BỘ QUỐC PHÒNG BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ   

MAI THỊ KIM HỒNG MAI THỊ KIM HỒNG

ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2014 HÀ NỘI - 2014

BỘ QUỐC PHÒNG BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ   

MAI THỊ KIM HỒNG MAI THỊ KIM HỒNG

ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01 02 MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN

HÀ NỘI - 2014 HÀ NỘI - 2014

MỤC LỤC

Tran g 3

MỞ ĐẦU Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 10

1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững 10

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng phát

triển bền vững 23

1.3. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững

của một số nước trên thế giới và bài học rút ra cho Hà Nội 26

Chương 2 THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI THÀNH HÀ

NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 36

Tổng quan về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội 2.1 36

Những thành tựu đạt được trong quá trình đô thị hóa 2.2

ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững 39

Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá ngoại thành Hà 2.3

Nội theo hướng phát triển bền vững 49

Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 58

NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT

TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình đô

thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền

vững trong thời gian tới 58

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị

hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững

trong thời gian tới 63

KẾT LUẬN 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

PHỤ LỤC 101

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Cơ sở hạ tầng CSHT

Khu đô thị KĐT

Khu chế xuất KCX

Khu công nghiệp KCN

Kinh tế - xã hội KT - XH

Khoa học và Công nghệ KH&CN

Lực lượng sản xuất LLSX

Quan hệ sản xuất QHSX

Tài nguyên thiên nhiên TNTN

Phát triển bền vững PTBV

Ủy ban nhân dân UBND

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi

bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đô thị hóa có tác động tích

cực, sâu sắc tới mọi mặt đời sống KT-XH của mỗi quốc gia nói chung, tới

khu vực nông thôn mỗi quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác

động tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết

như: Việc làm cho nông dân mất đất sản xuất; xây dựng cơ sở hạ tầng, an

ninh xã hội, các vấn đề về môi trường… Do vậy, nếu không có một chiến

lược giải pháp cụ thể, các quốc gia trong quá trình phát triển sẽ gặp phải nhiều

vấn đề vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nẩy

sinh nhiều vấn đề phức tạp từ quá trình đô thị hóa.

Thành phố Hà Nội trong những năm qua có tốc độ đô thị hóa nhanh;

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công

nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Quá trình đô

thị hóa đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của nhân dân, nhất là cư dân nông thôn, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng

kinh tế nhanh cho Hà Nội; tài nguyên thiên nhiên của Thành phố từng bước

đưa vào khai thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở

ngoại thành Hà Nội còn thiếu tính bền vững như: Chưa tạo điều kiện cho sự

phát triển thành phố theo xu hướng văn minh, hiện đại và bền vững; phát triển

nguồn nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng

đô thị chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; giải quyết công

ăn việc làm cho người dân bị thu hồi đất còn khó khăn; ô nhiễm môi trường

và các tệ nạn xã hội diễn ra phức tạp...

Như vậy, vấn đề đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội đã tác động không

nhỏ tới mọi mặt KT-XH, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, nhằm cung cấp cơ sở

khoa học cho các cấp, các ngành, cơ quan chức năng thành phố Hà Nội đảm

7

bảo quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội phát triển theo hướng bền

vững. Với lý do đó, vấn đề “Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng

phát triển bền vững” được tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều tác giả quan tâm nghiên

cứu vấn đề đô thị hoá theo hướng PTBV ở các mức độ và góc độ tiếp cận

khác nhau, dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham khảo

và chuyên khảo, các đề tài luận văn, luận án, các bài báo được đăng tải trên

các báo và tạp chí… Trong đó đáng chú ý một số công trình tiêu biểu sau:

* Các công trình luận văn, luận án

Luận án tiến sỹ kinh tế “Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí

đánh giá mức độ đô thị hoá nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát

triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ”, tác giả Nguyễn

Hữu Đoàn [12]. Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về đô thị hoá trên

thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá

mức độ đô thị hoá là cơ sở để đánh giá và so sánh mức độ đô thị hoá của các

đô thị. Trên cơ sở vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức

độ đô thị hóa bằng định lượng và định tính, luận án đã chứng minh tính khả

thi của việc vận dụng phương pháp bằng việc áp dụng đánh giá mức độ đô thị

hóa cho Hà Nội và làm rõ một số vấn đề chủ yếu về lý luận đô thị hoá và phát

triển đô thị trong quá trình phát triển KT-XH. Từ những phân tích trên, luận

án đã đề xuất một số quan điểm phát triển đô thị nhằm góp phần đẩy mạnh

quá trình đô thị hoá ở Việt Nam và Hà Nội.

Luận án tiến sỹ cấp Viện “Nghiên cứu tác động đến môi trường tự nhiên

của quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, tác giả Trần Thị

Ngân Hà [15]. Luận án đã đánh giá quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh

trong thời gian qua. Theo tác giả luận án, quá trình đô thị hóa ở Thành phố

Vinh đã làm biến đổi môi trường tự nhiên, tuy mức độ chưa lớn nhưng đã tạo

ra sức ép đối với sự phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường tại địa phương;

8

luận án cũng đánh giá những tác động đến môi trường tự nhiên của quá trình

đô thị hóa ở thành phố Vinh là căn cứ khoa học để đề xuất các giải pháp bảo

vệ môi trường tự nhiên, phát triển đô thị theo hướng bền vững.

Luận văn thạc sỹ kinh tế “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà

Nội trong quá trình đô thị hóa”, tác giả Nguyễn Công Bằng [4]. Luận văn đã

hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo trong quá trình đô thị

hóa; đánh giá khách quan thực trạng đói nghèo tại các huyện ngoại thành Hà

Nội trong quá trình đô thị hóa trên các phương diện: Kết quả, hạn chế và

nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu

thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong thời gian

tới.

Luận văn thạc sỹ địa lý “Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị

hóa tới biến đổi kinh tế - xã hội của thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh”, tác giả Nguyễn

Thị Huyền Minh [24]. Luận văn đã nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị

hóa tới biến đổi KT-XH thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2000

đến 2010, chỉ ra những ảnh hưởng tích cực cũng như ảnh hưởng tiêu cực ở địa

phương này. Từ đó luận văn đã đề xuất những giải pháp phát triển bền vững

KT-XH của địa phương dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa.

Luận văn thạc sỹ nông nghiệp “Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa

đến phát triển kinh tế- xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”, tác giả

Ngô Thị Mỹ [26]. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những tác động tích cực

cũng như hạn chế của đô thị hóa đối với các hộ nông dân mất đất nói riêng và

tình hình KT-XH của huyện Phổ Yên nói chung. Từ việc nghiên cứu thực

trạng của đô thị hóa, luận văn chỉ ra những ảnh hưởng của nó đến phát triển

KT-XH của huyện Phổ Yên; trên cơ sở đó luận văn đã đề ra những định

hướng và giải pháp phù hợp thúc đẩy KT-XH của huyện tiếp tục phát triển.

* Sách, báo cáo hội thảo và đề tài nghiên cứu các cấp

Sách “Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới

1979 - 1989 và 1989 - 1999” của tác giả Lê Thanh Sang, Viện khoa học Nông

9

thôn Việt Nam - Bộ thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam chủ biên, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 2008. Cuốn sách đã phác họa bức

tranh đô thị hóa và cấu trúc đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 1979 - 1999 từ

đó, đề xuất các biện pháp tiến hành cấu trúc lại đô thị ở Việt Nam.

Sách “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Trần Ngọc Hiên và Trần Văn Chử

đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998. Cuốn sách đã trình

bày khái quát về quá trình đô thị hóa ở Việt Nam kể từ năm 1975 cùng các

chính sách về đô thị hóa của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam. Theo các tác giả, quá trình đô thị hóa của Việt Nam từ

sau năm 1974 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng bộ

mặt đô thị trên cả nước. Đồng thời để cập quá trình đô thị hóa còn không ít

những hạn chế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan - các chính sách đô thị hóa

của các cấp quản lý. Trên cơ sở đó có những kiến nghị chính sách để đảm bảo

quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nhất.

Sách “Đô thị học- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh

Hòa, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2012. Đây là một tuyển tập

93 bài viết trong số hàng trăm bài công bố trên các tạp chí, sách chuyên khảo

trong và ngoài nước của tác giả khi nghiên cứu về đô thị hóa trong 20 năm liên

tục (1990-2012). Cuốn sách được tác giả trình bày theo các nội dung: Nhận

thức chung về đô thị; văn hóa và xã hội đô thị; tổ chức không gian sống đô

thị; phát triển đô thị trong bối cảnh ở Việt Nam; phát triển đô thị từ kinh

nghiệm quốc tế. Cuốn sách cung cấp những kiến thức về nguyên lý và quy luật

chung của phát triển đô thị, về quy hoạch - kiến trúc, giao thông, môi trường; đặc

biệt là những cách tiếp cận mới về đô thị dưới nhãn quan của đô thị học.

Cuốn sách “Phát triển bền vững đô thị: những vấn đề lý luận và kinh

nghiệm của thế giới” của tác giả Đào Hoàng Tuấn, Nxb Khoa học xã hội,

năm 2008. Cuốn sách đã khái quát kinh nghiệm phát triển đô thị của nhiều

10

nước trên thế giới từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí đối với đô thị ở Việt Nam

hiện nay.

Thông tin chuyên đề “Những tác động về văn hóa và xã hội của quá

trình đô thị hóa ở Việt Nam và Australia” do Khoa Văn hóa, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu đô thị và xã hội Trường

đại học Công nghệ Swiburme Australia phối hợp nghiên cứu, năm 1997. Bản

Thông tin đã phân tích những tác động về văn hóa và xã hội của quá trình đô

thị hóa ở hai quốc gia Việt Nam và Australia, từ đó, xác định những điểm

tương đồng và không tương đồng trong quá trình đô thị hóa giữa hai nước và

đề xuất những bài học kinh nghiệm cho quá trình đô thị hóa ở Việt Nam.

Bài tham luận của Ngô Thắng Lợi tại Hội thảo “Phát triển bền vững thủ

đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” và “Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ

góc độ phát triển bền vững”, năm 2010, đã khẳng định những khía cạnh bền

vững trong đô thị hóa Hà Nội bao gồm: Đô thị hóa đã gắn được với tăng trưởng

kinh tế và nâng cao mật độ kinh tế; đô thị hóa gắn với quá trình công nghiệp

hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đô thị hóa với gắn liền

với việc mở rộng quy mô Thủ đô, tạo không gian thuận lợi bảo đảm tính bền

vững của quá trình đô thị hóa; đô thị hóa gắn với mở rộng phạm vi lan tỏa qua

việc hình thành và phát triển vùng thủ đô với tư cách là “bệ đỡ” cho phát triển

Hà Nội. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra tính chất thiếu bền vững trong đô thị

hóa Hà Nội gồm: Quá trình đô thị hóa đã không tạo điều kiện cho sự phát triển

thành phố theo xu hướng hiện đại và bền vững trong tương lai; phát triển nguồn

nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng đô thị

chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; ô nhiễm môi trường đô

thị Hà Nội trở thành “điểm nóng” cản trở sự phát triển…

Bên cạnh những công trình tiêu biểu nêu trên, chủ đề đô thị hóa còn thu

hút được không ít các bài báo, sách và đề tài nghiên cứu khoa học khác, có

thể kể đến là: “Đô thị Việt Nam”, Nxb Xây dựng, năm 1995 của Đàm Trung

Phương; “Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng, năm 2001 của Nguyễn Ngọc Châu;

11

“Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng năm 2005 của Phạm Trọng Mạnh; “Kinh tế

đô thị và vùng”, Nxb Xây dựng năm 2006 của Trần Văn Tấn; “Phân tích dưới

góc độ địa lí kinh tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội

trong quá trình đô thị hóa” của Đỗ Thị Minh Đức; “Nghiên cứu đo đạc một số

chỉ tiêu chất lượng cuộc sống năm 2002 của Thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ

Thiệu Hùng; “Cộng đồng dân cư ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh trong

quá trình đô thị hóa” của Văn Thị Ngọc Lan…

Những công trình khoa học, bài viết trên của các tác giả đã đề cập đến

quá trình đô thị hoá trên nhiều phương diện, mục đích khác nhau như: Phát

triển đô thị lấy kinh tế làm trọng tâm; phát triển đô thị lấy con người làm trọng

tâm; lý thuyết đô thị hóa tiếp cận dưới góc độ dân số học. Tổng quan về quá

trình đô thị hóa, các xu hướng, hình thái đô thị hóa và sự biến đổi kinh tế, xã

hội, văn hóa… cùng những chính sách, kinh nghiệm của các địa phương trong

và ngoài nước về đô thị hóa. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào

nghiên cứu về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu

Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về đô thị hóa ngoại thành Hà

Nội theo hướng PTBV, trên cơ sở đó luận văn đề xuất một số quan điểm cơ

bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà

Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải quan niệm, đặc điểm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến

đô thị hóa theo hướng PTBV.

- Đánh giá thực trạng đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.

- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đô

thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu: Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững.

12

* Phạm vi nghiên cứu: Ngoại thành Hà Nội.

Tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thực hiện chủ yếu từ

năm 2008 đến nay. Đó là thời điểm Hà Nội mở rộng địa giới hành chính gần

đây nhất.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

* Cơ sở lý luận nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

và các nghị quyết của thành phố Hà Nội về đô thị hóa, đồng thời kế thừa kết

quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan.

* Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế

chính trị Mác - Lênin (trừu tượng hóa khoa học) và các phương pháp: Kết hợp

logic và lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên

gia.

6. Ý nghĩa của đề tài

- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hóa

theo hướng PTBV. Qua đó cung cấp cứ liệu khoa học để Đảng bộ, chính

quyền thành phố Hà Nội có thể tham khảo trong nghiên cứu xác định chủ

trương, chính sách nhằm hướng tới sự PTBV trong quá trình đô thị hóa ngoại

thành Hà Nội.

- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và học tập

bộ môn kinh tế chính trị ở các trường đại học, cao đẳng.

7. Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo và phụ lục.

13

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM

VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững

1.1.1. Đô thị hóa

* Khái niệm đô thị hóa

Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển.

Những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau

và những sắc thái khác nhau, đô thị hóa tiếp tục lan rộng như là một quá trình

phát triển KT-XH trên toàn thế giới. Đó là quá trình mở rộng thành phố, tập

trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng

hóa những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống

cũng như văn hóa đô thị. Đó cũng là quá trình biến đổi về phân bố lực lượng

sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề

cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thu

hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng

dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao

thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác.

Hiện nay, do cách tiếp cận và đối tượng nghiên cứu khác nhau của các

chuyên ngành khoa học nên quan niệm về đô thị hóa cũng có sự khác nhau:

Trong tác phẩm “Đô thị Việt Nam” của Đàm Trung Phương cho rằng:

“Đô thị hoá là quá trình chuyển dịch hoạt động nông nghiệp phân tán sang

hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp” [33,

tr.33]. Mặt khác, cũng theo tác giả này: “Đô thị hoá cũng bao gồm quá trình

di cư từ nông thôn ra thành thị, tập trung ngày càng nhiều dân cư trong những

vùng lãnh thổ hạn chế, gọi là đô thị” [33, tr.34].

Theo báo cáo của Viện nghiên cứu Phát triển KT- XH Hà Nội, quá

trình đô thị hoá được nhìn từ hai góc độ, một mặt đó là “Quá trình hình thành

14

và phát triển các điểm dân cư được tập hợp lại và phổ biến lối sống thành thị,

đồng thời phát triển các hoạt động khác nhau để phục vụ sự tồn tại và phát

triển trong cộng đồng đó”; mặt khác “Đô thị hoá cũng là quá trình mở rộng

biên giới lãnh thổ đô thị do nhu cầu công nghiệp hoá, thương mại, dịch vụ và

giao lưu quốc tế - là sự tăng trưởng về không gian đô thị từ phát triển dân số

và phát triển sản xuất” [57].

Thực tế, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là quá trình dịch cư từ nông

thôn ra thành thị và dịch cư nghề nghiệp mà còn bao hàm các quá trình dịch

cư khác, đa chiều, đa cấp độ như các dòng dịch cư đô thị - đô thị, đô thị - ven

đô, đô thị - nông thôn, vùng - quốc tế với các mức độ khác nhau theo từng

hoản cảnh của các đô thị cụ thể. Các nhân tố kinh tế vẫn giữ vai trò chủ đạo

trong việc tạo nên quá trình đô thị hoá, tuy nhiên các nhân tố khác phi kinh tế

như văn hoá, lịch sử, lối sống… đang ngày càng có những ảnh hưởng lớn tới

các đặc tính đô thị hoá của mỗi vùng.

Từ các quan niệm trên cho thấy: Đô thị hóa là quá trình mở rộng đô thị

và biến đổi, phân bố lại các yếu tố của lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, hình

thành, phát triển các hình thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị; có sự chuyển

biến rõ nét trong quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị tạo tiền đề vững chắc

cho phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật

chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số.

Theo nghĩa hẹp, đô thị hoá là quá trình dịch cư từ lĩnh vực nông

nghiệp sang phi nông nghiệp với biểu hiện là sự tăng tỷ lệ dân số đô thị và

nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật đô thị.

Theo nghĩa rộng, đô thị hoá là quá trình chuyển biến KT-XH, văn hoá

và không gian lãnh thổ, gắn liền với những tiến bộ về KH&CN, trong đó diễn

ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển

đổi lối sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ

chức bộ máy hành chính.

15

Như vậy, đô thị hóa là sự mở rộng đô thị cả về không gian và thời gian.

Về không gian, mức độ đô thị hóa được tính bằng tỷ lệ giữa dân số đô thị trên

tổng số dân hay giữa diện tích đô thị trên diện tích của địa phương. Về thời

gian, tốc độ đô thị hóa được tính bằng tốc độ gia tăng theo thời gian của yếu

tố dân số đô thị và diện tích đô thị; là quá trình hình thành, phát triển các hình

thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, biến đổi về phân bố lực lượng sản xuất,

bố trí dân cư những vùng không phải là đô thị thành đô thị.

Ngoại thành Hà Nội là phạm vi danh giới địa chính ngoại thị của thành

phố, gồm các đơn vị hành chính huyện, thị xã và được cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền thành lập, bao quanh, tiếp giáp với phần nội thành, không bao

gồm phần nội thị (các quận nội thành), dân cư phần lớn là làm nông nghiệp

cùng với những thói quen sản xuất, sinh hoạt, văn hóa truyền thống của người

nông dân, nông thôn.

Trên cơ sở quan niệm chung về đô thị hóa, có thể hiểu về đô thị hóa

ngoại thành Hà Nội là quá trình mở rộng đô thị; biến đổi, phân bố lại các yếu

tố của LLSX từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp, xây dựng và dịch

vụ; bố trí dân cư ở các huyện ngoại thành, hình thành phát triển các hình

thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị và tăng quy mô dân số đô thị; cải tạo

nâng cấp, mở rộng, hiện đại hóa các cơ sở tương ứng của ngoại thành và các

vùng, địa phương lân cận cho phù hợp với quá trình đô thị hóa.

* Đặc điểm của quá trình đô thị hoá

Đô thị hóa gắn liền với quá trình tăng trưởng kinh tế của một khu vực,

một quốc gia. Tuy nhiên, tốc độ và đặc điểm của đô thị hóa còn phụ thuộc vào

trình độ phát triển của một khu vực hay quốc gia đó. Ngày nay, đô thị hóa

được hiểu là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu

xã hội từ nông nghiệp- nông dân- nông thôn sang công nghiệp- thị dân- đô thị

được biểu hiện ở một số đặc điểm sau:

16

Thứ nhất, đô thị hóa là một quá trình lâu dài diễn ra trong một không

gian, lãnh thổ rộng lớn.

Thứ hai, tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp hay

công nghiệp hóa, đô thị hóa. Trong quá trình đô thị hóa có sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp,

thương mại và dịch vụ.

Thứ ba, đô thị hóa là quá trình hình thành nâng cấp mở rộng quy mô đô

thị với kết cấu hạ tầng hiện đại.

Thứ tư, không gian đô thị ngày càng mở rộng, cùng với nó là sự thu hẹp

đất nông nghiệp để phát triển KĐT, KCN, thương mại, dịch vụ, du lịch.

Thứ năm, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế ngày càng gia tăng thể hiện ở

sự gia tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy mô

các đơn vị kinh tế.

Thứ sáu, đô thị hóa đã góp phần chuyển từ lối sống nông thôn sang lối

sống đô thị, từ văn hóa làng xã sang văn hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp

sang văn minh công nghiệp; cùng với đó là sự thay đổi về cơ chế, chính sách

phát triển và quản lý đô thị.

* Nội dung đô thị hoá:

Một là, mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp.

Đô thị hóa dù diễn ra dưới hình thức nào cũng đều dẫn đến sự chuyển đổi

cơ cấu sử dụng đất: Mở rộng không gian đô thị, tức phát triển đô thị theo chiều

rộng làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng. Nguyên nhân do

Nhà nước và chính quyền các cấp chuyển đổi mục đích sử dụng để dành đất cho

xây dựng các công trình; do hình thành thị trường bất động sản, kinh doanh đất

đai và một phần do nhân dân ở nơi đang có quá trình đô thị hóa bán cho những

người từ địa phương khác đến. Tuy nhiên, bất kể mục đích chuyển đổi đất nông

nghiệp để làm gì thì trong quá trình đô thị hóa, Nhà nước phải nắm quyền chủ

động chuyển đổi mục đích sử dụng đất để tạo đà cho sự phát triển đô thị.

17

Hai là, bố trí dân cư trong các khu đô thị mới, giải quyết vấn đề dân số,

giải quyết vấn đề việc làm, thay đổi cơ cấu lao động.

Khu đô thị mới là khu đô thị đang được phát triển tập trung theo dự án

đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng, các công

trình sản xuất, công trình phúc lợi và nhà ở. Đồng thời, với các khu đô thị mới

đang được phát triển làm cho các khu nông thôn được chuyển thành phố,

phường. Vì vậy, đòi hỏi phải bố trí lại dân cư cho phù hợp với quy mô và

chức năng của đô thị, phải giải quyết vấn đề dân số, cả dân số tự nhiên và dân

số cơ học đáp ứng yêu cầu của sản xuất và bảo đảm không ngừng cải thiện

chất lượng cuộc sống của dân cư. Từ làng lên phố, từ xã lên phường, người

nông dân không còn đất để sản xuất nông nghiệp và trong số này không phải

ai cũng có điều kiện để tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, dịch

vụ, thương mại nhất là với những người dân lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp

càng ít có khả năng có việc làm để bảo đảm thu nhập và cuộc sống. Bên cạnh

đó là sự gia tăng dân số và lao động cơ học từ nơi khác vào đô thị mới. Vì

vậy, đô thị hóa đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ cả cơ cấu lao động và việc làm

cho dân cư sở tại và dân cư từ các địa phương khác về.

Ba là, có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; cơ cấu thành phần kinh tế.

Đô thị hóa tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đất đai

dùng cho sản xuất nông nghiệp trước đây ngày càng bị thu hẹp. Các đô thị

mới với chức năng chủ yếu là phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Vì vậy, quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế cũng thay đổi theo hướng

giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thương mại

trong tổng GDP. Đến lượt nó, sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình

đô thị hóa lại kéo theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh

thương mại và dịch vụ phục vụ cho đô thị như xây dựng các trung tâm mua

sắm, khu vui chơi giải trí, nghỉ ngơi cuối tuần. Bản thân ngành nông nghiệp

cũng chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao,

18

nông nghiệp sinh thái. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng thay đổi nhanh chóng.

Các hộ nông dân trong các Hợp tác xã nông nghiệp trước đây có thể phát triển

thành các hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm các nghề tiểu thủ công

nghiệp; phát triển mạnh các hình thức tổ chức kinh tế của nhiều thành phần

như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty nhà nước, công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài…

Bốn là, có sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.

Quá trình đô thị hóa là quá trình hình thành nhanh chóng kết cấu hạ

tầng KT-XH. Những công trình này phải đáp ứng được yêu cầu của sản xuất

và đời sống với những tiêu chuẩn cụ thể của từng loại đô thị. Đảm bảo hiện

đại và đồng bộ kết nối với đô thị cũ trung tâm và các vùng lân cận. Việc giải

quyết tốt hay không tốt nội dung này đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực

tới sản xuất và đời sống nhân dân. Về giao thông, có thể thấy mật độ giao

thông đô thị tăng nhanh, do tăng dân số, lao động và tăng trưởng kinh tế với

tốc độ nhanh cùng với nhu cầu đi lại, vận chuyển và giao lưu hàng hóa, dịch

vụ ngày càng lớn làm cho mật độ giao thông phát triển mạnh.

Năm là, thay đổi hình thái kiến trúc từ kiến trúc nông thôn sang kiến

trúc đô thị.

Trong quá trình đô thị hóa, tất yếu phải thay đổi kiến trúc nông thôn bằng

kiến trúc đô thị. Tuy nhiên, ở đây có hai nội dung cần bàn là: Ở các đô thị mới

phải có kiến trúc, xây dựng nhà ở, các cơ quan, công sở bảo đảm mĩ quan, văn

minh, hiện đại; khắc phục nhà siêu mỏng, siêu méo, nhà không số, phố không tên…

Sáu là, thành lập các đơn vị hành chính mới ở địa bàn được đô thị hoá.

Đô thị hóa dẫn đến sự biến động ranh giới các đơn vị hành chính như:

sự thay đổi địa giới hành chính, dân số của đô thị, của các phường, các quận

mới và bộ phận còn lại của các thôn, các xã, các huyện ngoại thành. Sự thay

đổi này kéo theo sự thay đổi của bộ máy hành chính cùng với thay đổi quy

mô, trình độ, cách thức, hình thức, phương thức, biện pháp quản lý. Do đó

quá trình đô thị hóa rất cần thiết tổ chức lại quản lý nhà nước trên địa bàn.

19

1.1.2. Phát triển bền vững

Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Hay báo cáo Brundtland)

của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) năm 1997 cũng đã

đưa ra khái niệm về phát triển bền vững, theo đó, thừa nhận mối liên kết chặt

chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo WCED "Phát triển bền vững là sự

phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm

tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ” [27,

tr.16]. Phát triển bền vững bao hàm các quá trình thay đổi về kinh tế, xã hội,

môi trường. Đến nay, khái niệm này vẫn còn tiếp tục được bàn luận, sự diễn

giải về nó vẫn còn có sự khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của phát triển bền

vững theo ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường:

Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi con đường phát triển

tạo ra sự tăng thu nhập thực sự, gia tăng sản xuất xã hội, xóa bỏ nghèo đói,

bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, hiệu quả. Mức độ bền vững về

kinh tế bị chi phối bởi tính hữu ích, chi phí đầu vào, chi phí khai thác, chế

biến và nhu cầu đối với sản phẩm. Để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh,

khai thác tài nguyên thiên nhiên với cường độ lớn hơn vẫn là phương thức mà

nhiều quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên

nhiên thì dễ rơi vào khủng hoảng khi tài nguyên bị cạn kiệt và có những tài

nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác tài nguyên như vậy

sẽ vượt quá sức chịu đựng của các hệ sinh thái, gây ô nhiễm, suy thoái môi

trường và tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn mà con người có thể còn chưa biết

đến hoặc chưa lường hết được. Vì vậy, đây không phải là phương thức PTBV.

Những vấn đề khác như vay nợ, đầu tư kém hiệu quả, thất thoát các nguồn

vốn... cũng sẽ ảnh hưởng đến mức độ bền vững về kinh tế.

Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội gắn chặt và có quan hệ biện

chứng với PTBV về kinh tế, là sự phát triển kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế

với ổn định xã hội, không có xung đột, xáo trộn; huy động tối đa, hiệu quả các

20

nguồn lực cho quá trình phát triển; bảo đảm giải quyết tốt các vấn đề về việc

làm, giáo dục, y tế, công bằng về thu nhập, phúc lợi xã hội giữa các tầng lớp

dân cư, giữa các vùng lãnh thổ; xây dựng, bảo vệ và phát huy những chuẩn

mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn giáo, truyền thống, phong tục, tập quán,

bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp.

Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với

PTBV về kinh tế và về xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con người và giới

tự nhiên. Mọi quá trình phát triển xét đến cùng là việc sử dụng nguồn lực con

người để khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của con

người. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường

phải bảo đảm sự bền vững. Bền vững về môi trường cũng có nghĩa là tận

dụng, tái tạo các nguồn tài nguyên, năng lượng, phòng ngừa và giảm thiểu ô

nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm cân bằng sinh thái. Nói

cách khác, PTBV về môi trường là sự bảo đảm cho môi trường sống luôn duy

trì được ba chức năng cơ bản của nó: Là không gian sống của con người; là

nơi cung cấp nguồn lực cho sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội; là

nơi chứa đựng, tiêu huỷ các chất thải. Chỉ một trong ba chức năng này bị tổn

thương hoặc mất cân bằng là nguy cơ PTBV về môi trường sẽ bị đe dọa.

1.1.3. Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững

* Quan niệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững

Có thể hiểu đô thị hóa theo hướng PTBV là sự phối hợp phát triển đa

ngành, đa cấp và của toàn xã hội. Đô thị hóa theo hướng PTBV là tư duy đổi

mới về quá trình đô thị hóa được diễn giải trên cơ sở duy trì những hiểu biết

về kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Phát triển đô thị là nền tảng vững

chắc để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một cách hiểu đơn giản nhất

đô thị hóa theo hướng PTBV là sự can thiệp với cách thức có chiến lược của

con người vào quá trình đô thị hóa phù hợp với xu thế, nguồn lực, quy luật

phát triển chung và đặc trưng riêng của từng quốc gia. Cho đến nay, chưa có

21

một quan niệm thống nhất về đô thị hóa theo hướng PTBV. Rất khó để đưa ra

được một định nghĩa hay hệ khái niệm được coi là thống nhất về đô thị hóa

theo hướng PTBV vì bản chất đa dạng và đa chiều của đối tượng nghiên cứu.

Tùy thuộc vào mục đích và phương pháp nghiên cứu mà các tác giả sẽ có

những quan điểm khác nhau; do vậy các quan điểm về đô thị hóa theo hướng

PTBV được trình bày rất đa dạng. Báo cáo của Ủy ban Brundtland, tại hội

nghị URBAN21 tổ chức tại Berlin tháng 7/2000 đã đưa ra định nghĩa về đô

thị hóa theo hướng PTBV: Cải thiện chất lượng cuộc sống trong một thành

phố, bao gồm cả các thành phần sinh thái, văn hóa, chính trị, thể chế, xã hội

và kinh tế nhưng không để lại gánh nặng cho các thế hệ tương lai, một gánh

nặng bị gây ra bởi sự sút giảm nguồn vốn tự nhiên và nợ địa phương quá lớn.

Mục tiêu của chúng ta là nguyên tắc dòng chảy, dựa trên cân bằng về vật liệu

và năng lượng cũng như đầu vào, đầu ra về tài chính, phải đóng vai trò then

chốt trong tất cả các quyết định tương lai về phát triển các khu vực đô thị.

Đô thị hóa theo hướng PTBV trên thực tế được định nghĩa chi tiết hơn

tùy theo từng khu vực địa lý, trình độ phát triển và góc nhìn. Đô thị hóa theo

hướng PTBV cũng được xem xét dưới một thuật ngữ khác, đó là “phát triển

cộng đồng bền vững” theo đó: "Phát triển cộng đồng bền vững là năng lực

đưa ra quyết định phát triển tôn trọng mối tương quan giữa ba khía cạnh- kinh

tế, sinh thái, và bình đẳng. Về kinh tế: Hành vi kinh tế cần đem lại những điều

tốt đẹp chung cho cả cộng đồng, có thể tự làm mới, tạo ra tài sản và có khả

năng tự túc. Về sinh thái: Con người là một phần của tự nhiên, tự nhiên có

những giới hạn, và cộng đồng phải có trách nhiệm bảo vệ và xây dựng các tài

sản thiên nhiên. Về bình đẳng: Cơ hội tham dự hoàn toàn trong các hoạt động,

lợi ích và quá trình ra quyết định của một cộng đồng” [27, tr.18].

Tại Ấn Độ, quốc gia đang và sẽ là nước có tốc độ đô thị hóa hàng đầu

Châu Á đã đưa ra định nghĩa về đô thị hóa theo hướng PTBV: "Một cộng

đồng sử dụng bền vững nguồn tài nguyên của mình để đáp ứng nhu cầu hiện

22

tại, trong khi đảm bảo đủ nguồn lực có sẵn cho các thế hệ tương lai. Nó tìm

cách cải thiện sức khỏe cộng đồng và một cuộc sống chất lượng tốt hơn cho

tất cả cư dân của nó bằng cách hạn chế chất thải, ngăn chặn ô nhiễm, bảo tồn

và phát huy tối đa hiệu quả, phát triển nguồn lực địa phương để khôi phục nền

kinh tế địa phương” [17, tr.22].

Argentina đưa ra quan điểm của về phát triển đô thị bền vững, đó là:

“Một thành phố bền vững kết hợp hài hòa yếu tố môi trường với các ngành

kinh tế và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không ảnh

hưởng đến những thế hệ tương lai” [17, tr.23].

Theo Viện Môi trường Stockholm của Thụy Điển, một thành phố bền

vững có thể được định nghĩa là "Một thành phố tại đó tiền hành các hành

động được đề ra bởi các chính sách kế hoạch nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên

sẵn có và thực hiện tái sử dụng, ổn định xã hội, phát triên các nguồn vốn chủ

sở hữu, đảm bảo phát triển kinh tế cho các thế hệ tương lai" [17, tr.25].

Theo Viện Quy hoạch Đô thị - Nông thôn, Bộ Xây dựng Việt Nam (Dự

án VIE), trên cơ sở các khái niệm về PTBV, phạm trù đô thị hóa theo hướng

PTBV cũng được xây dựng mang tính đặc thù hơn, theo đó đô thị hóa theo

hướng PTBV cần tập trung giải quyết các nội dung sau:

Một là, phát triển kinh tế đô thị ổn định, tạo công ăn việc làm cho dân

cư đô thị, đặc biệt cho người có thu nhập thấp, người nghèo đô thị.

Hai là, đảm bảo đời sống vật chất văn hóa tinh thần, giữ gìn bản sắc

truyền thống dân tộc, đảm bảo công bằng xã hội.

Ba là, tôn tạo, giữ gìn và bảo vệ môi trường đô thị luôn xanh, sạch, đẹp

với đầy đủ ý nghĩa vật thể và phi vật thể đô thị.

Đô thị hóa theo hướng PTBV là một lĩnh vực đặc thù, cần sự phối hợp

phát triển đa ngành, đa cấp và của đại bộ phận dân cư. Đô thị hóa theo hướng

PTBV thể hiện một cách thức suy nghĩ và một hướng giải quyết về đô thị hóa

mà trong đó việc xây dựng các đô thị sẽ được diễn ra trên cơ sở duy trì những

hiểu biết về kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Đô thị hóa theo hướng

23

PTBV là nền tảng vững chắc để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do

đó, có thể hiểu một cách đơn giản đô thị hóa theo hướng PTBV là một cách

sửa chữa những thiếu sót của quá trình đô thị hóa, trên cơ sở xem xét lại toàn

bộ cách thức quy hoạch xây dựng đô thị hiện nay và tìm ra một xu thế phát

triển mới trường tồn trong tương lai.

Từ những luận giải trên có thể quan niệm: Đô thị hóa theo hướng

PTBV là quá trình mở rộng đô thị; biến đổi, phân bố lại các yếu tố của LLSX,

bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu

đô thị; có sự chuyển biến rõ nét trong quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị tạo

tiền đề vững chắc cho phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện

đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số; bảo đảm kết hợp hài

hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.

* Nội dung đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững

Từ những phân tích trên cho thấy, đô thị hóa theo hướng PTBV là quá trình

đô thị hóa trong đó bảo đảm được sự hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế,

xã hội và môi trường. Quá trình này bao gồm các nội dung sau:

Một là, bền vững về kinh tế.

Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về kinh tế phải gắn với quá trình

công nghiệp hóa và chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành

công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy

sản trong thu nhập quốc dân; duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững;

không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống người dân. Trong quá trình phát

triển đô thị cần được tính toán phát triển phù hợp với tiềm năng sẵn có và

triển vọng phát triển kinh tế của địa phương. Cân đối vốn đầu tư theo khả

năng tăng trưởng KT-XH của từng giai đoạn, theo từng nhóm ngành, cũng

như kế hoạch đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững ngắn và dài hạn đã

được quy hoạch. Bên cạnh đó, kinh tế đô thị cần được tính toán sử dụng hiệu

24

quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên: Đất đai, nguồn nước, năng lực và lao

động đô thị.

Huy động và cân đối hợp lý các nguồn tài chính đô thị trên cơ sở tăng

cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị.

Ngoài ra quản lý đô thị hóa theo hướng PTBV còn cần quan tâm điều chỉnh

công tác quản lý hành chính và phân phối vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản

theo định kỳ, hàng năm, 5 năm và dài hạn.

Hai là, bền vững về xã hội.

Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về xã hội bao gồm: Phân bố hợp

lý dân cư, lao động, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho dân cư đô thị; tập trung

xóa đói, giảm nghèo, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng

cao chất lượng giáo dục, chất lượng dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe cho

người dân; tăng cường hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội; xây

dựng, bảo vệ và phát huy những chuẩn mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn

giáo, truyền thống, phong tục, tập quán, bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp;

đảm bảo an ninh, hòa bình, trật tự và ổn định xã hội.

Phải khẳng định rằng, đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ do đất đai bị thu hồi

để chuyển đổi cho mục đích phát triển đô thị quá nhanh trong khi người nông

dân ngoại thành lại chưa thay đổi kịp theo cơ cấu lao động, việc làm mới dẫn

đến tình trạng thất nghiệp và các vấn đề xã hội tăng lên nhanh chóng. Thay

đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống là hệ quả tất yếu của

quá trình đô thị hóa ngoại thành. Đây là vấn đề thuộc ý thức xã hội, cho nên

người nông dân ngoại thành sống trong các phường, các quận mới cũng

không dễ gì từ bỏ những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt phù hợp và

không phù hợp hợp đã được hình thành từ nhiều đời. Mặt khác, ngoại thành

thường là đầu mối giao thông, kho bãi, nơi tiếp nhận và trung chuyển hàng

hóa, dịch vụ ra vào thành phố, nơi tập trung các cơ sở, nhà máy công nghiệp

25

lớn, do đó cũng là địa bàn tập trung số lượng lớn người lao động từ các địa

phương khác kéo về làm ăn, sinh sống... là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã

hội. Vì vậy, vấn đề xã hội là một nội dung quan trọng phải giải quyết trong

quá trình đô thị hóa.

Đô thị bền vững phải có trật tự kỷ cương xã hội, tinh thần thượng tôn

pháp luật được đề cao. Con người sống một cách lành mạnh không chỉ về thể

chất mà còn về tinh thần, mọi công dân được đảm bảo về tính mạng và tự do

hoạt động trong một thành phố thanh bình.

Ba là, bền vững về môi trường.

Nội dung đô thị hóa theo hướng PTBV về môi trường bao gồm: Sử

dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên đất đai; hạn chế phát triển đô thị, công

nghiệp vào khu vực đất nông nghiệp gắn với chiến lược an ninh lương thực;

sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất phát triển đô thị; bảo vệ môi

trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; bảo vệ đa dạng sinh học,

giảm thiểu ô nhiễm không khí, tiếng ồn, đất, nước ở các KĐT, KCN; quản lý

chất thải rắn và chất thải nguy hại; đổi mới phương pháp lập quy hoạch đô thị

theo hướng phát triển đô thị xanh...

Có thể thấy giải quyết vấn đề môi trường có ý nghĩa to lớn với sự phát

triển sản xuất cũng như đời sống của con người. Vì vậy, dù con người lao

động và sinh sống ở nơi nào thì cá nhân hay cộng đồng vẫn phải giải quyết vấn

đề này. Đối với những khu vực đang trong quá trình đô thị hóa lại càng có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Do các đô thị mới đang trong quá trình hình thành,

quy mô dân số, lao động, quy mô sản xuất và cung cấp các dịch vụ của đô thị

tăng nhanh làm cho rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, rác thải xây dựng,

rác thải y tế tăng theo. Với các địa bàn giáp ranh đô thị thường là nơi được lựa

chọn để xây dựng các nhà máy, KCN, KCX vì giá đất thấp mà vẫn được hưởng

các dịnh vụ của đô thị, thuận lợi về giao thông. Hơn nữa, nơi đây đang trong

26

quá hình thành và phát triển các đô thị mới sự quản lý môi trường thường lỏng

lẻo nên dễ dẫn tới hiện tượng ô nhiễm môi trường.

Môi trường đô thị cần quan tâm xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường (gồm

phòng chống ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm chất thải rắn, ô nhiễm

công nghiệp, ô nhiễm tiếng ồn, điện tử, hóa chất độc hại và các chất phóng xạ)

Cải thiện môi trường sinh thái đô thị (gồm xây dựng các tuyến vành đai

xanh đô thị, tăng cường bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, tăng

cường quản lý nguồn nguyên liệu sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng).

Tạo dựng môi trường cảnh quan, môi trường văn hóa, xã hội phù hợp với

sinh thái địa phương và thể hiện rõ tất cả các giá trị vật chất và tinh thần của đô thị.

Đảm bảo đánh giá tác động môi trường cho các dự án quy hoạch cải tạo

và quy hoạch đô thị hóa theo hướng PTBV; đề xuất được các dự báo đô thị hóa

theo hướng PTBV ngắn và dài hạn đúng và đủ đối với điều kiện kinh tế, xã

hội, môi trường của địa phương.

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng phát triển

bền vững

Đô thị hóa theo hướng PTBV chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố,

trong đó bao gồm các yếu tố cơ bản sau:

1.2.1. Điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế

Điều kiện tự nhiên là tổng hợp của tất cả yếu tố vị trí địa lý, tài nguyên

thiên nhiên, khí hậu, sông ngòi, thủy văn, địa chất, địa mạo… có ảnh hưởng

rất lớn đến quá trình đô thị hóa theo hướng PTBV. Thường những nơi có khí

hậu thời tiết tốt, nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi là những nơi thu hút

đông dân cư sinh sống, do đó đô thị hóa sớm, quy mô lớn và tốc độ đô thị hóa

nhanh hơn. Ngược lại, những vùng khác đô thị hóa chậm hơn, quy mô nhỏ hơn.

Phát triển kinh tế trong đó phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ

là yếu tố có tính quyết định đến quá trình đô thị hoá theo hướng PTBV. Trình

độ phát triển kinh tế của một nước được thể hiện trên nhiều phương diện: Quy

27

mô và tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành của nền kinh tế, sự phát triển

các thành phần kinh tế, trình độ hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, trình độ văn hoá

giáo dục của dân cư, mức sống dân cư. Trong một chừng mực nhất định, trình

độ phát triển kinh tế thể hiện lợi thế về vị trí, điều kiện tự nhiên và các vấn đề

xã hội của một quốc gia hay một vùng. Tuy nhiên, khi điều kiện cần cho phát

triển đô thị là phát triển kinh tế đã đạt được thì vấn đề còn lại là chính sách

hay cơ chế cho phát triển đô thị được coi như điều kiện đủ của vấn đề. Nếu

không có chính sách phát triển đô thị đúng, sẽ dẫn đến tình hình bế tắc trong

tương lai.

1.2.2. Chủ trương, chính sách, năng lực quản lý của Nhà nước và

phong tục tập quán của địa phương

Các chủ trương, chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sự

phát triển kinh tế cũng như quá trình đô thị hoá theo hướng PTBV. Chủ

trương, chính sách đô thị hoá, chính sách nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư

nước ngoài là những chính sách lớn của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và

mạnh mẽ đến quá trình đô thị hoá ở nước ta. Từ sau Đại hội Đảng Toàn quốc

lần thứ VII, ngoài các chính sách lớn như phát triển kinh tế nhiều thành phần

và các chính sách mở cửa, Nhà nước đã quan tâm nhiều đến công tác quản lý

và quy hoạch phát triển đô thị. Nhờ đó, các đô thị nước ta đã phát triển

nhanh cả về số lượng và chất lượng, tạo ra thành quả to lớn bằng nhiều thập

kỷ trước đây, đáp ứng được sự phát KT-XH của cả nước, đồng thời trở thành

nhân tố tích cực và quyết định của quá trình đô thị hoá.

Trình độ, năng lực cán bộ quản lý đô thị hay bộ máy quản lý Nhà nước

về đô thị là vấn đề then chốt trong việc tổ chức thực hiện các chính sách đô

thị hoá. Mọi chủ trương chính sách đúng cần có những cán bộ có trình độ tổ

chức thực hiện tốt thì chủ trương chính sách mới trở thành hiện thực.

Phong tục tập quán của địa phương có ảnh hưởng quan trọng đến quá

trình đô thị hoá theo hướng PTBV, trước hết là công tác quản lý đất đai đô

thị, quản lý xã hội, quản lý dân số. Mỗi địa phương có một phong tục tập

28

quán riêng của mình và những nét văn hoá đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn

đề kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường nói chung và kiểu đô thị nói riêng.

Về mặt xã hội, đô thị Việt Nam nói chung và đô thị ở Hà Nội nói riêng

còn mang nhiều màu sắc nông thôn. Người thành thị hôm nay, cách đây

không lâu họ còn là người nông dân, ra thành phố học tập, lao động, họ học

tập và hoà nhập lối sống thành thị nhưng vẫn mang theo những phong tục, tập

quán, thói quen cũ của vùng nông thôn.

Về mặt xây dựng, đô thị Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn

hoá khác nhau biểu hiện qua hình thức xây dựng nhà ở của các giai đoạn lịch

sử. Trên ba miền đất nước, mỗi thành phố đều có những nét độc đáo riêng của

mình. Hà Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh đều có những biểu tượng riêng

mang bản sắc của từng miền và trong đó có cái chung của Việt Nam.

1.2.3. Sự phát triển của khoa học- công nghệ và hội nhập quốc tế

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ

đến phát triển kinh tế nói chung và từng đô thị nói riêng ở các mức độ khác

nhau và tuỳ thuộc vào những lợi thế địa phương, khả năng sinh lợi tiềm ẩn, các

kỹ năng vốn có và sự thích nghi mà mỗi đô thị có thể thu nhận được. Nhân tố

khoa học kỹ thuật bên ngoài có ảnh hưởng tới các thành phố theo hai hướng:

Thứ nhất, có sự cạnh tranh giữa các thành phố khi các công ty đa quốc

gia so sánh giá các yếu tố đầu vào và đánh giá các thuận lợi về luật pháp và

cơ chế chính sách; tính năng động của lực lượng sản xuất và sự ổn định chính

trị. Những thành phố nào đáp ứng các yêu cầu này sẽ phát triển nhanh hơn và

ngược lại.

Thứ hai, sự xuất hiện các ngành công nghiệp dịch vụ điện tử bao gồm

các dịch vụ tài chính và thương mại, thông tin và bưu điện. Các phương tiện

thông tin hiện đại đang mang lại lợi ích to lớn cho các thành phố lớn vì những

thành phố này đã tạo điều kiện để áp dụng công nghệ thông tin hiện đại có

hiệu quả nhất.

29

Sự hội nhập quốc tế một cách toàn diện là yếu tố thúc đẩy quá trình đô

thị hoá nhanh hơn. Nhập khẩu các hình thái kiến trúc, thương mại hoá các quan

hệ, phương pháp quản lý hiện đại, liên doanh trong xây dựng đô thị hoặc các

khu đô thị là một thực tế đã diễn ra khá sinh động ở các nước phát triển như ở

Pháp, Canada. Việt Nam cũng không nằm ngoài thực tế đó. Từ thời Pháp

thuộc, Hà Nội đã có những khu nhà Tây, những năm gần đây xuất hiện làng

của người Nhật, những khu nhà ở của người Hàn Quốc, người Nga, đó thực sự

là những ngoại ứng tích cực trong phát triển đô thị Việt Nam. Quá trình toàn

cầu hóa thông qua giao dịch quốc tế (về hàng hóa, vốn, và lao động) đã hình

thành một nền kinh tế thế giới có tính hội nhập. Sự cạnh tranh giữa các trung

tâm đô thị trong và ngoài nước ngày càng mạnh mẽ. Sự phụ thuộc lẫn nhau

đang hình thành vượt qua các biên giới quốc gia, tạo ra những mối liên hệ chặt

chẽ hơn về hợp tác kinh tế. Tự do hóa thương mại và hội nhập đang tạo ra

những cơ hội và sự biến động mới bên trong các đô thị.

1.3. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững của

một số nước trên thế giới và bài học rút ra cho Hà Nội

1.3.1. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững của

một số nước trên thế giới

Quá trình đô thị hóa theo hướng bền vững ở các nước trên thế giới đều

có xu hướng phát triển bảo đảm hài hòa giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi

trường. Tuy nhiên, ở mỗi nước cũng có những cách làm khác nhau tùy vào

đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội ở từng nước.

* Ở Thụy Điển

Khi tiến hành quy hoạch và xây dựng họ chú trọng gắn kết mối liên hệ

với môi trường, cảnh quan và hệ sinh thái. Cụ thể về gìn giữ môi trường, mặt

nước hồ được quan tâm đặc biệt, tất cả hệ thống nước thải dân dụng, công

nghiệp và nước mặt đều được tập trung vào một nhà máy để xử lý trước khi đổ

vào hồ. Hồ Malaren có một hệ thống đường dạo với chiều rộng từ 10-20 mét

30

bao quanh và một hệ sinh thái rừng ôn đới tự nhiên với thảm thực vật phong

phú. Về quản lý kiến trúc, các công trình xây dựng đều phải thấp dần về phía

bờ hồ để đảm bảo tầm nhìn và mỹ quan. Thành phố Vasteras (Thụy Điển) nằm

bên hồ lớn nhất đất nước, là thành phố chịu ảnh hưởng đặc biệt của phong

cách kiến trúc thế kỷ XIII. Vasteras có rất nhiều công trình cổ mang dấu ấn

của lịch sử phát triển, vì vậy việc bảo tồn luôn luôn được quan tâm để phù

hợp và hài hoà với sự phát triển của kiến trúc hiện đại và cảnh quan kiến trúc

chung gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

* Ở Singapore

Singapore là một quốc gia - đô thị với hệ thống tập trung cao, cả nước

chỉ có một tổ chức chịu trách nhiệm về xét duyệt quy hoạch và đầu tư - Cơ

quan tái phát triển đô thị. Tính tập trung, công khai và mục đích quy hoạch

cùng với công tác quy hoạch kiểm soát và quản lý theo quy hoạch rõ ràng nên

quản lý quy hoạch kiến trúc ở Singapore hoạt động rất có hiệu quả. Từ cuối

những năm 1980, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá đô thị mới được đặc biệt chú

ý. Nguyên tắc phổ biến về bảo tồn di sản kiến trúc đô thị ở Singapore chủ yếu

là xây dựng mới theo hình thức cũ và bổ sung các chức năng mới theo hướng

hiện đại. Việc bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống, giữ gìn cảnh quan

tập trung vào các vấn đề: Lối sống, nghề truyền thống, hình thức kiến trúc nhà

ở và các di sản văn hoá có giá trị (đền, chùa, thành quách, dinh, thự…). Khai

thác các giá trị văn hoá truyền thống tạo được thế mạnh trong lĩnh vực du lịch

và dịch vụ du lịch, đây là quan điểm bảo tồn các quần cư truyền thống khá

triệt để, có chọn lọc, mang ý nghĩa giáo dục.

Tại Singapore, chất thải được phân loại và thu gom bằng túi nylon từ nơi

phát sinh, sau đó xử lý bằng phương pháp đốt tại 5 nhà máy công suất 9.000

m3/ngày, với công nghệ hiện đại đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, nhiệt

lượng thu từ các lò đốt được dùng để phát điện. Các chất tái chế được như giấy,

chai lọ, dầu thải công nghiệp được xử lý, sử dụng lại. Việc thu gom chất thải do

các công ty tư nhân đảm nhiệm, lệ phí thu gom cho mỗi hộ gia đình một tháng

31

có thời điểm là 6 đôla Mỹ, với căn hộ có sân vườn là 11 đôla Mỹ. Hiện nay các

công ty thu gom chất thải đang chuyển sang hình thức cổ phần hoá. Nhà nước

hỗ trợ tiền xây dựng nhà máy xử lý chất thải, Bộ Môi trường giám sát chặt chẽ

việc quản lý chất thải trên phạm vi toàn quốc. Tại Singapore, hàng loạt khu ở

được xây dựng rất đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật,

từ mạng lưới giao thông đến cấp nước, thoát nước thải, cấp điện, thông tin liên

lạc, cây xanh và vệ sinh môi trường từ những năm 1980. Nhiều khu ở của

Singapore đã trở thành mẫu mực cho các đô thị về cơ sở hạ tầng kỹ thuật.

Nhiều hệ thống được xây dựng trước theo định hướng phát triển đáp ứng nhu

cầu của tương lai.

Chính sách của Chính phủ Singapore cung cấp nhà ở cho mọi gia đình,

tạo điều kiện cho họ làm chủ sở hữu căn nhà đó. Chính phủ thực hiện mục tiêu

này thông qua Cơ quan phát triển nhà ở. Hoạt động của cơ quan này bao gồm

quy hoạch phát triển đô thị mới, nâng cấp nhà cũ, khuyến khích sở hữu nhà ở

của dân, nâng cao trách nhiệm cuộc sống cộng đồng, cung cấp nhà ở chất

lượng cao và các tiện nghi công cộng liên quan, đề ra các tiêu chuẩn về xây

dựng và quản lý địa ốc. Cơ quan này được vay tiền Chính phủ để phát triển nhà

ở và cho dân vay lại để mua nhà trả góp. Chìa khoá để giải quyết vấn đề này là

"quỹ tiết kiệm Trung ương".

Theo luật pháp Singapore tất cả các công dân làm việc phải trích vào

quỹ này 20% lương của mình, các nhà doanh nghiệp, các chủ kinh doanh hàng

tháng cũng phải nộp vào quỹ một số tiền nhất định. Do vậy số tiền trong quỹ

rất lớn, bằng 40% quỹ lương cả nước. Phần tiền lương trích vào quỹ không bị

đánh thuế thu nhập, nó vẫn thuộc sở hữu người gửi và xem như tiết kiệm hàng

năm được cộng vào lãi theo quy định và chỉ được rút ra khi về hưu hoặc có

khoản chi cần thiết như mua nhà hay chữa bệnh. Quỹ này hỗ trợ cho dân có

tiền gửi tiết kiệm để mua nhà, tiền trả góp hàng tháng cho Nhà nước.

* Ở Malaysia

Tại Kuala Lumpur thì quy trình lập, xét duyệt và xây dựng các quy định

kiểm soát phát triển đô thị không khác nhiều so với những nước khác. Điểm

32

khác chủ yếu là ở hệ thống xét duyệt đầu tư xây dựng, ở Kuala Lumpur là hệ

thống các Ban hoặc Uỷ ban trên cơ sở phân cấp, phân quyền quản lý. Hệ thống

các Ban này làm việc theo nguyên tắc phối hợp tập thể trước khi ra quyết định

đầu tư phát triển đô thị. Mô hình quản lý Kuala Lumpur thể hiện tính dân chủ

trong các quyết định. Mô hình này chỉ thực sự hoạt động có hiệu quả khi các

thành viên trong hội đồng làm việc công tâm và trên những nguyên tắc, quy

định chặt chẽ. Trong lĩnh vực phát triển đô thị, thành công cần được nhấn mạnh

trong trường hợp Kuala Lumpur là vấn đề bảo tồn và phát triển làng trong đô

thị với cấu trúc đô thị hiện đại.

* Ở Trung Quốc

Mô hình quản lý đất đô thị được xây dựng bằng việc thành lập một cơ quan

hành chính đặc biệt, do một tổ chức thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng quản lý

nhà nước toàn diện. Tổ chức này có thể do Chính phủ thành lập, cũng có thể

là một cơ quan liên chính phủ hay là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động

theo một cơ chế đặc biệt, theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính và

thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư xây dựng nhà ở có thể do doanh

nghiệp trong nước hoặc phối hợp với các doanh nghiệp nước ngoài. Đất đai ở

Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng được điều

tiết bằng Luật.

Tại Trung Quốc, hầu hết nhà ở được xây dựng dưới dạng chung cư cao

từ 4 tầng đến 30 tầng. Xây dựng nhà ở tại Trung Quốc phát triển nhanh chóng

do nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và nhu cầu về nhà ở của nhân dân tăng cao.

Cùng với chủ trương phát triển, Trung quốc thực hiện ba phương thức cung

cấp nhà ở: Nhà ở có tiêu chuẩn cao và khá cao được xây dựng phục vụ mục

đích kinh doanh, bán cho các đối tượng có thu nhập cao; Nhà ở thích hợp xây

dựng phù hợp với điều kiện kinh tế của các gia đình có thu nhập vừa và thấp;

Nhà cho thuê với giá rẻ, xây dựng phục vụ cho các đối tượng nghèo với mức

tiêu chuẩn khá thấp do Nhà nước quản lý. Ngoài ra, Nhà nước còn mở rộng,

phát triển và cải thiện công tác lưu thông tiền vốn nhà ở, kéo dài thời hạn cho

vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân vay vốn mua nhà ở, đồng thời

33

quản lý tốt giá cả, thúc đẩy, cải cách giá cho thuê nhà.

* Ở Philippines

Hoạt động quản lý đô thị dựa vào các điều khoản của Hiến pháp và

Pháp luật, đề cập tới sự phân loại, chuyển nhượng, chuyển dịch và phát triển

tài nguyên đất đai. Đất đai được xem như một bất động sản đặt dưới sự kiểm

soát của Nhà nước, không được phép chuyển dịch hay chuyển nhượng từ đời

này sang đời khác. Sự chia nhỏ quyền sở hữu đất dựa trên Sắc lệnh về bảo

đảm bất động sản và Sắc lệnh bảo vệ người mua. Chính quyền địa phương

bảo đảm sở hữu đất được cấp cho Chính phủ hay các cá nhân. Việc chuyển

đổi đất đai từ đất nông nghiệp sang các chức năng khác phải thực hiện theo

sắc lệnh, giới hạn trong phạm vi từ 5% - 15% của vùng đất nông nghiệp.

Những nơi đất đai không còn giá trị kinh tế cho mục đích nông nghiệp và

những nơi đất đai có thể có giá trị kinh tế lớn cho mục đích ở, kinh doanh hay

công nghiệp được quyết định bởi Hội đồng luật pháp địa phương. Đất chuyển

dịch là những vùng đất xấu, đất thu góp hay đất hợp tác xã, quỹ đất quyên góp

cho Chính phủ. Mức độ giá trị của đất được xác định bằng việc phân loại đất,

giá thị trường và thuế. Giải pháp hành chính của việc công nhận quyền sở hữu

thông qua việc quyết định cấp giấy đăng ký tự do.

* Ở Nhật Bản

Hệ thống cung cấp và quản lý nhà ở của Nhà nước thực hiện thông qua

Tổng Công ty tài chính nhà ở Chính phủ, thực hiện cung cấp vốn vay dài hạn với

lãi suất thấp cho những người sắp xây dựng nhà hoặc mua nhà. Cơ quan quản lý

nhà công cộng giúp chính quyền các địa phương cung cấp nhà cho thuê với giá

thấp được trung ương bao cấp một phần. Tổng Công ty phát triển nhà và đô thị

thực hiện khắc phục tình trạng thiếu nhà ở tại các trung tâm đồng thời xúc tiến

quá trình đổi mới đô thị nhằm tạo ra môi trường đô thị tốt với hình thức đa dạng.

Nhà nước Nhật Bản chủ trương đẩy mạnh xây dựng nhà ở nhiều loại hình với sự

phối hợp giữa chính quyền trung ương, địa phương và cộng đồng dân cư trên cơ

sở những chương trình dài hạn và toàn diện, tạo cơ hội cho mọi người lựa chọn

nhà ở phù hợp với tình trạng và khả năng của mình, như: các khu ở có chất

34

lượng tốt hoặc quy mô lớn, có công năng sử dụng hợp lý, có môi trường sống

theo tiêu chí PTBV; nhà ở cho thuê giá rẻ, nhà ở cho người ở xa gia đình, người

già yếu, người khuyết tật.

* Ở Indonesia

Do nguồn lực hạn chế của chính quyền trong các dự án nâng cấp, cải

tạo hạ tầng kỹ thuật, sự đóng góp của cộng đồng là yếu tố quan trọng để dự án

đạt tính bền vững. Trung bình với mỗi dự án, Nhà nước đầu tư một triệu rupi

cho các chi phí trực tiếp, thì cộng đồng đóng góp 50.000 rupi (5%). Nếu kể cả

những đóng góp của cá nhân và cộng đồng qua việc trồng và chăm sóc cây

xanh, cấp điện chiếu sáng, xây dựng, thu gom rác, thì đóng góp từ phía cộng

đồng còn lớn hơn nhiều.

Ở các thành phố lớn như Jakarta hay Surabaya, các dự án cải tạo, nâng

cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật cho các Kampung đã thành

công với sự đóng góp của chính cộng đồng dân cư ở đó. Chương trình cải tạo

Kampung được hình thành bắt đầu vào 1969 tại thành phố Surabaya, thành phố

lớn thứ hai của Indonesia, bao gồm nâng cấp đường phố, các hẻm nhỏ, hệ

thống cấp thoát nước, các điều kiện vệ sinh và quản lý rác thải…, có sự phối

hợp giữa cộng đồng dân cư và chính quyền, qua ba phương thức: Các dự án do

người dân tự đóng góp thực hiện; các dự án có sự hỗ trợ một phần của chính

quyền; các dự án được chính quyền địa phương và Trung ương tài trợ cùng

khoản viện trợ của Ngân hàng Thế giới.

Các chương trình ở Surabaya thể hiện mạnh mẽ sự hợp tác giữa chính

quyền và các cộng đồng dân cư. Qua việc xác định nhu cầu và có sự tham gia của

cộng đồng vào các dự án nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, làm cho người dân cảm thấy

đây là chương trình của họ, vì vậy họ có thể bảo đảm được việc thành công của dự

án, tham gia duy tu bảo dưỡng các cơ sở hạ tầng sau khi được xây dựng.

1.3.2. Những bài học rút ra cho Hà Nội

Từ kinh nghiệm của một số nước được đề cập ở trên, có thể rút ra cho

Hà Nội một số bài học kinh nghiệm trong quá trình đô thị hóa trong đó có đô

thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV như sau:

35

Một là, coi trọng việc quy hoạch kiến trúc đô thị trong quá trình đô thị

hóa theo hướng phát triển bền vững.

Kinh nghiệm của một số nước cho thấy trong quá trình đô thị hóa họ đã

coi trọng việc quy hoạch kiến trúc đô thị theo hướng PTBV. Như ở Thụy

Điển khi phát triển đô thị họ đã gắn việc quy hoạch kiến trúc với bảo vệ môi

trường, cảnh quan, hệ sinh thái, phát triển hài hòa giữa kiến trúc hiện đại và

kiến trúc truyền thống. Ở Singapore họ thành lập một tổ chức chịu trách

nhiệm xét duyệt quy hoạch và đầu tư phát triển đô thị. Trong quá trình đô thị

hóa họ thực hiện theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ phát triển đô thị hiện đại

với bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống, khai thác các giá trị văn hóa

truyền thống tạo ra thế mạnh trong lĩnh vực dịch vụ và du lịch, bảo tồn các

quần cư truyền thống một cách triệt để, có chọn lọc, mang ý nghĩa giáo dục

cao. Ở Malaysia trong quá trình phát triển đô thị được thực hiện theo một quy

trình xét duyệt kiểm soát hết sức chặt chẽ theo đúng quy hoạch, trong phát

triển đô thị họ đã nhấn mạnh vấn đề bảo tồn và phát triển làng trong đô thị với

cấu trúc đô thị hiện đại.

Hai là, thực hiện tốt vấn đề quản lý đất đai xây dựng trong đô thị hóa

theo hướng phát triển bền vững.

Trong quá trình đô thị hóa vấn đề quản lý đất đai được các nước hết

sức quan tâm. Ở Trung Quốc họ thành lập ra một cơ quan đặc biệt thực hiện

chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Đất đai thuộc sỡ hữu Nhà

nước, đền bù giải phóng mặt bằng được điều tiết bằng luật. Ở Pháp chính

phủ chủ động mua đất trước để tránh tình trạng khan hiếm đất và những khó

khăn phát sinh trong quá trình đô thị hóa. Đồng thời chủ động mua bất động

sản của những người có nhu cầu bán làm quỹ dự trữ chủ động cho thực hiện

quy hoạch đô thị. Ở Philippines đất đai được xem như một bất động sản đặt

dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Đất chuyển dịch phải là những vùng đất

xấu, đất thu góp, đất không còn giá trị kinh tế cho mục đích nông nghiệp.

Việc chuyển đổi đất đai từ nông nghiệp sang lĩnh vực khác giới hạn trong

phạm vi từ 5%-15% của đất nông nghiệp.

36

Ba là, đầu tư phát triển hệ thống giao thông đô thị một cách hợp lý và

phát triển đô thị phải huy động được sự tham gia của cộng đồng.

Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quá trình đô thị hóa đã

chú trọng việc phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển khu dân cư đô thị

gắn với hệ thống giao thông công cộng, đặc biệt là ở những nơi tập trung

đông dân cư. Phát triển mạng lưới giao thông thống nhất, chú trọng phát triển

hệ thống giao thông công cộng có chất lượng tốt nhằm tối ưu hóa nhu cầu đi

lại bằng một hệ thống giao thông đầy đủ, liên thông hợp lý, hiệu quả.

Ở Indonesia trong các dự án nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới hạ tầng kỹ

thuật khu vực đô thị hóa đều có sự đóng góp của cá nhân và cộng đồng tham

gia như: Trồng và chăm sóc cây xanh, cấp điện chiếu sáng, xây dựng hệ thống

cấp thoát nước, thu gom rác thải. Qua đó đã làm cho mọi người dân vừa có

trách nhiệm tham gia vừa có trách nhiệm giám sát thực hiện một cách có hiệu

quả các dự án...

Bốn là, đảm bảo chính sách nhà ở cho người dân trong quá trình đô thị

hóa và bảo vệ tốt môi trường đô thị.

Quá trình đô thị hóa của các nước trên thế giới cho thấy vấn đề đảm

bảo chính sách nhà ở và bảo vệ tốt môi trường đô thị luôn được các quốc gia

chú trọng. Ở Trung Quốc trong quá trình đô thị hóa đã thực hiện đa dạng hóa

các phương thức cung cấp nhà để đáp ứng cho tất cả các đối tượng đều có

nhà ở. Mở rộng các hình thức phát triển và cải thiện công tác lưu thông tiền

vốn nhà ở, kéo dài thời hạn cho vay vốn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

vay vốn mua nhà hoặc thuê nhà ở. Nhật Bản thực hiện chính sách cung cấp

vốn vay dài hạn với lãi xuất thấp cho những người sắp xây nhà, mua nhà hoặc

cho thuê giá thấp Nhà nước bao cấp một phần. Xây dựng nhà ở với nhiều loại

hình tạo cơ hội cho mọi người lựa chọn nhà ở phù hợp với khả năng của

mình. Ở Singapore quy định mọi công dân làm việc phải trích 20% lương của

mình nộp vào quỹ xem như tiết kiệm hàng năm được cộng lãi theo quy định

và chỉ được rút ra khi về hưu hoặc mua nhà hay chữa bệnh.

Trong quá trình đô thị hóa các nước đều quan tâm đến vấn đề bảo vệ

37

môi trường đô thị. Ở Singapore đã hình thành các công ty tư nhân đảm nhiệm

thu gom chất thải và xử lý chất thải bằng công nghệ hiện đại bảo đảm các tiêu

chuẩn về môi trường, các chất tái chế được xử lý và sử dụng lại. Ở Hà Lan đã

hình thành các khu liên hiệp xử lý rác thải, các chất thải qua xử lý với những

quy trình đặc biệt đã tạo ra những sản phẩm có giá trị như phân bón, các loại

nguyên vật liệu mới... Với cách làm như vậy ở Hà Lan đã xuất hiện một

ngành kinh tế mới mang tính kinh doanh và hiệu quả kinh tế cao. Ở Indonesia

đã hình thành hai lực lượng thu gom rác. Mỗi cộng đồng dân cư tự tổ chức

dịch vụ thu gom rác trong phạm vi của mình và do cộng đồng dân cư đó trả

lương. Công nhân vệ sinh do Nhà nước tổ chức thì do chính quyền trả lương.

*

* *

Đô thị hóa là kết quả tất yếu của sự phát triển KT-XH, nó diễn ra cùng

với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình đô thị hóa

diễn ra từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Trên phương diện kinh tế,

đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp,

thương mại và dịch vụ, bố trí sắp xếp lại các yếu tố sản xuất, tập trung hóa

sản xuất, hình thành những ngành nghề mới, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả

sản xuất. Trên phương diện xã hội, đó là quá trình hình thành một xã hội mới

với đời sống văn hóa mới, lối sống mới (văn hóa, lối sống đô thị).

Đô thị hóa theo hướng PTBV là điều hết sức cần thiết trong quá trình

xây dựng, cải tạo và phát triển đô thị. Đã từ lâu, các nước trên thế giới đều

hướng tới việc tìm cách khai thác triệt để các nguồn lực, lợi thế khác nhau

nhằm phát triển đô thị hài hòa, bền vững. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của

mỗi nước, tầm nhìn của các nhà lãnh đạo, năng lực hiểu biết của giới chuyên

môn và nhà đầu tư mà quy mô và xu hướng phát triển đô thị bền vững của các

nước có trình độ và chất lượng khác nhau. Đô thị hóa theo hướng PTBV đòi

hỏi phải bảo đảm bảo hài hòa với sự phát triển các ngành trong nền kinh tế,

38

giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường.

Từ kinh nghiệm của một số nước trong quá trình đô thị hóa rút ra một

số gợi ý cho chúng ta cần coi trọng công tác xây dựng và thực hiện quy

hoạch; công tác quản lý đất đai; công tác phát triển giao thông đô thị; bảo

đảm tốt vấn đề môi trường; bảo đảm nhà ở cho người dân… trong quá trình

đô thị hóa theo hướng PTBV.

39

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI

THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

2.1. Tổng quan về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội

Ngoại thành Hà Nội hiện nay gồm 17 huyện và 01 thị xã, chiếm 87,38%

diện tích tự nhiên Hà Nội (2.922,68 km2 /3.344,7 km2), 54,54% dân số Hà Nội

(3.518.880 người/6.451.909 người) [5].

Những năm trước thời kỳ đổi mới (1986), do nền kinh tế nông nghiệp

lạc hậu bị kéo dài, nặng tính bao cấp cùng với chiến tranh nên tốc độ đô thị

hóa diễn ra chậm. Không gian đô thị Hà Nội luôn có sự đan xen và phát triển

giữa đô thị và nông thôn. Do vậy, đặc điểm và lối sống của người Hà Nội là

thích ở gần nơi làm việc, các khu công nghiệp thường ở gần nhà dân, nhà dân

thường ở mặt đường. Đồng thời tạo ra tính bảo thủ trong nhận thức của người

dân, giữa đô thị- nông thôn không phân biệt rõ ràng, lối sống nông thôn còn

ngập tràn trong đô thị. Tốc độ đô thị hóa diễn ra chậm ở nội thành, hàng chục

năm trôi qua mà đô thị không mấy thay đổi.

Cùng với tốc độ đô thị hóa của cả nước, quá trình đô thị hóa ở Hà Nội

diện ra nhanh và mạnh từ những năm 1990 nhờ những chuyển biến trong thời

kỳ đổi mới, đô thị hóa gắn liền với công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Cơ

chế kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, theo

định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với sự đổi mới về quan hệ quốc tế mở rộng

đa phương. Tính năng động của các chủ thể cá nhân và tổ chức được đề cao.

Sự biến đổi này kéo theo sự tăng tốc phát triển KT-XH và đô thị hóa của Hà

Nội. Đô thị hóa nối liền thành thị với vùng nông thôn bao quanh, đầu tiên là

dọc theo các quốc lộ 1A, 5, 11, 3, 2, 6 (với các thị trấn Đông Anh, Yên Viên,

Cầu Giấy, Văn Điển…). Đó là một quá trình thực sự mang tính tích cực - kết

quả của nó là sự lan truyền của “lối sống thành thị”. Một trong những đặc

trưng của Hà Nội trong quá trình đô thị hóa là sự mở rộng có sự tồn tại đan

40

xen của các làng xã đô thị hóa, có hàng chục các làng xã đô thị hóa nằm rải

rác, xen kẽ trong đô thị không những ảnh hưởng tới hình thái phát triển, mở

rộng đô thị mà còn chứa đựng tất cả các vấn đề tiêu biểu nhất trong quá trình

đô thị hóa của thành phố Hà Nội hiện nay.

Từ cuối thập nên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực

ngoại thành Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở

khu vực nội đô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những

huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được

quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên tắc nghẽn; nhiều khu phố

chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn; mật độ dân số quá cao khiến dân

cư nội thành phải sống trong tình trạng chật hẹp, thiếu tiện nghi. Tuy nhiên,

đây cũng là giai đoạn đô thị hóa mạnh của Thủ đô với nhiều dự án xây dựng

mới, nhà chung cư mọc lên nhanh chóng, bình quân mỗi năm Hà Nội xây dựng

mới thêm khoảng trên 500.000 m2 nhà ở.

Bên cạch đó, từ năm 1991, thực hiện đường lối phát triển kinh tế của

Đảng, nhận thức được vai trò quan trọng của KCN đối với việc đẩy nhanh tiến

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội đã sớm xây dựng các

KCN theo mô hình mới và đã thu được những kết quả nhất định. Sự hình thành

các KCN ở Hà Nội không chỉ thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư

trực tiếp nước ngoài; tiếp cận công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến; chuyển

dịch cấu kinh tế, tạo việc làm và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội

nhập kinh tế quốc tê; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ trọng GDP trong

công nghiệp…

Từ năm 2000 trở lại đây, thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển Thủ

đô đến năm 2020, Chính phủ và thành phố Hà Nội rất quan tâm đến quy

hoạch cải tạo, xây dựng Thủ đô và đã thu được nhiều chuyển biến đáng kể.

Các dự án khu đô thị mới ở khu vực ngoại thành được hình thành và phát

triển với tốc độ nhanh, đặc biệt ở Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm. Các khu đô

41

thị mới được xây dựng với tỷ lệ nhà thấp tầng là 40%, còn nhà ở cao tầng là

60%. Có 5 dự án có diện tích từ 50 - 400 ha, 12 dự án có diện tích trên 20 ha.

Đây cũng là thời kỳ xuất hiện một số nhà ở cao tầng được xem là hiện đại.

Trong 10 năm gần đây, nhà ở cao tầng được xây dựng ồ ạt, nhiều tầng

hơn, tạo ra một bộ mặt đô thị khang trang hơn, hình thành lối sống đô thị

phong phú, đa dạng và có cá tính hơn tại khu vực ngoại thành Hà Nội. Các

khu đô thị mới vẫn tiếp tục được xây dựng với số lượng lớn, đặc biệt là sau

khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô năm 2008, các huyện có tốc độ đô thị

hóa nhanh phải kể đến Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Hoài Đức, Quốc Oai,

Đan Phượng...

Sau khi mở rộng địa giới hành chính (tháng 8/2008), Hà Nội là một

trong 20 thủ đô có diện tích tự nhiên lớn nhất trên thế giới, với tổng diện tích

là 3.344,7 km², vấn đề tìm quỹ đất cho đầu tư xây dựng đã không còn khó như

trước đây. Theo Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm

2030 và tầm nhìn 2050, Thủ đô Hà Nội sẽ gồm trung tâm hạt nhân, 5 đô thị

vệ tinh và một số đô thị sinh thái, thị trấn hiện hữu khác. Đô thị trung tâm hạt

nhân được giới hạn từ đô thị lõi cũ kéo về phía Tây đến tuyến đường vành đai

4, kéo về phía Bắc và Đông Bắc sông Hồng gồm khu vực Mê Linh, Đông

Anh, Gia Lâm và Long Biên. 5 đô thị vệ tinh được xác định gồm có: Hòa Lạc,

Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên - Phú Minh và đô thị Sóc Sơn. Theo Đồ án

quy hoạch này, khu vực ngoại thành phía Tây Thành phố đã có những bước

phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Xu hướng phát triển các khu đô thị

mới ở các huyện ngoại thành phía Tây như Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất,

Chương Mỹ, Thị Xã Sơn Tây… là điều tất yếu. Quá trình đô thị hóa tại các

huyện ngoại thành đang diễn ra mạnh mẽ với sự hình thành các dự án khu dân

cư. Tính tới ngày 31/12/2011, diện tích đất cần phải thu hồi phục vụ cho các

dự án tại các huyện ngoại thành Hà Nội là 11,543.04ha (chiếm 85,85% tổng

diện tích đất phải thu hồi trên địa bàn Thành phố), trong đó chủ yếu là đất

nông nghiệp: 11,424.41 ha (chiếm 98,97% diện tích đất phải thu hồi tại các

huyện ngoại thành Hà Nội).

42

Ngoại thành Hà Nội là một trong những khu vực ngoại thành có tốc độ

đô thị hóa đạt cao nhất trong cả nước. Tính đến năm 2010, tỷ lệ đô thị hóa đạt

ở ngoại thành Hà Nội là 30 - 32%. Quá trình đô thị hóa của ngoại thành Hà

Nội đã phát triển mạnh theo chiều rộng và có sức lan tỏa mạnh. Các điểm dân

cư ven đô, những khu vực có khả năng tạo động lực phát triển đô thị, những

quỹ đất thuận lợi để tạo thị thì tốc độ đô thị hóa ngày càng được mở rộng. Chỉ

tính riêng KCN, đến hết năm 2009, trên địa bàn ngoại thành Hà Nội đã có 17

KCN tập trung được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập và phê duyệt

danh mục quy hoạch với tổng diện tích gấn 3500 ha (quy mô bình quân 206

ha/KCN) là các KCN: Bắc Thăng Long, Nội Bài, Nam Thăng Long, Hà Nội –

Đại Từ, Sài Đồng B, Đông Anh, Sóc Sơn, Khu công nghệ cao sinh học Từ

Liêm, Khu công viên công nghệ thông tin Hà Nội, Quang Minh I, Quang

Minh II, Nam Phú Cát, Thạch Thất, Quốc Oai, Phú Nghĩa, Bắc Thường Tín,

Phụng Hiệp, Kim Hoa và 01 Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Ngoài ra trên địa

bàn Hà Nội còn có 49 cụm công nghiệp với tổng diện tích 3707 ha, 177 điểm

công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.330 ha [55]. Tuy nhiên việc đô thị

hóa nhanh diễn ra trong thời gian ngắn cần phải được đánh giá khách quan

những mặt được và không được, nhất là dưới góc độ tính bền vững của nó.

2.2. Những thành tựu đạt được trong quá trình đô thị hóa ngoại

thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững và nguyên nhân

2.2.1. Về kinh tế

Với xu hướng đô thị hóa mạnh mẽ trong thời gian qua, kinh tế của khu

vực ngoại thành Hà Nội có bước phát triển đáng khích lệ.

* Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngoại thành Hà Nội tương

đối cao. Năm 2010, tốc độ tăng đạt 8,5%, đưa tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thời kỳ 2006-2010 đạt 9,85% (cả nước 6,96%) [50]..Đến năm 2012 tốc

độ tăng trưởng kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đạt 8,1% (trong khi mức

bình quân cả nước là 5,2%) [52]. Rõ ràng, trong mọi điều kiện, dù thuận lợi

hay khó khăn, khu vực ngoại thành Hà Nội vẫn duy trì được tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao, gấp từ 1,26 - 1,43 lần so với cả nước.

43

* Thứ hai, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Cơ

cấu kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ lệ

công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là, nhiều khu-cụm công nghiệp, điểm công

nghiệp làng nghề ra đời trong khu vực ngoại thành Hà Nội, trở thành trụ cột

của sự phát triển kinh tế Thành phố. Năm 2009, các khu-cụm công nghiệp

khu vực ngoại thành Hà Nội tạo ra tổng giá trị sản xuất 35.000 tỉ đồng (chiếm

trên 60% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của cả Thành phố Hà Nội);

còn các cụm công nghiệp làng nghề khu vực ngoại thành cũng tạo ra khoảng

3.000 tỉ đồng/2008 (chiếm 10% tổng giá trị sản xuất toàn ngành) [49]. Sự phát

triển của các khu-cụm công nghiệp không chỉ góp phần nâng cao tỷ trọng giá

trị công nghiệp trong GDP mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho một bộ phận

lao động ở khu vực ngoại thành của Thành phố Hà Nội.

* Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng đã được cải tạo và nâng cấp.

Trong 5 năm (2009 - 2013) kết cấu hạ tầng kỹ thuật của khu vực ngoại

thành Hà Nội đã có bước nhảy vọt về chất. Đường xá khang trang hơn, nhiều

tuyến mới được mở, tuyến cũ được nâng cấp. Hệ thống cấp thoát nước được

hiện đại hóa, hạn chế cảnh úng ngập cục bộ sau mỗi trận mưa. Điện, nước

sinh hoạt đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Cơ sở hạ tầng giao thông đô thị

Đến năm 2013, tổng diện tích đất dành cho giao thông của ngoại thành

Hà Nội đạt khoảng 110 km2, diện tích đường bộ của Hà Nội với chiều dài gần

400 km đường. Các tuyến đường chính trong các huyện ngoại thành đã được

nâng cấp, hiện đại hoá, bổ sung hệ thống đèn điều khiển. Đường bộ Hà Nội

phát triển đa dạng rất thuận lợi cho việc giao lưu giữa thành phố và bên ngoài:

Quốc lộ 1 từ phía Nam; quốc lộ 6, quốc lộ 32 từ phía Tây- Bắc; quốc lộ 5 từ

phía Đông, đường từ sân bay Nội Bài vào Hà Nội phía Bắc, đường Láng- Hòa

Lạc, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy... Tất cả các huyết mạch chính đã được

nâng cấp hiện đại [52].

44

Cơ sở hạ tầng cấp nước

Khu vực ngoại thành số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt

hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ 42,4% và số dân sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn

09 là 68,62%. Những số liệu tổng quát về cơ sở hạ tầng cho cấp nước sạch

trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2012 cho thấy Hà Nội đã xây dựng thêm 8

nhà máy, 1 trạm tăng áp, và khoảng 63 km đường ống và tuyến phân phối. Hệ

thống đường ống dẫn nước, tuyến ống phân phối tăng thêm khá nhiều sẽ là

điều kiện để nâng cao khả năng cung cấp nước đồng đều cho các khu vực

ngoại thành của Thành phố [52].

Trong 05 năm (từ 2013 - 2017), Hà Nội sẽ có 60.000 hộ dân ngoại

thành được sử dụng nước hợp vệ sinh theo Chương trình mục tiêu Quốc gia

Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Mục tiêu của chương trình là

cung cấp nguồn nước sạch bền vững cho 60.000 hộ dân nông thôn tại các xã

ngoại thành Hà Nội, cải thiện điều kiện sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh. Ngoài

ra, chương trình giúp đào tạo và xây dựng năng lực cho ngành cấp nước và vệ

sinh nông thôn, năng lực giám sát, đánh giá, quản lý chất lượng nước, lập kế

hoạch và tăng tính bền vững của các công trình cấp nước.

Năm 2014, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt năm dự án cấp nước

sạch liên xã tại Cổ Đô-Phong Vân (huyện Ba Vì), Thanh Lâm, Đại Thịnh, Tam

Đồng (huyện Mê Linh), Hiệp Thuận-Liên Hiệp (huyện Phúc Thọ), Tam Hưng-

Thanh Thùy (huyện Thanh Oai), Liên Phương-Hồng Vân-Thư Phú-Hà Hồi-Vân

Tảo (huyện Thường Tín). Các dự án này thực hiện từ nguồn vốn vay do Ngân

hàng Thế giới tài trợ và sẽ cấp nước cho trên 110.000 người dân và được thực

hiện trong hai năm (2014-2015), khi hoàn thành sẽ góp phần cải thiện điều kiện

sinh hoạt của người dân, thúc đẩy phát triển KT-XH các xã khu vực ngoại thành

trong khu vực dự án; tạo mô hình cung cấp nước sạch bền vững. Dự án còn tạo

thói quen dùng nước sạch hợp vệ sinh cho người dân, từ đó nâng cao ý thức bảo

vệ nguồn nước, cải tạo môi trường. Ngoài ra, Hà Nội hỗ trợ các thiết bị xử lý

nước quy mô gia đình với tổng kinh phí gần 184 tỷ đồng cho các hộ dân trên địa

45

bàn 16 huyện ngoại thành, khu vực đang bị ô nhiễm nguồn nước nhưng chưa có

kế hoạch xây dựng các trạm cấp nước sạch tập trung.

Cơ sở hạ tầng cung cấp điện và chiếu sáng đô thị

Cùng với quá trình đô thị hóa, thực hiện đề án điện nông thôn, nhiều

trạm biến áp, đường dây đã được cải tạo, nâng cấp. hệ thống điện nông thôn về

cơ bản đã đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành điện. Tổng công ty Điện

lực Hà Nội đã đầu tư, thay thế gần 441.000 công tơ không đảm bảo vận hành

theo quy định, xây dựng 106 đường dây hạ thế mới, cải tạo các đoạn đường

dây cũ nát bị quá tải, xây dựng 306 trạm biến áp với tổng công suất

83.320KVA, tổng số vốn đầu tư khoảng 400 tỷ đồng. Đến nay, 100% số xã đã

được sử dụng điện lưới quốc gia, trên 98% số hộ được sử dụng điện thắp sáng.

Có thể đánh giá mạng lưới điện Hà Nội đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về

cả công suất và sản lượng điện trên địa bàn ngoại thành Hà Nội [55].

* Thứ tư, thu nhập và đời sống của người dân khu vực ngoại thành

được cải thiện đáng kể.

Theo số liệu thống kê cho thấy, năm 2010 thu nhập bình quân đầu

người ngoại thành Hà Nội lên đến 35 triệu đồng, tăng 10% - 13% so với năm

2009. Tính chung sau 5 năm từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính

(2008-2013), mức thu nhập bình quân đầu người tại khu vực ngoại thành Hà

Nội đã tăng lên 32% [20].

Thu nhập tăng lên đã làm giảm tỷ lệ hộ nghèo khu vực ngoại thành Hà

Nội từ 3% năm 2006 xuống 2,4% năm 2008 (cả nước giảm tương ứng là

15,47% và 13,4%). Từ năm 2009, Hà Nội áp dụng chuẩn nghèo riêng (cao hơn

2 lần chuẩn quốc gia) nên tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới là 6,09%, nhưng năm

2015 ước tính sẽ giảm xuống còn khoảng 3,4% [20].

2.2.2. Về xã hội

* Thứ nhất, dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành tăng nhanh

Ngoại thành Hà Nội là địa bàn rộng lớn, quá trình đô thị hóa đồng

nghĩa với việc phát triển mở rộng các KCN, KCX, KĐT... Trong vòng 10

năm trở lại đây dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành Hà Nội có sự tăng lên

46

nhanh chóng [phụ lục 1]. Hiện tại ngoại thành Hà Nội có nguồn lao động dồi

dào với khoảng 2,4 triệu người trọng độ tuổi lao động, chiếm 58% dân số khu

vực ngoại thành. Hàng năm, khu vực này có trên 100.000 học sinh tốt nghiệp

phổ thông trung học, cung cấp nhân lực cho hệ thống đào tạo ở cấp bậc cao

hơn cũng như cho các nhu cầu lao động của các ngành kinh tế.

* Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho nông dân từ

lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp và dịch vụ.

Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho cầu về lao động ngày càng tăng,

nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người lao

động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch

vụ. Ngoài ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng giảm

việc làm nông nghiệp, tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa góp

phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường sức

lao động hoạt động sôi nổi hơn...Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển

đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Hiện tại trong cơ

cấu lao động ngoại thành Hà Nội, lao động công nghiệp- thủ công nghiệp-

xây dựng chiếm 25% (hơn 546 nghìn người); lao động dịch vụ- thương mại

chiếm gần 17% (khoảng 367 nghìn người); tuy nhiên, lao động nông nghiệp

vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn 58% ở nông thôn (khoảng 1,3 triệu người). Đáng

chú ý là các biến đổi cơ cấu khá tích cực trong bản thân ngành nông nghiệp.

Năm 2007, trong cơ cấu, ngành trồng trọt chiếm 46,34%; chăn nuôi 46,31%;

thủy sản 5,53%; dịch vụ nông nghiệp 1,82%. Năm 2010 tương ứng: trồng trọt

Trong những năm vừa qua, trung bình mỗi năm khu vực ngoại thành

41,74%; chăn nuôi 50,96%; thủy sản 4,33% và dịch vụ nông nghiệp 2,97% [5].

Hà Nội giải quyết việc làm cho gần 100 nghìn người, đào tạo nghề cho

khoảng 50 nghìn lao động, xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của Thành phố

trong đó có khu ngoại thành Hà Nội với nhiều tỉ đồng, xoá nghèo cho hơn

hàng chục nghìn hộ gia đình, hỗ trợ xây dựng hàng nghìn ngôi nhà cho hộ

47

nghèo ở các huyện ngoại thành. Tất cả những hoạt động này đều nhằm xoá

đói, giảm nghèo và giảm chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội giữa

khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội. Tuy nhiên, xoá đói và giảm nghèo

là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi phải thực hiện trong một chiến lược tăng

trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách đồng bộ, toàn diện và định hướng

bền vững, công bằng xã hội và bình đẳng xã hội.

* Thứ ba, đô thị hóa tạo cho người dân ngoại thành được tiếp cận với

các dịch vụ tiến bộ của xã hội như: Văn hóa - xã hội, giáo dục, giao thông

công cộng.

Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những KCN, KCX, các trung tâm

dịch vụ, các khu đô thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất đai, tạo những

ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng

dụng rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá kích thích và tạo cơ hội để

con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương

thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng.

Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện, đó là xu

hướng chủ đạo, là mặt tích cực của đô thị hoá.

Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá cùng với sự phát triển hạ

tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng, tăng cường quan

hệ làm ăn, buôn bán giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo ngoại thành

và đời sống tinh thần của cư dân ngoại thành Hà Nội ngày càng phong phú, đa

dạng hơn. Đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại, sự

truyền bá các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị;

sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ… làm

cho văn hoá làng quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ

hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của người dân các vùng đô thị hoá,

nhìn trên tổng thể được nâng lên rõ rệt.

* Thứ tư, về mức độ phát triển cơ sở hạ tầng xã hội có sự tăng lên.

48

Về nhà ở: Quỹ nhà ở của Hà Nội, trong đó ngoại thành Hà Nội trong

năm gần đây tăng nhanh. Tính đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn Thành phố có khoảng 165.300.000 m2 nhà ở, diện tích bình quân đầu người đạt khoảng 22,7 m2/người, trong đó khu vực đô thị đạt 26,3 m2/người, khu vực ngoại thành đạt 19,1 m2/người. Tỷ lệ nhà kiên cố ngày càng cao, tỷ lệ nhà bán kiên cố giảm biểu hiện sự nâng cao chất lượng nhà ở. Tuy nhiên, một số chỉ

tiêu diện tích về nhà ở cho người thu nhập thấp, nhà ở công nhân, nhà ở học

sinh, sinh viên, nhà ở công vụ, nhà ở tái định cư chưa đạt được so với mục

tiêu phát triển nhà ở Thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 - 2020 và định hướng

đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sự hình thành các KĐT

mới khu vực ngoại thành Hà Nội là nhân tố góp phần tăng nhanh quỹ nhà ở của

Hà Nội. Trong 5 năm (2008 - 2013), khu vực ngoại thành Hà Nội đã xây dựng khoảng 41 khu đô thị mới, trên 11 triệu m2 nhà ở. Hiện nay, đã có những KĐT đã được xây dựng xong và còn một số đang xây dựng. Sự hình thành hàng

loạt các KĐT ở khu vực ngoại thành mới đã góp phần to lớn vào việc tăng

quỹ nhà ở của Hà Nội không chỉ về số lượng mà điều đáng nói là chất lượng

ngày càng được nâng lên [40].

Về y tế: Lĩnh vực y tế tiếp tục được quan tâm, Quy hoạch phát triển hệ

thống y tế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt. Hệ

thống y tế cơ sở không ngừng được củng cố, hoàn thiện cả về cơ sở vật chất,

trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Từ năm 2009 đến 2013, Thành phố đã đầu tư

3.186 tỷ đồng nâng cấp, mở rộng các bệnh viện, trung tâm y tế, trong đó đặc

biệt ưu tiên các bệnh viện đa khoa tuyến huyện. Đã có thêm 133 xã/phường

được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, nâng tổng số xã/phường đạt chuẩn lên

570, đạt tỷ lệ 98,8% (năm 2008 đạt 76%). Chất lượng y tế cộng đồng và chăm

sóc sức khỏe nhân dân tăng lên. Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức

khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến rõ nét. Chất lượng điều trị, chăm sóc,

phục vụ người bệnh được nâng cao, đặc biệt đối với hệ thống bệnh viện tuyến

huyện [40].

Về giáo dục: Giáo dục của Thủ đô nói chung và của khu vực ngoại

thành nói riêng giai đoạn 2006-2013 đã có những bước phát triển tích cực và

49

toàn diện. Số lượng các trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp

đều tăng lên đáng kể. Số lượng và quy mô các trường tiểu học và trung học cơ

sở và trường phổ thông trung học đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em

người dân Thủ đô. Quy mô đào tạo, số học sinh, sinh viên đều tăng. [Phụ lục

4]. Chương trình hiện đại hoá nhà trường được thực hiện sâu rộng đã hình

thành mạng lưới các cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng cao theo tiêu chuẩn

quốc gia và khu vực ở tất cả các bậc học. Cho đến hiện nay, trong tất cả các

trường ở ngoại thành Thủ đô, hệ thống trang thiết bị dạy học, các phòng thí

nghiệm, phòng máy tính, xưởng thực hành đều được đổi mới và hiện đại hoá,

giải quyết cơ bản tình trạng học chay ở các cấp học. Đến năm 2010, 100% số

trường đã được kết nối internet.

Về dịch vụ văn hóa, giải trí dành cho cộng đồng: Ngoại thành Hà Nội

là nơi có rất nhiều hồ nước và công viên, là địa điểm giải trí và thư giãn lý

tưởng của người dân thành phố vào các dịp nghỉ. Vào các dịp lễ, tết, thu hút

không chỉ người Hà Nội mà còn cả người dân các vùng lân cận. Những điểm

tham quan giải trí được nhiều người ưa thích cần phải kể đến như: Thành Cổ

Loa, chùa Hương, chùa Thầy, chùa Tây Phương, làng cổ Đường Lâm... Một

số di sản đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới, di sản văn hóa quốc

gia. Đã được UNESCO công nhận hội Dóng ở đền Phủ Đổng và đền Sóc là di

sản văn hóa phi vật thể thế gới. Sinh hoạt văn hóa cộng đồng của Hà Nội rất

phong phú, mỗi xã, mỗi huyện khu vực ngoại thành Hà Nội đều có nhà văn

hóa là nơi diễn ra các hoạt động học tập, trao đổi văn hóa văn nghệ.

2.2.3. Về môi trường

100% các địa phương ngoại thành Hà Nội đã ký hợp đồng đấu thầu, đặt

hàng công tác duy trì vệ sinh môi trường với các đơn vị vệ sinh môi trường.

Đến năm 2014: tỷ lệ thu gom rác thải trung bình tại các địa phương khu vực

ngoại thành đạt trên 90% . Nhiều dự án đầu tư xử lý rác thải tại khu vực nông

thôn đã được triển khai và đi vào hoạt động trong giai đoạn 2011-2015, trong

đó có 07 nhà máy đã khởi công, 04 nhà máy đã hoàn thành và đi vào hoạt

50

động. Ngoài ra, còn có lò đốt rác thải sinh hoạt theo công nghệ Nhật Bản tại

Khu thắng cảnh Hương Sơn Mỹ Đức được lắp đặt và đi vào hoạt động trong

năm 2012. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn công nghiệp không nguy hại 85-90%

tương đương 549-581 tấn/ngày và xử lý khoảng 382-405 tấn/ngày; được thu

gom và xử lý tại Khu xử lý chất thải Nam Sơn, Bãi rác Kiêu Kỵ và Khu xử lý

chất thải Xuân Sơn. Tỷ lệ thu gom rác thải nguy hại đạt khoảng 62-73 tấn/ngày

chiếm 60 - 70 % tỷ lệ phát sinh và được xử lý tại Khu xử lý chất thải Nam Sơn

và các cơ sở xử lý khác, còn lại được lưu giữ tại các cơ sở phát sinh theo đúng

quy định; dự kiến lò đốt chất thải rắn công nghiệp theo công nghệ đốt phát điện

công suất 75 tấn/ngày do tổ chức NEDO Nhật Bản tài trợ đang được xây dựng

và dự kiến đưa vào vận hành vào đầu năm 2016 tại khu xử lý Nam Sơn. 100%

lượng rác thải y tế được thu gom, phân loại để tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý

theo quy định. 100% KCN đang hoạt động ở khu vực ngoại thành có hệ thống

thu gom và xử lý nước thải tập trung. Đối với công tác xử lý nước thải sinh hoạt: Đã đưa vào vận hành Nhà máy Yên Sở công suất 200.000m3 /ngày đêm.

Triển khai xây dựng các trạm xử lý nước thải quy mô lớn Yên Xá, Phú Đô...

Trong giai đoạn 2011-2015, Hà Nội đã triển khai thực hiện một số dự án, đề án

thử nghiệm xử lý nước sông, hồ và đã đạt được một số kết quả nhất định. Việc

cải tạo này đã đem lại cảnh quan đẹp, cải thiện vệ sinh môi trường, được đông

đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Ưu tiên nguồn lực ngân sách cho

công tác bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành, tổng kinh phí dành cho sự

nghiệp môi trường các năm luôn cao hơn mức quy định 1% tổng chi ngân sách,

từ năm 2011 đến nay, mỗi năm bố trí khoảng 3% tổng chi ngân sách [37].

2.2.5. Nguyên nhân thành tựu

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, Hà Nội là là một địa phương có vị thế hết sức đặc biệt, là

Thủ đô của cả nước, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất

nước. Do vậy, Hà Nội nói chung và ngoại thành nói riêng nhận được sự quan

tâm, đầu tư mọi nguồn lực để phát triển toàn diện về KT-XH và là nơi hấp

51

dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ hai, sau lần mở rộng địa giới hành chính gần đây (tháng 8/2008),

Hà Nội trở thành một trong hai mươi thủ đô có diện tích lớn nhất trên thế giới

(trên 3.344 km2), đây là điều kiện vô cùng thuận lợi trong việc phát triển kinh

tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa và mở rộng, phát triển

đô thị tại vùng ngoại thành.

Thứ ba, kết quả của quá trình đô thị hóa cũng chính là hệ quả tất yếu của

quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa của Thủ đô, của đất nước. Trong

những năm qua tốc độ phát triển kinh tế của Hà Nội nói chung và ngoại thành

nói riêng luôn đứng đầu cả nước. Do vậy, điều này đồng nghĩa với tốc độ đô thị

hóa của ngoại thành Hà Nội trong những năm qua phát triển tương đối nhanh.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, ngoại thành Hà Nội, luôn chủ động để phát huy nội lực của

mình, khai thác các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội (hệ thống

cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, tài lực…) tạo ra khả

năng thu hút và hấp dẫn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển KT-XH,

tạo tiền đề cho phát triển đô thị theo hướng bền vững.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành từ Trung

ương đến địa phương của Hà Nội đều quán triệt và thực hiện nhất quán mục

tiêu phát triển bền vững. Căn cứ Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012

của Thủ tướng Chính phủ, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành kế hoạch

số 104/KH-UBND ngày 03/8/2012 về triển khai thực hiện chiến lược phát

triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 của Thành phố Hà Nội. Bên

cạnh đó, UBND Thành phố Hà Nội còn ban hành rất nhiều văn bản trên các

lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, xây dựng và quản lý đô thị nhằm hướng

tới đô thị hóa theo hướng PTBV.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến về các chủ trương, chính sách

52

của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực KT-XH được các địa phương ngày

càng được chú trọng. Do vậy ý thức của người dân, doanh nghiệp đối với

triển kinh tế, xã hội, giữ gìn và bảo vệ môi trường trong quá trình đô thị hóa

tại các địa phương được nâng lên, góp phần tích cực bảo đảm cho đô thị hóa

ngoại thành theo hướng PTBV.

2.3. Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá ngoại thành Hà Nội

theo hướng phát triển bền vững và nguyên nhân

2.3.1. Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá theo hướng phát

triển bền vững ngoại thành Hà Nội

* Thứ nhất, kinh tế ngoại thành Hà Nội phát triển chưa tương xứng với

tầm vóc Thủ đô.

Kinh tế khu vực ngoại thành tuy có sự phát triển với tốc độ tương đối

cao nhưng vẫn chưa xứng với tầm vóc của Thủ đô, chưa khai thác hết các

tiềm năng, lợi thế sẵn có. Nhiều dự án được triển khai nhưng kém hiệu quả.

Năm 2013, Hà Nội đã xử lý 1600 ha đất của 131 dự án treo nằm trong diện

thu hồi; 58 dự án đang triển khai vướng mắc về kiện cáo đông người; 16 dự

án chưa giải phóng được mặt bằng; 16 dự án chậm tiện độ do thiếu vốn...[35].

Khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nhân dân của

các doanh nghiệp còn hạn chế. Mối quan hệ giữa các quận, huyện trong phát

triển kinh tế chưa chặt chẽ. Môi trường đầu tư chưa được đánh giá cao, thứ

bậc còn sau một số đô thị ở trong nước. Hoạt động của các KCN chưa thực sự

hiệu quả, cá biệt có dự án KCN phải thu hồi giấy phép đầu tư, chuyển đổi

mục đích như KCN Sài Đồng B; hiệu quả xuất khẩu của các dự án chưa cao

mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng năm có tăng lên, nhưng giá trị xuất khẩu

gia tăng so với nhập khẩu rất ít… Những bất cập trên đây chính là những

nguy cơ phát triển không bền vững cho Hà Nội nói chung và khu vực ngoại

thành Hà Nội nói riêng. Dân số Hà Nội đã ở mức quá tải, nếu tiếp tục tăng

dân số sẽ làm cho hiệu quả KT-XH giảm. Vấn đề giao thông, môi trường sẽ

53

gặp nhiều khó khăn hơn. Cơ sở hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, bệnh

viện...) ngày càng mất cân đối về cung - cầu. Để quá trình đô thị hóa ngoại

thành Hà Nội theo hướng PTBV, Hà Nội cần có những giải pháp tổng thể,

đồng bộ và mạnh mẽ.

* Thứ hai, quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội đã làm phân hoá

giàu nghèo và nảy sinh các vấn đề KT-XH cần phải giải quyết

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta coi dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ và văn minh là một mục tiêu phấn đấu. Trong quá trình đô thị

hoá ở ngoại thành Hà Nội, đã và đang diễn ra nhanh chóng sự phân hoá giữa

các nhóm xã hội trong dân cư nói chung trong nội bộ mỗi giai cấp, tầng lớp

xã hội nói riêng (Mức chênh lệch giàu nghèo của ngoại thành Hà Nội về thu

nhập bình quân đầu người của 20% giàu nhất so với nhóm 20% nghèo nhất

của Hà Nội cũ trước 2006 là gấp 6,7 lần, đến khi Hà Nội mở rộng sau 2008 tỉ

lệ này tăng lên là 8,7 lần). Một trong nhiều nguyên nhân của sự phân hoá đó

là sự thiếu công bằng, bình đẳng giữa các nhóm dân cư trên một số lĩnh vực

cơ bản của về KT-XH. Những phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc không chỉ

trong mức sống mà cả trong lối sống. Nhóm giàu có và khá giả sử dụng phần

lớn thu nhập của mình cho học tập, chăm sóc sức khoẻ và các vấn đề quan hệ

xã hội, trong khi đó nhóm nghèo và cận nghèo dùng phần lớn thu nhập của

mình để giải quyết nhu cầu tối thiểu của gia đình. Trong những năm gần đây,

cùng với quá trình đô thị hóa, dân số khu vực ngoại thành tăng nhanh đã tạo

ra áp lực lớn về việc làm, thất nghiệp. Nếu tính gộp cả số lao động ngoại

thành không có việc làm sẵn có, số mất việc làm hàng năm do thu hồi đất

nông nghiệp và số học sinh ngoại thành tốt nghiệp phổ thông hàng năm gia

nhập vào thị trường lao động thì tổng nhu cầu bố trí việc làm khu vực ngoại

thành ước khoảng 340 - 350 nghìn người. Nếu hàng năm, cả thành phố chỉ có

khả năng bố trí việc làm mới cho khoảng 130 - 150 nghìn người thì ta thấy

vấn đề lao động việc làm ở ngoại thành Hà Nội là đáng báo động [55].

Bên cạnh đó các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại

54

thành cũng đang nổi lên mà Thành phố Hà Nội cần quan tâm giải quyết. Đó là

tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp liên quan đến việc đền bù giải

phóng mặt bằng. Chỉ tính trong vòng 5 năm gần đây, thuộc thẩm quyền

Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 585 vụ liên quan đến đất đai, xây dựng,

giải phóng mặt bằng (chiếm 53% số vụ). Các quận, huyện tiếp nhận 3.305 vụ

việc liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng (chiếm 70% số đơn thư).

Trong đó phải kể đến một số vụ việc gây bức xúc trong nhân dân như: Dự án

sân golf Vân Trì thuộc xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh; dự án Quốc lộ 2 xã

Minh Trí, Xuân hòa, huyện Sóc Sơn; dự án khu đô thị An Khánh, huyện Hoài

Đức; dự án KCN Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ; dự án mở rộng đường Hồ

Chí Minh, huyện Chương Mỹ… Ngoài ra, các nguy cơ tệ nạn xã hội như lô

đề, cờ bạc, trộm cắp, mại dâm có chiều hướng gia tăng và thuần phong mỹ tục

tại các huyện ngoại thành bị xuống cấp [55].

* Thứ ba, hoạt động bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành Hà Nội

chưa theo kịp quá trình đô thị hóa.

Theo thống kê của Sở Công thương Hà Nội, hiện 70% thiết bị được sử

dụng tại các làng nghề Hà Nội là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy

móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt,

may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng

nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm

môi trường làng nghề đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của

hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng đe dọa nghiêm trọng

đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất. Không khí tại các làng

nghề chế biến nông sản thực phẩm thường bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự

phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải rắn như CO2,

NH3, CH4. Không khí tại các làng nghề mây tre đan, làm nón, tăm hương…

bị ô nhiễm do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh gây phát sinh một lượng

lớn khí SO2. Không khí tại các làng nghề dệt nhuộm bị ô nhiễm do bụi bông,

bụi than, hơi hóa chất, xút thải… Không những gây ảnh hưởng đến môi

55

trường, ô nhiễm khu vực ngoại thành, còn khiến cho tỷ lệ mắc bệnh tại các

làng nghề ngoại thành Hà Nội có xu hướng tăng cao [37].

Hiện nay, trên địa bàn ngoại thành Hà Nội tổng lượng rác thải sinh hoạt

phát sinh từ khu vực nông thôn ước khoảng 2.500 tấn/ngày, trong đó, lượng rác

thải cần phải thu gom xử lý ước khoảng 1.200 tấn/ngày, chiếm gần 61%

(không bao gồm các huyện Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Sóc Sơn). Tuy

nhiên, do việc thu gom và xử lý rác thải khu vực nông thôn còn rất hạn chế (chỉ

đạt 70%), dẫn tới tình trạng rác thải tồn đọng nhiều tại các điểm đổ rác, không

vận chuyển đi xử lý kịp thời làm mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường.

Nhiều xã thuộc các huyện ngoại thành Hà Nội có hiện tượng tận dụng các ao,

hồ và các vùng trũng để đổ rác thải, hình thành hố chôn lấp rác tự phát, không

đảm bảo quy trình kỹ thuật, làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm của

khu vực [37].

Tính đến tháng 9/2014, cả 18 huyện ngoại thành Hà Nội đã đặt hàng

với các đơn vị vệ sinh môi trường để thực hiện công tác duy trì vệ sinh môi

trường trên các tuyến đường do huyện quản lý. Nhưng thực tế triển khai tại

các huyện phía Nam của thành phố mới chỉ thực hiện được tại các thị trấn và

một số xã lân cận, còn một số nơi vùng sâu, vùng xa vẫn chưa thu gom được

rác thải. Đến nay, cũng chỉ có 5/18 huyện ngoại thành có toàn bộ lượng rác

thải thu gom được xử lý tại các khu xử lý tập trung của thành phố (gồm Sóc

Sơn, Đông Anh, Mê Linh, Gia Lâm, Thanh Trì); các huyện còn lại chỉ một

phần rác thải thu gom được vận chuyển về các khu xử lý tập trung, còn lại thu

gom, xử lý tại chỗ. Có thể kể đến một số điểm đổ rác tồn đọng nhiều, gây ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng trên tỉnh lộ 419 (huyện Thạch Thất), tỉnh lộ

421B (huyện Quốc Oai); dọc quốc lộ 6 như chợ Gốt xã Đông Sơn, chợ Đông

Phương Yên, xã Đông Phương Yên, trường học xã Trường Yên, xã Phục

Châu (huyện Chương Mỹ)… [37].

Kinh phí dành cho công tác bảo vệ môi trường khu vực ngoại thành hàng

56

năm đều tăng, tuy nhiên, mức chi này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý

nhà nước về bảo vệ môi trường ở khu vực ngoại thành, nhiều chương trình, dự

án vẫn chưa bố trí đủ kinh phí để thực hiện như: Chương trình tuyên truyền,

nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác môi

trường; chương trình xử lý nước mặt sông hồ, lắp đặt các trạm quan trắc không

khí, nước mặt, đầu tư xử lý nước thải làng nghề.

* Thứ tư, nhà ở chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân khu vực đô

thị hóa

Nhu cầu nhà ở của dân cư khu vực đô thị hóa ngoại thành ngày càng

tăng nhanh, quỹ nhà ở của thành phố mặc dù đã tăng, những diện tích nhà ở

bình quân trên đầu người còn thấp (dưới 20m2/người) [22]. Từ mất cân đối

cung cầu đã dẫn đến giá cả nhà, đất còn cao, chính quyền chưa có biện pháp

can thiệp hiệu quả. Người có thu nhập trung bình khó có đủ khả năng mua

được nhà ở riêng cho bản thân. Trong khi đó nhiều khu đô thị bỏ hoang, lãng

phí về tài nguyên và nguồn vốn. Dịch vụ thuê nhà chưa phát triển. Vấn đề nhà

ở cho những người lao động nhập cư từ các địa phương khác làm việc tại các

KCN, cụm công nghiệp… gặp nhiều khó khăn. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến các

vấn đề phát triển KT-XH bền vững của ngoại thành Hà Nội.

* Thứ năm, công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất

cập; cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất

và đời sống

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị của Hà Nội còn nhiều

bất cập, đây cũng là vấn đề chung của Việt Nam (Quỹ đất dành cho giao

thông chưa phù hợp mới đạt khoảng trên 30% mức hợp lý cho phát triển đô

thị; giao thông công cộng mới đáp ứng được 15% nhu cầu đi lại của người

dân...) [22]. Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của Hà Nội đã được xây dựng,

nhưng trong quá trình thực hiện còn mang tính hình thức. Chỉ tiêu quy hoạch

quan trọng trong quy hoạch tổng thể là quy mô dân số trong từng thời kỳ đã

không thực hiện được và do đó đã phá vỡ các chỉ tiêu khác. Hà Nội bị sự quá

57

tải về dân số đã dẫn đến sự quá tải trên tất cả các phương diện. Chưa có sự

lồng ghép các loại quy hoạch KT-XH trong quy hoạch đô thị. Các quy hoạch

ngành và lĩnh vực chưa có sự phối hợp chặt chẽ nhất là quy hoạch môi

trường. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng xây dựng xen kẽ các nhà ở của dân cư

vào khu vực nhà máy có gây ô nhiễm môi trường và ngược lại, là tình trạng

xây dựng nhà máy trong các khu dân cư đông đúc, thiếu các cơ sở hạ tầng và

dịch vụ xử lý chất thải, làm môi trường ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, khắc

phục các hậu quả là vấn đề rất khó khăn.

Trong quá trình đô thị hoá tốc độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị chậm

hơn so với tốc độ phát triển KT-XH đô thị và chưa đáp ứng yêu cầu về phát

triển sản xuất đời sống, bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và

lạc hậu của hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống

giao thông. Mặc dù hạ tầng kỹ thuật đô thị ở khu vực ngoại thành Hà Nội đã

được quan tâm đầu tư cải tạo và nâng cấp, nhưng nhìn chung chưa đạt được

những tiêu chuẩn của đô thị hiện đại.

Tốc độ đô thị hoá khu vực ngoại thành cao, đặc biệt là tăng trưởng kinh

tế và vấn đề tăng dân số, trong khi đó công tác quản lý mới chỉ tăng quy mô

số lượng cán bộ, chưa có sự thay đổi về chất, tất cả điều đó làm cho công tác

quản lý hoạt động kém hiệu quả. Các biện pháp quản lý còn mang nặng tính

tình thế, chưa đảm bảo tính đồng bộ. Đổi mới phương pháp quản lý đang là

một thách thức lớn đối với công tác quản khu vực đô thị hóa ngoại thành Hà

Nội. Nền kinh tế thị trường đã biều lộ rõ những mặt trái của nó đó là sự phát

triển không cân đối giữa các ngành, giữa các thành phần kinh tế, sự chạy theo

lợi nhuận của các doanh nghiệp đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng và lợi ích

chung của xã hội.

2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất là do trình độ phát triển kinh tế của ngoại thành Hà Nội còn

thấp so với các quận nội thành Hà Nội, do đó chính sách đô thị hóa trên địa

58

bàn ngoại thành Hà Nội trong thời gian đầu phải ưu tiên những mục tiêu kinh

tế mà ít quan tâm đến vấn đề xã hội, môi trường.

Thứ hai, đô thị hóa ngoại thành Hà Nội diễn ra trong bối cảnh phải đáp

ứng yêu cầu tạo nhiều việc làm, giảm đói nghèo cho một bộ phận lớn là dân cư

nông thôn tại địa phương và một bộ phận dân nhập cư, do đó các mục tiêu bảo

vệ môi trường có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ ba, nhân lực của khu vực ngoại thành Hà Nội tuy có số lượng đông

nhưng tỷ lệ chưa được đào tạo còn cao, ý thức kỷ luật còn nhiều hạn chế,

thiếu lao động có tay nghề, nhất là đối với các ngành công nghệ cao, hiện đại;

Bên cạnh đó, trình độ công nghệ trong các cơ sở sản xuất khu vực ngoại thành

Hà Nội còn lạc hậu.

Thứ tư, nguồn vốn của Thủ đô Hà Nội còn chế, trong khi tốc độ tăng dân

số lại quá nhanh. Điều này đã gây sức ép lớn đến việc đáp ứng của hệ thống kết

cấu hạ tầng giao thông cũng như hệ thống hạ tầng xã hội của khu vực ngoại

thành Hà Nội. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng

xã hội (nhà trẻ, nhà mẫu giáo, trường học, nhà văn hoá, trạm y tế...) không đáp

ứng yêu cầu phục vụ của cộng đồng dân cư sống trong các khu đô thị mới.

Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp ít mặn mà trong việc đầu tư vào khu

vực này vì ít mang lại lợi nhuận cho họ.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước và các địa phương khu vực

ngoại thành Hà Nội chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu phát triển bền vững

trong hoạch định và thực thi các chính sách đô thị hóa. Còn chạy theo lợi ích

ngắn hạn, cục bộ, tư duy theo nhiệm kỳ, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan

có trách nhiệm cùng với tình trạng cát cứ theo địa giới hành chính của từng địa

phương. Việc tuân thủ quy hoạch tổng thể, dài hạn trong phát triển KT-XH nói

chung và đô thị hóa nói riêng còn chưa thực sự được quan tâm chú trọng. Đây

là nguyên nhân cơ bản của tình trạng kém bền vững trong quá trình đô thị hóa

59

ngoại thành Hà Nội những năm qua.

Thứ hai, còn thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các huyện ngoại thành

Hà Nội trong công tác quy hoạch phát triển đô thị và phát triển các ngành

kinh tế. Quy hoạch đô thị chủ yếu chú ý đến mặt lượng trong phát triển theo

từng địa phương, chưa chú ý đúng mức về mặt chất lượng. Chưa quan tâm

giải quyết đúng mức mối quan hệ giữa đô thị hóa với việc xử lý các vấn đề

môi trường, xã hội, chuẩn bị nguồn nhân lực, phát triển hệ thống giao thông

và mạng lưới dịch vụ. Công tác lồng ghép các nội dung quy hoạch và bảo vệ

môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch chung đô thị còn yếu vì chưa có

các văn bản pháp quy để thực hiện yêu cầu này.

Thứ ba, năng lực thực thi các quy định về môi trường và đảm bảo các

điều kiện xã hội cho người dân ngoại thành còn nhiều hạn chế. Một số địa

phương thường chỉ quan tâm và tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế,

đô thị mà thiếu quan tâm đến vấn đề xã hội và môi trường. Bên cạnh đó,

nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp ở ngoại thành Hà Nội vì khả năng

tài chính hạn chế đã không thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi

trường, đảm bảo điều kiện làm việc cho người lao động, các chính sách

đãi ngộ và bảo hộ lao động...

Thứ tư, công tác quản lý đô thị còn một khoảng cách khá xa so với yêu

cầu phát triển của quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị. Mặt khác, tính

chuyên nghiệp trong công tác quản lý đô thị ở khu vực ngoại thành hầu như

chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc đào tạo cán bộ quản lý đô thị

chưa được thực hiện bài bản, hệ thống.

*

* *

Quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội trong những năm qua đã đạt

được nhiều thành tựu nổi bật đó là: Kinh tế khu vực ngoại thành Hà Nội đã có

bước phát triển vượt bậc trong quá trình đô thị hóa theo hướng bền vững; đã

bước đầu góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội trên địa bàn; cơ sở hạ tầng

60

y tế cơ bản được hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe và

khám chữa bệnh cho người dân ở khu vực ngoại thành; cơ sở hạ tầng giáo dục

đã có bước phát triển tích cực và toàn diện đáp ứng tốt yêu cầu học tập của

con em trong vùng; cơ sở hạ tầng dịch vụ văn hóa, giải trí dành cho cộng

đồng phát triển phong phú đa dạng đáp ứng tốt nhu cầu đời sống tinh thần của

nhân dân; kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu vực ngoại thành Hà Nội không ngừng

được nâng cấp, phát triển theo hướng hiện đại; công tác quy hoạch và quản lý

xây dựng đô thị đã được tập trung đẩy mạnh đồng bộ, tạo được sự chuyển

biến cả về số lượng và chất lượng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đô thị hóa

ngoại thành Hà Nội cũng đã bộc lộ một số hạn chế chế như: Kinh tế khu vực

ngoại thành Hà Nội phát triển chưa tương xứng với tầm vóc của Thủ đô; đô

thị hóa đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo và nảy sinh các vấn đề công bằng

xã hội; dân số tăng nhanh gây áp lực lớn cho vấn đề việc làm; bảo vệ môi

trường đô thị khu vực ngoại thành Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn; phát triển nhà ở khu vực đô thị hóa ngoại thành chưa đáp ứng được nhu

cầu của người dân; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất

cập; cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất và

đời sống; phương pháp quản lý chưa theo kịp quá trình phát triển đô thị.

Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, đây chính là

những nguy cơ phát triển thiếu bền vững cho Hà Nội nói chung và khu vực

ngoại thành Hà Nội nói riêng. Để quá trình này đạt hiệu quả thiết thực thì Hà

Nội cần phải thực hiện hệ thống quan điểm và giải pháp đồng bộ, phù hợp.

61

Chương 3

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY

QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa

ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới

3.1.1. Coi trọng các nội dung phát triển bền vững trong quá trình đô

thị hóa ngoại thành Hà Nội

Sự phát triển bền vững trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là

sự bảo đảm cho phát triển kinh tế ổn định có hiệu quả ngày càng cao, gắn với

bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như yêu cầu

về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng…Như vậy, phát triển bền vững trong

quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là phát triển kinh tế hiệu quả, phát

triển xã hội hài hòa, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, khai thác

hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất

lượng môi trường.

Phải thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành Hà Nội một

cách đồng bộ, vì mục tiêu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân và nông

thôn. Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển đô thị, từng bước hình thành

mạng lưới đô thị phù hợp theo quan điểm đồng bộ, hệ thống. Ưu tiên phát triển

kết cấu hạ tầng ở những nơi kinh tế còn nhiều khó khăn. Quy hoạch sản xuất

nông nghiệp một cách toàn diện, theo hướng hiện đại gắn với nhu cầu thị trường

và phù hợp với lợi thế của từng khu vực. Quy hoạch sử dụng tiết kiệm, có hiệu

quả đất nông nghiệp, nhất là đất canh tác. Gắn kết quy hoạch sản xuất nông

nghiệp với quy hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn ngoại thành

Hà Nội. Tăng cường thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,

tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết nhu cầu lao động tại chỗ và nâng cao

thu nhập của người dân, tạo điều kiện cho họ yên tâm phát triển sản xuất. Khớp

62

nối kết cấu hạ tầng các KCN, dịch vụ, các KĐT mới với kết cấu hạ tầng khu vực

ngoại thành Hà Nội theo một quy hoạch phát triển toàn diện, tổng thể. Triển khai

mạnh xây dựng nông thôn mới, hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu

hạ tầng KT-XH đồng bộ như: Thủy lợi, đường giao thông, điện, nước sạch,

trường học, cơ sở y tế, bưu điện, nhà văn hóa, trung tâm thể dục thể thao,

trung tâm mua sắm… Quan tâm quy hoạch môi trường, hình thành hệ thống

thu gom, xử lý rác, nước thải, phế thải; hạn chế tiến tới khắc phục tình trạng ô

nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Bảo vệ, nuôi dưỡng hệ sinh thái và giữ gìn

tài nguyên, cảnh quan thiên nhiên. Tăng cường khả năng phòng chống thiên

tai dịch bệnh. Phải quản lý chặt chẽ những tác động về môi trường của từng

doanh nghiệp và toàn bộ khu công nghiệp đối với nguồn nước cũng như

không khí ở các khu vực liên quan. Kiên quyết xử lý việc sử dụng quỹ đất

lãng phí, đặc biệt là đất canh tác và tình tình trạng san lấp, lấn chiếm ao hồ,

các công thình thủy lợi… cùng với sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải,

bụi khói, tiếng ồn…

Quá trình đô thị hóa phải gắn với phát huy vai trò của hệ thống chính trị

cơ sở và cộng đồng làng xã, đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ

chức Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở khu vực ngoại thành Hà

Nội trong quá trình đô thị hóa. Củng cố nâng cao hiệu quả quản lý điều hành

các hoạt động KT-XH, trật tự của chính quyền cơ sở, đồng thời nâng cao năng

lực giải quyết kịp thời các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân. Phát

huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể xã hội ở khu vực

ngoại thành Hà Nội, làm cầu nối vững chắc giữa Đảng với người dân, thực sự

là trung tâm đoàn kết cộng đồng làng xã. Triển khai đồng thời, lồng ghép các

phong trào thi đua yêu nước với những nội dung thiết thực như: “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”… giữ gìn, phát huy các giá trị tốt đẹp

của văn hóa dân tộc.

63

3.1.2. Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với giải quyết các vấn đề xã

hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội

Phát triển KT-XH khu vực ngoại thành Hà Nội, đặc biệt là đẩy mạnh

công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện cần thiết cho

việc giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.

Trong thời gian tới, tốc độ phát triển các KCN và xây dựng kết cấu hạ tầng,

KĐT mới ở ngoại thành Hà Nội sẽ tiếp tục tăng. Do vậy, ngay từ khi quy

hoạch các KCN, KĐT mới phải có giải pháp đầu tư tạo việc làm, đào tạo

nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi môi trường, phát triển đời

sống văn hóa tinh thần cho người lao động.

Phát triển KT-XH theo hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ

yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý theo chiều sâu, vừa mở

rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.

Trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với khu vực

ngoại thành Hà Nội, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng

các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu

quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế hướng vào phát triển các ngành

công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao và các giải pháp đổi mới

công nghệ, chế tạo sản phẩm mới. Phát triển đa dạng các ngành nghề tạo

nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.

Giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đô thị hóa trực tiếp góp

phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng giá trị nông sản

và tăng dần tỉ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP.

Đối với nông nghiệp cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng phát triển các

cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng hiệu quả cao hơn. Phát triển các

khu công nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm dịch vụ, các đô thị mới phải

nâng được giá trị của đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng

giá trị sức lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học công nghệ.

Đồng thời quá trình đô thị hóa phải tạo ra nhiều cơ hội và kích thích mọi

64

người năng động sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương thức,

hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh vươn lên làm giàu chính đáng. Kinh tế

phát triển, đời sống của người lao động từng bước được nâng lên, đây chính là

điều kiện căn bản để giải quyết kịp thời và đúng đắn các vấn đề xã hội bức

xúc nảy sinh (như tình trạng thiếu hoặc mất việc làm của nông dân, tệ nạn xã

hội phát sinh, tình hình an ninh chính trị mất ổn định, ô nhiễm môi trường,

nguồn nước…), thực hiện phát triển một cách bền vững ở khu vực ngoại

thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa.

3.1.3. Chú trọng vấn đề tiến bộ và công bằng trong quá trình đô thị

hóa ngoại thành Hà Nội

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính

sách phát triển KT-XH là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong

đường lối phát triển của đất nước. Quan điểm này phải được quán triệt sâu sắc

trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội. Trong đó chú trọng bảo đảm hài

hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động. Việc thu hút đầu tư

để tiến hành đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội phải khuyến khích được các

doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, đồng thời bảo đảm được quyền

lợi và nghĩa vụ, cống hiến, hưởng thụ của người lao động và chủ sử dụng lao

động gắn bó chặt chẽ với nhau. Chống mọi biểu hiện xâm phạm quyền lợi, lợi

ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động.

Tập trung bảo đảm đời sống và việc làm cho người lao động, thực hiện

tốt chủ trương xóa đói xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là những vùng khó khăn,

những nơi có nhiều nhạy cảm về chính trị xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ

giữa các chương trình phát triển kinh tế gắn các vấn đề xã hội. Mọi chủ

trương giải pháp phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng trên địa bàn đều phải

tính đến yếu tố phát triển bền vững và bảo đảm tốt nhất lợi ích của người dân.

Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết, đây là một nội dung quan trọng để giải

quyết mối hệ giữa các giai tầng trong xã hội, vừa thực hiện các vấn đề bình

65

đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, đồng thời góp phần ổn định

chính trị xã hội để giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong quá trình đô thị

hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV.

Giải quyết mối quan hệ đất đai và nâng cao đời sống của nhân dân khu

vực ngoại thành Hà Nội. Thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện quá trình đô

thị hóa phải được tiến hành một cách thận trọng và khoa học. Trong quá trình

đô thị hóa thu hồi đất là một tất yếu, là quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất

lớn, từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu lên nền sản xuất công nghiệp

hiện đại. Do vậy, quá trình xây dựng đường xá, cầu cống, các khu kinh tế, khu

công nghiệp, khu dân cư phải được hoạch định theo hướng tập trung; đòi hỏi

các địa phương khu vực ngoại thành Hà Nội phải quy hoạch lại đất đai,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động cho phù hợp với nền kinh tế công

nghiệp. Trên tế cho thấy, công tác thu hồi đất để phát triển công nghiệp hóa,

đô thị hóa phải thực hiện tốt chính sách bồi thường cho những đối tượng bị

thu hồi đất để giải phóng mặt bằng, tái định cư là một nội dung quan trọng, là

yếu tố quyết định môi trường đầu tư, thu các nguồn vốn, các dự án đầu tư

nhằm thúc đẩy KT-XH phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân. Do vậy,

để quá trình đô thị hóa diễn ra một cách thuận lợi thì công tác quy hoạch các

KCN, KCX phải tính toán đầy đủ các yếu tố liên quan đến tạo việc làm cho

những người lao động nằm trong diện phải thu hồi đất, đền bù và giải quyết

một cách thỏa đáng những lợi ích, quyền lợi chính đáng của người dân được

hưởng. Tránh để xảy tránh để xảy ra những điểm nóng phát sinh, những cuộc

khiếu kiện đông người kéo dài và nảy sinh các vấn đề xã hội gây bức xúc.

3.1.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của

chính quyền Thành phố trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội

Để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh về KT-XH trong quá trình đô thị

hóa thì việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao năng lực

quản lý của chính quyền, các cơ quan chức năng ở địa phương khu vực ngoại

66

thành Hà Nội cần phải được chú trọng. Đồng thời phải huy động được trách

nhiệm của toàn xã hội, sự tham gia đông đảo của người dân, của doanh nghiệp,

của các thành phần kinh tế vào việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh

trong quá trình đô thị hóa.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong quá trình đô thị hóa ở

ngoại thành Hà Nội trước hết là phải làm tốt công tác xây dựng Đảng vững mạnh

về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bảo đảm cho các cấp ủy Đảng có đủ năng lực

phát huy được vai trò của mình trong việc đề ra các chủ trương chính sách để giải

quyết tốt các vấn đề KT-XH nảy sinh một cách đúng đắn và hiệu quả.

Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp, các cơ

quan đoàn thể về giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh đó là phải thể chế

hóa kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đô thị hóa

nông nghiệp, nông thôn. Giải quyết hài hòa vấn đề nông nghiệp, nông thôn và

nông dân. Xây dựng nông thôn mới gắn với các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và

phát triển đô thị theo quy hoạch và phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, thông tin để

nâng cao tính khả thi trong việc kết hợp đúng đắn giữa phát triển kinh tế với

giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh như: Giải quyết việc làm, nâng cao thu

nhập cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.

Huy động toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề KT-XH trong quá

trình đô thị hóa. Đây chính là phát huy sức mạnh tổng hợp để giải quyết các

vấn đề xã hội nảy sinh. Hầu hết các vấn đề có liên quan đến sản xuất, đời

sống của người dân và các vấn đề xã hội phải được toàn dân chăm lo giải

quyết thì mới có hiệu quả cao.

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa

ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới

Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu

sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức

67

không gian kiến trúc... biến nông thôn thành thành thị hay nói cách khác, đô

thị hóa là quá trình biến các làng quê ngoại thành với hoạt động nông nghiệp

là chủ yếu thành các đô thị, với các hoạt động phi nông nghiệp là chủ yếu,

xóa bỏ dần thói quen của những người nông dân, để xây dựng phong cách,

thói quen, tư duy và lối sống công nghiệp, đô thị.

Đô thị hóa là quá trình tất yếu để phát triển KT-XH, song đô thị hóa sẽ

khiến nhiều nguồn tài nguyên của Hà Nội, trong đó có tài nguyên đất bị thu

hẹp... đô thị hóa sẽ đem lại nhiều lợi ích cho sự phát triển KT-XH Thành phố,

đồng thời bản thân nó lại nảy sinh nhiều vấn đề KT-XH cần phải giải quyết.

Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội PTBV trong thời gian tới cần phải

thực hiện tốt một số nhóm giải pháp sau:

3.2.1. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về kinh tế

Nhóm giải pháp này có ý nghĩa hết to lớn để phát triển kinh tế ngoại

thành Hà Nội một cách ổn định, làm cho cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế

vùng, cơ cấu thành phần kinh tế phát triển theo hướng tích cực phù hợp với

tiềm năng và triển vọng phát triển kinh tế của từng địa phương trên địa. Thực

tế quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội thời gian qua còn bộc lộ sự thiếu

bền vững có nguyên nhân từ những bất cập về tăng trưởng, phát triển kinh tế

trong quá trình đô thị hóa chưa tương xứng. Bởi vậy, thực hiện nhón giải pháp

này nhằm nhằm huy động vốn đầu tư theo khả năng tăng trưởng KT-XH theo

từng giai đoạn, từng nhóm ngành và theo kế hoạch đô thị hóa theo hướng phát

triển bền vững ngắn và dài hạn đã được đề cập trong quy hoạch xây dựng đô

thị của thành phố. Điều này cho phép các địa phương tính toán sử dụng hiệu

quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên: đất đai, nguồn nước, năng lực và lao

động... Theo đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

* Thứ nhất, nâng cao chất lượng quy hoạch, giải quyết có hiệu quả mối

quan hệ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông

nghiệp, nông thôn

68

Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển đô thị ở ngoại thành Hà Nội

gắn với việc quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn trong vùng theo

quan điểm hệ thống, đồng bộ là một trong những giải pháp hết sức quan

trọng. Do vậy, trong thời gian tới UBND Thành phố cần tiếp tục chỉ đạo Sở

Quy hoạch Kiến trúc, Sở Kế hoạch & Đầu tư chủ trì phối hợp với các sở,

ngành có liên quan thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Việc quy hoạch phải thực hiện nguyên tắc tiết kiệm sử dụng đất nông

nghiệp, nhất là loại đất có hiệu quả canh tác cao. Việc quy hoạch đô thị hóa

phải coi trọng và tuân thủ hai loại quy hoạch: Quy hoạch phát triển KT-XH,

quy hoạch không gian sử dụng đất và quy hoạch phát triển các KCN, KĐT.

Xây dựng quy hoạch đô thị cần hạn chế thấp nhất việc lấy đất nông nghiệp,

đất trồng lúa, nhất là loại đất tốt để phát triển các KCN, khu đô thị, gây nên

một bộ phận nông dân mất việc làm, phát sinh phức tạp về mặt xã hội ảnh

hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực của Thành phố và quốc gia. Lập quy

hoạch dự án sử dụng đất nông nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển

KT-XH của từng địa phương. Phải gắn việc quy hoạch với sử dụng đất nông

nghiệp, với phát triển các ngành nghề, đặc biệt là phát triển các làng nghề

truyền thống của mỗi địa phương. Xây dựng và mở rộng các ngành công

nghiệp chế biến, dịch vụ ngay tại nông thôn để thu hút lao động nông nghiệp

vào lĩnh vực này, với phương châm "ly nông, bất ly hương".

Trong quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, các địa phương

phải thật sự gắn kết việc quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng của mình với việc

quy hoạch ngành, quy hoạch trong toàn vùng nhằm phát triển nông nghiệp,

nông thôn theo hướng bền vững. Việc xây dựng, phát triển các KCN, KĐT

phải có một quy hoạch chung thống nhất, bổ sung, tận dụng các lợi thế so

sánh của từng địa phương để phát triển.

Sở Quy hoạch kiến trúc, Sở Xây dựng và các cơ quan chức năng Thành

phố cần tổ chức rà soát, chấn chỉnh việc quy hoạch, quản lý các điểm, cụm,

69

KCN nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả quỹ đất, tránh tình trạng một số

đất quy hoạch vẫn còn bỏ hoang gây lãng phí rất lớn như: Các dự án khu đô

thị Mễ Trì Hạ, Mỹ Đình II (huyện Từ Liêm cũ); dự án khu đô thị mới ở các xã

Tiền Phong, Tráng Việt, Đại Việt, Thanh Lâm (huyện Mê Linh); dự án khu

đô thị mới Dầu khí An Khánh, Nam An Khánh, Bắc An Khánh (huyện Hoài

Đức); dự án Vườn sinh thái Cẩm Đình- Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ); dự án

KCN Phú Mỹ (huyện Chương Mỹ)... Các ngành chức năng cần đẩy mạnh

nghiên cứu, tổng kết để bổ sung hoàn thiện quy chế sử dụng đất ở khu công

nghiệp, trong đó cần quy định việc quy hoạch và xây dựng đồng bộ các khu

dân cư, hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn.

Thực hiện quy hoạch một cách thống nhất và đồng bộ:

Việc quy hoạch phải được thống nhất, đồng bộ với các loại quy hoạch

của Thành phố như: Quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển công

nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ... Trên cơ sở như vậy, quy hoạch phát triển cho

từng vùng, từng địa phương phải tuân thủ quy trình để bảo đảm sự kết hợp về

quy hoạch chung của Thành phố. Từ đó, mới phát huy được lợi thế của vùng,

của từng địa phương như một không gian kinh tế thống nhất, kết hợp lợi thế

của từng địa phương. Các địa phương cần thực hiện một cách chi tiết và đầy

đủ việc lập quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp với việc quy hoạch giao

thông, thủy lợi, đảm bảo gọn vùng, gọn thửa, thuận lợi cho việc tưới tiêu, chú

trọng các vùng đã có công trình thủy lợi đầu mối. Tiếp tục thực hiện chủ

trương "dồn điền, đổi thửa"; đặc biệt quan tâm đến chính sách hoặc quy ước

việc chuyển đổi, cho thuê, mượn đất làm các dịch vụ khác.

Thực hiện quy hoạch một cách công khai, minh bạch:

Việc thực hiện quy hoạch phải được công khai, minh bạch và phải được

thông báo trước, nhất là việc quy hoạch quỹ đất của hộ nông dân, để họ nắm

được và chủ động trong việc tái định cư, chuyển đổi ngành nghề; khắc phục

tình trạng quy hoạch, nhưng không thông báo công khai. Đồng thời, kiên quyết

70

xóa bỏ quy hoạch treo, dự án treo, làm cho người dân thiếu an tâm không biết

lúc nào sẽ giải tỏa để chủ động chuyển đổi ngành nghề càng sớm càng tốt.

Trong quy hoạch phát triển, nhất là KCN, cụm công nghiệp, làng nghề phải

cân nhắc xây dựng khu sản xuất tách khỏi đất sản xuất nông nghiệp, xa khu

dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ như: Đường giao thông nối với

trục đường chính, điện, nước, hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Cách làm

này sẽ mất nhiều kinh phí hơn so với tận dụng đường chính, song là cần thiết

cho sự phát triển bền vững, tránh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đảm

bảo đời sống nhân dân. Nếu buộc lấy đất nông nghiệp phải lấy đất xấu, canh

tác không hiệu quả. Thành phố phải có trách nhiệm trong quy hoạch, kế

hoạch dài hạn bảo đảm quỹ đất cho tái định cư trên quy hoạch tổng thể phát

triển KT-XH và quy hoạch sử dụng đất dài hạn để phát triển các khu công

nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH. Để nâng cao chất lượng

công tác quy hoạch trong việc sử dụng ruộng đất, cần rà soát điều chỉnh quy

hoạch tổng thể trong vùng, nhằm phát hiện các trường hợp quy hoạch đã được

duyệt, nhưng không được triển khai, hoặc bỏ trống, ảnh hưởng đến hiệu quả sử

dụng đất.

* Thứ hai, sử dụng đất đai một cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa

Những tác động tiêu cực của việc thu hồi đất nông nghiệp cho mục đích

đô thị hóa khu vực ngoại thành Hà Nội đối với nông dân vừa qua đã gây ra nhiều

hệ lụy và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển KT-XH. Để sử dụng đất đai một

cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội cần phải giải quyết

tốt một số vấn đề sau:

Đối với việc chuyển đổi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa:

UBND Thành phố cần hạn chế tối đa việc lấy đất nông nghiệp, nhất là đất

trồng lúa và cây lương thực cho mục đích công nghiệp và đô thị hóa. Nếu cần

phải lấy đất nông nghiệp, phải tính đến chi phí cơ hội giữa đất trong lúa, hoa

màu, đất gò đồi, đất hoang hóa cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Các dự án

lấy đất nông nghiệp không hợp lý, không hiệu quả, làm xâm hại đến lợi ích của

71

người nông dân như chia lô bán đất với giá cao, bỏ hoang, cho thuê, bán lại dự

án... đều phải được quy trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân phê duyệt,

nếu nặng phải được xem xét trước pháp luật, nếu nhẹ phải bồi thường, thi hành

kỷ luật… Đồng thời, UBND thành phố xây dựng kế hoạch sử dụng đất nông

nghiệp, đất trồng cây lương thực một cách khoa học và hợp lý nhằm bảo vệ

đất trồng cây lương thực ổn định lâu dài. Muốn vậy, công tác lập quy hoạch

phải có căn cứ khoa học và thực tiễn, có quan điểm toàn diện và tầm nhìn xa.

Kiên quyết giữ các vùng đất tốt cho sản xuất nông nghiệp, khi sử dụng đất nông

nghiệp vào mục đích khác phải tính tới cả hệ quả xã hội và môi trường. Quy

hoạch sử dụng đất từng vùng, từng địa phương cũng phải tuân nguyên tắc chung,

tránh lấy những vùng đất nông nghiệp màu mỡ, đảm bảo hài hòa về kinh tế, xã

hội và môi trường.

Đẩy mạnh chính sách dồn điền đổi thửa cho nông dân sản xuất kinh

doanh đạt hiệu quả:

Nông dân gắn liền với ruộng đất, nên người nông dân phải có ruộng đất

để canh tác. Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng ruộng đất không thể sử

dụng một cách manh mún, nhỏ lẻ, phân tán mà phải tập trung ruộng đất để

vươn lên sản xuất hàng hóa. Vì vậy, UBND thành phố cần chỉ đạo các ngành,

địa phương thực hiện tốt các nội dung sau: Chính sách đất nông nghiệp cần

đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp hiện đại và cải thiện điều kiện sản xuất cho

nông dân. Khi một số lượng đất nông nghiệp chuyển sang đất đô thị và KCN,

Thành phố nên khuyến khích nông dân đầu tư vào đất để tăng giá trị sản xuất

trên đất, từ đó mà tăng thu nhập. Thời gian sử dụng đất không nên giới hạn,

chỉ nên quản lý bằng quy hoạch không gian tổng thể và trách nhiệm giao đất

của hộ nông dân khi Thành phố có nhu cầu (nên có đền bù). Đồng thời, cải

tiến mạnh mẽ thủ tục hành chính nhà nước liên quan đến bảo hộ quyền sử

dụng đất nông nghiệp, đến chuyển nhượng đất nông nghiệp theo hướng công

khai quy trình, điều kiện, giảm chi phí. Với các biện pháp đổi mới đó, thị

trường đất nông nghiệp mới có thể hoạt động công khai, linh hoạt hơn cho

72

việc hỗ trợ nông dân tập trung ruộng đất, đạt quy mô hiệu quả. Nếu ruộng đất

được tích tụ, tập trung chuyên canh hợp tác thì đó là điều kiện tốt nhất đó đi

vào thâm canh tăng năng suất nông nghiệp, tăng hàm lượng công nghệ cao,

hàm lượng nông nghiệp sạch, hàm lượng cách mạng sinh học về giống, vật

nuôi, cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu... cho nông nghiệp, nông thôn mới

hiện đại. Đó chính là những giải pháp phát triển nông thôn bền vững.

Thực hiện cải cách thủ tục hành chính và tăng cường quản lý đất nông

nghiệp trên địa bàn. Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên & Môi trường cần tích cực

tham mưu cho UBND Thành phố trong việc công khai, đơn giản hóa quy

trình, thủ tục quản lý đất và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để quyền sử

dụng đất nông nghiệp trở thành hàng hóa và có thể lưu thông dễ dàng.

Thành phố cần có chính sách khuyến khích phát triển các tổ chức cung ứng

dịch vụ trên thị trường chuyển nhượng, cho thuê đất nông nghiệp để giảm

phí tổn giao dịch cho nông dân, cũng như để khuyến khích nông dân sử

dụng quyền sử dụng đất nông nghiệp một cách hiệu quả hơn. Có hướng dẫn

cụ thể trình tự, thủ tục để thực hiện các dự án không thuộc diện thu hồi đất;

đối với các trường hợp chủ sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất thì các thủ tục về thuế, cho phép chuyển nhượng quyền

sử dụng đất theo hướng đơn giản có thể áp dụng được ở các địa phương.

Thành phố nên có hướng dẫn cụ thể về cơ chế hoạt động tài chính cho

Trung tâm phát triển quỹ đất, làm cơ sở để các địa phương ban hành cơ chế tài

chính, đáp ứng kinh phí cho các trung tám thực hiện công tác bồi thường, giải

tỏa mặt bằng nhằm tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư, đấu thầu đất, nâng cao

hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế khiếu kiện của công dân. Thực hiện phân

cấp mạnh cho cơ sở, nhất là trách nhiệm đi đôi với quyền hạn trong xử lý. Nếu

không phân cấp về thẩm quyền xử lý thì chính quyền cơ sở hiện nay chỉ là cấp

phát hiện mà không có quyền xử lý, dẫn đến vi phạm không được xử lý kịp thời.

* Thứ ba, giải quyết tốt việc làm cho người dân trong quá trình đô thị

hóa ngoại thành Hà Nội

73

Giải quyết việc làm cho người dân không chỉ đảm bảo đời sống, mà

còn góp phần ổn định trật tự xã hội trong quá trình đô thị hóa. Vì vậy, trong

thời gian tới cần tập trung vào một số biện pháp sau:

Sở Lao động, Thương binh & xã hội, Sở Kế hoạch & Đầu tư cần chủ

động phối hợp với các đơn vị và UBND các huyện, thị mở rộng và phát triển

ngành nghề để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Theo đó, cần

khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống và nghề mới ở ngoại thành

Hà Nội: Gốm Bát Tràng (Gia Lâm); thêu Quất Động (Thường Tín); lược sừng

Thụy Ứng (Thường Tín); dệt Phùng Xá (Mỹ Đức); khảm trai Chuôn Ngọ

(Phúc Xuyên), Duyên Thái (Thường Tín); mây tre đan Phú Vinh (Chương

Mỹ); mộc Hữu Bằng (Thạch Thất); giò chả Ước Lễ (Thanh Oai)… Ngành

nghề truyền thống hiện đang giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động

lớn. Thành phố cần có một số chính sách hỗ trợ (như vay vốn ưu đãi, miễn

giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm...) để khôi phục và

phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang các nghề mới, cần có chính

sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác đào tạo, truyền

nghề để ngành nghề truyền thống không bị mai một. Mở rộng và phát triển

ngành nghề, làng nghề truyền thống không chỉ đem lại hiệu quả KT-XH, mà

còn góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần và mức

hưởng thụ văn hóa cho người dân. Từ đó tập trung giải quyết việc làm tại chỗ

cho người lao động; hạn chế các tệ nạn xã hội và góp phần thực hiện tốt

phương châm "ly nông, bất ly hương” giảm bớt sức ép về số người lao động

tràn vào trung tâm thành phố kiếm việc làm. Để mở rộng và phát triển ngành

nghề, làng nghề truyền thống cho người dân ở một số địa phương, cần thực hiện

tốt một số vấn đề sau:

Lựa chọn phát triển các nghề truyền thống đã và đang được phát huy có

hiệu quả như: Tơ tằm, mây tre đan, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thủ công

mỹ nghệ, chế biến nông lâm sản, chế biến các món ăn đặc sản dân tộc… Có

74

kế hoạch mở rộng, xây dựng vùng nguyên liệu, để chủ động sản xuất ngay

trên địa bàn và cung cấp cho các vùng lân cận của Thành phố. Xây dựng

chính sách cụ thể để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh tiểu thủ công nghiệp, như:

Chính sách về đất đai: Đối với cơ sở sản xuất ngành nghề tiểu thủ công

nghiệp đang sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, phù hợp với quy định

của pháp luật thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cần quy

hoạch đất đai cho phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thực hiện chính

sách miễn giảm thuế, giảm tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thuê đất.

Chính sách tài chính, tín dụng và thuế: Các ngân hàng thương mại, quỹ

hỗ trợ đầu tư phát triển và các tổ chức tín dụng thực hiện chế độ bình đẳng đối

với các thành phần kinh tế.

Xây dựng chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, chính sách về đào

tạo nghề: Ưu tiên nguồn quỹ khuyến nông của địa phương, Trung ương để hỗ

trợ dạy nghề, du nhập nghề mới, thúc đẩy phát triển các ngành nghề tiểu thủ

công nghiệp. Đối với những hộ bị thu hồi đất, chính quyền các cấp cần giúp

đỡ đối tượng này lựa chọn ngành nghề đào tạo mà các KCN, KCX đang cần

tuyển dụng lao động.

Sở Lao động, Thương binh & xã hội, Trung tâm giới thiệu việc làm

Thành phố chỉ đạo Phòng Lao động, Thương binh & xã hội, Trung tâm giới

thiệu việc làm các huyện, thị chủ động mở rộng, phát triển thị trường sức lao

động để giải quyết việc làm cho người dân. Theo đó, tập trung phát triển thị

trường sức lao động cho các địa phương vùng ngoại thành Hà Nội, trước mắt

cần phải đẩy mạnh việc tự do hóa hơn nữa về chuyển dịch lao động từ trình

độ thấp sang trình độ cao, giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, tạo điều

kiện để phát triển thị trường sức lao động trong vùng và mở rộng thị trường ra

bên ngoài. Quá trình hình thành, phát triển thị trường sức lao động là quá

trình hoạt động kết nối các chủ thể tham gia vào việc mua bán hàng hóa sức

lao động theo quy luật của thị trường. Do vậy, cần tích cực hóa quan hệ thuê

mướn lao động ở các địa phương trong vùng, nhất là trong các lĩnh vực phi

75

nông nghiệp như làng nghề, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, xuất khẩu

lao động... Để tạo điều kiện cho thị trường sức lao động phát triển, cần tạo sự

kết nối, phối hợp hoạt động giữa các chủ thể để xây dựng sản phẩm hàng hóa

sức lao động chuyển đến nơi hình thành, đào tạo đến nơi sử dụng một cách

hợp lý, hiệu quả cho sự phát triển KT-XH của cả vùng.

Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng lao

động phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và thông lệ quốc tế, tạo điều

kiện cho lao động nước ta nói chung và lao động ở khu vực ngoại thành Hà

Nội hội nhập với thị trường lao động quốc tế. Bảo đảm quyền lợi hài hòa giữa

người lao động và người sử dụng lao động, góp phần làm lành mạnh môi

trường đầu tư. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công

khai và đơn giản. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính

quyền địa phương nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động trong lĩnh vực

lao động - việc làm.

Sở Giáo dục & Đào tạo và các sở, ngành có liên quan cần xác định

mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về trình độ học vấn,

chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng việc thông qua công tác đào tạo và dạy nghề.

Để thực hiện thắng lợi công tác đào tạo nghề, cần cải cách mạnh mẽ hệ

thông giáo dục theo hướng hiện đại, thực hiện liên thông giữa các cấp đào

tạo, phát triển mạnh mẽ hệ thống dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô,

nâng cao chất lượng trên cơ sở đa dạng hóa, chuẩn hóa và hiện đại hóa các

cơ sở dạy nghề, ngành nghề đào tạo, trình độ và phương thức đào tạo của

Thành phố bảo đảm cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp. Tiếp tục

thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo

nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, bổ sung ngân sách để hỗ trợ xây dựng

trường học và mua sắm trang thiết bị, dụng cụ phục vụ giảng dạy; thực hiện

tốt việc đưa tin học vào nhà trường. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện đội

ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, mở rộng quy mô và đa dạng hóa các

hình thức giáo dục phổ thông, đáp ứng nhu cầu cơ bản, nhu cầu học tập của

76

nhân dân, đặc biệt là của người dân khu vực ngoại thành. Đồng thời, củng cố

mạng lưới trường lớp, các trung tâm giáo dục cộng đồng. Thực hiện cơ chế

ưu đãi về học phí, xây dựng trường lớp, điều kiện dạy và học ở cấp học phổ

thông trung học, nên dành thời lượng thích đáng cho hướng nghiệp và dạy

nghề, để định hướng sớm nghề nghiệp và kỹ năng lao động.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục, để nâng cao chất

lượng giáo dục. Thực hiện tốt việc xây dựng các công trình trung tâm xã, cụm

dân cư, kiên cố hóa trường lớp. Phấn đấu xóa các phòng học tạm, xây dựng

lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm, nhà công vụ, nhà ở cho giáo viên, nhất là

ở những xã còn gặp nhiều khó khăn như ở huyện Ba Vì, Sóc Sơn, Mỹ Đức...

Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động, thực hiện đào tạo nghề

theo nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp. Thiết lập hệ thống kết nối giữa

hướng nghiệp dạy nghề tư vấn, giới thiệu việc làm, giải quyết các bức xúc về

việc làm của thanh niên sau tốt nghiệp. Đặc biệt, cần triển khai thực hiện có

hiệu quả dự án dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên nông thôn.

Thiết kế lại hệ thống đào tạo nghề tại chỗ cho người dân, cả về hình thức

đào tạo, phương thức hỗ trợ đào tạo lẫn ngành nghề đào tạo; đối với nông dân,

những người đang trong độ tuổi lao động chính bị thu hồi đất, cần phải đào tạo

các nghề có thể tìm được việc làm sau khi đào tạo với trả lương thỏa đáng. Các

cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, nhất là các trung tâm dạy nghề không nên thụ

động cung cấp cho người dân các tri thức và kỹ năng họ có sẵn, mà nên nghiên

cứu thị trường lao động để nhanh chóng tổ chức đào tạo các nghề có nhu cầu

đào tạo lớn và đem lại thu nhập tốt.

Đi đôi với phương thức đào tạo nghề, cần chú ý nâng cao hiệu quả các

chương trình đào tạo có sự hỗ trợ của Nhà nước. Cần phân loại nhu cầu đào

tạo có sự hỗ trợ của Nhà nước để tiến hành đào tạo một cách thiết thực theo

ba cấp độ: Đào tạo lại cho người dân ở nông thôn để họ có thể chuyển sang

làm các nghề phi nông nghiệp; đào tạo cho người dân làm nông nghiệp có

hiệu quả; đào tạo cho những người lao động làm dịch vụ. Những người nông

77

dân bị thu hồi đất, muốn chuyển nghề, cần phải xây dựng chương trình đào

tạo có chất lượng hơn. Tránh đào tạo các nghề đơn giản khó kiếm việc làm và

có kiếm được việc làm cũng đem lại thu nhập thấp, bấp bênh. Thành phố cần

đầu tư hơn nữa đào tạo nghề nông hiện đại cho những nông dân bám trụ làm

nông nghiệp, cần trang bị cho họ những kiến thức về cây trồng, kỹ thuật nhân

và tạo giống, kỹ thuật chăm sóc có sử dụng phương tiện hiện đại, kỹ thuật sử

dụng máy móc nông nghiệp. Đồng thời, bổ sung các lớp dạy kỹ năng thực hành

thương mại, các lớp dạy các ngành dịch vụ ở nông thôn như sửa chữa máy nông

nghiệp, tổ chức quản lý trang trại... để tạo ra một lớp người ở nông thôn có khả

năng tổ chức các hoạt động dịch vụ cho chính họ. Trong tương lai gần, các khu

công nghiệp và dịch vụ khu vực ngoại thành Hà Nội chưa thể thu hút hết số

lao động trong vùng, do đó cần đào tạo nghề để người dân có thể đi xuất khẩu

lao động hoặc tự mở các cơ sở sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn nên

được chú trọng ưu tiên.

Sở Lao động - Thương binh & Xã hội chủ trì phối hợp với các sở ngành

và các đơn vị liên quan gắn chương trình giải quyết việc làm với quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đô thị trong vùng. Giải quyết việc làm cho

người dân, nhất là lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa là vấn đề cơ

bản lâu dài, đòi hỏi phải được quy hoạch cụ thể ở từng địa phương của ngoại

thành Hà Nội. Việc làm cho người lao động chỉ có thể giải quyết một cách

căn bản khi gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ

cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời phải phát triển

các cụm công nghiệp, KCN, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng thương

mại, dịch vụ và du lịch. Phải gắn chương trình giải quyết việc làm với quá

trình đô thị hóa nhằm tạo ra sự gắn kết giữa phát triển đô thị với phát triển

kinh tế và giải quyết việc làm. Chương trình giải quyết việc làm phải gắn với

quy hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho cư dân, quy hoạch phát triển KT-XH,

78

quy hoạch đào tạo nghề cho người dân... phải được triển khai đồng bộ, phải

được thông tin công khai, minh bạch cho người dân ở các vùng thu hồi đất.

Giải quyết việc làm đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành

trong việc lồng ghép các chương trình với mục tiêu giải quyết việc làm, tăng

thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân với các chương

trình như: Chương trình xóa đói giảm nghèo; chương trình cứu trợ xã hội;

chương trình phát triển dân số, kế hoạch hóa gia đình; chương trình phòng

chống tệ nạn xã hội; chương trình đào tạo nghề; chương trình phát triển làng

nghề; chương trình mục tiêu định canh, định cư… Tiến hành quy hoạch, tổ

chức, sắp xếp lại hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và các cơ sở giới

thiệu việc làm; đẩy mạnh việc triển khai thành lập các trung tâm giới thiệu

việc làm gắn với các điểm giao dịch chợ việc làm; đầu tư cơ sở vật chất, trang

thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động; tăng cường thu thập, cung cấp

thông tin về tuyển dụng, nhu cầu việc làm, cơ sở dạy nghề, ngành nghề đào

tạo trên địa bàn. Xây dựng hệ thông thông tin thị trường sức lao động trên

mạng để trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến thị trường sức lao động

giữa các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề, người lao động và cơ quan quản lý.

3.2.2. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về chính trị - xã hội

Đây là nhóm giải pháp rất quan trọng bảo đảm cho các địa phương

ngoại thành Hà Nội giải quyết tốt các vấn đề xã hội, góp phần ổn định tình

hình chính trị - xã hội trong quá trình đô thị hóa. Bởi lẽ, cùng với quá trình đô

thị hóa, đất đai bị thu hồi cho mục đích đô thị diễn ra nhanh chóng, trong khi

đó người dân ở khu vực ngoại thành chưa thay đổi kịp theo cơ cấu lao động,

việc làm mới. Tình trạng thất nghiệp và các mặt trái về xã hội tăng lên nhanh.

Các phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt của người dân chưa thay đổi kịp

với sự phát triển của quá trình đô thị hóa. Khu vực ngoại thành cũng là nơi tập

trung rất nhiều kho tàng, bến bãi tiếp nhận trung chuyển hàng hóa dịch vụ ra

vào thành phố; tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, lực

79

lượng lao động từ nhiều địa phương khác về làm ăn sinh sống... là một trong

những nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề bất ổn về xã hội. Vì vậy, đô thị

hóa bền vững về xã hội là một nội dung quan trọng phải được giải quyết trong

quá trình đô thị hóa. Để thực thực tốt nội dung này, cần phải thực tốt một số

giải pháp chủ yếu sau:

* Thứ nhất, phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong giải quyết

các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội

Để phát huy tốt vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong giải quyết các

vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội cần

phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Tiếp tục nâng cao nhận thức và bảo đảm tốt vai trò hạt nhân chính trị

của các tổ chức cơ sở đảng trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh.

Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề kinh

tế, xã hội nảy sinh gắn chặt với vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức cơ sở

đảng trong hệ thống chính trị; các đảng bộ, chi bộ cơ sở chính là hạt nhân lãnh

đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở. Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi các

nhiệm vụ đặt ra, tổ chức cơ sở đảng phải đảm bảo thực sự trong sạch, vững

mạnh, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, trong đó đặc biệt chú

trọng phương thức thuyết phục, nêu gương. Mỗi đảng viên ở cơ sở phải nêu

cao vai trò tiền phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong

sáng, có lối sống lành mạnh, thực sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ

sở, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực. Khi

đảng viên cơ sở, đặc biệt là các cấp ủy viên, bí thư chi bộ gương mẫu, biết hy

sinh lợi ích cá nhân, vì lợi ích chung, hết mình chăm lo đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân, biết làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc làm giàu chính đáng

và vận động cùng bà con làm giàu thì sẽ có tác động tích cực góp phần rất lớn

vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh ở cơ sở.

Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở

80

Để giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa rất

cần thiết có chính quyền ở cơ sở vững mạnh, có hiệu lực. Các địa bàn cơ sở

xã, phường, thị trấn có những đặc điểm riêng, hoạt động sản xuất, đời sống

dân cư không giống nhau, nhất là có nhiều biến động ngay trong quá trình đô

thị hóa. Do vậy, việc phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của chính

quyền xã, chính quyền đô thị là để tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở thực

hiện tốt các nhiệm vụ. Đối với chính quyền xã cần chú trọng đến các vấn đề

việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa. Thôn, xóm không

phải là một cấp hành chính. Trưởng thôn, xóm do dân trực tiếp bầu vừa là

người đại diện cho dân, vừa là người đại diện cho chính quyền xã để thực

hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn, xóm. Các hình thức tự quản này có

vai trò quan trọng, góp phần phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở

trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội trong quá trình đô thị hóa.

Khi chính quyền cơ sở được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, được chủ động trong hoạt động và có

điều kiện cơ sở vật chất làm việc được đáp ứng đầy đủ thì sẽ có tác động rất

lớn đảm bảo cho việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc giải

quyết các vấn đề KT-XH ở cơ sở.

Tiếp tục đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có vai trò không kém phần quan

trọng trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH trong quá trình đô thị hóa.

Trong những năm qua, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở một số địa

phương đã tham gia tích cực vào việc thực hiện những nhiệm vụ này. Tuy

nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò đó, cần tiếp tục đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở các cơ sở

trong vùng. Đặc biệt, Mặt trận cần có vai trò quan trọng đẩy mạnh việc thực

hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường chức năng giám sát của Mật trận

tại cơ sở. Thực tế cho thấy, Quy chế dân chủ ở cơ sở, mà nay là Pháp lệnh dân

81

chủ ở cơ sở, là một phương thức hiệu nghiệm nhằm phòng ngừa sai phạm,

tham nhũng và tiêu cực ở cơ sở, nhất là trong việc thực hiện các dự án ở địa

phương trong quá trình đô thị hóa. Mặt trận và các đoàn thể phải thực sự là

người đại diện cho nhân dân ở cơ sở kịp thời phản ánh ý kiến của quần chúng

về xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi

phạm dân chủ; tham gia tích cực việc hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ

nhân dân, bày tỏ thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải

quyết từ gốc những vấn đề KT-XH nảy sinh ở cơ sở.

Bên cạnh đó cần phát huy tính chủ động của Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân ở cơ sở trong hoạt động, trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí

hoạt động; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong công tác tuyên

truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân tham gia vào giải quyết các vấn đề

KT-XH, đặc biệt là chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng,

tăng cường tuyên truyền sâu rộng, công khai về các dự án được thực thi trên

địa bàn, đồng thời vận động nhân dân tham gia giám sát, đề xuất ý kiến nhằm

góp phần cho các dự án được thực thi nghiêm túc, hiệu quả, chất lượng.

Tiếp tục xây dựng, nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt cho đội ngũ

cán bộ cơ sở

Muốn phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc giải

quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa thì điều quan trọng

mang tính then chốt là phải xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ngày càng vững

mạnh, có đủ năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Trong thời gian tới,

cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ ở cấp cơ sở để

có thể đáp ứng được yêu cầu về quản lý, điều hành, thực hiện các chính sách,

các chương trình, dự án phát triển KT-XH ở các địa phương này.

Việc đào tạo cán bộ cẩn phải gắn chặt với công tác quy hoạch cán bộ, đặc

biệt là đào tạo phải xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tiễn của cở sở. Cùng với

nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cơ sở, cần phải có các chính sách

ưu đãi cho cán bộ công tác ở cơ sở. Thực hiện chính sách thu hút, tạo nguồn cán

82

bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, nhà khoa học trẻ tuổi để bổ sung cán bộ cho các

lĩnh vực công tác của các địa phương khu vực ngoại thành. Ngoài ra, cần coi trọng

việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự làm

nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở. Để xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững

mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần tiếp tục thực hiện tốt việc "Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cần coi đây là biện pháp thường

xuyên nhằm rèn luyện đội ngũ cán bộ, động viên cán hộ, nhân dân hoàn thành

các nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương. Qua thực tế ở cơ sở một số địa

phương thuộc ngoại thành Hà Nội cho thấy từ kết quả của cuộc vận động này

làm chuyển biến cơ bản về nhận thức của cả cán bộ và người dân; nề nếp sinh

hoạt của Đảng bộ và các chi bộ cơ sở đã được củng cố chặt chẽ hơn; các cán

bộ, đảng viên đều có ý thức xây dựng và có trách nhiệm gánh vác công việc

chung, nêu gương tốt cho quần chúng.

* Thứ hai, giải quyết tốt vấn đề tái định cư, hậu tái định cư và ổn định

cuộc sống cho các hộ nông dân trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội

Tái định cư và hậu tái định cư có ý nghĩa hết sức to lớn góp phần ổn

định cuộc sống cho người dân, hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong quá

trình đô thị hóa. Để giải quyết tốt vấn đề này chúng ta cần chú trọng thực hiện

tốt một số biện pháp cụ thể sau:

Giải quyết tốt vấn đề tái định cư và hậu tái định cư trong quá trình đô thị hóa

Vấn đề tái định cư và hậu tái định cư ở một số địa phương ngoại thành

Hà Nội trong thời gian qua đã thu hút sự quan tâm của xã hội. Đặc biệt là nhân

dân ở vùng nông thôn sống lâu đời phải di chuyến đến nơi ở mới do quá trình

đô thị hóa. Những tác động tiêu cực của tái định cư đã làm cho người dân thiếu

lòng tin vào cách giải quyết của chính quyền. Để bảo đảm cho quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa đạt kết quả tốt, điều cần thiết là phải giải quyết tốt vấn

để tái định cư cho người dân bị thu hồi đất theo nguyên tắc. Tái định cư phải

tạo điều kiện cho người dân bị giải tỏa có cuộc sống ít nhất bằng hoặc tốt hơn

nơi ở cũ. Muốn vậy cần thực hiện các biện pháp sau:

83

UBND thành phố Hà Nội, các sở, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo

chính quyền địa phương thực hiện tốt việc thực thi chính sách về công tác tái

định cư, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng một cách ổn định. Khắc phục

sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong việc đền bù, bố trí tái định cư, giải

quyết các vấn đề hậu tái định cư… Kiên quyết khắc phục việc tồn tại hai giá

đất do sự chênh lệch quá lớn giữa hai loại giá này đã gây ra nhiều rắc rối

trong việc giải phóng mặt bằng. Do vậy, phải sửa đổi lại khung giá cho linh

hoạt, sát với giá thực tế để xác định đúng giá trị đền bù, bảo đảm lợi ích cho

doanh nghiệp cũng như người dân và Nhà nước không bị thiệt thòi khi tái

định cư. Thực hiện đúng các chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư theo

các quy định hiện hành của Nhà nước. Thực hiện tốt vấn đề dân chủ ở cơ sở

trong thực thi chính sách tái định cư, công khai quy hoạch, phương án đền bù,

giá cả đền bù... Ngoài việc quy hoạch đất tái định cư các hộ có đất bị thu hồi

được đền bù, được bồi thường theo quy định của Nhà nước, còn được xem xét

cấp đất dịch vụ, được ưu tiên tuyển dụng lao động, được hỗ trợ di chuyển giải

phóng mặt bằng, được ưu tiên đào tạo nghề... theo các chủ trương chính sách

của Đảng và Nhà nước.

Đối với các khu tái định cư phải được quy hoạch đạt tiêu chuẩn của đô

thị, có hệ thống kết cấu hạ tầng như: Đường giao thông, hệ thống cung cấp

điện, hệ thống cấp thoát nước và xử lý chất thải; có trường học, bệnh viện, nơi

vui chơi giải trí... bảo đảm chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Trong quy hoạch bố trí

tái định cư cho người dân phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm tâm lý, yếu tố

truyền thống, yếu tố văn hóa của người dân trong vùng để bố trí tái định cư

cho phù hợp nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực do tái định cư gây ra,

nhất là phong tục tập quán, đặc điểm sản xuất kinh doanh, quan hệ dòng tộc,

họ hàng... Cần có những khu tái định cư phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp của

người dân, nhất là những người lao động không có điều kiện hoặc không

muốn chuyến đổi nghề nghiệp như nghề nông. Với những người này, không

84

nhất thiết phải đưa họ vào các căn hộ, khu chung cư, bởi họ khó thích nghi

với điều kiện sống mới và rất khó khăn trong bảo đảm công ăn việc làm sau

tái định cư.

Thực hiện tốt chính sách an ninh xã hội sau tái định cư. Chú trọng hơn

nữa chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người tái

định cư, đồng thời chú ý đến các chính sách phát triển kết cầu hạ tầng KT-

XH. Bảo đảm đủ điều kiện về giáo dục, chăm sóc sức khỏe và đời sống văn

hóa, tinh thần cho các hộ tái định cư. Khắc phục những yếu kém, bất cập

trong các văn bản pháp luật về công tác giải tỏa, đền bù đất. Pháp luật về đất

đai trong một thời gian dài thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể và thiếu nhất quán, làm

cho cách hiểu cũng như cách áp dụng luật có sự khác nhau ở các địa phương.

Vì vậy, cần sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật, khắc phục những bất

cập, chưa đồng bộ nhằm tạo ra sự nhất quán về pháp luật là việc làm hết sức

cần thiết. Trước mắt cần có quy định về khung giá đền bù khi thu hồi đất một

cách hợp lý, bảo đảm lợi ích cho người dân trong diện bị giải tỏa đền bù.

Tăng cường hơn nữa nguồn kinh phí và tiềm lực tài chính để xây dựng kết

cấu hạ tầng trong các khu tái định cư. Nâng cao chất lượng các công trình ở

khu tái đinh cư. Hỗ trợ người dân trong việc phát triển giáo dục, đào tạo

chuyển đổi nghề, khuyến khích người dân nâng cao năng lực tìm kiếm việc

làm để bảo đảm thu nhập sau khi di dời.

Ổn định cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa

Việc thu hồi đất để phục vụ cho quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà

Nội trong thời gian qua đã có những tác động tích cực, song còn nhiều tác

động tiêu cực đến việc làm và đời sống của người dân ở vùng này. Để đảm

bảo mức sống của các hộ phải di chuyển, cần phải có một quá trình chuẩn bị

đầy đủ và toàn diện nhằm thiết lập các biện pháp phù hợp. Để bảo đảm hiện

thực hóa những lợi ích từ việc xây dựng, phát triển công nghiệp hóa, đô thị

hóa, một trong những vấn để cần phải được quan tâm giải quyết là phải cải

85

thiện chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất, nhất là cho các hộ

gia đình tái định cư.

Việc đền bù và hỗ trợ khôi phục cuộc sống cũng như lợi ích mà những

người dân bị ảnh hưởng bởi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa phải được tính

toán đầy đủ trong đánh giá hiệu quả dự án, kể cả về mặt KT-XH và môi trường.

Thực tế thời gian qua không những ở một số địa phương mà còn nhiều địa

phương trên cả nước cho thấy: Lợi ích của người lao động bị thu hồi đất chưa

được giải quyết thỏa đáng, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn, có nhiều

nguyên nhân, trong đó có việc bị thu hồi đất. Các cơ quan chức năng của Nhà

nước chưa thống nhất và quán triệt nguyên tắc đền bù giải phóng mặt bằng,

cũng như hỗ trợ giải quyết việc làm. Đền bù giá trị quyền sử dụng đất không

bảo đảm ngang giá thị trường và chưa bảo đảm tính công khai minh bạch,

bình đẳng trong chính sách đền bù. Vì chưa quán triệt nguyên tắc thị trường,

nên nhiều lúc nhiều nơi quá nhấn mạnh vào vai trò của Nhà nước trong giải

quyết, thiếu kế hoạch trong việc sử dụng tiền đền bù để tạo việc làm đem lại

thu nhập, bảo đảm ổn định đời sống. Vì vậy, việc xác định quyền sử dụng đất

để đền bù, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho

người lao động có đất, bị thu hồi cần được thực hiện theo cơ chế thị trường.

Sớm chuyển đổi lao động nông nghiệp sang các nghề phi nông nghiệp

như: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Tăng cưòng

đào tạo hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ, ưu tiên thực hiện tiếp

nhận lao động vào các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, có cơ chế

giám sát việc doanh nghiệp ưu tiên nông dân và con em nông dân sau khi bị

thu hồi đất. Để ổn định sản xuất và đời sống của nông dân, tuyệt đối không

được lấy đi khu vực đất tốt, nếu vẫn lấy đất nông nghiệp phải là những khu vực

đất xấu, canh tác không hiệu quả. Hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông

nghiệp còn lại chuyển sang phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng

các tiến bộ khoa học mới để tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích;

quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung; đẩy mạnh dồn điển, đổi

86

thửa, phát triển hình thức kinh tế trang trại; đổi mới loại hình hợp tác xã,

doanh nghiệp nông thôn. Đào tạo người dân có kiến thức sản xuất nông

nghiệp theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có

chất lượng và có giá trị. Tăng cường đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, nông

thôn, nông dân, phát triển dịch vụ công, tài chính công, các loại hình tín dụng

để giải quyết vấn đề vốn.

Chỉ đạo thực hiện tốt việc giao đất dịch vụ của người dân bị thu hồi đất

để chuyển đổi nghề; ưu tiên các công trình xã hội như trường đào tạo nghề,

tạo điều kiện ưu đãi để phát triển làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp

vừa và nhỏ để thu hút lao động dư thừa ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi

để phát triển dịch vụ du lịch tại những địa phương có tiềm năng du lịch, đưa

ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Quốc Oai, Ba Vì, Mỹ Đức,

Sơn Tây, Sóc Sơn…). Muốn vậy, ngành du lịch phải được đầu tư và bảo đảm

được sự hài hòa giữa phát triển du lịch với quản lý bền vững tài nguyên thiên

nhiên gắn với môi trường văn hóa. Khuyến khích nông dân bị thu hồi đất trích

một khoản tiền được bồi thường góp vốn vào các doanh nghiệp để họ trở

thành cổ đông. Các cổ đông cá nhân không chỉ hưởng cổ tức, mà còn tập hợp

cổ phần, cử người đại diện của mình (hoặc thuê chuyên gia) tham gia quản lý

công ty. Hình thức này sẽ giảm việc tiêu dùng của nông dân vào việc mua

sắm tài sản cố định, để tập trung tiền cho đầu tư kinh doanh dịch vụ, góp vốn

sản xuất, tạo việc làm và có nguồn thu nhập ổn định lâu dài, khi có tích lũy sẽ

xây nhà, mua xắm tài sản, đây là cách đầu tư có hiệu quả nhất.

Đảm bảo nhà ở cho người lao động làm việc tại các KCN, KCX…

Các sở, ngành chức năng của Thành phố phải cùng với doanh nghiệp

xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, bảo đảm nhu cầu về nhà ở cho người lao động

của KCN; cần xác định địa điểm xây dựng, huy động nguồn vốn đầu tư,

phương thức đầu tư, các đơn vị thực hiện, đảm bảo nhu cầu trước mặt và nhu

cầu phát triển lâu dài của KCN. Khi phê duyệt các dự án KCN, dứt khoát phải

để dành quỹ đất để xây dựng nhà cho thuê đối với các đối tượng lao động

87

trong KCN. Bên cạnh đó, các công trình xã hội như trường học, trạm y tế, khu

vui chơi, khu thể thao- văn hóa, chợ, siêu thị… cũng cần được quy hoạch và

xây dựng đồng bộ với tiến độ xây dựng và phát triển KCN và khu nhà ở cho

công nhân lao động.

3.2.3. Nhóm giải pháp đô thị hóa bền vững về môi trường và bảo đảm

tốt về quốc phòng, an ninh

Đô thị hóa bền vững về môi trường và bảo đảm tốt về quốc phòng, an

ninh là nhóm giải pháp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra môi trường hòa

bình ổn định và bảo đảm cho kinh tế - xã hội của khu vực ngoại thành Hà Nội

phát triển một cách bền vững trong quá trình đô thị hóa. Thực tế cho thấy, sự

thiếu bền vững trong quá trình đô thị thị hóa ngoại thành Hà Nội những năm

qua có nguyên nhân từ việc quan tâm thực hiện vấn đề môi trường trong quá

trình đô thị hóa còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Vì vậy, giải quyết tốt vấn

đề môi trường có ý nghĩa to lớn với sự phát triển sản xuất cũng như đời sống

của con người. Đối với những khu vực đang trong quá trình đô thị hóa lại

càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do quá trình phát triển dân số, lao động,

quy mô sản xuất và cung cấp các dịch vụ của đô thị tăng nhanh làm cho rác

thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, rác thải xây dựng, rác thải y tế tăng theo.

Với các địa bàn giáp ranh đô thị thường là nơi được lựa chọn để xây dựng các

nhà máy, các KCN, KCX vì giá đất thấp mà vẫn được hưởng các dịnh vụ của

đô thị, thuận lợi về giao thông. Hơn nữa, nơi đây đang trong quá hình thành

và phát triển các đô thị mới sự quản lý môi trường thường lỏng lẻo nên dễ dẫn

tới hiện tượng ô nhiễm môi trường. Cuộc sống của người dân khu vực ngoại

thành Hà Nội thật sự có ý nghĩa và phát triển một cách bền vững chỉ khi mà

họ được sống trong một xã hội có an ninh, hòa bình, trật tự, ổn định.

Thứ nhất, xử lý tốt vấn đề môi trường

Vấn đề môi trường bị ô nhiễm hiện nay đang thách thức rất lớn đến sự

phát triển KT-XH. Ô nhiễm môi trường từ các KCN, KĐT, làng nghề nếu

88

không có giải pháp khắc phục sẽ làm cho sự phát triển của khu vực ngoại

thành Hà Nội đi chệch hướng khỏi mục tiêu PTBV, mục tiêu phát triển toàn

diện con người. Do đó, ô nhiễm môi trường trong quá trình xây dựng các

KCN, KĐT, các làng nghề ở một số địa phương đã và đang gây nên nhiều bức

xúc trong các cộng đồng dân cư, nhất là dân cư liền kề với các KCN, KĐT.

Để khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình đô thị hóa ở ngoại

thành Hà Nội, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau:

Đầu tư xây dựng và phát triến kết cấu hạ tầng kỹ thuật để giảm thiểu ô

nhiễm môi trường

Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự PTBV về môi

trường, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là một việc làm rất cần

thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy cần tập trung xây dựng hệ thống xử lý

chất thải, hệ thống thoát nước... ; quy hoạch xây dựng cơ sở nhà xưởng, đường

giao thông trong vùng; phát triển mạng lưới cung cấp điện, phát triển hệ thông

thông tin liên lạc; đầu tư xây dựng và cung cấp nước sạch cho người dân;

khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ thiết

bị, áp dụng công nghệ nhiều trình độ trong khu vực sản xuất của làng nghề,

KCN để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay, một số KCN đã đi vào hoạt

động như KCN Hà Nội - Đại Từ, KCN Nam Thăng Long, Thạch Thất, Quốc

Oai, Phú Nghĩa và Quang Minh I cần hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng

kỹ thuật bên trong như khu xử lý nước thải, đường giao thông nội bộ và tiếp

tục củng cố, hoàn thiện các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như đấu

nối với hệ thống giao thông chính.

Tăng cường truyền thông cho người dân về Luật bảo vệ môi trường và

các phương pháp làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Thông qua việc xây dựng các hương ước trong việc bảo đảm môi trường

xanh, sạch, đẹp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển bền vững. Ngăn

chặn và xử lý kịp thời việc tự phát ''bành trướng" nghề gây độc hại, ảnh hưởng

89

đến mỹ quan, môi sinh của dân cư. Đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp

luật về bảo vệ môi trường trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhân viên,

chủ các doanh nghiệp, người lao động về ý thức tự giác trong bảo vệ môi

trường. Có chính sách khen thưởng cụ thể, nhân rộng các mô hình, điển hình

tiên tiến về bảo vệ môi trường. Những biện pháp tuyên truyền cần đa dạng, dễ

hiểu để có tác dụng chuyển từ nhận thức sang hành động.

Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương để khắc phục tình trạng

ô nhiễm môi trường

Tình hình ô nhiễm do sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và

sinh hoạt gây ra, trước hết các đơn vị sản xuất kinh doanh và các địa phương

phải kiểm soát được và cải thiện từng bước ô nhiễm môi trường. Bắt buộc các

KCN, KĐT hoàn thiện và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập

trung. Xây dựng đề án giám sát chất thải nguy hiểm, hỗ trợ các bệnh viện xử

lý chất thải độc hại và xây dựng hệ thống nước thải. Kiên quyết xử lý nghiêm

minh việc thải nước ra các hệ thống sông, ngòi chưa qua xử lý.

Xây dựng chuẩn mực môi trường ngay từ đầu cho từng khu công nghiệp,

khu đô thị, làng nghề...

Khắc phục tình trạng quy hoạch kém để các KCN nằm lọt, nằm sát khu

dân cư, gần trung tâm các đô thị. Bố trí sắp xếp các cơ sở sản xuất, kinh

doanh theo từng ngành nghề và mức độ gây ô nhiễm. Có kế hoạch bố trí, di

dời các cơ sở gây ô nhiễm nặng đến địa điểm hợp lý, đồng thời thanh lọc các

cơ sở có công nghệ sản xuất lạc hậu gây ô nhiễm ra khỏi KCN, cụm công

nghiệp. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh cho các khu, cụm công

nghiệp, làng nghề, khu đô thị để dễ dàng kiểm soát ô nhiễm, xử lý chất thải,

bảo vệ môi trường và PTBV. Các cơ sở này phải bảo đảm được các tiêu chí

về điện, nước, hệ thống xử lý chất thải và diện tích mặt bằng thuận lợi.

Thẩm định chặt chẽ các dự án đầu tư

90

Kiên quyết không cấp giấy phép cho những doanh nghiệp gây độc hại

mà không có sự đầu tư đảm bảo cho môi trường. Trường hợp đã cấp giấy phép

cho các doanh nghiệp có nhiều khả năng gây ô nhiễm môi trường, thì cần quy

định chặt chẽ các biện pháp xử lý chất thải của doanh nghiệp trong quá trình

hoạt động. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ cả về cơ chế và kinh phí cho các cơ sở

sản xuất - kinh doanh sử dụng nguyên liệu tái chế, năng lượng tái sinh, ưu tiên

các ngành nghề sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường. Giám sát

chặt chẽ việc thực hiện cơ chế triển khai thành lập mới và mở rộng KCN,

KCX mới theo đúng điều kiện và tiêu chí trong quy hoạch phát triển, đặc biệt

là về công trình xử lý nước thải tập trung. Đối với các KCN, KCX đã lấp đầy

trên 60% diện tích đất nông nghiệp mà chưa xây dựng công trình xử lý nước

thải tập trung, thì kiên quyết không cấp mới giấy chứng nhận đầu tư. Những

dự án đầu tư vào KCN phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lý chất thải

mới được phép hoạt động. Khi cho thuê đươc 50% diện tích thì phải tiến hành

xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung.

Nâng cao năng lực và vai trò quản lý nhà nước ở các cấp trong việc

bảo vệ môi trường

Các cơ quan nhà nước về quản lý môi trường cần tạo điều kiện giúp đỡ,

khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng trong việc hoàn thiện

hệ thống xử lý chất thải cho các KCN, KCX. Cần có những chính sách ưu đãi

đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng đầu tư

xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, chất thải tại các khu công nghiệp, làng

nghề. Các doanh nghiệp kinh doanh này phải đánh giá định kỳ môi trường của

các KCN, KCX, làng nghề... nắm chắc được tình trạng gây nhiễm môỉ trường

của cả khu vực và từng doanh nghiệp để có những biện pháp xử lý kịp thời. Các

cơ quan chức năng về quản lý môi trường cần tăng cường công tác kiểm tra, tình

trạng ô nhiễm môi trường, nhất là những điểm nóng về ô nhiễm môi trường, xử

lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm, đặc biệt là những trường hợp đã được

91

các cơ quan chức năng cảnh cáo, nhắc nhở nhiều lần, kể cả việc đình chỉ hoạt

động, nếu để tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và kéo dài.

Củng cố bộ máy quản lý môi trường theo hướng làm rõ chức năng,

nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý môi trường cho từng đơn vị, cá nhân đã được

phân công; khắc phúc tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Cần có

kế hoạch đầu tư thêm phương tiện, máy móc thiết bị, phòng thí nghiệm cho các

đơn vị quản lý môi trường. Có kế hoạch bổ sung kinh phí cho công tác đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường cũng như mở các

lớp bồi dưỡng cho số cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường ở các doanh

nghiệp nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ này. Thực hiện các dự án

về cải tạo, bảo vệ môi trường, trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, xây

dựng các công trình làm sạch môi trường. Phát triển các dịch vụ về môi

trường như trồng vườn hoa, thu gom rác thải, cung cấp nước sạch, xây dựng

các vườn sinh thái, vườn cây cảnh... Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ

môi trường để thu hút rộng rãi các tầng lớp, các lực lượng xã hội cùng tham

gia bảo vệ môi trường.

Thứ hai, bảo đảm tốt vấn đề quốc phòng, an ninh trong quá trình đô thị

hóa ngoại thành Hà Nội. Theo đó cần chú trọng một số biện pháp:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động của

quân đội và công an trong tham gia xây dựng, thực hiện tiến hành đô thị hóa.

Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh, quốc phòng cho

quá trình đô thị hóa ở một số địa phương thông qua đường lối, chủ trương,

chính sách, nghị quyết... Những định hướng chỉ đạo của Đảng được xây dựng

trên cơ sở nhận thức vận dụng các quy luật kinh tế khách quan.,. nên đảm bảo

được tính đúng đắn, khoa học và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng

nhân dân, nếu được triển khai và vận dụng tốt sẽ huy động được sức mạnh

của toàn dân, toàn quân, hệ chính trị cùng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ

đảm bảo an ninh, quốc phòng cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.

92

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị

quân đội, công an cần quan tâm chỉ đạo giám sát vấn đề thực hiện sự lồng

ghép, kết hợp triển khai nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh với việc tổ

chức thực hiện các phong trào phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Xây

dựng và hoàn thiện các văn bản tạo cơ sở pháp lý để các lực lượng vũ trang có

đủ điều kiện, tham gia thẩm định các dự án, giám sát tiến độ xây dựng các

KCN, KĐT, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mức độ triển khai xây

dựng các khu đô thị trên địa bàn.

Theo quy định của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, đặc biệt

là Bộ tư lệnh Thành phố, Ban chỉ huy quân sự các quận, huyện và lực lượng

công an trên địa bàn cần triển khai lực lượng thẩm định và tư vấn, giám sát

những vấn đề quốc phòng, an ninh nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa,

đô thị hóa. Cùng với UBND, các cơ quan các cấp có liên quan phối hợp tiến

hành thẩm định, quy hoạch, giám sát tiến độ thực hiện các dự án nằm trong

tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Đồng thời, cần chú trọng tiếp tục hoàn

thiện cơ chế phối hợp theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, hạn chế sự chồng chéo,

mang nặng hình thức, gây phiền nhiễu và cản trở sự phát triển kinh tế, mở

mang đô thị của các chủ đầu tư. Nâng cao nhận thức và thống nhất những

quan điểm cơ bản trong đảm bảo an ninh, quốc phòng trong quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa với cấp ủy, chính quyền địa phương.

Tăng cường chất lượng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương

các cấp, lực lượng quân đội, công an đối với quá trình đô thị hóa.

Để triển khai tốt công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tiến trình

đô thị các lực lượng quân đội và công an trên địa bàn, đặc biệt là lực lượng

công an xã, phường, cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân, dân

phòng, hội cựu chiến binh và các đoàn thể quần chúng để chủ động phòng

ngừa những âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch và những biểu hiện

hoạt động gây rối an ninh, trật tự xã hội trên trên sở đó nắm chắc tình hình

93

trên các địa bàn, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động quy hoạch

xây dựng đô thị, nắm chắc các đối tượng chính trị, các đối tượng tệ nạn xã

hội... Khi các đối tượng này có những hành vi vi phạm luật pháp cần có

những biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời. Ở các KCN, KCX, các địa điểm

kinh doanh, những khu mở mang xây dựng đô thị cần phải xây dựng được kế

hoạch, chương trình, nội dung phối hợp các hoạt động của lực lượng công an,

lực lượng chuyên trách an ninh quân đội đóng quân trên các địa bàn, các

ngành có liên quan để thu thập tin tức từ những nguồn thông tin khác nhau,

xác định mức độ đảm bảo an ninh - quốc phòng ở từng dự án, hậu quả nguy

hại mà các lực lượng thù địch có thể lợi dụng quá trình đô thị hóa để chống

phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Chú trọng xây dựng lực lượng quân đội và công an trên địa bàn các

huyện, thị vững mạnh toàn diện đủ điều kiện đảm bảo nhiệm vụ thường xuyên

và sẵn sàng ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng của các

lực lượng thù địch trong quá trình đô thị hóa. Như vậy, đòi hỏi phải xây dựng

lực lượng quân đội và công an trên địa bàn vững mạnh về chính trị, tinh thần,

năng lực và khả năng chiến đấu để ngăn chặn và trấn áp mọi kẻ thù, mọi loại

tội phạm với hiệu quả cao nhất, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, góp phần tạo

nên sự ổn định KT-XH, đảm bảo an ninh - quốc phòng ở các địa phương.

Quân đội và công an chủ động phối hợp với chính quyền địa phương

đảm bảo quốc phòng, an ninh cho quá trình đô thị hóa.

Nội dung quân đội, công an tham gia đảm bảo quốc phòng, an ninh

trong quá trình đô thị hóa còn được thể hiện cụ thể thông qua việc: Quán triệt

tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; trực

tiếp bảo vệ và tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở; trực tiếp tham gia

giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...; làm nòng cốt trong tham gia

phát triển KT-XH... Trong đó, tham gia phát triển KT-XH trên địa bàn giữ vai

trò quyết định, xét cả trước mắt và lâu dài, việc đảm bảo an ninh, quốc phòng

quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.

94

Quân đội, công an tích cực chủ động tham mưu cho chính quyền địa

phương xây dựng chủ trương, phương hướng, kế hoạch phát triển KT-XH,

củng cố quốc phòng- an ninh trên địa bàn. Những chủ trương, phương hướng,

kế hoạch... của chính quyền địa phương luôn thống nhất về mục tiêu với

chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của Đảng

và Nhà nước, đồng thời chú trọng phát huy những lợi thế so sánh của từng địa

phương. Tích cực hỗ trợ nhân dân ổn định cuộc sống và tham gia xây dựng,

củng cố các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Trên cơ sở luật định và

những thể chế hướng dẫn, các đơn vị quân đội và công an chủ động phối hợp

với cấp ủy, chính quyền địa phương, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố... Căn

cứ vào phẩm chất chính trị và nguyên tắc hoạt động của lực lượng an ninh

tiến hành lựa chọn một số cơ sở quần chúng để xây dựng mạng lưới an ninh

cơ sở. Việc mở rộng và hoạt động tốt của mạng lưới an ninh cơ sở trên địa

bàn sẽ góp phần ngăn chặn có hiệu quả hoạt động gây rối an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội ở khu vực ngoại thành Hà Nội.

*

* *

Trên cơ sở đánh giá những thực trạng về quá trình đô thị hóa ngoại

thành Hà Nội theo hướng PTBV. Trong những năm qua, quá trình này đã đem

lại nhiều thành tựu to lớn, song cũng đã để lại không ít những hạn chế và bất

cập. Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình đô thị hóa ngoại

thành Hà Nội theo hướng PTBV cần phải quán triệt và thực hiện tốt các quan

điểm đó là: Trong quá trình đô thị hóa phải coi trọng các tiêu chí PTBV; đô

thị hóa ngoại thành Hà Nội phải đẩy mạnh phát triển KT-XH nhằm giải quyết

tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong khu vực; chú trọng vấn đề tiến bộ và công

bằng ngay trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội; nâng cao năng lực

95

và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của Nhà nước để giải quyết

các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.

Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội PTBV trong thời gian tới

cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch, giải quyết một cách có hiệu quả mối

quan hệ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông

nghiệp, nông thôn; giải quyết tốt vấn đề tái định cư, hậu tái định cư và ổn

định cuộc sống cho các hộ nông dân trong quá trình đô thị hóa; sử dụng đất

đai một cách hợp lý trong quá trình đô thị hóa; giải quyết việc làm cho người

dân trong quá trình đô thị hóa; xử lý tốt vấn đề môi trường và bảo đảm quốc

phòng, an ninh trong quá trình đô thị hóa; phát huy vai trò của hệ thống chính trị

cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình đô thị

hóa...

Trên đây là hệ thống giải pháp có tính đồng bộ và hỗ trợ cho nhau

nhằm phát huy những thành tựu to lớn và khắc phục những hệ lụy do quá

trình đô thị hóa đem lại. Mỗi giải pháp có vai trò vị trí và tầm quan trọng

riêng nên trong quá trình thực hiện phải tùy thuộc vào tình hình cụ thể của

từng địa bàn hoạt động mà có sự vận dụng cho phù hợp nhằm thúc đẩy quá

trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV một cách hiệu quả.

96

KẾT LUẬN

Đô thị hoá là biểu hiện của sự phát triển KT-XH, là sự quá độ chuyển

từ hình thức sống ít văn minh, ít tiện nghi lên một hình thức sống hiện đại,

văn minh trên tất cả các phương diện. Nó làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ

giữa người với người trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Những biểu

hiện cụ thể của đô thị hoá là sự tăng cường mức độ tập trung dân cư, tăng tỷ

lệ lao động phi nông nghiệp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô diện

tích đô thị hiện có, hình thành các đô thị mới và các khu đô thị mới. Quá trình

đô thị hoá phải dựa trên cơ sở phát triển kinh tế mà cốt lõi là phát triển công

KT-XH, mà còn thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển KT-XH. Vì vậy, quá

nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển

trình đô thị hóa phải gắn chặt với phát triển bền vững. Đô thị hóa phát triển

bền vững là quá trình đô thị hóa trong đó phải bảo đảm được sự hài hòa giữa

các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.

Trong thời gian qua, ngoại thành Hà Nội là một trong những địa

phương có tốc độ đô thị hóa nhanh của cả nước. Quá trình này đã đem lại

nhiều thành tựu to lớn như: Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích

cực; tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông

nghiệp trong GDP, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh cho Hà

Nội; hệ thống kết cấu hạ tầng được nâng cấp và phát triển; giải quyết được

nhiều công ăn việc làm cho khu vực ngoại thành; hệ thống giáo dục, y tế được

phát triển; tài nguyên thiên của ngoại thành Hà Nội từng bước được đưa vào

khai thác và sử dụng có hiệu quả; góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân. Tuy nhiên quá trình đô thị hóa ở Hà Nội còn bộc lộ một số

hạn chế như: Kinh tế ngoại thành Hà Nội phát triển kinh tế chưa xứng với tầm

vóc Thủ đô; quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội đã làm phân hoá giàu

nghèo và nảy sinh các vấn đề bất công bằng xã hội; nhà ở chưa đáp ứng được

97

nhu cầu của người dân ở khu vực đô thị hóa, đặc biệt là người lao động trong

các KCN; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập; cơ sở

hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống

trong quá trình đô thị hóa.

Để quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong

thời gian tới cần quán triệt tốt một số quan điểm, bao gồm: Coi trọng các nội

dung PTBV trong quá trình đô thị hóa; kết hợp phát triển KT-XH với giải

quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh; chú trọng vấn đề tiến bộ và công bằng

trong quá trình đô thị hóa; bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản

lý của chính quyền các cấp trong quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản trên, Thành phố Hà Nội

cần phải thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu như: Phát huy vai trò của hệ

thống chính trị cơ sở trong giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình

đô thị hóa; sử dụng đất đai khu vực đô thị hóa một cách hợp lý và hiệu quả;

giải quyết tốt việc làm cho người dân trong quá trình đô thị hóa; giải quyết tốt

vấn đề tái định cư, hậu tái định cư nhằm ổn định cuộc sống cho các hộ nông

dân trong quá trình đô thị hóa; xử lý tốt vấn đề môi trường và bảo đảm tốt

quốc phòng, an ninh nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội

theo hướng PTBV./.

98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Nguyên Anh (2009), Giáo trình xã hội học dân số, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Tâm Bắc (2007), “Từ Liêm kết hợp phát triển kinh tế với xây

dựng khu vực phòng thủ”, Báo Điện tử Hà Nội mới, ngày 10/02/2007.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tại Hội nghị

lần thứ 20 Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (khóa 14), ngày

06/7/2010.

4. Nguyễn Công Bằng (2009), Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội

trong quá trình đô thị hóa, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Hà Nội.

5. Vũ Quốc Bình (chủ biên) (2011), Một số giải pháp đẩy mạnh công nghiệp

hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Hà Nội tới năm 2020, Báo cáo

khoa học, đề tài cấp Thành phố, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế- xã

hội, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1998), Chỉ thị 36-CT/TW

ngày 25/6/1998 Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

7. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2004), Nghị quyết số 41-

NQ/TW, ngày 15/11/2004 Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

8. Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định

số 42/2009/NĐ- CP, ngày 07/05/2009 Phân loại đô thị và cấp quản lý

đô thị, Hà Nội.

9. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2012), Niên giám thống kê năm 2008 - 2012.

10. Nguyễn Ngọc Dũng (2013), Phát triển các Khu công nghiệp đồng bộ trên

địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.

11. "Đô thị hóa và những hệ lụy", Báo Hà Nội mới, ngày 31/7/2008.

99

12. Nguyễn Hữu Đoàn (2009), Vận dụng phương pháp phân tích đa chiều

đánh giá mức độ đô thị hóa nhằm góp phần xây dựng các quan điểm

phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ, Luận

án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.

13. Đỗ Thị Minh Đức (2006), Cấu trúc không gian của mạng lưới đô thị Việt

Nam và vấn đề tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội, Báo cáo tổng kết đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

14. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Đô thị hóa ở một số

nước châu Á- vấn đề và giải pháp, Thông tin phục vụ nghiên cứu,

giảng dạy, Viện Thông tin khoa học, Hà Nội, 2006.

15. Trần Thị Ngân Hà (2012), Nghiên cứu tác động đến môi trường tự nhiên của quá

trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Luận án tiến sỹ cấp Viện,

Hà Nội.

16. Trương Quang Học (2013), Phát triển bền vững - chiến lược phát triển

toàn cầu của thế kỷ XXI, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi

trường, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Nguyễn Đình Hòe (2009), Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

18. Hội quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam (2009), "Hà Nội thành phố thân

thiện và sống tốt cho cộng đồng", Tài liệu hội thảo quốc tế, ngày 01,

02/7/2009.

19. Hội khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam (2010), "Phát triển bền vững

giao thông đô thị Hà Nội", Tài liệu hội thảo quốc tế, ngày 25/6/2010.

20. Lê Ngọc Hùng (2010), "Phân hóa giàu nghèo của Thành phố Hà Nội",

Website dangcongsan.vn, ngày 08/10/2010.

21. Nguyễn Cao Lãnh (2010), Quy hoạch đơn vị ở bền vững, Nxb Xây dựng.

100

22. Ngô Thắng Lợi (2010), "Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ góc độ phát triển

bền vững", Website dangcongsan.vn, ngày 8/10/2010.

23. Vũ Thị Mai (2007), Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong

quá trình đô thị hóa Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Thị Huyền Minh (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô

thị hóa tới biến đổi kinh tế- xã hội của thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh, Luận

văn thạc sỹ địa lý, Hà Nội.

25. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (2012), Hậu giải phóng mặt bằng ở

Hà Nội, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Ngô Thị Mỹ (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa đến phát triển

kinh tế- xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ

kinh tế nông nghiệp, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Nam, Ngô Thắng Lợi (2010), Chính sách phát triển bền vững

các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, Nxb Thông tin- Truyền thông.

28. Thúy Nga (2010), "Tạo đà cho kinh tế ngoại thành", Báo Hà Nội mới, ngày

14/01/2010.

29. Lê Khương Ninh (2009), "Đô thị hóa và giá đất vùng ven đô thị ở đồng

bằng Sông Cửu Long", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số (5).

30. "Nông nghiệp đô thị, cần một quy hoạch bền vững", Báo Hà Nội mới,

ngày 14/01/2010.

31. "Nông thôn ngoại thành Hà Nội sau 20 năm xây dựng làng văn hóa", Báo

Hà Nội mới, thứ sáu, ngày 30/10/2009.

32. Lê Du Phong (2005), Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại

thành Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Đàm Trung Phương (2005), Đô thị Việt Nam, Tập 1, Bộ Xây dựng,

Chương trình KC11, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

34. Nguyễn Trọng Phượng (2008), Môi trường đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

101

35. Lê Quân (2013), "Hà Nội xử lý 1.600 ha đất của 131 dự án treo", Website

Thanh niên.com.vn, ngày 8/8/2013.

36. "Quy hoạch phát triển giao thông Thủ đô Hà Nội đến năm 2020", Báo

Xây dựng điện tử, ngày 06/3/2008, Hà Nội.

37. Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (2014), Báo cáo kết quả 6 năm thực

hiện Nghị quyết số 15/2005/ NQ-QH 12 về việc điều chỉnh địa giới hành

chính thành phố Hà Nội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

38. Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt

Nam, Nxb Lao động - Xã hội.

39. Thành ủy Hà Nội (2011), Về đẩy mạnh công tác quy hoạch, xây dựng và

quản lý đô thị thành phố Hà Nội 2011 - 2015, Chương trình 06/CTr-

TU, ngày 08/11/2011, Hà Nội.

40. Thành ủy Hà Nội (2013), Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Kết luận Hội

nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết số 15 của Quốc hội (khóa XII)

về điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội.

41. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg, ngày

23/01/1998 Về việc phê duyệt định hướng quy hoạch tổng thể và phát

triển đô thị Việt Nam đến 2020, Hà Nội.

42. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1259/QĐ-TTg, ngày

26/7/2011 Về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội

đến 2030 - 2050, Hà Nội.

43. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 160/QĐ-TTg, ngày

15/01/2013 Về việc phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về phát

triển bền vững giai đoạn 2013 – 2015.

44. Hồng Tiến, Hoàng Lân (2009), "Thực trạng kết cấu hạ tầng kiến trúc đô

thị", Báo Xây dựng điện tử, ngày 06/11/2009.

102

45. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1998), Đô thị hóa trong

quá trình công nghiệp hóa, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.

46. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị những vấn đề lý luận và

kinh nghiệm của thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. UBND Thành phố Hà Nội (2005), Chỉ thị số 08/2005/CT-UB, ngày

01/3/2005 Về việc triển khai các biện pháp làm giảm bụi trong lĩnh vực

xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

48. UBND Thành phố Hà Nội (2006), Chỉ thị số 07/2005/CT-UB, ngày

07/4/2006 Về việc tăng cường công tác quản lý chất thải rắn trên địa

bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

49. UBND Thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã

hội năm 2009, phương hướng nhiệm vụ năm 2010.

50. UBND Thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã

hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011.

51. UBND Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã

hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ năm 2012.

52. UBND Thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã

hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013.

53. UBND Thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 4324/QĐ-UBND, ngày

16/7/2013 Về việc phê duyệt quy hoạch phân khu đô thị S4, tỷ lệ

1/5.000, Hà Nội.

54. UBND Thành phố Hà Nội (2014), Quyết định 6336/QĐ-UBND, ngày

28/11/2014 Về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển nhà ở Thành phố Hà

Nội năm 2015 và các năm tiếp theo (giai đoạn 2016- 2020), Hà Nội.

55. Nguyễn Thị Hải Vân (2013), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,

việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội.

56. V.I Lênin, Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr.474, 475.

103

57. Viện nghiên cứu Phát triển KT - XH Hà Nội (2009), Báo cáo tổng kết đề

tài NCKH cấp cơ sở về Thực trạng quá trình đô thị hóa ở Hà Nội.

58. Xã hội học đô thị- Sưu tập chuyên đề, Viện thông tin khoa học xã hội,

Trung tâm khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

104

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

DÂN SỐ TRUNG BÌNH VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ KHU VỰC NGOẠI THÀNH CHIA THEO HUYỆN

Đơn vị tính : 1000 người

Năm 2000 Năm 2009 Mật độ dân số

năm 2000 2,99

Mật độ dân số năm 2009 3,74

Toàn thành phố 2756,3 3394,6

Ngoại thành 1281,1 1285,0 1,52 1,76

1- Sóc Sơn 2- Đông Anh 3- Gia Lâm 4- Từ Liêm 5- Thanh Trì 247,3 262,1 345,0 198,5 228,2 275,6 311,2 222,1 291,0 185,1 0,81 1,44 1,98 2,64 2,32 0,9 1,73 1,95 3,93 3,07

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm

Phụ lục 2:

105

LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2005-2012

Đơn vị tính: Người

Năm 2005 Năm 2009 Năm 2012

2.135.488 4.165.705 6.288.522 Tổng số người trong tuổi lao động có khả năng lao động (người)

Đang làm việc trong các ngành kinh tế Thất nghiệp Nội trợ và đi học Khác (chưa có việc làm) 1.511.178 64.773 463.435 96.102 3.81.395 96.951 975.176 12.183 4.917.425 137.630 1.218.230 15.237

Cơ cấu lao động trong tuổi lao động có khả năng lao động (%)

Đang làm việc trong các ngành kinh tế Thất nghiệp Nội trợ và đi học Khác (chưa có việc làm) 100,00 70,76 3,03 21,7 4,50 100,00 73,97 2,32 22.3 2,92 100,00 78.57 2.19 19,37 2,42

Nguồn : Điều tra lao động của Bộ Lao động Thương binh xã hội năm 2012 và

Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm.

3

Phụ lục 3:

Đơn vị tính: m2

DIỆN TÍCH NHÀ Ở MỚI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRONG CÁC NĂM

Năm Tổng số

Trung ương xây dựng Địa phương xây dựng Trong đó: Nhân dân tự xây

9800 1995 251548 241748 165200

35350 1998 339191 303841 165200

36098 1999 416511 380413 286349

82128 2000 597510 515382 410405

155217 2001 843440 688223 425855

335347 2007 936753 601406 415000

541258 2008 1284022 742764 360000

323790 2009 1418000 1094210 470000

561936 2010 1509000 947064 500000

522495 2011 1850313 1327818 750000

386074 2012 1557066 1170992 750000

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm

Phụ lục 4 :

4

SỐ CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ HỌC SINH, SINH VIÊN

Năm 2006 Năm 2013

Số lượng các trường và học sinh, sinh viên Số trường Số HS, SV Số trường Số HS, SV

Cao đẳng, đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật Phổ thông trung học Phổ thông THCS Phổ thông tiểu học 719418 94156 87500 189929 274168 401359 364108 24829 13600 103743 169105 228275 68 57 228 203 319 376

43 28 21 103 211 267 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội hàng năm

5

Phụ lục 5:

BIỂU TỔNG HỢP 8 KHU CÔNG NGHIỆP ĐANG HOẠT ĐỘNG

TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Tính đến 31/12/2009)

TT

Tên KCN

Địa điểm

Số lao động

Diện tích (ha)

Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng)

Số doanh nghiệp

274

1

1.500

44.758

84

Bắc Thăng Long

Xã Kim Chung, Võng La, Hải Bối huyện Đông Anh

Nội Bài

115

2

680

7.694

40

Xã Lạc Nông, huyện Sóc Sơn

73

Sài Đồng B

3

120

9000

24

P. Sài Đồng, quận Long Biên

40

4

204

969

33

Hà Nội- Đại Từ

P. Sài Đồng, quận Long Biên

30

5

61

450

28

Nam Thăng Long

Xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm

155

6

220

1.050

61

Thạch Thất- Quốc Oai

Huyện Thạch Thất, Quốc Oai

Phú Nghĩa

170

7

400

3.350

35

Xã Phú Nghĩa, Tiên Phương, Ngọc Hòa huyện Chương Mỹ

8

407

532

16.110

138

Quang Minh I

Xã Quang Minh, huyện Mê Linh

Tổng số

1.264

3.717

83.381

443

Nguồn: Ban quản lý các KCN và CX Hà Nội

6

Phụ lục 6:

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT CỦA 8 KCN ĐANG HOẠT ĐỘNG

TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Tính đến 31/12/2009)

TT

Tên KCN

Diện tích (ha)

Tỷ lệ lấp đầy

Diện tích đất có hạ tầng (ha)

Diện tích đất CN có thể cho thuê (ha)

1

Bắc Thăng Long

274

274

100%

183

2

Nội Bài

115

100

90%

66

3

Sài Đồng B

73

51

100%

45

4

Hà Nội- Đại Từ

40

40

70%

32

5

Nam Thăng Long

30,8

30,8

100%

17,3

6

155

155

90%

155

Thạch Thất- Quốc Oai

7

Phú Nghĩa

170

170

65%

125

8

Quang Minh I

407

364

80%

240

885

Tổng số

1.264

1.186

Nguồn: Ban quản lý các KCN và CX Hà Nội