân. Khi một số lượng đất nông nghiệp chuyển sang đất đô thị và KCN,
Thành phố nên khuyến khích nông dân đầu tư vào đất để tăng giá trị sản xuất
trên đất, từ đó mà tăng thu nhập. Thời gian sử dụng đất không nên giới hạn,
chỉ nên quản lý bằng quy hoạch không gian tổng thể và trách nhiệm giao đất
của hộ nông dân khi Thành phố có nhu cầu (nên có đền bù). Đồng thời, cải
tiến mạnh mẽ thủ tục hành chính nhà nước liên quan đến bảo hộ quyền sử
dụng đất nông nghiệp, đến chuyển nhượng đất nông nghiệp theo hướng công
khai quy trình, điều kiện, giảm chi phí. Với các biện pháp đổi mới đó, thị
trường đất nông nghiệp mới có thể hoạt động công khai, linh hoạt hơn cho
72
việc hỗ trợ nông dân tập trung ruộng đất, đạt quy mô hiệu quả. Nếu ruộng đất
được tích tụ, tập trung chuyên canh hợp tác thì đó là điều kiện tốt nhất đó đi
vào thâm canh tăng năng suất nông nghiệp, tăng hàm lượng công nghệ cao,
hàm lượng nông nghiệp sạch, hàm lượng cách mạng sinh học về giống, vật
nuôi, cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu... cho nông nghiệp, nông thôn mới
hiện đại. Đó chính là những giải pháp phát triển nông thôn bền vững.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính và tăng cường quản lý đất nông
nghiệp trên địa bàn. Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên & Môi trường cần tích cực
tham mưu cho UBND Thành phố trong việc công khai, đơn giản hóa quy
trình, thủ tục quản lý đất và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để quyền sử
dụng đất nông nghiệp trở thành hàng hóa và có thể lưu thông dễ dàng.
Thành phố cần có chính sách khuyến khích phát triển các tổ chức cung ứng
dịch vụ trên thị trường chuyển nhượng, cho thuê đất nông nghiệp để giảm
phí tổn giao dịch cho nông dân, cũng như để khuyến khích nông dân sử
dụng quyền sử dụng đất nông nghiệp một cách hiệu quả hơn. Có hướng dẫn
cụ thể trình tự, thủ tục để thực hiện các dự án không thuộc diện thu hồi đất;
đối với các trường hợp chủ sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì các thủ tục về thuế, cho phép chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo hướng đơn giản có thể áp dụng được ở các địa phương.
Thành phố nên có hướng dẫn cụ thể về cơ chế hoạt động tài chính cho
Trung tâm phát triển quỹ đất, làm cơ sở để các địa phương ban hành cơ chế tài
chính, đáp ứng kinh phí cho các trung tám thực hiện công tác bồi thường, giải
tỏa mặt bằng nhằm tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư, đấu thầu đất, nâng cao
hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế khiếu kiện của công dân. Thực hiện phân
cấp mạnh cho cơ sở, nhất là trách nhiệm đi đôi với quyền hạn trong xử lý. Nếu
không phân cấp về thẩm quyền xử lý thì chính quyền cơ sở hiện nay chỉ là cấp
phát hiện mà không có quyền xử lý, dẫn đến vi phạm không được xử lý kịp thời.
* Thứ ba, giải quyết tốt việc làm cho người dân trong quá trình đô thị
hóa ngoại thành Hà Nội
73
Giải quyết việc làm cho người dân không chỉ đảm bảo đời sống, mà
còn góp phần ổn định trật tự xã hội trong quá trình đô thị hóa. Vì vậy, trong
thời gian tới cần tập trung vào một số biện pháp sau:
Sở Lao động, Thương binh & xã hội, Sở Kế hoạch & Đầu tư cần chủ
động phối hợp với các đơn vị và UBND các huyện, thị mở rộng và phát triển
ngành nghề để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Theo đó, cần
khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống và nghề mới ở ngoại thành
Hà Nội: Gốm Bát Tràng (Gia Lâm); thêu Quất Động (Thường Tín); lược sừng
Thụy Ứng (Thường Tín); dệt Phùng Xá (Mỹ Đức); khảm trai Chuôn Ngọ
(Phúc Xuyên), Duyên Thái (Thường Tín); mây tre đan Phú Vinh (Chương
Mỹ); mộc Hữu Bằng (Thạch Thất); giò chả Ước Lễ (Thanh Oai)… Ngành
nghề truyền thống hiện đang giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động
lớn. Thành phố cần có một số chính sách hỗ trợ (như vay vốn ưu đãi, miễn
giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm...) để khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang các nghề mới, cần có chính
sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác đào tạo, truyền
nghề để ngành nghề truyền thống không bị mai một. Mở rộng và phát triển
ngành nghề, làng nghề truyền thống không chỉ đem lại hiệu quả KT-XH, mà
còn góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần và mức
hưởng thụ văn hóa cho người dân. Từ đó tập trung giải quyết việc làm tại chỗ
cho người lao động; hạn chế các tệ nạn xã hội và góp phần thực hiện tốt
phương châm "ly nông, bất ly hương” giảm bớt sức ép về số người lao động
tràn vào trung tâm thành phố kiếm việc làm. Để mở rộng và phát triển ngành
nghề, làng nghề truyền thống cho người dân ở một số địa phương, cần thực hiện
tốt một số vấn đề sau:
Lựa chọn phát triển các nghề truyền thống đã và đang được phát huy có
hiệu quả như: Tơ tằm, mây tre đan, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thủ công
mỹ nghệ, chế biến nông lâm sản, chế biến các món ăn đặc sản dân tộc… Có
74
kế hoạch mở rộng, xây dựng vùng nguyên liệu, để chủ động sản xuất ngay
trên địa bàn và cung cấp cho các vùng lân cận của Thành phố. Xây dựng
chính sách cụ thể để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh tiểu thủ công nghiệp, như:
Chính sách về đất đai: Đối với cơ sở sản xuất ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp đang sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, phù hợp với quy định
của pháp luật thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cần quy
hoạch đất đai cho phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thực hiện chính
sách miễn giảm thuế, giảm tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thuê đất.
Chính sách tài chính, tín dụng và thuế: Các ngân hàng thương mại, quỹ
hỗ trợ đầu tư phát triển và các tổ chức tín dụng thực hiện chế độ bình đẳng đối
với các thành phần kinh tế.
Xây dựng chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, chính sách về đào
tạo nghề: Ưu tiên nguồn quỹ khuyến nông của địa phương, Trung ương để hỗ
trợ dạy nghề, du nhập nghề mới, thúc đẩy phát triển các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp. Đối với những hộ bị thu hồi đất, chính quyền các cấp cần giúp
đỡ đối tượng này lựa chọn ngành nghề đào tạo mà các KCN, KCX đang cần
tuyển dụng lao động.
Sở Lao động, Thương binh & xã hội, Trung tâm giới thiệu việc làm
Thành phố chỉ đạo Phòng Lao động, Thương binh & xã hội, Trung tâm giới
thiệu việc làm các huyện, thị chủ động mở rộng, phát triển thị trường sức lao
động để giải quyết việc làm cho người dân. Theo đó, tập trung phát triển thị
trường sức lao động cho các địa phương vùng ngoại thành Hà Nội, trước mắt
cần phải đẩy mạnh việc tự do hóa hơn nữa về chuyển dịch lao động từ trình
độ thấp sang trình độ cao, giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, tạo điều
kiện để phát triển thị trường sức lao động trong vùng và mở rộng thị trường ra
bên ngoài. Quá trình hình thành, phát triển thị trường sức lao động là quá
trình hoạt động kết nối các chủ thể tham gia vào việc mua bán hàng hóa sức
lao động theo quy luật của thị trường. Do vậy, cần tích cực hóa quan hệ thuê
mướn lao động ở các địa phương trong vùng, nhất là trong các lĩnh vực phi
75
nông nghiệp như làng nghề, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, xuất khẩu
lao động... Để tạo điều kiện cho thị trường sức lao động phát triển, cần tạo sự
kết nối, phối hợp hoạt động giữa các chủ thể để xây dựng sản phẩm hàng hóa
sức lao động chuyển đến nơi hình thành, đào tạo đến nơi sử dụng một cách
hợp lý, hiệu quả cho sự phát triển KT-XH của cả vùng.
Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng lao
động phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và thông lệ quốc tế, tạo điều
kiện cho lao động nước ta nói chung và lao động ở khu vực ngoại thành Hà
Nội hội nhập với thị trường lao động quốc tế. Bảo đảm quyền lợi hài hòa giữa
người lao động và người sử dụng lao động, góp phần làm lành mạnh môi
trường đầu tư. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công
khai và đơn giản. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính
quyền địa phương nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động trong lĩnh vực
lao động - việc làm.
Sở Giáo dục & Đào tạo và các sở, ngành có liên quan cần xác định
mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng việc thông qua công tác đào tạo và dạy nghề.
Để thực hiện thắng lợi công tác đào tạo nghề, cần cải cách mạnh mẽ hệ
thông giáo dục theo hướng hiện đại, thực hiện liên thông giữa các cấp đào
tạo, phát triển mạnh mẽ hệ thống dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng trên cơ sở đa dạng hóa, chuẩn hóa và hiện đại hóa các
cơ sở dạy nghề, ngành nghề đào tạo, trình độ và phương thức đào tạo của
Thành phố bảo đảm cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp. Tiếp tục
thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, bổ sung ngân sách để hỗ trợ xây dựng
trường học và mua sắm trang thiết bị, dụng cụ phục vụ giảng dạy; thực hiện
tốt việc đưa tin học vào nhà trường. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, mở rộng quy mô và đa dạng hóa các
hình thức giáo dục phổ thông, đáp ứng nhu cầu cơ bản, nhu cầu học tập của
76
nhân dân, đặc biệt là của người dân khu vực ngoại thành. Đồng thời, củng cố
mạng lưới trường lớp, các trung tâm giáo dục cộng đồng. Thực hiện cơ chế
ưu đãi về học phí, xây dựng trường lớp, điều kiện dạy và học ở cấp học phổ
thông trung học, nên dành thời lượng thích đáng cho hướng nghiệp và dạy
nghề, để định hướng sớm nghề nghiệp và kỹ năng lao động.
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục, để nâng cao chất
lượng giáo dục. Thực hiện tốt việc xây dựng các công trình trung tâm xã, cụm
dân cư, kiên cố hóa trường lớp. Phấn đấu xóa các phòng học tạm, xây dựng
lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm, nhà công vụ, nhà ở cho giáo viên, nhất là
ở những xã còn gặp nhiều khó khăn như ở huyện Ba Vì, Sóc Sơn, Mỹ Đức...
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động, thực hiện đào tạo nghề
theo nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp. Thiết lập hệ thống kết nối giữa
hướng nghiệp dạy nghề tư vấn, giới thiệu việc làm, giải quyết các bức xúc về
việc làm của thanh niên sau tốt nghiệp. Đặc biệt, cần triển khai thực hiện có
hiệu quả dự án dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên nông thôn.
Thiết kế lại hệ thống đào tạo nghề tại chỗ cho người dân, cả về hình thức
đào tạo, phương thức hỗ trợ đào tạo lẫn ngành nghề đào tạo; đối với nông dân,
những người đang trong độ tuổi lao động chính bị thu hồi đất, cần phải đào tạo
các nghề có thể tìm được việc làm sau khi đào tạo với trả lương thỏa đáng. Các
cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, nhất là các trung tâm dạy nghề không nên thụ
động cung cấp cho người dân các tri thức và kỹ năng họ có sẵn, mà nên nghiên
cứu thị trường lao động để nhanh chóng tổ chức đào tạo các nghề có nhu cầu
đào tạo lớn và đem lại thu nhập tốt.
Đi đôi với phương thức đào tạo nghề, cần chú ý nâng cao hiệu quả các
chương trình đào tạo có sự hỗ trợ của Nhà nước. Cần phân loại nhu cầu đào
tạo có sự hỗ trợ của Nhà nước để tiến hành đào tạo một cách thiết thực theo
ba cấp độ: Đào tạo lại cho người dân ở nông thôn để họ có thể chuyển sang
làm các nghề phi nông nghiệp; đào tạo cho người dân làm nông nghiệp có
hiệu quả; đào tạo cho những người lao động làm dịch vụ. Những người nông
77
dân bị thu hồi đất, muốn chuyển nghề, cần phải xây dựng chương trình đào
tạo có chất lượng hơn. Tránh đào tạo các nghề đơn giản khó kiếm việc làm và
có kiếm được việc làm cũng đem lại thu nhập thấp, bấp bênh. Thành phố cần
đầu tư hơn nữa đào tạo nghề nông hiện đại cho những nông dân bám trụ làm
nông nghiệp, cần trang bị cho họ những kiến thức về cây trồng, kỹ thuật nhân
và tạo giống, kỹ thuật chăm sóc có sử dụng phương tiện hiện đại, kỹ thuật sử
dụng máy móc nông nghiệp. Đồng thời, bổ sung các lớp dạy kỹ năng thực hành
thương mại, các lớp dạy các ngành dịch vụ ở nông thôn như sửa chữa máy nông
nghiệp, tổ chức quản lý trang trại... để tạo ra một lớp người ở nông thôn có khả
năng tổ chức các hoạt động dịch vụ cho chính họ. Trong tương lai gần, các khu
công nghiệp và dịch vụ khu vực ngoại thành Hà Nội chưa thể thu hút hết số
lao động trong vùng, do đó cần đào tạo nghề để người dân có thể đi xuất khẩu
lao động hoặc tự mở các cơ sở sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn nên
được chú trọng ưu tiên.
Sở Lao động - Thương binh & Xã hội chủ trì phối hợp với các sở ngành
và các đơn vị liên quan gắn chương trình giải quyết việc làm với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đô thị trong vùng. Giải quyết việc làm cho
người dân, nhất là lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa là vấn đề cơ
bản lâu dài, đòi hỏi phải được quy hoạch cụ thể ở từng địa phương của ngoại
thành Hà Nội. Việc làm cho người lao động chỉ có thể giải quyết một cách
căn bản khi gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời phải phát triển
các cụm công nghiệp, KCN, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng thương
mại, dịch vụ và du lịch. Phải gắn chương trình giải quyết việc làm với quá
trình đô thị hóa nhằm tạo ra sự gắn kết giữa phát triển đô thị với phát triển
kinh tế và giải quyết việc làm. Chương trình giải quyết việc làm phải gắn với
quy hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho cư dân, quy hoạch phát triển KT-XH,
78
quy hoạch đào tạo nghề cho người dân... phải được triển khai đồng bộ, phải
được thông tin công khai, minh bạch cho người dân ở các vùng thu hồi đất.
Giải quyết việc làm đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành
trong việc lồng ghép các chương trình với mục tiêu giải quyết việc làm, tăng
thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân với các chương
trình như: Chương trình xóa đói giảm nghèo; chương trình cứu trợ xã hội;
chương trình phát triển dân số, kế hoạch hóa gia đình; chương trình phòng
chống tệ nạn xã hội; chương trình đào tạo nghề; chương trình phát triển làng
nghề; chương trình mục tiêu định canh, định cư… Tiến hành quy hoạch, tổ
chức, sắp xếp lại hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và các cơ sở giới
thiệu việc làm; đẩy mạnh việc triển khai thành lập các trung tâm giới thiệu
việc làm gắn với các điểm giao dịch chợ việc làm; đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động; tăng cường thu thập, cung cấp
thông tin về tuyển dụng, nhu cầu việc làm, cơ sở dạy nghề, ngành nghề đào
tạo trên địa bàn. Xây dựng hệ thông thông tin thị trường sức lao động trên
mạng để trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến thị trường sức lao động
giữa các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề, người lao động và cơ quan quản lý.
3.2.2. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về chính trị - xã hội
Đây là nhóm giải pháp rất quan trọng bảo đảm cho các địa phương
ngoại thành Hà Nội giải quyết tốt các vấn đề xã hội, góp phần ổn định tình
hình chính trị - xã hội trong quá trình đô thị hóa. Bởi lẽ, cùng với quá trình đô
thị hóa, đất đai bị thu hồi cho mục đích đô thị diễn ra nhanh chóng, trong khi
đó người dân ở khu vực ngoại thành chưa thay đổi kịp theo cơ cấu lao động,
việc làm mới. Tình trạng thất nghiệp và các mặt trái về xã hội tăng lên nhanh.
Các phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt của người dân chưa thay đổi kịp
với sự phát triển của quá trình đô thị hóa. Khu vực ngoại thành cũng là nơi tập
trung rất nhiều kho tàng, bến bãi tiếp nhận trung chuyển hàng hóa dịch vụ ra
vào thành phố; tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, lực
79
lượng lao động từ nhiều địa phương khác về làm ăn sinh sống... là một trong
những nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề bất ổn về xã hội. Vì vậy, đô thị
hóa bền vững về xã hội là một nội dung quan trọng phải được giải quyết trong
quá trình đô thị hóa. Để thực thực tốt nội dung này, cần phải thực tốt một số
giải pháp chủ yếu sau:
* Thứ nhất, phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong giải quyết
các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội
Để phát huy tốt vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong giải quyết các
vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội cần
phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Tiếp tục nâng cao nhận thức và bảo đảm tốt vai trò hạt nhân chính trị
của các tổ chức cơ sở đảng trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh.
Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề kinh
tế, xã hội nảy sinh gắn chặt với vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức cơ sở
đảng trong hệ thống chính trị; các đảng bộ, chi bộ cơ sở chính là hạt nhân lãnh
đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở. Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ đặt ra, tổ chức cơ sở đảng phải đảm bảo thực sự trong sạch, vững
mạnh, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, trong đó đặc biệt chú
trọng phương thức thuyết phục, nêu gương. Mỗi đảng viên ở cơ sở phải nêu
cao vai trò tiền phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong
sáng, có lối sống lành mạnh, thực sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ
sở, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực. Khi
đảng viên cơ sở, đặc biệt là các cấp ủy viên, bí thư chi bộ gương mẫu, biết hy
sinh lợi ích cá nhân, vì lợi ích chung, hết mình chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, biết làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc làm giàu chính đáng
và vận động cùng bà con làm giàu thì sẽ có tác động tích cực góp phần rất lớn
vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh ở cơ sở.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở
80
Để giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa rất
cần thiết có chính quyền ở cơ sở vững mạnh, có hiệu lực. Các địa bàn cơ sở
xã, phường, thị trấn có những đặc điểm riêng, hoạt động sản xuất, đời sống
dân cư không giống nhau, nhất là có nhiều biến động ngay trong quá trình đô
thị hóa. Do vậy, việc phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của chính
quyền xã, chính quyền đô thị là để tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở thực
hiện tốt các nhiệm vụ. Đối với chính quyền xã cần chú trọng đến các vấn đề
việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa. Thôn, xóm không
phải là một cấp hành chính. Trưởng thôn, xóm do dân trực tiếp bầu vừa là
người đại diện cho dân, vừa là người đại diện cho chính quyền xã để thực
hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn, xóm. Các hình thức tự quản này có
vai trò quan trọng, góp phần phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở
trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội trong quá trình đô thị hóa.
Khi chính quyền cơ sở được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, được chủ động trong hoạt động và có
điều kiện cơ sở vật chất làm việc được đáp ứng đầy đủ thì sẽ có tác động rất
lớn đảm bảo cho việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc giải
quyết các vấn đề KT-XH ở cơ sở.
Tiếp tục đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có vai trò không kém phần quan
trọng trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH trong quá trình đô thị hóa.
Trong những năm qua, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở một số địa
phương đã tham gia tích cực vào việc thực hiện những nhiệm vụ này. Tuy
nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò đó, cần tiếp tục đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở các cơ sở
trong vùng. Đặc biệt, Mặt trận cần có vai trò quan trọng đẩy mạnh việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường chức năng giám sát của Mật trận
tại cơ sở. Thực tế cho thấy, Quy chế dân chủ ở cơ sở, mà nay là Pháp lệnh dân
81
chủ ở cơ sở, là một phương thức hiệu nghiệm nhằm phòng ngừa sai phạm,
tham nhũng và tiêu cực ở cơ sở, nhất là trong việc thực hiện các dự án ở địa
phương trong quá trình đô thị hóa. Mặt trận và các đoàn thể phải thực sự là
người đại diện cho nhân dân ở cơ sở kịp thời phản ánh ý kiến của quần chúng
về xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi
phạm dân chủ; tham gia tích cực việc hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân, bày tỏ thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải
quyết từ gốc những vấn đề KT-XH nảy sinh ở cơ sở.
Bên cạnh đó cần phát huy tính chủ động của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân ở cơ sở trong hoạt động, trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí
hoạt động; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong công tác tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân tham gia vào giải quyết các vấn đề
KT-XH, đặc biệt là chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng,
tăng cường tuyên truyền sâu rộng, công khai về các dự án được thực thi trên
địa bàn, đồng thời vận động nhân dân tham gia giám sát, đề xuất ý kiến nhằm
góp phần cho các dự án được thực thi nghiêm túc, hiệu quả, chất lượng.
Tiếp tục xây dựng, nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt cho đội ngũ
cán bộ cơ sở
Muốn phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa thì điều quan trọng
mang tính then chốt là phải xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ngày càng vững
mạnh, có đủ năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Trong thời gian tới,
cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ ở cấp cơ sở để
có thể đáp ứng được yêu cầu về quản lý, điều hành, thực hiện các chính sách,
các chương trình, dự án phát triển KT-XH ở các địa phương này.
Việc đào tạo cán bộ cẩn phải gắn chặt với công tác quy hoạch cán bộ, đặc
biệt là đào tạo phải xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tiễn của cở sở. Cùng với
nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cơ sở, cần phải có các chính sách
ưu đãi cho cán bộ công tác ở cơ sở. Thực hiện chính sách thu hút, tạo nguồn cán
82
bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, nhà khoa học trẻ tuổi để bổ sung cán bộ cho các
lĩnh vực công tác của các địa phương khu vực ngoại thành. Ngoài ra, cần coi trọng
việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự làm
nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở. Để xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần tiếp tục thực hiện tốt việc "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cần coi đây là biện pháp thường
xuyên nhằm rèn luyện đội ngũ cán bộ, động viên cán hộ, nhân dân hoàn thành
các nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương. Qua thực tế ở cơ sở một số địa
phương thuộc ngoại thành Hà Nội cho thấy từ kết quả của cuộc vận động này
làm chuyển biến cơ bản về nhận thức của cả cán bộ và người dân; nề nếp sinh
hoạt của Đảng bộ và các chi bộ cơ sở đã được củng cố chặt chẽ hơn; các cán
bộ, đảng viên đều có ý thức xây dựng và có trách nhiệm gánh vác công việc
chung, nêu gương tốt cho quần chúng.
* Thứ hai, giải quyết tốt vấn đề tái định cư, hậu tái định cư và ổn định
cuộc sống cho các hộ nông dân trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội
Tái định cư và hậu tái định cư có ý nghĩa hết sức to lớn góp phần ổn
định cuộc sống cho người dân, hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá
trình đô thị hóa. Để giải quyết tốt vấn đề này chúng ta cần chú trọng thực hiện
tốt một số biện pháp cụ thể sau:
Giải quyết tốt vấn đề tái định cư và hậu tái định cư trong quá trình đô thị hóa
Vấn đề tái định cư và hậu tái định cư ở một số địa phương ngoại thành
Hà Nội trong thời gian qua đã thu hút sự quan tâm của xã hội. Đặc biệt là nhân
dân ở vùng nông thôn sống lâu đời phải di chuyến đến nơi ở mới do quá trình
đô thị hóa. Những tác động tiêu cực của tái định cư đã làm cho người dân thiếu
lòng tin vào cách giải quyết của chính quyền. Để bảo đảm cho quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa đạt kết quả tốt, điều cần thiết là phải giải quyết tốt vấn
để tái định cư cho người dân bị thu hồi đất theo nguyên tắc. Tái định cư phải
tạo điều kiện cho người dân bị giải tỏa có cuộc sống ít nhất bằng hoặc tốt hơn
nơi ở cũ. Muốn vậy cần thực hiện các biện pháp sau:
83
UBND thành phố Hà Nội, các sở, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo
chính quyền địa phương thực hiện tốt việc thực thi chính sách về công tác tái
định cư, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng một cách ổn định. Khắc phục
sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong việc đền bù, bố trí tái định cư, giải
quyết các vấn đề hậu tái định cư… Kiên quyết khắc phục việc tồn tại hai giá
đất do sự chênh lệch quá lớn giữa hai loại giá này đã gây ra nhiều rắc rối
trong việc giải phóng mặt bằng. Do vậy, phải sửa đổi lại khung giá cho linh
hoạt, sát với giá thực tế để xác định đúng giá trị đền bù, bảo đảm lợi ích cho
doanh nghiệp cũng như người dân và Nhà nước không bị thiệt thòi khi tái
định cư. Thực hiện đúng các chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư theo
các quy định hiện hành của Nhà nước. Thực hiện tốt vấn đề dân chủ ở cơ sở
trong thực thi chính sách tái định cư, công khai quy hoạch, phương án đền bù,
giá cả đền bù... Ngoài việc quy hoạch đất tái định cư các hộ có đất bị thu hồi
được đền bù, được bồi thường theo quy định của Nhà nước, còn được xem xét
cấp đất dịch vụ, được ưu tiên tuyển dụng lao động, được hỗ trợ di chuyển giải
phóng mặt bằng, được ưu tiên đào tạo nghề... theo các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Đối với các khu tái định cư phải được quy hoạch đạt tiêu chuẩn của đô
thị, có hệ thống kết cấu hạ tầng như: Đường giao thông, hệ thống cung cấp
điện, hệ thống cấp thoát nước và xử lý chất thải; có trường học, bệnh viện, nơi
vui chơi giải trí... bảo đảm chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Trong quy hoạch bố trí
tái định cư cho người dân phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm tâm lý, yếu tố
truyền thống, yếu tố văn hóa của người dân trong vùng để bố trí tái định cư
cho phù hợp nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực do tái định cư gây ra,
nhất là phong tục tập quán, đặc điểm sản xuất kinh doanh, quan hệ dòng tộc,
họ hàng... Cần có những khu tái định cư phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp của
người dân, nhất là những người lao động không có điều kiện hoặc không
muốn chuyến đổi nghề nghiệp như nghề nông. Với những người này, không
84
nhất thiết phải đưa họ vào các căn hộ, khu chung cư, bởi họ khó thích nghi
với điều kiện sống mới và rất khó khăn trong bảo đảm công ăn việc làm sau
tái định cư.
Thực hiện tốt chính sách an ninh xã hội sau tái định cư. Chú trọng hơn
nữa chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người tái
định cư, đồng thời chú ý đến các chính sách phát triển kết cầu hạ tầng KT-
XH. Bảo đảm đủ điều kiện về giáo dục, chăm sóc sức khỏe và đời sống văn
hóa, tinh thần cho các hộ tái định cư. Khắc phục những yếu kém, bất cập
trong các văn bản pháp luật về công tác giải tỏa, đền bù đất. Pháp luật về đất
đai trong một thời gian dài thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể và thiếu nhất quán, làm
cho cách hiểu cũng như cách áp dụng luật có sự khác nhau ở các địa phương.
Vì vậy, cần sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật, khắc phục những bất
cập, chưa đồng bộ nhằm tạo ra sự nhất quán về pháp luật là việc làm hết sức
cần thiết. Trước mắt cần có quy định về khung giá đền bù khi thu hồi đất một
cách hợp lý, bảo đảm lợi ích cho người dân trong diện bị giải tỏa đền bù.
Tăng cường hơn nữa nguồn kinh phí và tiềm lực tài chính để xây dựng kết
cấu hạ tầng trong các khu tái định cư. Nâng cao chất lượng các công trình ở
khu tái đinh cư. Hỗ trợ người dân trong việc phát triển giáo dục, đào tạo
chuyển đổi nghề, khuyến khích người dân nâng cao năng lực tìm kiếm việc
làm để bảo đảm thu nhập sau khi di dời.
Ổn định cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa
Việc thu hồi đất để phục vụ cho quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà
Nội trong thời gian qua đã có những tác động tích cực, song còn nhiều tác
động tiêu cực đến việc làm và đời sống của người dân ở vùng này. Để đảm
bảo mức sống của các hộ phải di chuyển, cần phải có một quá trình chuẩn bị
đầy đủ và toàn diện nhằm thiết lập các biện pháp phù hợp. Để bảo đảm hiện
thực hóa những lợi ích từ việc xây dựng, phát triển công nghiệp hóa, đô thị
hóa, một trong những vấn để cần phải được quan tâm giải quyết là phải cải
85
thiện chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất, nhất là cho các hộ
gia đình tái định cư.
Việc đền bù và hỗ trợ khôi phục cuộc sống cũng như lợi ích mà những
người dân bị ảnh hưởng bởi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa phải được tính
toán đầy đủ trong đánh giá hiệu quả dự án, kể cả về mặt KT-XH và môi trường.
Thực tế thời gian qua không những ở một số địa phương mà còn nhiều địa
phương trên cả nước cho thấy: Lợi ích của người lao động bị thu hồi đất chưa
được giải quyết thỏa đáng, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn, có nhiều
nguyên nhân, trong đó có việc bị thu hồi đất. Các cơ quan chức năng của Nhà
nước chưa thống nhất và quán triệt nguyên tắc đền bù giải phóng mặt bằng,
cũng như hỗ trợ giải quyết việc làm. Đền bù giá trị quyền sử dụng đất không
bảo đảm ngang giá thị trường và chưa bảo đảm tính công khai minh bạch,
bình đẳng trong chính sách đền bù. Vì chưa quán triệt nguyên tắc thị trường,
nên nhiều lúc nhiều nơi quá nhấn mạnh vào vai trò của Nhà nước trong giải
quyết, thiếu kế hoạch trong việc sử dụng tiền đền bù để tạo việc làm đem lại
thu nhập, bảo đảm ổn định đời sống. Vì vậy, việc xác định quyền sử dụng đất
để đền bù, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho
người lao động có đất, bị thu hồi cần được thực hiện theo cơ chế thị trường.
Sớm chuyển đổi lao động nông nghiệp sang các nghề phi nông nghiệp
như: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Tăng cưòng
đào tạo hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ, ưu tiên thực hiện tiếp
nhận lao động vào các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, có cơ chế
giám sát việc doanh nghiệp ưu tiên nông dân và con em nông dân sau khi bị
thu hồi đất. Để ổn định sản xuất và đời sống của nông dân, tuyệt đối không
được lấy đi khu vực đất tốt, nếu vẫn lấy đất nông nghiệp phải là những khu vực
đất xấu, canh tác không hiệu quả. Hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông
nghiệp còn lại chuyển sang phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng
các tiến bộ khoa học mới để tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích;
quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung; đẩy mạnh dồn điển, đổi
86
thửa, phát triển hình thức kinh tế trang trại; đổi mới loại hình hợp tác xã,
doanh nghiệp nông thôn. Đào tạo người dân có kiến thức sản xuất nông
nghiệp theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có
chất lượng và có giá trị. Tăng cường đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, nông
thôn, nông dân, phát triển dịch vụ công, tài chính công, các loại hình tín dụng
để giải quyết vấn đề vốn.
Chỉ đạo thực hiện tốt việc giao đất dịch vụ của người dân bị thu hồi đất
để chuyển đổi nghề; ưu tiên các công trình xã hội như trường đào tạo nghề,
tạo điều kiện ưu đãi để phát triển làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ để thu hút lao động dư thừa ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển dịch vụ du lịch tại những địa phương có tiềm năng du lịch, đưa
ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Quốc Oai, Ba Vì, Mỹ Đức,
Sơn Tây, Sóc Sơn…). Muốn vậy, ngành du lịch phải được đầu tư và bảo đảm
được sự hài hòa giữa phát triển du lịch với quản lý bền vững tài nguyên thiên
nhiên gắn với môi trường văn hóa. Khuyến khích nông dân bị thu hồi đất trích
một khoản tiền được bồi thường góp vốn vào các doanh nghiệp để họ trở
thành cổ đông. Các cổ đông cá nhân không chỉ hưởng cổ tức, mà còn tập hợp
cổ phần, cử người đại diện của mình (hoặc thuê chuyên gia) tham gia quản lý
công ty. Hình thức này sẽ giảm việc tiêu dùng của nông dân vào việc mua
sắm tài sản cố định, để tập trung tiền cho đầu tư kinh doanh dịch vụ, góp vốn
sản xuất, tạo việc làm và có nguồn thu nhập ổn định lâu dài, khi có tích lũy sẽ
xây nhà, mua xắm tài sản, đây là cách đầu tư có hiệu quả nhất.
Đảm bảo nhà ở cho người lao động làm việc tại các KCN, KCX…
Các sở, ngành chức năng của Thành phố phải cùng với doanh nghiệp
xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, bảo đảm nhu cầu về nhà ở cho người lao động
của KCN; cần xác định địa điểm xây dựng, huy động nguồn vốn đầu tư,
phương thức đầu tư, các đơn vị thực hiện, đảm bảo nhu cầu trước mặt và nhu
cầu phát triển lâu dài của KCN. Khi phê duyệt các dự án KCN, dứt khoát phải
để dành quỹ đất để xây dựng nhà cho thuê đối với các đối tượng lao động
87
trong KCN. Bên cạnh đó, các công trình xã hội như trường học, trạm y tế, khu
vui chơi, khu thể thao- văn hóa, chợ, siêu thị… cũng cần được quy hoạch và
xây dựng đồng bộ với tiến độ xây dựng và phát triển KCN và khu nhà ở cho
công nhân lao động.
3.2.3. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về môi trường và bảo đảm
tốt về quốc phòng, an ninh
Đô thị hóa bền vững về môi trường và bảo đảm tốt về quốc phòng, an
ninh là nhóm giải pháp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra môi trường hòa
bình ổn định và bảo đảm cho kinh tế - xã hội của khu vực ngoại thành Hà Nội
phát triển một cách bền vững trong quá trình đô thị hóa. Thực tế cho thấy, sự
thiếu bền vững trong quá trình đô thị thị hóa ngoại thành Hà Nội những năm
qua có nguyên nhân từ việc quan tâm thực hiện vấn đề môi trường trong quá
trình đô thị hóa còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Vì vậy, giải quyết tốt vấn
đề môi trường có ý nghĩa to lớn với sự phát triển sản xuất cũng như đời sống
của con người. Đối với những khu vực đang trong quá trình đô thị hóa lại
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do quá trình phát triển dân số, lao động,
quy mô sản xuất và cung cấp các dịch vụ của đô thị tăng nhanh làm cho rác
thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, rác thải xây dựng, rác thải y tế tăng theo.
Với các địa bàn giáp ranh đô thị thường là nơi được lựa chọn để xây dựng các
nhà máy, các KCN, KCX vì giá đất thấp mà vẫn được hưởng các dịnh vụ của
đô thị, thuận lợi về giao thông. Hơn nữa, nơi đây đang trong quá hình thành
và phát triển các đô thị mới sự quản lý môi trường thường lỏng lẻo nên dễ dẫn
tới hiện tượng ô nhiễm môi trường. Cuộc sống của người dân khu vực ngoại
thành Hà Nội thật sự có ý nghĩa và phát triển một cách bền vững chỉ khi mà
họ được sống trong một xã hội có an ninh, hòa bình, trật tự, ổn định.
Thứ nhất, xử lý tốt vấn đề môi trường
Vấn đề môi trường bị ô nhiễm hiện nay đang thách thức rất lớn đến sự
phát triển KT-XH. Ô nhiễm môi trường từ các KCN, KĐT, làng nghề nếu
88
không có giải pháp khắc phục sẽ làm cho sự phát triển của khu vực ngoại
thành Hà Nội đi chệch hướng khỏi mục tiêu PTBV, mục tiêu phát triển toàn
diện con người. Do đó, ô nhiễm môi trường trong quá trình xây dựng các
KCN, KĐT, các làng nghề ở một số địa phương đã và đang gây nên nhiều bức
xúc trong các cộng đồng dân cư, nhất là dân cư liền kề với các KCN, KĐT.
Để khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình đô thị hóa ở ngoại
thành Hà Nội, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau:
Đầu tư xây dựng và phát triến kết cấu hạ tầng kỹ thuật để giảm thiểu ô
nhiễm môi trường
Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự PTBV về môi
trường, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là một việc làm rất cần
thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy cần tập trung xây dựng hệ thống xử lý
chất thải, hệ thống thoát nước... ; quy hoạch xây dựng cơ sở nhà xưởng, đường
giao thông trong vùng; phát triển mạng lưới cung cấp điện, phát triển hệ thông
thông tin liên lạc; đầu tư xây dựng và cung cấp nước sạch cho người dân;
khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ thiết
bị, áp dụng công nghệ nhiều trình độ trong khu vực sản xuất của làng nghề,
KCN để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay, một số KCN đã đi vào hoạt
động như KCN Hà Nội - Đại Từ, KCN Nam Thăng Long, Thạch Thất, Quốc
Oai, Phú Nghĩa và Quang Minh I cần hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng
kỹ thuật bên trong như khu xử lý nước thải, đường giao thông nội bộ và tiếp
tục củng cố, hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như đấu
nối với hệ thống giao thông chính.
Tăng cường truyền thông cho người dân về Luật bảo vệ môi trường và
các phương pháp làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Thông qua việc xây dựng các hương ước trong việc bảo đảm môi trường
xanh, sạch, đẹp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển bền vững. Ngăn
chặn và xử lý kịp thời việc tự phát ''bành trướng" nghề gây độc hại, ảnh hưởng
89
đến mỹ quan, môi sinh của dân cư. Đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp
luật về bảo vệ môi trường trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhân viên,
chủ các doanh nghiệp, người lao động về ý thức tự giác trong bảo vệ môi
trường. Có chính sách khen thưởng cụ thể, nhân rộng các mô hình, điển hình
tiên tiến về bảo vệ môi trường. Những biện pháp tuyên truyền cần đa dạng, dễ
hiểu để có tác dụng chuyển từ nhận thức sang hành động.
Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương để khắc phục tình trạng
ô nhiễm môi trường
Tình hình ô nhiễm do sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và
sinh hoạt gây ra, trước hết các đơn vị sản xuất kinh doanh và các địa phương
phải kiểm soát được và cải thiện từng bước ô nhiễm môi trường. Bắt buộc các
KCN, KĐT hoàn thiện và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Xây dựng đề án giám sát chất thải nguy hiểm, hỗ trợ các bệnh viện xử
lý chất thải độc hại và xây dựng hệ thống nước thải. Kiên quyết xử lý nghiêm
minh việc thải nước ra các hệ thống sông, ngòi chưa qua xử lý.
Xây dựng chuẩn mực môi trường ngay từ đầu cho từng khu công nghiệp,
khu đô thị, làng nghề...
Khắc phục tình trạng quy hoạch kém để các KCN nằm lọt, nằm sát khu
dân cư, gần trung tâm các đô thị. Bố trí sắp xếp các cơ sở sản xuất, kinh
doanh theo từng ngành nghề và mức độ gây ô nhiễm. Có kế hoạch bố trí, di
dời các cơ sở gây ô nhiễm nặng đến địa điểm hợp lý, đồng thời thanh lọc các
cơ sở có công nghệ sản xuất lạc hậu gây ô nhiễm ra khỏi KCN, cụm công
nghiệp. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh cho các khu, cụm công
nghiệp, làng nghề, khu đô thị để dễ dàng kiểm soát ô nhiễm, xử lý chất thải,
bảo vệ môi trường và PTBV. Các cơ sở này phải bảo đảm được các tiêu chí
về điện, nước, hệ thống xử lý chất thải và diện tích mặt bằng thuận lợi.
Thẩm định chặt chẽ các dự án đầu tư
90
Kiên quyết không cấp giấy phép cho những doanh nghiệp gây độc hại
mà không có sự đầu tư đảm bảo cho môi trường. Trường hợp đã cấp giấy phép
cho các doanh nghiệp có nhiều khả năng gây ô nhiễm môi trường, thì cần quy
định chặt chẽ các biện pháp xử lý chất thải của doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ cả về cơ chế và kinh phí cho các cơ sở
sản xuất - kinh doanh sử dụng nguyên liệu tái chế, năng lượng tái sinh, ưu tiên
các ngành nghề sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường. Giám sát
chặt chẽ việc thực hiện cơ chế triển khai thành lập mới và mở rộng KCN,
KCX mới theo đúng điều kiện và tiêu chí trong quy hoạch phát triển, đặc biệt
là về công trình xử lý nước thải tập trung. Đối với các KCN, KCX đã lấp đầy
trên 60% diện tích đất nông nghiệp mà chưa xây dựng công trình xử lý nước
thải tập trung, thì kiên quyết không cấp mới giấy chứng nhận đầu tư. Những
dự án đầu tư vào KCN phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lý chất thải
mới được phép hoạt động. Khi cho thuê đươc 50% diện tích thì phải tiến hành
xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung.
Nâng cao năng lực và vai trò quản lý nhà nước ở các cấp trong việc
bảo vệ môi trường
Các cơ quan nhà nước về quản lý môi trường cần tạo điều kiện giúp đỡ,
khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng trong việc hoàn thiện
hệ thống xử lý chất thải cho các KCN, KCX. Cần có những chính sách ưu đãi
đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng đầu tư
xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, chất thải tại các khu công nghiệp, làng
nghề. Các doanh nghiệp kinh doanh này phải đánh giá định kỳ môi trường của
các KCN, KCX, làng nghề... nắm chắc được tình trạng gây nhiễm môỉ trường
của cả khu vực và từng doanh nghiệp để có những biện pháp xử lý kịp thời. Các
cơ quan chức năng về quản lý môi trường cần tăng cường công tác kiểm tra, tình
trạng ô nhiễm môi trường, nhất là những điểm nóng về ô nhiễm môi trường, xử
lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm, đặc biệt là những trường hợp đã được
91
các cơ quan chức năng cảnh cáo, nhắc nhở nhiều lần, kể cả việc đình chỉ hoạt
động, nếu để tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và kéo dài.
Củng cố bộ máy quản lý môi trường theo hướng làm rõ chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý môi trường cho từng đơn vị, cá nhân đã được
phân công; khắc phúc tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Cần có
kế hoạch đầu tư thêm phương tiện, máy móc thiết bị, phòng thí nghiệm cho các
đơn vị quản lý môi trường. Có kế hoạch bổ sung kinh phí cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường cũng như mở các
lớp bồi dưỡng cho số cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường ở các doanh
nghiệp nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ này. Thực hiện các dự án
về cải tạo, bảo vệ môi trường, trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, xây
dựng các công trình làm sạch môi trường. Phát triển các dịch vụ về môi
trường như trồng vườn hoa, thu gom rác thải, cung cấp nước sạch, xây dựng
các vườn sinh thái, vườn cây cảnh... Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ
môi trường để thu hút rộng rãi các tầng lớp, các lực lượng xã hội cùng tham
gia bảo vệ môi trường.
Thứ hai, bảo đảm tốt vấn đề quốc phòng, an ninh trong quá trình đô thị
hóa ngoại thành Hà Nội. Theo đó cần chú trọng một số biện pháp:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động của
quân đội và công an trong tham gia xây dựng, thực hiện tiến hành đô thị hóa.
Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh, quốc phòng cho
quá trình đô thị hóa ở một số địa phương thông qua đường lối, chủ trương,
chính sách, nghị quyết... Những định hướng chỉ đạo của Đảng được xây dựng
trên cơ sở nhận thức vận dụng các quy luật kinh tế khách quan.,. nên đảm bảo
được tính đúng đắn, khoa học và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng
nhân dân, nếu được triển khai và vận dụng tốt sẽ huy động được sức mạnh
của toàn dân, toàn quân, hệ chính trị cùng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
đảm bảo an ninh, quốc phòng cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
92
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị
quân đội, công an cần quan tâm chỉ đạo giám sát vấn đề thực hiện sự lồng
ghép, kết hợp triển khai nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh với việc tổ
chức thực hiện các phong trào phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Xây
dựng và hoàn thiện các văn bản tạo cơ sở pháp lý để các lực lượng vũ trang có
đủ điều kiện, tham gia thẩm định các dự án, giám sát tiến độ xây dựng các
KCN, KĐT, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mức độ triển khai xây
dựng các khu đô thị trên địa bàn.
Theo quy định của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, đặc biệt
là Bộ tư lệnh Thành phố, Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện và lực lượng
công an trên địa bàn cần triển khai lực lượng thẩm định và tư vấn, giám sát
những vấn đề quốc phòng, an ninh nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa. Cùng với UBND, các cơ quan các cấp có liên quan phối hợp tiến
hành thẩm định, quy hoạch, giám sát tiến độ thực hiện các dự án nằm trong
tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Đồng thời, cần chú trọng tiếp tục hoàn
thiện cơ chế phối hợp theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, hạn chế sự chồng chéo,
mang nặng hình thức, gây phiền nhiễu và cản trở sự phát triển kinh tế, mở
mang đô thị của các chủ đầu tư. Nâng cao nhận thức và thống nhất những
quan điểm cơ bản trong đảm bảo an ninh, quốc phòng trong quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa với cấp ủy, chính quyền địa phương.
Tăng cường chất lượng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương
các cấp, lực lượng quân đội, công an đối với quá trình đô thị hóa.
Để triển khai tốt công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tiến trình
đô thị các lực lượng quân đội và công an trên địa bàn, đặc biệt là lực lượng
công an xã, phường, cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân, dân
phòng, hội cựu chiến binh và các đoàn thể quần chúng để chủ động phòng
ngừa những âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch và những biểu hiện
hoạt động gây rối an ninh, trật tự xã hội trên trên sở đó nắm chắc tình hình
93
trên các địa bàn, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động quy hoạch
xây dựng đô thị, nắm chắc các đối tượng chính trị, các đối tượng tệ nạn xã
hội... Khi các đối tượng này có những hành vi vi phạm luật pháp cần có
những biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời. Ở các KCN, KCX, các địa điểm
kinh doanh, những khu mở mang xây dựng đô thị cần phải xây dựng được kế
hoạch, chương trình, nội dung phối hợp các hoạt động của lực lượng công an,
lực lượng chuyên trách an ninh quân đội đóng quân trên các địa bàn, các
ngành có liên quan để thu thập tin tức từ những nguồn thông tin khác nhau,
xác định mức độ đảm bảo an ninh - quốc phòng ở từng dự án, hậu quả nguy
hại mà các lực lượng thù địch có thể lợi dụng quá trình đô thị hóa để chống
phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chú trọng xây dựng lực lượng quân đội và công an trên địa bàn các
huyện, thị vững mạnh toàn diện đủ điều kiện đảm bảo nhiệm vụ thường xuyên
và sẵn sàng ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng của các
lực lượng thù địch trong quá trình đô thị hóa. Như vậy, đòi hỏi phải xây dựng
lực lượng quân đội và công an trên địa bàn vững mạnh về chính trị, tinh thần,
năng lực và khả năng chiến đấu để ngăn chặn và trấn áp mọi kẻ thù, mọi loại
tội phạm với hiệu quả cao nhất, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, góp phần tạo
nên sự ổn định KT-XH, đảm bảo an ninh - quốc phòng ở các địa phương.
Quân đội và công an chủ động phối hợp với chính quyền địa phương
đảm bảo quốc phòng, an ninh cho quá trình đô thị hóa.
Nội dung quân đội, công an tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh
trong quá trình đô thị hóa còn được thể hiện cụ thể thông qua việc: Quán triệt
tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; trực
tiếp bảo vệ và tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở; trực tiếp tham gia
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...; làm nòng cốt trong tham gia
phát triển KT-XH... Trong đó, tham gia phát triển KT-XH trên địa bàn giữ vai
trò quyết định, xét cả trước mắt và lâu dài, việc đảm bảo an ninh, quốc phòng
quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.
94
Quân đội, công an tích cực chủ động tham mưu cho chính quyền địa
phương xây dựng chủ trương, phương hướng, kế hoạch phát triển KT-XH,
củng cố quốc phòng- an ninh trên địa bàn. Những chủ trương, phương hướng,
kế hoạch... của chính quyền địa phương luôn thống nhất về mục tiêu với
chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của Đảng
và Nhà nước, đồng thời chú trọng phát huy những lợi thế so sánh của từng địa
phương. Tích cực hỗ trợ nhân dân ổn định cuộc sống và tham gia xây dựng,
củng cố các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Trên cơ sở luật định và
những thể chế hướng dẫn, các đơn vị quân đội và công an chủ động phối hợp
với cấp ủy, chính quyền địa phương, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố... Căn
cứ vào phẩm chất chính trị và nguyên tắc hoạt động của lực lượng an ninh
tiến hành lựa chọn một số cơ sở quần chúng để xây dựng mạng lưới an ninh
cơ sở. Việc mở rộng và hoạt động tốt của mạng lưới an ninh cơ sở trên địa
bàn sẽ góp phần ngăn chặn có hiệu quả hoạt động gây rối an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở khu vực ngoại thành Hà Nội.
*
* *
Trên cơ sở đánh giá những thực trạng về quá trình đô thị hóa ngoại
thành Hà Nội theo hướng PTBV. Trong những năm qua, quá trình này đã đem
lại nhiều thành tựu to lớn, song cũng đã để lại không ít những hạn chế và bất
cập. Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình đô thị hóa ngoại
thành Hà Nội theo hướng PTBV cần phải quán triệt và thực hiện tốt các quan
điểm đó là: Trong quá trình đô thị hóa phải coi trọng các tiêu chí PTBV; đô
thị hóa ngoại thành Hà Nội phải đẩy mạnh phát triển KT-XH nhằm giải quyết
tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong khu vực; chú trọng vấn đề tiến bộ và công
bằng ngay trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội; nâng cao năng lực
95
và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của Nhà nước để giải quyết
các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.
Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội PTBV trong thời gian tới
cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch, giải quyết một cách có hiệu quả mối
quan hệ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông
nghiệp, nông thôn; giải quyết tốt vấn đề tái định cư, hậu tái định cư và ổn
định cuộc sống cho các hộ nông dân trong quá trình đô thị hóa; sử dụng đất
đai một cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa; giải quyết việc làm cho người
dân trong quá trình đô thị hóa; xử lý tốt vấn đề môi trường và bảo đảm quốc
phòng, an ninh trong quá trình đô thị hóa; phát huy vai trò của hệ thống chính trị
cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị
hóa...
Trên đây là hệ thống giải pháp có tính đồng bộ và hỗ trợ cho nhau
nhằm phát huy những thành tựu to lớn và khắc phục những hệ lụy do quá
trình đô thị hóa đem lại. Mỗi giải pháp có vai trò vị trí và tầm quan trọng
riêng nên trong quá trình thực hiện phải tùy thuộc vào tình hình cụ thể của
từng địa bàn hoạt động mà có sự vận dụng cho phù hợp nhằm thúc đẩy quá
trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV một cách hiệu quả.
96
KẾT LUẬN
Đô thị hoá là biểu hiện của sự phát triển KT-XH, là sự quá độ chuyển
từ hình thức sống ít văn minh, ít tiện nghi lên một hình thức sống hiện đại,
văn minh trên tất cả các phương diện. Nó làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ
giữa người với người trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Những biểu
hiện cụ thể của đô thị hoá là sự tăng cường mức độ tập trung dân cư, tăng tỷ
lệ lao động phi nông nghiệp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô diện
tích đô thị hiện có, hình thành các đô thị mới và các khu đô thị mới. Quá trình
đô thị hoá phải dựa trên cơ sở phát triển kinh tế mà cốt lõi là phát triển công
KT-XH, mà còn thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển KT-XH. Vì vậy, quá
nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
trình đô thị hóa phải gắn chặt với phát triển bền vững. Đô thị hóa phát triển
bền vững là quá trình đô thị hóa trong đó phải bảo đảm được sự hài hòa giữa
các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong thời gian qua, ngoại thành Hà Nội là một trong những địa
phương có tốc độ đô thị hóa nhanh của cả nước. Quá trình này đã đem lại
nhiều thành tựu to lớn như: Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích
cực; tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông
nghiệp trong GDP, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh cho Hà
Nội; hệ thống kết cấu hạ tầng được nâng cấp và phát triển; giải quyết được
nhiều công ăn việc làm cho khu vực ngoại thành; hệ thống giáo dục, y tế được
phát triển; tài nguyên thiên của ngoại thành Hà Nội từng bước được đưa vào
khai thác và sử dụng có hiệu quả; góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên quá trình đô thị hóa ở Hà Nội còn bộc lộ một số
hạn chế như: Kinh tế ngoại thành Hà Nội phát triển kinh tế chưa xứng với tầm
vóc Thủ đô; quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội đã làm phân hoá giàu
nghèo và nảy sinh các vấn đề bất công bằng xã hội; nhà ở chưa đáp ứng được
97
nhu cầu của người dân ở khu vực đô thị hóa, đặc biệt là người lao động trong
các KCN; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập; cơ sở
hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống
trong quá trình đô thị hóa.
Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong
thời gian tới cần quán triệt tốt một số quan điểm, bao gồm: Coi trọng các nội
dung PTBV trong quá trình đô thị hóa; kết hợp phát triển KT-XH với giải
quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh; chú trọng vấn đề tiến bộ và công bằng
trong quá trình đô thị hóa; bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản
lý của chính quyền các cấp trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản trên, Thành phố Hà Nội
cần phải thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu như: Phát huy vai trò của hệ
thống chính trị cơ sở trong giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình
đô thị hóa; sử dụng đất đai khu vực đô thị hóa một cách hợp lý và hiệu quả;
giải quyết tốt việc làm cho người dân trong quá trình đô thị hóa; giải quyết tốt
vấn đề tái định cư, hậu tái định cư nhằm ổn định cuộc sống cho các hộ nông
dân trong quá trình đô thị hóa; xử lý tốt vấn đề môi trường và bảo đảm tốt
quốc phòng, an ninh nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội
theo hướng PTBV./.
98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nguyên Anh (2009), Giáo trình xã hội học dân số, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Tâm Bắc (2007), “Từ Liêm kết hợp phát triển kinh tế với xây
dựng khu vực phòng thủ”, Báo Điện tử Hà Nội mới, ngày 10/02/2007.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tại Hội nghị
lần thứ 20 Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (khóa 14), ngày
06/7/2010.
4. Nguyễn Công Bằng (2009), Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội
trong quá trình đô thị hóa, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Hà Nội.
5. Vũ Quốc Bình (chủ biên) (2011), Một số giải pháp đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Hà Nội tới năm 2020, Báo cáo
khoa học, đề tài cấp Thành phố, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế- xã
hội, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1998), Chỉ thị 36-CT/TW
ngày 25/6/1998 Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2004), Nghị quyết số 41-
NQ/TW, ngày 15/11/2004 Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
8. Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định
số 42/2009/NĐ- CP, ngày 07/05/2009 Phân loại đô thị và cấp quản lý
đô thị, Hà Nội.
9. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2012), Niên giám thống kê năm 2008 - 2012.
10. Nguyễn Ngọc Dũng (2013), Phát triển các Khu công nghiệp đồng bộ trên
địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
11. "Đô thị hóa và những hệ lụy", Báo Hà Nội mới, ngày 31/7/2008.
99
12. Nguyễn Hữu Đoàn (2009), Vận dụng phương pháp phân tích đa chiều
đánh giá mức độ đô thị hóa nhằm góp phần xây dựng các quan điểm
phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ, Luận
án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
13. Đỗ Thị Minh Đức (2006), Cấu trúc không gian của mạng lưới đô thị Việt
Nam và vấn đề tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội, Báo cáo tổng kết đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
14. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Đô thị hóa ở một số
nước châu Á- vấn đề và giải pháp, Thông tin phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy, Viện Thông tin khoa học, Hà Nội, 2006.
15. Trần Thị Ngân Hà (2012), Nghiên cứu tác động đến môi trường tự nhiên của quá
trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Luận án tiến sỹ cấp Viện,
Hà Nội.
16. Trương Quang Học (2013), Phát triển bền vững - chiến lược phát triển
toàn cầu của thế kỷ XXI, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi
trường, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Đình Hòe (2009), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
18. Hội quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam (2009), "Hà Nội thành phố thân
thiện và sống tốt cho cộng đồng", Tài liệu hội thảo quốc tế, ngày 01,
02/7/2009.
19. Hội khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam (2010), "Phát triển bền vững
giao thông đô thị Hà Nội", Tài liệu hội thảo quốc tế, ngày 25/6/2010.
20. Lê Ngọc Hùng (2010), "Phân hóa giàu nghèo của Thành phố Hà Nội",
Website dangcongsan.vn, ngày 08/10/2010.
21. Nguyễn Cao Lãnh (2010), Quy hoạch đơn vị ở bền vững, Nxb Xây dựng.
100
22. Ngô Thắng Lợi (2010), "Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ góc độ phát triển
bền vững", Website dangcongsan.vn, ngày 8/10/2010.
23. Vũ Thị Mai (2007), Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong
quá trình đô thị hóa Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Huyền Minh (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô
thị hóa tới biến đổi kinh tế- xã hội của thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh, Luận
văn thạc sỹ địa lý, Hà Nội.
25. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (2012), Hậu giải phóng mặt bằng ở
Hà Nội, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Ngô Thị Mỹ (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa đến phát triển
kinh tế- xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ
kinh tế nông nghiệp, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Nam, Ngô Thắng Lợi (2010), Chính sách phát triển bền vững
các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, Nxb Thông tin- Truyền thông.
28. Thúy Nga (2010), "Tạo đà cho kinh tế ngoại thành", Báo Hà Nội mới, ngày
14/01/2010.
29. Lê Khương Ninh (2009), "Đô thị hóa và giá đất vùng ven đô thị ở đồng
bằng Sông Cửu Long", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số (5).
30. "Nông nghiệp đô thị, cần một quy hoạch bền vững", Báo Hà Nội mới,
ngày 14/01/2010.
31. "Nông thôn ngoại thành Hà Nội sau 20 năm xây dựng làng văn hóa", Báo
Hà Nội mới, thứ sáu, ngày 30/10/2009.
32. Lê Du Phong (2005), Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại
thành Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Đàm Trung Phương (2005), Đô thị Việt Nam, Tập 1, Bộ Xây dựng,
Chương trình KC11, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
34. Nguyễn Trọng Phượng (2008), Môi trường đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
101
35. Lê Quân (2013), "Hà Nội xử lý 1.600 ha đất của 131 dự án treo", Website
Thanh niên.com.vn, ngày 8/8/2013.
36. "Quy hoạch phát triển giao thông Thủ đô Hà Nội đến năm 2020", Báo
Xây dựng điện tử, ngày 06/3/2008, Hà Nội.
37. Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (2014), Báo cáo kết quả 6 năm thực
hiện Nghị quyết số 15/2005/ NQ-QH 12 về việc điều chỉnh địa giới hành
chính thành phố Hà Nội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.
38. Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội.
39. Thành ủy Hà Nội (2011), Về đẩy mạnh công tác quy hoạch, xây dựng và
quản lý đô thị thành phố Hà Nội 2011 - 2015, Chương trình 06/CTr-
TU, ngày 08/11/2011, Hà Nội.
40. Thành ủy Hà Nội (2013), Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Kết luận Hội
nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết số 15 của Quốc hội (khóa XII)
về điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội.
41. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg, ngày
23/01/1998 Về việc phê duyệt định hướng quy hoạch tổng thể và phát
triển đô thị Việt Nam đến 2020, Hà Nội.
42. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1259/QĐ-TTg, ngày
26/7/2011 Về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội
đến 2030 - 2050, Hà Nội.
43. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 160/QĐ-TTg, ngày
15/01/2013 Về việc phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về phát
triển bền vững giai đoạn 2013 – 2015.
44. Hồng Tiến, Hoàng Lân (2009), "Thực trạng kết cấu hạ tầng kiến trúc đô
thị", Báo Xây dựng điện tử, ngày 06/11/2009.
102
45. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1998), Đô thị hóa trong
quá trình công nghiệp hóa, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.
46. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị những vấn đề lý luận và
kinh nghiệm của thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. UBND Thành phố Hà Nội (2005), Chỉ thị số 08/2005/CT-UB, ngày
01/3/2005 Về việc triển khai các biện pháp làm giảm bụi trong lĩnh vực
xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
48. UBND Thành phố Hà Nội (2006), Chỉ thị số 07/2005/CT-UB, ngày
07/4/2006 Về việc tăng cường công tác quản lý chất thải rắn trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
49. UBND Thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã
hội năm 2009, phương hướng nhiệm vụ năm 2010.
50. UBND Thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã
hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011.
51. UBND Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã
hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ năm 2012.
52. UBND Thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã
hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013.
53. UBND Thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 4324/QĐ-UBND, ngày
16/7/2013 Về việc phê duyệt quy hoạch phân khu đô thị S4, tỷ lệ
1/5.000, Hà Nội.
54. UBND Thành phố Hà Nội (2014), Quyết định 6336/QĐ-UBND, ngày
28/11/2014 Về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển nhà ở Thành phố Hà
Nội năm 2015 và các năm tiếp theo (giai đoạn 2016- 2020), Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Hải Vân (2013), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,
việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội.
56. V.I Lênin, Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr.474, 475.
103
57. Viện nghiên cứu Phát triển KT - XH Hà Nội (2009), Báo cáo tổng kết đề
tài NCKH cấp cơ sở về Thực trạng quá trình đô thị hóa ở Hà Nội.
58. Xã hội học đô thị- Sưu tập chuyên đề, Viện thông tin khoa học xã hội,
Trung tâm khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.
104
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
DÂN SỐ TRUNG BÌNH VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ KHU VỰC NGOẠI THÀNH CHIA THEO HUYỆN
Đơn vị tính : 1000 người
Năm 2000 Năm 2009 Mật độ dân số
năm 2000 2,99
Mật độ dân số năm 2009 3,74
Toàn thành phố 2756,3 3394,6
Ngoại thành 1281,1 1285,0 1,52 1,76
1- Sóc Sơn 2- Đông Anh 3- Gia Lâm 4- Từ Liêm 5- Thanh Trì 247,3 262,1 345,0 198,5 228,2 275,6 311,2 222,1 291,0 185,1 0,81 1,44 1,98 2,64 2,32 0,9 1,73 1,95 3,93 3,07
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm
Phụ lục 2:
105
LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2005-2012
Đơn vị tính: Người
Năm 2005 Năm 2009 Năm 2012
2.135.488 4.165.705 6.288.522 Tổng số người trong tuổi lao động có khả năng lao động (người)
Đang làm việc trong các ngành kinh tế Thất nghiệp Nội trợ và đi học Khác (chưa có việc làm) 1.511.178 64.773 463.435 96.102 3.81.395 96.951 975.176 12.183 4.917.425 137.630 1.218.230 15.237
Cơ cấu lao động trong tuổi lao động có khả năng lao động (%)
Đang làm việc trong các ngành kinh tế Thất nghiệp Nội trợ và đi học Khác (chưa có việc làm) 100,00 70,76 3,03 21,7 4,50 100,00 73,97 2,32 22.3 2,92 100,00 78.57 2.19 19,37 2,42
Nguồn : Điều tra lao động của Bộ Lao động Thương binh xã hội năm 2012 và
Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm.
3
Phụ lục 3:
Đơn vị tính: m2
DIỆN TÍCH NHÀ Ở MỚI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRONG CÁC NĂM
Năm Tổng số
Trung ương xây dựng Địa phương xây dựng Trong đó: Nhân dân tự xây
9800 1995 251548 241748 165200
35350 1998 339191 303841 165200
36098 1999 416511 380413 286349
82128 2000 597510 515382 410405
155217 2001 843440 688223 425855
335347 2007 936753 601406 415000
541258 2008 1284022 742764 360000
323790 2009 1418000 1094210 470000
561936 2010 1509000 947064 500000
522495 2011 1850313 1327818 750000
386074 2012 1557066 1170992 750000
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm
Phụ lục 4 :
4
SỐ CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ HỌC SINH, SINH VIÊN
Năm 2006 Năm 2013
Số lượng các trường và học sinh, sinh viên Số trường Số HS, SV Số trường Số HS, SV
Cao đẳng, đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật Phổ thông trung học Phổ thông THCS Phổ thông tiểu học 719418 94156 87500 189929 274168 401359 364108 24829 13600 103743 169105 228275 68 57 228 203 319 376
43 28 21 103 211 267 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm
5
Phụ lục 5:
BIỂU TỔNG HỢP 8 KHU CÔNG NGHIỆP ĐANG HOẠT ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Tính đến 31/12/2009)
TT
Tên KCN
Địa điểm
Số lao động
Diện tích (ha)
Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng)
Số doanh nghiệp
274
1
1.500
44.758
84
Bắc Thăng Long
Xã Kim Chung, Võng La, Hải Bối huyện Đông Anh
Nội Bài
115
2
680
7.694
40
Xã Lạc Nông, huyện Sóc Sơn
73
Sài Đồng B
3
120
9000
24
P. Sài Đồng, quận Long Biên
40
4
204
969
33
Hà Nội- Đại Từ
P. Sài Đồng, quận Long Biên
30
5
61
450
28
Nam Thăng Long
Xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm
155
6
220
1.050
61
Thạch Thất- Quốc Oai
Huyện Thạch Thất, Quốc Oai
Phú Nghĩa
170
7
400
3.350
35
Xã Phú Nghĩa, Tiên Phương, Ngọc Hòa huyện Chương Mỹ
8
407
532
16.110
138
Quang Minh I
Xã Quang Minh, huyện Mê Linh
Tổng số
1.264
3.717
83.381
443
Nguồn: Ban quản lý các KCN và CX Hà Nội
6
Phụ lục 6:
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA 8 KCN ĐANG HOẠT ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Tính đến 31/12/2009)
TT
Tên KCN
Diện tích (ha)
Tỷ lệ lấp đầy
Diện tích đất có hạ tầng (ha)
Diện tích đất CN có thể cho thuê (ha)
1
Bắc Thăng Long
274
274
100%
183
2
Nội Bài
115
100
90%
66
3
Sài Đồng B
73
51
100%
45
4
Hà Nội- Đại Từ
40
40
70%
32
5
Nam Thăng Long
30,8
30,8
100%
17,3
6
155
155
90%
155
Thạch Thất- Quốc Oai
7
Phú Nghĩa
170
170
65%
125
8
Quang Minh I
407
364
80%
240
885
Tổng số
1.264
1.186
Nguồn: Ban quản lý các KCN và CX Hà Nội