ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ

BÙI XUÂN HƯƠNG

ĐỔI MỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH MỚI CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS.Trần Thị Thái Hà

Hà nội - 2004

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG................................................................................................ 6

1.1. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG. ....................................................................... 6

1.1.1. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế ................................................... 6

1.1.2. Vai trò, đặc điểm và chức năng của ngân hàng thƣơng mại. .............. 10

1.2. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG NHỮNG THẬP NIÊN TĂNG TRƢỞNG VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI. ............................................................................................. 22

1.2.1. Kinh nghiệm của các nƣớc châu Á trong những thập niên tăng trƣởng. .................................................................................................................... 22

1.2.2 Những xu hƣớng trong sự phát triển của ngân hàng thƣơng mại trên thế giới. ....................................................................................................... 27

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM .............................................................................. 35

2.1. DIỄN BIẾN CHÍNH CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM .................................................................................................... 35

2.1.1. Hệ thống ngân hàng Việt nam trƣớc khi có 2 Pháp lệnh về ngân hàng (1990) ......................................................................................................... 35

2.1.2. Những diễn biến chính của quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam sau khi có 2 Pháp lệnh về ngân hàng. ........................ 37

2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY. ..................................... 50

2.2.1 Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam . 50

110

2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề đặt ra. ................... 72

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ................................................................... 76

3.1. BỐI CẢNH MỚI CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI. ................................. 76

3.1.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt nam ............................................. 76

3.1.2.Cơ hội và thách thức của ngân hàng thƣơng mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế. ................................................................................. 81

3.2. ĐỊNH HƢỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM .................................................. 87

3.2.1. Định hƣớng, quan điểm đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam. ........................................................................................................... 87

3.2.3. Các giải pháp đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam: .. 93

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 108

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................. Error! Bookmark not defined.

Tiếng Việt ........................................................ Error! Bookmark not defined.

111

Tiếng Anh ..................................................................................................... 113

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra với tốc độ lớn và ở hầu hết các lĩnh

vực đòi hỏi nền kinh tế Việt nam nói chung, hệ thống ngân hàng thƣơng mại nói

riêng phải có sự đổi mới căn bản và toàn diện để đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển

mới. Ngân hàng thƣơng mại là một tấm gƣơng phản ánh sức mạnh của nền kinh

tế, đang bộc lộ rõ những yếu kém cả về mặt quy mô lẫn chất lƣợng hoạt động

trong khi tiềm năng tăng trƣởng của nền kinh tế Việt nam là rất lớn. Theo tính

toán của các nhà kinh tế, để đáp ứng tiềm năng phát triển kinh tế trong giai đoạn

tới, Việt nam cần phải huy động một khối lƣợng vốn khoảng 40 tỷ đô la Mỹ,

trong đó nguồn vốn từ bên ngoài (bao gồm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và nguồn

vốn viện trợ phát triển chính thức) ƣớc lƣợng chỉ chiếm khoảng 40%, 60% còn

lại chờ vào các kênh huy động trong nƣớc và chủ yếu là thông qua ngân hàng

thƣơng mại bởi năng lực hoạt động của thị trƣờng chứng khoán còn yếu kém.

Điều này đặt ra cho hệ thống ngân hàng thƣơng mại một nhiệm vụ hết sức nặng

nề.

Từ năm 1988, Việt nam thực hiện cuộc cải cách sâu rộng nhằm chuyển đổi từ

nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế dịnh hƣớng thị trƣờng. Mặc

dù những thay đổi căn bản về mặt cấu trúc nền kinh tế, nhƣng việc huy động và

phân bổ các nguồn lực tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại vẫn

còn nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại để đáp

ứng nhu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn tăng trƣởng sắp tới là hết sức cấp

bách. Trƣớc tình hình đó, Đảng và Chính phủ Việt Nam đề ra chủ trƣơng cơ cấu

1

lại hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam.

Xuất phát từ tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng thƣơng mại đối với nền

kinh tế trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tôi lựa chọn đề tài

"Đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại trong bối cảnh mới của nền kinh

tế Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp khoá học. Với hy vọng rằng, việc nghiên

cứu đề tài này sẽ đề xuất một số định hƣớng hoạt động mới cho hệ thống ngân

hàng thƣơng mại phù hợp với hoàn cảnh của Việt nam và phù hợp với xu thế hội

nhập kinh tế quốc tế.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Vì đổi mới lĩnh vực hoạt động ngân hàng thƣơng mại là một vấn đề lớn, đƣợc

nhiều ngƣời quan tâm nên đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này

dƣới nhiều giác độ khác nhau. Các tác giả là nhà nghiên cứu, các nhà quản lý,

các nghiên cứu sinh thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng. Một số công trình

nghiên cứu đã đƣợc thực hiện trong thời gian qua:

Năm 2000, Nguyễn Thị Kim Oanh với đề tài: “Đổi mới hệ thống ngân hàng

trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam” đã nghiên cứu ở giác

độ hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền

kinh tế thị trƣờng.

Năm 2001, Phạm Thị Nguyệt với đề tài: “Hoạt động của ngân hàng Nhà nƣớc

Việt nam trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trƣờng” nghiên cứu các vấn

đề liên quan đến thể chế, cơ chế hoạt động với tƣ cách là ngân hàng của các ngân

hàng nhằm tạo ra một môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân

hàng thƣơng mại.

Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc cũng

đã đề cập một cách khá sâu trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ở một số lĩnh

2

vực và tác động đến hoạt động của ngân hàng thƣơng mại Việt nam nhƣ: “Are

Vietnam’s Banks ready for the WTO” do nhóm nghiên cứu công tác tại Ngân

hàng thế giới thực hiện năm 2004, “Reforming Vietnam’s Banking System:

Learning From Singapore’s Model” do tác giả Lê Minh Tâm công tác tại Ngân

hàng thế giới thực hiện năm 1999

Tuy nhiên, để thực hiện thành công quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng

thƣơng mại Việt nam trong bối cảnh mới vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm rõ.

Vì thế, với việc chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ, trên cơ sở có kế thừa và

phát triển những kết quả của các công trình đã đƣợc công bố, tôi mong muốn hệ

thống hoá một số vấn đề lý thuyết, góp phần lý giải thực trạng hoạt động của hệ

thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam và có những đề xuất để cải thiện thực

trạng đó.

3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Quá trình nghiên cứu luận văn làm sáng tỏ một số nội dung chủ yếu sau:

a) Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong thời gian

qua.

b) Cơ hội và thách thức đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại

Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế.

c) Những đề xuất nhằm đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại trong quá trình

điều chỉnh cơ cấu, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế Việt nam trên

con đƣờng hội nhập.

4. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Với tƣ cách là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, việc

nghiên cứu quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam đƣợc

giới hạn ở những xu hƣớng lớn mà không đi sâu vào những thao tác nghiệp vụ

3

cụ thể.

Quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại đƣợc đặt trong bối cảnh của

những bƣớc tiến của thị trƣờng tài chính Việt Nam, từ đó làm rõ những thuận lợi

cũng nhƣ những đòi hỏi của môi trƣờng mới đó đối với hệ thống ngân hàng

thƣơng mại.

Trong quá trình phân tích, đề tài quan tâm tới kinh nghiệm hoạt động của ngân

hàng của một số nƣớc châu á trong những thập niên tăng trƣởng nhanh và thời

kỳ sau khủng hoảng, nêu lên những gợi ý cho Việt Nam.

Đề tài đề cập tới các vấn đề chung của ngân hàng thƣơng mại Việt nam, nhƣng

sẽ đặc biệt lƣu ý tới các ngân hàng thƣơng mại cổ phần nhƣ một thành phần quan

trọng và có những nét đặc thù.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, chúng tôi vận dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu môn kinh tế chính trị học, phƣơng pháp duy vật biện chứng, và duy

vật lịch sử làm phƣơng pháp cơ bản kết hợp với phƣơng pháp phân tích, đối

chiếu, thống kê, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.

6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.

Đánh giá những thành công, tồn tại của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt

nam trong những năm gần đây

Phân tích các nguyên nhân về phía môi trƣờng kinh tế vĩ mô (chủ yếu đề cập đến

các chính sách) và năng lực của bản thân ngân hàng thƣơng mại

Làm rõ những cơ hội, thách thức của ngân hàng thƣơng mại Việt nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế

Đề xuất một cách có hệ thống các giải pháp thích ứng để tiến hành quá trình đổi

4

mới thành công hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu nhƣ sau:

Chƣơng 1. Hệ thống ngân hàng thƣơng mại trong nền kinh tế thị trƣờng

Chƣơng 2. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam

Chƣơng 3. Một số phƣơng hƣớng lớn cho sự đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng

5

mại Việt nam.

CHƢƠNG 1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

1.1. VAI TRÕ, CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG.

1.1.1. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực hoạt động

khác nhau, nhƣng thống nhất với nhau về bản chất, chức năng liên hệ hữu cơ với

nhau về sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tồn tại khách quan trong nền

kinh tế. Chúng ta biết rằng tài chính là các quan hệ phân phối dƣới hình thức giá

trị gắn liền với các họat động kinh tế xã hội. Vì thế, ở mỗi lĩnh vực hoạt động

kinh tế khác nhau phát sinh những quan hệ tài chính nhất định. Những quan hệ

tài chính trong các lĩnh vực khác nhau có vị trí, vai trò riêng biệt trong quá trình

phân phối các nguồn tài chính dƣới những hình thức nhƣ: ngân hàng, bảo hiểm...

Các hình thức này có các khả năng huy động vốn và sử dụng ngồn vốn xã hội

vào những mục đích khác nhau cho sự phát triển kinh tế.

Giá trị của sản phẩm xã hội, sau khi đƣợc phân phối thông qua thông qua các

phạm trù kinh tế: giá cả, tiền lƣơng... đƣợc đƣa vào dòng chu chuyển kinh tế của

doanh nghiệp và cƣ dân. Cƣ dân và doanh nghiệp, sau khi tiêu dùng, đầu tƣ còn

lại một phần tích luỹ để tiếp tục đƣợc đầu tƣ vào các doanh nghiệp dƣới các hình

thức khác nhau. Vốn dƣới dạng tiền tệ trong trƣờng hợp này đƣợc phân phối lại

thông qua phạm trù có đặc thù riêng gọi là tín dụng, là việc tích luỹ lại các nguồn

vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, tín

dụng tiếp tục thực hiện quá trình phân phối giá trị ban đầu nó chính là phạm trù

tài chính hay nói cách khác, tài chính trong khi phân phối giá trị và tạo lập các

6

nguồn thu nhập và tích luỹ tiền tệ đã tạo điều kiện cho sự vận động của tín dụng.

Quá trình vận động của nền kinh tế dẫn tới hiện tƣợng là thu nhập và chi tiêu của

các chủ thể thƣờng xuyên không ăn khớp với nhau về khối lƣợng và thời gian.

Vì thế luôn có những quỹ tiền thặng dƣ và lại có các chủ thể cần vốn cho kinh

TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP

doanh hoặc tiêu dùng.

(Các trung gian tài chính)

NGƯỜI CHO VAY

NGƯỜI ĐI VAY

- Các doanh nghiệp

- Chính phủ - Hộ gia đình -

. . . .

- Hộ gia đình - Các doanh nghiệp - Chính phủ Vốn - . . . .

Vốn Vốn

Vốn

TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP (Các thị trƣờng tài chính)

Vốn

Dòng vốn chuyển từ nơi có thặng dƣ tới nơi có thâm hụt thông qua hai kênh:

- Tài chính trực tiếp: Ngƣời cần vốn trực tiếp huy động từ ngƣời có vốn thặng dƣ

bằng cách phát hành các chứng khoán (công cụ tài chính). Chứng khoán thể hiện

quyền đƣợc hƣởng của ngƣời cung ứng vốn đối với thu nhập trong tƣơng lai của

ngƣời huy động vốn.

- Tài chính gián tiếp: Vốn đƣợc chuyển từ ngƣời cho vay tới ngƣời đi vay thông

qua trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng thƣơng mại. Ngân hàng

thƣơng mại thực hiện điều này bằng cách nhận tiền gửi của ngƣời cho vay sau đó

7

cho vay lại tới ngƣời cần vay vốn.

Đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cả Chính phủ, nguồn vốn để

sản xuất kinh doanh, để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đƣợc

hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và chủ yếu qua hai kênh huy động sau:

- Thông qua việc phát hành cổ phiếu, các loại giấy tờ có giá khác: trái phiếu, kỳ

phiếu, các doanh nghiệp có thể huy động đƣợc một khối lƣợng vốn trực tiếp để

bổ sung nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tƣ, sản xuất kinh doanh của mình.

- Thông qua các trung gian tài chính nói chung và ngân hàng thƣơng mại nói

riêng. Các ngân hàng thƣơng mại nhận các nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cƣ, các tổ

chức kinh tế và cung ứng (cho vay) cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp

cần vốn để hoạt động.

Kênh dẫn vốn gián tiếp có khả năng đáp ứng đƣợc yêu cầu của cả ngƣời đi vay

và ngƣời cho vay bằng cách biến đổi thời hạn. Đó là quá trình kết hợp các nguồn

vốn ngắn hạn của những ngƣời cho vay thành các món vay dài hạn của ngƣời đi

vay. Những ngƣời cho vay có thể chỉ có những khoản tiền vốn nhỏ để cho vay

trong khi ngƣời đi vay lại có nhu cầu về một khoản vay lớn. Vấn đề này đƣợc

giải quyết bằng quá trình tổng hợp khi mà ngân hàng thƣơng mại tập hợp các

khoản vốn nhỏ thành một khoản vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vay món vay lớn

của ngƣời đi vay.

Khi một ngƣời có vốn cho ngƣời khác vay trực tiếp, ngƣời cho vay phải gánh

chịu mọi rủi ro. Món vay đó có thể đƣợc hoàn trả đầy đủ hoặc ngƣời cho vay có

thể bị mất toàn bộ số tiền cho vay. Các ngân hàng thƣơng mại có thể tránh đƣợc

tình huống này bằng nguyên tắc phân tán rủi ro. Trong khi hầu hết các món vay

đều tốt, chỉ có một số ít món vay trở nên tồi tệ, nhƣng tác động của một vài món

8

vay bị mất đƣợc bù đắp bởi các món vay tốt có khối lƣợng lớn hơn.

Trong nền kinh tế thị trƣờng, chức năng trung gian tài chính của ngân hàng

thƣơng mại đóng vai trò quan trọng, hoạt động chuyển nhƣợng quyền sử dụng

vốn đều thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại. Điều này đƣợc thể

hiện là nguồn vốn do các ngân hàng thƣơng mại cung cấp cho các doanh nghiệp

chiếm một tỷ trọng ngày càng cao trong nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp.

Trong kênh tài chính gián tiếp, ngƣời cho vay cuối cùng là những ngƣời gửi tiền.

Rủi ro phát sinh trong trƣờng hợp này ngƣời cho vay cuối cùng không phải gánh

chịu mà chính là các ngân hàng thƣơng mại. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro chính

các trung gian tài chính phải giám sát chặt chẽ các chủ thể kinh tế vay vốn. Do

thông tin không cân xứng, ngân hàng thƣơng mại có thể không nhận đƣợc thông

tin đầy đủ về khách hàng vay vốn, họ có thể đƣa ra những quyết định không

chính xác trong hoạt động cho vay của mình. Vì thế, trong nỗ lực tối thiểu hoá

rủi ro, các ngân hàng thƣơng mại gắn việc cấp tín dụng cho các chủ thể kinh tế

với việc giám sát chặt chẽ trƣớc, trong và sau khi cho vay, thực hiện các biện

pháp đảm bảo tiền vay và đa dạng hoá các khoản vay.

Trƣờng hợp tài trợ qua kênh tài chính trực tiếp, ngƣợc lại với các khoản vay mà

các chủ thể kinh tế nhận đƣợc từ ngân hàng thƣơng mại, những ngƣời cho vay

cuối cùng là công chúng đầu tƣ và họ phải gánh chịu tất cả những rủi ro phát

sinh từ quyết định đầu tƣ của họ. Để giúp các nhà đầu tƣ ra quyết định, thông tin

trên thị trƣờng chứng khoán bắt buộc phải công khai, minh bạch, chính xác và

kịp thời.

Quá trình điều hoà các nguồn vốn nhàn rỗi từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn

đƣợc diễn ra trên thị trƣờng tài chính và tại các trung gian tài chính. Trên thị

trƣờng tài chính, cung và cầu về vốn gặp nhau trực tiếp. Chính vì vậy, thì trƣờng

9

tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá, nơi gặp gỡ

của các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội qua đó hình thành nên giá mua và giá

bán của các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu...

Quá trình dẫn vốn từ ngƣời tiết kiệm đến ngƣời đầu tƣ thông qua thị trƣờng tài

chính giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế vì: ngƣời có khoản tiền tiết

kiệm không phải khi nào cũng sẵn có các cơ hội đầu tƣ sinh lời, việc dẫn vốn qua

thị trƣờng tài chính giúp họ kiếm lời thông qua đầu tƣ trên thị trƣờng tài chính.

Ngƣợc lại, những ngƣời có nhiều cơ hội sản xuất kinh doanh nhƣng không đủ

vốn thông qua thị trƣờng tài chính họ có thể huy động vốn để đầu tƣ.

Từ những phân tích trên, chúng ta thấy, thị trƣờng tài chính có vai trò rất quan

trọng đối với nền kinh tế, cụ thể nhƣ sau:

- Thị trƣờng tài chính thúc đẩy việc tích luỹ và tập trung vốn để đáp ứng các nhu

cầu phát triển nền kinh tế. Nếu không có thị trƣờng tài chính mà chỉ dựa vào

nguồn tích luỹ của mỗi một chủ thể hoặc dựa vào nguồn vốn vay từ ngân hàng

thƣơng mại thì không thể đáp ứng đƣợc nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh

doanh của mỗi chủ thể kinh tế nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.

- Thị trƣờng tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Việc sử dụng

vốn có hiệu quả không chỉ đối với ngƣời có tiền đầu tƣ mà cả với ngƣời đi vay

tiền để đầu tƣ.

1.1.2. Vai trò, đặc điểm và chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thƣơng mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu

và thƣờng xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân với trách nhiệm có

hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đáp ứng những nhu cầu về vốn trong

nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngân hàng thƣơng mại cung cấp các dịch vụ chiết

khấu, thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng thƣơng mại còn tiến hành

10

những hoạt động nhƣ:

- Giao dịch hối đoái về vàng, kim loại quý, đá quí

- Đầu tƣ vào các loại giấy tờ có giá, theo những điều kiện nhất định của luật

pháp từng nƣớc,

- Nhận và cất giữ hộ các loại chứng từ có giá

- Tƣ vấn các dịch vụ tài chính.

Căn cứ vào các nghiệp vụ thực hiện ngân hàng thƣơng mại đƣợc chia thành 2

loại, ngân hàng kinh doanh tổng hợp và ngân hàng chuyên kinh doanh.

Với hoạt động kinh doanh chủ yếu là đi vay để cho vay, hoạt động của ngân

hàng thƣơng mại luôn gắn liền với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các

tầng lớp dân cƣ và vì thế hoạt động này rất nhạy cảm với môi trƣờng kinh tế và

pháp luật

1.1.2.1. Chức năng của ngân hàng thƣơng mại

Chức năng trung gian tín dụng (Chức năng đi vay để cho vay)

Đây là chức năng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát

triển. Trung gian tài chính là cầu nối cung cầu vốn trong nền kinh tế, đƣa nguồn

vốn từ những ngƣời có vốn nhàn rỗi đến những ngƣời có nhu cầu cao về vốn đầu

tƣ sản xuất, kinh doanh. Thực hiện chức năng này, ngân hàng thƣơng mại huy

động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong

nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cở sở nguồn vốn đã huy động

đƣợc, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu

dùng của các chủ thể kinh tế, hay nói cách khác: nghiệp vụ tín dụng của ngân

hàng thƣơng mại là đi vay để cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả.

Vốn của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện dƣới các

hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, tạo thành một chu

11

kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu có

hiện tƣợng thừa, thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những doanh

nghiệp có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và có những doanh nghiệp thiếu vốn.

Ngân hàng thƣơng mại với vai trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập trung

và phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu về vốn trong các doanh

nghiệp, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.

Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán.

Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thƣơng mại xuất hiện khi ngân

hàng thƣơng mại thực hiện các yêu cầu của khách hàng: nhập tiền vào tài khoản

hay tiến hành chi trả theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong các hoạt động kinh

doanh của ngân hàng có nguồn gốc xa xƣa đó là hoạt động thanh toán hộ cho

khách hàng của mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng là cơ sở cho hoạt

động tín dụng ngày nay. Khi một khách hàng thiếu tiền để trhanh toán, ngân

hàng sẽ chi trả hộ và khoản trả hộ đó chính là khoản vay của khách hàng. Xuất

phát từ đó, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo

sự uỷ nhiệm của khách hàng.

Với những dịch vụ thanh toán ngày càng thuận tiện của mình, từ hình thức thanh

toán truyền thống tới các hình thức thanh toán điện tử, ngân hàng thƣơng mại đã

đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng và đẩy nhanh hoạt động thanh

toán, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trong nƣớc và quốc tế

phát triển. Đồng thời, do trình độ chuyên môn hoá cao ở các ngân hàng trong

lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên đã hạ thấp chi phí cho quá trình thanh toán, nâng

cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Thông qua hoạt động trung gian thanh

toán, các hoạt động về huy động vốn và cho vay của Ngân hàng thƣơng mại

12

đƣợc tăng cƣờng và phát huy có hiệu quả. Ngân hàng thƣơng mại có đủ điều

kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi

khách hàng gửi tiền vào ngân hàng họ sẽ đƣợc đảm bảo an toàn trong việc cất

giữ và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi nhất là đối với những

món thanh toán có giá trị lớn và với khoảng cách về mặt địa lý bằng cách mở tài

khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ

nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của

mình. Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lƣu

thông tín dụng và độc quyền quản lý những công cụ đó (séc, thẻ tín dụng..) đã

tiết kiệm chi phí xã hội, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế.

Thông qua chức năng là trung gian thanh toán, ngân hàng thƣơng mại quản lý

các phƣơng tiện thanh toán (séc, các loại thẻ thanh toán) giảm tối đa sự lƣu thông

tiền mặt trong nền kinh tế thông qua công nghệ hiện đại sử dụng trong hoạt động

của ngân hàng thƣơng mại.

Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán và chức năng trung gian tín

dụng, ngân hàng thƣơng mại có thể biến biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân

hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực

hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua nhiều ngân hàng. Ngân hàng này cho

khách hàng vay vốn, số vốn đó lại đƣợc chuyển sang ngân hàng khác và trở

thành vốn tiền gửi làm tăng thêm vốn tiền gửi của các ngân hàng khác thông qua

việc thực hiện các bút tệ - bút toán ghi sổ. Đây là yếu tố quan trọng nhất góp

phần giúp hệ thống ngân hàng thƣơng mại tạo ra cơ số tiền lơn hơn từ một khối

lƣợng tiền nhất định ban đầu. Hoạt động này là cơ sở để Ngân hàng Nhà nƣớc

thực hiện việc điều tiết lƣợng tiền cung ứng qua đó điều tiết thị trƣờng tài chính,

tiền tệ thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của mình. Đó là khả năng biến

13

mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản

tiền gửi lớn hơn nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua

nhiều ngân hàng.

Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân quỹ, ngân hàng thƣơng mại

có thể cung cấp dịch vụ tƣ vấn đầu tƣ, tài chính cho các doanh nghiệp, làm đại lý

phát hành cổ phiếu, chứng khoán đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một

doanh nghiệp phát hành chứng khoán trên thị trƣờng sơ cấp, ngân hàng thƣơng

mại có thể đứng ra tƣ vấn về: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, lãi suất

chứng khoán, thời hạn chứng khoán.. Các ngân hàng thƣơng mại tham gia với tƣ

cách là ngƣời phát hành cổ phiếu của mình, phát hành trí phiếu để huy động vốn.

Trên thị trƣờng thứ cấp, ngân hàng thƣơng mại thực hiện các dịch vụ với tƣ cách

là một trung tâm môi giới chứng khoán: mua bán hộ chứng khoán, bảo quản hộ

chứng khoán..

Ngoài ra ngân hàng thƣơng mại còn cung cấp dịch vụ quản lý, lƣu trữ chứng

khoán, thu lãi chứng khoán, mua bán chứng khoán, thu hồi chứng khoán khi đến

hạn... Một số dịch vụ khác mà ngân hàng thƣơng mại cung cấp nhƣ : bảo quản

vật có giá của khách hàng, thuê két..

Tóm lại, ngân hàng thƣơng mại thực hiện các chức năng này nhằm mục đích tối

đa hoá lợi nhuận.

1.1.2.2. Ƣu thế của các khoản vay ngân hàng thƣơng mại.

Bí mật thông tin: Trong khi tất cả các cam kết của trái phiếu công ty đều công

khai rõ ràng thì các khoản vay từ ngân hàng thƣơng mại chứa đựng nhiều cam

kết ngầm. Các khoản vay ngân hàng là những thoả thuận giữa ngƣời đi vay và

ngân hàng thƣơng mại, các thông tin ở đó có mức độ công khai thấp (dƣờng nhƣ

14

chỉ ngân hàng thƣơng mại và ngƣời đi vay đƣợc biết).

Linh hoạt: Khi một hạn mức tín dụng đƣợc thiết lập, ngƣời đi vay có quyền

quyết định thời gian, số tiền vay thực tế. Bằng sự thoả thuận trong các hợp đồng

vay vốn, ngƣời đi vay nhận đƣợc sự tái cho vay hoặc hoàn trả các khoản vay

sớm hơn quy định. Hơn nữa, khi ngƣời đi vay gặp khó khăn về tài chính, ngân

hàng thƣơng mại vẫn có thể tiếp tục cung cấp các khoản vay mới bù đắp thiếu

hụt tài chính tạm thời. Trong thời gian các khoản vay còn hiệu lực, ngân hàng

thƣơng mại và ngƣời đi vay có thể thƣơng lƣợng thay đổi lãi suất, thời hạn của

các khoản vay.. nhằm hạn chế tối đa rủi ro mà ngƣời đi vay và ngân hàng thƣơng

mại có thể gặp phải. Ngân hàng thƣơng mại cũng có thể cho thấy, họ có quyền

thanh lý các dự án sản xuất kinh doanh của ngƣời đi vay không có hiệu quả.

Quan hệ lâu dài, lặp lại: Ngƣời đi vay cho phép ngân hàng thƣơng mại tiếp cận

những thông tin nội bộ nhằm tạo điều kiện giám sát trong quá trình cho vay. Kết

quả là các giao dịch đƣợc lặp đi lặp lại giữa ngƣời đi vay và ngân hàng thƣơng

mại. Vì thế ngân hàng thƣơng mại có xu hƣớng duy trì quyền tiếp cận của ngƣời

vay tới các khoản vay của ngân hàng trong dài hạn, nhờ đó ngân hàng có thể tiết

kiệm đƣợc chi phí gắn với việc phát triển thêm các khoản vay mới.

Hỗ trợ tài chính lâu dài: Tuy nhiên trong quá trình cung cấp các dịch vụ tài

chính trên cơ sở những thoả thuận ngầm nhƣ trên, ngân hàng thƣơng mại cần tạo

dựng đƣợc uy tín của mình bằng cách đáp ứng các yêu cầu của ngƣời đi vay khi

họ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Sự hỗ trợ tài chính lâu dài sẽ giúp

cho ngƣời đi vay hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định. Ngƣời đi vay sẵn sàng

trả lãi suất cao hơn cho những khoản vay đã đƣợc thực hiện bởi các ngân hàng

có uy tín cao để đổi lấy đƣợc hỗ trợ về tài chính trong điều kiện rơi vào tình

15

trạng khó khăn. Thời hạn cho vay dài của ngân hàng thƣơng mại và theo đó,

ngân hàng thƣơng mại tạo đƣợc uy tín trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính

cho ngƣời đi vay.

Tiết kiệm chi phí giám sát, nâng cao hiệu quả của các khoản vay: Các ngân

hàng thƣơng mại có khả năng giảm chi phí trong việc thu thập, xử lý thông tin

bằng cách có đƣợc những thông tin nội bộ của ngƣời đi vay thông qua các cách

khác nhau: ngân hàng thƣơng mại có quyền tiếp cận nhiều thông tin hơn về

ngƣời đi vay thông qua việc thực hiện các giao dịch lặp lại, ngƣời vay sẵn sàng

hơn trong việc cung cấp thông tin về hoạt động của mình cho các ngân hàng

thƣơng mại hơn là cho các nhà đầu tƣ trái phiếu, cổ phiếu đặc biệt khi thông tin

đó có yếu tố bí mật, riêng tƣ; ngân hàng thƣơng mại có khả năng giảm chi phí

thu thập thông tin nhờ tính tiết kiệm nhờ quy mô; ngân hàng thƣơng mại cung

cấp các loại tài khoản thanh toán cho ngƣời đi vay tạo cơ hội nắm bắt các hoạt

động kinh tế và các diễn biến luồng tiền của ngƣời đi vay và ngân hàng thƣơng

mại thu đƣợc nhiều thông tin từ ngƣời đi vay hơn nhờ việc có đƣợc uy tín của

ngƣời cho vay đáng tin cậy.

Ngƣời tham gia Thị trƣờng trái phiếu Hệ thống Ngân hàng

thƣơng mại

1. Ngƣời cho vay cuối cùng Ngƣời gửi tiền Công chúng đầu tƣ

2. Ngƣời chịu rủi ro Ngân hàng thƣơng mại Công chúng dầu tƣ

3. Định chế trung gian Ngân hàng thƣơng mại Công ty chứng

khoán

Thông qua những phƣơng tiện khác nhau, ngân hàng thƣơng mại có thể nhận

16

đƣợc thông tin nội bộ về ngƣời đi vay: các nguồn thu nhập, các cơ hội đầu tƣ…

Mức độ riêng tƣ trong thông tin về ngƣời đi vay là những doanh nghiệp vừa và

nhỏ thƣờng cao hơn phản ánh độ nhạy cảm lớn hơn của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trƣớc những vấn đề khác nhau. Trong điều kiện đó, ngân hàng thƣơng mại

có lợi thế so sánh khi cấp tín dụng cho ngƣời đi vay bằng cách thu thập thông tin

một cách có hiệu quả và đánh giá độ đáng tin cậy của họ, giảm chi phí giám sát.

Các ngân hàng thƣơng mại có thể giảm đƣợc chi phí giám sát bằng cách lựa chọn

ngƣời cho vay căn cứ vào các khoản cho vay trƣớc đó. Nhờ những ƣu thế trên

trong việc giảm chi phí thu thập thông tin và giám sát ngƣời đi vay, ngân hàng

thƣơng mại có thể thực hiện có hiệu quả các chức năng trung gian giữa ngƣời

gửi tiền và ngƣời vay tiền.

1.1.2.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại

Hoạt động của ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế chứa đựng nhiều

rủi ro nhất.

- Rủi ro tín dụng: là loại rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay, bảo lãnh của

ngân hàng, khả năng không thu đƣợc hoặc thu không hết vốn gốc và tiền lãi cho

vay phát sinh hàng tháng. Đây là vấn đề đƣợc các ngân hàng thƣơng mại quan

tâm hàng đầu bởi vì các khoản cho vay của ngân hàng thƣơng mại không thu hồi

đƣợc cả gốc lẫn lãi sẽ ảnh hƣởng không những đến lợi ích của những ngƣời gửi

tiền mà còn gây phản ứng dây chuyền cho cả nền kinh tế.

Chính vì những đặc trƣng nêu trên trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng

thuơng mại luôn đặt công tác quản lý rủi ro lên hàng đầu thông qua 3 biện pháp

mang tính nguyên tắc là: đa dạng hoá, chuyển rủi ro và tìm kiếm thêm thông tin

về các khoản vay.

Ngân hàng thƣơng mại kinh doanh tiền tệ trên cơ sở đi vay để cho vay thông qua

17

nghiệp vụ tín dụng. Là ngƣời đi vay, ngân hàng phải trả lãi và hoàn trả vốn cho

các chủ sở hữu của chúng theo những cam kết đã xác định về khối lƣợng và thời

hạn. Là ngƣời cho vay, ngân hàng thƣơng mại sử dụng vốn vay để cho vay lại

với nguyên tắc là sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả vốn vay và lãi

đúng thời hạn nhƣ đã cam kết.

Khác với các quan hệ mua bán thông thƣờng, quan hệ tín dụng ngân hàng chỉ

trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay mà không trao đổi quyền sở hữu khoản

vay. Ngƣời cho vay giao giá trị khoản vay dƣới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho

ngƣời kia sử dụng trong thời gian nhất định, sau khi khai thác giá trị sử dụng

khoản vay trong thời gian cam kết, ngƣời vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản

vay cộng thêm khoản lợi tức cho ngƣời cho vay. Lợi nhuận chủ yếu của ngân

hàng thƣơng mại thu đƣợc từ chênh lệch giữa lãi suất huy động đầu vào và lãi

suất cho vay. Chính vì vậy, làm thế nào để thu hút đƣợc ngƣời gửi tiền, thoả mãn

nhu cầu ngƣời vay tiền mà vẫn đảm bảo đƣợc lợi nhuận cho bản thân ngân hàng

để tồn tại và tăng trƣởng luôn là bài toán thƣờng trực đối với các ngân hàng

thƣơng mại. Nếu tăng lãi suất đầu vào để thu hút tiền gửi thì lãi suất đầu ra cũng

phải tăng lên gây bất lợi cho ngƣời vay. Nếu lãi suất đầu ra thấp sẽ không đảm

bảo đƣợc lợi nhuận của ngân hàng thƣơng mại.

- Rủi ro thanh khoản: rủi ro thanh khoản xẩy ra trong trƣờng hợp ngân hàng

thƣơng mại không đảm bảo đƣợc khoản tiền thanh toán hay đáp ứng nhu cầu chi

trả ngay của khách hàng gửi tiền. Việc không thỏa mãn nhu cầu chi trả có thể

gây tâm lý lo ngại cho các khách hàng gửi tiền, làm uy tín của Ngân hàng giảm

sút. Trong điều kiện kinh tế không ổn định có thể dẫn đến cảnh khách hàng rút

tiền ồ ạt và đƣa ngân hàng đến nguy cơ phá sản. Khi ngân hàng cho vay càng

nhiều thì khả năng tăng thu nhập càng cao, đồng thời rủi ro thanh khoản cũng

18

tăng lên. Trong cơ cấu tài sản có, tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, vì thế

ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng (do tiền

mặt tại quỹ không mang lại thu nhập, trong trƣờng hợp bình thƣờng, ngân hàng

chỉ duy trì một lƣợng tiền mặt vừa đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền thƣờng xuyên

mà không gây ảnh hƣởng đến độ thanh khoản của ngân hàng). Ngân hàng có thể

làm đƣợc điều này vì kinh nghiệm qua công tác ngân quỹ hàng ngày, ngân hàng

có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền và gửi tiền của khách hàng, trƣờng hợp

thiếu hụt tạm thời thì ngân hàng đi vay bổ sung trên thị trƣờng tiền tệ liên ngân

hàng.

Đặc trƣng cơ bản của rủi ro thanh khoản tính lỏng của tài sản có ít hơn tài sản

nợ. Ngân hàng có thể không đáp ứng đầy đủ yêu cầu rút tiền của ngƣời gửi tiền.

Để giảm rủi ro thanh khoản, ngân hàng phòng ngừa bằng cách quản lý hiệu quả

cấu trúc tính lỏng của tài sản có và quản lý tốt cấu trúc danh mục tài sản nợ.

Ngân hàng phải thƣờng xuyên dự trữ đủ tài sản lỏng để đáp ứng nhu cầu rút tiền

từ tài khoản và tài khoản tiền gửi giao dịch với tỷ lệ thích hợp (20% trên số dƣ

của các loại tiền gửi đó).

- Rủi ro lãi suất là rủi ro mà ngân hàng thƣơng mại gặp phải khi có biến động về

lãi suất. Trong khi lãi suất huy động của ngân hàng thƣơng mại thƣờng đƣợc ấn

định theo từng kỳ hạn cụ thể và phản ứng của ngƣời gửi tiền là rất linh họat khi

có thay đổi lãi suất huy động. Lãi suất cho vay của ngân hàng thƣơng mại khác

với lãi suất của các công cụ trên thị trƣờng tài chính ở chỗ là lãi suất cho vay

đƣợc thoả thuận giữa ngƣời đi vay và ngân hàng thƣơng mại. Chính vì vậy, trong

thời hạn của mỗi một khoản vay còn hiệu lực, ngân hàng thƣơng mại không thể

tự điều chỉnh lãi suất theo lãi suất huy động. Lãi suất cho vay cao hay thấp tuỳ

thuộc vào mức độ rủi ro của từng khoản vay mà ngân hàng thƣơng mại cung cấp

19

cho ngƣời đi vay.

- Rủi ro hối hoá: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nƣớc này đƣợc

biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nƣớc khác. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là

quan hệ so sánh giữa loại tiền tệ của hai nƣớc với nhau. Vì vậy, đứng về mặt

thƣơng mại, có thể hiểu tỷ giá hối đoái là thƣớc đo về sức mua của đồng tiền

nƣớc này so với sức mua của đồng tiền nƣớc khác tại một thị trƣờng và tại một

thời điểm nhất định.

Tỷ giá hối đoái luôn biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Từ

đó kéo theo ảnh hƣởng đến nền kinh tế trong nƣớc và hầu hết các hoạt động

thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu.

Chúng ta đều biết rằng, khi tỷ giá hối đoái tăng tức là số lƣợng tiền nội địa đổi

lấy một đơn vị ngoại tệ tăng (đồng nội tệ bị mất giá) sẽ có tác động kích thích

xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngƣợc lại khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ kích thích

nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Qua đó cho thấy sự tác động của tỷ giá tới hoạt

động xuất nhập khẩu là sự tác động trực tiếp và rất mạnh mẽ. Từ đó sẽ có tác

động mạnh tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi lẽ khi có rủi ro về hối đoái

xảy ra nó sẽ tác động tới những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và qua

đó sẽ có tác động tới ngân hàng, sự tác động này là lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào

khoản vốn mà khách hàng vay của ngân hàng.

1.1.2.4. Vai trò, chức năng của ngân hàng thƣơng mại trong nền kinh tế thị

trƣờng.

Thông qua việc thực hiện các chức năng trên, ngân hàng thƣơng mại có vai trò sau:

- Điều hoà vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Bằng nghiệp

vụ tín dụng, ngân hàng thƣơng mại đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung kịp thời cho

20

hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng thƣơng mại

có thể gia tăng hoặc thu hẹp khối lƣợng tín dụng vào từng ngành nghề. Việc sử

dụng vốn vay giúp cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn trong kinh

doanh vừa giúp doanh nghiệp ý thức đƣợc trách nhiệm trong sử dụng vốn vay; từ

đó, doanh nghiệp có lựa chọn mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh.

Là một trung gian thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thƣơng mại giúp

các chủ thể kinh tế tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, giảm giá

thành các sản phẩm, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của dân cƣ.

- Góp phần ổn định hệ thống tài chính: thông qua chức năng trung gian thanh

toán, ngân hàng thƣơng mại đã giảm khối lƣợng tiền mặt lƣu thông trong nền

kinh tế, tăng khả năng kiểm soát lạm phát của ngân hàng Trung ƣơng. Khối

lƣợng tiền mặt đi vào ngân hàng thƣơng mại là những công cụ tác động trực tiếp

vào hoạt động kinh doanh cuả các chủ thể trong nền kinh tế. Ngân hàng trung

ƣơng hoạch định chính sách tiền tệ, để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng

các công cụ nhƣ: lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trƣờng mở... thông

qua hoạt động của ngân hàng thƣơng mại. Ngân hàng thƣơng mại là chủ thể chịu

sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đóng vai trò trung gian trong

việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng

và đến nền kinh tế. Thông qua ngân hàng thƣơng mại và các định chế tài chính

trung gian khác, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đƣợc phản hồi qua ngân hàng thƣơng

mại đến ngân hàng trung ƣơng để Chính phủ và ngân hàng trung ƣơng có những

điều chỉnh thích hợp với tình hình cụ thể của nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh

của ngân hàng thƣơng mại gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp.

Ngân hàng thƣơng mại là trung gian thực thi các chính sách tiền tệ của ngân

21

hàng trung ƣơng, tham gia xây dựng chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội và xây

dựng chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là công cụ can thiệp vào nền kinh tế

dựa trên cơ chế thị trƣờng và các quy luật vận động của nó thông qua ngân hàng

thƣơng mại.

1.2. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG NHỮNG THẬP NIÊN TĂNG TRƢỞNG VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.

1.2.1. Kinh nghiệm của các nước châu Á trong những thập niên tăng trưởng. Trƣớc cuộc khủng hoảng tài chính xẩy ra ở châu á, tại một số nƣớc: Thái lan, In

đô nê xi a, những dòng vốn ngắn hạn từ nƣớc ngoài chảy vào nền kinh tế tăng

nhanh trong khi các khoản cho vay của ngân hàng thƣơng mại hầu hết là khoản

vay trung dài hạn hoặc khó chuyển đổi từ trung dài hạn sang ngắn hạn. Lý do,

các khoản nghĩa vụ của ngân hàng thƣờng là các khoản tiền gửi ngắn hạn và tính

lỏng cao, có thể bị rút ra theo yêu cầu; thông tin về ngƣời đi vay không đầy đủ và

các ngân hàng thƣơng mại phải gánh chịu rủi ro tín dụng, vì loại rủi ro không thể

chuyển đƣợc sang ngƣời gửi tiền. Điều này trái ngƣợc hẳn với tài trợ bằng trái

phiếu, rủi ro đầu tƣ đƣợc phân tán giữa nhiều ngƣời đầu tƣ và nhà phát hành trái

phiếu công ty cho phép công ty tài trợ những dự án rủi ro dài hạn. Trên thực tế,

các ngân hàng thƣơng mại cố gắng thực hiện sự chuyển đổi thời hạn ở mức độ

nào đó dựa vào việc quay vòng các khoản vay ngắn hạn dựa trên việc giám sát

trong lúc cho vay đối với các công ty đi vay và giảm rủi ro của các khoản vay

bằng cách có đƣợc thông tin đáng tin cậy hơn thông qua các giao dịch đƣợc lặp

đi lặp lại nhiều lần. Sự thất bại của hệ thống ngân hàng Châu á trƣớc giai đoạn

khủng hoảng tài chính tiền tệ trong việc thu thập và xử lý thông tin đƣợc bộc bộ

ở những lý do cơ bản sau:

- Để đạt đƣợc sự ổn định về mặt tài chính và tối thiểu hoá rủi ro tại các ngân

22

hàng thƣơng mại trong việc đƣơng đầu khủng hoảng, các Chính phủ đã cấp

những khoản bảo lãnh để các hãng vay vốn ngân hàng trong khi các doanh

nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản do năng lực hấp thụ các nguồn vốn của

chính phủ có hạn và năng lực quản lý của họ là chƣa đáp ứng đƣợc với quy mô

vốn lớn. Hậu quả là sự nỗ lực của ngân hàng thƣơng mại trong việc thu thập

thông tin và quản lý khách hàng vay vốn đã thất bại và ảnh hƣởng lớn đến những

kỹ năng quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thƣơng mại. Khi chính sách này

trở nên không khả thi, ngoài tầm kiểm soát, các Chính phủ bảo vệ ngân hàng

thƣơng mại bằng cách tạo ra các cam kết là cƣú cánh khi hệ thống ngân hàng

thƣơng mại rơi vào tình trạng phá sản.

- Các ngân hàng thƣơng mại dựa quá nhiều vào các khoản cho vay có bảo đảm

bằng tài sản mà không quản lý quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng vay

vốn. Nhận thế chấp tài sản là điều cần thiết để mở rộng tín dụng đối với ngân

hàng thƣơng mại, nhƣng áp đặt cho khách hàng một nguyên tắc là cho vay có sự

hoàn trả và sử dụng vốn đúng mục đích nhƣ đã cam kết nhằm giảm thiểu rủi ro

mất vốn của các ngân hàng thƣơng mại. Thêm vào đó, việc thế chấp tài sản là

một dấu hiệu về chất lƣợng tín dụng của ngƣời đi vay đối với ngân hàng. Ngoài

ra, còn một số lợi thế khác của các khoản vay có tài sản đảm bảo là: tài sản đảm

bảo giúp ngân hàng giảm thiểu đƣợc mất mát khi mà khách hàng vay vốn bị phá

sản, giá trị tài sản thế chấp không bị ảnh hƣởng bởi cam kết của khách hàng khi

vay vốn. Trong khi các quyết định cho vay dựa có tài sản đảm bảo là phổ biến

trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thì sự phụ thuộc quá nhiều vào những

loại tài sản thế chấp cụ thể (nhƣ bất động sản) làm tăng tính dễ đổ vỡ của hệ

thống ngân hàng khi ngân hàng trở nên dễ bị tổn thƣơng hơn bởi sự giảm giá của

các tài sản thế chấp trong tƣơng lai. Giá trị tƣơng lai của tài sản thế chấp là một

23

vấn đề cực khó cho ngân hàng trong quá trình nhận thế chấp. Vấn đề liên quan

là: các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo trong khi

quyền sở hữu về tài sản không đƣợc xác định và bảo vệ một cách đúng đắn và

chính xác trong tƣơng lai. Điều này đem lại rất nhiều rủi ro cho hoạt động của

ngân hàng thƣơng mại khi mà thu nhập chính của họ dựa vào tín dụng.

- Các ngân hàng thƣơng mại thƣờng đƣợc sở hữu theo mô hình tập đoàn (ở

Indonesia, Hàn quốc, Thái lan). Điều này gây cản trở lớn cho các ngân hàng

trong việc hoạch định chiến lực kinh doanh cũng nhƣ rủi ro mất vốn là rất lớn do

đối tƣợng cho vay thƣờng đƣợc chỉ định mà không có đủ điều kiện để ra các

quyết định cho vay hợp lý và đầy đủ.

- Các quy chế phòng ngừa, việc giám sát cơ chế thực thi không đủ hữu hiệu,

Thị trƣờng trái phiếu ở các nƣớc Châu á chậm phát triển xét cả về cung – cầu

lẫn lý do thể chế. Một yếu tố quan trọng của bên cung là chỉ có rất ít các công ty

lớn, có uy tín mà thông tin của họ có thể công khai và chuyển nhƣợng trên thị

trƣờng và nhờ đó những công ty này có thể là những nhà phát hành trái phiếu.

Về yếu tố cầu, thị trƣờng trái phiếu khó phát triển nhanh vì các hộ gia đình có

khuynh hƣớng nắm giữ tài sản dƣới hình thức các khoản tiền gửi ngân hàng ngắn

hạn. Nhƣ vậy, đối với ngƣời đi vay, việc quyết định huy động vốn từ kênh tài

chính gián tiếp (ngân hàng thƣơng mại) hay từ kênh tài chính trực tiếp (thị

trƣờng chứng khoán) phụ thuộc vào:

- Mức độ nghiêm trọng của sự bất cân xứng thông tin về ngƣời cho vay và ngƣời

vay cuối cùng,

- Số lƣợng các nhà phát hành và sự quan tâm của các nhà đầu tƣ

- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng thông tin.

Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, các quốc gia phải đặt sự ƣu tiên cao

24

đối với việc tăng cƣờng hệ thống ngân hàng nhƣng đồng thời phải chú trọng phát

triển thị trƣờng trái phiếu công ty bằng cách xoá bỏ những trở ngại có thể để hệ

thống ngân hàng thƣơng mại và thị trƣờng trái phiếu có thể bổ trợ cho nhau tránh

quá tải trong hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế gây nên sự đổ vỡ cho nền kinh

tế.

Chính vì thế, có thể đƣa ra phƣơng pháp áp dụng cho việc quản lý và điều hành

ngân hàng thƣơng mại ở các quốc gia Châu á:

- Loại bỏ sự can thiệp trực tiếp, quá sâu của chính phủ trong hoạt động kinh

doanh của các ngân hàng thƣơng mại nhằm tăng tính chủ động kiểm soát và xử

lý thông tin có hiệu quả nhất là trong lĩnh vực tín dụng.

- Tăng cƣờng chức năng hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với hoạt

động của ngân hàng thƣơng mại.

Để xây dựng một hệ thống ngân hàng thƣơng mại hoạt động kinh doanh an toàn

và hiệu quả, chúng ta có thể tham khảo cách mà Chính phủ Singapore đã thực

hiện trong việc cải tổ hệ thống ngân hàng thƣơng mại của nƣớc này.

Sau khi tuyên bố độc lập (năm 1965), chính phủ Singapore đã ban hành đạo luật

ngân hàng vào năm 1971 và thành lập cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia. Cơ quan

này trực thuộc chính phủ, thực hiện tất cả các chức năng của ngân hàng trung

ƣơng, trừ việc phát hành tiền. Từ đó, Singapore đƣợc biết đến nhƣ một trung tâm

tài chính quốc tế. Hiện tại Singapore có 149 ngân hàng thƣơng mại, trong đó chỉ

10 ngân hàng thƣơng mại thuộc Singapore. Ngân hàng thƣơng mại đƣợc phép

thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng mang tính toàn cầu. Trong chiến lƣợc

thu hút các ngân hàng quốc tế đến thành lập và hoạt động, và tránh sự cạnh tranh

không lành mạnh trong phạm vị thị trƣờng nội địa, có quan quản lý tiền tệ quốc

25

gia đã ban hành các loại giấy phép cho những hoạt động ngân hàng đặc biệt:

- Loại ngân hàng thƣơng mại đƣợc tiến hành hoạt động tất cả các loại hình dịch

vụ ngân hàng.

- Loại ngân hàng thƣơng mại chỉ đƣợc hoạt động kinh doanh một số loại hình

dịch vụ hạn chế: không đƣợc nhận tiền gửi bằng đồng đô la Singapore...

- Loại ngân hàng thƣơng mại mà trong thị trƣờng nội địa không đƣợc chấp nhận

tiền gửi từ cá nhân hoặc mở thêm chi nhánh... Ngoài ra, Singapore có 2 ngân

hàng sở hƣũ Nhà nƣớc: ngân hàng phát triển và ngân hàng tiết kiệm bƣu điện và

các tổ chức tài chính hoạt động nhƣ là những ngân hàng bán buôn.

Với mục tiêu đƣa Singapore trở thành một trung tâm tài chính hàng đầu ở Châu

á, Chính phủ đã thành lập một có quan chuyên trách quản lý các vấn đề tài chính,

cơ quan quản tiền tệ quốc gia rà soát, ban hành hàng loạt các văn bản hƣớng dẫn,

chỉ đạo thực hiện quá trình cải tổ ngân hàng thƣơng mại:

- Duy trì các tiêu chuẩn giám sát, quản lý thận trọng hoạt động của ngân hàng

thƣơng mại

- Coi trọng vấn đề kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của ngân hàng

thƣơng mại

- Thi hành các biện pháp quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế

- Các tiêu chuẩn về tính minh bạch trong cung cấp thông tin cho ngân hàng

thƣơng mại

Sự tham gia của chính phủ vào hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại:

Singapore vẫn duy trì sự tham gia của Chính phủ trong hệ thống ngân hàng

thông qua 02 ngân hàng quốc doanh là Ngân hàng phát triển và ngân hàng tiết

kiệm bƣu điện nhƣng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh mà chỉ

tạo ra môi trƣờng kinh doanh thuận lợi và thông thoáng, nhằm tạo cho ngân hàng

26

thƣơng mại tính chủ động hơn trong kinh doanh, tính tự chịu trách nhiệm cao

hơn trong kết quả kinh doanh. Mục tiêu của Chính phủ hƣớng cho các ngân hàng

thƣơng mại thích ứng nhanh với những thay đổi của môi trƣờng kinh tế quốc tế,

làm cho các ngân hàng thƣơng mại hoạt động có hiệu quả hơn.

1.2.2 Những xu hướng trong sự phát triển của ngân hàng thương mại trên thế giới.

1.2.2.1. Ngân hàng thƣơng mại cổ phần giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại.

Ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc

độ nhanh, quá trình chu chuyển vốn giữa các quốc gia xem nhƣ một trong những

yếu tố quyết định đối với tiềm năng và khả năng phát triển của mỗi quốc gia. Để

có đƣợc một vị trí nhƣ hiện nay, hệ thống ngân hàng thƣơng mại đã trải qua một

quá trình phát triển không ngừng từ các Ngân hàng thuộc sở hữu tƣ nhân nhỏ bé

thành Ngân hàng lớn với nhiều hình thức sở hữu (ngân hàng thƣơng mại cổ

phần) cùng với sự phát triển các hoạt động nghiệp vụ đa dạng của nó.

Về bản chất, Ngân hàng thƣơng mại cổ phần là một hình thái công ty cổ phần.

Nếu trong nền kinh tế tập trung, nền kinh tế hiện vật thì hình thức này không cần

đến nó, không phù hợp và nhƣ vậy có cũng không thể xuất hiện và tồn tại, nhƣng

trong nền kinh tế thị trƣờng, nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành

phần thì lại rất cần đến nó, và đó là môi trƣờng tốt để loại hình này phát triển.

Ngân hàng thƣơng mại cổ phần cho phép huy động và tập trung mọi nguồn vốn

trong mọi tầng lớp dân cƣ và các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào hoạt

động sản xuất kinh doanh. Biện pháp huy động vốn qua chế độ cổ phần có nhiều

ƣu điểm. Chế độ cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, góp phần

làm sống động các hoạt động của hệ thống ngân hàng, cho phép thực hiện chủ

27

trƣơng tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý, hạn chế sự can thiệp trực tiếp

của chính quyền vào hoạt động kinh doanh ngân hàng, qua đó tạo điều kiện để

ngân hàng thực sự là chủ thể kinh doanh độc lập và có hiệu quả.

Ngân hàng thƣơng mại cổ phần là loại hình có nhiều khả năng trong việc thực

hiện quyền chủ động kinh doanh, làm chủ vốn vay và thu hồi vốn vay, làm tròn

trách nhiệm về vốn đối với khách hàng.

Ngân hàng thƣơng mại cổ phần đã tạo những yếu tố cạnh tranh trong hoạt động

dịch vụ ngân hàng, cạnh tranh trên thị trƣờng tiền tệ để nâng cao chất lƣợng hoạt

động và kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, là động lực của sự phát triển hệ thống

ngân hàng thƣơng mại. Trên thực tế, từ khi các ngân hàng thƣơng mại cổ phần

tham gia hoạt động trên thị trƣờng tiền tệ cùng với các loại hình ngân hàng

thƣơng mại khác, chất lƣợng phục vụ khách hàng và chất lƣợng các dịch vụ ngân

hàng ngày đƣợc nâng cao đặc biệt là các dịch vụ về cho vay vốn và thanh toán

qua ngân hàng.

Vốn của ngân hàng cổ phần đƣợc chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ

phần và đƣợc phát hành dƣới hình thức cổ phiếu. Ngƣời góp vốn vào ngân hàng,

năm giữ cổ phiếu đƣợc gọi là cổ đông. Cổ đông của Ngân hàng cổ phần có thể là

các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp Nhà nƣớc. Cổ phiếu xác nhận phần

vốn góp vào ngân hàng, xác nhận quyền sở hữu phần tài sản của ngân hàng,

đồng thời xác nhận phần lợi nhuận đƣợc hƣởng và quyền chi phối và điều hành

ngân hàng. Nét đặc trƣng của cổ phiếu là nó vừa liên quan đến quan hệ sở hữu,

vừa liên quan đến quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Mặc dù cổ phiếu đƣợc mua bán,

đƣợc chuyển nhƣợng trên thị trƣờng, song cổ phiếu không làm cho ngƣời sở hữu

vốn bị cách biệt so với ngƣời sử dụng vốn đó. Thông qua các cổ đông, chức năng

của ngƣời cho vay và ngƣời sở hữu liên kết với nhau. Vốn cổ phần là vốn dài

28

hạn về nguyên tắc cổ đông không có quyền rút vốn mà chỉ có quyền chuyển

nhƣợng cổ phần cho ngƣời khác, tức ngân hàng chỉ phải trả lãi cho cổ phiếu mà

không phải thanh toán cổ phiếu. Mặt khác ngân hàng không phải trả lãi cổ phiếu

khi kinh doanh gặp khó khăn, đây là điều quan trọng giúp các ngân hàng tăng

cƣờng khả năng chống đỡ với các rủi ro ở môi trƣờng bên ngoài.

Cũng do nội dung kinh tế của các Ngân hàng thƣơng mại cổ phần, chất lƣợng

của một ngân hàng thƣơng mại cổ phần phụ thuộc nhiều vào ban quản lý hay nói

rộng hơn là phụ thuôc vào cơ cấu tổ chức của nó. Các ngân hàng thƣơng mại cổ

phần có 2 tổ chức chính là đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Thông thƣờng

quyền quản lý tối cao thuộc về đại hội cổ đông. Tuy nhiên do số cổ đông thƣờng

là lớn nên đại hội cổ đông bầu ra một tổ chức nhỏ làm đại diện đó là Hội đồng

quản trị. Hội đồng quản trị thay mặt cho đại hội đồng cổ đông có chức năng chủ

yếu là đƣa ra các chỉ dẫn mang tính chiến lƣợc, bao gồm các kế hoạch tài chính

và các quyết định đầu tƣ lớn. Do sự phức tạp trong môi trƣờng kinh doanh ngày

càng tăng, Hội đồng Quản trị đã phân quyền cho một nhóm điều hành - Ban

giám đốc điều hành. Do vậy, chất lƣợng hoạt động của ngân hàng thƣơng mại cổ

phần phụ thuộc nhiều vào chất lƣợng Ban giám đốc điều hành. Thực tế cho thấy,

ngƣời lãnh đạo và các công sự của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần đòi hỏi

phải có bản lĩnh nghề nghiệp cao và có kinh nghiệm trong công tác ngân hàng.

Cùng với sự phát triển nền kinh tế, sự phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ,

sự phát triển các hoạt động kinh doanh ngân hàng và tiềm lực tài chính là một tất

yếu, hay nói cách khác, thị trƣờng hàng hoá ngày càng phát triển và kéo theo

việc mở rộng và phát triển thị trƣờng tài chính, thị trƣờng tiền tệ. Do sự phát

triển mạnh của thị trƣờng tài chính, các loại giấy tờ có giá xuất hiện và phát

triển, nhờ đó các ngân hàng cổ phần đã phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn,

29

mở rộng các hoạt động. Nhƣ vậy, qua hình thức mua cổ phiếu để sở hữu cổ phần,

các ngân hàng đã nhanh chóng phát triển mạnh số vốn và tiềm lực tài chính của

mình và qua hình thức này, sở hữu của ngân hàng thực sự trở thành đa dạng với

số ngƣời sở hữu là rất lớn. Điều quan trọng ở đây là từ sở hữu tƣ nhân phát triển

thành đa sở hữu dƣới hình thức sở hữu cổ phần - từ ngân hàng tƣ nhân thành

ngân hàng đa sở hữu, ngân hàng cổ phần, qua hình thức này tính chất sở hữu

đƣợc xã hội hoá là rất lớn. Nhƣ vậy từ sở hữu tƣ nhân thành sở hữu cổ phần là

một quy luật tất yếu của sự phát triển và là bƣớc tiến quan trọng của sự phát triển

kinh tế và tiến bộ xã hội.

1.2.2.2. Xu hƣớng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nƣớc trong hoạt động của ngân hàng thƣơng mại.

Các ngân hàng thƣơng mại ban đầu xuất hiện là các ngân hàng tƣ nhân với sở

hữu tƣ nhân, một tổ chức trung gian tài chính nhỏ bé sau dần phát triển trở thành

những ngân hàng lớn (nhiều hình thức sở hữu với quy mô và phạm vi hoạt động

ngày càng đƣợc phát triển mở rộng).

Khi nền kinh tế thị trƣờng ngày càng trở nên phát triển hoàn thiện đến một mức

độ nhất định, nền kinh tế hoạt động và chịu sự điều tiết theo các quy luật của

chính nó, việc Nhà nƣớc có những hành động can thiệp trực tiếp quá sâu vào

hoạt động các ngân hàng thƣơng mại đã gây những ách tắc và hạn chế trong các

hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, đặc biệt làm triệt tiêu tính

năng động của các ngân hàng thƣơng mại. Do vậy, về xu hƣớng Nhà nƣớc ngày

càng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của mình vào các hoạt động các ngân hàng

thƣơng mại thông qua việc rút dần cổ phần của mình tại các ngân hàng thƣơng

mại và các cổ phần đó nhừơng lại cho dân chúng tham gia một cách rộng rãi để

tận dụng mọi tiềm lực của dân chúng và phát huy tối đa những ƣu thế của hình

30

thức tổ chức cổ phần và từng bƣớc xã hội hoá quan hệ sở hữu trong ngân hàng

thƣơng mại. Nhà nƣớc quản lý và điều chỉnh hoạt động các ngân hàng thƣơng

mại thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, Nhà nƣớc tăng cƣờng can

thiệp một cách gián tiếp vào việc quản lý, giám sát hoạt động các ngân hàng

thƣơng mại bằng việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế thông qua sự vận động các

quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trƣờng.

1.2.2.3. Xu hƣớng tích tụ và tập trung trong lĩnh vực ngân hàng.

Do sự vận động của các quy luật trong nền sản xuất hàng hoá (Quy luật giá trị,

Quy luật cạnh tranh, cung cầu....) và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự đổi

mới về tổ chức, các ngân hàng nhỏ luôn có xu hƣớng tích tụ vốn để trở thành các

ngân hàng ngày càng lớn, và nhiều ngân hàng tập trung lại thành những ngân

hàng khổng lồ chi phối ngày càng nhiều đến đời sống kinh tế xã hội. Xu hƣớng

tích tụ và tập trung trong hoạt động ngân hàng và xu hƣớng hình thành nên các

ngân hàng đa sở hữu là 2 xu hƣớng thống nhất trong quá trình phát triển hoạt

động ngân hàng. Qua việc tích tụ và tập trung trong hoạt động sẽ hình thành nên

các ngân hàng đa sở hữu - đây là xu hƣớng có tính quy luật do sự phát triển của

nền sản xuất hàng hoá.

Việc hợp nhất, sáp nhập và mua lại để hình thành các ngân hàng lớn, những tập

đoàn lớn, những ngân hàng xuyên quốc gia, đa quốc gia đã trở thành một xu thế

phổ biến trên thế giới. Những ngân hàng đƣợc hình thành có quyền lực lớn chi

phối không chỉ nền kinh tế của một quốc gia mà còn của nhiều quốc gia. Quá

trình này do sự tác động của nhiều nguyên nhân, song cần phải kể đến là các

nguyên nhân chính sau:

- Sự thay đổi về môi trƣờng cạnh tranh và môi trƣờng luật pháp làm cho thị

trƣờng tài chính có những đặc điểm mới, ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động của

31

các định chế tài chính, buộc các ngân hàng phải tái cơ cấu lại cho phù hợp.

- Các ngân hàng vấp phải sự cạnh tranh mãnh liệt cả trong thị trƣờng nội địa và

quốc tế do quy mô vốn hoạt động và trình độ công nghệ, nhất là khi công nghệ

ngân hàng tiên tiến đƣợc sử dụng rộng rãi gia tăng áp lực cạnh tranh.

- Để duy trì và phát triển, đối phó với những khó khăn trên, các ngân hàng buộc

phải cắt giảm các chi phí đến mức thấp nhất có thể, do đó dẫn đến việc sáp nhập

và hợp nhất giữa các ngân hàng thƣơng mại. Việc sáp nhập, hợp nhất sẽ giúp họ

vừa đạt đƣợc mục tiêu này vừa tăng đƣợc doanh thu và cắt giảm chi phí đầu tƣ

vào hệ thống thiết bị công nghệ, làm tăng sức mạnh về vốn, mở mang thêm

mạng lƣới khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.

Ngoài ra, sáp nhập, hợp nhất sẽ giảm bớt bộ máy hành chính cồng kềnh, tiết

kiệm nhân lực, giảm chi phí quản lí hành chính. Các cuộc sáp nhập, hợp nhất có

thể cho phép tiết kiệm 20-30% chi phí của các ngân hàng trong 2-3 năm liền.

Một số ngân hàng do nhỏ bé không thể tồn tại cùng với các ngân hàng lớn trong

môi trƣờng cạnh tranh quyết liệt, các ngân hàng nhỏ đã bị các ngân hàng lớn

thôn tính mua lại.

Việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại ngân hàng tỏ ra khá hữu hiệu, mặc dù các

công việc này cũng gây ra không ít khó khăn do phải kết hợp giữa các phong

cách quản trị khác nhau, hệ thống thông tin không thuần nhất, hoặc do các vấn

đề nhân sự, tiền vốn để mua lại, phân chia quyền lực trong quản lí, định giá tài

sản... Điều này đòi hỏi phải cân nhắc thận trọng khi sáp nhập, hợp nhất hay mua

lại.

Gần đây nhất sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là cuộc khủng

hoảng tài chính trong khu vực, hàng loạt các ngân hàng nhỏ đƣợc hợp nhất, sáp

nhập hoặc bị các ngân hàng lớn thôn tính mua lại để trở thành những ngân hàng

32

lớn hơn. Bởi lẽ một trong những lý do của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

khởi đầu là sự sụp đổ các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng yếu kém và từ đó do tác

động dây truyền dẫn đến sự sụp đổ của toàn hệ thống. Nguyên nhân do trong

điều kiện mới với môi trƣờng cạnh tranh quyết liệt và ngày càng phức tạp, các

ngân hàng nhỏ không có đủ sức mạnh, không đủ tiềm lực về tài chính để chống

đỡ với những rủi ro của thị trƣờng, trong khi đó cơ chế và hoạt động thanh tra,

kiểm soát yếu kém dẫn đến nhiều ngân hàng nhỏ bị sụp đổ.

Điều kiện thực tiễn ở Việt nam hiện nay đã cho thấy với nền kinh tế hàng hoá

phát triển theo cơ chế thị trƣờng, có quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa, các quy luật của nền kinh tế hàng hoá của cơ chế kinh tế

thị trƣờng luôn tồn tại vận động và phát huy các tác dụng của nó. Điều này đƣợc

thể hiện trong môi trƣờng cạnh tranh ngày càng lớn, tính chất tự do hoá ngày

càng cao và nhƣ vậy những ngân hàng nhỏ bé, tiềm lực yếu rất khó có thể tồn tại

và phát triển. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển

mạnh, tính chất xã hội hoá trong sản xuất và kinh doanh ngày càng cao thì quy

mô phân tán, nhỏ hẹp càng bị lạc hậu và lỗi thời không thể có khả thích ứng để

tồn tại trứơc những biến động của môi trƣờng xung quanh. Do vậy, có thể khẳng

định rằng trong điều kiện nền kinh tế Việt nam hiện nay, việc hợp nhất, sáp nhập

giữa các ngân hàng nhỏ để hình thành nên các ngân hàng lớn hơn, với quy mô

lớn hơn là phù hợp với quy luật khách quan và đáp ứng những đòi hỏi của nền

kinh tế, đây cũng là những giải pháp quan trọng trong việc tái cơ cấu các ngân

hàng thƣơng mại để các ngân hàng thƣơng mại tồn tại và phát triển trong điều

kiện mới.

Tóm lại, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, các nƣớc đều thực

hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thƣơng mại liên quan tới cả những vấn đề

33

quản lí vĩ mô hệ thống cũng nhƣ những vấn đề quản lí vi mô trong từng ngân

hàng. Vì vậy các giải pháp thực hiện tái cơ cấu đối với hệ thống ngân hàng

thƣơng mại mà Việt nam có thể tham khảo để thực hiện thành công quá trình đổi

mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại là:

- Tăng tiềm lực của các ngân hàng. Tiềm lực của ngân hàng bao gồm hai khía

cạnh:

Tiềm lực hữu hình: là khả năng về vốn tự có, cơ sở vật chất kĩ thuật, phạm vi

hoạt động, số lƣợng cán bộ nhân viên,...

Tiềm lực vô hình: thể hiện qua chất lƣợng bộ máy quản lí, chất lƣợng cán bộ

nhân viên, uy tín và hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng,...

- Nâng cao chất lƣợng điều hành hoạt động của các ngân hàng. Việc tổ chức điều

hành hoạt động ngân hàng đóng vai trò quyết định đối với sự thành đạt trong

kinh doanh ngân hàng. Chất lƣợng điều hành liên quan đến: Bộ máy quản lí điều

hành, Tổ chức nhân sự, Quản lí tài sản nợ và tài sản có, Công tác kiểm soát kiểm

34

toán nội bộ và kiểm toán độc lập.

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1. DIỄN BIẾN CHÍNH CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1.1. Hệ thống ngân hàng Việt nam trước khi có 2 Pháp lệnh về ngân hàng (1990) Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bƣớc mở đầu của thời kỳ đổi

mới, cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã từng phát huy hiệu quả trong công cuộc

vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất

nƣớc nhƣng trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nƣớc suốt nửa đầu thập

niên 80 đã tỏ ra kém hiệu quả, kìm hãm sức sản xuất xã hội, làm cho sản xuất

đình đốn, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng. Lạm phát phi mã (nếu lấy giá cả

năm 1976 là 100 thì năm 1981 là 313,7%, năm 1984 là 1400%, năm 1985 là

2390%) buộc hệ thống ngân hàng phải thực hiện chính sách lãi suất cao làm cho

công nợ của các doanh nghiệp càng gia tăng, lãi suất ngoài ngân hàng cũng tăng

lên, tình trạng cho vay nặng lãi phát triển càng làm cho ngƣời vay không có khả

năng hoàn trả cả nợ vay lẫn lãi. Thêm vào đó, cùng với việc nhiều doanh nghiệp

(mà chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nƣớc) làm ăn không hiệu quả, thua lỗ nặng

nề dẫn đến nguy cơ phá sản đã làm cho hệ thống ngân hàng lâm vào tình cảnh

hết sức khó khăn.

Đặc trƣng nổi bật của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn này là hệ thống ngân

hàng một cấp, mang nặng tính bao cấp và đƣợc vận hành theo cơ chế kế hoạch

hoá tập trung, lẫn lộn giữa chức năng quản lý và kinh doanh càng làm cho hoạt

động ngân hàng kém hiệu quả, không theo kịp với đòi hỏi của sự phát triển của

35

nền kinh tế.

Môi trƣờng pháp lý cho việc điều chỉnh mọi hoạt động của hệ thống ngân hàng

còn rất sơ khai. Cơ sở pháp lý trong thời kỳ này hầu hết là dƣới hình thức văn

bản dƣới luật điều chỉnh từng loại nghiệp vụ cụ thể trong thời kỳ kế hoạch hoá

tập trung hiện không còn phù hợp.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra phƣơng hƣớng phát triển kinh tế ở

Việt nam trong công cuộc đổi mới là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội

chủ nghĩa. Nhƣ vậy, những khuyết tật chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế trƣớc

đây đã đƣợc nhận rõ và về cơ bản đã tìm đƣợc hƣớng khắc phục; việc sử dụng

quan hệ hàng - tiền hết sức đƣợc chú trọng, hạch toán kinh tế đƣợc áp dụng rộng

rãi ở mọi ngành, các thành phần kinh tế đƣợc thừa nhận cùng phát triển bình

đẳng, hệ thống tài chính - ngân hàng bắt đầu đƣợc cải tổ, đổi mới ngành ngân

hàng trở thành nhân tố tích cực cho công cuộc đổi mới nền kinh tế; vì vậy đến

cuối thập niên 80 nền kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc: sản xuất tăng

trƣởng, hàng hoá trên thị trƣờng dồi dào, phong phú, xuất nhập khẩu tăng lạm

phát đã đƣợc kìm chế (từ mức lạm phát 3 con số xuống còn 2 con số) tạo điều

kiện giảm thấp trong những năm sau.

Thực hiện chủ trƣơng chuyển mạnh hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế

và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, từ tháng 6/1987 Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng

(nay là Thủ tƣớng Chính phủ) đã cho phép Ngân hàng Nhà nƣớc làm thí điểm

việc tách ngân hàng chuyên doanh từ hệ thống Ngân hàng Nhà nƣớc làm nhiệm

vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ ngân hàng ở một số tỉnh, thành phố

tạo nền móng hình thành hệ thống ngân hàng thƣơng mại tại Việt Nam.

Tuy nhiên, do hệ thống các văn bản pháp lý không đầy đủ, không đồng bộ,

36

không xác định đƣợc cơ quan cấp phép và quản lý ngân hàng thƣơng mại và các

tổ chức tín dụng hợp tác nên cùng với sự đổ bể của hàng loạt các quỹ tín dụng,

các ngân hàng thƣơng mại đã gặp không ít khó khăn, thậm chí nhiều ngân hàng

trên bờ vực phá sản. Ngoài ra, nhiều ngân hàng thƣơng mại kinh doanh vƣợt

khỏi tầm quản lý, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nƣớc. Trong bối cảnh đó, Nhà

nƣớc đã công bố hai Pháp lệnh về Ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nƣớc

và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) tạo cơ sở pháp

lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng và quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động

ngân hàng.

2.1.2. Những diễn biến chính của quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam sau khi có 2 Pháp lệnh về ngân hàng. Hình thành hệ thống các ngân hàng thương mại đa dạng

Hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam bao gồm nhiều loại hình ngân hàng

với những hình thức sở hữu khác nhau, tổ chức và hoạt động dƣới một hành lang

pháp lý là Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Xét dƣới góc độ sở hữu, chúng ta

có các loại hình ngân hàng sau:

- Ngân hàng thƣơng mại Quốc doanh (100% sở hữu Nhà nƣớc)

- Ngân hàng hợp tác

- Chi nhánh Ngân hàng nƣớc ngoài (100% sở hữu Ngân hàng nƣớc ngoài)

- Ngân hàng liên doanh (Sở hữu hỗn hợp giữa Ngân hàng Việt nam và ngân hàng

nƣớc ngoài)

- Ngân hàng thƣơng mại cổ phần

Ngân hàng thương mại quốc doanh là loại hình ngân hàng đã đƣợc pháp luật

thừa nhận và định rõ địa vị pháp lý từ Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng

và Công ty tài chính quy định cho đến Luật các TCTD. Theo Pháp lệnh Ngân

37

hàng, "Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh là Ngân hàng thƣơng mại đƣợc Thành

lập bằng 100% vốn Ngân sách Nhà nƣớc". Hiện nay các Ngân hàng thƣơng mại

quốc doanh vẫn đang nắm vai trò chủ đạo của mình trong toàn hệ thống ngân

hàng thƣơng mại.

Nhƣ vậy, Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh là loại hình ngân hàng đƣợc Nhà

nƣớc thành lập, sở hữu Nhà nƣớc, vốn điều lệ do Nhà nƣớc cấp. Trƣớc đây, 4

Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh (Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam, Ngân

hàng Công thƣơng Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn

Việt nam, Ngân hàng Đầu tƣ và phát triển Việt nam) hoạt động nhƣ các ngân

hàng chuyên doanh, mỗi một ngân hàng hoạt động phục vụ chủ yếu ở các lĩnh

vực, các ngành kinh tế nhƣ tên gọi của chúng. Tuy nhiên, gần đây 4 Ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh giống nhau đều thực hiện các hoạt động kinh doanh đa

năng với tƣ cách là những ngân hàng thƣơng mại, phục vụ mọi ngành, mọi lĩnh

vực. Một vài năm gần đây xuất hiện thêm Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng

sông Cửu long và Ngân hàng chính sách xã hội, đều là sở hữu Nhà nƣớc 100%.

Ngân hàng này thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất

nƣớc, hoạt động với tƣ cách là ngân hàng chuyên doanh hoặc ngân hàng chính

sách chứ không phải là ngân hàng thƣơng mại đa năng nhƣ 4 Ngân hàng trên.

Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là cơ sở của ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt

nam hoạt động theo pháp luật Việt nam". Luật các TCTD khẳng định: Ngân

hàng nƣớc ngoài đƣợc phép hoạt động tại Việt nam dƣới hình thức chi nhánh

Ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt nam. Chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài là loại

hình chi nhánh của pháp nhân nƣớc ngoài, là một pháp nhân phụ thuộc với 100%

vốn đƣợc cấp ban đầu từ ngân hàng nƣớc ngoài. Cho đến nay, trong hệ thống

ngân hàng, đã có 26 chi nhánh của các ngân hàng nƣớc ngoài hoạt động tại Việt

38

nam của các nƣớc lớn trên thế giới và các nƣớc trong khu vực. Chi nhánh ngân

hàng nƣớc ngoài thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, là những

ngân hàng thƣơng mại đa năng.

Ngân hàng liên doanh là ngân hàng đƣợc thành lập bằng vốn góp của bên ngân

hàng Việt nam và bên ngân hàng nƣớc ngoài, có trụ sở tại Việt nam hoạt động

theo pháp luật Việt nam. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân độc lập, là

ngân hàng thƣơng mại hoạt động tại Việt nam. Vốn ban đầu (vốn điều lệ) của

Ngân hàng là vốn góp của ngân hàng nƣớc ngoài và ngân hàng Việt nam. Mọi

quyền lợi, trách nhiệm trong hoạt động và tổ chức của loại hình này đều tuân

theo một nguyên tắc chung thống nhất là tỷ lệ vốn góp của các bên. Cho đến nay

trong hệ thống ngân hàng Việt nam có 5 Ngân hàng liên doanh giữa Việt nam và

nƣớc ngoài (Ngân hàng IndoVina, Ngân hàng VidPublic, Ngân hàng

ChohungVina, Ngân hàng VinaSiam, Ngân hàng Lào Việt).

Ngân hàng hợp tác là một loại hình TCTD hợp tác với hình thức sở hữu tập thể,

đƣợc Luật các TCTD quy định: " Các tổ chức tín dụng Việt nam gồm có Tổ chức

tín dụng Nhà nƣớc, tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nƣớc và nhân dân, tổ chức

tín dụng hợp tác". Luật các TCTD còn khẳng định; "TCTD hợp tác là tổ chức

kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia

đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng... " loại hình này bao gồm

Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức

khác. Ngân hàng hợp tác là một loại hình thuộc sở hữu tập thể đƣợc thành lập

bằng vốn góp của các xã viên, của các cá nhân hay hộ gia đình. Tuy nhiên hoạt

động của loại hình này với phạm vi hẹp và với các hoạt động ngân hàng đơn

giản.

Ngân hàng thương mại cổ phần đƣợc hình thành từ trƣớc khi có pháp lệnh Ngân

39

hàng và sau đó loại hình này đã đƣợc Pháp lệnh khẳng định địa vị Pháp lý:

"Ngân hàng thƣơng mại cổ phần là ngân hàng thƣơng mại đƣợc thành lập dƣới

hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không đƣợc

sở hữu số cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do Ngân hàng Nhà nƣớc quy định".

Luật các TCTD ra đời là một bƣớc tiến mới mở rộng và tạo khuôn khổ hành lang

pháp lý vững chắc cho việc tồn tại và hoạt động của ngân hàng thƣơng mại cổ

phần. Ngân hàng thƣơng mại cổ phần là loại hình đƣợc quy định rõ là Ngân hàng

cổ phần của Nhà nƣớc và nhân dân - tức Ngân hàng cổ phần là ngân hàng có vốn

cổ phần của Nhà nƣớc và vốn cổ phần của nhân dân. Ở đây, hành lang pháp lý

đối với loại hình này rất rộng không có quy định cổ đông (ngƣời góp vốn) phải là

và chỉ là tổ chức Việt nam và cá nhân ngƣời Việt nam mà chỉ quy định bắt buộc

phải có vốn cổ phần của Nhà nƣớc, phần vốn cổ phần của Nhà nƣớc trong ngân

hàng cổ phần là phần vốn của các tổ chức quốc doanh (pháp nhân Nhà nƣớc bao

gồm cả các doanh nghiệp Nhà nƣớc) với tƣ cách là ngƣời đại diện cho Nhà nƣớc

góp vốn vào Ngân hàng cổ phần. Ngân hàng cổ phần có thể có nhiều chủ sở hữu

đan xen khác nhau, bên cạnh chủ sở hữu là các tổ chức Nhà nƣớc (sở hữu phần

vốn của Nhà nƣớc góp vào Ngân hàng cổ phần) thì ngân hàng cổ phần còn có thể

có nhiều loại chủ sở hữu khác cùng tham gia góp vốn mua cổ phần và sở hữu:

- Các doanh nghiệp Nhà nƣớc; - Các cá nhân ngƣời Việt nam; - Các cá nhân ngƣời nƣớc ngoài; - Các tổ chức ngoài quốc doanh; - Các tổ chức nƣớc ngoài. Tính tất yếu và sự cần thiết của loại hình ngân hàng thƣơng mại cổ phần ở Việt

nam trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ vai trò to lớn thông qua hoạt động của

40

loại hình ngân hàng này trong nền kinh tế.

- Nền kinh tế Việt nam có tới 80% các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều là

các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do vậy sự ra đời và hoạt động của các ngân hàng

thƣơng mại cổ phần là cần thiết để bổ sung cho các ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh trong việc đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế tƣ nhân rộng lớn và luôn

thiếu vốn. Trên thực tế, trong những năm qua các ngân hàng thƣơng mại cổ phần

đã thực hiện đƣợc một khối lƣợng lớn về cung ứng vốn và các dịch vụ thanh toán

cho các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nƣớc khi mà các

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và ngân hàng nƣớc ngoài tại Việt nam chƣa

có điều kiện với tới.

- Việc chỉ có các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh với nguồn vốn của Nhà

nƣớc hoạt động trong lĩnh vực nhận tiền gửi và cho vay sẽ gây ra sự độc quyền

trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và không khai thác

hết đƣợc tiềm năng của các thành phần kinh tế. Biện pháp huy động vốn qua chế

độ cổ phần có nhiều ƣu điểm, bổ sung có hiệu quả cho các hình thức khác.

- Ngân hàng thƣơng mại cổ phần đã tạo những yếu tố cạnh tranh trong hoạt động

dịch vụ ngân hàng, cạnh tranh trên thị trƣờng tiền tệ để nâng cao chất lƣợng hoạt

động và kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng. Trên thực tế, từ khi các ngân hàng

thƣơng mại cổ phần tham gia hoạt động trên thị trƣờng tiền tệ cùng với các loại

hình ngân hàng thƣơng mại khác, chất lƣợng phục vụ khách hàng và chất lƣợng

các dịch vụ ngân hàng ngày đƣợc nâng cao đặc biệt là các dịch vụ về cho vay

vốn và thanh toán qua ngân hàng.

Sự thay đổi các Quy định về hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại

Vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20, sau khi có các Pháp lệnh về ngân hàng

cùng với nỗ lực của Chính phủ trong việc điều hành kinh tế vĩ mô, lạm phát đã

41

dần đƣợc chặn đứng do Ngân hàng Nhà nƣớc thực thi chính sách thu hút vốn với

lãi suất cao. Với chính sách thu hút vốn với lãi suất cao, tiền mặt đã tập trung

vào ngân hàng thƣơng mại nhanh chóng, tạm thời làm giảm cung tiền tệ, nhƣng

đồng thời làm tăng lãi suất cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị

trƣờng mới hình thành, phát triển tại Việt Nam và chƣa phát huy hiệu quả, các

doanh nghiệp chƣa thích nghi đƣợc với cơ chế quản lý và kinh doanh mới nên

với lãi suất cao nhƣ vậy đã gặp không ít khó khăn, dẫn đến nguy cơ công nợ dây

dƣa ngày càng tăng đe doạ nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng.

Quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng đã có những bƣớc tiến đáng kể nhất là sau

khi Pháp lệnh về ngân hàng ra đời đã tạo ra một bƣớc ngoặt mới trong hoạt động

của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam. Hệ thống ngân hàng đã chuyển

dịch theo các mô hình hoạt động của các ngân hàng của các nền kinh tế mới nổi

và các nền kinh tế công nghiệp hoá. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng

mại bị khống chế bởi các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, chiếm trên 70%

tổng tài sản toàn hệ thống. Trong các thập kỷ qua, các ngân hàng thƣơng mại

quốc doanh đã chuyển dịch từ chỗ là các tổ chức cho vay theo chính sách trở

thành các ngân hàng thƣơng mại hoạt động đúng với chức năng của chúng hơn,

trở thành trung gian huy động tiết kiệm trong nƣớc cho các lĩnh vực cần vốn đầu

tƣ khác nhau của nền kinh tế và cung cấp dịch vụ ngân hàng cần thiết khác cho

các cá nhân, doanh nghiệp Việt nam. Sự dịch chuyển này tiến hành dƣới sự chỉ

đạo của Chính phủ và sự giám sát của ngân hàng Nhà nƣớc.

Chính phủ đã chỉ đạo chuyển đổi hệ thống ngân hàng thƣơng mại hoạt động theo

hƣớng thị trƣờng. Các biện pháp thực hiện đến nay bao gồm tự do hoá khu vực

ngân hàng và cơ cấu lãi suất, đƣa ra kế hoạch cơ cấu lại ngân hàng thƣơng mại

42

quốc doanh, thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý nợ động, chƣơng trình

tái cấp vốn nhiều giai đoạn cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và xoá bỏ

dần việc cho vay theo chỉ định của Chính phủ.

Chính phủ Việt nam luôn coi Doanh nghiệp Nhà nƣớc là phƣơng tiện chủ yếu để

phát triển nền kinh tế và các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đƣợc sử dụng là

công cụ chuyển vốn cho khu vực này, nên khuôn khổ pháp lý chủ yếu đƣợc thiết

kế để ƣu ái ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Bên cạnh đó, môi trƣờng hoạt

động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại thiếu sự cạnh tranh và môi trƣờng

pháp lý trong hoạt động của ngân hàng đã ảnh hƣởng tiêu cực đến sự phát triển

của lĩnh vực ngân hàng.

Để khắc phục những vấn đề yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng,

Luật ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các tổ chức tín dụng đƣợc ban hành và bắt đầu

có hiệu lực từ 01/10/1998 và 24 Nghị định liên quan đến hoạt động của ngân

hàng cũng đƣợc ban hành. Ngân hàng Nhà nƣớc đã ban hành nhiều quy định về

thành lập các tổ chức tài chính, tăng mức nhận tiền gửi, cho vay và quản lý các

danh mục đầu tƣ của ngân hàng thƣơng mại. Nhờ vậy, các chính sách tiền tệ

đƣợc thực hiện có hiệu quả, các nguồn tín dụng đƣợc cung cấp cho bất kỳ loại

hình doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả và tạo dựng lại uy tín cho hệ thống

các tổ chức tín dụng Việt nam. Để vƣợt qua tác động tiêu cực của cuộc khủng

hoảng tài chính châu á năm 1997, các chính sách điều chỉnh hoạt động của ngân

hàng và các biện pháp thực hiện liên tục đƣợc điều chỉnh:

- Chính sách về ngân hàng đƣợc ban hành phù hợp với các chính sách kinh tế

khác: tự do hoá lãi suất, các chính sách phát triển ngành...

- Huy động tối đa các nguồn lực phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng trong

43

phát triển kinh tế, khôi phục lại lòng tin của dân chúng về hoạt động của các tổ

chức tín dụng, khuyến khích cƣ dân sử dụng séc cá nhân trong các giao dịch

thanh toán thay vì sử dụng bằng tiền mặt...

Để tăng tính cạnh tranh giữa các ngân hàng thƣơng mại, ngân hàng Nhà nƣớc đã

phân loại mỗi ngân hàng tuỳ theo các tiêu chuẩn mà ngân hàng Nhà nƣớc đƣa ra

và cho phép những ngân hàng thƣơng mại có chất lƣợng hoạt động tốt hơn

những quyền nhƣ: mở thêm chi nhánh, thực hiện những nghiệp vụ mới... Nhiều

hạn chế về lĩnh vực hoạt động của ngân hàng thƣơng mại đang đƣợc huỷ bỏ,

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đã thay đổi căn bản về nhận thức trong hoạt

động trên cơ sở thƣơng mại và có hiệu quả.

Một số vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến hoạt động ngân hàng đã đƣợc làm

rõ: Quyền sở hữu về tài sản (Quyền và chuyển quyền sử dụng đất, các thủ tục

đăng ký giao dịch, ...). Việc cho phép các ngân hàng nƣớc ngoài nhận tài sản thế

chấp là quyền sử dụng đất không chỉ thúc đẩy cạnh tranh trong hoạt động mà còn

giải quyết khả năng thanh toán bằng tiền mặt hiện tại.

Bên cạnh đó, một số quy định về nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thƣơng

mại liên tục đƣợc sửa đổi: Quy chế cho vay, bảo lãnh, đảm bảo tiền vay theo

hƣớng tạo quyền tự chủ hơn, tăng tính tự chịu trách nhiệm trƣớc các quyết định

kinh doanh của minh hơn trƣớc đây.

Những đổi mới trong khuôn khổ pháp lý này đang tạo ra một xu hƣớng chung

trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thƣơng mại: hoạt động theo các nguyên

tắc của thị trƣờng và dần dần phù hợp với các thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do

những hậu quả từ rất lâu trong lịch sử đê lại, bƣớc chuyển sang các nguyên tắc

thị trƣờng chƣa đƣợc nhanh chóng nhƣ mong muốn.

Tách hoạt động cho vay theo chính sách ra khỏi hoạt động cho vay thương mại.

44

Việc thành lập Ngân hàng chính sách nhằm tách biệt hoạt động cho vay thƣơng

mại của ngân hàng thƣơng mại và cho vay theo chính sách để trực tiếp giải quyết

các vấn đề xã hội là một nỗ lực của Chính phủ trong việc lành mạnh hoá hoạt

động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại.

Ngân hàng thương mại vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho

nền kinh tế trong những năm tới.

Những thay đổi về cơ cấu trong lĩnh vực ngân hàng đƣợc thực hiện trong hai

thập kỷ qua đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống ngân

hàng thƣơng mại Việt nam vẫn còn nhiều tồn tại cần sớm khắc phục để đáp ứng

những tình hình mới của thực tiễn nền kinh tế trong nƣớc và quốc tế. Về tổng

thể, các nguồn lực tài chính chủ yếu đƣợc phân bổ, huy động qua kênh hệ thống

ngân hàng thƣơng mại do thị trƣờng chứng khoán đang trong giai đoạn mới phát

triển và chƣa phát huy đƣợc đầy đủ tác dụng của nó. Tỷ lệ Tổng tài sản ngân

hàng so với Tổng sản phẩm quốc nội còn thấp so với các nƣớc trong khu vực:

Nhật bản

Trung quốc

Singapore Hàn quốc

Thái lan

Indô-nê xi a

Tên quốc gia Khoản mục M2/GDP

Việt nam 27.6 143.8 205.7

93.1

48.3

89.9

57.0

Tiền gửi

10.0 103.7 165.0

85.0

46.8

82.8

40.8

/GDP

Lƣu hành

42.7

11.8

3.7

9.5

7.8

8.4

12.1

Tiền/Tiền gửi

Bảng 2.1. So sánh Tổng TS ngân hàng so GDP của một số nƣớc Châu á (%)

[Nguồn: IMF, Thống kê tài chính quốc tế, năm 2001]

Việt nam là một quốc gia có tỷ lệ tích luỹ nội địa thấp. Tỷ lệ M2/GDP chỉ ở mức

28% là thấp so với Nhật bản là 143,8% và Thái lan là 90%; tƣơng tự, tỷ lệ Tổng

45

tiền gửi / GDP của Việt nam chỉ đạt 10% trong khi tại Hàn quốc là 47%và Trung

quốc là 165%. Mặt khác, tỷ lệ Lƣu hành tiền/Tiền gửi vƣợt quá 42% cho thấy

nền kinh tế Việt nam là một nền kinh tế tiền mặt và vai trò của hệ thống ngân

hàng đối với việc phát triển các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt là chƣa

lớn so với Nhật bản có 11,8%, Trung quốc 3,7%... Hệ thống ngân hàng thƣơng

mại Việt nam vẫn đang là kênh huy động vốn và phân bổ vốn chính để phục vụ

các mục tiêu, chƣơng trình phát triển kinh tế, lý do:

- Thị trƣờng chứng khoán, thị trƣờng trái phiếu công ty chƣa đƣợc quan tâm phát

triển đúng mức, hoạt động cuả thị trƣờng này chƣa đƣợc công chúng đầu tƣ quan

tâm

- Các doanh nghiệp Việt nam vẫn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ (82% số

DN có vốn dƣới 10 tỷ đồng) nên khả năng tiếp cận thị trƣờng chứng khoán, thị

trƣờng trái phiếu công ty để trực tiếp huy động vốn là rất hạn chế do: hầu hết các

doanh nghiệp chƣa đủ điều kiện công khai tính minh bạch của thông tin để tham

gia phát hành chứng khoán, niêm yết chứng khoán

- Tâm lý hầu hết của các doanh nghiệp Việt nam không muốn thực hiện huy

động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và hầu hết các doanh nghiệp

chƣa nhận thức hết đƣợc tầm quan trọng của thị trƣờng chứng khoán trong việc

huy động vốn của doanh nghiệp.

Tự do hoá lãi suất: Từ năm 1996, Chính phủ đã bắt đầu cho phép tự do hoá lãi

suất trong các quan hệ vay mƣợn của ngân hàng thƣơng mại. Quá trình này đƣợc

bắt đầu với lãi suất tiền gửi bằng Đồng Việt nam sau đó mở rộng ra với các loại

ngoại tệ gửi tiết kiệm (1999), với lãi suất cho vay ngoại tệ (2001) và với lãi suất

cho vay bằng Đồng Việt nam với biên độ khá rộng. Trong khi chế độ quy định

về lãi suất cố định đã đƣợc xoá bỏ, ngân hàng thƣơng mại sẽ gặp phải khó khăn

46

ứng xử trong việc định ra lãi suất cho vay, huy động vừa đảm bảo tính cạnh

tranh vừa đảm bảo tính hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, sự thay đổi lãi suất cho

vay chủ yếu chỉ xẩy ra ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Lãi suất tiền gửi tăng

nhẹ, chủ yếu ở ngân hàng thƣơng mại cổ phần và hệ thống ngân hàng nông

nghiệp, nơi luôn có lãi suất cho vay cao hơn so với các ngân hàng khác. Ngân

hàng trung ƣơng đã có can thiệp kịp thời và liệu sự can thiệp này nhằm giữ cho

lãi suất ở mức ổn định để xoá bỏ trạng thái lo lắng về khả năng thanh toán tại

một số ngân hàng trong toàn bộ hệ thống hoặc đáp lại chỉ trích của công chúng

về sự khan hiếm tiền Đồng trong thanh toán.

Tự do hoá lãi suất có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách và các

công cụ tiền tệ để phù hợp với phát triển kinh tế vĩ mô trong điều kiện mới. Việc

xác định tỷ giá hối đoái phản ánh tỷ lệ lãi suất khác nhau giữa thị trƣờng ngoại

hối quốc tế và thị trƣờng tiền Đồng nội địa. Tỷ lệ chuyển đổi cao có thể dẫn đến

tác động ngƣợc lại về rủi ro tín dụng của ngân hàng thƣơng mại thông qua việc

khuyến khích tăng cho vay ngoại tệ thậm chí đối với những doanh nghiệp không

có nhu cầu về ngoại tệ.

Mặc dù lãi suất cho vay có điều chỉnh tăng ở một số ngân hàng thƣơng mại,

nhƣng nhìn chung lãi suất tiền đồng vẫn khá ổn định và đƣợc thị trƣờng chấp

nhận. Trong khi lãi suất đồng đô la Mỹ ở Việt nam vẫn khá thấp so với lãi suất

trên thị trƣờng thế giới. Các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh giải thích tính

không co giãn của lãi suất do sự e ngại cạnh tranh giữa các ngân hàng và phản

ứng của khách hàng thông qua việc đƣa ra một mức lãi suất vừa phải. Điều này

có nghĩa là cách làm tƣơng đối đặc biệt cách định ra lãi suất của các ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp mặc dù với mức lãi

suất cho vay đó có thể không đủ để trang trải chi phí, rủi ro tín dụng. Trong ngắn

47

hạn, sự ổn định về lãi suất có thể mang lại lợi ích cả cho ngân hàng thƣơng mại

và cả cho ngƣời đi vay nhƣng trong dài hạn thì có thể ảnh hƣởng đến hoạt động

kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại và ảnh hƣởng đến sự phát triển của nền

kinh tế. Thậm chí trong cơ chế tự do hoá lãi suất hơn nữa, lợi nhuận đƣa lại cho

các ngân hàng từ việc cho vay chắc chắn sẽ giảm đi nhiều. Các ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh đang trong chƣơng trình tái cấp vốn để mở rộng cho vay

và tích cực xử lý nợ tồn đọng. Thu nhập từ lãi cho vay vẫn là một nguồn thu

quan trọng đối với các ngân hàng thƣơng mại vì thế, lợi nhuận từ cho vay phải

đủ để trang trải chi phí hoạt động của ngân hàng.

Tác động của tự do hoá lãi suất có thể là chƣa rõ ràng đối với ngân hàng thƣơng

mại khi mà ngân hàng thƣơng mại chƣa có báo cáo chính thức về xác định lãi

suất cho vay trong môi trƣờng cạnh tranh mới. Các ngân hàng buộc phải công

khai cho ngƣời đi vay mức lãi suất thực tế, các chi phí khi các khoản vay chuẩn

bị đƣợc giải ngân. Điều này sẽ tăng tính minh bạch trong hoạt động của ngân

hàng thƣơng mại hơn và tránh đƣợc những chi phí không hợp lệ phát sinh từ

những giao dịch thƣờng ngày. Khi ngân hàng Nhà nƣớc áp dụng triệt để cơ chế

thị trƣờng để vận hành thị trƣờng tiền tệ, khi đó lãi suất sẽ là một công cụ hữu

hiệu hơn để điều tiết thị trƣờng tín dụng.

Môi trường hoạt động của ngân hàng thương mại. Gần đây, Chính phủ đã thành

lập cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo (trực thuộc Bộ tƣ pháp) để phòng ngừa

rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thƣơng mại và tránh các tranh chấp phát sinh

liên quan đến các quyền về tài sản phát sinh. Phạm vi đang ký giao dịch đảm bảo

bao gồm các tài sản cầm cố/thế chấp là bất động sản (trừ tàu thuỷ và máy bay) và

động sản. Quá trình đăng ký giao dịch đảm bao làm tăng tính minh bạch trong

các giao dịch thế chấp/cầm cố, cho vay và quyền sở hữu đối với những tài sản

48

cầm cố/thế chấp. Thực tế hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo còn

nhiều vấn đề vƣớng mắc, trong đó vấn đề lớn nhất là công nghệ hoạt động lạc

hậu và thủ tục hành chính quá rƣờm ra gây tâm lý e ngại cho các ngân hàng

thƣơng mại khi tham gia giao dịch.

Trung tâm thông tin tín dụng đã đƣợc thành lập (trực thuộc ngân hàng Nhà nƣớc)

nhằm cung cấp thông tin của ngƣời đi vay cho các ngân hàng thƣơng mại giúp

cho ngân hàng thƣơng mại thu thập đầy đủ thông tin hơn về ngƣời đi vay để có

quyết định cho vay đúng đắn, phòng ngừa đƣợc rủi ro tín dụng. Chức năng chính

của trung tâm thông tin tín dụng là thu thập thông tin của ngƣời đi vay nhƣng chi

qua kênh chủ yếu là các ngân hàng thƣơng mại cung cấp. Chính vì thế, chất

lƣợng thông tin về doanh nghiệp mà trung tâm này cấp cấp là chƣa đầy đủ, đa

chiều để giúp ngân hàng thƣơng mại có các quyết định đúng đắn và chính xác

hơn trong các quyết định cho vay của mình.

Vấn đề bảo hiểm tiền gửi. Sự sụp đổ của hàng loạt tổ chức tín dụng vào những

năm 80 của thế kỷ 20 gây nên sự mất mát tiền gửi của công chúng và ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng thƣơng mại. Chính vì thế, trong một thời

gian khá dài, ngân hàng thƣơng maị đã không thể nào huy động đƣợc khối lƣợng

vốn khổng lồ tiềm tàng trong dân chúng đƣợc tích trữ dƣới dạng ngoại tệ mạnh

và vàng bạc, đá quý. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc vận động, tuyên

truyền, Chính phủ đã thành lập cơ quan bảo hiểm tiền gửi (trực thuộc Bộ tài

chính) nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của ngƣời gửi tiền và giúp

cho hệ thống ngân hàng thƣơng mại hoạt động một cách an toàn và hiệu quả hơn.

Hiện tại, cơ quan bảo hiểm tiền gửi chỉ chi trả cho mỗi món tiền gửi không vƣợt

quá 30.000.000đồng. Điều này chỉ hợp lý khi các khoản tiền gửi chỉ là nội tệ và

gồm những món tiền gửi nhỏ. Trên thực tế, các tổ chức tín dụng nhận tiền gƣỉ là

49

ngoại tệ với tỷ lệ khá lớn và khi gặp phải vấn đề mất khả năng thanh toán. Điều

quy định này gây nên tâm lý bất ổn cho ngƣời gửi tiền khi gửi những món tiền

lớn và tăng chi phí cho ngân hàng thƣơng mại.

2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY.

2.2.1 Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam

2.2.2.1. Nguồn vốn Nguồn vốn chủ sở hữu

Thực trạng vốn tự có và tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có/tài sản có rủi ro) hiện nay

của ngân hàng thƣơng mại Việt nam là đáng lo ngại. Tính đến 9/2003, các ngân

hàng thƣơng mại quốc doanh (sau 2 lần đƣợc tái cấp vốn) với vốn tự có là

14.025 tỷ đồng trong khi tổng tài sản có là 419.894 tỷ đồng và tài sản có rủi ro là

356.910 tỷ đồng. Vì vậy, tỷ lệ an toàn vốn chỉ đạt 3,93% thấp hơn nhiều so với

thông lệ quốc tế (8%), chi tiết nhƣ sau:

- Ngân hàng công thƣơng Việt nam: 2,96%

- Ngân hàng ngoại thƣơng Việt nam: 3,10%

- Ngân hàng đầu tƣ phát triển Việt nam: 4,86%

- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam: 4,07%

- Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu long: 23,13%

[Nguồn: Dự thảo tăng vốn tự có cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh,

Ngân hàng Nhà nƣớc 2003]

Nhƣ vậy, mặc dù Nhà nƣớc đã cấp bổ sung vốn điều lệ cho các ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh (7.750 tỷ đồng) nhƣng tỷ lệ an toàn vốn bình quân thấp

hơn nhiều so với thông lệ quốc tế, lý do: tốc độ tăng trƣởng tổng tài sản có của

các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh là quá nhanh, khoảng 20%/năm. Chính vì

50

vậy nhu cầu tăng vốn tự có đang đặt ra là hết sức cấp bách nhằm đáp ứng đƣợc

thực tế phát triển kinh tế và các lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới của

nền kinh tế Việt nam.

Bảng: 2.2 Tốc độ tăng trƣởng vốn tự có, Tổng tài sản có của ngân hàng thƣơng

Tên NH

Tháng

Tháng 12/2001

Tháng 12/2002

Tháng 9/2003

12/2000

Chỉ tiêu

Giá trị

Giá trị

Tốc độ

Giá trị

Tốc độ

Giá trị

Tốc độ

tăng (%)

tăng (%)

tăng (%)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

Ngân hàng công thƣơng

Vốn tự có

1.050

1.057

0.7

2.065

95.4

2.465

19.4

Tổng T.S

57.010

70.593

23.8

84.124

19.2

98.010

16.5

Ngân hàng ngoại thƣơng

-Vốn tự có

1.099

1.080

-1.7

2.032

88.1

2.432

19.7

-Tổng T.S

67.013

77.499

15.6

82.294

6.2

92.136

12.0

Ngân hàng đầu tƣ

Vốn tự có

1.133

1.158

2.2

2.372

104.8

3.722

56.9

Tổng T.S có 52.529

65.200

24.1

77.844

19.4

90.041

15.7

Ngân hàng nông nghiệp

Vốn tự có

2.271

2.306

1.5

3.825

65.9

4.705

23.0

Tổng T.S có 57.152

73.935

29.4

100.951

36.5

136.143

34.9

mại quốc doanh

[Nguồn: Dự thảo tăng vốn tự có cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh,

51

Ngân hàng Nhà nƣớc 2003]

Nhằm tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, Chính phủ đã

cấp hơn 10.000 tỷ đồng, thế nhƣng con số này vẫn còn quá khiêm tốn so với nhu

cầu thực tế của các ngân hàng thƣơng mại để đáp ứng nhu cầu vể vốn cho phát

triển kinh tế, con số thực tế tối thiểu phải là 60.000 tỷ đồng mới đảm bảo đến

năm 2005, tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có trên tổng nguồn vốn) mới đạt trên 8%.

Vốn thấp gây ra rất nhiều hạn chế trong cho vay, do quy định hiện nay, mỗi ngân

hàng không đƣợc cho vay đối với một khách hàng không vựơt quá 15% vốn tự

có, vì thế, mỗi ngân hàng thƣơng mại quốc doanh chỉ có thể cho vay đối với một

khách hàng tổng số tiền không vƣợt quá 300 tỷ đồng. Trong khi đó, nhu cầu vay

vốn của các doanh nghiệp lại rất cao: đầu tƣ xây dựng một nhà máy xi măng

chẳng hạn, mức vốn cần thiết lên tới 2.000 tỷ đồng. Thiếu vốn, các ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nƣớc cấp, mà nguồn

này hoàn toàn bị hạn chế do khả năng tích luỹ của nền kinh tế còn rất thấp và còn

nhiều nhu cầu đầu tƣ khác cần phải chi tiêu.

Mức vốn chủ sở hữu bình quân của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần đô thị là

105 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 79 tỷ đồng; mức vốn chủ sở hữu bình quân

của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần nông thôn là 4,25 tỷ đồng, trong đó vốn

điều lệ là 2,75 tỷ đồng. Nếu so sánh với các quốc gia khác trong khu vực và trên

thế giới thì các ngân hàng thƣơng mại Việt nam có quy mô vốn rất nhỏ, vốn tự

có trung bình của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh là xấp xỉ 170 triệu đô la

Mỹ, đối với ngân hàng thƣơng mại cổ phần là 12 triệu đô la Mỹ.

Nguồn vốn huy động:

Huy động tiết kiệm: Hiện tƣợng siêu lạm phát xẩy ra cuối những năm 80 của thế

kỷ 20 và sự giảm giá đồng nội tệ làm cho cƣ dân mất lòng tin vào hệ thống ngân

52

hàng và đồng tiền Việt nam. Tiết kiệm của các hộ gia đình thƣờng đƣợc tích trữ

tại nhà dƣới dạng ngoại tệ mạnh nhƣ đô la Mỹ hoặc vàng, điều này làm cho nền

kinh tế Việt nam trở thành một nền kinh tế tiền mặt lớn nhất. Tuy nhiên, trong

thời gian gần đây, ngân hàng thƣơng mại đã có những nỗ lực đáng kể trong việc

thu hút lƣợng tiền nhà rỗi từ công chúng và đang trở thành nguồn vốn quan

trong đáp ứng các nhu cầu về vốn của nền kinh tế.

Bảng 2.3. Tình hình huy động vốn của ngân hàng thƣơng mại Việt nam

Thời gian 2000 2001 2002

Loại N.hàng Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng %

NH TMQD 143,640 76.0 175,560 76.0 218,950 75.5

NH TMCP 34,020 18.0 47,355 20.5 52,200 18.0

11,340 6.0 12,705 5.5 18,850 6.5 NH N.ngoài và

NHLD

Tổng cộng 189,000 231,000 290,000

[Nguồn: Are Vietnam’s Banks ready for the WTO, World Bank, 2/2004]

Tỷ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn huy động là ở mức thấp dƣới 4% đối với

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, dƣới 6% đối với toàn hệ thống chứng tỏ sự

yếu kém và mức độ an toàn là rất thấp của ngân hàng thƣơng mại Việt nam. Tất

cả các ngân hàng thƣơng mại đều không đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn quốc tế

(tỷ lệ này phải đạt 8%).

Bảng 2.4: Tỷ lệ vố tự có/tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thƣơng mại

(%)

53

31/12/99 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002

3.6 2.79 2.38 3.63 NH TMQD

9.85 7.74 7.42 8.03 NH TMCP

17.97 16.15 14.82 16.12 NH N.ngoài

và NH LD

9.12 10.36 9.92 10.34 Quỹ TD

6.42 5.21 4.51 5.92 Toàn bộ hệ

thống NHTM

[Nguồn: Are Vietnam’s Banks ready for the WTO, World Bank, 2/2004]

Tốc độ tăng trƣởng huy động vốn có xu hƣớng giảm (năm 2000: 32%, năm

2001: 24,1%, năm 2002: 22,7%). Trong đó, tốc độ tăng trƣởng huy động vốn

bằng ngoại tệ có xu hƣớng giảm

Hình thức huy động vốn từ dân cƣ chủ yếu là huy động tiết kiệm (79-80% trong

tổng tiền gửi huy động từ dân cƣ). Các hình thức huy động qua phát hành giấy tờ

có giá chiếm tỷ trọng nhỏ (20%). Mặc dù tiền gửi tiết kiệm huy động từ dân cƣ

tăng bình quân khoảng 18.000 tỷ đồng/năm nhƣng tốc độ tăng bình quân hàng

năm có xu hƣớng giảm mạnh từ 29,13% năm 2000 xuống còn 17,85% năm

2002.

Tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn tăng dần qua các năm

(năm 2000: 26,7%, năm 2001: 28,4%, năm 2002: 30,67%). Tuy nhiên, nguồn

vốn có thời hạn từ 1 đến 2 năm vẫn là chủ yếu, nguồn vốn có thời hạn từ 5 năm

trở lên có tỷ trọng nhỏ (7% tổng vốn trung dài hạn).

Nguồn vốn tiền Đồng trong thời gian qua tăng do lãi suất huy động bằng tiền

Đồng tăng lên đáng kể (kỳ hạn 12 tháng: năm 2001, 6,6%/năm; năm 2002, 7,44-

54

8,64% mức lãi suất này phổ biến ở các ngân hàng thƣơng mại ở tại thời điểm

hiện nay). Tiền gửi bằng ngoại tệ tăng ở mức thấp và có xu hƣớng giảm do lãi

suất ngoại tệ giảm.

Do nguồn vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thƣơng mại thấp nên ảnh hƣởng

đến công tác huy động vốn. Nhƣ phần trên đã trình bày, nguồn vốn huy động của

các ngân hàng thƣơng mại cổ phần chiếm trên 10% tổng huy động của toàn hệ

thống nhƣng có tới trên 60% là huy động bằng hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm

(trong đó có trên 90% là tiền gửi có kỳ hạn). Đây là nguồn vốn rất ổn định nhƣng

lãi suất "đầu vào" quá cao nên nếu sử dụng không hiệu quả, hiệu suất sử dụng

vốn thấp thì sẽ khó đảm bảo các quy định về an toàn vốn và có nguy cơ dẫn đến

thua lỗ khi có biến động lớn về lãi suất. Một nguồn vốn rất quan trọng, có lãi

suất "đầu vào" thấp nhƣng chƣa đƣợc các ngân hàng thƣơng mại thực sự quan

tâm là các khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Nguyên nhân chủ yếu là

hầu hết các ngân hàng thƣơng mại hiện nay đang hoạt động đơn thuần chỉ nhận

tiền gửi tiết kiệm để cho vay chứ chƣa hoặc ít quan tâm đến việc nâng cao chất

lƣợng nghiệp vụ thanh toán và nâng cao chất lƣợng của nhiều loại hình dịch vụ

khác nên không khuyến khích đƣợc khách hàng thực hiện các giao dịch thanh

toán qua ngân hàng.

Có thể nói là nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thƣơng mại chƣa thực

sự đƣợc quan tâm đúng mức, chƣa có chiến lƣợc huy động vốn nên cả về chất

lƣợng dịch vụ lẫn các loại hình huy động vốn chƣa thực sự gây đƣợc sự quan

tâm của công chúng.

Các nguồn vốn khác:

Nguồn vốn này hình thành chủ yếu từ nguồn vốn uỷ thác đầu tƣ và nguồn vốn

vay của các tổ chức và cá nhân trong nƣớc và nƣớc ngoài. Do việc thực hiện

55

nghiệp vụ thanh toán chƣa tốt nên chỉ ít có tổ chức, cá nhân uỷ thác đầu tƣ qua

ngân hàng thƣơng mại mà chủ yếu qua hệ thống kho bạc Nhà nƣớc, nên ngân

hàng thƣơng mại chƣa thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn này.

Hình thức huy động vốn bằng cách vay vốn của công chúng dƣới hình thức phát

hành các loại giấy tờ có giá hầu nhƣ chƣa đƣợc sử dụng tại các ngân hàng

thƣơng mại cổ phần, tuy đã có một số ngân hàng thƣơng mại quốc doanh phát

hành kỳ phiếu ngân hàng nhƣng thực chất của loại kỳ phiếu này cũng chỉ là nhận

tiền gửi có kỳ hạn nhƣng chỉ xẩy ra ở các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Lý

do: chƣa có các quy định cụ thể của Nhà nƣớc về việc phát hành giấy tờ có giá

nhƣ trái phiếu ngân hàng thƣơng mại, chứng chỉ tiền gửi..., mặt khác bản thân

các ngân hàng thƣơng mại cổ phần cũng chƣa có đƣợc những dự án lớn khả thi

để đầu tƣ hoặc chƣa tạo đƣợc lòng tin của công chúng đầu tƣ vào hoạt động kinh

doanh của mình, ngân hàng thƣơng mại quốc doanh thì chƣa đƣợc phép của

Chính phủ cho phép cổ phần hoá nên chƣa thực sự quan tâm đến hình thức huy

động vốn này.

Các ngân hàng thƣơng mại chỉ đƣợc vay của Ngân hàng Nhà nƣớc khi có khó

khăn về chi trả (thƣờng là khi đã bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt), cho

vay tái cấp vốn thông thƣờng, cho vay thanh toán của Ngân hàng Nhà nƣớc đối

với các ngân hàng thƣơng mại cổ phần hầu nhƣ là không có, đây cũng là một sự

bất bình đẳng đối với các ngân hàng thƣơng mại cổ phần và cũng làm giảm sút

hiệu lực quản lý thông qua các công cụ kinh tế.

2.2.2.2 Sử dụng vốn

Hoạt động cho vay đối với nền kinh tế của ngân hàng thương mại.

Các ngân hàng thƣơng mại đã sử dụng vốn huy động đƣợc để đầu tƣ dƣới các

hình thức chủ yếu sau: cho vay nền kinh tế, gửi tiền ở nƣớc ngoài, đầu tƣ vào tín

56

phiếu – trái phiếu kho bạc...

Cùng với sự thay đổi các phƣơng thức hoạt động của ngân hàng thƣơng mại

quốc doanh, thời gian qua cũng đã ghi nhận sự chuyên sâu và ngày càng gia tăng

về mức độ tiền tệ hoá trong nền kinh tế với tỷ lệ tín dụng đã tăng từ 13%GDP

năm 1990 đến 44%GDP năm 2000.

Thị phần cho vay nội địa đối với nền kinh tế của ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh chiếm 70%, tiếp đến là các ngân hàng nƣớc ngoài chiếm 15%, ngân hàng

thƣơng mại cổ phần chiếm 12%, ngân hàng liên doanh chỉ chiếm 3% [Nguồn:

Báo cáo kiểm toán ngân hàng và ƣớc tính của ngân hàng thế giới tháng 12-

2002]. Trong thời gian gần đây, hơn một nửa danh mục vốn đầu tƣ của ngân

hàng thƣơng mại quốc doanh thuộc về các doanh nghiệp Nhà nƣớc. Các ngân

hàng nƣớc ngoài dƣờng nhƣ chỉ mới bắt đầu cung cấp các dịch vụ tài chính cho

hoạt động của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia ở Việt nam hơn là đi vào

cạnh tranh trực tiếp trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp

trong nƣớc. Các ngân hàng thƣơng mại cổ phần vẫn là nguồn cung cấp dịch vụ

chính cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ kinh doanh cá thể

(chiếm 12% thị phần tín dụng). Điều này phản ánh một thực tế là các ngân hàng

nƣớc ngoài đang trong thời gian tìm hiểu, thăm dò thị trƣờng và chờ cơ hội kinh

doanh. Vấn đề đặt ra là, khi mà các ngân hàng nƣớc ngoài đƣợc hoạt động một

cách bình đẳng nhƣ các ngân hàng trong nƣớc thì điều gì sẽ xẩy ra với các ngân

hàng trong nƣớc do các ngân hàng nƣớc ngoài có nhiều lợi thế về vốn, công

nghệ .. trong cuộc cạnh tranh giành dật thị phần?. Mặc dù quá trình cải tổ ngân

hàng thƣơng mại cổ phần đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng, nhƣng còn rất

nhiều ngân hàng thƣơng mại cổ phần đang gặp phải vấn đề khó khăn về vốn hoạt

động nếu phân loại vốn tự có theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế đƣợc áp dụng. Sự

57

tăng trƣởng nhanh về cho vay và sự yếu kém về năng lực quản lý dẫn đến rủi ro

tín dụng và dẫn đến vấn đề nợ tồn động khó đòi không xử lý đƣợc làm cho các

ngân hàng thƣơng mại cổ phần không những gặp khó khăn hơn về vốn hoạt động

mà còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn nhằm tăng tiềm lực tài

chính từ bên ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế.

Một tỷ lệ lớn danh mục vốn của các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đầu tƣ

vào lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp chiếm khoảng 23-26%, lĩnh vực dịch vụ

thƣơng mại chiếm 16-22%, lĩnh vực xây dựng chiếm 13%, lĩnh vực công nghiệp

chiếm 16%, các lĩnh vực khác 22% % [nguồn: Báo cáo kiểm toán ngân hàng và

ƣớc tính của ngân hàng thế giới tháng 12-2002]. Cho vay đối với lĩnh vực xây

dựng là một trong những danh mục đầu tƣ lớn nhất của ngân hàng thƣơng mại

quốc doanh. Tỷ lệ vốn cho vay ngắn hạn của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh

chiếm hơn 60% phản ánh tầm quan trọng của nguồn vốn lƣu động ngắn hạn của

các lĩnh vực: nông nghiệp, dịch vụ thƣơng mại (trừ ngân hàng đầu tƣ và phát

triển Việt nam, nguồn vốn chủ yếu tập trung đầu tƣ vào các dự án trung dài hạn).

Bảng 2.5: Vốn ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc

1997 1998 1999 2000 2001 2002 Năm

Khối lƣợng vốn (Ngàn Tỷ 31.0 38.1 54.3 69.9 79.7 86.9

đồng)

Tăng trƣởng TD đối với 22.9 42.5 28.7 14.0 9.0

DNNN (%)

Cho vay DNNN (% tổng vốn 49.6 52.4 48.2 44.9 41.8 40.3

cho vay đối với nền kinh tế)

[Nguồn: IMF và WB tháng 12/2002]

Từ năm 1998, lƣợng vốn của ngân hàng cho vay đối doanh nghiệp Nhà nƣớc liên

58

tục giảm, tăng trƣởng tín dụng liên tục vƣợt quá tỷ lệ tăng trƣởng thực tế của nền

kinh tế ngay cả khi số lƣợng doanh nghiệp Nhà nƣớc đƣợc giảm một cách đáng

kể. Điều này chứng tỏ rằng nguồn vốn mà các doanh nghiệp vay từ ngân hàng

thƣơng mại đƣợc sử dụng kém hiệu quả. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã

bắt đầu tiếp cận đƣợc nguồn vốn của ngân hàng thƣơng mại theo cách bình đẳng

nhƣ là các doanh nghiệp Nhà nƣớc mặc dù vẫn tồn tại tâm lý lo sợ, không tin

tƣởng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của nhóm doanh nghiệp ngoài quốc

doanh và ngân hàng thƣơng mại chƣa thật mạnh dạn đầu tƣ.

Bảng 2.6. Cơ cấu phân bổ tín dụng, Đơn vị tính %

1998 1999 2000 2001 2003 Năm

100 100 100 100 100 Tổng khối lƣợng tín dụng cho nền

kinh tế

Trong đó – DN Nhà nƣớc 52 48 45 47 46

- DN Ngoài Quốc doanh 48 52 55 53 54

[Nguồn: IMF tại Việt nam, 2003]

Phân bổ tín dụng cho khu vực doanh nghiệp Nhà nƣớc đang có xu hƣớng giảm

đI tƣơng đối mạnh

Đối với hoạt động tín dụng, nhằm khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp về

điều kiện thế chấp, Ngân hàng Nhà nƣớc đã bãi bỏ những yêu cầu đối với khách

hàng vay tín chấp (nhƣ 2 năm có lãi, có khả năng toàn trả vốn vay,...). Đồng thời,

cho phép các ngân hàng đƣợc quyền chủ động lựa chọn, quyết định việc cho vay

không có tài sản đảm bảo. Ngân hàng Nhà nƣớc đã có nhiều văn bản chỉ đạo các

ngân hàng thƣơng mại về cho vay tín chấp đối với một số đối tƣợng vay vốn

nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các tổ chức tín dụng

59

cũng đƣợc sử dụng nguồn vốn huy động của mình để góp vốn thành lập Quỹ bảo

lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho việc mở rộng tín dụng

có hiệu quả đối với hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa...

Mức tăng trƣởng tín dụng cao trong những năm gần đây là do có sự cởi mở trong

cơ chế đảm bảo tiền vay (theo Nghị định 85/CP vừa đƣợc ban hành), cơ chế tín

dụng ngân hàng hoàn thiện theo hƣớng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các TCTD (theo Quyết định 1627/NHNN về quy chế cho vay giữa

TCTD và khách hàng đƣợc ban hành vào đầu năm) và quan trọng hơn là tín dụng

đã đƣợc mở rộng hơn cho khu vực doanh nghiệp tƣ nhân đang phát triển khá

nhanh. Điều này chứng tỏ, Chính phủ Việt nam, Ngân hàng Nhà nƣớc đã bắt đầu

nhìn nhận đƣợc vai trò, vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong phát triển

nền kinh tế Việt nam.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, đặc biệt trong quản lý tín dụng.

Bản thân công tác tín dụng luôn đi kèm với xác suất rủi ro nhất định, nên việc

cho vay nhiều chƣa hẳn đã là tốt. Do đó để giảm thiểu đƣợc rủi ro tín dụng đòi

hỏi các ngân hàng thƣơng mại phải có trình độ quản lý nợ tốt đảm bảo khả năng

thu hồi vốn. Đây cũng là lý do mà các tổ chức tài chính quốc tế cho rằng, tăng

trƣởng tín dụng của Việt nam chỉ nên dƣới 20%/năm, bởi khả năng quản lý nợ ở

nƣớc ta vẫn còn yếu.

Bảng 2.6. Tình hình cho vay của ngân hàng thƣơng mại

2000 2001 2002

Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng %

NH TMQD 123,840 72.0 156,950 73.0 206,535 73.5

60

NH TMCP 18,920 11.0 27,950 13.0 40,745 14.5

29,240 17.0 30,100 14.0 33,720 12.0 NH N.ngoài

và NH LD

Tổng cộng 172,000 215,000 281,000

Về đa dạng hoá tín dụng, tỷ lệ nhận tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nƣớc

giảm từ 63% năm 1994 xuống còn 47% cuối năm 1997 và tỷ lệ cho vay đối với

nền kinh tế của các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh chiếm từ 83% năm 1994

xuống còn 78% năm 1997. Xu hƣớng này đang tiếp tục giảm trong những năm

gần đây cho thấy ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đã không còn giữ vị trí độc

tôn trong việc cho vay đối với nền kinh tế.

Năm

1994

1995

1996

1997

Khoản mục

Tỷ

%

Tỷ

%

Tỷ

%

Tỷ

%

đồng

đồng

đồng

đồng

Tổng khối lƣợng tín

33.345 100

42.277 100

50.751 100

65.691 100

dụng

khu

ngoài

chính phủ

Cho vay DNNN

21.004 63,0

24.079 57,0

26.810 52,8

30.979 47,2

Cho vay DNNQD

12.341 37,0

18.198 43,0

23.941 47,2

34.712 52,8

Tín dụng của NH

27.610 82,8

33.647 79,6

38.320 75,5

51.484 78,4

TM QD

Cho vay DNNN

18.604 55.8

20.855 49,3

22.030 43,4

26.382 40,2

Cho vay DN Ngoài

9.006

27,0

12.792 30,3

16.290 32,1

25.101 38,2

QD

61

Bảng 2.7: Sự phân bổ tín dụng. Đơn vị tính: tỷ đồng, (%)

Tín dụng của các

5.735

17,2

8.630 20,4

12.431 24,5

14.208 21,6

NH khác

Cho vay DNNN

2.400

7,2

3.22

4 7,6 4.78

0 9,4

4.597

7,0

Cho vay DN ngoài

3.335

10,0

5.406 12,8

7.651

15,1

9.611

14,6

QD

[Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam, 1999]

Cơ cấu dƣ nợ đã đƣợc chuyển dịch theo đúng định hƣớng của Chính phủ và

Ngân hàng Nhà nƣớc là mở rộng đầu tƣ vào các ngành kinh tế chủ yếu, có khả

năng cạnh tranh, có xu thế phát triển trong tƣơng lai và khả năng hội nhập khi

Việt Nam tham gia AFTA. Đó là đầu tƣ vào bƣu chính viễn thông 2,7%, vào

phân bón - hóa chất khoảng 6,4%, vào dệt may khoảng 23,8%, vào chế biến

nông sản 11,2% và các DN cổ phần hóa là 7,8%. Ngân hàng cũng tập trung vừa

hỗ trợ vốn đầu tƣ hiện đại hóa cho các DN làm hàng XK, vừa đáp ứng vốn lƣu

động kịp thời cho các DN thu mua nguyên liệu XK. Thực hiện chính sách

khuyến khích XK với lãi suất ƣu đãi thấp hơn lãi suất cho vay thông thƣờng từ

20 - 30% và doanh số cho vay tài trợ XK trong 5 năm đạt 3650 tỷ đồng. Dƣ nợ

tài trợ XK năm 2002 hơn 700 tỷ đồng và đã góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ

của các DN từ 50 triệu USD (năm 1997) lên 250 triệu USD (năm 2002) để tạo

thế phát triển vững chắc và cân đối giữa đối nội - đối ngoại và dịch vụ. [Nguồn:

Báo cáo của ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam 12/2002]

Vấn đề nợ quá hạn: Ngân hàng thƣơng mại Việt nam đang ở trong tình trạng yếu

kém xét cả về lƣợng và chất, điều này liêu quan đến cơ cấu của nền kinh tế:

trong lĩnh vực công nghiệp khu vực kinh tế Nhà nƣớc chiếm vai trò chủ đạo và

75% tổng tài sản của khu vực ngân hàng là thuộc về các ngân hàng thƣơng mại

62

quốc doanh. Trong khi đó, sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nƣớc cho các doanh

nghiệp quốc doanh đã đƣợc giảm đáng kể trong thời gian gần đây và nhất là

trong điều kiện thị trƣờng chứng khoán chƣa hoạt động có hiệu quả thì vai trò

của các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh trong việc cung cấp vốn cho các

doanh nghiệp Nhà nƣớc để phát triển nền kinh tế đang bị chỉ trích mạnh mẽ do

tính kém hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nƣớc.

Trong hoạt động cho vay vốn, không chỉ các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh

mà còn cả ngân hàng thƣơng mại cổ phần đều tin tƣởng hơn vào khối các doanh

nghiệp quốc doanh và chƣa đặt khối các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào đối

tƣợng chính trong hoạt động cho vay của mình. Điều này chắc chắn ẩn chứa

nhiều rủi ro cho ngân hàng. Thứ nhất, lợi nhuận đạt đƣợc thấp của doanh nghiệp

Nhà nƣớc làm xấu đi tình hình tài chính của ngân hàng thƣơng mại. Trong nền

kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chiến lƣợc quản lý truyền thống của Nhà nƣớc

đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc là thiếu cơ chế khuyến khích để tạo ra lợi nhuận

cùng với quan niệm sở hữu không rõ ràng. Chính vì thế, hoạt động sản xuất kinh

doanh của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nƣớc là không có hiệu quả và ảnh

hƣởng trực tiếp đến sự lành mạnh về tài chính trong hoạt động kinh doanh của

ngân hàng thƣơng mại. Thứ hai, sự tập trung đầu tƣ vốn quá nhiều vào doanh

nghiệp Nhà nƣớc làm cho ngân hàng thƣơng mại phải đƣơng đầu với rủi ro tín

dụng quá lớn. Thứ ba, giả sử chính phủ đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay của

doanh nghiệp Nhà nƣớc, các ngân hàng thƣơng mại không chú trọng và chức

năng kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay chính vì thế sự thất thoát về vốn cho vay

đã không tránh khỏi và đẩy hệ thống ngân hàng thƣơng maị vào một tình thế rất

khó khăn về vốn trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề chính của ngân hàng

thƣơng mại là tồn tại một tỷ lệ lớn khối lƣợng vốn “đóng băng” do các khoản nợ

63

khó thu hồi ngày càng gia tăng.

Bảng 2.8: Nợ quá hạn ngân hàng thƣơng mại, Đơn vị tính: tỷ đồng, %

1995 1994 1996 1997

3337 3152 4726 7512

Năm Khoản mục Tổng số nợ quá hạn Trong đó DNNN 1854 Các đối tƣợng khác 1298 Ngân hàng TMQD 3004 Cho vay DNNN 1754 Các đối tƣợng khác 1250 148 Các NH TM khác Cho vay DNNN 100 Các đối tƣợng khác 48 1658 1679 3052 1519 1533 285 139 146 2501 5011 5600 2181 5011 1912 320 5011

2088 2638 4209 1852 2357 517 236 281 [Nguồn: Báo cáo của ngân hàng nhà nƣớc, 1999]

Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam theo số

liệu công bố chính thức là từ 5-7% trên tổng dƣ nợ nhƣng theo ƣớc lƣợng của

các tổ chức tài chính quốc tế, con số này lên tới 20%/ tổng dƣ nợ cho vay đối với

nền kinh tế. Đây là một con số báo động về sự lành mạnh tình hình tài chính

ngân hàng thƣơng mại Việt nam.

Bảng 2.9: Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dƣ nợ cho vay đối với nền kinh tế (%)

1994 1995 1996 1997

64

Năm Khoản mục Tổng số nợ quá hạn Trong đó DNNN Các đối tƣợng khác Ngân hàng TMQD Cho vay DNNN Các đối tƣợng khác Các NH TM khác Cho vay DNNN Các đối tƣợng khác 9.4 8.8 10.5 10.9 9.4 13.9 2.6 1.4 7.9 6.9 9.2 9.1 7.3 12.0 3.3 4.3 9.3 7.8 11.0 11.0 8.4 14.5 4.2 4.9 11.4 8.1 14.4 10.9 8.3 13.6 13.5 7.0

[Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam 1999]

Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi cao buộc các ngân hàng thƣơng mại để có vốn hoạt

động phải đƣợc tái cấp vốn (đối với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh) và huy

động thêm vốn (đối với ngân hàng thƣơng mại cổ phần). Do vẫn chƣa lấy lại đầy

đủ đƣợc lòng tin từ cƣ dân nên hầu hết các khoản tiền gửi mà ngân hàng thƣơng

mại huy động đƣợc chủ yếu là có kỳ hạn ngắn (dƣới 12 tháng), trong khi ít nhất

là 20% tổng lƣợng vốn cho vay có kỳ hạn trên 12 tháng; điều này dẫn đến sự

sai lệch kỳ hạn trong cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng ngày càng gia

tăng. Đây là một rủi ro mất khả năng thanh toán mà tất các các ngân hàng thƣơng

mại Việt nam có thể gặp phải. Tính đến cuối năm 1997, tổng lƣợng nợ quá hạn

khó đòi của các ngân hàng thƣơng mại đạt đến 7500 tỷ đồng (con số này đến

cuối năm 2003 đạt xấp xỉ 25000 tỷ đồng), trong đó ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh chiếm 75% (33% tổng số này thuộc về nợ quá hạn của các doanh nghiệp

Nhà nƣớc). Nợ quá hạn khó đòi cho vay đối với khu vực tƣ nhân tăng từ 41%

năm 1994 đến 67% năm 1997 chủ yếu tập trung ở ngân hàng NN& PT nông

thôn. Phân biệt nợ quá hạn do ngƣời ngƣời đi vay thì doanh nghiệp Nhà nƣớc

chiếm 8%, các đối tƣợng khác chiếm 14%, Phân biệt nợ quá hạn của ngƣời cho

vay thì ngân hàng thƣơng mại quốc doanh chiếm 11%, các đối tƣợng khác chiếm

14%. Chất lƣợng tài sản của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh đang giảm dần.

Cuối năm 1997, tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi lên đến 12% so với 8% năm 1995. Sự

gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh một quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng

thƣơng mại kém hiệu quả mặc dù có nhiều nguyên nhân khách quan từ bên

ngoài. Vấn đề nợ quá hạn khó đòi gia tăng có thể đƣợc dự báo trƣớc do các ngân

65

hàng thƣơng mại thƣờng cho vay vƣợt quá tỷ lệ 15% vốn tự có đặc biệt đối với

doanh nghiệp Nhà nƣớc hoặc cho vay không có tài sản đảm bảo đối với loại hình

doanh nghiệp này.

Tuy nhiên, những quy định thận trọng, chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng thƣơng mại

ngăn ngừa đƣợc những rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh ngân hàng

trong đó có rủi ro hối đoái. Khi các doanh nghiệp Nhà nƣớc sử dụng ngoại tệ

trong các giao dịch nội địa mà không định lƣợng đƣợc rủi ro tỷ giá hối đoái chắc

chắn họ sẽ phải đƣơng đầu với những rủi ro. Các ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh cũng trong một tình huống tƣơng tự, với 90% vốn sử dụng trong trạng thái

rủi ro cao khi cho rằng 50% tổng số nợ quá hạn khó đòi có thể thu hồi đƣợc. Các

biện pháp gần đây của Chính phủ cho phép các ngân hàng nới rộng kỳ hạn của

các khoản vay có rủi ro, xoá bỏ các điều kiện thế chấp/ký quỹ khi vay vốn đối

với các doanh nghiệp Nhà nƣớc và chuyển ngân sách Nhà nƣớc bù trừ (tất toán)

những khoản nợ khó đòi không có khả năng thu hồi.

Sự sụp đổ của hệ thống Hợp tác xã tín dụng vào cuối những năm 80 của thế kỷ

20 và tái cơ cấu bằng cách sáp nhập vào một số ngân hàng thƣơng mại cổ phần

có quy mô nhỏ (chủ yếu tại Hà nội và TP Hồ Chí Minh) cho phép hệ thống ngân

hàng phát triển nhanh chóng trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, ngân hàng

thƣơng mại cổ phần phải đối mặt với một sự cạnh tranh khốc liệt với một trạng

thái rủi ro cao vì những đặc thù: mô hình ngân hàng gia đình, chú trọng phục vụ

các đối tác sẵn có quan hệ, tập trung vào hai trung tâm kinh tế. Ngân hàng

thƣơng mại Việt nam đã và đang phải đối mặt xử lý những tồn đọng trong việc

mở LC trả chậm cho khách hàng không còn khả năng thanh toán. Thêm vào đó,

các ngân hàng thƣơng mại cổ phần đang phải đối mặt với vấn đề vốn tồn đọng

trong lĩnh vực đầu tƣ bất động sản của một số doanh nghiệp. Sự biến động thất

66

thƣờng của thị trƣờng bất động sản tại hai trung tâm kinh tế lớn là Hà nội và

Thành phố Hồ Chí Minh đã và sẽ gây ra nhiều vấn đề quan tâm cho ngân hàng

thƣơng mại do tài sản đảm bảo tiền vay cuả các khách hàng vay chủ yếu là bất

động sản (chủ yếu là nhà đất). Gần đây, những chính sách, biện pháp điều chỉnh

hoạt động ngân hàng thƣơng mại đã đƣợc áp dụng để phù hợp với nền kinh tế

Việt nam có nhiều đặc thù.

Nợ tồn đọng là những khoản phát sinh trƣớc 31/12/2002 của hệ thống ngân hàng,

với tổng giá trị 23.575 tỷ đồng. Số này đƣợc chia làm 3 nhóm: nhóm I là có tài

sản đảm bảo, nhóm II là không có tài sản đảm bảo và không còn đối tƣợng để

thu hồi nợ, nhóm III là không có tài sản đảm bảo nhƣng con nợ còn tồn tại, đang

hoạt động. Tỷ lệ thất thoát trong thu hồi nợ đọng của các ngân hàng thƣơng mại

lên tới 57%.

Nhóm I có tài sản đảm bảo và hoàn toàn có thể thu hồi thông qua các hình thức

bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn tài sản thế chấp. Nếu giá bán tài sản

thấp hơn giá trị nợ (gốc lãi), thì phần chênh lệch đƣợc xử lý bằng nguồn dự

phòng rủi ro ngân hàng bù đắp. Thế nhƣng, trong tổng số nợ 11.520 tỷ đồng, đến

nay mới tận thu đƣợc 1.669 tỷ đồng, trong khi đó phải dùng tới 1.553 tỷ đồng từ

quỹ dự phòng rủi ro dể bù đắp tổn thất, rồi cũng dùng quỹ này để đƣa ra hạch

toán ngoài bảng tổng kết tài sản (khoảng 2.695 tỷ đồng). [Nguồn: Báo cáo của

Ngân hàng Nhà nƣớc 2002]

Các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng quốc doanh đã trích lập quỹ dự phòng rủi

ro với số lƣợng cả nghìn tỷ đồng mỗi năm, thực chất là làm giảm lợi nhuận và

giảm số tiền nộp ngân sách của mình. Việc dựa vào quỹ dự phòng rủi ro để bù

đắp nợ chính là một cách dùng vốn ngân sách. “Nó chỉ có tác dụng làm đẹp bảng

67

tổng kết, trong khi thực tế nợ lại không thu hồi đƣợc, thất thoát rất lớn".

Nhƣ vậy, có thể thấy một số tín hiệu lạc quan trong việc xử lý nợ tồn đọng từ hệ

thống ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, hiện nay việc thúc đẩy các tổ chức tín

dụng tiếp tục thu hồi nợ khó đòi vẫn đang đƣợc đặt ra và với các khoản nợ khó

đòi không có tài sản đảm bảo thuộc đối tƣợng xử lý theo Quyết định 149/2001

của Ngân hàng Nhà nƣớc đã có xác nhận nợ của Ngân hàng thƣơng mại Nhà

nƣớc.

Bảo lãnh:

Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thƣơng mại thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh thanh

toán. Tuy nhiên, cùng với việc các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không đủ

khả năng thanh toán nên các ngân hàng thƣơng mại đã gặp nhiều khó khăn trong

việc phải thanh toán hộ cho khách hàng, thậm chí nhiều ngân hàng không còn

đảm bảo đƣợc uy tín của mình đối với khách hàng và ngân hàng nƣớc ngoài, vì

vậy một số ngân hàng thƣơng mại cổ phần đã bị Ngân hàng Nhà nƣớc thu hồi

Giấy phép thanh toán quốc tế. Số tiền bảo lãnh thƣờng xấp xỉ 5% tổng tài sản có

của các ngân hàng thƣơng mại, thu nhập từ bảo lãnh đem lại chỉ chiếm 0,3%

tổng thu nhập và hiệu quả đem lại từ bảo lãnh trong năm 1999 chỉ chiếm 0,8% số

dƣ bảo lãnh đã cho thấy thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng thƣơng

mại là rất xấu.

Nghiệp vụ thanh toán:

Hầu hết các ngân hàng thƣơng mại đều mở tài khoản tiền gửi cho các tổ chức

kinh tế, xã hội, thậm chí quá nửa số ngân hàng đƣợc phép thực hiện nghiệp vụ

thanh toán quốc tế, nhiều ngân hàng có mạng lƣới chi nhánh rộng lớn đã thực

hiện tƣơng đối tốt việc thanh toán chuyển tiền trong nƣớc cũng nhƣ ngoài nƣớc.

Thanh toán không dùng tiền mặt không đƣợc coi là mối quan tâm của nhiều ngân

68

hàng thƣơng mại do hiện nay thanh toán bằng tiền mặt đƣợc sử dụng chủ yếu ở

nƣớc ta, dân chúng không quen và không muốn sử dụng các phƣơng tiện thanh

toán khác làm cho nhiều ngân hàng thƣơng mại trở thành "ốc đảo" trong hệ

thống ngân hàng thƣơng mại.

Tuy nhiên, gần đây các ngân hàng thƣơng mại đã thực hiện tốt việc nghiên cứu

và phát triển nghiệp vụ thanh toán, nhất là các nghiệp vụ thanh toán hiện đại nhƣ

thanh toán thẻ điện tử, chuyển tiền nhanh... Có một số ít ngân hàng thƣơng mại

đảm bảo tốt uy tín của mình trong thanh toán quốc tế mặc dù có những khó khăn

tài chính nhất định, điều này đã phần nào giữ đƣợc uy tín của hệ thống ngân

hàng Việt Nam trên thị trƣờng thế giới.

Các dịch vụ khác:

Nghiệp vụ kinh doanh khác đƣợc các ngân hàng thƣơng mại quan tâm nhất là

kinh doanh vàng và ngoại tệ, nhƣng cũng có nhiều ngân hàng đã thua lỗ do dự

trữ quá lớn, quá lâu, không nắm đƣợc thông tin và không dự báo đƣợc diễn biến

của tỷ giá ngoại tệ và giá vàng, vì vậy thu nhập từ nghiệp vụ kinh doanh này

cũng đã giảm từ xấp xỉ 10% tổng thu nhập năm 1997 xuống còn 3,7% năm 1998

và 2% năm 1999 [Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nƣớc 12/2000]. Kinh

doanh ngoại tệ ở hầu hết các ngân hàng thƣơng mại là mua bán trực tiếp, giao

ngay tại thị trƣờng trong nƣớc, ít có ngân hàng thực hiện việc mua bán có kỳ hạn

và hoán đổi. Các nghiệp vụ kinh doanh khác mới chỉ đƣợc sử dụng tại một số

ngân hàng thƣơng mại: kinh doanh chứng khoán, môi giới, quản lý danh mục

đầu tƣ, tự doanh, bảo lãnh phát hành) nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thị

trƣờng vốn tại Việt Nam. Hiện nay, chỉ có một vài ngân hàng thƣơng mại đã tiếp

cận nghiên cứu với công nghệ mới để chuẩn bị cho các dự án phát triển của mình

nhƣ cho thuê tài chính, bao thanh toán (factoring), tín thác (trurst), đầu tƣ mạo

69

hiểm (venture capital), các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán..., ở các ngân

hàng đó đã thành lập bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) và thực sự quan

tâm đến bộ phận đó.

Hiện nay, có một vài ngân hàng thƣơng mại đã tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tƣ của

các tổ chức và cá nhân, quản lý tài sản, làm đại lý cho các lĩnh vực liên quan đến

hoạt động ngân hàng nhƣng chƣa kết quả đạt đƣợc chƣa nhiều,trong khi đó hàng

loạt nghiệp vụ khác chƣa đƣợc quan tâm, thậm chí có một số nghiệp vụ khá dễ

dàng nhƣ tƣ vấn tài chính, tiền tệ cũng không đƣợc chú trọng phát triển. Một vấn

đề cũng cần nói đến là hầu hết các ngân hàng thƣơng mại cổ phần chƣa có trụ sở

chính là tài sản của mình nên không có điều kiện về kho tàng để thực hiện

nghiệp vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két...

Sân chơi bình đẳng cho các tổ chức tín dụng: Trong khi Chính phủ xem doanh

nghiệp Nhà nƣớc nhƣ là một động lực để phát triển kinh tế ở Việt nam, sử dụng

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh để đáp ứng nhu cầu vốn hoạt động cho doanh

nghiệp Nhà nƣớc, Chính phủ bãi bỏ nhiều quy định về dịch vụ tài chính ngân

hàng mà đã tạo ra một sân chơi không bình đẳng cho các loại hình tổ chức tín

dụng và các loại hình doanh nghiệp: ngân hàng nƣớc ngoài bị hạn chế huy động

tiền gửi bằng đồng Việt nam, trong khi không có quy định tƣơng tự đối với các

công ty tài chính nƣớc ngoài,... Những quy định này sẽ phải xoá bỏ khi mà hạn

hiệu lực của Hiệp định thƣơng mại Việt Mỹ đang đến gần. Điều này cũng có

nghĩa là sự tự do hoá khu vực ngân hàng về mặt sở hữu nƣớc ngoài cần phải

đƣợc làm rõ. Nhà nƣớc chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động ngân hàng, các ngân

hàng thƣơng mại quốc doanh mở rộng phạm vi hoạt động thông qua thành lập

các ngân hàng liên doanh hoặc tham gia góp vốn tại các ngân hàng thƣơng mại

cổ phần, thành lập các công ty tài chính và tham gia vào dịch vụ thị trƣờng tài

70

chính. Ở đây xuất hiện các tập đoàn tài chính dạng nhƣ các ngân hàng thƣơng

mại quốc doanh thành lập các ngân hàng khác hoặc là các tổ chức tài chính phi

ngân hàng (công ty dịch vụ tiết kiệm bƣu điện).

Bản chất của vấn đề sở hữu và sự liên kết thừa nhận các tổ chức tài chính, tín

dụng nhận tiền gửi là vấn đề thay đổi cơ cấu quan trọng sẽ đòi hỏi các quyết

định ra chính sách rõ ràng của Chính phủ. Tuy nhiên cách tiếp cận của Chính

phủ sẽ có những thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong nƣớc, cụ thể là ngân

hàng thƣơng mại quốc doanh. Điều này có thể là nguyên nhân của sự trùng hợp

trong chiến lƣợc kinh doanh của các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và là thể

hiện sự phân biệt đối xử trong hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Cấu trúc

hiện tại của ngân hàng, quy mô thị trƣờng, sức cạnh tranh đƣợc phản ánh trong

thị phần, quy mô thành phần danh mục các khoản đầu tƣ của ngân hàng thƣơng

mại quốc doanh cho biết mức độ tập trung khác nhau, lợi thế cạnh tranh tiềm

năng và các điểm yếu của họ.

Với tốc độ lƣu hành tiền tệ nhanh trong nền kinh tế, mức độ tăng truởng kinh tế

và tỷ lệ lãi suất hiện hành và các quy định khác, điều dễ hiểu là các ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh ít vấp phải một sự cạnh tranh nào từ các loại hình ngân

hàng khác.

2.2.2.3 Kết quả kinh doanh

Trong tổng thu nhập của các ngân hàng thƣơng mại hàng năm, thu lãi từ hoạt

động tín dụng chiếm trên 60%, thu phí thanh toán chiếm 6,1%, còn các khoản

thu từ kinh doanh dịch vụ khác là không lớn.

Do nguồn vốn chủ yếu là nhận tiền gửi cho nên chi trả lãi tiền gửi lên tới 62,3%

tổng chi phí, chi trả lãi tiền vay là 7,7%, chi nộp thuế chỉ chiếm 0,3% trong tổng

chi phí. [Nguồn: Báo cáo của ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, 12/2002]

71

2.2.2.4 Hệ thống tổ chức

Tổ chức mạng lưới:

Các ngân hàng quốc doanh tách ra khỏi hệ thống ngân hàng một cấp bƣớc vào

kinh doanh theo cơ chế thị trƣờng nhƣng tồn tại cũ chuyển giao sang quá nặng

nề và rất bất lợi nhƣ lao động quá đông, tổ chức cồng kềnh, mạng lƣới quá dàn

trải, vốn nhỏ, vốn khả dụng thấp, nợ đọng lớn, hiệu quả kinh doanh chủ yếu là

lãi giả lỗ thật, cơ sở pháp lý cho an toàn hoạt động còn rất sơ sài nên rất khó có

khả năng định hƣớng cho các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh.

Cũng nhƣ trên đã trình bày, do vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thƣơng mại là

nhỏ và khó có khả năng tăng vốn nên khi Ngân hàng Nhà nƣớc quy định mức

vốn tối thiểu đủ để mở chi nhánh thì nhiều ngân hàng thƣơng mại không thể đáp

ứng đƣợc đặc biệt là ngân hàng thƣơng mại cổ phần có vốn nhỏ không có chi

nhánh mà chỉ hoạt động tại địa bàn của trụ sở chính.

2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề đặt ra.

2.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan - Do việc chạy theo lợi nhuận trong điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn,

khách hàng không ổn định và khó thu hút nên hoạt động kinh doanh không chắc

chắn, việc thẩm định bị xem nhẹ, do đó việc cho vay và bảo lãnh đã gặp nhiều

rủi ro. Mặt khác, do nguồn vốn huy động chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm nên "đầu

vào" bình quân quá cao dẫn đến việc các ngân hàng thƣơng mại cổ phần phải tìm

mọi cách để cho vay, nên tránh thua lỗ do đọng vốn thì lại gặp phải rủi ro tín

dụng.

Nguyên nhân này chính là do không thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp

vụ, các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Nhiều ngân hàng không có các quy định về quy trình nghiệp vụ hoặc nếu có thì

72

không đƣợc xây dựng một cách đầy đủ và khoa học; kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp

vụ không đƣợc quan tâm nên khi giải quyết công việc thƣờng tuỳ tiện, theo ý

thích của cán bộ nghiệp vụ. Thủ tục giấy tờ, hồ sơ của các nghiệp vụ quá nhiều,

quá phiền hà, không thuận tiện nên khó thu hút đƣợc khách hàng.

Nhân sự và chính sách ƣu đãi nhân sự tại ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và

ngân hàng thƣơng mại cổ phần chƣa thực sự đủ sức hấp dẫn khuyến khích ngƣời

lao động cống hiến hết khả năng làm việc của mình.

Đối với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh: đội ngũ cán bộ quá đông nhƣng chỉ

một tỷ lệ không lớn qua đào tạo bài bản. Với Luật lao động và chính sách tiền

lƣơng hiện tại, rất khó cho các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh có thể tuyển

dụng đƣợc những cán bộ có trình độ chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm.

Đối với ngân hàng thƣơng mại cổ phần: các thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm

soát viên và ngƣời điều hành yếu kém dẫn tới việc ngân hàng đó cho vay và bảo

lãnh thanh toán gây ra mất vốn trầm trọng, thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí

chính những ngƣời đó vay vốn hoặc đƣợc ngân hàng bảo lãnh cho chính mình

mà không thể hoàn trả đƣợc vốn cho ngân hàng. Nhiều ngân hàng do không đủ

năng lực quản trị, điều hành mà làm cho ngân hàng đó không thể phát triển đƣợc.

- Do việc chuẩn bị nhân sự chƣa đầy đủ cả về số lƣợng lẫn trình độ nên dẫn đến

tình trạng đa số các ngân hàng thƣơng mại thƣờng xuyên hẫng hụt ngƣời có năng

lực làm việc, nhất là những ngƣời điều hành bộ phận hoặc toàn bộ ngân hàng.

Nguyên nhân này chủ yếu là do các ngân hàng thƣơng mại trong quá trình tuyển

dụng đã không tiến hành một cách khách quan mà chỉ dựa trên các mối quan hệ

quen biết nên trình độ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của hình thức kinh doanh

mới; ngoài ra tại rất nhiều ngân hàng thƣơng mại cổ phần, các thành viên Hội

73

đồng quản trị, Kiểm soát viên đƣa ngƣời nhà hoặc bạn bè không có trình độ

chuyên môn vào làm và giữ các vị trí điều hành của ngân hàng làm cho rủi ro

trong kinh doanh càng lơn.

- Công tác quản trị, điều hành của các ngân hàng thƣơng mại không theo kịp với

đòi hỏi của nền kinh tế thị trƣờng. Các thành viên Hội đồng quản trị (thƣờng là

các chủ doanh nghiệp) chƣa thực sự quan tâm đến ngân hàng mình, nếu có quan

tâm thì đó cũng chỉ vì có nhu cầu vay vốn.

2.2.2.2. Nguyên nhân khách quan

- Nền kinh tế Việt nam đang thực hiện công cuộc đổi mới đƣợc trên 10 năm, sản

xuất và lƣu thông hàng hoá theo cơ chế thị trƣờng chƣa phát triển, lề lối làm việc

theo cơ chế quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, chƣa tạo ra sự bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế.

- Mặt khác, tâm lý của công chúng quen sử dụng tiền mặt và ít có quan hệ với

ngân hàng trừ việc gửi tiền tiết kiệm. Chính vì vậy, dịch vụ ngân hàng thƣơng

mại rất khó phát triển.

- Hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thƣơng mại

không đồng bộ, không đầy đủ và không kịp thời (kể cả khi đã ban hành các Luật

về ngân hàng) làm cho các ngân hàng thƣơng mại gặp rất nhiều vƣớng mắc trong

quá trình hoạt động kinh doanh. Vấn đề này thể hiện ở sự không ăn khớp giữa

các Luật về ngân hàng với các Luật về doanh nghiệp, giữa các Luật về kinh tế

với Luật hình sự, Luật dân sự; sự không thống nhất, không kịp thời trong việc

soạn thảo và ban hành các văn bản pháp quy dƣới luật của các Bộ, ngành chức

năng.

- Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc vẫn chƣa tạo đƣợc sự bình đẳng giữa các thành

phần kinh tế (mà ở đây là ngân hàng thƣơng mại cổ phần với các ngân hàng

74

khác, doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) trong cùng

một "sân chơi", nhƣ ƣu đãi về mọi mặt đối với ngân hàng quốc doanh hơn ngân

hàng thƣơng mại cổ phần, các chính sách đối với đầu tƣ nƣớc ngoài thuận lợi

hơn so với các nhà đầu tƣ trong nƣớc...

- Về định hƣớng, quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại phải đi kèm

với quá trình cải cách, đổi mới doanh nghiệp Nhà nƣớc nhƣng trên thực tế quá

trình cải cách, đổi mới doanh nghiệp Nhà nƣớc đang thực hiện rất chậm. Điều

này ảnh hƣởng không nhỏ đến quá trình đổi mới hoạt động của ngân hàng

thƣơng mại Việt nam do hệ thống các doanh nghiệp Nhà nƣớc đang là đối tác

quan trọng của ngân hàng thƣơng mại nhƣng lại làm ăn không có hiệu quả.

- Các văn bản quy định và hƣớng dẫn về các nghiệp vụ ngân hàng với các quy

trình không kịp thời và không đầy đủ; thƣờng là sau khi có sự việc xảy ra mới

nghiên cứu ban hành. Nhìn chung, công tác nghiên cứu soạn thảo văn bản pháp

quy chƣa đƣợc quan tâm một cách đúng mức và có trách nhiệm, cách tiếp cận

vấn đề thƣờng phiến diện và mang ý chủ quan, hiệu lực pháp lý của các văn bản

này còn quá thấp. Chƣa có những thiết chế đủ để đảm bảo hoạt động an toàn

nhƣ: dự phòng rủi ro, bảo hiểm tiền gửi, quy chế an toàn... nên không có cơ sở

để xử lý các yếu kém thƣờng xuyên xảy ra.

- Chất lƣợng công tác giáo dục và đào tạo về nghiệp vụ của ngân hàng thƣơng

mại tại các trƣờng chuyên nghiệp không đồng đều, ngoại trừ một số trƣờng đại

học lớn có uy tín thì nội dung giảng dạy đã phù hợp với nghiệp vụ của một ngân

hàng hiện đại, còn nhiều trƣờng khác nội dung giảng dạy còn sơ sài, không đầy

75

đủ và chƣa theo kịp với công nghệ ngân hàng tiên tiến

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1. BỐI CẢNH MỚI CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.

3.1.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt nam Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra một cách nhanh và rộng khắp

trên thế giới. Đây là xu thế phát triẻn tất yếu mà mọi quốc gia dù ở những giai

đoạn phát triển khác nhau buộc phải tham gia vào. Bên cạnh những thời cơ,

những điều kiện thuận lợi, quá trình toàn cầu hoá cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi

hỏi cần phải có sự nghiên cứu, xem xét đặc biệt là những vấn đề kinh tế vĩ mô

trong đó có chính sách tiền tệ. Việc nhận diện đƣợc bối cảnh mới của nền kinh tế

Việt nam từ đó đƣa ra những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế để hoạch

định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

quá trình phát triển kinh tế.

Trong hơn hai thập kỷ qua, tốc độ tăng trƣởng thƣơng mại thế giới đã cao hơn

nhiều so với mức độ tăng trƣởng sản lƣợng và tốc độ chu chuyển vốn còn ở mức

cao hơn nữa. Xu hƣớng nền kinh tế thế giới hiện nay là xu hƣớng mở cửa và

đƣợc chứng minh ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Những hệ quả mà quá trình toàn cầu hoá đƣa lại cho một nền kinh tế là nền kinh

tế đó gánh chịu những cú sốc từ bên ngoài. Trong xu thế toàn cầu hoá nhanh các

hoạt động kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ, dịch vụ... để tránh đƣợc nguy cơ tụt hậu,

Việt nam cần nhanh chóng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Quá trình

hội nhập giúp Việt nam thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài,

thúc đẩy tăng trƣởng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, lao động và quan trọng hơn là

chuyển đổi nhanh hơn nền kinh tế, đẩy nhanh cải cách hệ thống ngân hàng, hệ

76

thống doanh nghiệp, loại bỏ những yếu kém, lạc hậu.

Việt nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với một lộ trình

đƣợc “ƣu tiên” do trình độ phát triển kinh tế ở mức thấp so với phần lớn các

nƣớc trong khu vực. Thế nhƣng nền kinh tế Việt nam đã bắt đầu gặp phải những

trở ngại đáng kể trong quá trình hội nhập: năng lực cạnh tranh của nền kinh tế

còn rất yếu kém trên tất cả các lĩnh vực do tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ

và kỹ năng quản lý còn thấp. Khu vực kinh tế quốc doanh, theo định hƣớng đổi

mới kinh tế, đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nhƣng còn nhiều tồn tại

và cần có hƣớng giải quyết nhanh chóng và triệt để.

Khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc có tỷ lệ số doanh nghiệp có lãi cao hơn và số

doanh nghiệp bị lỗ cũng thấp hơn, tỷ lệ tổng mức lỗ so với tổng mức lãi cũng

thấp hơn các khu vực khác (tỷ lệ doanh nghiệp lãi từ 78,8% năm 2000, lên

83,0% năm 2002, doanh nghiệp lỗ từ 17,5% năm 2000 còn 14,7% năm 2002).

[Nguồn: báo cáo của Bộ Kế hoạch đầu tƣ, năm 2003]

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ, phần lớn mới thành lập nên số

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lỗ chiếm 20,4% tổng số doanh nghiệp của khu

vực này (11292 doanh nghiệp) và chiếm 85,4% số doanh nghiệp lỗ của toàn

quốc, nhƣng tổng mức lỗ chỉ bằng 14,0% tổng mức lỗ chung toàn doanh nghiệp.

[Nguồn: báo cáo của Bộ Kế hoạch đầu tƣ, năm 2003]

Hiệu quả hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc nâng lên rõ

rệt hơn so với khu vực ngoài quốc doanh, nguyên nhân là do tác động tích cực

của việc sắp xếp và sự cố gắng vƣơn lên của các doanh nghiệp nhà nƣớc, mặt

khác do doanh nghiệp nhà nƣớc có những yếu tố thuận lợi hơn doanh nghiệp của

các khu vực khác là đƣợc vay vốn ƣu đãi nhiều hơn (chiếm 82,5% tổng vốn vay

77

ƣu đãi cho doanh nghiệp trong năm 2002), đƣợc ngân sách nhà nƣớc cấp bổ sung

vốn, một số ít ngành còn thế độc quyền trong sản xuất kinh doanh nhƣ: Điện,

Xăng dầu, Bƣu chính viễn thông...

Những hạn chế và bất cập hiện nay của doanh nghiệp

Mặc dù có tăng trƣởng, chuyển dịch cơ cấu và hiệu quả sản xuất kinh doanh ở

một số mặt đƣợc nâng lên, để chủ động hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế, thì

doanh nghiệp Việt nam cần khắc phục những yếu kém bất cập nhƣ sau:

(1) Doanh nghiệp phát triển còn mang nặng tính tự phát, chƣa có quy hoạch định

hƣớng rõràng. Trong số 62.908 doanh nghiệp hiện đang hoạt động ở thời điểm

1/1/2003, thì chủ yếu tập trung trong các ngành thƣơng nghiệp chiếm 39,4%,

Khách sạn, nhà hàng 4,5%, Công nghiệp thực phẩm đồ uống 6,3%, Dệt may, da

giầy chiếm 2,6%, chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ lâm sản chiếm 2,6%, lắp

ráp và sản xuất hàng tiêu dùng thông thƣờng chiếm 3,1%, kinh doanh bất động

sản và hoạt động tƣ vấn chiếm 5,1%... [Nguồn: báo cáo của Bộ Kế hoạch đầu tƣ,

năm 2003]

Những doanh nghiệp hoạt động ở các ngành trên cũng đồng nghĩa với những

ngành cần vốn đầu tƣ ít, vào kinh doanh nhanh và chuyển đổi cũng nhanh có lãi

suất cao và độ rủi ro thấp; còn những ngành nhƣ: Chế biến nông sản xuất khẩu,

sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu và một số ngành có hàm lƣợng công

nghệ cao nhƣ sản xuất kỹ thuật điện, điện tử, thiết bị chính xác... rất cần tăng

thêm năng lực sản xuất, nhƣng ít đƣợc chú ý đầu tƣ, số doanh nghiệp ít, quy mô

nhỏ, kỹ thuật công nghệ thấp.

Khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài phát

triển ổn định và có định hƣớng rõ ràng hơn, nhƣng doanh nghiệp có quy mô từ

500 lao động trở lên chỉ có 17,5% và doanh nghiệp có từ 200 tỷ đồng (tuơng

78

đƣơng 13 triệu USD) chỉ có 9%; đặc biệt là chƣa có một tập đoàn kinh tế mạnh

trong những ngành kinh tế mũi nhọn ở nƣớc ta. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

chiếm 87,8% tổng số doanh nghiệp, trong đó hầu hết là quy mô nhỏ, phần lớn

đƣợc thành lập từ năm 2000 trở lại đây. [Nguồn: báo cáo của Bộ Kế hoạch đầu

tƣ, năm 2003]

(2) Số lƣợng doanh nghiệp nhiều, nhƣng quy mô nhỏ phân tán đi kèm với công

nghệ lạc hậu. Tại thời điểm 1/1/2003, bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 74 lao

động và 22,9 tỷ đồng tiền vốn, so với năm 2000 là 83 ngƣời và 26 tỷ đồng vốn.

Nhƣ vậy xu hƣớng quy mô nhỏ càng tăng trong 3 năm qua, bởi khu vực doanh

nghiệp ngoài quốc doanh tăng rất nhanh, nhƣng phần lớn đều là doanh nghiệp

nhỏ. Nếu theo quy mô vốn thì số doanh nghiệp dƣới 10 tỷ đồng (tƣơng đƣơng

645 ngàn USD) chiếm 86,2% (trong đó dƣới 5 tỷ đồng chiếm 79,0%), từ 10 -

dƣới 50 tỷ đồng chiếm 9,2%, từ 50 - 200 tỷ đồng chiếm 3,4%, trên 200 tỷ đồng

chiếm 1,2%. [Nguồn: báo cáo của Bộ Kế hoạch đầu tƣ, năm 2003]

Trong 3 khu vực thì doanh nghiệp nhà nƣớc có quy mô lớn nhất, bình quân 1

doanh nghiệp có 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn, tiếp đó là khu vực có vốn đầu

tƣ nƣớc ngoài, bình quân 1 doanh nghiệp có 299 lao động và 134 tỷ đồng vốn, cả

2 khu vực trên có xu hƣớng tăng quy mô cả về lao động và tiền vốn. Khu vực

ngoài quốc doanh bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 31 lao động và 4 tỷ đồng

vốn, bằng 7,4% về lao động và 2,4% về vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc và bằng

10,3% về lao động và 2,9% về vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,

đây là khu vực tập trung chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ. [Nguồn: báo

cáo của Bộ Kế hoạch đầu tƣ, năm 2003]

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam không cao, mới thể hiện đƣợc

trong một số ít ngành nghề nhƣ: Dệt, may, da giầy, sản xuất đồ gỗ, gốm sứ mỹ

79

nghệ... Còn phần lớn sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá dịch vụ chƣa đạt

đƣợc sức cạnh tranh thắng thế ngay cả trên thị trƣờng trong nƣớc. Đây chính là

nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế nói chung và chính cho hệ thống ngân hàng

thƣơng mại Việt nam nói riêng. Về phía nền kinh tế, với lộ trình cắt giảm thuế

trong việc Việt nam tham gia AFTA, WTO... ngân sách Nhà nƣớc sẽ giảm đi

một nguồn thu đáng kể, hàng hoá Việt nam chiếm một thị phần rất nhỏ không

chỉ ở thị trƣờng quốc tế mà ngay cả trên thị trƣờng nội địa do năng lực cạnh

tranh thấp. Về phía ngân hàng thƣơng mại, việc hàng loạt doanh nghiệp ngoài

quốc doanh ra đời thúc đẩy hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam càng phát

triển để thoả mãn các dịch vụ tài chính, ngân hàng của những đối tƣợng khách

hàng này. Trong điều kiện thị trƣờng chứng khoán Việt nam chƣa đƣợc công

chúng đầu tƣ quan tâm thì đây là một sức ép công việc rất lớn. Tuy nhiên, hầu

hết các doanh nghiệp này có quy mô vốn nhỏ, các sản phẩm có ít khả năng cạnh

tranh nền cũng gây cho ngân hàng thƣơng mại những rủi ro tiềm ẩn.

Hệ thống tài chính ngân hàng không nằm ngoài quá trình hội nhập. Nhƣ đã phân

tích ở chƣơng 2, hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam đang bộc lộ những

tồn tại lớn cần phải nhanh chóng cải tổ kịp thời. Hệ thống ngân hàng thƣơng mại

Việt nam đang gặp phải một sự cạnh tranh mới trong việc huy động vốn và cung

cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng không chỉ từ các đối thủ cạnh tranh nƣớc

ngoài mà ngay cả trong hệ thống tài chính nội địa: các công ty bảo hiểm, các quỹ

đầu tƣ, thị trƣờng chứng khoán đang phát triển, công ty dịch vụ tiết kiệm bƣu

điện...

3.1.2.Cơ hội và thách thức của ngân hàng thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là một hƣớng đi đúng đắn và quan trọng tạo tiền đề cho

việc khẳng định vị thế của nền kinh tế Việt nam trên trƣờng quốc tế từ đó tạo ra

80

nhiều cơ hội cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt

nam trƣớc những thách thức lớn.

3.1.2.1. Những thách thức đối với Ngân hàng thƣơng mại Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Năm 2003, Việt nam đã phải giảm thuế nhập khẩu của các mặt hàng chỉ còn từ 0-

5% và đến năm 2006 mức thuế suất này còn 0% theo lộ trình đã cam kết trong

khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA). Bên cạnh đó, Hiệp định thƣơng mại

Việt nam-Hoa kỳ đòi hỏi Việt nam phải tạo lập một hệ thống pháp luật, chính

sách nhằm nâng cao sức cạnh tranh và quan trọng hơn là giảm sự bảo hộ của Nhà

nƣớc. Việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ chính sách bảo hộ của Nhà nƣớc sẽ

thúc đẩy sự cạnh tranh của các chủ thể trên thị trƣờng Việt nam. Các cam kết

giảm thuế và bảo hộ mậu dịch sẽ tăng tính cạnh tranh của hàng hoá đến từ các

quốc gia khác trên thị trƣờng Việt nam. Trên thực tế, những doanh nghiệp sản

xuất và cung cấp các dịch vụ (thực hiện theo các cam kết cắt giảm thuế và bảo

hộ mậu dịch) đang là những khách hàng lớn, quan trọng của ngân hàng thƣơng

mại Việt nam cũng bị tác động bởi các cam kết này. Hiệp định thƣơng mại Việt

nam – Hoa Kỳ đã có hiệu lực mặc dù một số lĩnh vực nhƣ: tài chính – ngân hàng,

bƣu chính viễn thông Việt nam đang đựơc kéo dài thời gian để hội nhập. Trong

nhiều nội dung, điều khoản Việt nam phải thi hành các cam kết về lĩnh vực ngân

hàng: đến năm 2008, Việt nam phải dỡ bỏ các quy định hạn chế về hoạt động

bằng đồng Việt nam đối với các ngân hàng nƣớc ngoài, đến năm 2010 phải dỡ

bỏ hoàn toàn các quy định ngăn trở đối với hoạt động của ngân hàng nƣớc ngoài

trên lãnh thổ Việt nam. Bên cạnh đó, Việt nam cũng đang trên đƣờng gia nhập

Tổ chức thuơng mại thế giới (WTO), nơi mà những thách thức còn lớn hơn

81

nhiều so với các hiệp định thƣơng mại song phƣơng. Điều gì sẽ xẩy ra nếu đến

tại thời điểm đó nền kinh tế Việt nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt nam

nói riêng không kịp thời cải tổ hoặc cải tổ không đúng hƣớng?.

Trong khi đó các Ngân hàng thƣơng mại Việt nam đang chủ yếu là đầu tƣ nhiều

vào các ngành: chế biến nông sản, công nghiệp nặng dựa vào nguồn tài

nguyên…là những ngành mà các doanh nghiệp Việt nam không có lợi thế cạnh

tranh. Vì thế, hội nhập quốc tế đặt hệ thống ngân hàng thƣong mại và doanh

nghiệp Việt nam vào những thách thức cực lớn và có nguy cơ đổ vỡ cao. Ngoài

ra, để đáp ứng đƣợc các yêu cầu hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nƣớc sẽ

đƣợc đẩy mạnh quá cổ phần hoá hoặc sắp xếp lại nhanh hơn nữa, khu vực doanh

nghiệp ngoài quốc doanh sẽ đƣợc ƣu tiên phát triển cả về quy mô lẫn số lƣợng.

Điều này đặt ra cho ngân hàng thƣơng mại một nhiệm vụ khá nặng nền trong

việc đáp ứng các nhu câù về vốn và các dịch vụ tài chính khác cho các doanh

nghiệp khi mà thị trƣờng chứng khoán Việt nam chƣa phát triển kịp và hầu hết

các doanh nghiệp Việt nam chƣa đủ điều kiện hoặc chƣa muốn tham gia voà thị

trƣờng chứng khoán.

*. Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thƣơng mại Việt nam.

Thời gian qua, Ngân hàng thƣơng mại Việt nam đã có nhiều đổi mới nhƣng vẫn

còn chƣa thể đáp ứng đƣợc bối cảnh mới của nền kinh tế, năng lực tài chính còn

yếu, nợ quá hạn còn quá cao, ẩn chứa nhiều rủi ro đổ vỡ. Nhóm Ngân hàng

thƣơng mại quốc doanh tuy chiếm gần 70% tổng nguồn vốn huy động và 80%

thị phần tín dụng nhƣng tổng số vốn tự có chƣa đạt 1 tỷ đô la Mỹ; khối ngân

hàng Thƣơng mại cổ phần chiến 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần

tín dụng; nhóm chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và ngân hàng liên doanh có

tiềm lực khá mạnh với khoảng 30% vốn sở hữu trong hệ thống ngân hàng thƣơng

82

mại đang hoạt động tại Việt nam nhƣng họ chiếm ƣu thế hơn các ngân hàng

thƣơng mại Việt nam về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lƣợc khách hàng,

hiệu quả hoạt động và và chất lƣợng tài sản. Hơn nữa, dịch vụ của ngân hàng

thƣơng mại Việt nam còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chƣa cao, chƣa tạo

thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong

việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Nguồn thu từ tín dụng vẫn là nguồn

thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng, các dịch vụ mới hầu nhƣ chƣa đƣợc chú

trọng phá triển. Cho vay theo chỉ định của Chính phủ vẫn còn là hiện tƣợng phổ

biến của các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Bên cạnh đó, phần lớn các ngân

hàng thƣơng mại Việt nam thiếu chiến lƣợc kinh doanh hiệu quả và bền vững.

Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu thiếu tính độc lập, hệ thống thông

tin, báo cáo tài chính chƣa đạt chuẩn mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ ngân hàng khá

đông nhƣng trình độ chuyên môn chƣa đáp ứng đƣợc các yếu cầu của quá trình

hội nhập, chƣa có các chính sách kịp thời để thu hút nhân tài và áp dụng công

nghệ hiện đại...

*. Xu thế cạnh tranh giữa các ngân hàng nƣớc ngoài và hệ thống ngân hàng

thƣơng mại Việt nam.

Những thách thức lớn cho hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam không chỉ

trong việc định hƣớng hoạt động ra thị trƣờng bên ngoài mà còn chịu sự cạnh

tranh khốc liệt của các ngân hàng nƣớc ngoài ngay chính trên “sân nhà”.

Về thị trƣờng tín dụng: cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt hơn khi các

ngân hàng nƣớc ngoài đã hiểu rõ hơn về thị trƣờng Việt nam và môi trƣờng phát

lý Việt nam không còn phân biệt đối xử. Có thể nói, ngân hàng nƣớc ngoài đang

có mặt ở Việt nam đang “tạm ngủ” để chờ thời cơ kinh doanh.

Về giao dịch thanh toán, chuyển tiền lĩnh vực có ƣu thế của ngân hàng nƣớc

83

ngoài cả về chất lƣợng và loại hình dịch vụ.

Dịch vụ tƣ vấn, môi giới phát triển doanh nghiệp là vấn đề mà doanh nghiệp

quan tâm trong khi ngân hàng thƣơng mại Việt nam còn bỏ ngõ dịch vụ này.

Ngoài ra, trong quá trình hội nhập quốc tế, các ngân hàng thƣơng mại Việt nam

còn gặp một số khó khăn về mặt pháp lý, hệ thống pháp luật trong nƣớc, thể chế

thị trƣờng chƣa đầy đủ, đồng bộ, chƣa nhất quán.

Việc phải loại bỏ dần những hạn chế đối với các ngân hàng nƣớc ngoài có nghĩa

là các ngân hàng nƣớc ngoài sẽ từng bƣớc tham gia vào mọi lĩnh vực hoạt động

ngân hàng tại Việt nam. Công nghệ hiện đại và trình độ tiên tiến và nguồn tài

chính dồi dào của các ngân hàng nƣớc ngoài là ƣu thế cơ bản tạo ra những sức ép

cạnh tranh buộc ngân hàng thƣơng mại Việt Việt nam phải tăng thêm vốn, đầu

tƣ, cải tiến kỹ thuật, công nghệ, hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao

năng lực cạnh tranh.

Khả năng tài chính, trình độ quản lý và trình độ công nghệ, loại hình dịch vụ ...

của ngân hàng thƣơng mại Việt nam còn nghèo nàn nên trong giai đoạn đầu

thách thức trong cạnh tranh là rất lớn.

Sử dụng một số loại hình nghiệp vụ ngân hàng mới chƣa đƣợc thực hiện tại Việt

nam hoặc chƣa có quy định điều chỉnh nhƣng đã đƣợc cam kết tại các Hiệp định

cho phép buộc các ngân hàng thƣơng mại Việt nam phải sớm điều chỉnh hoạt

động của mình và bản thân ngân hàng Nhà nƣớc phải sớm ban hành các quy định

liên quan.

Vai trò của các ngân hàng nƣớc ngoài ngày càng lớn đối với nền kinh tế Việt nam

làm cho tính khốc liệt của cạnh tranh giữa các ngân hàng thƣơng mại ngày càng

lớn. Nguy cơ lớn của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam là tập trung đầu tƣ quá

84

lớn và các doanh nghiệp Nhà nƣớc nơi ẩn chứa quá nhiều rủi ro.

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đi kèm với rủi ro hoạt động gia tăng

và tính nhạy cảm của thị trƣờng tài chính nội địa sẽ gắn liền với thị trƣờng tài

chính thế giới vốn không ổn định. Vì thế vấn đề tỷ giá hối đoá, lãi suất thả nổi

đƣợc áp dụng ở thị trƣờng Việt nam sẽ gây cho ngân hàng Nhà nƣớc, các ngân

hàng thƣơng mại những cú sốc khi mà những điều kiện về hạ tầng cơ sở: cấu trúc

thị trƣờng, luật pháp điều chỉnh, vấn đề kỹ thuật và môi trƣờng kinh tế vĩ mô

chƣa đƣợc chuẩn bị một cách đầy đủ. Hội nhập quốc tế gia tăng các luồng vốn,

vì thế rủi ro đối với hệ thống ngân hàng cũng tăng lên. Cơ chế quản lý và giám

sát ngân hàng, hệ thống pháp luật và các công cụ thị trƣờng không tƣơng thích

với các tiêu chuẩn quốc tế hạn chế tính cạnh trong trong hoạt động ngân hàng và

phát triển thị trƣờng tiền tệ. Cụ thể, Luật các TCTD có một số điều khoản mâu

thuẩn với Hiệp định thƣơng mại Việt Mỹ quy định về các dịch vụ tài chính ngân

hàng...

3.1.2.2. Những cơ hội của Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế thành công sẽ đƣa lại cho nền kinh tế Việt nam nhiều

cơ hội lớn: mở rộng thị trƣờng, tận dụng kinh nghiệm về quản lý, thừa kế những

thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, tăng khả năng thút vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài... Đối với hệ thống ngân hàng thƣơng mại, hội nhập kinh tế quốc tế tạo

động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế, cải tổ hệ thống ngân hàng thƣơng

mại Việt Nam, tăng khả năng tổng hợp, tƣ duy xây dựng các loại văn bản pháp

luật ngân hàng đáp ứng nhu cầu hội nhập và thực hiện tốt các cam kết đã ký với

các tổ chức quốc tế. Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế

giữa các ngân hàng thƣơng mại trong các hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra các

biện pháp tăng cƣờng, giám sát rủi ro từ đó nâng cao vị thế của hệ thống ngân

85

hàng thƣơng mại Việt Nam trong các giao dịch tài chính, tiền tệ quốc tế. Hội

nhập kinh tế nghĩa là có sự tham gia tích cực hơn, đầy đủ hơn của các ngân hàng

nƣớc ngoài buộc các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu

hơn về nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng hơn các cơ hội kinh doanh của ngân hàng

thƣơng mại Việt Nam. Cơ hội hợp tác với ngân hàng nƣớc ngoài sẽ đƣa lại lợi

ích cho cả ngân hàng nƣớc ngoài, ngân hàng thƣơng mại Việt nam và cả cho nền

kinh tế Việt nam. Các ngân hàng nƣớc ngoài tham gia vào thị trƣờng tài chính

tiền tệ Việt nam, trong giai đoạn đầu sẽ tìm kiếm các đối tác bản địa để sử dụng

mạng lƣới chi nhánh hoạt động rộng khắp đến tận làng xã. Ngƣợc lại, ngoài

những cơ hội đƣợc tiếp cận khoa học quản lý mới, công nghệ hiện đại… các

ngân hàng thƣơng mại Việt nam còn đƣợc nâng cao vị thế, xây dựng đƣợc

thƣơng hiệu của mình trên thị trƣờng tài chính quốc tế. Các ngân hàng thƣơng

mại Việt nam chắc chắn sẽ thay đổi tƣ duy, cách nhìn về công tác marketing để

giữ những khách hàng truyền thống khi mà phần lớn khách hàng của họ sẽ

chuyển hƣớng sang quan hệ giao dịch với ngân hàng nƣớc ngoài. Trên đây là

những cơ hội của ngân hàng thƣơng mại Việt nam trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế và cũng chỉ là những thuanạ lợi mang tính chất tạm thời. Khi thị

trƣờng phát triển, với các quy định của luật pháp Việt nam phù hợp với các tiêu

chuẩn quốc tế thì những cơ hội và lợi thế hiện tại sẽ không còn đối với ngân

hàng thƣơng mại Việt nam do các ngân hàng nƣớc ngoài cũng đã bắt đầu chiếm

đƣợc ƣu thế cạnh tranh (hiểu đƣợc phong tục tập quán của ngƣời bản địa, hệ

thống mạng lƣới chi nhánh phát triển rộng khắp, ...). Chính vì vậy, vấn đề đặt ra

cho các ngân hàng thƣơng mại Việt nam là luôn luôn phải tự hoàn thiện mình để

đủ sức cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. ĐỊNH HƢỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

86

3.2.1. Định hướng, quan điểm đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại Việt

Nam. Là xu thế chung, các ngân hàng thƣơng mại Việt nam không thể phát triển theo

một quy luật riêng, nhất là sự phát triển của mỗi quốc gia ngày nay diễn ra trong

điều kiện hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng. Xây dựng các ngân hàng thƣơng

mại Việt Nam trở thành những ngân hàng thƣơng mại lớn hơn về quy mô, lành

mạnh về bản chất, an toàn trong hoạt động và có khả năng cạnh tranh. Việc đổi

mới hệ thông ngân hàng thƣơng mại Việt nam phải đƣợc định hƣớng và thực

hiện một cách toàn diện và đầy đủ: đổi mới cách điều hành của Chính phủ, đổi

mới các chế độ kế toán, kiểm toán, các chế độ kiểm tra - giám sát, đổi mới khuôn

khổ pháp lý liên quan đến hoạt động của ngân hàng thƣơng mại, doanh nghiệp.

Quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại nên tập trung vào 3 chủ thể

kinh tế: Doanh nghiệp Nhà nƣớc, ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, và ngân

hàng thƣơng mại cổ phần, thiết lập lại mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân

hàng thƣơng mại trong đó chú trọng giải quyết vấn đề nợ đọng của các doanh

nghiệp Nhà nƣớc. Đối với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, từng bƣớc hoàn

thiện chế độ kiểm toán và thực thi cải cách: từ việc tái cấp vốn, cơ chế hoạt động

độc lập tránh các áp lực về mặt chính trị và lạnh mạnh hoá tình hình tài chính, có

thể mạnh dạn thí điểm cổ phần hoá để hoạt động có hiệu quả hơn.

Đối với ngân hàng thƣơng mại cổ phần, có thể mạnh dạn đóng cửa hoặc sáp

nhập những đơn vị làm ăn không có hiệu quả, cho phép bán cổ phiếu cho pháp

nhân và cá nhân là ngƣời nƣớc ngoài.

Đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc, việc đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà

nƣớc ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu tất yếu khách quan để

đứng vững đƣợc trong cơ chế thị trƣờng trƣớc áp lực cạnh tranh khi Việt Nam

hội nhập vào thị trƣờng khu vực và thế giới qua các tổ chức nhƣ: AFTA, WTO.

87

Việc tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nƣớc phải dựa trên yêu cầu của các

lĩnh vực kinh tế kỹ thuật mà không phân biệt quy mô doanh nghiệp, trên cơ sở

đạt hiệu quả kinh tế và giải quyết hợp lý các vấn đề về lao động với mục tiêu

tăng tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, minh bạch về tình hình tài chính.

Nhƣ các phần trên đã trình bày, hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam tồn tại

và phát triển trong nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa là

một tất yếu khách quan, phù hợp với chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc.

Với thực trạng nhƣ hiện nay và trƣớc những thách thức mới, vấn đề đặt ra là phải

có những giải pháp và bƣớc đi thích hợp để lành mạnh hoá hoạt động của ngân

hàng thƣơng mại, hạn chế các yếu tố tiêu cực, phát huy các yếu tố tích cực để hệ

thống ngân hàng thƣơng mại cung cấp tiện ích ngân hàng nhiều hơn nữa, hiệu

quả hơn nữa đối với nền kinh tế đang phát triển ở Việt Nam.

Tuy nhiên, vì là những trung gian tài chính nên khi hệ thống ngân hàng thƣơng

mại bị những tác động không tốt dẫn đến thay đổi cơ cấu thì nó sẽ có tác động

dây chuyền tới nhiều chủ thể của nền kinh tế, trực tiếp là đến các đối tƣợng mà

hệ thống ngân hàng thƣơng mại huy động vốn và cho vay vốn, cụ thể:

- Làm giảm khả năng huy động vốn trong xã hội thông qua các ngân hàng

thƣơng mại do có sự nghi ngại của công chúng đối với hệ thống ngân hàng

thƣơng mại;

- Làm giảm nhịp độ tăng trƣởng kinh tế do việc thiết lập cơ chế kiểm soát chặt

chẽ hơn và xây dựng các tiêu chuẩn cho vay theo hƣớng an toàn hơn.

Vì vậy, việc đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại phải đƣợc hoạch định thành

một quốc sách với những phƣơng thức xử lý khoa học, thận trọng, tính tới nhiều

88

mặt trong bối cảnh tổng thể kinh tế – xã hội, phù hợp với thực tế của Việt Nam.

Trong định hƣớng và thực tế phát triển kinh tế ở Việt nam cho thấy, thành phần

kinh tế Nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực kinh nhƣng không phải

là trực tiếp tham gia kinh doanh và quản lý gián tiếp bằng các công cụ, các chính

sách. Doanh nghiệp Nhà nƣớc Việt nam đang ngày càng bộc lộ những yếu kém

và trì trệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngƣợc lại khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh đang lớn dần lên cả về quy mô lẫn chất lƣợng hoạt động, giải quyết

đƣợc nhiều vấn đề xã hội. Vì thế, theo quan điểm của chúng tôi, nên mạnh dạn

cổ phần hoá tất cả các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh để thực sự giúp ngân

hàng thƣơng mại quốc doanh làm ăn có hiệu quả.

a. Quan điểm đổi mới, sắp xếp lại ngân hàng thƣơng mại không làm mất sự ổn

định xã hội. Hệ thống ngân hàng thƣơng mại liên quan trực tiếp đến nhiều mặt

lợi ích của toàn cộng đồng:

(1) Lợi ích xã hội: Khi xử lý một ngân hàng thƣơng mại thì sẽ gây ảnh hƣởng

không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp đang hoạt động tốt và có quan hệ

tín dụng với ngân hàng đó.

(2) Lợi ích của cổ đông: Khi cổ đông bị thiệt hại về lợi ích (mất vốn điều lệ hoặc

cổ tức giảm thấp) thì ngân hàng thƣơng mại sẽ khó có khả năng huy động vốn để

tăng vốn điều lệ nhằm phát triển ngân hàng.

(3) Lợi ích của ngƣời gửi tiền: Về lý thuyết, một ngân hàng thƣơng mại có thể

nhận tiền gửi tới 15-20 lần vốn điều lệ . Vì vậy, khi xử lý một ngân hàng thƣơng

mại dƣới hình thức “phá sản” sẽ dẫn đến:

- Lợi ích của ngƣời gửi tiền không còn đƣợc đầy đủ (thậm chí còn mất cả vốn);

Theo quy định hiện hành, trƣờng hợp một ngân hàng thƣơng mại bị đóng cửa

mà Bảo hiểm tiền gửi tham gia thì mức bảo hiểm cho một đối tƣợng tối đa chỉ

89

đƣợc 30 triệu đồng và không bảo hiểm cho tiền gửi ngoại tệ. Đây là những vấn

đề đang có cách nhìn nhận khác nhau, nếu theo quy định hiện hành thì lợi ích của

ngƣời gửi tiền không đƣợc bảo vệ đầy đủ, nhƣng nếu bảo vệ đầy đủ lợi ích của

ngƣời gửi tiền thì phải tăng phí ngân hàng, đồng thời mục tiêu của chính sách

quản lý ngoại hối sẽ phải tính toán lại. Vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống

ngân hàng, đăc biệt là ngân hàng thƣơng mại cổ phần trong giai đoạn này nếu

không lựa chọn đƣợc giải pháp thích hợp cũng dễ gây nên sự xáo trộn bất ổn

trong xã hội.

(4) Đối với ngƣời lao động: Khi giải thể một ngân hàng thƣơng mại (thu hồi giấy

phép hoạt dộng để thanh lý hoặc tuyên bố phá sản) thì toàn bộ lao động ở ngân

hàng đó sẽ mất việc làm và sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế;

b. Đổi mới, sắp xếp lại các ngân hàng thƣơng mại sao cho chi phí Ngân sách Nhà

nƣớc thấp nhất.

* Một đặc thù về nghiệp vụ của ngân hàng thƣơng mại mà không một loại hình

doanh nghiệp nào đƣợc thực hiện là nhận tiền gửi của mọi tổ chức kinh tế, xã hội

và mọi tầng lớp dân cƣ. Vì vậy, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp trong

tổng nguồn vốn của ngân hàng thƣơng mại, nguồn vốn này đƣợc sử dụng để cho

vay đối với các thành phần kinh tế, nó chỉ có thể đƣợc trả đầy đủ và kịp thời cho

ngƣời gửi khi ngân hàng thƣơng mại kịp thu hồi đủ nợ đã cho vay. Tuy nhiên,

trong thực tế thƣờng xuyên không có sự tƣơng ứng về thời gian và số lƣợng vốn

chu chuyển giữa nghiệp vụ huy động vấn và nghiệp vụ cho vay nên cũng thƣờng

xuyên có nguy cơ mất khả năng chi trả. Khi xảy ra tình trạng mất khả năng chi

trả, nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng thƣơng mại sẽ không đủ khả năng bồi

hoàn đủ và kịp thời cho ngƣời gửi tiền, nhất là khi ngƣời gửi tiền ồ ạt đến rút vốn

90

trƣớc thời hạn.

c. Quan điểm đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam phải củng cố

đƣợc lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thƣơng mại

vẫn là một kênh dẫn vốn rất quan trọng và chủ yếu cho sự phát triển kinh tế đất

nƣớc trong giai đoạn tới. Đối với các nƣớc phát triển, đầu tƣ của công chúng

thông qua thị trƣờng chứng khoán chiếm một tỷ trọng đáng kể nhƣng kênh dẫn

vốn chủ yếu vẫn là hệ thống ngân hàng. Khi một doanh nghiệp có nhu cầu vốn

cho hoạt động kinh doanh của mình thì không thể ngay lập tức doanh nghiệp đó

phát hành các giấy tờ có giá ra thị trƣờng chứng khoán để thu hút đầu tƣ; doanh

nghiệp đó cũng không thể có ngay đƣợc những đồng vốn để đáp ứng tức thời cho

hoạt động kinh doanh của mình, đó là chƣa kể tới hàng hàng loạt các điều kiện

đặt ra để có thể phát hành đƣợc chứng khoán ra thi trƣờng và cũng không thể cần

bất kỳ một lƣợng vốn nào cũng ra thị trƣờng chứng khoán để thu hút đầu tƣ. Mặt

khác, công chúng cũng không hẳn là cứ dôi ra tạm thời đồng vốn nào là sử dụng

ngay đồng vốn đó để đầu tƣ chứng khoán. Điều đó có nghĩa là hoạt động ngân

hàng thƣơng mại còn rất cần thiết trong hoạt động kinh tế - xã hội (thực tế, hoạt

động tín dụng ngân hàng tại các nƣớc phát triển vẫn chiếm tỷ trọng trên 60%

lƣợng vốn cung ứng cho nền kinh tế). Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay, thị

trƣờng chứng khoán mới đƣợc thành lập còn rất sơ khai, lƣợng chứng khoán giao

dịch quá nhỏ bé và hầu hết là giao dịch tại thị trƣờng thứ cấp, sự hiểu biết của

công chúng về thị trƣờng chứng khoán còn nhiều hạn chế nên đầu tƣ của công

chúng thông qua thị trƣờng chứng khoán hầu nhƣ không đáng kể. Nhƣ vậy, hoạt

động huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân để cung ứng cho sự nghiệp phát

triển kinh tế đất nƣớc vẫn là trọng trách của ngành ngân hàng (trong thực tế năm

2000, tổng dƣ nợ của toàn hệ thống ngân hàng đã chiếm tới 43% GDP). Vấn đề

91

quan trọng là phải củng cố lòng tin của công chúng để đảm bảo cho hệ thống

ngân hàng (trong đó đặc biệt là hệ thống ngân hàng thƣơng mại cổ phần) hoàn

thành tốt đƣợc nhiệm vụ trong đại này.

Vì vậy, sự minh bạch toàn bộ hoạt động của từng ngân hàng thƣơng mại có tác

dụng làm tăng lòng tin (và có cơ sở để tăng lòng tin) của công chúng đối với

toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Sự chuyển dịch ồ ạt tiền gửi của công chúng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự

đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Trong tổng số nguồn vốn của các ngân hàng thƣơng

mại của Việt Nam, tiền gửi chiếm tỷ trọng cao nhất (thông thƣờng chiếm tới

90% tổng nguồn vốn). Đặc biệt, tiền gửi của công chúng chiếm tỷ trọng rất lớn,

nhất là các ngân hàng thƣơng mại cổ phần (bình quân tiền gửi của công chúng

chiếm tới 70% nguồn vốn của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần.

- Trong điều kiện nƣớc ta, đồng đô la Mỹ còn đƣợc công chúng cất trữ thì sự

chuyển dịch tiền gửi một cách ồ ạt còn mang một màu sắc khác, đó là công

chúng sử dụng số tiền gửi rút ra từ ngân hàng thƣơng mại cổ phần để mua và dự

trữ ngoại tệ (thông thƣờng là đô la Mỹ), điều này đã dẫn đến việc cả nguồn vốn

bằng nội tệ lẫn nguồn vốn bằng ngoại tệ tại các ngân hàng thƣơng mại giảm

nhanh, gây ra 2 hiệu ứng tiêu cực:

+ Giảm nguồn vốn cho đầu tƣ và phát triển kinh tế đất nƣớc trong khi bản thân

hệ thống ngân hàng không thể ứng cứu đƣợc cho nhau (đó là chƣa đề cập tới vấn

đề tính hoạt động hệ thống của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam).

+ Tăng những cơn sốt ngoại tệ làm mất giá đồng nội tệ. Sự sụp đổ hệ thống ngân

hàng Thái Lan năm 1997 do nhiều nguyên nhân nội tại mà hệ thống ngân hàng

của nƣớc này bị mất lòng tin làm cho đồng Bạt mất giá nghiêm trọng, gây ra hiện

tƣợng rút tiền ồ ạt ở hàng loạt ngân hàng và công ty tài chính để dự trữ ngoại tệ

92

(trong công chúng) làm cho nhiều ngân hàng và công ty tài chính sụp đổ, lòng

tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng nƣớc này đến nhiều năm sau này

vẫn chƣa khôi phục đƣợc.

3.2.3. Các giải pháp đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: Đối với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, trong quá trình đổi mới, tái cơ cấu,

cần tập trung vào các điểm sau: hợp lý hoá cơ cấu, củng cố hoạt động để thành

lập các tổ chức tín dụng hoạt động mang tính cạnh tranh; tái cơ cấu các khoản nợ

tồn đọng không sinh lời và các khoản đầu tƣ không hiệu quả để khôi phục lòng

tin của các nhà đầu tƣ đối với ngân hàng thƣơng mại quốc doanh; tái cấp vốn

bằng nguồn ngân sách Nhà nƣớc hoặc cổ phần hoá nhằm đảm bảo vai trò chủ

đạo trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại hoặc sáp nhập các ngân hàng thƣơng

mại quốc doanh để đảm bảo mạnh hơn trong cạnh tranh. Đối với ngân hàng

thƣơng mại cổ phần, cho phép một số ngân hàng có dủ điều kiện mở rộng phạm

vi, quy mô hoạt động không chỉ giới hạn trong nƣớc mà ra cả thị trƣờng khu vực

và thế giới, khuyến khích các ngân hàng thƣơng mại cổ phần sáp nhập để mạnh

hơn trong cạnh tranh, an toàn trong hoạt động.

3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động của hệ thống ngân hàng

Để tạo môi trƣờng thuận lợi và giải pháp đồng bộ cho quá trình đổi mới ngân

hàng thƣơng mại thành công, cần phải có những cải cách trong việc xây dựng và

điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cũng nhƣ có sự điều chỉnh của quy phạm

pháp luật về ngân hàng.

Để tăng tính hiệu quả trong việc thanh tra, giám sát của ngân hàng Nhà nƣớc đối

với Ngân hàng thƣơng mại, Luật Ngân hàng Nhà nƣớc nên quy định rõ quyền

hạn, trách nhiệm của đội ngũ thanh tra, kiểm tra để họ thực thi tốt nhiệm vụ của

mình. Luật các tổ chức tín dụng nên đƣợc sửa đổi theo hƣớng tăng quyền hạn,

93

thẩm quyền và vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nƣớc và tăng tính tự chủ của

ngân hàng thƣơng maị trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, các Nghị định của

Chính phủ, các Quy định của Ngân hàng Nhà nƣớc liên quan đến nghiệp vụ của

ngân hàng thƣơng mại cũng thƣờng xuyên đƣợc xem xét sửa đổi để phù hợp với

tình hình thay đổi của thực tiễn.

Sửa đổi về chính sách tài chính, các chính sách tài chính có mục tiêu riêng là

điều tiết thu nhập. Nhƣng chính sách tài chính cần xử lý hài hoà mối quan hệ

giữa điều tiết thu nhập với kích thích kinh doanh phát triển để tạo nguồn thu bền

vững.

Thuế thu nhập và thuế thu nhập bổ sung, ngân hàng thƣơng mại phải nộp thuế

thu nhập nhƣ mọi doanh nghiệp khác. Tuy nhiên mức thuế thu nhập trong lĩnh

vực ngân hàng hiện nay rất cao. Hơn nữa, sau khi nộp thuế thu nhập nếu phần

còn lại cao hơn một tỷ lệ nhất định với vốn chủ sở hữu thì phải nộp thuế thu

nhập bổ sung với tỷ lệ cao tính trên phần còn lại. Chính sách thuế thu nhập bổ

sung đối với ngân hàng thƣơng mại là chƣa hợp lý do ngân hàng thƣơng mại

không phải là doanh nghiệp có ƣu thế về cạnh tranh, một điều kiện để áp dụng

loại thuế này. Ngân hàng thƣơng mại phải bán tài sản cầm cố, thế chấp để thu

hồi nợ là một việc ngoài ý muốn, không phải vì mục đích kinh doanh tài sản.

Tiền tệ hoá các tài sản tồn đọng càng nhanh càng tốt là để phục vụ mục tiêu kinh

doanh tiền tệ của các ngân hàng thƣơng mại và là một nhiệm vụ trọng tâm để

lành mạnh hoá tài chính của ngân hàng thƣơng mại trong giai đoạn chấn chỉnh.

Vì vậy, mọi loại thuế liên quan đến việc phát mại tài sản của ngân hàng thƣơng

mại cần đƣợc miễn trừ. Đồng thời cần có quy định thông thoáng hơn về thủ tục

phát mại tài sản, giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các chủ nợ là ngân hàng

thƣơng mại.

94

Sửa đổi và hoàn thiện chính sách tiền tệ.

Tái cấp vốn: cần tổ chức tốt hơn thị trƣờng tiền tệ để các ngân hàng tham gia

thƣờng xuyên, có hiệu quả hơn cho cả phía các ngân hàng thƣơng mại và Ngân

hàng Nhà nƣớc. Trong điều kiện tự do hoá lãi suất và cạnh tranh ngày càng gay

gắt, có thể dẫn đến tình hình thiếu khả năng chi trả, các ngân hàng thƣơng mại

rất cần đến thị trƣờng này, coi đây là một nhân tố để ổn định tình hình.

Chính sách lãi suất: để tạo sự bình đẳng và để đƣa tất cả các tổ chức tín dụng vào

hoạt động ngân hàng thƣơng mại thực sự, chính sách lãi suất phải đƣợc tự do hoá

hoàn toàn. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc sẽ chủ yếu là lãi suất

điều tiết trên thị trƣờng tiền tệ.

Về dự báo và thông tin dự báo chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: những cân đối lớn của nền

kinh tế thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của các cơ quan Nhà nƣớc là định

hƣớng hoạt động của ngân hàng thƣơng mại. Vì vậy, để các ngân hàng thƣơng

mại có thể đầu tƣ đúng hƣớng, ít gặp rủi ro và cũng là để nền kinh tế phát triển

mang tính thị trƣờng, cần cải cách ở tầm hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Sự

khiếm khuyết lớn trong việc hoạch định chỉ tiêu kinh tế vĩ mô là quá coi trọng về

việc khai thác tiềm năng mà dự báo không hết yếu tố thị trƣờng nên các dự án

kinh tế dễ mất tính khả thi. Điều đó cũng làm cho việc đầu tƣ trong đó có đầu tƣ

ngân hàng không có hiệu quả. Biểu hiện cụ thể này đã từng xảy ra, chẳng hạn:

dự báo thị trƣờng xi măng, sắt thép, nƣớc giải khát, hải sản, phân bón... Gần đây,

việc dự báo thị trƣờng nông sản gần nhƣ không rõ ràng, nhƣng lại khuyến khích

phát triển các vùng chuyên canh cây, con theo kiểu càng nhiều càng tốt đã dẫn

đến sản phẩm dƣ thừa, gây nợ nần tồn đọng rất lớn ở các ngân hàng thƣơng mại.

Khiếm khuyết về dự báo đã làm méo mó cơ cấu kinh tế, dẫn đến việc phải thay

95

đổi lại cơ cấu. Để hạn chế tình trạng phát sinh nợ đọng trong các ngân hàng

thƣơng mại, việc dự báo kinh tế vĩ mô phải đánh giá đƣợc khả năng chấp nhận

của thị trƣờng để việc đầu tƣ lựa chọn đƣợc phƣơng án hiệu quả.

Để các ngân hàng thƣơng mại hoạt động lành mạnh, an toàn, có hiệu quả, cần

phải thay đổi cách chỉ đạo vĩ mô theo hƣớng: chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (trong đó có

chỉ tiêu mức tăng dƣ nợ tín dụng) chỉ nên coi là chỉ tiêu định hƣớng, không thể

coi là mức phấn đấu phải đạt đƣợc. Vì vậy, các doanh nghiệp (kể cả ngân hàng)

sẽ phải tự điều chỉnh hoạt động của mình khi thị trƣờng xuất hiện những tình thế

mới. Vì vậy các dự án kinh tế lớn của Chính phủ, của địa phƣơng, của ngành

không thể cố định chỉ tiêu để buộc các nhà đầu tƣ phải tuyệt đối thực hiện.

3.2.3.2 Đổi mới các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng thƣơng mại

Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

Hoạch định chiến lƣợc thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ phù hợp. Mỗi ngân hàng

thƣơng mại phải đƣa vào lợi thế và khả năng của mình để hoạch định chiến lƣợc

phát triển nghiệp vụ một cách phù hợp, chính xác trên cơ sở đó xác định hƣớng

đầu tƣ và lựa chọn công nghệ hợp lý. Tiến hành đa dạng hoá nghiệp vụ kinh

doanh theo hƣớng:

- Mở ra những nghiệp vụ, dịch vụ mang tính định hƣớng thị trƣờng sau khi đã

đầu tƣ đổi mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ

- Khai thác triệt để ƣu thế cạnh tranh của từng chi nhánh, từng ngân hàng trong

từng vùng để hoàn thiện và nâng cao chất lƣợng dịch vụ hiện có.

Nghiệp vụ huy động vốn: Cải tiến trình độ nghiệp vụ huy động vốn theo hƣớng

đơn giản thuận tiện và an toàn cho khách hàng; mở rộng mạng lƣới giao dịch đến

tận cơ sở, nơi tập trung đông dân cƣ; tăng cƣờng tuyên truyền khuyến khích các

96

tầng lợp dân cƣ, các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi.

Nghiệp vụ sử dụng vốn: Hoàn thiện quy chế, quy trình cho vay; xây dựng hệ

thống thông tin quản lý tín dụng tập trung; xây dựng cơ chế phân loại nợ và trích

lập dự phòng rủi ro; tăng cƣờng kiểm tra, kiểm soát

Các dịch vụ ngân hàng mới. Việc quyết định đƣa ra một dịch vụ mới phải dựa

trên nhu cầu thực tế của thị trƣờng và thực lực của nhà cung cấp dịch vụ. Trên cơ

sở những thuận lợi, khó khăn và các điều kiện hiện có về cơ sở vật chất, trình độ

ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, trong thời gian tới, ngân

hàng thƣơng mại Việt nam có thể phát triển thêm một số dịch vụ sau:

- Các dịch vụ thu hộ, chi hộ (thuế, chi phí điện thoại, nƣớc, tiền thuê nhà...)

- Dịch vụ bảo quản, ký gửi, uỷ thác

- Dịch vụ môi giới, đại lý phát hành bảo quản chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm...

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại là đa dạng về các loại hình

dịch vụ trên phạm vi rộng, nó đƣợc mở rộng và phát triển và hoàn thiện theo sự

phát triển của nền kinh tế.

Nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương

mại.

Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh daonh của ngân hàng

thƣơng mại, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nƣớc phải thiết lập môi trƣờng kinh

doanh thông thoáng, bình đẳng, không còn sự phân biệt đối xử giữa các loại hình

tổ chức tín dụng. Một số giải pháp đề nghị:

+ Xoá bỏ sự phân biệt lãi suất giữa thành thị và nông thôn, đồng thời tự do hoá

97

lãi suất, không còn hạn chế địa bàn hoạt động;

+ Loại bỏ sự hạn chế thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, loại hình dịch vụ cho ngân

hàng thƣơng mại nhằm nâng cao tính tự chủ, tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt

động kinh doanh,

+ Giảm dần đến mức tối thiểu sự can thiệp sâu của Chính phủ, ngân hàng Nhà

nƣớc vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại,

+ Bắt buộc các ngân hàng thƣơng mại công khai hoá tình hình hoạt động kinh

doanh sau mỗi năm tài chính nhằm tăng tính minh bạch trong các thông tin liên

quan đến hoạt động của ngân hàng thƣơng mại. Sự không minh bạch về tài chính

hiện nay của các ngân hàng thƣơng mại vô hình đã làm giảm uy tín, giảm năng

lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thƣơng mại.

Tăng quy mô, phạm vi hoạt động của ngân hàng thương mại.

Quy mô của ngân hàng thƣơng mại đƣợc hiểu theo nghĩa là bao hàm vốn, bộ

máy tổ chức, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động. Trong đó, quy mô về vốn

có tính chất quyết định tới việc mở rộng bộ máy tổ chức, phạm vi hoạt động và

trình độ công nghệ.

- Về vốn. Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu

hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, xuất phát từ thực trạng vốn tự có và tỷ lệ an

toàn vốn hiện nay của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, chúng tôi mạnh dạn

đƣa ra kiến nghị sớm thực hiện việc cổ phần hoá các ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh, trƣớc mắt có thể thực hiện thí điểm nhƣ đã tiến hành đối với doanh

nghiệp Nhà nƣớc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác của nền

kinh tế. Kiến nghị này xuất phát từ bối cảnh nền kinh tế Việt nam trƣớc xu

hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế, từ thực tiễn hoạt động của chính các ngân hàng

thƣơng mại cổ phần, các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh và chính hiệu quả

98

hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nƣớc sau khi thực

hiện cổ phần hoá. Đây chính là giải pháp mạnh nhất, hiệu quả nhất trong việc

tăng vốn tự có của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Hơn ai hết, chính hiệu

quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh sau khi đƣợc

cổ phần hoá sẽ quyết định việc tăng quy mô vốn nhiều hay ít, các nhà đầu tƣ là

những ngƣời có thể phán xét việc này và chính bản thân Nhà nƣớc, Chính phủ

cũng không thể đủ điều kiện để can thiệp một cách thƣờng xuyên trong việc tăng

quy mô vốn của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, giảm đi tính năng động, tự

chủ của ngân hàng thƣơng mại quốc doanh. Hơn nữa, thực hiện cổ phần hoá

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh không những huy động đƣợc các tiềm lực tài

chính lớn trong dân cƣ đang đƣợc cất giữ dƣới dạng ngoại tệ mạnh, vàng bac, dá

quý hoặc đầu tƣ dƣới dạng bất động sản mà còn tăng tính minh bạch hơn trong

thông tin tài chính của ngân hàng thƣơng mại thông qua việc giám sát chặt chẽ

của công chúng đầu tƣ. Ngoài ra, sau khi cổ phần hoá, hoạt động kinh doanh của

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh sẽ trở nên có hiệu quả hơn do các quyết định

kinh doanh đƣợc xem xét, cân nhắc một cách kỹ hơn bởi ở đó vấn đề sở hữu đã

đƣợc xác định một cách rõ ràng, cụ thể hơn là hình thức sở hữu Nhà nƣớc.

Tuy nhiên, trong điều kiện trƣớc mắt, để thực hiện việc tăng quy mô vốn của

ngân hàng thƣơng mại quốc doanh bằng cách bổ sung từ ngân sách Nhà nƣớc,

theo chúng tôi giữa ngân hàng Nhà nƣớc, Bộ Tài chính, Các ngân hàng thƣơng

mại phải có một sự phối hợp chặt chẽ trong việc tính toán nguồn vốn đáp ứng

việc tăng vốn (phát hành trái phiếu), giám sát chặt chẽ kết quả hoạt động kinh

doanh của từng ngân hàng thƣơng mại quốc doanh để có biện pháp điều chỉnh

hợp lý.

Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, giải pháp cơ bản nhất là mỗi ngân

99

hàng thƣơng mại phải tự kinh doanh có hiệu quả, có cổ tức hấp dẫn để có thể gọi

vốn cổ phần. Những khoản đầu tƣ của công chúng và của doanh nghiệp vào ngân

hàng thƣơng mại nếu ngân hàng đó hoạt động kinh doanh an toàn, có hiệu quả

(lợi tức, cổ tức hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng hoặc lợi nhuận kinh

doanh ngành nghề khác) thì chắc chắn là thuận lợi cho việc tăng vốn của ngân

hàng thƣơng mại. Còn ngƣợc lại, dòng vốn sẽ chuyển dịch để đầu tƣ hoặc đầu cơ

vào lĩnh vực khác.

Trên thực tế, hầu hết các tầng lớp dân cƣ sử dụng tiền nhàn rỗi của mình để gửi

có kỳ hạn ngắn vào ngân hàng và sau đó tiếp tục gửi các kỳ hạn khác sau khi đến

hạn, tuỳ theo diễn biến lãi suất có kỳ hạn khác nhau. Trƣờng hợp cổ tức của ngân

hàng thƣơng mại hấp dẫn sẽ lôi cuốn đƣợc những khoản đầu tƣ lớn và những

khoản tiền gửi của dân chƣa có thói quen kinh doanh tiền tệ.

Cho phép các ngân hàng thƣơng mại phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị

trƣờng chứng khoán. Việc các ngân hàng thƣơng mại tham gia niêm yết cổ phiếu

trên thị trƣờng chứng khoán là hết sức cần thiết và sẽ tạo ra một kênh hút vốn

khá mạnh cho các ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, thời điểm để các ngân hàng

thƣơng mại tham gia vào thị trƣờng chứng khoán cũng cần phải tính tới bối cảnh

tổng thể của công cuộc cải cách ngân hàng:

Diễn biến kinh tế vĩ mô trong một số năm tới sẽ có những thay đổi lớn do việc

hội nhập, Việt Nam vừa có cơ hội thuận lợi, vừa gặp phải thách thức không nhỏ

và lĩnh vực ngân hàng lại rất nhạy cảm trong khi đang tiến hành cải cách nên

việc ngân hàng thƣơng mại tham gia vào thị trƣờng chứng khoán cần thận trọng.

Có thể, vào thời điểm thuận lợi, cho phép một số ngân hàng thƣơng mại tham gia

vào thị trƣờng chứng khoán, coi nhƣ một bƣớc thử nghiệm trƣớc khi có các

100

quyết sách tiếp theo.

Mở rộng diện cho phép cổ đông nƣớc ngoài mua cổ phiếu của ngân hàng thƣơng

mại cổ phần. Hiện tại, Việt Nam mới chỉ cho phép cổ đông nƣớc ngoài mua cổ

phần của số ít ngân hàng để làm thí điểm. Sự hạn chế này kết quả có tính chất 2

mặt: Mặt tích cực là làm thử để rút kinh nghiệm, tránh gây ra tình trạng chi phối

quá lớn của phía nƣớc ngoài đối với lĩnh vực kinh doanh tòên tệ, trong khi số

lƣợng chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài dã nhiều. Mặt tiêu cực là một số cổ đông

nƣớc ngoài đã “đầu tƣ chui” qua cổ đông Việt Nam mà thực ra chính sách mở

cửa của Nhà nƣớc ta lại đang khuyến khích ngƣời nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt

Nam. Giải pháp cho vấn đề này là nên mở rộng diện cho nhiều ngân hàng thƣơng

mại đƣợc gọi vốn cổ đông nƣớc ngoài nhƣng có thể khống chế tỷ lệ tối đa,

tƣơng ứng với tỷ lệ mà thị trƣờng chứng khoán có thể cho phép. Việc mở rộng

này cần thực hiện mạnh mẽ hơn, khi chiến lƣợc cơ cấu lại ngân hàng thƣơng mại

Việt Nam đã cơ bản hoàn thành.

Khuyến khích các ngân hàng hợp nhất, sáp nhập với nhau. Giải pháp hợp nhất,

sáp nhập ngân hàng đã đƣợc áp dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc và hiện nay đang là

một xu thế. Ngay cả những ngân hàng cực lớn cũng đã tìm đến nhau để trở thành

những ngân hàng có sức cạnh tranh lớn hơn nữa (vấn đề này đã phân tích ở

chƣơng 1).

Về tổ chức bộ máy và phạm vi hoạt động:

Hiện nay, bộ máy tổ chức của tất cả các ngân hàng thƣơng mại đều đã từng bƣớc

đƣợc kiện toàn, các nhân sự chủ chốt đều đạt đƣợc tiêu chuẩn tối thiểu tƣơng

ứng với chức danh đƣợc luật pháp về ngân hàng quy định. Tuy nhiên, để đáp ứng

đƣợc với đòi hỏi của kinh doanh ngân hàng hiện đại thì bộ máy tổ chức của các

101

ngân hàng thƣơng mại còn cần phải hoàn thiện hơn nữa, đặc biệt là các bộ phận

giao dịch với khách hàng, thẩm định tín dụng, kiểm tra kiểm soát nội bộ, quản lý

rủi ro; cần chú trọng hơn nữa đến công tác nghiên cứu và phát triển.

Hoạt dộng kinh doanh của ngân hàng thƣơng mại trong ền kinh tế thị trƣờng, sự

cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyền tự chủ đã đƣợc mở rộng thì phạm vi hoạt

động của các ngân hàng thƣơng mại cũng đƣợc mở rộng. Sự mở rộng phạm vi

hoạt động của ngân hàng thƣơng mại bao hàm 2 mặt: mở rộng nghiệp vụ (dịch

vụ) và mở rộng địa bàn hoạt động.

+ Việc mở rộng nghiệp vụ (cung cấp những dịch vụ mới) sẽ do khả năng của các

ngân hàng thƣơng mại quyết định. Nhìn chung, các ngân hàng thƣơng mại phải

đủ mức vốn tối thiểu, đủ năng lực quản lý, có công nghệ phát triển ở mức cần

thiết để có thể đƣợc cấp phép mở ra tất cả các dịch vụ ngân hàng mà xã hội có

nhu cầu.

+ Việc mở rộng địa bàn hoạt động (vùng lãnh thổ), các ngân hàng thƣơng mại có

khả năng mở rộng địa bàn hoạt động phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy và

yêu cầu quản lý Nhà nƣớc của pháp luật.

Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam cần tiếp tục xây dựng cơ sở pháp lý để hoàn

thiện hơn nữa mô hình ngân hàng thƣơng mại theo mục tiêu cụ thể, trƣớc hết có

thể sử dụng giải pháp sau đây: xây dựng lại mô hình ngân hàng thƣơng mại theo

hƣớng đa năng. Mô hình mới này cần bao hàm trung tâm điều hành (hội sở),

mạng lƣới chi nhánh, công ty trực thuộc, văn phòng đại diện và các cơ sở sự

nghiệp khác.

Về công nghệ hoạt động

Vấn đề này đặt ra trƣớc hết là đối với các ngân hàng thƣơng mại, nó đòi hỏi các

102

ngân hàng này phải thấy rõ vai trò của nó là hết sức quan trọng trong thời gian

tới, nhất là khi các ngân hàng thƣơng mại phải chịu sức ép về cạnh tranh và hợp

tác trong quá trình hội nhập với các nƣớc trong khu vực và quốc tế.

Để phù hợp với khả năng tài chính của mình, các ngân hàng thƣơng mại có thể

lựa chọn mục tiêu ƣu tiên cho việc phát triển công nghệ, nhƣng ƣu tiên hàng đầu

là giải pháp công nghệ cho việc quản lý vốn, tài khoản, rủi ro, tham gia thị

trƣờng tiền tệ liên ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác với khách hàng.

Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động của ngân hàng thương mại.

Sự lành mạnh hay không trong hoạt động của ngân hàng thƣơng mại phụ thuộc

phần quan trọng vào chất lƣợng của tài sản có. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nƣớc

đã ban hành tƣơng đối đầy đủ những quy định về đảm bảo sự an toàn, giảm thiểu

rủi ro trong kinh doanh tiền tệ. Tuy vậy, vì lý do lợi nhuận, vì muốn nắm giữ

khách hàng nên các ngân hàng thƣơng mại vẫn vi phạm các quy định đó. Giải

pháp chủ yếu để chấn chỉnh sự thiếu an toàn này là: một mặt tăng cƣờng sự giám

sát nội bộ tại mỗi ngân hàng thƣơng mại, mặt khác phải thanh tra có hiệu quả

hơn từ Ngân hàng Nhà nƣớc. Việc thanh tra từ Ngân hàng Nhà nƣớc phải chú

trọng chủ yếu vào các tiêu chí “giám sát từ xa” để cảnh báo sớm hơn là việc

thanh tra tại chỗ vừa tốn kém, chậm phát hiện, vừa gây phiền hà cho các ngân

hàng thƣơng mại. Những tiêu chí đặc biệt nhạy cảm sau đây phải đƣợc cảnh báo

sớm:

+ Sự đầu tƣ quá lớn vào 1 doanh nghiệp, 1 ngành nghề, 1 sản phẩm, 1 vùng lãnh

thổ, 1 chƣơng trình kinh tế. Thị trƣờng Việt Nam còn rất nhiều khiếm khuyết về

thông tin, dự báo kinh tế vĩ mô, về luật pháp, về sự can thiệp trực tiếp của các

cấp chính quyền vào hoạt động doanh nghiệp, về khả năng xây dựng và thẩm

định dự án của cả khách hàng và ngân hàng... nên rủi ro đầu tƣ rất dễ xảy ra (kể

103

cả rủi ro đạo đức). Sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp mới đã tạo thuận lợi

cho việc ra đời doanh nghiệp, nhƣng cũng đặt các ngân hàng thƣơng mại trƣớc

nguy cơ rủi ro rất lớn. Luật doanh nghiệp Nhà nƣớc đang đứng trƣớc thử thách

với loại hình doanh nghiệp mà đa phần là vốn nhỏ, kinh doanh đa ngành và hiệu

quả thấp. Vì vậy, giải pháp giám sát rủi ro muốn có hiệu quả phải tăng cƣờng cả

ở 2 phía: ngân hàng thƣơng mại và Ngân hàng Nhà nƣớc.

+ Ngân hàng Nhà nƣớc chỉ nên dự báo mức tăng dƣ nợ hàng năm mà không nên

coi chỉ tiêu này là căn cứ đánh giá thành tích của mỗi ngân hàng thƣơng mại .

Việc tăng dƣ nợ vƣợt chỉ số an toàn phải đƣợc ngăn chặn bằng các chế tài giám

sát và xử phạt hành chính.

+ Sự lạm dụng tính thời hạn của nguồn vốn. Kể cả trong chính sách và trong

thực thi đều không đƣợc lạm dụng tính thời hạn của nguồn vốn, trƣớc hết là lạm

dụng nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho dài hạn. Do đặc thù của các trung gian tài

chính là luôn luôn có thể đi vay đƣợc trên thị trƣờng nên có khả năng thanh

khoản cao. Vì vậy, có thể cho phép các ngân hàng thƣơng mại sử dụng một phần

nguồn vốn ngắn hạn (một tỷ lệ nhất định, hiện nay tại Việt Nam là 25%) để cho

vay dài hạn. Nhƣng nếu lạm dụng giới hạn này, trong một bối cảnh không thuận

lợi, nhất là đối với các ngân hàng thƣơng mại (trƣờng hợp nợ xấu tăng nhanh, lãi

suất thị trƣờng giảm thấp khó huy động vốn, chuyển hoá vốn của ngƣời gửi từ

ngân hàng này sang ngân hàng khác, mất khả năng chi trả tạm thời mà khó vay

đặc biệt dẫn tới mất khả năng thanh toán...) thì sự mất an toàn sẽ dễ xảy ra.

+ Thƣờng xuyên xử lý các tài sản cầm cố, thế chấp để giảm mức nợ xấu. Việc

quản lý chặt chẽ chỉ tiêu nợ xấu sẽ buộc các ngân hàng thƣơng mại không găm

giữ tài sản hiện vật, giải phóng vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã

104

hội. Trong trƣờng hợp các ngân hàng muốn giữ tài sản xiết nợ để phục vụ cho

nhu cầu của chính mình thì phải chuyển thành hành vi mua lại (dùng vốn điều lệ

để mua) và thực hiện theo nguyên tắc chỉ mua tài sản thật sự cần thiết.

Đối với ngân hàng thương mại cổ phần: hạn chế sự nắm giữ cổ phần quá lớn

của những cổ đông trong cùng một gia tộc. Pháp luật hiện hành đã có những quy

định về việc nắm giữ cổ phần, cổ phiếu của một số đối tƣợng nhất định. Mục

đích của những quy định này là để ngăn chặn trƣớc sự chi phối quá lớn của một

số ít đối tƣợng phục vụ cho lợi ích cộng đồng. Vì vậy, giải pháp chính để hạn

chế sự chi phối quá lớn của những cổ đông trong cùng một gia tộc là những quy

định mới rõ ràng hơn, sự giám sát nội bộ hữu hiệu hơn và sự thanh tra của Ngân

hàng Nhà nƣớc chặt chẽ hơn.

3.2.3.3. Phát triển thị trƣờng tài chính tổng thể với các kênh dẫn vốn tƣơng tác với ngân hàng thƣơng mại.

Từ những phân tích trên, để đạt đƣợc mục tiêu phát triển bền vững, Việt nam cần

nhanh chính đƣa ra các giải pháp ƣu tiên phát triển thị trƣờng tài chính nhằm

giảm tải hoạt động tín dụng của ngân hàng thƣơng mại trong thời gian tới.

- Phải xây dựng một cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết trực tiếp của thị

trƣờng. Trên thị trƣờng tài chính, lãi suất là yếu tố quan trọng để điều tiết cung

cầu về vốn. Cơ chế lãi suất linh hoạt, nhạy bén sẽ cung cấp cho ngƣời đi vay

những thông tin tài chính kịp thời, đầy đủ để khắc phục đƣợc độ trễ khi ra quyết

định của nhà đầu tƣ, thúc đẩy nhanh quá trình lƣu thông vốn và tăng sức cạnh

tranh trên thị trƣờng. Trên thực tế, với chính sách tự do hóa lãi suất, Chính phủ

Việt nam đang gia tăng quyền tự chủ cho các tổ chức tài chính tín dụng

- Phải đa dạng hoá các công cụ tài chính, số lƣợng và hình thức các công cụ tài

105

chính sẽ quyết định phạm vi, tần suất giao dịch và quy mô của thị trƣờng tài

chính. Khi thị trƣờng chứng khoán hoạt động ổn định, thu hút sự quan tâm của

công chúng đầu tƣ, các công cụ tài chính sẽ đƣợc bổ sung và hoàn thiện.

- Xây dựng và đa dạng hoá các tổ chức tài chính, ngân hàng... những chủ thể

chính tham gia thị trƣờng tài chính trong môi trƣờng cạnh tranh. Việc xây dựng

và phát triển các loại hình tổ chức tài chính sự đa dạng và cạnh tranh, giúp đẩy

nhanh quá trình luân chuyển vốn

- Xây dựng và phát triển mạng lƣới thông tin đủ mạnh, đủ tin cậy và đáp ứng

đƣợc tính tiện dùng

- Phải có một hệ thống pháp luật toàn diện để bảo về quyền lợi của nhà đầu tƣ

- Thị trƣờng chứng khoán đã đƣợc thành lập và đi vào hoạt động với thời gian

khá dài nhƣng mới chỉ ở quy mô nhỏ và chƣa thật sự thu hút đƣợc công chúng

đầu tƣ quan tâm. Bên cạnh đó, thị trƣờng tài chính chƣa phát triển, vì thế, nhu

cầu về vốn của các doanh nghiệp vẫn phải dựa chủ yếu vào ngân hàng thƣơng

mại. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống ngân hàng thƣơng mại đủ mạnh không

những để đáp ứng nhu cầu vốn trƣớc mắt cho các doanh nghiệp mà còn thúc đẩy

các thị trƣờng tài chính phát triển cần phải đƣợc quan tâm xem xét.

- Chính phủ, ngân hàng Nhà nƣớc bằng cơ chế chính sách cho phép cho hệ thống

ngân hàng thƣơng mại tạo ra hàng hoá phong phú trên thị trƣờng tài chính, tạo

cho khách hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ tài chính

ngân hàng: Chính phủ nên chú trọng tập trung phát triển thị trƣờng vốn nội địa

bằng việc phát hành trái phiếu chính phủ, các loại giấy tờ ghi nợ nhằm phát triển

hơn nữa hệ thống tài chính, làm tăng thêm tiềm lực vốn cho các doanh nghiệp và

cho cả ngành ngân hàng, tăng năng lực của chính phủ để sử dụng có hiệu quả

106

hơn thị trƣờng vốn nội địa trong việc quản lý nợ của chính phủ.

3.2.3.4. Đẩy mạnh cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nƣớc và hoàn thiện môi

trƣờng pháp lý cho hoạt động của khu vực kinh tế tƣ nhân nhằm giảm áp lực và

rủi ro cho ngân hàng thƣơng mại khi tham gia cho vay và tạo điều kiện cho ngân

107

hàng thƣơng mại hoạt động theo nguyên tắc thị trƣờng.

KẾT LUẬN Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu, rộng trên tất cả các lĩnh vực

kinh tế xã hội đòi hỏi nền kinh tế Việt nam phải có sự đổi mới toàn diện để đáp

ứng đƣợc yêu cầu trên. Hội nhập kinh tế quốc tế đƣa lại cho nền kinh tế Việt

nam nói chung, hệ thống ngân hàng thƣơng mại nhiều cơ hội và thách thức trong

quá trình phát triển. Chính vì vậy, hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt nam

đang đứng trƣớc yêu cầu cần phải đƣợc đổi mới các lĩnh vực hoạt động nhằm

tăng tính hiệu quả và tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới của nền kinh

tế Việt nam.

Quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại trong thời gian qua tuy đã đạt

đƣợc những thành tựu đáng khích lệ nhƣng cũng đang gặp phải vấn đề quan

trọng là phát triển không ổn định và hoạt động kém hiệu quả. Phát triển không

ổn định do tình hình nợ xấu tại các doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh

nghiệp nhà nƣớc ngày càng gia tăng và hoạt động kém hiệu quả do trình độ,

năng lực quản lý Ngân hàng chƣa tƣơng xứng với thực tiễn phát triển kinh tế

trong thời gian qua.

Để thực hiện thành công quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại, trên

cơ sở nghiên cứu kỹ thực trạng hoạt động, các giải pháp thực hiện cần đƣợc tiến

hành đồng thời với đổi mới toàn diện các lĩnh vực của nền kinh tế: tiếp tục đổi

mới doanh nghiệp Nhà nƣớc, đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đổi mới khuôn

108

khổ pháp lý và chính sách tài chính - tiền tệ phù hợp với thông lệ quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. David Begg – Kinh tế học 2 tập, Nhà xuất bản giáo dục, Trƣờng đại học

Kinh tế quốc dân, Hà nội 1992

2. Dự thảo: Đề án tăng vốn tự có cho các ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc,

Ngân hàng Nhà nƣớc 2003

3. GS.TS Lê Văn Tƣ, Lê Tùng Vân, Lê Nam Hải – Ngân hàng Thƣơng mại,

Nhà xuất bản thống kê, 2000

4. GS.TS Lê Văn Tƣ - Tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê

1997

5. Luật ngân hàng Nhà nƣớc, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1997

6. Mishkin F, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trƣờng tài chính, Nhà xuất bản Khoa

học kỹ thuật, Hà nội 1994

7. Nhiều tác giả - Vấn đề đổi mới chính sách tài chính – tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở Việt nam và kinh nghiệm của Nhật bản, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội 1995

8. PGS.TS Lê Hoàng Nga - Thị trƣờng tiền tệ Việt nam trong quá trình hội

nhập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội 2004

9. PTS Ngô Hƣớng – Thị trƣờng tài chính và thị trƣờng chứng khoán, Nhà xuất

bản Mũi Cà mau, 1995

10. TS Nguyễn Văn Tài cùng nhiều tác giả - Giáo trình Lý thuyết Tài chính –

Tiền tệ, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội 2002

11. Hội thảo khoa học về: “Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á, Tác

động và những bài học” – Học Viện Chính trị quốc gia 1998

Tiếng Anh

1. Banking Sector Review, Vietnam June 2002, The World Bank Financial

109

Sector East Asia and Pacific Region, 2002

2. Designing a Financial Market Structure in Post- Crisis Asia, How to develop

Corporate Bond Markets, ADB Institute TOKYO, 2001

3. Doan Hong Quang, Institute of World Economics and Politics – Institutional

Reform in Vietnam: Success Story, Remaining Issues and Prospective

4. Dr. Phùng Khắc Kế, Vice Governor, State Bank of Vietnam - WTO

Accession and banking Reform in Vietnam

5. Lê Minh Tâm - Reforming Vietnam Banking System: Learning From

Singapore’s Model, World bank 1999

6. Soo Nam Oh, Economist - Financial Deepening In the Banking Sector –

110

Vietnam. Asian Development Bank 1999